View
71
Download
3
Category
Preview:
Citation preview
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Số bảng Nội dung Trang
Bảng 2.1 Biểu kê khai năng lực cán bộ chuyên môn và kỹ thuật
Bảng 2.2 Biểu kê khai công nhân kỹ thuật, thợ lành nghề
Bảng 2.3 Biểu kê khai số công nhân hợp đồng ngắn hạn
Bảng 2.4 Bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn và tài sản
Bảng 2.5 Bảng các tỷ số về đảm bảo nguồn vốn
Bảng 2.6 Bảng phân tích tình hình đầu tư
Bảng 2.7 Bảng tình hình thanh toán của công ty
Bảng 2.8Bảng các tỷ số phản ánh khả năng thanh toán của công
ty
Bảng 2.9 Bảng các tỷ số phản ánh hiệu quả sử dụng vốn
Bảng 2.10 Bảng phân tích khả năng sinh lời
Sơ đồ 2.1 Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý công ty
Bảng 3.1 Bảng các chỉ tiêu phấn đấu trong năm 2009
PHẦN MỞ ĐẦUTrong một nền kinh tế hội nhập như hiện nay ở Việt Nam, sự cạnh
tranh ngày càng quyết liệt giữa các thành phần kinh tế là một điều tất yếu. Nó
vừa tạo động lực cho các doanh nghiệp phát triển, vừa là một trở ngại lớn nếu
doanh nghiệp không bắt kịp với nhịp độ phát triển của nền kinh tế. Do đó, để
có thể tồn tại và phát triển được, mỗi doanh nghiệp cần phải nắm vững được
tình hình tài chính, tình hình sản xuất - kinh doanh của mình để từ đó có
những bước đi phù hợp với tiến trình hội nhập. Để làm được điều này, doanh
nghiệp phải thường xuyên tiến hành phân tích tình hình tài chính, điều này sẽ
giúp cho các doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản cấp trên thấy rõ được
thực trạng hoạt động tài chính, kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh trong
kỳ của doanh nghiệp cũng như xác định được một cách đầy đủ, đúng đắn
nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố thông tin, đánh giá được
tiềm năng, hiệu quả sản xuất - kinh doanh nghiệp, rủi ro và triển vọng trong
tương lai của doanh nghiệp. Từ đó, họ có thể đưa ra những giải pháp hữu
hiệu, những quyết định chính xác nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý
kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Một thực tế có thể nhận thấy là tình hình tài chính của một doanh
nghiệp không chỉ là sự quan tâm của chính bản thân doanh nghiệp mà nó còn
là đối tượng quan tâm của rất nhiều chủ thể khác như các nhà đầu tư, các cổ
đông tương lai của công ty cổ phần, người cho vay, Nhà nước, các đối thủ
cạnh tranh của doanh nghiệp, người lao động, các nhà nghiên cứu kinh tế... Vì
thế, phân tích tình hình tài chính của một doanh nghiệp sẽ không phải chỉ là
công việc của một mình các nhà quản trị doanh nghiệp mà nó sẽ là đối tượng
để các chủ thể khác phân tích tùy thuộc vào mục đích của họ sử dụng thông
tin phân tích để làm gì.
Hiện nay, loại hình tổ chức công ty cổ phần đang dần dần chiếm ưu thế
do những lợi thế mà nó mang lại. Từ năm 2001 đến nay, số doanh nghiệp Nhà
nước đã được cổ phần hóa và trở thành các công ty cổ phần tăng khá nhanh cả
về số lượng công ty lẫn năng lực vốn, lao động, tài sản và kết quả hoạt động.
Hoạt động của các công ty này nhìn chung là có hiệu quả hơn so với trước khi
cổ phần hóa tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề cần quan tâm.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc phân tích tình hình tài chính
của doanh nghiệp nói chung và trong các công ty cổ phần nói riêng đối với sự
phát triển của nền kinh tế, kết hợp với những kiến thức lý luận được tiếp thu ở
nhà trường, các tài liệu tham khảo thực tế, cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình
của thầy giáo – ThS. Lê Trung Thành, sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi
trong việc cung cấp các thông tin cần thiết của các cô chú trong phòng kế toán
công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải, em đã lựa chọn đề tài cho
chuyên đề thực tập của mình là: “ Phân tích tài chính công ty cổ phần đầu
tư và xây dựng Tiền Hải.”
Chuyên đề này ngoài phần mở đầu và kết luận, bao gồm các nội dung
chính sau:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính trong công ty
cổ phần.
Chương 2. Phân tích tài chính công ty cổ phần đầu tư và xây dựng
Tiền Hải.
Chương 3. Giải pháp tài chính nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất
– kinh doanh tại công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải.
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính trong
công ty cổ phần.1.1. Những vấn đề lý luận hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần.
1.1.1. Khái niệm và những đặc điểm cơ bản của công ty cổ phần.
1.1.1.1. Khái niệm về công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp lần đầu tiên được hình
thành trên Thế giới là cách đây hơn 400 năm. Loại hình doanh nghiệp này
được phôi thai từ đầu thế kỷ thứ XV ở châu Âu, đến thế kỷ thứ XVI, dưới sự
tác động của chủ nghĩa trọng thương cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
thương mại quốc tế đã hình thành nên các công ty hoạt động chủ yếu dựa trên
vốn góp cổ phần. Và từ đó đến nay, hình thức công ty cổ phần ngày càng phát
triển và đã chứng tỏ được những ưu thế của nó so với hình thức doanh nghiệp
khác. Theo đó, công ty cổ phần là một doanh nghiệp trong đó các thành viên
cùng góp vốn, cùng hưởng lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần góp
vốn và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ khác của công ty
trong phạm vi phần góp vốn của mình.
1.1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của công ty cổ phần:
Hình thức công ty cổ phần có những đặc điểm cơ bản sau:
Công ty cổ phần là một doanh nghiệp tổ chức kinh doanh, có tư
cách pháp nhân, tồn tại riêng biệt và độc lập với chủ sở hữu của nó. Được
thành lập theo pháp luật, được Nhà nước phê duyệt điều lệ hoạt động, có con
dấu riêng, có quyền ký kết các hợp đồng kinh tế với các tổ chức và các cá
nhân khác trong và ngoài nước, chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt
động sản xuất – kinh doanh của mình.
Công ty cổ phần được tự ấn định mục tiêu và xác định các
phương tiện sử dụng để thực hiện các mục tiêu đó, được tự do phát triển mọi
hoạt động sản xuất - kinh doanh theo pháp luật quy định, được đa dạng hóa,
được thay đổi các hoạt động kinh doanh, được đình chỉ hoạt động theo ý công
ty mà không phải tham khảo bất cứ một thẩm quyền nào.
Tài sản (vốn) trong các công ty cổ phần được hình thành từ
những nguồn mang đặc điểm riêng biệt, bao gồm:
Vốn điều lệ: là vốn do các cổ đông dùng tiền hoặc tài sản của
mình góp vào công ty dưới hình thức mua cổ phiếu. Vốn góp cổ phần là vốn
chủ sở hữu, công ty được toàn quyền sử dụng vốn góp này. Tỷ lệ góp vốn của
các cổ đông là căn cứ để công ty chia lợi nhuận sau mỗi kỳ hạch toán kinh
doanh.
Các cổ đông của công ty cổ phần có trách nhiệm góp vốn vào công ty
nhưng không được quyền rút vốn khỏi công ty trong thời gian công ty hoạt
động để đảm bảo cho sự hoạt động của công ty. Tuy nhiên, các cổ đông có
quyền bán lại cổ phiếu của mình cho người khác. Mọi hoạt động chuyển
nhượng cổ phần này diễn ra với tư cách là cách là các giao dịch cá biệt nên
không ảnh hưởng đến vốn điều lệ và hoạt động của công ty.
Vốn tự có: là lợi nhuận không chia hết cho các cổ đông mà được
giữ lại để làm tăng vốn cho công ty. Đây chính là phần vốn mà công ty tự tạo
ra trong quá trình sản xuất – kinh doanh.
Vốn vay: là nguồn mà công ty có được nhờ hình thức đi vay hoặc
chiếm dụng vốn của các đơn vị khác, công ty chỉ được quyền sử dụng trong
một thời gian nhất định, sau đó phải hoàn trả lại cho chủ nợ kèm theo một
khoản nhất định cho chủ nợ, chẳng hạn như lãi suất cho khoản vay ngân hàng,
trái tức cho người mua trái phiếu của công ty... Khoản vốn vay bao gồm:
- Vốn vay tín dụng ngân hàng: là số vốn mà công ty đi vay của ngân
hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác. Đến thời hạn hoàn trả, công ty phải trả
số tiền gốc đã vay kèm theo một khoản chi phí nữa là lãi phải trả cho cho chủ
nợ.
- Vay từ phát hành trái phiếu trên thị trường vốn: khoản vốn này
thường là vốn trung và dài hạn, được huy động trên thị trường vốn, các cá
nhân, đơn vị đều có thể là chủ nợ.
- Vay từ tín dụng thương mại: đây là hình thức công ty mua chịu hàng
của nhà cung cấp, khi đó, công ty được sử dụng vốn của người khác và chi phí
cho việc này là một khoản tiền phải trả do chiếm dụng vốn của đơn vị cung
cấp.
Cổ đông trong công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm về các khoản
nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp.
Trong trường hợp công ty không đủ tài sản để thanh toán các khoản nợ cho
khách hàng thì cổ đông không chịu trách nhiệm về các khoản nợ này.
Chức năng kinh tế của các công ty cổ phần trong nền kinh tế thị
trương: sản xuất sản phẩm, hàng hóa , dịch vụ để bán trên thị trường, bằng
cách sử dụng các phương tiện vật chất, tài chính và nhân sự nhằm mục đích
thu lợi nhuận.
Cơ cấu lãnh đạo trong mỗi công ty cổ phần gồm ba bộ phận:
Đại hội cổ đông : là cơ quan có thẩm quyền quyết
định cao nhất của công ty, đại biểu bao gồm tất cả các cổ đông.
Hội đồng quản trị : là cơ quan quản lý công ty, được
đại hội cổ đông bầu ra nhằm thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu mà đại hội cổ
đông đã biểu quyết.
Ban giám đốc : do hội đồng quản trị bổ nhiệm gồm
giám đốc và các phó giám đốc để điều hành công việc hằng ngày, tuân thủ
theo chỉ thị và ý chí của đại hội cổ đông và hội đồng quản trị.
1.1.2. Những lợi thế và những hạn chế của công ty cổ phần.
1.1.2.1. Lợi thế:
Từ khi được hình thành và phát triển cho tới nay, công ty cổ phần là
một trong những hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh được ưu chuộng trên
thế giới. So với các hình thức công ty hợp doanh, công ty tư nhân và công ty
TNHH thì hình thức công ty cổ phần có nhiều lợi thế hơn. Những lợi thế cơ
bản của hình thức công ty cổ phần được thể hiện ở những điểm sau đây:
Trách nhiệm của các cổ đông trong công ty cổ phần chỉ nằm
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty (giống các thành viên góp vốn của
công ty trách nhiệm hữu hạn). Ưu điểm này làm cho hình thức công ty cổ
phần rất hấp dẫn các nhà đầu tư vì việc đầu tư vào các công ty với trách nhiệm
hữu hạn như vậy sẽ ít rủi ro hơn là đầu tư và công ty trách nhiệm vô hạn.
Vốn kinh doanh của công ty cổ phần được hình thành từ nhiều
nguồn khác nhau, do đó đa dạng về phương thức huy động vốn. Một trong
những phương thức mà các công ty cổ phần thường sử dụng để tìm kiếm
nguồn vốn cho mình đó là phát hành cổ phiếu ra thị trường (lợi thế hơn so với
công ty TNHH và công ty hợp doanh). Nhờ ưu điểm này mà công ty cổ phần
ít bị hạn chế về vốn kinh doanh, do đó có thể thực hiện được các dự án kinh
doanh đòi hỏi nhiều vốn đầu tư.
Cổ phiếu trong các công ty cổ phần, đặc biệt là các công ty lớn
có tỷ suất lợi nhuận cao có thể dễ dàng chuyển nhượng quyền sở hữu qua việc
mua bán cổ phiếu trên thị trường mà không cần thay đổi tổ chức công ty. Cổ
phiếu của các công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán thường có thể
dễ dàng được chuyển đổi thành tiền. sự dễ dàng chuyển đổi chủ sở hữu của
các cổ phần này cho phép các công ty cổ phần tồn tại và phát triển lâu dài.
Một đặc điểm nổi bật nữa về ưu thế của hình thức tổ chức công
ty cổ phần là sự tách biệt giữa chủ sở hữu với những người điều hành công ty.
Do vậy họ thường phải lựa chọn những người điều hành có đủ năng lực và
kinh nghiệm chuyên môn thay mình quản lý sản xuất – kinh doanh của công
ty.
1.1.2.2. Hạn chế:
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế có được của hình thức này, hình thức
tổ chức công ty cổ phần cũng có những hạn chế nhất định, biểu hiện ở một số
mặt như sau:
Chi phí cho việc thành lập và điều hành công ty thường tốn kém
hơn so với các loại hình tổ chức công ty khác.
Hàng kỳ (thường là quý hoặc năm), các công ty cổ phần phải
công khai và báo cáo với các cổ đông (theo nghị quyết và điều lệ của đại hội
cổ đông) về tình hình sản xuất – kinh doanh và tình hình tài chính của mình.
Do đó khả năng bảo mật kinh doanh và tài chính trong các công ty cổ phần
thường bị hạn chế, nhiều khi gây bất lợi cho công ty trong quá trình cạnh
tranh với các đơn vị khác.
Phần lớn các cổ đông thường không có kiến thức về kinh doanh
và không hiểu biết lẫn nhau (thường 6 tháng hoặc 1 năm mới tổ chức họp đại
hội đồng cổ đông một lần). Số lượng cổ đông lớn cũng dễ dẫn đến sự phân
hóa kiểm soát và tranh chấp về quyền lợi giữa các nhóm cổ đông.
1.1.3. Nội dung của hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần.
1.1.3.1. Hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần.
Hoạt động tài chính trong bất cứ hình thức tổ chức doanh nghiệp nào
cũng đóng vai trò hết sức quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt
động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói, không một nền kinh
tế nào hoạt động được mà không có tiền. Và để đồng tiền có được được quản
lý và sử dụng một cách hiệu quả thì hoạt động tài chính trong doanh nghiệp
phải được thực hiện một cách triệt để nhất. Chính vì thế, hoạt động tài chính
doanh nghiệp trong công ty cổ phần nói riêng và trong các doanh nghiệp nói
chung là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động sản xuất - kinh
doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát sinh
trong quá trình sản xuất - kinh doanh và được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ.
Hoạt động tài chính trong các doanh nghiệp bao gồm việc thu – chi và
quản lý thu – chi tiền tệ phát sinh trong doanh nghiệp từ quá trình thực hiện kế
hoạch sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính trong
doanh nghiệp và kết quả kinh doanh có mối quan hệ hai chiều. Hoạt động tài
chính của doanh nghiệp thực hiện được tốt hay xấu sẽ có tác động thúc đẩy
hay cản trở mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, và ngược
lại, hoạt động sản xuất - kinh doanh tốt hay xấu lại có tác động trở lại đối với
hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Chẳng hạn, trong một kỳ kinh doanh
nào đó, tài chính của doanh nghiệp không cung ứng đầy đủ vốn để doanh
nghiệp thực hiện các hoạt động mua các yếu tố đầu vào thì quá trình sản xuất -
kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị trì trệ, không diễn ra liên tục được, ảnh
hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Ngược lại, trong
kỳ, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp không được tốt lắm do bán được ít
hàng, điều này làm giảm doanh thu cũng như lợi nhuận, và do đó hoạt động
tài chính của doanh nghiệp cũng sẽ không hoạt động được trơn tru nữa.
1.1.3.2. Nguyên tắc của hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần.
Để hoạt động tài chính của doanh nghiệp thực sự trở thành công cụ đắc
lực, thúc đẩy hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp đạt kết quả
cao thì hoạt động tài chính của doanh nghiệp trước hết phải dựa trên nguyên
tắc cơ bản sau: sử dụng vốn có mục đích, tiết kiệm và có lợi nhằm không
ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn một cách hợp pháp.
Vốn dùng để sản xuất - kinh doanh trong các công ty cổ phần phải được
sử dụng theo đúng mục đích mà đại hội đồng cổ đông đã biểu quyết hoặc theo
đúng điều lệ tổ chức công ty đã được Nhà nước phê duyệt, theo đúng nhiệm
vụ và quyền hạn khi được phép thành lập công ty.
Việc sử dụng vốn của công ty cổ phần phải tuân thủ theo các quy định
tài chính, kỷ luật tín dụng và kỷ luật thanh toán của Nhà nước đã ban hành.
Việc cấp phát và thu – chi trong quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh
nghiệp phải theo đúng chế độ thu – chi của Nhà nước, của đại hội đồng cổ
đông và hội đồng quản trị. Không chi sai phạm vi quy định, không chiếm
dụng vốn của ngân sách Nhà nước, của ngân hàng, của các đơn vị và cá nhân
khác. Đồng thời, cũng không để các đơn vị khác chiếm dụng vốn của doanh
nghiệp. Tức là phải sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có lợi để từ đó không
ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn của mình, tăng lợi nhuận cho toàn
công ty.
1.1.3.3. Mục tiêu của hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần.
Như trên ta đã biết, hoạt động tài chính là những quan hệ tiền tệ gắn
trực tiếp với việc tổ chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong
quá trình sản xuất - kinh doanh, nó là một trong những nội dung cơ bản của
hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối
quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất - kinh doanh nghiệp. Do đó,
mục tiêu của hoạt động tài chính trong các doanh nghiệp nói chung và trong
công ty cổ phần nói riêng là hướng tới việc giải quyết tốt các mối quan hệ
kinh tế thể hiện qua việc thanh toán với các đơn vị có liên quan như ngân
hàng, các đơn vị kinh tế khác, các đối tượng có liên quan mật thiết với doanh
nghiệp như các cổ đông, người lao động, các cơ quan chức năng Nhà nước...
mối quan hệ này được cụ thể hóa bằng các chỉ tiêu đánh giá về mặt lượng,
mặt chất và thời gian; hoạt động tài chính phải đảm bảo nguyên tắc hiệu quả,
nguyên tắc này đòi hỏi phải tối đa hóa việc sử dụng các nguồn vốn nhưng vẫn
đảm bảo quá trình sản xuất - kinh doanh được hoạt động bình thường và mang
lại hiệu quả; hoạt động tài chính được thực hiện trên cơ sở tôn trọng pháp luật,
tuân thủ và chấp hành các chế độ về tài chính tín dụng, nghĩa vụ với Nhà
nước, kỷ luật với các tổ chức, đơn vị kinh tế có liên quan.
Mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với Nhà nước:
Doanh nghiệp phải thực hiện đủ, đúng thời hạn các nghĩa vụ về các
khoản phải nộp ngân sách Nhà nước như thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập
khẩu (nếu có), thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có), thuế thu nhập doanh nghiệp...,
không để nợ nần dây dưa kéo dài, gây khó khăn cho các cơ quan chức năng
của Nhà nước tính toán và thu các khoản nghĩa vụ đó.
Mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các đơn vị khác :
Doanh nghiệp phải thanh toán đầy đủ và đúng kỳ hạn các khoản nợ
phát sinh khi thực hiện các hoạt động mua hàng hóa, nguyên vật liệu, các dịch
vụ đầu vào, không chiếm dụng vốn của các đơn vị đó một cách bất hợp pháp.
Mặt khác, khi cung cấp các hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ do mình tạo ra,
doanh nghiệp phải có nghĩa vụ ghi nhận đầy đủ các nghiệp vụ liên quan, vừa
tạo sự minh bạch trong việc tính toán nghĩa vụ đối với Nhà nước của doanh
nghiệp mình, vừa tạo thuận lợi cho các cơ quan chức năng của Nhà nước kiểm
tra việc thực hiện nghĩa vụ của đơn vị đối tác. Và doanh nghiệp cũng không
được để các đơn vị đó chiếm dụng vốn của mình một cách không hợp lý, điều
này sẽ có ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến tình hình tài chính của doanh
nghiệp do vốn bị ứ đọng ở khâu bán hàng, quay vòng sản xuất chậm.
Mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với cán bộ công nhân
viên:
Tài chính doanh nghiệp có nghĩa vụ phải thanh toán đầy đủ tiền lương
và các khoản khác thuộc về thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp,
không được sử dụng các khoản thu nhập nói trên vào các mục đích khác, gây
ảnh hưởng đến đời sống của người lao động.
Mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các cổ đông :
Đây là mối quan hệ giữa những nhà quản lý doanh nghiệp với chủ sở hữu
về tài sản. Mục tiêu của hoạt động tài chính trong giải quyết mối quan hệ này là
tạo sự công bằng, hợp lý, công khai trong việc phân chia lợi nhuận theo quyền
lợi và nghĩa vụ của mỗi cổ đông đúng như Đại hội cổ đông đã biểu quyết.
1.1.3.4. Nội dung cơ bản hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần
trong nền kinh tế thị trường.
Xác định nhu cầu về vốn của doanh nghiệp:
Sự hình thành, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc phần
lớn vào hoạt động tài chính mà doanh nghiệp thực hiện. Vai trò đó của hoạt
động tài chính được thể hiện ngay từ khi thành lập doanh nghiệp, trong việc
thiết lập các dự án đầu tư ban đầu, dự kiến hoạt động, gọi vốn đầu tư...
Trong cơ chế thị trường, mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh của
doanh nghiệp đều chịu sự tác động về nhu cầu tài chính. Vì vậy, để đảm bảo
cho quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành được liên tục,
thường xuyên và đạt hiệu quả cao thì khâu đầu tiên là phải xác định được và
đảm bảo thỏa mãn đầy đủ nhu cầu về vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Việc
xác định nhu cầu về vốn kinh doanh của doanh nghiệp phải căn cứ vào chu kỳ
kinh doanh của doanh nghiệp và nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh của doanh
nghiệp trong kỳ. Khi xác định được nhu cầu về vốn kinh doanh của doanh
nghiệp rồi thì các nhà quản lý doanh nghiệp cũng có thể căn cứ vào đó để tìm
ra các hướng làm giảm đến mức tối thiểu nhu cầu đó. Do đó xác định nhu cầu
về vốn kinh doanh của doanh nghiệp là một trong những nội dung cơ bản của
hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần.
Tìm kiếm và huy động nguồn vốn để thỏa mãn một cách tốt
nhất nhu cầu về vốn kinh doanh đã xác định.
Trong các công ty cổ phần, vốn kinh doanh được hình thành từ nhiều
nguồn khác nhau: vốn góp ban đầu của các cổ đông; vốn vay từ các nguồn ngắn
hạn và dài hạn như phát hành trái phiếu công ty, vay tín dụng ngân hàng, tín
dụng thương mại...; vốn bổ sung từ lợi nhuận đạt được của quá trình sản xuất -
kinh doanh; vốn từ các quỹ được hình thành trong doanh nghiệp như quỹ đầu
tư phát triển, quỹ khen thưởng phúc lợi, nguồn vốn xây dựng cơ bản...
Căn cứ vào việc phân tích tình hình tài chính, đánh giá thực trạng hoạt
động tài chính của doanh nghiệp mình, các nhà quản lý doanh nghiệp sẽ xác
định rõ những nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến việc
huy động mọi nguồn lực, tài lực, nguồn vốn đã có nhằm luôn luôn đáp ứng
mọi nhu cầu về vốn cho mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh
nghiệp, đảm bảo sử dụng có hiệu quả số vốn hiện có.
Sử dụng vốn hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất trong sản xuất
- kinh doanh của doanh nghiệp.
Sau khi đã xác định được nhu cầu về nguồn vốn kinh doanh và huy
động được các nguồn vốn cần thiết để đáp ứng nhu cầu đó, doanh nghiệp cần
phải sử dụng nguồn vốn đó một cách hợp lý và đạt hiệu quá cao nhất trong
sản xuất - kinh doanh nghiệp. Đó chính là một nội dung của hoạt động tài
chính trong các công ty cổ phần.
Mặt khác, việc sử dụng vốn hợp lý và đạt hiệu quả cao còn được biểu
hiện ở chỗ: Phải biết kết hợp hài hòa giữa việc sử dụng tiết kiệm vốn hiện có,
vừa đảm bảo cho quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp luôn luôn
được tiến hành liên tục, không bị ngừng trệ trong quá trình sản xuất - kinh
doanh vì thiếu vốn, thiếu tiền.
1.2. Phân tích tài chính trong công ty cổ phần.
1.2.1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp.
Phân tích tài chính doanh nghiệp là một khâu cơ bản trong tài chính
doanh nghiệp, có quan hệ chặt chẽ với các hoạt động khác của doanh nghiệp.
Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là một tập hợp các khái niệm,
phương pháp và công cụ cho phép thu thập, xử lý các thông tin kế toán và các
thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính,
khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp cho người sử dụng thông tin đưa
ra các quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp.
Mối quan tâm hàng đầu của các nhà phân tích tài chính là đánh giá rủi
ro phá sản tác động tới doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là khả năng thanh
toán, đánh giá khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng
sinh lãi của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tài chính tiếp tục
nghiên cứu và đưa ra những dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức
doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Nói cách khác, phân
tích tài chính là cơ sở để dự đoán tài chính – một trong các hướng dự đoán của
doanh nghiệp. Phân tích tài chính có thể được ứng dụng theo nhiều hướng
khác nhau: với mục đích tác nghiệp (chuẩn bị các quyết định nội bộ), với mục
đích nghiên cứu, thông tin hoặc theo vị trí của nhà phân tích (trong doanh
nghiệp hoặc ngoài doanh nghiệp).
1.2.2. Vai trò và mục tiêu của phân tích tài chính trong các công ty cổ
phần.
1.2.2.1.Vai trò của phân tích tài chính trong hệ thống quản lý của các công
ty cổ phần.
Phân tích tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý
tài chính doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác
nhau đều bình đẳng trước pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực
kinh doanh. Do vậy sẽ có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính
của doanh nghiệp như : chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách
hàng... kể cả các cơ quan Nhà nước và người làm công, mỗi đối tượng quan
tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các góc độ khác nhau. Các
đối tượng quan tâm đến thông tin về công ty cổ phần có thể được chia thành
hai nhóm: nhóm có quyền lợi trực tiếp và nhóm có quyền lợi gián tiếp:
Nhóm có quyền lợi trực tiếp:
Các cổ đông hiện tại và cổ đông tương lai:
Trong công ty cổ phần, các cổ đông là người đã bỏ vốn đầu tư vào công
ty và họ có thể phải gánh chịu rủi ro. Những rủi ro này liên quan tới việc
giảm giá cổ phiếu trên thị trường, dẫn đến nguy cơ phá sản của doanh nghiệp .
Chính vì vậy, quyết định của họ đưa ra luôn có sự cân nhắc giữa mức độ rủi
ro và doanh lợi đạt được. Vì thế, mối quan tâm hàng đầu của các cổ đông là
khả năng tăng trưởng, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị chủ sở hữu trong
công ty cổ phần. Trước hết họ quan tâm tới lĩnh vực đầu tư và nguồn tài trợ.
Trên cơ sở phân tích các thông tin về tình hình hoạt động, về kết quả kinh
doanh hàng năm, các nhà đầu tư sẽ đánh giá được khả năng sinh lợi và triển
vọng phát triển của doanh nghiệp; từ đó đưa ra những quyết định phù hợp.
Các nhà đầu tư sẽ chỉ chấp thuận đầu tư vào một dự án nếu ít nhất có một điều
kiện là giá trị hiện tại ròng của nó dương. Khi đó lượng tiền của dự án tạo ra
sẽ lớn hơn lượng tiền cần thiết để trả nợ và cung cấp một mức lãi suất yêu cầu
cho nhà đầu tư. Số tiền vượt quá đó mang lại sự giàu có cho những người sở
hữu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chính sách phân phối cổ tức và cơ cấu nguồn
tài trợ của công ty cổ phần cũng là vấn đề được các nhà đầu tư hết sức coi
trọng vì nó trực tiếp tác động đến thu nhập của họ. Ta biết rằng thu nhập của
cổ đông bao gồm phần cổ tức được chia hàng năm và phần giá trị tăng thêm
của cổ phiếu trên thị trường. Một nguồn tài trợ với tỷ trọng nợ và vốn chủ sở
hữu hợp lý sẽ tạo đòn bẩy tài chính tích cực vừa giúp doanh nghiệp tăng vốn
đầu tư vừa làm tăng giá cổ phiếu và thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS). Hơn
nữa các cổ đông chỉ chấp nhận đầu tư mở rộng quy mô doanh nghiệp khi
quyền lợi của họ ít nhất không bị ảnh hưởng. Bởi vậy, các yếu tố như tổng số
lợi nhuận ròng trong kỳ có thể dùng để trả lợi tức cổ phần, mức chia lãi trên
một cổ phiếu năm trước, sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định
của thị giá cổ phiếu của doanh nghiệp cũng như hiệu quả của việc tái đầu tư
luôn được các nhà đầu tư xem xét trước tiên khi thực hiện phân tích tài chính.
Ngân hàng và các nhà cung cấp tín dụng:
Vai trò của phân tích tình hình tài chính công ty cổ phần đối với các
ngân hàng và các nhà cung cấp tín dụng là giúp các đối tượng này đánh giá
được khả năng trả nợ của doanh nghiệp để từ đó đưa ra quyết định có cho vay
hay hưởng các chính sách tín dụng hay không. Họ chú ý đặc biệt đến số lượng
tiền và các tài sản khác có thể chuyển nhanh thành tiền, từ đó so sánh với số
nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Bên
cạnh đó, các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng rất quan tâm tới
số vốn của chủ sở hữu, bởi vì số vốn này là khoản bảo hiểm cho họ trong
trường hợp doanh nghiệp bị rủi ro. Như vậy, kỹ thuật phân tích có thể thay đổi
theo bản chất và theo thời hạn của các khoản nợ, nhưng cho dù đó là cho vay
dài hạn hay ngắn hạn thì người cho vay đều quan tâm đến cơ cấu tài chính
biểu hiện mức độ mạo hiểm của doanh nghiệp đi vay.
Các nhà quản trị doanh nghiệp:
Đối tượng này cần các thông tin để kiểm soát và chỉ đạo tình hình sản
xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Các thông tin do các báo cáo tài chính
cung cấp thường không đáp ứng đủ cho nhu cầu thông tin của họ. Nhằm đáp
ứng thông tin cho đối tượng này, các công ty cổ phần cũng như các doanh
nghiệp khác thường phải tiến hành các hoạt động nghiên cứu tài chính trong
nội bộ doanh nghiệp được gọi là phân tích tài chính nội bộ, khác với phân tích
tài chính bên ngoài do nhà phân tích ngoài doanh nghiệp tiến hành. Mục đích
của phân tích tài chính nội bộ là cung cấp thông tin phục vụ cho việc quản lý
doanh nghiệp và giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp đánh giá tình hình tài
chính đã qua, từ đó tiến hành cân đối tài chính, hợp lý hóa các chỉ tiêu về khả
năng sinh lời, khả năng thanh toán, trả nợ, rủi ro tài chính của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó định hướng các quyết định của ban giám đốc tài chính, quyết
định đầu tư, tài trợ, phân tích lợi tức cổ phần. Các thông tin do quá trình phân
tích tài chính nội bộ cung cấp chỉ được sử dụng trong nội bộ doanh nghiệp,
theo yêu cầu quản lý của các nhà quản trị mà không được cung cấp cho các
đối tượng sử dụng ở bên ngoài.
Cơ quan thuế:
Tất cả các tổ chức kinh tế đều phải thực hiện các nghĩa vụ về thuế đối với Nhà
nước. Do đó, để các cơ quan thuế có thể xác định được đúng số thuế mà
doanh nghiệp phải nộp, việc nghiên cứu hoạt động tài chính có ý nghĩa quan
trọng.
Nhóm có quyền lợi gián tiếp:
Các cơ quan quản lý Nhà nước khác ngoài cơ quan thuế:
Đối với cơ quan quản lý Nhà nước, qua việc phân tích tình hình tài
chính doanh nghiệp, sẽ đánh giá được năng lực lãnh đạo của Ban giám đốc, từ
đó đưa ra các quyết định quản lý vĩ mô nền kinh tế cũng các quyết định đầu tư
bổ sung vốn cho các công ty cổ phần mà Nhà nước có nắm giữ cổ phần.
Người lao động trong doanh nghiệp:
Bên cạnh các nhà đầu tư, nhà quản lý và các chủ nợ của doanh nghiệp,
người được hưởng lương trong các công ty cổ phần cũng rất quan tâm tới các
thông tin tài chính của của doanh nghiệp. Điều này cũng dễ hiểu bởi kết quả
hoạt động của doanh nghiệp có tác động trực tiếp tới tiền lương, khoản thu
nhập chính của người lao động. Ngoài ra trong một số công ty cổ phần, người
lao động được tham gia góp vốn mua một lượng cổ phần nhất định. Như vậy,
họ cũng là những người chủ doanh nghiệp nên có quyền lợi và trách nhiệm
gắn với doanh nghiệp.
Các đối thủ cạnh tranh:
Trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay,
các doanh nghiệp ngoài việc quan tâm đến tình hình tài chính của mình còn
cần phải quan tâm đến khả năng sinh lợi, doanh thu cũng như các chỉ tiêu tài
chính khác của các đối thủ cạnh tranh với doanh nghiệp mình trong điều kiện
có thể để tìm biện pháp cạnh tranh hiệu quả nhất. Do đó, việc phân tích tình
hình tài chính các công ty cổ phần cũng có vai trò đối với các đối thủ cạnh
tranh của các công ty cổ phần.
Các nhà nghiên cứu, các sinh viên chuyên ngành kinh tế:
Ngoài các đối tượng trên, việc phân tích tình hình tài chính trong các
công ty cổ phần còn có vai trò khá quan trọng đối với các nhà nghiên cứu về
kinh tế và các sinh viên, học viên trong ngành kinh tế. Các đối tượng này sử
dụng các thông tin này để nghiên cứu, phân tích, phục vụ cho những mục đích
cụ thể của họ.
1.2.2.2. Mục tiêu chủ yếu của phân tích tài chính trong các công ty cổ
phần.
Như chúng ta đã biết, mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp đều nằm
trong thể tác động liên hoàn với nhau. Bởi vậy, chỉ có thể phân tích tình hình
tài chính của doanh nghiệp mới đánh giá đầy đủ và sâu sắc mọi hoạt động
kinh tế trong trạng thái thực của chúng. Trên cơ sở đó, nêu lên một cách tổng
hợp về trình độ hoàn thành các mục tiêu, biểu hiện bằng hệ thống chỉ tiêu kinh
tế - kỹ thuật – tài chính của doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ
chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, các doanh nghiệp đều bình
đẳng trước pháp luật trong kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp đều có rất nhiều đối
tượng quan tâm đến tình hình tài chính của mình như các nhà đầu tư, nhà cho
vay, nhà cung cấp, nhà quản trị doanh nghiệp, các cổ đông, người lao
động...Mỗi đối tượng này quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp
trên những góc độ khác nhau. Song nhìn chung, họ đều quan tâm đến khả
năng tạo ra dòng tiền mặt, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và mức lợi
nhuận tối đa. Bởi vậy phân tích tình hình tài chính và phân tích tình hình tài
chính trong các công ty cổ phần nói riêng phải đạt được các mục tiêu sau:
Một là : Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp đầy đủ,
kịp thời, trung thực hệ thống các thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư, các nhà
cho vay và những người sử dụng thông tin tài chính khác để giúp họ có những
quyết định đúng đắn khi ra các quyết định đầu tư, quyết định cho vay.
Hai là : Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp đầy đủ
những thông tin quan trọng nhất cho các chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư,
các nhà cho vay và những người sử dụng thông tin khác trong việc đánh giá
khả năng và tính chắc chắn của dòng tiền mặt vào ra và tình hình sử dụng có
hiệu quả nhất vốn kinh doanh, tình hình và khả năng thanh toán của doanh
nghiệp.
Ba là : Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp những
thông tin về nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản nợ, kết quả của quá trình hoạt
động sản xuất - kinh doanh nghiệp, sự kiện và các tình huống làm biến đổi các
nguồn vốn và các khoản nợ của doanh nghiệp.
Trên đây là các mục tiêu chủ yếu của phân tích tài chính trong các công
ty cổ phần. Các mục tiêu này có quan hệ mật thiết với nhau, chúng góp phần
cung cấp những thông tin nền tảng đặc biệt quan trọng cho bộ phận quản trị ở
các công ty cổ phần, giúp cho quản trị doanh nghiệp khắc phục được những
thiếu sót, phát huy những mặt tích cực và dự đoán được tình hình phát triển
của doanh nghiệp trong tương lai. Trên cơ sở đó, quản trị doanh nghiệp đề ra
được những giải pháp hữu hiệu nhằm lựa chọn quyết định phương án tối ưu
cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.3. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp.
Phân tích tài chính có mục tiêu đưa ra những dự báo tài chính giúp cho
việc ra quyết định về mặt tài chính và giúp cho việc dự kiến kết quả tương lai
của doanh nghiệp nên thông tin sử dụng để phân tích tài chính không chỉ giới
hạn trong phạm vi nội bộ doanh nghiệp mà còn sử dụng đến các thông tin bên
ngoài doanh nghiệp. Tất cả những thông tin đó đều giúp cho các nhà phân tích
có thể đưa ra được những nhận xét, kết luận tinh tế và thích đáng, để từ đó có
thể có được những quyết định đúng đắn.
1.2.3.1. Thông tin của bản thân công ty cổ phần:
Để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp thì
những thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp được xem là nguồn thông
tin quan trọng bậc nhất. Với những đặc trưng hệ thống, đồng nhất và phong
phú, kế toán hoạt động như một nhà cung cấp quan trọng những thông tin
đáng giá cho phân tích tài chính. Phân tích tình hình tài chính công ty cổ phần
được thực hiện trên cơ sở những thông tin về chiến lược, sách lược kinh
doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ, những thông tin về tình hình và
kết quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình tạo lập, phân phối
và sử dụng vốn, tình hình và khả năng thanh toán... Những thông tin này được
thể hiện qua những giải trình của các nhà quản lý, qua các báo cáo tài chính
(Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền
tệ, bảng thuyết minh báo cáo tài chính).
1.2.3.2. Thông tin ngoài doanh nghiệp.
Những thông tin liên quan đến doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng,
khi phân tích tình hình tài chính, các nhà phân tích không chỉ sử dụng những
thông tin và giới hạn ở việc nghiên cứu những báo cáo tài chính của một công
ty cổ phần, mà phải tập hợp đầy đủ các thông tin bên ngoài liên quan đến tình
hình tài chính của doanh nghiệp, bao gồm các thông tin về tình hình kinh tế vĩ
mô; thông tin về các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước; thông
tin về ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp... Các thông tin này
có tác động mạnh mẽ tới kết quả kinh doanh của công ty cổ phần, chúng có
ảnh hưởng lớn đến chiến lược và sách lược kinh doanh của doanh nghiệp
trong từng thời kỳ.
Thông tin kinh tế vĩ mô:
Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp cần phải được đặt trong
bối cảnh chung của nền kinh tế trong nước, trong khu vực và Thế giới. Do đó,
cần phải xem xét, kết hợp những thông tin về tình hình nền kinh tế trong quá
trình phân tích, có như vậy mới có thể đánh giá được đầy đủ, toàn diện hơn
tình hình tài chính của doanh nghiệp. Các thông tin vĩ mô cần được quan tâm
bao gồm: tình hình chính trị, môi trường pháp lý, kinh tế có liên quan đến cơ
hội kinh tế, cơ hội đầu tư, cơ hội về kỹ thuật – công nghệ, nhịp độ phát triển
của các chu kỳ kinh tế, sự tăng trưởng hoặc suy thoái của nền kinh tế, độ lớn
của thị trường, lãi suất ngân hàng, tỷ giá hối đoái, lạm phát....
Thông tin về các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước:
Các chính sách kinh tế của Nhà nước có tác động mạnh mẽ đối với hoạt
động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và tình hình tài chính
nói riêng từ khi doanh nghiệp được thành lập và đi vào hoạt động. Chỉ cần
một sự thay đổi nhỏ trong các chính sách quản lý, điều hành nền kinh tế của
Nhà nước cũng đã tạo ra những biến đổi lớn trong hoạt động của doanh
nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải có những điều chỉnh trong hoạt động của
mình để thích ứng. Do đó, khi phân tích, các nhà phân tích phải đặc biệt chú
trọng tới những thông tin về chính sách kinh tế của Nhà nước cũng như sự
thay đổi có thể có của chúng trong tương lai gần để có những xử lý thích hợp.
Thông tin về ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp:
Các thông tin này bao gồm: nhịp độ tăng trưởng và xu hướng phát triển
của ngành; cơ cấu và vị trí của ngành trong nền kinh tế; nhu cầu của thị
trường đối với sản phẩm của ngành; mức độ cạnh tranh và nguy cơ từ phía các
đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn..
Tuy nhiên, những thông tin thu thập được khi tiến hành phân tích tài
chính không phải tất cả đều được biểu hiện bằng số liệu cụ thể, mà có những
tài liệu chỉ được thể hiện thông qua sự miêu tả đời sống kinh tế của doanh
nghiệp hoặc của ngành nghề liên quan đến doanh nghiệp mà không có số liệu
hoặc số lượng cụ thể. Do đó, để có những thông tin cần thiết phục vụ cho quá
trình phân tích tài chính, người làm công tác phân tích phải sưu tầm đầy đủ và
thích hợp những thông tin liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Tính
đầy đủ thể hiện ở thước đo số lượng của thông tin và tính thích hợp được phản
ánh bởi chất lượng của thông tin.
1.2.4. Các phương pháp phân tích tài chính trong các công ty cổ phần.
Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp, bao gồm hệ thống các
công cụ, biện pháp, các kỹ thuật và cách thức nhằm tiếp cận, nghiên cứu các
sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ bên trong và bên ngoài, các luồng dịch
chuyển và biến đổi tình hình hoạt động tài chính doanh nghiệp, các chỉ tiêu
tổng hợp, các chỉ tiêu chi tiết, các chỉ tiêu tổng quát chung, các chỉ tiêu có tính
chất đặc thù nhằm đánh giá toàn diện thực trạng hoạt động tài chính của
doanh nghiệp. Từ đó giúp các đối tượng sử dụng các thông tin có được đưa ra
được những quyết định phù hợp tùy theo mục đích và yêu cầu của mình. Để
đáp ứng nhu cầu của mọi đối tượng sử dụng thông tin phân tích tình hình tài
chính doanh nghiệp, người ta có nhiều phương pháp phân tích khác nhau. Các
phương pháp cơ bản thường được vận dụng trong phân tích tình hình tài chính
doanh nghiệp nói chung và trong công ty cổ phần nói riêng bao gồm: phương
pháp so sánh, phương pháp phân tích tỷ số, phương pháp loại trừ, phương
pháp liên hệ...
1.2.4.1. Phương pháp so sánh.
Phương pháp so sánh là một trong những phương pháp rất quan trọng.
Nó được sử dụng rộng rãi và phổ biến nhất trong bất kỳ một hoạt động phân
tích nào của doanh nghiệp. Trong phân tích tình hình hoạt động tài chính của
doanh nghiệp, nó được sử dụng rất đa dạng và linh hoạt nhằm nghiên cứu sự
biến động và xác định mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích, đồng thời cho
biết được xu hướng và tính chất liên hệ giữa các chỉ tiêu đó. Điều đó được thể
hiện: các chỉ tiêu riêng biệt hay các chỉ tiêu tổng cộng trên báo cáo tài chính
được xem xét trong mối quan hệ với các chỉ tiêu phản ánh quy mô chung và
chúng có thể được xem xét trong nhiều kỳ để phản ánh rõ hơn xu hướng phát
triển của các hiện tượng kinh tế - tài chính của doanh nghiệp.
Để áp dụng phương pháp so sánh vào phân tích các báo cáo tài chính
của doanh nghiệp, trước hết phải xác định số gốc để so sánh. Việc xác định số
gốc để so sánh là tùy thuộc vào mục đích cụ thể của phân tích. Gốc để so sánh
được chọn là gốc về mặt thời gian và không gian. Kỳ phân tích được chọn là
ký thực hiện hoặc kỳ kế hoạch, hoặc là kỳ kinh doanh trước. Giá trị so sánh có
thể chọn là số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân.
Điều kiện so sánh:
Để đảm bảo tính chất so sánh được của chỉ tiêu qua thời gian, cần đảm
bảo thỏa mãn các điều kiện so sánh sau đây:
Phải đảm bảo sự thống nhất về nội dung kinh tế của chỉ tiêu.
Phải đảm bảo sự thống nhất về phương pháp tính các chỉ tiêu.
Phải đảm bảo sự thống nhất về đơn vị tính các chỉ tiêu (kể cả đơn
vị hiện vật, giá trị và thời gian).
Khi so sánh mức đạt được trên các chỉ tiêu ở các đơn vị khác nhau,
ngoài các điều kiện đã nêu, cần đảm bảo các điều kiện khác như cùng phương
hướng kinh doanh, điều kiện kinh doanh tương tự nhau.
Tất cả các điều kiện trên đây gọi chung là đặc tính “có thể so sánh
được” hay tính chất “so sánh được” của các chỉ tiêu phân tích.
Mục tiêu so sánh:
Khi thực hiện phân tích tài chính bằng phương pháp so sánh, cần xác
định mục tiêu so sánh trong phân tích các báo cáo tài chính. Mục tiêu so sánh
trong phân tích là nhằm xác định mức biến động tuyệt đối và mức biến động
tương đối cùng xu hướng biến động của chỉ tiêu phân tích (năng suất tăng, giá
thành giảm).
Mức biến động tuyệt đối: là kết quả
so sánh trị số của chỉ tiêu giữa hai kỳ. Kỳ thực tế với kỳ kế hoạch, hoặc kỳ
thực tế với kỳ kinh doanh trước.
Mức biến động tương đối: là kết quả
so sánh trị số của chỉ tiêu ở kỳ này với trị số của chỉ tiêu ở kỳ gốc nhưng đã
được điều chỉnh theo một hệ số của chỉ tiêu có liên quan, mà chỉ tiêu liên quan
này quyết định quy mô của chỉ tiêu phân tích.
Nội dung so sánh:
Khi vận dụng phương pháp so sánh trong phân tích tài chính, người ta
so sánh ba nội dung chủ yếu sau đây:
So sánh giữa số thực tế kỳ phân
tích với số thực tế của kỳ kinh doanh trước nhằm xác định rõ xu hướng thay
đổi về tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Đánh giá tốc độ tăng
trưởng hay giảm đi của các hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
So sánh giữa số thực tế kỳ phân
tích vói số kỳ kế hoạch nhằm xác định mức phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ kế
hoạch trong mọi hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
So sánh giữa số liệu của doanh
nghiệp với số liệu trung bình tiên tiến của ngành, của doanh nghiệp khác
nhằm đánh giá tình hình hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp tốt
hay xấu, khả quan hay không khả quan.
Kỹ thuật so sánh:
Quá trình phân tích theo phương pháp so sánh có thể được thực hiện
bằng ba kỹ thuật sau:
So sánh theo chiều ngang : là việc
so sánh, đối chiếu tình hình biến động cả về số tuyệt đối và số tương đối trên
từng chỉ tiêu, trên từng báo cáo tài chính. Thực chất của việc phân tích này là
phân tích sự biến động về quy mô của từng khoản mục, trên từng báo cáo tài
chính của doanh nghiệp. Qua đó xác định được mức biến động (tăng hay
giảm) về quy mô của chỉ tiêu phân tích và mức độ ảnh hưởng của từng chỉ
tiêu nhân tố đến chỉ tiêu phân tích. Chẳng hạn, phân tích tình hình hoạt động
về quy mô tài sản, nguồn hình thành tài sản (số tổng cộng), tình hình biến
động về quy mô của từng khoản, từng mục ở cả hai bên tài sản và nguồn hình
thành tài sản trên bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp.
So sánh theo chiều dọc: là việc
sử dụng các tỷ lệ, các hệ số thể hiện mối tương quan giữa các chỉ tiêu trong
từng báo cáo tài chính, giữa các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Thực
chất của việc phân tích theo chiều dọc trên các báo cáo tài chính là việc phân
tích sự biến động về cơ cấu hay những quan hệ tỷ lệ giữa các chỉ tiêu trong hệ
thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Chẳng hạn, phân tích tình hình biến
động về cơ cấu tài sản và nguồn vốn trên bảng cân đối kế toán của doanh
nghiệp, hoặc phân tích các mối quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận với doanh thu, với
tổng giá vốn hàng bán, với tổng tài sản... trên các báo cáo tài chính doanh
nghiệp.
So sánh xác định xu hướng và
tính chất liên hệ giữa các chỉ tiêu: Điều đó được thể hiện: các chỉ tiêu riêng biệt
hay các chỉ tiêu tổng cộng trên báo cáo tài chính được xem xét trong mối quan hệ
với các chỉ tiêu phản ánh quy mô chung và chúng có thể được xem xét trong
nhiều kỳ để phản ánh rõ hơn xu hướng phát triển của các hiện tượng kinh tế - tài
chính của doanh nghiệp.
1.2.4.2. Phương pháp phân tích tỷ số .
Đây là phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến trong phân
tích tài chính. Phương pháp phân tích tỷ số là phương pháp trong đó các tỷ số
được sử dụng để phân tích. Đó là các chỉ số đơn được thiết lập bởi chỉ tiêu
này so với chỉ tiêu khác. Phương pháp này có tính hiện thực cao với các điều
kiện áp dụng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Nguyên nhân là do càng
ngày, nguồn thông tin kế toán và tài chính càng được cải thiện và được cung
cấp đầy đủ hơn. Đó là cơ sở để hình thành những tỷ lệ tham chiếu tin cậy cho
việc đánh giá một tỷ số của một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp.
Lý do thứ hai cho việc sử dụng ngày càng phổ biến phương pháp tỷ số là việc
áp dụng công nghệ tin học cho phép tích lũy số liệu và thúc đẩy nhanh quá
trình tính toán hàng loạt các tỷ số. Nguyên nhân thứ ba là khi vận dụng
phương pháp phân tích tỷ số, các nhà phân tích sẽ khai thác có hiệu quả
những số liệu và phân tích một cách hệ thống các tỷ số theo chuỗi thời gian
liên tục hoặc theo từng giai đoạn.
Người ta sử dụng phương pháp này kết hợp với phương pháp so sánh.
Để đánh giá tình trạng tài chính của một doanh nghiệp bằng phương pháp tỷ
số này, người ta phải so sánh các tỷ số tính được với các tỷ số tham chiếu. Khi
phân tích, các nhà phân tích thường so sánh các tỷ số theo thời gian (so sánh
kỳ này với kỳ trước) để nhận biết xu hướng thay đổi tình hình tài chính của
doanh nghiệp, hoặc so sánh theo không gian (so sánh với mức trung bình
ngành hoặc với các đơn vị khác cùng ngành nghề kinh doanh, cùng quy mô...)
để đánh giá vị thế của doanh nghiệp đó.
Trong phương pháp này, các tỷ số tài chính chủ yếu thường sử dụng
được phân thành các nhóm tỷ số đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản
theo các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm:
đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ
vay của doanh nghiệp.
việc sử dụng tài nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp.
xuất - kinh doanh nghiệp tổng hợp nhất của một doanh nghiệp.
Mỗi nhóm tỷ số trên bao gồm nhiều tỷ số, các tỷ số sẽ được lựa chọn để
phân tích tùy thuộc vào bản chất và quy mô của hoạt động phân tích. Và mỗi
nhóm tỷ số sẽ được các nhà phân tích chú trọng nhiều hay ít hơn các nhóm tỷ
số kia phụ thuộc vào mục tiêu phân tích tài chính. Chẳng hạn, các nhà đầu tư
sẽ đặc biệt quan tâm đến khả năng hoạt động và hiệu quả sản xuất - kinh
doanh nghiệp. Trong khi đó, các nhà cho vay thì quan tâm nhiều hơn đến khả
năng thanh toán. Tuy nhiên, một hoặc một nhóm tỷ số độc lập chỉ phản ánh
một khía cạnh về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Do đó, bất cứ đối
tượng nào cũng không chỉ xem xét riêng các chỉ tiêu mình cần quan tâm mà
họ sẽ xem xét chúng trong tổng thể các chỉ tiêu có liên quan. Chẳng hạn, các
nhà đầu tư ngoài xem xét đặc biệt tới hiệu quả sản xuất - kinh doanh thì họ
cũng cần nghiên cứu về tình hình khả năng thanh toán để đánh giá khả năng
của doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thanh toán hiện tại và xem xét lợi nhuận để
dự tính khả năng trả nợ cuối cùng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ cũng
chú trọng tới tỷ số về cơ cấu vốn vì sự thay đổi của tỷ số này sẽ ảnh hưởng
đáng kể tới lợi ích của họ. Chính vì vậy cần phân tích hệ thống các chỉ tiêu
một cách đầy đủ mới có được những đánh giá toàn diện.
1.2.4.3.Phương pháp loại trừ.
Phương pháp loại trừ là một phương pháp phân tích nhằm xác định xu
hướng và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố với chỉ tiêu phân tích. Các nhân
tố có thể làm tăng, có thể làm giảm, thậm chí có những nhân tố không có ảnh
hưởng gì đến các kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nó có thể là những
nhân tố khách quan, có thể là nhân tố chủ quan, có thể là nhân tố số lượng, có
thể là nhân tố thứ yếu, có thể là nhân tố tích cực và có thể là nhân tố tiêu cực.
Khi phân tích, để nghiên cứu ảnh hưởng của một nhân tố nào đó, phải loại trừ
ảnh hưởng của các nhân tố khác.
Trong thực tế, phương pháp loại trừ sử dụng trong phân tích tài chính
có thể được thực hiện bằng hai cách: phương pháp thay thế liên hoàn và
phương pháp số chênh lệch.
Đây là phương pháp xác định ảnh hưởng của các nhân tố bằng cách
thay thế lần lượt và liên tiếp các nhân tố từ giá trị kỳ gốc sang kỳ phân tích để
xác định trị số của chỉ tiêu khi nhân tố đó thay đổi. Sau đó so sánh trị số của
chỉ tiêu vừa tính được với trị số của chỉ tiêu khi chưa có biến đổi của nhân tố
cần xác định sẽ tính được mức độ ảnh hưởng của nhân tố đó.
Điều kiện áp dụng phương pháp thay thế liên hoàn này là mối liên hệ
giữa nhân tố cần đo ảnh hưởng và chỉ tiêu phân tích phải được thể hiện dưới
dạng công thức. Ngoài ra, việc sắp xếp các nhân tố ảnh hưởng và xác định ảnh
hưởng của chúng đối với các chỉ tiêu phân tích phải theo thứ tự từ nhân tố số
lượng đến nhân tố chất lượng. Trình tự thay thế các nhân tố phải tuân theo
nguyên tắc nhất định, nguyên tắc này vừa phải phù hợp với ý nghĩa của hiện
tượng nghiên cứu, vừa phải đảm bảo mối liên hệ chặt chẽ về thực chất của các
nhân tố.
Ưu điểm của phương pháp này là xác định được mức độ và chiều
hướng ảnh hưởng của các nhân tố, sắp xếp các nhân tố theo mức độ ảnh
hưởng của chúng, từ đó sẽ có biện pháp nhằm khai thác, thúc đẩy những nhân
tố tích cực và hạn chế những nhân tố có tác động tiêu cực tới chỉ tiêu phân
tích. Tuy nhiên, phương pháp thay thế liên hoàn cũng có nhiều nhược điểm
nên ít được sử dụng trong phân tích tài chính. Thứ nhất, việc sắp xếp các nhân
tố ảnh hưởng và xác định ảnh hưởng của chúng đối với các chỉ tiêu phân tích
theo tiêu thức nhân tố số lượng và nhân tố chất lượng là không có căn cứ cụ
thể, rõ ràng, gây phức tạp trong quá trình phân tích, điều này càng thấy rõ hơn
khi có nhiều nhân tố tác động tới chỉ tiêu cần phân tích. Thứ hai, trên thực tế,
các nhân tố luôn có mối quan hệ qua lại lẫn nhau, sự thay đổi của nhân tố này
sẽ tác động tới các nhân tố, do đó nếu chỉ xem xét riêng rẽ, tách rời sự biến
động của từng nhân tố sẽ làm cho kết quả phân tích không được chính xác.
Phương pháp số chênh lệch:
Theo phương pháp này, mức độ ảnh hưởng của nhân tố nào đó đối với
chỉ tiêu tổng hợp được các định bằng số chênh lệch của nhân tố đó với các
nhân tố khác được cố định trong khi lập tích số.
Trình tự tiến hành phương pháp số chênh lệch là:
Xác định số chênh lệch
tuyệt đối với dấu tương ứng của mỗi một nhân tố.
Nhân số chênh lệch vừa
nhận được với số kế hoạch của các nhân tố khác chưa đo ảnh hưởng và với số
thực tế của các nhân tố khác đã đo ảnh hưởng.
Phương pháp số chênh lệch thực chất là phương pháp rút gọn của
phương pháp thay thế liên hoàn, do đó nó cũng đòi hỏi những điều kiện và
cũng có những ưu điểm, nhược điểm như phương pháp thay thế liên hoàn. Và
phương pháp này cũng không được sử dụng phổ biến như phương pháp tỷ số
và phương pháp so sánh.
1.2.4.4. Phương pháp liên hệ.
Ngoài các phương pháp trên, phương pháp liên hệ cũng là một phương
pháp phân tích tài chính cơ bản. Phương pháp này được sử dụng để lượng hóa
các mối liên hệ giữa các mặt, các bộ phận, các phần khác nhau của quá trình
sản xuất - kinh doanh trong doanh nghiệp. Phương pháp này bao gồm liên hệ
cân đối, liên hệ thuận nghịch, liên hệ tương quan. Trong đó phương pháp liên
hệ cân đối thường được sử dụng hơn cả.
Phương pháp liên hệ cân đối có cơ sở là sự cân bằng về lượng giữa hai
mặt của các yếu tố và quá trình kinh doanh, do đó nó thường thể hiện dưới
hình thức phương trình kinh tế hoặc bảng cân đối kinh tế. Nội dung chủ yếu
của bảng cân đối kinh tế bao gồm hai hệ thống chỉ tiêu có quan hệ trực tiếp
với nhau về mặt chỉ tiêu. Khi thay đổi một thành phần của hệ thống chỉ tiêu
này sẽ dẫn tới sự thay đổi của một hoặc một số thành phần của hệ thống chỉ
tiêu còn lại, nhưng sự thay đổi đó vẫn đảm bảo sự cân bằng của bảng cân đối
kinh tế.
Trên đây là các phương pháp phân tích tài chính cơ bản thường được áp
dụng trong phân tích tình hình tài chính của các doanh nghiệp cũng như các
công ty cổ phần nói riêng. Giữa các phương pháp trên có mối liên hệ mật thiết
hữu cơ, bổ sung cho nhau nhằm đáp ứng tính đa dạng và phức tạp của nội
dung phân tích. Tùy thuộc vào mối liên hệ giữa các chỉ tiêu nhân tố với chỉ
tiêu phân tích mà người ta vận dụng phương pháp này hay phương pháp kia
hoặc sử dụng đồng thời nhiều phương pháp cho phù hợp.
1.2.5. Nội dung phân tích tình hình tài chính trong các công ty cổ phần.
1.2.5.1. Phân tích tình hình biến động về quy mô, cơ cấu tài sản và nguồn
vốn.
Quy mô, cơ cấu tài sản và nguồn vốn của một doanh nghiệp được thể
hiện rõ nhất trên bảng cân đối kế toán trong bộ các báo cáo tài chính của
doanh nghiệp. Do đó, bảng cân đối kế toán là tài liệu sát thực nhất trong quá
trình phân tích sự biến động về quy mô và cơ cấu của tài sản và nguồn vốn
của doanh nghiệp.
Tài sản của doanh nghiệp bao gồm tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn.
Tài sản nhiều hay ít, tăng hay giảm, phân bổ cho từng khâu, từng giai đoạn
hợp lý hay không sẽ ảnh hưởng lớn đến kết quả sản xuất - kinh doanh và tình
hình tài chính của doanh nghiệp.
Nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở
hữu. Nguồn vốn của doanh nghiệp như thế nào, tỷ trọng từng loại nguồn vốn ra
sao sẽ thể hiện chính sách huy động vốn và chính sách sử dụng các đòn bẩy tài
chính trong việc tìm kiếm lợi nhuận cho các cổ đông trong công ty cổ phần.
Kết hợp giữa việc so sánh dọc và so sánh ngang bảng cân đối kế toán
cùng với các thông tin khác sẽ thấy được sự biến động về quy mô kinh doanh,
năng lực kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình về vốn và nguồn vốn cũng
như đánh giá khả năng tác động tích cực hay tiêu cực trong chính sách huy
động vốn cũng như chính sách sử dụng đòn bẩy tài chính. Đồng thời, đánh giá
khái quát khả năng và tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Khi phân tích sự biến động về quy mô, cơ cấu tài sản và nguồn vốn, cần
đặc biệt quan tâm đến tác động của từng loại tài sản đối với quá trình kinh
doanh và chính sách tài chính của doanh nghiệp trong việc tổ chức huy động
vốn. Có như thế mới có thể xác định được quy mô vốn, cơ cấu vốn của doanh
nghiệp như thế nào là hợp lý.
Cụ thể việc phân tích như thế nào sẽ được làm rõ ở chương 2.
1.2.5.2. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho sản xuất - kinh doanh
của doanh nghiệp.
Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho sản xuất - kinh doanh là
việc đo lường phần tài trợ của các chủ sở hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ
của các chủ nợ để đánh giá xem mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như
khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp như thế nào. Nhóm tỷ số sử dụng
trong việc phân tích còn được gọi là nhóm tỷ số về khả năng cân đối vốn.
Hệ số này cho biết trong 1 đồng vốn hình thành nên tài sản của doanh
nghiệp thì có bao nhiêu đồng được tài trợ bằng vốn nợ, qua đó xác định nghĩa
vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ.
Thông thường, các chủ nợ với mục tiêu an toàn cho các khoản cho vay
thì mong muốn tỷ số này là vừa phải, không quá cao để đảm bảo thu hồi được
cả gốc và lãi vay đúng hạn. Tuy nhiên, các chủ doanh nghiệp với mục đích gia
tăng lợi nhuận thì lại thích tỷ số này cao. Trong điều kiện kinh doanh bình
thường, việc tăng hệ số nợ sẽ làm tăng thêm lợi nhuận dành cho chủ sở hữu vì
chi phí của việc sử dụng vốn nợ thường thấp hơn so với chi phí sử dụng vốn
chủ sở hữu. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả thì việc
tăng hệ số nợ lên quá cao sẽ làm cho doanh lợi vốn chủ sở hữu giảm sút đi
nhanh chóng, doanh nghiệp có thể bị rơi vào tình trạng không thanh toán được
các khoản nợ đến hạn, tăng nguy cơ phá sản của doanh nghiệp.
- Hệ số nợ
Tổng nợ
=Tổng tài sản
Hệ số này cho biết trong 1 đồng nguồn vốn của doanh nghiệp huy động
được, nguồn vốn chủ sở hữu chiếm mấy đồng. Nó phản ánh khả năng tự tài
trợ về vốn cho hoạt động đầu tư cũng như hoạt động sản xuất - kinh doanh
của doanh nghiệp. Hệ số này càng cao chứng tỏ khả năng tự đảm bảo về mặt
tài chính và mức độ độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược
lại.
Tuy nhiên, tùy thuộc vào tình hình sản xuất - kinh doanh của doanh
nghiệp và đặc điểm lĩnh vực kinh doanh mà các doanh nghiệp lựa chọn cơ cấu
vốn hợp lý cho mình. Một cơ cấu vốn hợp lý sẽ là một trong những nhân tố
tiên quyết tới sự thành bại của doanh nghiệp.
1.2.5.3. Phân tích tình hình đầu tư của doanh nghiệp.
Đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn lực có sẵn hoặc huy động được
từ bên ngoài nhằm đạt được mục tiêu nhất định trong một thời gian xác định.
Một doanh nghiệp có chính sách đầu tư đúng đắn sẽ mang lại hiệu quả cho
quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp mình. Do đó, phân tích tình
hình đầu tư của doanh nghiệp cũng là một trong những nội dung quan trọng
trong phân tích tình hình tài chính của công ty cổ phần nói riêng và các doanh
nghiệp nói chung.
Khi thực hiện phân tích tình hình đầu tư của một doanh nghiệp nào đó,
cần phải đánh giá một số mặt cụ thể sau: hướng đầu tư, loại hình đầu tư, quy
mô đầu tư và hiệu quả đầu tư. Các chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá là:
- Hệ số tự tài trợ vốn
Vốn chủ sở hữu
=Tổng nguồn vốn
1 – Hệ số nợ=
Tỷ suất này cho biết trong 100 đồng đầu tư vào tài sản thì có bao nhiêu
đồng đầu tư vào tài chính và TSCĐ. Nó phản ánh tình trạng cơ sở vật chất kỹ
thuật và năng lực sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ suất này càng
cao, năm sau cao hơn năm trước cho thấy quy mô về cơ sở vật chất kỹ thuật
của doanh nghiệp càng được mở rộng, năng lực sản xuất - kinh doanh càng
được tăng cường, đầu tư tài chính ngày càng cao, xu hướng phát triển sản xuất -
kinh doanh ngày càng bền vững, tình hình tài chính ngày càng khả quan. Tuy
nhiên, trị số của chỉ tiêu này còn phụ thuộc vào từng ngành kinh doanh cụ thể.
Tỷ suất này cho biết trong 1đồng đầu tư vào tài sản thì có bao nhiêu
đồng đầu tư tài chính ngắn hạn.
Tỷ suất này cho biết trong 1đồng đầu tư vào tài sản thì có bao nhiêu
đồng đầu tư tài chính dài hạn.
Tùy thuộc vào lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp mà tỷ suất đầu tư
tài chính ngắn hạn và dài hạn thấp hay cao là hợp lý. Do đó, khi phân tích cần
phải quan tâm đến thông tin về lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tỷ suất đầu tư tổng quát =
Đầu tư tài chính + TSCĐ
Tổng tài sảnx 100%
- Tỷ suất đầu tư tài chính ngắn
hạn=
Đầu tư tài chính ngắn hạn
Tổng tài sảnx 100%
- Tỷ suất đầu tư tài chính dài hạn =
Đầu tư tài chính dài hạn
Tổng tài sản
x 100%
Tỷ suất này cho biết cứ 100 đồng đầu tư vào tài sản thì có bao nhiêu
đồng đầu tư vào tài sản cố định. Trị số càng cao cho thấy việc mở rộng quy
mô sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng phát triển. Tuy nhiên,
cần phải xem xét việc đầu tư tài sản cố định này là lấy từ nguồn ngắn hạn hay
dài hạn. Nếu là từ nguồn ngắn hạn thì rủi ro tài chính của doanh nghiệp sẽ lớn.
Ngoài ra, để đánh giá hiệu quả vốn đầu tư, người ta còn xem xét việc
đầu tư có được sử dụng đúng mục đích, đúng thời hạn theo kế hoạch đề ra hay
không, đồng thời xem xét việc đầu tư như vậy có mức độ thu hút lao động
tham gia như thế nào và đóng góp được vào ngân sách Nhà nước là bao nhiêu.
Từ việc phân tích tình hình đầu tư của doanh nghiệp, có thể trả lời được
các câu hỏi: có nên tiếp tục đầu tư hay không? Có cần phải thu hẹp hay mở
rộng đầu tư? Cơ cấu đầu tư có nên thay đổi hay không? Tùy thuộc vào mục
đích của người phân tích và sử dụng thông tin phân tích mà đưa ra các quyết
định cho mình.
1.2.5.4. Phân tích tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp:
Phân tích tình hình thanh toán các khoản phải trả:
Đầu tiên phải so sánh số tổng cộng cuối kỳ và đầu kỳ để thấy được sự
biến động tổng quát của khoản phải trả. Nếu cuối kỳ so với đầu kỳ giảm
chứng tỏ doanh nghiệp có nhiều cố gắng trong việc thanh toán các khoản nợ
phải trả. Đồng thời, xem xét tình hình thanh toán của các khoản phải trả chiếm
tỷ trọng lớn bởi những khoản mục này mang lại nhiều rủi ro cho doanh nghiệp
và cũng phản ánh được khả năng tài chính của doanh nghiệp trong việc thanh
toán chúng.
Các chỉ tiêu được sử dụng được sử dụng:
- Tỷ suất đầu tư tài sản cố định =
Tài sản cố định
Tổng tài sản
x 100%
Tỷ suất này cho biết được trong 100 đồng nguồn vốn có bao nhiêu đồng
là nợ phải trả. Trị số của nó càng cao cho thấy công nợ của doanh nghiệp lớn,
khả năng tự tài trợ thấp, do đó rủi ro về tài chính càng cao. Tuy nhiên tỷ suất
này bao nhiêu là phù hợp tùy thuộc vào lĩnh vực kinh doanh của doanh
nghiệp. Nếu doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại thì tỷ suất này
thường cao do việc chiếm dụng vốn giữa các đơn vị là thường xuyên xảy ra
với giá trị lớn.
Tỷ suất này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp chiếm dụng vốn ngắn hạn
càng nhiều. Nếu các khoản nợ này sắp đến hạn phải trả trong khi tài sản của
doanh nghiệp đảm bảo thanh toán thấp thì như vậy sẽ gây khó khăn cho doanh
nghiệp trong việc thanh toán, dễ dẫn đến phá sản cho doanh nghiệp.
Đây cũng là một chỉ tiêu rất quan trọng cần được các nhà quản trị
doanh nghiệp theo dõi cẩn thận, chi tiết để đảm bảo khả năng thanh toán đúng
hạn cho các khoản nợ phải trả dài hạn của doanh nghiệp.
Phân tích khả năng thanh toán
- Tỷ suất nợ phải trả =
Nợ phải trả
Tổng nguồn vốn
x 100%
- Tỷ suất nợ phải trả ngắn hạn =
Tổng nợ phải trả
x 100%
- Tỷ suất nợ phải trả dài hạn
Nợ phải trả dài hạn
=Tổng nợ phải trả
x 100%
Nợ phải trả ngắn hạn
Các tỷ số về khả năng thanh toán được sử dụng để đo lường năng lực
của một doanh nghiệp trong việc đáp ứng thanh toán các khoản nợ của doanh
nghiệp, đặc biệt là các khoản nợ đến hạn.
Chỉ tiêu này sử dụng để đánh giá khả năng thanh toán tổng quát của
doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn
được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển đổi thành tiền trong một giai
đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó.
Tỷ số này bằng 2 là hợp lý. Nếu lớn hơn nữa thì doanh nghiệp đang đầu
tư thừa vào tài sản ngắn hạn. Còn nếu tỷ số này < 1 thì doanh nghiệp đang gặp
khó khăn trong thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Thông thường, chỉ cần tỷ
số này ≥ 1 thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp đã được đảm bảo, ít rủi
ro trong thanh toán.
Tỷ số này cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ
thuộc vào việc bán các tài sản dự trữ (hàng tồn kho). Nếu tỷ số này ≥ 1 thì tình
hình thanh toán của doanh nghiệp tương đối khả quan, còn nếu tỷ số này <
1thì doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc trả các khoản nợ ngắn hạn.
Điều này cho thấy tỷ số này là một tiêu chuẩn khắt khe hơn so với tỷ số khả
năng thanh toán hiện hành.
- Khả năng thanh toán hiện hành
Tài sản ngắn hạn=
Nợ ngắn hạn
- Khả năng thanh toán nhanh
Tài sản ngắn hạn – Hàng tồn kho=
Nợ ngắn hạn
Tùy thuộc vào ngành nghề kinh doanh mà tỷ số về khả năng thanh toán
tức thời bằng bao nhiêu là hợp lý. Thông thường, tỷ số này xấp xỉ 0,5 là tốt.
Nếu quá lớn cho thấy tài sản của doanh nghiệp tồn tại dưới dạng tiền nhiều
làm cho hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp sẽ không cao. Ngược lại,
nếu tỷ số này quá nhỏ lại phản ánh một tình hình tài chính không lành mạnh,
khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ phải trả ngay.
1.2.5.5. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn.
Doanh nghiệp phải đầu tư mua sắm tài sản để tiến hành hoạt động sản
xuất - kinh doanh từ các nguồn khác nhau. Kết quả của việc quản lý và sử
dụng vốn có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Do đó, cần phải phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp để có
hướng đầu tư thích hợp, mang lại hiệu quả lớn nhất.
Các chỉ tiêu thường được sử dụng để phân tích:
Tỷ số này cho biết 1 đồng tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu đồng
doanh thu trong kỳ. Tài sản cố định ở đây được tính theo giá trị còn lại đến
thời điểm lập báo cáo tài chính. Trị số càng cao chứng tỏ việc khai thác, sử
dụng tài sản cố định là hiệu quả.
- Khả năng thanh toán tức thời
Tiền và các khoản tương đương tiền=
Nợ ngắn hạn
- Hiệu suất sử dụng tài sản cố
định
Doanh thu
=Tài sản cố định bình quân
- Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
Doanh thu
=Tổng tài sản bình quân
Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay trung bình toàn bộ tài sản. Nó
cho biết 1 đồng vốn đầu tư vào tổng tài sản thì tạo ra được bao nhiêu đồng
doanh thu trong kỳ. Điều này cho thấy việc tăng tỷ số này sẽ góp phần quan
trọng trong việc tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, từ đó sẽ tăng khả năng cạnh
tranh cũng như uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Do đó, tỷ số này càng
cao càng tốt.
Đây là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất -
kinh doanh của doanh nghiệp. Giá trị của chỉ tiêu này càng lớn càng cho thấy
hàng tồn kho quay vòng nhanh, chi phí bảo quản giảm đi, rủi ro về tài chính
cũng giảm, doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và ngược lại.
Chỉ tiêu này được dùng để đánh giá khả năng thu tiền trong thanh toán
trên cơ sở các khoản phải thu bình quân và doanh thu bình quân một ngày. Các
khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chính sách tín dụng thương mại của
doanh nghiệp. Do đó, chỉ tiêu này có giá trị bao nhiêu là hợp lý sẽ phụ thuộc
vào từng loại hình doanh nghiệp cũng như lĩnh vực kinh doanh. Thông thường,
chỉ tiêu này càng thấp càng tốt, vì nếu quá cao trong khi doanh thu không tăng
chứng tỏ vốn của doanh nghiệp đang bị ứ đọng ở khâu thanh toán.
1.2.5.6. Phân tích kết quả kinh doanh và khả năng sinh lời của doanh
nghiệp.
- Vòng quay hàng tồn kho
Doanh thu
=Giá trị hàng tồn kho bình
quân
(Lần/ năm)
- Kỳ thu tiền bình quân
Các khoản phải thu bình quân
=Doanh thu
360
(Ngày)
Các chỉ tiêu được sử dụng trong phân tích là nhóm chỉ tiêu về khả năng
sinh lãi:
Tỷ số này phản ánh cứ 100 đồng doanh thu tạo ra thì thu được bao
nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng cao cho thấy doanh nghiệp
đã có các biện pháp đúng đắn để tăng doanh thu, giảm chi phí.
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được
các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh
nghiệp. Nó đo lường tính hiệu quả của đồng vốn của các chủ sở hữu doanh
nghiệp, nó xem xét lợi nhuận trên mỗi đồng vốn chủ sở hữu đầu tư sẽ mang
lại được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế, hay nói cách khác, đó là % lợi
nhuận thu được của chủ sở hữu trên vốn đầu tư của mình.Tăng ROE là một
mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp.
Sử dụng phương pháp phân tích tài chính Dupont, người ta tách tỷ số
này để đánh giá tác động tương hỗ giữa các tỷ số tài chính.
- Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm
(doanh lợi doanh thu)
=Doanh thu
x 100%
Lợi nhuận sau thuế TNDN
- Doanh lợi vốn chủ sở hữu
(ROE)=
Vốn chủ sở hữu
x 100%
Lợi nhuận sau thuế TNDN
ROE =Vốn chủ sở hữu
Lợi nhuận sau thuế
=
Doanh thu
Doanh thu Tổng tài sản
Tổng tài sản
=
(PM) (AU) (EM)
Sự phân tích này cho thấy có ba nhân tố tác động tới tỷ suất ROE:
1) Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu (PM): chính là chỉ
tiêu doanh lợi tiêu thụ sản phẩm đã nói ở trên. Khi PM tăng, điều đó thể hiện
doanh nghiệp quản lý doanh thu và quản lý chi phí có hiệu quả.
2) Tỷ suất doanh thu trên tổng tài sản (AU): chính là chỉ tiêu
hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
3) Tỷ suất tổng tài sản trên vốn chủ sở hữu (EM): đây là hệ số
nhân vốn chủ sở hữu, nó phản ánh mức độ huy động vốn từ bên ngoài của
doanh nghiệp. Nếu EM tăng, điều đó chứng tỏ doanh nghiệp tăng vốn huy
động từ bên ngoài.
Đây là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh
lợi của một đồng vốn đầu tư. Nó là công cụ đo lường cơ bản tính hiệu quả của
công việc phân phối, quản lý các nguồn lực của doanh nghiệp. ROA cho biết
một đồng vốn đầu tư vào tài sản của doanh nghiệp thì sẽ thu được bao nhiêu
đồng lợi nhuận sau thuế. ROA càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản của
doanh nghiệp càng lớn.
1.2.5.7. Các chỉ tiêu phân tích khác:
Trên là các nội dung phân tích tài chính áp dụng cho tất cả các doanh
nghiệp, trong đó có loại hình tổ chức công ty cổ phần. Tuy nhiên, tùy mục
đích mà khi phân tích tình hình tài chính của các công ty cổ phần, người ta
còn quan tâm tới việc tính toán và phân tích những tỷ số liên quan đến loại
hình công ty cổ phần sau:
- Doanh lợi tài sản (ROA) =
Tổng tài sản
x 100%
Lợi nhuận sau thuế TNDN
...vv...
1.2.6. Những nhân tố ảnh hưởng đến phân tích tài chính
1.2.6.1. Nhân tố chủ quan.
Trình độ, kỹ năng của người thực hiện phân tích:
Đây là nhân tố có ảnh hưởng quyết định đầu tiên tới kết quả phân tích
tài chính. Nếu người thực hiện phân tích có trình độ chuyên môn vững vàng,
có khả năng đánh giá sâu sắc, nhạy bén cùng với việc nắm vững quy trình
phân tích, nhận định được chính xác sự biến động trong hoạt động tài chính
của doanh nghiệp sẽ đưa ra được những kết quả phân tích chính xác, chi tiết,
từ đó có những quyết định quản lý hoặc quyết định đầu tư, cho vay đúng đắn.
Ngược lại, người thực hiện phân tích không đạt được những phẩm chất trên sẽ
- Tỷ lệ hoàn vốn cổ phần =
Vốn cổ phần
Lợi nhuận sau thuế
x 100
- Thu nhập cổ phiếu =Số lượng cổ phiếu thường
Lợi nhuận sau thuế TNDN
- Tỷ lệ trả chi trả cổ tức =
Thu nhập cổ phiếu
Lãi cổ phiếux 100
=Thu nhập cổ phiếu
Giá cổ phiếu- Hệ số giá trên thu
nhập cổ phiếu(P/E)
làm cho công tác phân tích không đạt được hiệu quả cao, kết quả phân tích
đưa ra không chính xác.
Chất lượng nguồn thông tin được sử dụng trong quá trình phân
tích.
Nhân tố tiếp theo quyết định tới hiệu quả của hoạt động phân tích công
ty cổ phần là chất lượng nguồn thông tin được sử dụng. Nếu nguồn thông tin
không đầy đủ, không chính xác, không phản ánh trung thực tình hình hoạt
động của doanh nghiệp thì cho dù chủ thể thực hiện phân tích có trình độ cao
đến mấy cũng sẽ không thể đưa ra được những kết luận chính xác. Do đó, đòi
hỏi các thông tin cần phải có chất lượng cao, cụ thể là phải đầy đủ, chính xác,
phản ánh được mọi mặt của quá trình hoạt động của doanh nghiệp, có như vậy
mới giúp ích được nhiều trong việc đánh giá tình hình tài chính của các công
ty cổ phần.
Phương pháp sử dụng trong phân tích:
Khi bắt đầu tiến hành phân tích, việc sử dụng phương pháp nào để thực
hiện là tùy thuộc vào mối liên hệ giữa chỉ tiêu nhân tố với chỉ tiêu phân tích và
mục tiêu của người thực hiện. Do đó, nếu lựa chọn được đúng phương pháp
phân tích sẽ mang lại những thông tin phân tích chính xác, sát thực, từ đó giúp
đưa ra được cái nhìn toàn diện về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Một điều phải nhận thấy rằng, nếu sử dụng kết hợp được nhiều phương
pháp phân tích một cách linh hoạt, hợp lý sẽ có thể đánh giá được nhiều mặt,
nhiều khía cạnh của chỉ tiêu cần phân tích. Tuy nhiên, để làm được điều này
đòi hỏi mất nhiều thời gian, gây tốn kém. Vì vậy, việc sử dụng đồng thời
nhiều phương pháp phân tích thường chỉ được thực hiện khi phân tích những
chỉ tiêu quan trọng có tính chất quyết định tới những lựa chọn ra quyết định
của người sử dụng kết quả phân tích. Và đối tượng được phân tích thường là
tình hình tài chính trong các công ty cổ phần lớn.
Việc áp dụng khoa học kỹ thuật công nghệ
tiên tiến vào sản xuất - kinh doanh:
Việc áp dụng công nghệ tin học trong các doanh nghiệp như hiện nay
cho phép lưu trữ, tích lũy dữ liệu, thông tin với số lượng lớn, là nguồn cung
cấp tài liệu thiết thực, thúc đẩy nhanh quá trình tính toán hàng hoạt các tỷ số
trong khi thực hiện phân tích. Điều này giúp cho hoạt động phân tích trở nên
dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và độ chính xác cao hơn. Do đó, việc áp dụng
khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại vào quá trình hoạt động của doanh
nghiệp sẽ là một yếu tố quan trọng giúp cho công việc phân tích ngày càng trở
nên hoàn thiện hơn.
1.2.6.2. Nhân tố khách quan.
Hệ thống pháp lý của Nhà nước:
Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều liên quan, gắn kết với môi trường
xung quanh và chịu sự giám sát, thanh tra của hệ thống pháp lý. Doanh nghiệp
được hình thành, hoạt động và phát triển trong khuôn khổ hệ thống luật pháp của
Nhà nước. Thông qua hệ thống pháp lý, Nhà nước có thể điều chỉnh các hành vi
của doanh nghiệp. Do đó, hệ thống pháp lý có ảnh hưởng tới hệ thống tài chính
của doanh nghiệp, từ đó có ảnh hưởng đến hoạt động phân tích tài chính.
Việc Nhà nước xây dựng một hệ thống pháp lý ổn định, hợp lý, thống nhất
sẽ tạo điều kiện cho các nhà phân tích tài chính trong việc tìm kiếm thông tin,
xác định phương pháp phân tích hợp lý, nâng cao hiệu quả hoạt động phân tích
tài chính doanh nghiệp. Ngược lại, sự thiếu chặt chẽ, thiếu khoa học và không
thống nhất trong hệ thống pháp lý sẽ có tác động tiêu cực tới hoạt động phân
tích, khiến cho việc phân tích không đạt được hiệu quả cao.
Hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành:
Ngoài các nhân tố đã nói ở trên, công tác phân tích tài chính doanh
nghiệp sẽ trở nên đầy đủ, chính xác và có ý nghĩa hơn nếu có hệ thống các chỉ
tiêu trung bình ngành làm tham chiếu. Việc đánh giá các chỉ tiêu tài chính là
tốt hay xấu, là hợp lý hay không hợp lý tùy thuộc vào lĩnh vực, ngành nghề
kinh doanh hoạt đông của công ty. Do đó nếu có các chỉ tiêu trung bình ngành
để so sánh thì sẽ xác định được. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết các doanh nghiệp
hầu như không chỉ kinh doanh trong một lĩnh vực mà đa dạng hóa lĩnh vực
hoạt động của mình, điều này gây khó khăn trong việc tìm ra một tham chiếu
thích hợp và chính xác, buộc các nhà phân tích khi muốn sử dụng hệ thống chỉ
tiêu trung bình ngành để tham chiếu thì cần phải xác định được ngành nghề
chính của doanh nghiệp đó là gì, để từ đó sử dụng các tham chiếu thích hợp.
Chương 2: Phân tích tài chính Công ty cổ phần đầu tư và xây
dựng Tiền Hải.2.1. Khái quát về Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty cổ phần đầu tư và
xây dựng Tiền Hải.
Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải nguyên là Doanh nghiệp
Nhà nước, chuyển đổi từ Công ty xây lắp Tiền Hải theo Quyết định số
979/QĐ – UB ngày 04/5/2005 của UBND tỉnh Thái Bình. Sở kế hoạch và đầu
tư cấp đăng ký kinh Doanh nghiệp số 0803000249 ngày 29/11/2005.
Từ khi thành lập đến nay, dưới sự chỉ đạo của các cấp ngành, Công ty
cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải đã từng bước phấn đấu thực hiện Sản
xuất – kinh doanh thắng lợi. Cho đến nay, Công ty đã thực hiện nhiều công
trình công nghiệp, dân dụng, công trình thủy lợi, đường giao thông nông thôn;
tư vấn thiết kế, giám sát và theo dõi thi công công trình xây dựng; sản xuất vật
liệu xây dựng... Các sản phẩm do Công ty thi công xây lắp và sản xuất đều đạt
chất lượng yêu cầu thiết kế, chất lượng tiến độ của chủ đầu tư trên địa bàn
trong và ngoài tỉnh Thái Bình.
Để nâng cao chất lượng xây dựng công trình, Công ty đã đầu tư nhiều
trang thiết bị, máy móc và dụng cụ thi công, ứng dụng nhiều kỹ thuật và công
nghệ mới, quy trình kỹ thuật chất lượng, hiệu quả và an toàn. Lực lượng cán
bộ kỹ thuật và công nhân lao động luôn được rèn luyện về trình độ và tay
nghề để đáp ứng theo yêu cầu của công việc được giao. Hiện nay Công ty có
nhiều kỹ sư, cán bộ theo các ngành nghề xây dựng đã có nhiều kinh nghiệm
trong nghề, được học tập Luật Xây dựng và các văn bản pháp quy, lớp tập
huấn giám sát thi công xây dựng của Bộ Xây dựng mở.
Tên Công ty: CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ XÂY DỰNG TIỀN
HẢI.
Tên giao dịch quốc tế: Tiên Hai Construction and Investment Joint
Stock Company.
Tên viết tắt: Tiên Hai CISCOM.
Địa chỉ trụ sở chính: KM 0+700 đường đi Đồng Châu, thị trấn Tiền
Hải, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
Điện thoại: 036.3823275 – 036.3781812
Fax: 036.3781812
Email: tienhaiciscom@vnn.vn
Tài khoản: tại ngân hàng công thương tỉnh Thái Bình.
Đặc điểm về vốn điều lệ và cơ cấu cổ phần phát hành:
Vốn điều lệ: 2.000.000.000 VNĐ ( hai tỷ đồng chẵn)
Cổ phần phát hành lần đầu: 200.000 cổ phần, mệnh giá một cổ phần là
10.000 VNĐ, trong đó:
Cổ phần nhà nước: 0% vốn điều lệ.
Cổ phần bán ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp:
81.000 cổ phần, chiếm 40,5% vốn điều lệ.
Cổ phần bán ưu đãi cho nhà đầu tư chiến lược: 38.283 cổ phần,
chiếm 19,14% vốn điều lệ.
Cổ phần bán đấu giá công khai: 80.717 cổ phần, chiếm 40,36%
vốn điều lệ.
Hiện tại, Công ty có các cơ sở trực thuộc:
Văn phòng giao dịch và
giới thiệu sản phẩm gạch Tuynel, gạch lát màu bóng ngoại thất – Nhà 332 –
đường Lý Bôn – thành phố Thái Bình – tỉnh Thái Bình. (tel: 036.3844684).
Xí nghiệp gạch Tuynel xã
Tây Tiến – huyện Tiền Hải – tỉnh Thái Bình. (tel: 036.3782372).
Xí nghiệp gạch Tuynel xã
Tây Phong – huyện Tiền Hải – tỉnh Thái Bình. (tel: 036.3652919).
Xí nghiệp gạch lát màu
bóng ngoại thất công nghệ mới, gạch Block không nung tại khu công nghiệp
Trà Lý – huyện Tiền Hải – tình Thái Bình.
Trung tâm tư vấn thiết kế
và giám sát xây dựng – tại trụ sở chính Công ty.
Khối thi công xây lắp: 6
đội xây dựng.
2.1.2. Đặc điểm và nhiệm vụ của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng
Tiền Hải.
Theo giấy phép đăng ký kinh doanh số 0803000249 ngày 29/11/2005
thì ngành nghề sản xuất – kinh doanh chủ yếu của Công ty cổ phần đầu tư và
xây dựng Tiền Hải là:
Xây dựng các công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông, thủy
lợi.
Sản xuất – kinh doanh vật liệu xây dựng: Công ty có hai nhà máy
gạch Tuynel Tây Phong và Tây Tiến đạt công suất 35 triệu viên/ năm và
xưởng gạch lát ngoại thất có công suất 50.000m2/ năm.
Tư vấn thiết kế, giám sát và theo dõi thi công công trình xây dựng.
Chuyển giao công nghệ sản xuất gạch Tuynel, gạch lát tự chèn.
Cho thuê thiết bị, máy xây dựng có người điều khiển.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức và điều hành của Công ty cổ phần đầu tư và xây
dựng Tiền Hải.
2.1.3.1. Mô hình tổ chức bộ máy quản lý:
Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải là một đơn vị kinh tế
hạch toán độc lập. Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất - kinh doanh nghiệp.
công ty tổ chức bộ máy quản lý theo kiểu trực tuyến chức năng.
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ BAN KIỂM SOÁT
BAN GIÁM ĐỐC
Phòng tổ chức hành chính
Phòng kinh doanh
Phòng vật tư
Phòng kế hoạch kỹ thuật
Phòng kế toán
Xí nghiệp gạch
Tuynel Tây Tiến
Xí nghiệp gạch lát
ngoại thất
Trung tâm tư
vấn thiết kế
và giám
sát xây dựng
Các đội thi công xây
dựng
Xưởng cơ khí điện nước trang trí nội thất
Cửa hàng kinh
doanh vật liệu
xây dựng
Phòng Công đoàn
Xí nghiệp gạch
Tuynel Tây
Phong
Sơ đồ 2.1 SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ CÔNG TY
2.1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban trong Công ty cổ phần
đầu tư và xây dựng Tiền Hải.
Chủ tịch hội đồng quản trị kiêm Giám đốc:
Là đại diện pháp nhân của công ty, chịu trách nhiệm về moi hoạt động
của công ty trước pháp luật. Giám đốc là người có quyền điều hành cao nhất,
đứng đầu lãnh đạo chung toàn bộ hoạt động của công ty, chỉ đạo trực tiếp các
phòng ban theo chế độ một thủ trưởng.
Phó giám đốc:
Giúp giám đốc trong công tác quản lý và điều hành công ty, chịu trách
nhiệm về các công việc được giao, đồng thời có quyền giải quyết mọi vấn đề
khi giám đốc có ủy quyền.
Phòng tổ chức – hành chính:
Đảm nhiệm công tác phục vụ hành chính trong công ty, có chức năng
tham mưu giúp giám đốc về công tác tổ chức bộ máy quản lý, tổ chức sản
xuất - kinh doanh của công ty, công tác tuyển dụng lao động. Đồng thời, thực
hiện chế độ tiền lương, chế độ bảo hiểm, công tác khen thưởng cho cán bộ
công nhân viên. Quản lý việc sử dụng con dấu, các công văn giấy tờ. Thường
xuyên trực tiếp đến công trường kiểm tra, giám sát việc thực hiện kỷ luật lao
động. Thực hiện công tác thanh tra nội bộ, giải quyết các đơn thư khiếu nại
của quần chúng, bố trí xe đưa đón cán bộ phục vụ sản xuất – kinh doanh.
Phòng kinh doanh:
Có nhiệm vụ chỉ đạo các nghiệp vụ kinh doanh của toàn công ty, tìm
hiểu và khảo sát thị trường để nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của khách hàng,
từ đó tham mưu cho Ban Giám đốc lập kế hoạch kinh doanh. Đồng thời còn
tham mưu cho Ban Giám đốc trong việc điều hành, chỉ đạo kinh doanh từ văn
phòng công ty đến các đơn vị trực thuộc.
Phòng kế toán:
Theo dõi hoạt động sản xuất – kinh doanh của công ty dưới hình thái
tiền tệ, tham mưu đắc lực cho lãnh đạo công ty thông qua việc quản lý tình
hình mua sắm, nhập – xuất vật tư thiết bị, tổ chức thẩm tra quyết toán của các
đội sản xuất, tập hợp chi phí sản xuất để lập báo cáo kế toán kịp thời, chính
xác. Lập kế hoạch tài chính cho công ty, phân tích tình hình tài chính để tham
mưu kịp thời cho Ban Giám đốc trong các vấn đề tài chính, góp phần nâng
cao hiệu quả của hoạt động sản xuất – kinh doanh,
Tổ chức lưu trữ và bảo quản hồ sơ, số liệu, chứng từ kế toán. Cung cấp
thông tin về các số liệu tài chính kế toán cho các bộ phận có liên quan theo
quy định.
Phòng công đoàn:
Đảm nhiệm công tác bảo đảm các chế độ, quyền lợi của người lao
động. Đại diện tiếng nói của cán bộ công nhân viên, ổn định tư tưởng, phát
huy khả năng công việc của toàn đơn vị.
Phòng kế hoạch - kỹ thuật:
Chịu trách nhiệm lập và tổng hợp các kế hoạch phục vụ cho sản xuất –
kinh doanh (kế hoạch tài chính, kế hoạch sửa chữa thường xuyên, sửa chữa
lớn...) ; theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch, điều chỉnh các kế hoạch cung
ứng vật tư. Đảm bảo về số lượng cũng như chất lượng cho nhu cầu sản xuất –
kinh doanh của công ty, ký kết các hợp đồng xây lắp công trình, kiểm tra quản
lý tiến độ, chất lượng các công trình.
Đảm bảo toàn bộ công tác kỹ thuật của công ty, chỉ đạo thi công đúng
theo thiết kế kỹ thuật, đảm bảo chất lượng cho các công của khách hàng, chỉ
đạo hoạt động công tác kỹ thuật tại các đội sản xuất; biên soạn quy trình, định
mức tiêu chuẩn kỹ thuật và công tác tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Chịu trách nhiệm lập kế hoạch, thiết lập mạng máy tính cho toàn công
ty; kiểm tra trang thiết bị, thay thế, sửa chữa, cài đặt máy tính và các thiết bị
công nghệ phục vụ công tác sản xuất – kinh doanh.
Phòng vật tư:
Căn cứ vào kế hoạch sản xuất – kinh doanh của công ty để lên kế hoạch
cung cấp vật tư, đảm bảo đầy đủ nguồn vật tư; cung cấp vật tư thiết bị theo
đúng tiến độ cho các công trình.
Bố trí xe chở vật tư, thiết bị phục vụ các công trình theo đúng kế hoạch
được giao.
Các xí nghiệp trực thuộc/các đội thi công:
Chịu trách nhiệm thi công các công ty. Đội trưởng, chủ nhiệm xí nghiệp
trực thuộc chịu trách nhiệm trước ban giám đốc về chất lượng của các công
trình cũng như an toàn lao động, tiến độ thi công công trình và một số vấn đề
khác.
2.1.3.3. Số lượng và chất lượng lao động:
Để hoàn thành yêu cầu và nhiệm vụ của kế hoạch sản xuất - kinh
doanh, Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải đã từng bước ổn định
đội ngũ cán bộ quản lý và công ty kỹ thuật trong các công trình xây dựng hợp
lý, đủ mạnh để thực hiện nhiệm vụ và kế hoạch đề ra.
Bảng 2.1. BIỂU KÊ KHAI NĂNG LỰC CÁN BỘ CHUYÊN MÔN VÀ KỸ
THUẬT
STTCán bộ chuyên môn và kỹ
thuật theo nghềSố lượng
Theo thâm niên
>5 năm >10 năm >15 năm
I Trình độ Đại học 12 04 06 02
1 Kiến trúc sư 03 01 02
2 Kỹ sư xây dựng 09 03 04 02
Trong đó:
Ngành thủy lợi 02
Ngành VLXD 06
Ngành giao thông 04
II Trình độ trung cấp 22 06 13 03
1 Trung cấp xây dựng 11 03 06 02
2 Trung cấp đường sắt, hầm cầu 03 01 02
3 Trung cấp thủy lợi 03 02 01
4 Trung cấp quản lý 02 01 01
5 Trung cấp kế toán 03 01 02
Bảng 2.2. BIỂU KÊ KHAI CÔNG NHÂN KỸ THUẬT, THỢ LÀNH NGHỀ
STT Công nhân các ngành Số lượngBậc thợ
3/7 4/7 5/7 6/7 7/7
Tổng số 356 199 136 20 01
I Công nhân xây dựng 95 28 48 18 01
1 Thợ nề 64 25 30 08 01
2 Thợ bê tông 16 03 10 03
3 Thợ mộc 05 05
4 Thợ cơ khí 03 03
5 Công nhân điện nước 03 02 01
6 Thợ sắt 04 03 01
7Thợ hoàn thiện, sơn, nội
thất
II Công nhân sản xuất khác 241 163 76 02
1 Công nhân đốt lò 38 36 02
2Công nhân tạo hình,
vagông, phân loại sản phẩm203 163 40
III Công nhân kỹ thuật khác 20 08 12
1 Công nhân cơ khí nổ 02 02
2 Công nhân lái xe vận tải 08 08
3 Công nhân điện vận hành 10 08 02
Bảng 2.3. BIỂU KÊ KHAI SỐ CÔNG NHÂN HỢP ĐỒNG NGẮN HẠN
STT Công nhân các ngành Số lượngBậc thợ
3/7 4/7 5/7 6/7 7/7
Tổng số 105 93 11 01
I Công nhân xây dựng 33 25 07 01
1 Thợ nề 15 10 04 01
2 Thợ bê tông 18 14 03
IICông nhân và lao
động khai thác đất72 68 04
1 Công nhân tạo hình 04 04
2 Công nhân điện nước 68 68
2.2. Phân tích tài chính Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải.
2.2.1. Phân tích tình hình biến động về quy mô, cơ cấu tài sản và nguồn
vốn.
2.2.1.1. Phân tích tình hình biến động về quy mô và cơ cấu tài sản:
Căn cứ vào các số liệu được phản ánh trên bảng cân đối kế toán để so
sánh số tổng cộng về tài sản giữa kỳ phân tích với các kỳ trước hoặc với kỳ kế
hoạch kể cả số tương đối lẫn tuyệt đối nhằm xác định sự biến động về quy mô
tài sản cũng như cơ cấu các khoản mục trong tổng tài sản qua các kỳ kinh
doanh. Từ đó, đánh giá tình hình tài chính trong quá khứ, hiện tại để làm cơ
sở dự đoán tiềm năng tài chính trong tương lai của doanh nghiệp.
Dựa vào bảng cơ cấu nguồn vốn và tài sản (Bảng 4) ta có thể thấy tổng
tài sản của công ty có xu hướng tăng. Điều này chứng tỏ khả năng huy động
vốn của công ty là rất tốt, công ty cần phát huy ưu điểm này. Tuy nhiên mới
chỉ dựa vào sự biến động tăng của tổng tài sản thì cũng chưa thể biết được
nguyên nhân là do đâu, do đó chúng ta cần phải xem xét sự biến động của các
khoản mục chi tiết.
Qua bảng cơ cấu tài sản và nguồn vốn (Bảng 4) ta thấy, trong năm
2006, tổng tài sản của công ty là 42.562,627 triệu đồng. Sang năm 2007, tổng
tài sản của công ty đã tăng lên đến 54.211,878 triệu đồng (tăng 11.649,251
triệu đồng, tương đương tăng 27,37% so với năm 2006), điều này cho thấy
công ty đang mở rộng quy mô hoạt động. Đến năm 2008, tổng tài sản đã tăng
so với năm 2007 là 15.988,352 triệu đồng( tăng 29,49%) nâng tổng tài sản của
công ty lên 70.200,230 triệu đồng. Qua đây có thể thấy được quy mô của công
ty ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên chúng ta mới chỉ thấy được sự tăng lên
trong tổng tài sản mà chưa thể thấy được nguyên nhân. Qua việc phân tích cơ
cấu tài sản chúng ta sẽ thấy được rõ hơn sự tăng quy mô này.
Tài sản ngắn hạn:
Năm 2006, tỷ trọng đầu tư vào tài sản ngắn hạn là 33.289,191 triệu
đồng (78,21%), năm 2007 và 2008 lần lượt là 41.037,819 triệu đồng và
55.687,757 triệu đồng (tương đương 75,70% và 79,33%). Tốc độ tăng là
23,28% năm 2007/2006 và 35,70% năm 2008/2007. Trong khi tốc độ tăng
trong tài sản dài hạn là 42,06% (2007/2006) và 10,16% (2008/2007). Điều
này cho thấy sự tăng lên trong tổng tài sản trong năm 2007 chủ yếu là do công
ty tăng đầu tư vào tài sản dài hạn. Sang năm 2008 thì tốc độ tăng của tài sản
dài hạn lại nhỏ hơn cho thấy công ty đã thay đổi chính sách đầu tư, tăng tốc
độ đầu tư tài sản ngắn lớn hơn so với tài sản dài hạn.
Xét sự tăng lên của tài sản ngắn hạn. Tỷ trọng của khoản mục tiền và
các khoản tương đương đương tiền có xu hướng ngày càng giảm trong tổng
tài sản (lần lượt là 1,89%, 0,52% và 0,34%) trong khi đó các khoản phải thu
ngắn hạn lại có xu hướng tăng về tỷ trọng cũng như tốc độ. Năm 2006, các
khoản phải thu là 12.617,440 triệu đồng (chiếm 29,64%), năm 2007 tăng lên
đến 17.970,370 triệu đồng ( tăng 5.352,930 triệu, tương đương 42,42% so với
năm 2006). Sang năm 2008, các khoản phải thu ngắn hạn của công ty là
34.009,125 triệu đồng (tăng 16.038,755 triệu đồng, tương đương tăng
89,25%). Các khoản mục khác như hàng tồn kho, tài sản ngắn hạn khác có sự
biến động tăng giảm không ổn định qua các năm. Tất cả cho thấy sự tăng lên
trong tài sản ngắn hạn của công ty nguyên nhân chủ yếu là do tăng các khoản
phải thu. Đây có thể là chính sách bán hàng của công ty nhưng nếu khoản mục
này tăng quá nhanh, quá nhiều thì sẽ ảnh hưởng đến sự liên tục trong hoạt
động của công ty do vốn bị chiếm dụng nhiều, khó quay vòng sản xuất. Do
đó, các nhà quản trị công ty cần phải xác định được giới hạn của chính sách
bán hàng để có thể nâng cao khả năng hoạt động của công ty.
Tài sản dài hạn:
Trong phần tài sản dài hạn, hầu hết các khoản mục đều có sự tăng
trưởng khá đồng đều, không có sự biến động lớn bất thường nào. Điều này
cho thấy được cơ cấu đầu tư vào tài sản dài hạn của công ty là khá ổn định.
Để xem xét đây có phải là bước đầu tư hiệu quả của công ty hay không thì cần
phải xem xét và phân tích các chỉ tiêu khác liên quan đến hiệu quả đầu tư
cũng như hiệu quả hoạt động của công ty (sẽ được nói rõ trong các phần sau).
Qua việc phân tích quy mô và cơ cấu tài sản của Công ty cổ phần đầu
tư và xây dựng Tiền Hải cho ta thấy, nhìn chung các khoản mục ít có sự biến
động bất thường mà theo xu hướng nhất định, phù hợp với đặc điểm hoạt
động của công ty. Song điều đó chưa thể khẳng định được tình hình tài chính
của công ty là tốt hay xấu bởi điều đó còn phải được xem xét thông qua cơ
cấu nguồn vốn, là nguồn để hình thành tài sản trong công ty. Do đó, để những
kết luận là chính xác hơn về thực trạng tài chính của công ty, chúng ta đi vào
phân tích cơ cấu nguồn vốn.
2.2.1.2. Phân tích tình hình biến động về quy mô và cơ cấu nguồn vốn:
Trên cơ sở các số liệu trình bày trên bảng cân đối kế toán, người ta so
sánh số tổng cộng cả về tuyệt đối lẫn tương đối để thấy được sự biến động về
quy mô của nguồn vốn. Đồng thời, so sánh cơ cấu tỷ trọng giữa các khoản
mục trong tổng nguồn vốn qua các kỳ để thấy được xu hướng biến động của
chúng, kết hợp với các chỉ tiêu khác sẽ đánh giá được hiệu quả của quy mô
cùng cơ cấu vốn mà doanh nghiệp đã xây dựng cho mình, từ đó xác định được
cơ cấu tối ưu nhất trong tương lai.
Từ sự tăng trưởng trong tổng tài sản chúng ta có thể thấy được sự tăng
trưởng trong tổng nguồn vốn. Điều này thể hiện công ty đã có những chính
sách huy động vốn hiệu quả đảm bảo cho nguồn vốn kinh doanh. Tuy nhiên,
cũng cần phải phân tích xem yếu tố nào tạo nên sự tăng trưởng đó.
Nhìn vào bảng cơ cấu tài sản và nguồn vốn (Bảng 4) qua ba năm 2006,
2007, 2008, chúng ta có thể thấy vốn sản xuất - kinh doanh của công ty phần
lớn được tài trợ bằng nguồn nợ phải trả. Tuy giá trị của nợ phải trả tăng qua
các năm (năm 2007/2006 là tăng 9.113,835 triệu đồng, tương đương tăng
22,06%, năm 2008/2007 là tăng 14.795,460 triệu đồng, tương đương tăng
29,34%) song tỷ trọng của nó trong tổng nguồn vốn có xu hướng giảm, lần
lượt là 97,08% năm 2006, 93,03% năm 2007 và 92,92% năm 2008. Nhưng
nhìn chung là vẫn còn rất lớn.
Nợ phải trả:
Trong nợ phải trả, nợ ngắn hạn cũng chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều so
với nợ dài hạn. Trong đó chiếm tỷ trọng lớn nhất là khoản mục người mua trả
tiền trước (tỷ trọng lần lượt qua ba năm là: 55,35%, 56,13%, 60,06%), chứng
tỏ công ty chiếm dụng vốn của các đơn vị, cá nhân tổ chức khác với giá trị
lớn. Tiếp đến là khoản mục vay và nợ ngắn hạn. Năm 2007 giảm 2.709,898
triệu đồng so với năm 2006 (giảm 29,56%) và năm 2008 lại tăng 3.225,436
triệu đồng (tăng 49,95%) so với năm 2007, tăng vượt quá so với năm 2006.
Hai khoản mục chính này đã làm cho nợ phải trả của công ty tăng.
Mặc dù khoản nợ ngắn hạn tăng cao nhưng công ty luôn giữ vững uy
tín với bạn hàng, thực hiện tốt thanh toán. Điều này được thể hiện qua sự giảm
xuống của khoản mục phải trả người bán. Đây là một trong những cố gắng, nỗ
lực của ban quản lý công ty.
Một điều đáng khen ngợi nữa là trong năm 2008, công ty đã thanh toán
hết tiền lương cho người lao động, không để nợ đọng như hai năm trước. Tuy
nó đã làm giảm đi nguồn vốn ngắn hạn của công ty nhưng bù lại, nó tạo niềm
tin cho người lao động về hiệu quả hoạt động của công ty, khuyến khích
người lao động hăng say làm việc.
Nợ dài hạn của công ty chiếm tỷ trọng nhỏ (2006: 5,74%, 2007:
13,96%, 2008: 9,89%) và có xu tăng qua các năm (năm 2007 tăng 5.123,996
triệu đồng so với năm 2006, năm 2008 tuy giảm so với 2007 là 622,110 song
nhìn chung là vẫn tăng so với 2006), trong đó chủ yếu là vay và nợ dài hạn.
Đây là nguồn quan trọng để tài trợ cho tài sản dài hạn song công ty chưa khai
thác hết lợi ích từ nguồn này. Qua tỷ trọng của nợ dài hạn và nợ ngắn hạn của
công ty có thể thấy công ty đã sử dụng nợ ngắn hạn để tài trợ cho tài sản dài
hạn, điều này có thể tạo ra lợi nhuận cho công ty từ việc sử dụng nguồn vốn
với chi phí thấp, song nó có thể mang lại cho công ty rủi ro về khả năng thanh
toán các khoản nợ đến hạn. Cần phải xem xét kỹ hơn trong phần phân tích về
khả năng thanh toán và khả năng hoạt động để đánh giá rủi ro và hiệu quả của
cơ cấu đầu tư này.
Vốn chủ sở hữu:
Cùng với sự tăng lên của tổng nguồn vốn, công ty cũng đã tăng quy mô
cũng như tỷ trọng của vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn. Năm 2006, vốn
chủ sở hữu của công ty là 1.243,481 triệu đồng (2,92%), năm 2007 là
3,778.897 triệu đồng (6,97%), và 4.971,859 triệu đồng (7,08%) năm 2008.
Đồng thời, tốc độ tăng tăng của vốn chủ sở hữu lại lớn hơn rất nhiều so với
tốc độ tăng của nợ phải trả. Cụ thể là 203,90% (2007/2006) và 31,57%
(2008/2007), trong khi nợ phải trả tương ứng các năm là 22,06% và 29,34%.
Điều này cho thấy công ty đã rất nỗ lực trong việc huy động tăng vốn chủ sở
hữu. Các biện pháp mà công ty đã sử dụng để tăng vốn chủ là tăng nguồn lợi
nhuận sau thuế giữ lại, tăng cổ phiếu quỹ và phát hành thêm cổ phần mới. Tuy
nhiên, mặc dù tốc độ tăng của vốn chủ sở hữu cao như thế nhưng tỷ trọng của
nó trong tổng nguồn vốn vẫn rất thấp, thậm chí là quá thấp. Do đó, Công ty cổ
phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải cần phải tăng tỷ trọng của nguồn này lên
cao hơn nữa, có như vậy mới đảm bảo được một tình hình tài chính lành
mạnh, ít rủi ro.
Bảng 2.4. BẢNG PHÂN TÍCH CƠ CẤU NGUỒN VỐN VÀ TÀI SẢN
Đơn vị: triệu đồng
STT CHỈ TIÊU2006 2007 2008 2007/2006 2008/2007
Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền %
TÀI SẢN
A Tài sản ngắn hạn 33.289,191 78,21 41.037,819 75,70 55.687,757 79,33 7.748,628 23,28 14.649,938 35,70
I Tiền và các khoản tương đương tiền 806,523 1,89 284,235 0,52 241,839 0,34 -522,228 -64,76 -42,396 -14,92
1 Tiền mặt 41,611 259,940 28,239 218,329 524,69 -231,710 -89,14
2 Tiền gửi ngân hàng 764,912 24,295 213,600 -740,617 -96,82 189,305 779,19
II Các khoản phải thu ngắn hạn 12.617,440 29,64 17.970,370 33,15 34.009,125 48,45 5.352,930 42,42 16.038,755 89,25
1 Phải thu của khách hàng 10.764,421 25,29 16.604,552 30,63 29.522,188 42,05 5.840,131 54,25 12.917,636 77,80
2 Phải thu nội bộ ngắn hạn 1.522,751 3,58 103,042 0,19 3.598,426 5,13 -1.419,709 -93,23 3.495,384 3.392,19
3 Các khoản phải thu khác 330,268 0,78 1.262,776 2,33 888,511 1,27 932,508 282,35 -374,265 -29,64
III Hàng tồn kho 17.565,547 41,27 21.209,401 39,12 18.444,287 26,27 3.643,854 20,74 -2.765,114 -13,04
IV Tài sản ngắn hạn khác 2.299,681 5,40 1.573,813 2,90 2.992,506 4,26 -725,868 -31,56 1.418,693 90,14
B Tài sản dài hạn 9.273,436 21,79 13.174,059 24,30 14.512,543 20,67 3.900,623 42,06 13.338,484 10,16
I Tài sản cố định 9.266,436 21,77 13.167,059 24,29 14.505,543 20,66 3.900,623 42,09 13.338,484 10,17
1 Tài sản cố định hữu hình 5.594,653 13,14 9.518,744 17,56 9.749,342 13,89 3.924,091 70,14 230,598 2,42
- Nguyên giá 12.047,169 17.091,347 18.171,338 5.044,178 1.079,991
- Giá trị hao mòn lũy kế (6.452,515) (7.572,604) (8.421,996) -1.120,089 -849,392
2 Chi phí XDCB dở dang 3.671,783 8,63 3.648,315 6,73 4.756,201 6,78 -23468 -0,64 1.107,886 30,37
II Các khoản đầu tư tài chính dài hạn 7,000 0,02 7,000 0,01 7,000 0,01 0 0 0 0
Tổng cộng tài sản 42.562,627 100 54.211,878 100 70.200,230 100 11.649,251 27,37 15.988,352 29,49
NGUỒN VỐN
A Nợ phải trả 41.319,146 97,08 50.432,981 93,03 65.228,441 92,92 9.113,835 22.06 14.795,460 29,34
I Nợ ngắn hạn 38.875,336 91,34 42.865,175 79,07 58.282,745 83,02 3.989,839 10,26 15.417,570 35,97
1 Vay và nợ ngắn hạn 9.167,360 21,54 6.457,462 11,91 9.682,898 13,79 -2.709,898 -29,56 3.225,436 49,95
2 Phải trả người bán 3.054,631 7,18 2.215,404 4,09 2.958,744 4,21 -839,227 -27,47 743,340 33,55
3 Người mua trả tiền trước 23.556,645 55,35 30.430,754 56,13 42.161,481 60,06 6.874,109 29,18 11.730,727 38,55
4Thuế và các khoản phải nộp Nhà
nước844,826 1,98 977,098 1,80 753,620 1,07 132,272 15,66 -223,478 -22,87
5 Phải trả người lao động 1.874,902 4,41 264,716 0,49 - -1.610,186 -85,88 -264,716 -100
6 Chi phí phải trả 376,972 0,89 2.519,741 4,65 2.652,560 3,78 2.142,769 568,42 132,819 5,27
7Các khoản phải trả, phải nộp ngắn hạn
khác.- - 73,441 0,10 73,441
II Nợ dài hạn 2.443,811 5,74 7.567,807 13,96 6.945,697 9,89 5.123,996 209,67 -622,110 -8,22
1 Phải trả dài hạn nội bộ - 5.000,000 9,22 5.000,000 7,12 5.000,000 0 0
2 Phải trả dài hạn khác - 10.230,996 18,87 863,996 1,23 10.230,996 -9.367,000 -91,56
3 Vay và nợ dài hạn 2.400,000 5,64 1.500,000 2,77 900,000 1,28 -900,000 -37,50 -600,000 -40
4 Dự phòng trợ cấp mất việc làm 43,811 0,10 43,811 0,08 81,701 0,12 0 0 37,890 86,49
5 Dự phòng phải trả dài hạn - - 100,000 0,14 100,000
B Vốn chủ sở hữu 1.243,481 2,92 3.778,897 6,97 4.971,859 7,08 2.535,416 203,90 1.192,962 31,57
I Vốn chủ sở hữu 962,009 2,26 3.557,825 6,56 4.508,717 6,42 2.595,816 269,83 950,892 26,73
1 Vốn đầu tư của CSH 600,457 1,41 2.000,000 3,69 2.180,000 3,11 1.399,543 233.08 180,000 9
2 Vốn khác của CSH - 760,000 1,40 760,000 1,08 760,000 0 0
3 Cổ phiếu quỹ - 250,263 0,46 369,275 0,53 250,263 119,012 47,55
4 Quỹ dự phòng tài chính 44,026 0,10 44,026 0,08 112,426 1,16 0 0 68,400 155,36
5 Qũy khác thuộc vốn chủ sở hữu - - 218,400 0,31 218,400
6 Lợi nhuận sau thuế chưa phân phối 317,526 0,75 503,536 0,93 868,615 1,24 186,010 58,58 365,079 71,50
II Nguồn kinh phí và quỹ khác 281,472 0,66 221,072 0,41 463,142 0,66 -60,400 -21,46 242,070 109,50
1 Quỹ khen thưởng, phúc lợi 281,472 0,66 221,072 0,41 463,142 0,66 -60,400 -21,46 242,070 109,50
Tổng cộng nguồn vốn 42.562,627 100 54.211,878 100 70.200,230 100 11.649,251 27,37 15.988,352 29,49
2.2.2. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho sản xuất - kinh doanh
của doanh nghiệp.
Bảng 2.5. BẢNG CÁC TỶ SỐ VỀ ĐẢM BẢO NGUỒN VỐN
Đơn vị: VNĐ
Chỉ tiêu 2006 2007 2008
Tổng tài sản
(Tổng nguồn vốn)42.562.627.110 54.211.877.844 70.200.299.928
Tổng nợ phải trả 41.139.146.118 50.432.981.253 65.228.441.175
- Nợ ngắn hạn 38.875.335.518 42.865.174.653 58.282.744.575
Vốn chủ sở hữu 1.243.480.992 3.778.896.591 4.971.858.754
Hệ số nợ 0,97 0,93 0,93
- Hệ số nợ ngắn hạn 0,91 0,79 0,83
Hệ số tự tài trợ vốn 0,03 0,07 0,07
Như đã phân tích ở phần cơ cấu vốn và cơ cấu tài sản, chúng ta thấy
được rằng nguồn vốn kinh doanh chủ yếu của công ty là từ nguồn nợ phải trả.
Do đó hệ số nợ của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải mặc dù có
giảm trong hai năm 2007 và 2008 so với 2006 nhưng vẫn rất cao. Một câu hỏi
được đặt ra là tại sao một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng
và sản suất vật liệu xây dựng lại có hệ số nợ cao đến vậy, đặc biệt hệ số nợ
ngắn hạn mà vẫn duy trì được trong thời gian dài. Điều này chỉ có thể giải
thích rằng Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải là một doanh nghiệp
Nhà nước được cổ phần hóa, trong quá trình hoạt động luôn tạo ra lợi nhuận,
năm sau cao hơn năm trước, hơn nữa, công ty có uy tín lớn đối với các bạn
hàng, khách hàng, các chủ nợ trong việc thanh toán, hoàn thành bàn giao công
trình cũng như thanh toán nợ gốc và lãi vay cho ngân hàng từ trước. Do đó,
khi công ty duy trì hệ số nợ cao như vậy trong điều kiện lợi nhuận tạo ra như
hiện nay sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất - kinh doanh của công ty và
63
cũng không gặp khó khăn gì với các chủ nợ. Mặt khác, do có uy tín lớn nên
được khách hàng tin tưởng, số tiền khách hàng ứng trước cho công ty chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng nợ, đây là nguồn cho công ty thi công xây dựng các
công trình, sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, về lâu dài nếu công ty tiếp tục với
cơ cấu nguồn vốn như thế thì nguy cơ phá sản là rất cao, chỉ cần một kỳ kinh
doanh nào đó không thuận lợi sẽ làm cho công ty khó xoay sở với nguồn vốn
nợ lớn như vậy. Do đó trong tương lai, công ty nên hạ thấp hệ số này xuống.
Như ở phần lý thuyết đã phân tích, hệ số tự tài trợ vốn của doanh
nghiệp càng cao thì chứng tỏ khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính và mức độ
độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Thực tế tại Công
ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải cho thấy, dù công ty vẫn duy trì được
hệ số nợ cao như vậy mà không gặp khó khăn nào thì việc hệ số tự tài trợ vốn
cho hoạt động sản xuất - kinh doanh của công ty quá thấp sẽ làm cho công ty
phụ thuộc quá nhiều vào bên ngoài, dễ dẫn đến rủi ro không thanh toán được
các khoản nợ đến hạn khi công ty làm ăn sa sút, thua lỗ. Do đó, công ty cần
phải nâng hệ số này lên cao hơn nữa và xác định một hệ số thích hợp cho
công ty mình sao cho lợi nhuận tạo ra là tối đa và rủi ro tài chính cũng là nhỏ
nhất. Đây chính là mục tiêu của việc xác định cơ cấu vốn tối ưu.
64
2.2.3. Phân tích tình hình đầu tư của công ty.
Bảng 2.6. BẢNG PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ
Đơn vị:VNĐ
Chỉ tiêu 2006 2007 2008
Tổng tài sản 42.562.627.110 54.211.877.844 70.200.299.928
Tài sản cố định 9.266.436 13.167.059 14.505.543
Đầu tư tài chính ngắn hạn 0 0 0
Đầu tư tài chính dài hạn 7.000.000 7.000.000 7.000.000
Tỷ suất đầu tư tổng quát 0.000382 0.000372 0.000306
Tỷ suất đầu tư tài chính ngắn hạn 0 0 0
Tỷ suất đầu tư tài chính dài hạn 0.000164 0.000129 0.000100
Tỷ suất đầu tư tài sản cố định 0.000218 0.000243 0.000207
Qua bảng trên chúng ta thấy được tình hình đầu tư tài chính và tài sản
cố định của công ty là không khả quan. Đầu tiên phải nói đến việc đầu tư tài
chính của công ty. Vì công ty hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và kinh
doanh vật liệu xây dựng là chủ yếu nên các tỷ suất về đầu tư tài chính không
đáng kể là một điều có thể thấy được. Tuy nhiên, tỷ suất đầu tư tài sản cố định
của công ty lại quá thấp, và còn bị sụt giảm trong năm 2008. Nguyên nhân của
tình trạng trên là nguồn vốn của công ty đầu tư vào tài sản ngắn hạn là chủ
yếu, đặc biệt là hàng tồn kho và các khoản phải thu. Dù là hoạt động trong
lĩnh vực xây dựng nhưng thực tế cho thấy hoạt động kinh doanh vật liệu xây
dựng lại mang lại doanh thu có tỷ trọng lớn nhất. Do đó việc đầu tư vào tài
sản cố định cũng được công ty tăng cường qua các năm nhưng không thể lớn
hơn với tài sản ngắn hạn được, điều này đã làm cho tỷ suất đầu tư tài sản cố
định của công ty thấp như vậy. Tuy nhiên, về lâu dài công ty cũng cần phải có
các biện pháp nâng cao tỷ suất này lên, bằng cách mở rộng đầu tư mua mới
cải tiến tài sản cố định trong công ty, tránh tình trạng tài sản cố định lỗi thời,
lạc hậu, năng suất kém hiệu quả.
65
Đi sâu vào xem xét tình hình đầu tư vào tài sản cố định của công ty ta
thấy, tài sản cố định được đầu tư một phần bằng nguồn vốn ngắn hạn (tổng
vốn chủ sở hữu và nợ dài hạn vẫn chưa tài trợ đủ cho tài sản cố định). Điều
này tuy có thể mang lại nhiều lợi ích cho công ty vì nguồn ngắn hạn có chi phí
thấp hơn. Tuy nhiên, mặt trái của nó là dễ mang lại rủi ro cho công ty một khi
nợ ngắn hạn đến hạn thanh toán mà tài sản ngắn hạn của công ty không đủ để
trang trải. Do đó, cùng với việc tăng tỷ suất đầu tư tài sản cố định lên thì công
ty cũng phải tích cực chủ động trong công tác huy động các nguồn trung và
dài hạn.
2.2.4. Phân tích tình hình và khả năng thanh toán của công ty.
2.2.4.1. Phân tích tình hình thanh toán:
Tình hình và khả năng thanh toán của công ty phản ánh rõ nét chất
lượng công tác tài chính. Nếu mọi công tác tài chính tốt, công ty sẽ ít công nợ,
khả năng thanh toán dồi dào, ít bị chiếm dụng vốn. Ngược lại, nếu hoạt động
tài chính kém hiệu quả thì sẽ dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau, các
khoản phải thu, phải trả dây dưa kéo dài. Qua bảng tình hình thanh toán của
Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải (Bảng 7), ta tiến hành phân tích
tình hình thanh toán công nợ của công ty qua các năm.
Tính đến cuối năm 2008, các khoản phải trả tăng 23.771.045.057 VNĐ
(tương đương tăng 57,59%), trong đó năm 2007 tăng so với 2006 là
3.989.839.135 VNĐ (tăng 10,26%) và năm 2008 tăng so với 2007 là
15.417.569.922 VNĐ (tăng 35,97%), điều này cho thấy công ty đã vay thêm
các khoản nợ mới. Đi sâu vào phân tích ta thấy, tỷ trọng của khoản mục phải
trả người bán và người mua trả tiền trước chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng
tăng, chứng tỏ công ty đã rất khôn khéo khi biết khai thác một lượng vốn lớn
hợp pháp từ phía khách hàng và các nguồn khác mà không phải trả lãi.
66
Bảng 2.7. BẢNG TÌNH HÌNH THANH TOÁN CỦA CÔNG TY
Đơn vị: VNĐ
STT Các khoản phải trả 2006 2007 20082007/2006 2008/2007
Số tiền % Số tiền %
I Nợ ngắn hạn 38.875.335.518 42.865.174.653 58.282.744.575 3.989.839.135 10,26 15.417.569.922 35,97
1 Vay và nợ ngắn hạn 9.167.360.032 6.457.462.032 9.682.898.032 -2.709.898.000 -29,56 3.225.436.000 49,95
2 Phải trả ngắn hạn người bán 3.054.630.712 2.215.403.497 2.958.744.446 -839.227.215 -27,47 743.340.949 33,55
3 Người mua trả tiền trước 23.556.644.796 30.430.754.012 42.161.481.167 6.874.109.216 29,18 11.730.727.155 38,55
4Thuế và các khoản phải nộp Nhà
nước 844.826.363 977.098.383 753.620.143 132.272.020 15,66 -223.478.240 -22,87
5 Phải trả công nhân viên 1.874.901.584 264.715.499 - -1.610.186.085 -85,88 -264.715.499 -100,00
6 Chi phí phải trả 376.972.031 2.519.741.230 2.652.559.927 2.142.769.199 568,42 132.818.697 5,27
7 Các khoản phải trả, phải nộp khác - - 73.440.860 0 73.440.860
II Nợ dài hạn 2.400.000.000 7.523.996.000 6.763.996.000 5.123.996.000 213,50 -760.000.000 -10,10
1 Vay và nợ dài hạn 2.400.000.000 1.500.000.000 900.000.000 -900.000.000 -37,50 -600.000.000 -40,00
2 Phải trả dài hạn nội bộ - 5.000.000.000 5.000.000.000 5.000.000.000 0 0
3 Phải trả dài hạn khác - 1.023.996.000 863.996.000 1.023.996.000 -160.000.000 -15,63
Tổng cộng 41.275.335.518 50.389.170.653 65.046.740.575 9.113.835.135 22,08 146.575.699.22 29,09
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2006, 2007, 2008 – Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải)
67
2.2.4.2. Phân tích khả năng thanh toán:
Khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn là điều mà mọi doanh
nghiệp đều quan tâm tới. Đối với Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền
Hải thì càng cần phải quan tâm hơn do tỷ trọng các khoản nợ phải trả là rất
lớn trong các nguồn huy động. Khả năng trang trải các khoản vay, nợ ngắn
hạn quyết định rất lớn đến hoạt động của công ty.
Bảng 2.8. BẢNG CÁC TỶ SỐ PHẢN ÁNH KHẢ NĂNG THANH
TOÁN CỦA CÔNG TY
Đơn vị: VNĐ
Chỉ tiêu 2006 2007 2008
Tài sản ngắn hạn 33.289.190.652 41.037.819.476 55.687.757.426
Tiền và các khoản tương đương tiền 806.523.308 284.234.506 241.839.101
Hàng tồn kho 17.565.546.646 21.209.401.424 18.444.287.451
Nợ ngắn hạn 38.875.335.518 42.865.174.653 58.282.744.575
Khả năng thanh toán hiện hành 0,856 0.957 0,955
Khả năng thanh toán nhanh 0,404 0,463 0,639
Khả năng thanh toán tức thời 0,021 0,007 0,004
(Nguồn: BCĐKT các năm 2006, 2007, 2008 – Công ty cổ phần đầu tư và xây
dựng Tiền Hải)
Khả năng thanh toán hiện hành:
Khả năng thanh toán hiện hành của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng
Tiền Hải có xu hướng biến động tăng qua các năm. Năm 2006, chỉ tiêu này là
0,856 thì năm 2007 là 0,957 (tăng 11,8%). Đến năm 2008, chỉ tiêu này có
giảm xuống một ít so với năm 2007 còn 0,955 (giảm 0,2%) song so với năm
2006 thì vẫn tăng nhiều (tăng 11,58%). Nguyên nhân của sự tăng lên của chỉ
tiêu này là tốc độ tăng của tài sản ngắn hạn lớn hơn so với tốc độ tăng của nợ
ngắn hạn (23,28% và 35,70% so với 10,26% và 35,97%).
Mặc dù có sự tăng lên song nhìn chung khả năng thanh toán hiện hành
của công ty vẫn còn thấp, tài sản ngắn hạn vẫn chưa đủ để thanh toán cho nợ
68
ngắn hạn khi các khoản nợ này đến hạn phải trả. Công ty cần phải nâng cao
hơn nữa tỷ số này để tránh các rủi ro trong thanh toán.
Khả năng thanh toán nhanh:
Cũng giống như khả năng thanh toán hiện hành, khả năng thanh toán
nhanh của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải có xu hướng tăng
qua các năm. Cụ thể là 0,404 năm 2006, 0,463 năm 2007 (tăng 14,37%) và
năm 2008 là 0,639 (tăng 38,14%). Nguyên nhân của sự tăng lên này là hàng
tồn kho qua các năm có tăng nhưng không lớn. Nhưng điều đáng chú ý là do
tỷ trọng của hàng tồn kho trong tổng tài sản ngắn hạn lớn (2006: 52,77%,
2007: 51,68%, 2008: 33,12%) nên khi loại trừ khoản mục này để tính khả
năng thanh toán nhanh đã làm cho trị số của nó giảm đi rất nhiều so với khả
năng thanh toán hiện hành. Đây là một vấn đề mà công ty cần phải lưu ý trong
thời gian tới, phải điều chỉnh lại cơ cấu tài sản ngắn hạn để đảm bảo khả năng
thanh toán được tốt hơn.
Khả năng thanh toán tức thời:
Trái ngược với hai chỉ tiêu phân tích trên, khả năng thanh toán tức thời
của công ty quá thấp và lại có xu hướng giảm. Năm 2006, hệ số này là 0,021
thì sang đến năm 2007, nó đã tụt giảm một cách đột ngột xuống còn 0,007
(giảm 68,04%) và sang năm 2008, nó đã giảm xuống chỉ còn 0,004 (giảm
37,42% so với 2007 và giảm 80% so với 2006). Đây là điều đáng báo động
cho công ty về khả năng thanh toán. Điều này cho thấy khi các khoản nợ của
công ty đến hạn thanh toán mà hàng tồn kho và các khoản phải thu chưa thể
chuyển thành tiền được thì tiền và các khoản tương đương tiền trong công ty
không thể thanh toán được với khả năng thanh toán thấp như thế này.
Qua việc phân tích các tỷ số về khả năng thanh toán của công ty, chúng
ta có thể thấy rằng khả năng thanh toán của công ty là thấp và đi theo chiều
hướng không tốt, công ty đang gặp khó khăn trong việc thanh toán. Nếu vẫn
tiếp tục duy trì tình trạng này thì trong tương lai, nguy cơ không thanh toán
được của công ty sẽ là rất lớn nếu các khoản phải trả phải thanh toán cùng lúc,
69
điều này đồng nghĩa với việc nguy cơ phá sản của công ty là rất cao. Do đó,
công ty cần phải có chính sách nâng cao khả năng thu hồi các khoản phải thu,
đẩy nhanh tiêu thu hàng hóa tránh tình trạng ứ đọng vốn, đồng thời giảm tỷ
trọng hàng tồn kho ở mức hợp lý để thúc đầy quá trình thanh toán đúng hạn
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong hoạt động sản xuất - kinh doanh
cũng như cải thiện tình trạng các hệ số về khả năng thanh toán, đặc biệt là hệ
số thanh toán tức thời, ở mức cảnh báo.
2.2.5. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn.
Bảng 2.9. BẢNG CÁC TỶ SỐ PHẢN ÁNH HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
Đơn vị: VNĐ
Chỉ tiêu 2006 2007 2008
Doanh thu 10.321.540.807 14.617.373.836 25.277.939.570
Tổng tài sản bình quân 37.129.569.958 48.387.252.477 62.206.088.886
Tài sản cố định bình quân 7.840.745.028 11.216.747.414 13.836.300.436
Hàng tồn kho bình quân 14.654.384.089 19.387.474.035 19.826.844.438
Các khoản phải thu bình quân 10.454.818.381 15.293.905.142 25.989.747.530
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định 1.316 1.303 1.827
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản 0.278 0.302 0.406
Vòng quay hàng tồn kho (vòng) 0.704 0.754 1.275
Kỳ thu tiền bình quân (ngày) 364.6 376.7 370.1
(Nguồn: BCKQKD, BCĐKT các năm 2006, 2007, 2008 – Công ty cổ phần
đầu tư và xây dựng Tiền Hải)
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
Phân tích hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp công ty có quyết định đúng đắn
cho việc đầu tư và có những biện pháp khắc phục. Như vậy, qua bảng trên ta
thấy rằng 1 đồng tài sản cố định bình quân đem lại 1,316 đồng doanh thu năm
2006 thì đến năm 2007 chỉ còn 1,303 đồng, sự thay đổi này là không đáng kể.
Sang đến năm, cũng một đồng tài sản cố định bình quân đã đem lại 1,827
đồng doanh thu, chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản cố định của công ty được
tăng lên, song nhìn chung hiệu quả này vẫn còn thấp. Trong ba năm, tài sản cố
70
định của công ty đã tăng lên với tốc độ 42,09% (2007/2006) và 10,17%
(2008/2007), trong khi đó tốc độ tăng của hiệu quả sử dụng tài sản cố định chỉ
là -1% và 40,19%. Điều này chứng tỏ công ty chưa phát huy được hết những
lợi ích của việc đầu tư vào tài sản cố định mang lại. Do đó công ty cần phải
đẩy mạnh công tác đấu thầu, tiếp thị bán hàng để tăng doanh thu, từ đó tăng
hiệu quả sử dụng tài sản cố định của công ty.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay trung bình tổng tài sản. Từ tính
toán ở bảng trên ta thấy qua ba năm, chỉ tiêu này không ngừng tăng. Năm
2008 tăng 34,51% so với năm 2007 và tăng 46,18% so với năm 2006. Nguyên
nhân của sự tăng lên này là mặc dù quy mô tổng tài sản của công ty trong ba
năm có được đầu tư thêm nhưng tốc độ tăng của tổng tài sản bình quân lại chậm
hơn tốc độ tăng của doanh thu (30,32% và 28,56% so với 41,62% và 72,93%).
Tuy nhiên, cho dù có tăng lên nhưng hiệu suất sử dụng tổng tài sản của công ty
vẫn chỉ ở mức thấp. Một đồng tổng tài sản bình quân không mang lại nổi 0,5
đồng doanh thu trong khi một đồng tài sản cố định bình quân được đầu tư mang
lại cho công ty hơn 1,3 đồng doanh thu. Điều này cũng cho thấy được tài sản
trong công ty được đầu tư chủ yếu là tài sản ngắn hạn. Để hệ số này cao hơn nữa
phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản trong công ty, mang lại nhiều lợi nhuận hơn
nữa thì công ty cần phải có các biện pháp làm tăng doanh thu.
Vòng quay hàng tồn kho:
Qua bảng 10 ta thấy tốc độ luân chuyển hàng tồn kho tuy tăng lên qua
các năm : 2006 là 0,704 vòng, năm 2007 là 0,754 vòng (tăng 7,1%) và năm
2008 là 1,275 vòng (tăng 69,1) song giá trị của nó vẫn rất thấp. Nguyên nhân
của điều này là hàng tồn kho của công ty chiếm tỷ trọng quá lớn. Trong các
năm qua, công ty vẫn duy trì giá trị hàng tồn kho lớn và có xu hướng tăng, chủ
yếu là vật liệu xây dựng. Việc kinh doanh vật liệu xây dựng của công ty còn
gặp nhiều khó khăn do sự cạnh tranh của các doanh nghiệp khác. Việc tiêu thụ
chậm vật liệu xây dựng đã làm cho tỷ trọng hàng tồn kho lớn, từ đó làm cho
71
vòng quay hàng tồn kho thấp đi. Điều này chứng tỏ sự bất hợp lý và kém hiệu
quả trong hoạt động quản lý hàng tồn kho của công ty. Do đó, công ty cần
phải đưa ra các giải pháp xử lý kịp thời tình trạng trên.
Kỳ thu tiền bình quân:
Do Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải áp dụng chính sách
tín dụng thương mại nới lỏng để tăng sức cạnh tranh nhằm tăng doanh thu, vì
thế nên giá trị các khoản phải thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản và có
xu hướng tăng qua các năm. Đó chính là lý do làm cho kỳ thu tiền bình quân
của các khoản phải thu lớn một cách bất thường như vậy (hơn 1 năm). Mục
đích của chính sách này là làm tăng doanh thu, song cùng với sự tăng lên của
khoản phải thu thì doanh thu của công ty cũng tăng lên nhưng tốc độ tăng của
nó cũng chỉ xấp xỉ kém hơn tốc độ tăng của khoản phải thu. Vì thế, công ty
cần phải xem xét lại chính sách tín dụng thương mại của mình, xác định được
giới hạn cho hưởng tín dụng hợp lý để vừa tăng lợi nhuận cho công ty, vừa
hạn chế khoản vốn bị chiếm dụng.
2.2.6. Phân tích kết quả kinh doanh và khả năng sinh lời của công ty.
Việc phân tích này sẽ được thực hiện thông qua phân tích tích nhóm tỷ số
về khả năng sinh lời. Đây là nhóm chỉ tiêu tài chính được nhiều người quan tâm
nhất vì nó phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. trên cơ
sở phân tích kết quả kinh doanh và khả năng sinh lời, các nhà cho vay, các nhà
đầu tư sẽ đưa ra các quyết định cho vay và quyết định đầu tư của mình.
72
Bảng 2.10. BẢNG PHÂN TÍCH KHẢ NĂNG SINH LỜI
Đơn vị: VNĐ
Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2007/2006 2008/2007Số tuyệt đối % Số tuyệt đối %
Doanh thu 10.321.540.807 14.617.373.836 25.277.939.570 4.295.833.029 41,62 10.660.565.734 72,93
Tổng tài sản 42.562.627.110 54.211.877.844 70.200.299.928 11.649.250.734 27,37 15.988.422.084 29,49
Vốn chủ sở hữu 1.243.480.992 3.788.896.591 4.971.858.754 36.545.415.599 2938,96 -32.817.037.837 -86,84
Lợi nhuận sau thuế 300.751.449 186.009.197 365.079.317 -114.742.252 -38,15 179;070;120 96,2
Doanh lợi doanh thu (%) 2,91 1,27 1,44 -1,64 -56,33 0,17 13,50
Doanh lợi tài sản (ROA)(%) 0,71 0,34 0,52 -0,36 -51,44 0,18 51,57
Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE)(%) 24,19 4,91 7,34 -19,28 -79,70 2,43 49,57
(Nguồn: BCKQKD và BCĐKT các năm 2006, 2007, 2008 – Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải )
73
Doanh lợi doanh thu:
Năm 2008, mức doanh lợi doanh thu của công ty tăng hơn so với năm
2007 với mức tăng là 0,17%, tương đương tăng 13,5%. Tuy nhiên, trong cả ba
năm thì doanh lợi doanh thu của công ty có xu hướng giảm dần. Năm 2008/
2006 giảm với mức giảm là 1,47%, tương đương giảm 50,43%. Nguyên nhân
của nó là do từ năm 2006 đến năm 2008, doanh thu của công ty tăng nhanh
với tốc độ tăng lần lượt là 41,62% và 72,93% trong khi lợi nhuận của công ty
có sụt giảm trong năm 2007, tuy có tăng lên trong năm 2008 nhưng mức tăng
so với năm 2006 chỉ là 21,39%, chậm hơn nhiều so với sự gia tăng của
doanh thu. Điều này đã làm chỉ tiêu này có xu hướng giảm.
Mặc dù có sự sụt giảm như vậy nhưng doanh thu của công ty vẫn có xu
hướng tăng lên, chứng tỏ hoạt động của công ty vẫn đang dần được mở rộng.
Công ty chỉ cần có các biện pháp làm giảm chi phí là sẽ có thể dễ dàng nâng
mức giá trị của chỉ số này lên.
Doanh lợi tài sản (ROA):
Chỉ tiêu này có cùng xu hướng biến động như chỉ tiêu doanh lợi doanh
thu (giảm trong năm 2007 và tăng lên trong năm 2008 nhưng mức tăng vẫn
không bằng năm 2006). Điều này cũng được giải thích một cách tương tự. Từ
năm 2006 đến 2008, quy mô tổng tài sản của công ty không ngừng được mở
rộng với tốc độ xấp xỉ 30% trong khi lợi nhuận tạo ra xét chung cả quá trình là
có tăng nhưng tăng không nhiều, làm cho tỷ số này có xu hướng giảm xuống.
Đã vậy, giá trị của nó lại quá thấp chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn chưa cao,
công ty cần có các biện pháp nâng cao hơn nữa tỷ suất này.
Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE):
Bên cạnh việc đánh giá khả năng sinh lời bằng doanh lợi doanh thu và
doanh lợi tổng tài sản (ROA), người ta còn sử dụng chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ
sở hữu (ROE). Chỉ tiêu này phản ánh nếu bỏ 100 đồng vốn chủ sở hữu vào
sản xuất - kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
Theo bảng 2.10 cho thấy, xu hướng biến động của chỉ tiêu này không
khác với hai chỉ tiêu trên, song có sự khác biệt là giá trị của nó rất cao trong
năm 2006 nhưng giảm mạnh một cách bất thường trong hai năm tiếp theo.
74
Năm 2006, 100 đồng vốn chủ bỏ ra sẽ thu về được 24,19 đồng lợi nhuận sau
thuế, giá trị này là khá lớn đối với một doanh nghiệp Nhà nước mới cổ phần
hóa. Điều này chứng tỏ việc cổ phần hóa đối với công ty là một chính sách
đúng đắn của Nhà nước. Tuy nhiên, sang đến năm 2007, lợi nhuận của công ty
bị giảm sút nghiêm trọng. Nguyên nhân là do trong năm 2007, doanh thu
thuần mặc dù có tăng với tốc độ là 41,64% nhưng tốc độ tăng của giá vốn
hàng bán lại lớn hơn rất nhiều, từ 8.017,219 triệu đồng lên 12.999.824 triệu
đồng (tăng 62,15%), điều này dẫn đến lợi nhuận sau thuế giảm gần 40%. Mặt
khác, vốn đầu tư của chủ sở hữu trong năm 2007 lại được tăng lên gần gấp ba
lần năm 2006. Chính những nguyên nhân trên đã làm cho doanh lợi vốn chủ
sở hữu (ROE) của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải trong năm
2007 giảm sụt bất thường như thế.
Sang năm 2008, lợi nhuận sau thuế của công ty đã được cải thiện rất
nhiều do những nỗ lực của ban quản trị, nên dù vốn chủ sở hữu của công ty tiếp
tục tăng lên thì ROE của công ty vẫn tăng (tăng hơn 0,9 lần so với năm 2007).
Tuy nhiên sự tăng lên này vẫn không thể theo kịp năm 2006 và do đó, phân tích
trong cả ba năm thì ROE của công ty vẫn có xu hướng giảm. Điều này phản
ánh sự không hợp lý trong công tác quản trị tài chính của công ty. Khi ROE quá
thấp thì công ty cần phải có các biện pháp tăng doanh thu, giảm chi phí để tăng
lợi nhuận. Đồng thời phải xem xét hiệu quả của việc huy động thêm nguồn vốn
chủ sở hữu để quyết định xem có nên tiếp tục đầu tư hay không.
Qua các chỉ tiêu phân tích về hiệu quả hoạt động và khả năng sinh lời
của công ty ở trên, có thể thấy hiệu quả sử dụng vốn của công ty là chưa tốt.
Nguyên nhân là do sự biến động giá của các yếu tố đầu vào, sự cạnh tranh gay
gắt của các doanh nghiệp cùng kinh doanh trên địa bàn, sự thay đổi cơ chế
chính sách của Nhà nước và sự bất hợp lý trong chính sách huy động nguồn
của công ty. Tuy nhiên, các chỉ số trong năm 2008 có tăng hơn so với 2007
cho thấy công ty cũng đã đánh giá được tình hình của mình và đã có cố gắng
khắc phục những khó khăn, yếu kém tồn tại.
75
Chương 3: Giải pháp tài chính nâng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất – kinh doanh tại Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải.3.1. Định hướng phát triển của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền
Hải năm 2009.
Phương châm của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải là phải
đa dạng ngành nghề, lấy hai lĩnh vực chủ yếu là thi công xây dựng công
trình và sản xuất - kinh doanh vật liệu xây dựng. Ngoài ra còn phát triển, mở
rộng đầu tư và nâng cao chất lượng sản phẩm gạch ngói Tuynel các loại,
cung cấp cho thị trường nội tỉnh và ngoại tỉnh.
3.1.1. Mục tiêu cụ thể do công ty đề ra:
3.1.1.1. Hoàn thiện khâu tổ chức nguồn nhân lực:
Vì yếu tố con người là quan trọng nhất nên đây là mục tiêu hàng đầu
công ty đề ra. Công ty sẽ tiến hành thực hiện công tác quy hoạch lại cán bộ và
lực lượng sản xuất, đề ra kế hoạch cụ thể trong tuyển dụng và đào tạo nâng
cao trình độ nhằm phục vụ lâu dài cho công ty. Xây dựng chế độ đãi ngộ đối
với người lao động hợp lý nhằm khuyến khích tinh thần lao động của họ như:
người lao động được hưởng tiền lương, tiền thưởng và các khoản lợi ích khác
căn cứ trên khả năng hoàn thành công việc được giao, căn cứ vào mức độ
hoàn thành công việc cụ thể.
3.1.1.2. Xây dựng, bổ sung nguồn vốn sản xuất – kinh doanh.
Trước hết, phải bổ sung vốn thông qua hình thức tăng vốn điều lệ từ 2
tỷ đồng lên 3 tỷ đồng từ việc phát hành bổ sung thêm cổ phần phổ thông.
3.1.1.3. Giữ vững uy tín và xây dựng hệ thống khách hàng:
Duy trì khách hàng là đối tác truyền thống và tiếp tục phát triển hợp tác
liên doanh nghiệp, liên kết với các đơn vị bạn hàng, các công ty trên địa bàn
và ngoài địa bàn; tiếp nhận các nguồn thông tin về giá cả, công nghệ, hệ thống
cung cấp nguyên, nhiên liệu phục vụ cho sản xuất của công ty nhằm giảm chi
phí đầu vào, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao lợi nhuận cho công ty và mức
cổ tức cho các cổ đông...
76
Cụ thể. đổi mới công tác tiếp cận thị trường, khai thác đầu mối, chủ
động tìm hiểu và xây dựng cơ chế khuyến khích hấp dẫn để thu hút khách
hàng, các cá nhân và tập thể, tạo ra nhiều hợp đồng tiêu thu hơn nhằm mang
lại hiệu quả cho công ty.
Đồng thời, hoàn thiện phòng kinh doanh nghiệp, củng cố nhân lực và
xây dựng cơ chế khoán hợp lý để nâng cao khả năng tiếp thị khách hàng, phục
vụ khách hàng chu đáo cùng với việc nâng cao chất lượng sản phẩm là hình
ảnh trực tiếp quảng bá tốt nhất cho sản phẩm gạch Tuynel Tiền Hải.
3.1.1.4. Tăng cường tổ chức quản lý sản xuất - kinh doanh.
Chấn chỉnh tất cả các khâu quản lý về nhân lực, về nguyên
nhiên liệu vật tư và giá thành sản phẩm nhằm nâng cao năng suất lao động,
nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm thiểu chi phí bất hợp lý để có hiệu quả
sản xuất - kinh doanh ngày càng tốt hơn.
Xây dựng bổ sung các quy chế, quy định trong quản lý
kinh tế phù hợp, trọng thưởng người có công đóng góp sáng kiến, năng suất
hiệu quả và phạt với những người có sai phạm, thiếu gắn bó thiếu trách nhiệm
nhằm củng cố hoạt động sản xuất - kinh doanh ngày càng đi vào nề nếp.
Làm tốt công tác phổ biến cho người lao động thấy được
lợi ích của mỗi cá nhân phải gắn liền với lợi ích tập thể, gắn bó với công ty
tìm ra giải pháp tốt nhất đóng góp cho công ty ngày càng lớn mạnh.
3.1.1.5. Tập trung tối đa mọi nguồn lực:
Tập trung tối đa mọi nguồn nhân lực, vật lực, thực hành tiết kiệm chống
lãng phí, quan liêu, làm tốt công tác dân chủ trong điều hành sản xuất để nâng
cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh của công ty, nâng cao sản lượng và doanh
thu để mang lại việc làm, tiền lương và các chế độ người lao động nhằm thực
hiện tốt công tác nộp thuế cho Nhà nước, mức lợi tức cho cổ đông ngày càng
tốt hơn.
77
3.1.2. Chỉ tiêu phấn đấu năm 2009:
Bảng 3.1. BẢNG CÁC CHỈ TIÊU PHẤN ĐẤU TRONG NĂM 2009
STT Chỉ tiêu Đơn vị tính Kế hoạch
Mức tăng
trưởng dự
kiến so với
năm 2008
1 Tổng sản lượng Tỷ đồng 32,5 26,57%
2 Doanh thu Tỷ đồng 35 38,46%
3 Vốn điều lệ Tỷ đồng 3 37,61%
4 Tổng lợi nhuận trước thuế Triệu đồng 400 9,56%
5Các khoản phải nộp ngân sách (cả
phần thuế tồn đọng)Tỷ đồng 1,1 41,84%
6 Cổ tức bình quân năm % 13,5 3,85%
7 Lao động Người 300 0
8 Thu nhập bình quân người lao độngTriệu
đồng/tháng2 12,36%
9
Các chỉ tiêu khác:
- BHXH, BHYT Triệu đồng 650 23,34%
- Sản phẩm gạch Tuynel Viên 39.000.000 8,94%
- Sản phẩm gạch ngoại thất m2 30.000 391,80%
- Số công trình xây dựng Công trình 25 78,57%
Bước sang năm 2009, việc thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu theo
phương án sản xuất - kinh doanh đã được UBND tỉnh Thái Bình phê duyệt
ngày 04/05/2005 chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn do công ty đã và sẽ phải
đối mặt với những khó khăn, thách thức mới nảy sinh trong cơ chế thị trường;
sự cạnh tranh của các doanh nghiệp khác trong và ngoài địa bàn; sự biến động
của giá cả vật liệu, vật tư thiết yếu tăng như than, xăng, dầu, điện...; tiền lương
tối thiểu của người lao động tăng trong khi giá sản phẩm làm ra phục vụ thị
trường không những không tăng mà còn giảm để cạnh tranh; công nợ cũ của
công ty trước khi cổ phần hóa vẫn còn; trình độ tay nghề của người lao động
78
còn chưa được cao... Song với tinh thần quyết tâm, mục tiêu xây dựng đơn vị
mình ngày càng phát triển, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động và
đóng góp vào ngân sách Nhà nước, Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền
Hải sẽ cố gắng hết sức thực hiện các mục tiêu và phương hướng phát triển đã
đề ra như trên.
3.2. Giải pháp tài chính nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất – kinh
doanh tại Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải.
Căn cứ vào chủ trương và đường lối của Đảng và Nhà nước trong việc
cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước, xuất phát từ những lý luận và thực
tế phân tích tình hình tài chính, mục tiêu và định hướng phát triển tại Công ty
cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải, em xin nêu ra một số giải pháp tài chính
chủ yếu giúp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của công ty.
3.2.1. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ lao động:
Đội ngũ lao động là một yếu tố có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả sản xuất
- kinh doanh của một doanh nghiệp. Do đó, việc phát huy sức mạnh của đội
ngũ lao động, khơi dậy trong họ tiềm năng to lớn, tạo cho họ động lực để
phát huy được hết khả năng, mang lại hiệu quả cao trong công việc là việc
đầu tiên mà công ty nên làm. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh
doanh, công ty cần phải có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lao
động.
Đầu tiên, công ty cần tiến hành thực hiện công tác quy hoạch lại cán bộ
và lực lượng sản xuất, đề ra kế hoạch cụ thể trong tuyển dụng và đào tạo nâng
cao trình độ nhằm phục vụ lâu dài cho công ty như: nâng cao tiêu chuẩn tuyển
chọn lao động, đảm bảo chất lượng lao động tuyển thêm, khuyến khích người
lao động không ngừng học hỏi nâng cao kiến thức để đáp ứng các yêu cầu
kinh tế - kỹ thuật. Tiếp đó, công ty cần xây dựng chế độ đãi ngộ đối với người
lao động hợp lý nhằm khuyến khích tinh thần lao động của họ như phân phối
thù lao lao động và thu nhập cũng như tiền thưởng và các khoản lợi ích khác
đúng với khả năng và công sức của người lao động. Làm được như vậy sẽ tạo
79
ra động lực thúc đẩy người lao động tự nâng cao trình độ và năng lực để tiến
hành công việc có chất lượng và hiệu quả cao, góp phần tăng kết quả sản xuất
- kinh doanh của công ty.
3.2.2. Xác định chính sách tài trợ, xây dựng cơ cấu vốn hợp lý.
Xây dựng và thiết lập một cơ cấu tài chính tối ưu để đảm bảo cho mức
độ rủi ro tài chính cũng như khả năng bị phá sản của công ty là nhỏ chính là
giải pháp tài chính đầu tiên và quan trọng hàng đầu cho bất cứ công ty nào.
Với cơ cấu vốn đã phân tích ở chương II, chúng ta có thể thấy được sự
bất hợp lý trong chính sách tài trợ của công ty. Là một doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng nhưng tài sản ngắn hạn của công ty lại
lớn hơn rất nhiều so với tài sản dài hạn, trong đó khoản phải thu và hàng tồn
kho chiếm tỷ trọng lớn, vốn bị chiếm dụng và bị ứ đọng nhiều nên công ty
không có điều kiện đầu tư vào tài sản dài hạn. Giải pháp được đưa ra ở đây là
công ty cần phải cân đối lại trong chính sách tài trợ của mình để làm tăng hiệu
quả sử dụng vốn đầu tư. Tức là công ty phải nâng cao tỷ trọng tài sản dài hạn,
đặc biệt chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ, dây chuyền sản xuất. Để làm
được điều này, trong những năm tới công ty cần phải xây dựng được một cơ
cấu vốn hợp lý, cụ thể là tăng nguồn vốn trung và dài hạn, là những nguồn
đảm bảo chắc chắn nhất để tăng quy mô tài sản dài hạn.
Trong định hướng mới, công ty có thể áp dụng một số chính sách huy
động vốn trung và dài hạn như sau:
3.2.2.1. Huy động nguồn từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng:
Qua bảng cân đối kế toán các năm có thể thấy được công ty cũng đã rất
thành công trong việc huy động vốn ngắn hạn từ nguồn này, song tỷ trọng vay
dài hạn thấp hơn nhiều so với ngắn hạn. Vì vậy, công ty có thể cắt giảm vay
ngắn hạn để tăng tỷ trọng vay dài hạn, tạo nguồn cho đầu tư vào tài sản cố
định. Nhược điểm của việc vay dài hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng là
các hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm soát của ngân hàng tiêu chuẩn cho
vay cao gây khó khăn cho công ty khi muốn vay vốn; chi phí lãi vay lớn có
80
thể ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty. Tuy nhiên xét về mục tiêu
lâu dài đối với công ty lợi ích mà nó mang lại sẽ lớn hơn chi phí phải bỏ ra.
Trong thời gian tới, để huy động được nguồn tài trợ này nhằm đáp ứng
nhu cầu về vốn trung và dài hạn cho công ty, biện pháp quan trọng nhất là
phải tính toán được nhu cầu vốn cần thiết để từ đó lựa chọn, thiết lập các
phương án kinh doanh, phương án đầu tư có tính khả thi cao, đó là những đảm
bảo quan trọng để ngân hàng quyết định sẽ cho vay hay không.
3.2.2.2. Phát hành trái phiếu công ty:
Đây là một hình thức huy động nợ khá hiệu quả, giá trị vốn huy động
có thể rất lớn. Tuy nhiên nó đòi hỏi công ty phải có sự xem xét trước khi ra
quyết định. Cần phải đánh giá được uy tín của công ty mình đã đủ để tạo ra
sức hấp dẫn cho người mua hay chưa. Sau đó phải lựa chọn loại trái phiếu để
phát hành, mệnh giá, thời gian đáo hạn, lãi suất... làm thế nào để có thể huy
động được nhiều nhất với chi phí rẻ nhất. Kênh huy động vốn này cũng nên
được công ty quan tâm trong thời gian tới.
3.2.2.3. Lợi nhuận giữ lại:
Đây là nguồn vốn hình thành từ lợi nhuận của công ty sau mỗi kỳ kinh
doanh có lãi. Từ khi cổ phần hóa cho đến nay, công ty luôn kinh doanh có lãi
nên có thể áp dụng hình thức huy động này. Vốn được bổ sung từ nguồn này
có ý nghĩa rất lớn, nó tạo động lực cho công ty sản xuất - kinh doanh hiệu quả,
tăng doanh thu, giảm chi phí để có được lợi nhuận tối đa. Tuy nhiên, việc áp
dụng hình thức này sẽ có ảnh hưởng lớn tới các cổ đông. Nếu tăng lợi nhuận
giữ lại thì cổ tức của các cổ đông sẽ ít đi, nhưng bù lại, họ có quyền sở hữu số
vốn cổ phần tăng lên của công ty. Do đó, cần phải có sự đồng thuận của đại
hội đồng cổ đông.
3.2.3. Quản lý và sử dụng tài sản có hiệu quả.
Nguồn vốn huy động được của công ty được sử dụng để đầu tư vào tài
sản dưới hai hình thức là tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Vì vậy, để nâng
cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh, công ty cần phải có các biện pháp, chính
81
sách quản lý và sử dụng tài sản một cách có hiệu quả nhất, mang lại lợi ích
lớn nhất cho công ty.
3.2.3.1. Quản lý tài sản dài hạn:
Do tài sản cố định chiếm tỷ trọng gần hết tài sản dài hạn của công ty
nên đây thực chất chính là công tác quản lý tài sản cố định. Việc nâng cao
hiệu quả sử dụng của tài sản cố định cũng là góp phần nâng cao hiệu quả sản
xuất - kinh doanh của công ty. Để làm được điều này, công ty có thê áp dụng
các giải pháp sau: tăng cường công tác quản lý và bảo dưỡng số tài sản cố
định hiện có ở công ty; áp dụng hình thức công nhân tự quản gắn với lợi ích
và trách nhiệm của công nhân; thanh lý những tài sản không cần dùng, những
tài sản đã quá cũ kỹ, lạc hậu và đầu tư mua mới những máy móc thiết bị cần
thiết; áp dụng nhiều phương pháp tính khấu hao cho các loại tài sản khác nhau
sao cho mang lại hiệu quả lớn nhất...
3.2.3.2. Quản lý tài sản ngắn hạn:
Quản lý hàng tồn kho :
Đây là khoản mục chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản ngắn hạn
của công ty, do đó quản lý tài sản ngắn hạn đầu tiên là phải quản lý hàng tồn
kho. Công ty cần phải xây dựng hệ thống đánh giá tồn kho và mô hình xác
định nhu cầu dự trữ tồn kho khoa học, từ đó xác định được mức tồn kho tối ưu
trên cơ sở chi phí thấp nhất. Nếu hàng tồn kho quá lớn sẽ làm tăng chi phí bảo
quản, còn nếu quá ít thì sẽ ảnh hưởng đến tính liên tục của quá trình sản xuất.
Đồng thời, thiết lập hệ thống quản lý hàng tồn kho hiệu quả bằng cách lựa
chọn phương pháp hạch toán hàng tồn kho phù hợp với đặc điểm kinh doanh
và đặc điểm tài sản của mình. Làm được điều này sẽ đảm bảo cho các chỉ tiêu
như giá thành, giá trị hàng tồn kho cuối kỳ... của công ty được phản ánh một
cách sát thực nhất.
Quản lý khoản phải thu:
Giải pháp này sẽ được nói tới trong phần tiếp theo. Do tỷ trọng của
khoản mục này lớn và có xu hướng tăng nên quản lý các khoản phải thu có
82
hiệu quả sẽ góp phần làm tăng hiệu quả trong công tác quản lý tài sản nói
chung và quản lý tài sản ngắn hạn nói riêng.
3.2.4. Quản lý khoản phải thu và xây dựng các chính sách bán hàng, tín
dụng thương mại hợp lý.
Vốn là yếu tố quan trọng trong kinh doanh, sử dụng vốn có hiệu quả thì
kinh doanh mới có lãi, vốn bị chiếm dụng là một sự lãng phí của công ty. Như
trên chúng ta có thể thấy được khoản phải thu trong công ty là quá lớn và có xu
hướng tăng lên. Do đó, công ty cần phải có chính sách bán hàng và tín dụng
thương mại hợp lý để phần vốn bị chiếm dụng không quá lớn, ảnh hưởng đến
hiệu quả hoạt động cũng như làm tăng vòng quay của vốn, nhất là trong quản lý
các khoản phải thu khách hàng. Đây là khoản mục chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong tổng tài sản của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải.
Để làm được điều này, công ty cần phải có một đội ngũ làm công việc
phân tích thị trường, khai thác được những thông tin chính xác nhất về khách
hàng (nhất là về tiềm lực tài chính của khách hàng), để từ đó có những chính
sách tín dụng thương mại hoặc thu nợ hợp lý, có lợi cho cả đôi bên. Đồng thời
phải thường xuyên kiểm tra, tiến hành rà soát, phân loại các khoản thu đến
hạn, tới hạn và quá hạn, các khoản thu khó đòi, báo cáo công tác thu hồi nợ để
có những biện pháp xử lý kịp thời.
Công ty cũng cần phải gửi thư, điện thoại thường xuyên để đốc thúc
khách hàng thanh toán nợ cho công ty. Khuyến khích khách hàng trả nợ sớm
bằng các chính sách chiết khấu hợp lý.
Bên cạnh việc nâng cao khả năng thu hồi các khoản phải thu, công ty
còn phải xây dựng cho mình các chính sách bán hàng hợp lý nhằm tăng doanh
thu, giải tỏa hàng tồn kho, tạo uy tín về năng lực tài chính cho công ty. Một số
chính sách công ty có thể sử dụng là: sử dụng chính sách bán chịu, xây dựng
mức giá bán hợp lý, đẩy mạnh công tác chăm sóc khách hàng...
Điều quan trọng ở đây là công ty cần phải gắn liền một cách chặt chẽ
các chính sách tín dụng thương mại với chính sách thu hồi công nợ đã nêu
83
trên và các hình thức chiết khấu, giảm giá phù hợp, mềm dẻo, linh hoạt nhằm
giúp công ty vừa bán được nhiều hàng, đấu thầu xây dựng được nhiều công
trình nhưng cũng nhanh chóng thu hồi lại phần vốn bị chiếm dụng, đẩy mạnh
tốc độ luân chuyển vốn ngắn hạn.
3.2.5. Quản lý chi phí hợp lý nhằm giảm giá thành.
Chi phí cho hoạt động sản xuất - kinh doanh của công ty là các khoản
chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất - kinh doanh, liên quan đến giá
thành của sản phẩm. Quản lý chi phí hợp lý là giảm các chi phí một cách tối
thiểu, từ đó làm giảm giá thành, tăng lợi nhuận, nâng cao hiệu quả hoạt động
sản xuất - kinh doanh của công ty. Để làm được điều này, công ty cần phải tập
trung vào một số vấn đề sau:
3.2.5.1. Quản lý giá vật tư đầu vào và định mức tiêu hao vật tư:
Công ty cần phải quản lý chặt chẽ giá mua vật tư ở các khâu, theo dõi
các đầy đủ, thường xuyên các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến công tác thu
mua, vận chuyển, xuất nhập kho vật tư. Tiến hành đánh giá, xem xét, so sánh
giá mua cũng như chất lượng vật tư, nguyên liệu đầu vào giữa các đơn vị cung
ứng để lựa chọn nhà cung cấp có giá cả hợp lý và chất lượng phù hợp nhất.
Bên cạnh đó, công ty nên thường xuyên duy trì mối quan hệ với các bạn hàng
để được hưởng các chính sách đãi ngộ trong công tác mua bán vật tư.
Ngoài ra, khi đã có đầu vào ổn định, giá cả hợp lý rồi thì việc quản lý
định mức tiêu hao cũng cần được công ty chú trọng quan tâm. Công ty phải
xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các định mức kinh tế - kỹ thuật phù
hợp với đặc điểm của từng chủng loại sản phẩm, từng công trình thi công, phù
hợp với trình độ máy móc, trang thiết bị của công ty. Việc thực hiện các định
mức đó phải được kiểm tra, giám sát và cuối kỳ đánh giá lại các định mức đó
để từ đó không ngừng hoàn thiện hệ thống định mức tiêu hao vật tư trong
công ty.
84
3.2.5.2. Quản lý chặt chẽ tiền lương và các khoản có tính chất lương:
Tiền lương trong công ty phải đảm bảo phản ánh được giá cả của hàng
hóa sức lao động. Quản lý tiền lương là quản lý việc xây dựng các định mức lao
động và đơn giá tiền lương xem có hợp lý hay không, có phản ánh đúng công
sức người lao động bỏ ra hay không, đồng thời có mang lại hiệu quả hoạt động
sản xuất - kinh doanh của công ty hay không. Để làm được điều này, công ty
cần phải xây dựng chính sách tiền lương theo hướng tiền lương, tiền thưởng
của người lao động phải gắn với hiệu quả sản xuất - kinh doanh của công ty và
gắn với năng suất lao động và trách nhiệm vật chất của mỗi người. Có như thế
mới góp phần vừa quản lý tốt chi phí sản xuất, vừa tạo điều kiện khuyến khích
người lao động làm việc, nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh.
3.2.5.3. Quản lý các khoản chi phí bằng tiền khác:
Trong quá trình sản xuất - kinh doanh, công ty còn phát sinh nhiều
khoản chi phí bằng tiền khác ngoài chi phí vật tư và chi phí nhân công, đó là
các khoản chi phí cho việc quảng cáo, tiếp thị, khuyến mãi, chi phí tiếp
khách... Đối với các khoản chi phí này, công ty cần đưa ra các định mức chi
hợp lý và xem xét tính hợp lệ của các khoản chi, xem nó có gắn với hiệu quả
hoạt động sản xuất - kinh doanh của công ty mình hay không, để từ đó các bộ
phận có liên quan có trách nhiệm cân nhắc các khoản chi thích hợp.
Định kỳ, công ty nên tổ chức phân tích chi phí sản xuất, tính giá thành
sản phẩm nhằm phát hiện ra những khâu yếu kém trong quản lý chi phí, làm
tang chi phí để từ đó có các biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời.
3.2.6. Tổ chức tốt công tác kế toán quản trị trong công ty.
Kế toán quản trị trong doanh nghiệp là việc thu thập, xử lý, phân tích và
cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh
tế, tài chính trong nội bộ công ty. Thực tế từ trước đến nay cho thấy Công ty
cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải chỉ mới chú trọng vào công tác kế toán
tài chính mà chưa thực sự quan tâm nhiều tới kế toán quản trị. Chính điều này
đã làm hạn chế tới hiệu quả kinh doanh của công ty. Do đó, công ty cần quan
85
tâm đúng mức hơn nữa tới công tác này. Việc đầu tiên công ty cần làm là tổ
chức bộ máy kế toán quản trị một cách khoa học và có hiệu quả. Việc tổ chức
này phải phù hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất - kinh doanh của công ty
cũng như phù hợp với quy mô vốn, quy mô đầu tư và địa bàn hoạt động của
công ty. Bộ máy kế toán phải được tổ chức một cách gọn nhẹ, khoa học, hợp
lý và hiệu quả nhằm cung cấp những thông tin kịp thời cho bộ máy lãnh đạo
cũng như tham mưu trong những quyết định có liên quan đến mọi hoạt động
sản xuất - kinh doanh của công ty.
3.2.7. Xây dựng chính sách lương, thưởng công bằng và hợp lý.
Công ty cần phải xây dựng chính sách lương, thưởng công bằng và hợp
lý hơn nữa để khuyến khích, tạo điều kiện phát huy đầy đủ tình thần làm việc
hăng say và năng lực sáng tạo của người lao động trong công ty. Để làm được
điều này, công ty cần phải thực hiện xây dựng mức lương, thưởng cho từng vị
trí công việc phù hợp với mức độ đóng góp của lao động ở vị trí đó. Lương
thưởng phải có ý nghĩa động viên khuyến khích người lao động, được quy
định cụ thể gắn với kết quả sản xuất - kinh doanh của công ty và năng suất lao
động của mỗi người. Thường xuyên đánh giá, xem xét năng lực của từng cá
nhân, từng bộ phận, phòng ban làm căn cứ xác định lương thưởng và các mức
đãi ngộ cho người lao động.
3.3. Một số kiến nghị nhằm thực hiện các giải pháp trên.
3.3.1. Đối với Nhà nước.
Nhà nước phải không ngừng hoàn thiện hệ
thống pháp luật
Trong đó luật kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng. Đồng thời, hoàn thiện
cơ chế, chính sách quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp. Một hệ thống
quy phạm pháp luật đầy đủ, chính xác, phù hợp sẽ tạo ra môi trường kinh
doanh tốt, an toàn, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, thúc đẩy hiệu quả hoạt
động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp.
86
Xây dựng và phát triển thị trường tài chính,
thị trường chứng khoán:
Các thị trường này đóng vai trò là kênh thu hút và dẫn vốn quan trọng
cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty cổ phần. Nhà nước cần phải bổ
sung, sửa đổi và hoàn thiện hơn nữa các văn bản pháp quy có liên quan đến
hoạt động của thị trường tài chính, thị trường chứng khoán. Có như vậy, các
công ty cổ phần mới đa dạng hóa được các kênh huy động vốn nhằm cung cấp
đủ vốn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh của mình như phát hành cổ phiếu,
phát hành trái phiếu, góp vốn liên doanh...
Nhà nước cần phải thiết lập quan hệ sở hữu
về vốn giữa Nhà nước và các công ty có vốn đầu tư của Nhà nước.
Một tình trạng thấy được hiện nay là nhiều công ty cổ phần hóa từ
doanh nghiệp Nhà nước cho đến nay, vốn của Nhà nước vẫn chiếm một phần
lớn. Khi đó, Nhà nước là người sở hữu về vốn và công ty chỉ có quyền sử
dụng số vốn đó theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển. Tuy nhiên, Nhà nước
lại can thiệp quá sâu vào cả quá trình quản lý, điều hành tại công ty bằng các
quy định, văn bản. Điều này làm hạn chế tính chất chủ động, sáng tạo của
công ty, từ đó hạn chế hiệu quả kinh doanh. Do đó, Nhà nước cần phải xem
vốn và tài sản của mình là vốn đầu tư vào công ty cổ phần, quản lý và hưởng
quyền lợi với tư cách là cổ đông, không nên can thiệp trực tiếp, can thiệp quá
sâu vào quá trình quản lý. Thực tế tại công ty cổ phần đầu tư và xây dựng
Tiền Hải cho thấy từ một doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa, hiện nay vốn
cổ phần Nhà nước trong công ty chỉ còn 0%. Công ty gần như là hạch toán
kinh doanh một cách độc lập.
3.3.2. Đối với Bộ Tài chính.
Bộ tài chính cần có sự ổn định tương đối trong việc ban hành các chính
sách, chế độ về quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh, tạo điều kiện thuận
lợi và khuyến khích các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất - kinh doanh,
góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng cường sức mạnh tài chính cho
87
các doanh nghiệp. Để làm được điều này, Bộ tài chính cần phải có các quy
định bắt buộc các doanh nghiệp phải lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ nhằm
cung cấp thông tin về luồng tiền ra – vào doanh nghiệp trong kỳ, phản ánh
trạng thái động của doanh nghiệp để có thể sớm bổ sung cho các báo cáo khác
như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh... Thực tế ở Công ty cổ
phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải cho thấy công ty không lập báo cáo lưu
chuyển tiền tệ sau mỗi kỳ kinh doanh, điều này gây cản trở cho việc thu thập
thông tin của những đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính công ty.
Mặt khác, Bộ tài chính nên có quy định trong việc các doanh nghiệp
được phép sử dụng linh hoạt nhiều phương pháp khấu hao phù hợp với đặc
điểm, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài ra, Bộ cũng cần tiến tới việc yêu cầu tất cả các doanh nghiệp phải
thực hiện công tác phân tích tài chính doanh nghiệp mình để tự đánh giá hiệu
quả hoạt động đạt được, từ đó có những định hướng phù hợp, tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp phát triển.
88
KẾT LUẬNTrong thời gian thực tập tại Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền
Hải, được cọ xát với thực tế công việc chuyên môn và tình hình hoạt động tài
chính trong công ty, em đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác phân
tích tài chính trong các doanh nghiệp, đặc biệt là trong các công ty cổ phần.
Sau thời gian ngắn thực tập vừa qua, với vốn kiến thức đã được tiếp thu tại
nhà trường cùng sự hưỡng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tận tình của thầy giáo – Th.S
Lê Trung Thành – Khoa Ngân hàng – tài chính, trường Đại học Kinh tế quốc
dân và các cô chú phòng kế toán – Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền
Hải – tỉnh Thái Bình, em đã hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp với đề
tài “Phân tích tài chính Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải”.
Có thể thấy, trong những năm qua, đặc biệt là những năm sau cổ phần
hóa, Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải đã đạt được nhiều thành
tích như sản phẩm của công ty không ngừng được cải tiến và đa dang, đáp
ứng được yêu cầu của thị trường; Sản lượng, doanh thu tiêu thụ, lợi nhuận có
xu hướng ngày càng tăng; đấu thầu được nhiều công trình xây dựng với tổng
đầu tư lớn... Song bên cạnh những thành công đạt được đó, công ty vẫn còn
nhiều tồn tại bất cập cần phải khắc phục như cơ cấu vốn mất cân đối, hiệu quả
sử dụng vốn chưa tương xứng với lượng vốn bỏ ra, ứ đọng vốn lớn trong các
khoản phải thu, khả năng thanh toán còn ở mức thấp... Tất cả những điều này
làm cho tốc độ phát triển của công ty chưa được cao. Do đó, phân tích tài
chính để làm rõ những mặt tích cực đã đạt được và những yếu kém còn tồn tại
là điều thực sự cần thiết không chỉ đối với quản trị công ty mà còn đối với tất
cả các đối tượng có mối quan hệ trực tiếp cũng như gián tiếp với công ty.
89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Giáo trình tài chính doanh nghiệp – PGS.TS Lưu Thị Hương (chủ
biên) – Trường ĐH KTQD – NXB Thống kê – Hà Nội 2003.
2. Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ – TS Nguyễn Hữu Tài (chủ biên)
– Trường ĐH KTQD – NXB Thống kê – Hà Nội 2002.
3. Phân tích tài chính trong các công ty cổ phần – PGS.TS Nguyễn
Năng Phúc (chủ biên) – Trường ĐH KTQD – Hà Nội 2006.
4. Phân tích tài chính doanh nghiệp – Josetts Pevard – Đỗ Văn Thuận
dịch – NXB Thống kê - 1997.
5. Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh – PGS.TS Phạm Thị Gái –
Trường ĐH KTQD – NXB Giáo dục – 1997.
6. Hoạt động tài chính trong nền kinh tế thị trường – Ngô Thị Cúc, Ngô
Phúc Thành, Phạm Trọng Lễ – Trung tâm Pháp Việt đào tạo về quản lý
– NXB Thống kê – Hà Nội 1998.
7. Phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp – PTS Nguyễn
Năng Phúc – Trường ĐH KTQD – NXB Thống kê – 1998.
8. Kế toán, kiểm toán và phân tích tài chính doanh nghiệp – PTS Ngô
Thế Chi, PTS Đoàn Xuân Tiên, PTS Vương Đình Huệ – NXB Tài
chính – Hà Nội 1995.
9. Chuyên khảo về Báo cáo tài chính và lập, đọc, kiểm tra, phân tích
Báo cáo tài chính – PGS.TS Nguyễn Văn Công – NXB Tài chính – Hà
Nội 2005.
10. Tạp chí tài chính doanh nghiệp.
Tạp chí kinh tế phát triển.
90
MỤC LỤCPHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................2
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính trong công ty cổ
phần..................................................................................................................4
1.1. Những vấn đề lý luận hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần.. .4
1.1.1. Khái niệm và những đặc điểm cơ bản của công ty cổ phần............4
1.1.1.1. Khái niệm về công ty cổ phần:.................................................4
1.1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của công ty cổ phần:..........................4
1.1.2. Những lợi thế và những hạn chế của công ty cổ phần....................7
1.1.2.1. Lợi thế:.....................................................................................7
1.1.2.2. Hạn chế:....................................................................................8
1.1.3. Nội dung của hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần.........8
1.1.3.1. Hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần........................8
1.1.3.2. Nguyên tắc của hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần.
...............................................................................................................9
1.1.3.3. Mục tiêu của hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần. 10
1.1.3.4. Nội dung cơ bản hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần
trong nền kinh tế thị trường.................................................................12
1.2. Phân tích tài chính trong công ty cổ phần............................................14
1.2.1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp................................14
1.2.2. Vai trò và mục tiêu của phân tích tài chính trong các công ty cổ
phần.........................................................................................................14
1.2.2.1.Vai trò của phân tích tài chính trong hệ thống quản lý của các
công ty cổ phần....................................................................................14
1.2.2.2. Mục tiêu chủ yếu của phân tích tài chính trong các công ty cổ
phần.....................................................................................................18
1.2.3. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp...........20
1.2.3.1. Thông tin của bản thân công ty cổ phần:................................20
91
1.2.3.2. Thông tin ngoài doanh nghiệp................................................20
1.2.4. Các phương pháp phân tích tài chính trong các công ty cổ phần..22
1.2.4.1. Phương pháp so sánh..............................................................23
1.2.4.2. Phương pháp phân tích tỷ số .................................................26
1.2.4.3.Phương pháp loại trừ...............................................................28
1.2.4.4. Phương pháp liên hệ...............................................................30
1.2.5. Nội dung phân tích tình hình tài chính trong các công ty cổ phần.
.................................................................................................................31
1.2.5.1. Phân tích tình hình biến động về quy mô, cơ cấu tài sản và
nguồn vốn............................................................................................31
1.2.5.2. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho sản xuất - kinh
doanh của doanh nghiệp......................................................................32
1.2.5.3. Phân tích tình hình đầu tư của doanh nghiệp.........................33
1.2.5.4. Phân tích tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp:
.............................................................................................................35
1.2.5.5. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn..............................................38
1.2.5.6. Phân tích kết quả kinh doanh và khả năng sinh lời của doanh
nghiệp..................................................................................................39
1.2.5.7. Các chỉ tiêu phân tích khác:...................................................41
1.2.6. Những nhân tố ảnh hưởng đến phân tích tài chính........................42
1.2.6.1. Nhân tố chủ quan....................................................................42
1.2.6.2. Nhân tố khách quan................................................................43
Chương 2: Phân tích tài chính Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền
Hải...................................................................................................................45
2.1. Khái quát về Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải...............45
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty cổ phần đầu tư và
xây dựng Tiền Hải...................................................................................45
2.1.2. Đặc điểm và nhiệm vụ của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng
Tiền Hải...................................................................................................47
92
2.1.3. Cơ cấu tổ chức và điều hành của Công ty cổ phần đầu tư và xây
dựng Tiền Hải..........................................................................................47
2.1.3.1. Mô hình tổ chức bộ máy quản lý:...........................................47
2.1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban trong Công ty cổ
phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải......................................................49
2.1.3.3. Số lượng và chất lượng lao động:...........................................51
2.2. Phân tích tài chính Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải......54
2.2.1. Phân tích tình hình biến động về quy mô, cơ cấu tài sản và nguồn
vốn...........................................................................................................54
2.2.1.1. Phân tích tình hình biến động về quy mô và cơ cấu tài sản:. .54
2.2.1.2. Phân tích tình hình biến động về quy mô và cơ cấu nguồn vốn:
.............................................................................................................56
2.2.2. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho sản xuất - kinh doanh
của doanh nghiệp.....................................................................................62
2.2.3. Phân tích tình hình đầu tư của công ty..........................................64
2.2.4. Phân tích tình hình và khả năng thanh toán của công ty...............65
2.2.4.1. Phân tích tình hình thanh toán:...............................................65
2.2.4.2. Phân tích khả năng thanh toán:...............................................67
2.2.5. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn.....................................................69
2.2.6. Phân tích kết quả kinh doanh và khả năng sinh lời của công ty....71
Chương 3: Giải pháp tài chính nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất – kinh
doanh tại Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải................................75
3.1. Định hướng phát triển của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền
Hải năm 2009..............................................................................................75
3.1.1. Mục tiêu cụ thể do công ty đề ra:.................................................75
3.1.1.1. Hoàn thiện khâu tổ chức nguồn nhân lực:..............................75
3.1.1.2. Xây dựng, bổ sung nguồn vốn sản xuất – kinh doanh............75
3.1.1.3. Giữ vững uy tín và xây dựng hệ thống khách hàng:..............75
3.1.1.4. Tăng cường tổ chức quản lý sản xuất - kinh doanh................76
93
3.1.1.5. Tập trung tối đa mọi nguồn lực:.............................................76
3.1.2. Chỉ tiêu phấn đấu năm 2009:.........................................................77
3.2. Giải pháp tài chính nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất – kinh doanh
tại Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải.......................................78
3.2.1. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ lao động:...........................................78
3.2.2. Xác định chính sách tài trợ, xây dựng cơ cấu vốn hợp lý.............79
3.2.2.1. Huy động nguồn từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng:........79
3.2.2.2. Phát hành trái phiếu công ty:..................................................80
3.2.2.3. Lợi nhuận giữ lại:...................................................................80
3.2.3. Quản lý và sử dụng tài sản có hiệu quả.........................................80
3.2.3.1. Quản lý tài sản dài hạn:..........................................................81
3.2.3.2. Quản lý tài sản ngắn hạn:.......................................................81
3.2.4. Quản lý khoản phải thu và xây dựng các chính sách bán hàng, tín
dụng thương mại hợp lý..........................................................................82
3.2.5. Quản lý chi phí hợp lý nhằm giảm giá thành................................83
3.2.5.1. Quản lý giá vật tư đầu vào và định mức tiêu hao vật tư:........83
3.2.5.2. Quản lý chặt chẽ tiền lương và các khoản có tính chất lương:
.............................................................................................................84
3.2.5.3. Quản lý các khoản chi phí bằng tiền khác:.............................84
3.2.6. Tổ chức tốt công tác kế toán quản trị trong công ty......................84
3.2.7. Xây dựng chính sách lương, thưởng công bằng và hợp lý............85
3.3. Một số kiến nghị nhằm thực hiện các giải pháp trên............................85
3.3.1. Đối với Nhà nước..........................................................................85
3.3.2. Đối với Bộ Tài chính.....................................................................86
KẾT LUẬN....................................................................................................88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................90
94
Recommended