View
0
Download
0
Category
Preview:
Citation preview
…MỘT THỜI ĐỂ NHỚ
.
MẠC ĐĨNH CHI
Giai
phẩm
Xuân
Tân
Mão
2011
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 3
Hội Ái Hữu Trung Học
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi Reunion đƣợc thành lập
vào ngày 5 tháng 4 năm 2001 với 3 hội viên,
và đƣợc đổi tên là Hội Ái Hữu Trung Học
Mạc Đĩnh Chi (HAHTHMDC)
vào ngày 01 tháng 9 năm 2002. Hiện
nay HAHTHMDC đã có trên 174 hội
viên cƣ ngụ tại các quốc gia : Mỹ, Gia Nã
Đại, Pháp, Đức, Úc Đại Lợi và Việt Nam.
Chủ Trương
Hội Ái Hữu Trung Học Mạc Đĩnh Chi
đƣợc thành lập nhằm giúp các cựu học sinh
trƣờng Trung Học Mạc Đĩnh Chi có phƣơng
tiện liên-lạc, kết chặt tình thân hữu, tƣơng
thân tƣơng trợ lẩn nhau. Để cho tình bạn
luôn tƣơi sáng, HAHTHMDC chủ
trƣơng KHÔNG sinh-hoạt chính trị (trong
phạm vi hoạt động), do đó Ban Chấp Hành
mong rằng các bạn tôn trọng chủ trƣơng nầy
khi gia nhập HAHTHMDC.
HAHTHMDC dùng website với tên
Mạng (domain name)
macdinhchireunion.net để phát triển chủ
trƣơng của Hội và thông tin với các hội
viên. Website nầy đƣợc tổ chức nhƣ một tạp
chí văn nghệ và hy vọng sẽ góp phần vào
việc bảo tồn văn hoá Việt Nam.
Mai vàng Ảnh Vy Trƣơng
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 4
Tổ Chức
Ban Cố Vấn Giáo Sư
Thầy Lý Di
(Hiệu Trƣởng). dily92649@yahoo.com
Thầy Nguyễn Vũ
Hải (Toán). hallisa@juno.com
Thầy Phạm Quân
Hồng (Việt Văn). phamquanhong@hotmail.com
Thầy Nguyễn Hữu
Điện. dptk@yahoo.com
Thầy Nguyễn Trí
Thành thanhd7626@aol.com
Ban Chấp Hành
Liêu Hoàn Vũ,
Hội Trƣởng vulieu@yahoo.com
Phan Ngọc Thành,
Phó Chủ Tịch phanngocthanh@aol.com
Quách Xuân Sơn,
Phó Chủ Tịch sonquach@sbcglobal.net
Web Masters
Liêu Hoàn Vũ,
Trƣởng Ban vulieu@yahoo.com
Kim Minh,
Phó Trƣởng Ban nh_10@hotmail.com
Trần Văn Giang vgtran2002@yahoo.com
Quách Xuân Sơn sonquach@sbcglobal.net
Ban Nội Vụ
Cao Bích Hạnh,
Trƣởng Ban bhanh888@yahoo.com
Ngô Mỹ Kiều,
Phó Trƣởng Ban kngo7841@yahoo.com
Ngọc Nữ,
Thủ Quỹ - Quỹ Điều
Hành
ngoc_nu2000@yahoo.com
Ban Ngoại Vụ
Nguyễn Kim Thoa,
Trƣởng Ban ktcuto@yahoo.com
Lƣ Khải Minh
Phó Trƣởng Ban minhlu@yahoo.com
Ban Báo Chí
Trần Văn Giang,
Trƣởng Ban vgtran2002@yahoo.com
Nguyễn Hoàn Khải
Phó Trƣởng Ban khai95132@yahoo.com
Xã Hội
Tăng Ngọc Hồng
Trƣởng Ban, Thủ
Quỹ - Quỹ Tƣơng
Trợ
ngochongtang@yahoo.com
Đặng Huệ Hoa,
Phó Trƣởng Ban DangHueHoa@namcali.com
Văn Nghệ
Bùi Anh Tuấn,
Trƣởng Ban minhtuan_1@yahoo.com
Lâm Vĩnh Hiên,
Phó Trƣởng Ban
Ảnh: Vy Truong
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 5
Mục Lục Trang
Lời tựa …….………………….………….. 6
Mạc Đĩnh Chi là ai? (TVGiang)....………. 7
Con Mèo của tôi (TVGiang)...……..…… 16
Giới thiệu sách (TVGiang)……………... 21
Đại học cộng đồng (GS Lý Di)……….… 22
Trang Thơ (Nhƣợc Thu) …..…………… 27
Khoa học và Thất nghiệp (NVPhƣớc )..... 28
Trang Thơ (LHVũ)….…….…………….. 32
Ngây Thơ (NTTiên)……………..……… 33
Giao Thừa… (LKChung)………….……. 33
Chúc Thầy Cô… (NKMinh)...….………. 34
Tết nhất…Rõ khổ (VMHùng) ....………..34
Chờ Xuân (NĐCƣờng)…………….…… 37
Khí công, Vũ khí (NVPhƣớc)…..………. 38
Hồi ký Trƣờng Mạc Đĩnh Chi (LKMinh). 39
Trang Thơ (NTKMinh)…………………. 41
Trang Thơ (VQuang)….……….. ...….… 43
Giấc Mơ… (NHKhải)…...................…… 44
Nhạc Lời Nào Cho Em (MTuấn)….….… 46
Giới thiệu CD tập thơ Đợi Chờ (MT)…... 48
Phú Xuân Cảm (NVPhƣớc)……..…….... 49
Câu Đối (GS PQHồng)……………….. 51
Thay lá Ảnh: Vy Trƣơng
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 6
Lời tựa C‟est la vie! Cuộc đời có nhiều thay đổi và khủng
hoảng; Thay đổi đến với đủ kích thƣớc: lớn, bé, vừa
vừa; đủ chiều hƣớng: lên, xuống, tàn tàn… Chẳng
hạn nhƣ những thành công hay thất bại của nghề
nghiệp; thay đổi trồi sụt tiêu trƣởng của sức khỏe,
hôn nhân, tài chánh, gia đạo, liên hệ tình cảm xa
gần… Các thay đổi quan trọng thƣờng liên quan
đến một khoảng thời gian và không gian đặc biệt
nào đó. Rồi sau đó những chi tiết thay đổi của cuộc
đời in vào trong tâm trí thành những vết đậm gọi là
ký ức, kỷ niệm. Không có gì vô hình mà lại sống
mạnh, sống dai trong tâm hồn chúng ta bằng kỷ
niệm; nhất là những kỷ niệm mà chúng ta gọi là
đáng nhớ, những kỷ niệm có một chút gì đó để
nhớ…
Biết rồi, khổ lắm… Bây giờ là lúc năm mới tết
đến….
Năm mới tết đến là cái mốc thời gian rất đặc biệt
của chung mọi ngƣời. Đây phải nói là lúc “giây
phút chạnh lòng;” Thời điểm của một năm, lúc
chúng ta hay có thói quen ngồi suy gẫm lại những
sự việc xẩy đến cho bản thân trong ngày tháng qua
rồi sẽ sắp đặt, sẽ dự tính cho tƣơng lai. Trong
khuôn khổ hẹp độ 100 trang giấy lẻ của giai phẩm
này, chúng ta cùng nhau ghi lại những chuyện cũ
trong sân trƣờng, những chuyện tốt xấu trong tầm
tay còn đáng nhớ và, nếu có thể, nói lên các mơ ƣớc
cũng không quá viển vông (cố tránh các vấn đề
trọng đại nhƣ “tìm đƣờng cứu nƣớc,” “xóa đói giảm
nghèo,” “hâm nóng toàn cầu,” “kinh tế triệt
thoái…,” mặc dù đã biết là đã gọi là “mơ ƣớc” thì
cứ “mơ” thả giàn cho đã đời… đâu có mất cái gì
đâu mà phải lo – cùng lắm thì chỉ tốn thêm giấy
thêm mực! Nhƣng mà, Ban báo chí xin nhắc tuồng
miễn phí là có vô số ngƣời bên ngoài đời đã dành
lấy phần để làm và đang làm mấy việc đại sự này
rồi; còn lâu lắm mới đến lƣợt mình!?)
Ở cái tuổi 4, 5, 6. 7… bó, thời gian đi qua nhanh
thấy phát sợ! Quay qua quay lại mà thoắng một cái
10-15 năm vụt qua nhƣ gió thoảng. Hiển nhiên,
chúng ta hoàn toàn bất lực, không có khả năng vặn
lại cái đồng hồ thời gian của cuộc đời… Thôi tạm
thời trong khi chờ đợi (trúng số?!) chúng ta cứ phải
tiến lên, có sao xài vậy, cố gắng làm giai phẩm nhỏ
bé này để cùng nhau có dịp đọc lại những kỷ niệm,
xem lại những hình ảnh ngƣời thân yêu và ngƣời
“thấy mà ghét” cũ; để rồi mơ mộng về những cái
“giá mà,” “phải chi hồi đó tui…” cho đỡ nản cái
thực tế hiện tại lúc nào cũng hơi châm!
Ờ nhỉ! Tất cả sẽ chỉ còn là chút gì để nhớ. Dầu gì
đi nữa cứ vui vẻ cùng nhau nhìn thử về phía trƣớc.
Chỉ còn có hơn 300 ngày nữa là năm mới lại đến…
Năm mới cứ tới đều đều.. Xuân vô tận. Sƣớng
thiệt!
Trong trƣờng hợp nếu chúng ta nặn óc mãi mà
không thể tài nào nhớ ra một cái (kỷ niệm) gì có
thể gọi là đáng nhớ với sân trƣờng Mạc Đĩnh Chi
để đóng góp vào giai phẩm này thì cũng chẳng có
gì phải bận tâm! Bởi vì chúng ta có thể dùng ngay
giai phẩm “Xuân Mạc Đĩnh Chi. Một thời để nhớ”
miễn phí này làm cái kỷ niệm đầu tiên thật là tiện
lợi!
Friedrich Nietzsche, một Triết gia ngƣời Đức nổi
tiếng của thế kỷ 19, đã nói là:
“The advantages of bad memory is that one enjoys
several time the same good things for the first
time.”
Lời ngắn tình sâu
Ngôn ý bất tận…!
Sau cùng, Ban báo chí xin có lời thành thật cảm ơn
quý Thầy Cô, các bạn đã gởi bài vở cũng nhƣ đã
đóng góp các ý kiến quý báu để tờ giai phẩm này
có cơ hội thành hình và đến tay quý Thầy Cô cùng
các bạn ngày hôm nay. Bởi vì khuôn khổ tờ báo
có giới hạn, Ban báo chí không thể đăng hết các
bài đã nhận đƣợc… xin thứ lỗi và hẹn lại cho số
sắp tới.
Cũng xin lưu ý: Vì v/đ giới hạn nhân sự và thời
gian eo hẹp của Ban báo chí, Thầy Cô và các bạn
sẽ thấy thứ tự của bài vở được xếp trên bản in đi
theo thứ tự ngày mà bài vở tới tay Ban Báo Chí.
Ban Báo Chí
Hội Cựu Học Sinh Trường Trung Học
Mạc Đĩnh Chi Sài gòn
Xuân Tân Mão 2011
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 7
M ẠC Đ ĨNH CHI là ai?
Lời giới thiệu:
(Mạc Đĩnh Chi 1280-1350 ?)
Nếu một học sinh trường trung học Mạc Đĩnh Chi (
người viết bài này chẳng hạn) hỏi “Mạc Đĩnh Chi
là ai?” thì nghe cũng hơi lạ! Tương tự như khi
nghe con cái hỏi cha mẹ mình là ai! Mặc dầu
chúng ta cũng đã biết “ít nhiều” về nhân vật Mạc
Đĩnh Chi, nhưng theo thiển ý, qua bài biên khảo
nhỏ này, tôi cố gắng trình bày thêm một số dữ kiện
lịch sử; để quí vị có thể tùy ý dùng làm tài liệu tham
khảo. Riêng đối với các cựu học sinh trung học
Mạc Đĩnh Chi, tài liệu này may ra giúpcho câu trả
lời khi có người hỏi mình về tên trường trung học
“Mạc Đĩnh Chi (?)”
Mạc Ðĩnh Chi (莫挺之) sinh năm 1280 (?), tự Tiết
Phu (節夫), nguyên ngƣời châu Giang Nam (江南),
huyện Bình Hà (平河), sau dời về tỉnh Hải Dƣơng
(海陽), huyện Nam Sách (南策), xã Nam Tân
(南新), làng Lũng Động (隴洞). Ông đỗ Trạng
nguyên khóa Giáp Thìn (甲辰 - 1304), năm Hƣng
Long thứ hai mƣơi hai, đời Trần Anh Tông
(陳瑛宗). Khi vào chầu, vua thấy ngƣời ông nhỏ bé,
lại xấu xí, nên không vui. Vua có ý không muốn
dùng Mạc Đĩnh Chi vào việc lớn; chỉ cử ông giữ
việc coi sóc thƣ khố của nhà vua.. Ông mới dâng
bài “Ngọc Tỉnh Liên Phú (1)” (玉” 井 蓮 賦), viết
theo lối vấn đáp, lấy ý từ bài thơ “Cổ Ý” (古意) của
Hàn Dũ (韓愈) đời Đƣờng (唐), và bài “Ái Liên
Thuyết” (愛蓮說) của Chu Đôn Di (周敦頤) đời Tống
(宋), ngụ ý ví mình nhƣ “loài hoa sen hiếm quí
trong giếng ngọc.” Vua xem khen hay và trọng
dụng. Mạc Đĩnh Chi sau này đƣợc vua thăng đến
chức Tả Bộc Xạ (Thƣơng thƣ).
Vua Trần Anh Tông (陳瑛宗) không những kính
nể, mà còn tin cậy ông trong chức vụ sứ thần của
Việt Nam đi sứ nhà Nguyên bên Trung Hoa.
Mạc Đĩnh Chi là một văn thần xuất sắc; và hơn thế
nữa, là một nhà ngoại giao tài ba qua các ứng đối
mau lẹ, biện luận vững vàng giữ gìn uy tín, thể
diện và lợi ích quốc gia. Mạc Đĩnh Chi đã làm cho
vua quan nhà Nguyên (元朝) khâm phục; đặc biệt
là đƣợc vua thứ 7 triều Nguyên là Nguyên Vũ
Tông (元武宗) [1281-1311; tức vị: 21 tháng 6
năm 1307, băng hà: 27 tháng giêng năm 1311]
phong cho tƣớc vị (爵位) “Lƣỡng Quốc Trạng
Nguyên(兩國狀元)” (Trạng Nguyên của hai
nƣớc).
Mạc Đĩnh Chi làm quan dƣới ba đời vua nhà Trần:
- Trần Anh Tông (陳瑛宗) (1276–1320), ở ngôi 21
năm (1293–1314), làm Thái thƣợng hoàng 6
năm;
- Trần Minh Tông (陳明宗) (1300–1357), ở ngôi
15 năm (1314-1329);
- Trần Nghệ Tông (陳藝宗) (1321–1394), ở ngôi 65
năm (1329-1394).
Ông mất năm 1350 (?)
Giai thoại đi sứ nhà Nguyên của Mạc Đĩnh Chi
Qua lịch sử, điểm đáng ghi nhớ nhất về Mạc Đĩnh
Chi là các giai thoại văn học, tài ứng đáp văn
chƣơng làm cho nƣớc Trung Hoa; từ vua quan đến
thứ dân Trung Hoa đều khâm phục.
Năm 1308, vua Trần Anh Tôn giao cho Mạc Đĩnh
Chi dẫn đầu sứ bộ Đại Việt đi sứ nhà Nguyên
Trung Hoa.
____________
Những giòng kế tiếp theo sau đây, được ghi lại,
theo truyền thuyết (có nghĩa là giai thoại Mạc
Đĩnh Chi lý thú này được lưu truyền qua nhiều
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 8
đời. Người đời sau đôi khi có “thêm thắt,” không
căn cơ vững chắc?! Để rộng đường dư luận, có
sao tôi ghi lại y như vậy!) diễn tiến giai thoại văn
học độc đáo về chuyến đi sứ nhà Nguyên của Mạc
Đĩnh Chi.
*
Qua ải
Khi sứ bộ của Mạc Đĩnh Chi đến cửa ải đầu tiên tại
biên giới Việt-Trung Hoa, trời đã tối. Quân Nguyên
canh gác ải bắt phải chờ đến sáng hôm sau mới mở
cửa cho qua. Thấy sứ bộ Đại Việt cứ biên bạch đòi
mở cửa để đi cho kịp thì viên quan phụ trách ải nói:
- Nghe nói ngài là ngƣời có tài văn chƣơng. Sao
không đem sử dụng lúc này? Bây giờ tôi ra một câu
đối, nếu đối thông suốt, tôi sẽ mở cửa ải; bằng
không xin ngài chờ tới sáng.
Rồi quân Nguyên thả từ trên cửa thành cao xuống
một câu đố thách thức nếu sứ bộ đối đƣợc thì họ sẽ
mở của thành cho đi.
Nội dung của câu đối nhƣ sau:
過闗遲闗官閉閼過客過闗
“Quá quan trì, quan quan bế, át quá khách quá
quan.”
(Nghĩa là: “Tới cửa ải chậm trễ, cửa ải đóng, người
coi ải đóng cửa không cho khách qua”).
_______
Ghi chú:
Có sách chép là: 過闗遲闗官閉願過客過闗
“Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách
quá quan.” (Nghĩa là: “Tới cửa ải, cửa ải đóng, người coi ải
mời khách qua đường cứ qua”).
Nhưng nghe không ổn; bởi vì sự thể rõ ràng là
người giữ ải không muốn cho khách qua ải lúc tối;
chứ không hề mời khách đi qua?!
Đây là một vế đối rất khó: Chỉ một câu ngắn mà có
đến 4 chữ “quan” và 3 chữ “quá.”
Tuy vậy, Mạc Đĩnh chi đã nhanh trí đối nhƣ sau:
先對易對對難請先生先對
“Tiên đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối.”
(Nghĩa là: “Ra câu đối dễ, đáp lại khó, xin mời
ngài đối trước”).
Vế đối của Mạc Đĩnh Chi có 4 chữ “đối” và 3 chữ
“tiên,” đáp đúng với câu đối của viên quan giữ ải.
Tƣởng sẽ đƣa sứ bộ Đại Việt vào thế bí; nào ngờ
lại có vế đối quá hay. Quan coi ải vái Mạc Đĩnh
Chi hai vái và quân Nguyên mở của ải để sứ bộ của
Mạc Đĩnh Chi đi qua biên giới vào giữa đêm.
___________________________________
Lời bàn / góp ý của Giáo sư Lê Văn Đặng:
Có lẽ ai đó (?) bịa ra giai thoại nầy khá hay,
nhưng vế 2 chỉ đối được âm Hán Việt, không đối
được chữ; nghĩa không chỉnh ở chữ thứ 5 của 2
vế: 官(ông quan) khác với 對(câu đối)
過關遲關官閉閼過客過關
先對易對對難請先生先對
*
Giải oan
Trên đƣờng đi đến kinh đô nhà Nguyên, trong một
chiều hè nóng bức, Mạc Đĩnh Chi và tùy tùng lúc
ấy thấy một quán nƣớc ven đƣờng thì dừng lại nghỉ
chân. Chủ quán là một bà cụ già tóc bạc phơ, đến
chào khách.
Gần quán có một giếng nƣớc. Trên thành giếng có
viết 5 chữ:
"Ngân bình, kiên thượng tị."
Thấy lạ, Mạc Đĩnh Chi hỏi duyên do. Bà cụ chủ
quán chậm rãi kể:
Xƣa có một cô gái bán hàng nƣớc ở đây rất thông
minh, học giỏi, chữ nghĩa tốt. Có một anh học trò
thầm yêu cô hàng nƣớc, muốn ngấp nghé. Ngày
ngày đi học về, thƣờng ghé vào quán uống nƣớc;
và tìm lời trêu ghẹo.
Một hôm cô hàng nƣớc nói thực với anh:
- Thiếp là con nhà lƣơng dân, có theo đòi bút
nghiên, mà chàng cũng con nhà thi lễ, nếu nhƣ
phải duyên trời, thực cũng xứng đôi vừa lứa,
Nhƣng mà thiếp chƣa đƣợc biết tài học của chàng
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 9
ra sao, vậy thiếp xin ra một câu đối, nếu chàng đối
đƣợc, thiếp tình nguyện xin nâng khăn sửa túi, bằng
không, thì xin chàng chớ qua đây quấy rầy làm gì
nữa.
Anh học trò bằng lòng. Cô hàng nhân nhìn thấy cái
ấm tích bằng bạc trên bàn, mới ra câu đối rằng:
銀缾腱上鼻
“Ngân bình, kiên thượng tị." (Nghĩa là “Bình bạc, mũi trên vai.” Ý nói cái vòi
trên cổ ấm nước).
Anh học trò nghĩ mãi mà không đối đƣợc, xấu hổ
quá, đành đâm đầu xuống cái giếng gần đó chết. Ít
lâu sau, ngƣời ta cho viết vế xuất câu đối ấy lên
thành giếng để thách thức cả thiên hạ, nhƣng xƣa
nay chƣa ai đối đƣợc.
Nghe đến đây, Mạc Đĩnh Chi cƣời:
- Câu ấy dễ thế sao không đối đƣợc mà phải ngậm
oan nơi đáy giếng! Thôi để ta đối giùm giải oan cho
hồn kẻ thƣ sinh.
Mạc Đĩnh Chi bèn đọc:
金鎖腹中鬚
"Kim tỏa, phúc trung tu." (Nghĩa là “Khóa vàng, râu trong bụng.” Ý nói cái
tua khóa ở trong ruột khóa).
Sau đó, Mạc Đĩnh Chi sai ngƣời viết câu ấy lên
thành giếng, bên cạnh câu đối của cô hàng nƣớc
năm xƣa.
Mọi ngƣời đều chịu ông đối giỏi.
Tại Yên Kinh (thủ đô nhà Nguyên lúc đó) Nhà
Nguyên
Sau nhiều ngày vất vả, Mạc Đĩnh Chi cùng sứ bộ
đến Yên kinh, kinh đô nhà Nguyên.
Nghe tin đồn Trạng nguyên An nam nổi tiếng thông
minh, quan lại nhà Nguyên mới hội nhau bàn cách
chơi trác. Họ đào một cái hố vừa to, sâu quá đầu
ngƣời, trên ngụy trang nhƣ đƣờng đi ngay trƣớc cây
cầu vào kinh thành.
Hôm sau, Mạc Đĩnh Chi dẫn sứ bộ vừa đi tới đó.
“Huỵch" một tiếng, cả ngƣời lẫn ngựa Mạc Đĩnh
Chi lăn luôn xuống hố. Các quan Tầu phá ra cƣời
(cốt để hạ nhục Mạc Đĩnh Chi) rồi một tên quan
hách dịch nói:
- Nghe nói tiên sinh là ngƣời đối đáp xuất chúng,
chúng tôi không tin. Nếu tiên sinh đối đƣợc câu đối
này thì toàn bộ quan lại chúng tôi xin đỡ tiên sinh
lên.
Ông đồng ý, tên quan kia đọc:
杆木横渠陸假相如私道
“Can Mộc Hoành Cừ Lục Giả Tương Như Tự
Đạo.” (Nghĩa là: “Gỗ thẳng, cầu ngang, đường đi ngỡ là
đất phẳng”).
Cái khó của câu này là ở chỗ dùng toàn tên những
ngƣời nổi tiếng trong sử Trung Hoa ghép lại. Theo
đó, “Can mộc” là Đoàn Can Mộc, một nhân vật
đời Chiến quốc; “Hoành Cừ” là tên hiệu của
Trƣơng Tải, một triết gia đời Bắc Tống; “Lục Giả”
ngƣời nƣớc Sở, giỏi biện luận, theo giúp Hán Cao
Tổ; “Tƣơng Nhƣ” là Lạn Tƣơng Nhƣ, một nhân
vật nổi tiếng đời Chiến Quốc; “Tự Đạo” là Giả Tự
Đạo, ngƣời đời Tống, một quyền thần chuyên chế.
Chỉ trong phút chốc, Mạc Đĩnh Chi nhớ lại lúc
trƣớc khi ngã, ông nhìn thấy ở bên kia sông có cái
đình dƣới chân núi, nhân thế chỉ tay thẳng đình mà
đối:
大庭安石望之染略天台
“Đại Đình An Thạch Vọng Chi Nghiễm Lược
Thiên Thai.”
(Nghĩa là: “Đình to, đá vững, nhác trông như thể
(núi) Thiên Thai”)
Câu này cũng dùng toàn tên ngƣời ghép lại nhƣ ở
câu chủ mà lại có ý khoáng đạt hơn nhiều, theo đó
“Đại Đình” là một biệt hiệu của Thần Nông; “An
Thạch” tức Vƣơng An Thạch Thừa tƣớng đời Bắc
Tống; “Vọng Chí” là danh nhân đời Hán, làm phụ
chính cho Hán Nguyên Đế; Thiên Thai là một
Tông Phái Phật Giáo, do Bồ-tát Long Thọ sáng lập
龍樹( 梵文: Nāgārjuna) Riêng chữ "Nghiễm
Lƣợc" các nhà nghiên cứu chƣa tra cứu ra là ai?!
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 10
Chƣa hiểu hết ý tƣởng uyên thâm của Mạc Đĩnh
Chi…
Đúng theo lời hứa, văn võ bá quan triều Nguyên bất
chấp áo mũ xúm lại đỡ ông Trạng lùn xấu xí nƣớc
Nam lên khỏi hố.
Một lần ở Yên Kinh, Mạc Đĩnh Chi cƣỡi lừa đi dạo
phố. Đến một con đƣờng nhỏ chợt gặp một võ qua
cƣỡi ngựa nghênh ngang. Trạng nguyên nhà ta vì
phẩm bậc cao hơn nhất định không lùi, nhƣng tên
quan kia cũng không chịu, phần vì lẽ chủ nhà, phần
do tính vũ dũng. Hắn truyền:
- Sứ thần An nam “đối” đƣợc đủ về lời và ý để ta
phục thì ta sẽ lùi nhƣờng đƣờng.
Nói đoạn hắn vung roi ngựa chỉ lên trời:
日火雲煙白旦燒殘玉兔
Nhật hỏa Vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thỏ
(thố). (Nghĩa là: “Mặt trời như quả cầu lửa, mây như
khói, lúc bình minh thiêu đốt con trăng”).
Mạc Đĩnh Chi mỉm cƣời, tay phe phẩy quạt, nhẹ
nhàng đối lại:
月宫星磾黃昏射洛金烏
“Nguyệt cung Tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô.” (Nghĩa là: “Vầng trăng là cánh cung, sao là đạn,
buổi hoàng hôn bắn rớt mặt trời”).
Hai câu đều tả những cảnh xoay vần của vũ trụ mà
cũng nhƣ tả thế sự. Mặt trăng mặt trời cũng nhƣ các
triều đại nối tiếp nhau, khi này anh thắng rồi anh sẽ
thua. Không triều đại nào vĩnh thịnh cũng nhƣ
không có vĩ nhân nào bất tử. Mang lẽ nhất thời ra
dọa nhau quả là nông cạn mà khiên cƣỡng.
Tƣớng nhà Nguyên nghe đối, toát mồ hôi, lập tức
thét quân dẹp đƣờng cho sứ nƣớc Nam đi qua.
Tại triều đình nhà Nguyên, tin Mạc Đĩnh Chi, sứ giả
An Nam rất hay chữ và đối đáp nhanh nhẹn, đã lan
truyền nhanh.
Một hôm, nhân việc quan rảnh rỗi, Mạc Đĩnh Chi
vào thăm phủ Thừa tƣớng nhà Nguyên. Trong phủ,
trang hoàng lộng lẫy, có treo một bức trƣớng rất lớn
trên tƣờng, trƣớng thêu một con chim sẻ đậu trên
cành trúc, trông tựa chim thật. Ông lại gần xem,
tƣởng chim thật, đƣa tay định chụp bắt lấy. Thừa
tƣớng và các quan quân nhà Nguyên cƣời to.
- A! Sứ thần "An Nam" thấy lạ lắm phải không?
Ha ha!
Mạc Đĩnh Chi vội thẳng tay kéo soạt, xé rách bức
trƣớng ra thành nhiều mảnh.
Một viên quan hốt hoảng kêu lên.
- Sao ngài lại xé bức trƣớng quý này?
Mạc Đĩnh Chi nghiêm nét mặt lại, bảo:
- Tôi thấy ngƣời xƣa chỉ vẽ cây mai, và chim sẻ
thôi. Vì trúc là quân tử, chim sẻ là tiểu nhân, nay
Thừa tƣớng lấy trúc với sẻ thêu vào trƣớng, nhƣ
vậy là tiểu nhân ở trên quân tử. Tôi sợ đạo tiểu
nhân lớn hơn, đạo quân tử mòn đi, nên vì thánh
triều trừ bỏ nó đi, chứ thứ ấy quí giá nỗi gì?
Viên Thừa tƣớng nọ ức quá, song không có cớ gì
để quở trách hoặc bắt đền đƣợc
Tối hôm ấy, quan Thừa tƣớng mời Mạc Đĩnh Chi
đến uống trà và ngâm vịnh. Ông ta cho bày tiệc trà
ở giữa sân để tiếp khách và hóng mát. Dƣới ánh
trăng rằm sáng vằng vặc, chủ và khách ngồi uống
trà thây, cả chủ lẫn khách càng say mê gửi gắm lời
thơ của mình vào cảnh tĩnh mịch. Khách lúc nào
trong lòng cũng thanh thản, thoải mái thả tâm hồn
thơ một vào thơ, vào cảnh thiên nhiên. Chủ đôi lúc
lại nhớ đến bức trƣớng rách trong lòng còn ấm ức.
Đêm đã khuya, khi tiệc sắp tàn, ông ta định trả
miếng lại chuyện ban chiều, liền cầm một chiếc
chén, lý sự với Mạc Đĩnh Chi rằng:
- Cây kỷ là gỗ, cái chén không phải là gỗ, tại sao
lại lấy gỗ làm chén?
Mạc Đĩnh Chi thấy câu hỏi thật phi lý, ông bèn
cƣời mà hỏi lại rằng:
- Thƣa ngài Thừa tƣớng! Ngài hãy giải thích: Phật
không phải là ngƣời, thầy tăng là ngƣời, vậy cái gì
đã khiến cho thầy tăng thờ Phật?
Thừa tƣớng cƣời ta xí xóa. Hai ngƣời dắt tay nhau
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 11
đi vào trong nhà. Vừa bƣớc chân lên bực cửa, Thừa
tƣớng lại ra câu đối:
安去女已豕為家
“An khử nữ dĩ thỉ vi gia.”
(Chữ “an 安” bỏ chữ “nữ 女” đi, thêm chữ “thỉ
豕” vào thành chữ “gia 家” / “nhà”).
Mạc Đĩnh Chi thấy đây là một lối chơi chữ rất thâm
hiểm của ông ta. Nói nhƣ vậy có nghĩa là nhà
Nguyên cần phải xóa bỏ nƣớc An Nam, nhập thành
châu huyện của họ. Mạc Đĩnh Chi lập tức đối lại rất
sắc bén:
“Tù xuất nhân, lập vương thành quốc.”
囚出人立王成囯
(Chữ “tù 囚” bỏ chữ “nhân 人” đi, thêm chữ
“vương 王” vào thành chữ “quốc 囯”).
Thực ra là chữ đối chữ, ý đối ý, dân ta nhất định xóa
bỏ ách áp bức,
đè nén của nƣớc lớn, xây dựng một quốc gia độc lập
tự chủ.
Vài ngày trƣớc khi về nƣớc. Trong lúc đang bận rộn
công việc chuẩn bị khăn gói cho ngày về thì sứ thần
của triều đình nhà Nguyên đến gặp Mạc Đĩnh Chi
và nói:
- Thƣa ngài, sáng nay không may bà trƣởng công
chúa quá cố. Nhà vua vô cùng thƣơng tiếc, lúc nào
cũng túc trực bên linh cữu. Cả triều đình bận rộn
chuẩn bị cho đám tang. Ngƣời nào có việc ấy cả.
Ngài là Trạng nguyên của triều đình An Nam chắc
cũng nên đóng góp một phần nào vào công việc.
Mạc Đĩnh Chi hỏi:
- Ông nói đi. Tôi phải làm gì bây giờ?
- Thƣa, ngài có thể viết một bài điếu văn để đọc
trƣớc đám tang, lời lẽ sao cho giản dị mà súc tích.
Đó cũng là điều mong muốn của nhà vua.
- Thôi, ông hãy về đi. Tôi sẽ làm tròn bổn phận.
Mạc Đĩnh Chi vẫn đƣợc tiến hành công việc chuẩn
bị cho ngày về nhƣ không có chuyện gì xẩy ra.
Ngƣời tùy tùng thấy Mạc Đĩnh Chi không hề bận
tâm đến việc viết bài điếu văn; nên có ngƣời lo
lắng hỏi. Mạc Đĩnh Chi cƣời bảo:
- Đƣợc, đâu sẽ có đó. Các ngƣơi không thấy ta đã
viết rồi đó sao?
Mạc Đĩnh Chi chỉ vào tờ giấy đặt trên bàn. Mọi
ngƣời hết sức ngạc nhiên thấy trên tờ giấy chỉ biết
bốn chử "nhất." Một bài điếu văn ƣ? Sao chỉ có
ngần ấy chữ coi sao cho đƣợc? Ai cũng e ngại….
Mấy hôm sau, đám tang đƣợc cử hành rất long
trọng. Tất cả văn võ bá quan trong triều đình đều
có mặt đông đủ. Sau điệu nhạc "lâm khốc," mọi
ngƣời đều thƣơng xót sụt sùi. Khi ấy, Mạc Đĩnh
Chi khoan thai đi đến bên linh cữu, tay dâng tờ
điếu văn. Cả triều đình nhà Nguyên tròn mắt ngạc
nhiên và hồi hộp vì thấy trên tờ giấy chỉ có một
chữ "nhất" to tƣớng. Mạc Đĩnh Chi lấy giọng đọc:
Thanh thiên nhất đóa vân
青天一朵雲
Hồng lô nhất điểm tuyết
烘爐一點雪
Thượng uyển nhất chi hoa
上苑一枝花
Dao trì nhất phiến nguyệt
t瑤池一片月
Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết (2)
噫雲散雪消花殘月缺
Tạm dịch:
Trời xanh một áng mây
Lò hồng một giọt tuyết
Thượng uyển một cành hoa
Giao trì một vầng nguyệt
Than ôi
“Mây tán, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết.”
(Dịch bởi Trƣơng Củng)
Ông đọc dứt lời, mọi ngƣời đều nghẹn ngào xúc
động. Tuy chỉ có bốn chữ "nhất," nhƣng ông đã
đọc thành một bài súc tích, miêu tả bà trƣởng công
chúa nhƣ áng mây đẹp bồng bềnh trên trời xanh,
nhƣ một giọt tuyết trắng giữa trong trung, nhƣ
nhành hoa đẹp trong vƣờn vua, nhƣ mảnh trăng
sáng trong cung Quảng Hàn. Nay bà chết đi là tổn
thất rất lớn, cũng nhƣ áng mây đẹp tản tác, giọt
tuyết tan đi, bông hoa tàn rữa, vần trăng khuyết mà
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 12
thôi. Thƣơng tiếc thật đấy, nhƣng đó là tạo hóa sinh
ra.
Sáng hôm sau, Mạc Đĩnh Chi áo mũ chỉnh tề vội vã
vào chầu để tạ từ vua Nguyên Vũ Tông về nƣớc.
Vào tới công đƣờng, ông đã thấy các quan văn võ tề
tựu đông đủ. Ông bƣớc lên tâu lớn:
- Dạ muôn tâu bệ hạ! Thần có lời từ biệt, xin chúc
bệ hạ vạn thọ vô cƣơng (sống lâu muôn tuổi).
Suy nghĩ giây lát, từ trên ngai vàng, vua Nguyên
phán xuống:
- Bấy lâu nay, nhà ngƣơi lƣu tại Yên Kinh, thăm
phong cảnh, xem xét kỹ lƣỡng mọi nơi, ngày nào
cũng cƣỡi ngựa đi trên đƣờng cái quan, thế ngƣơi có
biết mỗi ngày có bao nhiêu ngƣời qua lại trên
đƣờng cái quan không?
Trên đƣờng phố ở kinh đô Yên Kinh rộng lớn này
hàng ngày có biết bao nhiêu ngƣời qua lại, làm sao
có thể biết đƣợc? Thật ra là một câu hỏi nan giải,
Mạc Đĩnh Chi nghĩ vậy.
Thấy Mạc Đĩnh Chi ngập ngừng, vua Nguyên và
quần thần ra vẻ thích chí, tƣởng rằng phen này Mạc
Đĩnh Chi phải chịu bí. Nhƣng Mạc Đĩnh Chi trả
lời:
- Tâu bệ hạ, có hai ngƣời chứ mấy?
Vua Nguyên ngạc nhiên hỏi:
- Ngƣơi nói sai rồi. Sao lại chỉ có hai ngƣời thôi?
Mạc Đĩnh Chi thƣa:
- Tâu bệ hạ, phàm là những kẻ qua lại trên đƣờng
cái quan kinh đô này, thì chẳng vì danh cũng lợi,
vậy há chẳng phải chỉ có hai ngƣời, một vì danh,
một vì lợi sao?
Vua Nguyên trong lòng phục lắm, song không nói
ra. Vua Nguyên lại còn có ác ý muốn lƣu Mạc Đĩnh
Chi tại Yên Kinh không cho về Nam, bèn bày kế
đƣa Mạc Đĩnh Chi vào tròng:
- Có một chiếc thuyền trong đó chỉ có vua, thầy học
và cha mình (Quân, Sƣ, Phụ) bơi đến giữa sông
chẳng may bị sóng lớn đắm thuyền. Khi ấy, ngƣơi
ở trên bờ nhảy xuống bơi ra cứu, nhƣng chỉ có thể
cứu đƣợc một ngƣời thôi. Thế thì ngƣơi cứu ai?
Với câu hỏi hóc búa này, vua Nguyên cho rằng
nhất định Mạc Đĩnh Chi sẽ mắc phải tội lớn. Vì
rằng nếu Mạc Đĩnh Chi nói chỉ cứu vua, ắt mắc tội
bất hiếu với cha, bất nghĩa với thầy học Nếu nói
chỉ cứu thầy, thì mắc tội bất trung với vua, bất hiếu
với cha. Nếu chỉ cứu cha thì lại mắc tội bất trung,
bất nghĩa. Nếu không nói gì tức là không cứu ai,
tội ấy càng nặng.
Quần thần nhà Nguyên đắc ý đƣa mắt nhìn nhau,
thầm thì bàn tán, cho rằng phen này họ Mạc nhất
định mắc tội, chứ chẳng chơi.
Nhƣng Mạc Đĩnh Chi không hề tỏ ra lúng túng, mà
ông dõng dạc trả lời:
- Thần đứng trên bờ, thấy thuyền bị đắm tất phải
vội vả nhẩy xuống bơi ra cứu, hễ gặp ai trƣớc thì
cứu ngƣời ấy, bất kể ngƣời ấy là vua, thầy hay cha
mình.
Cả triều đình nhà Nguyên trố mắt thán phục trƣớc
câu trả lời ấy. Vua Nguyên không ngớt khen tài và
phong cho Mạc Đĩnh Chi làm "Lƣỡng quốc Trạng
nguyên" (Trạng nguyên hai nƣớc).
Trần Văn Giang
Trung học Mạc Đĩnh Chi – Khóa 1968
(Tháng 9/2010)
__________
Tham khảo:
- Sách “Bách khoa Toàn Thư.”
- “282 Câu đối” - Nam Anh (Nxb Tổng hợp Sài
Gòn 09/02/2007).
- “Các ông Trạng ở Việt Nam” – Vũ Ngọc Khánh.
- Bài “Ngọc Tỉnh Liên Phú” – Bài Khảo luận của
Giáo sư Lê Văn Đặng (Tháng 8 năm 2007).
- Các góp ý và phối kiểm phần chữ Hán từ Giáo
sư Lê Văn Đặng (Cựu Gíáo sư Trung Học Petrus
ký – Truớc 1975).
Phụ chú:
(1) Ngọc Tỉnh Liên Phú - 玉 井 蓮 賦
Theo Giáo Sƣ Lê Văn Đặng
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 13
(Tháng 8 năm 2007).
客 有 :
Khách hữu :
隱 几 高 齋 ,夏 日 正 午 。
Ẩn kỷ cao trai, hạ nhựt chính ngọ.
臨 碧 水 之 清 池 ,
Lâm bích thuỷ chi thanh trì,
詠 芙 蓉 之 樂 府 。
vịnh phù dung chi nhạc phủ.
忽 有 人 焉 :
Hốt hữu nhơn yên:
野 其 服 ,黃 其 冠 。
Dã kỳ phục, hoàng kỳ quan.
迥 出 塵 之 仙 骨 ,
Quýnh xuất trần chi tiên cốt,
凜 辟 穀 之 臞 顏 。
Lẫm tịch cốc chi cù nhan.
問 之 何 來 ,曰 從 華 山 。
Vấn chi hà lai, Viết tùng Hoá sơn.
迺 授 之 几 , 迺 使 之 坐 。
Nãi thụ chi kỷ, nãi sử chi toạ .
破 東 陵 之 瓜 ,薦 瑤 池 之 果 ,
Phá Đông Lăng chi qua, tiến Dao Trì chi quả
載 言 之 琅 ,載 笑 之 瑳 。
Tái ngôn chi lãng, tái tiếu chi tha.
既 而
Ký nhi
目 客 曰 :子 非 愛 蓮 之 君 子 耶 !
Mục khách viết: Tử phi ái liên chi quân tử da.
我 有 異 種,藏 之 袖 間 。
Ngã hữu dị chủng, tàng chi tụ gian.
非 桃 李 之 粗 俗,
Phi đào lý chi thô tục,
非 梅 竹 之 孤 寒 。
Phi mai trúc chi cô hàn.
非 僧 房 之 枸 杞 ,
Phi tăng phòng chi câu kỷ,
非 洛 土 之 牡 丹 。
Phi Lạc thổ chi mẫu đơn.
非 陶 令 東 籬 之 菊 ,
Phi Đào Lịnh đông ly chi cúc,
非 靈 均 九 畹 之 蘭 。
Phi Linh Quân cửu uyển chi Lan.
乃 泰 華 山 頭 玉 井 之 蓮 。
Nãi Thái Hoá sơn đầu Ngọc tỉnh chi liên.
客 曰:
Khách viết:
異 哉 !
Dị tai !
豈 所 謂 藕 如 船 兮 花 十 丈 ,
Khởi sở vị ngẫu nhƣ thuyền hề hoa thập
trƣợng,
冷 如 霜 兮 甘 比 蜜 者 耶 !
Lãnh nhƣ sƣơng hề cam tỷ mật giả da!
昔 聞 其 名 ,今 得 其 實 。
Tích văn kỳ danh, kim đắc kỳ thực.
道 士 欣 然 ,乃 袖 中 出 。
Đạo sĩ hân nhiên, nãi tụ trung xuất.
客 一 見 之 ,心 中 鬱 鬱 。
Khách nhứt kiến chi, tâm trung uất uất.
乃 拂 十 樣 之 牋 ,泚 五 色 之 筆 。
Nãi phất thập dạng chi tiên, tỷ
ngũ sắc chi bút .
以 而 歌 曰 : Dĩ nhi ca viết :
架 水 晶 兮 為 宮 ,
Giá thuỷ tinh hề vi cung,
鑿 琉 璃 兮 為 戶 。
Tạc lƣu ly hề vi hộ.
碎 玻 璃 兮 為 泥 ,
Toái pha ly hề vi nê,
洒 明 珠 兮 為 露 ,
Sái minh châu hề vi lộ,
香 馥 郁 兮 層 霄 ,
Hƣơng phức úc hề tằng tiêu,
帝 聞 風 兮 女 慕 。
Đế văn phong hề nhữ mộ.
桂 子 冷 兮 無 香 ,
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 14
Quế tử lãnh hề vô hƣơng,
素 娥 紛 兮 女 妒 。
Tố Nga phân hề nhữ đố.
採 瑤 草 兮 芳 州 ,
Thái dao thảo hề phƣơng châu,
望 美 人 兮 湘 浦 。
Vọng mỹ nhơn hề Tƣơng Phố.
蹇 何 為 兮 中 流 ,
Kiển hà vi hề trung lƣu,
盍 將 返 兮 故 宇 。
Hạp tƣơng phản hề cố vũ.
豈 護 落 兮 無 容 ,
Khởi hộ lạc hề vô dung,
嘆 嬋 娟 兮 多 誤 。
Thán thiền quyên hề đa ngộ.
苟 予 柄 之 不 阿 ,
Cẩu dƣ bính chi bất a,
果 何 傷 兮 風 雨 。
Quả hà thƣơng hề phong vũ.
恐 芳 紅 兮 搖 落 ,
Khủng phƣơng hồng hề dao lạc,
美 人 來 兮 歲 暮 。
Mỹ nhơn lai hề tuế mộ.
道 士 聞 而 嘆 曰 :
Đạo sĩ văn nhi thán viết:
子 何 為 哀 且 怨 也
Tử hà vi ai thả oán dã
獨 不 見
Độc bất kiến
鳳 凰 池 上 之 紫 薇 ,
Phƣợng Hoàng trì thƣợng chi tử vi.
白 玉 堂 前 之 紅 藥 !
Bạch ngọc đƣờng tiền chi hồng dƣợc!
敻 地 位 之 清 高 ,
Huyến địa vị chi thanh cao ,
藹 聲 名 之 昭 灼 。
Ái thanh danh chi chiêu chƣớc.
彼 皆 見 貴 於 聖 明 之 朝 ,
Bỉ giai kiến quý ƣ thánh minh chi triều,
子 獨 何 之 乎 騷 人 之 國 !
Tử độc hà chi hồ tao nhơn chi quốc
於 是
Ƣ thị
有 感 其 言 ,起 敬 起 慕 。
Hữu cảm kỳ ngôn, khởi kính khởi mộ.
哦 誠 齋 亭 上 之 詩 ,
Nga Thành Trai „Đình thƣợng‟ chi thi,
賡 昌 黎 峰 頭 之 句 。
Canh Xƣơng Lê „Phong đầu‟ chi cú.
叫 閶 闔 以 披 心 ,
Khiếu xƣơng hạp dĩ phi tâm,
敬 獻 玉 井 蓮 之 賦。
Kính hiến Ngọc Tỉnh Liên chi Phú.
Bản dịch của Giáo Sư Lê Văn Đặng:
Phú "Hoa Sen giếng ngọc”
Có vị khách:
Trưa ngày hè, ngồi tựa ghế trong nhà cao
Nhìn xuống hồ trong nước biếc
Ngâm khúc Phù Dung trong Nhạc phủ
Chợt có người
Mặc lối quê, đội mũ vàng
Khác kẻ trần, vẻ người tiên
Không ăn thóc gạo, hình dáng ốm o
Hỏi từ đâu đến, đáp từ Hoá Sơn
Bèn nhắc ghế, bèn mời ngồi.
Cắt dưa Đông Lăng, dâng đào Dao Trì
Vừa nói sang sảng; vừa cười ha hả
Đã vậy
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 15
Nhìn khách mà rằng:
Bạn cũng là người yêu sen đó chăng?
Ta có giống lạ, cất trong tay áo đây
Chẳng như đào lý thô tục
Chẳng như mai trúc trọi cùn
Chẳng như củ kỷ phòng tăng
Chẳng như mẫu đơn đất Lạc
Chẳng như chậu cúc Đào Tiềm
Chẳng như vườn lan Khuất Nguyên
Đó là loài Sen Giếng Ngọc nơi đầu núi Thái
Hóa
Khách rằng:
Lạ thay! Có phải người xưa nói
“Ngó sen lớn tợ thuyền, hoa cao mười trượng
Lạnh như sương, ngọt như mật” đó chăng?
Trước kia nghe tiếng, nay thấy được thực
Đạo sĩ vui hớn hở, bèn lấy trong tay áo ra
Khách vừa trông thấy, trong lòng không vui
Bèn gấp mười xấp giấy, bút chấm mực năm
màu
Làm bài ca rằng:
Gác thuỷ tinh làm cung
Đục lưu ly làm cửa
Tán nát pha lê làm bùn
Tưới ngọc sáng làm móc
Hương thơm ngào ngạc lên mây
Ngọc Hoàng nghe cũng hâm mộ
Hột quế lạnh chẳng thơm
Tố Nga ghen tuôn rối rít
Hái cỏ dao nơi bãi cỏ thơm
Trông mỹ nhơn nơi Bến Tương
Lơ lửng giữa dòng mà chi
Sao chẳng trở về chốn cũ
Há bỏ bê không cần
Than phận gái nhiều nỗi sai lầm
Ta tạm giữ mực chẳng a dua
Mưa gió rốt lại chẳng thương tổn gì
Sợ lúc phai hương lạt thắm
Người đẹp đến lúc xuân tàn
Đạo sĩ nghe mà than rằng:
Sao bạn lại ai oán vậy?
Bạn chẳng thấy
Hoa tử vi trong ao Phượng Hoàng
Hoa hồng dược trước thềm Bạch Ngọc đó sao?
Cầu cạnh địa vị thanh cao
Rập rành sáng rực thanh danh
Triều Thánh Minh chúng đều dược quý
Cõi Tao Nhơn bạn chịu lẻ loi
Giờ đây Khách nghe mà cảm kích, đem lòng
kính mộNgâm thơ „Đình Thượng‟ của Thành
Trai
Họa câu „Phong Đầu‟ của Hàn Dũ Gõ cửa
trời để giải bày tâm sự
Kính dâng bài Phú Ngọc Tỉnh Liên
(Theo Giáo Sƣ Lê Văn Đặng - Tháng 8 năm
2007).
(2) Theo sách "Thuyết phu tùng đàm" thì câu cuối
này của Dương Ức, một thi sĩ đời Đường.
Vƣờn cao quê ngoại Ảnh: Vy Trƣơng
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 16
Con Mèo của tôi…
Đã gọi là “Giai phẩm Xuân Con Mèo,” thì theo
thông lệ, theo truyền thống là phải có tí tí “mùi”
Mèo mới trọn bộ phim bộ… Vì vậy, tôi xin viết vài
hàng về con mèo “Mùa Xuân” cho hợp lệ “tình
trạng quân dịch (?)” và cũng nhân tiện, tôi quá
giang vào đây thêm một chút đỉnh về “Con Mèo”
của riêng cá nhân tôi cho vui nhà vui cửa đầu năm
con Mèo. Xin nói trƣớc, cũng chẳng có chuyện gì
mới lạ đâu. Một con Mèo “Mùa Xuân” thì cũng y
hệt nhƣ các “Con Mèo” quí vị thƣờng thấy hàng
ngày vậy thôi; vì lẽ “văn hóa” Mèo không có lệ “ăn
tết” chẳng hạn nhƣ vay thêm nợ, trang hoàng nhà
cửa, mua sắm quà cáp, chƣng diện quần áo mới…
(Xin đƣợc viết chữ hoa cho con “Mèo” trong bài
này).
Việt Nam từ ngàn xƣa vốn là nơi tƣơng đối ấm áp,
mƣa thuận gió hòa, hợp với căn bản nông nghiệp.
Đa số ngƣời Việt làm việc đồng áng (cày cấy, trồng
trọt) và nuôi năm con vật chung quanh nhà là: Trâu
(Sửu丒), Ngựa (Ngọ 午), Dê (Mùi未), Gà (Dậu 酉),
Heo (Hợi 亥); và hai con trong nhà là: Chó (Tuất
戌) và Mèo (Mão / Mẹo 卯). Quí vị có để ý là tất cả
bẩy (7) con vật vừa liệt kê đều có mặt trong bộ 12
con Giáp (*) của Việt Nam ta.
________
Ghi chú:
(*) [十二支:
子、丑、寅、卯、辰、巳、午、未、申、酉、戌、亥 ]
[Ta ghi là “Mèo / Mẹo” (卯); Tầu ghi là “Con
Thỏ” (兎) ]
Khác hẳn với Tầu, “Con Mèo” là một đặc thù văn
hóa Việt Nam. Ngƣời Tầu dùng “Con Thỏ” (Thố)
cho chi thứ Tƣ của 12 con Giáp chứ họ không
dùng “Con Mèo.” Theo tôi, có lẽ vì nƣớc Tầu ở
phía bắc (trên nƣớc ta), phong thổ lạnh hơn. Ngòai
ra, ngƣời Tầu từ thời cổ có đời sống thiên về văn
hóa du mục, nghĩa là họ chuyên cỡi ngựa, săn bắn,
và liên tục di chuyển thay đổi chỗ ở, cho nên họ
không chú trọng vấn đề định cƣ, canh tác và nuôi
gia súc… Thành thử ngƣời Tầu ít nuôi Mèo; ít nói
về Mèo. Chữ “Mèo” (Miêu 卯) thấy rất ít trong
văn bản cổ (thơ, phú, văn) của Tầu; ngƣợc lại, chữ
“Thỏ” (Thố 兎) thì thấy rầt nhiều…
Với nền văn hóa nông nghiệp ở Việt Nam, danh từ
“Con Mèo” đƣợc dùng tƣợng hình và tƣợng thanh
rất rộng rãi trong văn chƣơng bác học, bình dân, ca
dao thơ phú và cả trong ngôn ngữ bình thƣờng trao
đổi hàng ngày.
Sau đây xin giới thiệu một bài thơ chữ Nôm tiêu
biểu về “Con Mèo” của Nguyễn Trãi:
“Con Mèo / Miêu”
Lọ vằn sinh bởi mãi phương tây
Phụng sự như lai trộm phép thầy
Hơn chó được ngồi khi giỡn bếp
Tiếc hùm chẳng bảo chước leo cây
Đi nào kẻ cấm buồng the kín
Ăn đợi ai làm bàn soạn đầy
Khó mấy sang chẳng nỡ phụ (**)
Nhân chưng giận chuột phải nuôi mày.
(Nguyễn Trãi Quốc Âm Thi Tập - bài số 251)
_______
Ghi chú:
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 17
(**) Bài thơ “Miêu” (Con Mèo) của Nguyễn Trãi
trong “Nguyễn Trãi Quốc Âm Thi Tập” là một bài
thơ “Thất ngôn bát cú” (mỗi câu 7 chữ và toàn bài
gồm tổng cộng 8 câu); nhưng mà qua nhiều văn bản
ghi lại “Thi tập” này (mà tôi đã tham khảo) tất cả
đều ghi thiếu sót mất một (01) chữ ở câu thứ 7 (chỉ
còn lại 6 chữ?) Thật là lạ! Tôi cũng không hiểu tại
sao? Và tìm hoài không ra! Đành có sao xài vậy!
“Con Mèo,” một con vật từ tốn, thong thả, hiền
lành, đƣợc sử dụng trong nhiều hoàn cảnh hàm ẩn
nhiều ý xấu. Những cá tính riêng của Mèo đƣợc
dùng để ví von, ám chỉ, trêu chọc, khiêu khích, đôi
khi để sỉ nhục con ngƣời qua các tƣơng phản dựa
theo những con vật quen thuộc khác nhƣ “chuột,”
“chó,” “cọp…”
Chẳng hạn:
Trong liên hệ tình cảm nam nữ
Tuy chúng ta đã biết đại khái Mèo là một động vật
có vú, đẻ con và nuôi con cho bú…. Nhƣng tôi thấy
hình nhƣ chƣa có ai (?) “nghiên cứu” để hiểu cho rõ
ràng xem Mèo đực “giao hợp” (“cụm từ” này là chữ
viết tắt của 4 chữ “giao lƣu hợp tác” chứ không có ý
gì khác!) với Mèo cái ra thế nào trên nóc nhà mỗi
buổi tối (chỉ nghe những tiếng kêu thất thanh, oai
oán, khá rùng rợn!!!) Ậy! Thế mà con ngƣời đã vội
vàng đem con Mèo ra để ví von, gán ép các chuyện
yêu đƣơng, bồ bịch lăng nhăng thiếu đứng đắn!
“Mèo chuột:” Ám chỉ chuyện trai gái lén lút.
“Mèo mỡ:” Chuyện yêu đƣơng lăng nhăng.
“Mèo mả gà đồng:” Chuyện trai gái lăng loàn, hạ
cấp.
“Mèo lành chẳng ở mả:” Đàn bà hƣ đốn không lo
liệu chuyện gia đình.
“Mèo không ăn vụng thì đi đêm làm gì?” Ám
chỉ, ngờ vực chuyện đi ngang về tắt của ngƣời
không chính chuyên, đàng hoàng.
Cách làm việc
Suốt cuộc đời, Mèo chỉ đơn giản làm có 4 công
việc: Ăn, ngủ, bắt chuột, và đi “ị dấu kít…” Con
ngƣời vừa phức tạp vừa “chấp” đã vẽ ra nhiều cách
làm việc rất nghe rất “nản;” Đồng thời lại vu vạ
cho là “làm” giống y hệt nhƣ cách làm việc của
Mèo (?!)
“Làm như mèo mửa:” Làm qua loa, đại khái
không đi đến đâu cả! Chắc chắn phải làm lại từ đầu
mới xong!
“Mèo cào không xẻ vách vôi:” Khuyên trƣớc khi
làm việc gì thì phải lƣợng sức mình; nếu không thì
dù cố gắng lắm cũng vô ích.
“Mèo vật đụn rơm:” Kẻ tài trí thô thiển mà muốn
làm chuyện đại sự ngoài khả năng của mình.
“Mèo dấu „kít:‟ ” Cách làm việc thiếu lƣơng
thiện.
Cá tính
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 18
Mèo có nhiều cá tính rất gần gũi với ngƣời. Con
ngƣời đã dùng những cá tính đặc trƣng của “Mèo”
để dè bửu, đầy ác ý, đố kỵ, ghen tị với những ngƣời
khác sống ở chung quanh mình.
“Giấu như mèo dấu „kít:‟ ” Chê những ngƣời dấu
diếm một cái gì đó quá kỹ.
“Lấp lấp ló ló như mèo dấu „kít:‟ ” Dáng dấp lấp
ló thiếu vẻ lƣơng thiện.
“Mèo khen mèo dài đuôi:” Tự sƣớng, tự đề cao, tự
khen ngợi, tự công kênh mình lên.
“Ăn như mèo:” Ăn từ tốn, chậm rãi. Phụ nữ ăn
nhƣ Mèo thì đƣợc khen là có nết; nhƣng đàn ông ăn
nhƣ Mèo thì bị xem nhƣ có tật xấu.
“Lèo nhèo như mèo vật đống rơm:” Nói dai, nói
dài (để xin xỏ điều gì!)
“Mèo ngồi xó bếp:” Tính lƣời biếng; thiếu bƣơn
chải.
“Im ỉm như mèo ăn vụng:” Che giấu lỗi lầm bằng
cách im lặng; hoặc thấy điều gì có lợi thì cố giữ kín
chỉ mình biết để mong hƣởng một mình.
Hoàn cảnh
Mèo mà cũng có hoàn cảnh nữa hả giời??? Không
phải vậy đâu! Đây là hoàn cảnh của chính con
ngƣời; nhƣng con ngƣời lại vờ vĩn đem Mèo ra làm
vật so sánh để khỏa lấp cái tâm địa không đƣợc
lƣơng thiện của mình? Ai mà biết đƣợc?!
“Mèo mù vớ cá rán:” Vận may đến với kẻ nghèo
hèn đang túng quẩn, ngặt nghèo.
“Mỡ để miệng mèo:” Đặt trƣớc mặt ngƣời thứ gì
mà họ đang mong muốn thèm khát.
“Mèo già hóa cáo:” Ngụ ý ngƣời già (sống lâu)
tích tụ đƣợc nhiều kinh nghiệm tốt. Cũng có nghĩa
là lúc mới bắt đầu làm việc thì rụt rè nhút nhát;
nhƣng ở lâu thì tinh ma nhƣ qủy.
“Như mèo thấy mỡ:” Nhìn thấy một món lợi
trƣớc mắt và thèm muốn chiếm đoạt cho đƣợc.
“Run như mèo ướt:” Bị quá lạnh; hoặc quá sợ
hãi.
“Tiu ngỉu như mèo cắt tai:” Vì thất bại nên buồn
rầu; Vì thất vọng nên nản.
“Kêu như mèo con mất mẹ:” Than vãn, kêu van
hơi quá đáng.
“Mèo uống nước bể không bao giờ cạn:” Khuyên ngƣời nếu biết sống tiện tặn thì không bao
giờ thiếu thốn.
“Chẳng biết mèo nào cắn miêu nào:” Mỗi ngƣời
đều có sở trƣờng riêng của mình; chƣa chắc ai đã
hơn ai?
Mèo - Chó
Mèo có bao giờ ƣa gì chó (và ngƣợc lại)? Tƣơng
tự nhƣ vợ lớn và vợ bé có bao giờ quý mến, thân
thiện với nhau?! Trong cuộc sống, có nhiều trạng
huống, con ngƣời phải dùng cả 2 con vật “thù
nghịch” này trong cùng chung một vấn đề để trình
bày cho trọn vẹn ý nghĩa của một sự kiện.
“Như chó với mèo:” Dƣờng nhƣ không thể hòa
thuận với nhau đƣợc.
“Chó treo mèo đậy:” Phải phòng ngừa những
chuyện đáng tiếc sẽ xẩy ra (trộm cắp chẳng hạn).
“Chửi chó mắng mèo:” Chửi bâng quơ, chửi
đổng.
“Buộc cổ mèo, treo cổ chó:” Nói kẻ có tính bần
tiện, bủn xỉn.
“Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang:” Một quan niệm mê tín ngày xƣa.
“Không có chó bắt mèo ăn „kít:‟ ” Phải dùng
ngƣời làm một việc gì không đúng với khả năng
của họ. (… tôi được ban báo chí “cảnh báo” là
phải tạm ngưng không nên viết thêm cái món “hóa
học hữu cơ” này ở tại đây!? Đã có đến 4 - 5 chữ
cũng đủ xài rồi…Ok…OK).
“Chó chê mèo lắm lông:” Phê phán ngƣời khác
mà không thấy lỗi của chính mình.
“Chó gio, mèo mù:” Chê những ngƣời đần độn.
“Đá mèo, quèo chó:” Bực mình vì chuyện đâu
đâu... nhƣng lại trút sự bực tức của mình những
trên con vật nuôi trong nhà (hay „thủ hạ‟ của
mình!)
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 19
“Chó giữ nhà, mèo bắt chuột:” Ai cũng có nghề
nghiệp, công việc riêng của mình. Đừng ghen tị
nhau; cũng đừng can thiệp vào chuyện của ngƣời
khác.
“Mèo già khóc chuột:” Chỉ hạng ngƣời hay nói
những chuyện đâu đâu, hoang tƣởng, không ăn nhập
vào vấn đề.
“Mèo đàng lại gặp chó hoang:” Thứ / hạng ngƣời
vô lại gặp nhau “Ngƣu tầm ngƣu!”
“Nhất chó bốn đeo, nhì mèo tam thể:” Loại chó
và Mèo có “thịt” ngon(?) (Đây là ý kiến riêng của
dân nhậu! Tôi không biết nhậu; và chƣa hề ăn thịt
chó và thịt Mèo; không biết gì để bàn thêm).
Mèo - Chuột
Chuyện “Mèo Chuột” thì đã đƣợc bàn qua loa trong
phần “tình cảm lăng nhăng” ở trên rồi. Bây giờ lại
thấy hai đối tƣợng “đố kỵ” này cùng nằm chung
giƣờng (hay cùng trong một câu nói) mới ly kỳ.
“Mèo khóc thương chuột chết:” (“Miêu khốc lão
thử giả từ bi”) Ám chỉ ngƣời đạo đức giả.
“Lôi thôi như mèo sổ (xẩy) chuột:” Chỉ sự thẫn
thờ, ngơ ngác của ngƣời đang tiếc rẻ, nuối tiếc vì
trót làm lỡ một dịp may nào đó.
“Rình (vờn) như mèo rình (vờn) chuột:” Sự kiên
nhẫn, chờ đợi cho đến khi xong việc mới thôi.
“Chuột gặm chân mèo:” Làm một việc liều lĩnh,
nguy hiểm.
“Chồng mèo vợ chuột:” Tình trạng gia đình, hôn
nhân đang đứng bên bờ đá ("Ông ăn chả, bà ăn
nem").
“Chuột cắn dây buộc mèo:” Làm ơn cho kẻ có thể
quay lại hại mình.
“Mèo già lại thua gan chuột nhắt:” Ngƣời lớn
tuổi trƣởng thành mà lại nhát gan hơn trẻ con.
“Mèo nhỏ bắt chuột con:” Liệu sức mình mà gánh
vác, cáng đáng công việc. Tài hèn sức mọn mà đảm
trách việc lớn thì chỉ chuốc lấy hại vào thân.
“Mèo con bắt chuột cống:” Ngƣời tuổi trẻ tài cao;
làm đƣợc việc mà ngƣời lớn làm không đƣợc.
“Miêu thử đồng miên (猫鼠同眠):” (nghĩa đen là
“Mèo chuột ngủ chung”); Ám chỉ những kẻ bất
lƣơng a tòng với nhau làm chuyện xấu xa.
Mèo - Cọp
Mèo có hình dạng giống cọp; chỉ có kích thƣớc và
môi trƣờng sinh sống là khác nhau. Ngƣời Tầu có
đôi khi còn gọi Mèo là “Cọp nhỏ” (“Tiểu hổ
小虎”) Mèo và cọp đƣợc dùng để so sánh 2 sự kiện
hoàn toàn tƣơng phản nhau: Lớn nhỏ; mạnh yếu;
nhanh chậm...
“Hùm mất hươu tiếc hơn mèo mất thịt:” Càng ở
quyền lợi địa vị cao thì càng đau khổ hơn ngƣời ở
địa vị thấp hơn.
“Nam thực như hổ nữ thực như miu
(男食如虎女食如猫):” Nam ăn nhƣ cọp; nữ ăn
nhƣ Mèo. [Phản: “Nam thực như hổ nữ thực như
heo.”]
Chẳng riêng chuyện “Mèo - chuột;” mà chuyện
“Mèo - Cọp” cũng đƣợc dùng để chỉ vấn đề tình
cảm nam nữ, hôn nhân, gia đình không đƣợc tốt
đẹp; nhƣ ý muốn. Đây cũng là sự tƣơng phản trên
hai khía cạnh :
1- Pháp lý (?)
Mèo để chỉ tình nhân, “bồ nhí…” mặn mà nhõng
nhẽo, “thầm lén vụng trộm.” Trong khi “Cọp cái”
(còn gọi là “Sƣ tử Hà đông”) chỉ bà vợ già dữ dằn
nhƣng “công khai và hợp pháp!” ở nhà (cũng nhƣ
ở chợ!)
2- Cách ứng xử
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 20
Không phải tự dƣng vô cớ mà ngƣời ta gọi “bồ
bịch,” tình nhân là “Mèo.” Có nhiều lời giải thích
tại sao đàn ông thích “Mèo” (tình nhân, bồ nhí) hơn
“Cọp” (vợ chính thức). Sau đây tôi xin liệt kê một
số “trải nghiệm” của các đấng mày râu có máu mạo
hiểm, can trƣờng, và gan dạ:
- Mèo không quát tháo ầm ĩ hay gầm gừ nhƣ vợ.
- Mèo bao giờ cũng chải chuốt chƣng diện; trong
khi vợ thì đầu bù tóc rối.
- Vuốt ve “Mèo” có cảm giác mềm mại, thích thú;
trong khi “bố bảo” cũng không dám vuốt ve “Cọp.”
- Mèo ăn uống nhỏ nhẹ từ tốn; trong khi Cọp chẳng
cần giữ ý tứ chi cho mệt! Tốn thời giờ!
- Mèo biết cách tỏ ra “vâng lời (!)” làm cho đàn ông
tƣởng bở là “sở hữu chủ.” Trong khi Cọp luôn luôn
tỏ ra mình là chủ (Chúa sơn lâm - Chủ gia đình!)
- Mèo có đủ điều kiện dự “thi hoa hậu;” trong khi
Cọp thì còn khuya! (Mission impossible!)
- Nếu không may bị Mèo cào thì đôi khi phe ta còn
thấy thích thú; chứ một khi mà Cọp chỉ nhe nanh
đƣa đƣa móng ra “dứ” nhè nhẹ thì phe ta phải tìm
cách “chém vè” cho mau; Lỡ chậm chân mà “chém”
không kịp thì chỉ có từ chết đến bị thƣơng (Đề nghị
phe ta nhớ mua “bảo hiểm nhân thọ” trƣớc khi định
có “Mèo” – để “Cọp cái” còn có đủ tiền tái giá nhé
!)
- Tiếng Việt thật phong phú. “O Mèo” lại còn có
nghĩa là “tán gái” mới châm!
Tôi xin tạm ngừng câu chuyện “Con Mèo” loại
“khoa học giả tƣởng” của tôi ở đây bởi vì “Con
Cọp” thật (non-fiction) của tôi dƣờng nhƣ vừa mới
xem xong hết mấy bộ “phim bộ;” đang quởn không
có việc gì quan trọng để làm; có thể quờ quạng sao
đó lƣợm đƣợc bài này rồi... đọc!!! Lúc đó bảo đảm
“chăm phần chăm” tôi sẽ thành con “Mèo (đực)
bị... ướt” thôi!!!
Hẹn tái ngộ trong kỳ tới với nhiều chuyện “Mèo
Chuột” ly kỳ hơn....
Trần Văn Giang
(Xuân Tân Mão 2011)
__________
Tham khảo:
- “Tục ngữ phong dao” của Ôn Như Nguyễn Văn
Ngọc, 1928.
- “Từ điển thành ngữ ca dao” Viện Ngôn ngữ học,
1994.
- “Thành ngữ điển tích” (trong Việt Nam tự điển)
do Lê Văn Đức soạn (Nxb Khai Trí – Saigon 1970)
- “Thành ngữ tiếng Việt” của Nguyễn Lực và
Lương Văn Đang (Nxb Khoa học xã hội 1976)
- “Văn Chương Truyền Khẩu” (文 章 傳 口) của
Giáo sư Lê Văn Ðặng (Hải Biên Seattle, 1994).
- Bài “Chuyện mèo chuột trong đời sống người
dân miền Tây Nam Bộ” của Trần Minh Thương,
2011.
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 21
Giới thiệu hai cuốn sách của
tác giả Trần Văn Giang
Cuốn 1:
“Đất Lạ”
Gồm 31 bài, dầy 300 trang ghi lại các khó khăn
của ngưòi Việt tị nạn CS đang sống trên các vùng
đất tạm dung ở hải ngoại.
Từ ngƣời Việt tị nạn - Đổi đời – Ly dị, về Việt
Nam lấy vợ - Sửa sắc đẹp - Thi hoa hậu - Chuyện
trong tuần - Cờ bạc - Cái tên xấu - Thầy trò - Tự
đào huyệt bằng răng – Viagra - Biết rồi khổ lắm nói
mãi - Chuyện ăn - Chuyện mặc - Chuyện ngủ -
Chuyện quên - Chuyện buồn - Con gái - Gian lận -
Tử vi đẩu số - Chửi - Chí Phèo tân thời - Hạnh phúc
và đau khổ - Mê tín dị đoan - Văn hóa lá cải - Bún
bò Huế - Tóc áo thôi bay - Đêm gác trọ (thơ) - Ngày
xuân gặp bạn (thơ) - Việt Nam quê hƣơng ngạo
nghễ.
Cuốn 2:
“Ruột Đau Chín Chiều”
Gồm 35 bài, dầy 300 trang, ghi lại những cảm
nghĩ của một người Việt tị nạn CS sống ở hải
ngoại nhìn về hiện tình đất nước Việt Nam.
Kha Tƣ Giáo - Đi thăm chồng - Nhớ lời Bác dậy –
Trí thức thiên tả - Tự hào dân tộc - Đọc bài thơ
Nguyên Tiêu của HCM - Nói láo nhƣ vẹm - Cấm
đái bậy - Quốc ca và các tác dụng phụ - Rớt mồng
tơi - Giả hay thật - Nói dối - Thói hƣ tật xấu của
ngƣời mình - Thử bàn lại một vài vấn đề Khổng
giáo - Khóc cƣời theo mệnh nƣớc nổi trôi - Hèn
hay hùa - Chửi mất gà - Văn hóa cạn chén - Năm
Chó nói chuyện Chó - Năm Hợi nói chuyện thịt
heo - Ngụ ngôn năm Chuột - Nhƣ Trâu - Cao Hồ
cốt - Sến và Mari Sến - Con số 13 - Nguồn gốc
danh từ Sài gòn - Cƣời ra nƣớc mắt - Bảng đối
chiếu từ ngữ - Ngày về thăm quê hƣơng (thơ) -
Giấy chứng nhận ngƣời - Lƣng em sau làn áo
mỏng - Đảng ta đang loay hoay - Tống cựu nghinh
tân.
* Mọi liên lạc hoặc thắc mắc xin gởi điện
thƣ đến địa chỉ email của tác giả sau đây:
tranvangiang17@yahoo.com
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 22
Đại Học Cộng Đồng
Community College ---Lý Di
Nhà tôi có trồng cây mãng cầu (loại mãng cầu Mễ
hay Úc gì đó), sau 6, 7 năm chăm sóc ròng rã, công
lao và nƣớc cũng tốn nhiều, nhƣng tôi thật không
đƣợc may mắn nhƣ anh Quách Xuân Sơn:
Vườn nhà có cây cam.
Quả óng vàng thấy ham.
Năm nào cũng ra trái.
Rất nhiều đếm chẳng kham.
Mãng cầu nhà tôi cũng cây xanh, lá tốt, nhƣng mỗi
năm gặt hái đƣợc 5, 3 trái nhỏ hơn quả mận, cuối
cùng phải tốn công đốn bỏ, hiện nhà còn có một cây
táo tàu, bao nhiêu là công lao, cây lá vẫn xanh tƣơi
nhƣng trái thì to hơn trái chùm ruột một tí, so với
trái táo tàu của nhà chị Huỳnh Thanh Kiều cây xanh
lá tốt, trái vừa to vừa ngọt, thật là e thẹn. Sân nhà
tôi chỉ có cây hồng dòn là tốt, đẹp trái, quả to màu
vàng nghệ trông cũng vui lắm, nhƣng công rất
nhiều, đến mùa trái chín, phải lo hái trái đem khoe
tặng bà con bạn bè.
Giáo dục con cháu cũng nhƣ việc chọn giống và
trồng cây vậy, nếu hƣớng dẫn con em mình học
hành sai đƣờng lạc hƣớng rồi trở học lại thì không
có gì đau buồn và bối rối cho bằng, mất công, mất
của, thiếu nợ lại mất thì giờ quí giá của một đời
ngƣời. Suy rộng hơn, nền giáo dục của một dân tộc,
quốc gia mà đi sai thì ôi thôi thảm họa cho….mƣời
năm trồng cây, trăm năm trồng ngƣời, cả một dân
tộc sẽ lụn bại, chƣa nói là có thể bị xóa tên trên bản
đồ, kiểm điểm lại 100 năm trồng ngƣời trên quả đất
này, có hai nƣớc lớn: đó là trƣờng hợp của Trung
Hoa một thời đã từng tự coi là trung tâm của vũ trụ
lại bị tây phƣơng cấu xé cai trị, đô hộ gần trăm năm
vì lối giáo dục trung quân và lối giáo dục từ
chƣơng, Liên sô cũng lầm than, khổ sở hơn 80 năm
vì giáo dục theo chủ nghĩa xã hội thiên đàng của
Karl Marx và Lenin. Trăm năm trồng ngƣời của
Tàu và Nga bị thất bại nặng nề, Tàu mất cả ngàn
năm với giáo dục dạy tôn sùng thiên tử bồi thêm 40
năm xã hội chủ nghĩa và Nga đã mất 80 năm mà
vẫn còn đang lùng bùng lẫn quẫn mò đƣờng tìm lối
đi! Nhƣng vẫn chƣa có lối ra, còn Việt Nam cũng
lắm nhiêu khê, giáo dục không giúp đỡ đƣợc cho
sự phát triện xã hội, nằm trong chế độ thực dân, lối
giáo dục gạn lọc đẹp, chỉ đào tạo một số ngƣời nói
tiếng Pháp để dễ bề cai trị, đến năm 1954 cả miền
nam Việt Nam chỉ có 5, 3 tỉnh có trƣờng trung học
đệ nhất cấp nhƣ Saigon, Mỹ Tho, Cần Thơ , Vĩnh
Long, trong số này chỉ có 2 trƣờng có đến Tú tài 2
là trƣờng Trung học Petrus Ký và Mỹ Tho, đến
năm 1960, miền Nam Việt Nam có khoảng trên
dƣới 300 ngƣời có bằng đại học 4 năm (cử nhân).
Việc học tại Việt Nam,vào năm 60-70, các kỳ thi
còn giới hạn quá nhiều số ngƣời thi đậu, vì vậy
ngƣời dân khó học đƣợc cao, 100 học sinh học
xong tiểu học, khoảng dƣới 50% vào trung học
công lập, phần còn lại phải học trƣờng tƣ nếu gia
đình có đủ tiền, sau các kỳ thi trung học Đệ nhất
cấp, Tú tài I, Tú tài II, trung bình không đƣợc 10%
qua khỏi Tú tài II (theo tài liệu của giáo sƣ tiến sĩ
Nguyễn thanh Liêm, cựu thứ trƣởng giáo dục trƣớc
năm 1975).
Giáo dục rất tốn kém, tài sản chất xám của một
ngƣời hay của một dân tộc thì vô hình, nhìn một
anh kỹ sƣ, gia đình cha mẹ anh ấy hay xã hội đã
chi tiêu vào anh ấy tính ra cũng phải mất 5, 3 chục
ngàn để anh ấy học đƣợc văn bằng này, nói cách
khác đầu tƣ vào giáo dục, đối với quốc gia cũng
nhƣ gia đình rất tốn kém. Chất xám là cái gì vô
hình nhƣng rất quan trọng cho cuộc sống, tiến bộ
của con ngƣời và xã hội, nhƣ nƣớc Nhật, Đức, sau
khi đại bại năm 1945, 20 năm sau, khôi phục trở lại
thành cƣờng quốc kinh tế. Vào thập niên 50, các
nƣớc Âu châu chế nhạo sản phẩm của Nhật làm
bằng giấy, đến thập niên 70 cả thế giới đều ngạc
nhiên và chiêm ngƣỡng Nhật có một nền kinh tế kỳ
diệu, sau năm 1905, Nhật đã thắng Nga, kỹ nghệ
phát triển, chế tạo vũ khí để xâm chiếm các nƣớc
lân bang, nhờ có chất xám chất chứa trong ngƣời
dân rất cao chất xám có đƣợc là nhờ giáo dục.
Việt nam chất xám trong ngƣời dân còn kém cỏi,
lại gặp nền giáo dục chủ nghĩa giáo điều không khá
gì hơn giáo dục trung quân thời xƣa của Trung
Hoa, đã hơn 3 thập niên qua mà ngƣời dân vẫn còn
quá nghèo tính theo lợi tức đầu ngƣời, còn các
nƣớc Tây Phƣơng đã chú trọng đến nền giáo dục từ
thế kỷ trƣớc, nhất là về khoa học.
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 23
Giáo dục của Mỹ đã đƣợc mở mang từ đầu thế kỷ
thứ 19, nền giáo dục của quốc gia mới đƣợc khai
sinh này, đầu tiên họ cũng phải dọ dẵm đƣờng đi
nƣớc bƣớc nhờ những kinh nghiệm của những
ngƣời di dân từ Châu Âu qua và tự tạo cho mình
một nền giáo dục riêng biệt để đƣa nƣớc Mỹ trở
thành một quốc gia tiến bộ đủ mọi mặt và là một
quốc gia hùng mạnh nhất thế giới trong vòng
khoảng 200 năm, họ đã tạo ra nhiều phát minh mới
nâng cao nếp sống của nhân loại, họ đã tạo nên một
nền giáo dục phù hợp với hoàn cảnh đất nƣớc, nền
giáo dục của Mỹ có những đặc thù riêng và khác
với các quốc gia Tây Âu, họ điều hành khác biệt với
các nền giáo dục khác đã có từ xƣa với vài căn bản
chính sau:
.
Cố tạo cho mình một nền giáo dục tách rời
ảnh hƣởng của tôn giáo vì kinh nhiệm trƣớc
khi di dân qua vùng đất mới họ sống trong
những quốc gia ảnh hƣởng của tôn giáo quá
mạnh, với một số tín đồ lớn và sùng đạo,
các giáo hội lấn lƣớt cả vào quyền hạn và
uy thế của nhà vua hay của chính phủ.
Giáo dục có khuynh hƣớng chú trọng vào
giải đáp các vấn đề của xã hội, giáo dục
phải phù hợp với nhu cầu của xã hội, nông
nghiệp, kỹ thuật, ý kiến của ngƣời dân …
Tin tƣởng vào sức mạnh của giáo dục, giáo
dục tạo nên kiến thức khoa học, xã hội và
mọi sự hiểu biết khác…
Nền giáo dục đƣợc điều hành bởi chính
quyền tiểu bang bằng cách đi sát với nhu
cầu của địa phƣơng, quyền hạn của tiểu
bang vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay, tuy
nhiên đôi khi cũng có sự sung khắc với
quyền lợi của liên bang, gặp trƣờng hợp
này, chính quyền liên bang dung hòa với
chính quyền địa phƣơng đƣa ra một giải
pháp thích hợp. Nếu chính quyền liên bang
muốn thực hiện một chƣơng trình nào đó,
họ đƣa ra một dự án và kèm theo một ngân
khoản để thực hiện, tiểu bang có thể từ chối
nhƣng thƣờng thì chấp nhận vì lợi ích cho
mình và có ngân khoản để thi hành, đôi khi
chính quyền tiểu bang đi ngƣợc lại với
quyền lợi chung hay hiến pháp, chính quyền
liên bang phải dùng quyền hạn của mình để
giải quyết. Một ví dụ điển hình, vào thập
niên 60, dựa vào quyền hạn độc lập giáo
dục của tiểu bang, thống đốc George
Wallace của tiểu bang Alabama đã không
nhận các sinh viên đa đen vào trƣờng đại
học, việc này tạo tình hình sôi động nƣớc
Mỹ vào thời đó, sau cùng dựa vào hiến
pháp, chính phủ liên bang phải gửi quân
đội hộ tống để các sinh viên này đi học
đƣợc.
Giáo dục có nhiệm vụ đi sâu vào quần
chúng, ngƣời dân đi học càng nhiều, càng
cao càng tốt.
Theo thống kê năm 2000, nƣớc Mỹ có:
85% ngƣời Mỹ có bằng trung học.
27% có bằng đại học 4 năm hay cao
hơn, lƣơng bổng của những ngƣời này
hơn $51,000USD, số lƣơng này cao
hơn những ngƣời chỉ có bằng trung học
$23,000USD.
Bảng thống kê việc giáo dục của Mỹ 100 năm qua:
(A Century of Dramatic Change, 1900-2000)
1900 2000
U.S. Population (In Millions)
Percent of Population in
West
Percent of Population in
Northeast
Percent of Population in
foreign-born*
Percent of metropolitan
Median age
Percent nonwhite
Percent in farming
Percent high school grads
Percent living in suburbs
76
5.7
27.6
14
28
22.9
12.5
33
6.4
n/a
281
22.5
19
11
80
35.3
25
2.5
72.4
50
Source: Hobbs, Frank and Nicole Stoops 2002.
Nhìn vào bảng thống kê trên, trong suốt thế kỷ 20,
dân số Hoa kỳ từ 76 triệu tăng gần 4 lần lên đến
281 triệu, học sinh học xong trung học tính từ năm
1900 đến năm 2000 tăng từ 6.5% lên đến 72.4%,
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 24
dân số sống về nghề nông giảm từ 33% xuống 2.5
%, điều này giúp cho thấy giáo dục giúp cho nông
nghiệp tiến bộ vƣợt bực, chỉ 2.5 % dân số nghề
nông có thể nuôi sống cả nƣớc mà còn giúp đở cho
các nƣớc khác.
Nền giáo dục của Mỹ đƣợc tổ chức nhƣ sau:
MÔ HÌNH GIÁO DỤC CỦA HOA KỲ
Source from Wikipedia, the free encycloptdia
Nhìn vào mô hình, ta thấy khoảng:
25% là những ngƣời tốt nghiệp bằng Đại
học 4 năm hay cao hơn.
75% dân chúng còn lại là do các cơ sở giáo
dục khác phụ trách nhƣ: giáo dục tráng niên
(adult school) các trƣờng hƣớng nghiệp,
trƣờng dạy điện tử, các trƣờng thẩm mỹ,
trƣờng dạy lái xe, trƣờng dạy computer,
designer, trƣờng hàn xì, trƣờng sửa xe...,
thƣờng đƣợc tổ chức trong qui mô nhỏ và
do chính phủ hoặc tƣ nhân điều hành, vai
trò chính để đào tạo các chuyên viên, các
tay nghề trong xã hội do chính phủ đảm
trách là các Đại Học Cộng Đồng
(Community College).
Nhiệm vụ của trƣờng trung học là đào tạo một học
sinh có hiểu biết căn bản về văn chƣơng, khoa học,
xã hội khi ra trƣờng đủ hiểu biết để sống một cuộc
sống hài hòa trong xã hội, trƣờng trung học cũng
có những lớp hƣớng nghiệp nhƣ đánh máy, sửa xe,
hàn xì….nhƣng không đi sâu quá để tạo một tay
nghề hắn hoi. Năm 1997, tổng thống Bill Clinton
đã đề nghị sửa đổi chút ít về chƣơng trình trung
học dạy thêm một vài môn học ở bậc đại học. ….
Danh từ Đại Học Cộng Đồng (Community
College) thƣờng đƣợc dùng sau năm 1970, trƣớc
đó vì giáo dục chƣa đƣợc phổ biến lắm, lúc xƣa
còn đƣợc gọi là junior college, danh từ Cộng Đồng
cho ta một hình ảnh là một nền giáo dục phổ thông
và chung cho mọi ngƣời, nó cũng có một ý nghĩa
khác là giáo dục phục vụ cho nhu cầu của địa
phƣơng đó.
Đại Học Cộng Đồng (Community College) là
những trung tâm giáo dục giúp cho ngƣời dân có
cơ hội có một nền học vấn cao hơn sau khi tốt
nghiệp trung học, đây là một sáng kiến khá riêng
biệt của nƣớc Mỹ dùng công quỹ để đem một nền
giáo dục cao hơn tạo nên một nền giáo dục không
còn xa vời đối với quần chúng.
Một trăm năm năm trƣớc , trƣờng Đại Học Cộng
Đồng (Community College) đầu tiên ở Mỹ “
Joliet Junior College” (thành lập năm 1901, thời
điểm này, ở Mỹ chỉ có 6.4% dân số tốt nghiệp
trung học, chắc trƣờng cũng dành cho con nhà giàu
và quý phái. Với một tinh thần cấp tiến, cởi mở
nhiều sáng kiến, họ mở rộng nền giáo dục, khuyến
khích ngƣời hiếu học, không phân biệt giàu nghèo,
giai cấp. Trên đƣờng đi đến mục đích trên cũng
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 25
gặp rất nhiều khó khăn (trọng nam khinh nữ, phụ nữ
bị giới hạn, dân da đen không đƣợc đi học!) rất
nhiều trở ngại, nhƣng giáo dục cũng đƣợc sửa đổi
dần dần và tạo đƣợc kết quả tốt...
Phƣơng thức mở rộng giáo dục đại học cho khối tối
đa dân chúng cứ tiếp tục và tới nay đƣợc 1173
trƣờng vừa công lẫn tƣ, nếu tính luôn chi nhánh phụ
của các đại học trên , con số này có thể đến 1600.
S TĂNG TR NG CỦA ĐẠI H C C NG
ĐỒNG HOA KY V O TH K 20 The Growth of Community Colleges in the Twentieth
Century
Years
Number of community
colleges added
1901-1910
1911-1920
1921-1930
1931-1940
1941-1950
1951-1960
1961-1970
1971-1980
1981-1990
1991-2000
25
49
106
58
92
82
497
149
48
49
Source: American Association of Community Colleges. 2004.
“Community College Growth by Decade.”
http://www.aacc.nch.edu (accessed December 28, 2004)
Hiện nay Đại Học Cộng Đồng (Community
College) ở Mỹ phục vụ trên 50% sinh viên tiền đại
học (under graduated student), vào hè năm 2007, số
sinh viên xin ghi tên học là 11.8 triệu, sinh viên lấy
tín chỉ (credit) là 6.8 triệu, không lấy tín chỉ (credit)
là 5 triệu, học toàn thời gian là 40% và bán thời
gian là 60%.
Đại Học Cộng Đồng (Community College) đƣợc
thành lập với mục đích và các đặc điểm sau:
Là ngƣỡng cửa kế tiếp của nền giáo dục
trung học.
Chƣơng trình học 2 năm để giúp cho các
sinh viên sang học đại học 4 năm. Sau khi
học 2 năm các sinh viên lấy bằng AA hay
AS, có thể chuyển sang các đại học 4 năm
học tiếp lấy bằng BA hay BS và học tiếp nếu
mình muốn.
Bổ túc những kiến thức còn thiếu sót ở
trung học cho các sinh viên chƣa sẵn sàng
để vào các đại học lớn.
Học phí nhẹ, các môn học đa dạng, giờ giấc
uyển chuyển, thoải mái, có thể học lớp đêm
hoặc cuối tuần, có thể học bán thời gian,
toàn thời gian hoặc vài giờ trong một tuần.
Việc xin nhập học tƣơng đối dễ dãi miễn
mình trên 18 tuổi và đủ khả năng theo học.
Là nơi cung cấp chuyên viên và những tay
nghề cho xã hội. Điển hình là năm 1980-
82, ở Mỹ hiện tƣợng điện tử bộc phát, đâu
đâu cũng thuê ngƣời trong ngành điện tử,
các đại học cộng đồng cũng nhƣ các trƣờng
tƣ đua nhau mở rộng với sự hỗ trợ của
chánh phủ đào tạo gấp rút chuyên viên để
phục vụ nhu cầu cho xã hội, một ngƣời đi
học cấp tốc 4 tháng về điện tử, khi ra
trƣờng đƣợc cấp chứng chỉ Technician, đi
xin việc chỗ nào cũng mƣớn, đôi khi 2, 3
nơi thuê, mình phải lựa chọn, và lƣơng
bổng cũng khá cao so với các ngành nghề
khác.
Đại Học Cộng Đồng (Community
College) là ngƣỡng cửa thích hợp để đón
các sinh viên ngoại quốc và những ngƣời di
dân, những sinh viên này đến từ xứ lạ, chƣa
quen với đƣờng lối học vấn cũng nhƣ
phong tục xã hội, cần thời gian để tìm hiểu,
làm quen với nếp sống và nhứt là cần thời
gian để tìm hiểu chính xác mình nên học
môn nào và cách học nhƣ thế nào! Đa số
sinh viên VN, qua Mỹ đi học hay di dân
qua Mỹ thƣờng chọn hƣớng đi này, với tính
siêng năng đã đạt đƣợc kết quả rất tốt, rất
thành công, có rất nhiều anh chị sinh viên
ra trƣờng với bằng cao học, bác sĩ, dƣợc
sĩ….
NHỮNG LỢI ĐIỂM CỦA Đ I H C C NG
Đ NG:
1. Nếu sau trung học, ta đi thẳng vào đại học
4 năm sẽ trả chi phí và học phí rất cao so
với Đại Học Cộng Đồng (Community
College). Theo ƣớc tính của AACC
(American Association of Community
College), chỉ tiêu và học phí hàng năm của
Đại Học Cộng Đồng (Community College)
là 2,191 mỹ kim so với 5491 mỹ kim ở đại
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 26
học 4 năm, đó là chƣa bàn đến việc học đại
học tƣ.
2. Đại Học Cộng Đồng (Community College) xin nhập học dễ dàng hơn, có thì giờ để lựa
các môn học thích hợp và đúng với ý thích
của mình trƣớc khi quyết định vào hẳn đại
học 4 năm để lấy bằng cử nhân.
3. Sau khi học xong Đại Học Cộng Đồng
(Community College) các sinh viên gần
nhƣ đƣợc ƣu tiên để chuyển vào các
California State Univertsity (Đại học 4 năm)
hay vào University of California (Đại học
lớn của California).
4. Cái lợi nhất là gần nhà, có thể tìm dễ dàng
một Đại Học Cộng Đồng (Community
College) gần nhà để học, đỡ tốn chi phí nhà
cửa và di chuyển.
5. Đại Học Cộng Đồng (Community College) là nơi tiến thân của những ngƣời vừa làm
vừa học, các môn học rất đa dạng, giờ học
uyển chuyển, lớp ban ngày, lớp ban đêm.
Vừa làm vừa học rất thuận tiện và rất lợi cho
việc thăng tiến trong nghề nghiệp, lý do là
mình học đúng với nhu cầu mình đang làm,
khi trong hãng xƣởng hay trong chính phủ
cần mƣớn ngƣời để làm công việc trong
chuyên môn của mình thì chắc không ai giỏi
và làm đƣợc việc hơn mình, nếu mình có
thêm chứng chỉ dùng trong nghề nghiệp, họ
có thể dùng thâm niên làm việc để thay cho
các chứng chỉ cấp bằng.
Để tóm tắt, chúng ta có thể nói Đại Học Cộng
Đồng (Community College) có những lợi điểm
nhƣ trên, sau 2 năm học, chúng ta có thể đi làm,
chúng ta cũng có thể vào thẳng đại học 4 năm, việc
chuyển vào đại học 4 năm ở California cũng đƣợc
chính phủ dành cho mọi sự dễ dàng, tuy nhiên mình
nên cẩn thận lựa cho đúng những tín chỉ mà đại học
mình muốn chuyển chịu nhận bằng cách nhờ đến
các vị cố vấn của trƣờng (counselor).
Các học sinh trung học có thể học thẳng vào Đại
học 4 năm, đại học 4 năm cũng có rất nhiều ƣu
điểm:
Các học sinh trung học có thể học thẳng vào
Đại học 4 năm, sự tuyển chọn vào Đại học 4 năm có
phần khó khăn hơn sự tuyển chọn vào Đại học 2
năm. Sau khi học xong, có ngay bằng BS hay BA,
có con đƣờng thênh thang rộng rãi cho mình học
cao hơn.
Có một đời sống sinh viên đúng nghĩa của
một môi trƣờng đại học, vui tƣơi và sinh động hơn,
tuy nhiên muốn vào trƣờng phải chuẩn bị kỹ càng:
tài chánh, học lực, và quyết tâm lựa chọn một nghề
nghiệp đúng theo ý muốn …
Thƣ viện, tài liệu học tập, các dịch vụ, các
sinh hoạt học đƣờng đƣợc phong phú và dồi dào
hơn, ngay bạn bè cũng nhiều hơn vì thời gian học
chung lâu hơn.
Đại học 4 năm là một khung trời mở rộng,
tƣơng lai sáng lạn cho ai muốn học cao.
Hai năm đầu học Đại học 4 năm nên thật
cẩn thận, vì từ trung học mới lên, còn bỡ ngỡ, chƣa
hợp với môi trƣờng, việc học không giống và
thảnh thơi nhƣ hồi trung học, nhƣng cũng phải
công nhận là trình độ học trung học ở Mỹ và vào
đại học cách biệt khá xa, lý do vì dƣờng nhƣ giáo
dục ở trung học cứ cho học sinh lên lớp để ra
trƣờng, cấp bằng trung học do trƣờng cấp lấy,
không có Tú một Tú hai gì hết, học sinh học kém,
mùa hè học thêm để năm tới lên lớp học tiếp (ở Mỹ
học từ lớp 1 dến lớp 12 ra trƣờng có thể đến 70,
80%, còn ở Vietnam nhƣ nói trên không hơn 10%).
Giáo dục rất quan trọng cho bất cứ một quốc gia
nào, giáo dục đƣợc chú trọng và đƣợc thực hiện
trong gia đình, ở học đường và trường đời, giáo
dục giúp con ngƣời hội nhập vào đời sống văn hóa,
kinh tế, xã hội, một nền giáo dục lệch lạc, sai
đƣờng hƣớng nhƣ mua chuộc thầy cô, mua cấp bán
bằng, khi ra đời, lại mua quan bán chức sẽ đƣa đến
một xã hội thối nát. Hiện nay có một số trí thức
Trung Quốc đang lo ngại hiện tƣợng băng hoại xã
hội (đối nghĩa với xã hội lành mạnh). Trong một
quốc gia, hiện tƣợng này sẽ xảy ra khi quyền hạn
của chánh phủ không bị giới hạn, nhân viên chánh
phủ không bị kiểm soát từ bên trên cũng nhƣ
không bị giới hạn từ bên dƣới , ngƣời kiếm đƣợc
tiền cứ lấy tiền bằng mọi cách, bất công khắp mọi
nơi, ngƣời dân trở nên bất lực, thờ ơ dƣng dửng,
vô cảm, mình không còn là một thành viên, không
còn là con kiến trong bầy kiến, là một con ong
trong bầy ong và khi… nhìn thấy một tòa cao ốc
công sở bị sụp đổ…ngƣời dân đi qua tự bảo ... của
tụi nó không phải của tui…
Lý Di Mùa Xuân Năm Tân Mão
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 27
Trang Thơ
Nhược Thu
VUỐT
XUÂN
Chờ ai môi thắm có còn ngoan
Sao để ngoài hiên nắng trổ vàng
Hoa trổ màu chi bàng bạc nhớ
Bƣớm buồn ai vậy bƣớm lang thang
Chiều bởi chờ nhau nên nắng nhạt
Mắt chờ ai đó lại long lanh
Giấu thêm đôi giọt làm mƣa bão
May quá chiều nay nắng lại lành
Chờ ai đêm lạnh không cần gió
Gió lạnh cho nhau biết tủi hờn
Mới biết vòng tay dù rất trống
Nhƣng mà ấm áp chẳng gì hơn
Chờ nữa sẽ hồng đôi má ƣớt
Nhạc buồn khuấy đục cả niềm mơ
Bàn tay em vuốt xuân mềm mại
Chƣa vuốt hồn anh sao dại khờ ..
NhuocThu
ÁO XUÂN
Xuân sắp về chƣa sắp đến chƣa
Sao anh nghe vọng tiếng hoa đùa
Giao thừa năm ấy mình hai đứa
Biền biệt trời xa giống nắng mƣa
Xuân sẽ về hay chỉ lƣớt qua
Bắt từng chú bƣớm ép trong hoa
Biết chăng hoa nở đâu vì bƣớm
Vì áo nàng xuân quá mƣợt mà
Xuân sắp về em có về không
Màu mây ai nhuộm quá mênh mông
Hồn anh ai nhuộm mà tim tím
Vì thiếu môi ai một vết hồng
Xuân có về xin chở dùm anh
Bóng ngƣời xa tít cuối mây xanh
Bóng quê và cả trời thƣơng nhớ
Và cả vần thơ kết mộng lành
NhuocThu
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 28
Xuân Lƣớt Qua Xuân gối đầu giữa cánh tay anh
Làm cho nắng nhảy múa trên cành
Có mây có gió làm sân khấu
Em mặc áo màu xanh rất xanh
Em gối đầu giữa áng thơ hoa
Bờ môi chợt thắm nét xuân ngà
Xuân sang đã mấy mùa em nhỉ
Sao vẫn nghe đƣờng xa cứ xa
Anh gối đầu giữa cánh tim em
Vần thơ đang nhảy rất êm đềm
Nghe hơi thở chữ chừng nhƣ múa
Khúc nhạc nghê thƣờng êm rất êm
Ta gối đầu chung góc nhớ nhung
Góc căng đang nhớ góc kia chùng
Góc xa đang sợ chiều qua vội
Xuân lƣớt qua kìa sao dửng dƣng
NhuocThu
KHOA H C V
THẤT NGHIỆP
KHAI TỪ
Nhờ đâu người phụ nữ được giải phóng khỏi
những công việc nội trợ nhàm chán: Chính những
chiếc máy giặt và lò vi-ba (microwave oven).
Nhờ đâu người đàn ông được giải phóng khỏi
những công viêc đồng áng nặng nhọc: Chính
những chiếc máy cày và những máy thu hoạch
nông phẩm.
Nhưng cũng chính máy móc là nguồn cạnh tranh
công ăn việc làm của con người.
Nếu chiếc máy hơi nước gây nên sự bùng nổ của
Kỹ nghệ Dệt và Kỹ nghệ Hàng hải vào thế kỹ thứ
18.
Đến đầu thế kỷ 20, chiếc máy nổ (Gasoline Engine
và Diesel Engine) dẫn đầu, đẩy khoa học phát
triển trong 100 năm nay, đã đưa con người đến
những tiện nghi vượt bậc; làm hiện thực hóa
những tưởng tượng của các tiểu thuyết gia giả
tưởng bao lâu nay.
A -TIẾN TRÌNH PHÁT KIẾN CỦA KHOA HỌC
Ban đầu những chiếc máy nổ giúp con ngƣời trong
nhiều ngành sản xuất. Nhƣng phải đợi đến năm
1903, máy nổ đƣợc đặt trên những chiếc xe, đã kéo
lại những khoảng cách trên lục địa; và cũng chính
năm ấy, nó đƣợc đặt trên chiếc máy bay. Chiếc phi
cơ ra đời xóa đi sự ngăn cách của đại dƣơng một
cách nhanh chóng.
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 29
Con ngƣời không còn ru rú nơi mà tổ tiên họ sống
quẩn quanh hàng ngàn năm trƣớc. Hai ngành nầy là
đầu tàu kéo theo hàng triệu phát kiến khác phục vụ
cho nhu cầu của con ngƣời.
Chính những phát kiến nầy tạo nên 2 ngành kỹ nghệ
chính: Kỹ nghệ Vận tải đƣờng bộ trong đó có
đƣờng sắt, xe hơi; và Kỹ nghệ hàng không.
Hai ngành nầy tạo nên sự bùng nổ kỹ nghệ của thế
kỷ 20, nhƣ: Kỹ nghệ khai khoáng, kỹ nghệ luyện
kim, kỹ nghệ chế tạo máy, kỹ nghệ điện, kỹ nghệ
dầu hỏa, kỹ nghệ cao su, kỹ nghệ hóa chất, Kỹ nghệ
xây dựng, kỹ nghệ điện tử, kỹ nghệ vũ khí…
Đồng thời kéo theo sự phát triển của kỹ nghệ thực
phẩm và kỹ nghệ tiêu dụng. Bên cạnh đó kỹ nghệ
du lịch và kỹ nghệ báo giấy, truyền thanh, truyền
hình…. cũng phát triển theo.
B- CÁC TÁC ĐỘNG BỞI PHÁT KIẾN KHOA
HỌC
B1-TÁC ĐỘNG THUẬN
Khi chiếc máy nổ làm tiền đề thay thế sức ngƣời và
súc vật trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và
vận tải, khiến sản vật dƣ thừa và có thể đem những
sản vật dƣ thừa ấy từ nơi nầy sang nơi khác nhanh
hơn, kịp thời hơn, đáp ứng đƣợc nhu cầu tiêu dụng
của con ngƣời.
Từ đó kích thích sản xuất tăng trƣởng. Tài nguyên
thiên nhiên nằm tiềm ẩn hang triệu năm đƣợc khai
thác phục vụ cho sản xuất, làm tăng lợi nhuận cho
các nhà đầu tƣ, tăng thu nhập cho ngƣời lao động và
nguồn thu ngân sách cho các quốc gia, đƣa đến sự
gia tăng tiêu dụng
Chính trong giai đoạn bùng nổ nầy, các nhà tƣ bản
thu những món lợi kết xù, đầu tƣ to lớn vào nghiên
cứu khoa học. Đồng thời ngƣời lao động đƣợc chia
sẻ phần lợi nhuận lớn hơn trƣớc, bù lại đòi hỏi họ
phải nâng cao kiến thức, tay nghề. Vì vậy giáo dục
đƣợc phát triển và lao động đƣợc thâm dụng.
Kinh tế toàn cầu đi trên một vòng xoắn mở rộng
nhƣ sau:
- Khoa học đƣợc phát kiến.
- Sản xuất đƣợc phát triển, gia tăng đầu tƣ.
- Tài nguyên thiên nhiên đƣợc khai thác.
- Lao động đƣợc thâm dụng và trả lƣơng cao, gia
tăng nhu cầu tiêu dùng.
- Thị trƣờng tiêu thụ gia tăng đòi hỏi gia tăng sản
xuất.
- Nhu cầu sản xuất gia tăng đòi hỏi gia tăng đầu tƣ
nghiên cứu khoa học, và phát triển giáo dục…
Cứ thế vòng xoắn phát triển cứ mở rộng… mở
rộng liên tục
Kết quả là kinh tế thế giới phát triển vƣợt bậc đến
cực đại vào cuối thế kỹ 20 khi một ngành khoa học
khác xuất hiện và hoàn thiện - khoa học máy tính.
Nhu cầu con ngƣời đi từ ăn no, mặc ấm, ở che mƣa
nắng, di chuyển đi lại giao tiếp… đi dần đến ăn
ngon, mặc đẹp, ở tiện nghi, di chuyển nhanh
chóng. Đến cao điểm là ăn cân bằng âm dƣơng,
mặc thời trang, ở thẩm mỹ, di chuyển cực nhanh và
tiện nghi. Do đó nhu cầu tiêu thụ hàng hóa của
con ngƣời bao giờ cũng gia tăng phát triển,
Vấn đề là làm sao con ngƣời có đủ khả năng tiêu
thụ để biến nhu cầu đó thành sự phát triển thị
trƣờng tiêu thụ, đƣa đến phát triển sản xuất mà
không phải là khủng hoảng kinh tế.
B2- TÁC ĐỘNG NGHỊCH
Chính máy móc chứ không ai khác hơn là
đối thủ cạnh tranh với con ngƣời trong vấn đề công
ăn việc làm.
Ban đầu, máy móc thay thế cho con ngƣời
trong sự lao động hàng ngày, thay cho vài ngƣời,
rồi vài chục ngƣời, và tiến tới thay hàng trăm hàng
ngàn ngƣời.
Nghiêm trọng hơn có những phát kiến mới
tạo nên những sản phẩm thay thế cho ngƣời lao
động và đi đến loại bỏ hẳn nhu cầu lao động, đó là
sự phát kiến của máy tính.
Khi kỹ nghệ máy tính, kỹ nghệ “Robot” ra
đời thay thế cho sự suy nghĩ của bộ óc con ngƣời
thì máy móc thực sự cạnh tranh với công ăn việc
làm của con ngƣời.
Chính khoa học đã hoàn thiện máy móc
làm đào thải nhiếu ngành kỹ nghệ thâm dụng lao
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 30
động trƣớc đó.đi đến đe dọa công ăn việc làm
truyền thống bấy lâu nay,
Thêm vào đó, những thập kỷ cuối của thế kỷ 20,
kinh tế toàn cầu giúp đƣa nguồn đầu tƣ và phát kiến
khoa học đến những quốc gia nghèo. Ngoài việc
tạo sự sung túc mới, giúp mở rộng thị trƣờng, tạo
nên sự thịnh vƣợng kinh tế của thời gian nầy, cũng
tạo nên một hệ quả là nguồn lao động bị cạnh tranh.
Lao động vừa cạnh tranh với nhau, vừa cạnh
tranh với máy móc.
Nghiêm trọng hơn, các nhà kinh tế lại xem LAO
ĐỘNG LÀ HÀNG HÓA, VÀ TẠO NÊN THỊ
TRƢỜNG LAO ĐỘNG nghĩa là tuân theo luật cung
cầu.
Từ đó ngƣời lao động không đƣợc trả công một
cách tƣơng xứng nên nguồn thu nhập của họ không
đủ khả năng để tiêu thụ sản phẩm, do đó sản phẩm
bị dƣ thừa và kinh tế thế giới cũng bị suy thoái theo.
Sang thế kỷ 21, chính hệ quả của chế độ thực dân,
rồi giao thƣơng bất bình đẳng hàng mấy trăm năm
khiến cho nền kinh tế các nƣớc nghèo không thoát
khỏi cảnh nghèo để mua những sản phẩm tân thời
đắt giá của các nƣớc giàu, khiến sản phẩm sản xuất
ra ngày càng dƣ thừa.
Thêm vào đó nền kinh tế toàn cầu đã đem sự đầu tƣ
và công việc đền cho ngƣời lao động các nƣớc
nghèo, khiến nguồn lao động đƣợc gia tăng nguồn
cung. Hệ quả tất nhiên là lao động dƣ thừa.
Để giải quyết, các nhà chính trị, hoạch định
chính sách thƣờng áp dụng chính sách bảo hộ mậu
dịch để bảo vệ việc làm cho quốc gia họ. Chính
sách nầy sẽ tạo mâu thuẫn giữa các quốc gia, đƣa
đến tranh chấp và chiến tranh, là trái với sự văn
minh của con ngƣời.
C- CÁC GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC DƢ
THỪA LAO ĐỘNG
Ban đầu con ngƣời phải làm việc từ 98 giờ mỗi tuần
rồi hạ dần còn 70 giờ/ tuần rồi 48 giờ / tuần.
Hiện nay có khuynh hƣớng xuống còn 32 giờ / tuần.
Tuy nhiên giải pháp nầy chƣa giải quyết triệt để
việc thặng dƣ lao động. Chúng ta cần tìm những
giải pháp đồng bộ, rộng lớn để giải quyết vấn đề
nầy. Giải pháp đó là sự phối hợp của 3 hành động
sau:
1 - Gia tăng số đơn vị lao động để mọi ngƣời đều
có cơ hội có việc làm.
2 - Gia tăng nhu cầu tiêu thụ hàng hóa của con
ngƣời, để phát triển thị trƣờng, gia tăng sản xuất,
tạo thêm nhiều việc làm khác phục vụ cho con
ngƣời.
3- Tăng khả năng tiêu thụ của ngƣời lao động.
C1. GIA TĂNG SỐ ĐƠN VỊ VIỆC LÀM.
Với những nhà chính trị, những nhà xã hội,
không thể xem lao động là một hàng hóa, và nhu
cầu lao động là một thị trƣờng, để tuân thủ theo
quy luật cung cầu của thị trƣờng. Lao động là một
quyền lợi và quyền hạn của con ngƣời.
Hơn thế nữa, với sự giúp sức của máy móc,
công việc dần trở thành hiếm hoi, trở thành là một
quyền lợi cần đƣợc phân chia công bằng cho mọi
ngƣời.
Với nhận định nầy, với một số lƣợng công
việc nhất định cho một số ngƣời lao động nhất
định, chính phủ cần phân chia số công việc ấy
đồng đều cho mọi ngƣời, để giải quyết sự thặng dƣ
lao động, chúng ta phải giảm thời lƣợng lao động
trong năm của mỗi ngƣời để tạo cơ hội làm việc
đồng đều với ngƣời khác.
Biện pháp thực hiện là ấn định số giờ làm
việc cho mỗi lao động là 1600 giờ / năm. Nếu làm
việc vƣợt quá 1600 giờ mỗi năm, thời gian vƣợt
trên sẽ bị đánh thuế cho cả chủ và thợ.
Chế độ làm việc có thể thực hiện bằng 2 cách:
a- 8 giờ x 4 ngày x 50 tuần: Với cách a, ngƣời lao
động có thể vừa làm việc, vừa theo học những
khóa học thƣờng kỳ bán thời gian.
b- 8 giờ x 6 ngày x 33 tuần 2 ngày: Với cách b,
ngƣời lao động có thể dành hẳn 4 tháng cho những
kế hoạch riêng tƣ.
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 31
Đó là gia tăng số đơn vị công việc làm của xã
hội.
C2- GIA TĂNG NHU CẦU VÀ KHẢ NĂNG
TIÊU THỤ CỦA CON NGƢỜI.
Không thể xem lào động là hàng hóa để áp dụng
quy luật cung cầu của thị trƣờng. Ngƣời lao động
phải đƣợc trả công xứng đáng là con ngƣời. Phí tổn
lao động phải chiếm một giá trị tƣơng xứng trong
giá thành sản phẩm.
Có nhƣ vậy ngƣời lao động mới có khả năng
tiêu thụ sản phẩm của xã hội hầu nâng cao cuộc
sống của họ, đồng thời giúp gia tăng sức cầu của thị
trƣờng hàng hóa và làm tăng sức sản xuất, để thị
trƣờng không thể suy thoái.
C3- TẠO THÊM NHIỀU VIỆC LÀM KHÁC
PHỤC VỤ CON NGƢỜI
Khi ngƣời lao động có thời gian do nhờ máy
móc giúp sức, có thu nhập nhờ hiệu quả lao động
của ngƣời lao động đƣợc trả giá đúng mức, ngƣời
lao động mới có điều kiện thụ hƣởng những sản
phẩm VĂN CHƢƠNG, MỸ THUẬT, DU LỊCH,
HƢỚNH DẪN HỌC TẬP…
Có nhu cầu nầy, nhiều loại hình sản phẩm mới đƣợc
cung ứng cho xã hội, tạo thêm việc làm mới cho
con ngƣời.
D- CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
D1- GIA TĂNG NHU CẦU TIÊU THỤ CỦA CON
NGƢỜI
Trong hoàn cảnh máy móc giúp gia tăng sản xuất,
muốn giải quyết một cách cân bằng sự thặng dƣ lao
động, xã hội cần vừa giảm bớt số giờ lao động hàng
năm, vừa tạo thêm việc làm cho xã hội
Giải pháp bớt giờ làm trong tuần giúp con
ngƣời có điều kiện nâng cao sự học vấn, làm đẹp
cuộc sống hơn, đời sống con ngƣời cân bằng hơn,
nhƣng vẫn chƣa giải quyết hoàn toàn sự thặng dƣ
lao động.
Nhƣ vậy chúng ta không thể cứ bớt đi số
giờ làm việc trong tuần của ngƣời lao động nhƣ
trƣớc đây mà chúng ta phải bớt thời gian làm việc
trong năm.
Thay thế chế độ làm việc:
40 giờ x 50 tuần bằng chế độ làm việc 44 giờ x 44
tuần.
Với cách nầy, ngƣời lao động giảm 64 giờ /
năm, và đƣợc nghỉ 8 tuần lễ liên tục, có thể đi du
lịch, hoặc theo học một môn học nào mà họ yêu
thích; nhƣ vẽ, nhạc, chụp hình, quay phim, máy
tính, cắm hoa, thƣ họa, y học thƣờng thức, thể dục
thể thao, võ nghệ, khí công, làm từ thiện… tạo nên
những công ăn việc làm mới cho xã hội.
D2- GIẢI PHÁP CHO CÁC QUỐC GIA NGHÈO
Ở các quốc gia nghèo ngoài việc thâm dụng
lao động còn phải giải quyết nạn tăng nguồn cung
lao động do gia tăng dân số.
Nhƣ vậy, để giải quyết nạn thất nghiệp ở
các quốc gia nghèo, phải có những biện pháp tổng
thể nhƣ:
- Giảm sinh đẻ.
- Chọn lựa giải pháp công nghệ sản xuất theo
hƣớng vừa tự động hóa vừa thâm dụng lao động.
- Mời gọi đầu tƣ nƣớc ngoài.
- Quan tâm phát triển những ngành thâm dụng lao
động.
- Xuất khẩu lao động.
Chính những nhà khoa học, ngƣời chế tạo ra máy
móc đã giải phóng con ngƣời, thì những nhà quản
lý xã hội phải làm thế nào cho khoa học và máy
móc thực sự phục vụ con ngƣời chứ không thể để
khoa học và máy móc cạnh tranh, chống lại quyền
làm việc của con ngƣời; dù nhân danh bất cứ lý do
nào.
Nguyễn văn Phước
Westminster ngày 1 tháng 2 năm 2010
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 32
Trang Thơ
Liêu Hoàn Vũ
MỘT THỜI ĐỂ NHỚ
Hoàng hôn hiu hắt buổi chiều đông
bóng ngƣời lãng tử gót phiêu bồng
dừng gót nhìn quanh ngàn lá rụng
đèn vàng hiu hắt gợi nhớ mong.
Chợt nhớ tuổi xanh lúc đến trƣờng
áo trắng tình thơ lắm tơ vƣơng
những buổi chiều mƣa buồn tiếng nhạc
ly ca-fé nóng đợi ngƣời thƣơng.
Ngƣời tình ngày xƣa nhớ ta không?
bao năm dong ruổi nhạt má hồng
hỏi em còn nhớ hƣơng tình cũ?
để lại trong đời ai chờ mong.
Thầy Cô, bạn hữu giờ tản lạc
chắc hẳn phong trần bạc tóc sƣơng
hôm qua nhận đƣợc tin ngƣời mất
kẻ còn ở lại tim đoạn trƣờng.
Thôi nhé cuộc đời nhƣ gió thoảng
bao năm kỷ niệm lòng nhớ thƣơng
tha thiết tình ngƣời đời viễn xứ
một thời để nhớ dƣới mái trƣờng.
Chân Dung tác giả
Liêu Hoàn Vũ
Một Ngày...
Một ngày ta quen nhau
sóng tình dâng trong mắt
không nói nhƣng rất thật
tiếng gọi từ con tim.
Một ngày tình yêu đến
ngây ngất với tình si
men nồng câu ân ái
nông nổi tuổi xuân thì.
Một ngày tình bổng nhạt
tự hỏi tình là chi
sau cơn say tỉnh giấc
lặng lẻ tình ra đi.
Một ngày khi chia tay
ngở ngàng trong ánh mắt
mặn đắng phút từ ly
chẳng biết nói lời gì.
Liêu Hoàn Vũ
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 33
Ngây thơ
Cầu Phú Lâm dốc cao luôn lộng gió
Đạp xe hoài mà sao vẫn chƣa qua...!
Nón em che kẻo nắng lẻn hôn mình
Má sẽ nám em không còn xinh nữa!
Anh theo sau ngập ngừng không dám hỏi !
Có nói nhiều em cũng chẳng buồn nghe ?!
Tội cho anh bao ngày theo em đấy..!
Dệt vần thơ thƣơng nhớ vẫn chƣa trao !
Muốn tặng em nhƣng lòng sao bối rối ?!
Lại quay đi thoáng em mỉm nụ cƣời
Ôi ngày ấy sao mình ngây thơ thế !
Bao năm rồi anh còn nhớ ngƣơi xƣa ?
Bốn mƣơi năm đời ta cùng lận đận
Khổ đau nhiều qua vận nƣớc điêu linh
Đời hai ngả nhớ nhau mà chẳng thấy
Ngƣời yêu xƣa nay tóc hẳn phai màu
Thôi anh nhé, giữ trong lòng anh mãi
Cô bé hiền xinh xắn của ngày xƣa....
Thủy Tiên
Giao Thừa
Nơi Này Giữa Đêm
Đông
Nếu Tết này em trở về nơi đó
Biết anh có còn vẫn đợi em không
Hay lá phủ cho lối về che kín
Em vẫn nghe tim xao xuyến bồi hồi
Nếu Tết này em về qua Lê Lợi
Anh có còn chờ em nhƣ thƣở nao
Hay thời gian đã làm tình phôi nhạt
Bao đổi thay anh quên truyện chúng mình
Nếu Tết này em ghé qua hẻm xƣa
Anh có còn chờ em trên gác nhỏ
Ánh mắt anh rộn ngời bao hạnh phúc
Nhìn em triù mến cho em thẹn thùng
Truyện tình ngây ngô xƣa, trong tiềm thức
Ẩn hiện chập chờn con sóng nhấp nho
Gió luà qua rừng lá bay, mƣa bụi
Giao Thừa nơi này đến giữa đêm đông
Lâm Kim Chung
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 34
Chúc Thầy Cô
Bạn Cũ Vẫn Trường
Sinh
Ngày rời trƣờng em vửa tròn mƣời tám
Tuổi trăng tròn nhiều lắm bao ƣớc mơ
Mơ trăng sao cuộc sống đến bao điều
Bao ƣớc hẹn tƣơng lai còn phơi phơi
Ngờ đâu ngày càng một càng gian khó
Bƣớc vào đời em hụt hẫng đôi chân tay
Nhớ Thầy Cô Bạn cũ chung mái trƣờng
Tƣởng đƣợc thấy nhau sau ngàn năm cũ
Em ra đi mà không hẹn ngày trở lại
Thăm Thầy Cô Bạn Cũ lẫn trƣờng xƣa
Cuộc sống trăm phần ngàn cơn khó
Không còn mơ mộng nữa tuổi thơ ngây
Mới đó mà đã bao năm xƣa cũ
Muốn về thăm lại mái trƣờng xƣa
Nơi mà em ấp ủ đã bao điều
Mong có một tƣơng lai đầy sáng lạng
Thầy Cô Bạn cũ đã xa trƣờng
Biết ở nơi đâu tìm thăm lại
Mƣợn tiếng thơ ca đăng cánh nhạn
Chúc Thầy Cô Bạn cũ vẫn trƣờng sinh
Nguyễn Kim Minh
Tết nhất… rõ khổ!
Có lẽ từ lâu lắm, hai chữ “Tết nhất” là câu cửa
miệng ngƣời ta thƣờng nghe mỗi khi xuân về tết
đến. Nhớ lại hồi tôi còn bé, chừng 8, 9 tuổi, mỗi
khi gió đổi chiều mát lạnh, nắng trở nên dịu dàng
và nhạt màu trên những mái “tole” lụp xụp của cái
chợ bé xíu trƣớc cửa nhà tôi; là khi những cánh én
chao nghiêng vui vẻ trong buổi chiều ba mƣơi tết
rất yên bình và rộn rang; cũng là lúc bà trùm họ
của cái giáo xứ Lạc Quang bé xíu nằm bên QL4
dẫn vào Sài Gòn, cƣời rạng rỡ với hàm răng đen
bóng “thiếu vắng” của bà, lễ mễ với cái khay có
cặp bánh chƣng xanh óng trịnh trọng đặt lên bàn
nhà tôi:
- Ối giời ôi! Tết nhất mà bà “Đại!”
Câu “cảm thán” vui vẻ ấy đƣợc thốt ra khi mẹ tôi
từ chối theo phép lịch sự cái món quà cuối năm
đầy hấp dẫn, rất “đậm đà bản sắc dân tộc” (tuy mẹ
tôi tuổi còn nhỏ, chỉ trong ngoài 30, nhƣng “danh
chức” thì to nhất làng vì bố tôi mang lon đại úy,
mỗi khi về nhà lính tráng tiền hô hậu ủng oai ra
phết!) Phải nói rằng ngay lúc đó, tôi thấy bà trùm
họ thật dễ thƣơng và rạng ngời hạnh phúc vì đƣợc
cho đi cái mà bà ta vẫn tự hào là ngon nhất làng
kia. Chả bù thƣờng ngày bà nắm lấy tai tôi la
toáng lên:
- Này nhá! cậu cả mà còn bắn vỡ rơi rụng thế này
thì tôi mách bà
“Đại” đánh vỡ
mông cậu ra đấy
nhá! nhá…!
Thế thì “Tết
nhất” chứ không
phải “Tết nhì”
hay “Tết ba.”
Mà thật ra thì ngoài Tết Nguyên đán vào mùa xuân
(đầu năm âm lịch) chúng ta còn Tết Đoan ngọ
(mùng năm tháng năm âm lịch), Tết Trung thu
(vào rằm tháng tám âm lịch) những cái “Tết” có lẽ
là của ngƣời Hoa thâm nhập vào nƣớc ta hồi nảo
hồi nào. Rồi lại thêm những cái “Tết” tự biên tự
diễn nhƣ những năm sau 1975 ngƣời ta gọi ngày
“20 tháng 11” (Dƣơng lịch) là “Tết Thầy;” ngày
“Mother‟s day” là “Tết Mẹ;” “Father‟s day” là
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 35
“Tết Cha”… và có lẽ còn nhiều kiểu cách nói khác
nữa của nền báo chí hiện đại quốc nội…
Quay trở lại với “Tết nhất,” vậy tại sao lại là nhất?
Tôi chƣa nghe ai gọi Tết Đoan ngọ là “Tết nhì,” hay
Tết Trung thu là “Tết ba” - kể cả An-nam lẫn Trung
Hoa. Nhƣ vậy có phải dân ta muốn ám chỉ rằng Tết
ấy (Nguyên đán) là duy nhất? Chỉ có một mà thôi
(Tết ta mà lỵ?) không phải Tết Tầu (mà thực ra là
Tầu 99%) là cái Tết mà dân ta, cả nƣớc, trăm họ, kể
cả triệu triệu “khúc ruột ngàn khơi” nôn nao, mong
chờ, hồi hộp, âu sầu (!) khi xuân lò dò đến bên
thềm…
Nói đến Tết thì thể nào cũng phải nói đến bánh
chƣng, bánh tét, dƣa hành, củ kiệu, thịt kho tầu (lại
Tầu!) Mà cái vụ thịt kho (tầu) nhừ tử với nƣớc dừa
hột vịt, đôi lúc biến chiêu (?) với hột vịt muối và thể
hiện thêm tính “hiện đại” bằng cách cho thêm vài
chai “Coca-cola” thay cho nƣớc màu (vì sợ ung
thƣ?) Và gọi cái “hỗn hợp” ấy là thịt kho “tầu” thì
dân ta quả là rất sáng tạo! Khâm phục thay! Thế thì
“Tết nhất” cũng có thể là lần duy nhất đƣợc dịp “xả
láng” ăn nhậu, ăn không kiêng, là dịp để dân ta xài
sang nhất, diện đồ kẻng nhất, nhậu lu bù nhất (ít ra
là ở quốc nội?) xác pháo trƣớc sân nhà nhiều nhất
(xả rác cũng nhiều nhất) cái gì cũng nhất tuốt tuồn
tuột đều đem ra cho bà con làng nƣớc chiêm
ngƣỡng lé mắt chơi! Nói đến đây tôi lại nhớ những
cái tết sau 1975. Chả là vào dịp tết thì hợp tác xã
thƣờng phân phối những mặt hàng “xa xỉ” cho bà
con dân phố nhƣ vải quần (năm ấy là vải “jean”) vải
áo “chemise cotton,” thuốc lá “Xuân Mới” bao bạc,
“Sông Cầu” thơm lừng mùi “vani,” rƣợu “Lúa
Mới”…, những mặt hàng gia dụng thƣờng ngày ít
thấy nhƣ “phích” nƣớc (bình thủy) ly chén v..v..
Cái tết năm ấy tôi còn nhớ sáng mùng một ra đƣờng
thì thấy nhiều ngƣời mặc đồ giống mình quá (bây
giờ gọi là “đụng hang”). May mà tôi đã chơi mấy
cái nẹp túi màu đỏ cho khác một tí! Còn áo của các
cô các bà thì tuyền là mầu hồng và vàng nhạt!
Thế mới biết, những cái gì hạng nhất thì dân ta để
dành đến Tết. “Tết nhất mà lỵ,” hay là “vui nhƣ
tết.” Thế nhƣng cũng thƣờng nghe “Tết nhất … rõ
khổ” khi phải móc túi trả tiền gửi xe gấp năm, mƣời
lần; tô phở gấp đôi tiền vì “Tết nhất mà lỵ!?” hay là
lúc phải chen chúc dài ngƣời hàng giờ trong siêu
thị; hay nhìn thấy xấp bao lì xì phải bỏ tiền vào và
ca cẩm “bà con họ hàng chả chịu chấp hành kế
hoạch hóa (gia đình) gì cả!” Thật là rõ khổ chứ lỵ!
“Tết nhất” cũng có thể là để chỉ thời điểm đầu tiên
của một năm âm lịch, khởi đầu cho mùa xuân mặc
dù mùa xuân của Sài gòn chằng khác mùa hè là
mấy! Nhắc đến cái sự “khởi đầu” này tôi bổng nhớ
có năm dân ta lại bắt đầu sớm hơn Trung Hoa một
ngày, vừa xong ngày 29 tháng chạp âm lịch lại đến
ngay mồng một trong khi họ (Trung hoa) tà tà qua
ngày 30 rồi mới đến mồng một. Tính ra là họ “lời”
thêm đƣợc một ngày tết (nhƣ thằng con tôi nói một
cách tiếc rẻ). Tôi hỏi một vài ngƣời thì đƣợc trả
lời rằng những nhà “lịch học” thông thái của chúng
ta đã tính đúng tính đủ, tính chính xác nên thằng
con tôi thiệt mất một ngày Tết! Quả là Tết ta ấy
chứ, cũng phải khác thiên hạ nhẩy (!?)
Mùa xuân, khởi đầu của sức sống, của hy vọng,
của những toan tính, những dự định, khởi đầu của
những ƣớc mơ. Ngƣời ta vẫn thƣờng nói:
- Năm nay tui nhất quyết phải tập thể dục, phải
giảm mập 5kg (!) Năm nay tui phải đƣợc lên
lƣơng (cái này còn tùy sếp!), phải đổi xe, phải có
ngƣời “iêu…” hay cụ thể hơn “ra giêng anh cƣới
em…” chẳng hạn.
Hay nói theo cung cách “nhà quan” nhƣ:
- Năm mới thắng lợi mới! Năm mới tiến bộ hơn
năm cũ!?
Hoặc theo phong cách doanh nhân:
- Năm mới tiền dzô nhƣ nƣớc! (Trời ạ! Nƣớc bây
giờ thì vàng chạch. Thỉnh thoảng sáng ra đƣợc ông
Thủy cục tặng cho một thùng cà phê đen - thật sự -
tá hỏa!)
Hay nhƣ nhỏ cháu tôi ƣớc ao:
- Năm mới con “ƣợc” lên lớp. Cô giáo con hông
“ánh” con!
“Tết nhất,” bắt đầu bằng những niềm mơ ƣớc nhƣ
cháu tôi, sự mong mỏi về hạnh phúc, có thể là vật
chất hay tinh thần của một con ngƣời, một gia
đình và có khi là của cả một dòng tộc, dân tộc hay
cả nƣớc chứ chẳng chơi… Đến đây tôi thấy thật là
khâm phục và ngƣỡng mộ dân ta quá thể! Chỉ hai
chữ đơn giản mà hàm chứa quá ƣ súc tích, nói lên
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 36
đƣợc nhiều điều, diển tả đƣợc nhiều trạng thái nhƣ
một hình-dung-từ rất rộng mà lại sâu sắc (sic!)
Với cái sự
hiểu biết
sâu sắc cở
cơi đựng
trầu của
ngoại tôi,
cái sự hiểu
biết ngó
lên trời
tròn vành
vạch cở miệng giếng khơi nhà nội (cái này hơi “nổ”
vì nhà nội tôi không có giếng!) Tôi đã mạn phép
lạm bàn về “Tết nhất, xuân thì” đủ thứ. Thôi thì để
xem chơi ba ngày tết…
Ủa! Mà hình nhƣ có tiếng la của “ai” ở dƣới bếp,
nồi thịt kho “dân tộc và hiện đại” của “nhà tôi” hình
nhƣ đang bị “điện hại” thì phải. Lúc này “gas” mắc
quá nên chuyển hƣớng “triển khai” sang bếp từ.
Vậy là đành phải chấm dứt tại đây. Chƣ huynh nào
có cao kiến gì thì hẹn năm sau ta bàn tiếp vậy.
“Tết với nhất… rõ khổ.”
VMH – Xuân Tân Mão 2011.
Hoa Lục Bình Ảnh: Vy Vy
Sông đời có lẽ...
Chiều ba mƣơi bỗng thèm ra phố
Nhìn sông ngƣời hối hả về mau
Chiều liêu xiêu váng vất còn đau
Em giữa phố khóc cƣời nghiêng ngửa
Chiều ba mƣơi sông đời có lẽ…
Chảy nỗi niềm, chảy ngƣợc vào trong
Chiều ba mƣơi xuân tận, ngày cùng?
Mai là tết, vàng son còn mất?
Mai là xuân, đầy lộc lên chùa
Hôn mồng một, em cƣời rung lá
Hôn mồng hai, khách lạ đầy sân
Còn mồng ba, một nắm tay gần
Một khe khẽ, chút xuân thầm, em khóc…
Chiều ba mƣơi thôi còn chút lửa
Em cho ngƣời hồng nụ xuân đời
Đời tinh khôi, nhƣ em tinh khôi
Nhƣ chiều nay, mây sẽ về giữa phố …
VMH
Xuân Tân Mão 2011
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 37
Trang Thơ
Nguyễn Đức Cường
CHỜ XUÂN
Ta đứng bên ngoài cuộc tỉnh say,
Mà đau thế sự đến hôm nay.
Những thƣơng tim nát thời oan khuất,
Chôn dấu lòng son chuyện đắng cay.
Bút vẫn vờn quanh trang huyết lệ,
Mực còn xuôi ngƣợc nét bi ai.
Mùa Đông non nƣớc, ôi ! dài quá,
Ray rứt chờ Xuân đếm tháng ngày.
Ray rứt chờ Xuân đếm tháng ngày,
Hay là vô vọng ngóng trông ai ?
Ngƣời đi bao góc trời tê buốt,
Kẻ ở trăm miền đất xót cay.
Nếu đã cùng nhau mơ thƣở ấy,
Thôi đừng dang dở mộng xƣa nay.
Còn đây hƣơng khói mùa vui cũ,
Bay thoảng cho đời một thoáng say !
NGUYỄN ĐỨC CƯỜNG - MĐC1970
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 38
KHÍ CÔNG, VŨ KHÍ
CỨU LẤY HOA KỲ. Nguyễn Văn Phước
Tại sao phải cứu lấy Hoa Kỳ?
Hoa kỳ đang lâm vào đại họa, không phải đến từ
khủng bố, cũng không đến từ ngoại bang (Hoa kỳ
đƣợc bảo vệ bằng 2 đại dƣơng và một nền kinh tế
và quân sự hùng hậu), cũng không đến từ nghèo khó
bịnh tật, mà đến từ sự giàu có hùng mạnh của chính
nó: BỊNH BÉO PHÌ – Hệ quả của sự ăn uống thừa
thải và thiếu vận động gây nên.
Với đà tăng cân hiện nay, chỉ trong 20-30 năm nữa,
1/4 dân số Hoa Kỳ sẽ lâm vào bịnh béo phì mà hậu
quả đi đến là bịnh Tiểu đƣờng, khiến phải tốn hàng
trăm tỷ đồng hàng năm và mất đi 1/5 tuổi thọ của ¼
dân số ấy. Có nghĩa nó sẽ giảm mất 1/20 tức 5% đời
sống dân chúng Hoa kỳ tƣơng đƣơng với 20 triệu
ngƣời, một tổn thất khổng lồ về con ngƣời và tài
chánh.
Để tiêu thụ số lƣợng thực phẩm khổng lồ thừa mứa,
hàng mấy mƣơi năm nay ngành kỹ nghệ chế biến
thực phẩm Hoa Kỳ ra sức chế biến những món ăn
hấp dẩn để mời gọi con ngƣời có thể ăn bất cứ lúc
nào, bất cứ nơi nào. Chính những kích thích tố tăng
trƣởng, những hoá chất kích thích sự thèm ăn còn
tồn đọng trong thịt gia súc, gia cầm, cá nuôi, cây
trồng... đã là những tên khủng bố âm thầm chui vào
cơ thể chúng ta, điều khiển chúng ta càng ăn nhiều,
càng thấy thèm ăn.
Để nuôi dƣởng và duy trì sự hoạt động của cơ thể,
các mô của con ngƣời cần những chất bổ sung. Khi
những chất nầy suy giảm, một tín hiệu đòi hỏi đƣợc
phát lên não. Từ não phát lịnh cho các tuyến tiết ra
các chất kích thích đòi bổ sung.
Một trong những chất mà cơ thể đòi hỏi cấp bách
là NĂNG LƢỢNG (ENERGY). Thiếu nó, con
ngƣời trở nên suy kiệt nhanh chóng, nên tín hiệu
đòi hỏi bổ sung bao giờ cũng dồn dập, khiến ngƣời
lả ra, đổ mồ hôi, nhất là bụng xót xa... khiến ngƣời
ta nghĩ rằng phải ăn ngay một cái gì đó.
Thế là một bữa ăn thịnh soạn đƣợc bày ra để đáp
ứng cho sự đòi hỏi đó, trong khi chỉ cần một phần
nhỏ trong bữa ăn ấy thực sự bổ sung đáp ứng cho
sự đòi hỏi của cơ thể. Phần lớn còn lại bắt buộc lá
gan chúng ta phải làm việc cật lực để chuyển đổi
thành vật tồn trử đƣa vào kho dự trữ - là mỡ: Béo
phì xuất phát từ đây. Để loại trừ nó các nhà khoa
học khuyên chúng ta phải vận động: không có làm
việc tay chân thì thể dục thể thao.
Chúng ta biết trong thực phẩm luôn có các khoáng
chất vi lƣợng, các “vitamin” và 3 tố chất căn bản:
“Protid,” “Lipid” và “Glucide.” Để chống béo phì,
ngƣời ta nghĩ ngay đến việc ăn một cách chọn lọc,
loại ra thủ phạm gây nên béo phì nhiều nhất: Anh
“Lipide” - các loại mở, dầu; kế đến anh dể dàng
chuyển hóa thành mở - “Glucide” bị ngăn cấm,
còn trái cây và rau quả đƣợc cho ƣu tiên sử dụng.
Nhƣng tạo hóa
có sự mầu
nhiệm, cho
phép tự cơ thể
chúng ta có thể
điều hòa biến
đổi từ tác dụng
của tố chất nầy sang tác dụng của tố chất kia theo
nhu cầu của cơ thể.
Chính điều kỳ diệu nầy đã giúp cho con trâu con
bò chỉ ăn cỏ, rơm mà cho ra thịt, sữa; giúp cho dân
tộc Việt Nam nghèo đói vẫn duy trì đƣợc nòi giống
trong những lúc khó khăn nhất bằng chén cơm và
hạt muối.
Chính vì không biết thấu đáo điều nầy mà nhà
Dinh dƣỡng học Atkin một thời nổi đình nổi đám
bằng cách chỉ dẩn cho thiên hạ các phƣơng pháp
“DIET” sai lầm, đã không tự giữ đƣợc mạng sống
của chính mình đến nổi phải bị đột tử vì chứng
bịnh tim mạch.
Quy trình ăn chọn lọc và thể dục thể thao nầy đƣợc
áp dụng bao lâu nay, nhƣng tỷ lệ ngƣời béo phì vẫn
tăng. Phải chăng có gì đó sai lầm!?
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 39
Chúng ta trở lại tiền đề lúc khởi đầu, khi cơ thể phát
tín hiệu bổ sung, chúng ta phải tìm hiểu bổ sung cái
gì để thỏa mản cho sự thiếu thốn của cơ thể và
chúng ta chỉ bổ sung đúng sự thiếu thốn ấy mà
không nên bổ sung dƣ thừa để không thể lấy ra
đƣợc nên béo phì. Hơn thế nữa, sự ăn uống dƣ thừa
đôi khi không đến từ nhu cầu mà đến chính từ sự
thèm ăn của chúng ta. Làm sao chống lại cơn thèm
ăn là chống đƣợc béo phì.
Xem lại, cơ thể chúng ta không trực tiếp dùng
những thức ăn thô, sau khi đƣợc cơ thể chế biến
những thức ăn nầy đƣợc “oxy” trong hơi thở của
chúng ta “oxyd” hóa nó mới phục vụ cho cơ thể con
ngƣời, khi thiếu những chất “oxyd” hóa nầy cơ thể
phát tín hiệu đòi hỏi bổ sung. Có những tín hiệu cụ
thể nhƣ: cảm giác đói đòi ăn, cảm giác khát đòi
uống, cảm giác ngạt đòi thở. Tuy nhiên có những
tín hiệu không cụ thể làm chúng ta lầm tƣởng đƣa
đến sự đáp ứng sai lầm gây mất cân bằng, tạo nên
béo phì.
Chúng ta đã biết trong cơ thể mỗi ngƣời luôn có
một kho dự trữ. Để giảm tồn lƣợng của kho dự trữ
nầy, khi chúng ta có tín hiệu đòi hỏi bổ sung của cơ
thể, thay vì tiếp tục nạp vào nhƣ đã lầm tƣởng yêu
cầu của nó, để tiếp tục gây dƣ thừa, chúng ta tìm
cách buộc cơ thể phải mở kho tồn trử nầy ra sử
dụng. Khi nhu cầu của cơ thể đƣợc bổ sung, tín
hiệu đòi hỏi sẽ hết. Đó là cách giảm cân, chống béo
phì.
Cách nầy đã đƣợc các nhà nghiên cứu Phƣơng
Đông nhƣ Ấn Độ, Trung Hoa nghiên cứu và phổ
biến từ hàng ngàn năm nay, đƣợc gọi là “KHÍ
CÔNG.” Điều nầy không đƣợc các nhà khoa học
quan tâm và các nhà truyền thông phổ biến vì không
có ai tài trợ cho họ để nghiên cứu và quảng cáo
“không khí,” cái mà ai cũng có thể thủ đắc một
cách dể dàng, không cần phải mua bán nhƣ thức ăn
thức uống.
Nhƣng khí công là gì? Đơn giản hay phức tạp?
Làm sao khí công giúp giãm béo phì? Những vấn
đế nầy không thể trình bày trong khuôn khổ một bài
báo, xin khất lại một dịp khác.
Nguyễn Văn Phước
MĐC K69
Hồi ký
Trường Mạc Đĩnh Chi sau 51 năm.
Mặc dầu đã 51 năm kể từ ngày bƣớc chân vào năm
Đệ thất B, lớp học toàn nam sinh, sinh ngữ 1 là
Anh Văn (riêng lớp Đệ Thất C sinh ngữ 1 lại là
Pháp Văn, và nam nữ hỗn hợp), tôi vẫn không bao
giờ quên đƣợc những hình ảnh kỷ niệm sâu đậm.
Tôi xin kể ra một số chuyện mà tôi nghĩ rất đáng
nhớ nhƣ sau:
Cổng trường Mạc Đĩnh Chi năm 1968
- Rất ít ngƣời biết đến Trƣờng Trung Học Mạc
Đĩnh Chi (MĐC) là một ngôi trƣờng trung học
công lập duy nhứt trong vùng Saigon có cả nam và
nữ sinh học chung. Trƣờng MĐC cũng là trƣờng
duy nhất có ƣu tiên đón nhận học sinh Việt gốc
Hoa. Tôi đã cảm thấy thật may mắn đƣợc trung
tuyển vào lớp Đệ thất… Thật ra, tôi bị hú hồn lúc
đi xem kết quả kỳ thi tuyển nhập học Đệ Thất; bởi
vì dò đi dò lại trên danh sách thí sinh trúng tuyển,
tôi vẫn không thấy tên mình. Đành phải thất vọng
lủi thủi về nhà; nhƣng một anh bạn thân lại đến nhà
chúc mừng: “Mầy đậu rồi, đậu thủ khoa trong danh
sách phụ kế bên.” Thì ra có thêm một danh sách
phụ dành riêng cho ngƣời Việt gốc Hoa mà chƣa
có thi bằng tiểu học (chỉ dùng bản dịch bằng tƣơng
đƣơng
của trƣờng Hoa mà thôi). Thế là tôi ngay lập tức
đến trƣờng và gặp Cô Long thƣ ký, cô có tóc để
dài tới lƣng, để đóng tiền niên liễm cho năm Đệ
thất.
- Mỗi sáng thứ hai, thầy trò đều tham dự lễ chào cờ
nghiêm chỉnh đầu tuần. Nam sinh mặc áo và quần
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 40
toàn màu trắng (ngày thƣờng thì áo trắng quần
xanh); còn nữ sinh thì áo dài xanh (thay vì áo dài
trắng trong ngày thƣờng). Mọi ngƣời đều phải may
phù hiệu Trƣờng MĐC trên áo.
- Lúc cuối năm trƣớc khi chia tay nghỉ Tết, mỗi lớp
đều tƣng bừng tổ chức tất niên với trang trí thật đẹp,
cùng với bánh mứt, nƣớc ngọt, và cả các mục văn
nghệ để đón mừng đại diện lớp khác đến dự trong
bầu không khí vui nhộn và thân mật.
- Khoảng năm Đệ tam, phong trào nhạc ngoại quốc
cũng du nhập vào trƣờng. Cảnh lắc “twist” thƣờng
xuất hiện trong giờ ra chơi. Đặc biệt, thầy giám thị
Phạm Ngọc Đĩnh đã khuyến khích tinh thần văn
nghệ. Thầy đã cho trình diễn nhạc Việt cùng nhạc
ngoại quốc ngoài sân trƣờng vào những buổi trƣa
Thứ Bảy cuối tuần. Vui thật là vui.
- Trƣờng MĐC chẳng những làm ngạc nhiên nhiều
ngƣời và nổi tiếng trong các màn trình diễn văn
nghệ liên trƣờng vùng Saigon. Đồng thời học sinh
của trƣờng cũng phấn khởi tự hào về một số lớn học
sinh MĐC ra trƣờng đã trúng tuyển vào các phân
khoa đại học chuyên môn trong vùng Saigon nhƣ
Trƣờng Y Khoa, Dƣợc Khoa, Nha Khoa, Kỹ Thuật
Phú Thọ, Kiến Trúc, Nông Lâm Súc…
- Tuy nhiên, chiến cuộc ngày càng khốc liệt, học
sinh MĐC không phải là ngoại lệ, nhiều ngƣời đã
nhận lãnh trách nhiệm của trai thời loạn, lên đƣờng
nhập ngũ. Nhiều cựu học sinh MĐC đã hy sinh
ngoài mặt trận nhƣ: Anh Tăng Chấn Kiệt cùng lớp
tôi, vừa học xong Đệ Lục, đã đăng vào Hải Quân,
và là cũng học sinh MĐC đầu tiên đã tử trận (giang
đỉnh của anh trúng thủy lôi của địch trên sông). Sau
đó hai anh cùng lớp cũng tử trận là Phạm Kim Anh
(biệt kích), và Hứa Văn Nghĩa (phi công trực
thăng)… Học sinh hiển hách nhứt là Thiếu úy
Mạch Khai Yum, vị sĩ quan trẻ tuổi nhứt QLVNCH,
ở cấp bậc thấp nhứt, đã đƣợc lảnh Bảo Quốc Huân
Chƣơng lúc còn sống (Yum là ngƣời đầu tiên cầm
cờ vàng Việt Nam, dẫn lính nhảy xuống “Che Pol”
trong trận chiến Hạ Lào 1972).
Sau ngày 20 tháng 4 năm 1975, một số thầy cô và
cựu hoc sinh MĐC đã may mắn tìm đến bến bờ tự
do ở hải ngoại, vẫn tiếp tục vƣơn lên thành công
đáng kể trong nhiều lãnh vực khác nhau. Chúng ta
cũng không quên công sức và thiện chí của anh
Liêu Hoàn Vũ, cùng các chuyên viên kỹ thuật MĐC
đã thành công tạo dựng và duy trì trang mạng
“Macdinhchreunion.net” hải ngoại, để thầy trò
MĐC có đƣợc một phƣơng tiên liên lạc thông tin
thật hữu hiệu và tiện lợi. Ngoài ra thầy cô Lý Di,
Nguyễn Trí Thành cùng các thầy cô khác, cũng đã
tạo động lực chủ yếu cho nhiều buổi họp mặt tất
niên hay “picnic” hè trong tình thân thiết truyền
thống của MDCR (MacDinhChiReunion) hải
ngoại.
Lƣ Khải Minh
MĐC K66
Bụi Tre Ảnh: Vy Vy
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 41
Trang thơ
Nguyễn Thị Khánh Minh
Và
Mùa
Xuân
Và mùa xuân nhƣ lại từ đầu
Màu hoa nhƣ tƣởng đã quên lâu
Bàn tay năm ngón thƣơng thƣơng gọi
Hoa tím ngoài kia chợt bỗng đâu…
Đã đến giữa thời gian rực rỡ
Tháng giêng hồng qúa một xuân xanh
Long lanh bàn tay năm ngón mở
Bàn tay năm ngón đợi long lanh
Trời buổi đó một lần đứng lại
Về xao giấc mộng giữa hai tay
Nhé, giùm em, chúc lòng ngần ngại
Đôi bàn tay nói nhỏ nhau hay
Từ buổi đó biết rằng trong trẻo
Là dòng khơi lăng hết niềm đau
Từ buổi đó niềm vui nắm lại
Bàn tay mƣờn ngón nhớ thƣơng nhau
Nguyễn Thị Khánh Minh
XUÂN MUỘN
Đâu ngờ thuở ấy mong manh
Sáng nay chợt nắng, giật mình, hoa xƣa
Nụ đơm từ buổi xuân thơ
Vàng hoa chín muộn
Bây giờ mới hay
NTKM
Hoa Điên Điển Ảnh: Vy Vy
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 42
TRĂNG MẬT
Im nhé, mùa xuân đang bói hƣơng
Bén xoan hoa con nắng vàng rơm
Ngày mẩy non nụ cƣời măng nhú
Anh đón em về. Trăng mật thơm
Xanh nức vƣờn xanh những tiếng chim
Tấm bé ơi bƣớc trốn bƣớc tìm
Cỏ thơm xòe bàn tay thơ trẻ
Chi chi cành hoa nắng ú tim
Cánh chim vù theo cọng rơm bay
Cây còn giấu lời thơm của qủa
Ngày còn giấu nắng trong vòm lá
Đố anh, em giấu gì trong tay?
Nguyễn Thị Khánh Minh
Ánh Trăng Ảnh: Vy Vy
ĐÊM GIAO THỪA
NĂM X A
Đêm đen hơn, trời cũng cao hơn
Gió cuối năm se se thổi buồn
Đốm thuốc ngƣời nhƣ vì sao nhỏ
Sáng lập lòe, vây tôi yêu thƣơng
Con đƣờng củ những hàng cây củ
Giờ nhìn nhau ngƣợng ngập áo mầu
Nhấp nháy đèn đi, phố long lanh nổi
Dòng ngƣời nhƣ sóng tan theo
Rơi xuống lòng tôi đam đam qúa
Mặt ngƣời thăm thẳm đêm ba mƣơi
Khói thuốc vừa bay chừng đọng lại
Trang cả mùa xuân trong tóc tôi
Đêm sâu lắng,
Gió vội vàng xuống đậm
Nghê gần lại đôi vòng tay ấm
Nụ giao thừa nở ngọt trên môi
Đƣờng thời gian, xin hãy thật dài
Cho ta đừng vội đến ngày mai
Ở lại nhé đêm ơi vời vợi
Có vì sao vừa sáng trong tôi.
Nguyễn Thị Khánh Minh
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 43
Trang thơ
Võ Quang
Mơ Về Quê-Hương Cũ
Mơ lối đi xưa hoa nở vàng
Bên sông thấy dạng chiếc đò-ngang
Không-gian thơm ngát mùi lúa mới
Nghe giọng-hò ai ở cuối làng...
Mơ buổi tan trường... trộm ngắm ai
Gió thổi tung-tăng mái tóc dài
Nắng trưa làm ửng hồng đôi má
Theo bước ai về, áo bay bay
Mơ thấy quê-hương một thuở nào
Chìm trong khói lửa, lắm thương-đau
Thấy người bạn cũ... thân đẫm máu
Lổ-loang vết đạn, vẫy tay chào.
VQ
SAY NẮNG Bỗng một cơn gió lạ Cuốn hồn vào đam-mê Tôi say-sưa, nghiêng-ngã Quên lối đi, đường về
Tôi không e đánh mất Những vun đắp trên đời Bao lời khuyên vô nghĩa
Tôi mặc kệ mọi người Vì tôi không là thánh Vững tin trước cám-dỗ Mà tôi chỉ làm người Với con tim yếu đuối
Rồi tôi tỉnh cơn say Lòng mang đầy tội-lỗi Xin tha lỗi cho tôi Xin tha lỗi cho tôi
Tôi say... say chút nắng Vì ngu ngốc rong chơi Xin quay về an-phận! Dưới bóng râm cuộc đời
VQ
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 44
Giấc Mơ Tuổi Học Trò
Xin cho tôi giấc mộng
Trở về thời niên thiếu
Sống lại tuổi học trò
Dưới mái trường thân yêu...
Nhà thơ Du Tử Lê có lần tự thú ... "tôi là một con
bò ..chúng ta là những con bò đang nhai lại những
đám cỏ trên đồi cao" Tôi thấm thía câu nói này của
nhà thơ..
Ở cái tuổi đời hiện tại chúng ta hay nhớ về những
kỷ niệm xa xƣa. Chúng ta "nhai lại" những kỷ niệm
, những đám cỏ xƣa cũ trên ngọn đồi chất chứa đầy
những kỷ niệm của một thời niên thiếu đã đi qua ..
Võ Quang , chúng ta , đôi lần cũng muốn quay về
với những kỷ niệm xƣa , nhất là tuổi học trò cho dù
chỉ là .."giấc mộng " ..Gọi là mộng vì nó không là
thực ..vì chúng ta không thể ..anh và em không thể
trẻ lại nhƣ những ngày tháng cũ "dƣới mái trƣờng
thân yêu"..
Trong niềm nhớ nhung trƣờng xƣa , có những ƣớc
muốn , có những giấc mơ rất gần và rất thật...
Cho tôi mơ nghe thấy
Lời thầy cô giảng dạy
Tiếng bạn bè xôn xao
Giọng hát em ngày ấy
Trong giấc mơ ấy.. có hình ảnh của thầy , cô ......
có bạn bè và có em.. ngƣời bạn học chung trƣờng ,
mà có lần làm trái tim học trò ghi nhớ mãi..
Cụm từ "Thầy , Cô" đi liền với từ "Giảng
dạy"...."Bạn bè" tiếp nối với cụm từ "Xôn xao"...
và từ ngữ "Em"..theo sau với "Giọng hát" ..Từ
"Em" nằm gọn trong "Giọng hát" và " Ngày ấy"..
Em của ngày xƣa với tiếng hát làm say mê anh học
trò nhiều mơ mộng.."Em" , đƣợc nhắc đến với
giọng hát ngày ấy rất trân trọng.. một kỷ niệm ,
một nét đặc trƣng của tuổi học trò , nhất là ở
trƣơng cũ Mạc Ðĩnh Chi ..
Ðoạn thơ mang đủ những hình ảnh , những nét tiêu
biểu của một vùng trời kỷ niệm .. có con ngƣời và
có cả âm thanh .. có thầy cô , có bạn bè , có em ..
có lời giảng dạy , có tiếng nói cƣời xôn xao của
bạn bè , có tiếng hát em ngày ấy ..
Mộng và mơ .. và hơn thế nữa , Võ Quang nhƣ
muốn .. sống lại với kỷ niệm , gần gũi với kỷ niệm
hơn nữa ..
Xin cho tôi bước lại
Hành lang, sân trường cũ
Con đường Lục Tỉnh đó
Những lúc đưa em về
Xin đƣợc trở lại với kỷ niệm xƣa .."bƣớc lại " cái
nơi chốn cũ với lối đi , với những hành lang , sân
trƣờng .. con đƣờng Lục Tỉnh và những lúc đƣa em
về. Nơi chốn xƣa chỉ còn lại với nỗi nhớ , và tiếc
nuối cho một thời thơ mộng cũ khi có em và có
anh trong những buổi sáng đến trƣờng , những giờ
ra chơi , những lúc tan trƣờng..
Cho tôi mơ thấy được
Em thẹn thùng che nón
Khi tôi đón cổng trường
Nụ cười thật dễ thương
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 45
Tuổi học trò , đọng lại trong tác giả là hình bóng
xƣa của cô bạn học chung trƣờng..
Cái nét đẹp thơ ngây rất học trò ấy là sự thẹn thùng
bên chiếc nón ..là những xúc động , hồi hộp khi chờ
đón nhau trƣớc cổng trƣờng .. Trong đó có nụ cƣời
của em.." nụ cƣời thật dễ thƣơng"..chỉ khi nào yêu
mới thấy nụ cƣời của ngƣời mình yêu ..thật dễ
thƣơng...
Tác giả đã có một tình yêu ..tình yêu của tuổi học
trò. Cái tình yêu ban đầu thơ ngây đó trở thành một
kỷ niệm khó quên trong mỗi chúng ta khi nhớ về
trƣờng cũ. Dù chỉ là giấc mộng..
Xin cho tôi giấc mộng
Hai đứa cùng chung bước
Nhặt cánh hoa phượng đỏ
Trao nhau nụ hôn đầu... -VQ
Tuổi học trò vẫn còn là giấc mộng đẹp trong tác
giả. Giấc mộng cùng chung bƣớc , với hình ảnh
đẹp của cành hoa phƣợng đỏ ..nhắc đến tuổi học trò
, ta thƣờng nhắc đến cành hoa phƣợng đỏ nét tiêu
biểu cho những mối tình học trò. Và hơn thế nữa là
" nụ hôn đầu"...
Nét độc đáo trong bài thơ là "nụ hôn đầu"...Hơn nữa
đời ngƣời trôi qua .."Trán đã hằn vết nhăn. Má đã
phai sắc hồng.." (Quán Lạ- Trần mộng Tú )...Anh
vẫn còn mộng và mơ .."nụ hôn đầu "...
Có lẻ nụ hôn đó vẫn còn trong giấc mộng xƣa ..
Cho đến bây giờ ..mỗi lần nhớ về trƣờng cũ .. ngƣời
của quá khứ vẫn còn thôi thúc , trái tim vẫn không
ngủ yên với giấc mơ về một thời đã xa , giấc mơ về
tuổi học trò thời niên thiếu, khó quên trong mỗi
chúng ta...
Một trong những kỷ niệm đẹp mà trong mỗi chúng
ta ..ít ra cũng một lần đã có lúc trải qua...
Nguyễn Hoàn Khải
Vƣờn cao quê ngoại
Ảnh: Vy Trƣơng
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 46
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 47
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 48
Tình Ca của tác giả
Minh Tuấn
Chân trọng gởi đến bạn bè
Thân hữu cộng đồng ngƣời
Việt Nam trên toàn cỏi Hoa Kỳ
Và Việt Nam…
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 49
Bài Phú Xuân Cảm
2011 Nguyễn Văn Phước
Nhớ bốn năm mươi năm về trước, Hàng năm cả ngàn trò tranh đua quyết liệt. Tuyển ra hơn hai trăm trẻ, tuổi đời non nớt. Điểm lại mấy ngƣời bảnh bao thành đô phố thị. Rõ ra lắm đứa thôn dã ruộng đồng sông nƣớc, Mặt mày ngơ ngáo, tóc đỏ hoe hoe, Mùi bùn còn vƣơng, áo quần xốc xếch.
Nhƣng cũng tài năng, danh tiếng một phƣơng, Cha mẹ tin yêu, tự hào chất ngất, Cùng tựu dƣới một mái trƣờng, Phú lâm, Đĩnh Chi họ Mạc. Ngày ấy,
Cô Ngọc Khánh uốn chử Nho từng nét, nắn Quốc
Ngữ từng câu.
Thầy Gia Nam luyện Tiếng Mỹ từng giọng, tập Anh
Văn từng “word.”
Nói viết thành câu nhờ Trần Ngọc Ánh, Phan Đình
Ngọc, Doãn Quý Minh Gƣơng.
Lƣu loát văn chƣơng bởi Phạm Quân Hồng, Trần
Thanh Dũng, Tƣờng Vân, Vũ Nguyệt, Tôn Thất
Lƣơng,Từ Sĩ, Bùi Loan, Thủy Tiên mở cả bầu trời
Đại Số.
Nguyễn Phƣớc Hậu, Phạm Quang Huyến, Nguyễn
Vũ Hải thách đố bao bài Hình Học.
Mạnh Bột, Thị Đức, Văn Đồng truyền những
chuyện dài Tổ Quốc Non Sông; Lê Diễn, Hồng Ân, Đại Bằng dạy các cuộc sống
muôn loài muôn vật. Dù có tiếng Mỹ, vẫn nghĩ tiếng Tây: Bạch Tuyết,
Yến, Huy, Từ Hà, Trần thị Loan, Thị Ngà, Bá
Phẫm, Thúy Nga.
Biết trò phù thủy, hiểu luật đất trời: Nguyễn văn
Hiến, Trịnh Trung Sơn Nguyễn Trí Thành,Nguyễn
Tuấn Tú, Bạch Văn Đức. Đàn ca xƣớng hát, khai mở tai trâu, có Phó Quốc
Thăng, Phạm Thế Mỹ. Triết lý cuộc đời, thành công dân tốt, nhờ Thị
Mạnh, Thanh Liêm, Nhƣ Dục. Cụ Sáu Trân râu kẽm,ngọn roi đằng đằng sát khí. Cô Huỳnh Ánh dịu dàng, nụ cƣời bao dung hiền
thục. Dẫn dắt
trò
ngoan
Hiệu
Trƣởng
Vũ Đức
Thịnh,
Lý Di
hiền
hòa. Trừng trị quỷ ma Tổng Đĩnh, Phạm văn Mạnh,
Văn Đằng nghiêm khắc… Còn nữa, còn nữa, còn biết bao Thầy Cô dày công
dạy giỗ. Lớn dần, lớn dần, lớn dần… lên những Trò ngày
nào ngơ ngác: Nam Trƣơng Vĩnh Ký mái tóc tà áo bay bay, khát
khao trong lòng; Nữ Trƣờng Gia Long những lời tán tỉnh vản ve,
đợi chờ mỏi mắt. Sân trƣờng ngoại ô khô khốc, đầy bóng quần xanh,
áo trắng; Lớp học trƣờng nghèo tƣơi mát, điểm tô hoa cài
bím thắt… Có những buổi, Văn nghệ cuối tuần Công Minh chuyên trống, Lê
Quân đàn, Đào Nam “bass.” Biểu diễn thi đua Hữu Hiếu chàng mù, Chánh Tín
ca, Phi Huệ hát. Hòn Vọng Phu, Nghìn Trùng Xa Cách làm não
lòng ngƣời. Duyên Tơ Hồng, Thiếu phụ Nam Xƣơng năm nào
cũng nhất. Trƣờng Mạc Đĩnh Chi bao ngƣời đem cả thanh
xuân gắn bó. Thầy Trần Thanh Dũng lắm phen quên ngủ vì trò
dẫn dắt…
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 50
Rồi một ngày,
Tết Mậu Thân tƣng bừng khói lửa, chiến nạn đầy
trƣờng, Mạc Đĩnh Chi nhƣờng lớp, chia cơm, chung lƣng
đấu cật. Tình Thầy trò ngày thêm gắn bó keo sơn, Nghĩa bạn bè đến mãi răng long đầu bạc. Sáng sáng chia nhau bát phở Ba Lùn, Trƣa trƣa mát rƣợi ly chè Chú Bắc. Nghĩa đồng song chan chứa trong lòng, Tình bằng hữu đong đầy tâm thức.
Bảy năm cùng học, chia sẻ khó khăn, chan hòa tình
bạn. Mỗi ngày một buổi, chung vai sát cánh xóa dần dị
biệt. Những mùa hè qua mau, tại vùng đất Phú Lâm đàn
trẻ mỗi ngƣời mỗi cảnh, tỏa bốn phƣơng trời tung
cánh, Bốn mƣơi năm lại đến, đây “Little Saigon” bằng
hữu ba chìm bảy nổi tựu về mặt mừng tay bắt. Trong khung cảnh mừng vui hôm nay. Cùng tƣởng nhớ những ngƣời đã khuất: Thầy Phạm Ngọc Đĩnh,Trần Thanh Quang ra đi khi
đất nƣớc tan đàn xẻ nghé. Giáo Sƣ Trần Tụy, Tôn Thất Lƣơng giã từ những
hoài bão trong niềm luyến tiếc.
Cô Nguyễn Thị Ngà, Phan Đình Ngọc, Bạch văn
Đức tìm về với tổ tiên. Thầy Dƣơng văn Lắm, Phạm Thế Mỹ, Lê Trọng
Liên ra đi đầy thƣơng tiếc. Bạn Điêu Tô Hà, Lƣơng Cƣờng, Văn Bờ với bao
ngƣời đáp lời sông núi hiến đời trai từ trẻ. Chị Phạm Thị Duyên, Nguyễn Cúc, Đình Nghiệp
cùng nhiều bạn chống chọi nan y đến hơi tàn lực
kiệt. Những bạn hôm nay tiếc dạ không về. Bao ngƣời bịnh đau hẳn lòng luyến tiếc? Giờ gặp nhau đây,
Chúc Thầy Cô xuân khỏe, năm vui, bốn mùa ha hả. Mừng bạn bè xa thành gần đạt, cả đời hạnh phúc.
Nguyễn Văn Phước Xuân Tân Mão 2011
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 51
Câu đối GS Phạm Quân Hồng
Thời còn Nho học, sĩ tử đi thi, làm văn bài đều phải
viết theo thể biền ngẫu; nghĩa là phải viết thành
từng cặp, 2 cấu đối nhau. Do đó ngay từ khi bắt đầu
đi học, học trò đã phải tập làm câu đối.
“Đối” nghĩa là hai câu song đôi, từ ngữ và ý nghĩa
trong hai câu phải tƣơng đƣơng. Câu đối trở thành
một thể văn rất phổ thông... đi chỗ nào cũng thấy
câu đối. Từ cung điện vua, dinh thự các quan cho
đến đình, chùa, miếu và cả tƣ gia những ngƣời giầu
đều có câu đối. Có những câu đối đƣợc đắp thẳng
vào cột xây nhƣ ở cung điện, dinh thự, chùa miếu.
Nhà giàu sang thì có câu đối khắc lên gỗ, sơn son
thết vàng treo trên cột.
Ở cung điện vua chúa thì câu đối rất nghiêm chỉnh.
Ý nghĩa thƣờng nó về “ơn và đức” của nhà vua;
nghĩa vụ của tôi con... Chắc là nhiều ngƣời còn
nhớ giai thoại Cao Bá Quát chê và sửa sai câu đối
bày trƣớc cửa điện Cần Chánh ở triều đình Huế.
Điện Cần Chánh có đôi câu đối nhƣ sau:
“Thần khả báo quân ân
Tử năng thừa phụ nghiệp.”
Nghĩa là:
“Bầy tôi khá báo đền ơn vua
Con cái nên theo nghiệp ông cha.”
Cao Bá Quát chê là “quân thần điên đảo” vì câu
đầu đặt chữ “thần” trƣớc chữ “quân;” và câu sau có
chữ “tử” đặt trƣớc chữ “phụ.” Rồi cũng chừng ấy
chữ, Cao Bá Quát chỉ thay đổi vị trí và viết thành:
“Quân ân, thần khả báo
Phụ nghiệp, tử năng thừa.”
Ý nghĩa câu đối không thay đổi nhƣng nghe mạnh
mẽ hơn và nhất là vua, cha đƣợc đặt trƣớc bầy tôi
và con cái.
Tại chùa chiền thì câu đối thƣờng nói về Phật pháp
và đôi khi viết bằng chữ Hán. Đặc biệt tại chùa
Quán sứ, Hà nội, trụ sở đầu tiên của Tổng hội Phật
giáo Bắc kỳ (thành lập năm 1934), trƣớc cửa có
đôi câu đối bằng chữ quốc ngữ nhƣ sau:
“Cửa thiền chung bốn bể một nhà, muôn cảnh tu
thân, qúy, tiện, hiền, ngu bình đẳng.
Hôi Phật đủ năm phương bẩy chúng, đóng bè tập
phúc, thân, sơ, viễn, cận tự do.”
Tôi cũng thấy trƣớc cổng chùa Thiếu lâm bên
Trung hoa đôi có câu đối nói về công đức tu trì
diện bích 9 năm của Tổ Đạt Ma đã dùng bè lau
vƣợt sông và xây dựng nên ngôi chùa này nhƣ sau:
“Nhất vi độ Trường giang tu trì cửu tải
Lưỡng sơn tàng cổ tự tham bá thập phương.”
Ở tƣ gia, câu đối thƣờng do thân hữu tặng để mừng
những dịp đặc biệt nhƣ sinh con, đỗ đạt, mừng
thọ…
Câu đối nhờ sự ngắn gọn, súc tích đã rất phổ biến
từ giới trí thức khoa bảng cho đến chốn dân gian.
Tƣơng truyền rằng vào đời Lê trung hƣng, khi có
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 52
sứ Tầu sang nƣớc ta, bà Đoàn thị Điểm đã giả làm
cô gái bán hoa bên đƣờng. Sứ Tầu có ý trêu ghẹo,
bèn nói:
“An nam nhất thốn thổ bất tri kỷ nhân canh.”
Nghĩa là:
“Một „tấc‟ đất An nam không biết bao nhiêu người
cầy.”
Bà Đoàn thị Điểm đối lại:
“Bắc quốc đại trượng phu giai do thử đồ xuất.”
Nghĩa là:
“Các trượng phu đất Bắc đều do „nơi ấy‟ mà ra.”
Một lần khác, sứ Tầu ra một câu đối nhắc đến cái
nhục của dân ta khi Hai Bà Trƣng bị Mã Viện đánh
bại:
“Đồng trụ chí kim đài dĩ lục.”
Nghĩa là:
“Cột đồng đến nay rêu đã mọc xanh.”
Ý nhắc đến việc Mã Viện sau khi phá xong quân
của Hai Bà Trƣng đã dựng cột đồng khắc vào mấy
chữ “Đồng trụ chiết, Giao chỉ diệt.” (nghĩa là: Cột
đồng gẫy thì xứ Giao chỉ bị diệt). Viên quan coi
việc tiếp đón sứ Tầu bèn đối lại là:
“Đằng giang tự cổ huyết do hồng.”
Nghĩa là:
“Sông Bạch đằng (một nhánh của sông Hồng –
nƣớc sông luôn luôn có mầu đỏ) từ xưa máu vẫn
đỏ.”
Câu này đã trả đũa lại sứ Tầu rất đích đáng vì quân
Tầu đã hai lần bị đại bại trên sông Bạch Đằng.
Tôi không tìm đƣợc tên họ viên quan tác giả của
câu đối này; Nhƣng một ông bạn cho tôi biết tác giả
là Thám hoa Giang Văn Minh. Trong một lần đi
trên phố Hà nội, thấy một con đƣờng mang tên
“Giang Văn Minh,” có ngƣời hỏi tôi: “Giang Văn
Minh là ai?” Tôi không biết cho nên đoán mò, nói
là: “Có lẽ là tên của một „liệt sĩ‟ nào đó chứ gì!”
Thế nhƣng ngay chiều hôm ấy, khi thăm làng cổ
Đƣờng Lâm ở Sơn Tây, nơi có đền thờ Phùng
Hƣng, tôi thấy có một tấm bảng chỉ: “Đền thờ ông
Thám hoa Giang Văn Minh.” Rât tiếc là khi đến
đền thì cửa khóa , ngƣời thủ từ đi vắng cho nên tôi
đã lỡ dịp vào thăm và tìm hiểu về vị Thám hoa
này.
Gần đây, dân ta thƣờng dùng câu đối để chế diễu,
phản kháng cƣờng quyền. Nhớ lại thời đệ nhất
cộng hòa, bà Ngô Đình Nhu, dân biểu quốc hội
làm luật gia đình cấm đa thê trong khi có nhiều đại
sự về quốc kế và dân sinh thì lại không đƣợc lƣu
tâm. Dƣ luận bấy giờ có câu:
“Thất nghiệp không lo, lo “tiếp mắt.”
Cháy nhà chẳng nói, nói “đa thê.”
_______
Ghi chú:
“Tiếp mắt” cũng là một luật do quốc hội đệ nhất
cộng hòa thông qua.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, dân miền Nam đã có
những câu cay đắng hơn. Khi thấy các cán binh
cộng sản mang dép râu, đầu đội nón tai bèo, họ
nói:
“Đôi dép râu dẫm nát đời trai trẻ
Nón tai bèo che khuất nẻ tương lai.”
Đƣờng phố Sài gòn bị đổi tên; tình cờ làm sao
những tên mới thay cho tên cũ lại phù hợp với thự
trạng mà ngƣời miền Nam phải chịu:
“Nam kỳ khởi nghĩa” tiêu “Công lý.”
“Đồng khởi” vùng lên mất “Tự do.”
Dân miền Bắc thì có lời bình phẩm về các “lãnh tụ
huyền thọai” nhƣ sau:
“Ba mươi năm chiến đấu oai hùng, tướng Võ
không còn Nguyên Giáp nữa.
Nửa cuộc đời lưu vong lận đận, bác Hồ cũng
chẳng Chí Minh đâu.”
Nói về câu đối, tƣởng cũng nên nói về câu đối về
dịp Tết Nguyên đán mà ngƣời Việt ta phải có:
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 53
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ.
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.”
Những ngày trƣớc Tết, cảnh một ông đồ ngổi viết
câu đối Tết là cảnh rất quen thuộc đã đƣợc Vũ Đình
Liên mô tả:
“Lại thấy ông đồ già
Bày mực tầu giấy đỏ”
Hay là cảnh câu đối đƣợc bày nên trong phiên chợ
Tết:
“Cụ đồ Nho dừng lại vuốt râu cằm
Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ.”
(Đòan Văn Cừ - “Chợ Tết”)
Ngƣời không biết làm câu đối thì đi mua câu đối,
hoặc đi thuê ngƣời viết; nhƣng ngƣời có học nhƣ
ông Tú Vị Xuyên phải:
“Nhập thế cục bất khả vô văn tự
Chẳng hay ho cũng nghĩ một vài bài
Huống chi mình đã đỗ Tú tài
Ngày tết đến cũng phải một hai câu đối.”
Đối rằng:
„Cực nhân gian chi phẩm giá phong nguyệt tình
hoài
Tối thế thượng chi phong lưu giang hồ khí cốt.‟
“Viết vào giấy, dán ngay lên cột
Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay
Rằng hay thì thực là hay
Chẳng hay sao lại đỗ ngay Tú tài
Xưa nay em vẫn chịu ngài.”
Lƣu vong sang đất Mỹ, ngƣời Việt vẫn còn cố gắng
có một câu đối đỏ trong dịp tết. Dƣờng nhƣ vào cái
Tết thừ nhì trên đất khách thì phải (1977?) lần đầu
tiên ngƣời Việt tị nạn tổ chức Tết cộng đồng. Trên
sân khấu có bàn thờ gia tiên, hai bên treo đôi câu
đối bằng chữ Hán của thi sĩ Cao Tiêu:
“Khách địa phùng Xuân tâm hoài tổ quốc
Tha hương nghênh Tiết vong bái tiền nhân.”
Nghĩa là:
“Đất khách Xuân về lòng nhớ tổ quốc
Quê người đón Tết vong bái tổ tiên.”
Tôi nhẩm đọc mà lòng bồi hồi xúc động. Nhớ lại
ngày còn đi học ở quê nhà, Tết đến tôi cũng hay
lang thang xem ngƣời viết và nghe bàn câu đối ở lề
đƣờng Sài gòn, Chợ lớn. Hầu hết những câu đối (lề
đƣờng) ấy không có gì đặc sắc – chỉ có tính cách
thông tục, cầu mong đƣợc may mắn, vui vẻ trong
dịp Xuân về. Chẳng hạn nhƣ:
“Thiên tăng tuế nguyệt, nhân tăng thọ
Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường.”
Nghĩa là:
“Trời thêm năm tháng, người thêm thọ
Xuân đầy trời đất, Phúc đầy nhà.”
Chữ viết thì chân phƣơng không hề có chút gì
giống nhƣ Vũ Đình Liên đã mô tả: “Như phượng
múa rồng bay.”
Đến khi vào học ban Việt-Hán ở đại học Sƣ phạm
Sài gòn, tôi đƣợc thụ huấn với các vị túc Nho nhƣ
cụ Nghè Nguyễn Sĩ Giác, cụ Cử Thẩm Quỳnh và
cụ Kép (đậu hai khóa Tú tài) Vũ Huy Chiểu. Cụ
Kép là một thi sĩ tài hoa, chữ viết của cụ rất đẹp.
Trƣớc Tết Kỷ hợi 1059, tôi thƣa trƣớc, xin cụ đôi
câu đối. Buổi học tất niên chúng tôi đem giấy bút
tới lớp. Giây đỏ cỡ 15cm X 120cm, bút lông và
mực tấu đen nhánh. Cụ xếp tờ giấy làm 8 rồi xếp
chéo hình chữ “X.” Khi mở ra, giấy có 7 ô vuông
vắn. Cụ trải giấy trên bàn rồi đúng nhƣ (Vũ Đình
Liên nói):”
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.”
Cụ viết câu đã chuẩn bị từ trƣờc:
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 54
“THIÊN LƯU THÁI BÚT TRANG XUÂN SẮC
NGÃ DĨ HỒNG TIÊN ĐÁP TUẾ HOA.”
Nghĩa là:
“Trời cho cây bút rực rỡ để tô điểm xuân sắc
Ta lấy tờ giấy hồng để đáp lại vẻ đẹp của năm.”
Đã hơn nửa thế kỷ qua , tôi vẫn còn nhớ câu đối ấy;
chỉ tiếc là tờ giấy hồng năm xƣa và cụ Kép thầy tôi
không còn nữa…
Phạm Quân Hồng
Tháng 12/2010.
Ban Biên Tập Giai Phẩm Xuân Mạc
Đĩnh Chi năm 2011
Chân thành cám ơn quí Thầy Cô và
anh chị em cựu học sinh trƣờng Mạc Đĩnh
Chi đã đóng góp bài vở và bảo trợ cho giai
phẩm xuân nầy.
Kính chúc quí Thầy, Cô…
Thân mến chúc các anh , chị…
Năm mới Tân Mão
… an khang , thịnh vƣợng, hạnh phúc
và sức khoẻ.
Ban Biên Tập
Trần Văn Giang - Nguyễn Hoàn Khải - Võ Quang
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 55
Giai phẩm Xuân 2011 - Một Thời Để Nhớ
Trang 56
Recommended