Upload
others
View
14
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Lupus ban đỏ hệ thống (systemic lupus erythematosus-SLE) là một
bệnh tự miễn, trong đó các tế bào và tổ chức bị tổn thương bởi sự lắng đọng
các tự kháng thể bệnh lý và phức hợp miễn dịch. Bệnh thường gặp ở nữ giới,
nhiều nhất ở độ tuổi cho con bú. Cho đến nay căn nguyên bệnh SLE vẫn còn
nhiều vấn đề chưa được biết rõ, nhưng nhiều nghiên cứu khác nhau đã gợi ý
rằng các yếu tố di truyền, miễn dịch, hoóc môn giới tính và môi trường là
những yếu tố quan trọng trong cơ chế bệnh sinh SLE[61],[71].
Tỷ lệ mắc bệnh SLE rất khác nhau tùy theo từng nước, từng chủng tộc
và thời điểm nghiên cứu. Ở nước Mỹ tỷ lệ mắc bệnh thay đổi từ 15-
50/100000 dân. Tỷ lệ mắc cao nhất ở nhóm người Mỹ gốc Phi[71].
Biểu hiện lâm sàng bệnh lupus ban đỏ hệ thống đa dạng do bệnh gây
tổn thương ở nhiều cơ quan nội tạng của cơ thể[40],[71]. Thận là nội tạng hay
bị tổn thương nhất trong bệnh SLE chiếm khoảng 20%-60% số bệnh nhân
lupus tùy từng nghiên cứu[30],[32],[41],[71]. Biểu hiện tổn thương thận có ý
nghĩa đặc biệt trong tiên lượng bệnh lupus ban đỏ hệ thống. Bệnh có thể có
những đợt kịch phát nặng xen kẽ những đợt bệnh ổn định dài hay
ngắn[18],[40]. Trong những đợt kịch phát, biểu hiện thận có thể là hội chứng
cầu thận cấp, hội chứng thận hư (HCTH) có hoặc không có kết hợp với suy
thận[19]. Ở giai đoạn bệnh ổn định biểu hiện tổn thương thận thường là
protein niệu dai dẳng về sau tiến triển thành suy thận và bệnh thận giai đoạn
cuối cho dù có hay không được điều trị đầy đủ. Tổn thương mô bệnh học thận
trong SLE chủ yếu là tại cầu thận, ống thận và tổ chức thận kẽ hoặc mạch
máu[18],[89].
Rối loạn về miễn dịch dịch thể đã được chứng minh là một trong những
2
rối loạn bệnh học đặc trưng của bệnh SLE. Một trong những rối loạn miễn
dịch quan trọng này là sự xuất hiện các tự kháng thể kháng lại các thành phần
kháng nguyên nhân của cơ thể trong đó có hai kháng thể quan trọng nhất là
kháng thể kháng chuỗi kép DNA (ds-DNA) và kháng thể kháng nhân (ANA).
Do vậy các tự kháng thể này đã được các nhà khoa học đưa vào tiêu chuẩn
chẩn đoán SLE[28],[70],[71]. Giảm bổ thể C3, C4 cũng là biểu hiện rối loạn
miễn dịch quan trọng có độ nhạy và độ đặc hiệu cao trong chẩn đoán và tiên
lượng bệnh SLE. Nồng độ C3, C4 có thể giảm trước khi xuất hiện các đợt cấp
và thường trở về bình thường trong giai đoạn bệnh ổn định do đó cùng với sự
thay đổi hiệu giá kháng thể kháng ds-DNA sự thay đổi nồng độ các thành
phần bổ thể C3, C4 đã được nhiều tác giả sử dụng không chỉ trong chẩn đoán
và tiên lượng bệnh mà còn cả trong việc đánh giá hiệu quả điều trị bệnh
SLE[42],[47],[74],[94].
Về điều trị trong những năm gần đây đã có khá nhiều nghiên cứu sử
dụng các thuốc gây độc tế bào khác nhau để điều trị lupus thận nhằm các mục
đích hạn chế tử vong, duy trì chức năng thận, giảm nguy cơ tiến triển đến
bệnh thận giai đoạn cuối. Mặc dù vậy corticoid vẫn có vai trò quan trọng
trong điều trị lupus thận đặc biệt là trong các đợt cấp[28],[71].
Methylprednisolon liều cao truyền tĩnh mạch, chúng tôi gọi tắt là MP-
TM (Methylprednisolon truyền tĩnh mạch) thuật ngữ tiếng Anh gọi là liệu
pháp “pulse therapy” được sử dụng đầu tiên để điều trị thải ghép thận[86]. Về
sau nhiều nhà y học trên thế giới đã sử dụng MP-TM để điều trị một số bệnh
có cơ chế tự miễn. Đối với tổn thương thận trong bệnh lupus MP-TM được
chỉ định điều trị các đợt cấp[71],[94]. Ở nước ngoài đã có nhiều công trình
nghiên cứu về việc sử dụng methyl-prednisolon liều cao đường tĩnh mạch
3
(MP-TM) trong điều trị tổn thương thận do lupus thu được những kết quả
nhất định[36],[41],[72],[82],[83],[86],[101].
Ở Việt nam đã có một vài nghiên cứu sử dụng MP-TM trong điều trị
lupus ban đỏ hệ thống[8],[10]. Các nghiên cứu này được thực hiện trên số ít
bệnh nhân hoặc chỉ thực hiện trên bệnh nhân lupus có tổn thương nội tạng
chung chưa có công trình nào nghiên cứu hiệu quả điều trị lupus ban đỏ hệ
thống có đợt cấp tổn thương thận bằng methylprednisolon đường tĩnh mạch
liều cao được công bố. Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm 2 mục tiêu
sau đây:
1. Đánh giá hiệu quả điều trị lupus ban đỏ hệ thống có đợt cấp tổn
thương thận bằng methylprednisolon đường tĩnh mạch liều cao.
2. Khảo sát sự thay đổi một số yếu tố miễn dịch dịch thể trước và sau
điều trị methylprednisolon đường tĩnh mạch liều cao ở bệnh nhân lupus ban
đỏ hệ thống có đợt cấp tổn thương thận.
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. SINH BỆNH HỌC CỦA SLE
Cho đến nay nguyên nhân gây bệnh SLE vẫn còn chưa được biết rõ.
Tuy vậy phần lớn các nghiên cứu gợi ý rằng các yếu tố như: di truyền, hoóc
môn giới tính, môi trường đóng vai trò quan trọng trong bệnh nguyên
SLE[33],[71].
1.1.1. Vai trò yếu tố gen
Có nhiều bằng chứng về mặt dịch tễ chứng minh yếu tố gen có vai trò
quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của lupus. Tỉ lệ mắc bệnh lupus khác nhau
có ý nghĩa giữa các chủng tộc do tính nhạy cảm của các bệnh nhân khác nhau.
Người vùng Địa trung hải có nguy cơ mắc bệnh lupus cao gấp 3-6 lần so với
người da trắng (Reveille và cộng sự 1998)[103]. Hơn nữa, nghiên cứu trẻ sinh
đôi cho thấy tỉ lệ trẻ cùng mắc bệnh lupus ở những đứa trẻ sinh đôi cùng
trứng là 34% trong khi đó ở trẻ sinh đôi khác trứng chỉ là 3% và tỉ lệ đồng
dương tính kháng thể kháng nhân ở trẻ sinh đôi cùng trứng cũng rất cao,
khoảng 90% (Wakeland và cộng sự 2001)[120]. Ở những người có chị hoặc
em ruột bị mắc bệnh lupus thì nguy cơ mắc bệnh cao gấp 15-20 lần so với
người bình thường trong cộng đồng. Bên cạnh đó, nhiều báo cáo dịch tễ
chứng minh vai trò của gen trong cơ chế sinh bệnh của lupus. Một tỉ lệ nhỏ số
bệnh nhân (5%) có liên quan đến thiếu hụt một vài gen (yếu tố đơn gen), còn
hầu hết bệnh nhân lupus là do sự tương tác đa gen gây nên. Người ta đã xác
định được những vị trí trên nhiễm sắc thể có liên quan đến bệnh sinh lupus
ban đỏ hệ thống như: 1q23-24, 1q41-42, 2q37, 4p15-16, 6p11-22, 16q12-13
và 17p13; [33],[54],[71].
5
Vai trò của HLA (human leukocyte antigen) trong cơ chế bệnh sinh của
lupus đã được nghiên cứu và chứng minh hơn 30 năm trước. Nhóm gen DR2
và DR3 có mối liên quan chặt chẽ với bệnh lupus ở chủng tộc người da trắng
và những người mang 2 nhóm gen trên có nguy cơ mắc bệnh lupus cao gấp 3
lần so với nhóm chứng (Graham và cộng sự)[68]. Các nhóm gen DR2 và DR3
cũng liên quan đến sự hiện diện của một số tự kháng thể như: kháng thể
kháng Smith (anti-Sm), kháng Ro (anti-Ro), kháng La (anti-La) và kháng thể
kháng chuỗi kép DNA (anti ds-DNA) (Schur 1996)[109]. Tuy nhiên, các gen
này lại không có mối liên quan bệnh sinh và mang tính hệ quả thật sự thuyết
phục ở bệnh nhân thuộc chủng tộc khác không phải người da trắng (Wakeland
và cộng sự 2001)[120]. Giải thích cho hậu quả này là do sự mất cân bằng
trong quá trình gắn kết giữa các vùng của nhiễm sắc thể. Ngoài ra, một số giả
thuyết đề cập mối liên quan của một vài gen MHC III như TNFα (tumor
necrosis factor alpha), gen TAP (transporters with antigen processing) và
HSP70 (heat shock protein) có thể gây ra tình trạng rối loạn gắn kết với các
gen khác của HLA hoặc có thể lấn át một vài gen[33],[71].
Hệ thống bổ thể có vai trò quan trọng trong sự lắng đọng các phức hợp
miễn dịch và quá trình chết theo chương trình các tế bào. Sự thiếu hụt mang
tính di truyền của các thành phần bổ thể trong con đường cổ điển (C1q, C2,
C4) có thể gây ra SLE (Carroll, 2004; Slingsby và cộng sự 1996)[29],[51],
[112]. Các kháng thể tự miễn lưu hành trong bệnh SLE đã được xác định bao
gồm ANA, kháng thể kháng ds-DNA, kháng thể kháng RNP, kháng thể kháng
phospholipid, kháng thể kháng Clq... (Sherer và cộng sự 2004)[110]. FcγR
(Fc gamma receptor) gắn với mảnh Fc của IgG có thể hoạt hóa (FcgRI, IIa,
IIIa, IIIb, và IV) hoặc ức chế (FcgRIIb) (Nimmerjahn, 2006)[98] cũng liên
quan đến yếu tố di truyền[33],[71].
6
1.1.2. Vai trò của yếu tố môi trường
Mặc dù yếu tố gen và hoóc môn là những yếu tố cơ địa làm tăng nhạy
cảm và gia tăng nguy cơ gây ra SLE, nhưng những biểu hiện ban đầu của
bệnh có lẽ là hậu quả kích thích của các yếu tố môi trường và các yếu tố
ngoại sinh.
Bảng 1.1: Các yếu tố môi trường có liên quan đến bệnh sinh của SLE
Các yếu tố hóa lý
Các amin thơm
Thuốc: hydralazin, procainamid, chlorpromazin.
Isoniazid, penicillamine
Thuốc tránh thai
Thuốc lá
Thuốc nhuộm tóc
Tia cực tím
Chế độ ăn chất béo no (mỡ động vật)
L-canavanin (mầm các củ)
Các yếu tố nhiễm khuẩn
DNA vi khuẩn
Nội độc tố
Virus
Người ta đã tiến hành thực nghiệm gây tổn thương lupus trên da bằng
cách chiếu liên tục liều cao tia cực tím bước sóng B (UVB-Ultraviolet light
B) lên cùng một vị trí. Tia UV, đặc biệt là UVB liều cao làm gia tăng bệnh
SLE thông qua một số cơ chế: làm thay đổi DNA và các protein nội bào biến
7
chúng thành các kháng nguyên hoặc thay đổi các kháng nguyên nhân khác
thông qua quá trình chết theo chương trình (Apoptosis), giải phóng interferon-
anpha (INFα) từ các tế bào tua gai (Dendritic cells)[33],[54].
Một số thuốc như: hydralazin, procainamid... có thể gây ra bệnh lupus do
thuốc. Hút thuốc lá thành phần có chứa procainamid, một số loại thức ăn có
mầm chứa L-cavananin có thể gây ra bệnh cảnh gống lupus (Lupus-like)[49].
Một số nghiên cứu tìm các yếu tố nguy cơ gây bệnh SLE cho thấy tỷ lệ bệnh
nhân SLE có nhuộm tóc trước khi chẩn đoán bệnh khá cao[113].
Vai trò gây bệnh của virus vẫn còn chưa rõ ràng nhưng những đợt cấp
của bệnh thường có liên quan với tình trạng nhiễm virus trước đó và ở những
bệnh nhân SLE có tỉ lệ mắc Epstein- Barr virus cao hơn hẳn nhóm chứng
không phải lupus [33],[54],[57].
1.1.3. Yếu tố hoóc môn.
SLE xuất hiện chủ yếu ở nữ với tỷ lệ nữ:nam = 9:1 và tình trạng này liên
quan đến sự khác biệt về hoóc môn giữa nam và nữ. Hơn nữa tỷ lệ mắc bệnh
thường gặp cao nhất ở độ tuổi cho con bú, bệnh hiếm khi khởi phát trước tuổi
dậy thì và sau tuổi mãn kinh. Những bệnh nhân có hội chứng Klinefelter’s,
đặc trưng bởi tình trạng cường nội tiết tố nữ và giảm nội tiết tố nam có nguy
cơ cao mắc SLE (Kotzin, 1996)[84]. Các nghiên cứu dịch tễ học cũng cho
thấy mối liên quan giữa việc sử dụng thuốc tránh thai và liệu pháp hoóc môn
thay thế với việc gia tăng bệnh lupus[71]. Trên thực nghiệm gây bệnh lupus
cho chuột người ta thấy rằng estrogen làm tăng sản xuất các tự kháng thể
(Carlsten và cộng sự 1990)[50]. Một số nghiên cứu tương tự cũng chỉ ra hiệu
quả bảo vệ của testosteron trong bệnh lupus (Gordon và cộng sự 2008)[67].
Theo Kanda và Tamaki (1999)[80] estrogen làm sinh tế bào B, tăng sản xuất
8
kháng thể trên invitro và ở bệnh nhân lupus, tăng sản xuất các tự kháng
thể[33].
Tăng prolactin máu cũng được phát hiện khá phổ biến ở các bệnh nhân
SLE. Nồng độ prolactin cao liên tục trong máu liên quan đến hoạt động bệnh
ở bệnh nhân SLE (Jara và cộng sự 1992)[79]. Trong một nghiên cứu khác ở
các bệnh nhân không phải SLE nhưng có tình trạng tăng prolactin trong máu
dẫn đến ANA dương tính và làm thay đổi tính đáp ứng IL-2, tất cả những rối
loạn này trở về bình thường khi tình trạng prolactin trong máu bình thường
(Vidaller và cộng sự 1986)[33],[119].
1.2. TỔN THƯƠNG THẬN TRONG BỆNH LUPUS.
1.2.1. Dịch tễ học tổn thương thận lupus và tiên lượng điều trị
Tỷ lệ viêm thận lupus phụ thuộc vào chủng tộc và tiêu chuẩn chẩn đoán
lupus. Tỷ lệ viêm thận lupus cộng dồn cao nhất ở chủng tộc châu Á khoảng
55% - 70%, châu Phi (51%) và người vùng Địa trung hải (43%), tỷ lệ thấp
nhất là người Caucasians (14%). Mức độ nặng của viêm thận lupus cũng thay
đổi theo chủng tộc và mang tính cá thể chủ yếu ở người da đen, người vùng
Địa trung hải và người dân châu Á. Hơn nữa, tình trạng viêm thận lupus nặng
hay gặp ở lứa tuổi trẻ và ít gặp hơn ở người lớn tuổi[78],[100].
Nhìn chung, tổn thương thận class III, IV và class V hỗn hợp class III
hoặc class IV thường là loại tiến triển nặng và tiên lượng xấu trong viêm thận
lupus và là nguyên nhân chủ yếu gây hội chứng thận hư. Tổn thương viêm
cầu thận tăng sinh lan tỏa (class IV) khoảng 70% có thể tiến triển thành bệnh
thận giai đoạn cuối (ESRD) sau 5 năm khởi phát bệnh. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây, tỷ lệ sống sót của bệnh nhân viêm thận lupus class IV đã
có cải thiện đáng kể. Tỷ lệ sống ở nhóm bệnh nhân viêm cầu thận tăng sinh
9
lan tỏa chỉ khoảng 30% trong những năm đầu thập kỷ 70, tăng đến 50% trong
những năm giữa thập kỷ 70 và trong 20 năm gần đây tỷ lệ này đã tăng lên đến
80%. Có được sự cải thiện trên là nhờ sự tiến bộ trong hiểu biết và áp dụng có
hiệu quả thuốc ức chế miễn dịch trong điều trị bệnh nhân lupus nói chung và
bệnh nhân viêm thận lupus nói riêng. Ngoài ra, nhờ việc áp dụng rộng rãi kỹ
thuật lọc máu chu kỳ và những tiến bộ trong ghép thận cũng góp phần quan
trọng làm gia tăng có ý nghĩa tỷ lệ sống cho bệnh nhân viêm thận lupus class
IV[100].
Trong vòng 30 năm qua, đã có nhiều nghiên cứu đánh giá yếu tố nguy cơ
có vai trò tiên lượng trong bệnh nhân lupus đã được công bố. Mặc dù có đến
hơn 20 yếu tố nguy cơ có liên quan với tình trạng tiến triển của suy thận đã
được đánh giá nhưng chỉ có 14 yếu tố tiên lượng độc lập được xác định bằng
việc sử dụng thuật toán phân tích đa biến và có hiệu chỉnh. Những yếu tố
nguy cơ này có thể chia làm 2 nhóm:[100]
- Nhóm yếu tố tiên lượng không thay đổi được đó là: giới, chủng tộc
người da đen, người Địa trung hải, tuổi mắc bệnh trẻ thường dưới 24, tăng
sinh hình liềm trên 50% tổng số cầu thận trên sinh thiết và chỉ số mạn tính cao
(chronicity index – CID). Chỉ số mạn tính cao (CID) có vai trò như một yếu
tố tiên lượng và nó chỉ ra rằng việc sàng lọc cũng như điều trị sớm là cần thiết
để giảm nguy cơ tiến triển bệnh thận giai đoạn cuối[100].
- Nhóm yếu tố tiên lượng có thể thay đổi được: việc điều trị corticoid đơn
độc cho bệnh nhân tổn thương cầu thận IV, tình trạng creatinine tăng cao ngay từ
đầu và không trở về bình thường sau khi điều trị, hội chứng thận hư không cải
thiện sau điều trị, tái phát bệnh, tăng huyết áp, bệnh nhân không tuân thủ điều trị,
thiếu máu và có sự hiện diện của kháng thể kháng phospholipid [100].
10
Tình trạng không đáp ứng khi điều trị có lẽ là yếu tố tiên lượng quan
trọng nhất cho quá trình tiến triển đến suy thận. Các yếu tố tiên lượng cho đáp
ứng điều trị bao gồm tình trạng protein niệu 24 giờ thấp, creatinin máu bình
thường, chủng tộc người da trắng (Caucasian), bệnh khởi phát muộn ở người
già, bệnh nhân được điều trị sớm trong vòng 3 tháng sau chẩn đoán viêm thận
lupus. Tình trạng tái phát cũng là yếu tố tiên lượng quan trọng khác cho quá
trình tiến triển suy thận ở bệnh nhân viêm thận lupus. Sau thời gian điều trị
pha cấp hoặc sau khi bệnh nhân có đáp ứng với liệu pháp tấn công, các yếu tố
tiên lượng cho tái phát bệnh bao gồm: sự đáp ứng không hoàn toàn sau liệu
pháp điều trị, các chủng tộc khác không phải người da trắng, tình trạng bệnh
hoạt động biểu hiện trên tổn thương mô bệnh học khi sinh thiết thận lại, tăng
huyết áp, tình trạng bổ thể giảm kéo dài và nồng độ kháng thể kháng ds- DNA
cao trong máu[100].
1.2.2. Tổn thương mô bệnh học viêm thận lupus và mối liên quan với các
biểu hiện lâm sàng.
Biểu hiện tổn thương thận ở bệnh nhân SLE thường xuất hiện sớm sau
khi được chuẩn đoán trong vòng 6-36 tháng. Mặc dù có đến 30% bệnh nhân
tiến triển đến bệnh thận giai đoạn cuối nhưng những bằng chứng về tình trạng
suy giảm chức năng thận trong những năm đầu tiên được chẩn đoán thường
không phổ biến.
1.2.2.1. Viêm thận lupus câm (Silent lupus nephritis).
Một số nghiên cứu, trong đó sinh thiết thận đã được thực hiện ở những
bệnh nhân lupus mà không có bất kỳ bằng chứng lâm sàng nào của tổn
thương thận đã phát hiện thấy tổn thương viêm cầu thận gian mạch, viêm cầu
thận ổ, lan tỏa ở nhiều bệnh nhân nghiên cứu. Kết quả các xét nghiệm sinh
11
học ở các bệnh nhân này cũng cho thấy những thay đổi mô bệnh học thận còn
đi kèm với sự tăng rõ rệt hiệu giá kháng thể kháng ds-DNA và giảm nồng độ
các thành phần bổ thể C3, C4 trong huyết thanh. Những trường hợp này được
định nghĩa là viêm thận lupus câm[118]. Trong trường hợp này những bệnh
nhân không có biểu hiện lâm sàng kéo dài và là một yếu tố tiên lượng tốt.
Zabaleta-Lanz và cộng sự tiến hành sinh thiết thận cho 42 bệnh nhân lupus
không có biểu hiện viêm thận trên lâm sàng kết quả 41/42 trường hợp có tổn
thương mô bệnh học thận trong đó 26 trường hợp có tổn thương claas II, 15
trường hợp có tổn thương từ class III đến class V. Tuy nhiên sự thay đổi các
chỉ số sinh học trước khi có biểu hiện lâm sàng và liệu có nên sử dụng thuốc
ức chế miễn dịch cho những bệnh nhân này vẫn chưa được khẳng định[118].
1.2.2.2 Viêm cầu thận lupus
Hầu hết bệnh nhân viêm thận lupus biểu hiện bệnh cầu thận liên quan
đến sự hình thành và lắng đọng phức hợp miễn dịch. Trong hai thập kỷ vừa
qua, nhờ có nỗ lực của nhiều Hiệp hội khoa học và đặc biệt là của Tổ chức y
tế thế giới 2 hệ thống phân loại tổn thương cầu thận lupus đã được đề xuất đó
là: hệ thống phân loại tổn thương cầu thận của WHO năm 1995 và hệ thống
phân loại tổn thương cầu thận của Hội quốc tế thận học (International Society
of Nephrology -ISN) và Hội bệnh học thận (Renal Pathology Society - RPS)
năm 2004 trên cơ sở kế thừa bảng phân loại của WHO năm 1995[106].
Theo bảng phân loại của ISN/RPS năm 2004 tổn thương mô bệnh học thận
được phân thành 6 loại (Class)[100].
Viêm cầu thận lupus màng tổn thương tối thiểu (Minimal mesangial
lupus nephritis - Class I): lắng đọng phức hợp miễn dịch ở vùng gian mạch
thấy được trên kính hiển vi huỳnh quang đơn thuần hoặc cả trên kính hiển vi
điện tử. Không thấy tổn thương trên kính hiển vi quang học. Viêm thận lupus
12
class I là loại tổn thương sớm nhất và nhẹ nhất trong các dạng viêm cầu thận.
Viêm cầu thận tăng sinh gian mạch (Mesangial proliferative lupus
nephritis - Class II): Trên kính hiển vi quang học tổn thương quan sát thấy là
tình trạng tăng sinh tế bào gian mạch (ở mọi mức độ) và sự phát triển của mạng
lưới gian mạch. Có tình trạng lắng đọng dưới nội mạch và hình ảnh sẹo cầu thận
thành dải hoặc ổ nguyên nhân là do tình trạng tăng sinh nội mao mạch trước đó
hoặc do tổn thương hình liềm và không tương xứng với chẩn đoán.
Biểu hiện tổn thương Class II trên lâm sàng là tình trạng đái máu hoặc
protein niệu vi thể, tăng huyết áp hiếm gặp. Hội chứng thận hư và suy thận thì
hầu như không bao giờ gặp. Bệnh nhân tiên lượng rất tốt và không cần điều
trị đặc hiệu trừ khi bệnh thận tiến triển nặng hơn trên lâm sàng.
Viêm cầu thận tăng sinh ổ (Focal lupus nephritis - Class III): Tổn
thương < 50% cầu thận trên kính hiển vi quang học với tình trạng tổn thương
thành đoạn hoạt động hoặc không hoạt động hoặc tổn thương viêm cầu thận
nội mao mạch hoặc ngoài mao mạch. Tổn thương thường là hình ảnh lắng
đọng phức hợp miễn dịch dưới nội mạc. Tổn thương gian mạch cũng được
thấy trên tổn thương mô bệnh học. Các dưới nhóm của viêm cầu thận tăng
sinh ổ gồm:
- III (A), tổn thương ở dạng hoạt động. Dưới nhóm này cũng được gọi là
viêm thận lupus tăng sinh ổ.
- III (A/C), tổn thương cả ở dạng hoạt động và mạn tính. Dưới nhóm này
được gọi là viêm cầu thận lupus xơ hoá và tăng sinh ổ.
- III (C), tổn thương dạng mạn tính. Dưới nhóm này được gọi là viêm thận
lupus xơ hoá ổ.
Hơn nữa tổn thương mô bệnh học còn bao gồm tỉ lệ cầu thận bị hoại tử
13
xơ và tổn thương hình liềm; có hoặc không có tổn thương ống thận kẽ hay bất
thường mạch máu. Trên kính hiển vi điện tử thấy hình ảnh lắng đọng của
phức hợp miễn dịch ở lớp dưới nội mô thành mao mạch cầu thận cũng như
phần gian mạch. Mặc dù trên kính hiển vi quang học chỉ <50% cầu thận bị tổn
thương nhưng trên kính hiển vi huỳnh quang thấy hầu hết các cầu thận lắng
đọng C3 và IgG một cách đồng dạng. Tiên lượng của class III là rất thay đổi
do không xác định được chính xác tỉ lệ cầu thận bị tổn thương.
Biểu hiện lâm sàng của tổn thương class III xuất hiện ở 10-20% các
trường hợp. Đái máu và protein niệu được thấy trong hầu hết các bệnh nhân,
một số bệnh nhân có hội chứng thận hư, tăng huyết áp và một số có nồng độ
creatinin huyết thanh tăng cao. Rối loạn chức năng thận tiến triển trong viêm
thận lupus tăng sinh ổ hiếm khi xuất hiện (ít nhất trong năm năm đầu mắc
bệnh) nếu <25% số cầu thận bị tổn thương trên kích hiển vi quang học và hầu
hết cầu thận chỉ tổn thương tăng sinh thành dải. Nếu tổn thương lan rộng hơn
hoặc nặng hơn (40-50% cầu thận bị tổn thương và có vùng hoại tử hoặc có
tăng sinh hình liềm) thì thường xuất hiện hội chứng thận hư và kèm theo có
tăng huyết áp. Điều này liên quan với tiên lượng xa và xấu giống như trong
tổn thương cầu thận tăng sinh lan toả class IV.
Viêm cầu thận lupus tăng sinh lan toả (Diffuse lupus nephritis –
Class IV): Tổn thương trên 50% cầu thận biểu hiện tình trạng viêm cầu thận
trong mao mạch hoặc ngoài mao mạch; tổn thương gian mạch cũng có thể
xuất hiện. Viêm cầu thận lupus lan tỏa liên quan với tình trạng lắng đọng
phức hợp miễn dịch, ít nhất là trong pha hoạt động. Nếu tổn thương lắng đọng
phức hợp miễn dịch ở ống thận vùng quai mà không hoặc có rất ít cầu thận
tổn thương tăng sinh thì vẫn được coi là class IV. Cũng giống như tổn thương
class III các dưới nhóm của tổn thương class IV gồm:
14
- IV (A) với các tổn thương hoạt động. Điều này cũng được gọi là viêm
thận lupus tăng sinh thành dải lan toả.
- IV(A/C) liên quan đến tổn thương hoạt động và mạn tính. Dạng này được
gọi là viêm thận lupus xơ hoá và tăng sinh thành dải lan toả.
- IV (C) gồm các tổn thương mãn tính không hoạt động với những vết sẹo.
Dạng này được gọi là viêm thận lupus xơ hoá dải lan toả.
Khi bệnh hoạt động, các tổn thương tăng sinh, hoại tử và tổn thương hình
liềm có thể đều thấy trên sinh thiết thận, tổn thương trên 50% cầu thận trên
kính hiển vi quang học. Lắng đọng phức hợp miễn dịch và bổ thể dày đặc trên
thành của mao mạch cầu thận giống như tổn thương viêm cầu thận tăng sinh
màng. Những tổn thương này đặc trưng bởi sự xâm nhập của dòng tế bào tiền
viêm (mono, tế bào T gây độc / ức chế), đôi khi gây ra hình ảnh liềm tế bào.
Class IV là tổn thương phổ biến nhất và nghiêm trọng nhất của viêm thận
lupus. Trong một nghiên cứu 135 bệnh nhân tổn thương thận loại IV trên sinh
thiết, 65% tăng sinh toàn bộ và 35% tăng sinh thành dải lan toả đã được quan
sát thấy.
Đái máu và protein niệu gần như xuất hiện ở tất cả các trường hợp, hội
chứng thận hư, tăng huyết áp và suy thận là rất thường gặp. Bệnh nhân có
tăng hiệu giá kháng thể kháng ds-DNA và giảm nồng độ các thành phần bổ
thể C3, C4 trong máu rất rõ ràng đặc biệt là trong đợt cấp của bệnh.
Khi được điều trị bằng thuốc ức chế miễn dịch, quá trình sẹo hoá có thể
xuất hiện trong vài năm sau khi quá trình viêm đã hồi phục. Quá trình suy
giảm chức năng thận muộn thường liên quan với biểu hiện trên xét nghiệm
nước tiểu, trên sinh thiết thận có dấu hiệu sẹo hoá có hoặc không có tình trạng
viêm cấp tính.
15
Viêm thận lupus màng (Membranous lupus nephritis - Class V):
Loại IV liên quan đến lắng đọng phức hợp miễn dịch dưới nội mô (có thể
thành dải hoặc toàn bộ). Màng đáy cầu thận dày lan toả thấy được trên kính
hiển vi quang học. Tổn thương gian mạch cũng có thể xuất hiện. Tổn thương
loại V có thể kết hợp với loại III hoặc loại IV.
Khoảng 10-15% bệnh nhân tổn thương viêm cầu thận màng trong viêm
thận lupus. Biểu hiện lâm sàng của tổn thương thận loại này là hội chứng thận
hư giống hình thái tổn thương màng cầu thận vô căn.
Viêm cầu thận màng trong lupus có thể không có các dấu hiệu khác của
lupus cả lâm sàng và rối loạn trong huyết thanh có thể bổ thể không giảm và
kháng thể kháng ds- DNA âm tính. Tuy nhiên nếu có tổn thương trên sinh
thiết thận và kèm theo các rối loạn miễn dịch thì thường là lupus ban đỏ hệ
thống hơn là tổn thương thận màng vô căn. Bệnh nhân lupus tổn thương cầu
thận màng chức năng thận có thể bình thường hoặc gần như bình thường kéo
dài trong khoảng 5 năm hoặc hơn mà không cần điều trị liệu pháp miễn dịch.
Viêm cầu thận lupus xơ hóa lan toả (Advanced sclerosing lupus
nephritis - class VI): Class VI đặc trưng bởi tình trạng xơ hoá cầu thận >90%
cầu thận kết quả của quá trình lành các tổn thương viêm trước đó cũng như là
quá trình tiến triển của các lớp tổn thương thận mạn tính class III, IV hoặc V.
Nghiên cứu hồi cứu 169 bệnh nhân tổn thương thận class IV phát hiện thấy có
4% tiến triển thành class VI. Bệnh nhân lupus viêm cầu thận xơ hoá thường
biểu hiện quá trình suy thận diễn ra chậm và liên quan với các rối loạn trong
nước tiểu. Xác định tổn thương dựa trên sinh thiết là rất quan trọng để quyết
định liệu pháp sử dụng thuốc ức chế miễn dịch trong trường hợp tổn thương
không hoạt động.
16
1.2.2.3. Tổn thương khác
Trong viêm thận lupus, ngoài tổn thương cầu thận là chủ yếu còn có 3
dạng tổn thương thận trong lupus khác là viêm thận kẽ, viêm mạch và viêm
thận lupus do thuốc.
- Bệnh thận kẽ (thâm nhiễm khoảng kẽ và tổn thương ống thận) có hoặc
không kèm theo lắng đọng phức hợp miễn dịch dọc ống thận. Nghi ngờ bệnh
thận kẽ khi mà bệnh nhân lupus có sự gia tăng nhanh nồng độ creatinin trong
máu mà biểu hiện trong nước tiểu tối thiểu chỉ gặp một vài hồng cầu, bạch
cầu hoặc bình thường.
- Bệnh mạch máu trong tổn thương thận lupus là không hay gặp và
thường liên quan đến tình trạng lắng đọng phức hợp miễn dịch và viêm mạch.
Những trường hợp này thường liên quan với hội chứng kháng phospholipid.
Biểu hiện lâm sàng đặc trưng là hội chứng thận hư.
- Lupus do thuốc: Một số loại thuốc có thể gây ra hội chứng giống như
lupus (lupus - like syndrome) như procainamid, hydralazin...Trong hội chứng
này đôi khi cũng có thể gặp viêm cầu thận tăng sinh và hội chứng thận hư
nhưng rất hiếm[19].
Hình 1.1. Viêm cầu thận lupus tăng sinh gian mạch
17
Hình 1.2. Viêm cầu thận lupus tăng sinh
Hình 1.3. Viêm cầu thận lupus màng
1.2.2.4. Viêm cầu thận lupus có hội chứng thận hư
Biểu hiện lâm sàng và xét nghiệm của viêm thận lupus bao gồm: protein
niệu, hội chứng thận hư, đái máu vi thể, đại thể, suy giảm chức năng thận, suy
thận tiến triển nhanh, suy thận cấp, tăng huyết áp, xét nghiệm có thể thấy trụ
hạt, trụ hồng cầu tăng kali máu.
Hội chứng thận hư (HCTH) là biểu hiện lâm sàng nặng của tổn thương
thận lupus gặp ở tất cả các loại mô bệnh học tổn thương thận từ class II đến
class IV chiếm khoảng 45-65% số bệnh nhân viêm thận lupus và chủ yếu là
18
trong tổn thương thận tăng sinh (class III và IV) và 75% số bệnh nhân tổn
thương cầu thận màng tiến triển đến hội chứng thận hư. Bệnh nhân viêm cầu
thận lupus 100% có protein niệu sau đó dần tiến triển đến hội chứng thận hư
nếu không điều trị. Nghiên cứu của Đỗ Thị Liệu[18] đối chiếu lâm sàng và
mô bệnh học thận trên 80 bệnh nhân viêm cầu thận lupus cho kết quả HCTH
chiếm 53,8%, tổn thương mô bệnh học chủ yếu class IV chiếm tỷ lệ 67,4%.
Một nghiên cứu khác của Trần Văn Vũ, Nguyễn Thị Lệ, Đặng Vạn Phước[27]
tại Bệnh viện Chợ Rẫy cho thấy hội chứng thận hư gặp 15/34 bệnh nhân được
sinh thiết thận, tổn thương mô bệnh học là class III và class IV. HCTH lupus
thường tiến triển sau 3-4 năm khởi phát bệnh với tình trạng viêm thận.
Biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng của hội chứng thận hư lupus cũng
giống như hội chứng thân hư nguyên phát với các đặc trưng[5],[96]:
Phù: Trọng lượng cơ thể tăng, phù toàn thân, phù mềm, ấn lõm. Có thể
có các triệu chứng dịch màng phổi, màng bụng, màng tim, màng tinh hoàn (ở
nam giới).
Protein niệu: > 3,5 g/24 giờ hoặc > 50 mg/m2 da/giờ. Trong nước tiểu có
mỡ chiết quang, trụ trong, hồng cầu.
Giảm và biến đổi thành phần của protid huyết tương:
+ Protid máu < 60 g/l.
+ Albumin máu < 35 g/l.
+ A/G < 1.
- α2 tăng, β tăng. Trong lupus hoặc các bệnh hệ thống khác gây hội
chứng thận hư thường có tăng gama (γ).
- Điện di protein miễn dịch: IgG giảm, IgM tăng, IgA giảm.
19
- Xét nghiệm C3, C4 giảm.
Tăng cholesterol, triglycerid huyết tương:
Do giảm áp lực keo do mất albumin qua màng lọc cầu thận gây tình
trạng bù đắp bằng việc tăng nồng độ cholesterol và triglycerid.
- Các biến chứng của hội chứng thận hư[5]:
+ Nhiễm khuẩn: Do sức đề kháng giảm vì IgM giảm và C3PA làm giảm
khả năng thực bào. Có thể gặp:
• Nhiễm khuẩn huyết.
• Viêm mô, viêm tế bào.
• Viêm màng bụng tiên phát do phế cầu và các vi khuẩn khác.
• Viêm phế quản, viêm phổi.
• Zona.
+ Rối loạn nước, điện giải:
Đặc biệt Na+ huyết tương giảm do pha loãng; giảm Ca++ máu nên có thể
có triệu chứng tetani; kali máu giảm gây liệt ruột.
+ Biến chứng tiêu hóa:
Đau bụng do viêm loét dạ dày tá tràng. Cần chẩn đoán phân biệt với
viêm màng bụng tiên phát, tắc động mạch mạc treo.
+ Thiểu dưỡng do đái nhiều protein.
+ Tắc mạch máu:
Do tăng đông, tăng ngưng tập tiểu cầu, antithrombin giảm, plasminogen
giảm. Có thể gặp tổn thương ở động mạch phổi, mạch não, mạch thận, tứ
chi....
Trong hội chứng thận hư do lupus bên cạnh tình trạng tăng đông như hội
chứng thận hư nguyên phát còn có nguyên nhân thứ hai gây tăng nguy cơ tắc
20
mạch và thường gặp ở bệnh nhân lupus nói chung và viêm thận lupus nói
riêng đó là hội chứng kháng phospholipide (APS). Trên dưới 25% bệnh nhân
viêm thận lupus có liên quan đến hội chứng APS. Trên sinh thiết cầu thận cho
thấy hình ảnh tắc vi mạch cầu thận và là nguyên nhân chủ yếu gây biểu hiện
suy thận cấp ở bệnh nhân lupus thường có tiên lượng xấu.
1.2.3 Các biểu hiện ngoài thận
Lupus ban đỏ hệ thống là bệnh tự miễn hệ thống, cùng một lúc bệnh có
thể ảnh hưởng đến nhiều cơ quan nội tạng của cơ thể. Do đó ngoài tổn thương
thận, bệnh nhân còn có thể có các biểu hiện tổn thương các cơ quan khác như:
da, cơ xương khớp, hô hấp, tim mạch, tiêu hoá, thần kinh tâm thần, huyết
học…Mức độ của các biểu hiện ngoài thận ở bệnh SLE tùy thuộc từng người
bệnh và giai đoạn bệnh hoạt động hay ổn định. Các tổn thương ngoài thận
cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người bệnh một mặt do chính
các tổn thương đó gây nên, mặt khác do các tác dụng không mong muốn của
các thuốc điều trị các tổn thương đó. Tổn thương thận và các biểu hiện tổn
thương ngoài thận của bệnh lupus ban đỏ hệ thống có thể xuất hiện cùng một
thời điểm trên một cơ thể người bệnh do đó trong điều trị ngoài việc sử dụng
các thuốc điều trị tổn thương thận cần phải tính đến các thuốc và phương
pháp điều trị các biểu hiện tổn thương ngoài thận[49].
1.2.4. Điều trị tổn thương thận trong bệnh lupus ban đỏ hệ thống.
Trong hơn 40 năm qua, nhiều thử nghiệm lâm sàng được tiến hành với
nhiều thuốc và liệu pháp được áp dụng để điều trị cho tổn thương thận lupus
bởi vì tổn thương thận là yếu tố tiên lượng rất xấu và hay gặp trong bệnh
lupus. Điều trị viêm cầu thận lupus gồm 2 giai đoạn là điều trị tấn công và
điều trị duy trì tương ứng với pha cấp tính và mạn tính[100].
21
Mục tiêu của các liệu pháp trong điều trị lupus thận là làm giảm các biểu
hiện viêm của lupus, kiểm soát các triệu chứng thận, ngoài thận, và các biểu
hiện huyết thanh của lupus[43],[93]. Trong số các bệnh nhân bị viêm cầu thận
(như trái ngược với lupus màng), điều trị tình trạng viêm sự đáp ứng được đặc
trưng bởi giảm tế bào hồng cầu trong nước tiểu, bạch cầu đa nhân, và tế bào
trụ niệu, và giảm hoặc ít nhất là ổn định của creatinin huyết thanh. Ở một số
bệnh nhân nồng độ creatinin không trở về bình thường do tình trạng viêm xơ
hoá cầu thận hoặc tổn thương không hồi phục thì việc đánh giá đáp ứng điều
trị của đợt lui bệnh bằng sự giảm các dấu hiệu viêm[49].
1.2.4.1. Vai trò corticosteroid trong điều trị tấn công
Corticosteroid là thuốc điều trị quan trọng nhất trong các thuốc điều trị
SLE. Corticosteroid là điều trị cơ bản cho tất cả các thể lâm sàng của lupus.
Trong tổn thương thận lupus cũng như các biểu hiện tổn thương nội tạng nặng
đe doạ sự sống của người bệnh được chỉ định sử dụng glucocorticoid toàn
thân đường uống với liều 0,5-2mg/kg cân nặng hoặc truyền tĩnh mạch 500-
1000mg methylprednisolon trong 3 ngày liên tiếp sau đó tiếp tục điều trị
đường uống với liều 0,5-1mg prednisolon/kg cân nặng / ngày hoặc tương
đương. Đã có bằng chứng từ các nghiên cứu hồi cứu chứng minh việc sử dụng
liệu pháp corticoid liều cao kéo dài (40-60mg prednisolon hoặc tương đương
trong 4-6 tháng) cho bệnh nhân viêm cầu thận tăng sinh lan tỏa đời sống bệnh
nhân tốt hơn rõ rệt so với liều thấp. Thông thường thời gian sử dụng liều cao
được khuyến cáo ngắn hơn nhiều (4 - 6 tuần). Sau đó liều lượng thuốc phải
được giảm dần khi tình trạng lâm sàng cho phép để hạn chế các tác dụng
không mong muốn của thuốc corticoid. Liều duy trì thường được sử dụng 5-
10mg prednisolon hoặc tương đương[49],[122].
Cơ chế tác dụng của corticoid lên hệ miễn dịch[101]:
22
- Làm giảm các tế bào lympho, bạch cầu đa nhân trung tính và tế bào
đơn nhân.
- Làm giảm khả năng đáp ứng của tế bào T với IL-1.
- Giảm quá trình tăng sinh tế bào lympho B.
- Làm giảm sản xuất tổng lượng IgG trong máu.
- Làm giảm quá trình hoá ứng động của tế bào đơn nhân.
- Giảm sản xuất TNF- α, INF- α, IL-2, IL-37.
Trong kiểm soát đợt cấp tính, corticoid có vai trò rất quan trọng. Ngày
nay một điều trị chuẩn ban đầu đối với các trường hợp lupus hoạt động đe dọa
sự sống người bệnh trong đó có tổn thương thận lupus là truyền tĩnh mạch
liều cao methyprenisolon (500mg -1000mg)[49],[101].
1.2.4.2. Vấn đề điều trị methyl-prednisolon liều cao truyền tĩnh mạch
(pulse therapy)
- Một số tính chất lý học, hóa học và dược lý của methyl-prednisolon
+ Methylprednisolon là một glucocorticoid tổng hợp có dạng kết tinh
màu trắng, không mùi, vị đắng. Methylprednisolon hòa tan hạn chế trong cồn,
rượu, trong dioxan, hòa tan nhẹ trong acetone và chroform và tan ít trong
ether, đặc biệt không hòa tan trong nước.
+ Tên hóa học của Methylprednisolon là: Pregna-1,4-diene-3,20-dione,
11, 17, 21- trihydroxy - 6- methyl-, (6α, 11β)
+ Trọng lượng phân tử là: 374,48.
+ Công thức phân tử là: C22H30O5..
+ Công thức hóa học như sau:
23
+ Tác dụng chống viêm của Methylprednisolon mạnh hơn hydrocortison
5 lần, ít gây rối loạn điện giải, ít gây giữ nước và natri.
+ Thời gian bán hủy thuốc là 3 giờ.
+ Thời gian tác dụng sinh học khoảng 12-36 giờ.
+ Methylprednisolon được chuyển hóa qua gan .
+ Methylprednisolon có nhiều biệt dược khác nhau:
• Solumedrol (Methylprednisolon sodium succinate)
• Depo-medrol (Methylprednisolon acetate)
• Urbason Depot (Methylprednisolon cyclopentanpropionate)
+ Methylprednisolon có cả dạng viên và dạng tiêm, dạng tiêm có các
hàm lượng 40mg, 120mg, 500mg, 1000mg.
+ Pulse methylprednisolon viết tắt MP-TM là sử dụng liều cao
methylprednisolon (250-1000mg) đường tĩnh mạch trong 3 ngày liên tiếp.
Liệu pháp này được sử dụng rộng rãi để điều trị các biểu hiện cấp nặng ở
bệnh nhân SLE cũng như các bệnh tự miễn khác. Tác dụng của MP-TM là
làm giảm nhanh triệu chứng, kiểm soát hoạt động bệnh, cải thiện cuộc sống
24
cho người bệnh. Do có tác dụng chống viêm mạnh, khởi phát tác dụng nhanh
và kéo dài nhiều giờ MP-TM được chỉ định trong các trường hợp cần kiểm
soát các triệu chứng cấp tính trước khi chờ tác dụng của các thuốc gây độc tế
bào[56],[82], [101],[107].
- Tác dụng chống viêm và ức chế miễn dịch của methyl-prednisolon.
+ Tác dụng chống viêm quan trọng nhất của glucocorticoid là ức chế quá
trình di chuyển và tích tụ bạch cầu tại nơi xẩy ra phản ứng viêm. Ngoài ra
glucocorticoid còn gây ra sự giảm lympho bào, bạch cầu trung tính, đại thực
bào đơn nhân, sự sản xuất cytokine[101].
+ MP-TM liều cao đường tĩnh mạch tạo ra tác dụng chống viêm và ức
chế miễn dịch lớn hơn prednisolon đường uống. Uống prednisolon liều từ 15-
100mg gây giảm số lượng lympho xảy ra sau 4-6 giờ và kéo dài 24 giờ, với
liệu pháp MP-TM tác dụng này mạnh hơn và tồn tại lâu hơn (48 giờ). Ngoài
ra methylprednisolon còn có tác dụng lên sự tạo phôi lympho bào và ức chế
hoạt hoá tế bào lympho[102].
+ MP-TM cũng có tác dụng kéo dài lên các immunoglobulin (Ig) ở người
khoẻ mạnh kéo dài tới 3 tháng, ở bệnh nhân lupus MP-TM có tác dụng chọn
lọc lên kháng thể kháng chuổi kép, tác dụng này với các kháng thể kháng vi
khuẩn và virus thì yếu hơn[101].
- Chọn liều MP-TM.
+ Liều “Pulse” methylprednisolone trong điều trị SLE thường được chọn
250-1000 mg/ngày truyền tĩnh mạch 1 lần/ngày trong 3 ngày liên tiếp (liều 1g
methylprednisolone thường đã được sử dụng). Liều này tương đương với liều
prednisolone đường uống là 1250 mg[49],[101].
+ Liều 1g này được chọn sau kinh nghiệm trong điều trị loại bỏ mảnh ghép
ở những người ghép thận. Sau đó, những thí nghiệm trên động vật và trong
25
phòng thí nghiệm đã cho thấy các tác dụng chống viêm và ức chế miễn dịch ở
những liều này. Khi liều corticosteroid tăng lên, có sự tăng lên trong một số
tác dụng bao gồm ức chế men cyclo-oxygenase-2 (cox-2). Liều corticosteroid
cần để đạt được điều này tương đương 200 - 300 mg prednisolone trong ngày.
Sự chỉ định liều này đã được tính toán để có kết quả chiếm gần hoàn toàn các
thụ thể với glucocorticoid (GR) (7,5 mg và 15 mg prednisolone gắn kết với
thụ thể là 42% và 63%). Tăng liều hơn nữa có thể dẫn đến tách thụ thể, kết
hợp lại, và dẫn đến tăng tổng hợp và biểu lộ của thụ thể, đưa đến tăng hiệu
quả của corticosteroid[49].
+ Liều 80 mg, 250 mg, và 1000 mg methylprednisolone được so sánh ở
những người tình nguyện khỏe mạnh và bệnh nhân: Số lượng bạch cầu trung
tính tăng tối đa ở nhóm 1000 mg, tác dụng này kéo dài 72 giờ so với 24 - 48
giờ ở những nhóm khác. Giảm số lượng lympho bào và ức chế sự chuyển
dạng lympho bào cũng được kéo dài hơn ở nhóm 1000 mg[35],[49].
+ Những liều cao hơn cũng có những lợi ích điều trị cộng thêm do các tác
dụng trung gian không thuộc hệ di truyền của các thụ thể gắn trên màng và
được khởi đầu bởi sự tương tác sinh hoá học của corticosteroid với màng tế
bào. Methylprednisolone ở liều 1000 mg trong cơ thể ức chế sự vận chuyển
calci và natri qua các màng bào tương, tăng tính thấm proton và một phần giải
phóng phosphoryl (hoá) oxy hoá, điều này có thể ức chế hoạt hóa lympho
bào[35],[49].
+ Bệnh nhân SLE thường đòi hỏi liều glucocorticoid cao để kiểm soát bệnh
hoạt động hơn là những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp. Điều này có lẽ đã
giúp làm tăng dị hoá cortisol ở lympho bào từ bệnh nhân SLE. Bên cạnh đó,
có một số bệnh nhân SLE kháng steroid, có lẽ do có sự giảm tỷ lệ “chết theo
chương trình ” gây nên bởi glucocorticoid trong số lympho bào. Cơ chế giải
26
thích điều này thì chưa rõ ràng nhưng có thể do hoạt động về giảm số lượng
hoặc tính đa hình của thụ thể glucocorticoid trên các tế bào bạch cầu đơn
nhân máu ngoại vi. Mặc dù liều 1000mg methylprednisolon / ngày đã được
chấp nhận như là một liều chuẩn cho hầu hết các chỉ định. Tuy nhiên các bằng
chứng hỗ trợ phương pháp liều cao này còn hạn chế chủ yếu do biến chứng
nhiễm khuẩn nguy hiểm. Các nghiên cứu so sánh MT-TM với liều thấp hơn
cho kết quả kiểm soát bệnh tương đương liều 1000mg trong khi tỷ lệ biến
chứng nhiểm khuẩn giảm có ý nghĩa thống kê[35],[49].
- Sử dụng phương pháp MP-TM trong lupus thận
+ Sử dụng methylprednisolon trong điều trị SLE có tổn thương thận được
mô tả đầu tiên năm 1976, khi Cathcart, chỉ định điều trị methyl-prednisolone
liều 1g cho 7 bệnh nhân viêm cầu thận tăng sinh lan toả, chức năng thận đã
được cải thiện trên một nửa trong vòng 3 ngày. Những bệnh nhân này đã giảm
sự bài tiết protein trong nước tiểu và tăng thanh thải creatinin. Tuy nhiên sự
cải thiện trong viêm thận lupus thì chưa được chứng minh rõ ràng[102].
+ Sau Cathcart, một số nghiên cứu không đối chứng sử dụng MP-TM trong
điều trị viêm thận lupus đã được công bố:
• Kimberly và cộng sự (1981) điều trị 34 bệnh nhân viêm cầu thận lupus
bằng MP-TM kết quả sự cải thiện thận được chú ý ở 35%, 5 bệnh nhân
mắc nhiễm khuẩn nặng và 4 tử vong[102].
• Ponticellin và cộng sự (1982) điều trị MP-TM cho 43 bệnh nhân viêm
cầu thận lupus tăng sinh lan tỏa sau 10 năm tỷ lệ sống là 91%.
• Bertoni M và cộng sự (1994) nghiên cứu tác dụng kéo dài của MT-TM
kết hợp với prednisolon liều thấp trên 12 bệnh nhân viêm thận lupus
theo dõi 21 tháng, 10 trong số 12 bệnh nhân đáp ứng hoàn toàn, 1 bệnh
27
nhân đáp ứng một phần, 1 bệnh nhân không đáp ứng phải điều trị phối
hợp cyclophosphamide. Có sự cải thiện các chỉ số xét nghiệm: creatinin
máu giảm có ý nghĩa thống kê (p<0,05), các thành phần bổ thể C3, C4
tăng (p<0,05), protein niệu 24h giảm (p<0,02)[41].
• Honma M và cộng sự (1994) tiến hành một nghiên cứu mù đôi trên 103
bệnh nhân so sánh tác dụng của MT-TM (400mg/ngày) với uống
prednisolon (50mg/ngày) theo dõi trong thời gian 3 tháng. Kết quả cho
thấy ở nhóm sử dụng MT-TM có đáp ứng tốt hơn. Đối với ds-DNA sự
khác biệt được phát hiện sau 1 tuần điều trị, CH50 tăng rõ rệt sau 2
tuần điều trị. Không có tác dụng phụ nguy hiểm ở nhóm sử dụng MT-
TM so với nhóm sử dụng prednisolon[101].
• Badsha (2001) nghiên cứu hồi cứu trên 55 bệnh nhân SLE cho thấy liều
500mg/ngày cũng có tác dụng kiểm soát đợt cấp như liều 1000mg/ngày
và ít biến chứng nhiễm trùng hơn liều 1000mg[36],[101].
• Kanno A và cộng sự (2007) nghiên cứu hồi cứu trên 52 bệnh nhân
lupus có viêm cầu thận tăng sinh lan tỏa được điều trị bằng MT-TM.
Kết quả cho thấy 29 bệnh nhân có đáp ứng so với 23 bệnh nhân không
đáp ứng. Thời gian từ khi được chẩn đoán viêm thận lupus đến khi
được điều trị MP-TM ở nhóm không đáp ứng dài hơn rõ rệt so với
nhóm đáp ứng. Các tác giả kết luận rằng đối với bệnh nhân lupus thận
để tăng hiệu quả điều trị cần phải thực hiện chẩn đoán sớm và điều trị
MT-TM sớm[81].
• Một số nghiên cứu khác hoặc sử dụng MP-TM đơn thuần hoặc MP-TM
phối hợp với cyclophosphamide đã được công bố có kết quả khả quan ở
nhóm phối hợp so với nhóm điều trị bằng MP-TM hoặc cyclo-
phosphamide đơn thuần[72],[76],[86],[101],[107],[116],[123].
28
+ Ngoài ra còn có một số nghiên cứu về việc sử dụng MP-TM trong điều trị
các biểu hiện ngoài thận ở bệnh nhân SLE như tổn thương thần kinh, giảm
tiểu cầu nặng, xuất huyết phế nang ...[35],[101].
- Các biến chứng và các tác dụng phụ của phương pháp MP- TM.
+ Nhiễm trùng là tác dụng không mong muốn hay gặp nhất đã được ghi
nhận của phương pháp MP - TM, xảy ra phổ biến ở những bệnh nhân SLE
hơn những bệnh nhân khác tiếp nhận MP - TM. Liệu pháp điều trị MP - TM
gây nên nguy cơ nhiễm trùng cao hơn liệu pháp liều cao steroids thông
thường ở bệnh nhân SLE một phần là do mức độ nặng của bệnh, một phần
khác là do nó làm chậm sự bài tiết lactoferrin, yếu tố dính kết của bạch cầu đa
nhân trung tính, giảm khả năng tiêu diệt và tiêu hoá vi khuẩn. Hơn nữa MP-
TM có tác động giảm lympho bào và làm giảm hàm lượng IgG và IgM huyết
tương[35],[101].
• Trong các nghiên cứu hồi cứu, bệnh nhân có hàm lượng Albumin thấp
tiếp nhận methylprednisolon có các biến chứng nhiễm trùng nhiều hơn
và số tử vong tăng lên.
• Ở bệnh nhân có bệnh gan và giảm albumine máu, giảm liều steroid đã
được khuyến cáo.
• Không có khuyến cáo nào để giảm liều methylprednisolon ở bệnh nhân
suy thận bởi vì liều MP-TM có thể đảo ngược tình trạng suy thận đáng
kể ở bệnh nhân viêm thận lupus và loại bỏ mảnh ghép thận[86].
• Hầu hết các ca tử vong đã được thông báo do MP-TM bị gây nên bởi
các biến chứng nhiễm trùng. Các nguyên nhân tử vong khác bao gồm:
loạn nhịp, nhồi máu cơ tim, thường do thay đổi đột ngột kali, hoặc thay
đổi lượng dịch và các điện giải khác.
29
+ Các biến chứng và tác dụng phụ khác bao gồm:
• Các biến chứng tâm thần kinh: động kinh, cơn hưng cảm, loạn cấp, liệt nửa người
• Đau khớp
• Đau cơ
• Viêm tuỵ
• Loét dạ dày - tá tràng, xuất huyết tiêu hóa.
• Tăng huyết áp.
• Tăng đường huyết.
• Rối loạn thị giác: ảo giác.
• Loãng xương, hoại tử xương.
• Tăng cân.
Tuy nhiên các tác dụng phụ này cũng gặp ở các trường hợp sử dụng liều
cao các chế phẩm glucocorticoid khác.
1.2.4.3. Vai trò của các thuốc ức chế miễn dịch khác trong điều trị tổn
thương thận lupus.
- Cyclophosphamide
Cyclophosphamide (CYC) là thuốc gây độc tế bào thuộc nhóm alkyl hóa,
thuốc tác động lên pha G1 và M trong chu trình phân bào nhờ quá trình gắn
với đôi base nitơ của ADN, kết quả làm rối loạn quá trình tổng hợp axít nhân,
protein và hô hấp tế bào dẫn đến là ngừng phát triển và nhân lên của tế bào.
Đối với lupus thận trong hai thập kỷ gần đây đã có nhiều nghiên cứu sử dụng
cyclophosphamide trong điều trị viêm thận lupus cho thấy kết quả khá khả
quan. Thuốc có thể được sử dụng uống hàng ngày với liều 50-150mg/ngày
hoặc truyền tĩnh mạch liều cao 0,5-1g/m2/tháng. Một số nghiên cứu đã chứng
30
minh liều cao đường tĩnh mạch có tác dụng tương đương đường uống trong
khi tác dụng phụ giảm rõ rệt[30],[91].
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên Landmark của Viện sức khoẻ quốc gia
Hoa Kỳ (National instittudes of Health - NIH) đã chỉ ra rõ ràng rằng việc kết
hợp cyclophosphamide (CYC) với corticoid hiệu quả hơn điều trị bằng
corticoid đơn thuần trong viêm thận lupus tăng sinh. Các nghiên cứu tiếp theo
đã chứng minh rằng việc kết hợp liều pulse methylprednisolon với CYC trong
điều trị tấn công có lợi ích rõ ràng và hiệu quả trong điều trị tổn thương thận
lupus. Liệu pháp kết hợp ưu thế hơn hẳn các liệu pháp đơn thuần pulse
methylprednisolon hoặc pulse cyclophosphamide trong việc gây ra đáp ứng
thận, dự phòng tăng gấp đôi nồng độ creatinin máu, giảm nguy cơ tiến triển
tới bệnh thận giai đoạn cuối và giảm tỷ lệ tử vong. Theo Seth Goldberg CYC
là tác nhân thứ hai được lựa chọn đối với viêm thận lupus cấp class III và
IV[37],[65],[75],[91].
Một vấn đề đặt ra là hiệu quả của liệu pháp cyclophosphamide truyền
tĩnh mạch ngắt quãng và gánh nặng tác dụng phụ đặc biệt đối với những
trường hợp sử dụng kéo dài. Phần lớn các nghiên cứu đều cho thấy tỷ lệ xuất
hiện tác dụng phụ ở những bệnh nhân điều trị bằng CYC cao hơn hẳn so với
nhóm sử dụng corticoid đơn thuần hoặc phối hợp với các thuốc ức chế miễn
dịch khác. Điều trị CYC ngắn ngày và kết hợp với điều trị duy trì bằng corticoid
đơn thuần làm giảm tác dụng phụ. Tuy nhiên, liệu pháp này làm gia tăng tái phát
đợt cấp lupus khi so sánh với liệu pháp CYC kéo dài kết hợp với corticoid.
Trong những năm gần đây xu thế sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch khác thay
thế CYC trong liệu pháp điều trị duy trì kéo dài đang được đặt ra để hạn chế tác
dụng phụ của CYC[100].
31
- Azathioprin
Azathioprin là thuốc gây độc tế bào thuộc nhóm kháng purin. Một số
nghiên cứu trong những năm gần đây đã cho thấy việc sử dụng azathioprin phối
hợp với corticoid tốt hơn corticoid đơn thuần và cũng tốt hơn CYC kết hợp với
corticoid trong điều trị viêm cầu thận tăng sinh do lupus. Các thử nghiệm có
kiểm chứng theo dõi kéo dài cũng cho thấy azathioprin tốt hơn CYC trong việc
giảm nguy cơ đợt cấp và giảm tác dụng phụ của thuốc[69],[123].
- Mycophenolate mofetil
Đối với lupus thận mycophenolate mofetil (MMF) có tính an toàn và
hiệu quả hơn trong những thử nghiệm lâm sàng gần đây. Trong thập kỷ trước
thuốc ức chế miễn dịch MMF đã chỉ ra tính hiệu quả trong điều trị bệnh nhân
viêm thận lupus tăng sinh. Những thử nghiệm sinh học phù hợp trong điều trị
viêm thận lupus tăng sinh đã làm tiền đề cho 5 thử nghiệm lâm sàng điều trị
tấn công và 2 thử nghiệm liệu pháp duy trì bằng MMF và 2 nghiên cứu theo
dõi kéo dài đang thực hiện. Các nghiên cứu khác so sánh hiệu quả điều trị
giữa MMF và CYC trong giai đoạn tấn công ở bệnh nhân tổn thương thận
lupus. Kết quả của các nghiên cứu trên đều cho thấy không có sự khác biệt về
hiệu quả giữa 2 nhóm trong khi nhóm sử dụng MMF có tỷ lệ xuất hiện tác
dụng phụ giảm có ý nghĩa[30],[48],[63],[66].
1.2.4.4. Một số thuốc và liệu pháp khác
Một số thuốc và liệu pháp khác như cyclosporinA, kháng thể đơn dòng,
truyền immunoglobulin tĩnh mạch, thay huyết tương (plasma exchange) cũng
đã được nghiên cứu sử dụng trong lupus thận, tuy nhiên cho đến nay chỉ có
một số ít nghiên cứu trên số lượng bệnh nhân không lớn, chưa có nghiên cứu
nào cho thấy kết quả khả quan nên chúng tôi không đề cập nhiều trong nghiên
cứu này[33],[38],[69].
32
1.3. RỐI LOẠN MIỄN DỊCH DỊCH THỂ TRONG LUPUS THẬN
1.3.1. Các tự kháng thể
1.3.1.1. Kháng thể kháng nhân
Kháng thể kháng nhân (ANA) là kháng thể kháng lại 1 thành phần nào
đó của nhân tế bào. ANA là một tiêu chuẩn trong bảng 11 tiêu chuẩn chẩn
đoán SLE của Hội thấp khớp học Hoa kỳ. ANA có độ nhạy cao (94%) nhưng
có độ đặc hiệu thấp (49%) trong chẩn đoán lupus. ANA còn gặp trong một số
các bệnh khác như: xơ cứng bì, viêm đa khớp dạng thấp… và có tỷ lệ dương
tính 1-3% ở người bình thường, nhất là người già. Vì vậy, chỉ ANA dương
tính đơn độc ít có giá trị chẩn đoán SLE mà phải kết hợp với ds-DNA và các
tiêu chuẩn về lâm sàng khác, ANA có thể được sử dụng như một xét nghiệm
sàng lọc các đối tượng nghi ngờ SLE...[12],[14],[16],[17],[31],[34],[54], [71].
Các tài liệu và kết quả một số ít các nghiên cứu cho thấy kháng thể
kháng nhân có liên quan với sự xuất hiện tổn thương thận trong bệnh lupus.
Chin-Hsiu Liu và cộng sự [86] nghiên cứu trên 26 bệnh nhân lupus thận và 23
bệnh nhân lupus không có tổn thương thận, tỷ lệ bệnh nhân có ANA dương
tính ở nhóm bệnh nhân lupus thận 60,9% trong khi ở nhóm không có tổn
thương thận tỷ lệ ANA dương tính chỉ chiếm 31,8%. Nguyễn Văn Đĩnh[11]
nghiên cứu 33 bệnh nhân lupus có hội chứng thận hư điều trị bằng
cyclophosphamide truyền tĩnh mạch tỷ lệ dương tính với ANA trước điều trị
là 97%.
1.3.1.2. Kháng thể kháng chuỗi kép DNA (ds-DNA)
Kháng thể kháng ds-DNA tương đối đặc hiệu đối với bệnh SLE (độ nhạy
70%, độ đặc hiệu 95%) và không tìm thấy trong những bệnh khác như viêm
đa khớp dạng thấp. Vì vậy sự xuất hiện kháng thể này đã trở thành một tiêu
chuẩn quan trọng trong bảng tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh SLE của Hội thấp
33
khớp học Hoa kỳ[1],[28]. Ngoài ra hiệu giá cao của kháng thể này còn liên
quan với mức độ hoạt động và tiến triển lâm sàng của bệnh đặc biệt là trong
tổn thương thận lupus. Hiệu giá kháng thể kháng ds-DNA càng cao thì bệnh
càng ở giai đoạn hoạt động, hiệu giá kháng thể kháng ds-DNA giảm chứng tỏ
bệnh trong giai đoạn hồi phục[47]. Do đó ngoài ý nghĩa chẩn đoán bệnh
kháng thể ds-DNA còn có giá trị tiên lượng đối với bệnh nhân SLE. Nhiều
nghiên cứu sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch trong điều trị viêm thận lupus
trong những năm gần đây đã sử dụng ds-DNA như là một chỉ số đánh giá kết
quả điều trị[11],[15],[24],[28],[34],[56],[70],[81],[111].
Việc đánh giá mối quan hệ giữa bệnh cảnh lâm sàng, mức độ hoạt động
bệnh và kháng thể kháng ds-DNA đã được đề cập đến trong một số nghiên
cứu gần đây. Swaak và cộng sự[115] nghiên cứu trên 130 bệnh nhân SLE
theo dõi hàng tháng, 13/130 bệnh nhân có xuất hiện đợt cấp trong quá trình
theo dõi. Tất cả các bệnh nhân có đợt cấp của bệnh đều có tăng hiệu giá
kháng thể kháng ds-DNA trong ít nhất 6 tuần theo dõi. Lloyd và Shur[87] chỉ
ra rằng thiếu hụt bổ thể tăng hiệu giá kháng thể kháng ds-DNA liên quan chặt
chẽ với đợt cấp lupus thận hơn đợt cấp lupus ngoài thận. Kết quả nghiên cứu
của Linnik và cộng sự (2005)[85] cho thấy sự thay đổi hiệu giá kháng thể
kháng ds-DNA liên quan trực tiếp với nguy cơ đợt cấp tổn thương thận. Giảm
hiệu giá kháng thể kháng ds-DNA là mục tiêu của các liệu pháp điều trị đợt
cấp tổn thương thận ở các bệnh nhân SLE. Boostma và cộng sự[46] sử dụng
hiệu giá kháng thể kháng ds-DNA như là một chỉ số dự báo đợt cấp SLE cho
thấy rằng điều trị những bệnh nhân này với liều cao prednisolon (30 mg/ngày)
làm giảm tỷ lệ xuất hiện đợt cấp so với nhóm chứng điều trị bằng prednisolon
liều thông thường. Ho và cộng sự[73] nghiên cứu 53 bệnh nhân SLE theo dõi
trong vòng 1 năm cho thấy tăng hiệu giá kháng thể kháng ds-DNA xảy ra
34
trước đợt cấp, khi đợt cấp đã diễn ra hiệu giá kháng thể kháng ds- DNA có thể
giảm. Nhận xét này trùng với nhận xét của Swaak và cộng sự 20 năm trước và
tác giả này cho rằng sự giảm hiệu giá kháng thể kháng ds-DNA trong máu
ngoại vi là do sự lắng đọng kháng thể này ở các tổ chức của cơ thể[76],[115].
1.3.1.3. Các tự kháng thể khác
Ngoài kháng thể kháng nhân, kháng thể kháng ds-DNA người ta còn tìm
thấy nhiều loại tự kháng thể khác trong huyết thanh bệnh nhân lupus, tổng
cộng có hơn 100 loại tự kháng thể trong đó có một vài tự kháng thể hay gặp
như kháng thể kháng Sm, kháng thể kháng phospholipid, kháng thể kháng
tiểu cầu, hồng cầu, kháng thể kháng Ro-SSA, Ro-SSB…Tuy nhiên mối liên
quan của các kháng thể này với sự xuất hiện tổn thương thận và bệnh hoạt
động chưa rõ do vậy các kháng thể này thường được sử dụng trong chẩn đoán
lupus, ít được sử dụng trong các nghiên cứu theo dõi điều trị lupus
thận[31],[60].
1.3.2. Các bất thường miễn dịch khác
1.3.2.1. Các phức hợp miễn dịch
Phức hợp miễn dịch (PHMD) bao gồm kháng nguyên và kháng thể có
kích thước thay đổi. Các PHMD được hình thành sẽ lưu hành trong hệ tuần
hoàn, lắng đọng tại các tổ chức dưới da, màng đáy cầu thận, các mô, kích phát
các phản ứng viêm, gây hẹp, tắc, hoại tử mạch máu tại đó... PHMD cũng hoạt
hóa bổ thể dẫn đến cố định bổ thể trên màng tế bào và kết quả là làm tiêu tế
bào. Khả năng lắng đọng có thể phụ thuộc vào ái tính của các kháng thể với
các kháng nguyên của chúng. Trong lupus thận người ta thường thấy có sự
biến động các thành phần tạo nên phức hợp miễn dịch như kháng thể kháng
nhân, kháng ds-DNA, các thành thành phần bổ thể trong huyết thanh bệnh
nhân. Tuy vậy các phương pháp định lượng phức hợp miễn dịch thường hiếm,
35
không đặc hiệu và ít được sử dụng trong chẩn đoán và theo dõi điều trị
SLE[2],[31],[53],[54],[121].
1.3.2.2. Bổ thể
Hệ thống bổ thể của cơ thể gồm trên 30 protein, hoạt động trong sự phối
hợp bảo vệ cơ thể chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn, sự khởi động quá trình
viêm và thương tổn tổ chức. Sự hoạt hóa hệ thống bổ thể là một quá trình
gồm 2 giai đoạn. Trong giai đoạn đầu tiên, duy nhất một trong ba con đường
được hoạt hóa, các thành phần bổ thể sớm được kích hoạt và hình thành C3
covertases. Trong giai đoạn thứ 2, ba con đường hợp nhất để tạo thành phức
hợp ly giải trong đó có sự tham gia của các đầu tận cùng của các thành phần
bổ thể (sơ đồ 1.1). Sự hoạt hóa bổ thể được gây ra bởi tình trạng lắng đọng
phức hợp miễn dịch được hình thành từ phản ứng kháng nguyên kháng thể (tự
kháng nguyên với tự kháng thể), gây tình trạng viêm và tổn thương các cơ
quan [39],[53],[54],[92].
Con đường cổ điển Con đường thay thế
Sơ đồ 1.1. Các con đường hoạt hóa bổ thể
B D C4 C2
C6 C7 C8 C9
C3
C5
C4bc Bb
C5a
C3bc C3a C1rs-C1inh
C1qrs
Phức hợp bổ thể tận cùng C5b-C9
36
Hệ thống bổ thể có mối liên quan mật thiết trong cơ chế bệnh sinh bệnh
lupus ban đỏ hệ thống và dường như có vai trò bảo vệ ngăn ngừa sự phát sinh
SLE. Sự giảm thấp các thành phần bổ thể được hình thành trong quá trình
hoạt hóa theo con đường cổ điển đặc biệt là C1q, C4 và C3 có độ đặc hiệu cao
trong chẩn đoán SLE. Ở bệnh nhân lupus sự hoạt hóa bổ thể xảy ra ở cả trong
huyết tương và mô. Xét nghiệm đo nồng độ các thành phần bổ thể trong huyết
tương là một xét nghiệm chuẩn được sử dụng để hỗ trợ cho các quản lý lâm
sàng đối với bệnh nhân lupus. Các thành phần bổ thể theo con đường cổ điển
thường bị giảm trong sự kết hợp với bệnh hoạt động đặc biệt là C1, C4. C2.
C3 thường ở ngang mức giới hạn thấp của người bình thường do cơ chế điều
hòa kiểm soát sự hoạt hóa bổ thể theo con đường cổ điển. Trong lupus thận
kết quả các nghiên cứu của các tác giả nước ngoài cho thấy có mối liên quan
giữa sự thay đổi nồng độ các thành phần bổ thể C3, C4 và tổn thương thận
đặc biệt là ở những trường hợp bệnh nhân có đợt bùng phát. Husain và cộng
sự (2008)[74] nghiên cứu trên 52 bệnh nhân trong đó có 17 bệnh nhân viêm
thận lupus cho thấy chỉ có 23% bệnh nhân có nồng độ C3 và C4 ở mức bình
thường, giảm C3; C4 bình thường xuất hiện ở 11% bệnh nhân, giảm C4; C3
bình thường xuất hiện ở 35,29% bệnh nhân, giảm cả C3 và C4 xuất hiện ở
29,4%. Burmingham và cộng sự (2010)[42] nghiên cứu tìm hiểu mối liên
quan giữa nồng độ C3, C4 trong huyết thanh và đợt bùng phát viêm thận
lupus trên 71 bệnh nhân theo dõi hàng tháng trong 35 tháng cho kết quả cả C3
và C4 đều giảm trước và trong đợt cấp. Một số nghiên cứu hiệu quả điều trị
của corticoid và thuốc ức chế miễn dịch trong điều trị SLE đã sử dụng sự thay
đổi các sản phẩm sinh ra từ sự hoạt hóa bổ thể C1q, C3, C4, như là một chỉ số
theo dõi đáp ứng của bệnh với các liệu pháp điều trị[37],[45].
Mặt khác, tình trạng suy giảm bổ thể di truyền có liên quan đến gia tăng
37
nguy cơ biểu hiện SLE do đó người ta cho rằng tình trạng suy giảm bổ thể có
thể là nguyên nhân gây ra lupus đặc biệt là tình trạng suy giảm bổ thể theo
con đường cổ điển (C1, C2 hoặc C4)[29].
Sự trái ngược trong mối liên quan giữa hệ thống bổ thể và bệnh SLE là ở
chỗ mặc dù một số nghiên cứu chỉ ra rằng hệ thống bổ thể có vai trò duy trì sự
dung nạp miễn dịch để tránh tiến triển bệnh lupus nhưng mặt khác nó cũng
tham gia quá trình viêm gây tổn thương mô, tế bào làm biểu hiện rõ hơn tình
trạng bệnh. Trong viêm thận lupus có sự hình thành và lắng đọng phức hợp
miễn dịch từ sự kết hợp tự kháng nguyên và tự kháng thể...[62].
1.4. RỐI LOẠN MIỄN DỊCH TẾ BÀO
Nguồn gốc của tổn thương tự miễn trong bệnh SLE là do rối loạn điều
hoà miễn dịch tế bào dẫn đến không dung nạp miễn dịch đối với một số kháng
nguyên của bản thân. Số lượng lympho TCD4 và TCD8 giảm nhưng hoạt tính
của lympho T hỗ trợ / cảm ứng và T ức chế / độc biến đổi theo hai hướng
khác nhau. Hoạt tính T hỗ trợ / cảm ứng tăng trong khi hoạt tính T ức chế /
độc giảm, kèm theo bất thường của độc tế bào tự nhiên cũng như độc tế bào
phụ thuộc kháng thể. Ngoài ra, người ta cũng ghi nhận những bất thường khác
như giảm khả năng sản xuất IL-2 của hệ thống idiotype - kháng idiotype thể
dịch. Các rối loạn trên của điều hòa miễn dịch tế bào dẫn đến tăng sinh và
tăng hoạt hoá lympho B, sản xuất ra các kháng thể chống các kháng nguyên
khác nhau của cơ thể. Sự tăng sinh lympho B tại các cơ quan lympho làm cho
các tổ chức này phì đại như lách to, hạch to đặc biệt trong giai đoạn bệnh tiến
triển. Tại các cơ quan lympho này cũng phát hiện được hiện tượng thâm
nhiễm các tế bào viêm như đại thực bào, bạch cầu đơn nhân, bạch cầu hạt[2],
[3],[31].
38
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỊA ĐIỂM VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Địa điểm nghiên cứu
Trung tâm Dị ứng - MDLS Bệnh viện Bạch Mai.
2.1.2. Đối tượng nghiên cứu
- 57 bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống có đợt cấp tổn thương thận được
theo dõi điều trị tại Trung tâm Dị ứng - MDLS Bệnh viện Bạch mai từ 5/2009
đến 11/2011.
- 30/57 bệnh nhân đồng ý tham gia điều trị bằng MP-TM sau khi được
giải thích sự cần thiết phải điều trị bằng MP-TM, những tai biến có thể xảy ra
trong quá trình điều trị, những thuận lợi khó khăn trong thời gian theo dõi 3
tháng sau điều trị.
Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân: Chẩn đoán lupus theo bảng tiêu chuẩn
chẩn đoán SLE của Hội Thấp khớp học Hoa kỳ (ACR) chỉnh sửa năm 1997
gồm 11 tiêu chuẩn sau[28]:
1. Ban đỏ hình cánh bướm: ban đỏ cố định, phẳng hoặc nổi cao, trên gò
má, không xâm phạm rãnh mũi má.
2. Ban dạng đĩa: các vết đỏ nổi cao có vảy sừng bám chắc và nút sừng
nang lông; sẹo teo có thể có ở tổn thương cũ.
3. Nhạy cảm ánh sáng: ban ở da do phản ứng không bình thường với
ánh sáng mặt trời, trong tiền sử bệnh hay do thầy thuốc nhận xét.
4. Loét miệng: loét miệng hoặc mũi họng, không đau.
39
5. Viêm khớp: viêm khớp không trợt loét ở hai hoặc nhiều khớp ngoại
biên, đặc trưng bởi cứng khớp, sưng hay tràn dịch.
6. Viêm các màng:
+ Viêm màng phổi: tiền sử chắc chắn có đau do viêm màng phổi hay do
cọ màng phổi, hoặc tràn dịch màng phổi rõ rệt.
+ Viêm màng ngoài tim: xác định bằng điện tâm đồ hoặc tiếng cọ màng
tim, hoặc tràn dịch màng tim rõ rệt.
7. Tổn thương thận:
+ Protein niệu thường xuyên cao hơn 0,5 mg/ngày, hoặc hơn (+++) nếu
không định lượng. Hoặc:
+ Cặn tế bào, có thể là HC, huyết sắc tố, trụ hạt, trụ ống hoặc hỗn hợp.
8. Rối loạn về tâm, thần kinh:
+ Động kinh: trong điều kiện không có sai lầm về dùng thuốc, không
có rối loạn chuyển hóa, hoặc urê huyết cao, hoặc ceto-acidosis, hoặc mất cân
bằng điện giải. Hoặc:
+ Loạn thần: trong các điều kiện tương tự như động kinh.
9. Rối loạn huyết học:
+ Thiếu máu tan máu có tăng hồng cầu lưới. Hoặc:
+ Giảm bạch cầu dưới 4 G/l trong hai hoặc nhiều lần. Hoặc:
+ Giảm lympho dưới 1,5 G/l trong hai hoặc nhiều lần. Hoặc:
+ Giảm tiểu cầu dưới 100 G/l khi không có sai lầm trong dùng thuốc.
10. Rối loạn miễn dịch:
+ Anti-DNA: nồng độ bất thường của kháng thể kháng DNA nguyên
thủy. Hoặc:
+ Anti-Sm: có mặt kháng thể kháng Sm. Hoặc:
40
+ Test huyết thanh dương tính giả với giang mai trong ít nhất 6 tháng
với điều kiện xét nghiệm TPI (Treponema pallidum immobilization test) âm
tính: hoặc xét nghiệm FTA-ABS (Fluorescent treponema antibody-absorption
test) âm tính.
11. Kháng thể kháng nhân: kháng thể kháng nhân có nồng độ bất
thường trong kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang, hay một xét nghiệm tương
đương ở một thời điểm và không dùng các thuốc có liên quan với hội chứng
“lupus do thuốc”.
Bệnh nhân được chẩn đoán SLE khi có ≥ 4/11 tiêu chuẩn cả trong tiền
sử bệnh và tại thời điểm thăm khám.
Tiêu chuẩn chẩn đoán đợt cấp tổn thương thận: Bệnh nhân được
chẩn đoán đợt cấp tổn thương thận khi có một trong các các tiêu chuẩn
sau[52],[108]:
Giảm chức năng thận: giảm độ thanh thải creatinin >25% trong
vòng 3 tháng theo dõi.
Hội chứng thận hư: Phù, protein niệu > 3,5g / 24 giờ, giảm
albumin máu, tăng lipid máu.
Tăng protein niệu >2g/ngày trong vòng 3 tháng theo dõi.
Tiêu chuẩn loại trừ:
1. Những bệnh nhân không thoả mãn tiêu chuẩn lựa chọn.
2. Những bệnh nhân đang sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch khác có
biểu hiện đáp ứng tốt.
3. Những bệnh nhân có chống chỉ định điều trị corticoid liều cao: loét dạ
dày- tá tràng tiến triển, đái tháo đường nặng, tăng huyết áp không kiểm soát...
4. Bệnh nhân đang mang thai.
5. Bệnh nhân đang có biểu hiện nhiễm trùng nặng.
41
6. Bệnh nhân không đồng ý điều trị theo phác đồ MP-TM.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
- Thử nghiệm lâm sàng không có đối chứng, đánh giá hiệu quả điều trị
trước và sau điều trị[15].
- Cỡ mẫu: Theo cỡ mẫu lâm sàng thuận tiện, tổng số bệnh nhân tham gia
nghiên cứu là 57 bệnh nhân.
2.2.2. Khám lâm sàng
- Mỗi bệnh nhân có một bệnh án riêng theo mẫu nghiên cứu (phụ lục 1)
- Bệnh nhân vào viện được khám để đánh giá các triệu chứng lâm sàng,
khám các chuyên khoa liên quan (nếu có chỉ định) và chỉ định các xét nghiệm
cận lâm sàng để thiết lập chẩn đoán lupus ban đỏ hệ thống và đợt cấp tổn
thương thận theo các tiêu chuẩn đã nêu ở phần đối tượng nhiên cứu.
- Hoạt động bệnh được đánh giá theo chỉ số SLEDAI-2K [44],[105],
[124].
Bảng 2.1: Thang điểm SLEDAI-2K
STT Dấu hiệu Định nghĩa Điểm
1 Cơn động kinh Mới xuất hiện, loại trừ những nguyên nhân chuyển hoá, do thuốc
8
2 Loạn thần Các khả năng và chức năng bình thường bị thay đổi 8
3 Hội chứng não cơ quan
Suy giảm định hướng nhớ hoặc những chức năng trí óc khác với sự xuất hiện nhanh và những dấu hiệu lâm sàng bất thường, nói không mạch lạc, mất ngủ hoặc ngủ gà hoặc tăng giảm hoạt động tâm thần vận động. Loại trừ các nguyên nhân chuyển hoá và do thuốc.
8
42
STT Dấu hiệu Định nghĩa Điểm
4 Rối loạn thị giác Những thay đổi võng mạc của SLE: rỉ huyết thanh, xuất huyết võng mạc hoặc xuất huyết trong viêm màng trạch (choroid), viêm thần kinh thị. Loại trừ nguyên nhân do thuốc tăng huyết áp và chuyển hoá.
8
5 Biểu hiện tổn thương các dây thần kinh sọ
Rối loạn thần kinh vận động hoặc cảm giác của dây thần kinh sọ mới xuất hiện. 8
6 Đau đầu lupus Đau đầu dai dẳng hoặc nặng, có thể đau kiểu đau nửa đầu, không đáp ứng với thuốc giảm đau.
8
7 Tai biến mạch não
Tai biến mới xuất hiện. Loại trừ xơ cứng động mạch. 8
8 Viêm mạch Loét đầu chi, các nốt mềm ở đầu chi, nhồi máu quanh móng, xuất huyết giường móng, hoặc có thể thấy hình ảnh viêm mạch trên sinh thiết hoặc chụp mạch.
8
9 Viêm khớp Trên 2 khớp có biểu hiện viêm ( sưng, ấn đau, có thể tràn dịch) 4
10 Viêm cơ Đau hoặc yếu gốc chi, có tình trạng tăng men cơ hoặc aldolase. Rối loạn điện cơ hoặc sinh thiết thấy hình ảnh viêm cơ
4
11 Trụ niệu Trụ hồng cầu hoặc trụ Hem 4 12 Đái máu > 5 hồng cầu/vi trường. Loại trừ sỏi, nhiễm
trùng hoặc các nguyên nhân khác 4
13 Protein niệu >0,5g/24h 4 14 Đái ra mủ > 5 bạch cầu/vi trường. Loại trừ tình trạng
nhiễm trùng 4
15 Ban đỏ Ban dạng viêm 2 16 Loét niêm mạc Loét niêm mạc miệng hoặc mũi 2 17 Rụng tóc Rụng tóc bất thường thành mảng hoặc lan toả 2 18 Viêm màng phổi Đau ngực kiểu đau màng phổi, tiếng cọ màng
phổi hoặc tràn dịch màng phổi hoặc dày màng phổi.
2
19 Viêm màng ngoài tim
Đau màng ngoài tim với ít nhất một trong các dấu hiệu sau: cọ màng tim, tràn dịch trên lâm sàng hoặc biểu hiện trên điện tim, siêu âm tim.
2
43
STT Dấu hiệu Định nghĩa Điểm
20 Giảm bổ thể CH50, C3, C4 giảm thấp hơn ngưỡng bình thường thấp của xét nghiệm 2
21 Tăng ds-DNA Tăng ds-DNA cao hơn giá trị bình thường bằng phương pháp gắn Farr. 2
22 Sốt >380 C loại trừ nhiễm trùng 1
23 Giảm tiểu cầu < 100 G/l loại trừ nguyên nhân do thuốc 1
24 Giảm bạch cầu <3 G/l loại trừ nguyên nhân do thuốc 1
Tổng điểm 105
Chỉ số SLEDAI được đánh giá như sau:
• Bệnh không hoạt động: 0 điểm
• Bệnh đợt cấp nhẹ < 10 điểm
• Đợt cấp trung bình và nặng ≥ 10 điểm
• Rất ít khi bệnh nhân có điểm số > 45 điểm.
Bảng 2.2: Ý nghĩa thay đổi điểm SLEDAI trước sau điều trị[118]
Giá trị SLEDAI -2K Định nghĩa
≥ 4 điểm so với lần đánh giá trước Đợt bùng phát bệnh (flare)
Giảm 3 điểm so với lần đánh giá trước Bệnh cải thiện
Duy trì ≥ 4 điểm Hoạt động kéo dài
0 điểm Thoái lui hoàn toàn - Trong thời gian điều trị tại bệnh viện bệnh nhân được thăm khám hàng
ngày để đánh giá sự thay đổi các triệu chứng lâm sàng, xét nghiệm cũng như
các biến chứng có thể xảy ra trong suốt thời gian điều trị.
44
2.2.3. Phác đồ điều trị
- Sau khi thỏa mãn các tiêu chuẩn lựa chọn và đồng ý tham gia nghiên
cứu các bệnh nhân được điều trị bằng MP-TM liều 500 mg/ ngày (10mg/kg
cân nặng). Thuốc được pha với 100 ml dung dịch glucose 5% truyền tĩnh
mạch qua bơm tiêm điện trong thời gian 1-3 giờ, 1 lần/ngày trong 3 ngày liên
tiếp sau đó bệnh nhân được điều trị tiếp bằng medrol đường uống liều 32mg /
ngày (0,6 mg/kg/24giờ) rồi giảm liều sau khi đã hết đợt cấp theo cách 7-10
ngày giảm 10% liều đang dùng.
- Bệnh nhân phải được theo dõi chặt chẽ về lâm sàng (mạch, nhiệt độ
huyết áp, nước tiểu, tim, phổi và toàn trạng) trước, trong và sau mỗi lần
truyền để phát hiện và xử trí kịp thời các tai biến có thể xẩy ra.
2.2.4. Đánh giá kết quả
- Đánh giá kết quả chủ yếu dựa vào lâm sàng, xét nghiệm và sự thay đổi
chỉ số hoạt động bệnh (SLEDAI) trước khi điều trị MP-TM và sau 1 tháng và
3 tháng điều trị MP-TM.
- Đánh giá đáp ứng theo Chan T M, Grootscholten C và Mok C C
[69,[91],[108] với 3 mức độ như sau:
• Đáp ứng hoàn toàn: Protein niệu <0,5g/24h, albumin máu >30g/l,
creatinin máu bình thường, xét nghiệm cặn nước tiểu bình thường.
• Đáp ứng một phần: Protein niệu giảm ≥50% so với trước điều trị,
creatinin máu ổn định, xét nghiệm cặn nước tiểu ổn định. Protein
niệu từ 0,5g – 2,9g/24h.
• Không đáp ứng: Protein niệu giảm <50% so với trước điều trị,
xét nghiệm cặn nước tiểu thể hiện tình trạng hoạt động, biểu hiện
45
HCTH kéo dài.
- Đánh giá mức độ hoạt động bệnh theo thang điểm SLEDAI sau một
tháng, 3 tháng điều trị.
- Sau 3 tháng điều trị những bệnh nhân đáp ứng hoàn toàn được tiếp tục
điều tri corticoid liều duy trì, những bệnh nhân đáp ứng một phần được xét
chỉ định điều trị phối hợp một trong 3 liệu pháp ức chế miễn dịch sau: Truyền
tĩnh mạch cyclophosphamide 1 lần / tháng trong 6 tháng, azathioprin hoặc
mycophenolate mofetil.
- Các bệnh nhân có biểu hiện bệnh thận giai đoạn cuối, suy thận nặng
nếu cần thiết phải kết hợp chạy thận nhân tạo.
- Các thuốc điều trị triệu chứng như thuốc hạ sốt, giảm đau chống viêm
non-steroid, an thần, các loại dịch truyền, chế phẩm máu được phối hợp sử
dụng khi cần thiết.
- Theo dõi sau khi ra viện tất cả bệnh nhân đã được truyền methyl-
prednisolon được hẹn khám lại ngay nếu có diễn biến bất thường hoặc 1 lần /
tháng nếu không có diễn biến bất thường. Thời gian theo dõi 3 tháng liên tiếp.
2.2.5. Về xét nghiệm
2.2.5.1. Các xét nghiệm thường qui
- Các xét nghiệm máu ngoại vi được thực hiện trên máy phân tích tế
bào tự động XT 2000i, hóa chất của hãng Sysmex, ống xét nghiệm của hãng
Nihon- kohden (Nhật bản). Xét nghiệm được tiến hành trong vòng 1 giờ sau
khi lấy máu, mẫu máu xét nghiệm là máu tĩnh mạch được chống đông bằng
EDTA 1mg/1ml (ethylen- diamin- tetra- acetic). Nơi thực hiện xét nghiệm
Labo tế bào của Khoa Huyết học truyền máu Bệnh viện Bạch Mai.
46
- Các xét nghiệm sinh hóa máu, nước tiểu được thực hiện trên máy sinh
hóa tự động Cobas-6000 của hãng Roche (Hoa kỳ) tại Khoa Sinh hóa bệnh
viện Bạch Mai như:
+ Xét nghiệm theo dõi men gan: AST, ALT.
+ Xét nghiệm urê máu, creatinin máu, protid máu toàn phần, albumin máu.
+ Xét nghiệm nước tiểu: protein niệu 24 h, tế bào, trụ niệu.
Đánh giá các kết quả xét nghiệm dựa vào các giá trị sinh học người
Việt nam bình thường thập kỷ 90 thế kỷ XX[4]. Kết quả đề tài cấp nhà nước
do Trường đại học Y Hà Nội thực hiện và được Bộ Y tế xuất bản năm 2004.
Cụ thể:
. Hồng cầu: nam 4,8 – 5,4 (x1012/l), nữ 4,3 – 4,9 (x1012/l).
. Bạch cầu: 5 – 10 (x109/l).
. Tiểu cầu: 150 – 400 (x109/l).
. Ure máu: 2.5 – 7,5 mmol/l.
. Creatinin máu: nam 62 – 120 mmol/l, nữ 53 – 100 mmol/l.
. Albumin máu: 35 – 50 g/l.
. Cholesterol máu: 3,9-5,2 mmol/l
. Protein nước tiểu: âm tính.
. Hồng cầu, bạch cầu, trụ niệu: âm tính.
. sGOT ≤ 37U/I – 370C
. sGPT ≤ 40U/I– 370C.
47
2.2.5.2. Các xét nghiệm miễn dịch dịch thể
- Các xét nghiệm miễn dịch phát hiện ANA và kháng thể kháng ds-DNA
được thực hiện bằng phương pháp hấp thụ miễn dịch gắn men (ELISA) trên
máy ELISA-600 của hãng Bioras (Hoa kỳ). Nơi thực hiện xét nghiệm LABO
miễn dịch Trung tâm Dị ứng – MDLS Bệnh viện Bạch Mai theo nguyên lý:
+ Nguyên lý chẩn đoán tìm Kháng thể kháng nhân - ANA
Kháng nguyên tinh khiết (SS-A/Ro, SS-B/la, RNP 70, Sm, RNP/Sm,
centromere B và Jo-1) được gắn vào các giếng của bản nhựa. Kháng thể
kháng kháng nguyên, nếu có mặt trong huyết thanh pha loãng sẽ gắn với
kháng thể trong các giếng. Rửa sạch giếng để loại bỏ các kháng thể trong
huyết thanh không gắn với kháng nguyên trên bề mặt giếng. Chất cộng hợp
(Horseradish peroxidase - HRP) kết hợp kháng kháng thể IgG người sẽ gắn
với kháng thể của người bệnh hình thành một phức hợp kháng nguyên/kháng
thể/chất cộng hợp. Rửa sạch giếng để loại bỏ những chất cộng hợp không gắn
kết. Thêm cơ chất enzym hiện màu gắn với cơ chất bằng phản ứng thủy phân
chuyển màu. Bổ sung chất dừng phản ứng (thường là axit) sẽ làm các giếng
chuyển màu. Mức độ của màu sắc sau khi cho chất dừng phản ứng được đo
mật độ quang tại bước sóng 450 nm.
Kết quả: Sử dụng kit của hãng DRG
Đơn vị tính mật độ quang (OD)
Âm tính: <1,0
Nghi ngờ: 1,0 – 1,2
Dương tính: >1,2
48
Sơ đồ 2.1. Nguyên lý của xét nghiệm kháng thể kháng nhân
+ Nguyên lý chẩn đoán tìm kháng thể kháng Ds - DNA:
Xét nghiệm này được chỉ định để định lượng tự kháng thể lớp IgG/
IgM/IgA trực tiếp chống lại chuỗi xoắn kép DNA. Các chuỗi xoắn kép DNA
tái tổ hợp được phủ trên các giếng nhựa. Trong suốt quá trình thực hiện sự
gắn kết của các tự kháng thể có mặt, cũng như việc thực hiện phức hợp
Sandwich và phản ứng màu enzyme được xảy ra trong 3 pha phản ứng khác
nhau:
Pha 1: Mẫu chứng và mẫu bệnh phẩm pha loãng được nhỏ vào các giếng
của phiến nhựa. Các kháng thể có mặt bất kỳ sẽ kết hợp với các kháng nguyên
cố định. Sau 1 thời gian ủ nhất định phiến nhựa được rửa sạch với dung dịch
đệm để loại bỏ các thành phần không phản ứng của huyết thanh.
Pha 2: Hỗn hợp của kháng kháng thể người IgG-IgG, kháng kháng thể
người IgG-IgM và kháng kháng thể người IgA-IgG kết hợp với chất cộng hợp
(HRP) được nhỏ vào các giếng để phát hiện các tự kháng thể gắn kết với các
49
kháng nguyên cố định. Sau 1 thời gian ủ nhất định enzyme cộng hợp thừa sẽ
được rửa bằng dung dịch đệm.
Pha 3: Một dung dịch cơ chất màu chứa TMB sẽ được đưa vào các
giếng. Trong quá trình ủ màu sắc của dung dịch sẽ thay đổi. Bổ sung chất
dừng phản ứng để kết thúc phản ứng sẽ làm thay đổi màu sắc các giếng.
Kết quả: Sử dụng Kit của hãng DRG (USA)
Cut off: 25 IU/L Dương tính: > 60 IU/L Nghi ngờ: 25- 60 IU/L
Âm tính: <25 IU/L
- Các xét nghiệm định lượng IgG, IgM huyết thanh và định lượng bổ thể C3,
C4 được thực hiện bằng phương pháp đo độ đục miễn dịch trên máy phân tích
sinh hóa tự động của hãng Roche tại Khoa Sinh hóa Bệnh viện Bạch mai.
+ Xét nghiệm C3, C4
• Nguyên lý: Sử dụng phương pháp đo độ đục miễn dịch (Immuno -
turbidimectric assay) để định lượng nồng độ C3, C4 trong huyết tương
và dịch não tủy trên dàn máy phân tích hóa sinh tự động của hãng
Roche.
Kháng thể trong chất gắn phản ứng với kháng nguyên trong mẫu (máu
bệnh nhân) để tạo ra phức hợp kháng nguyên kháng thể, sau đó kết
dính và được xác định nồng độ bằng cách đo độ đục.
• Lấy bệnh phẩm và chuẩn bị
Chống đông bằng EDTA- kali
Ly tâm bệnh phẩm trước khi tiến hành làm xét nghiệm
Tính ổn định: Bệnh phẩm ổn định trong :
50
4 ngày ở nhiệt độ 15-250C
8 ngày ở nhiệt độ 2-80C
• Giá trị xét nghiệm:
Đối với C3: Ngưỡng phát hiện 4-300mg/dl
Giá trị bình thường 90-180 mg/dl
Đối với C4: Ngưỡng phát hiện 1,5 - 90mg/dl với máy
Roche/Hitachi 902.
Giá trị bình thường 10 – 40 mg/dl
+ Xét nghiệm IgG, IgM
• Nguyên lý xét nghiệm: Sử dụng phương pháp đo độ đục miễn dịch
(Immuno - turbidimectric assay) để định lượng nồng độ IgG, IgM trong
huyết tương và dịch não tủy trên dàn máy phân tích hóa sinh tự động
của hãng Roche.
• Kháng thể kháng IgG (IgM) trong chất gắn phản ứng với kháng nguyên
trong mẫu bệnh phẩm (IgG hoặc IgM người bệnh) tạo thành phức hợp
kháng nguyên kháng thể. Phức hợp này được kết dính và xác định nồng
độ bằng đô độ đục. Thêm PEG cho phép phản ứng diễn ra nhanh hơn,
tăng độ nhạy và giảm nguy cơ âm tính giả do các sản phẩm chuyển hóa
kháng nguyên quá mức trong bệnh phẩm.
• Lấy bệnh phẩm và chuẩn bị
Chống đông Na2-/K3 –EDTA
Ly tâm trước khi tiến hành xét nghiệm
Tính ổn định
1 ngày ở nhiệt độ 15-250C
7 ngày ở nhiệt độ 2-80C
51
8 tháng ở nhiệt độ từ -15 đến -250C
• Giá trị xét nghiệm:
Đối với IgG: Ngưỡng phát hiện được: 300-3500mg/dl với máy
Roche/Hitachi 902
Giá trị bình thường: Người lớn 700-1600 mg/dL
Đối với IgM: Ngưỡng phát hiện được: 25-625mg/dl với máy
Roche/Hitachi 902
Giá trị bình thường: Người lớn 40-230 mg/dL
- Đánh giá kết quả bằng cách so sánh với giá trị của người bình thường, so
sánh trước và sau điều trị bằng methylprednisolon.
2.2.6. Các bước tiến hành nghiên cứu
- Bước 1: Bệnh nhân SLE được chẩn đoán tại TT Dị ứng - MDLS theo 11
tiêu chuẩn ACR sửa đổi 1997. Đánh giá tình trạng tổn thương thận: protein
niệu/24h, xét nghiệm căn nước tiểu, creatinin máu, albumin máu, cholesterol
máu, xét nghiệm ANA, ds-DNA, C3, C4, IgG, IgM. Các bệnh nhân thỏa mãn
tiêu chuẩn lựa chọn sẽ được giải thích để bệnh nhân tự nguyện đồng ý điều trị
bằng MP-TM và ký tên vào mẫu tự nguyện tham gia nghiên cứu.
- Bước 2: Thu thập các thông tin bằng mẫu bệnh án nghiên cứu qua thăm
khám và xét nghiệm (phụ lục II), đánh giá đợt cấp theo thang điểm SLEDAI-
2K.
- Bước 3: Thực hiện điều trị theo phác đồ (mục 2.2.3). Theo dõi các tác
dụng phụ cấp tính sau truyền methyprednisolon liều cao, xét nghiệm lại CTM
và sinh hoá sau 7-10 ngày -> Xuất viện hẹn khám lại sau mỗi tháng.
- Bước 4: Đánh giá tình trạng đáp ứng sớm sau 1 tháng điều trị: protein
niệu/24h, xét nghiệm cặn nước tiểu (HC, BC, trụ niệu), creatinin máu,
52
albumin máu, chlesterol máu, C3, C4, IgG, IgM, chỉ số hoạt động bệnh...
Đánh giá các tác dụng phụ.
- Bước 5: Đánh giá tình trạng đáp ứng sau 3 tháng: protein niệu, xét
nghiệm cặn nước tiểu, creatinin máu, albumin máu, chlesterol máu, ANA, ds-
DNA, C3, C4, IgG, IgM. Đánh giá mức độ đáp ứng: Một phần, hoàn toàn,
hay không đáp ứng. Đánh giá chỉ số hoạt động bệnh.
- Bước 6: Xử lý số liệu. Viết báo cáo tổng kết, báo cáo đề tài. Theo dõi
tiếp bệnh nhân trong giai đoạn điều trị duy trì để có thể có chỉ định tiếp tục
điều trị corticoid liều thấp hoặc phối hợp với thuốc ức chế miễn dịch khác tùy
thuộc vào đáp ứng của từng người bệnh. Mở rộng đề tài nghiên cứu nếu có
điều kiện.
2.2.7. Sơ đồ nghiên cứu
Thăm khám, đánh giá
Lựa chọn vào nghiên cứu: Bệnh nhân SLE tổn thương thận
Thu thập số liệu trước ĐT
Điều trị MP-TM
Khám lại đánh giá kết quả sau 1 tháng
Khám lại đánh giá kết quả sau 3 tháng
Sơ đồ 2.2. Tóm tắt các bước tiến hành nghiên cứu
Thu thập số liệu kết thúc nghiên cứu
53
2.2.8. Sai số và cách khắc phục sai số
- Có thể gặp sai số trong quá trình thu thập số liệu, sai số phép đo, sai số nhớ
lại của bệnh nhân.
- Cách khắc phục sai số: thăm khám lâm sàng, khai thác kỹ tiền sử,
bệnh sử, đánh giá lại tình trạng lâm sàng dựa trên thang điểm SLEDAI, làm
sạch số liệu trước khi xử lý.
2.2.9. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện dựa trên sự tự nguyện của bệnh nhân.
Trước khi sử dụng thuốc liều cao bệnh nhân được thăm khám lâm sàng, xác
định chẩn đoán, giải thích đầy đủ về sự cần thiết phải sử dụng thuốc methyl-
prednisolon liều cao, những tai biến có thể xảy ra, những thuận lợi và khó
khăn trong quá trình theo dõi 3 tháng. Các bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên
cứu sẽ ký tên vào mẫu tự nguyện tham gia nghiên cứu. Bệnh nhân có quyền
rút khỏi nghiên cứu nếu muốn.
Kết quả nghiên cứu góp phần đánh giá hiệu quả điều trị bằng methyl-
prednisolon liều cao truyền tĩnh mạch cho bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống
có tổn thương thận và đánh giá tính an toàn của liệu pháp ở nhóm bệnh nhân
Việt Nam.
Các thông tin về bệnh nhân sẽ được giữ kín.
2.2.10. Xử lý số liệu
- Phân tích số liệu: dùng phần mềm thống kê SPSS 16.0
- Phân tích: So sánh tỉ lệ bằng test χ2, so sánh trung bình trước sau bằng
T- test phương pháp tự đối chiếu (so sánh từng cặp).
54
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN
3.1.1. Phân bố bệnh nhân theo tuổi
Bảng 3.1. Phân bố bệnh nhân theo tuổi (n=57).
Tuổi Số bệnh nhân (n=57) Tỷ lệ %
< 20 3 5,26
20-39 46 80,7
40-50 7 12,28
>50 1 1,76
Tổng cộng 57 100
Nhận xét:
- Trong 57 bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi bệnh nhân có tuổi thấp
nhất 17 tuổi, cao nhất 57 tuổi, tuổi trung bình 28,79±8,04.
- Nhóm tuổi mắc bệnh nhiều nhất 20-39 tuổi chiếm tỷ lệ 80,7%.
3.1.2. Phân bố bệnh nhân theo giới
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 57 bệnh nhân bao gồm: - Nam 1 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 1,7% - Nữ 56 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 98,3%
55
Biểu đồ 3.1. Phân bố bệnh nhân theo giới
3.1.3. Các tiêu chuẩn chẩn đoán theo ACR 1997 lúc nhập viện
Bảng 3.2. Các tiêu chuẩn chẩn đoán theo ACR 1997 lúc nhập viện(n=57)
STT Triệu chứng Số bệnh nhân Tỷ lệ %
1 Ban đỏ hình cánh bướm 19 33,33
2 Ban hình đĩa 7 12,28
3 Nhạy cảm ánh sáng 6 10,53
4 Loét miệng 3 5,26
5 Viêm khớp 15 26,32
6 Viêm thanh mạc 17 29,82
7 Tổn thương thận 57 100
8 RLTK 7 12,28
9 RLHH 17 29,82
10 Kháng thể kháng ds-DNA 37 64,91
11 ANA 44 77,19
1,70%
98,30%
Nam Nữ
56
Nhận xét:
- 100% bệnh nhân lúc mới vào viện có tổn thương thận; 33,33% bệnh
nhân có biểu hiện ban đỏ hình cánh bướm; 26,32% có biểu hiện viêm khớp.
ANA dương tính ở 77,19%; rối loạn miễn dịch xuất hiện ở 64,91% các trường
hợp nghiên cứu.
3.1.4. Các biểu hiện sinh học của các bệnh nhân lupus có tổn thương thận
lúc vào viện.
Bảng 3.3. Các trị số sinh học của bệnh nhân lúc vào viện (n=57)
Chỉ số sinh học X±SD Người bình thường
P
Creatinin (µmol/l) 90,34±52,89 64,95±19,8 < 0,001
Albumin (g/l) 22,33±4,9 53,72±4,26 < 0,001
Cholesterol (mmol/l) 7,89±3,28 3,85±0,66 < 0,001
Protein niệu (g/24h) 8,21±4,6 Âm tính < 0,001
ANA (OD) 3,54±1,58 Âm tính < 0,001
KT kháng ds-DNA (UI/ml) 355,86±396,46 Âm tính < 0,001
C3 (mg/dl) 50,1±27,37 105,0±19,0 < 0,001
C4 (mg/dl) 8,54±7,13
IgG (mg/dl) 889,88±502,4 1707±247 < 0,001
IgM (mg/dl) 142,57±102,32 277±88 < 0,001
Nhận xét:
- Các chỉ số creatinin, cholesterol, protein niệu 24h, ANA, ds-DNA tăng
có ý nghĩa thống kê so với người bình thường (p<0,01).
57
- Các chỉ số albumin máu, C3, IgG, IgM giảm có ý nghĩa thống kê so với
người bình thường (p<0,01).
3.2. KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN LUPUS BAN ĐỎ HỆ THỐNG CÓ TỔN
THƯƠNG THẬN BẰNG MP-TM.
3.2.1. Hiệu quả đáp ứng sau 1 tháng, 3 tháng điều trị MP-TM.
Bảng 3.4. Tỷ lệ bệnh nhân đáp ứng sau 1 tháng, 3 tháng điều trị.
Sau 1 tháng điều trị Sau 3 tháng điều trị Thời điểm theo dõi
Mức độ đáp ứng n % n %
Đáp ứng hoàn toàn 4 14,28 9 32,14
Đáp ứng một phần 14 50,0 10 35,71
Không đáp ứng 10 35,72 9 32,14
Cộng 28 100 28 100
Nhận xét:
- Sau một tháng điều trị 14,28 % bệnh nhân đạt đáp ứng hoàn toàn, 50%
bệnh nhân đạt đáp ứng một phần, 35,72% bệnh nhân không đáp ứng
- Sau 3 tháng điều trị 32,14 % bệnh nhân đạt đáp ứng hoàn toàn, 35,71%
bệnh nhân đạt đáp ứng một phần, 32,14% bệnh nhân không đáp ứng.
58
3.2.2. So sánh tỷ lệ bệnh nhân đáp ứng với điều trị sau 1 tháng và 3 tháng
điều trị.
Biểu đồ 3.2. So sánh tỷ lệ bệnh nhân đáp ứng với điều trị sau 1 tháng và 3
tháng điều trị.
Nhận xét:
- Tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn tăng từ 14,28% sau 1 tháng điều trị lên 32,14%
sau 3 tháng điều trị. Tỷ lệ không đáp ứng sau 3 tháng điều trị giảm rất ít so
với sau 1 tháng điều trị.
14,28%
32,14%
50%
35,71% 35,71%32,14%
0.00% 5.00%
10.00%15.00%20.00%25.00%30.00%35.00%40.00%45.00%50.00%
Đáp ứnghoàn toàn
Đáp ứng mộtphần
Không đápứng
Sau 1 tháng ĐT
Sau 3 tháng ĐT
59
3.2.3. Thay đổi chỉ số hoạt động bệnh (SLEDAI) trước và sau điều trị MP-TM
Bảng 3.5. Thay đổi giá trị trung bình chỉ số SLEDAI- 2K trước và sau điều trị
Chỉ số SLEDAI (Điểm)
Trước điều trị(n0=30)
Sau điều trị 1 tháng (n1=28)
Sau điều trị 3 tháng (n3=28)
⎯X+SD 18,00+3,23 9,15+3,21 8,96+3,42
p P1/0<0,001 P3/0<0,001 P3/1>0,05
Nhận xét:
- Giá trị trung bình SLEDAI giảm từ 18,00+3,23 điểm trước điều trị
xuống còn 9,15+3,21 điểm sau 1 tháng điều trị (p<0,001).
- Sau 3 tháng điều trị SLEDAI trung bình giảm còn 8,96+3,42 điểm khác
biệt có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị (p<0,001).
Biểu đồ 3.3.Phân bố chỉ số SLEDAI theo mức độ hoạt động
Nhận xét:
- Trước điều trị 100% bệnh nhân có chỉ số SLEDAI >10 điểm.
- Sau 1 tháng điều trị tỷ lệ bệnh nhân có SLEDAI >10 điểm giảm xuống
30,77%.
0%
100%
69,23%
30,77%
61,54%
38,46%
0%10%20%30%40%50%60%70%80%90%
100%
Trước điều trị Sau điều trị tháng Sau điều trị 3 tháng
>10 < 10
60
- Sau 3 tháng điều trị tỷ lệ bệnh nhân có SLEDAI > 10 điểm là 38,46%.
3.2.4. Thay đổi miễn dịch dịch thể trước và sau điều trị
Bảng 3.6. Thay đổi kháng thể kháng nhân
ANA (OD) Trướcđiều trị
(n= 28) n0 %
Sau điều trị 3 tháng (n=26)
n3 %
P (n=24)
< 1,2 Âm tính 3 10,71 6 23,10
> 1,2 Dương tính 25 89,29 20 76,90
⎯X±SD 3,54±1,58 2,23±1,27
0,001
Nhận xét:
- Trước điều trị có 89,29% bệnh nhân có kháng thể kháng nhân dương
tính, sau 3 tháng điều trị vẫn còn 76,9% bệnh nhân có kháng thể kháng nhân
dương tính (p>0,05).
- Sau 3 tháng điều trị giá trị trung bình kháng thể kháng nhân giảm có ý
nghĩa thống kê so với trước điều trị với p=0,001.
Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ âm tính, dương tính với ANA trước và sau điều trị
10,71%
89,29%
23,10%
76,90%
0.00%10.00% 20.00% 30.00% 40.00% 50.00% 60.00% 70.00% 80.00% 90.00%
Trước điều trị Sau điều trị
Âm tínhDương tính
61
(Từ bảng 3.6 đến bảng 3.20 sau 1 tháng, 3 tháng điều trị “n” có thay đổi là do có một
số bệnh nhân thiếu số liệu tại thời điểm đánh giá nên khi so sánh cặp “n” có giảm).
Bảng 3.7. Thay đổi kháng thể kháng ds-DNA
Ds-DNA IU/ml
Trướcđiều trị (n= 28)
n0 %
Sau điều trị 3 tháng (n=27) n3 %
P(n=25)
< 60 : Âm tính 6 21,43 19 70,37 > 60 : Dương tính 22 78,57 8 29,63
> 200:Dương tính mạnh 13 46,43 0 0
⎯X±SD 355,86±396,46 54,07±54,82
0,001
Nhận xét:
- Trước điều trị có 78,57% bệnh nhân có kháng thể kháng ds-DNA dương tính, trong đó có 46,43% dương tính mạnh, sau 3 tháng điều trị tỷ lệ bệnh nhân có kháng thể kháng ds-DNA dương tính giảm xuống còn 29,63 % (P<0,05), không còn bệnh nhân có ds-DNA dương tính mạnh.
- Giá trị trung bình kháng thể kháng ds-DNA giảm có ý nghĩa thống kê sau 3 tháng điều trị với p=0,001.
Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ âm tính, dương tính với kháng thể kháng ds-DNA trước và sau điều trị
21.43%
70,27%78,57%
29,63%
46,43%
0%0.00%
10.00%
20.00%
30.00%
40.00%
50.00%
60.00%
70.00%
80.00%
Âm tính Dương tính Dương tínhmạnh
Trước điều trịSau điều trị
62
Bảng 3.8. Thay đổi nồng độ bổ thể C3 trong huyết thanh.
C3 (mg/dl) Trướcđiều trị
(n= 30) n0 %
Sau điều trị 1 tháng (n=23)
n1 %
Sau điều trị 3 tháng (n=28)
n3 % < 90 28 93,33 8 34,78 6 21,43
90 - 180 2 6,67 15 65,22 22 78,57
> 180 0 0 0 0 0 0
⎯X±SD 54,93±24,68 107,21±25,18 106,14±24,68
P 1/0 <0,001 3/0 < 0,001 3/1 >0,05
Nhận xét:
- Trước điều trị 93,33% bệnh nhân có nồng độ C3 trong huyết thanh
giảm, sau 1 tháng còn 34,78% bệnh nhân có C3 giảm, sau 3 tháng điều trị chỉ
còn 21,43% bệnh nhân có nồng độ C3 giảm.
- Giá trị trung bình nồng độ C3 trước điều trị 54,93±24,68 mg/dl sau 1
tháng điều trị giá trị trung bình C3 là 107,21±25,18 tăng có ý nghĩa thống kê
so với trước điều trị với p<0,01, sau 3 tháng điều trị trung bình C3
106,14±24,68 tăng có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị với p<0,01.
Bảng 3.9. Thay đổi nồng độ bổ thể C4 trong huyết thanh
C4 (mg/dl) Trướcđiều trị
(n= 30) n0 %
Sau điều trị 1 tháng (n=23)
n1 %
Sau điều trị 3 tháng (n=28)
n3 % < 10 21 70,00 3 13,04 5 17,86
10 - 40 9 30,00 20 86,6 23 82,14
> 40 0 0 0 0 0 0
⎯X±SD 8,95±6,95 19,44±9,20 20,71±9,75
P 1/0 < 0,001 3/0 < 0,001 3/1 > 0,05
63
Nhận xét:
- Trước điều trị 70% bệnh nhân có nồng độ C4 trong huyết thanh giảm,
sau 1 tháng tỷ lệ bệnh nhân có C4 giảm là 13,04%, sau 3 tháng điều trị còn
17,86% bệnh nhân có nồng độ C4 giảm.
- Giá trị trung bình nồng độ C4 trước điều trị là 8,95±6,95 mg/dl, sau 1
tháng điều trị trung bình C4 là 19,44±9,20 mg/dl (trong giới hạn của người
bình thường) tăng có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị với p<0,01, sau 3
tháng điều trị trung bình C4 20,71±9,75 mg/dl tăng có ý nghĩa thống kê so với
trước điều trị với p<0,01.
Bảng 3.10. Thay đổi IgG trong máu ngoại vi
IgG (mg/dl) Trướcđiều trị
(n= 30) n0 %
Sau điều trị 1 tháng (n=23)
n1 %
Sau điều trị 3 tháng (n=25) n3 %
< 700 9 30,00 6 26,09 6 24
700 - 1600 19 63,33 16 69,57 17 68
> 1600 2 6,66 1 4,34 2 8
⎯X±SD 924,87±560,92 787,82±342,42 951,96±366,12
P 1/0 > 0,05 3/0 > 0,05 3/1 = 0,025
Nhận xét:
- Tỷ lệ phân bố nồng độ IgG trong huyết thanh thay đổi rất ít trước và
sau điều trị.
- Giá trị trung bình IgG trước điều trị là 924,87±560,92 mg/dl, sau điều
trị 1 tháng 787,82±342,42 mg/dl, sau điều trị 3 tháng 951,96±366,12 mg/dl.
Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
64
Bảng 3.11. Thay đổi IgM trong máu ngoại vi
IgM (mg/dl) Trướcđiều trị
(n= 29) n0 %
Sau điều trị 1 tháng (n=22)
n1 %
Sau điều trị 3 tháng (n=25) n3 %
< 40 2 6,90 0 0 3 12,00
40 - 230 24 82,76 17 72,27 18 72,00
> 230 3 10,34 5 27,72 4 16,00
⎯X±SD 149,75±107,85 153,29±75,71 150,99±102,33
P 1/0 > 0,05 3/0 > 0,05 3/1 > 0,05
Nhận xét:
- Tỷ lệ phân bố nồng độ IgM và giá trị trung bình IgM thay đổi không có
ý nghĩa thống kê sau 1 tháng, 3 tháng điều trị (p>0,05).
3.2.5. Thay đổi các chỉ số huyết học trước và sau điều trị.
Bảng 3.12. Cải thiện các giá trị huyết học trước và sau điều trị.
Các chỉ số Trước ĐT (n0=30)
Sau ĐT
1 tháng
(n1=18)
Sau ĐT
3 tháng
(n3=25)
P
Hồng cầu (T/L) 3,78 ± 0,80 3,79 ± 0,53 4,18 ± 0,87 P1/0 >0,05P3/0<0,05
Hemoglobine (g/L)
99,37±17,30 102,87±16,16 112,68±17,04 P1/0 >0,05P3/0<0,01
Bạch cầu (G/l) 8,37 ± 4,06 14,39 ± 6,36 8,89 ± 3,56 P1/0 <0,01P3/0>0,05
Tiểu cầu (G/l) 246,61±110,46 278,11±92,71 298,36±91,61 P1/0 >0,05P3/0>0,05
65
Nhận xét:
- Số lượng hồng cầu tăng có ý nghĩa thống kê sau 3 tháng điều trị với p<0,05.
- Nồng độ hemoglobin tăng có ý nghĩa thống kê sau 3 tháng điều trị với p<0,01.
- Số lượng bạch cầu tăng cao sau 1 tháng điều trị sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê so với trước điều trị (p<0,01). Sau 3 tháng điều trị số bạch cầu giảm
trở lại giới hạn bình thường sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với
trước điều trị (p>0,05).
- Số lượng tiểu cầu không thay đổi sau 1 tháng, 3 tháng điều trị (p>0,05).
3.2.6. Thay đổi các chỉ số sinh hóa trước và sau điều trị
Bảng 3.13. Thay đổi protein niệu
Chỉ tiêu xét
nghiệm
Trước điều trị (n=30)
n0 %
Sau điều trị 1 tháng (n=27)
n1 %
Sau điều trị 3 tháng(n=28) n3 %
<0,5 0 0 4 14,81 9 32,14
0,5-3 0 0 14 51,85 10 35,71
>3 30 100 9 33,33 9 32,14
Protein
niệu
(g/24h) X±SD 8,66±4,97 2,52 ±2,00 2,17± 1,97
P P1/0 <0,01 P3/0 <0,01
P3/1 >0,01
Nhận xét:
- Trước điều trị 100% bệnh nhân có protein niệu tăng cao >3g/24h, sau 3
tháng điều trị còn 32,14% bệnh nhân có protein niệu 24 giờ >3g.
- Giá trị trung bình protein niệu trước điều trị là 8,66±4,97g/24h, sau 1
tháng điều tri giảm xuống còn 2,52 ±2,00g/24h, sau 3 tháng điều trị trung
66
bình protein niệu tiếp tục giảm xuống còn 2,17± 1,97g/24h sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p<0,01.
Bảng 3.14. Thay đổi hồng cầu niệu, bạch cầu niệu.
Chỉ tiêu xét nghiệm Trước điều trị (n= 25)
Sau điều trị 1 tháng (n=21)
Sau điều trị 3 tháng (n=21)
X±SD 196,40±93,44 130,95±91,14 86,8±96,76 Hồng cầu
niệu (Tb/µl) P P1/0<0,01 P3/0<0,01
X±SD 53,00±96,56 22,62±22,23 44,05±108,37 Bạch cầu
niệu (Tb/µl P P1/0>0,05 P3/0>0,05
Nhận xét:
- Giá trị trung bình hồng cầu niệu giảm có ý nghĩa thống kê sau 1 tháng,
3 tháng điều trị với p<0,01.
- Giá trị trung bình bạch cầu niệu giảm nhưng không có ý nghĩa thống kê
sau 1 tháng, 3 tháng điều trị với p>0,05.
Bảng 3.15. Thay đổi ure máu
Ure máu (mmol/l)
Trướcđiều trị (n= 28)
n0 %
Sau điều trị 1 tháng (n=24)
n1 %
Sau điều trị 3 tháng (n=27)
n3 % 1,7-8,3 11 39,29 19 79,17 23 85,19
> 8,3 17 60,71 5 20,83 4 14,81
⎯X±SD 10,76 ± 4,85 8,11 ± 6,37 6,31 ± 3,15
P P1/0 >0,05 P3/0 <0,01 P3/1 >0,05
Nhận xét:
- Trước điều trị tỷ lệ bệnh nhân có urê máu tăng là 60,71%, sau 1 tháng
67
điều trị tỷ lệ này giảm còn 20,83%, sau 3 tháng điều trị vẫn còn 14,81% bệnh
nhân có tăng urê máu.
- Sau 3 tháng điều trị giá trị trung bình urê máu giảm có ý nghĩa thống kê
so với trước điều trị với p<0,01.
Bảng 3.16. Thay đổi creatinin máu
Creatinin máu
(μmol/l)
Trướcđiều trị (n= 28)
n0 %
Sau điều trị 1 tháng (n=24)
n1 %
Sau điều trị 3 tháng (n=28)
n1 % <100 18 64,29 21 87,50 26 92,86
> 100 10 35,71 3 12,50 2 7,14
⎯X±SD 94,79±66,32 73,54±47,59 81,43±93,30
P P1/0>0,05 P3/0>0,05
Nhận xét:
- Trước điều trị tỷ lệ bệnh nhân có creatinin máu tăng là 35,71%, sau 1
tháng điều trị tỷ lệ này giảm xuống 12,50%, sau 3 tháng điều trị còn 2 bệnh
nhân có creatinin máu tăng chiếm tỷ lệ 7,14%.
- Giá trị trung bình creatinin máu không thay đổi sau 1 tháng, 3 tháng
điều trị (p>0,05).
Bảng 3.17. Thay đổi albumin máu
Albumin máu (g/l)
Trướcđiều trị (n= 27)
n0 %
Sau điều trị 1 tháng (n=23)
n1 %
Sau điều trị 3 tháng (n=28)
n3 % <30g/l 26 96,30 12 52,2 11 39,28
>30g/l 1 3,70 11 47,8 17 60,72
⎯X±SD 21,87±4,55 30,43±5,85 31,49±6,59
P P1/0<0,01 P3/0<0,01
68
Nhận xét:
- Tỷ lệ bệnh nhân có albumin máu giảm dưới 30g/l trước điều trị là
96,30%, tỷ lệ này giảm xuống 52,2% sau 1 tháng điều trị, sau 3 tháng điều trị
tỷ lệ bệnh nhân có albumin máu giảm dưới 30g/l còn 39,28 %.
- Giá trị trung bình albumin máu trước điều trị là 21,87±4,55 g/l, sau 1
tháng điều trị 30,43±5,85 g/l tăng có ý nghĩa thống kê với p<0,01, sau 3 tháng
điều trị giá trị trung bình albumin máu là 31,49±6,59 g/l tăng có ý nghĩa thống
kê so với trước điều trị (p<0,01).
Bảng 3.18. Thay đổi Cholesterol máu
Cholesterol máu (mmol/l)
Trướcđiều trị (n= 24)
n0 %
Sau điều trị 1 tháng (n=18)
n1 %
Sau điều trị 3 tháng (n=22)
n3 %
<5,2 2 8,33 3 16,60 5 22,73
>5,2 22 91,67 15 83,40 17 77,23
⎯X±SD 8,57±3,81 8,42±2,96 6,82±2,25
P P1/0>0,05 P3/0>0,05
Nhận xét:
- Tỷ lệ bệnh nhân có tăng cholesterol máu giảm không có ý nghĩa thống
kê sau 1 tháng, 3 tháng điều trị, giá trị trung bình cholesterol giảm không có ý
nghĩa thống kê sau 1 tháng, 3 tháng điều trị với p> 0,05.
69
Bảng 3.19. Thay đổi men gan
Chỉ tiêu xét nghiệm
Trước điều trị
(n= 25)
n0 %
Sau điều trị 3
tháng (n=19)
n3 %
< 31 16 64,00 19 100
> 31 9 36,00 0 0
X±SD 27,32±14,33 17,74±4,92
AST
U/l/370C
P P3/0<0,05
< 31 24 96,00 18 94,74
> 31 1 4,00 1 5,26
X±SD 17,68±8,87 15,78±8,03
ALT
U/l/370C
P P3/0>0,05
Nhận xét:
- Trước điều trị tỷ lệ bệnh nhân có AST tăng là 36%, tỷ lệ bệnh nhân có
ALT tăng rất thấp 4%. Sau 3 tháng điều trị 100% bệnh nhân có AST trở về
bình thường và chỉ còn 1 bệnh nhân có ALT tăng.
- Giá trị trung bình AST trước điều trị 27,32±14,33 UI/l/370C, sau 3
tháng điều trị giảm xuống còn 17,74±4,92 UI/l/370C sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê so với trước điều trị với p<0,05, giá trị ALT giảm không có ý nghĩa
thống kê sau 3 tháng điều trị.
70
3.2.7. Thay đổi các biểu hiện sinh học ở bệnh nhân SLE có đợt cấp tổn
thương thận trước và sau điều trị.
Bảng 3.20. Các trị số sinh học của bệnh nhân SLE có đợt cấp tổn thương
thận trước và sau điều trị.
Chỉ số sinh học X±SD
Trước điều trị (n=30)
Sau điều trị 1 tháng (n=23)
Sau điều trị 3 tháng (n=25)
P
Creatinin (µmol/l) 94,79±66,32 73.54±47,59 81.43±93,30 1/0>0,05 3/0>0,05
Albumin (g/l) 21,87±4,55 30,43±5,85 31,49±6,59 1/0< 0,01 3/0< 0,01
Cholesterol (mmol/l) 8,57±3,81 8,42±2,96 6,82±2,25 1/0>0,05 3/0>0,05
Protein niệu (g/24h) 8,66±4,97 2,52 ±2,00 2,17± 1,97 1/0< 0,01 3/0< 0,01
ANA(OD) 3,54±1,58 - 2,23±1,27 3/0< 0,001
KT kháng ds-DNA (IU/ml) 355,86±396,46 - 54,07±54,82 3/0< 0,001
C3 (mg/dl) 54,93±24,68 107,21±25,18 106,14±24,68 1/0< 0,001 3/0 < 0,001
C4 (mg/dl) 8,95±6,95 19,44±9,20 20,71±9,75 1/0 < 0,001 3/0 < 0,001
IgG (mg/dl) 924,87±560,92 787,82±342,42 951,96±366,12 1/0>0,05 3/0>0,05
IgM (mg/dl) 149,75±107,85 153,29±75,71 150,99±102,33 1/0>0,05 3/0>0,05
Nhận xét:
- Các chỉ số protein niệu 24h, ANA, kháng thể kháng ds-DNA giảm có ý
nghĩa thống kê sau điều trị 3 tháng (p<0,01).
- Albumin máu, C3, C4 tăng có ý nghĩa thống kê sau điều trị 1 tháng, 3
tháng (p<0,01)
- Các chỉ số creatinin, cholesterol, IgG, IGM thay đổi không có ý nghĩa
thống kê sau điều trị 1 tháng, 3 tháng (p>0,05)
71
3.3. XÁC ĐỊNH CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐÁP ỨNG ĐIỀU TRỊ.
Bảng 3.21. Đặc điểm miễn dịch dịch thể trước điều trị của các nhóm bệnh
nhân đáp ứng và không đáp ứng.
Chỉ số Đáp ứng
(n=19)
Không đáp ứng
(n=9) p
ANA (OD) 3,60±1,46 3,14±1,92 0,52
Ds-DNA (IU/ml) 366,74±425,24 547,70±432,37 0,91
C3 (mg/dl) 51,06±20,54 60,62±33,44 0,61
C4 (mg/dl) 7,17±6,05 12,76±8,28 0,04
IgG (mg/dl) 1015,21±148,88 697,33±108,96 0,21
IgM (mg/dl) 166,5±29,73 135,12±21,47 0,96
Nhận xét:
- Nồng độ trung bình C4 giảm thấp ở nhóm đáp ứng so với nhóm không đáp
ứng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Bảng 3.22. Mối liên quan giữa nồng độ C4 với đáp ứng điều trị.
Có Không Đáp ứng
C4 n % n % OR(95%CI) P
<10 16 84,2 4 44,4
≥10 3 15,8 5 55,66,67(1,1-40,43) 0,039
Nhận xét:
- Bệnh nhân có nồng độ C4<10mg/dl thấp có khả năng đạt được đáp ứng
72
với điều trị cao hơn gấp 6,67 lần bệnh nhân có nồng độ C4 cao>10mg/dl với
p= 0,039; OR=6,67(1,1- 40,43).
Bảng 3.23. Đặc điểm sinh hóa máu, nước tiểu liên quan đến tổn thương
thận của các nhóm bệnh nhân đáp ứng và không đáp ứng.
Chỉ số Đáp ứng
(n=19)
Không đáp ứng
(n=9) p
Protein niệu (g/24h) 8,47±3,87 10,04±6,99 0,92
Ure máu (mmol/l) 9,24±3,57 13,06±6,42 0,11
Creatinin máu (µmol/l) 77,76±38,29 123,78±101,38 0,075
Albumin máu (g/l) 21,68±4,53 21,66±4,83 0,99
Cholesterol máu (mmol/l) 7,29±2,79 11,62±4,55 0,011
Nhận xét:
- Có sự khác biệt về nồng độ trung bình cholesterol giữa nhóm đáp ứng
so với nhóm không đáp ứng với p<0,05.
Bảng 3.24. Mối liên quan giữa Cholesterol và đáp ứng điều trị
Có Không Đáp ứng
Cholesterol máu n % n % OR(95%CI) P
<5,2 2 12,5 0 0
≥5,2 14 87,5 7 100 >0,05
Nhận xét:
- Bệnh nhân có mức Chlesterol thấp ≤ 5,2 mmol/l không tăng khả năng
đáp ứng so với bệnh nhân có mức cholesterol >5,2 mmol/l (p>0,05).
73
3.4. CÁC TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN VÀ BIẾN CHỨNG TRONG QUÁ
TRÌNH ĐIỀU TRỊ
Bảng 3.25. Phân bố các tác dụng không mong muốn ở các bệnh nhân
trong quá trình điều trị.
STT Tác dụng phụ n Tần suất (%)
1 Nhiễm trùng 5 16,6
2 Rối loạn tâm thần 1 3,3
3 Đau khớp 1 3,3
4 Loãng xương, hoại tử xương 1 3,3
5 Buồn nôn, nôn 3 9,9
6 Đau bụng nóng thượng vị 1 3,3
7 Cushing 1 3,3
Nhận xét:
- Tổng số 7 tác dụng không mong muốn được quan sát thấy
- Nhiễm trùng là tác dụng phụ gặp nhiều nhất 16,6 %.
- Các tác dụng không mong muốn khác gặp với tỷ lệ thấp 3,3-9,9%.
74
CHƯƠNG 4
BÀN LUẬN
4.1. ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN TRONG LÚC NHẬP VIỆN
4.1.1. Tuổi và giới
- Tuổi bệnh nhân: Trong nhóm bệnh nhân chúng tôi nghiên cứu, bệnh
nhân nhỏ tuổi nhất là 17 tuổi và lớn tuổi nhất là 57 tuổi, tuổi trung bình là
28,79±8,04 tuổi. Nhóm tuổi gặp nhiều nhất là 20-39 tuổi chiếm tỷ lệ 80,6%.
Đây là thời kỳ các tuyến nội tiết hướng sinh dục của phụ nữ hoạt động mạnh,
kích thích sự bài tiết estrogen, ngoài ra hoạt động cho con bú có liên quan tới
sự tăng tiết prolactin mà hai hoóc môn này đã được cho là có vai trò nhất định
trong bệnh sinh của bệnh SLE. Kết quả nghiên cứu trong nước đã công bố
của Nguyễn Công Chiến (2006)[7] tuổi mắc bệnh trung bình là 29,94±11,28
tuổi và bệnh nhân nhỏ nhất là 11 tuổi và lớn tuổi nhất là 69 tuổi. Trong nghiên
cứu của Đỗ Thị Liệu (2001)[18] trên 80 bệnh nhân viêm cầu thận lupus tuổi
trung bình là 30,9 ± 9,6 tuổi, bệnh nhân có tuổi thấp nhất là 16 tuổi, cao nhất
là 50 tuổi. Gần đây một nghiên cứu trên 33 bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống
có hội chứng thận hư của Nguyễn Văn Đĩnh (2011)[11] cho thấy tuổi trung
bình là 30,18±9,65 tuổi, bệnh nhân có tuổi thấp nhất là 16 tuổi, cao nhất là 50
tuổi. Như vậy kết quả nghiên cứu của chúng tôi hoàn toàn phù hợp với các
nghiên cứu trong nước. Các tài liệu nước ngoài cho thấy hầu hết bệnh nhân
SLE được chẩn đoán ở độ tuổi từ 14-55 tuổi, trong những bệnh nhân còn lại
số bệnh nhân được chẩn đoán ở tuổi dưới 14 tuổi cao gấp 2 lần số bệnh nhân
được chẩn đoán ở tuổi >55 tuổi. Ở nhóm lupus thận một số nghiên cứu của
các tác giả trên thế giới cho thấy độ tuổi trung bình thường gặp là 20 - 40 tuổi.
75
Trong nghiên cứu của Ginzler và cộng sự (2005)[63] trên 2 nhóm bệnh nhân
lupus thận điều trị bằng MMF và CYP truyền tĩnh mạch tuổi trung bình là
32,5±10,0 tuổi và 31,0±9,0 tuổi. Trong nghiên cứu của Appel và cộng sự
(2009)[32] trên 370 bệnh nhân viêm thận lupus tuổi trung bình là 31,9 ±10,7
tuổi.
- Về giới: Kết quả ở biểu đồ 3.1 cho thấy trong 57 bệnh nhân được nghiên
cứu của chúng tôi chỉ có 1 bệnh nhân nam giới, bệnh nhân nữ chiếm tỷ lệ
>98%. Lupus ban đỏ hệ thống là bệnh gặp chủ yếu ở nữ giới ở lứa tuổi cho con
bú. Các tài liệu nước ngoài cho thấy tỷ lệ bệnh nhân nam / nữ thay đổi từ 1:8-
1:9. Một số nghiên cứu trong và ngoài nước đã công bố cho thấy tỷ lệ bệnh
nhân nữ dao động 80-95%[21],[26],[116]. Đối với nhóm bệnh nhân lupus có
tổn thương thận trong nghiên cứu của Đỗ Thị Liệu (2001)[18] bệnh nhân nữ
chiếm tỷ lệ 91,2%, trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Đĩnh (2011)[11] 90%
bệnh nhân nữ. Nghiên cứu của Appel và cộng sự (2009)[32] trên 370 bệnh
nhân viêm thận lupus có 313 bệnh nhân nữ chiếm tỷ lệ 84,6%. Như vậy kết
quả của chúng tôi phù hợp với các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước.
Các bằng chứng về tuổi mắc bệnh trên đây chứng tỏ rằng bệnh SLE chủ yếu
gặp ở nữ giới.
4.1.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán theo ACR 1997 lúc nhập viện
Theo bảng 3.2 cho ta thấy sự hiện diện của các tiêu chuẩn chẩn đoán theo
ACR năm 1997 không liên quan đến tổn thương thận bao gồm ban cánh
bướm 33,33%, ban dạng đĩa thấp nhất 12,28%, nhạy cảm ánh sáng 10,53%,
loét miệng 5,26%, viêm khớp 26,32%, viêm thanh mạc 29,82%, rối loạn thần
kinh tâm thần 12,28%, rối loạn huyết học 29,82%. Kết quả này tương đối phù
hợp với các nghiên cứu trước đây trong nước cũng như y văn thế giới[7],
[21],[26],[116].
76
- Trong nghiên cứu của chúng tôi 100% bệnh nhân có tổn thương thận vì
tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân vào điều trị là bệnh nhân lupus có đợt cấp tổn
thương thận. Kết quả này cao hơn so với những nghiên cứu khác trên lupus
chung như của Nguyễn Công Chiến (94,3%)[7], Phạm Huy Thông (64,3%)
[21], và cao hơn kết quả nghiên cứu trên 187 bệnh nhân lupus theo dõi điều trị
trong 10 năm của Swaak và cộng sự (26%)[116].
- Tỷ lệ bệnh nhân có kháng thể kháng nhân (ANA) và kháng thể kháng
ds-DNA dương tính trong nghiên cứu của chúng tôi là 77,19% và 64,91%.
ANA đã được chứng minh có độ nhạy cao và độ đặc hiệu không cao trong
chẩn đoán lupus, trong khi các tài liệu và kết quả một số nghiên cứu ngoài
nước cho thấy kháng thể kháng ds-DNA đặc hiệu cho lupus, hiệu giá cao
kháng thể này còn có ý nghĩa dự báo hoạt động bệnh và lupus thận, kết quả
nghiên cứu của chúng tôi hoàn toàn phù hợp với cơ chế bệnh sinh và các
nghiên cứu về viêm thận lupus trước đây[2],[3],[23]. Kết quả một số nghiên
cứu theo dõi điều trị viêm thận lupus bằng các liệu pháp ức chế miễn dịch cho
thấy tỷ lệ bệnh nhân có kháng thể kháng ds-DNA dương tính trước điều trị
khá cao như: Appel và cộng sự (84,1%)[32], của Đỗ Thị Liệu (76,2%) [18]và
của Nguyễn Văn Đĩnh (97%)[11]. So với tỷ lệ dương tính với kháng thể
kháng ds-DNA trong các nghiên cứu của Nguyễn Văn Đĩnh tỷ lệ bệnh nhân
dương tính với kháng thể kháng ds-DNA của chúng tôi có thấp hơn điều này
có thể giải thích là do nhóm bệnh nhân nghiên cứu của tác giả này là lupus có
hội chứng thận hư là tình trạng nặng của tổn thương thận do lupus nên tỷ lệ
dương tính với kháng thể kháng ds-DNA cao hơn. Ngược lại so với các
nghiên cứu trong nước trước đây của Đỗ Kháng Chiến (40%)[6], Nguyễn
Công Chiến (34,3%) [7]và Phạm Huy Thông (50%)[21] trên nhóm bệnh nhân
lupus chung tỷ lệ dương tính với kháng thể kháng ds-DNA trong nghiên cứu
77
của chúng tôi (64,91%) cao hơn rõ rệt. Sự khác biệt này hoàn toàn phù hợp
khi đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là bệnh nhân lupus có đợt cấp tổn
thương thận.
- Rối loạn thần kinh tâm thần: Trong nghiên cứu của chúng tôi có
12,28% bệnh nhân có rối loạn thần kinh tâm thần. Kết quả này của chúng tôi
cao hơn kết quả của Swaak và cộng sự (6%)[116], của Đỗ Thị Liệu (6,3%)
[18] nhưng lại thấp hơn đáng kể so với kết quả của Nguyễn Văn Đĩnh
(21,2%)[11]. Rối loạn thần kinh tâm thần là biểu hiện tổn thương ngoài thận
khá phổ biến và có ý nghĩa quan trọng trong tiên lượng của bệnh nhân lupus.
Tuy nhiên rối loạn tâm thần cũng có thể là hậu quả của tác dụng phụ của
corticoid được sử dụng trong điều trị lupus. Việc chẩn đoán phân biệt nguyên
nhân gây rối loạn tâm thần hết sức quan trọng trong việc quyết định liệu pháp
điều trị tiếp theo cho người bệnh, để làm được việc này cần phải có sự phối
hợp các chuyên khoa cũng như các phương pháp thăm dò cận lâm sàng khác.
- Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 29,82% bệnh nhân có rối loạn
huyết học bao gồm thiếu máu, giảm tiểu cầu, giảm bạch cầu. Kết quả này của
chúng tôi thấp hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu Swaak và cộng sự[116]
và của một số tác giả khác trong nước[18][21].
- Về các tiêu chuẩn lâm sàng như ban đỏ hình cánh bướm, ban dạng đĩa,
nhạy cảm ánh sáng, loét miệng, viêm khớp và viêm thanh mạc. So sánh với
một số nghiên cứu trong và ngoài nước kết quả của chúng tôi phù hợp trên
hầu hết các đặc điểm này (bảng 4.1).
Sự phân bố các tiêu chuẩn chẩn đoán theo ACR 1997 ở bệnh nhân lupus
lúc nhập viện của một số nghiên cứu trong và ngoài nước được liệt kê trong
bảng (trang sau).
78
Bảng 4.1 Các tiêu chuẩn chẩn đoán theo ACR 1997 của các nghiên cứu đã
công bố[11],[116]
Tiêu chuẩn
Swaak và
cộng sự
(n=187)
Nguyễn
Văn Đĩnh
(n=33)
Chúng tôi
(n=57)
Ban cánh bướm 47 72,7 33,33
Ban dạng đĩa 18 15,2 12,28
Nhạy cảm ánh sáng 45 66,7 10,53
Loét miệng 6 21,2 5,26
Viêm khớp 85 75,8 26,32
Viêm thanh mạc 36 60,6 29,82
Tổn thương thận 26 100 100
Rối loạn thần kinh tâm thần 6 21,2 12,28
Rối loạn huyết học 62 15,2 29,82
Rối loạn miễn dịch ( kháng thể kháng ds-DNA dương tính)
3 (Sm) 90,9 64,91
ANA hiệu giá bất thường 89 97 77,19
4.1.3. Các biểu hiện sinh học của các bệnh nhân lupus có tổn thương thận
lúc vào viện.
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng một số chỉ tiêu sinh học của
người Việt nam bình thường thập kỷ 90 thế kỷ XX làm nhóm chứng. Đây là
kết quả của một công trình khoa học điều tra trên nhiều vùng khác nhau của
đất nước với số lượng đủ lớn và được thực hiện tại các labo tin cậy của
Trường đại học Y Hà Nội, Bệnh viện Bạch mai và một số bệnh viện lớn khác
79
ở Hà Nội đề tài đã được nghiệm thu. Do đó các chỉ số này có thể được coi là
giới hạn bình thường của người Việt nam[4].
4.1.3.1. Các biểu hiện sinh học của bệnh nhân SLE lúc vào viện.
Trong 57 bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống chúng tôi khảo sát kết quả
bảng 3.3 cho thấy lúc vào viện các chỉ số sinh học liên quan trực tiếp đến tổn
thương thận đều có sự biến động đáng kể. Giá trị trung bình protein niệu 24h
là 8,21±4,6g tăng rất cao đây là chỉ số quan trọng nhất trong việc đánh giá tổn
thương thương thận cũng như trong đánh giá hiệu quả đáp ứng với các liệu
pháp điều trị. Kết quả của chúng tôi phù hợp với kết quả của một số nghiên
cứu trên nhóm bệnh nhân lupus thận của một số tác giả trong nước [11],[13],
[14].
Albumin máu: trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi nồng độ albumin
máu của bệnh nhân lúc vào viện là 22,33±4,9 g/l thấp hơn nhiều so với người
bình thường sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01. Albumin cũng là
một chỉ số có nhiều thay đổi ở những bệnh nhân có tổn thương thận nói chung
cũng như ở những bệnh nhân lupus có tổn thương thận. Sự thay đổi albumin
được sử dụng trong nhiều nghiên cứu theo dõi điều trị ở bệnh nhân lupus.
Trong tiêu chuẩn đánh giá mức độ đáp ứng với các liệu pháp điều trị albumin
máu >30 g/l là một trong ba tiêu chí của mức độ đáp ứng hoàn toàn. Kết quả
của chúng tôi phù hợp với kết quả của một số nghiên cứu trong và ngoài nước
trên nhóm bệnh nhân viêm thận lupus như: Ginzler và cộng sự[63]
(28,1±0,95) g/l, của Nguyễn Văn Đỉnh[11] (23,54±5,96) g/l.
Creatinin máu: kết quả bảng 3.3 cho thấy nồng độ creatinin trung bình
lúc vào viện là: 90,34±52,89 μmol/l tăng có ý nghĩa thống kê so với người
bình thường với p<0,01. Trong nghiên cứu của Appel và cộng sự[32] trên 2
nhóm bệnh nhân viêm thận lupus mỗi nhóm 185 bệnh nhân điều trị bằng
80
MMF và Cycloposphamide truyền tĩnh mạch hàng tháng kết quả cho thấy
nồng độ creatinin trung bình lúc vào viện ở các nhóm tương ứng là 108,6±1,2
và 92,7±1,0 μmol/l. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Đĩnh[11] trên 33
bệnh nhân lupus có hội chứng thận hư nồng độ creatinin trung bình lúc vào
viện là 97,73 ±43,81 μmol/l. Như vậy kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù
hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước. Tuy nhiên
creatinin là chỉ số phản ánh chức năng thận, sự thay đổi creatinin máu trong
các nhóm nghiên cứu còn phụ thuộc vào số bệnh nhân có biểu hiện suy thận
và mức độ suy thận của các bệnh nhân này.
Cholesterol máu: trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi nồng độ
cholesterol trung bình lúc vào viện là 7,89±3,28 mmol/l tăng có ý nghĩa thống
kê so với người bình thường với p<0,01. Tăng cholesterol là biểu hiện thường
gặp ở bệnh nhân tổn thương thận đặc biệt là ở những trường hợp có HCTH.
Người ta cho rằng tăng cholesterol là do protid và albumin máu giảm do mất
qua nước tiểu, cơ thể phản ứng bằng cách tăng tổng hợp lipoprotein. Kết quả
này của chúng tôi tương đương với kết quả nghiên cứu trong nước trên nhóm
bệnh nhân lupus thận đã được công bố[11].
4.1.3.2. Rối loạn miễn dịch ở bệnh nhân lupus có đợt cấp tổn thương thận.
Giảm C3, C4: kết quả bảng 3.3 cho thấy nồng độ trung bình C3 của
nhóm bệnh nhân nghiên cứu lúc vào viện là 50,1±27,37 mg/dl giảm có ý
nghĩa thống kê so với người bình thường với p<0,01, nồng độ trung bình C4
là 8,54±7,13 mg/dl dưới mức giới hạn thấp của người bình thường. C3 là một
yếu tố thường gặp trong cả 2 con đường hoạt hóa bổ thể, nồng độ C3 và các
sản phẩm thoái hóa của nó (bao gồm cả C3c) có thể được đánh giá như là một
chỉ số đối với sự hoạt hóa của hệ thống bổ thể. Nồng độ C3 thấp chỉ điểm một
sự hoạt hóa. C4 tham gia vào sự hoạt hóa bổ thể theo con đường cổ điển. C4
81
giảm sự hoạt hóa có thể diễn ra theo con đường cổ điển. Nếu mức C4 bình
thường thì sự hoạt hóa theo con đường thay thế có thể xảy ra. Mức C4 thấp
thì thường gặp nhưng không có C4 thì rất hiếm. C3, C4, C1q có độ nhạy cao
trong chẩn đoán lupus được ACR khuyến cáo cân nhắc trở thành một tiêu
chuẩn chẩn đoán bệnh này[99]. Trong một nghiên cứu của Husain và cộng
sự[74] nhằm mục đích đánh giá mối liên quan giữa nồng độ C3, C4 trong
chẩn đoán lupus thận trên 17 bệnh nhân lupus thận kết quả cả nồng độ C3, C4
đều giảm, trong đó nồng độ C4 thường giảm sâu hơn nồng độ C3. Một nghiên
cứu khác được thực hiện bởi Birmingham DJ và cộng sự[42] để đánh giá mối
liên quan giữa nồng độ C3, C4 và lupus thận trên 71 bệnh nhân lupus thận
theo dõi trong thời gian 15 tháng kết quả gợi ý sự hoạt hóa C4 là then chốt
trong khởi động đợt cấp. Về nồng độ trung bình C3, C4 kết quả của chúng tôi
tương đương với kết quả nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước đã
được công bố[11],[23],[63].
Về nồng độ IgG, IgM huyết thanh: trong nhóm nghiên cứu của chúng
tôi cả nồng độ IgG, IgM huyết thanh tại thời điểm lúc nhập viện đều giảm.
IgG chiếm 80% tổng lượng immunoglobin huyết thanh, nhiệm vụ chính của
nó là bảo vệ cơ thể chống lại các tác nhân nhiễm trùng. Tăng IgG đa dòng
thường gặp trong lupus ban đỏ hệ thống. Trong nghiên cứu ảnh hưởng của
MP-TM trên chức năng thận của Chin - Hsiu Liu[86] trên 26 bệnh nhân viêm
thận lupus kết quả cho thấy tại thời điểm nhập viện 60,9% bệnh nhân có nồng
độ IgG>1600 mg/dl. IgM là kháng thể đặc hiệu xuất hiện trong huyết thanh
sau nhiễm trùng. Trở lại nghiên cứu của chúng tôi cả IgG và IgM đều giảm có
thể giải thích là do nhóm bệnh nhân của chúng tôi là lupus có tổn thương thận
trước khi nhập viện vì đợt cấp bệnh nhân đã có quá trình điều trị duy trì bằng
corticoid kéo dài.
82
4.2. KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN LUPUS CÓ ĐỢT CẤP TỔN THƯƠNG
THẬN BẰNG MP-TM.
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng thuốc methyl-prednisolon liều
cao đường tĩnh mạch (MP-TM) với liều ≥10mg/kg/ngày truyền tĩnh mạch
trong 3 ngày liên tiếp, thuốc được pha trong 100ml dung dịch glucose 5%
truyền tĩnh mạch trong 1-3 giờ. Sau 3 ngày bệnh nhân được chỉ định điều trị
methyl-prednisolon đường uống với liều 0,6 mg/kg/ngày rồi giảm liều dần khi
tình trạng lâm sàng cho phép theo cách cứ 7-10 ngày giảm 10 mg cho đến khi
còn < 10 mg dùng liều duy trì. Methyl-prednisolon là một glucocorticoid có
tác dụng ức chế miễn dịch mạnh. So với prednisolon, methyl-prednisolon có
tác dụng ức chế miễn dịch mạnh hơn, sử dụng thuận tiện hơn có thể dùng
đường tĩnh mạch với liều lên tới 1000 mg/24h, ít có tác dụng phụ lên hệ thần
kinh trung ương và ít ảnh hưởng tới chuyển hoá hơn. Đối với bệnh lupus ban
đỏ hệ thống MP-TM được chỉ định trong các trường hợp nặng đe dọa sự sống
của người bệnh như viêm thận hoạt động, viêm não, giảm tiểu cầu nặng...
Theo Goldberg Seth và cộng sự (2010)[65] những bệnh nhân lupus thận cấp
nên điều trị bằng MP-TM với liều 7-15mg/kg/ngày trong 3 ngày sau đó tiếp
tục điều trị bằng prednisolon liều 0,5-1mg/kg/ngày, tác nhân thứ 2 nên được
sử dụng là truyền tĩnh mạch cyclophosphamide hoặc uống MMF. Trong
nghiên cứu của Moroni và cộng sự (2006)[94] đợt cấp lupus thận được điều
trị bằng MP-TM với liều 500mg/ngày cho những bệnh nhân có trọng lượng
cơ thể ≤50kg và với liều 1000mg/ngày cho những bệnh nhân có trọng lượng
cơ thể ≥50kg. Các nghiên cứu của Harisdangkul và cộng sự (1989)[72] và của
Bertoni và công sự (1993)[41] đã chứng minh tác dụng của MP-TM trong
lupus thận hoạt động. Trong nghiên cứu của chúng tôi đối tượng nghiên cứu
83
là những bệnh nhân lupus có đợt cấp tổn thương thận do vậy chỉ định điều trị
MP-TM đối với những bệnh nhân này theo chúng tôi là phù hợp.
4.2.1. Hiệu quả đáp ứng sau 1 tháng, 3 tháng điều trị MP-TM
Kết quả bảng 3.4 cho thấy sau 1 tháng điều trị bằng MP-TM kết hợp
methylprednisolon liều thấp, đáp ứng hoàn toàn đạt được ở (14,28%) bệnh
nhân với tiêu chuẩn protein niệu <0,5g/24h, xét nghiệm cặn nước tiểu bình
thường, albumin máu > 30g/l và creatinin máu ổn định ở mức bình thường.
Đáp ứng một phần đạt 50% số bệnh nhân với tiêu chuẩn protein niệu trong
khoảng từ 0,5 - 2,9g/24h, albumin máu > 30g/l và chức năng thận ổn định.
Không đáp ứng có 15,2% bệnh nhân với biểu hiện hội chứng thận hư dai dẳng,
cải thiện protein niệu <50% so với trước điều trị.
Sau 3 tháng điều trị tỷ lệ đạt đáp ứng hoàn toàn là 32,14% bệnh nhân, đáp
ứng một phần 35,71% bệnh nhân, không đáp ứng 32,14% bệnh nhân và có 2
bệnh nhân bỏ không tham gia nghiên cứu từ sau tháng thứ 2. Trong số các bệnh
nhân không đáp ứng có 2 bệnh nhân suy thận nặng lên phải chỉ định chạy thận
nhân tạo đây là hai bệnh nhân đã suy thận ngay từ khi vào viện với nồng độ
creatinin máu là 147 μmol/l và 382 μmol/l. Các bệnh nhân này đã được chỉ
định điều trị liệu pháp miễn dịch phối hợp sau khi đánh giá đáp ứng sau 1 tháng
điều trị nhưng vẫn không đạt được sự đáp ứng cần thiết.
Kết quả đáp ứng ở một số nghiên cứu ngoài nước trên nhóm bệnh nhân
viêm thận lupus được điều trị bằng MP-TM đã được công bố như sau: Bertoni
và công sự (1993)[41] nghiên cứu trên 13 bệnh nhân lupus thận hoạt động
được điều trị bằng MP-TM theo dõi trong thời gian 21 tháng 12/13 bệnh nhân
84
đạt được sự đáp ứng trong đó có 11/12 đáp ứng hoàn toàn và 1 bệnh nhân đáp
ứng một phần. Kanno Atsuhiro và cộng sự (2007)[81] khảo sát 52 bệnh nhân
viêm thận lupus điều trị bằng MP-TM 29 bệnh nhân đạt đáp ứng và 23 bệnh
nhân không đáp ứng. Kết quả các nghiên cứu điều trị viêm thận lupus điều trị
bằng cyclophosphamide có đáp ứng điều trị như sau: Appel và cộng sự (2009)
[32] nghiên cứu trên 61 bệnh nhân tỷ lệ bệnh nhân đáp ứng là 63,9%, tỷ lệ
bệnh nhân không đáp ứng là 36,1%. So với kết quả điều trị MP-TM của
Bertoni và cộng sự[41] tỷ lệ đáp ứng hoàn trong nghiên cứu của chúng tôi thấp
hơn, tỷ lệ không đáp ứng cao hơn lý do trong nghiên cứu này thời gian theo dõi
dài hơn, trong quá trình theo dõi điều trị tác giả có sử dụng thêm liều MP-TM
hàng tháng cho những bệnh nhân chưa đạt được sự đáp ứng do đó tỷ lệ không
đáp ứng của nghiên cứu này thấp hơn của chúng tôi. So sánh với kết quả của
Kanno Atsuhiro và cộng sự tỷ lệ không đáp ứng của chúng tôi thấp hơn.
So sánh hiệu quả đáp ứng sau 1 tháng với sau 3 tháng (biểu đồ 3.2) chúng
tôi thấy sau 3 tháng điều trị tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn tăng rõ rệt trong khi tỷ lệ
không đáp ứng giảm rất ít. Chúng tôi nhận thấy những bệnh nhân đã đáp ứng
một phần với liều tấn công MP-TM có thể đạt được sự đáp ứng hoàn toàn khi
tiếp tục điều trị duy trì methylprednisolon liều thấp, ngược lại những bệnh nhân
không đáp ứng với liều tấn công MP-TM sẽ không đạt được sự đáp ứng với
điều trị tiếp tục bằng methylprednisolon liều thấp, đối với những bệnh nhân
này cần phải cân nhắc chỉ định thêm MP-TM liều 1 lần/tháng hoặc phối hợp
với các thuốc ức chế miễn dịch khác để đạt được sự đáp ứng. Điều chúng tôi
boăn khoăn sau khi thực hiện nghiên cứu này là tỷ lệ bệnh nhân không đạt
85
được sự đáp ứng còn cao (32,14%), tuy nhiên so sánh với các nghiên cứu sử
dụng cyclophosphamid truyền tĩnh mạch 1 lần/tháng của Appel và cộng sự
(2009)[32], Das và cộng sự (2010)[55], Ginzler và cộng sự (2005)[64] tỷ lệ
không đáp ứng của chúng tôi tương đương trong khi cyclophosphamide đã
được chứng minh là có hiệu quả lâu dài đối với viêm thận lupus mặc dù khi sử
dụng liệu pháp này người bệnh phải chịu một gánh nặng tác dụng phụ do thuốc
gây nên. Theo quan điểm của chúng tôi việc lựa chọn liệu pháp đầu tiên cho
bệnh nhân lupus thận hết sức linh hoạt. Đối với những bệnh nhân đã có kết quả
sinh thiết thận nên chỉ định liệu pháp phối hợp MP-TM và CYP-TM ngay từ
đầu cho những bệnh nhân viêm thận hoạt động có tổn thương mô bệnh học
class III và class IV trở lên. Ngược lại đối với những bệnh nhân viêm thận hoạt
động chưa có kết quả sinh thiết thận nên lựa chọn liệu pháp ban đầu là MP-TM
đơn thuần, sau 1 tháng theo dõi nếu chưa đạt được đáp ứng hoàn toàn có thể
chỉ định liệu pháp MP-TM hàng tháng, sau 3 tháng theo dõi nếu không đạt
được sự đáp ứng chỉ định liệu pháp phối hợp[41],[72].
Ở trong nước chúng tôi chưa thấy nghiên cứu nào sử dụng MP-TM
để điều trị cho nhóm bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống có đợt cấp tổn
thương thận.
Hiệu quả đáp ứng với các liệu pháp điều trị của một số nghiên cứu được
liệt kê trong bảng trang sau:
86
Bảng 4.2. Hiệu quả đáp ứng của một số nghiên cứu ngoài nước [41],[55],
[81].
Tác giả Hiệu quả
Das. U và cộng sự
IV-CYP (n=29)
Bertoni và cộng
sự MP-TM (n=13)
Kanno A và cộng sự MP-TM (n=52)
Chúng tôi MP-TM (n=30)
Đáp ứng 69,9% 92,3% 55,8% 67,9%
Không đáp ứng 36,1% 7,7% 44,2% 32,1%
4.2.2. Cải thiện chỉ số hoạt động bệnh SLEDAI-2K
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng chỉ số SLEDAI-2K để đánh giá
mức độ hoạt động bệnh. Kết quả (biểu đồ 3.3) cho thấy trước điều trị 100%
bệnh nhân có chỉ số hoạt động bệnh SLEDAI>10 điểm. Sau điều trị 1 tháng tỷ
lệ bệnh nhân có SLEDAI>10 điểm là 30,8%, sau 3 tháng điều trị con số này
là 38,5%. Giá trị trung bình SLEDAI giảm có ý nghĩa thống kê sau 1 tháng
điều trị, 3 tháng điều trị với p<0,01 (bảng 3.5). Giá trị trung bình SLEDAI sau
3 tháng điều trị là 8,96+3,42 điểm dưới mốc 10 điểm.
SLEDAI là một chỉ số được các nhà chuyên môn thống nhất sử dụng để
đánh giá tổng thể sự hoạt động của bệnh dựa vào hình thức cho điểm theo các
biểu hiện bệnh ở 9 hệ thống cơ quan bị tổn thương. Chỉ số SLEDAI > 10
được coi là bệnh hoạt động mạnh cần phải tăng liều hoặc thay đổi liệu pháp.
Hiện nay SLEDAI là chỉ số được nhiều tác giả sử dụng để theo dõi đánh giá
kết quả điều trị của các liệu pháp đối với SLE. Nếu SLEDAI tăng trên 3 điểm
có thể coi có một đợt tái phát mới; một sự giảm SLEDAI trên 3 điểm thể hiện
một sự đáp ứng tốt với thuốc điều trị[43],[44],[104],[105],[124].
87
Một số nghiên cứu trong nước có đánh giá chỉ số SLEDAI cho kết quả
như sau: Nguyễn Công Chiến (2006)[7] nghiên cứu trên 35 bệnh nhân SLE có
tổn thương nội tạng được điều trị bằng methylprenisolon liều cao, chỉ số
SLEDAI trung bình trước điều trị là 16,17±4,45 điểm, sau 4 tuần điều trị điểm
số giảm còn 7,72±3,05 điểm (p <0,05). Trong nghiên cứu này tác giả không
tiến hành được xét nghiệm định lượng C3, C4 và định lượng kháng thể kháng
ds-DNA trước và sau điều trị để đánh giá nên chỉ số SLEDAI trong nghiên
cứu này thấp hơn chỉ số của chúng tôi cả trước và sau điều trị. Kết quả của
Nguyễn Văn Đĩnh (2011)[11] đánh giá hiệu quả điều trị bằng cyclo-
phosphamid truyền tĩnh mạch 1 lần / tháng trong 6 tháng cho nhóm bệnh nhân
lupus có HCTH giá trị SLEDAI trung bình trước điều trị là 25,36±5,64 điểm,
sau 6 tháng điều trị SLEDAI trung bình giảm xuống còn 10,61±4,43 điểm. Ở
nghiên cứu này tác giả đánh giá đủ các tiêu chí trong bảng điểm SLEDAI như
trong nghiên cứu của chúng tôi nhưng giá trị trung bình SLEDAI cao hơn của
cả trước và sau điều trị điều này có thể giải thích do đối tượng bệnh nhân
trong nghiên cứu này là lupus có HCTH nặng hơn nhóm bệnh nhân trong
nghiên cứu của chúng tôi. Trần Đăng Quyết và cộng sự (2010)[20] nghiên
cứu sự thay đổi SLEDAI trên 34 bệnh nhân SLE cho thấy sau điều trị chỉ số
SLEDAI giảm từ 21,29 điểm xuống còn 5,03 điểm sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p<0,001.
Trong một nghiên cứu của Appel và cộng sự (2009)[32] trên 370 bệnh
nhân SLE tổn thương thận với mục đích so sánh hiệu quả điều trị tấn công
viêm thận lupus giữa MMF và CYC điểm số SLEDAI trung bình trước điều
trị là 24,9 điểm và thay đổi sau 6 tháng điều trị tấn công của nhóm điều trị
bằng CYC là 6,6±8,0 điểm. Kết quả nghiên cứu của Badsha và cộng sự
(20030[36] trên 26 bệnh nhân đợt cấp lupus điều trị bằng MP-TM với liều
88
500mg/ngày trung bình chỉ số hoạt động bệnh (SLEDAI) giảm từ 29 điểm
xuống còn 2 điểm sau 6 tháng điều trị, cũng trong nghiên cứu này ở nhóm 29
bệnh nhân đợt cấp lupus được điều trị bằng MP-TM liều 1g/ngày trung bình
SLEDAI giảm từ 20 điểm xuống 0 điểm. Ở một nghiên cứu khác của
Stummvoll G H (2005)[114] nghiên cứu tác dụng của IgG immunoadsorption
lên protein niệu và họat động bệnh trên 16 bệnh nhân lupus thận cấp kháng
các liệu pháp ức chế miễn dịch SLEDAI giảm từ 21 điểm xuống còn 5 điểm
sau 6 tháng điều trị sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001.
Trở lại kết quả của chúng tôi sau 3 tháng điều trị bằng MP-TM tỷ lệ bệnh
nhân có SLEDAI>10 điểm giảm rõ rệt, giá trị trung bình SLEDAI giảm
xuống dưới 10 điểm chứng tỏ MP-TM có tác dụng khống chế hoạt động bệnh
ở nhóm bệnh nhân lupus có đợt cấp tổn thương thận, điều này phù hợp với
hiệu quả tác dụng điều trị đợt cấp của MP-TM đã được chứng minh trong các
nghiên cứu gần đây[7],[11],[21].
4.2.3. Khảo sát sự thay đổi miễn dịch dịch thể ở bệnh nhân SLE có đợt
cấp tổn thương thận trước và sau điều trị methylprednisolon
4.2.3.1. Thay đổi kháng thể kháng nhân
Kết quả bảng 3.6 cho thấy trước điều trị 89,29% bệnh nhân có kháng
thể kháng nhân dương tính, sau 3 tháng điều trị vẫn còn 76,9% bệnh nhân có
kháng thể kháng nhân dương tính, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(p>0,05). Giá trị trung bình kháng thể kháng nhân trước điều trị là 3,54±1,58,
sau 3 tháng điều trị giá trị trung bình kháng thể kháng nhân là 2,23±1,27 giảm
có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị với p = 0,001. Trong nghiên cứu của
chúng tôi kháng thể kháng nhân được phát hiện bằng phương pháp ELISA,
giá trị ANA được tính bằng cách đo độ đục phức hợp kháng nguyên kháng
thể với bước sóng 260nm.
89
Kết quả một số nghiên cứu trong nước trước đây đã công bố cho thấy
trước điều trị tỷ lệ bệnh nhân có kháng thể kháng nhân dương tính thay đổi từ
60 - 100%. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Quốc Tuấn (1991)[25] tỷ lệ bệnh
nhân dương tính với kháng thể kháng nhân là 70%. Mai Trọng Khoa (1991)
[17] nghiên cứu 38 bệnh nhân SLE điều trị tại khoa Dị ứng và khoa Khớp
Bệnh viện Bạch mai kết quả cho thấy tỷ lệ kháng thể kháng nhân dương tính
60,53%. Kết quả nghiên cứu của Phạm Huy Thông (2003)[21] trên 42 bệnh
nhân SLE tỷ lệ kháng thể kháng nhân dương tính 90%. Lê Văn Don (2010)[9]
nghiên cứu trên 84 bệnh nhân SLE điều trị tại Bệnh viên Trung ương Quân
đội 108 cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có kháng thể kháng nhân dương tính là
100%. Tuy nhiên các nghiên cứu này đều phát hiện kháng thể kháng nhân
bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang gián tiếp chỉ cho kết quả định tính.
Gần đây nhất Nguyễn Văn Đĩnh (2011)[11] nghiên cứu 33 bệnh nhân SLE có
hội chứng thận hư điều trị bằng cyclophosphamide truyền tĩnh mạch tỷ lệ
bệnh nhân có kháng thể kháng nhân dương tính trước điều trị là 90%, sau điều
trị tỷ lệ bệnh nhân có kháng thể kháng nhân dương tính 41,9%, trong nghiên
cứu này kháng thể kháng nhân được phát hiện bằng phương pháp ELISA
cùng một phương pháp với nghiên cứu của chúng tôi.
Một số nghiên cứu ở ngoài nước đã được công bố cho thấy tỷ lệ bệnh
nhân có kháng thể kháng nhân dương tính trước điều trị 70- 90%. Swaak và
cộng sự (1999)[116] nghiên cứu trên 187 bệnh nhân SLE theo dõi điều trị
trong 10 năm tỷ lệ bệnh nhân có kháng thể kháng nhân dương tính tại thời
điểm chẩn đoán 89%. Liu C-H và cộng sự (2007)[86] nghiên cứu ảnh hưởng
của methylprednisolon liều cao lên chức năng thận trên 26 bệnh nhân tỷ lệ
ANA dương tính trước điều trị 70,8%, tuy nhiên tác giả này không đánh giá
sự thay đổi kháng thể kháng nhân sau điều trị.
90
Trong chẩn đoán SLE kháng thể kháng nhân có độ nhạy cao nhưng độ
đặc hiệu không cao. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ bệnh
nhân có kháng thể kháng nhân dương tính trước điều trị tương đương với các
nghiên cứu trong và ngoài nước[11],[32],[33]. Mặc dù giá trị trung bình
kháng thể kháng nhân sau điều trị giảm có ý nghĩa thống kê so với trước điều
trị với p=0,001 nhưng tỷ lệ bệnh nhân có kháng thể kháng nhân dương tính
còn cao, có thể kết luận ANA có ý nghĩa trong chẩn đoán nhiều hơn trong
theo dõi điều trị, điều này phù hợp với các kết quả nghiên cứu và hiểu biết về
vai trò của kháng thể kháng nhân trong bệnh SLE.
4.2.3.2. Thay đổi kháng thể kháng ds-DNA.
Trong nghiên cứu của chúng tôi trước điều trị 78,57% bệnh nhân có
kháng thể kháng ds-DNA dương tính trong đó có 46,43% bệnh nhân có kháng
thể kháng ds-DNA dương tính mạnh >200IU/ml, sau 3 tháng điều trị tỷ lệ này
chỉ còn 29,63% (p<0,05), không còn bệnh nhân nào có kháng thể kháng ds-
DNA dương tính mạnh. Giá trị trung bình kháng thể kháng ds-DNA trước
điều trị 355,86±396,46 IU/ml, sau 3 tháng điều trị giá trị trung bình kháng thể
kháng ds-DNA là 54,07±54,82 IU/ml giảm có ý nghĩa thống kê so với trước
điều trị với p=0,001(bảng 3.7).
Khác với kháng thể kháng nhân, kháng thể kháng ds-DNA có độ đặc
hiệu cao trong chẩn đoán SLE. Mặt khác hiệu giá cao kháng thể kháng ds-
DNA liên quan đến hoạt động bệnh và lupus thận. Một trong những tiêu chí
đánh giá sự hoạt động bệnh về mặt lâm sàng được sử dụng trong nghiên cứu
của Ginzler và cộng sự (2005)[64] so sánh hiệu quả điều trị mycophenolate-
mofetil và cyclophosphamid trên bệnh nhân viêm thận lupus là kháng thể
kháng ds-DNA, trong nghiên cứu này kháng thể kháng ds-DNA cùng với
những thay đổi chức năng thận cũng như nồng độ bổ thể C3, C4 được tác giả
91
sử dụng để đánh giá hiệu quả điều trị. Theo Illei và cộng sự (2002)[76] giảm
bổ thể C3, C4, tăng hiệu giá kháng thể kháng ds-DNA là một trong những dấu
hiệu dự báo đợt cấp lupus thận. Trong nghiên cứu “các chỉ số dự báo và hiệu
quả điều trị đợt cấp lupus thận bằng cyclophosphamid” của Mok C C và cộng
sự (2004)[90] tác giả đã đánh giá nồng độ kháng thể kháng ds-DNA, nồng độ
bổ thể C3, C4 tại thời điểm sinh thiết thận và sau khi sử dụng liều cuối cùng.
Như vậy có thể nhận xét kháng thể kháng ds-DNA có vai trò rất lớn trong
chẩn đoán và theo dõi đợt cấp tổn thương thận do lupus.
Về tỷ lệ dương tính với kháng thể kháng ds-DNA trước điều trị kết quả
các nghiên cứu trong nước trước đây có khác nhau: như Đỗ Kháng Chiến
(40%)[6], Nguyễn Công Chiến (34,3%)[7], Phạm Huy Thông (50%)[21], gần
đây nhất Nguyễn Văn Đĩnh[11] nghiên cứu 33 bệnh nhân SLE có hội chứng
thận hư tỷ lệ bệnh nhân dương tính với kháng thể kháng ds-DNA trước điều
trị là 90%, tỷ lệ bệnh nhân có kháng thể kháng ds-DNA dương tính mạnh là
51,5%. So với kết quả của Nguyễn Văn Đĩnh[11] tỷ lệ dương tính với kháng
thể kháng ds-DNA của chúng tôi có thấp, nhưng so với các nghiên cứu khác
trước đây kết quả của chúng tôi cao hơn rõ rệt. Điều này có thể giải thích như
sau: đối với nghiên cứu của Nguyễn Văn Đĩnh tác giả sử dụng phương pháp
ELISA để định lượng kháng thể kháng ds-DNA trên các đối tượng nghiên
cứu là các bệnh nhân SLE có hội chứng thận hư là tình trạng nặng của tổn
thương thận do SLE trong khi trong nhóm đối tượng nghiên cứu của chúng tôi
có những bệnh nhân chưa đến mức hội chứng thận hư nên kết quả của chúng
tôi có thấp hơn. Ngược lại trong các nghiên cứu khác trước đây các tác giả sử
dụng phương pháp miễn dịch huỳnh quang gián tiếp để phát hiện kháng thể
kháng ds-DNA cho kết quả định tính trên các đối tượng bệnh nhân lupus
92
chung nên tỷ lệ dương tính với kháng thể kháng ds-DNA thấp hơn trong
nghiên cứu của chúng tôi là phù hợp.
Một số nghiên cứu nước ngoài đã công bố cho thấy tỷ lệ dương tính với
kháng thể kháng ds-DNA như sau: Mok và cộng sự (2000)[90] trên 163 bệnh
nhân SLE tỷ lệ dương tính với kháng thể kháng ds-DNA 55%, Chin-Hsiu Liu
và cộng sự (2007)[86] nghiên cứu 26 bệnh nhân viêm thận lupus tỷ lệ dương
tính với kháng thể kháng ds-DNA cũng là 55%, Appel và cộng sự (2009)[32]
nghiên cứu trên 2 nhóm bệnh nhân lupus thận mỗi nhóm 185 bệnh nhân điều
trị bằng điều trị bằng mycophenolate mofetil và Cyclophosphamid cho thấy tỷ
lệ dương tính với kháng thể kháng ds-DNA trước điều trị là 67,3% và 72,5%,
tỷ lệ bệnh nhân có kháng thể kháng ds-DNA dương tính mạnh > 200 IU/ml ở
các nhóm tương ứng là 37,4% và 49,1%. Gần đây nhất Annavarajula (2011)
[30] nghiên cứu trên 39 bệnh nhân viêm cầu thận tăng sinh tỷ lệ dương tính
với kháng thể kháng ds-DNA là 76,92%. Như vậy so với các nghiên cứu của
các tác giả nước ngoài đặc biệt là các nghiên cứu trên nhóm bệnh nhân lupus
thận kết quả của chúng tôi tương đối phù hợp.
Về giá trị trung bình kháng thể kháng ds-DNA trước điều trị kết quả
của chúng tôi là 355,86±396,46IU/ml. Cho đến nay ở trong nước chúng tôi
mới chỉ tìm thấy một nghiên cứu của Nguyễn Văn Đĩnh[11] sử dụng kỹ thuật
ELISA để phát hiện kháng thể kháng ds-DNA cho thấy giá trị trung bình
kháng thể kháng ds-DNA trước điều trị là 565,18±656,46 IU/ml; các nghiên
cứu khác trước đây đều sử dụng phương pháp miễn dịch huỳnh quang gián
tiếp để phát hiện kháng thể kháng ds-DNA cho kết quả định tính. Kết quả một
số nghiên cứu của các tác giả nước ngoài trên nhóm bệnh nhân lupus thận cho
thấy giá trị trung bình kháng thể kháng ds-DNA trước điều trị như sau:
Bertoni M và cộng sự (1994)[41] 355,83±203,39 IU/ml; Chan, T. M và cộng
93
sự (2000)[52] 426 ± 627I U/ml. Kết quả của các nghiên cứu trên nhóm bệnh
nhân lupus thận cho thấy giá trị trung bình ds-DNA của chúng tôi tương đối
phù hợp với các tác giả nước ngoài.
Về sự thay đổi kháng thể kháng ds-DNA sau điều trị kết quả (biểu đồ
3.5) cho thấy sau 3 tháng điều trị tỷ lệ bệnh nhân có kháng thể kháng ds-DNA
dương tính giảm từ 78,57 xuống còn 29,63%, giá trị trung bình ds-DNA giảm
có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị với p=0,001(bảng 3.8). Kháng thể
kháng ds-DNA là xét nghiệm có độ đặc hiệu cao trong chẩn đoán bệnh lupus
ban đỏ hệ thống, hiệu giá cao kháng thể này đã được chứng minh có liên quan
đến hoạt động bệnh và lupus thận trong nhiều nghiên cứu đã được công bố
trước đây. Theo William Egner (2000)[58] kháng thể kháng ds-DNA tăng
trong lupus hoạt động và viêm thận lupus tiến triển, kháng thể kháng ds-DNA
có thể âm tính sớm sau điều trị hoặc khi bệnh nhân có đáp ứng lâm sàng.
Phần lớn các nghiên cứu trong và ngoài nước đều sử dụng xét nghiệm kháng
thể kháng ds-DNA như là một chỉ số đánh giá đáp ứng của các liệu pháp điều
trị. Kết quả các nghiên cứu ngoài nước trên nhóm bệnh nhân lupus thận điều
trị bằng MP-TM cho thấy hiệu giá kháng thể kháng ds-DNA giảm có ý nghĩa
sau điều trị. Ở trong nước chưa có nghiên cứu nào theo dõi sự thay hiệu giá
kháng thể kháng ds-DNA trên nhóm bệnh nhân lupus thận điều trị bằng MP-
TM được công bố. Đối với các nghiên cứu sử dụng liệu pháp phối hợp các
thuốc ức chế miễn dịch trên nhóm bệnh nhân lupus thận trong kết quả nghiên
cứu của Ginzler và cộng sự (2005)[63] trên 2 nhóm bệnh nhân viêm thận
lupus một nhóm 71 bệnh nhân điều trị bằng mycophenolate mofetil, một
nhóm 69 bệnh nhân điều trị bằng cyclophosphamid truyền tĩnh mạch hàng
tháng phối hợp với prednisolon liều thấp kết quả ở cả 2 nhóm kháng thể
kháng ds-DNA giảm xuống mức thấp sau 3 tháng điều trị, một nghiên cứu
94
khác được thực hiện bởi Appel và cộng sự (2009)[32] thực hiện trên 2 nhóm
bệnh nhân điều trị bằng mycophenolate mofetil và cyclophosphamid truyền
tĩnh mạch hàng tháng mỗi nhóm 185 bệnh nhân kết quả ở nhóm điều trị bằng
mycophenolate mofetil tỷ lệ bệnh nhân có kháng thể kháng ds-DNA dương
tính>60IU/ml giảm từ 67,2% trước điều trị xuống còn 41,4% sau điều trị; ở
nhóm điều trị bằng cyclophosphamid tỷ lệ bệnh nhân có kháng thể kháng ds-
DNA dương tính >60IU/ml giảm từ 72,5% trước điều trị xuống còn 53,2%
sau điều trị. Như vậy kết quả của chúng tôi phù hợp với kết quả các nghiên
cứu trong và ngoài nước trên các nhóm bệnh nhân điều trị bằng MP-TM cũng
như trên những nhóm bệnh nhân điều trị bằng mycophenolate mofetil và
cyclophosphamid về sự giảm tỷ lệ bệnh nhân dương tính với kháng thể kháng
ds-DNA cũng như giảm hiệu giá trung bình kháng thể này. Với kết quả này
có thể kết luận MP-TM có tác dụng làm giảm hiệu giá kháng thể kháng ds-
DNA tương đương mycophenolate mofetil và cyclophosphamid.
4.2.3.3. Sự thay đổi nồng độ C3 huyết thanh.
Kết quả bảng 3.8 cho thấy trước điều trị 93,33% bệnh nhân trong nhóm
điều trị MP-TM có nồng độ C3 giảm, tỷ lệ này giảm còn 34,78% sau 1 tháng
điều trị, sau 3 tháng điều trị tỷ lệ bệnh nhân có C3 giảm còn 21,43%. Nồng độ
C3 trung bình trước điều trị 54,93±24,68 mg/dl, sau 1 tháng điều trị nồng độ
C3 trung bình 107,21±25,18 mg/dl tăng có ý nghĩa thống kê so với trước điều
trị với p<0,001, sau 3 tháng nồng độ C3 trung bình 106,14±24,68 mg/dl giảm
rất ít so với sau điều trị 1 tháng, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. So
với trước điều trị nồng độ C3 trung bình tăng có ý nghĩa thống kê với
p<0,001. Với kết quả này chúng tôi nhận xét nồng độ C3 cải thiện sau 1 tháng
điều trị MP-TM và vẫn duy trì ở mức bình thường sau 3 tháng điều trị với liều
thấp methylprednisolon.
95
Giảm nồng độ C3 huyết thanh ở bệnh nhân lupus thận gặp một tỷ lệ khá
cao trong một số nghiên cứu trong và ngoài nước. Trong nghiên cứu của
Chan, T. M và cộng sự (2000)[52] trên 42 bệnh nhân viêm cầu thận tăng sinh
lan tỏa tỷ lệ bệnh nhân có C3 huyết thanh giảm là 69%, trong một nghiên cứu
của Moroni và cộng sự (2007)[95] trên 93 bệnh nhân viêm cầu thận tăng sinh
trước điều trị tỷ lệ bệnh nhân có C3 giảm là 80%. Một nghiên cứu mới đây
của Appel và cộng sự (2009)[32] trên 370 bệnh nhân tỷ lệ C3 giảm 75,4%.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Đĩnh (2011)[11] trên 33 bệnh nhân
HCTH do lupus tỷ lệ bệnh nhân có C3 giảm là 93,9%. Từ những kết quả trên
đây có thể nhận xét giảm C3 huyết thanh có liên quan mật thiết với tổn
thương thận trong bệnh SLE. Về mô bệnh học người ta thấy rằng trong lupus
thận có sự lắng đọng phức hợp miễn dịch ở cả màng đáy cầu thận và tổ chức
kẽ[18],[100]. Sự suy giảm bổ thể có thể là do tăng tiêu thụ trong quá trình
hình thành phức hợp miễn dịch.
Mối liên quan giữa suy giảm C3, C4 cũng được chứng minh trong
nghiên cứu của Hussain và cộng sự (2008)[74], bằng sự phân tích kết quả
nghiên cứu của mình cùng với một số kết quả nghiên cứu trước đó tác giả này
khuyến cáo nên tiến hành xét nghiệm nồng độ C3 huyết thanh cho tất cả các
bệnh nhân lupus thận, xét nghiệm nồng độ C4 huyết thanh nên được tiến hành
cho các bệnh nhân có C3 giảm hoặc nghi ngờ lupus thận, nên chỉ định sinh
thiết thận cho các bệnh nhân có C3, C4 giảm.
Về giá trị trung bình C3 kết quả của nghiên cứu của Bertoni và cộng sự
(1994)[41] trên nhóm bệnh nhân viêm thận lupus điều trị bằng MP-TM nồng
độ C3 trước điều trị là 57,04±6,6 mg/dl, sau 21 tháng điều trị nồng độ trung
bình C3 là 85,33±7 mg/dl tăng có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị với
96
p<0,05. Trong một nghiên cứu khác ở nước ngoài của Hussain và cộng sự
(2008)[74] trên nhóm bệnh nhân lupus thận nồng độ trung bình C3 trước điều
trị là 55±29 và 49±26 mg/dl. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Đĩnh
(2011)[11] trên 33 bệnh nhân lupus có hội chứng thận hư điều trị bằng MP-
TM kết hợp với CYP truyền tĩnh mạch hàng tháng sau 6 tháng điều trị nồng
độ C3 trung bình tăng từ 61,19±24,67mg/dl lên 102,8±122,73 mg/dl khác biệt
có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị (p<0,001). Kết quả của các nghiên
cứu đối kháng của Ginzler và cộng sự (2005)[63] cho thấy nồng độ C3 trung
bình tăng có ý nghĩa thống kê sau 3 tháng điều trị. Như vậy kết quả của
chúng tôi phù hợp với kết quả của các tác giả trong và ngoài nước.
4.2.3.4. Sự thay đổi nồng độ C4 huyết thanh
Trong nghiên cứu của chúng tôi trước điều trị 70% bệnh nhân có nồng độ
C4 giảm < 10mg/dl sau 3 tháng điều trị tỷ lệ bệnh nhân có C4 giảm còn 17,86
%. Nồng độ C4 trung bình tăng từ 8,95±6,95 mg/dl lên đến 20,71±9,75 mg/dl
sau 3 tháng điều trị sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001(bảng 3.9).
Với kết quả này có thể kết luận nồng độ C4 huyết thanh cải thiện tốt sau 3
tháng điều trị MP-TM. Cùng với C3, C4 là một yếu tố có độ nhạy cao trong
chẩn đoán lupus[99]. Các nghiên cứu trong và ngoài nước ngoài đã chứng
minh C3, C4, ds-DNA có giá trị cao trong chẩn đoán bệnh hoạt động và lupus
thận; giảm nồng độ C4 cũng đã được chứng minh có giá trị dự báo đợt cấp,
C4 có thể giảm thấp từ 1-2 tháng trước khi xuất hiện đợt cấp[24],[42], [58],
[62]. Về tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ C4 giảm < 10mg/dl trước điều trị kết quả
của chúng tôi phù hợp với các nghiên cứu trong và ngoài nước như: kết quả
của Chin-Hsiu Liu và cộng sự [86](66,7%), kết quả của Appel và cộng sự
[32] (59,1%) của Nguyễn Văn Đĩnh[11] (63,6%). Sau điều trị tỷ lệ bệnh nhân
97
có C4<10mg/dl của chúng tôi giảm còn 17,86% trong khi kết quả của Appel
và cộng sự (29%), của Nguyễn Văn Đĩnh (3,2%). Có thể giải thích tỷ lệ
C4<10mg/dl trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn của Nguyễn Văn Đỉnh
là do trong nghiên cứu này tác giả sử dụng liệu pháp phối hợp MP-TM với
CYP truyền tĩnh mạch hàng tháng nên hiệu quả đáp ứng có thể tốt hơn của
chúng tôi. Về sự cải thiện nồng độ C4 sau điều trị kết quả của chúng tôi tương
đương một số nghiên cứu ngoài nước đã được công bố[32],[41].
4.2.3.5. Thay đổi IgG, IgM huyết thanh.
Kết quả bảng 3.10 cho thấy trước điều trị 30% bệnh nhân có nồng độ
IgG giảm <700mg/dl, 63,33% bệnh nhân có nồng độ IgG bình thường, chỉ có
6,66% bệnh nhân có nồng độ IgG huyết thanh tăng. Nồng độ IgG trung bình
giảm sau 1 tháng điều trị nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với
trước điều trị (p>0,05), sau 3 tháng điều trị nồng độ IgG tăng trở lại sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê so với sau điều trị 1 tháng (p<0,05). Kết quả nghiên
cứu của Chin-Hsiu Liu và cộng sự[86] trước điều trị tỷ lệ bệnh nhân có IgG
tăng là 60,9%. Ở trong nước chúng tôi chưa thấy ai nghiên cứu vấn đề này.
Tăng IgG thường thấy trong lupus ban đỏ hệ thống, giảm IgG thường thấy
trong hội chứng thận hư. Về cơ chế tác dụng corticoid liều cao có tác dụng
giảm tổng lượng IgG do ức chế tăng sinh biệt hóa tế bào Lympho B. Tuy
nhiên theo Quismorio. FP[102] liệu pháp glucocorticoid liều cao ngắn ngày
làm giảm IgG, IgA huyết thanh nhưng không làm giảm IgM, cũng theo tác giả
này glucocorticoid chỉ làm giảm IgG-ANA, IgG-DNA mà không làm giảm
các kháng thể IgG chống lại các virus và vi khuẩn. Trở lại nghiên cứu của
chúng tôi sau 1 tháng điều trị nồng độ IgG giảm là do tác dụng của MP-TM
tuy nhiên sau đó IgG tăng trở lại có lẽ do tỷ lệ bệnh nhân chịu tác dụng phụ
nhiễm khuẩn khá cao cơ thể phản ứng bảo vệ bằng cách tăng sản xuất kháng
98
thể mà bản chất các kháng thể đó là IgG.
Kết quả bảng 3.11 cho thấy tỷ lệ phân bố và nồng độ IgM trung bình
không thay đổi trước và sau điều trị. Các nghiên cứu chúng tôi thu thập được
về sử dụng MP-TM và các thuốc ức chế miễn dịch khác không thấy các tác
giả khảo sát sự thay đổi chỉ số này. Có thể giải thích sự ổn định nồng độ IgM
sau điều trị MP-TM là IgM ít thay đổi trong bệnh lupus ban đỏ hệ thống và
liệu pháp MP-TM chỉ làm giảm IgG, IgA mà không làm giảm IgM.
Tóm lại: Để khảo sát sự thay đổi một số yếu tố miễn dịch dịch thể ở
bệnh nhân SLE có đợt cấp tổn thương thận trước và sau điều trị MP-TM
chúng tôi đã khảo sát sự thay đổi các yếu tố ANA, ds-DNA, C3, C4, IgG và
IgM trên 57 bệnh nhân SLE trước điều trị và theo dõi điều trị cho 30/57 bệnh
nhân này sau 1 tháng và sau 3 tháng điều trị. Kết quả thu được như sau: có sự
giảm có ý nghĩa thống kê tỷ lệ dương tính cũng như hiệu giá trung bình ds-
DNA. Có sự tăng có ý nghĩa thống kê giá trị trung bình C3 và C4, tỷ lệ bệnh
nhân giảm C3, C4 giảm có ý nghĩa thống kê sau điều trị. Giá trị trung bình
ANA giảm có ý nghĩa thống kê nhưng tỷ lệ bệnh nhân dương tính với ANA
giảm không có ý nghĩa thống kê. Các yếu tố IgG, IgM ở nhóm bệnh nhân này
ít thay đổi trong thời gian theo dõi điều trị. Kết quả thu được trên phù hợp với
kết quả nghiên cứu của một số nghiên cứu trong và ngoài nước trước
đây[11],[36],[41],[83]. Cùng với sự cải thiện mức độ đáp ứng cũng như sự cải
thiện chỉ số SLEDAI(mục 4.2.2) chúng tôi nhận xét MP-TM và methyl-
prednisolon liều thấp có tác dụng giảm đợt cấp tổn thương thận ở bệnh nhân
SLE sau 1 tháng điều trị và duy trì sự ổn định trong thời gian 3 tháng phần
lớn các bệnh nhân nghiên cứu. Nhận xét này phù hợp với lý thuyết về tác
dụng ức chế miễn dịch của methylprednisolon và chỉ định điều trị MP-TM đối
với đợt cấp lupus thận[19],[100],[107].
99
4.2.4. Thay đổi số lượng tế bào máu ngoại vi.
4.2.4.1. Thay đổi hồng cầu, hemoglobin.
Kết quả bảng 3.12 cho thấy trong nhóm bệnh nhân điều trị MP-TM trước
điều trị số lượng hồng cầu trung bình của nhóm bệnh nhân điều trị bằng MP-
TM là 3,78 ± 0,80T/l. Sau 1 tháng điều trị số lượng hồng cầu trung bình của
nhóm bệnh nhân này là 3,79 ± 0,53T/l khác biệt không có ý nghĩa thống kê so
với trước điều trị với p > 0,05. Sau 3 tháng điều trị số lượng hồng cầu trung
bình là 4,18 ± 0,87T/l tăng có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị (p <
0,05). Nồng độ hemoglobin (Hb) trung bình trước điều trị 99,37±17,30 g/l,
sau 1 tháng điều trị chỉ số này tăng chậm sự khác biệt không có ý nghĩa thống
kê so với trước điều trị, sau 3 tháng điều trị nồng độ Hb là 112,68±17,04g/l
tăng có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị với p<0,01. Như vậy đáp ứng
tạo máu đã xuất hiện muộn trên bệnh nhân SLE sau 3 tháng điều trị. Kết quả
nghiên cứu của Phạm Huy Thông (2004)[22] trên 42 bệnh nhân lupus điều trị
bằng methyl-prednisolon liều khởi đầu 80mg/ngày cho thấy đáp ứng tạo máu
xuất hiện sau 4 tuần điều trị. Mới đây Nguyễn Văn Đĩnh (2011)[11] nghiên
cứu trên 33 bệnh nhân lupus có hội chứng thận hư điều trị bằng MP-TM phối
hợp với CYP truyền tĩnh mạch 1 lần/tháng cho kết quả số lượng hồng cầu và
nồng độ Hb tăng có ý nghĩa thống kê sau 6 tháng điều trị. Thiếu máu trong
lupus ban đỏ hệ thống chủ yếu là dạng mạn tính. Tuy vậy tan máu tự miễn,
thiếu máu thiếu sắt, nhiễm độc tủy do thuốc và thiếu máu do suy thận mạn
tính cũng không phải là hiếm gặp. Ngoài liệu pháp corticoid, erythropoietin,
một số thuốc ức chế miễn dịch khác, bổ sung sắt cũng là những liệu pháp có
kết quả trong điều trị thiếu máu ở những bệnh nhân SLE. Trong khuôn khổ
hạn hẹp của đề tài chúng tôi chưa có điều kiện đề cập đến các liệu pháp này.
100
4.2.4.2. Thay đổi bạch cầu
Trong nhóm bệnh nhân điều trị MP-TM số lượng bạch cầu trung bình
trước điều trị là 8,37 ± 4,06, sau 1 tháng điều trị số lượng bạch cầu tăng cao
14,39 ± 6,36 sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị với p<0,01,
sau 3 tháng điều trị số lượng bạch cầu trung bình giảm trở về bình thường sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị (bảng 3.12). Kết quả
này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Phạm Huy Thông (2004)[22]. Số
lượng bạch cầu tăng sau 1 tháng điều trị có thể giải thích là do tác dụng của
corticoid liều cao, khi giảm liều corticoid sau 3 tháng điều trị số lượng bạch
cầu trở về bình thường. Tuy nhiên sự tăng số lượng bạch cầu sau 1 tháng điều
trị còn có thể do phản ứng bảo vệ của cơ thể chống lại tình trạng nhiễm trùng
sau khi dùng corticoid liều cao.
4.2.4.3. Thay đổi tiểu cầu
Về số lượng tiểu cầu kết quả bảng 3.12 cho thấy trong nhóm bệnh nhân
nghiên cứu của chúng tôi trước điều trị chỉ có 3 bệnh nhân có số lượng tiểu
cầu giảm <100.000, sau 3 tháng không còn bệnh nhân có số tiểu cầu giảm.
Giá trị trung bình trước và sau điều trị không thay đổi, sự khác biệt không có
ý nghĩa thống kê với p>0,05. Kết quả này của chúng tôi phù hợp với các
nghiên cứu trước đây ở trong nước. Giảm tiểu cầu là rối loạn huyết học có
gặp trong bệnh lupus nhưng với tỷ lệ không cao và có thể là biểu hiện đầu tiên
của bệnh. Đôi khi giảm tiểu cầu biểu hiện rất nặng đe dọa tính mạng người
bệnh, tuy vậy giảm tiểu cầu trong SLE thường đáp ứng tốt với corticoid và
thuốc ức chế miễn dịch. Nguyên nhân giảm tiều cầu đã được xác định là do
kháng thể kháng tiểu cầu, đây cũng là cơ sở giải thích vì sao giảm tiểu cầu
trong lupus đáp ứng tốt với corticois và thuốc ức chế miễn dịch.
101
4.2.5. Thay đổi các chỉ số sinh hóa máu và nước tiểu.
4.2.5.1. Sự cải thiện protein niệu
Kết quả bảng 3.13 cho thấy trước điều trị 100% bệnh nhân nghiên cứu
có protein niệu >3 g/24h, sau 1 tháng điều trị con số này giảm xuống còn
33,33%, sau 3 tháng điều trị vẫn còn 32,14% bệnh nhân có protein niệu cao
>3 g/24h. Giá trị trung bình protein niệu trước điều trị là 8,66±4,97 g/24h, sau
1 tháng điều trị giảm xuống còn 2,52 ±2,00 g/24h khác biệt có ý nghĩa thống
kê so với trước điều trị với p<0,01. Sau 3 tháng điều trị protein niệu trung
bình tiếp tục giảm còn 2,17± 1,97 g/24h sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so
với trước điều trị với p<0,01. Protein niệu là một chỉ số quan trọng nhất để
đánh giá hiệu quả điều trị và phân loại mức độ đáp ứng. Kết quả của chúng tôi
hoàn toàn phù hợp với một số nghiên cứu trong và ngoài nước trước đây như:
Bertoni và cộng sự (1993)[41] nghiên cứu trên 12 bệnh nhân viêm thận lupus
điều trị bằng MP-TM giá trị trung bình protein niệu trước điều trị là
5,44±1,22 g/24h, sau 21 tháng điều trị protein niệu trung bình là 2,53±1,7
g/24h, kết quả nghiên cứu của Nguyễn Công Chiến (2006)[7] trên nhóm bệnh
nhân lupus điều trị bằng methylprednisolon truyền tĩnh mạch liều cao ngắn
ngày phối hợp với prednisolon liều thấp sau 1 tháng điều trị protein niệu giảm
từ 7,29 ±6,78 g/24h trước điều trị xuống 1,95 ±3,45 g/24h. Trong nghiên cứu
so sánh hiệu quả điều trị giữa 2 liệu pháp điều trị viêm thận lupus bằng cyclo-
phosphamide truyền tĩnh mạch hàng tháng và mycophenolate mofetil của
Ginzler và cộng sự (2005)[63] kết quả cho thấy sự cải thiện protein niệu
tương đương giữa 2 nhóm. Ở nhóm 71 bệnh nhân điều trị bằng MMF protein
niệu trước điều trị là 4,1±3,1 g/24h sau 3 tháng điều trị protein niệu giảm
xuống còn 2,5±3,01 g/24h, sau 6 tháng điều trị 2,03±2,79 g/24g. Ở nhóm 69
bệnh nhân điều trị bằng cyclophosphamid truyền tĩnh mạch protein niệu giảm
102
từ 4,4±3,5 g/24h trước điều trị xuống còn 2,97±3,06 g/24h sau 3 tháng điều trị
và 1,46±1,27 g/24h sau 6 tháng điều trị.
4.2.5.2. Thay đổi hồng cầu niệu và bạch cầu niệu
Kết quả bảng 3.14 cho thấy số lượng trung bình hồng cầu niệu trước
điều trị là 196,40±93,44 tb/µl, sau 1 tháng điều trị là 130,95±91,14 tb/µl giảm
có nghĩa thống kê so với trước điều trị với p<0,01. Sau 3 tháng điều trị số
lượng trung bình hồng cầu niệu giảm còn 86,8±96,76 tb/µl sự khác biệt có
nghĩa thống kê so với trước điều trị với p<0,01. Kết quả này cho thấy tính
trạng viêm thận đã được cải thiện rõ rệt sau 1 tháng, 3 tháng điều trị điều này
khẳng định tác dụng điều trị đợt cấp của methylprednisolon liều cao. Số lượng
trung bình bạch cầu niệu thay đổi không có nghĩa thống kê sau 1 tháng, 3
tháng điều trị (p>0,05).
4.2.5.3. Cải thiện mức urê máu
Kết quả bảng 3.15 cho thấy trước điều trị 60,71% bệnh nhân có tăng
urê máu, tỷ lệ này giảm xuống 20,83% sau 1 tháng điều trị, sau 3 tháng điều
trị chỉ còn 14,81% bệnh nhân có tăng urê máu. Urê máu trung bình giảm có ý
nghĩa thống kê so với trước điều trị với p<0,01. Như vậy, theo kết quả nghiên
cứu urê huyết có sự cải thiện rõ rệt sau 3 tháng điều trị. Kết quả này của
chúng tôi phù hợp với các kết quả nghiên cứu trong nước đã công bố trước
đây[7],[11],[13]. Ở nước ngoài chúng tôi thấy chỉ số này ít được sử dụng
trong theo dõi kết quả điều trị của các liệu pháp
4.2.5.4. Về nồng độ creatinin máu
Trong nhóm bệnh nhân điều trị bằng MP-TM của chúng tôi trước điều
trị 35,71% bệnh nhân có creatinin tăng >100 μmol/l con số này giảm xuống
còn 12,5% sau 1 tháng điều trị, sau 3 tháng điều trị chỉ còn 7,14% bệnh nhân
103
có nồng độ creatinin máu > 100 μmol/l (bảng 3.16). Giá trị trung bình
creatinin trước điều trị là 94,79±66,32 μmol/l, sau 3 tháng điều trị creatinin
máu trung bình giảm còn 81,43±93,30 μmol/l nhưng sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê so với trước điều trị với p>0,05.
Kết quả của một số nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy sự thay
đổi nồng độ creatinin máu trước và sau điều trị khác nhau tùy từng nghiên
cứu. Bertoni và cộng sự (1993)[41] nghiên cứu hiệu quả lâu dài của MP-TM
trên 13 bệnh nhân viêm thận lupus theo dõi trong thời gian 21 tháng các xét
nghiệm sinh hóa được theo dõi 1 lần/ 3 tháng, nồng độ creatinin máu giảm có
ý nghĩa thống kê sau 21 tháng điều trị. Chin-Hsiu Lui và cộng sự (2007)[86]
nghiên cứu ảnh hưởng của liệu pháp MP-TM lên chức năng thận trên 26 bệnh
nhân viêm thận lupus cho kết quả nồng độ creatinin máu giảm không có ý
nghĩa thống kê sau truyền MP-TM với p>0,05. Ở trong nước chúng tôi chưa
tìm thấy nghiên cứu nào theo dõi kết quả điều trị MP-TM trên nhóm bệnh
nhân lupus có tổn thương thận. Như vậy so với các nghiên cứu ở nước ngoài
kết quả của chúng tôi có khác với kết quả nghiên cứu của Bertoni và cộng
sự[41]. Sự khác biệt này có thể giải thích là do nồng độ creatinin máu trung
bình trong nghiên cứu của tác giả này trước điều trị là 144,09±22,1 μmol/l
cao hơn nồng độ creatinin máu trung bình trong nhóm nghiên cứu của chúng
tôi (94,79±66,32μmol/l) và cao hơn giới hạn cao của người bình thường, sau
điều trị 21 tháng nồng độ creatinin máu được cải thiện và trở về bình thường
do đó khi so sánh trước và sau điều trị sự khác biệt có ý nghĩa thống kê cho
dù nồng độ creatinin máu sau điều trị của nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu
này vẫn còn cao hơn nồng độ creatinin máu trung bình sau điều trị trong
nhóm nghiên cứu của chúng tôi.
104
Creatinin máu là một trong 2 chỉ số (cùng với protein niệu) được nhiều
tác giả sử dụng để đánh giá đáp ứng với các liệu pháp điều trị ở bệnh nhân
lupus thận. Đánh giá chỉ số này một lần / 2 tuần là cần thiết và một sự giảm
creatinin máu ở mức 20% ở từng người bệnh biểu hiện một sự đáp ứng tốt với
liệu pháp điều trị. Tăng gấp đôi nồng độ creatinin máu so với lần theo dõi
trước là một tín hiệu xấu báo hiệu sự thất bại của liệu pháp đòi hỏi bệnh nhân
cần phải thay đổi liệu pháp. Trở lại nghiên cứu của chúng tôi sau 1 tháng điều
trị nồng độ creatinin trung bình giảm >20% so với trước điều trị chứng tỏ sự
cải thiện tốt chức năng thận sau điều trị bằng MP-TM.
4.2.5.5. Cải thiện albumin máu
Kết quả bảng 3.17 cho thấy trước điều trị 96,30 % bệnh nhân có
albumin máu giảm<30 g/l. Tỷ lệ này sau 1 tháng điều trị là 52,2% và sau 3
tháng điều trị con số này là 39,28% giảm có ý nghĩa thống kê so với trước
điều trị với p<0,05. Giá trị trung bình của albumin máu trước điều trị rất thấp
21,87±4,55g/l, sau 1 tháng điều tri giá trị trung bình của albumin máu là
30,43±5,85g/l tăng có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị với P < 0,01 và
sau 3 tháng điều trị albumin máu trung bình là 31,49±6,59g/l tăng có ý nghĩa
thống kê so với trước điều trị với p<0,01. Với kết quả này chúng tôi nhận xét
đáp ứng albumin xuất hiện sau 1 tháng điều trị vẫn được duy trì bền vững sau
3 tháng điều trị.
Sự thay đổi albumin máu thường gặp ở bệnh nhân lupus có tổn thương
thận, nguyên nhân giảm albumin máu là do mất qua nước tiểu[5]. Cùng với
protein niệu và creatinin, albumin thường được sử dụng để đánh giá hiệu quả
điều trị tổn thương thận trong bệnh lupus. Trong tiêu chuẩn đánh giá đáp ứng
với điều trị được sử dụng trong nhiều nghiên cứu ngoài nước nồng độ
105
albumin máu >30g/l là một trong 3 tiêu chí đáp ứng hoàn toàn với liệu pháp
điều trị. Ngoài ra trong nghiên cứu của Chin-Hsiu Liu (2007)[86] về tác dụng
của MP-TM trên chức năng thận khi phân tích hồi qui logistic tác giả nhận
thấy albumin máu >35g/l là yếu tố thuận lợi cho sự cải thiện độ thanh thải
creatinin sau điều trị MP-TM, cũng trong nghiên cứu này các tác giả còn đưa
ra kết luận không có sự khác biệt có nghĩa thống kê về tác dụng phụ lên chức
năng thận của liệu pháp MP-TM trên bệnh nhân lupus thận có albumin máu
>20 g/l và mức độ thanh thải creatinin > 30ml/phút. Sự cải thiện Albumin
máu của chúng tôi phù hợp với một số nghiên cứu trong và ngoài nước đã
công bố trước đây[11],[22],[41].
4.2.5.6. Sự cải thiện cholesterol
Kết quả bảng 3.18 cho thấy trước điều trị 91,67% bệnh nhân trong nhóm
điều trị MP-TM của chúng tôi có tăng cholesterol máu, sau 3 tháng điều trị
vẫn còn 77,23% bệnh nhân có cholesterol tăng >5,2mmol/l. Giá trị trung bình
cholesterol trước điều trị 8,57±3,81 mmol/l, sau 3 tháng điều trị giá trị trung
bình cholesterol giảm còn 6,82±2,25 mmol/l sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê so với trước điều trị với p>0,05. Tăng cholesterol trong các bệnh
nhân có tổn thương thận cũng như các bệnh nhân lupus thận là do phản ứng
của cơ thể khi nồng độ albumin máu giảm do mất albumin qua nước tiểu cơ
thể tăng tổng hợp cholesterol để duy tri trì áp lực keo trong hệ tuần hoàn. Ở
nhóm bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi kết quả cho thấy trước điều trị
100% bệnh nhân có protein niệu>3 g/l (bảng 3.14), 96,4% bệnh nhân có
albumin máu giảm <30g/l (bảng 18) do đó một tỷ lệ cao 91,67% bệnh nhân có
tăng cholesterol máu là phù hợp. Trong kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn
Đĩnh (2011)[11] trên nhóm bệnh nhân lupus có hội chứng thận hư cholesterol
trung bình trước điều trị là 7,07±2,742 mmol/l, sau 6 tháng điều trị MP-TM
106
phối hợp với truyền tĩnh mạch cyclophosphamid liều cao ngắt quảng 1 lần/
tháng giá trị cholesterol trung bình là 5,13±1,63 2mmol/l giảm có ý nghĩa
thống kê so với trước điều trị với p<0,01. Như vậy so sánh kết quả của nghiên
cứu của Nguyễn Văn Đĩnh với kết quả của chúng tôi có sự khác biệt điều này
có thể giải thích là do nồng độ cholesterol trung bình trước điều trị trong
nhóm nghiên cứu của chúng tôi cao hơn, mặt khác liệu pháp được tác giả sử
dụng trong nghiên cứu này là liệu pháp phối hợp với thời gian điều trị dài hơn
do đó tỷ lệ đáp ứng cao hơn của chúng tôi.
4.2.5.7. Thay đổi men gan
Kết quả bảng 3.19 cho thấy trước điều trị 36% bệnh nhân có tăng AST.
Tỷ lệ bệnh nhân tăng ALT rất thấp 4%. Sau 3 tháng điều trị chỉ còn 1 bệnh
nhân có ALT tăng. Giá trị trung bình AST giảm có ý nghĩa thống kê sau 3
tháng điều trị với p<0,05, giá trị trung bình ALT trước điều trị ở trong giới
hạn của người bình thường và không thay đổi trong quá trình điều trị. Trong
bệnh lupus ban đỏ hệ thống cũng như trong lupus thận sự thay đổi men gan
gặp với tỷ lệ rất thấp, ở nghiên cứu của chúng tôi trước điều trị gặp 36% bệnh
nhân có tăng AST có thể là do tác dụng phụ của một số thuốc mà bệnh nhân
đã sử dụng trước đó, sau điều trị hầu hết bệnh nhân có men gan trở về bình
thường chứng tỏ methyl-prednisolon dung nạp tốt, ít ảnh hưởng đến chức
năng gan. Nhận xét này phù hợp với các nghiên cứu trong và ngoài nước đã
công bố trước đây[7],[41]. 4.3. ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG ĐÁP ỨNG
Kết quả bảng 3.21 cho thấy ở một số chỉ số giá trị thuận lợi thuộc về nhóm đáp ứng so với nhóm không đáp ứng. Nồng độ C4 huyết thanh trước điều trị khác biệt có ý nghĩa thống kê khi được kiểm định theo các nhóm đáp ứng và không đáp ứng và các yếu tố này có vai trò tiên lượng đáp ứng. Các chỉ số khác sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Khi tiến hành thuật toán
107
phân tích hồi qui logistic với các yếu tố nguy cơ tiên lượng đáp ứng nồng độ C4 huyết thanh giảm có ý nghĩa cho tiên lượng đáp ứng với p=0,039, OR=6,67(1,1-40,43, CI=95%) (bảng 3.22).
Kết quả bảng 3.23 cho thấy có sự khác biệt về nồng độ trung bình
cholesterol máu trước điều trị giữa nhóm đáp ứng so với nhóm không đáp
ứng. Khi tiến hành thuật toán phân tích hồi qui logistic với các yếu tố nguy cơ
tiên lượng đáp ứng vì ở nhóm không đáp ứng không có bệnh nhân nào có
nồng độ cholesterol <5,2mmo/l nên không tính được OR cho yếu tố này
(bảng 3.24). Liu và cộng sự[86] trong nghiên cứu ảnh hưởng của MP-TM lên
chức năng thận khi phân tích các yếu tố nguy cơ tiên lượng cho sự cải thiện
độ thanh thải creatinin cho kết quả albumin máu>3,5mg/dl là có ý nghĩa tiên
lượng cho sử cải thiện độ thanh thải creatinin với p=0,023, OR=11,33. Kết
quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Đĩnh[11] trên nhóm bệnh nhân hội chứng
thận hư điều trị bằng cyclophosphamid huyết áp không cao là yếu tố nguy có
tiên lượng đáp ứng với p<0,05, OR=6,7(1,3-33,7). Sự khác nhau về kết quả
phân tích hồi qui logistic các yếu tố tiên lượng đáp ứng giữa các nghiên cứu
theo chúng tôi là do sự khác nhau về biến mục tiêu.
4. 4. TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN TRONG QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRỊ
Kết quả bảng 3.25 cho thấy có tổng số 7 tác dụng không mong muốn
được ghi nhận nhiễm khuẩn là tác dụng phụ gặp nhiều nhất chiếm tỷ lệ
16,6%. Các tác dụng phụ khác gặp với tỷ lệ rất thấp 3,3-9,9%.
4.4.1. Nhiễm khuẩn
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 5/30 bệnh nhân có biểu hiện nhiễm
trùng sau điều trị MP-TM chiếm tỷ lệ 16,6%. Tất cả các trường hợp đều được
chẩn đoán bằng xét nghiệm bạch cầu tăng cao chủ yếu là bạch cầu đa nhân
108
trung tính, CRP tăng. Không có biến cố nhiễm trùng nặng được ghi nhận
(nhiễm trùng máu có cấy máu dương tính, sốc nhiễm khuẩn, lao…). Nhiễm
trùng là một biến chứng được nhiều tác giả quan tâm, lo lắng nhiều nhất khi
nghiên cứu điều trị SLE bằng các thuốc ức chế miễn dịch . Đối với liệu pháp
MP-TM do có tỷ lệ biến chứng nhiễm trùng khá cao được ghi nhận khi sử
dụng liều cao (1000mg/ngày) một số tác giả nước ngoài đã thiết kế các đề tài
nghiên cứu đánh giá hiệu quả liệu pháp MP-TM liều thấp hơn (≤500mg). Đã
có một số nghiên cứu sử dụng MP-TM liều thấp để điều trị cho bệnh nhân
SLE có tổn thương thận thu được kết quả hiệu quả đáp ứng tương đương
trong khi tỷ lệ xuất hiện biến chứng nhiễm khuẩn giảm có ý nghĩa thống kê so
với khi điều trị điều trị bằng MP-TM liều cao[36],[83].
Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Công Chiến(2006)[7] về tác dụng
phụ của methylprenisolon liều cao trên bệnh nhân lupus có tổn thương nội
tạng, tỷ lệ biến cố nhiễm trùng khá cao 42,9%. Trong nghiên cứu của Nguyễn
Văn Đĩnh[11] trên nhóm bệnh nhân hội chứng thận hư điều trị bằng MP-TM
phối hợp với cyclophosphamid truyền tĩnh mạch liều cao ngắt quãng tỷ lệ
bệnh nhân có biến chứng nhiễm khuẩn là 39%. Tỷ lệ mắc nhiễm khuẩn sau
điều trị trong nghiên cứu điều trị lupus thận bằng MP-TM của của Illi và
cộng sự[75] là 19 %, của Kong và cộng sự[83] 20%, của Badsha và cộng sự
[36] 26%. Trong nghiên cứu điều trị các bệnh nhân lupus thận hoạt động của
Bertoni và cộng sự[41] sau 21 tháng theo dõi không có trường hợp nhiễm
khuẩn nặng nào được tác giả công bố. Như vậy tỷ lệ nhiễm khuẩn trong
nghiên cứu của chúng tôi tương đương với kết quả nghiên cứu của các tác giả
nước ngoài và thấp hơn tỷ lệ nhiễm khuẩn của các tác giả trong nước.
4.4.2. Các tác dụng phụ khác
Trong nghiên cứu này các tác dụng không mong muốn khác như: đau
109
khớp, đau cơ, rối lọan tâm thần, loét dạ dày...chúng tôi gặp với tỷ lệ rất thấp
từ 3,3 đến 9,9%.
Một trong những tác dụng phụ đã được báo cáo khi điều trị bằng liệu
pháp MP-TM là tác dụng phụ gây loạn nhịp tim có thể dẫn tới tử vong.
Nguyên nhân của biến chứng này có thể giải thích là do tác dụng gây giảm
kali máu của methylprednisolon liều cao. Trong nghiên cứu của chúng tôi
không gặp trường hợp nào có biểu hiện loạn nhịp tim. Các nghiên cứu sử MP-
TM trong và ngoài nước có sử dụng MP-TM trong những năm gần đây chúng
tôi không thấy biến chứng loạn nhịp tim gây tử vong được báo cáo. Tuy nhiên
theo chúng tôi mặc dù tỷ lệ xuất hiện tác dụng phụ loạn nhịp tim thấp nhưng
đây là biến chứng nguy hiểm có thể gây tử vong do đó trong quá trình điều trị
bằng liệu pháp MP-TM người bệnh cần được theo dõi chặt chẽ nhất là xét
nghiệm kali máu cần được tiến hành trước điều trị và theo dõi hằng ngày để
hạn chế sự xuất hiện biến chứng này[41],[59],[88],[95],[97],[107],[123].
Từ những phân tích trên đây chúng tôi kết luận MP-TM dung nạp tốt
khi điều trị cho bệnh nhân lupus có đợt cấp tổn thương thận điều này phù hợp
với nhận xét của các nghiên cứu trước đây của Bertoni và cộng sự và của
Kanno A và cộng sự[41],[81].
110
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu sự thay đổi một số yếu tố miễn dịch dịch thể trên 57
bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống có đợt cấp tổn thương thận và theo dõi điều
trị bằng methylprednisolon ở 30/57 bệnh nhân này chúng tôi rút ra kết luận
sau đây:
1. Hiệu quả điều trị bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống có đợt cấp tổn
thương thận bằng MP-TM.
1.1. Hiệu quả đáp ứng sau 1 tháng, 3 tháng điều trị.
- Sau 1 tháng điều trị: Đáp ứng hoàn toàn 14,28%, đáp ứng một phần
50%, không đáp ứng 35,71%.
- Sau 3 tháng điều trị: Đáp ứng hoàn toàn 32,14 %, đáp ứng một phần
35,71%, không đáp ứng 32,14 %.
1.2. Cải thiện chỉ số SLEDAI
Trước điều trị 100% bệnh nhân có chỉ số SLEDAI >10 điểm, sau 1 tháng
điều trị tỷ lệ này giảm xuống 30,77%, sau 3 tháng điều trị còn 38,46% bệnh
nhân có SLEDAI> 10 điểm.
Chỉ số SLEDAI trung bình trước điều trị là 18±3,23 điểm, sau 1 tháng
điều trị SLEDAI trung bình giảm xuống 9,15±3,21 điểm, sau 3 tháng điều trị
SLEDAI trung bình là 8,96±3,42 điểm, giảm có ý nghĩa thống kê so với trước
điều trị ở cả hai thời điểm (p<0,01).
1.3. Cải thiện chức năng thận
Ure máu giảm có ý nghĩa thống kê sau 1 tháng và 3 tháng điều trị
(p<0,01). Albumin máu tăng có ý nghĩa thống kê sau 1 tháng, 3 tháng điều trị
với p <0,01. Creatinin máu duy trì ổn định ở mức bình thường sau 3 tháng
điều trị (p>0,05).
111
2. Sự thay đổi miễn dịch dịch thể ở bệnh nhân lupus có đợt cấp tổn
thương thận trước và sau điều trị.
2.1. Kháng thể kháng nhân, kháng ds-DNA Hiệu giá ANA trước điều trị là 3,54±1,58 (OD), sau 3 tháng điều trị
2,23±1,27(OD), giảm có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị với p<0,01. Tỷ lệ bệnh nhân có ANA dương tính giảm không có ý nghĩa thống kê sau 3 tháng điều trị (p>0,05).
Hiệu giá ds-DNA trước điều trị là 355,86±396,46 IU/ml, sau 3 tháng điều trị 54,07±54,82 IU/ml giảm có ý nghĩa thống kê với p<0,01. Tỷ lê bệnh nhân có ds-DNA dương tính giảm từ 78,57% xuống còn 29,63% sau 3 tháng điều trị, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
2.2. Các thành phần bổ thể C3, C4 huyết thanh Nồng độ C3 huyết thanh trước điều trị là 54,93±24,68mg/dl, sau 1
tháng điều trị nồng độ C3 là 107,21±25,18 mg/dl, sau 3 tháng điều trị nồng độ C3 là 106,14±24,68 mg/dl, tăng có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị ở cả hai thời điểm (p<0,01). Tỷ lệ bệnh nhân có C3 giảm trước điều trị là 93,33%, sau 3 tháng điều trị tỷ lệ này giảm xuống 21,43%.
Nồng độ C4 huyết thanh trước điều trị là 8,95±6,95 mg/dl, sau 1 tháng điều trị 19,44±9,20 mg/dl, sau 3 tháng điều trị 20,71±9,75 tăng có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị ở cả hai thời điểm (p<0,001). Tỷ lệ bệnh nhân có C4 giảm trước điều trị là 70%, sau 3 tháng điều trị tỷ lệ này giảm xuống còn 17,86%.
Nồng độ C4 là yếu tố nguy cơ tiên lượng đáp ứng điều trị với p=0,039, OR=6,67(1,1-40,43, CI=95%)
2.3. IgG, IgM huyết thanh Nồng độ IgG, IgM huyết thanh không thay đổi sau 3 tháng điều
trị(p>0,05).
112
KIẾN NGHỊ
- Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy sau 1 tháng điều trị bằng
MP-TM kết hợp với methylprednisolon đường uống còn 35,71% bệnh nhân
không đáp ứng, tỷ lệ này không thay đổi sau 3 tháng điều trị, đối với những
bệnh nhân này cần chỉ định liệu pháp MP-TM mỗi tháng một lần cho đến khi
đạt được đáp ứng hoặc điều trị phối hợp các thuốc ức chế miễn dịch khác giúp
cải thiện biểu hiện tổn thương thận, kéo dài cuộc sống cho người bệnh.
- Đưa các xét nghiệm kháng thể kháng ds-DNA, định lượng C3, C4 máu
ngoại vi vào danh mục các xét nghiệm theo dõi điều trị bệnh nhân lupus ban
đỏ hệ thống có đợt cấp tổn thương thận.
MỤC LỤC
Lời cảm ơn Lời cam đoan Mục lục Chữ viết tắt Danh mục bảng Danh mục biểu đồ Danh mục hình ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................................. 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN ....................................................................................... 4
1.1. SINH BỆNH HỌC CỦA SLE ..............................................................................................4
1.1.1. Vai trò yếu tố gen........................................................................................... 4
1.1.2. Vai trò của yếu tố môi trường....................................................................... 6
1.1.3. Yếu tố hoóc môn............................................................................................ 7 1.2. TỔN THƯƠNG THẬN TRONG BỆNH LUPUS...........................................................8
1.2.1. Dịch tễ học tổn thương thận lupus và tiên lượng điều trị ........................... 8
1.2.2. Tổn thương mô bệnh học viêm thận lupus và mối liên quan với các
biểu hiện lâm sàng. ................................................................................................. 10
1.2.3 Các biểu hiện ngoài thận .............................................................................. 20
1.2.4. Điều trị tổn thương thận trong bệnh lupus ban đỏ hệ thống. ................... 20 1.3. RỐI LOẠN MIỄN DỊCH DỊCH THỂ TRONG LUPUS THẬN ...............................32
1.3.1. Các tự kháng thể........................................................................................... 32
1.3.2. Các bất thường miễn dịch khác .................................................................. 34 1.4. RỐI LOẠN MIỄN DỊCH TẾ BÀO...................................................................................37
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU................38 2.1. ĐỊA ĐIỂM VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU ...............................................................38
2.1.1. Địa điểm nghiên cứu.................................................................................... 38
2.1.2. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................. 38
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .....................................................................................41
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu ..................................................................................... 41
2.2.2. Khám lâm sàng............................................................................................. 41
2.2.3. Phác đồ điều trị............................................................................................. 44
2.2.4. Đánh giá kết quả........................................................................................... 44
2.2.5. Về xét nghiệm .............................................................................................. 45
2.2.6. Các bước tiến hành nghiên cứu .................................................................. 51
2.2.7. Sơ đồ nghiên cứu.......................................................................................... 52
2.2.8. Sai số và cách khắc phục sai số .................................................................. 53
2.2.9. Đạo đức nghiên cứu..................................................................................... 53
2.2.10. Xử lý số liệu................................................................................................ 53
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU..............................................................54 3.1. ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN .................................................................................................54
3.1.1. Phân bố bệnh nhân theo tuổi....................................................................... 54
3.1.2. Phân bố bệnh nhân theo giới....................................................................... 54
3.1.3. Các tiêu chuẩn chẩn đoán theo ACR 1997 lúc nhập viện....................... 55
3.1.4. Các biểu hiện sinh học của các bệnh nhân lupus có tổn thương thận
lúc vào viện. ............................................................................................................ 56 3.2. KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN LUPUS BAN ĐỎ HỆ THỐNG CÓ TỔN THƯƠNG THẬN BẰNG MP-TM...........................................................................................57
3.2.1. Hiệu quả đáp ứng sau 1 tháng, 3 tháng điều trị MP-TM......................... 57
3.2.2. So sánh tỷ lệ bệnh nhân đáp ứng với điều trị sau 1 tháng và 3 tháng ..... 58
3.2.3. Thay đổi chỉ số hoạt động bệnh (SLEDAI) trước và sau điều trị
MP-TM.................................................................................................................... 59
3.2.4. Thay đổi miễn dịch dịch thể trước và sau điều trị..................................... 60
3.2.5. Thay đổi các chỉ số huyết học trước và sau điều trị.................................. 64
3.2.6. Thay đổi các chỉ số sinh hóa trước và sau điều trị .................................... 65
3.2.7. Thay đổi các biểu hiện sinh học ở bệnh nhân SLE có đợt cấp tổn
thương thận trước và sau điều trị........................................................................... 70 3.3. XÁC ĐỊNH CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐÁP ỨNG ĐIỀU TRỊ. ....................71 3.4. CÁC TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN VÀ BIẾN CHỨNG TRONG QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRỊ ............................................................................................................73
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN..........................................................................................74 4.1. ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN TRONG LÚC NHẬP VIỆN..............................................74
4.1.1. Tuổi và giới................................................................................................... 74
4.1.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán theo ACR 1997 lúc nhập viện.............................. 75
4.1.3. Các biểu hiện sinh học của các bệnh nhân lupus có tổn thương thận
lúc vào viện. ............................................................................................................ 78 4.2. KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN LUPUS CÓ ĐỢT CẤP TỔN THƯƠNG THẬN BẰNG MP-TM. ..............................................................................................................82
4.2.1. Hiệu quả đáp ứng sau 1 tháng, 3 tháng điều trị MP-TM.......................... 83
4.2.2. Cải thiện chỉ số hoạt động bệnh SLEDAI-2K........................................... 86
4.2.3. Khảo sát sự thay đổi miễn dịch dịch thể ở bệnh nhân SLE có đợt
cấp tổn thương thận trước và sau điều trị methylprednisolon ............................ 88
4.2.4. Thay đổi số lượng tế bào máu ngoại vi...................................................... 99
4.2.5. Thay đổi các chỉ số sinh hóa máu và nước tiểu....................................... 101 4.3. ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG ĐÁP ỨNG............................................ 106 4.4. TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN TRONG QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRỊ........... 107
4.4.1. Nhiễm khuẩn ..............................................................................................107
4.4.2. Các tác dụng phụ khác...............................................................................108
KẾT LUẬN .................................................................................................................110 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Các yếu tố môi trường có liên quan đến bệnh sinh của SLE.............. 6
Bảng 2.1: Thang điểm SLEDAI-2K.........................................................................41
Bảng 2.2: Ý nghĩa thay đổi điểm SLEDAI trước sau điều trị .............................43
Bảng 3.1. Phân bố bệnh nhân theo tuổi. ..................................................................54
Bảng 3.2. Các tiêu chuẩn chẩn đoán theo ACR 1997 lúc nhập viện..................55
Bảng 3.3. Các trị số sinh học của bệnh nhân lúc vào viện ...................................56
Bảng 3.4. Tỷ lệ bệnh nhân đáp ứng sau 1 tháng, 3 tháng điều trị. ....................57
Bảng 3.5. Thay đổi giá trị trung bình chỉ số SLEDAI- 2K trước và sau điều trị..........................................................................................................59
Bảng 3.6. Thay đổi kháng thể kháng nhân .............................................................60
Bảng 3.7. Thay đổi kháng thể kháng ds-DNA........................................................61
Bảng 3.8. Thay đổi nồng độ bổ thể C3 trong huyết thanh. ..................................62
Bảng 3.9. Thay đổi nồng độ bổ thể C4 trong huyết thanh...................................62
Bảng 3.10. Thay đổi IgG trong máu ngoại vi.........................................................63
Bảng 3.11. Thay đổi IgM trong máu ngoại vi.........................................................64
Bảng 3.12. Cải thiện các giá trị huyết học trước và sau điều trị. ........................64
Bảng 3.13. Thay đổi protein niệu ..............................................................................65
Bảng 3.14. Thay đổi hồng cầu niệu, bạch cầu niệu................................................66
Bảng 3.15. Thay đổi ure máu.....................................................................................66
Bảng 3.16. Thay đổi creatinin máu..........................................................................67
Bảng 3.17. Thay đổi albumin máu............................................................................67
Bảng 3.18. Thay đổi Cholesterol máu .....................................................................68
Bảng 3.19. Thay đổi men gan.....................................................................................69
Bảng 3.20. Các trị số sinh học của bệnh nhân SLE có đợt cấp tổn thương thận trước và sau điều trị. .......................................................................70
Bảng 3.21. Đặc điểm miễn dịch dịch thể trước điều trị của các nhóm bệnh
nhân đáp ứng và không đáp ứng. ..........................................................71
Bảng 3.22. Mối liên quan giữa nồng độ C4 với đáp ứng điều trị........................71
Bảng 3.23. Đặc điểm sinh hóa máu, nước tiểu liên quan đến tổn thương thận của các nhóm bệnh nhân đáp ứng và không đáp ứng. ............72
Bảng 3.24. Mối liên quan giữa Cholesterol và đáp ứng điều trị ........................72
Bảng 3.25. Phân bố các tác dụng không mong muốn ở các bệnh nhân trong quá trình điều trị. ...........................................................................73
Bảng 4.1 Các tiêu chuẩn chẩn đoán theo ACR 1997 của các nghiên cứu đã công bố.........................................................................................................78
Bảng 4.2. Hiệu quả đáp ứng của một số nghiên cứu ngoài nước .......................86
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. ....................................................................Phân bố bệnh nhân theo giới 55
Biểu đồ 3.2. So sánh tỷ lệ bệnh nhân đáp ứng với điều trị sau 1 tháng và 3 tháng điều trị...........................................................................................58
Biểu đồ 3.3....................................Phân bố chỉ số SLEDAI theo mức độ hoạt động 59
Biểu đồ 3.4. ................. Tỷ lệ âm tính, dương tính với ANA trước và sau điều trị 60
Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ âm tính, dương tính với kháng thể kháng ds-DNA trước và sau điều trị..................................................................................61
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Viêm cầu thận lupus tăng sinh gian mạch.............................................16
Hình 1.2. Viêm cầu thận lupus tăng sinh.................................................................17
Hình 1.3. Viêm cầu thận lupus màng.......................................................................17
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1. Các con đường hoạt hóa bổ thể .............................................................35
Sơ đồ 2.1. Nguyên lý của xét nghiệm kháng thể kháng nhân..............................48
Sơ đồ 2.2. Tóm tắt các bước tiến hành nghiên cứu................................................52