View
8
Download
0
Category
Preview:
DESCRIPTION
Vietnamese
Citation preview
Phần I: Phân tích mối quan hệ giữa đạo đức với tồn tại xã hội nói
chung và đặc biệt là sự phát triển kinh tế
Ý thức đạo đức là một trong những hình thái của ý thức xã hội. Vì
thế, ý thức đạo đức cũng có mối quan hệ biện chứng đến tồn tại xã hội.
Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm, tri thức và các trạng thái
cảm xúc tâm lý chung của cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương
tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng... và về những quy tắc đánh giá,
điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá
nhân trong xã hội.
Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội.
Tồn tại xã hội có vai trò quyết định đối với ý thức đạo đức.
Chủ nghĩa duy vật lích sử đã chứng minh được rằng đời sống tinh thần
của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở đời sống vật chất. Điều đó
có nghĩa là tồn tại xã hội quyết định ý thức đạo đức, ý thức đạo đức là sự
phản ánh của tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội biến đổi thì ý thức đạo
đức sớm muộn cũng biến đổi theo.
Tuy nhiên, khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý
thức đạo đức, chủ nghĩa duy vật lịch sử không xem ý thức đạo đức như
một yếu tố thụ động, trái lại còn nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý
thức đạo đức trong mối quan hệ với tồn tại xã hội.
− Ý thức đạo đức thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
Nhiều khi xã hội cũ mất đi, thậm chí mất rất lâu, nhưng ý thức đạo đức do
xã hội đó sinh ra vẫn còn tồn tại dai dẳng. Chẳng hạn như trong xã hội
phong kiến, người phụ nữ được đánh giá theo tiêu chuẩn công dung ngôn
hạnh. Ngày nay, tuy xã hội phong kiến không còn, người phụ nữ có đủ
bốn đức tính ấy vẫn luôn được đề cao.
− Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Triết học Mácxít khẳng định, trong những điều kiện nhất định, tư
tưởng đạo đức của con người có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại
xã hội. Chẳng hạn, trong thời kỳ phong kiến tàn bạo xưa, người phụ nữ
phải chịu nhiều đau khổ bởi những hủ tục tàn bạo hà khắc. Nhưng thiên
tài Nguyễn Du sống dưới thời đó đã có khả năng nhận thức được những
nỗi đau đó và lên tiếng bênh vực họ trong các tác phẩm văn học của
mình. Đó là những áng thơ thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc.
− Ý thức đạo đức có tính kế thừa trong sự phát triển của mình
Lịch sử phát triển đời sống tinh thần cho thấy rằng những tử tưởng đạo
đức của mội thời đại được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tư tưởng đạo
đức của thời đại trước. Chẳng hạn, truyền thống tôn sư trọng đạo có từ rất
lâu và vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
− Sự tác động qua lại giữa ý thức đạo đức với các hình thái ý thức
khác
Với tư cách một hình thái ý thức, đạo đức không phải là kết quả do tác
động của một yếu tố riêng biệt, duy nhất nào. Tính phức tạp, thống nhất
và biện chứng trong sự phát triển của nó luôn gắn liền với những tác động
đa tầng và đa hướng, trong đó quan hệ giữa đạo đức - chính trị và pháp
quyền là xoắn xuýt hơn cả.
Trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp thì nội dung chủ yếu
của đạo đức là phản ánh quan hệ giai cấp, nó có tính giai cấp. Trong xã
hội có giai cấp, giai cấp thống trị truyền bá, áp đặt những tiêu chuẩn đạo
đức của mình như là các nguyên tắc, chuẩn mực chung cho toàn xã hội
nhằm bảo vệ sự thống trị về chính trị của giai cấp ấy. Vì vậy, đạo đức
trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng chứa đựng nội dung chính trị và
phục vụ chính trị. Chẳng hạn, trong xã hội phong kiến đạo đức mang hình
thức pháp luật và có tính chất chính trị. Nói cách khác, ở đó, chính trị đã
biến thành những quy tắc đạo đức.
Cũng chính vì đạo đức luôn gắn liền với chính trị, nên những giai cấp
tiên tiến - đại biểu cho xu hướng phát triển tiến bộ của xã hội bao giờ
cũng có những quan điểm đạo đức mới và tích cực. Lịch sử đã cho thấy
rằng, khi giai cấp tư sản đang lên và giành lấy vai trò lãnh đạo xã hội,
chống lại giai cấp phong kiến đang suy tàn, quan điểm đạo đức của họ
chứa đựng nhiều nét tiến bộ, tích cực. Ngược lại, khi giai cấp tư sản
không còn là đại biểu cho xu hướng phát triển tiến bộ của xã hội, nó trở
thành giai cấp lỗi thời và phản động cả về mặt chính trị và đạo đức.
Từ đó có thể khẳng định rằng, giữa đạo đức, chính trị và pháp quyền có
mối quan hệ hết sức khăng khít và phục vụ đường lối chính trị của giai
cấp thống trị nhất định.
− Ý thức đạo đức tác động trở lại tồn tại xã hội
Ý thức đạo đức không hoàn toàn thụ động trước tồn tại xã hội mà nó
vẫn có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hôi. Khi mâu thuẫn đạo đức lên
cao, nó có thể gây ảnh hưởng đến nền tảng xã hội.
Từ trên, ta có thể khẳng định rằng tồn tại xã hội và ý thức đạo đức có ảnh
hưởng chặt chẽ với nhau.
Mối quan hệ giữa ý thức đạo đức với sự phát triển kinh tế:
Mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức là mối quan hệ hữu cơ, mật thiết.
Mỗi một cơ chế kinh tế mới đều trở thành yếu tố làm nảy sinh những
hành vi đạo đức của con người, hay có thể nói, trở thành điều kiện cho
những lối sống, phong tục, tập quán xa lạ xâm nhập vào.
Ph. Ăng-ghen đã viết, "xét đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ
trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy
giờ". Điều này có nghĩa đạo đức là sản phẩm của một cơ sở kinh tế - xã
hội nhất định, là một bộ phận cấu thành quan trọng của đời sống xã hội
loài người, chứ không phải là cái gì đó có tính chất "nhất thành bất biến".
Luận điểm trên của Ph. Ăng-ghen cũng cho thấy, mỗi phương thức sản
xuất, hay mỗi một hình thái kinh tế - xã hội đều có một hình thái đạo đức
tương ứng. Lịch sử đã từng biết đến các dạng đạo đức khác nhau, như đạo
đức của xã hội nguyên thủy, đạo đức của xã hội chiếm hữu nô lệ, đạo đức
của xã hội phong kiến, đạo đức tư sản và đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Chẳng hạn trong nền kinh tế thị trường ngày nay, đời sống vật chất của
con người ngày càng được nâng cao và theo đó cũng tạo điều kiện cho sự
"thăng tiến" về đạo đức và tinh thần của con người theo hướng "phú quý
sinh lễ nghĩa". Tuy nhiên, bên cạnh nhưng mặt tích cực vẫn có những mặt
tiêu cực.
Đó là những sự suy thoái về mặt đạo đức của những thành viên
trong xã hội. Kinh tế thị trường đi liền với cuộc sống hối hả chạy đua,
người giàu mải miết làm ăn . Trong cơ chế thị trường, tiền bạc được dùng
làm thước đo giá trị, người nào kiếm được nhiều tiền thì càng được coi
trọng, do vậy, nếu cha mẹ không kiếm được nhiều tiền bằng con cái thì
cũng rất khó dạy bảo con. Khi tiền bạc trở thành mục tiêu của cuộc sống
thì nhưng định hướng mục đích, lý tưởng của thanh niên cũng bị phụ
thuộc vào đồng tiền, sinh viên chỉ mong kiếm được những việc làm,
ngành nghề hấp dẫn, có thể giúp họ mau chóng trở nên giàu có, những
ngành nghề cao quý hoặc được xã hội trọng vọng nhưng không đưa lại
những cơ hội kiếm được nhiều tiền không còn hấp dẫn thế hệ trẻ...
Qua đó, ta có thể khẳng định rằng, ý thức đạo đức có mối quan hệ khăng
khít với sự phát triển về kinh tế.
Phần II: Đặc điểm của xã hội Việt Nam khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường
Đại hội VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam là một mốc lịch sử
quan trọng đánh dấu sự nghiệp đổi mới toàn diện của nước ta, trong đó có
sự đối mới về kinh tế, cụ thể là sự đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế từ
tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế tự hạch toán kinh tế, có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực chất đó là nền
kinh tế thị trường, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vừa
cạnh tranh vừa hợp tác và bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân
thống nhất, lấy thị trường làm đối tượng và căn cứ quan trọng nhất để
phát triển kinh tế.
Cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp trong nhiều năm qua đã cho
thấy, nó không những không tạo ra được động lực cho sự phát triền kinh
tế - xã hội, mà còn tạo ra nhiều tiêu cực trong xã hội.
Kinh tế thị trường là một cơ chế kinh tế hoàn toàn khác, nó là yếu
tố tích cực thúc đẩy sự năng động và sáng tạo, cổ vũ sự canh tân và phát
triển đất nước. Song, nền kinh tế ấy cũng đã để lại cho chúng ta không ít
những tiêu cực của xã hội, trong đó có cả sự suy thoái đạo đức, mặc dù
đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường đi liền với cuộc sống hối hả chạy đua, người
giàu mải miết làm ăn, tiền bạc có thể dư thừa nhưng thời gian dành cho
gia đình, con cái lại khan hiếm, sự giáo dục gia đình bị suy giảm, phó
thác cho giáo dục nhà trường và xã hội, người nghèo mải vật lộn kiếm
sống, ít nghĩ đến nhân phẩm, đạo đức.
Trong cơ chế thị trường, tiền bạc được dùng làm thước đo giá trị,
người nào kiếm được nhiều tiền thì càng được coi trọng, do vậy, nếu cha
mẹ không kiếm được nhiều tiền bằng con cái thì cũng rất khó dạy bảo
con. Khi tiền bạc trở thành mục tiêu của cuộc sống thì nhưng định hướng
mục đích, lý tưởng của thanh niên cũng bị phụ thuộc vào đồng tiền, sinh
viên chỉ mong kiếm được những việc làm, ngành nghề hấp dẫn, có thể
giúp họ mau chóng trở nên giàu có, những ngành nghề cao quý hoặc được
xã hội trọng vọng nhưng không đưa lại những cơ hội kiếm được nhiều
tiền không còn hấp dẫn thế hệ trẻ... Như vậy, có thể nói, ngoài vai trò tích
cực, kinh tế thị trường còn là một thách thức, một môi trường tiêu cực đối
với đạo đức xã hội. Song, điều đó không có nghĩa là chúng ta không chấp
nhận nó. Kinh tế thị trường là yếu tế quan trọng và cần thiết để xây dựng
một xã hội phát triển, tiến bộ.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, đời sống vật chất của
con người ngày một nâng cao và theo đó, cũng xuất hiện những điều kiện
"thuận lợi" cho sự "thăng tiến" về đạo đức và tinh thần của con người
theo hướng "phú quý sinh lễ nghĩa cùng với khả năng nảy sinh những giá
trị đạo đức tiêu cực. Khi đời sống vật chất được nâng cao, ở con người để
nảy sinh tâm trạng hưởng thụ, tham lam, làm giàu bằng mọi thủ đoạn...
Do vậy, khả năng phát triển đạo đức theo xu hướng tích cực mà chúng ta
nói trên không phải tự nhiên mà có hay được thực hiện một cách tự động,
mà cần phải đấu tranh với những thói hư tật xấu bằng hình thức pháp luật,
bắt mọi cá nhân đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi đạo
đức của mình. Trong nền kinh tế thị trường, mọi mệnh lệnh hành chính
cùng với những lời hô hào đạo đức chung chung đều trở nên vô tác dụng.
Thực tiễn đã cho thấy, ngày nay, thứ toà án dư luận không còn uy thế
trong xã hội, ở đâu có sự buông lơi về pháp luật đối với những hành vi vi
phạm đạo đức, vi phạm thuần phong mỹ tục thì ớ đó, các hiện tượng tiêu
cực càng tăng lên. Chính vì lẽ đó, việc xây dựng đạo đức trong điều kiện
của nền kinh tế thị trường nhải là sự kết hợp một cách tổng thể giáo dục
đạo đức và thi hành luật pháp. Nếu chỉ áp dụng thuần tuý phương pháp
giáo dục, tuyên truyền sẽ không thắng nổi sức mạnh của tập quán, của sự
thờ ơ, coi thường và phớt lờ dư luận. Nếu không dựa vào những biện
pháp pháp luật sẽ không tác động được đến ý thức công dân, đến lối suy
nghĩ của con người trong quá trình xây dựng những giá trị đạo đức mới
và đấu tranh với những hành vi đạo đức đối lập được sinh ra trong điều
kiện của nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, giáo dục đạo đức, giáo dục
văn hoá giao tiếp để làm cho mỗi con người đều phải tuân thủ những
chuẩn mực và quy tắc đạo đức mới một cách tự nhiên và dần dần trở
thành thói quen, trở thành một nhu cầu tinh thần là yếu tố không kém
phần quan trọng. Mọi tiến bộ của xã hội loài người không tách rời tiến bộ
của ý thức đạo đức và có thể nói, tính đạo đức là phương tiện nâng loài
người lên cao nếu không muốn nói nó là lực lượng thứ nhất, bởi tiến bộ
đạo đức không tỷ lệ thuận với tiến bộ trí tuệ và vật chất. Xã hội giàu có,
văn minh không đồng nhất với xã hội có đạo đức, người giàu có, người
thông minh không có nghĩa là người tốt, người có đạo đức.
Với ý nghĩa đó, trong thế giới năng động và biến đổi hiện nay,
cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, của cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ và sự phong phú về đời sống vật chất, con người
càng không thể để rơi vào trạng thái đạo đức tiêu cực được nảy sinh từ cơ
cấu kinh tế - xã hội hiện đại, để mất đi nhân cách chân chính của mình
với một ý thức tự hào mình là Con người. Chúng ta cần phải chủ động
tìm ra lối thoát khỏi tình huống đó, chủ động xây dựng những điều kiện
mới cho sự nảy sinh những giá trị đạo đức tốt đẹp, phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội hiện đại, phân tích và nhìn nhận một cách khoa học những
giá trị đạo đức cũ để phân biệt đúng, sai và kế thừa nó trong quá trình xây
dựng những giá trị đạo đức mới, phù hợp và thích ứng với điều kiện của
nền kinh tế thị trường.
Phần III: Thực trạng của đời sống đạo đức xã hội Việt Nam
trong những năm vừa qua và hiện nay.
Việt Nam ta từ xưa đã được biết đến là một dân tộc có nhiều truyền
thống đạo đức tốt đẹp. Hiện nay, trong sự phát triển chung của nhân loại,
Việt Nam ta cũng đang không ngừng đổi mới bằng việc tiến hành quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thực hiện cơ chế thị trường, mở cửa,
tích cực giao lưu văn hoá với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới,
v.v..
Nhưng cũng cùng với sự phát triển về kinh tế, chính trị, văn hoá
mạnh mẽ ấy, trong những năm vừa qua và hiện nay, đời sống đạo đức của
dân tộc cũng đã có không ít những biến đổi. Liệu rằng trong cơ chế mở
cửa, trong nền kinh tế thị trường đa thành phần, những giá trị đạo đức tốt
đẹp vốn có xưa kia liệu có còn được giữ vững hay thay vào đó là một sự
thoái hoá, suy đồi đạo đức của không ít người Việt Nam? Hãy cùng nhau
nhìn vào những biến đổi cả tích cực và tiêu cực của đời sống xã hội Việt
Nam ta trong những năm vừa qua và hiện nay để tìm lời giải cho câu hỏi
trên.
Không ai có thể phủ nhận rằng Viêt Nam đang là nước phát triển
mạnh mẽ nhờ quá trình toàn cầu hoá và nền kinh tế thị trường. Ngoài
những tác động về kinh tế, toàn cầu hóa còn tác động tích cực đến sự phát
triển văn hóa. Do tác động của toàn cầu hóa và chính sách mở cửa của
Đảng và Nhà nước ta, trình độ dân trí được nâng cao rõ rệt. Người dân có
thêm nhiều cơ hôi n để mở mang kiến thức, làm giàu cho bản thân, gia
đình trong sự phát triển chung của đất nước. Cũng qua đó, ý thức chính trị
về các vấn đề trong nước và trên thế giới cũng được nâng cao. Nhờ quá
trình toàn cầu hóa dân tộc ta hiểu biết hơn các dân tộc trên thế giới, bổ
sung và làm giàu nền văn hóa của dân tộc mình.
Cũng thông qua mở cửa, hội nhập, cạnh tranh quốc tế, con người
Việt Nam trở nên năng động hơn. Trong bối cảnh mới, nhiều người Việt
Nam đã thay đổi lối sống của mình, từ cuộc sống có phần khép kín, thiếu
năng động sang cuộc sống cởi mở hơn, năng động hơn và hiện đại hơn để
phù hợp hơn với một nền kinh tế thị trường mới năng động và hiện đại.
Nhờ vậy, các cá nhân và tổ chức có năng lực phát huy được tiềm năng
của mình, đem lại lợi ích cho cá nhân và cho cả xã hội.
Tuy nhiên, toàn cầu hoá cũng như nền kinh tế thị trường cũng đã
có không ít những tác động xấu đến đời sống đạ đức trong xã hội hiện
nay.
Thứ nhất, toàn cầu hoá nghĩa là mở cửa, là mở rộng giao lưu văn
hoá, kinh tế với các nước trên thế giới. Chính quá trình này đã đưa lối
sống phương Tây vào nước ta. Lối sống ấy, một mặt, tác động tích cực
đến việc làm thay đổi lối sống khép kín, cam chịu, phụ thuộc, ỉ lại vốn có
của người Việt Nam sang một lối sống cởi mở, năng động, tự lập, dám
chịu trách nhiệm, phù hợp với xu thế thời đại. Nhưng măt khác, do sự tiếp
thu lệch lạc, học đòi theo cả những măt tiêu cực của lối sống ấy mà dẫn
đến hệ quả là việc xa rời lối sống theo chuẩn mực đạo đức dân tộc mà
thay vào đó là lối sống sùng bái vật chất, cá nhân, vị kỷ, thực dụng, đua
đòi, ăn chơi xa hoa, lãng phí, sống truỵ lạc, thác loạn, ưa dùng bạo lực...
Lối sống đó đang phần nào tác động đến một bộ phận nhân dân,
đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên sống ở các khu đô thị lớn. Do bị kích
động bởi việc tiếp xúc với những thước phim hành động có tính bạo lực
qua mạng Internet mà nhiều thanh, thiếu niên đã có những hành động
mang tính bạo lực, hung hãn, gây nên những hậu quả đau lòng. Cùng với
tâm lý sùng hàng ngoại, lối sống tự do kiểu phương Tây cũng đang xâm
nhập khá mạnh vào đời sống người Việt Nam, đặc biệt là trong thanh niên
và cả một bộ phận trong tầng lớp trí thức. Một số nam nữ thanh niên ở
các thành phố lớn muốn có tự do cá nhân cao, không muốn lập gia đình
sớm hoặc chủ trương sống độc thân suốt đời, nhưng lại có quan niệm khá
thoải mái trong quan hệ nam nữ. Từ đó dẫn đến những kiểu sinh họat tình
dục bừa bãi giữa nam và nữ, kể cả sinh họat tình đục tập thể, làm băng
họai những nguyên tắc luân lý sơ đẳng, tạo nên lối sống xa lạ với truyền
thống phương Đông và dân tộc. Đó chính là biểu hiện của sự xuống cấp
về lối sống của một bộ phận thanh niên Việt Nam. Hay nói cách khác
chính sự giao thoa về văn hóa, sự tràn ngập của hàng hóa đó đã tạo ra khả
năng về sự tha hóa nhân cách, đạo đức, làm rối loạn các giá trị truyền
thống của dân tộc.
Hai là, cùng với sự phát triển nền sản xuất hàng hóa, khối lượng
tiền và uy lực của đồng tiền cũng tăng lên. Đồng tiền vốn có giá trị nhiều
mặt của nó cho cả các cá nhân và cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong
mọi thời đại. Tiền là một vật vô tri vô giác, nhưng khi được thần thánh
hóa và được coi là giá trị duy nhất thì sẽ biến thành tai họa, trở thành lực
lượng thống trị làm tha hóa con người. Và, một khi uy lực đồng tiền càng
lớn thì khả năng phá hoại những mối quan hệ tinh thần, đạo đức giữa
người và người càng mạnh. Nền kinh tế thị trường đề cao giá trị của đồng
tiền đã làm xuất hiện tâm lý “chạy theo đồng tiền", coi “tiền là trên hết",
không cần biết đến đạo lý phải trái, đánh mất nhân cách và nhân tính.
Không ít trường hợp vì tiền và danh lợi mà chà đạp lên tình đồng chí,
đồng nghiệp, bạn bè, tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò. Lối sống thực
dụng, vị kỷ đang dẫn đến thái độ bàng quan, thờ ơ với công việc của cộng
đồng và với những người xung quanh. Điều đó làm cho mối dây liên kết
giữa cá nhân và cộng đồng, giữa người và người trở nên "lỏng lẻo". Đây
thực sự là nguy cơ của việc đẩy xa nhau giữa con người với con người, đi
ngược lại với truyền thống "tương thân, tương ái" của dân tộc. Ý thức đề
cao cá nhân, một khi bị tuyệt đối hóa sẽ dẫn đến việc cái cá nhân lấn át
cái cộng đồng. Điều đó dẫn đến việc đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích xã
hội, coi lợi ích cá nhân là trên hết, lúc đó, lợi ích tập thể sẽ bị lấn át, thậm
chí bị phế bỏ, từ đó mà tham nhũng, lãng phí ngày càng có cơ hội gia
tăng:
Không những quan hệ giữa con người với nhau trên thị trường bị
đồng tiền chi phối, mà cả những quan hệ trong gia đình cũng bị sức mạnh
của đồng tiền làm băng hoại. Vì sự cám dỗ của đồng tiền mà người ta sẵn
sàng để cho người thân của mình bán rẻ nhân phẩm, tiếp tay cho các tệ
nạn xã hội. Vì đồng tiền mà con cái hành hung cha mẹ, anh em từ bỏ
nhau, vợ chồng ly tán... các quan hệ trong gia đình bị đảo lộn. Chính sự
rối loạn trong quan hệ gia đình là một trong những nguyên nhân làm cho
cái ác, cái bất lương có điều kiện phát triển.
Còn ở nhà trường, đặc biệt là trong giới sinh viên, đã nảy sinh xu
hướng quan tâm nhiều đến lợi ích kinh tế của cá nhân, điều đó được biểu
hiện trong việc chọn ngành nghề để làm giàu hoặc có quyền lực. Khi tất
nghiệp ra trường, phần lớn trong số họ không muốn làm việc ở các cơ
quan của tổ chức Đảng, đoàn thể, giáo dục... "Thập nạn" trong sinh viên
hiện nay, như tiêu cực trong thi cử, cờ bạc, quan hệ tình dục phóng túng,
mê tín dị đoan, uống rượu say, nghiện hút, cắm quán, trộm cướp, ham mê
văn hoá phẩm đồi truỵ, vô kỷ luật, mất trật tự vệ sinh, đua đòi, chạy theo
lối sống tiêu dùng cho thấy, thực trạng đạo đức sinh viên đang đặt ra
nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu, giải quyết. Cũng giống như nhiều lĩnh
vực khác, chịu sự tác động của kinh tế thị trường, ngành giáo dục, vốn
trước đây thuộc lĩnh vực bao cấp của Nhà nước, đang có khuynh hướng
"thương mại hóa" với những biểu hiện như dạy thêm, học thêm tràn lan,
mua bằng, bán điểm, "đổi tình lấy điểm", lạm thu, mở tràn lan các lớp đào
tạo tại chức, liên kết đào tạo với nước ngoài... nhằm mục đích thu lợi,
không đảm bảo chất lượng giáo dục. Điều này góp phần làm môi trường
sư phạm xuống cấp, đạo lý thầy trò suy thóai, lối sống thiếu hoài bão, lý
tưởng xuất hiện trong một bộ phận học sinh, sinh viên, giáo viên.
Ngoài xã hội đã xuất hiện những cách sống và lối sống xa lạ, trái
với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Một bộ phận trong các tầng lớp nhân
dân, các thành phần xã hội khi mưu cầu lợi ích cá nhân đã chà đạp lên
những khuôn mẫu, những giá trị đạo đức truyền thống. Nạn tham nhũng,
buôn lậu, làm giàu bất chính và các tệ nạn xã hội khác đang phát triển.
Đặc biệt, "một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản
thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ
chức kỷ luật, sa đọa về đạo đức và lối sống. Thực tế cho thấy rằng, những
năm gần đây, số vụ buôn lậu, buôn bán ma tuý, làm hàng giả được phát
hiện ngày càng tăng. Tình hình tội phạm hình ở Việt Nam trong quá trình
chuyển sang nền kinh tế thị trường đang ở mức khá nghiêm trọng so với
trước. Một loạt tội danh mới nguy hiểm đã xuất hiện, như khủng bố cá
nhân, tống tiền, bắt cóc trẻ em, buôn bấn phụ nữ, buôn bán chất nổ, chất
ma tuý với số lượng lớn, tổ chức đâm thuê chém mướn, môi giới mại
dâm, ma tuý. Tình hình phụ nữ phạm tội và các vụ phạm tội do người
chưa thành niên thực hiện có chiều hướng gia tăng.
Thực trạng và những vấn đề đặt ra trên đây phần nào đã cảnh báo
cho chúng ta biết được vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường
ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra hết sức phức tạp. Các bậc thang giá trị
có phần bị đảo lộn. Cuộc đấu tranh giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa
lối sống lành mạnh, trung thực, có lý tưởng, có tinh thần bảo vệ và xây
đựng đất nước... với lối sống sa đọa, ích kỷ, thực dụng, bạo lực giữa cái
thiện và cái ác vẫn đang không ngừng diễn ra với tốc độ ngày càng gia
tăng, bên cạnh những điều tốt, những cái hay được du nhập vào đời sống
xã hội Việt Nam thì đồng thời, những cái tiêu cực, cái xấu, cái đáng lên
án cũng đang xâm nhập vào mọi lĩnh vực, mọi tầng lớp nhân dân
Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cũng như của Việt Nam
đã chỉ ra rằng, chúng ta không thể chấp nhận một sự tăng trưởng đơn
thuần về kinh tế, với cái giá phải trả là sự mai một bản sắc văn hoá dân
tộc, sự huỷ hoại các giá trị đạo đức truyền thống. Nguyên Tổng Bí thư Đỗ
Mười đã nói: "Trong khi chăm 10 phát triển kinh tế, coi đó là nhiệm vụ
trung tâm, chúng ta nhận thức sâu sắc rằng, động lực tạo ra sự phồn vinh
và phát triển lâu bền của quốc gia không chỉ đơn thuần là vốn đầu tư,
công nghệ tiên tiến và tài nguyên thiên nhiên giàu có, mặc dù điều đó là
quan trọng, mà chủ yếu là do trí tuệ của con người, do khả năng sáng tạo
của toàn dân được hình thành từ truyền thống văn hoá Việt Nam. Đó là
kho tàng tri thức, tâm hồn, đạo lý, tính cách, lối sống, trình độ thẩm mỹ
của từng người và của cả cộng đồng dân tộc".
Thực trạng của sự biến đổi giá trị đạo đức trong điều kiện kinh tế
thị trường ở Việt Nam như đã nêu trên là vấn đề đáng lo ngại và cần báo
động. Nó không chỉ là mối quan tâm của một số người, một số cơ quan
nghiên cứu, mà là vấn đề của toàn Đảng, toàn dân. Cốt lõi của vấn đề
không phải là ở chỗ nên hay không nên diễn ra sự biến đổi đạo đức, mà ở
chỗ biến đổi như thế nào, lúc là chuyển đổi tới đâu để dần dần thích ứng
với nhu cầu của đời sống hiện thực. Hình thành một quan hệ đạo đức xã
hội kiểu mới giữa người với người đóng vai trò duy trì và thúc đẩy tốt đẹp
sự điều hòa và ổn định trật tự xã hội, đặc biệt là việc điều chỉnh, đổi mới,
kế thừa các chuẩn mực giá trị đạo đức làm cho các thành viên trong xã
hội dần dần thích ứng với tình hình mới. Nếu chúng ta không có sự quan
tâm đúng mức, không có những giải pháp hữu hiệu để giải quyết và ngăn
chặn kịp thời những tiêu cực về mặt đạo đức đó, thì hậu quả của nó đối
với đời sống xã hội và sự phát triển của đất nước là hết sức nghiêm trọng,
không thể lường hết được.
Recommended