T t Ở Chi n Khu - WordPress.com · Ngày sau sẽữ biết thú cầm chỉn ghê. ... Long b߷o...

Preview:

Citation preview

Tết Ở Chiến Khu

Tặng bạn ngày xuân chén rượu nồng,

Uống rồi vùng vẫy khắp Tây Đông. Đem nguồn sống mới cho nhơn loại, Để tiến, tiến lên cõi đi đồng.

Rượu xuân càng nhấp càng say, Gió xuân càng thổi thì tài càng tăng.

Ngày tết năm nay ở chiến khu, Bưng biền gió lốc tiếng vi vu. Xa xa súng nổ thay trừ tịch, Dân Việt còn mang nặng mối thù.

Mối thù nô lệ trả chưa xong, Pháp tặc còn trêu giống Lạc Hồng. Dùng thói dã man mưu thống trị, Thì ta quyết chiến dễ nào không!

Dễ nào không dám gắng hi sinh, Giữ vững non sông đất nước mình. Tự lập nghìn xưa gương chói rạng, Anh hùng khởi xuất chốn dân binh. .

Dân binh Nam Việt mấy ai bì? Không súng tầm vông cũng vác đi, Xông lướt trận tiền ngăn giặc mạnh, Liều thân cứu nước lúc lâm nguy.

Nước lúc lâm nguy há đứng nhìn, Lòng mang đại nghĩa để thân khinh. Máu đào xương trắng phơi đầy nội, Quyết đổi tự do mới thỏa tình.

Thỏa tình được sống dưới trời Đông, Tổ phụ ngày xưa rất đẹp lòng. Nhìn thấy cháu con không thẹn mặt, Từ đây non nước thoát nguy vong.

(Đức Thầy viết ngày 2-1-Đinh Hợi 1947 ở Bình Hòa)

Sydney, 29-6-2017, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo(facebook Mõ Tre) https://kiengxluu.wixsite.com/kinhsambuuson https://kinhsamthatson.wordpress.com/

Đừng ham làm chức nắc nia, Ngày sau như khóa không chìa dân ôi.

Tu hành như thể thả trôi, Nay lở mai bồi chẳng có thiền tâm.

Mưu sâu thì họa cũng thâm, Ngày sau sẽ biết thú cầm chỉn ghê.

Hùm beo tây tượng bộn bề, Lại thêm ác thú mãng xà rít to.

Bá gia ai biết thì lo, Gác tai dèm siểm đôi co ích gì.

Hết Tây rồi đến Huê Kỳ,* Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha!

Dân nay như thể không cha, Chẳng ai dạy dỗ thiệt là thảm thương!

(Khuyên Người Đời Tu Niệm, Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ viết tại làng Hòa Hảo năm Kỷ Mão 1939)

Nói cho lớn nhỏ ghi lòng, Ngày sau mới biết rõ trong sự tình.

Giữ lời Thầy dạy đinh ninh, Hết Tây rồi lại thiệt tình tới U. * Lành thời niệm Phật công phu,

Dữ thời chịu chữ lao tù hổ ngươi. (Đức Phật Thầy Tây An tr. 165, Vương Kim & Đào Hưng biên khảo, nhà xuất bản Long Hoa ấn tống năm 1953)

Khổ hạ nguơn bẩm lại cà lì, Coi thân cực sướng nỗi gì cho thân.

Tây chưa mãn tới việc U phân,* Ngồi buồn thấy khổ muôn dân não nề

Lương kế Thánh nhơn chí kế hề, Ngậm ngùi Nam Việt nặng nề lao thân (Kim Cổ Kỳ Quan 30: 60, ông Ba Nguyễn văn Thới viết

năm 1915) * Cụm từ U phân, chữ U là US, chữ phân là phân chia VN 2 miền Nam Bắc năm 1954 ở Genève.

Tướng Pháp de Castries

Tướng Mỹ Westmoreland

* Cụm từ U phân, chữ U là USA là Mỹ, chữ phân là phân chia đất nước Việt Nam ra làm 2 miền Nam Bắc. Sau năm 1954, toàn dân Việt chờ tổng tuyển cử thống nhứt VN theo nội dung hiệp định Giơ-ne-vơ. Nhưng ngày 12-12-1955, đại sứ Trần văn Chương đại diện chánh phủ Ngô Đình Diệm tuyên bố ở Mỹ: Sẽ không có tổng tuyển cử ở VN. Hiệp định Genève không bắt buộc, chánh phủ Mỹ ủng hộ lập trường này. Câu sấm tiên tri rất là chính xác: Tây chưa mãn tới việc U phân. Mỹ ủng hộ giải pháp không tổng tuyển cử thống nhứt VN, Mỹ quyết định phân chia VN vĩnh viễn. Muốn có được một nước VN thống nhứt, ắt là chỉ có con đường chiến tranh như đã xảy ra…{VN War}.

* Cụm từ Nam Việt ám chỉ tên nước ta vào triều đại Triệu Vũ Vương năm 207 trước tây lịch có biên giới bao gồm 2 tỉnh Quảng Đông Quảng Tây {Lưỡng Quảng}, giặc phương bắc lấn chiếm mưu đồ Hán hóa, tổ tiên ta phải bỏ đất Lưỡng Quảng, dời xuống Thăng Long bảo tồn giống Hồng Lạc. Dân tộc Việt tự hào có một đấng anh minh cao cả như Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ hi sinh thân mình, dấn thân vào bưng biền lập chiến khu chịu cực khổ gian lao chống quân ngoại xâm giành độc lập cho dân tộc. Tinh thần yêu nước của Đức Thầy thật cao siêu mầu nhiệm! Cách nay hơn nửa thế kỷ, không những Đức Thầy thấy cuộc chiến chống Tây U, mà còn thấy cả cuộc chiến chống giặc Tàu sắp tới nữa. Cuộc chiến chống gặc Tàu sẽ vô cùng khốc liệt, toàn dân hãy đoàn kết một lòng!

* Ghi chú: Câu sấm: Hết Tây rồi đến Huê Kỳ, bị chánh quyền Bảo Đại thời Pháp kiểm duyệt, bắt buộc phải sửa lại là: Hết Đây rồi đến Dị Kỳ. Sau khi sửa chữ Tây thành Đây, và chữ Huê Kỳ thành Dị Kỳ, giáo hội mới được phép ấn hành để phổ biến cho đồng đạo. Luật Thiên Điều là: Bôi sửa kinh sấm đáng tội đày địa ngục. Cụm từ khóa không chìa ám chỉ năm 1975, người bị nhốt vào tù {trại cải tạo} nhưng không biết thời hạn ngày ra tù.

Hào quang chư Phật rọi mười phương, Đạo pháp xem qua chớ gọi thường. Chuyên chú nghĩ suy từ nét dấu, Cố công gìn giữ tánh thuần lương.

(Khuyến Thiện, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939)

Qua bốn câu thơ trên đây của Đức Thầy, tội bôi sửa kinh sấm đáng bị đày địa ngục! Một trong những đệ tử trung thành của Đức

Thầy Huỳnh Giáo Chủ, đó là luật sư Mai văn

Dậu, ông Dậu nghe lời Thầy ẩn tu không ra làm

quan cho giặc Tây U, ông hành y theo lời Thầy

cho tới khi viên tịch. Ông Dậu quả là một bậc

Thánh nhân hiếm thấy trong đời mạt hạ này.

Nhiều kẻ châm biếm rằng ông Dậu ngu khờ

không ra hợp tác với Tây U vừa có danh vọng

chức Thủ tướng hay Bộ trưởng, vừa giàu sang

sung sướng. Cái khôn ngu Thánh nhân mấy ai

lường? Khi nhắm mắt qua thế giới bên kia sẽ rõ!

Cảnh một góc trong chiến khu thời kháng chiến

Hình ảnh chiếc nóp ngủ và cây tầm vông là vũ khí dân dã thô sơ thời Đức Thầy kêu gọi toàn dân VN kháng chiến chống giặc ngoại xâm.

Mị Châu ơi hỡi Mị Châu, Mê chi thằng Chệt để sầu cho cha!

(Thông Điệp của Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết trên đường khuyến nông từ miền Tây về Sài Gòn tháng 6 năm Ất Dậu 1945). Đức Thầy kêu gọi toàn dân VN chống giặc Tàu sắp tới. Nam Mô A Di Đà Phật.