47

1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

  • Upload
    others

  • View
    0

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet
Page 2: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

1 2

CÂU CHUYỆN ĐỨC TIN

Quyển 25.1 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Cao Đài

Quý Thiên ân chức sắc, chức việc, đạo hữu, đạo tâm trong Tam Kỳ Phổ Độ ấn tống năm ngàn (5.000) quyển.

Kỉnh nguyện hồi hướng cho quốc thái dân an, đạo pháp trường lưu, chánh giáo hoằng dương, vạn linh thức tỉnh hồi đầu, đồng đăng bỉ ngạn.

Đôi Lời Tha Thiết

Quý vị vui lòng KHÔNG photocopy, KHÔNG mua bán bất kỳ kinh sách nào do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Cao Đài thực hiện. Trân trọng kính mời Quý vị liên hệ với thánh thất Bàu Sen, hoặc các điểm phát hành của chúng tôi tại các tỉnh, thành, quận, huyện để thỉnh các ấn phẩm chánh thức (kính biếu).

Kinh sách được ấn tống để kính biếu rộng rãi là nhờ có biết bao tấm lòng vàng của hàng hàng lớp lớp đạo tâm gần xa gởi gắm. Để không phụ lòng các bậc Mạnh Thường Quân ấy, xin Quý vị trân trọng giữ gìn kinh sách để truyền trao cho đúng người thật tâm tìm tu, học đạo. Chúng tôi chân thành biết ơn sự thấu hiểu, đồng cảm, và hợp tác chặt chẽ của Quý vị.

B an Ấn T ốn g

Page 3: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

3 4

D I Ệ U N G U Y Ê N

CÂU CHUYỆN ĐỨC TIN

Nhà xuất bản TÔN GIÁO Hà Nội 2010

Mục lục

Giao cảm 5

1. MẤY MẨU CHUYỆN VỀ BA TÔI 7

2. VẬT CHẤT KHUYÊN TRÒ KHÁ BỎ KHƠI 12

3. HÀNH TRÌNH VỀ CÕI HƯ LINH 17

4. HIỂU ĐẠO MẦU MỚI THOÁT KIẾP TRẦN DƯƠNG 39

5. NHIỆM MẦU TRUNG DU HÀNH ĐẠO 47

6. ĐỘ SANH ĐỘ TỬ HAI VAI CŨNG ĐỒNG 64

7. LỬA ĐỐT KHUYÊN CON BIẾT CÓ THẦY 69

8. HY SINH ĐẮC QUẢ 75

9. THẦN TIÊN XEM MẠCH BỐC THUỐC 79

10. BA LẦN ĐỐT LỆNH DẠY MUA XE MOBYLETTE 85

DIỆU NGUYÊN (Đinh Thị Thanh Mai) giữ bản quyền All rights reserved © Việt Nam 2010

Page 4: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

5 6

Giao cảm

Nữ giáo sư Jayne Susan Werner khi viết chuyên khảo Chính Trị Nông Dân Và Giáo Phái: Nông Dân Và Thầy Tu Trong Đạo Cao Đài Ở Việt Nam,(1) đã dụng nhiều công phu khai thác các yếu tố như chính trị, xã hội, kinh tế để giải thích vì sao đạo Cao Đài thuở mới ra đời đã mau lẹ phát triển và thành công hơn hẳn các tôn giáo lớn sẵn có từ lâu ở Nam Kỳ. Tiếc rằng bà quên một yếu tố rất quan trọng là tính thiêng liêng (divinity) mà đạo Cao Đài sớm tẩm nhuận cho hàng môn đệ. Thật vậy, vì đứng ở góc độ chính trị - xã hội học, bà Werner đã không xét tới đức tin của những người đã “rần rần” đổ xô theo nền tôn giáo mới vào đầu thế kỷ 20.

Lẽ thường, một người quyết định chọn cho mình một tôn giáo là do ý thức và tự chủ. Muốn thế, trước tiên họ phải có đức tin. Người xưa gọi đó là khởi tín tâm 起 信 心. Trái lại, những ai cứng lòng, không tin, thì chẳng bao giờ thèm nhích ngón tay gõ cửa một tôn giáo. Cho nên người theo một tôn giáo được gọi là tín đồ. Đồ 徒 là học trò; tín 信 là tin tưởng. Có tin tưởng nên mới chịu vào làm học trò trong cửa đạo.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in

the Cao Dai in Viet Nam. (Chuyên khảo số 23 của Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Nam Á thuộc Viện Đại Học Yale, tại thành phố New Haven, bang Connecticut, Hoa Kỳ, 1981, 136 trang A4.)

(2) Tương tự, tiếng Anh gọi tín đồ là believer, do động từ to believe là tin tưởng. Tiếng Pháp gọi tín đồ là croyant, do động từ croire là tin tưởng.

Trong thời đại Tam Kỳ Phổ Độ, người tín đồ Cao Đài có diễm phúc được trải nghiệm nhiều linh ứng mầu nhiệm nên đức tin của họ luôn luôn được củng cố, dưỡng nuôi. Đức tin Cao Đài xanh như màu chiếc vòng cẩm thạch đeo ở cổ tay. Đeo càng lâu thì cẩm thạch càng “lên nước”, càng xanh thẫm, càng bóng ngời, đẹp đẽ. Người Cao Đài tu càng lâu thì đức tin càng thêm bền bỉ, kiên cố.

Những câu chuyện về đức tin trong cộng đồng tín hữu Cao Đài có rất nhiều, phong phú muôn vẻ. Các giai thoại đàn tiên từ buổi khai đạo là những điển hình tiêu biểu. Nếu dụng công ghi chép lại cho thật đầy đủ, ắt sẽ thành nhiều pho sách lớn.

Chính những mẩu chuyện huyền nhiệm được lưu truyền bất tận trong đời sống tâm linh của đàn con áo trắng đã thêm sinh lực và đỡ nâng cho họ vững bước trên đường tu, nhất là những khi lịch sử nhà đạo gặp hồi quanh co, khúc chiết…

Câu Chuyện Đức Tin của Diệu Nguyên là những việc thật người thật với nhiều tình tiết ly kỳ, huyền diệu. Từng mẩu chuyện hàm chứa nhiều đạo lý cần yếu cho người tu, nhắc nhở rằng bất kỳ ai chí thành lo việc đạo thì luôn luôn được Trời Phật, Tiên Thánh âm thầm che chở. Những câu chuyện này cho thấy thế giới hữu hình và cõi thiêng liêng vô hình không hề ngăn cách mà thật sự rất sít sao gần gũi. Một lời nói, một ý tưởng phát ra đều có thần minh chứng giám. Do đó người tu phải luôn thận trọng để khỏi vô tình gây nên tội lỗi.

Thay cho bài giảng giáo lý, những chuyện Diệu Nguyên kể lại đây có tác dụng khuyến tu rất cao. Bởi thế, Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Cao Đài lấy làm hân hạnh giới thiệu cùng đông đảo bạn đọc gần xa trong nhà đạo.

Mùa tu Hạ Chí Canh Dần B an Ấn Tống

Page 5: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 7 8 − Câu Chuyện Đức Tin

Mấy mẩu chuyện về ba tôi

Ba tôi chào đời trong một ngôi làng nhỏ hiền hòa bên dòng sông Tiền. Sau khi sinh cô hai tôi, bà nội còn sinh thêm mấy người con trai nữa nhưng tất cả đều không nuôi được. Vì thế, khi ba tôi lọt lòng, nội liền xỏ lỗ tai cho ba tôi để “xí gạt” tử thần. Mẹo này của nội đã linh nghiệm: ba tôi đã sống để hành đạo cho đến ngày nay, và đã bước qua ngưỡng bát tuần.

Câu chuyện vui xỏ lỗ tai trên đây ba tôi thường kể cho các con nghe những lúc gia đình sum họp. Tuy nhiên, trong thâm tâm, tất cả chúng tôi đều thấu hiểu và tạ ơn Thượng Đế đã nhiều lần cứu mạng ba tôi một cách linh diệu. Sự linh diệu này, một phần có lẽ cũng nhờ ba tôi là một nguyên nhân xuống thế rất lâu rồi (mãi từ thời Tam Quốc phân tranh xa lăng lắc bên Trung Hoa), nay trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ đại ân xá, ba tôi được Đức Chí Tôn cho hành đạo lập công ngõ hầu có thể trở về phục hồi ngôi vị cũ.

Điều này chúng tôi biết được nhờ thuở mới khai Đạo, nhằm mục đích khuyến khích các môn đệ phấn chí lo tu, Đức Chí Tôn thường cho biết tiền căn của các vị, trong đó có ba tôi. Đức Chí Tôn dạy:

Th. V. T. bắc phương trấn cửa, Trọn lòng thành bữa bữa vào ra, Bạn Tiên vui hưởng ma ha, Tham thoàn luyện kỷ, Hoa Đà dược tiên.

Lòng khẳng khái con hiền còn giữ, Chí hiên ngang căn cứ luật điều, Vô ra kiểm điểm danh nêu, Vẹn tròn bốn buổi công nhiều thuở xưa. Vì động khởi cho vừa ý muốn, Thấy dân nguy cổn cổn tha ma,(1)

Quyết tâm quỳ tấu Tam Tòa, Cho con hạ thế hầu ra cứu đời. Văn võ toàn nơi nơi kỉnh phục, Trí mưu tài xúi giục Khổng Minh, Thành ra chém tướng hao binh, Bị đày chuyển kiếp ngục hình tám phen. Thầy thấy vậy rọi đèn cho trẻ, Đặng hồi tâm lặng lẽ đêm thanh, Cho con chuyển thế làm lành, Đạo đời danh rạng phước dành trước kia. Con nên hiểu mà về cho kíp, Đời giúp đời giữ nếp thuần lương, Đạo thì trọng giữ rau tương, Cho qua buổi khổ tầm đường ẩn tu. Thầy thấy con cần cù lo Đạo, Mới đem con ngôi báu danh đời, Con ôi! Tự xét chiều mơi, Đạo là quý giá hơn đời đó con.

Trước đây, mặc dù làm việc tại Sài Gòn, nhưng thỉnh

Các chú thích trong sách do Ban Ấn Tống thực hiện. (1) Cổn cổn 衮 衮 : Lũ lượt, nhiều. Cổn cổn tha ma: Người chết nhiều,

mồ chôn la liệt ngoài nghĩa địa.

Page 6: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 9 10 − Câu Chuyện Đức Tin

thoảng ba tôi phải tháp tùng các cấp chỉ huy đi thị sát chiến trường. Trong một chuyến đi như vậy, ba tôi thấy rõ được ơn cứu mạng của Bề Trên.

Theo luật nhà binh, khi hành quân trên đường thì xe của cấp dưới không được phép vượt qua xe cấp trên. Thế mà hôm ấy, chiếc xe chạy phía sau xe ba tôi cứ nhấn kèn liên tục để xin vượt qua. Người lái xe của ba tôi nhất định áp dụng đúng luật, không chịu nhường đường. Chiếc xe phía sau vẫn cứ tiếp tục nhấn kèn xin qua mặt, mỗi lúc càng hối thúc hơn.

Ba tôi quay sang nói với vị chỉ huy: “Thôi, anh cho họ qua mặt đi. Có lẽ họ có chuyện gì gấp lắm thì phải.”

Vị chỉ huy đồng ý và bảo người lái xe nhường đường cho xe sau. Chỉ vừa vượt qua khỏi xe ba tôi khoảng chừng vài mươi thước thì cùng lúc với một tiếng nổ long trời, chiếc xe định mệnh ấy bị mìn hất tung lên khỏi mặt đất!

Trong thời gian tòng sự tại Sài Gòn, ba tôi thường xuyên đi hành đạo, thuyết trình tại các thánh thất, thánh tịnh ở mấy tỉnh miền Nam. Vì ban ngày bận làm việc nên ba tôi phải hẹn giờ thuyết đạo tại các tịnh thất vào khoảng bảy, tám giờ tối. Buổi chiều, ngay khi tan sở, ba tôi liền lái xe chạy riết từ Sài Gòn đi về các tỉnh. Thỉnh thoảng ba tôi ghé rước thêm một vài đạo hữu đi cùng cho vui. Thuyết đạo xong, ba tôi lại lái xe quay trở về Sài Gòn ngay trong đêm để còn kịp đi làm vào sáng hôm sau.

Một tối nọ, sau khi thuyết đạo xong, ba tôi lái xe trở về như thường lệ. Trên xe còn có vài đạo hữu đi cùng. Chạy xe được một quãng thì cơn buồn ngủ ập đến, ba tôi không tài nào cưỡng lại. Bấy giờ đang mùa khô nên đồng ruộng hai bên đường không có nước. Mọi người trong xe hoảng hốt khi thấy ba tôi bỗng dưng lái xe xuống ruộng rồi lại leo trở lên mặt đường mấy phen, thế mà trên xe không ai hề hấn gì. Khi ấy

mọi người mới vỡ lẽ rằng ba tôi đã ngủ gục trong lúc cầm lái. Ít hôm sau, ông Địa giáng đàn tại Huờn Cung Đàn (Tam

Giáo Điện Minh Tân, quận Tư). Với giọng trào phúng cố hữu Ngài cho biết: “Tối hôm đó Địa lái xe đã quá. Lên đường xuống ruộng thiệt là tài nghệ!”

Sau này, ba tôi được thuyên chuyển về tỉnh Bình Thuận. Vì gia đình chưa sắp xếp kịp để đi cùng, nên buổi tối đầu tiên, ba tôi ngồi một mình lẻ loi trong phòng khách. Rảnh rang, ba tôi bèn với tay lấy một quyển sách trên kệ xuống xem. Tình cờ là quyển Tam Quốc Chí. Đọc binh pháp của người xưa khiến ba tôi sực nhớ việc phòng thủ đồn binh.

Bỏ quyển sách xuống, ba tôi liền gọi điện cho người phụ tá, yêu cầu ông mang tới bản đồ các đồn phòng thủ của địa phương. Khi người phụ tá đến nơi, ba tôi ngẫu nhiên chỉ vào một vị trí trên bản đồ, bảo rằng đêm ấy ba tôi sẽ đi thị sát điểm phòng thủ này, đồng thời dặn ông đừng thông báo trước.

Tuy nhiên người phụ tá vẫn ngấm ngầm báo tin cho vị chỉ huy trong đồn ấy biết để lính tráng kịp chỉnh trang các thứ và trực chiến nghiêm cẩn.

Đêm ấy, ba tôi chưa kịp lên đường thị sát thì cái đồn ba tôi ngẫu nhiên lựa chọn đã bị tấn công. Nhờ chuẩn bị sẵn sàng nên nơi đó không ai thiệt mạng.

Trong thời gian tòng sự tại tỉnh Bình Thuận, ba tôi lại thêm một lần nữa được Ơn Trên cứu mạng. Làm việc trong quân ngũ lâu ngày nên ba tôi có thói quen tôn trọng kỷ luật và giờ giấc. Đến dự các buổi họp, ba tôi luôn luôn đúng giờ. Người lái xe cho ba tôi cũng biết tính cấp trên nên luôn chuẩn bị xe sẵn sàng, không bao giờ dám trễ nải.

Hôm ấy, ba tôi phải chủ trì một cuộc họp bắt đầu lúc 16 giờ. Đúng 15 giờ 45, ba tôi bước xuống sân, đinh ninh rằng

Page 7: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 11 12 − Câu Chuyện Đức Tin

người lái xe đã chực sẵn. Không ngờ anh ấy đi đâu biệt tăm, chờ mãi đến 16 giờ 10 mới thấy trở về.

Anh phân trần rằng từ 15 giờ 30 đã đến kho nhiên liệu để đổ xăng nhưng người giữ kho bỏ đi xem đá banh, thế là anh phải mất thời gian chạy ra tới sân banh để tìm…

Xe ba tôi vừa lăn bánh ra khỏi cổng thì đã nghe từ phía xa vọng lại những tràng súng nổ ran. Ba tôi liền nhận được điện cấp báo rằng nơi tổ chức cuộc họp vừa bị tấn công, đúng 10 phút sau giờ dự kiến khai mạc.(2)

Những mẩu chuyện trên đây đã góp phần củng cố cho chúng tôi thêm tin tưởng vào quyền năng mầu nhiệm của Thiêng Liêng và nhờ thế chúng tôi đã sớm xác tín rằng dù ở bất cứ nơi đâu, người chí thành tâm đạo luôn luôn được Ơn Trên hộ trì che chở để hành tròn sứ mạng, như lời Đức Giáo Tông Đại Đạo đã dạy ba tôi năm xưa:

Th. V. T. tâm thiềng chứng giám, Đạo đời tròn Lão cảm thâm tâm, Ráng đi sau lại trăng rằm, Phước tràn Lão thưởng, huyền thâm hưởng nhờ.

(2) Ba tôi còn được Đức Như ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn phù hộ. Năm

Bính Thìn, Ngài cho biết ba tôi là đệ tử của Ngài trong kiếp trước: Duyên xưa Sư đệ đã lâu rồi, Chuyển kiếp Thầy trò kẻ mỗi nơi. Nay gặp lại đây cần độ rỗi, Để cho vững chãi, đạo như đời.

Nhiều năm trước đó, tại Huờn Cung Đàn, 14-4 Tân Sửu (28-5-1961) Đức Như Ý đã xác nhận:

Hỡi Th. V. sớm chiều lo lắng, Với Lão đây đã sẵn nhân duyên...

Page 8: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 11 12 − Câu Chuyện Đức Tin

Vật chất khuyên trò khá bỏ khơi

Má tôi (1) là con gái đạo trưởng Trương Truyền Chánh (1907-1988, thánh danh Kiến Minh). Thuở bé, tôi thường nghe má kể nhiều chuyện mầu nhiệm trong đạo Cao Đài. Đây là một chuyện trong số đó.

*

Năm 1945, ở vùng Chợ Gạo (Mỹ Tho) có bà Năm Diệu, theo đạo Thiên Chúa. Chồng bà là Maurice Schneider, người Miên lai Pháp. Ông Năm xa nhà, đi làm tận Paksé (bên Lào) và đột ngột bỏ xác xứ người.

Không cam lòng vì nỗi chồng ra đi chẳng một lời trăn trối, bà Năm nhờ người làm một bàn cầu cơ theo kiểu dân gian, với miếng cơ hình trái tim, để cầu hồn chồng. Hai thanh nữ ngồi để tay tiếp điển là Thanh Hương (con gái ông bà Năm) và Huệ Thanh (má tôi, con gái ông bà Trương Truyền Chánh).

Bà Năm vừa đốt ba cây nhang khấn vái xong thì ông Năm về liền, cho biết rằng ông đang tịnh luyện ở non thần và khuyên bà cũng phải lo tu. Ông giải thích cho bà hiểu tu nghĩa là tu tâm sửa tánh, trau dồi đức hạnh, làm lành lánh dữ, giúp đỡ người nghèo khổ chứ không phải vô chùa xuống tóc, mặc áo cà sa mới gọi rằng tu. (1) Thế danh Trương Kim Hoa (1931-2009), thánh danh Hồng Mai.

Page 9: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 13 14 − Câu Chuyện Đức Tin

Nghe theo lời ông, bà cho viết lên bảng mười điều nên làm và mười điều không nên làm để mọi người trong nhà noi theo.

Đêm hôm đó một con đom đóm bay vào nhà, rà rà theo từng chữ trên tấm bảng viết hai mươi điều khuyên răn do ông Năm căn dặn. Bà nói với mọi người trong nhà: “Đó, ổng về dò coi tao viết có đúng không đó.”

Rồi bà nói với con đom đóm: “Nếu quả thật là ông thì hãy bay đến đậu trên tay tôi.”

Lạ thay! Con đom đóm liền bay đến đậu trên tay bà. Thấy việc cầu hồn quá dễ dàng nên bà Năm thường xuyên

cầu ông về để nói chuyện cho đỡ buồn. Mỗi lần cầu hồn ông Năm, bà lại mời ông bà Trương Truyền Chánh (vốn là bạn thân ông bà Năm) đến dự.

Ông Chánh xưa nay không hề tin có thần thánh hay ma quỷ gì cả nhưng vẫn tới để bà Năm vui lòng.

Ông Năm về nói chuyện thân mật với ông Chánh và thường hay giễu cợt như lúc còn sống. Chẳng hạn, có lần ông Chánh (người Việt gốc Hoa) vừa mới tới ngoài cổng, mọi người trong nhà chưa ai thấy nhưng trên bàn cơ đã viết lời ông Năm: “Chào xì thẩu!” (2) Chừng ông Chánh bước vào, mọi người mới hiểu ra và phì cười.

Ngày kia, ông Năm bảo vợ: “Ta đang tu. Năm cầu ta về hoài, ta tu không được.”

Ông dặn bà từ đó về sau chỉ nên cầu ông về vào những ngày ăn chay và phải sắm nhang đèn, bông trái, rượu trà tươm tất cho đủ lễ. Những người dự cầu cơ cũng phải ăn chay, mặc áo dài nghiêm chỉnh. Nhờ đó, dần dần có các Đấng thiêng

(2) Xì thẩu (giọng Quảng Đông) nghĩa là ông chủ, chữ Nho là sự đầu

事 頭 (người đứng đầu một công việc).

liêng về dạy đạo. Mỗi tối trước khi cầu cơ, Thanh Hương và Huệ Thanh phải nghiêm cẩn đọc kinh hẳn hoi.

Một hôm, Thanh Hương và Huệ Thanh đọc kinh so le thế nào mà cả hai đều không nhịn được cười.

Khi hai cô vào ngồi để tay lên bàn cơ, một Đấng thiêng liêng về dạy:

Ngồi xem hai kẻ niệm kinh, Thanh thời đi trước Huệ còn đàng sau. Cười cười giỡn giỡn trước bàn, . . . . . . . . . . . . rồi cũng niệm kinh.(3)

Thanh Hương và Huệ Thanh sợ hết cả hồn, lo ngại đắc tội với Bề Trên.

Lúc bấy giờ ông Chánh và một anh công nhân xay lúa thấy vậy muốn rõ thực hư ra sao nên xin cho hai người cùng để tay lên bàn cơ.

Ông Chánh đã nhiều lần dự cầu cơ nhưng trong lòng vẫn còn nghi hoặc chứ chưa thật sự tin tưởng. Khi hai người để tay, miếng cơ chỉ nhúc nhích chứ không chạy được. Cuối cùng, hai cô Thanh Hương và Huệ Thanh vào thay thì cơ chạy vèo vèo.

Hôm ấy Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng dạy: “Các con cần Ta hay Ta cần các con? Người xưa muốn tu phải lội suối trèo non tìm Thầy học đạo. Ngày nay chính Thầy đích thân giáng phàm để dạy đạo mà các con còn thử Ta!”

Rồi Đức Thượng Đế dạy tiếp: “Có trời có đất, có âm có dương, có thiên đàng địa ngục, có tội có phước.”

Anh công nhân nghe vậy nên thú thật là chính anh đã rị

(3) Đạo tỷ Hồng Mai không nhớ bốn chữ ở đầu câu chót.

Page 10: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 15 16 − Câu Chuyện Đức Tin

con cơ lại không cho chạy. Ông Chánh cũng vừa lo ngại vừa tin tưởng.

Lần nọ, ông Chánh được mời hầu đàn tiên tại nhà ông Đốc Phủ Sứ Trần Nguyên Lượng (1877-1968), một vị tiền bối tên tuổi của đạo Cao Đài. Ông Lượng có người con gái thứ năm tên là Trần Ngọc Yến. Cô Yến còn trẻ, đã lập gia đình, cũng tu theo đạo Cao Đài. Sau một cơn bệnh, cô tạ thế, rồi nhờ cơ bút Cao Đài mà gia đình biết cô đã đắc quả vị là Kim Nhàn Ngọc Nữ.

Dự đàn tiên tại nhà ông Lượng, ông Chánh rất ngạc nhiên khi thấy Đức Kim Nhàn Ngọc Nữ mỗi lần giáng cơ đều lạy cha rồi ông Lượng lại quỳ lạy trả lễ con mình. Về nhà, ông Chánh bèn đem thắc mắc này trao đổi với vợ.(4)

Một tháng sau, ông Chánh đi hầu đàn và được Đức Kim Nhàn Ngọc Nữ giáng cơ giải thích việc “tử bái phụ, phụ bái tử” (con lạy cha, cha lạy con). Hôm ấy, Đức Ngọc Nữ bảo đúng là Ngài lạy cha, nhưng không phải cha Ngài lạy trả lễ con mà chính là lạy Thượng Đế đã ban ơn cho con về dạy đạo; đó là “tử bái phụ, phụ bái Thiên” (con lạy cha, cha lạy Trời).

Ông Chánh không khỏi giật mình vì ông chỉ nói riêng với vợ điều ông thắc mắc, vậy mà Đức Kim Nhàn Ngọc Nữ giải đáp rõ ràng cho ông hiểu. Đức tin của ông thêm một lần nữa được củng cố.

Dịp khác, ông Chánh được Ơn Trên ban cho vé thi điểm danh gồm bốn câu như sau:

CHÁNH tâm kỉnh Phật với thờ Trời, Vật chất khuyên trò khá bỏ khơi.

(4) Thế danh Lý Thị Mỹ (1908-1971), thánh danh Thanh Lan, quả vị

Thanh Lan Tiên Nữ.

Đạo hạnh ngày đêm tua (5) sửa lấy, Ráng thêm chút nữa đáng công đời.

Ông Chánh cứ suy gẫm câu “Vật chất khuyên trò khá bỏ khơi”, nhưng không rõ Ơn Trên ngụ ý gì.

Hai tháng sau, một trận hỏa hoạn dữ dội đã thiêu rụi hoàn toàn cơ nghiệp của ông Chánh, gồm một căn nhà lớn năm gian, năm căn phố đang cho thuê và hai vựa lúa lớn. Tất cả đều hóa thành tro bụi trong phút chốc. Bấy giờ ông Chánh sực nhớ lại câu thơ mà Ơn Trên đã cho ông biết trước tai họa sẽ xảy ra: “Vật chất khuyên trò khá bỏ khơi”.

Nhờ bài thơ tiên tri đó ông Chánh khỏi buồn phiền, đau khổ vì tiếc của. Ông bình tâm chấp nhận hoàn cảnh và cần cù gây dựng lại sự nghiệp.

Tất cả những sự việc xảy ra đó đã tạo cho ông Chánh một đức tin vững chắc vào Thiêng Liêng và ông quyết định nhập môn Cao Đài (năm 1947). Ông được ban thánh danh Kiến Minh và lần lượt được Ơn Trên ban trao nhiều trọng trách trong Giáo Hội Cao Đài Thống Nhứt (quận Tư). Ngày 15-7 Ất Mão (21-8-1975) Đức Lý Giáo Tông ân ban cho ông giữ nhiệm vụ Phó Tổng Lý Minh Đạo (đặc trách Hội Đồng Nghiên Cứu Giáo Lý) của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam (quận Một). Sau khi lìa trần (1988), ông đắc quả vị là Đắc Tâm Chơn Thánh.

(5) Tua: Hãy nên (tiếng Việt xưa), chữ Nho là tu 須 ..

Page 11: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 17 18 − Câu Chuyện Đức Tin

Hành trình về cõi hư linh

Làm người, không ai có thể vượt ra ngoài định luật sinh tử. Con người vẫn tự hỏi: Chết rồi sẽ đi về đâu? Ngày nay câu trả lời đã biết được rõ ràng qua lời tường thuật chi tiết của chính những người đã bước qua thế giới bên kia, bản thân đã trải nghiệm lúc xuất hồn đi về cõi vô hình.

Thật vậy, trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nhờ vào luật đại ân xá của Đức Chí Tôn Từ Phụ, thông qua phương tiện cơ bút, nhiều chơn linh quá vãng đã được phép về đàn kể lại cho người trần thế cuộc hành trình của hồn linh sau khi lìa khỏi xác phàm ngõ hầu khuyên nhủ thế nhân hãy gắng chí lo tu.

Hành trình về cõi hư vô của các chơn linh không giống nhau vì tùy thuộc vào quá trình sống của mỗi người lúc còn trên dương thế. Sau đây là vài trường hợp cụ thể do các chơn linh kể lại sau ngày thoát xác: Có hồn phải chịu ai hoài nắng sương nơi tuyền đài, có hồn được chuyển kiếp trở lại làm người, có hồn phải đầu thai làm kiếp thú hoặc quái nhân để đền trả tội xưa, có hồn được Thiêng Liêng rước về non thần tịnh luyện trước khi thọ phong phẩm vị, có hồn trở về cõi thượng thiên trong khi thể xác vẫn còn nằm tại thế gian, v.v…

1. LÝ VẠN DŨ (1877-1949) Vào giờ Ngọ ngày 28-5 Tân Mão (02-7-1951), tại Thanh

Tịnh Đàn (Mỹ Tho), Đức Đông Nhạc Đại Đế dẫn hồn của

tiền bối Lý Vạn Dũ (1) nhập cơ sau ba năm (ba mươi sáu tháng) tạ thế. Lý tiền bối tường thuật như sau:

Ba sáu tháng xa nhà cách trẻ Hai tám này vui vẻ Ngọ nay Bấy lâu dật dựa tuyền đài Hồn linh cam chịu ai hoài (2) nắng sương.

Tiền bối cho biết vì sao hồn linh phải chịu khổ não nơi tuyền đài: Lúc còn tại thế, vì mải lo tạo dựng sự nghiệp vật chất hầu bảo dưỡng thê nhi nên vô tình gây tạo tội lỗi.

Phải đảo điên Tại vì tiền Mất tâm thiền Mất tâm thiền tại thiên gia thất Lo bảo toàn vất vả lao tâm Khổ lòng đau nhức chích châm Mấy mươi năm chịu lạc lầm không tu. Lòng không tu Bị lờ lu Mất tánh nhu Mất tánh nhu, cần cù lo liệu Sợ thiếu dùng lịu địu trẻ thơ Cho nên tội lỗi bất ngờ Tiền duyên nghiệp chướng khổ cơ ngạ hàn.(3)

Nhờ các con biết lo tu hành và cầu nguyện nên tiền bối Lý Vạn Dũ được hưởng ân đại xá, thoát cảnh khổ sầu nơi địa ngục và được trở về cõi trần hàn huyên cùng con cái: (1) Là cha của đạo tỷ Lý Thị Mỹ (quả vị Thanh Lan Tiên Nữ). (2) Ai hoài 哀 懷 : Buồn nhớ não nuột. (3) Cơ 飢 : Đói. Ngạ 餓 : Rất đói. Hàn 寒: Lạnh lẽo.

Page 12: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 19 20 − Câu Chuyện Đức Tin

Con tu cha đặng ngao du Con thành cha đặng thoát cù lộn quanh.(4) Nhờ con chí khí tu hành Ra công phổ cứu cầu danh cha về.

(...) nhờ lòng tu đức của các con nên cha mới đặng linh hồn thong thả hầu nương cửa thiền ôn dưỡng tâm linh chờ ngày lãnh bảng Tiên ban. Nhờ con cùng rể giúp cha, ấy gọi đền ơn dưỡng dục đó vậy. Nay cha mới biết là con tu cứu cửu huyền thất tổ đặng tiêu diêu. Ấy cũng nhờ Kỳ Ba đại xá.

(…) Cùng CHÁNH,(5) con tạm làm bài vị của cha để nơi tiền

giác Thanh Tịnh này cho cha mộ triêu (6) hầu nghe kinh mau siêu thoát, vì nơi gia bất tịnh, khó nổi cho linh hồn hoạt bát kệ kinh. Con khá hiểu mà giúp cha. Ấy là con trả hiếu cho phụ thân, là rể thảo đó vậy.

Chơn linh tiền bối Lý Vạn Dũ về sau chẳng những lìa khỏi u đồ mà còn thoát cảnh luân hồi sanh tử nơi thế gian và đắc vị Phước Đức Chơn Thánh. Ấy nhờ con cháu biết tu và đứng vào hàng Thiên ân sứ mạng trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

2. LÊ VĂN MỄ Tiền căn là một vị sơn thần nhưng vì không chu toàn trách

nhiệm nên ngài bị đầu thai trở lại làm người trong ba kiếp. Ở kiếp thứ ba, Lê tiền bối hạnh ngộ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và thọ phẩm Giáo Hữu (đặc trách ngoại giao). Tuy nhiên do

(4) Thoát cù lộn quanh: Thoát khỏi cảnh luân hồi chuyển kiếp. (5) Là con rể, tức đạo trưởng Trương Truyền Chánh (1907-1988),

thánh danh Kiến Minh), quả vị Đắc Tâm Chơn Thánh. (6) Mộ 暮 : Buổi chiều. Triêu 朝 : Buổi sớm.

phạm lỗi, tiền bối phải chịu đầu thai làm kiếp thú. Sau ngày tiền bối thoát xác, gia đình và đạo hữu thường

cầu xin Ơn Trên cho biết tin về người quá cố. Mãi đến mười lăm năm sau, tiền bối mới được Đức Lý Giáo Tông cho về trần gian kể lại câu chuyện luân hồi quả báo trên ngọn linh cơ tại Vĩnh Nguyên Tự (xã Long An, quận Cần Giuộc, tỉnh Long An) vào ngày 02-12 Tân Sửu (07-01-1962):

LÊ VĂN MỄ Ngu đệ xin nghiêng mình chào chư Thiên mạng. Chào liệt

vị nam nữ đàn trung. Mừng nhục tử, nhục tôn. Ngu đệ xin mời chư Thiên mạng cùng liệt vị đồng an tọa để ngu đệ có đôi lời phân giải.

Rất hữu phước thay khi buổi sanh tiền, ngu đệ đã được chen mình vào cửa Đạo. Tuy bước tu hành vẫn còn xiển bạc, nhưng nhờ thời kỳ hạ nguơn ân xá, nên ngu đệ mới được phần ân huệ của Chí Tôn ban bố.

Với tấm lòng vẫn khăng khăng vì Đạo, gặp phải thời kỳ Đại Đạo rẽ chia, cơ đại đồng khai diễn, ngu đệ làm Giáo Hữu ngoại giao, dầu quyền phong nhưng đã trọn tâm vì Đạo, nên được phần chứng chiếu của Thiêng Liêng. Ôi! Bởi tiền khiên nhân quả, nên hậu kiếp phải đền bồi. Khóc ...

Hôm nay mà ngu đệ còn trở lại chốn đền vàng bạn ngọc nầy thì làm sao khỏi tủi mừng rơi lệ. Vậy chư Thiên mạng cùng thân bằng nghe đôi lời trong khi quá vãng.

BÀI Mười lăm năm cách xa trần thế, Nghĩ phận mình tội lệ đa mang, Hổ vì khi ở thế gian, Đường tu xiển bạc lỡ làng công phu.

Page 13: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 21 22 − Câu Chuyện Đức Tin

Bởi tiền kiếp vụng tu gây tạo, Nên hậu lai trả báo cho rồi, Người đời xem thấy than ôi, Nhưng khi hiểu lại thì rồi nghiệp oan. Đệ phúc sanh vào hàng đạo đức, Tiền căn xưa lãnh chức Sơn Thần, Cũng vì trễ biếng phân vân, Thác sanh cõi tạm hồng trần gian nan. Trải hai kiếp chịu đàng nhơn quả, Vì sân si tai họa tạo nên, Đành rằng bản án đề tên, Chuyển về dương thế chịu đền tội xưa. Nay tính lại đã vừa ba kiếp, Ngoài trăm năm gặp dịp xá ân, Sanh vào bên cội đức nhân, Đường tu sẵn có đỡ đần hồn linh. Nay đệ đem tiền trình thuật lại, Cho tỷ huynh phải trái nghe rành, Luật Trời chẳng đặng cải canh, Luân hồi quả báo không dành cho ai. Sống lo tạo gia tài sản nghiệp, Vùi tấm thân trong kiếp nắng mưa, Cháy da dưới bóng trời trưa, Thê thằng tử phược (7) bây giờ trối trăn. Cảnh phú quý cơ bần lộn lạo, Từ nguyên nhân trở tráo hóa nhân,(8)

(7) Thê thằng tử phược 妻 繩 子 縛 : Vợ con trói buộc. (8) Từ cõi thượng giới đi xuống trần gian (nguyên nhân), vì phạm lỗi

Hễ mình gieo giống nợ nần, Thì mình phải chịu đường trần trả vay. (…) Nay đệ được thoát vòng lao lý, Nhờ Thiên Tòa ngọc chỉ thứ tha, Thứ tư lên chốn trần la, Độ đời cứu thế chứng tòa kim liên.(9) Ai cũng có căn nguyên bổn giác, Hễ giống người thì khác thú chim, Bởi không thức tỉnh kiếm tìm, Kiếp người phải chịu đắm chìm biển sâu. Người chẳng biết quày đầu hướng thiện, Coi luân hồi là chuyện vu vơ, Trái oan gây tạo một giờ, Từ người đến thú ai ngờ được chăng? (...) Đệ nhắc đến càng nhiều tủi hận, Mười lăm năm còn bận đệ huynh,(10) Chuyện rồi một kiếp phù sinh, Tội mình mình gánh, khổ mình ai hay. Nếu trước chẳng học bài đạo đức, Bóng Từ Bi (11) giúp sức chở che, Dễ chi tỉa đậu ra mè, Làm sao mong thoát ê hề ngục môn.

nên đầu thai làm thú, rồi từ thú tiến hóa lên làm người (hóa nhân).

(9) Tòa kim liên: Tòa sen vàng làm chỗ ngồi của các Đấng thiêng liêng. (10) Còn làm bận lòng anh em đạo hữu lo lắng vì không biết tin tức tiền

bối Lê Văn Mễ sau khi tạ thế. (11) Bóng Từ Bi: Đức Chí Tôn.

Page 14: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 23 24 − Câu Chuyện Đức Tin

Đó, đệ luận sanh tồn nhân quả, Chư tỷ huynh biết ngả luân hồi, Nhìn trong thân tộc thương ôi, Xin cho đệ tỏ vài lời gọi kêu.

3. PHAN VĂN THANH (1890-1950) Tiền bối hành đạo tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài (đường

Nguyễn Khoái, quận 4). Vì trót phạm lỗi lầm nên sau khi thoát xác tiền bối phải chịu đầu thai làm quái nhân trong sáu năm để đền tội xưa.

May được bá tánh xót thương bố thí nên trong sáu năm làm quái nhân, tiền bối đã giúp song thân thoát cảnh cơ hàn và xây chùa làm nơi lánh đục tầm trong. Nhờ công quả trợ giúp mẹ cha trong việc xây dựng sự nghiệp đạo đức này, tiền bối trả xong nợ tiền khiên, mãn kiếp được trở về cung Thái Ất tịnh luyện trong chín năm, đắc vị Hiển Thế Đạo Nhơn.

Tiền bối giáng cơ tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài ngày 10-5 Ất Tỵ (09-6-1965) kể lại ngọn ngành như sau:

Xin tường thuật đoạn đường tu niệm, Mười lăm năm luân chuyển bao lần, Đến năm Đinh Dậu tân xuân, Thiên ân đại xá non thần luyện đơn. Đã trả xong nghiệp trần oan trái, Lịnh Tam Tòa cho lại đàn cơ, Phướn thần đưa đón chực chờ, Cùng chư huynh đệ một giờ tỏ phân. Đêm thanh vắng tố trần (12) mọi nỗi, Hỡi đệ huynh phước tội soi gương,

(12) Tố trần: Trần tố 陳 訴, bộc bạch, kể rõ nỗi oan khiên.

Từ khi sanh cõi trần dương, Phúc hồng gặp Đạo thoát đường trần ai. Mấy mươi năm trả vay vay trả, Một cuộc đời vất vả lăn thân, Hy sinh vì Đạo vô ngần, Chẳng quên chút phận ân cần sớm trưa. Vì cảnh ngộ đẩy đưa tình thế, Vì lòng phàm còn để lấn chen, Lỡ lầm thói cũ đã quen, Vương mang lấy tội, ăn năn muộn màng. Khi thoát khỏi trần gian tục lụy, Công quả kia đắc chỉ Thiên Cung, Tội làm âu phải đền xong, Sáu năm trở lại trần hồng hóa sanh. Thoát thai bào biến thành quái tướng, Để cho đời lầm tưởng dị nhân, Song thân trong cảnh cơ bần, Cũng nhơn lấy hội tìm phần dưỡng nuôi.(13) Lòng mẹ cha chán rồi thế tục, Quyết lập chùa tránh đục tầm trong, Sáu năm quái tướng trần hồng, Gầy nên sự nghiệp cho dòng mẹ cha. Mãn kiếp được thoát ra khỏi xác, Trở về nơi cực lạc Linh Tiêu, Thiên Tôn Thái Ất dắt dìu, Tam Kỳ ân xá tránh điều trầm luân.

(13) Cha mẹ đưa người con dị dạng quái tướng đi “trình diễn” để xin

tiền bá tánh.

Page 15: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 25 26 − Câu Chuyện Đức Tin

Chín ngày chốn non thần luyện đạo, Là chín năm tu tạo nơi trần, May thay đầy đủ chơn thân, Mới hay kết tụ nguơn thần anh linh. Nay giáng thế tường trình mọi nỗi, Hỡi đệ huynh sớm tối lo lường, Vô tư thiên địa chiêu chương,(14) Thần minh thời sát (15) không phương thoát nàn. Nghĩ đến cuộc trần gian thế sự, Nhớ những điều lành dữ mà kinh, Hỡi ôi thế thái nhơn tình, Suy ra mình gẫm phận mình mà đau. Bởi vì nghiệp tự trau tự chuốc, Bởi quên đường về được quê xưa, Đến nay chợt tỉnh cũng vừa, Trách chi lòng tục ngăn ngừa lỗi ta. Gương Tệ Huynh bày ra trước đó, Để đệ huynh xem rõ mà làm, Nghiệp trần thôi chớ vương mang, Tội trần thôi chớ lấp đàng tồn sinh.

4. HOÀNG ĐÌNH LẬP Anh Lập nguyên là thành viên tập thể Thanh Thiếu Niên

Phổ Thông Giáo Lý, sau khi từ trần (1968) đã được chuyển kiếp trở lại làm người. Trước khi đi đầu thai, anh được Ơn (14) Vô tư thiên địa chiêu chương 無 私 天 地 昭 彰 : Trời đất vô tư

(không thiên vị, công bằng), sáng rỡ (chiêu chương). (15) Thần minh 神 明: Các vị thần thánh. Thần minh thời sát 神 明 時

察: Các vị thần thánh mỗi thời khắc đều xem xét tội phúc con người.

Trên ban đặc ân cho về trần gian bày tỏ cùng gia đình và các đạo hữu trong một đàn cơ tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, ngày 08-8 Mậu Thân (29-9-1968):

LINH QUANG THỔ ĐỊA Bản Thần chào chư Thiên mạng, chư chức việc nội ngoại

và đạo hữu đàn tiền . Vâng lịnh Đô Thống Quản Địa Thần, Bản Thần hôm nay

đến tiếp rước Nam Phương Thổ Địa Thần Kỳ dẫn vong hồn Hoàng Đình Lập về thăm viếng và từ giã thân bằng quyến thuộc trước khi đi đầu thai chuyển kiếp. (…)

Nam Phương Thổ Địa vừa qua đến Ngọ môn đang chờ kia. Thôi, Địa xin chào chung chư liệt vị đằng vân tuần du. Xin kiếu.

TIẾP ĐIỂN HOÀNG ĐÌNH LẬP

(…) Lập cùng với nhiều vong hồn khác được đầu thai chuyển kiếp, nhưng Lập được đặc ân hơn các vong hồn khác là nhờ có tiền thân phụ Đô Thống Quản Địa Thần (16) tấu trình xin cho Lập được phép ghé lại đây hội kiến và nói một ít lời cuối cùng trước khi chuyển kiếp.

Tiểu sinh xin phép quý vị cho tiểu sinh ít thì giờ để hàn huyên cùng gia quyến. Vì thì giờ chẳng có bao nhiêu trong lúc đó còn bao nhiêu vong linh khác ở ngoài cửa đợi chờ.

(…) Lập hằng mong ước, kiếp này đã lỡ rồi, mười lăm năm sau sẽ là một giáo sĩ lành mạnh.

Sau đây Lập để lời cùng các anh chị em thanh thiếu niên (16) Sinh thời là tiền bối Hoàng Ngọc Tạo (thánh danh Hồng Phước),

làm Minh Tra tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, quy thiên năm 1966.

Page 16: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 27 28 − Câu Chuyện Đức Tin

Phổ Thông Giáo Lý. (…) Các bạn nên hiểu như vầy: Bất cứ một cái nhân nào

đương nhiên sẽ kết quả đó. Trong cõi thiêng liêng hư vô bất muội, người nào có những tư tưởng nào trong phạm vi nào và sống trong đời sống nội tâm nào, khi hồn lìa khỏi xác sẽ về hợp và sống trong bầu vị bản chất của nó. Nhờ vậy mà người có thiện tâm muốn tu để giải thoát nghiệp duyên hồng trần chắc chắn sẽ được như ý nguyện.

Nói một cách khác, tuy trong cõi hư linh có muôn triệu triệu thế giới, có không biết bao nhiêu những chòm những nhóm mà nơi sách Thần Linh Học hay Thông Thiên Học gọi là khóm hồn. Mỗi khóm đều có mỗi trình độ tiến hóa cao thấp khác nhau, loại nào tự nó sẽ tìm và quy tụ về loại ấy. Vì vậy các đạo kinh luôn luôn dạy khuyên người đời hãy cố gắng lo gây tạo những nhân lành, đừng vọng động những kết quả mà sẽ kết quả không sai chạy một mảy hào.

(…) Tiểu sinh xin chào tạm biệt quý liệt vị, vì Nam Phương Thổ Địa Thần Kỳ hối thúc, các vong linh sửa soạn lên đường.

5. TRƯƠNG THÀNH THIỆN (1945-1972) Sinh ra trong một gia đình có truyền thống tu hành theo tân

pháp Cao Đài, anh Thiện (17) tạ thế năm hai mươi tám tuổi. Mặc dù lúc sống chưa lập được công trạng với Đạo nhưng nhờ ân phước của nội tổ cùng phụ mẫu đã dày dạn công tu và

(17) Con trai tiền bối Trương Truyền Chánh (thánh danh Kiến Minh). Đạo trưởng Kiến Minh là pháp đàn bộ phận thông công (Hiệp Thiên Đài) của Giáo Hội Cao Đài Thống Nhứt và về sau là Phó Tổng Lý Minh Đạo của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam. Diệu Nguyên gọi Trương Thành Thiện là cậu Chín.

đắc quả vị nên anh không bị luân hồi chuyển kiếp mà được rước về non thần tu học. Trong thời gian tám mươi mốt ngày (cửu cửu), chơn linh anh Thiện còn được đưa về Huờn Cung Đàn (Tam Giáo Điện Minh Tân, quận 4) vào giờ Ngọ ngày 30-5 Nhâm Tý (10-7-1972) để tường thuật sự tình lúc lâm chung cùng những việc xảy ra sau đó.

MINH ĐỨC KIM TIÊN (THIÊN HUYỀN MINH) (…) Anh đôi lời truyền lại, giờ linh chuyển ngọn linh cơ

thay Nguyệt Đức Kim Tiên đang ngự bồ đoàn tịnh dưỡng, đưa chơn linh hồi trần trong cửu cửu nơi cõi vô hình tu học.

Kiếp sống tạm của con người cần phải lập công bồi đức, trả nghiệp oan khiên để lúc hồn rời khỏi xác được phản hồi non bồng tự tại.

Vậy các em sắp được hưởng thời thượng nguơn thánh đức, hãy lo lập công bồi đức hầu hưởng ngôi vị. Đó là Kỳ Ba ân xá. Nếu không thế thì đâu được đoạt vị dễ dàng.

Nay chuyển ngọn cơ đôi lời lưu lại, chư Thiên mạng cùng các em hiện còn xác thân hãy lo lập đức kỳ công, đến ngày chung cuộc mới đặng non bồng cựu vị.

Vậy Thiên mạng cùng các em tịnh tâm tiếp hộ chơn linh. Anh điển hồi Tiên cảnh.

TIẾP ĐIỂN (…) THIỆN. Tôi chào mừng Thiên mạng, anh chị đàn trung.

Con mừng ba cùng chị em an tọa. Con xin phép đôi lời tường thuật một giấc ngủ ngàn thu của đời người hai tám (28), cũng là một chuyển kiếp hồi trần để làm tròn phận sự đối với ngọn rau tấc đất. Riêng ơn sanh thành dưỡng dục con chưa trọn phần đền đáp. Tử thần đưa con vào cõi vô hình, sự phán xét vô hình, con được hưởng luật ân xá. Giờ đây con thuật lại

Page 17: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 29 30 − Câu Chuyện Đức Tin

cho ba tường tự sự. Đây không phải con làm cho ba cùng anh chị cô bác phải động lòng cảm xúc.

Trước khi anh Thiện lìa trần, trên đường thi hành công vụ của người trai thời chinh chiến, anh đã được Đức Nguyệt Đức Kim Tiên (18) báo mộng cho biết mạng căn đã hết và khi hồn anh vừa lìa khỏi xác thì liền nhìn thấy Đức Nguyệt Đức Kim Tiên cùng một thơ đồng cầm phướn lịnh chờ sẵn để rước anh về cõi không. Anh Thiện kể:

Đầu cúi lạy cha già ba lạy, Để cư tang con mãi ghi lòng, Con đà trở lại huờn không, Tỏ bày đôi đoạn chơn đồng truyền qua. Ngày sơ lục (19) con đà vận chuyển, Đoàn công-voa (20) trực tiến cao nguyên, Kon Tum đoàn tụ dây chuyền, Phần con tiếp liệu chở chuyên vận hành. Vừa đến nơi hoàn thành hồi phục, Vì con đường chận khuất khó ra, Dừng chân ở lại đó mà, Đêm khuya mơ giấc mộng mà như đây. Bác Huỳnh Đức lời này truyền lại, Vì mạng căn nên phải cam đành, Giã từ phưởng phất đêm thanh, Rồi sau trở lại ngọn ngành phân qua.

(18) Sinh thời là tiền bối Phan Khắc Sửu (1905-1970), thánh danh

Huỳnh Đức, là người thân quen với gia đình nên anh Thiện thường gọi là bác Huỳnh Đức hay bác Năm.

(19) Mùng 6 âm lịch. (20) Convoi: (Tiếng Pháp) đoàn xe nhiều chiếc nối nhau chạy.

Khi hồi tỉnh rõ ra giấc mộng, Thời bên ngoài tợ sóng dập vào, Tùy theo còi lịnh biết sao, Mọi người đều phải nhập vào hầm nương. Từ nửa đêm thường thường liên tiếp, Tiếng thần công khủng khiếp lòng quân, Bao nhiêu tiếng dội không ngừng, Tinh thần rối loạn tưng bừng trước sau. Đến sáu giờ đổ vào thác lũ, Thấy hết rồi chỗ trú ẩn nương, Giờ đây đến lúc đoạn trường, Rơi vào một quả biết lường nơi ai! Bị đứt đoạn lìa tay phía hữu, Phần nhục thân khó cứu lại nguyên, Ngũ tạng bị lủng đâm xuyên, Hồn rời khỏi xác sẵn liền bác Năm. Đã chực sẵn tay cầm phướn lịnh, Hình ba màu (21) tề chỉnh nghiêm phong, Cạnh bên có một thơ đồng, Phất qua diêu lại cõi không rước về. Nhìn bốn phía tư bề lặng lẽ, Vừa bước vào cầm thẻ xưng danh, Tay nương tịnh thủy dương nhành, Rải vào linh điển phục sanh thể hình.

Lúc này, anh Thiện được gặp lại bà nội (đắc vị Hồng Cúc Tiên Nương) và mẹ (đắc vị Thanh Lan Tiên Nữ).

(21) Phướn Tam Thanh có ba màu tượng trưng cho Tam Giáo, kể từ

trên xuống là vàng (Phật), xanh (Tiên), đỏ (Nho).

Page 18: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 31 32 − Câu Chuyện Đức Tin

Kìa ửng lộ chơn hình nội tổ, Cùng mẫu thân mạng số phân qua, Phủi rồi một kiếp trần mà, Trở về không cảnh vào ra non bồng.

Anh Thiện được mẹ dẫn hồn trở về nhà riêng để báo tin cho cha. Do đó, đúng vào ngày anh mất, trong giấc ngủ trưa, tiền bối Kiến Minh nằm mơ thấy một phụ nữ đưa một cậu con trai đến nhà. Tiền bối nói: “Tôi nhớ dường như tôi còn thiếu nợ bà một số tiền. Để tôi gởi trả bà.”

Người phụ nữ khoát tay: “Không, không! Đã không còn nợ nần gì nữa.”

Liền lúc ấy, tiền bối choàng tỉnh mộng vì chuông điện thoại chợt đổ liên hồi. Ấy là cú điện thoại báo tin anh Thiện tử trận. Tiền bối chỉ hiểu được ý nghĩa của giấc mơ sau khi anh Thiện giải thích trong đàn cơ:

Này hỡi ba giờ thanh gặp gỡ, Xuất hồn chơn vận trở về gia, Mẫu thân cùng trẻ đó mà, Giấc mơ không rõ ấy là báo tin.

Anh Thiện được đặc ân hy hữu trở về hàn huyên cùng gia đình, nhờ hưởng công quả của cha. Số là trong lúc tang gia bối rối, lại nhận được thánh sắc đi hành đạo tại đồng bằng sông Cửu Long, tiền bối Kiến Minh vẫn tuân hành thánh lệnh, cam lòng để việc hậu sự cho con trai qua một bên mà dốc tâm lo tròn việc đạo:

Tưởng đâu thế từ nay quạnh quẽ, Nào hay đâu đặng vẽ ngọn cơ, Đó nhờ trong lúc ban sơ, Phụ tình ly biệt tơ mơ giấc nồng.

Thọ lịnh sắc cõi lòng tan nát, Nhưng vững vàng phú thác ân Thiên, Nhờ đây ân huệ hưởng liền, Cúi đầu lạy tạ trần miền ân cha.

Là một thanh niên Việt gốc Hoa, sinh thời anh Thiện có người yêu tên Huệ. Chị rất chung tình, thường ra mộ thăm anh, cúng trái cây. Tại Huờn Cung Đàn (Tam Giáo Điện Minh Tân, quận Tư), vào giờ Ngọ ngày 29-3 Giáp Dần (21-4-1974), anh Thiện giáng cơ khuyên chị Huệ hãy vui sống, tìm hạnh phúc mới. Hai câu thơ anh nhắn nhủ “người ngọc” thật đẹp, dùng điển cố Phụng cầu hoàng (22) rất ý nhị:

Phím đã tróc, hoàng cầu khó khảy, Thay phím vào hầu khảy bản sau…

Bài thơ lãng mạn chơn linh anh Thiện gởi chị Huệ như sau: Đây một đoạn gởi qua người ngọc, Cảm tình xưa hình vóc còn đây, Biết rằng đờn sẽ đứt dây, Nên chưa khảy đặng bản này du dương. Kẻ vô ảnh ai tường cho đặng, Người hữu hình lòng chẳng vơi lòng, Hồn linh phiêu tựa cõi không, Nhìn xem hình thể cõi lòng tả tơi.

(22) Phụng (phượng) là con trống, con mái gọi là hoàng. Phụng cầu

hoàng là con chim trống đi tìm con chim mái để kết bạn. Tích xưa kể rằng Tư Mã Tương Như 司 馬 相 如 (179-127 trước Công Nguyên), tự Tràng Khanh 長 卿, người ở Thành Đô, đời Hán (Trung Quốc) văn hay, đàn giỏi. Khi đến chơi nhà viên ngoại họ Trác, đã đàn bài Phụng cầu hoàng 鳳 求 凰. Con gái viên ngoại là Trác Văn Quân 卓 文 君 , trẻ tuổi góa chồng, dọn về ở với cha. Nghe bản đàn tình tứ ấy nàng liền bỏ nhà cuốn gói trốn theo Tư Mã.

Page 19: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 33 34 − Câu Chuyện Đức Tin

HUỆ, em tường những lời tiên liệu, Đã hiện ra nặng trĩu lòng ai, Phất phơ vóc liễu hằng ngày, Chiều mơ bóng nhạn viếng rày mộ hoang. Nhìn khói tỏa hương tàn khói nhạt, Ngày qua ngày thắm thoát thoi đưa, Một trái cây, nửa miếng dưa, Chết lòng người sống sớm trưa âu sầu. Phím đã tróc, hoàng cầu khó khảy, Thay phím vào hầu khảy bản sau,(23) Vô hình vô ảnh lời trao, Giờ đây nhắc lại vết đau ai mà. Qua ngày tháng, trôi qua nào trở,(24) Đã qua rồi mối nợ không khiên,(25) Xác thân đáy mộ nằm yên, Linh hồn trở lại non Tiên luyện thần. Trong giấc mơ đôi lần hội ngộ,(26) Ấy mộng hồn là chỗ cõi không, Giờ đây nương bút điển đồng,(27) Phân qua đôi đoạn mộng lòng vỡ tan.

(23) Ngụ ý khuyên chị Huệ hãy tìm hạnh phúc mới. (24) Trôi qua nào trở: Ngày tháng trôi qua nào có thể quay trở lại. (25) Khiên 牽 là lôi kéo. Tiền khiên 前 牽 là những nợ nần trong các

kiếp trước, sang kiếp này chúng lôi kéo người mắc nợ đòi phải trả. Đã qua rồi mối nợ không khiên: Ngụ ý nói rằng anh Thiện và chị Huệ không còn mắc nợ nhau nữa, vì thế cả hai chẳng bị ràng buộc bởi duyên nợ vợ chồng.

(26) Chị Huệ vài lần nằm mộng thấy anh Thiện về thăm. (27) Đồng: Đồng tử thủ ngọc cơ.

6. LÝ THỊ MỸ (1908-1971) Đạo tỷ thánh danh là Thanh Lan, hành đạo tại Giáo Hội

Cao Đài Thống Nhứt. Sau khi thoát xác, đạo tỷ trở về non tiên luyện thần, đủ tám mươi mốt ngày (cửu cửu) thì đắc vị Thanh Lan Tiên Nữ chiếu theo thánh sắc của Đức Vô Cực Từ Tôn do Linh Sơn Thánh Mẫu tuyên đọc tại Huờn Cung Đàn, vào giờ Ngọ ngày 29-01 Nhâm Tý (14-3-1972):

Thọ lịnh Mẫu Hoàng đọc chiếu phê, THANH LAN TIÊN NỮ chánh danh đề, Luyện thần bát nhứt (81) vào ngôi vị, Sắc tứ truyền ban ngọc bút đề.

Trong ngày thọ phong thánh sắc chứng đạo, Đức Thanh Lan Tiên Nữ giáng cơ thuật lại cuộc hành trình về cõi hư linh: Trong năm ngày (ngũ nhựt) hôn mê trên giường bệnh, hồn đạo tỷ di chuyển khắp âm cung, đến điểm cuối cùng là Nghiệt Cảnh Đài. Tại đấy, toàn bộ những gì con người gây tạo nơi trần thế đều được chiếu lại rõ nét như những thước phim, đương sự không thể nào chối cãi. Sau đó có sắc lịnh Diêu Trì Cung rước hồn đạo tỷ nhập Thiên môn, vào cung Thái Ất tịnh luyện chờ ngày thọ sắc phong.

Giờ nhắc lại trước ngày rời xác, Kiếp vô thường dời dạt âm cung, Ngũ nhựt di chuyển khắp cùng, Đến qua điểm chót tâm trung Cảnh Đài. Nhìn trước án ai hoài chiếu ánh, Chiếu hào quang lóng lánh lạ thường, Kim Tiên (28) ngự trước án đường, Một bên Hồng Cúc Tiên Nương (29) điệp cầm.

(28) Đức Nguyệt Đức Kim Tiên (thế danh Phan Khắc Sửu, 1905-1970).

Page 20: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 35 36 − Câu Chuyện Đức Tin

Sắc Diêu Trì tương lâm (30) đại điện, Rước hồn linh di chuyển Thiên môn, Nhập vào Thái Ất cung môn, Nhìn cờ Tam Giáo (31) chơn hồn hồi quy. Theo lịnh sắc vân phi thượng đảnh, Nhập điển thiêng thọ lãnh chơn thân, Dưỡng nuôi chơn khí tịnh thần, Điển quang chói sáng nơi trần rọi soi.

Trong lần giáng đàn trước đó tại Huờn Cung Đàn, vào giờ Ngọ ngày 30-11 Tân Hợi (15-01-1972), Đức Thanh Lan Tiên Nữ xác nhận rằng kết quả tốt đẹp ấy một phần cũng nhờ ở công đức tu hành của thân nhân cùng sự thành tâm nguyện cầu của con cháu:

“Như tôi giờ này được phục hồi là nhờ Tiên Nương (32)

phụng tấu, cùng chư tử tế (33) nguyện cầu và hiền huynh (34) lập công tại thế, đã cứu vãn nên chơn hồn được hồi phục non thần tịnh luyện chờ ngày phục vị.”

7. HUỲNH CHƠN (1904-1973) Cũng có trường hợp xác thân còn sống nơi trần nhưng linh

hồn đã vân phi cõi thượng. Đây là một ân sủng hết sức hy hữu dành riêng cho bậc Thiên ân sứ mạng trong Tam Kỳ Phổ Độ.

(29) Sinh thời là đạo tỷ Ngô Thị Có (1889-1959) và là mẹ chồng đạo tỷ

Thanh Lan (Lý Thị Mỹ). (30) Tương lâm 將 臨 : Sắp đến. (31) Cờ Tam Giáo: Cờ Tam Thanh, từ trên xuống có ba màu vàng

(Phật), xanh (Tiên), đỏ (Nho). (32) Đức Hồng Cúc Tiên Nương. (33) Chư tử tế 諸 子 婿 : Các con và rể. (34) Là chồng (Trương Truyền Chánh, thánh danh Kiến Minh).

Tiền bối Bảo Pháp Chơn Quân Huỳnh Chơn (Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam) lâm trọng bệnh. Trong quá trình điều trị bác sĩ đã dùng vài loại thuốc không phù hợp với người trường trai.

Sợ nguơn thần vướng vòng ô trược, tiền bối cầu nguyện Thiêng Liêng để được hồi quy. Động lòng từ bi thương xót đệ tử, Đức Tôn Sư (Đông Phương Lão Tổ) bắt hồn một con dã nhân cho nhập xác tiền bối, chịu thay tiền bối trả nghiệp thân. Kiếp sau nhờ công ấy dã nhân “sẽ được lộc cao hưởng nhờ”.

Hồn tiền bối tuy được “chín trùng thượng thăng”, nhưng vẫn còn mối dây liên hệ với phần nhục thể nên mỗi khi thân xác tại thế gian chịu phần trọng trược thì hồn tiền bối tu trong thạch thất cũng vì thần giao cách cảm (telepathy) mà ảnh hưởng. Giống y chuyện Dự Nhượng đả long bào trong truyện Đông Chu Liệt Quốc.(35) (35) Dự Nhượng người nước Tần, theo phò Trí Bá được Bá rất yêu quý,

tôn trọng. Sau khi Triệu Tương Tử giết Trí Bá, Dự Nhượng nói: “Kẻ sĩ chết vì người tri kỷ. Ta phải liều chết báo thù đền ơn.” Nhượng đổi họ thay tên, lẻn vào cung để đâm Tương Tử nhưng việc bại lộ. Tương Tử thương kẻ trung nghĩa, tha chết. Dự Nhượng lại giả làm người cùi, câm, không ai nhận ra tông tích. Nhượng nấp ở gầm cầu Tương Tử sắp đi qua, định ám sát. Con ngựa Tương Tử cỡi bỗng hí lên sợ hãi. Tương Tử sai người đi lùng bắt được Nhượng. Tương Tử trách: “Sao ngươi lại muốn báo thù đến như vậy?” Nhượng đáp: “Trí Bá xem tôi như người quốc sĩ, tôi phải báo thù theo lối quốc sĩ.” Tương Tử ngậm ngùi khóc: “Ta tha cho nhà ngươi thế cũng đã đủ rồi. Ta không tha cho nhà ngươi nữa.” Nhượng nói: “Tôi xin chịu chết, nhưng xin cho tôi cái áo của ngài để tôi thỏa chí báo thù.” Tương Tử khen có nghĩa, cổi áo đưa cho Nhượng. Nhượng cầm gươm đánh vào áo ba lần, rồi trở ngược lưỡi gươm tự sát. Tương Tử xem lại long bào thì thấy những nơi bị Nhượng đánh đều rướm máu, là do lòng chí thành của Nhượng cảm ứng mà ra. Tương Tử rất hoảng sợ, sau đó ngả bệnh.

Page 21: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 37 38 − Câu Chuyện Đức Tin

Trong lần giáng cơ đầu tiên sau ngày quy thiên, tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, vào giờ Tuất ngày 15-6 Quý Sửu (14-7-1973), tiền bối kể lại như sau:

. . . Thương thay con thảo vợ hiền, Đau chưn hả miệng mới yên tấc lòng. Sợ nguơn thần vướng vòng ô trược, Đêm đêm cầu cho được hồi quy, Nỗi lòng trời đất chứng tri, Tôn Sư mở lượng từ bi hải hà. Bắt dã nhơn cho hòa thể phách, Dụng thần thông trọng trách phó giao, Thay vào trả nghiệp khổ đau, Mãn căn sẽ được lộc cao hưởng nhờ. Đêm hai bảy (27) đúng giờ duyên khởi, Tiết đông thiên Tân Hợi lạnh lùng, Chơn hồn phiêu phưởng thung dung, Nương theo tay áo chín trùng thượng thăng. Vào thạch thất ngồi an tu luyện, Chờ mãn căn xuất hiện huyền công, Tuy hồn lìa cõi trần hồng, Nhưng còn ảnh hưởng trong vòng nhục thân. Cứ mỗi lúc chịu phần trọng trược, Là mỗi lần thạch thất cảm giao, Nhớ xưa Nhượng đả long bào, Chỉ trong chiếc áo đớn đau nhiều bề. Nhờ huynh đệ cận kề đưa tiễn, Hàng Thiên ân lực điển trùng trùng, Trợ duyên trước lúc lâm chung, Độ an thể phách phá vùng hắc quang.

*

Qua các câu chuyện trên đây, có thể rút ra ba điều sau: - Luật Thiên điều thưởng phạt vô cùng nghiêm nhặt. Mọi

việc làm tốt xấu của con người nơi thế gian sẽ quyết định bước hành trình của linh hồn nơi cõi hư vô. Do đó, Đức Thanh Lan Tiên Nữ khuyên người cõi thế:

Tránh tội ác gian tà tâm tục, Gần thiện từ cội phúc nguồn tu, Nhứt nhựt hành ác tội dư, Chung thân hành thiện có dư đâu nào. Luật để tránh, chớ vào lưới luật, Nếu chẳng tuân phẩm bực không còn, Sống trần thể xác dường non, Án che màn ảnh mỏi mòn điểm linh. Rời khỏi xác cực hình nhiều nỗi, Lúc tội tình sám hối muộn màng, Xác thân còn ở thế gian, Gắng lo hành thiện thiên đàng hồi quy.(36)

- Việc tu học và hành đạo của thân nhân còn ở thế gian cũng như điển lực cầu nguyện của các đạo hữu có một ảnh hưởng rất lớn hộ trợ chơn linh người quá vãng thăng tiến nơi cõi hư linh.

- Đừng vì tình yêu thương theo lẽ thường tình, muốn kéo dài sự sống của phần nhục thể mà phá hủy công trình trì trai giới sát của người tu, khiến cho chơn linh người quá vãng phải chịu nặng nề ô trược.

(36) Huờn Cung Đàn, 29-01 Nhâm Tý (14-3-1972).

Page 22: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 39 40 − Câu Chuyện Đức Tin

Hiểu đạo mầu mới thoát kiếp trần dương

Trong Tam Kỳ Phổ Độ, khi giáng đàn dạy đạo, các Đấng thiêng liêng vẫn hay nhắc các tích xưa để làm gương răn dè các môn đệ. Chẳng hạn, dạy về mấu chốt của đường tu giải thoát, hai vị Tiền Khai Đại Đạo Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt có lần nhắc chuyện Lương Võ Đế như sau:

Lương Võ Đế đem vàng ròng bạc vạn, Cất bảy mươi hai cảnh chùa

cho danh rạng tứ phương, Có phải chăng mua chuộc lối thiên đường, Hay nghiệp quả còn vấn vương,

Đài Thành cam ngạ tử? (1) Ôi, vật chất khó lưu tình quỷ sứ! Oai hùng không đương cự nổi vô thường, Chỉ có hiểu đạo mầu mới thoát kiếp trần dương, Chỉ có biết nhân nghĩa

mới an khương bình thế cuộc.(2) Theo sử Trung Quốc, Lương Võ Đế tên thật là Tiêu Diễn

(464-549), làm thứ sử Ung Châu dưới triều Tề, trấn thủ thành Tương Dương. Vua nhà Tề là Bảo Quyên ăn chơi vô độ, bỏ

(1) Ngạ 餓 : Rất đói. Ngạ tử 餓 死 : Chết đói. Cam: Cam chịu, cam đành. Đài Thành cam ngạ tử: Đành chịu chết đói ở Đài Thành.

(2) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-02 Đinh Mùi (24-3-1967).

bê triều chánh, ngược đãi đại thần. Tiêu Diễn vốn là tôn thất nhà Tề, hợp binh với em của vua Tề là Bảo Dung, dấy lên ở Giang Lăng, chống lại Bảo Quyên. Bảo Dung tự lập làm vua, hiệu là Hòa Đế. Sau Tiêu Diễn đánh lấy Quách Thành, phá Tầm Dương, vây Kiến Nghiệp, Hòa Đế bị giết. Tiêu Diễn vào kinh đô, buộc vua Tề (Bảo Quyên) nhường ngôi. Tiêu Diễn làm vua, đổi tên nước là Lương, xưng Lương Võ Đế (năm 502).

Lương Võ Đế tài kiêm văn võ, làm cho nước Lương một thời hùng mạnh. Rất sùng đạo Phật, vua quy y năm 517, ba lần bỏ ngai vàng vào chùa tu. Năm 538, nhân sứ thần đưa xá lợi Phật về Trung Quốc, Lương Võ Đế cho lập chùa thờ, bố thí cho dân chúng và ân xá tội nhân.

Nhà vua lấy công quỹ (quốc khố) cho cất chùa khắp trong nước (tương truyền được bảy mươi hai ngôi), ủng hộ tam bảo, được các phật tử tôn xưng là Phật Tâm Thiên Tử.

Trước kia, tôn thất nhà Tề bị Lương Võ Đế giết hại, phải sang nước Ngụy cầu cứu. Hai nước Lương và Ngụy đánh nhau, tướng của Ngụy là Hầu Cảnh qua hàng Lương Võ Đế, được phong Hà Nam Vương. Về sau Hầu Cảnh thấy Lương Võ Đế mải mê theo đạo Phật, bỏ bê triều chánh, thế lực suy yếu, nên cất binh làm phản, chiếm Kiến Nghiệp, Đài Thành, vây Lương Võ Đế trong cung, tuyệt hết lương thực, Lương Võ Đế phải chết đói (năm 549).

Chuyện Lương Võ Đế và cái chết thảm thương của ông như kể trên có thể khiến nhiều người thắc mắc. Vua mộ đạo tu hành, xây cất bảy mươi hai ngôi chùa, lẽ ra được hưởng nhiều phước báo, cớ sao cuối đời phải chịu nạn chết đói (ngạ tử)?

Lời dạy của nhị vị Tiền Khai Đại Đạo cho thấy Lương Võ Đế dùng “vàng ròng bạc vạn” của chúng dân (lấy công quỹ)

Page 23: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 41 42 − Câu Chuyện Đức Tin

để xây chùa “cho danh rạng tứ phương”, do đó không hề tạo được một công đức nào, bởi lẽ công quả chỉ có giá trị đích thực và tạo được âm chất khi nào công quả được làm với tinh thần vô công, vô kỷ, vô cầu, vô danh.

Luật nhân quả trả vay vay trả không hề tư vị một ai. Lúc soán ngôi vua Tề, Lương Võ Đế đã gây nhiều nghiệp sát, nên cuối đời phải đền nghiệp sát bằng nạn “ngạ tử”. Điều này đã được Đức Quan Thế Âm dạy trong một lần giáng cơ tại Huờn Cung Đàn ngày 15-7 Đinh Mùi (20-8-1967):

Chư đẳng chúng sanh cần ý niệm: Sống trên cõi đời vật chất (...) kiếp con người có hạn (...) cần tu tạo đức để tránh những điều lầm xưa còn ghi lại. Vậy Bần Nữ nhắc, dầu cho bực đế vương như Lương Võ Đế hồi xưa tạo thất thập nhị thiền môn (3) nhưng tâm tà vô định thì lấy đâu mà bảo tồn linh tánh đó. Chư chúng sanh còn thấy tích.

. . . Nay nhắc lại trong kỳ tiền giáo, Kìa Lương Đế khai tạo thiền môn, Thất nhị (72) cảnh để bảo tồn, Truyền chư tăng chúng triêu hôn (4) sám kỳ. Điều oan nghiệt vay thì phải trả, Hễ sát sanh mạng quả đền bù, Đài Thành ngạ tử còn lưu, Thân hồn phải chịu hận cừu rửa tan. Cơn biến nạn thở than tế độ, Lời van cầu Phật Tổ cứu nguy, Căn thần đã mãn hồi quy, Lấy công đền tội vậy thì hướng sanh.

(3) Thất thập nhị thiền môn: Bảy mươi hai ngôi chùa. (4) Triêu hôn 朝 昏 : Sớm tối.

Theo lời Đức Quan Âm dạy trên đây, sau khi Lương Võ Đế đền xong nghiệp quả, nhờ luôn hướng về Phật pháp, thành khẩn van cầu Phật Tổ cứu nguy nên cuối cùng chơn linh nhà vua cũng được siêu thoát.

Trong thánh giáo dẫn trên, để khuyến nhủ các môn đồ phải luôn ghi nhớ luật nhân quả báo ứng, Đức Quan Âm còn nhắc đến tích Hoàng Hậu Hy Thị (vợ Lương Võ Đế) như sau:

Còn Hy Thị trước manh ác dạ, Hại chúng tăng để thỏa lòng phàm, Tội tình Hy Thị vương mang, Hóa thân động vật để làm báo tin. Vì oan nghiệt tội tình vay trả, Luật luân hồi nhơn quả trả xong, Hóa thân khúc thiện (5) lập công, Đêm khuya đánh tiếng đạo đồng công phu. Vì chúng tăng đường tu còn thiếu, Lúc đêm khuya báo hiệu trỗi lên, Cất tiếng khẽ khắt trước đền, Đánh tan giấc điệp trỗi rền công phu. Vì tiểu tăng trí ngu, quá bực, Đang yên giấc đánh thức, giận mà, Đành lòng chặt đứt đoạn ra, Làm cho khúc thiện thân đà biến thân. Mối oan nghiệt nơi trần cấu tạo, Hồn linh về Bồng Đảo hội chầu, Lương Đế mộ đạo Phật thâu, Thương thay Hy Thị nguyện cầu độ linh.

(5) Khúc thiện 蛐 蟮 : Con dế.

Page 24: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 43 44 − Câu Chuyện Đức Tin

Để ăn năn nghe kinh sám hối, Rỗi linh hồn cho tội tiêu tan. Lòng thành luyện đạo hưởng an, Tiêu trừ nghiệp chướng tiếp ban ân lành.

Vợ Lương Võ Ðế là Hoàng Hậu Hy Thị. Tuy được sủng ái nhưng bà luôn đố kỵ, ganh ghét cung phi, độc ác với mọi người. Thấy vua sùng đạo Phật và kỉnh trọng chư tăng, bà thêm căm ghét các sư, hủy báng tam bảo.

Tương truyền một hôm Lương Võ Đế thỉnh Hòa Thượng Chí Công và năm trăm nhà sư vào cung để cúng dường. Hoàng Hậu Hy Thị sai người giết chó, lấy thịt làm nhân bánh bao dâng cho sư. Sau khi chư tăng thọ trai xong và trở về chùa, Hy Thị tấu trình: “Xưa nay bệ hạ tin các hòa thượng đã tu chứng nên cung kính cúng dường. Vừa rồi nhân bánh bao làm bằng thịt chó mà họ không biết, đã ăn hết. Vậy đâu phải đã chứng đạo!”

Lương Võ Đế nghe xong nổi giận, bèn lên ngựa kéo quân đến chùa để chém chư tăng. Vừa đến cổng tam quan đã thấy Hòa Thượng Chí Công đứng chờ bên gốc bồ đề, vua hỏi: “Hòa Thượng ra đây làm gì?”

Hòa Thượng đáp: “Ra đợi bệ hạ chém đầu, nếu không máu đổ trong chùa làm ô uế cửa Phật.”

Kinh ngạc, Lương Võ Đế hỏi: “Có tài tiên tri như vậy mà sao trưa nay Hòa Thượng và chư tăng không biết nhân bánh bao làm bằng thịt chó?”

Hòa Thượng đáp: “Đêm qua trong lúc thiền định, bần tăng đã biết âm mưu của Hoàng Hậu nên kịp sai chúng tăng làm bánh bao chay giấu trong tay áo tràng bên phải. Khi thọ trai thì lấy ra ăn. Còn bánh bao nhân mặn của Hoàng Hậu cúng dường thì giấu trong tay áo bên trái rồi đem về chùa chôn.”

Hòa Thượng đưa vua ra chỗ chôn bánh. Cho đào lên thì quả như lời kể. Vua hối hận, tạ lỗi rồi hồi cung. Từ ấy, vua càng thêm kỉnh trọng Hòa Thượng Chí Công, khiến cho Hoàng Hậu Hy Thị càng thêm căm giận. Lòng sân hận nung nấu mãi khiến bà sinh bệnh, lìa trần.

Theo lời Đức Quan Âm dạy trên đây, vì Hoàng Hậu Hy Thị sanh ác tâm ám hại chư tăng nên phải luân hồi làm con dế (khúc thiện), ngày ngày lập công chuộc tội bằng cách gáy lên lúc nửa đêm để đánh thức tăng chúng trong chùa dậy công phu. Chẳng may, một hôm có tiểu tăng mê ngủ mà bị đánh thức nên nổi giận chặt đôi thân dế. May thay, bấy giờ Lương Võ Đế đã được Phật Tổ cứu vớt, động lòng cảm thương mà nguyện cầu cho Hy Thị được cứu rỗi.(6) (6) Tích Hy Thị lưu truyền trong dân gian có hơi khác:

Lương Võ Đế sau khi biết rõ Hòa Thượng Chí Công là bậc chơn tu lại càng yêu mến kính trọng hơn nữa. Hoàng Hậu Hy Thị vì thế càng thêm tức giận, sai thuộc hạ đến chùa đem kinh sách ra đốt hết.

Sau, bà bệnh nặng rồi từ trần, đầu thai làm mãng xà. Một hôm, Võ Đế nằm mộng thấy bà tâu rằng: “Khi thiếp còn sống ăn ở bất nhân, tổn vật hại người, làm điều ác độc. Vì cớ ấy nên nay phải làm mãng xà, thân dài, vóc lớn, bò lết không nổi, đói không có chi ăn, khát chẳng có chi uống, cực khổ trăm bề, lại thêm trong chân vảy có độc trùng đeo bám cắn rứt da thịt, đau thắt ruột gan! Xin bệ hạ nghĩ tình xưa nghĩa cũ mà từ bi thỉnh thầy làm chay siêu độ cho thiếp, may nhờ Phật pháp hộ trì, thoát ra khỏi vòng ác báo, thì thiếp cảm ơn đời đời.”

Sáng ra, Lương Võ Ðế truyền lệnh rước các tăng vào triều, hỏi: “Ai có phép chi cứu giải Hoàng Hậu chăng?”

Hòa Thượng Chí Công tâu: “Tội của Hoàng Hậu rất nặng, xin bệ hạ hãy lập đàn tràng sám hối mới cứu được.”

Võ Ðế bằng lòng, cầu Hòa Thượng Chí Công soạn ra mười quyển sám hối văn (tức là bộ Lương Hoàng Sám), rồi lập đàn làm chay ba

Page 25: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 45 46 − Câu Chuyện Đức Tin

Cả hai câu chuyện về Hoàng Hậu Hy Thị, một do Đức Quan Âm dạy trong Tam Kỳ Phổ Độ và một do nhân gian truyền khẩu, tuy hơi khác nhau nhưng chung quy đều cho thấy rõ luật nhân quả báo ứng xưa nay không hề sai chạy.

Sau khi nhắc tích Lương Võ Đế, nhị vị Tiền Khai Đại Đạo

tháng trong cung, cầu siêu cho Hoàng Hậu.

Một hôm, trai đàn gần mãn, có mùi hương nồng nàn bay khắp trong cung. Lương Võ Ðế ngước mắt nhìn lên, thấy một tiên nữ đứng giữa hư không chắp tay tâu rằng: “Thiếp nhờ công đức của chư tăng và bệ hạ cầu sám hối đã thoát kiếp mãng xà sanh về cõi trời Ðao Lợi.”

Võ Ðế vui mừng khôn xiết, bèn mời Hòa Thượng Chí Công đến hỏi: “Hoàng Hậu do nhân duyên nào mà bình sinh thù ghét chư tăng như vậy?”

Hòa Thượng tâu: “Thuở xưa, trong một ngôi chùa trên núi, có con dế thường ở dưới chân cái đôn để nước. Con dế ở chùa lâu ngày dường như có tánh linh, mỗi buổi sáng sớm đều gáy lên inh ỏi để đánh thức tăng chúng dậy công phu. Vị trụ trì mỗi khi tới đó lấy nước đều chú nguyện cho con dế mau siêu thoát mà sanh về cõi người. Nhưng vị giám tự ghét con dế sáng nào cũng gáy vang rân chẳng cho ông ngủ. Một hôm, trụ trì đi vắng, khi bị đánh thức lúc đang ngon giấc, giám tự bực tức ra bắt con dế, cắt ngang bụng làm hai, rồi bỏ lại dưới chân đôn. Khi trụ trì về, không nghe tiếng dế gáy, kiếm dưới chân đôn thì thấy xác. Trụ trì chú nguyện cho nó, lấy một rẻo vải đỏ cột nối hai mảnh xác dế, rồi đem chôn. Con dế ấy kiếp này là Hoàng Hậu, còn giám tự là bần tăng. Oan gia gặp nhau, nếu kiếp này bần tăng tu hành chểnh mảng ắt không thoát khỏi tay Hoàng Hậu!”

Võ Ðế gật gù: “Hèn gì Hoàng Hậu thường buộc dải lụa đỏ ngang lưng không rời, chả biết duyên cớ vì sao. Đêm nọ, Hoàng Hậu ngủ mê, Trẫm lén tháo dải lụa ra, thì Hoàng Hậu than rằng đau lưng, buộc trở lại thì không đau nữa. Nay Hòa thượng bày tỏ như vậy, mới thấy rõ Phật nói nhân quả thiệt là không sai.”

Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt tiếp tục để lời khuyến nhủ hàng môn đệ Cao Đài:

Đường tăm tối muốn đi nhờ ánh đuốc, Cơn bão bùng chớ vượt biển cậy thuyền con, Dẫu có tài toan lấp biển dời non, Không đạo đức khó thoát vòng nhân quả. Hỡi ai đó chớ vay nhiều rồi phải trả, Trả rồi vay, vay trả mãi luân hồi, Có chi bằng thức tỉnh học Đạo Trời, Cho thân thoát khổ, cho đời thoát tai.(7)

Người môn đệ Cao Đài ngày nay quả là diễm phúc khi được tắm mình trong dòng giáo lý thanh lương của các Đấng thiêng liêng để rồi cũng chính dòng nước thanh lương ấy sẽ đưa tất cả những ai biết tự mình lên thuyền đạo ngược dòng trở về nguyên bổn.

(7) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-02 Đinh Mùi (24-3-1967).

Page 26: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 47 48 − Câu Chuyện Đức Tin

Nhiệm mầu Trung du hành đạo

Tiền bối Thiện Bảo (thế danh Ngô Chí Bình, 1906-1987, quả vị Bảo Tịnh Chơn Thánh) là vị Tổng Lý Minh Đạo kế nhiệm tiền bối Huệ Lương (thế danh Trần Văn Quế, 1902-1980, quả vị Quảng Đức Chơn Tiên), lãnh đạo Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam. Bạn đời của Ngô tiền bối là đạo tỷ Ngọc Kiều (thế danh Lê Thanh Kiều, 1922-1987, quả vị Hồng Quang Thánh Nương), làm Chủ Tịch Nữ Chung Hòa Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý.

Sinh thời hai tiền bối Thiện Bảo và Ngọc Kiều cùng các đồng đạo trong Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý tuân hành thánh lịnh đi hành đạo miền Trung. Chuyến đi ấy có nhiều mầu nhiệm, được tiền bối Thiện Bảo kể lại tỉ mỉ trong một hồi ký viết xong ngày 28-5 Giáp Thìn (07-7-1964). Sau đây là lời tường thuật của tiền bối Thiện Bảo trích trong hồi ký ấy.

*

Vào lúc 12 giờ kém 15 trưa ngày 27-5 Giáp Thìn (06-7-1964), tại tư gia, tôi vừa mặc áo trắng để đốt nhang thời Ngọ, bỗng có một người mặc âu phục, hình như một công chức hay thương gia, từ ngoài bước vào, tay cầm bao thơ trắng không niêm, trao cho tôi và nói: “Ông Bạch Pháp nhờ chuyển đến đạo huynh Huỳnh Chơn, vì ông không biết địa chỉ.”

Tưởng là thơ riêng, tôi nhận và hứa để rồi sẽ đưa đến. Người kia nói tiếp: “Trong thơ ấy như có đàn cơ thì phải.”

Nghe hai tiếng đàn cơ, ý tôi vội nghĩ chắc có lịnh chi đây, nên để thơ lên Thiên Bàn, đi lấy nhang đốt, thì người ấy xin kiếu ra về.

Đốt nhang xong, lấy thơ ra xem mặc dù biết rằng xem thơ người khác là vô lễ, nhưng nghĩ vì thơ không niêm, vả lại đàn cơ đối với chúng tôi (trong bộ phận Hiệp Thiên Đài) cũng nên cần biết. Nhờ vậy mới rõ là thánh lịnh tại Nguyệt Ẩn Đàn (Tây Ninh), Tý thời ngày 25-5 do Đức Thái Thượng Lão Quân giáng dạy bộ phận Hiệp Thiên Đài Phổ Thông Giáo Lý lập đàn Tuất thời ngày 27-5 tại Thiên Lý Đàn.

Nhìn lên tấm lịch trên vách thấy số 27. Tôi vội vã thay đồ ra đi.

Vừa bước vào nhà thấy đạo trưởng Huỳnh Chơn đương mặc áo dài đen, nhang đèn trên Thiên Bàn sáng rỡ. Ấy là nhằm bữa kỵ cơm trong gia đình. Tôi trao thơ và nói: “Đây là thánh lịnh.”

Ông liền để trên Thiên Bàn, làm lễ rồi xem kỹ lưỡng. Ông đồng ý, nhưng nói: “Quá gấp rút sợ e đi mời không kịp.”

Tôi hứa sẽ lo xong mọi việc và về đến nhà hồi 1 giờ 20. Đến Tuất thời, đàn cơ thiết lập. Đức Đông Phương Lão Tổ

giáng dạy bộ phận Hiệp Thiên Đài và Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý sáng ngày phải lên đường dự lễ kỷ niệm tại Trung Hưng Bửu Tòa (Hội Thánh Truyền Giáo, Đà Nẵng). Thánh lịnh: “Thượng lộ đăng trình sang tảo nhựt.”

Thành phần phái đoàn gồm: Huỳnh Chơn (Tạ Đăng Khoa), Địa Châu (Nguyễn Văn Trương), Thiện Bảo, Nguyễn Văn Các, Huệ Chơn, Ngọc Kiều, đồng tử Hoàng Mai. Ngoài ra thêm Thanh Liên (Trần Thị Mỹ, 1920-2010) và Diệu Thành.

Mãn đàn, sắp đặt xong, sáng ra phái đoàn đi đường bộ, mua vé xe chạy suốt và lên xe Hiệp Thành hồi 10 giờ 40.

Page 27: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 49 50 − Câu Chuyện Đức Tin

Riêng đạo trưởng Huỳnh Chơn, vì lý do sức khỏe, phải đi đường hàng không nên còn nán lại hôm sau.

Khi đến rừng lá hồi 13 giờ 10, xe bị bể vỏ trái phía sau ngay chỗ ông Các ngồi nên phải ngừng 20 phút. Ra đến Phan Thiết đúng 15 giờ 15, gặp anh đại diện của hãng xe này cho biết vì xe đến trễ nên hết chuyến sang, hành khách phải ở lại nơi đây, đến sáng mai sẽ tiếp tục hành trình.

Phái đoàn không chấp thuận, nài anh phải làm thế nào đưa cho tới Nha Trang nội đêm ấy, đặng sáng đi tiếp mới kịp.

Sau một hồi bàn bạc, người đại diện ấy phải đưa phái đoàn sang tìm xe ở bến khác. May thay, gặp được một xe trống từ Nha Trang mới về tới.

Ngoài tiền sang xe, chủ xe còn đòi thêm một ngàn đồng cho đủ chuyến. Trả giá qua lại, chủ xe chịu giảm bớt, đòi bảy trăm năm chục đồng. Riêng phái đoàn chịu năm trăm đồng, phần còn lại các hành khách góp chung đủ số…

Tiền bạc vừa xong, lại bàn qua việc đi đường. Bởi lịnh giới nghiêm, họ không bảo đảm, sợ e phải nằm đường tại Ba Ngòi. Phái đoàn cương quyết theo thánh lịnh: “Vững đức tin mà thẳng bước”, nên bảo xe cứ đưa đi, nếu dọc đường có chi trở ngại chúng tôi chịu lãnh.

Xe chạy hồi 16 giờ 10, đến Ba Ngòi lúc 18 giờ 30. Đáng lẽ đến đây không còn đi nữa, vì an ninh đóng cổng. Nhưng khi xe vừa đến, như thường lệ, lơ [phụ xe] đem giấy vào trình nơi phòng kiểm soát, thì lính canh cho hay: “Hôm nay mới vừa được lịnh cho đi đêm thong thả.”

Nghe lơ nói, anh tài xế ngạc nhiên cãi lại, vì anh mới từ ngoài này chạy vào đây sao không hay biết. Nhưng anh lính gác vẫy tay bảo cứ đi.

Xe chạy trên đường tối vắng tanh, qua những trạm canh,

không ai đón hỏi. Thánh lịnh: “Nguyên nhân bao quản bước ngày đêm…”

Đến Nha Trang hồi 8 giờ 20, đi ngay lại nhà xe đổi vé. Nơi đây vừa bán hết vé, nhưng ông chủ sẵn lòng đổi cho tám chỗ của hành khách đã mua đi Quảng Ngãi.

Trong lúc chờ đợi, anh xích lô chở đạo huynh Thiện Bảo và ông đốc Các đi tìm người bạn.

Xe chạy một vòng chợ độ vài trăm thước, không gặp nhà nên trở lại. Có lẽ vì thấy dân Sài Gòn mới đến nên anh xích lô đòi giá cao là tám chục đồng.

Thấy giá đắt gấp mười lần hơn giá ở tại Sài Gòn, Thiện Bảo định trả cho anh mười đồng, anh không chịu. Mười lăm đồng, anh cũng không chịu. Đến hai chục đồng anh cũng không nhận, còn ra bộ khiếm nhã.

Vẫn còn tánh nóng, Thiện Bảo nổi sân, định cởi áo couvert ra cho anh một bài học nhưng may có người can và bà Ngọc Kiều ra tiền trả đủ số cho êm việc này.

Tưởng là việc ngoài đường, nhưng về sau, khi kiểm thảo chuyến đi, Đức Linh Quang Phước Thần có kể rõ chuyện này.

5 giờ 30 sáng 29 âm lịch (08-7-1964), xe khởi hành, chạy ra tới Quảng Ngãi đúng 14 giờ 30. Theo lời anh tài xế, đáng lẽ chuyến xe này phải nằm tại đây tới sáng hôm sau mới chạy tiếp, nhưng nhơn dịp hôm ấy anh về thăm gia đình tại Đà Nẵng nên xe mới tiếp chạy suốt đến nơi. Đúng với thánh lịnh: “Vượt qua lối khó sang đường dễ”. Nhờ vậy mà phái đoàn được tới sớm lúc 5 giờ 15, trước ngày chánh lễ.

Đi tìm nơi nghỉ, đáng lẽ phải ở tại nhà O.K. là nơi đã chọn, nhưng khi ngồi trên xe, anh xích lô mách: “Gần Đền Thánh có nhà nghỉ Thống Nhứt cũng trên đại lộ ấy, sạch sẽ, ở rất tiện.”

Page 28: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 51 52 − Câu Chuyện Đức Tin

Chúng tôi nhờ anh đưa lại xem, thì chỉ còn ba phòng liên tiếp, của người đã đặt mà không lấy. Phái đoàn xin mướn hai phòng không đặng nên phải chia nhau vào ở.

Đạo trưởng Địa Châu chọn nhằm gian phòng phía trước, đứng trong nhìn ra cửa sổ, thì ngay cửa tam quan của đoàn hướng đạo khai ra để trần thiết cuộc lễ, và cùng lối vào chùa một hướng. Suy ra rất đúng với lời dạy trong thánh lịnh: “Đến tiền môn hãy mặc đạo phục.” Ấy là Ơn Trên dạy phái đoàn phải ở nơi đây cho tiện bề giao tiếp, chớ không phải đem đạo phục đứng trước tiền môn mà mặc.

Nghe tin phái đoàn đến, Ban Tổ Chức cho người ra rước vào Đền Thánh. Chúng tôi y phục chỉnh tề, cho bưng lễ vật và theo vào Đền. Chuông trống vang lên để tiếp thánh lịnh và tuyên đọc trước đoàn hướng đạo các nơi quy tụ tại sân Đền Thánh.

Sáng hôm sau, 7 giờ, phái đoàn vào chùa dự cuộc tiếp tân y theo thánh lịnh: “Phải tình nguyện xung vào Ban Tiếp Tân, hòa mình cùng Ban Tổ Chức.”

Đạo huynh Nguyễn Văn Các xung phong làm phận sự như việc của nhà mình, chẳng từ một chỗ nhỏ nhen dơ bẩn. Đến khi mãn cuộc, Ban Tổ Chức mới hay, rất ngạc nhiên, nên không hết lời ca ngợi.

Hai vị trưởng phái đoàn của Hiệp Thiên Đài và Phổ Thông Giáo Lý cũng tự ý cùng chúng tôi gia nhập trong Ban Tổ Chức để tiếp quan khách, hành lễ và dự tiệc trà.

19 giờ, sau khi dùng bữa cơm thân mật, vài câu chuyện hàn huyên, phái đoàn được về nghỉ để chờ đến giờ dự lập đàn cơ.

Tý thời, đàn cơ thiết lập, do đồng tử Thiện Tài đã được chuyển tâm từ Nam ra đây trước một ngày. Pháp đàn và độc

giả của Hội Thánh. Đến 4 giờ khuya, lịnh dạy xả đàn, rồi tái lập: Hoàng Mai thủ

cơ, Huỳnh Chơn pháp đàn, Huệ Chơn độc giả. Đúng theo lịnh dạy: “Hành trình Trung Việt tiếp Thiên thơ.”

Đại ý thánh giáo: khen Ban Tổ Chức cuộc lễ, dạy việc hành đạo, sắc phong Trưởng Ban Phổ Thông Giáo Lý và kết thúc là định ngày về cho phái đoàn vào mùng 3 mới khởi hành.

Thành ra phải lưu lại một ngày mùng 2 tháng 6. Nhàn rỗi nên cả phái đoàn đồng rủ nhau đến Ngũ Hành Sơn để xem chùa Non Nước, viếng Huyền Linh Động.

18 giờ, phái đoàn vào Đền Thánh hành lễ Đức Chí Tôn và từ giã chư chức sắc Thiên phong, thì được quý vị đón tiếp, dành cho một bữa ăn đặc biệt và tiễn đưa rất hậu tình. Vậy mới rõ câu thánh lịnh: “Cả hai phương diện tình và đạo.”

5 giờ sáng mồng 3 âm lịch (11-7-1964), xe đến rước lên đường. Tới Gò Dúi hồi 1 giờ 30, gặp năm cây cầu bị đốt đêm mùng 1 âm lịch (09-7-1964), ván mới lót xong, vừa cho đoàn xe ứ đọng mấy ngày chạy qua. Chúng tôi sực nhớ lại đàn cơ tại Thiên Lý Đàn đêm 27-5 âm lịch có câu thi nói: “Khi dễ thì công gặp hỏa kỳ.” Chữ công đây là phá và dùng tiếng trùng âm (giọng miền Nam) với chữ quả là hỏa. Rút một tiếng đệm trong hai chữ cầu kỳ ra mà kết lại với hai chữ hỏa công là: đốt phá cầu.

Còn đàn tại Trung Hưng dạy phải ở trễ lại một ngày do câu “Sơ tam nhựt lên đường hồi cố” là để tránh sự việc ấy xảy ra và hơn nữa, trong buổi lễ có vị sĩ quan hứa với đạo trưởng Địa Châu sẽ dành cho phái đoàn tám chỗ trên phi cơ, nhưng Ơn Trên cũng có dặn:

Khứ hồi như nhứt dời chân, Đừng cao vọng lắm gặp phần gian nan.

Page 29: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 53 54 − Câu Chuyện Đức Tin

Qua khỏi cầu Cháy, tới ngã ba Triều Sơn hồi 14 giờ 15, xe từ đồng trống mới chạy vào chòm vườn, kế bên lề có đám người đương đốn ngọn một cây gòn. Xe trờ tới thì ngọn cây vừa đứt, thân cây nặng rớt nằm dưới lộ, còn chòm lá thì đập trên mui xe… không có chi đáng kể.

Đạo trưởng Địa Châu rất hài lòng, thốt ra cho biết: Đây là linh ứng theo tâm của ông, vì thấy tài xế chạy tốc độ quá mau, sợ nguy hiểm lúc qua đèo, nên ông xin chư Thiên làm sao cho nó giảm lại.

Về đến Phan Rang lúc 18 giờ 30, xe phải nghỉ đêm. Đến 5 giờ 30 sáng hôm sau khởi hành, về tới bến Sài Gòn hồi 10 giờ 45. Ơn Trên dạy “Khứ hồi như nhứt dời chơn” có nghĩa là đi sao về vậy. Lúc đi cùng lúc về không có chi trở ngại, lại thấy được nhiều điều huyền diệu, đúng với câu: “Thượng trình sẽ thấy đặng huyền vi” và câu: “Chư Thần ủng hộ đặng thành công”.

Sài Gòn, ngày 08-6 Giáp Thìn (16-7-1964)

T H I Ệ N B Ả O

*

Trong phần tường thuật trên đây, thỉnh thoảng tiền bối Thiện Bảo có trích dẫn một, hai câu trong thánh lịnh để minh chứng sự mầu nhiệm. Kết thúc hồi ký, tiền bối còn cẩn thận ghi rõ: “Xin xem đàn kiểm thảo Tuất thời, mùng 8 tháng 6 Giáp Thìn, 16-7-1964”. Nhờ bản thánh giáo kèm theo đó, phối hợp với phần tường thuật chi tiết của tiền bối, ngày nay chúng ta có thể lãnh hội được trọn vẹn những trải nghiệm mầu nhiệm của lớp tiền bối Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý.

Sau đây là nguyên bản thánh giáo ấy.

Thiên Lý Đàn, giờ Tuất ngày 08-6 Giáp Thìn (16-7-1964) Đàn bất thường để Thiêng Liêng kiểm thảo chuyến đi hành

đạo tại Trung Hưng Bửu Tòa, Trung Việt. THI

THÁI BẠCH GIÁO TÔNG giáng điểm công, ĐÔNG PHƯƠNG CHƯỞNG QUẢN rưới ân hồng, Phái đoàn lãnh lịnh đi hành đạo, Viên mãn khứ hồi phận sự xong.

LƯỠNG TƯƠNG BẦN ĐẠO Chào mừng chư hiền Thiên mạng. Lưỡng Tương Bần Đạo

chủ tọa buổi kiểm thảo hôm nay để chư Thần tường trình chi tiết. Lưỡng Tương Bần Đạo thượng chứng lễ. Vậy chư hiền Thiên mạng thành tâm tiếp điển. Thăng.

TIẾP ĐIỂN THI

SƠN thượng lần theo cảnh núi non, THẦN Tiên phò hộ kẻ tâm tròn, BÌNH tâm thấy được huyền linh ứng, THUẬN thảo đệ huynh công quả bòn.

Bản Thần chào mừng chư Thiên ân, phận sự Bản Thần đã hoàn tất, xin khiếm lễ vội vã nhập đàn. Vậy chư Thiên ân tịnh tâm tiếp điển. Bản Thần xin thăng.

TIẾP ĐIỂN THI

SƠN cao lần bước hộ nguyên nhân, THẦN thánh không xa cũng chẳng gần, KHÁNH tiết Trung Hưng Thần đã dự, HÒA tình thượng hạ thọ Thiên ân.

Page 30: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 55 56 − Câu Chuyện Đức Tin

Bản Thần đã xong nhiệm vụ, lai đàn chào mừng Thiên ân. Vui lòng tiếp điển. Bản Thần xin thăng.

TIẾP ĐIỂN THI

SƠN trung phò trợ phái đoàn qua, THẦN Thánh hộ trì hữu phúc đa, TUY chẳng lễ nghi đem phúng hiến, HÒA tình huynh đệ đức cao xa.

Bản Thần mạn phép thỏ thẻ vài câu chào chư Thiên ân. Bình tâm tiếp điển. Bản Thần xin thăng.

TIẾP ĐIỂN THI

LINH ứng nhờ tâm quyết phụng hành, QUANG minh thượng lộ bước đàng quanh, PHƯỚC cao đức cả hành Thiên lịnh, THẦN Thánh hộ trì vạn sự thành.

Địa hữu sứ mạng lai đàn kiểm điểm quả công. Chào mừng chư Thiên mạng, chư phận sự.

Khi nãy Đức Giáo Tông quên dặn chư Thiên mạng lúc tiếp điển các vị Sơn Thần thì miễn lễ bái, vì tuy là Sơn Thần, nhưng nguyên căn các vị ấy kém Thiên mạng rất xa.

Địa mời chư Thiên mạng đàn trung an tọa. Địa mời luôn cả Pháp Đàn.

THI Dặm trường Địa đã phận hành xong, Hồi khứ đất bằng cũng gắng công, Có lúc đằng vân ôi mỏi cánh, Quyết sao hộ độ được tương đồng.

BÀI Nhiệm kỳ Địa đã hành xong, Phụng thừa lịnh Đức Giáo Tông lâm đàn. Phúc trình công quả hành tàng, Trên đường Trung Việt minh quang tường trình. Trước khi kiểm thảo đệ huynh, Địa xin kiểm thảo lại mình ra sao. Từ khi được lịnh Trên trao, Rằng rạng tảo nhựt mau mau lên đường. Bận lo xếp áo vào rương, Phần lo lộ phí lên đường hơi lâu. Phần lo chạy trước chạy sau, Lỡ đi mây gió,(1) lỡ vào xe hơi. Cho nên trễ nải một thời, Khởi hành vào đúng lúc mười giờ hơn.(2) Phần thì bụng đói lên cơn, Đêm rồi mất ngủ tinh thần mệt thêm. Vì chưng vụng tính hôm đêm, Nên ngày mới trễ chậm thêm bước đường. Thượng trình trực chỉ bắc phương, Gần đến Phan Thiết gặp đường xấu hơn. Phần xe nổ vỏ rần rần,(3) Tưởng đâu lật hố đưa chân lên trời. Địa dìu, Địa đỡ hết hơi, Mà không nghe được một lời cám ơn.

Các chú thích cho thánh giáo này do Ban Ấn Tống thực hiện. (1) Tiền bối Huỳnh Chơn vì lý do sức khỏe phải đi máy bay. (2) Phái đoàn đi đường bộ mua vé xe của hãng Hiệp Thành, khởi hành

lúc 10 giờ 40. (3) Xe đến rừng lá lúc 13 giờ 10 thì bị bể vỏ trái phía sau.

Page 31: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 57 58 − Câu Chuyện Đức Tin

Xuống xe Phan Thiết nghỉ chơn, Lại gặp trở ngại giữa cơn nóng hầm. Mấy đời người được chữ tâm, Thương người sứ mạng đương làm quả công. Lơ xe làm núng làm nòng, Tăng tiền quá đắt đau lòng Địa đây.(4) Cực tâm Địa muốn ra tay, Đi thưa Tỉnh Trưởng cho bây biết chừng. Mà thôi vậy cũng đành ưng, Xuất tiền cho nó sớm vưng lời mình. Nha Trang thẳng dặm đăng trình, Còn lo một nỗi trời chinh hết ngày. Ba Ngòi lịnh cấm nơi đây, Ban đêm khôn vượt chỗ nầy làm sao! Nghĩ mà lòng Địa nhói đau, Phải đi vận động xiết bao nhọc nhằn. May sao các vị Sơn Thần, Khánh Hòa, Bình Thuận dời chân kịp thì. Mở toang các cổng tức thì,(5) Phái đoàn vượt khỏi những khi trễ tràng. Đặt chơn xuống bến Nha Trang, Lại còn gay cấn bởi chàng xích lô. Mắt láo liêng miệng bô bô, Đập cho một vố tưởng khô túi này.(6)

(4) Tại Phan Thiết, ngoài tiền sang xe, chủ xe đòi thêm một ngàn đồng.

Sau khi mặc cả, chủ xe chịu giá bảy trăm năm chục đồng. Phái đoàn trả năm trăm đồng, phần còn lại các hành khách khác góp cho đủ số.

(5) Xe đến Ba Ngòi lúc 18 giờ 30. Lệ thường ban đêm đóng cổng, nhưng phụ xe đem giấy vào trình nơi phòng kiểm soát, thì lính canh cho hay họ vừa được lịnh mở cổng cho xe đi đêm thong thả.

Tức mình Địa muốn ra tay, Mở toang nút áo cho mầy biết ta.(7) Nhưng rồi lại sợ mã tà,(8) Đến làm trở ngại cho ta sau này. Đành cam nhịn nó mà hay, Móc tiền ra trả lòng đây tức hoài.(9) Nghỉ yên vừa rạng ban mai, Lên đường trực chỉ suốt ngày miền Trung. Nhưng còn cái việc lòng vòng, Nào an toàn Địa mà hòng ăn ngon. Rồi đây trở lại Sài Gòn, Đi theo hiền đệ Huỳnh Chơn một đàng.(10) May sao phước cả Trời ban, Sơn Thần lại chịu sớt san bước đường.(11) Không thôi Địa phải đoạn trường, Một mình mà ở hai phương khó tròn. Phái đoàn trực chỉ dời chơn, Đến nơi Đền Thánh yên thân Địa mừng. Mừng rồi nước mắt rưng rưng, Cảm ơn chư vị Sơn Thần chở che. Kể ra Địa quá ngại e, Như người phàm tục khắt khe với mình.

(6) Tại Nha Trang anh xích lô đòi tiền bối Thiện Bảo và tiền bối Nguyễn

Văn Các giá quá mắc là tám chục đồng. (7) Tiền bối Thiện Bảo định cởi áo khoác ra dạy anh xích lô một bài học. (8) Mã tà: Cảnh sát. (9) Tiền bối Ngọc Kiều đành trả đủ số tiền xích lô đòi. (10) Tiền bối Huỳnh Chơn đáp máy bay đi sau phái đoàn một ngày nên Đức Linh Quang Phước Thần phải quay vào Sài Gòn hộ tống.

(11) Sơn Thần địa phương lãnh nhiệm vụ hộ tống phái đoàn đi tiếp trong lúc Đức Linh Quang Phước Thần quay vào Nam.

Page 32: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 59 60 − Câu Chuyện Đức Tin

Vào nơi khách sạn rộng thinh, Trên đường Thống Nhứt Trời dành cho ta.(12) Vào đây mát mẻ bao la, Mặc tình đèn nước bánh trà mà xơi. Nhưng lòng còn bận việc đời, Lúc chưa biết đạo ở nơi trần hồng. Địa bèn hỏi chú bồi phòng, Bà chủ có biết hay không biết mùi. Chú mày mai mối giùm tôi, Công lao ta sẽ đền bồi lại cho.(13) Nói ra như giọng móc lò, Thật tình Địa chẳng so đo chút nào. Bởi mình lãnh sứ mạng trao, Phải nên cẩn thận từng câu từng lời. Tuy rằng Địa nói giỡn chơi, Làm sao tránh khỏi tiếng đời thị phi. Phái đoàn vâng lịnh hành y, Mấy ngày tròn vẹn đến kỳ hồi hương. Mùng hai sắp sửa lên đường, Địa liền quỳ bạch tận tường Giáo Tông. Rằng bán lộ (14) lắm lòng vòng, Địa qua tam nhựt (15) thẳng xông một lèo. Khi về vượt đảnh xuống đèo, Đường trường trăm dặm ngoằn ngoèo hố sâu.

(12) Khách sạn hết phòng, nhưng có người dặn ba phòng liền nhau,

cuối cùng không lấy nên phái đoàn vẫn có chỗ trọ. (13) Một vị trong đoàn vui tánh, không cẩn ngôn lúc ở khách sạn Thống

Nhứt, nói giỡn với nhân viên khách sạn. (14) Bán lộ: Nửa đường. (15) Tam nhựt: Ngày mùng 3 phái đoàn mới lên đường trở về Nam.

Anh tài lại lái quá mau, May thôi chút nữa lật nhào hố sâu. Phiền hắn nhưng cũng không lâu, Một việc cảnh cáo kỳ sau nên chừa.(16) Sài Gòn hồi bước đúng trưa, Phận hành của Địa cũng chưa hoàn toàn. Hộ trì việc đó đã an, Còn lo chạy nợ để hoàn lại y.(17) Mấy ngày rồi chẳng ra chi, Địa rầu muốn chết cơn nguy đến rồi. May sao thời vận nổi trôi, Gặp người cứu trợ đền bồi giùm ta. Lỗi mình Địa chẳng dám phân, Sợ mang tai tiếng Thánh Thần đa ngôn. Thôi thôi Địa sắp dời chơn, Để nhường Tiên lịnh thiệt hơn phân tường. Thành tâm tiếp điển Đông Phương, Giáo Tông Đại Đạo, tìm đường đây thăng.

TIẾP ĐIỂN LƯỠNG TƯƠNG BẦN ĐẠO lai bút.

Miễn lễ. Chư hiền đồ Thiên mạng an tọa đẳng đẳng. Vậy tuần tự nơi đây, phái đoàn khá dâng công để Lưỡng Tương Bần Đạo xem lại coi có đúng như Du Thần phúc trình hay chăng.

(16) Tiền bối Địa Châu thấy tài xế chạy quá mau, cầu nguyện chư Thiên

khiến cho giảm lại. Tới ngã ba Triều Sơn lúc 14 giờ 15, dân địa phương đốn một cây gòn, ngọn cây rớt xuống, trúng mui xe.

(17) Ơn Trên dạy hai tiền bối Huỳnh Chơn và Địa Châu tạm ứng chi phí ra Trung của phái đoàn. Sau này Ơn Trên sẽ hoàn lại đủ.

Page 33: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 61 62 − Câu Chuyện Đức Tin

(…) Này chư hiền đệ! Giờ đây sứ mạng của chư hiền đệ phái

đoàn có thể nói là thành công trên bước đầu kể từ khi cơ Phổ Thông Giáo Lý biến chuyển.

Nhớ lại mà giựt mình. Giả tỷ thánh lịnh vừa rồi chư hiền đệ không tuân hành, chẳng đi đâu, thì Lưỡng Tương Bần Đạo cũng chẳng biết làm sao, thì sự việc cũng chẳng có chi. Còn nay trên sổ vàng công quả của chư hiền đệ đã ghi thêm một nét son đậm.

(…) Về phần lộ phí mà Lưỡng Tương Bần Đạo hứa sẽ hoàn lại

cho các hiền đệ. Lời hứa Thiêng Liêng lúc nào vẫn có giá trị. Nhưng các hiền đệ nên hiểu rằng Bần Đạo có thể chỉ đá hóa vàng, chỉ nước thành bạc, nhưng cả vàng với bạc đó các hiền đệ muốn xài được thì ít nữa cũng đến lúc dời chơn sang non bồng nhược thủy. Nhưng với hiền đệ thì sẽ hoàn lại bằng vật chất… Một ngày rất gần đây sẽ có một nguyên nhân thay thế Bần Đạo phát thiện tâm hoàn lại cho các hiền đệ mà Bần Đạo không nói trước danh tánh.(18)

Vậy hiền đệ Huỳnh Chơn, Địa Châu, Thiện Bảo hãy kể số chi phí là bao nhiêu xem coi có đúng lời phúc trình của Du Thần chăng.

(18) Trong thánh giáo của Đức Linh Quang Phước Thần có câu “Gặp

người cứu trợ đền bồi giùm ta.” Theo hiền huynh Thiện Tín (Hành Chánh Vụ Trưởng Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý), tiền bối Thiện Bảo có nhắc việc này, cho biết Ơn Trên vận chuyển một người đạo Cao Đài xa lạ sinh sống ở miền Tây. Người này nằm mộng thấy hồn cha về chỉ chỗ giấu tiền, bảo đào lên mang đến số nhà 165E Cống Quỳnh trên Sài Gòn (nhà riêng tiền bối Thiện Bảo) làm công quả. Số tiền ấy khớp với tổng chi phí do Du Thần phúc trình.

(…) Bần Đạo muốn các hiền cho cái tổng số. [Tiền bối Huệ Chơn bạch rằng phái đoàn đường bộ xuất

12.300 đồng. Tiền bối Huỳnh Chơn đi đường hàng không tốn 4.600 đồng. Cộng chung là 16.900 đồng.]

Theo lời phúc trình của Du Thần thì không phải con số mười sáu ngàn chín trăm đồng mà là mười bảy ngàn hai trăm bốn mươi tám đồng năm cắc (17.248 đồng 50).(19)

[Tiền bối Ngọc Kiều bạch rằng có số dư chênh lệch là do các vị hành hương ở chùa Non Nước và mua vé số cầu mong trúng giải thì thanh toán chi phí thay Ơn Trên. Thế nên không tính gộp hai khoản đó vào chi phí hành đạo miền Trung.]

Bần Đạo hỏi như vầy: Nếu không có sắc lịnh thì có khi nào đệ muội cầm tay số đó từ Nam đến chùa Non Nước mà cúng hay chăng? Đó là số chi phí, hãy kể chung hết luôn cả các món lặt vặt mà có liên hệ đến chuyến đi. Bần Đạo sẽ hoàn lại tất cả.

Dẫu các hiền đệ muội có xài riêng trong việc mua vé số, mặc dầu là cầu may, nhưng cái thiện ý là mong cho trúng số để tình nguyện trả thế cho Bần Đạo. Nhưng của hoạnh tài có bao giờ đem vào trong cửa đạo.

Vậy sau khi xả đàn, các hiền đệ muội hãy kiểm điểm lại một con số cho xác đáng với con số của Du Thần rồi hiền đệ Huỳnh Chơn cùng Địa Châu tạm đài thọ số ấy, một ngày rất gần Bần Đạo sẽ hoàn trả. An tọa.

(…)

(19) Theo hiền huynh Thiện Tín, tiền bối Thiện Bảo giải thích vì sao có

lẻ năm cắc (0,50 đồng). Sau khi trả tiền anh xích lô tham lam ở Nha Trang, còn dư năm cắc, tiền bối sẵn đang giận, bèn ném xuống đất.

Page 34: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 63 64 − Câu Chuyện Đức Tin

BÀI Đại Đạo lúc mở đầu có một, Nhiều phái chi là cốt độ đời, Cho con Thầy Mẹ khắp nơi, Sớm về dưới mái nhà Trời đạo chung. Các chi phái sau cùng lúc rốt, Sẽ gặp chung dưới một thánh đường, Khá tua đoàn kết chung phương, Để bành trướng Đạo còn đương trễ tràng. Chính việc khó mà toan làm được, Thì ngày sau đức phước mới cao, Chung vai gầy dựng phong trào, Để giành công quả ngày sau khoa trường. Lời đã mãn du dương thơ phú, Các hiền đồ ký chú nơi tâm, Vì sứ mạng, đạo ráng làm, Dương danh hậu thế ngàn năm sử vàng. Ban ân toàn tất chung đàn, Lưỡng Tương Bần Đạo cõi nhàn dời chân.

Thăng.

Page 35: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 63 64 − Câu Chuyện Đức Tin

Độ sanh độ tử hai vai cũng đồng

Thời Tam Kỳ Phổ Độ, với mục đích tận độ quần linh, Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ đã ban hành luật đại ân xá với nhiều ân phước đặc biệt. Ân phước này không chỉ dành riêng cho người còn sống tại thế gian mà kể cả các chơn linh quá vãng cũng được hạnh hưởng. Kinh Cao Đài có câu:

Nhờ ơn Thượng Đế Cao Đài, Độ sanh độ tử hai vai cũng đồng.

Do đó, trong Kỳ Ba này các chơn linh nơi cõi vô hình cũng được phép nhờ các chức sắc trong Hội Thánh Cao Đài làm lễ nhập môn vô vi tại các thánh thất, thánh tịnh nếu như lúc sinh thời họ chưa được may duyên hạnh ngộ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Sau khi nhập môn, các chơn linh cũng có cơ hội làm công quả vô vi để lập vị.

Đức Chí Tôn dạy: “Các con! Nguơn hội đáo kỳ, vạn vật đổi thay. Phật Tiên,

Thánh Thần từ cõi hư vô đến trần gian giúp Thầy khai mối Đạo để cứu rỗi quần linh trở về nguồn gốc. Nơi cõi trung, hạ giới các đẳng âm hồn, ngạ quỷ cùng đến cõi thế gian tranh nhau lập công bồi đức để trở lại cõi trường tồn chánh giác…”

Theo truyền thống Cao Đài, bổn đạo tại các tịnh thất đều thành tâm cầu siêu cho các âm nhơn cùng cửu huyền thất tổ trong suốt tháng 7 âm lịch vì tương truyền tháng 7 là tháng xá

Page 36: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 65 66 − Câu Chuyện Đức Tin

tội vong nhân, địa ngục mở cửa cho các âm nhơn trở lại thế gian hội ngộ cùng thân quyến. Chơn linh nào đồng ý nhập môn vào Đạo với sự trợ duyên của thân nhân và các đạo hữu thì xem như không phải trở lại địa ngục mà sẽ được ở lại cõi thế gian tu học, công quả đúng như câu “Đóng địa ngục, mở tầng thiên” trong bài Kinh Nhập Môn của đạo Cao Đài.

Sau đây là trường hợp một âm nhơn được nhập môn vô vi vào đạo Cao Đài. Chuyện có thật, theo lời kể của chị Diệu Huyền, Trưởng Ban Nghi Lễ (Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý).

*

Sáng hôm ấy, chị Tư đi hành đạo tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, vừa về đến nhà, đã thấy Thi vội chạy ra, kéo chị vào góc nói nhỏ: “Chị Tư à, mấy bữa nay con Thu lạ lắm! Miệng nó cứ nói lảm nhảm cái gì đó. Chị để ý thử xem.”

Thu và Thi là hai cô gái ở quê lên Sài Gòn giúp chị Tư trong việc hàng quán. Chồng Thu xấu số, sớm qua đời, để lại một bé gái nhỏ dại.

Trưa hôm đó ngồi vào bàn ăn, chị Tư bắt đầu để ý những cử chỉ khác thường của Thu. Tay bưng chén cơm, mắt nhìn lơ đãng, Thu như đang thầm thì với ai đó. Chị Tư gọi lớn:

- Thu! Em nói gì vậy? Bất chợt khuôn mặt và đôi mắt Thu bừng đỏ lên. Nhìn

thẳng chị Tư, Thu nói: - Chào chị Tư. Chị chưa biết em. Xin tự giới thiệu, em là

Phát, chồng của Thu. Chị Tư biết không, em bây giờ chết rồi, nhưng hồn chưa siêu thoát. Em buồn vợ em lắm vì từ ngày em chết, nó chẳng lo nuôi con em đàng hoàng. Trước kia em làm thợ hồ. Một hôm đến giờ nghỉ trưa, nhưng em còn nán lại

công trường để ráng cho xong việc. Ai dè đói hoa cả mắt nên té từ lầu cao xuống đất. Ông thầu tốt bụng đứng ra lo tang ma và chôn cất em tử tế, còn cho vợ em một số tiền kha khá để có vốn làm ăn. Thế mà vợ em xài hoang hết béng số tiền ấy rồi bắt con em đi bán bánh cam để kiếm tiền gạo mỗi ngày.

Kể đến đây, xác Thu (hồn Phát) giơ hai bàn tay tự tát vào mặt liên hồi.

Chị Tư từng nghe nhiều người kể chuyện các vong hồn nhập xác người sống nhưng đến nay mới thấy tận mắt. Chưa hết bàng hoàng nhưng chị cũng kịp can ngăn:

- Thôi, em bớt giận, đừng đánh vợ nữa. Để chị khuyên Thu cho.

- Dạ, em biết anh chị Tư đạo đức tốt bụng nên rất mừng khi vợ em làm việc ở đây. Trăm sự nhờ chị dạy khuyên vợ em siêng làm kiếm tiền nuôi con.

Từ hôm ấy, vong hồn Phát thường nhập vào xác vợ. Hễ Thu làm biếng, muốn đi chơi thì Phát liền “phạt” không cho ăn uống. Nhiều lần Thu gọi mua tô mì gõ, mới cầm đũa đảo qua vài cái thì bưng ra bỏ ngoài gốc cây trước nhà chứ không ăn. Miệng Thu (Phát) rầy rà: “Sao không ở nhà phụ anh chị Tư mà bỏ đi chơi?!” Vừa dứt lời thì Thu ngoe ngoảy quay vào, xách xô nước và bàn chải ra cật lực chà khoảnh sân trước nhà đến độ hai bàn tay rướm máu.

Hôm khác, Phát nói: - Chị Tư à, sáng giờ em có chuyện muốn nói với chị nhưng

chị đi đâu mà em kiếm cùng khắp không thấy? - Chị đi Cơ Quan hành đạo. Phát xuôi xị: - Hèn gì. Nơi đó em không được phép vào.

Page 37: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 67 68 − Câu Chuyện Đức Tin

Rồi như sực nhớ, Phát nói tiếp: - À, chị Tư biết không, ông bà chủ tiệm cơm đối diện nhà

chị Tư mới dụ dỗ vợ em qua bển làm. Ổng bả hứa trả lương cao gấp mấy lần. Không tốt lành gì đâu, chẳng qua muốn dụ em qua bển để hỏi số đề đánh cho trúng mà thôi. Chị Tư yên tâm, em không cho vợ em đi đâu hết. Em muốn nó làm ở đây vì anh chị hiền lành đạo đức.

Đến Cơ Quan, chị Tư kể mọi chuyện. Giáo sĩ Huệ Ý khuyên nên cho Phát nhập môn vô vi để Phát tu học, làm công quả ngõ hầu có thể siêu thoát.

Sau đó chị Tư về nhà, vừa gặp mặt chị, Thi nhanh nhảu hỏi:

- Chị Tư, nghe nói chị sắp đưa anh Phát đi nhập môn hả? - Ủa, ai nói em biết?! - Dạ, hồi nãy anh Phát nhập vô chị Thu khoe với em rằng

ngày mai anh được theo chị Tư vô chùa tu rồi. Trông ảnh có vẻ phấn khởi lắm!

Hôm sau, anh chị Tư đưa Thu (Phát) đến thánh thất Bàu Sen làm lễ nhập môn. Từ đó Phát ở lại Bàu Sen tu học và làm công quả. Thỉnh thoảng, Phát trở về nhà anh chị Tư thăm vợ.

Một hôm chị Tư và Thu ghé Bàu Sen, Thu (Phát) nói với chị:

- Hôm rồi em bị quỳ hương vì về nhà chơi lâu quá, bỏ bê công việc thánh thất. Chị Tư biết không, việc ở đây nhiều lắm, lớp nào quét dọn sân trước cho sạch sẽ, lớp nào phụ may đồ tang cho cơ sở mai táng… Ôi thôi, làm mệt xỉu luôn!

Chị Tư hỏi: - Ở đây, em học đạo với ai? Thu (Phát) chỉ tấm hình một đạo tỷ ở Cơ Quan Phổ Thông

Giáo Lý đặt trên bàn thờ chư vị tiền vãng nữ. Đạo huynh trưởng ban cai quản thánh thất than phiền: - Cậu Phát này tối nào cũng xin tôi đốt cho cậu điếu thuốc.

Hút xong mới chịu để yên cho tôi ngủ. Một thời gian dài, Phát vẫn tiếp tục nhập vào xác vợ và

ngăn cản không cho Thu tiếp xúc người khác. Chị Tư khuyên Phát:

- Bây giờ em nhập môn rồi, đừng quấy rầy vợ em nữa. Mỗi người ai có duyên nghiệp nấy. Em cố gắng tu học để linh hồn tiến hóa.

Có lẽ Phát đã nghe lời chị Tư. Lâu lắm rồi, không thấy Phát trở lại…

Page 38: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 69 70 − Câu Chuyện Đức Tin

Lửa đốt khuyên con biết có Thầy

Sau khi nền Đại Đạo đã được phổ truyền ra khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh, các vị Tiền Khai Đại Đạo được lịnh Ơn Trên phổ truyền nền chơn đạo ra miền Trung, đúng theo lời dạy của Đức Chí Tôn ngày 15-9 Bính Dần (21-10-1926), nhân dịp khai đàn tại nhà ông bà Hồ Quang Châu và Phan Thị Lân:

Từ đây nòi giống chẳng chia ba, Thầy hiệp các con lại một nhà. Nam Bắc cùng rồi ra ngoại quốc, Chủ quyền chơn đạo một mình Ta.

Công cuộc phổ truyền Đại Đạo ra Trung Kỳ lúc bấy giờ gặp muôn vàn khó khăn bởi lẽ kể từ năm Mậu Thìn (1928) trở đi, triều đình Huế ban hành nhiều lệnh cấm đạo Cao Đài. Tuy nhiên, với đức tin dũng mãnh và chí hy sinh bất chấp mọi khó khăn gian khổ của các vị tiền bối hai miền Trung, Nam cũng như nương nhờ sự phò trì của Thiêng Liêng, các vị vẫn truyền bá được đạo Cao Đài ra miền Trung. Bấy giờ, một trong những nhiệm vụ trọng yếu của các tiền bối là xây dựng trụ tướng nền Đạo hay thánh thể Đức Chí Tôn để làm cơ sở phổ độ nhơn sanh.

Theo Hồi Ký của tiền bối Thanh Long Lương Vĩnh Thuật, cuối mùa thu năm Đinh Sửu (1937), tiền bối Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang (1870-1946), nguyên là Thái Lão Sư đạo Minh Sư đã sớm quy hiệp Cao Đài (1926), được lịnh rời miền Nam ra Trung để chủ trì, hợp sức cùng các vị hướng đạo

miền Trung gấp rút xây dựng một thánh sở với quy mô to lớn cho kịp việc công khai hình thành tổ chức giáo hội tại miền Trung trong lúc còn chờ có đầy đủ các điều kiện cần thiết để xây dựng Trung Hưng Bửu Tòa sau này.

Các vị đã được Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo dạy hãy chọn địa điểm tại Đà Nẵng (thời ấy gọi là Tourane) để việc xây cất cũng như việc phổ độ về sau được dễ dàng vì bấy giờ Đà Nẵng là nhượng địa thuộc Pháp, nên không chịu sự chi phối của luật lệ triều đình Huế. Đức Giáo Tông còn ban cho thánh sở tên gọi là thánh thất Trung Thành.

Mua đất xong, các vị gấp rút xúc tiến việc xây cất thánh thất tạm bằng tranh để có nơi cho các vị Thiên ân sứ mạng tạm trú trong thời gian tiến hành xây dựng thánh thất quy mô, đồng thời cũng để có nơi cúng kính hằng ngày và làm lễ nhập môn cho nhơn sanh vì số người xin cầu đạo ngày một đông, nhất là từ khi tiền bối Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang ra Trung. Bởi lẽ với uy tín sẵn có từ lâu của bậc chơn tu đức độ nguyên là Thái Lão Sư đạo Minh Sư, cùng với dáng vẻ oai nghi, tiên phong đạo cốt, tiền bối đã cảm hóa được rất nhiều người theo Đạo, trong số đó có Carlos.

Là người Việt lai Pháp, trước kia Carlos làm nhân viên Sở Thương Chánh (nay gọi là Hải Quan), chuyên bắt rượu lậu, thuốc lá lậu… Về sau ông lại làm cho Sở Mật Thám Đà Nẵng.

Khi tiền bối Ngọc Chưởng Pháp đến Đà Nẵng, dân chúng đồn đãi rằng có ông lão ở Sài Gòn mới ra, trông như là ông tiên, vì thế rất nhiều người rủ nhau tìm đến. Trong đó có người xin học đạo, có kẻ hiếu kỳ muốn xem tướng mạo phi phàm của tiền bối, và cũng có kẻ hiếu thắng cốt ý thử thách vị chân tu.

Carlos là một trong số những người ấy. Thế rồi, ông mau

Page 39: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 71 72 − Câu Chuyện Đức Tin

chóng được tiền bối Ngọc Chưởng Pháp cảm hóa, nên đã nhập môn Cao Đài, trở thành một tín đồ nhiệt thành.

Trở lại với công cuộc tiến hành xây dựng thánh thất Trung Thành. Hoàn cảnh bấy giờ muôn vàn khó khăn, từ việc xin giấy phép xây dựng cho đến tình trạng eo hẹp về nhân lực, tài lực…

Để trợ lực cho miền Trung, Ơn Trên dạy tiền bối Lê Kim Tỵ (1893-1948) rời miền Nam ra nhận lãnh trọng trách tạo tác thánh thất Trung Thành cho kịp ngày khánh thành theo lịnh Đức Chí Tôn là 08-4 Mậu Dần (thứ Bảy 07-5-1938).

Tính ra, thời hạn chỉ có một tháng bảy ngày. Tuy thế, tiền bối Lê Kim Tỵ rất hăng hái, vì bấy lâu tiền bối luôn quan tâm theo dõi công cuộc truyền Đạo ra Trung Kỳ và rất nóng lòng muốn ra Trung để giải quyết các khó khăn trong việc xây dựng thánh thất Trung Thành.

Thuở ấy, về phương diện xã hội, tiền bối Lê Kim Tỵ là một nhà thầu khoán danh tiếng ở miền Nam, được chính quyền Pháp vì nể. Về phương diện hành đạo, tiền bối được tán dương là người hùng tạo tác của Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên bởi lẽ trong quá trình xây dựng bảy mươi hai thánh tịnh của Tiên Thiên, hễ nơi nào gặp khó khăn, cản trở mà có tiền bối đến can thiệp thì đều được suôn sẻ.

Là bậc hướng đạo có tài trí ứng phó lanh lẹ, năng nổ xông pha, tháo vát, tiền bối Lê Kim Tỵ đứng ra lo liệu từ việc nhờ người vận động Phủ Toàn Quyền Hà Nội can thiệp để công sứ Pháp tại Đà Nẵng (Tourane) đồng ý cấp giấy phép xây dựng, cho đến việc tiến hành tạo tác suốt cả ngày đêm…

Mỗi ngày tiền bối Lê Kim Tỵ dậy sớm từ năm giờ sáng và đến sáu giờ thì có mặt ở công trường để điều hành, kiểm tra, đôn đốc tiến độ xây dựng.

Tiền bối là người nhiệt tình, cương trực và nóng tính. Trong công việc, tiền bối buộc mọi người phải răm rắp tuân thủ kỷ luật và chấp hành lịnh của tiền bối. Mỗi khi có ai trái lịnh hoặc chểnh mảng nhiệm vụ, tiền bối quen lớn tiếng khiển trách nặng nề.

Cũng bởi thế mà trong đạo hữu có người không thích. Họ làm một bài thơ gởi Đức Chí Tôn, ngầm chỉ trích tiền bối Lê Kim Tỵ. Bài thơ bỏ vào bì thư niêm kỹ, nối theo một dây bùi nhùi bằng giấy dài độ hai tấc tây. Đoạn gần phong bì có cột chùm que diêm nối với mồi lửa. Rồi họ lén nhét tất cả lên mái tranh ngôi thánh thất tạm.

Hôm ấy nhằm ngày 10-3 Mậu Dần (10-4-1938), các tiền bối lập đàn cầu cơ, có tiền bối Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang và đủ mặt các vị hướng đạo cùng đông đảo bổn đạo địa phương. Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ, gọi ông Carlos đến dạy:

“Con ra mái nhà phía sau lấy phong thư và mồi lửa đem vào cho Thầy kẻo cháy nhà. Đi con, và để vậy đem vào. Thầy sẽ họa nguyên vận bài thi theo ý hỏi.”

Ông Carlos vội vàng leo lên mái lấy phong thư và mồi lửa xuống rồi mang vào. Thầy dạy tiếp:

“Để Thầy trả lời mấy lời thơ con T. V. T. muốn hỏi. Rồi các con sẽ mở phong bì ra đọc cho cả đàn cùng nghe.”

THI Rõ thấu lòng con trẻ hỏi đây, Càng thêm đau đớn thửa tâm Thầy. Độ đời mạt kiếp đương nhiều mặt, Cứu thế Kỳ Ba phải đủ tay. Khôn dại, hư nên Thầy cũng độ, Thành không mạng vận trẻ nghe này.

Page 40: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 73 74 − Câu Chuyện Đức Tin

Bóp lòng khó giải lời tâu hỏi, Lửa đốt khuyên con biết có Thầy.

“Vậy con đọc rồi Thầy cho khui lấy bài thi của con T. V. T. thì rõ. Cười…”

Bài thơ của T. V. T. có nội dung như sau: “Cúi mong Ơn Trên chứng chiếu.

THI Lòng thành xin hỏi mấy lời đây, Nếu thật không trung quả có Thầy. Cứu thế bao nài cơn khổ cực, Độ đời há lại thiếu gì tay. Dùng chi những bọn hàng tôm cá, Cơ hội ngày nay đến nỗi này. Muôn lỗi xin dùng mồi lửa đỏ, Trung Thành đốt cháy ắt không Thầy.

Mọi người hiện diện trong đàn cơ hôm ấy bị một phen hú vía.

T. V. T. là ai? Hôm đó có mặt trong đàn cơ hay không, chẳng ai biết. Nhưng sau đàn cơ ấy, đức tin của bổn đạo địa phương càng tăng lên mạnh mẽ, lấn át cả các thị phi trong nội bộ. Mọi người đồng tâm nhất trí bắt tay nhau tạo tác thánh sở.

Chỉ trong mười lăm ngày đêm, thánh thất Trung Thành với quy mô đầy đủ Tam Đài được hoàn thành. Đó chính là phép mầu nhiệm của đức tin dũng mãnh, của sự đồng tâm nhất trí, hy sinh chia sẻ gian khổ nan nguy của toàn bổn đạo miền Trung, của lòng nhiệt thành ủng hộ của toàn đạo tâm miền Nam, đặc biệt là sự hướng dẫn chỉ đạo của hai vị tiền bối Trần Đạo Quang và Lê Kim Tỵ.

Đó cũng là phép vận chuyển mầu nhiệm, ủng trợ phò trì

của Thiêng Liêng trên từng bước đường hành đạo của những người con áo trắng, y như lời Thầy đã dạy đồng tử Thanh Long trong buổi tiễn đưa đoàn người sứ mạng lên đường truyền giáo Trung Kỳ:

Lời Thầy gắng nhớ nghe con, Dù chi đi nữa vẫn còn Thầy đây.

Page 41: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 75 76 − Câu Chuyện Đức Tin

Hy sinh đắc quả

Năm 1967, ngôi Bác Nhã Thiền Đường (thuộc Minh Lý Thánh Hội) ở vùng Long Hải cuối cùng đã hình thành sau một thời gian dài tạo tác với những cơn khảo thí hãi hùng. Thiền đường hoàn tất nhờ có rất nhiều đạo tâm, đạo hữu đóng góp công sức, tâm lực, tài lực và thậm chí cả thân mạng nữa.

Ngày lễ an vị ngôi Bác Nhã Thiền Đường cũng là ngày tiền bối C h á n h Ý T r ầ n H ữ u T h i n h (sinh ngày 28-7-1908), môn sanh Minh Lý Thánh Hội (đắc vị G i à L am Địa Thần) giáng cơ tường thuật cặn kẽ duyên cớ khiến tiền bối đã phải đột ngột từ trần tại nơi ấy (ngày 12-4-1967) trong lúc thiền đường còn đang tạo tác dở dang.

Sau đây là lời tiền bối kể lại trên ngọn linh cơ tại Bác Nhã Thiền Đường vào giờ Tý ngày 10 rạng 11-8 Đinh Mùi (13-9-1967):

Thiệt là một cơn ác mộng đã trôi qua, nhưng lòng nhân thế cùng quý bạn hiền đã còn ghi lại nỗi niềm thương tiếc.

Muôn việc ở đời không chi là ngẫu nhiên. Nhứt ẩm nhứt trác giai do tiền định. Một sự dứt bỏ ra đi một cách vội vàng khó tránh khỏi gây sự hoang mang cùng phân vân cho người dương thế. Nhưng khi hiểu được lẽ vô thường, âu không chi lạ, là vì nơi vùng này là vùng còn dẫy đầy ác khí, nên chi, mặc dầu bao nhiêu điển lành cùng tâm đạo đem ký nhà tịnh nơi này, cũng khó nỗi đàn áp được những luồng hắc khí xung

thiên từ những oan hồn uổng tử, đã gây ra bao nhiêu sự rủi ro trong khi xây cất.

Lúc bấy giờ Tệ Đệ tự xét thấy đời đạo đức của mình còn quá muộn màng trễ nải hơn các hàng huynh tỷ đệ muội. Rất đỗi so sánh với hàng thê nhi mà Tệ Đệ vẫn còn thua kém. Nỗi lòng băn khoăn vì công quả không biết làm sao.

Một giấc chiêm bao một đêm nào cũng nơi này, vừa mơ màng nửa say nửa tỉnh, Tệ Đệ chợt thấy vô số oan hồn đang tranh đua ngăn cản những việc làm từ thiện cùng hoằng dương đạo pháp nơi vùng này. Tệ Đệ bèn vội vàng quỳ xin thọ khổ phần nhục thể hình hài, để làm lắng dịu bao nỗi oan hồn và cũng để thay mạng sống cho những người quả công vì đại cuộc. Và Tệ Đệ có hứa sẽ nhân một dịp nào, đề nghị cùng Hội Thánh có nhiều buổi lễ cầu siêu bạt độ âm hồn trở lại đường chân thiện mỹ.

Do đó, mọi việc sắp xếp đã qua. Sáng lại, chư huynh tỷ đệ muội vừa phát giác một việc đã rồi.

Hôm nay, Tệ Đệ xin Lão Tổ được phép trong hơn một khắc để trần tình mọi sự vừa qua, cùng để giúp cho người bạn xưa vẹn tròn lời hứa. Tệ Đệ ngưỡng mong ơn từ quý vị đại đức trong Hội Thánh Minh Lý tới các hàng sư huynh sư tỷ, mỗi ngày vào tịnh cũng như nhựt thời, nên nhớ cầu nguyện cho các oan hồn ấy được sớm cởi vòng oan nghiệt, hầu trở lại đường đạo đức tu hành, do lời khuyên giải của quý liệt vị.

*

Lời trần tình của tiền bối Chánh Ý Trần Hữu Thinh đã giải tỏa nỗi niềm thắc mắc của thân quyến cũng như chư đạo hữu về sự ra đi bất ngờ của tiền bối sau một đêm lưu lại nơi công trường tạo tác ngôi Bác Nhã Thiền Đường.

Page 42: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 77 78 − Câu Chuyện Đức Tin

Quyết định và hành động của tiền bối là một tấm gương sáng về đức hy sinh quên mình vì đại cuộc. Chính nhờ đức độ hy sinh cao cả này mà tiền bối đã đắc vị Già Lam Địa Thần mặc dù tiền bối tự nhìn nhận rằng lúc sinh tiền đường tu hành và công quả hãy còn kém cỏi, thua sút cả vợ con.

Nguyên nhân của biết bao tai nạn rủi ro khủng khiếp xảy ra trong quá trình xây cất ngôi thiền đường cũng đã được tiền bối giải thích rõ trong đoạn thánh giáo dẫn lại ở trên: Đó là những luồng hắc khí xông lên từ những oan hồn uổng tử nơi ấy, vốn là vùng đất đã trải qua các cuộc chiến tranh ác liệt từ thời tiền chiến đến hậu chiến trong lịch sử nước nhà, như lời dạy của Đức Đông Phương Lão Tổ sau đó:

“Thiền Đường Bác Nhã là một nơi góp công rất lớn cho Đại Đạo trong việc hoằng pháp sau này, mà cũng là một cứu tinh cho dân chúng địa phương vùng Long Hải, vì đã có rất nhiều điển lực đàn áp và khuyên giải được những oan hồn từ thời tiền chiến đến hậu chiến. Với trụ tướng như ngày nay đã nói lên được sự kiên tâm trì chí của chư đệ tử vượt mọi khó khăn.”.(1)

*

Ban đầu thánh sở này của Minh Lý Thánh Hội có tên là Bác Nhã Thiền Đường. Sau khi sửa chữa thì đổi tên là Bác Nhã Tịnh Đường.(2) (1) Bác Nhã Thiền Đường, 10 rạng 11-8 Đinh Mùi (13-9-1967). (2) Prajñā (tiếng Sanskrit) hay paññā (tiếng Pāli) được dịch ra chữ Hán

là 般若. Truyền qua Việt Nam, thay vì đọc và viết bàn (ban) nhược thì xưa nay vẫn đọc và viết là bát nhã. Tương truyền, tiền bối Định Pháp Nguyễn Minh Thiện (1897-1972) chủ trương nên viết là bác thay vì bát. Quả vị thiêng liêng của tiền bối là Bác Nhã Thiền Sư Tam Tông Pháp Chủ Nguyên Quân Bồ Tát.

Ngôi Bác Nhã Tịnh Đường ngày nay là nơi dành cho các bậc giác ngộ, chơn tu tìm đến tịnh dưỡng tâm hồn, trì hành công phu tu luyện ngõ hầu phục hồi bổn tánh chơn như, mở lối vô sanh giải thoát không những cho riêng mình mà còn cho cả các thế hệ hậu sanh tiếp nối.

Bác Nhã Tịnh Đường cũng trở thành một trung tâm thần lực có khả năng xua tan những luồng hắc khí, đẩy lùi các tai ách khổ nạn của chúng sanh địa phương.

Thật vậy, trong tháng 12 năm 2006, khi cơn bão số 9 ập đến gây thiệt hại nặng nề cho một vùng đất rộng lớn thuộc địa phận tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, ngôi Bác Nhã Tịnh Đường cũng không tránh khỏi thiệt hại. Tuy nhiên, mọi người chứng kiến đều cảm nhận được phép lạ nhiệm mầu: Khi những tấm tôn bị cơn bão dữ thổi tróc khỏi mái Tịnh Đường, dường như có bàn tay vô hình đỡ lấy và đem xuống đặt nhẹ nhàng trên mặt đất.

Bằng không, những miếng tôn lớn ấy cứ bay vèo vèo trong cơn cuồng phong thịnh nộ, như những máy chém khổng lồ, ắt sẽ gây thêm bao thảm họa đáng tiếc cho dân chúng.

Sau cơn bão tố dữ dằn, ngôi Bác Nhã Tịnh Đường vẫn trụ được vững vàng và trở thành mái nhà trú ẩn với đầy đủ lương thực, thuốc men và ấm áp tình người. Tịnh Đường trợ giúp cho hàng ngàn đồng bào trong vùng đang lâm vào cảnh nhà tan cửa nát có chỗ yên lành tạm thời tránh khỏi những ngày đói rét trong cảnh màn trời chiếu đất.

Page 43: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 79 80 − Câu Chuyện Đức Tin

Thần tiên xem mạch bốc thuốc

1. Tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Khi mới khai Đạo, tại Tòa Thánh Tây Ninh, số người đến

xin nhập môn rất đông mà số người hiếu kỳ đến xem huyền diệu Tiên gia cũng không ít. Đồng thời còn có nhiều người đến với mục đích xin thuốc chữa bệnh hoặc cầu hỏi chuyện gia đạo hay thế sự, v.v…

Tại Đền Thánh Tây Ninh ngày 05-12 Bính Dần (08-01-1927), Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo rất nghiêm khắc, dạy rằng: “Thượng Trung Nhựt, hiền hữu khá nói cùng kẻ đến đây chẳng tâm đạo, chỉ đến cầu gia đạo và cầu thuốc biết rằng đây vốn là đền thờ Ngọc Đế, chớ chẳng phải là nhà thương hay là tiệm bói. Nghe à!”

Ấy thế mà khi đọc các thánh giáo trong giai đoạn Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam được lập thành, chúng ta thấy hàng Thiên ân sứ mạng luôn được Ơn Trên ưu ái, ban thuốc chữa bệnh để được nhẹ nhàng, bớt phần thân nghiệp ngõ hầu lo hành đạo giúp đời.

Trong một lần giáng cơ tại Thiên Lý Đàn (Hòa Hưng), giờ Tuất ngày 20-10 Kỷ Dậu (29-11-1969), sau khi dạy xong phần đạo pháp và phần hành sự, Đức Tôn Sư Đông Phương Chưởng Quản từ giã:

Giã chư đệ muội trần hồng, Ráng lo tu học non bồng ta lui.

Ngay lúc đó, tiền bối Đạt Minh, Nội Chánh Vụ Trưởng Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý,(1) liền quỳ xin thuốc cho tiền bối Chí Tín, Phó Tổng Thư Ký Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý,(2) và đạo tỷ Bạch Hảo (Nữ Chung Hòa).

Đức Tôn Sư nán lại, và dạy: “Bần Đạo vẫn nhớ, nào có quên đâu hiền đệ! Bần Đạo

giúp một phương tiện trong tình sư đệ mà thôi. Về nghiệp quả, muốn cho sớm dứt cũng phải một thời gian tu luyện mới có thể dứt đặng. Đây hiền đệ đến trước Thiên Bàn đem ba loại hoa đang chưng trên bàn, mỗi thứ hai cái, để vào dĩa đem đến đây, Bần Đạo ban ân cho.

THI Tam sắc huê khai chuyển pháp luân, Độ nhơn giải thoát nghiệp hồng trần, Đái công thục tội (3) hành chơn đạo, Nhứt điểm linh quang nhứt điểm thần.

Hiền đệ đem về sao khô, hiệp chung lại. Dùng nước trong tịnh thủy bình tại Thiên Bàn, lường ba chung đổ vào một chén. Phân số hoa này ra làm ba lần, để vào nước chưng cách thủy. Thành tâm khẩn nguyện, uống đúng vào giờ Tý và giờ Ngọ. Trường phục (4) như vậy trong tam nhựt.”

Về phần đạo tỷ Bạch Hảo,(5) Đức Tôn Sư ban ân và dạy: (1) Thế danh Lê Văn Non (1913-1985), quả vị Quang Minh Huệ Tiên. (2) Thế danh Lê Văn Bá (1918-2008), bào đệ đạo trường Đạt Minh. (3) Đái công thục tội 戴 功 贖 罪 : Đem công lao đội lên đầu để dâng

lên bề trên xin chuộc lại tội lỗi đã gây. (4) Phục dược 服 藥 là uống thuốc. Uống thuốc ba ngày liền (tam nhựt)

hay uống nhiều ngày hơn gọi là trường phục 長 服. (5) Thế danh Nguyễn Thị Tơ (sinh năm 1915), bạn đời đạo trưởng Lê

Văn Non (Đạt Minh).

Page 44: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 81 82 − Câu Chuyện Đức Tin

“Hiền đệ dùng ba thứ hoa này, làm đúng lời dạy trước, song phải thêm vào mỗi lần là một chỉ Tục Đoan, một chỉ Linh Tiên, hiệp với hoa mà chưng cách thủy và uống đúng vào giờ Dậu, giờ Mẹo, y như vậy trong tam nhựt. Đó là phương tiện giúp đỡ của Bần Đạo đối với hiền đệ Phó Tổng Thơ Ký và hiền muội Nữ Chung Hòa.”

Một lần khác, tại Thiên Lý Đàn, vào giờ Tuất ngày 28-5 Kỷ Dậu (12-7-1969), tiền bối Huệ Lương (1902-1980) là Tổng Lý Minh Đạo Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý cầu xin Đức Tôn Sư ban thuốc chữa bệnh cho tiền bối Bạch Tuyết (6) trong bộ phận Hiệp Thiên Đài. Đức Tôn Sư dạy:

“Cười… Bần Đạo chỉ đem pháp nhiệm cứu rỗi phần linh hồn, chớ có phải thầy thuốc đâu mà chư hiền đệ cứ xin thuốc mãi. Thôi, hiền đệ! Bần Đạo cũng cảm thương lòng khấn vái của các thanh thiếu niên mà ban ơn cho. Hiền đệ an lòng, sau sẽ rõ. Đó là một sự vay trả đấy.”

2. Tại Minh Lý Thánh Hội Năm 1972, tiền bối Định Pháp Minh Thiện (1897-1972) là

Chủ Trì Minh Lý Thánh Hội (7) bệnh nhiều. Đức Vạn Hạnh Thiền Sư giáng đàn tại Minh Lý Thánh Hội vào giờ Tuất ngày 06-10 Nhâm Tý (11-11-1972) và dạy:

“Về bịnh trạng và sức khỏe của đạo hữu Định Pháp Minh Thiện, tuy biết rằng vạn vật hữu sinh hữu diệt, hữu hình hữu hoại, mỗi mỗi đều bị chi phối của luật sinh trưởng thâu tàng. Nhưng vì trách vụ đặc biệt của Minh Thiện trong giai đoạn

(6) Thế danh Lê Ngọc Trang (1918-1986), đắc quả Quán Pháp Chơn

Tiên. (7) Sau khi quy thiên đắc quả Bác Nhã Thiền Sư Tam Tông Pháp Chủ

Nguyên Quân Bồ Tát.

hiện tại hiếm có người thay thế, vì thế Thượng Đế đặc ân chấp thuận cho Định Pháp được gia tăng tuổi thọ.”

Hôm ấy, Đức Vạn Hạnh Thiền Sư phân tích nguyên nhân căn bệnh của tiền bối Định Pháp như sau:

“Định Pháp Minh Thiện với tuổi đời già, nhục thể phần hậu thiên hữu chất đến giai đoạn tàn như cây khô nhựa, chỉ còn nhờ giải pháp hay nhứt là dụng tiên thiên khí để duy trì thêm tuổi thọ. Giữa lúc ác khí bao trùm, rất đỗi người mạnh còn bị chi phối do sự cảm cúm kéo dài hơn các năm khác, trong lúc nhục thể Định Pháp quá suy nhược thì ác khí kia có cơ lung lạc.

Thứ nữa là phần tu dưỡng. Vì bị ảnh hưởng chi phối của cơ thể nên sự di dưỡng tiên thiên khí, Định Pháp không làm đúng mức như lời Thiêng Liêng dạy, nên khó vượt qua sự hành hạ kia. Bởi tâm tư Định Pháp quá lo nghĩ về đạo sự ngổn ngang, sợ không đủ ngày giờ hoàn tất, do ưu tư đó đã làm nội tâm thiếu sự thanh tịnh để di dưỡng tiên thiên khí.

Về y sư trị liệu. Chư đạo hữu vì thương tình người anh trong cơn bịnh hoạn, đã đua nhau tìm thầy kiếm thuốc, nhưng trong sự tìm thầy ấy cũng có sự tranh cạnh nhau để gây ảnh hưởng. Đó là điều đa sư hư bịnh.(8) Tốt hơn là cùng nhau hội ý để chọn một y sư có khả năng, hầu liên tục theo dõi bịnh trạng để trị liệu hữu hiệu hơn. Nhưng đó chỉ là phương tiện bồi bổ duy trì về mặt hậu thiên mà thôi.

Vì nghiệp chung của Minh Lý Thánh Hội còn đọng lại khá nhiều, nên người đầu đàn anh cả gánh lấy trách nhiệm để đàn em nhẹ phần khảo thí về nhục thể, hầu bước lẹ theo kịp đường tu. Khoản này, chư đạo hữu trong những giờ tham thiền công (8) Đa sư hư bịnh 多 師 虛 病 : Nhiều thầy cho thuốc khiến việc trị bệnh

không kết quả.

Page 45: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 83 84 − Câu Chuyện Đức Tin

phu nên tập trung tư tưởng đưa điển lực đến trợ duyên cho Định Pháp để tăng cường sinh lực đúng mức hầu tiếp nối đạo sự. (…)

Sau khi xả đàn, chư đạo hữu có thời cầu kinh cho Định Pháp. Sau thời kinh ấy sẽ tái lập đàn cơ do Liên Hoa (9) phụ trách để Lữ Tổ Thuần Dương (10) đến xem mạch cho toa Định Pháp nghe chư đạo hữu.”

Gần một tháng sau đó, bệnh tình của tiền bối Định Pháp trở nặng. Các môn sanh Minh Lý quá âu lo giao động, tạo thành một luồng điển xáo động như những lượn ba đào. Đức Vạn Hạnh Thiền Sư lại giáng đàn tại Minh Lý Thánh Hội, vào giờ Tuất ngày 04-11 Nhâm Tý (09-12-1972) và dạy:

“Đàn hôm nay tuy chư đạo hữu cố gắng để tâm không, nhưng làn sóng điển xao động từ mấy ngày qua vẫn còn chập chùng bủa lượn. Thế nên đàn hôm nay Bần Tăng có nhiệm vụ để hướng dẫn những ba đào điển lực ấy theo một chiều hướng ổn định.

(…) Đứng về phương diện đồng đạo huynh đệ tương thân, chư đạo hữu đã nhiệt tình tận tâm âu lo cho người anh cả đủ mọi phương diện, đó là điều tốt lắm rồi. Về phần Thiêng Liêng, bao nhiêu đặc ân từ các Đấng đã dành đãi ngộ cũng đầy đủ lắm rồi. Đó là kết quả phần hữu hình của một sứ đồ nửa cuộc đời tận tâm vì đạo.

(…) Bần Tăng nói trở lại về sức khỏe của đạo hữu Định

(9) Đồng tử Liên Hoa, thế danh Đàm Thi (1912-1998), là Tiếp Cơ

Quân. Tiền bối đắc quả vị Hộ Pháp (2010). (10) Lữ Tổ Thuần Dương tức là Đức Thuần Dương Tổ Sư 純 陽 祖 師 ,

cũng là Đức Phù Hựu Đế Quân 孚 佑 帝 君 , là Đấng ban cho bài kinh Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo (Đại La Thiên Đế, Thái Cực Thánh Hoàng…). Ngài là Lữ Động Tân 呂 洞 賓 trong Bát Tiên.

Pháp Minh Thiện. Luật hữu hình hữu hoại, đó là lẽ đương nhiên của trời đất, không phải là điều đáng lo đáng nghĩ.”

Cuối cùng, Đức Vạn Hạnh Thiền Sư ban ơn cho tiền bối Minh Thiện:

“Bần Tăng nhờ đạo hữu Pháp Ấn (11) cho Bần Tăng một ly bạch thủy để Bần Tăng họa phù trợ lực người bạn đạo chí thân… Đạo hữu giùm để lại nơi Thiên Bàn. Sau khi xả đàn, đem

cho đạo hữu Định Pháp Minh Thiện uống và nói rằng món quà đặc biệt này của Vạn Hạnh Thiền Sư tặng người bạn tri kỷ.”

*

Các mẩu chuyện thần tiên xem mạch bốc thuốc như trên đây còn có thể tìm thấy nhiều trong các bản thánh giáo được lưu truyền từ thời mới mở Đạo cho tới nay. Đơn cử như bộ Đạo Sử (hai quyển) của tiền bối Hương Hiếu (1887-1971) do Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh ấn hành.

Qua những chuyện người thật việc thật như thế, chúng ta thấy rõ đức từ bi bao la của các Đấng thiêng liêng và hiểu thêm rằng các Đấng vận dụng quyền phép nhiệm mầu để giúp chúng sanh tăng trưởng chánh tín, ngõ hầu nung chí trên đường tu học, lập công bồi đức để được trở về với Thầy Mẹ sau Hội Long Hoa.

(11) Tức là tiền bối Khai Ngộ, thế danh Nguyễn Văn Châu (sinh ngày

26-5-1916), lần lượt làm Chủ Trì (1982), Hiệp Lý (1983), rồi Tổng Lý của Minh Lý Thánh Hội. Sau khi quy thiên (25-9-2001), tiền bối đắc quả vị là Thành Sở Quan Chơn Nhơn.

Page 46: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 85 86 − Câu Chuyện Đức Tin

Ba lần đốt lệnh dạy mua xe Mobylette

Cách Sài Gòn khoảng ba mươi cây số về phía tây nam, hướng đi Ðức Hòa (Long An), cách tỉnh lộ 10 khoảng một cây số, trên vùng đất rộng hơn một ngàn mét vuông tại Cầu Xáng (xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh) có một kiến trúc độc đáo là Bát Bửu Phật Đài. Chung quanh Phật Đài có rừng bạch đàn bao bọc, lại thêm mấy con kinh dẫn nước từ sông Vàm Cỏ Tây chảy qua.

Phật Đài gồm phần bệ cao ba mét, hình bát giác, tám mặt có tám tên gọi: công bình, bác ái, từ bi, đại đồng, an cư, lạc nghiệp, thái bình, và hạnh phúc, vì vậy gọi là Bát Bửu.

Đặt trên bệ bát giác là tượng Đức Phật Thích Ca rất lớn, nặng trên bốn tấn, do điêu khắc gia danh tiếng Nguyễn Thanh Thu (1) tạc cho chùa Xá Lợi (đường Bà Huyện Thanh Quan, quận 3), hoàn thành năm 1957. Nhưng sau đó cư sĩ Ngô Chí Bình (1906-1987) được thỉnh lại tượng và đưa về an vị trước Thanh Tâm Tự tại Cầu Xáng.

Trong chiến tranh, cả vùng này bị bom đạn tàn phá tan hoang, chỉ còn trơ trọi tượng Phật to lớn sừng sững giữa đồng không mông quạnh. Do đó dân gian gọi là Phật Cô Đơn.

Có công cất Bát Bửu Phật Đài và Thanh Tâm Tự là cư sĩ

(1) Ông là sĩ quan Sài Gòn, tác giả tượng đồng Thương tiếc (cao chín

mét) đặt ở nghĩa trang quân đội Biên Hòa (tháng 11-1966).

Ngô Chí Bình và bạn đời là Lê Thanh Kiều (1922-1987).(2) Trước khi khởi công tạo tác Bát Bửu Phật Đài, Ơn Trên

dành cho tiền bối Thiện Bảo công quả lập Hiệp Thiên Đàn tại số 3 Nguyễn Khoái, quận Tư. Pháp đàn là tiền bối Bạch Ngọc (thế danh Cao Thượng Chuông, sinh năm 1915, quy thiên ngày 02-12-2000). Đạo tỷ Ngọc Cúc (con gái tiền bối Bạch Ngọc) làm đồng tử. Nơi đây sẽ lập đàn cơ tiếp nhận các thánh lệnh chỉ dẫn tỉ mỉ việc xây cất Bát Bửu Phật Đài. Chẳng hạn, Ơn Trên dạy xây phần bệ bát giác đỡ tượng Phật rỗng ruột để kết hợp làm một hồ lớn, chứa nước mưa dự trữ cho dân địa phương dùng trong mùa khô hạn.

Con cái biết chí tâm tu hành, siêng năng làm đạo, thì cửu huyền thất tổ (gồm cả cha mẹ hai bên chồng và vợ) cũng được hưởng phần công đức của con cái mà siêu thăng. Nhờ tiền bối Ngô Chí Bình có công lập Hiệp Thiên Đàn, chơn linh bà Nguyễn Thị Ký (mẹ tiền bối) được Thiên Đình ân ban quả vị An Hòa Thánh Nữ, giữ nhiệm vụ trụ trì vô vi Thanh Tâm Tự, kiêm chức đốc công vô vi trông coi xây dựng Bát Bửu Phật Đài (đốc công hữu hình là tiền bối Bạch Ngọc). Sau này Đức An Hòa Thánh Nữ thăng lên quả vị An Hòa Thánh Nương. Chơn linh mẹ tiền bối Ngọc Kiều (Lê Thanh Kiều) là bà Nguyễn Thị Hồ cũng nhờ con gái tu hành nên được Thiên Đình ân phong quả vị là Bảo Ân Thần Nữ.

Chiến tranh ngày càng lan rộng ở địa phương nên Ơn Trên dạy cần phải kịp khánh thành Bát Bửu Phật Đài trong năm

(2) Sau này hai vị nhập môn Cao Đài, được ban thánh danh Thiện Bảo

(Ngô Chí Bình) và Ngọc Kiều (Lê Thanh Kiều). Nhà riêng hai vị (một tầng lầu ở số 165E Cống Quỳnh, quận 1) là Văn Phòng Phổ Thông Giáo Lý, tiền thân của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam (do Đức Chí Tôn thành lập năm 1965), nay là Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo (171B Cống Quỳnh, quận 1).

Page 47: 1 2 · Có tin t mã ng nên m ß i ch Ïu vào làm h Ñc trò trong c ñ a ÿ¥ o.(2) (1) Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in the Cao Dai in Viet

Diệu Nguyên − 87 88 − Câu Chuyện Đức Tin

1962. Tiền bối Bạch Ngọc mỗi ngày vẫn đạp xe lóc cóc từ Hiệp Thiên Đàn (quận Tư) tới công trường (Cầu Xáng). Hai buổi đi về như thế rất nhọc nhằn và mất quá nhiều thời gian.

Đức An Hòa Thánh Nữ thấy rằng tiến độ xây dựng quá chậm, hơn nữa nếu không may tiền bối Bạch Ngọc ngã bệnh vì quá lao nhọc thân xác thì việc hoàn thành Bát Bửu Phật Đài ắt càng thêm trễ tràng. Do đó Thánh Nữ giáng cơ tại Hiệp Thiên Đàn dạy tiền bối Ngô Chí Bình hãy xuất tiền riêng mua một chiếc xe Mobylette ngõ hầu trợ giúp tiền bối Bạch Ngọc có phương tiện di chuyển tiện lợi.

Thuở ấy, Mobylette là một hiệu xe gắn máy danh tiếng, 49 phân khối, có bàn đạp và động cơ hai thì (chạy xăng pha nhớt), do công ty Motobécane bên Pháp sản xuất từ năm 1949 đến năm 1997. Xe có ba màu xanh, vàng và xám. Trước khi bị xe gắn máy Nhật đánh bại trên thị trường thế giới, mỗi năm hãng Motobécane sản xuất trung bình 750 ngàn chiếc. Trong thập niên 1970 tổng sản lượng vượt quá 14 triệu chiếc.

Trở lại chuyện đàn cơ tại Hiệp Thiên Đàn. Sau khi xả đàn, tiền bối Bạch Ngọc liền tự tay đốt ngay bản thánh giáo ấy. Bởi lẽ tiền bối rất thận trọng, xét thấy bản thân làm pháp đàn, con gái làm đồng tử, mà lại có cơ bút dạy sắm xe gắn máy cho mình thì tránh sao khỏi bị mang tiếng thị phi.

Đức An Hòa Thánh Nữ giáng cơ tại Hiệp Thiên Đàn liên tiếp ba lần để truyền lịnh dạy tiền bối Ngô Chí Bình mua xe Mobylette cho tiền bối Bạch Ngọc sử dụng. Thế nhưng cả ba lần ấy thánh lệnh của Ngài đều bị tiền bối Bạch Ngọc lập tức đốt sạch ngay sau khi xả đàn.

Cuối cùng Đức An Hòa Thánh Nữ phải giáng cơ tại Ẩn Tiên Đàn trên một ngọn núi hẻo lánh ở tận Hà Tiên, để nhờ các vị ẩn tu nơi ấy chuyển giùm thánh lệnh về Sài Gòn cho nhục tử (tiền bối Ngô Chí Bình) mua xe Mobylette.

Khi chép lại thánh lệnh đưa về Sài Gòn, vị pháp đàn của Ẩn Tiên Đàn còn viết thêm mấy dòng này:

“Sau khi thư này chuyển đến đạo huynh [Ngô Chí Bình] là chúng tôi đã hoàn thành trách nhiệm Thánh Nữ giao phó. Xin đạo huynh hoan hỷ đừng tìm hiểu thêm về Ẩn Tiên Đàn.

Trân trọng.”

*

Câu chuyện trên đây cho thấy trong Tam Kỳ Phổ Độ, chẳng những người sống trên dương thế cần gắng sức tu hành lập công bồi đức mà ngay cả cõi siêu hình, các Đấng thiêng liêng cũng luôn luôn lo lắng, tích cực làm công quả vô vi để phụ lực vận chuyển bánh xe cứu độ của Đức Chí Tôn.

Việc tiền bối Bạch Ngọc ba lần đốt hủy thánh lệnh cho thấy tấm gương sáng của một vi chân tu rất có ý thức trách nhiệm về bổn phận của người thừa hành sứ mạng thông công trong bộ phận Hiệp Thiên Đài.

Hai vị tiền bối Thiện Bảo và Ngọc Kiều tu hành tạo nhiều công đức hồi hướng về cho chơn linh hai bà mẹ được siêu thăng với quả vị thiêng liêng. Sự kiện này minh chứng cho lời Ơn Trên dạy trong kinh là một người biết tu thì cứu được cửu huyền thất tổ. Điều này cũng soi rọi cho chúng ta lãnh hội lời Đức Phật Thích Ca xưa kia dạy rằng cách báo hiếu ông bà, cha mẹ tốt nhất chính là kẻ làm con hãy biết tu hành.