Upload
dong-pham-thanh
View
75
Download
6
Embed Size (px)
Citation preview
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 3 4 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Trung tâm văn hóa doanh nhân Việt Nam
100 Bài thơ hay thế
kỷ XX
Nhà xuất bản Giáo dục
T.t văn hóa doanh nhân Việt Nam
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 5 6 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
tựa
"Một trăm bài thơ hay thế kỷ XX" - đó là kết quả
bước đầu cuộc thi: "Bình chọn một trăm bài thơ hay thế
kỷ XX" của Trung tâm Văn hóa Doanh nhân Việt Nam
và Nhà xuất bản Giáo dục phối hợp tổ chức. Trên hai
năm kể từ khi phát động cuộc thi đến nay đã có tới hàng
nghìn bài dự thi của các tác giả từ ba mươi sáu tỉnh thành
trong cả nước và đồng bào ở nước ngoài như: Nga,
Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Đức… gửi tác phẩm về
tham dự.
Rất nhiều bạn đọc cho rằng đây là một cuộc thi
độc đáo, đặc biệt có lẽ vào loại nhất ở nước ta của cả một
thế kỷ. Chúng tôi rất cảm ơn những ý kiến của bạn đọc
nhưng có lẽ nó độc đáo ở chỗ đây không phải là sự lựa
chọn của một nhóm người nào mà cả một tập thể lớn bạn
đọc trong cả nước. Và chọn bài thơ hay chứ không chọn
tên tác giả. Tác phẩm dự thi chỉ chọn "tên" sáng tác, mà
cụ thể là "tên" của một trăm bài thơ vào loại hay nhất.
Độc đáo, đặc biệt và cũng thật là mạo hiểm. Nó mạo
hiểm ở chữ "hay".
Ban tổ chức và hội đồng giám khảo sau nhiều khó
khăn và phức tạp cuối cùng cũng lựa chọn một cách công
phu, nghiêm túc và trách nhiệm trong tổng số hàng nghìn
tác giả với hàng triệu bài thơ đã được công bố trên thi
đàn Việt Nam trong suốt thế kỷ XX qua sự sàng lọc chọn
lựa của hàng nghìn “thí sinh” đồng thời là giám khảo
chọn ra 100 bài thơ hay này. Một thế kỷ – nghĩa là một
trăm năm chỉ có một trăm bài thơ hay.
Tuy đã được tinh tuyển công phu nhưng cũng chưa
thể khẳng định một cách dứt khoát. Bởi vì lấy gì làm mực
thước cho sự "hay" này.
Cái chỗ để chúng ta cùng bằng lòng với nhau đó là
sự chọn lựa là của một tập thể đông đảo các thí sinh ở
nhiều lứa tuổi, nhiều trình độ, nhiều học vấn, nhiều vùng
quê khác nhau. Trong đó có cả các nhà văn, nhà thơ, các
giáo sư nổi tiếng, những người từng giảng dạy nhiều năm
trong các trường Đại học, trường PTTH, những người
Việt đang sống và làm việc ở nước ngoài chung góp lại.
"Một trăm bài thơ hay thế kỷ XX" đã định hình.
Phải nói đây là một công trình tập thể của những người
yêu thơ trong và ngoài nước và cũng phải nói rằng đây
mới chỉ là bước đầu cho dù đã hết sức khắt khe, nghiêm
túc và minh chính.
Chúng tôi nghĩ kết quả này phải được công bố
dưới hình thức xuất bản và cuối cùng thời gian và công
chúng sẽ tiếp tục giúp chúng ta trả lại sự công bằng minh
chính cho thơ ca.
Chúng tôi hy vọng và trông chờ mọi ý kiến tham
gia góp ý xây dựng và chỉ bảo cụ thể của bạn đọc trong
và ngoài nước. Chúng tôi xin nghiêm túc tiếp thu và từng
bước tiếp tục hoàn chỉnh để chúng ta sớm có được một
tác phẩm thi ca chọn lọc xứng đáng với một dân tộc, một
đất nước giàu truyền thống anh hùng và thơ mộng: Việt
Nam.
Trung tâm Văn hóa Doanh nhân Việt Nam –
Nhà xuất bản Giáo dục
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 7 8 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Hồ Chí Minh (1890 – 1969)
Chữ hán
phiên âm
thế lộ nan
Tẩu biến cao sơn dữ tuấn nham
Na tri bình lộ cánh nan kham
Cao sơn ngộ hổ chung vô dạng
Bình lộ phùng nhân khước bị giam.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 9 10 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Dịch nghĩa
đường đời hiểm trở
Từng đi khắp núi cao non hiểm, ngờ đâu đến nơi
đường phẳng lại gặp nhiều gian nan. Nơi núi cao gặp
hổ, chung quy vẫn không sao. Xuống đường phẳng
gặp người lại bị bắt giam.
Dịch thơ
Đi khắp đèo cao, khắp núi cao
Ngờ đâu đường phẳng lại lao đao
Núi cao gặp hổ mà vô sự
Đường phẳng gặp người, bị tống lao.
Phùng khắc bắc
(1944 – 1991). Quê: Bắc Giang
Tác phẩm thơ đã in: Một chấm xanh.
Ngày hòa bình đầu tiên
Những sợi nắng xuyên qua nhà mình
Thành những mũi tên
Thành những viên đạn
Bắn tiếp vào anh không gì che chắn
Phải nhận tất cả
Van anh.
Hôm qua chưa nhận được viên đạn
Hôm nay nhận những lỗ thủng
Vũ khí lúc này hai bàn tay
Mẹ giục:
– Ăn cơm, con!
Hòa bình trong canh cua, mồng tơi, cà
Và
Mùi ổ rơm.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 11 12 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Nguyễn bính
(1918 – 1966). Quê: Nam Định
Tác phẩm thơ đã in: Lỡ bước sang ngang.
Tâm hồn tôi. Hương cố nhân. một nghìn
cửa sổ. Người con gái ở lầu hoa. Mười hai
bến nước. Mây tần. Tỳ bà truyện. ông lão
mài gươm. Đồng tháp mười. Trả ta về.
Gửi người vợ miền Nam. Trông bóng cờ bay.
Tiếng trống đêm xuân. tình nghĩa đôi ta.
đêm sao sáng. nước giếng khơi.
tuyển tập Nguyễn Bính.
những bóng người trên sân ga
Những cuộc chia lìa khởi tự đây
Cây đàn sum họp đứt từng dây
Những lời phiêu bạt thân đơn chiếc
Lần lượt theo nhau suốt tối ngày
Có lần tôi thấy hai cô bé
Sát má vào nhau khóc sụt sùi
Hai bóng chung lưng thành một bóng
"Đường về nhà chị chắc xa xôi?"
Có lần tôi thấy một người yêu
Tiễn một người yêu một buổi chiều
ở một ga nào xa vắng lắm
Họ cầm tay họ bóng xiêu xiêu
Hai người bạn cũ tiễn chân nhau
Kẻ ở trên toa kẻ dưới tàu
Họ giục nhau về ba bốn bận
Bóng nhòa trong bóng tối từ lâu
Có lần tôi thấy vợ chồng ai
Thèn thẹn đưa nhau bóng chạy dài
Chị mở khăn giầu, anh thắt lại:
"Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi!"
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 13 14 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Có lần tôi thấy một bà già
Đưa tiễn con đi trấn ải xa
Tàu chạy lâu rồi bà vẫn đứng
Lưng còng đổ bóng xuống sân ga
Có lần tôi thấy một người đi
Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì
Chân bước hững hờ theo bóng lẻ
Một mình làm cả cuộc phân ly
Những chiếc khăn màu thổn thức bay
Những bàn tay vẫy những bàn tay
Những đôi mắt ướt tìm đôi mắt
Buồn ở đâu hơn ở chốn này?
Thu bồn
(1935 – 2003). Quê: Quảng Nam
Tác phẩm thơ đã in: bài ca chim ch'rao (tc). Tre xanh.
Quê hương mặt trời vàng. azan khát.
cămpuchia hy vọng (tc). Oran 76 (TC).
Người vắt sữa Bầu trời (tc). Thông điệp
mùa Xuân (TC). Tuyển tập trường ca
100 bài thơ tình nhờ em đặt tên.
Tạm biệt huế
Bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ
Chén ngọc giờ chìm đáy sông sâu
Những lăng tẩm như hoàng hôn
chống lại ngày quên lãng
Mặt trời vàng và mắt em nâu
Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 15 16 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy
Nắng mênh mang mấy nhịp Tràng Tiền
Nón rất Huế nhưng đời không phải thế
Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng
Nhịp cầu cong và con đường thẳng
Một đời anh tìm mãi Huế nơi đâu
Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
Tạm biệt Huế với em là tiễn biệt
Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya
Tạm biệt nhé chiếc hôn thầm lặng
Anh trở về hóa đá phía bên kia.
Huế, 8-1983
đồng đức bốn
(948 – 2004). Quê: Hải Phòng
Tác phẩm thơ đã in: chăn trâu đốt lửa.
trở về với mẹ ta thôi.
cuối cùng vẫn còn dòng sông.
tuyển tập thơ đồng đức bốn.
vào chùa
đang trưa ăn mày vào chùa
Sư cụ cho một lá bùa rồi đi
Ăn mày không biết làm gì
Lá bùa nhét túi lại đi ăn mày.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 17 18 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Nhã ca
Sinh: 1939. Quê: Thừa Thiên Huế
Hiện sinh sống ở nước ngoài
Tác phẩm đã in: Trên 36 truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết... và tập
Thơ nhã ca (gồm Thi tập Nhã Ca mới và
những bài thơ mới viết, 1973).
Tiếng chuông thiên mụ
Tôi lớn lên bên này sông Hương
Con sông chẻ đời ra những vùng thương nhớ
Cây trái Kim Long, sắt thép cầu Bạch Hổ
Cửa từ bi vồn vã bước chân sông
Mặt nước xanh trong suốt tuổi thơ hồng
Tháp cổ chuông xưa sông hiền sóng mọn
Những đêm tối bao la những ngày tháng lớn
Những sáng chim chiều dế canh gà
Tiếng chuông buồn vui dợn thấu trong da
Người với chuông như chiều với tối
Tôi bỏ nhà ra đi năm mười chín tuổi
Đêm trước ngày đi nằm đợi tiếng chuông
Cuối cơn điên đầu giấc ngủ đau buồn
Tiếng chuông đến dịu dàng lay tôi dậy
Tiếng chuông đến và đi chỉ mình tôi thấy
Chỉ mình tôi nhìn thấy tiếng chuông tan
Tiếng chuông tan đều như hơi thở anh em
Tiếng chuông tan rời như lệ mẹ hiền
Tiếng chuông tan lâu như mưa ngoài phố
Tiếng chuông tan dài như đêm không ngủ
Tiếng chuông tan tành như tiếng vỡ trong tôi
Từ dạo xa chuông khôn lớn giữa đời
Đổi họ thay tên viết văn làm báo
Cơm áo dạy mồm ăn lơ nói láo
Cửa từ bi xưa mất dấu đứa con hư
Tháp cổ chuông xưa, sông nhỏ sương mù
Dòng nước cũ trong mắt nhìn ẩm đục
Con đường cũ trong hồn nghe cỏ mọc
Chuông cũ giờ đây bằn bặt trong da
Tuổi hồng sa chân chết đuối bao giờ
Ngày tháng cũ cầm bằng như nước lũ
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 19 20 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Nhưng sao chiều nay bỗng bàng hoàng nhớ
Tiếng chuông xưa bừng sống lại trong tôi
Tiếng chuông xưa kìa tuổi dại ta ơi
Chuông òa vỡ trong tôi nghìn tiếng nói
Những mảnh đồng đen như da đêm tối
Những mảnh đồng đen như tiếng cựa mình
Những mảnh đồng đen như máu phục sinh
Những mảnh đồng đen kề nhau bước tới
Tôi thức dậy rồi đây chuông ơi chuông hỡi
Tôi thức dậy đây tôi thức dậy rồi
Thức dậy thực sự rồi
Thức dậy cùng giông bão, thức dậy cùng tan vỡ
Thức dậy cùng lịch sử
Mẹ hiền ơi thành phố cũ chiều nay
Có tiếng chuông nào rơi như lệ trên tay
Trên mặt nước trên mặt người mặt lộ
Cho con trở về đứng mê sảng ngó.
văn cao
(1923 – 1995). Quê: Nam Định
Tác phẩm thơ đã in: những người trên cửa biển.
Lá. tuyển tập thơ văn cao
Chiếc xe xác qua phường dạ lạc
Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa
Chập chờn ảo hóa tà ma...
Đôi dãy hồng lâu cửa mở phấn sa
Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục
Lạnh ngắt tiếng ca nhi phách giục
Tình tang... Não nuột khóc tàn sương
áo thế hoa rũ rượi lượn đêm trường
Từng mỹ thể rạc hơi đèn phù thế
Ta đi trên đường dương thế
Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây.
Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy
Xác trụy lạc rũ bên thềm lá phủ
Ai hát khúc thanh xuân hờ ơi phấn nữ
Thanh xuân hờ thanh xuân
Bước gần ta chút nữa thêm gần
Khoảng giữa tuổi thanh xuân
nghe loạn trùng hút tủy
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 21 22 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Ai hủy đời trai trên tang trống nhỉ?
Hay ác thần gõ quách nạo mồ khuya!
Đảo điên... mê say... Thể phách chia lìa
Nghe gieo mạnh chuỗi tiền cười lạnh lẽo!
Tiền rơi! Tiền rơi! Chùm sao huyền diệu
Lấp lánh hằng hà gạo rơi! Tiền rơi!
Ta lả nhìn cửa sổ mắt mờ rồi
Vàng mấy lá thừa đãi thây phủ chiếu.
Ngã tư nghiêng nghiêng chia nẻo
Dặt dìu cung bậc âm dương
Tàn xuân nhễ nhại mưa cô tịch
Đầm đìa rả rích phương Đông
Mang mang thở dài hôn đất trích
Lưới thép trùng trùng khép cố đô
Cửa ô đau khổ
Bốn ngả âm u
(Nhà ta thuê mái gục tự mùa Thu
Gác cô độc hướng về phường Dạ Lạc)
Đêm đêm, đài canh tan tác
Bốn vực nhạc động, vẫy người
Dẫy đèn chao thắp đỏ quạnh máu đời
Ta về gác gió cài then cửa cũ
Trên đường tối đêm khỏa thân khiêu vũ
Kèn nhịp xa điệu múa vô luân
Run rẩy giao duyên khối nhạc trầm trầm
Hun hút gió nâng cầm ca nặng nhọc
Kiếp người tang tóc
Loạn lạc đòi nơi xương chất lên xương
Một nửa kêu than, ma đói sa trường
Còn một nửa lang thang tìm khoái lạc
Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
Đi vào ngõ khói Công Yên
Thấy bâng khuâng lối cỏ u huyền
Hương nha phiến chập chờn mộng ảo
Bánh nghiến nhựa đang kêu sào sạo
– Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe
Chiếc quỷ xa qua bốn ngả ê chề
Chở vạn kiếp đi hoang ra khỏi vực
Mưa, mưa hằng thao thức
Trong phố lội đìu hiu
Mưa, mưa tràn trên vực
Trong tối gục tiêu điều
Mang linh hồn cô liêu
Tiếng xe càng ám ảnh
Tiếng xe dần xa lánh
Khi gà đầu ô kêu.
1945
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 23 24 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Vũ cao
Sinh: 1922. Quê: Nam Định
Hiện sống và viết tại Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: sớm nay, đèo trúc. Núi đôi
Núi đôi
Bảy năm về trước em mười bảy
Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng
Xuân Dục Đoài, Đông hai cánh lúa
Bữa thì em tới, bữa anh sang
Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi
Em vẫn đùa anh: Sao khéo thế
Núi chồng, núi vợ đứng song đôi!
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi, đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó mất tin nhau
Anh vào bộ đội, lên đông bắc
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mỗi bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục, núi Đôi chăng?
Anh nghĩ quê ta giặc chiếm rồi
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi
Mỗi tin súng nổ vùng đai địch
Sương trắng người đi lại nhớ người.
Đồng đội có nhau thường nhắc nhở
Trung du làng nước vẫn chờ trông
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông?
Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn, anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh ghé thăm nhà, thăm núi Đôi
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 25 26 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Mới đến đầu ao, tin sét đánh
Giặc giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành, chết thuỷ chung
Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em!
Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong!
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng?
Từ núi qua thôn, đường nghẽn lối
Xuân Dục, Đoài, Đông cỏ ngút đầy
Sân biến thành ao nhà đổ chái
Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay
Cha mẹ dìu nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương nắng khuây dần chuyện xót đau
Anh nghe có tiếng người qua chợ
Ta gắng, mùa sau lúa sẽ nhiều
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu!
Nhưng núi còn kia, anh vẫn nhớ
Oán thù còn đó, anh còn đây
ở đâu cô gái làng Xuân Dục
Đã chết vì dân giữa đất này!
Ai viết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi: em, đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng
Anh đi bộ đội, sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.
1956
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 27 28 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Hoàng cầm
Sinh: 1922. Quê: Bắc Ninh
Hiện sống và viết tại Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: Men đá vàng (tc).
mưa thuận thành. Lá diêu bông.
bên kia sông đuống. Về Kinh bắc. 99 tình
khúc.
bên kia sông đuống
em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang từng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?
Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 29 30 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những cô nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?
Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa Thu toả nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Trầm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa màu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?
Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa Đông
Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp bên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ.
Thuyền ai thấp thoáng bến Hồ
Xoá cho ta hết những giờ thảm thương.
Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 31 32 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc giày vò những nét môi xinh
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn.
Đêm buông xuống dòng sông Đuống
– Con là ai? Con ở đâu về
Hé một cánh liếp
– Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng
Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo trên đống lửa
Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa Xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu buổi trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu:
– "à ơi! Cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn, càng sâu mối thù"
Tiếng em cắt cỏ hôm xưa
Căm căm gió rét mịt mù mưa bay
– "Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu..."
Em ơi? Đừng hát nữa! Lòng anh đau
Mẹ ơi đừng khóc nữa! Dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 33 34 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm chắc tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười.
Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời...
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
Việt Bắc 4-1948
Huy cận
(1919 - 2005). Quê: Hà Tĩnh
Tác phẩm thơ đã in: lửa thiêng. vũ trụ ca.
Đất nở hoa. Bài thơ cuộc đời. Những năm
sáu mươi. cô gái mèo. Chiến trường gần
chiến trường xa. Những người mẹ
những người vợ. Ngày hằng sống
ngày hằng thơ. Ngôi nhà giữa nắng.
hạt lại gieo.
Tràng giang
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
H.C
Tặng Trần Khánh Giư
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy giòng
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 35 36 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
nông quốc chấn
Dân tộc Tày
(1923 – 2003). Quê: Bắc Cạn
Hiện sống và viết tại: Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: tiếng ca người việt bắc.
đèo gió. Bước chân pác pó.
Dòng thác. suối và biển.
Tuyển tập thơ nông quốc chấn.
Dọn về làng
Mẹ! – Cao Lạng hoàn toàn giải phóng
Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn
Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng dầy như củi
Sáng mai về làng, sửa nhà phát cỏ
Cày ruộng vườn, trồng lúa ngô khoai
Mấy năm qua quên tết tháng Giêng
quên rằm tháng Bảy
Chạy hết núi lại khe cay đắng đủ mùi
Nhớ một hôm mù mịt mưa rơi
Cơn gió bão trên rừng cây đổ
Cơn sấm sét lán sụp xuống nát cửa
Đường đi lại vắt bám đầy chân
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 37 38 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Súng nổ kìa! Giặc Tây lại đến lùng
Từng cái lán nó đốt đi trơ trụi
Nó vơ vét áo quần trong túi
Mẹ địu em chạy tót lên rừng
Lẩn đi trước, mẹ vẫy gọi con sau lưng
Tay dắt bà, vai đeo đẫy nải
Bà lòa mắt không biết lối bước đi
Làm sao bây giờ: Ta phải chống
Giặc đã bắt cha con đi, nó đánh
Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây
Súng nổ ngay đì đùng một loạt
Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất
Cha ơi! Cha không biết nói rồi...
Chúng con còn thơ, ai nuôi, ai dậy
Không ai chống gậy khi bà cụ qua đời!
Mẹ ngồi khóc con cúi đầu cũng khóc
Sợ Tây nghe mẹ dỗ "nín", con im
Lán anh em rải rác không biết nơi tìm
Không ván, không người đưa cha đi cất
Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng
Con cởi áo liệm thân cho bố!
Mẹ con đưa cha đi nằm một chỗ
Máu đầy tay, trên mặt nước tràn
Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn
Băm xương thịt mày tao mới hả!
Hôm nay Cao-Bắc-Lạng cười vang
Dọn lán, rời rừng, người xuống làng
Người nói cỏ lay trong ruộng rậm
Con cày, mẹ phát ruộng ta quang
Đường cái kêu vang tiếng ô tô
Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ
Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá
Mặc gà gáy, chó sủa không lo
Ngày hai bữa rau ta có muối
Ngày hai buổi không tìm củ pấu, củ nâu
Có bắp say độn gạo no lâu
Đường ngõ từ nay không cỏ rậm
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 39 40 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Trong vườn chuối hổ không dám đến đẻ con
Quả trên cành không lo tự chín, tự rụng
Ruộng không thành nơi máu chảy từng vũng
Bộ đội đỡ phải đi thung lũng núi rừng
Ra đường xe hát, nói ung dung
Từng đoàn người dắt lá cây tiến bước
Súng bên vai, bao gạo buộc bên vai
Chân đi có giầy không sợ nẻ
Trên đầu có mũ che nắng mưa
Mặt trời lên sáng rõ rồi mẹ ạ
Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà
Giặc Pháp, giặc Mỹ còn giết người,
cướp của trên đất nước ta
Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ.
Mùa Đông, 1950
Nguyễn bá chung
Việt kiều tại Mỹ
Quê hương
Ba mươi năm xa cách quê hương
Bảy lần về thôi cũng là tạm đủ
Nhớ lần đầu – tóc tang trời ủ rũ
Đến bây giờ ánh sáng đã bừng lên
Có cái gì là lạ không thể quên
Như nỗi nhớ không biết tên mà gọi
Như nỗi đau không thể làm dịu vợi
Như ngôi nhà vẫn mãi mãi đi tìm
Như bầu trời nửa xám nửa không quen
Mảnh đất vỡ bồi máu xương ta đó
Đỉnh Yên Tử hoa đại còn vết đỏ
Những người xưa vì nước xả thân mình
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 41 42 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Con đường quê vẫn mãi mãi gập ghềnh
Bao năm tháng những người làng chịu đói
Năm ất Dậu tất cả làng tụ lại
Ăn cháo hoa suốt cả mấy tháng trời
Bát cháo hoa mà ngọt cả một đời
Quý hơn cả bao ngọc vàng cộng lại
Xa ngàn dặm để mà còn nhớ mãi
Vết thương đau chưa chôn đủ tháng ngày
Để về đây nhận lại mặt người
Để mình biết mình vẫn là mình cũ
Bao đổi thay thăng trầm bong lớp vỏ
Nhìn quê hương để lại nhận ra mình.
Vũ hoàng chương
(1916 – 1976). Quê: Nam Định
Tác phẩm thơ đã in: thơ say. Mây. Thơ lửa.
tâm sự kẻ sang tần. Rừng phong.
Hoa đăng. tâm tình người đẹp.
Trời một phương. lửa từ bi. ánh sáng
đạo lý. Bút nở hoa đàm. cành mai
trắng mộng. Ta đợi em từ ba mươi năm.
say đi em
Khúc nhạc hồng êm ái
Điệu kèn biếc quay cuồng
Mặt trời phấn hương
Đôi người gió sương
Đầu xanh lận đận, cùng xót thương,
càng nhớ thương
Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề,
tình nay sao héo
Hồn ngã lâu rồi nhưng chân còn dẻo
Lòng chót nghiêng mà bước vẫn du hương
Lòng nghiêng tràn hết yêu đương
Bước chân còn nhịp nghê thường lẳng lơ
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 43 44 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ
Âm ba gờn gợn nhỏ
ánh sáng phai phai dần
Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân
Lui đôi vai, tiến đôi chân
Riết đôi tay, ngả đôi thân
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió
Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ
Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta!
Cổ chưa khô, đầu chưa nặng, mắt chưa hoa
Tay mềm mại, bước còn chưa chếnh choáng
Chưa cuối xứ Mê Ly, chưa cùng trời Phóng Đãng
Còn chưa say, hồn khát vẫn thèm men
Say đi em! Say đi em
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho cung bậc ngả nghiêng, điên rồ xác thịt
Rượu, rượu nữa và quên, quên hết!
Ta quá say rồi
Sắc ngã màu trôi
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi?
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say con còn biết chi đời
Như em ơi,
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt thành Sầu chưa sụp đổ;
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ em ơi.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 45 46 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Hoàng trần cương
Sinh: 1948. Quê: Nghệ An
Hiện sống và viết tại: Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: đường chân trời. Dấu vết
tháng ngày. trầm tĩnh (Tc)
Miền trung
Bao giờ em về thăm
Mảnh đất quê anh một thời ngún lửa
Miền Trung mỏng và sắc như cật nứa
Chuốt ruột mình thành dải lụa sông Lam
Miền Trung
Tấm lưng trần đen sạm
Những đốt sống Trường Sơn lởm chởm giăng màn
Thoáng bóng giặc núi lửa thành bàng súng
Những đứa con văng như mảnh đạn
Thương mẹ một mình trời sinh đá mồ côi
Miền Trung
Đã bao đời núi với bể kề đôi
Ôi! Bể Đông – giọt nước mắt của muôn ngàn
thế hệ
Nóng hổi như vừa lăn xuống
Theo những tảng đá cụt đầu
của Trường Sơn uy nghiêm
Miền Trung
Câu ví dặm nằm nghiêng
Trên nắng và dưới cát
Đến câu hát cũng hai lần sàng lại
Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 47 48 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Miền Trung
Bao giờ em về thăm
Mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt
Lúa con gái mà gầy còm úa đỏ
Chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ
Không ai gieo mọc trắng mặt người
Miền Trung
Eo đất này thắt đáy lưng ong
Cho tình người đọng mật
Em gắng về đừng để mẹ già mong.
5-1990
đoàn văn cừ
(1913 – 2004). Quê: Nam Định
Tác phẩm thơ đã in: thôn ca. Thôn ca II.
Dọc đường xuân. đường về
quê mẹ. Tuyển tập đoàn văn cừ.
đường về quê mẹ
u tôi ngày ấy mỗi mùa Xuân
Dặm liễu mây bay sắc trắng ngần
Lại dẫn chúng tôi về nhận họ
Bên miền quê ngoại của hai thân
Tôi nhớ đi qua những rặng đề
Những dòng sông trắng lượn ven đê
Cồn xanh bãi tía kề liền tiếp
Người xới cà ngô rộn bốn bề
Thúng cắp bên hông nón đội đầu
Khuyên vàng yếm thắm, áo the nâu
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 49 50 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Trông u chẳng khác thời con gái
Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au
Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng
Đoàn người về ấp gánh khoai lang
Trời xanh cò trắng bay từng lớp
Xóm chợ lều phơi xác lá bàng
Tà áo nâu in giữa cánh đồng
Gió chiều cuốn bụi bốc sau lưng
Bóng u hay bóng người thôn nữ
Cúi nón mang đi cặp má hồng
Tới đường làng gặp những người quen
Ai cũng khen u nết thảo hiền
Dẫu phải theo chồng thân phận gái
Đường về quê mẹ vẫn không quên.
1942
Lâm thị mỹ dạ
Sinh: 1949. Quê: Quảng Bình
Hiện sống và viết tại: Thừa Thiên Huế
Tác phẩm thơ đã in: trái tim sinh nở.
Bài thơ không năm tháng.
hái tuổi em đầy tay. Mẹ và con.
đề tặng một giấc mơ.
Anh đừng khen em
Lần đầu khi mới làm quen
Anh khen cái nhìn em đẹp
Trời mưa òa cơn nắng đến
Anh khen đôi má em hồng
Gặp người tàn tật em khóc
Anh khen em nhạy cảm thông
Thấy em sợ sét né giông
Anh khen sao mà hiền thế
Thấy em nâng niu con trẻ
Anh khen em thật dịu dàng
Khi hôn lên câu thơ hay
ấp trang sách vào mái ngực
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 51 52 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Em nghe tim mình thổn thức
Thương người làm thơ đã mất
Trái tim giờ ở nơi đâu
Khi đọc một cuộc đời buồn
Lòng em xót xa ấm ức
Anh khen em cảm xúc
Và bao điều nữa... anh khen
Em sợ lời khen của anh
Như sợ đêm về trời tối
Nhiều khi ngồi buồn một mình
Trách anh sao mà nông nổi
Hãy chỉ cho em cái kém
Để em nên người tốt lành
Hãy chỉ nơi anh cái xấu
Để em chăm chút đời anh
Anh ơi anh có biết không
Vì anh em buồn biết mấy
Tình yêu khắt khe thế đấy
Anh ơi anh đừng khen em.
Xuân diệu
(1916 – 1985). Quê: Hà Tĩnh
Tác phẩm thơ đã in: thơ thơ. Gửi hương cho gió.
Ngọn quốc kỳ. Hội nghị non sông. mẹ con.
Ngôi sao. Riêng chung. Mũi cà mau
với cầm tay. Một khối hồng. Hai đợt sóng.
Tôi giàu đôi mắt. Hồn tôi đôi cánh.
Thanh ca. Tuyển tập xuân diệu.
Nguyệt cầm
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lạnh, ôi đàn chậm!
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 53 54 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh,
Lung linh bóng sáng bỗng rung mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh.
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi...
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người.
Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.
Phạm tiến duật
Sinh: 1941. Quê: Phú Thọ
Hiện sống và viết tại: Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: vầng trăng quầng lửa.
Thơ một chặng đường. ở hai đầu núi.
Tiếng bom và tiếng chuông.
Cô bộ đội ấy đã đi rồi
Cô bộ đội ấy đã đi rồi
Chuyển đơn vị vào vùng rừng trong ấy
Em gái đi, các anh ở lại
Biết đến bao giờ mới được gặp nhau
Lũng thì thẳm mà rừng thì sâu
Để hun hút nhớ nhau biền biệt
Bao nhiêu bạn bè, bao nhiêu bạn bè thân thiết
Xa nhau như xa nhau hôm nay
Thôi em đừng bẻ đốt ngón tay
Nước mắt dễ lây mà rừng thì lặng quá
Anh biết rồi bao nhiêu vất vả
Tháng năm dài cùng nhau đi qua
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 55 56 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Để sáu bảy năm em gái xa nhà
Hăm bảy tuổi chuyện chồng con chưa nói
Cả một thời trẻ trung sôi nổi
ở bên nhau bếp lửa giữa rừng xa
Nhớ nhau, nhớ nhau ở giữa rừng già
Ngón tay nóng cầm viên thuốc mát
Cái đêm đói ngồi nghe chim đắp tát
Con chó vàng cọ chân em đòi ăn
Nhớ nhau, nhớ nhau những buổi mưa dầm
Căn nhà dột tóc em ướt hết
Anh ngồi nghĩ gì em chẳng biết
Cứ hát tràn những câu hát bâng quơ
Nhớ trưa đỉnh đèo ta đứng ngẩn ngơ
Nhìn mây trắng chân trời ngỡ biển
Biển Đông thì xa, biết ta nhìn chẳng đến
Nhưng em vui anh kể chuyện em nghe
Trưa vác gạo ta dừng bên khe
Một đoàn tù binh đi qua đang đứng ngó
Bên những thằng người áo quần loang lổ
Bóng em lồng bóng suối trong veo
Lúc ấy lòng anh biết mấy tự hào
Tự hào vì có em ở đây, tự hào vì đất nước
ở đây màu hồng xiết bao thân thuộc
Xao xuyến lòng anh, xao xuyến bạn bè
Đến chào anh sáng mai em đi
Như ngày nào chào bà con hàng xóm
Sự xa cách nhỏ trong sự xa cách lớn
Một cuộc chia tay trong triệu cuộc chia tay
Rồi ngày mai xa vắng nơi đây
Em lại có bao nhiêu đồng đội mới
Trong chiến tranh một khát khao sôi nổi
Là nhân dân đoàn tụ muôn đời
Cô bộ đội ấy đã đi rồi.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 57 58 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Quang dũng
(1921 - 1988). Quê: Sơn Tây
Tác phẩm thơ đã in: bài thơ sông Hồng. Mây đầu ô
Thơ văn quang dũng.
tây tiến
sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ, bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa Xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Phù Lưu Chanh 1949
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 59 60 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
khương hữu dụng
(1907 – 2005). Quê: Quảng Nam
Tác phẩm thơ đã in: kinh nhật tụng
của người chiến sĩ. Từ đêm 19.
Những tiếng thân yêu. quả nhỏ. Bi bô.
Lên côn sơn
Lên đỉnh Côn Sơn tìm Nguyễn Trãi
Trên đầu xanh ngắt một bầu không
Bàn cờ thế sự quân không động
Mà thấy quanh mình nỗi bão giông.
Nguyễn duy
Sinh 1948. Quê: Thanh Hóa
Hiện sống và viết tại: Tp Hồ Chí Minh
Tác phẩm thơ đã in: cát trắng. ánh trăng. Bụi.
mẹ và em. đường xa. Quà tặng. Về.
đò lèn
Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
Níu váy bà đi chợ Bình Lâm
Bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
Và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
Chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
Mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
Điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng
Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
Bà mò cua xúc tép ở Đồng Quan
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 61 62 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Dao thập thững những đêm hàn
Tôi trong suốt giữa hai bờ hư thực
Giữa bà tôi và tiên, phật, thánh, thần
Cái năm đói củ rong riềng luộc sượng
Cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm
Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
Đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn
Tôi đi lính lâu không về quê ngoại
Dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
Khi tôi biết thương bà thì đã muộn
Bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi.
Hồ dzếnh
(1916 – 1991). Quê: Trung Quốc (sinh tại Thanh Hóa)
Tác phẩm thơ đã in: quê ngoại. hoa xuân đất việt.
Chiều
Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngây
Tiếng buồn vang trong mây
Chim rừng quên cất cánh
Gió say tình ngây ngây
Có phải sầu vạn cổ
Chất trong hồn chiều nay?
Tôi là người lữ khách
Màu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây...
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 63 64 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Tản đà
(1889 – 1939). Quê: Hà Tây
Tác phẩm thơ đã in: Khối tình con i, ii, iii.
tản đà vận văn i, ii. Thơ tản đà.
Thăm mả cũ bên đường
Chơi lâu nhớ quê về thăm nhà
Đường xa, người vắng, bóng chiều tà
Một dãy lau cao làn gió chạy
Mấy cây thưa lá sắc vàng pha
Ngoài xa trơ một đống đất đỏ
Hang hốc đùn lên đám cỏ gà
Người nằm dưới mả, ai ai đó?
Biết có quê đây hay vùng xa?
Hay là thuở trước kẻ cung đao?
Hám đạn liều tên quyết mũi dao
Cửa nhà xa cách vợ con khuất
Da ngựa gói bỏ lâu ngày cao
Hay là thuở trước kẻ văn chương?
Chen hội công danh nhỡ lạc đường
Tài cao phận thấp chí khí uất
Giang hồ mê chơi, quên quê hương
Hay là thuở trước khách hồng nhan?
Sắc sảo khôn ngoan trời đất ghen
Phong trần xui gặp bước lưu lạc
Đầu xanh theo một chuyến xuân tàn
Hay là thuở trước khách phong lưu?
Vợ con đàn hạc đề huề theo
Quan san xa lạ đường lối khó,
Ma thiêng nước độc phong sương nhiều
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 65 66 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Hay là thuở trước bậc tài danh?
Đôi đôi lứa lứa cũng linh tinh
Giận duyên tủi phận hờn ân ái
Đất khách nhờ chôn một khối tình!
Suối vàng sâu thẳm biết là ai
Mả cũ không ai kẻ đoái hoài
Trải bao ngày tháng trơ trơ đó
Mưa dầu, nắng dãi, trăng mờ soi!
ấy thực quê hương con người ta
Dặn bảo trên đường những khách qua
Có tiếng khóc oe thời có thế
Trăm năm ai lại biết ai mà.
Lê đạt
Sinh: 1929. Quê: Yên Bái
Hiện sống và viết tại: Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: bóng chữ.
Cha tôi
Đất quê cha tôi
đất quê Đề Thám
Rừng rậm sông sâu
Con gái cũng đòi theo nghề võ
Ngày nhỏ
cha tôi dẫn đầu
lũ trẻ chăn trâu
Phất ngọn cờ lau
Vào rừng Na Lương đánh trận
Mơ làm Đề Thám...
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 67 68 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Lớn lên,
Cha tôi đi dạy học
Gối đầu lên cuốn Chiêu hồn nước
Khóc Phan Chu Trinh
Như khóc người nhà mình
Ôm mộng bôn ba hải ngoại
Lênh đênh khói một con tàu
Sớm tối
ngâm nga mấy vần cảm khái
Đánh nhau với Tây
Bỏ việc
lang thang
vào Nam
ra Bắc
Cắt tóc đi tu
nhưng quá nặng nghiệp đời
Gần hai mươi năm trời
Tôi vẫn nhớ lời cha tôi cháy bỏng
Dạy tôi
làm thơ
ước mơ
hy vọng
Những câu Kiều say sưa
đưa cuộc đời bay bổng
Tiếng võng
trưa hè mênh mông
"Phong trần mài một lưỡi gươm
Những phường giá áo túi cơm sá gì".
Nhưng công việc làm ăn mỗi ngày một khó
Cuộc đời chợ đen chợ đỏ
Thù hằn con người
"Muốn sống thanh cao
đi lên trời
mà ở
Mày đã quyết kiêu căng
Níu lấy cái lương tâm gàn dở
Dám
không tồi
như chúng tao
Suốt đời mày sẽ khổ".
Quan lại trù cha tôi
cứng đầu cứng cổ
Người "An-nam" dám đánh "ông Tây"
Mẹ ỉ eo dằn vặt suốt ngày
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 69 70 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Chửi mèo, mắng chó:
"Cũng là chồng là con
Chồng người ta khôn ngoan
Được lòng ông tuần ông phủ
Mang tiền về nuôi vợ".
Bát đĩa xô nhau vỡ
Cha tôi nằm thở dài
Anh em tôi, bỏ cơm
Hai đứa dắt nhau ra đường tha thẩn
Trời mùa Thu trăng sáng
Sao nở như hoa
Không biết Ngưu Lang trên kia
Có bao giờ cãi nhau cùng Chức Nữ.
Rồi cha tôi
lui tới nhà quan tuần, quan phủ
Lúc về
gặp tôi
đỏ mặt
quay đi
Một hôm...
tôi thấy chữ R.O(*)
treo ngoài cửa
Cha tôi không dạy tôi làm thơ nữa
Người còn bận đếm tiền
ghi sổ
Thỉnh thoảng nhớ những ngày oanh liệt cũ
Một mình uống rượu say
Ngâm mấy câu Kiều,
ôm mặt khóc
Tỉnh dậy
lại loay hoay
ghi sổ
đếm tiền
Hai vai lún xuống
Như không mang nổi cuộc đời
Bóng in tường vôi
im lặng
Ngọn đèn lắt leo ánh sáng
Bóng với người
như nhau
_______________ (*) Régied o pium: Cửa hàng đ ược phép Tây cho bán thuố c
phiệ n.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 71 72 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Mùi ẩm mốc, tiếng mọt kêu cọt kẹt
ở chân bàn
hay ở cha tôi?
Cuộc sống hàng ngày
nhỏ nhen
tàn bạo.
Rác rưởi gia đình
miếng cơm
manh áo
Tàn phá con người.
Những mơ ước thời xưa
như con chim gẫy cánh
Rũ đầu chết ngạt trong bùn
Năm tháng mài mòn
bao nhiêu khát vọng.
Cha đã dạy con một bài học lớn
Đau thương
kiên quyết làm người.
7-1956
Nguyễn khoa điềm
Sinh: 1943. Quê: Thừa Thiên Huế
Hiện sống và viết tại: Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: Đất ngoại ô. Mặt đường
khát vọng (Tc). Ngôi nhà có ngọn lửa ấm.
Thơ Nguyễn khoa điềm.
mẹ và quả
những mùa quả mẹ tôi hái được
Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng
Những mùa quả lặn rồi lại mọc
Như mặt trời, khi như mặt trăng
Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
Còn những bí và bầu thì lớn xuống
Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn
Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi
Và chúng tôi, một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái
Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh?
1982
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 73 74 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
cầm giang
(1931 - 1989). Quê: Thanh Hoá
Tác phẩm thơ đã in: gió núi biên phòng.
Rừng trắng hoa ban. Người bản
nà phiêu. nà phiêu đánh mỹ
núi mường hung(*)
dòng sông mã
Anh là núi Mường Hung
Em là dòng sông Mã
Sông nhiều rêu, nhiều cá
Núi nhiều thú, nhiều măng
Chiều bóng anh che sông
Sớm mắt em lóng lánh
Sáo cành cây anh thổi vang lanh lảnh
Gió lùa qua miệng anh lại mỉm cười
Rộn lòng em thuyền độc mộc ngược xuôi
Như trăm nỗi băn khoăn khi đến tuổi
Nếu trời làm em sóng nổi
Anh ngả mình ngăn lại lúc phong ba
Em là búp bông trắng
Anh là ngọn lúa vàng
_______________ (*) Núi Mường Hung là núi lớn nhấ t ở Sơn La, Lai Châu.
Thi nhau lớn đẹp nương
Toả mùi thơm cùng nghe chim hót
Em cứ về nhà trước
Đợi anh ở bên sông
Anh làm no lòng mường
Em làm vui ấm bản
Nếu con gấu giẫm gãy cành bông trắng
Lá lúa anh sẽ cứa đứt chân
Nếu lúa này chuột, khỉ dám đến ăn
Sợi bông em sẽ bay mù mắt nó
Anh là rừng thẳm
Em là suối sâu
Cây rừng anh làm cầu
Bắc ngang lên dòng suối
Hoa sim nở đỏ chói
Soi bóng xuống lòng em
Nếu hùm về, suối em thành thác
Nếu sói về, rừng anh sẽ thành chông
Quyết chẳng chịu đau lòng
Đời chúng ta rừng núi
Suối em phá tan bóng tối
Rừng anh chặn lại bão giông
Để anh lớn mãi thành núi Mường Hung
Em ngoan chảy thành dòng sông Mã.
2-1953
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 75 76 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
bùi giáng
(1926 – 2001). Quê: Quảng Nam
Tác phẩm thơ đã in: mưa nguồn. Ngàn thu rơi hột.
Lá hoa cồn. Màu hoa trên ngàn.
Mắt buồn
Dặm khuya ngất tạnh mù khơi
Nguyễn Du
Bóng mây trời cũ hao mòn
Chiêm bao náo động riêng còn hai tay
Tấm thân với mảnh hình hài
Tấm thân thể với canh dài bão giông
Cá khe nước cõng lên đồng
Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một Giêng
Tạ từ tháng Chạp quay nghiêng
ấn trang sử lịch thu triền miên trôi
Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ người yêu, bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con.
t.t.kh
Cho đến nay vẫn không rõ nhân thân tác giả.
Hai sắc hoa "ti gôn"
Một mùa Thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu đương
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong
Và phương trời thẳm mờ sương cát
Tay vít dây hoa trắng cạnh lòng
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng: "Hoa dáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi"
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 77 78 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp: "Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biết suy"
Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời gian khổ chết yêu đương
Người xa xăm quá, tôi buồn lắm
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường
Từ đấy thu rồi thu lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy cho nên vẫn hững hờ
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim bóng một người
Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm pha
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa Thu trước rất xa xôi
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ
Chiều thu hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi! Người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?
1937
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 79 80 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
trần mạnh hảo Sinh: 1949. Quê: Nam Định
Hiện sống và viết tại Tp Hồ Chí Minh
Tác phẩm thơ đã in: mặt trời trong lòng đất. Ba
cặp núi và một hòn núi lẻ. Mình
anh trong một thế giới. đất
nước hình tia chớp. Thơ tứ tuyệt
trần mạnh hảo. giáng tiên.
Nguyễn Trãi, trước giờ tru di
Trên đường pháp trường con dâu ta trở dạ
Tiếng cháu thét chào đời
như tiếng nghìn chim lợn báo tang
Đội ơn vua ban tã lót
Để cháu khỏi bị chém trần truồng trên thớt
Ôi con đường ba họ ta đến nơi thọ hình
Sao dài hơn đường mười năm Lam Sơn
phò Thái Tổ
Ông Cao Xanh bỏ kinh thành về rừng xưa ở
Nơi vua lấy đất làm ngai, tình huynh đệ
làm long bào
Nơi ta mót dần xã tắc cho vua như mót lúa
Chừng như ta đã đi con đường này từ ải Bắc
Tiễn cha già hay đưa tiễn đời ta?
Đêm mưa đá, mưa tròng ngươi,
mưa xuống nghìn con mắt
Ôi xã tắc
Con đường nào cũng dẫn đến pháp trường
Bàn tay chỉ đường nào cũng bàn tay đao phủ
Thân tùng bách há phải thân mồng tơi
Mây trắng xưa ơi
Sao giờ toàn những đám mây mưng mủ
Ta thương xã tắc không mất về tay giặc
Lại mất về tay bọn nịnh thần
Triều đình ai cũng là Lê Sát
Mắt thiên tử như Nam Hải đố ai lấp đầy giai nhân
Luân thường đem gác gác bếp
Chỉ ba ông đầu rau nhìn thấy dân
Ôi Hàn Tín, Phạm Tăng, Phàn Khoái
Gió trung thần đang hú gọi hồn đi
Dưới vòm trời Lã Hậu
Mưa tru di đỏ rực gió lăng trì
Lẽ nào gươm Hán Cao Tổ cùn đến vậy?
Thị Lộ ơi, dưới lòng sông
hẳn nàng nóng ruột đợi ta
Rắn quyền lực muôn đời còn phục đấy
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 81 82 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Đôi ta bị trói chặt vào nhau
bằng dây trói mãng xà
Vẫn biết vân cẩu bày trò sinh diệt chơi
Lịch sử cợt đùa sai đúng
Sao cứ quặn lòng nhìn đám trẻ lôi thôi
Đội ơn vua không trói chúng
Tội chết chém còn được vua ban đao phủ cõng
Giá chỉ mình ta chui qua lỗ nẻ
giữa đất dày trời cao
ừ, mây mù vừa làm cỏ sạch trăng sao
Chợt gió dữ tru di mây trời từng đám
Mặt trời văng ra như đầu thánh hiền bị trảm
Sao phép nước dùng dao chém đại thần
Để chém trẻ sơ sinh?
Mai sau lấy gì chém sông núi?
Đầu người đang rụng quanh ta
Máu là nước lũ Hồng Hà dời non
Hồn ta là đứa trẻ con
Đi vào cõi chết vẫn còn ngu ngơ
Nỗi oan không chết bao giờ
Ta còn bị chém dọc bờ thế nhân.
Sài Gòn, tháng 9-1993
tế hanh
Sinh: 1921. Quê: Quảng Ngãi
Hiện sống và viết tại: Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: hoa niên. lòng miền Nam.
Gửi miền Bắc. Tiếng sóng. Bài thơ
tháng bảy. Hai nửa yêu thương.
khúc ca mới. đi suốt bài ca.
Câu chuyện quê hương. theo nhịp
tháng ngày. Con đường và dòng sông.
bài ca sự sống. Vườn xưa. Em chờ anh.
Bài thơ tình ở hàng châu
Anh xa nước nên yêu thêm nước
Anh xa em càng nhớ thêm em
Trăng Tây Hồ vời vợi thâu đêm
Trời Hàng Châu bốn bề êm ái
Mùa Thu đã đi qua còn gửi lại
Một ít vàng trong nắng trong cây
Một ít buồn trong gió trong mây
Một ít vui trên môi người thiếu nữ...
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 83 84 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Anh đã đến những nơi lịch sử
Đường Tô Đông Pha làm phú
Đường Bạch Cư Dị đề thơ
Hồn người xưa vương vấn tự bao giờ
Còn thao thức trên cành đào ngọn liễu
Phong cảnh đẹp nhưng lòng anh thấy thiếu
Bức tranh kia anh muốn điểm thêm màu
Có hai ta cùng tựa bên cầu
Cho mặt nước Tây Hồ trong sáng nữa.
Lá phong đỏ như mối tình đượm lửa
Hoa cúc vàng như nỗi nhớ day dưa
Làn nước qua, ánh mắt ai đưa
Cơn gió đến bàn tay em vẫy
Chúng mình đã yêu nhau từ độ ấy
Có núi sông và có trăng sao
Có giận hờn và có chiêm bao
Cay đắng ngọt bùi cuộc đời kháng chiến
Nói sao hết em ơi bao kỷ niệm...
Những ngày buồn nghĩ đến thấy vui vui
Những ngày vui sao lại thấy ngùi ngùi
Anh không muốn hỏi nhiều quá khứ
Ngày đẹp nhất là ngày rồi gặp gỡ
Rời Tây Hồ trăng xuống Bắc Cao Phong(*)
Chỉ mình anh với im lặng trong phòng
Anh ngước nhìn bức thêu trên vách:
Hai bóng người đi
một hàng tùng bách
Bàn tay nào đã dệt nỗi lòng anh?
Tiếng mùa Xuân đem sóng vỗ bên mình
Vơ vẩn tình chăn chập chờn mộng gối
Anh mơ thấy Hàng Châu thành Hà Nội
Nước Tây Hồ bỗng hóa nước Hồ Tây.
Hai chúng mình cùng bước dưới hàng cây.
1956
_______________ (*) Mộ t dãy núi ở Hàng Châu.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 85 86 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Ca lê hiến (Lê Anh Xuân)
(1940 - 1968). Quê: Bến Tre
Tác phẩm thơ đã in: Tiếng gà gáy. hoa dừa.
Trường ca Nguyễn văn trỗi.
Thơ lê anh xuân.
Trở về quê nội
Ôi quê hương xanh biếc bóng dừa
Có ngờ đâu hôm nay ta trở lại
Quê hương ta tất cả vẫn còn đây
Dù người thân đã ngã xuống đất này
Ta lại gặp những mặt người ta yêu biết mấy
Ta nhìn, ta ngắm, ta say
Ta run run nắm những bàn tay
Thương nhớ dồn trong tay ta nóng bỏng.
Đây rồi đoạn đường xưa
Nơi ta vẫn thường đi trong mộng
Kẽo kẹt nhà ai tiếng võng trưa
ầu ơ... thương nhớ lắm
Ơi những bông trang trắng,
những bông trang hồng.
Như tấm lòng em trong trắng thuỷ chung
Như trái tim em đẹp màu đỏ thắm
Con sông nhỏ tuổi thơ ta đã tắm
Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng
Hoa lục bình(*)
tím cả bờ sông.
Mẹ lưng còng tóc bạc
Ngậm ngùi kể chuyện ta nghe
Tám em bé chết vì bom xăng đặc
Trên đường đi học trở về.
Giặc giết mười người trong một ấp
Bà con khiêng xác chất đầy ghe
_______________ (*) Bèo Nhậ t Bả n.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 87 88 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Chở lên Bến Tre đấu tranh với giặc
Làng ta mấy lần bom giội nát
Dừa ngã ngổn ngang, xơ xác bờ tre,
Mẹ dựng tạm mái lều che mưa che gió.
Ta có ngờ đâu mái lều của mẹ
Dưới lớp đất kia ngọn lửa vẫn còn
Mẹ ta tần tảo sớm hôm
Nuôi các anh ta dưới hầm bí mật
Cả đời mẹ hy sinh gan góc
Hai mươi năm giữ đất, giữ làng
Ôi mẹ là bà mẹ miền Nam.
Ta có ngờ đâu em ta đấy
Dưới mái lều kia em đã lớn lên
Em đẹp lắm như mùa Xuân bừng dậy
Súng trên vai cũng đẹp như em
Em ơi! Sao tóc em thơm vậy
Hay em vừa đi qua vườn sầu riêng
Ta yêu giọng em cười trong trẻo
Ngọt ngào như nước dừa xiêm
Yêu dáng em đi qua cầu tre lắt lẻo
Dịu dàng như những nàng tiên
Em là du kích, em là giao liên
Em chính là quê hương ta đó
Mười một năm rồi ta nhớ, ta thương.
Đêm đầu tiên ta ngủ giữa quê hương
Sao thấy lòng ấm lạ
Dù ngoài trời tầm tã mưa tuôn
Tiếng đại bác gầm rung vách lá
Ôi quê hương ta đẹp quá!
Dù trên đường còn những hố bom
Dù áo em vẫn còn mảnh vá
Ta về đây chẳng mang gì cho em cả
Chỉ có trái tim chung thuỷ, sắt son
Và khẩu súng trong tay cháy bỏng căm hờn.
9-1965
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 89 90 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Tô hoàn
Sinh: 1949. Quê: Bắc Giang
Hiện sống và viết tại Bắc Giang
Tác phẩm thơ đã in: có một lời ru.
đêm mưa
con về thăm mẹ đêm mưa
Mới hay nhà dột gió lùa bốn bên
Bao nhiêu hạt thẳng hạt xiên
Đã rơi vào mẹ những đêm trắng trời?
Con đi đánh giặc suốt đời
Mà không che nổi một nơi mẹ nằm!
Thi hoàng
Sinh: 1943. Quê: Hải Phòng
Hiện sống và viết tại: Hải Phòng
Tác phẩm thơ đã in: ba phần tư trái đất.
Nhịp sóng. Gọi nhau qua vách núi.
Bóng ai gió tạt.
Những đứa trẻ Chơi trước cửa đền
ông từ giữ đền ơi xin ông đấy
Chấp với bọn trẻ ranh rửng mỡ làm gì
Thế là ông cười rồi ông nhỉ
Cho chúng nó chơi, đừng đuổi chúng đi
Này thằng Tâm con nhà bố Tầm
Trước cửa đền không được giồng cây chuối
Lại còn hét lên như giặc cái
Con bé cái Nhân con bà Nhẫn kia
Những mắt cười vê tít lại cứ như sợi chỉ
Gạch sân đền ấm lên ửng má
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 91 92 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Tiếng trẻ con non màu lá mạ
Vệt mồ hôi tươi mưởi quệt ngang mày
Thật tuyệt vời thằng cháu ông Dương
Ngón tay cái rất to cho được vào lỗ mũi
Ra đây nhảy dây ra đây trốn đuổi
Chúng như là hạt mẩy dưới hoàng hôn
Hoa mẫu đơn cũng tưng bừng í ới
Khói hương bài thơm tỷ tê lân la
Cây vun tán lên đơm xôi đóng oản
Gió liu riu cho thấm tháp chan hòa
Chợt ngẫm thấy trẻ con là giỏi nhất
Làm được buổi chiều rất giống ban mai
Thánh cũng hân hoan. Đố ai biết được
Ngài ở trong kia hay ở ngoài này.
1992
Nguyên hồng
(1916 - 1982). Quê: Nam Định
Tác phẩm thơ đã in: cửu long giang ta ơi
Cửu long giang ta ơi!
Ngày xưa ta đi học
Mười tuổi thơ nghe gió thổi mùa Thu
Mắt ngẩng lên trông bản đồ rực rỡ
Như đồng hoa bỗng gặp một đêm mơ.
Bản đồ mới tường vôi cũng mới
Thầy giáo lớn sao, thước bảng cũng lớn sao,
Gậy thần tiên và cánh tay đạo sĩ
Đưa ta đi sông núi tuyệt vời.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 93 94 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Tim đập mạnh hồn ngây không sao hiểu
Mê Kông sông dài hơn hai ngàn cây số mông mênh
Nguồn tự Trung Hoa có Vạn Lý Trường Thành
Có Hy Mã Lạp Sơn, Động Đình Hồ,
Tây Du, Thuỷ Hử
Mê Kông chảy
Cây lao đá đổ
Lan hoang dứa mật thông nhựa lên hương
Những trưa hè ngun ngút nắng Trường Sơn
Ngẫm nghĩ voi đi
Thác Khôn cười trắng xoá
Rừng Lào – Miên rộng quá
Dân Lào – Miên mến yêu
Xôi nếp nước trong sẵn sàng chia bạn đói.
Ta đi... bản đồ không nhìn nữa
Sáng trời thu lại còn bướm với trời xanh
Trúc đào tươi chim khuyên rỉa cánh sương đọng
long lanh
Ta cởi áo lội dòng sông ta hát
Mê Kông chảy Mê Kông cũng hát
Rừng núi lùi xa
Đất phẳng thở chan hoà.
Sóng toả chân trời buồm trắng
Nam Bộ
Nam Bộ
Chín nhánh Mê Kông phù sa nổi váng...
Ruộng bãi Mê Kông trồng không hết lúa
Bến nước Mê Kông tôm cá ngập thuyền
Sầu riêng thơm dậy đất Thủ Biên
Suối mát dội trong lòng dừa chĩu quả
Mê Kông quặn đẻ...
Chín nhánh sông vàng
Nông dân Nam Bộ gối đất nằm sương
Mồ hôi vã bãi lầy thành đồng lúa
Thành những tên đọc lên nước mắt đều muốn ứa
Những Hà Tiên, Gia Định, Long Châu
Những Gò Công, Gò Vấp, Đồng Tháp, Cà Mau
Những mặt đất
Cha ông ta nhắm mắt
Truyền cháu con không bao giờ chia cắt.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 95 96 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Ta đã lớn
Thày giáo già đã khuất
Thước bảng to này thành cán cờ sao
Những tên làm man mác tuổi thơ xưa
Đã thấm máu của bao hồn bất tử
Những Minh Khai, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong,
Trần Phú...
Những bông hoa dân tộc anh hùng
Mười sáu tuổi xanh
Em Đuốc Sống đốt mình phá tan kho đạn giặc
Võ Thị Sáu vành răng cắn chặt
Giữ trung trinh cho đến phút cuối cùng
Đạn giặc xuyên lỗ chỗ ngực măng non
Đỏ thắm nụ cười
Chào Bác Hồ và Việt Nam bất diệt.
Đêm nay
Cửu Long Giang vẫn âm vang sóng cát
Sao khuya lấp lánh
Lửa chài thức sáng nhịp hát hò ơ
Đồng Tháp xa đưa những tiếng mẹ ru
Hồ Chí Minh thành ca dao bát ngát...
Minh huệ
Sinh: 1927. Quê: Nghệ An
Tác phẩm thơ đã in: tiếng hát quê hương.
đất chiến hào. mùa xanh đến.
đêm nay bác không ngủ.
đêm nay bác không ngủ
Anh đội viên thức dậy
Thấy trời khuya lắm rồi
Mà sao Bác vẫn ngồi
Đêm nay Bác không ngủ
Lặng yên như bếp lửa
Vẻ mặt Bác trầm ngâm
Ngoài trời mưa lâm thâm
Mái lều gianh xơ xác
Anh đội viên nhìn Bác
Càng nhìn lại càng thương
Người Cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 97 98 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Rồi Bác đi dém chăn
Từng người, từng người một
Sợ cháu mình giật thột
Bác nhón chân nhẹ nhàng
Anh đội viên mơ màng
Như nằm trong giấc mộng
Bóng Bác cao lồng lộng
ấm hơn ngọn lửa hồng
Thổn thức cả nỗi lòng
Thầm thì anh hỏi nhỏ:
– Bác ơi, Bác chưa ngủ
Bác có lạnh lắm không?
– Chú cứ việc ngủ ngon
Ngày mai đi đánh giặc
Vâng lời anh nhắm mắt
Nhưng bụng vẫn bồn chồn
Không biết nói gì hơn
Anh nằm lo Bác ốm
Lòng anh cứ bề bộn
Vì Bác vẫn thức hoài
Chiến dịch hãy còn dài
Rừng lắm dốc lắm ụ
Đêm nay Bác không ngủ
Lấy sức đâu mà đi
... Lần thứ ba thức dậy
Anh hốt hoảng giật mình
Bác vẫn ngồi đinh ninh
Chòm râu im phăng phắc
Anh vội vàng nằng nặc
– Mời Bác ngủ, Bác ơi
Trời sắp sáng mất rồi
Bác ơi, mời Bác ngủ
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 99 100 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
– Chú cứ việc ngủ ngon
Ngày mai đi đánh giặc
Bác thức thì mặc Bác
Bác ngủ không yên lòng
Bác thương đoàn dân công
Đêm nay ngủ ngoài rừng
Rải lá cây làm chiếu
Manh áo phủ làm chăn
Trời thì mưa lâm thâm
Làm sao cho khỏi ướt
Càng thương càng nóng ruột
Mong trời sáng mau mau
Anh đội viên nhìn Bác
Bác nhìn ngọn lửa hồng
Lòng vui sướng mênh mông
Anh thức luôn cùng Bác
Đêm nay Bác ngồi đó
Đêm nay Bác không ngủ
Vì một lẽ thường tình:
Bác là Hồ Chí Minh.
1951
quang huy
Sinh 1936. Quê: Hưng Yên
Hiện sống và viết tại: Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: gió từ đâu. chim gọi mùa.
Dòng suối thức.
Nỗi niềm thị nở
Người ta cứ bảo dở hơi
Chấp chi miệng thế lắm lời thị phi
Dở hơi, nào dở hơi gì
Váy em sắn lệch nhiều khi cũng tình
Làng này khối kẻ sợ anh
Rượu be với chiếc mảnh sành cầm tay
Sợ anh chửi đổng suốt ngày
Chỉ mình em biết anh say rất hiền
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 101 102 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Anh không nhà cửa, bạc tiền
Không ưa luồn cúi, không yên phận nghèo
Cái tên thơ mộng Chí Phèo
Làm em đứt ruột mấy chiều bờ ao
Quần anh ống thấp, ống cao
Làm em hồn vía nao nao đêm ngày
Khen cho con Tạo khéo tay
Nồi này thì úp vung này chứ sao!
Đêm nay trời đất rất cao
Sương thì đẫm quả, trăng sao lại nhòa
Người ta... mặc kệ người ta
Chỉ em rất thật đàn bà với anh
Thôi rồi, đắt lắm tiết trinh
Hồn em nhập bát cháo hành nghìn năm.
đinh hùng
(1920 – 1967). Quê: Hà Tây
Tác phẩm thơ đã in: mê hồn ca. đường vào tình sử.
Ngày đó có em. đốt lò hương cũ.
đường khuya trở bước
tôi đến đêm xưa em vắng nhà
Trăng vàng, mây bạc, sầu như hoa
Tôi từ viễn phố rời chân lại
Chỉ thấy sương chiều như lệ sa
ở cũng bâng khuâng đi chẳng đành
Đêm trời, sao cũ sáng long lanh
Lòng ta ngẫm chuyện mười phương vậy
Người gái khuê phòng kia mắt xanh
Tôi cũng chưa đi hết dặm đường
Đời dài mới hết nửa sầu thương
Một đêm trở bước cho lòng nghĩ
Sao biếc rơi tàn mộng phấn hương.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 103 104 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
hoàng hưng
Sinh: 1942. Quê: Bắc Ninh
Hiện sống và viết tại: Tp. Hồ Chí Minh
Tác phẩm thơ đã in: đất nắng. ngựa biển.
người đi tìm mặt.
Người về
Người về từ cõi ấy
Vợ khóc một đêm, con lạ một ngày
Người về từ cõi ấy
Bước vào cửa người quen tái mặt
Người về từ cõi ấy
Giữa phố đông nhồn nhột sau gáy
Một năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui
Hai năm còn mộng toát mồ hôi
Ba năm còn nhớ một con thạch thùng
Mười năm còn quen ngồi một mình trong tối
Một hôm có kẻ nhìn trân trối
Một đêm có tiếng bâng quơ hỏi
Giật mình
Một cái vỗ vai.
chính hữu
Sinh: 1926. Quê: Hà Tĩnh
Hiện sống và viết tại Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: Đầu súng trăng treo.
Ký hoạ mùa Xuân. thơ chính hữu.
đồng chí
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi, đôi người xa lạ,
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỷ.
Đồng chí!
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 105 106 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giầy
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Chiến dịch Việt Bắc 1947
Tố hữu
(1920 – 2003). Quê: Thừa Thiên Huế
Tác phẩm thơ đã in: từ ấy. Việt bắc. Gió lộng.
Ra trận. Máu và hoa.
Một tiếng đờn. Tuyển thơ tố hữu.
Khi con tu hú
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần
Vườn ươm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào,
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con tu hú lộn nhào từng không
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tú hú ngoài trời cứ kêu.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 107 108 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
á nam trần tuấn khải
(1894 – 1983). Quê: Nam Định
Gánh nước đêm
Em bước chân ra
Con đường xa tít
Con sông mù mịt
Bên vai kĩu kịt
Nặng gánh em trở ra về
Ngoảnh cổ trông sông rộng giời khuya...
Vì chưng nước cạn nặng nề em dám kêu ai!
Nghĩ tiếc công cho bà Nữ Oa đội đá, vá giời
Cho dã tràng lấp bể biết đời nào xong!
Cái bước đêm khuya thân gái ngại ngùng
Nước non gánh nặng
Cái đức ông chồng hay hỡi có hay?
Em trở vai này...
Bích khê
(1916 – 1946). Quê: Quảng Ngãi
Tác phẩm thơ đã in: tinh huyết. Thơ bích khê.
Tỳ bà
Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mền
Trăng đan qua cành muôn tay êm
Mây nhung pha màu thu trên trời
Sương lam phơi màu thu muôn nơi
Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây
Ôi! Nàng năm xưa quên lời thề
Hoa vừa đưa hương gây đê mê
Cây đàn yêu đương làm bằng thơ
Dây đàn yêu đương run trong mơ
Hồn về trên môi kêu: Em ơi
Thuyền hồn không đi lên chơi vơi
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 109 110 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: Em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đàn tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông.
Trần đăng khoa
Sinh: 1958. Quê: Hải Dương
Hiện sống và viết tại: Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: từ góc sân nhà em.
Góc sân và khoảng trời.
Khúc hát người anh hùng (tc).
Bên cửa sổ máy bay. Thơ trần đăng khoa.
Gửi bác trần nhuận minh
Bỏ làng ra thành phố
Hai anh em thợ cày
Thân cũng như hoa cỏ
Hồn gửi vào gió mây
Người bảo bác theo Đỗ(*)
Em phải học Lý(**)
thôi
Bác đã bay dưới đất
Em đành đi trên giời
_______________ (*), (**) Đỗ Phủ và Lý Bạ ch, hai phong cách thơ rấ t khác
nhau ở đ ời Đường.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 111 112 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Bác âm thầm chìm nổi
Cùng kiếp người lang thang
Em lông nhông bầu bạn
Với kiến đen chó vàng(*)
Bao nhiêu là giun dế
Đã khiêng vác em lên
Tên tuổi em sủng soảng
Những mõ ran trống rền...
Bác làm bông lau ngàn
Thả hồn vào hoang vắng
Khi buồn thì hát ca
Lúc vui thì im lặng
_______________ (*) , (**) Những nhân vậ t củ a thơ Trầ n Đă ng Khoa
thuở nhỏ .
Em quẩy bầu trăng gió
Bác gánh bao nỗi người
Sánh đôi mà đơn độc
Đi mang mang trong đời(*)
Giờ thì em đã chán
Những vinh quang hão huyền
Muốn làm làn mây trắng
Bay cho chiều bình yên
Trả niềm vui cho cỏ
Trả nỗi buồn cho cây
Lại áo tơi nón lá
Ta về với luống cày
Đất trời thì chật hẹp
Làng quê thì mênh mông
Thung thăng em với bác
Ta cưỡi thơ ra đồng.
_______________ (*) Câu thơ Trầ n Nhuậ n Minh.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 113 114 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Nguyễn khuyến
(1835 – 1909). Quê: Hà Nam
Còn có tên là Tam Nguyên Yên Đổ
Thu điếu
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tý
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Yến lan
(1916 – 1999). Quê: Bình Định
Tác phẩm thơ đã in: những ngọn đèn.
Tôi đến tôi yêu. lẵng hoa hồng.
Giữa hai chớp lửa. én đào. thơ yến lan.
Bến my lăng
Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách
Ông lái buồn để gió lén mơn râu
Ông không muốn run người ra tiếng địch
Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao
Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch
Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao
Trôi quanh thuyền, những lá vàng quá lạnh
Tơ vương trời, nhưng chỉ rải trăng... trăng
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 115 116 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh
Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng
Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi
Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách
Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách
Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng
Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng
Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng.
Du tử lê
Sinh: 1942. Quê: Hà Nam
Hiện sinh sống ở nước ngoài
Tác phẩm thơ đã in: thơ du tử lê. Tình khúc tháng 11.
Tay gõ cửa đời. Thơ du tử lê 1976 – 1972.
Lục bát du tử lê. đời mãi ở phương đông.
Khi người về
Người về đâu không người không về đâu
Chiều chưa mưa nên chiều chưa thay màu
Tôi cây me đứng run từng lá
Lá đã vàng rồi tôi đã vàng theo
Tình người say không tình người không say
Đêm sắp sang nên đêm sắp ùa đầy
Hồn tôi ngủ sớm trong tay áo
Tay áo người bay hương ngất ngây
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 117 118 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Người yêu ai không người không yêu ai
Lời tôi van xin lời tôi trải dài
Trên trang nhật ký tôi than trách
Tôi trách than người không tôi trách than ai
Khi người về tôi không nhìn không trông
Lòng tôi sông nước đủ trăm giòng
Quanh co một nỗi buồn vô hạn
Qua suốt một đời vẫn nhớ nhung
Người không về nên lòng người dửng dưng
Tình tôi mong nên tình tôi khôn cùng
Xế trưa sân nắng sầu con gió
Tôi gió may nhiều tôi tủi thân
Người thương người không người không thương
Tôi xa xôi nên tôi chả được gần
Người kiêu sa thế tôi đành ước
Vôi vữa cho người lát tuổi xuân
Người không về nên tôi cũng chả buồn đi
Bao nhiêu dự tính có ra gì
Bèo trôi từng lớp trên lưng sóng
Tôi quá chân rồi tôi giết tôi
Người phương nào người có nghe nôn nao
Tôi ở đây nghe lòng tôi rì rào
Lá me vàng rụng con đường nhớ
Tôi nghĩ về người đêm ngày tôi xanh xao.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 119 120 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Vũ đình liên
(1913 – 1996). Quê: Hải Dương
ông đồ
mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
"Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay"
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 121 122 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Hữu loan
Sinh: 1916. Quê: Thanh Hoá
Hiện sống và viết tại: Thanh Hoá
Tác phẩm thơ đã in: màu tím hoa sim.
Màu tím hoa sim
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh.
Tôi người Vệ quốc quân Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
Nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giầy đinh
Bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương
Người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 123 124 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Tôi về
Không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
Một mình
Đèn khuya
Bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
Ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng,
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi sim
Những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát
Trong màu hoa
"áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm mẹ già chưa khâu".
1948
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 125 126 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Hoàng lộc
(1920 - 1949)
viếng bạn
Hôm qua còn theo anh
Đi ra đường quốc lộ
Hôm nay đã chặt cành
Đắp cho người dưới mộ
Đứa nào bắn anh đó?
Súng nào nhằm trúng anh?
Khôn thiêng xin chỉ mặt
Gọi tên nó ra anh!
Tên nó là đế quốc?
Tên nó là thực dân?
Nó là thằng thổ phỉ?
Hay là đứa Việt gian?
Khóc anh không nước mắt
Mà lòng đau như thắt
Gọi anh chẳng thành lời
Mà hàm răng dính chặt
ở đây không gỗ ván
Vùi anh trong tấm chăn
Của đồng bào Cửa Ngăn
Tặng tôi ngày phân tán
Mai mốt bên cửa rừng
Anh có nghe súng nổ
Là chúng tôi đang cố
Tiêu diệt kẻ thù chung.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 127 128 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Lưu trọng lư
(1912 – 1991). Quê: Quảng Bình
Tác phẩm thơ đã in: tiếng thu. Tỏa sáng đôi bờ.
Người con gái sông gianh. Từ đất này.
Tiếng thu
Tặng bạn Văn
Em không nghe mùa Thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?
Thế lữ
(1907 – 1989). Quê: Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: mấy vần thơ.
Mấy vần thơ (tập mới).
Nhớ rừng
(Lời con hổ ở vườn Bách thú)
Tặng Nguyễn Trường Tam
Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ
Dương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành, hống hách những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 129 130 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài
Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi
Nào những đâu đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
– Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng
Giải nước đen giả suối chẳng thông giòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u
Hỡi oai linh cảnh nước non hùng vĩ
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng những ngày ngao ngán
Ta đương theo giấc mộng vàng to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi
– Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
1936
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 131 132 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Nguyễn đức mậu
Sinh: 1948. Quê: Nam Định
Hiện công tác tại Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: cây xanh đất lửa. áo trận.
Mưa trong rừng cháy. trường ca sư đoàn.
hoa đỏ nguồn sông. từ hạ vào thu. Bão và
sau bão.
Một vị tướng về hưu
(Tặng Nguyễn Chuông và những
người anh ở sư đoàn cũ)
Thôi đã dứt đường binh nghiệp
Tuổi hưu rồi, bác ở quê
Chạnh nhớ bạn bè thuở trước
Cùng đi có đứa không về
Người vợ tuổi già như bác
Miếng trầu nhai dập chiều mưa
Hồi son trẻ xa nhau mãi
Giờ thương biết mấy cho vừa
Huân chương xếp vào góc tủ
Nay hàm tướng tá mà chi
Tuổi già công danh xem nhẹ
Cuộc đời như nước trôi đi
Ngày trước bạn cùng súng đạn
Nay khuây hàng xóm: bạn già
Bao dốc bao rừng đã vượt
Lối vườn quanh quẩn vào ra
Ngày đi khuất bóng mẹ cha
Ngày về sửa sang mộ cũ
Âm thầm một tấc đất sâu
Hương khói tỏ mờ màu cỏ
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 133 134 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Ngôi nhà nắng mưa vẫn đó
Đàn con mỗi đứa một nơi
Nếu không có trẻ hàng xóm
Tuổi già hẳn nhiều đơn côi
Những đêm gió thổi buốt trời
Vết thương cũ còn đau nhức
Ôi! Sư đoàn xưa giờ đâu
Người cũ ai còn, ai mất?
Về hưu, giờ thôi quyền chức
Ai người nhớ bác lại chơi
Ai kẻ xa lòng tránh mặt
Niềm riêng một mảnh trăng trời...
lê thị mây
Sinh: 1949. Quê: Quảng Bình
Hiện công tác tại Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: những mùa trăng mong chờ.
Dịu dàng. Tặng riêng một người.
Một mình. Giấc mơ thiếu phụ.
những mùa trăng mong chờ
Thư anh tin ngày về
Cho vầng trăng hẹn mọc
Trong ngần hoa cau thơm
Mây chớm màu tha thiết
Trăng non nghiêng qua rồi
Bom rung vầng trăng khuyết
Xô thuyền trong xa xôi
Giữa gập ghềnh núi biếc
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 135 136 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Anh khoác ba lô về
Đất trời dồn chật lại
Em tái nhợt niềm vui
Như trăng mọc ban ngày
Gặp nhau tròn mùa trăng
Em trẻ như bầu trời
Vòng tay anh đằm thắm
Giấu lời ru trên môi
Mai lại tiễn xa nhau
Vầng trăng cong chẽn lúa
Đêm đêm chín ngàn sao
Rỏ vào tim giọt lửa
Mong chờ em mong chờ
Vầng trăng xinh – gương mặt
Sáng sáng đầy theo anh
Suốt chặng đường đánh giặc.
Trần nhuận minh
Sinh: 1944. Quê: Hải Dương
Hiện sống và viết tại: Quảng Ninh
Tác phẩm thơ đã in: đấy là tình yêu. âm điệu
một vùng đất. Thành phố bên này sông.
nhà thơ áp tải. nhà thơ và hoa cỏ.
Dặn con
Chẳng ai muốn làm hành khất
Tội trời đày ở nhân gian
Con không được cười giễu họ
Dù họ hôi hám úa tàn
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 137 138 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Nhà mình sát đường, họ đến
Có cho thì có là bao
Con không bao giờ được hỏi
Quê hương họ ở nơi nào
Con chó nhà mình rất hư
Cứ thấy ăn mày là cắn
Con phải răn dạy nó đi
Nếu không thì con đem bán
Mình tạm gọi là no ấm
Ai biết cơ trời vần xoay
Lòng tốt gửi vào thiên hạ
Biết đâu nuôi bố sau này...
Cửa Lục Thủy, 13-11-1991
Vũ đình minh
Sinh: 1944. Quê: Vĩnh Phúc
Hiện công tác tại Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: gió đông. mưa trước cửa nhà.
Hội lim
Tôi chót biết đời riêng em trắc trở
Nên hội này xem hát chẳng vô tư
Nón thúng quai thao em thẹn thò che má
Hát đắm say cho đứt ruột gan người
Hát như thể cuộc đời toàn nhàn hạ
Chỉ để yêu, để nhớ, để thương thôi
Xin gió lạnh đừng lật nghiêng vành nón
Kẻo tôi nhìn thấy nước mắt em rơi...
1988
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 139 140 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Tú mỡ
(Tên thật: Hồ Trọng Hiếu)
(1900 – 1976). Quê Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: dòng nước ngược I, II.
Nụ cười kháng chiến.
Nụ cười chính nghĩa. ông và cháu.
tuyển thơ tú mỡ.
Khóc người vợ hiền
Bà Tú ơi! Bà Tú ơi!
Té ra bà đã qua đời, thực ư?
Tôi cứ tưởng nằm mơ quái ác
Vùng dậy là tỉnh giấc chiêm bao
Tỉnh dậy, nào thấy đâu nào
Nào đâu bóng dáng ra vào hôm mai
Đâu bóng dáng con người thùy mỵ
Tuy tuổi già sấp sỉ bảy mươi
Vẫn còn khỏe mạnh, vui tươi
Le te, nhanh nhẹn như hồi xuân xanh
Nhìn sau lưng vô tình cứ ngỡ
Một cô nào thiếu nữ thanh tân
Vậy mà cái chết bất thần
Cướp bà đi mất vô ngần xót xa
Kể từ thuở đôi ta kết tóc
Thấm thoát gần năm chục năm qua
Thủy chung chồng thuận vợ hòa
Gia đình hạnh phúc thật là ấm êm
Tôi được bà vợ hiền thuần thục
Cảm thấy mình tốt phúc bao nhiêu!
Đôi ta cùng một cảnh nghèo
Đạo chồng vợ lấy chữ yêu làm nền
Nhớ khi giường bệnh đã nằm
Bà còn thủ thỉ tình thâm thương chồng
"Tôi mà chết thì ông sẽ khổ
Vì, cứ theo câu cổ ngữ ta
Xưa nay con cái nuôi cha
Cũng không chu đáo bằng bà nuôi ông."
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 141 142 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Bà ơi, hãy dầu lòng yên dạ
Giấc nghìn thu cho thỏa vong hồn
Bà đi, đã có dâu con
Một lòng phụng dưỡng, chăm nom bố già
Tôi có khổ, âu là chỉ khổ
Vì thiếu bà nhà cửa vắng tanh
Khổ khi thức giấc tàn canh
Bên giường trống trải một mình nằm trơ
Khổ nhớ lại sớm trưa ngày trước
Pha ấm trà chén nước mời nhau
Giờ tôi chẳng thấy bà đâu
Bên bàn thờ nhắp chén sầu đầy vơi...
Khổ những lúc ra sân mê tỉnh
Ngắm vườn nhà thấy cảnh thênh thang
Mà bà khuất núi cho đang
Quả cau tươi, lá trầu vàng ai xơi?
Khổ trông thấy cái cơi còn đó,
Đã khô trầu, khô vỏ, khô cau
Ba thước đất đã vùi sâu
Cặp môi cắn chỉ ăn trầu đỏ tươi
Ngẫm: Cảnh già cuộc đời sung sướng
Tưởng vợ chồng còn hưởng dài lâu
Không ngờ con tạo cơ cầu
Bà đi, để tủi để sầu cho tôi
Ôi! Duyên nợ thế thôi là hết
Năm mươi năm thắm thiết yêu nhau
Bà về trước, tôi về sau
Thôi đành tạm biệt nuốt sầu gượng vui
Bà đi rồi nhưng tôi phải ở
Công việc đời còn dở tí thôi
Bao giờ nhiệm vụ xong xuôi
Về nơi cực lạc, lại tôi với bà...
19-11-1968
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 143 144 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Nguyễn mỹ
(1935 - 1971). Quê: Khánh Hoà
Tác phẩm thơ đã in: Cuộc chia ly màu đỏ.
Cuộc chia ly màu đỏ
Đó là cuộc chi ly chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai hồng
Trưa một ngày sắp ngả sang đông
Thu, bỗng nắng vàng lên rực rỡ
Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ
Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa.
Chồng của cô sắp sửa đi xa,
Cùng đi với nhiều đồng chí nữa.
Chiếc áo đỏ rực như than lửa
Cháy không nguôi trước cảnh chia ly.
Vườn cây xanh và chiếc nón kia
Không giấu nổi tình yêu cô rực cháy
Không che được nước mắt cô đã chảy
Những giọt long lanh nóng bỏng, sáng ngời
Chảy trên bình minh đang hé giữa làn môi.
Và rạng đông đã bừng trên nét mặt
– Một rạng đông với màu hồng ngọc –
Cây si xanh gọi họ đến ngồi
Trong bóng rợp của mình, nói tới ngày mai
Ngày mai sẽ là ngày sum họp
Đã toả sáng. Những tâm hồn cao đẹp!
Nắng vẫn còn ngời trên mắt lá si
Và người chồng ấy đã ra đi...
Cả vườn hoa đã ngập tràn nắng xế
Những cánh hoa đỏ vẫn còn rung nhè nhẹ
Gió nói tôi nghe những tiếng thì thào
"Khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau"
Nhưng tôi biết cái màu đỏ ấy
Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy
Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi
Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người.
Sẽ là ánh lửa hồng trên bếp
Một làng xa giữa đêm gió rét...
Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi
Như không hề có cuộc chia ly...
9-1964
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 145 146 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
giang nam
Sinh: 1929. Quê: Khánh Hoà
Hiện sống và viết tại: Nha Trang
Tác phẩm thơ đã in: Tháng tám ngày mai.
Quê hương. Người anh hùng đồng tháp.
hạnh phúc từ nay. Vầng sáng phía chân
trời. Thành phố chưa dừng chân.
quê hương
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
"Ai bảo chăn trâu là khổ?"
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao.
Những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được...
Chưa đánh roi nào đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích...
Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ, tôi đi
Cô bé nhà bên (có ai ngờ!)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!)
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi...
Hoà bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 147 148 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
Chuyền chồng con (khó nói lắm anh ơi!)
Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng...
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi, quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa con người!
Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn, roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
1960
Anh ngọc
Sinh: 1943. Quê: Nghệ An
Hiện sống và viết tại: Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: hương đất màu cờ. Ngàn dặm
và Một bước. Sông mê công bốn mặt (tc).
điệp khúc vô danh (tc). Sông núi
trên vai (tc). Thơ tình. Thị mầu.
thị mầu
Người mấy trăm năm làm rung chuyển
những sân đình
Làm điên đảo những phông màn khép mở
Người táo bạo người không hề biết sợ
Người chưa từng lùi bước trước tình yêu
Người phá tung khuôn khổ những điệu chèo
Để cuộc sống ùa lên đầu cửa miệng
Người trung thực đến không thèm dấu diếm
Cặp môi hồng con mắt ướt đong đưa
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 149 150 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Người cả gan sàm sỡ cả cửa chùa
Chọn sắc áo cà sa mà chọc ghẹo
Thừa sinh lực nên người luôn túng thiếu
Nén hương trầm tiếng mõ khéo trêu ngươi
Người đi qua nghiêng ngả những trận cười
Chấp tất cả lời ong ve mai mỉa
Người chịu hết mọi thói đời độc địa
Chiếc quạt màu khép mở vẫn ung dung
Trên môi người tiếng hát vẫn trẻ trung
Từng sợi tóc vẫn rung theo nhịp phách
Mùi táo chín, mùi hương, mùi da thịt
Người đi qua sân khấu tới đời thường
Người sống trong hơi thở của nhân dân
Mấy trăm năm ai để thương để giận
Câu sa lệch cũng hò reo nổi loạn
Mặt trống gầm lên những khát vọng không lời
Những khát vọng nằm sâu
trong những trái tim người
Được sống đúng với lòng mình thực chất
Những xiềng xích phết màu sơn đạo đức
Mấy trăm năm không khóa nổi Thị Mầu
Những cánh màn đã khép lại đằng sau
Táo vẫn rụng sân đình không ai nhặt
Bao Thị Mầu đã trở về đời thực
Vị táo còn chua mãi ở đầu môi.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 151 152 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
hồng nguyên
(Tên thật: Nguyễn Văn Vượng)
(1924 - 1954). Quê: Thanh Hoá
Nhớ
Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi "một hai"
Súng bắn chưa quen
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến
Lột sắt đường tàu
Rèn thêm dao kiếm
áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh
Ba năm rồi gửi lại quê hương
Mái lều gianh
Tiếng mõ đêm trường
Luống cày đất đỏ
ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya
Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô,
Tháng năm bạn cùng thôn xóm.
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng.
Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng,
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa.
– Đằng nớ vợ chưa?
– Đằng nớ?
– Tớ còn chờ Độc Lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu.
Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động,
Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng.
Đã nghỉ lại rất nhiều nhà dân chúng
Tôi nhớ bờ tre gió lộng
Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau
Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau.
Có tiếng gà gáy xóm,
Có "khai hội, yêu cầu, chất vấn!"
Có mẹ hiền bắt rận cho những đứa con xa.
Trăng lên tập hợp hát om nhà
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 153 154 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Tôi nhớ
Giường kê cánh cửa,
Bếp lửa khoai vùi
Đồng chí nứ vui vui,
Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ,
Đồng chí mô nhớ nữa,
Kể chuyện Bình Trị Thiên,
Cho bầy tôi nghe ví,
Bếp lửa rung rung đôi vai đồng chí.
– Thưa trong nớ hiện chừ vô cùng gian khổ,
Đồng bào ta phải kháng chiến ra ri.
Đêm đó chúng tôi đi,
Nòng súng nghiêng nghiêng
Đường mòn thấp thoáng...
Trong điếm nhỏ,
Mươi người trai tráng,
Sờ chuôi lựu đạn,
Ngồi thổi nùn rơm
Thức vừa rạng sáng,
Nhìn trời sương nhẩm bước chúng tôi đi,
Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni,
Dân chúng cầm tay lắc lắc:
"Độc lập nhớ rẽ viền(*)
chơi ví chắc!"
_______________ (*) Tiế ng Thanh Hoá nghĩ a là về .
Phan thị thanh nhàn Sinh: 1943. Quê: Hà Nội
Hiện sống và viết tại: Hà Nội
Tác phẩm đã in: hương thầm. Chân dung người
chiến thắng. bông hoa không tặng.
Nghiêng về anh. câu thơ cuộc đời.
Trời và đất
Chiều nay chắc giận em ghê lắm
Anh bực mình triết lý lung tung
Hai đứa ta như trời với đất
Tính tình sao xung khắc vô cùng
Vâng, trời đất chẳng hề thân thiết
Và tính tình có giống nhau đâu
Trời vui buồn ồn ào lộ liễu
Đất trầm tư suy nghĩ trước sau
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 155 156 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Anh ơi! Nếu ví được cao xa như thế
Em cũng chẳng là trời đất gì đâu
Nhưng anh có biết không? Trời đất
Sẽ chẳng là gì nếu thiếu nhau
Nhưng trời đất dẫu cao xa lồng lộng
Tính vẫn thường bồng bột đổi thay
Khi giận dữ bão nghiêng đất lở
Bão tan rồi trời xanh thơ ngây
Đất khiêm nhường màu xanh lay động
Và thẳm sâu lặng lẽ sinh sôi
Trên mặt đất chính là cuộc sống
Có cần chi biện bạch nhiều lời.
ý nhi
Sinh: 1944. Quê: Quảng Nam
Hiện sống và viết tại: Tp. Hồ Chí Minh
Tác phẩm thơ đã in: Đến với dòng sông.
Cây trong phố. Chờ trăng.
Người đàn bà ngồi đan. Ngày thường.
Mưa tuyết. Gương mặt.
Người đàn bà ngồi đan
Giữa chiều lạnh
Một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ
Vẻ vừa nhẫn nại vừa vội vã
Nhẫn nại như thể đó là việc phải làm suốt đời
Vội vã như thể đó là lần sau chót
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 157 158 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Không thở dài
Không mỉm cười
Chị đang giữ kín đau thương
Hay là hạnh phúc
Lòng chị đang tràn đầy niềm tin
Hay là ngờ vực
Không một lần nào chị ngẩng nhìn lên
Chị đang qua những phút giây trước lần gặp mặt
Hay sau buổi chia ly
Trong mũi đan kia ẩn giấu niềm hân hoan
hay nỗi lo âu
Trong đôi mắt kia là chán chường hay hy vọng
Giữa chiều lạnh
Một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ
Dưới chân chị
Cuộn len như quả cầu xanh
Đang lăn những vòng chậm rãi.
1-1984
Trần mai ninh
(1917 - 1948). Quê: Thanh Hoá
Tác phẩm thơ đã in: Thơ văn trần mai ninh.
Nhớ máu
Ơ cái gió Tuy Hoà...
Cái gió chuyên cần
Và phóng túng.
Gió đi ngang, đi dọc,
Gió trẻ lại – lưng chừng
Gió nghĩ,
Gió cười,
Gió reo lên lồng lộn.
Tôi đã thấy lòng tôi dậy
Rồi đây
– Còn mấy bước tới Nha Trang
– A, gần lắm!
Ta gần máu
Ta gần người,
Ta gần quyết liệt.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 159 160 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Ơ hỡi Nha Trang!
Cái đô thành vĩ đại.
Biết bao người niệm đọc tên mi.
Và Khánh Hoà vĩ đại.
Mắt ta căng lên
Cả mặt
Cả người.
Cả hồn ta sát tới
Nhìn mi!
Ta có nhớ
Những con người
Đã bước vào bất tử!
Ơ, những người!
Đen như mực, đặc thành keo
Tròn một củ
Hay những người gầy sắt lại
Mặt rẹt một đường gươm
Lạnh gáy...
Lòng bàn tay
Khắc ấn chuôi dao găm.
Chân bọc sắt,
Mắt khoét thủng đêm dày
Túi chứa cả Nha Trang... họ bước
Vương Gia Ngại... Cung Giũ Nguyên
Chút chít Hoàng Bá San... còn nữa!
Cả một đàn chó ghẻ
Sủa lau nhau
Và lần lượt theo nhau
Chết không ngáp!
Dao găm để gáy,
Súng màng tang
ồng ộc xối đầy đường máu chó,
Chúng nó rú,
Cả trại giặc kinh hoàng
Quy - lát khua lắc cắc,
Giầy đinh xôn xao.
Còi và kèn...
Cả trại giặc bạt hồn, bạt vía...
Chạy lung tung
Sớm mai, xét và bắt...
Thiết giáp, cam - nhông
Rầm rập nối đuôi nhau,
Và đêm khuya: Lại chết
Chồn Pháp, chó Việt gian
ằng ặc máu
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 161 162 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Mắt ta căng lên,
Cả mặt,
Cả người,
Cả hồn ta sát tới
Biết bao người!
Sống lẩn lút nhưng ngang tàng
Bên lưng giặc!
Vẫn tổ chức, vẫn tuyên truyền,
Hoặc giao thông hay liên lạc,
Rải giấy,
Treo cờ
Hay gồng vai tiếp tế
Từ bình minh cho tới trăng tàn:
Đúc bê-tông bên mặt trận:
Và thì thào cùng du kích đi lên...
Cả ngàn chiến sĩ,
Cả ngàn con bạc, con vàng
Của Tổ quốc!
Sống... trong đám âm thầm
Mà nắm chắc tối cao vinh dự!
Quắc mắt nhìn vào thăm thẳm tương lai
Vững tin tưởng nơi oai hùng,
Và chiến thắng
Câu Việt Nam dân tộc!
Cờ đã nâng cao
Màu đỏ máu
Với sao vàng tung bay rực rỡ!
Mắt hoàn cầu đã họp những tia xanh
Trán nhíu lại
Chú ý nhìn Châu á phía Đông Nam.
Ta quyết thắng!
Việt Nam rồi đứng dậy,
Sáng vô chừng!
Rất tươi đẹp với Nha Trang và Nam Bộ
Phan Thiết, Phan Rang, Đà Lạt
Máu chan hoà trên góc cạnh kim cương
Các anh hùng tay hạ súng trường
Rồi khẽ vuốt mồ hôi và máu
Họ cười vang rung lớp lớp tinh cầu!
(Kết thúc đêm 9-11-1946 tại Tuy Hoà)
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 163 164 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Nguyễn ngọc oánh
Sinh: 1937. Quê: Nghệ An
Hiện sống và viết tại: Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: chân trời thương nhớ.
Thức cùng sao. Lời của hạ. Hương ổi.
mẹ
cành bàng thả lá heo may
Mẹ gầy, cái dáng khô gầy cành tre
Gót chai nứt nẻ đông hè
Ruộng sâu bấm mãi đã tòe ngón chân
Mẹ ngồi vá áo trước sân
Vá bao mong ước, tay sần mũi kim
Bát canh đắng lá chân chim
Lẫn vài con tép Mẹ tìm dành con
Co ro một mảnh chăn mòn
Tàn đêm giấc ngủ hãy còn ngoài chăn
Mẹ gom giẻ rách, giấy manh
Mặc đôi quang thủng giữ lành tiếng rao
áo nâu phơi vẹo bờ rào
Cái phận đã bạc còn cào phải gai
Quả cà cõng mấy củ khoai
Con thút thít, Mẹ nghẹn hai ba lần
Tối về đến lớp bình dân
I tờ nhặt được đôi vần lại rơi
Cha con trời gọi về trời
Chái nhà mưa dột, ướt lời ru thương
Tiễn con ra chốn chiến trường
Gạt thầm nước mắt mong đường con khô
Hai tay hết sẻ lại cho
Còn phần Mẹ – một thân cò qua sông...
1994
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 165 166 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Ngô văn phú
Sinh: 1937. Quê: Vĩnh Phúc
Hiện sống và viết tại: Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: gió vào trận bão.
khúc hát về một con đường.
trong lửa đạn. ngọn giáo búp đa.
Tháng năm mùa gặt. đi ngang đồi cọ.
Cỏ bùa mê. mặt trái xoan. Hoa trắng
tình yêu. trời xanh, cỏ đắng. heo may.
Phương gió nổi. Mùa chim giẽ.
Chiêm bao. Tuyển thơ ngô văn phú.
Bên lở bên bồi.
Bông và mây
Trên trời mây trắng như bông
ở dưới cánh đồng bông trắng như mây
Có cô má đỏ hây hây
Đội bông như thể đội mây về làng.
việt phương
Sinh: 1928. Quê: Hà Nội
Hiện sống và viết tại Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: cửa mở.
Muôn vàn tình thân yêu
Trùm lên khắp quê hương
I
Trời đổ mưa, đi viếng Bác, đồng bào chờ, bị ướt
Bác thương đồng bào, con biết Bác không vui
Ngừng đập trái tim tột bậc con người
Cây cỏ đất trời không thật nữa
Mắt ta nhìn sắc màu cũng giả
Ôi ước gì không thật cả nỗi đau mồ côi
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 167 168 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Con đóng cửa buồng, ở mình con với Bác
Chưa muốn cùng ai chia bớt nỗi đau này
Quanh người con và trong con
tất cả đều bỗng khác
Bác qua đời rồi sao con vẫn ngồi đây
Con không thể nghĩ rằng Bác Hồ đã mất
Mà nắng vẫn chuyền như sóc giữa lùm cây
Con chim đuôi dài được Bác chở che
vẫn bay về trước cổng
Cây vú sữa đầu nhà đang xoè rộng tán xum xuê
Bầy cá rô phi nhớ giờ Bác cho ăn
lại ngoi lên đớp sóng
Con ra đường quen đứng ngóng Bác quay về
Hôm nay trên vườn ta trời uy nghi lồng lộng
Hàng bụt mọc trầm tư vút thẳng bên bờ ao
Gió heo may trong cành đa lao xao tìm gọi nắng
Lênin trên bàn đang chờ đón Bác đi vào
Bác ơi lúa mùa này đồng thấp đồng cao
lên đẹp lắm
Cơn bão vào đất liền đi chậm lại rồi tan
Mua bia đã bớt xếp hàng và anh em còn cố gắng
Đêm qua 140 bốt đồn thù bị ta đánh trong Nam
Con trữ các loại tin đứng chờ đây
mong từ Bác một lời ánh sáng
Như từ lâu nay con thường vẫn hay làm
Bác lại về đi Bác ơi sau mấy ngày đi vắng
Khoẻ mạnh hồng hào trong nắng óng vườn cam
II
Đêm nay nghìn vạn chúng con
xếp thành hàng đi viếng Bác
Ôi làm sao nguôi được nhớ thương này
Chúng con đi cho cả người vắng mặt
Người chưa sinh, người đã khuất cũng về đây
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 169 170 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Việt Nam đau cả lòng người dạ đất
Sao mùa Thu như nước mắt trời mây
Chúng con đi theo tiếng Người phía trước
Đường Hùng Vương dân tộc đi
từ dựng nước đến ngày nay
Hãy về đây lũ làng Tây Nguyên
đánh tiếng cồng thương xót
Những con nước Cửu Long bát ngát đợi Cha về
Đội áo tím sông Hương diệt Mỹ xong
bỗng bồi hồi kinh ngạc
Khi biết tiếng súng mình tai Bác vẫn hằng nghe
Về đây những tấm lòng trung kiên
trong chuồng cọp
Vết tím bầm thân ghi tạc những câu thề
Về đây bà mẹ nghèo ở miền cao Hát Lót
Đã nhiều đêm gặp Bác giữa cơn mê
Hãy về đây những thợ xúc và lái xe khu mỏ
Vùng than ơi Người nhắc nhở bao lần
Những O gái Vĩnh Linh đầu tuyến lửa
Mơ Bác Hồ thương gian khổ vào thăm
Ông ké già nhà bên chân Pác Bó
Còn bàng hoàng hôm gặp gỡ đầu xuân
Những chiến sĩ trẻ măng trên Cồn Cỏ
Đài Bác cho đưa đất mẹ thêm gần
Muôn dòng sông chảy về lòng biển cả
Bác nằm đây nhớ rõ mỗi người thân.
III
Bác thường để lại đĩa thịt gà mà ăn trọn
mấy quả cà xứ Nghệ
Tránh nói chữ to và đi rất nhẹ cả trong vườn
Tim đau hết nỗi đau người ở chân trời góc bể
Đến bên Người ta thở dễ dàng hơn.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 171 172 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Khi đã quyết rất kiên cường mạnh mẽ
Đốt cháy Trường Sơn đánh Mỹ cũng không sờn
Lòng trời biển dịu hiền khi gặp trẻ
Sấm sét im cho nắng ấm chồi non.
Bác không bằng lòng gọi trận đánh
chết nhiều người là "đánh đẹp"
Con xoá chữ "đẹp" đi như xoá sự cạn hẹp
trong lòng con
Thêm hiểu lòng Người
đối với quân thù như sắt thép
Mà tình thương mênh mông ôm hết mọi linh hồn
Ngoài bảy nhăm, Bác vẫn thường ném bóng
Cái gạt tàn thuốc lá đã hàng năm
thôi không nóng trên bàn
Mỗi ban mai Bác luyện chân như ngày xưa
tập trèo sườn núi vắng
Con biết lòng Người quyết sống cho miền Nam
Con biết lòng Người quyết sống cho Việt Nam
và thế giới
Đầu bạc phơ trăm mối nước non nhà
Căn nhà nhỏ những canh khuya vời vợi
Vẫn lo toan tháo cởi những bất hoà
Trái tim lớn đêm ngày quên mệt mỏi
Dệt dải hồng chắp nối bạn gần xa
IV
Ôi lòng Bác bao la trong Di chúc
Vẫn hạt lúa củ khoai chân chất bình thường
Cả dân tộc khóc Người thương mình nhất
Người được thương trên tất cả người thương
Người suốt đời quên mình cho Tổ quốc
Khi ra đi chỉ dép lốp chiến trường
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 173 174 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Nguồn ánh sáng đến muôn đời chẳng tắt
Vượt cao hơn sự chết vẫn soi đường
Ba Đình nức nở và ròng ròng nước mắt
Muôn vàn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương
Ôi ta khóc tim ta dường như xé
Từ trái tim giọt lệ hoá câu nguyền
Ta chẳng giấu trước bạn bè quốc tế
Nỗi đau này cao cả thiêng liêng
Ta khóc cho mọi nơi còn xích xiềng áp bức
Cho đời ta và lớp lớp đời sau
Cho Trường Sơn, cho Tháp Mười, cho miền Nam
ân hận chưa được chào đón Bác
Ta khóc những lỗi lầm làm tim Bác thêm đau
Ta tự biết sức ta trong những dòng nước mắt
Cho ta khóc hôm nay để từ mai ta lao lên
đánh giặc ở tuyến đầu
Sau bao năm đồng chí với Người, con gọi Người:
Đồng chí
Là khi con vĩnh biệt Người, đồng chí, Bác Hồ ơi!
Con nguyện làm một mảnh của Người,
đến trọn đời tận tuỵ
Hồ Chí Minh, người cộng sản rất mực Việt Nam
và vô cùng chung thuỷ con người
Ta gạt nước mắt ngẩng đầu lên,
vẫn nắng Ba Đình trong veo.
Người đem về năm trước
Ta thề mang ánh nắng này
đến nhà mẹ già ở tận chót Cà Mau
Những biên đội không quân
như hình ảnh dân tộc ta
lượn quanh Người, lớn vượt
Cất cánh bay cao theo tay Bác vẫy trên đầu.
4-10 tháng 9 năm 1969
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 175 176 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
vũ quần phương
Sinh: 1940. Quê: Nam Định
Hiện sống và viết tại: Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: hoa trong cây. Những điều
cùng đến. Vầng trăng trong xe bò.
Mênh mông giấy trắng.
đợi
Anh đứng trên cầu đợi em
Dưới chân cầu nước chảy ngày đêm
Ngày xưa đã chảy, sau còn chảy
Nước chảy bên lòng, anh đợi em
Anh đứng trên cầu nắng hạ
Nắng soi bên ấy lại bên này
Đợi em. Em đến? Em không đến?
Nắng tắt, còn anh đứng mãi đây
Anh đứng trên cầu đợi em
Đứng một ngày đất lạ thành quen
Đứng một đời đất quen thành lạ
Nước chảy... kìa em, anh đợi em.
y phương
Dân tộc Tày
Sinh: 1948. Quê: Cao Bằng
Hiện sống và viết tại: Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: Tiếng hát tháng giêng.
Lời chúc. đàn then. Chín tháng (tc).
Tên làng
Con là con trai của mẹ
Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ
Ba mươi tuổi từ mặt trận về
Vội vàng cưới vợ
Ba mốt tuổi tập tành nhà cửa
Rào miếng vườn trồng cây rau
Hạnh phúc xinh xinh nho nhỏ ban đầu
Như mặt trời mới nhô ra khỏi núi
Con là con trai của mẹ
Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ
Mang trong người cơn sốt cao nguyên
Mang trên mình vết thương
Ơn cây cỏ quê nhà
Chữa cho con lành lặn
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 177 178 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Con là con trai của mẹ
Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ
Lần đầu tiên ôm tiếng khóc lên ba
Lần đầu tiên sông núi gọi ông bà
Lần đầu tiên nhóm lửa trên mặt nước
Lần đầu tiên sứ sành rạn nứt
Lần đầu tiên ý nghĩ khôn lên
ý nghĩ khôn lên nỗi buồn thấm tháp
Bàn chân từng đạp bằng đá sắc
Trở về làng bập bẹ bước đầu tiên
Ơi cái làng của mẹ sinh con
Có ngôi nhà xây bằng đá hộc
Có con đường trâu bò vàng đen đi kìn kịt
Có niềm vui lúa chín tràn về
Có tình yêu tan thành tiếng thác
Vang lên trời
Vọng xuống đất
Cái tên làng Hiếu Lễ của con.
Mùa Xuân 1993
Phùng quán
(1932 – 1995). Quê: Thừa Thiên Huế
Tác phẩm thơ đã in: tiếng hát trên địa ngục
côn đảo (TC). Tôi muốn mời đến
Tổ quốc tôi (TC). Thơ phùng quán.
Lời mẹ dặn
Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn
Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên lăm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc:
– "Con ơi! Trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật"
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 179 180 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
– "Mẹ ơi, chân thật là gì?"
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
– "Con ơi, một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu"
Từ đấy người lớn hỏi tôi:
– "Bé ơi bé yêu ai nhất?"
Nhớ lời mẹ, tôi trả lời
– "Bé yêu những người chân thật"
Người lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không! Những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vời
In lên vết son đỏ chói
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Những lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ
Người làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng chưa khó bằng nhà văn
Đi chọn đời trên con đường chân thật
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu
Tôi muốn làm nhà văn chân thật
Chân thật trọn đời đường mật công danh
Không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá!
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 181 182 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Bùi minh quốc
Sinh: 1940. Quê: Hà Tây
Hiện sống và viết tại Lâm Đồng
Tác phẩm thơ đã in: mảnh đất nuôi ta thành dũng sĩ.
đôi mắt nhìn tôi. Thơ tình
bùi minh quốc.
Có khi nào
Có khi nào trên đường đời tấp nập
Ta vô tình đã đi lướt qua nhau
Bước lơ đãng chẳng ngờ đang để mất
Một tâm hồn ta đợi đã từ lâu.
Xuân quỳnh (1942 – 1988). Quê: Hà Tây
Tác phẩm đã in: hoa dọc chiến hào. gió lào-
cát trắng. lời ru trên mặt đất.
Sân ga chiều em đi. tự hát. hoa cỏ may.
Bầu trời trong quả trứng.
Tuyển thơ xuân quỳnh.
Tự hát
Chẳng dại gì em ước nó bằng vàng
Trái tim em anh đã từng biết đấy
Anh là người coi thường của cải
Nên nếu cần anh bán nó đi ngay
Em cũng không mong nó giống mặt trời
Vì sẽ tắt khi bóng chiều đổ xuống
Lại mình anh với đêm dài câm lặng
Mà lòng anh xa cách với lòng em
Em trở về đúng nghĩa trái tim
Biết làm sống những hồng cầu đã chết
Biết lấy lại những gì đã mất
Biết rút gần khoảng cách của yêu, tin
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 183 184 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Biết khao khát những điều anh mơ ước
Biết xúc động qua nhiều nhận thức
Biết yêu anh và biết được anh yêu
Mùa Thu nay sao bão mưa nhiều
Những cửa sổ con tầu chẳng đóng
Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm
Em lạc loài giữa sâu thẳm rừng anh
Em lo âu trước xa tắp đường mình
Trái tim đập cồn cào không thể nói
Trái tim đập cồn cào cơn đói
Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.
Nguyên sa
Tên thật: Trần Bích Lan
(1932 – 2005). Quê: Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: Thơ nguyên sa.
Những năm sáu mươi.
áo lụa Hà Đông
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng.
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa Thu dài lắm ở chung quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bày vội vã vào trong hồn mở cửa
Gặp một bữa anh đã mừng một bữa
Gặp hai hôm thành nhị hỉ của tâm hồn
Thơ học trò anh chất lại thành non
Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 185 186 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Em không nói đã nghe lừng giai điệu
Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh
Anh đã trông lên bằng đôi mắt chung tình
Với tay trắng em vào thơ diễm tuyệt
Em chợt đến, chợt đi anh vẫn biết
Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng vì đâu
Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
Để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại
Để anh giận mắt anh nhìn vụng dại
Giận thơ anh đã nói chẳng nên lời
Em đi rồi, sám hối chạy trên môi
Những ngày tháng trên vai buồn bỗng nặng
Em ở đâu hỡi mùa Thu tóc ngắn
Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng.
Trần vàng sao
Sinh: 1942. Quê: Thừa Thiên - Huế
Hiện sống và viết tại: Thừa Thiên - Huế
Bài thơ của một người yêu nước mình
Buổi sáng tôi mặc áo đi giầy
ra đứng ngoài đường
Gió thổi những bông mía trắng bên sông
Mùa toóc(*)
khô còn thơm lúa mùa qua
Bầy chim sẻ đậu trước sân nhà
Những đứa trẻ đứng nhìn ngấp nghé
Tôi yêu đất nước này như thế
Mỗi buổi mai
Bầy chim sẻ ngoài sân
Gió mát và trong
Đường đi đầy cỏ may và muộng chuộng
Tôi vẫn sống, vẫn ăn, vẫn thở như mọi người
Đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ
Một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu
Một vết bùn khô trên mặt đá
Không có ai chia tay
Cũng nhớ một tiếng còi tàu.
_______________ (*) Toóc: Gố c rạ .
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 187 188 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Mẹ tôi thức khuya dậy sớm
Năm nay ngoài năm mươi tuổi
Chồng chết đã mười mấy năm
Thuở tôi mới đọc được i tờ
Mẹ thương tôi mẹ vẫn tảo tần
Nước sông gạo chợ
Ngày hai buổi nhà không khi nào
vắng người đòi nợ
Sống qua ngày nên phải nghiến răng
Cũng không vui nên mẹ ít khi cười
Những buổi trưa buổi tối
Ngồi một mình hay khóc
Vẫn thở dài mà không nói ra
Thương con không cha
Hẩm hiu côi cút
Tôi yêu đất nước này xót xa
Mẹ tôi nuôi tôi mười mấy năm không lấy chồng
Thương tôi nên ở goá nuôi tôi
Những đứa bà con hàng ngày chửi bới
Chúng cho mẹ con tôi áo quần tiền bạc
như cho một đứa hủi
Ngày kỵ cha, họ hàng thân thích không ai tới
Thắp ba cây hương
Với mấy bông hải đường
Mẹ tôi khóc thút thít
Cầu cha tôi phù hộ tôi nên người:
Con nó còn nhỏ dại
Trí chưa khôn chân chưa vững bước đi
Tôi một mình nuôi nó có kể chi mưa nắng
Tôi yêu đất nước này cay đắng
Những năm dài thắp đuốc đi đêm
Quen thân rồi không ai còn nhớ tên
Dĩ vãng đè trên lưng thấm nặng
áo mồ hôi những buổi chợ về
Đời cúi thấp
Giành từng lon gạo mốc
Từng cọng rau hột muối
Vui sao khi còn bữa đói bữa no
Mẹ thương con nên cách trở sông đò
Hàng gánh nặng phải qua cầu xuống dốc
Đêm nào mẹ cũng khóc
Đêm nào mẹ cũng khấn thầm
Mong con khôn lớn cất mặt với đời
Tôi yêu đất nước này khôn nguôi
Tôi yêu mẹ tôi áo rách
Chẳng khi nào nhớ tuổi mình bao nhiêu.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 189 190 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Tôi bước đi
Mưa mỗi lúc mỗi to
Sao hôm nay lòng thấy chật
Như buổi sáng mùa Đông chưa thấy mặt trời mọc
Con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua
Nỗi mệt mỏi rưng rưng từng con nước
Chim đậu trên cành chim không hót
Khoảng vắng mùa Thu ngủ trên cỏ may
Tôi yêu đất nước này những buổi sớm mai
Không ai cười không tiếng hát trẻ con
Đá đất cỏ cây ơi
Mười ba năm có héo mòn
Đất đá cỏ cây ơi
Lòng vẫn thương mẹ nhớ cha
Ăn quán nằm cầu
Hai hàng nước mắt chảy ra
Mỗi đêm cầu trời khấn Phật tai qua nạn khỏi
Ngày mai mua may bán đắt
Tôi yêu đất nước này áo rách,
Căn nhà dột phên không ngăn nổi gió
Vẫn yêu nhau trong từng hơi thở
Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài
Thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai
Tôi yêu đất nước này như thế
Như yêu cây cỏ ở trong vườn
Như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương
Nuôi tôi thành người hôm nay
Yêu một giọng hát hay
Có bài mái đẩy thơm hoa dại
Có sáu câu vọng cổ chứa chan
Có ba ông táo thờ trong bếp
Và tuổi thơ buồn như giọt nước trong lá sen
Tôi yêu đất nước này và tôi yêu em
Thuở tóc kẹp tuổi ngoan học trò
áo trắng và chùm hoa phượng đỏ
Trong bước chân chim sẻ
Ngồi học bài và gọi nhỏ tên tôi
Hay nói chuyện huyên thuyên
Chuyện trên trời dưới đất rất lạ
Chuyện bông hoa mọc một mình trên đá
Cứ hay cười mà không biết có người buồn
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 191 192 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Sáng hôm nay gió lạnh vẫn còn
Khi xa nhà vẫn muốn ngoái lại
Ngó cây cam cây cải
Thương mẹ già như chuối ba hương
Em chưa buồn
Vì chưa rách áo
Tôi yêu đất nước này rau cháo
Bốn ngàn năm cuốc bẫm cày sâu
áo đứt nút qua cầu gió bay.
Tuổi thơ em hãy giữ cho ngoan
Tôi yêu đất nước này lầm than
Mẹ đốn củi trên rừng cha làm cá ngoài biển
Ăn rau rìu, rau éo, rau trai
Nuôi lớn người từ ngày mở đất
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
Một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ
Một tiếng nói cũng đầy hồn Thánh Gióng
Tôi đi hết một ngày
Gặp toàn người lạ
Chưa ai biết chưa ai quen
Không biết tuổi không biết tên
Cùng sống chung trên trái đất
Cùng nỗi đau chia cắt Bắc Nam
Cùng có chung tên gọi Việt Nam
Mang vết thương chảy máu ngoài tim
Cùng nhức nhối với người chết oan chết ức
Đấm ngực giận hờn tức tối
Cùng anh em cất cao tiếng nói
Bản Tuyên ngôn mười bốn triệu người
đòi độc lập tự do
Bữa ăn nào cũng phải được no
Mùa lạnh phải có áo ấm
Được nói cười, hát ca yêu đương không ai cấm
Được thờ cúng những người mình tôn kính
Hai mươi năm cuộc đời chưa khi nào định
Tôi trở về căn nhà nhỏ
Đèn thắp ngọn lù mù
Gió thổi trong lá cây xào xạc
Vườn đêm thơm mát
Bát canh rau dền có ớt chìa vôi
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 193 194 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Bên hàng xóm có tiếng trẻ con khóc
Mẹ bồng con lên non ngồi cầu ái Tử
Đất nước hôm nay đã thấm hồn Người
Ve sắp kêu mùa Hạ
Nên không còn mấy Thu
Đất nước này còn chua xót
Nên trông ngày Thống nhất
Cho bên kia không gọi bên này
là người miền Nam
Cho bên này không gọi bên kia
là người miền Bắc.
Lòng vui hôm nay không thấy chật
Tôi yêu đất nước này chân thật
Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi
Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
Và yêu tôi đã biết làm người
Cứ trông Đất nước mình Thống nhất.
19-12-1967
lò ngân sủn
Dân tộc Dáy
Sinh: 1945. Quê: Lào Cai
Hiện sống và viết tại: Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: chiều biên giới. đường dốc.
Chợ tình. những người con của
núi. đám cưới. Dòng sông mây.
đầu nguồn nước.
Người đẹp
Ai viết tên em bằng ánh sáng
Ai vẽ hình em bằng ánh trăng
Dân ca Dáy
Người đẹp trông như tuyết
Chạm vào lại thấy nóng
Người đẹp trông như lửa
Sờ vào lại thấy mát
Người không khát – nhìn thấy người đẹp cũng khát
Người không đói – nhìn thấy người đẹp cũng đói
Người muốn chết – gặp người đẹp
lại không muốn chết nữa
Ơ
Người đẹp là ước mơ
Treo trước mắt mọi người.
1993
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 195 196 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Nguyễn trọng tạo
Sinh: 1947. Quê: Nghệ An
Hiện sống và viết tại: Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: tình yêu sáng sớm.
Gương mặt tôi yêu. tình ca người lính.
đồng giao cho người lớn.
đồng dao cho người lớn
Có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi
Có con người sống mà như qua đời
Có câu trả lời biến thành câu hỏi
Có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới
Có cha có mẹ có trẻ mồ côi
Có ông trăng tròn nào phải mâm xôi
Có cả đất trời mà không nhà ở
Có vui nho nhỏ có buồn mênh mông
Mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
Mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió
Có thương có nhớ có khóc có cười
Có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi.
1992
Thâm tâm
(1917 – 1950). Quê: Hải Dương
Tác phẩm thơ đã in: thơ thâm tâm.
Tống biệt hành
đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng...
– Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 197 198 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Ta biết ngươi buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa Hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cùng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Ta biết người buồn sáng hôm nay
Trời chưa mùa Thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...
Người đi? ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say(*)
.
_______________ (*) Theo Phạ m Quang Hòa (mộ t trong những người bạ n
củ a tác giả ) thì bài này còn có mộ t khổ cuố i:
Mây thu đ ầ u núi giá lên tră ng
Cơn lạ nh chiề u nao đ ổ bóng thầm
Ngừng ở ven trờ i nghe tiế ng khóc
Tiế ng đ ờ i xô đ ộ ng, tiế ng lòng câm.
Xem Thâm Tâm và T.T.TH. Tủ sách Thế giới vă n họ c,
Nxb. Hộ i Nhà vă n, 1991.
thanh thảo
Sinh: 1946. Quê: Quảng Ngãi
Hiện công tác tại Quảng Ngãi
Tác phẩm thơ đã in: những người đi tới biển (Tc).
Dấu chân qua trảng cỏ.
Khối vuông rubic.
Từ một đến một trăm.
Những ngọn sóng mặt trời (tc).
những dấu chân qua trảng cỏ
Buổi chiều qua trảng cỏ voi
Ngước nhìn mút mắt khoảng trời long lanh
Gió nghiêng ngả giữa màu xanh
Tiếng bầy chim két bỗng thành mênh mang
Lối mòn như sợi chỉ giăng
Còn in đậm đặc vô vàn dấu chân
Dấu chân ai đọc nên vần
Nên nào biết, ai đi gần, đi xa
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 199 200 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Cuộc đời trải mút mắt ta
Lối mòn nhỏ cũng dẫn ra chiến trường
Những người sốt rét đang cơn
Dấu chân bấm xuống đường trơn, có nhoè?
Chiếc bòng con đựng những gì
Mà đi cuối đất mà đi cùng trời
Mang bao khát vọng con người
Dấu chân nho nhỏ không lời không tên
Thời gian như cỏ vượt lên
Lối mòn như sợi chỉ bền kéo qua
Ai đi gần, ai đi xa
Những gì gửi lại chỉ là dấu chân
Vùi trong trảng cỏ thời gian
Vẫn âm thầm trải mút tầm mắt ta
Vẫn đằm hơi ấm thiết tha
Cho người sau biết đường ra chiến trường.
Nguyễn đình thi
(1924 – 2002). Quê: Hải Phòng
Tác phẩm thơ đã in: người chiến sĩ. Bài thơ hắc hải.
Tia nắng. dòng sông trong xanh.
Sóng reo. Thơ nguyễn đình thi.
đất nước
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa Thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Mùa Thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc
nói cười thiết tha
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 201 202 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm ngát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
Từ những năm đau thương chiến đấu
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây thằng chúa đất
Đứa đè cổ đứa lột da
Xiềng xích chúng bay không khoá được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà
Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng
Ngày nắng đốt theo đêm mưa giội
Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Giũ bùn đứng dậy sáng loà.
1948 - 1955
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 203 204 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Nguyễn quang thiều
Sinh: 1957. Quê: Hà Tây
Hiện công tác tại Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: ngôi nhà tuổi 17. Sự mất ngủ
Của lửa. Những người lính Của làng.
Những người đàn bà gánh nước sông
Những người đàn bà gánh nước sông
Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen
tõe ra như móng chân gà mái
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm
và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông
Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và mượt
Những bàn tay họ bám vào đầu đòn gánh
bé bỏng chơi vơi
Bàn tay kia bấu vào mây trắng
Sông gục mặt vào bờ đất lần đi
Những đàn ông mang cần câu và cơm
và cơn mưa biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Những con cá thiêng quay mặt khóc
Những chiếc phao ngô chết nổi
Những người đàn ông giận giữ, buồn bã và bỏ đi
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm
và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà gánh nước sông
và lũ trẻ cởi chuồng
Chạy theo mẹ và lớn lên
Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến
Con trai lại vác cần câu và cơn mưa biển
ra khỏi nhà lặng lẽ
Và cá thiêng lại quay mặt khóc
Trước những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 205 206 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Hữu thỉnh
Sinh: 1942. Quê: Vĩnh Phúc
Hiện sống và viết tại: Hà Nội
Tác phẩm đã in: âm vang chiến hào.
đường tới thành phố (Tc).
Thư mùa đông. trường ca biển.
Thương lượng với thời gian.
Nghe tiếng cuốc kêu
Những đám mây bay đi
Tôi với người ở lại
Cuốc kêu ngoài bến sông
Cuốc kêu vì bẫy hiểm
Bèo leo nheo nước lên
Tôi âm thầm gọi tên
Bàn ghế và quần áo cũ
Tuổi trẻ đột ngột về
Ngơ ngác nhìn tôi
Những cánh diều để chỏm
Vui hơn điều đáng vui
Bánh đa phồng giữa chợ
Che bớt một phần buồn
Tôi ngồi gọi tên những quân bài tam cúc
Xe pháo mã những ngả đường xa lắc
Còn lại thôi hồi tiếng cuốc kêu
Cuốc kêu từ ngày chưa ai đặt tên cho cuốc
Cha tôi nhào đất đắp đường
Ông táo bằng đất
Chiếc chén bằng đất
Những người uống rượu lần lượt bỏ đi
Cha tôi cầm chiếc chén lên
Như cầm một phần đời mình
Đã khô ra thành đất
Cuốc kêu ngoài bãi xa
Cuốc kêu từ ngày cây tre chưa đủ lá đan sàng
Trên đất ướt có người đến ở
Họ bắt đầu như một chiếc rễ nâu
Họ làm ra mọi thứ để nuôi nhau
Mong con cái có ngày mở mặt
Trời tối thì cậy ngọn đèn
Ngọn đèn bấc thắp bằng dầu lạ
Ngọn đèn bấc gió nhiều phen cướp mất
Cuốc kêu ngoài bãi xa
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 207 208 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Cuốc kêu từ ngày em lạy mẹ cha
Đi theo một sợi tơ hồng
Về với anh thành vợ thành chồng
Tình yêu nhiều đứt nối
Ta xin rừng một chiếc giường con
Xin đất một chiếc ấm nhỏ
Một đời người mà chiến trinh nhiều quá
Em níu giường níu chiếu đợi anh
Em trát những người con trai đẹp
Đợi anh
Chỉ mong anh về
áo rách cũng thơm
Chiếc chạn nhỏ với vài đôi đũa mộc
Anh cứ tưởng sau chiến tranh
thì toàn là hạnh phúc
Chúng ta đã từng vò võ đợi nhau
Nhưng không phải em ơi, quốc kêu không phải thế
Trưa nay có điều gì mà quốc kêu như xé
Tôi mất hai người anh
Cả hai đều rất trẻ
Sáng nay lại có người hàng xóm chạy sang
Mỗi lần sau đám tang
Lòng ai cũng héo
Dạ ai cũng sầu
Tôi cứ tưởng không ai còn xấu nữa
Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu
cũng còn chưa đủ
Nhưng không phải, trời ơi,
cuốc kêu không phải thế
Giếng nước than lắm kẻ chao chân
Khu vườn than: Có những con sên
ngấp nghé lên trời
Qua mùa hoa thì bướm cũng bay đi
Tôi ngồi buồn như lá sen rách
Cuốc kêu gì mà khắc khoải trưa nay
Tôi ngồi buồn tôi đếm ngón tay
Có mười ngón tay đếm đi đếm lại
Đếm đi đếm lại trời ngả sang chiều
Chúng ta bị cái chết gạt về một phía
Bị hư danh gạt về một phía
Phải vượt mấy trùng khơi mới bắt gặp nụ cười
Vừa bắt gặp nụ cười thì lại nghe tiếng cuốc.
7-1989
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 209 210 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Hoàng trung thông
(1923 – 1993). Quê: Nghệ An
Tác phẩm thơ đã in: quê hương chiến đấu.
đường chúng ta đi. đầu sóng.
Những cánh buồm. Trong gió lửa.
hương mùa thơ. Tiếng thơ không dứt.
Mời trăng.
Bao giờ trở lại
Các anh đi
Ngày ấy đã lâu rồi
Xóm làng tôi còn nhớ mãi
Các anh đi
Bao giờ trở lại
Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong
Làng tôi nghèo
Nho nhỏ bên sông
Gió bấc lạnh lùng
Thổi vào mái rạ
Làng tôi nghèo
Gió mưa tơi tả
Trai gái trong làng vất vả ngược xuôi
Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười
Rộn ràng xóm nhỏ
Các anh về tưng bừng trước ngõ
Lớp đàn em hớn hở theo sau
Mẹ già bịn rịn áo nâu
Vui đàn con ở rừng sâu mới về
Từ lưng đèo
Dốc núi mù che
Các anh về
Xôn xao làng tôi bé nhỏ
Nhà lá đơn sơ
Nhưng tấm lòng rộng mở
Nồi cơm nấu dở
Bát nước chè xanh
Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau
Anh giờ đánh giặc nơi đâu
Chiềng Vàng, Vụ Bản, hay vào Trị Thiên
Làng tôi thắng lợi vụ chiêm
Lúa thêm xanh ngọn khoai lên thắm vồng
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 211 212 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Giảm tô hai vụ vừa xong
Đêm đêm ánh đuốc dân công rực đường
Dẫu rằng núi gió đèo sương
So anh máu nhuộm chiến trường thấm chi
Bấm tay tính buổi anh đi
Mẹ thường vẫn nhắc: Biết khi nào về
Lúa xanh xanh ngát chân đê
Anh đi là để giữ quê quán mình
Cây đa, bến nước, sân đình
Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường
Hoa cau thơm ngát đầu nương
Anh đi là giữ tình thương dạt dào
Các anh đi
Khi nào trở lại
Xóm làng tôi
Trai gái vẫn chờ mong
Chờ mong chiến dịch thành công
Xác thù chất núi bên sông đỏ cờ
Anh đi chín đợi mười chờ
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?
Trúc thông
Sinh: 1940. Quê: Hà Nam
Hiện sống và viết tại: Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: chầm chậm tới mình.
ma ra tông.
Bờ sông vẫn gió
(Chị em con kính dâng hương hồn Mẹ)
Lá ngô lay ở bờ sông
Bờ sông vẫn gió
Người không thấy về
Xin Người hãy trở về quê
Một lần cuối... một lần về cuối thôi
Về thương lại bến sông trôi
Về buồn lại đã một thời tóc xanh
Lệ xin giọt cuối để dành
Trên phần mộ Mẹ nương hình bóng Cha
Cây cau cũ giại hiên nhà
Còn nghe gió thổi sông xa một lần
Con xin ngắn lại đường gần
Một lần... rồi Mẹ hãy dần dần đi...
1983
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 213 214 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Anh thơ
(1921 – 2005). Quê: Bắc Giang
Tác phẩm thơ đã in: bức tranh quê. Kể chuyện
vũ lăng. theo cánh chim câu. Đảo ngọc.
Hoa dứa trắng. mùa Xuân màu xanh.
Quê chồng. Lệ sương.
Bến đò ngày mưa
Tre rũ rượi ven bờ chen ướt át
Chuối bơ phờ đầu bến đứng dầm mưa
Và dầm mưa dòng sông trôi rào rạt
Mặc con thuyền cắm lại đậu trơ vơ
Trên bến vắng, đắm mình trong lạnh lẽo
Vài quán hàng không khách đừng xo ro
Một bác lái ghé buồm vào hút điếu
Mặc bà hàng sù sụ sặc hơi ho
Ngoài đường lội họa hoằn người đến chợ
Thúng đội đầu như đội cả trời mưa
Và họa hoằn một con thuyền ghé chở
Rồi âm thầm bến lại lặng trong mưa.
trần hữu thung
(1923 – 1999). Quê: Nghệ An
Tác phẩm thơ đã in: đồng tháng tám. ngày thu ấy.
Gió nam. anh vẫn hành quân.
Tiếng chim đồng. sen quê bác.
Thăm lúa
Mặt trời càng lên tỏ
Bông lúa chín thêm vàng
Sương treo đầu ngọn cỏ
Sương lại càng long lanh
Bay vút tận trời xanh
Chiền chiện cao tiếng hót
Tiếng chim nghe thánh thót
Văng vẳng khắp cánh đồng
Đứng chống cuốc em trông
Em thấy lòng khấp khởi
Bởi vì em nhớ lại
Một buổi sáng mai ri
Anh tình nguyện ra đi
Chiền chiện cùng cao hót
Lúa cũng vừa sẫm hột
Em tiễn anh lên đường
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 215 216 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Chiếc xắc mây anh mang
Em nách mo cơm nếp
Lúa níu anh trật dép
Anh cúi sửa vội vàng
Vượt cánh đồng tắt ngang
Đến bờ ni anh bảo:
– “Ruộng mình quên cày xáo
Nên lúa chín không đều
Nhớ lấy để mùa sau
Nhà cố làm cho tốt”
Xa xa nghe tiếng hát
Anh thấy rộn trong lòng
Sắp đến chỗ người đông
Anh bảo em ngoái lại.
Cam ba lần có trái
Bưởi ba lần ra hoa
Anh bước chân đi ra
Từ ngày đầu phòng ngự
Bước qua kỳ cầm cự
Anh có gửi lời về
Cầm thư anh mân mê
Bụng em giừ phấp phới
Anh đang mùa thắng lợi
Lúa em cũng chín rồi
Lúa tốt lắm anh ơi
Giải thi đua em giật
Xoè bàn tay bấm đốt
Tính đã bốn năm ròng
Người ta bảo không trông
Ai cũng nhủ đừng mong
Riêng em thì em nhớ!
Chuối đầu vườn đã lổ
Cam đầu ngõ đã vàng
Em nhớ ruộng nhớ vườn
Không nhớ anh răng được
Mùa sau kề mùa trước
Em vác cuốc thăm đồng
Lúa sây hạt nặng bông
Thấy vui vẻ trong lòng
Em trông ngày chiến thắng.
1-1-1950
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 217 218 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Phạm Thiên Thư Sinh: 1940. Quê: Hải Phòng
Hiện sống và viết tại: Tp.Hồ Chí Minh
Cổ luỹ cô thôn
(Xóm vắng thành xưa)
Một dãy trường thành trấn ải biên
Còn viền dương lạnh gác bên triền
Cô thôn trúc lặng - sương nhoà khói
Cổ Luỹ thành trơ gió thoảng nền
Buồm cá nâu vênh - bờ bến đậu
Đàn cò trắng nổi - cụm tùng lên
“Cô Thôn Cổ Luỹ” hư mà thực
Dù chỉ nghe qua cũng chạnh niềm.
Thu trang
Sinh: 1932. Quê: Hà Nội
Việt kiều tại Pháp
Tác phẩm thơ đã in: nói sao cho vợi.
Nói sao cho vợi
Thương mến gửi các em ở bên nhà
Pari tối nay tuyết đổ
Rơi rơi phủ trắng phố phường
Hoa đèn tăng phần rực rỡ
Kinh thành bát ngát sắc hương
ánh sáng át hẳn màn sương
Chen chân trên khắp ngả đường
Vui tươi trai thanh gái lịch
Hồn nhiên họ đón xuân sang
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 219 220 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Chân bước mà lòng miên man
Quê ơi, xa cách muôn vàn
Không khóc mà lòng thổn thức
Nói sao cho vợi niềm thương
Pari bát ngát sắc hương
Quê tôi giờ này ai biết
Chắc bên mái tranh đạm bạc
Vườn rau là bãi chiến trường
Tôi đi giữa vầng ánh sáng
Nhìn thiên hạ đón xuân sang
Nghe câu hỏi thầm đau buốt
Bao giờ mùa Xuân Việt Nam?
Bao giờ xuân Thanh bình sang?
Mùa Xuân Thống nhất quê hương
Mùa Xuân Tự do Độc lập
Mùa Xuân không đượm tóc tang!
Trong hồn day dứt mênh mang
Quê tôi miền Bắc miền Nam
Chắc đang hào hùng chiến đấu
Ngăn bàn tay giặc hung tàn
Giữa muôn hương sắc huy hoàng
Tôi không thấy mùa Xuân sang
Hồn tôi ở phương trời ấy
Tôi đợi mùa Xuân Việt Nam!
1969
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 221 222 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
trần huyền trân
(1913 – 1989). Quê: Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: rau tần.
Mưa đêm lều vó
Mưa lũa ao bèo mưa trắng đêm
Cây bờ ngơ ngác nước đang lên
Lều tôi kiến đã rời lên mái
Bà lão chài lo chửa có thuyền
Vó nghèo được nước đã lê thê
Đàn cá giang hồ nhảy nhót đi
Cả cụm bèo xanh nằm cạn mãi
Cũng như cất cánh gọi không về
Tôi ở lều gianh cống Trắng này
Chạnh lòng cá nhảy với chim bay
Đêm sầu kẽo kẹt ngư bà thức
Giăng phải hồn tôi một lưới đầy.
Khâm Thiên, 1938
vương trọng
Sinh: 1943. Quê: Nghệ An
Hiện công tác tại Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: thơ người ra trận. Khoảng trời quê hương.
những ngày xa.
Về thôi nàng vọng phu. đảo chìm.
tặng người trong mơ.
tuyển thơ vương trọng.
Bên mộ cụ Nguyễn du
Tưởng là phận bạc Đạm Tiên
Ngờ đâu cụ Nguyễn Tiên Điền nằm đây
Ngửng trời cao, cúi đất dày
Cắn môi, tay nắm bàn tay của mình
Một vùng cồn bãi trống trênh
Cụ cùng thập loại chúng sinh nằm kề.
Hút tầm chẳng cánh hoa lê
Bạch đàn đôi ngọn gió về nỉ non
Xạc xào lá cỏ héo hon
Bàn chân cát bụi, lối mòn nhỏ nhoi
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 223 224 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Lặng im bên nấm mộ rồi
Chưa tin mình đã đến nơi mình tìm!
Không cành để gọi tiếng chim
Không hoa cho bướm mang thêm nắng trời
Không vầng cỏ ấm tay người
Nén hương tảo mộ cắm rồi lại xiêu
Thanh minh trong những câu Kiều
Rưng rưng con đọc với chiều Nghi Xuân.
Cúi đầu tưởng nhớ vĩ nhân
Phong trần còn để phong trần riêng ai
Bao giờ cây súng rời vai
Nung vôi, chở đá tượng đài xây lên
Trái tim lớn giữa thiên nhiên
Tình thương nối nhịp suốt nghìn năm xa...
Nghi Xuân, 7-3-1982
thanh tịnh
(1911 - 1988). Quê: Thừa Thiên - Huế
Tác phẩm thơ đã in: hận chiến trường. Thơ ca.
đi giữa mùa sen .
Nhớ huế quê tôi
Sông núi vươn dài tiếp núi sông
Cò bay thẳng cánh nối đồng không
Có người bảo Huế xa, xa lắm
Nhưng Huế quê tôi ở giữa lòng.
Mười một năm trời mang Huế theo
Rừng cao nắng tắt bóng cheo leo
Giọng hò mái đẩy vờn mây núi
Man mác sông Hương lướt đỉnh đèo...
Tôi gặp bao người nhớ Huế xa
Đèn khuya thức mãi chí xông pha
Mở đường giải phóng về quê mẹ
Dựng khắp non sông bóng xóm nhà
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 225 226 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Có bao người Huế không về nữa
Gửi đá ven rừng chép chiến công
Có mồ liệt sĩ nâng lòng đất
Buồm phá Tam Giang gió thổi lồng
Nặng trĩu trăm năm bóng cổ thành
Bao lần máu đỏ nhuốm đồng xanh
Cờ sao ngày ấy trùm cung cấm
Sông nước xôn xao núi chuyển mình
Bao độ thu về thu lại qua
Huế tôi thăm thẳm nhớ con xa
Mỗi lần phượng nở rung màu đỏ
Càng giục canh sương rộn tiếng gà...
Hà Nội, thu 1956
Thanh tâm tuyền
Tên thật: Dzữ Văn Tâm
(1936 – 2005). Quê: Tp. Vinh
Tác phẩm thơ đã in: tôi không cô độc.
Liên đêm mặt trời tìm thấy.
Phục sinh
Tôi buồn khóc như buồn nôn
Ngoài phố
Nắng thủy tinh
Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
Thanh Tâm Tuyền
Buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường
Tôi xin một chỗ quỳ thầm kín
Cho đứa nhỏ linh hồn
Sợ chó dữ
Con chó đói không màu
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 227 228 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Tôi buồn chết như buồn ngủ
Dù tôi đang đứng trên bờ sông
Nước đen sâu thao thức
Tôi hét tên tôi cho nguôi giận
Thanh Tâm Tuyền
Đêm ngã xuống khoảng thì thầm tội lỗi
Em bé quàng khăn đỏ ơi
Này một con chó sói
Thứ chó sói lang thang
Tôi thèm giết tôi
Loài sát nhân muôn đời
Tôi gào tên tôi thảm thiết
Thanh Tâm Tuyền
Bóp cổ tôi chết gục
Để tôi được phục sinh
Từng chuỗi cuộc đời tiếp nối
Nhân loại không tha thứ tội giết người
Bọn đao phủ quỳ gối
Giờ phục sinh
Tiếng kêu là kinh cầu
Những thế kỷ chờ đợi
Tôi thèm sống như thèm chết
Giữa hơi thở giao thoa
Ngực cháy lửa
Tôi gọi khẽ
Em
Hãy mở cửa trái tim
Tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ
Trong sạch như một lần sự thật.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 229 230 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
đoàn phú tứ
(1910 – 1989). Quê: Bắc Ninh
Tác phẩm thơ đã in: màu thời gian.
Màu thời gian
Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió lành
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình
Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngắt
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh
Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng
Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình một thuở còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 231 232 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
hàn mặc tử
(1912 – 1940). Quê: Quảng Bình
Tác phẩm thơ đã in: lệ thanh thi tập. Gái quê.
đau thương. xuân như ý.
cẩm châu duyên. tuyển tập hàn mặc tử.
đây thôn vĩ dạ
sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa khách đường xa
áo em trắng quá nhìn không ra
ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Cầm vĩnh ui
Dân tộc Thái
Nhớ vợ
Tôi nhớ vợ tôi lắm
Xin anh về hai ngày
Nhà tôi ở Mường Lay
Có con sông Nậm Rốm
Ngày kia tôi sẽ đến
Lại cầm súng được ngay
Tôi càng bắn trúng Tây
Vì tay có hơi vợ
Cho tôi đi, đừng sợ
Tôi không chết được đâu
Vì vợ tôi lúc nào
Cũng mong chồng mạnh khoẻ
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 233 234 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Cho tôi đi anh nhé
Về ôm vợ hai đêm
Vợ tôi nó sẽ khen
Chồng em nên người giỏi
Ngày kia tôi về tới
Được đi đánh cái đồn
Hay được đi chống càn
Là thế nào cũng thắng
Nếu có được trên tặng
Cho một cái bằng khen
Tôi sẽ rọc đôi liền
Gửi cho vợ một nửa.
(Cầm giang dịch)
Bạc văn ùi
Dân tộc Thái
Em tắm
Sao anh lại rình
Trộm xem em tắm?
Da của em ngần trắng
Da của mẹ, của cha
Tay của em lấm lem
Tay của than của bụi
Tay của rừng của núi
Tay của đất của nương
Em tắm xong lại sạch
Vẫn ngát thơm hoa rừng
Da của em trắng ngần
Là của anh tất cả
Không phải người xa lạ
Việc gì mà trộm xem
Em tắm suối giữa mường
Tắm trong mối yêu thương
Có anh đang đứng giữ
Chớ để Tây đến mường.
(Cẩm Giang dịch)
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 235 236 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Đinh thị thu vân
Sinh: 1955. Quê: Long An
Hiện sống và viết tại: Long An
Tác phẩm thơ đã in: thay cho lời hát ru anh.
Một ngày ta ngoái lại
Một ngày ta ngoái lại
Rồi sẽ có một ngày ta ngoái lại
Bạn bè ơi, khi ấy có còn nhau
Cơn lốc đời đưa đẩy bạn về đâu
Ta ngoái lại tìm nhau, e mất dấu
Ta ngoái lại tìm nhau, mong ẩn náu
Góc bạn bè yên ấm cảm thông ơi
Ta ngoái lại rụng rời đôi cánh mỏi
Góc bạn bè tin cậy, bớt chơi vơi
Ta ngoái lại tìm nhau đừng sỏi đá
Đừng dập vùi chi nữa trái tim hoang
Thôi đừng nhớ, đừng quên, đừng xa vắng
Xin một lần tha thứ thuở lang thang
Tha thứ nhé bạn ơi ngày cay đắng
Ta quẩn quanh nuôi giữ xót xa mình
Tha thứ nhé những niềm vui không vóc dáng
Thuở đam mê bè bạn khuất xa dần...
Rồi sẽ có một ngày, sau tháng ngày dâu bể
Chúng mình cùng ngoái lại tìm nhau
Ta nói yêu thương khi mắt đổi thay màu
Bàn tay héo cầm lâu cho ấm mãi
Trái tim héo, nụ cười xưa dẫu héo
Chỉ xin đừng tàn lụi chút niềm tin
Dẫu mong manh vụn vỡ chẳng nguyên lành
Xin hãy có một ngày nhen nhúm lại.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 237 238 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Chế lan viên
(1920 – 1989). Quê: Quảng Trị
Tác phẩm thơ đã in: Điêu tàn. gửi các anh.
ánh sáng và phù sa. Hoa ngày thường.
chim báo bão. Đối thoại mới.
Hoa trước lăng người. Hoa trên đá.
Di cảo chế lan viên i, ii, iii.
Tuyển thơ chế lan viên.
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
– Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày
đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hoá thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc,
Hưng Đạo diệt quân Nguyên
trên sóng Bạch Đằng...
Những ngày tôi sống đây
là ngày đẹp hơn tất cả
Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn!
Trái cây rơi vào áo người ngắm quả,
Đường nhân loại đi qua bóng lá xanh rờn,
Mặt trời đến mỗi ngày như khách lạ
Gặp mỗi mặt người đều muốn ghé môi hôn...
Cha ông xưa từng đấm nát tay
trước cửa cuộc đời,
Cửa vẫn đóng và Đời im ỉm khoá
"Những pho tượng chùa Tây Phương"
không biết cách trả lời(*)
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn Chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi(**)
_______________ (*) Trong bài "Các vị La Hán chùa Tây Phương" củ a Huy
Cậ n có câu:
Mộ t câu hỏ i lớn không lờ i đ áp
Cho đ ế n bây giờ mặ t vẫ n chau (**) Vă n Chiêu hồ n củ a Nguyễ n Du tả mười loạ i chúng sinh
không có cách giả i thoát.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 239 240 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Có phải cha ông đến sớm chăng
và cháu con thì lại muộn
Dẫu có bay giữa trăng sao cũng tiếc không được
sống phút bây giờ
Buổi đất nước của Hùng Vương có Đảng
Mỗi người dân đều được thấy Bác Hồ,
Thịt xương ta giặc phơi ngoài bãi bắn
Lại tái sinh từ Pắc Bó, Ba Tơ...
Không ai có thể ngủ yên trong đời chật
Buổi thuỷ triều vẫy gọi những vầng trăng,
Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt,
Gỗ trăm cây đều muốn hoá nên trầm,
Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt
Mỗi con sông đều muốn hoá Bạch Đằng...
Ôi Trường Sơn vĩ đại của ta ơi!
Ta tựa vào Ngươi kéo pháo lên đồi.
Ta tựa vào Đảng ta, lên tiếng hát
Dưới chân ta, đến đầu hàng Đờ Cát,
Rồng năm móng vua quan thành bụi đất,
Mỗi trang thơ đều dội tiếng ta cười!
Đều lộng hương thơm những cánh đồng hợp tác
Chim cu gần, chim cu gáy xa xa...
Ruộng đoàn tụ nên người thôi chia cắt,
Đêm no ấm giọng chèo khuya khoan nhặt
Lúa thêm mùa khi lúa chín về ta.
Rồi với đôi tay trắng từ Đinh, Lý, Trần, Lê,
Đảng làm nên công nghiệp
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 241 242 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Điện trời ta là sóng nước sông Hồng,
An Dương Vương hãy dậy cùng ta xây sắt thép
Loa Thành này có đẹp mắt Người chăng?
Ong bay nhà khu tỉnh uỷ Hưng Yên
Mật đồng bằng mùa nhãn ngọt môi em
Cây xanh ngắt đất bạc màu Vĩnh Phúc...
Ôi! Cái thuở lòng ta yêu Tổ quốc
Hạnh phúc nào không hạnh phúc đầu tiên?
Ôi cái buổi sinh thành và tái tạo
Khi thiếu súng và khi thì thiếu gạo
Nhưng phù sa này đẻ ra những Cà Mau
thịnh vượng mai sau
Dẫu là Chúa cũng sinh từ ruột máu,
Ta đẻ ra Đời, sao khỏi những cơn đau.
Hãy biết ơn vị muối của đời cho thơ chất mặn!
Ôi! Thương thay những thế kỷ vắng anh hùng,
Những đất nước thiếu người cầm thanh gươm
nghìn cân ra trận...
Nhà thơ sinh đồng thời với mưa phùn
và những buổi hoàng hôn
Cả xứ sở trắng một màu mây trắng!
Ai biết mây trên trời buồn hơn hay thơ mặt đất
buồn hơn?
Chọn thời mà sống chăng? Anh sẽ chọn
năm nào đấy nhỉ?
Cho tôi sinh ra buổi Đảng dựng xây đời,
Mắt được thấy dòng sông ra gặp bể,
Ta với mẻ thép gang đầu là lứa trẻ sinh đôi,
Nguyễn Văn Trỗi ra đi còn dạy chúng ta cười...
Cho tôi sinh giữa những ngày diệt Mỹ
Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến luỹ
Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng
và hạ trực thăng rơi.
1965
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 243 244 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Bằng việt
Sinh: 1941. Quê: Hà Tây
Hiện công tác tại Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: những gương mặt những
khoảng trời. đất sau mưa.
Khoảng cách giữa lời. Cát sáng.
Phía nửa mặt trăng chìm.
nén câu thơ vào gió.
Tuyển thơ bằng việt.
bếp lửa
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe.
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!"
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 245 246 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...
1963
Lưu quang vũ
(1948 - 1988). Quê: TP Đà Nẵng
Tác phẩm thơ đã in: mây trắng của đời tôi.
Bầy ong trong đêm sâu.
tuyển thơ Lưu quang vũ.
vườn trong phố
Trong thành phố có một vườn cây mát
Trong triệu người có em của ta
Buổi trưa nắng bầy ong đi kiếm mật
Vào vườn rồi ong chẳng nhớ lối ra
Vườn em là nơi động gió trời xa
Hoa tím chim kêu bàng thưa lá nắng
Con nhện đi về giăng tơ trắng
Trái tròn căng mập nhựa sinh sôi
Nơi ban mai cỏ ướt sương rơi
Một hạt nhỏ mơ hồ trên lá
Hơi lạnh nào ngón tay cầm se giá?
Suốt cuộc đời cũng chẳng hiểu vì sao...
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 247 248 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Nơi đêm khuya vọng lại tiếng còi tàu
Bỗng nhớ xa xôi những miền đất nước
Nơi bài hát lên đường ta hẹn ước
Nơi góc vườn ta để quên chùm hoa...
Nơi vòm lá rì rào xao động cơn mưa
Quả ngọt chín khi mùa ve lại đến
Những chân trời màu hồng
những chân trời màu tím
Những ngôi sao bàng bạc cả hoàng hôn
Nơi lá chuối che nghiêng như một cánh buồm
Cánh buồm xanh đi về trong hạnh phúc
Se sẽ chứ, không cánh buồm bay mất
Qua dịu dàng ẩm ướt của làn môi
Dưa hấu bổ ra thơm suốt ngày dài
Em cũng mát lành như trái cây mùa hạ
Nước da nâu và nụ cười bỡ ngỡ
Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa
Đến bây giờ đánh giặc anh đi xa
Nhìn lại mảnh vườn xưa thấy hẹp
Biết bao điều anh còn chưa nói được
Rối rít trong lòng một nỗi em em...
Rừng rậm đèo cao anh đã vượt lên
Theo tiếng gọi con tàu ngày bé dại
Vườn không níu được bước chân trở lại
Nhưng lá còn che mát suốt đường anh
Mảnh vườn em vẫn là mảnh vườn xanh
Nơi ban đầu lòng ta ươm tổ mật
Nơi ta hát những chùm thơ thứ nhất
Nơi thu sang mây trắng vẫn bay về.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 249 250 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Trần tế xương
(1870 – 1907). Quê: Nam Định
Tên khai sinh: Trần Tế Xương
Tác phẩm thơ đã in: thơ văn trần tế xương.
Thương vợ
Quanh năm buôn bán ở mom song
Nuôi đủ đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không!
Tô thùy yên
Sinh: 1938. Quê: Sài Gòn – Gia Định
Chuyện tình người lỡ vận
Tặng người thiếu phụ đọc thơ cứ tưởng có mình ở trong
Một cơn chóng mặt xanh từ kiếp trước
Nay biến ta thành một con trốt say
Ta hốt ta đi cho đời thảng thốt
Ta làm trò tung hứng trái tim chai
Ta xuất hiện như tên tù tẩu thoát
Trọn gia tài một huyết thống phiêu lưu
Ta hát lớn những ưu sầu chất ngất
Lời vỗ về trao hết mọi ngu ngơ
Ta gặp em như gặp người thứ nhất
Em gặp ta như gặp kẻ cuối cùng
Nhưng đêm đó, một vành trăng đã khuyết
Làm hoang đường những mộng mỵ trăm năm
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 251 252 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Biết đã trễ nên không thèm hối hả
Cuộc tình này như chút đỉnh khoan dung
Của định mệnh cũng có lần nới thả
Hạnh phúc này như sóng rã trên sông
Lòng hoài vọng những điều không rõ rệt
Buồn quá nên yêu yêu quá nên buồn
Việc vô ích mà ta công kỹ nhất
Thân thể ta, ta đổi tiếng cười suông
Như yêu lại một người yêu thất tiết
Xót xa này chan đổ muối trong lòng
Đời lỡ vận một lần nên lỡ miết
Chí lớn đành đốn sập đốt ra than
Thà làm kẻ si tình hát điên loạn
Hơn làm người thành đạt thời nhiễu nhương
Ta sống cuộc đời không sửa soạn
Như nhan sắc em cần chi điểm trang
Ta cứ coi em như hoàng hậu góa
Dẫu biết thừa em vốn gái lê dân
Còn ta đây: một vĩ nhân tàn tạ
Chẳng làm nên công nghiệp đáng lưu danh
Ta dắt em đi giữa ngày tháng rối
Như đôi du hồn khất thực co ro
Cả xã hội bu quanh cười cợt hỏi
Em cứ sắm tuồng đi, ta nhắc cho
Em làm khôn, còn ta, ta giả dại
Ngày bồn chồn ngày, đêm khắc khoải đêm
Ta tủi thân thêm mỗi lần vượt ải
Nghề ngông cuồng tập mãi cũng thành quen.
7-1991
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 253 254 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Tổng kết cuộc thi:
"Bình chọn 100 bài thơ hay Thế kỷ xx"
Thay lời bạt
kính thưa các vị đại biểu!
Qua hơn 2 năm phát động cuộc thi "Bình chọn 100 bài
thơ hay thế kỷ XX". Trung tâm Văn hóa Doanh nhân
Việt Nam và Nhà xuất bản Giáo dục đã nhận được hàng
nghìn bài dự thi từ 36 tỉnh thành trong cả nước và người
Việt ở nhiều quốc gia gửi về tham dự. Nhiều ý kiến đánh
giá đây là một cuộc thi độc đáo, giàu chất trí tuệ, bổ ích
và hấp dẫn. Song cũng là một việc làm không đơn giản,
mỗi người dự thi chỉ được chọn 100 bài thơ trong số hàng
nghìn tác giả Việt Nam, hàng triệu bài thơ đã được công
bố trên thi đàn Việt Nam trong thế kỷ XX. Để có được
kết quả chính xác và 100 bài thơ được chọn xứng đáng là
100 bài thơ hay thế kỷ XX, Ban tổ chức đã thành lập Hội
đồng Ban sơ khảo và Hội đồng Ban chung khảo gồm
nhiều nhà thơ, nhà lý luận phê bình văn học Việt Nam uy
tín hiện nay tham gia chấm bài dự thi. Ban sơ khảo cũng
như Ban chung khảo đã làm việc nhiều lần để cùng trao
đổi, bàn luận nhằm đưa ra một tiêu chí chấm phù hợp và
có hiệu quả nhất. Đây là một công việc vô cùng khó, làm
thế nào đạt được sự chính xác và công tâm giữa hàng
nghìn bài dự thi? Niềm đam mê thơ ca của công chúng đã
truyền cảm hứng cho những người chấm giải. Cả những
người tổ chức cuộc thi cũng vào cuộc để tìm ra 100 bài
thơ hay thế kỷ XX. Kết quả thật bất ngờ, ngoài cả sự
mong đợi của ban tổ chức. Chúng tôi thực sự xúc động
khi nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ của đông đảo
quần chúng, có nhiều cụ già trên 80 tuổi (cụ Nguyễn
Trung Ngạn ở Tam Nông, Phú Thọ, cụ Nguyễn Văn, hội
viên Hội Văn học Nghệ thuật Thái Bình) và những em
học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, những người còn
đang công tác trong nhiều lĩnh vực và những người đã
nghỉ hưu, những trí thức thành thị, những nông dân ở các
vùng quê hẻo lánh và những người làm nghề tự do... cũng
tham gia cuộc thi. Nhiều bài được trình bày một cách
công phu cẩn thận, được đóng bìa cứng mạ vàng rất trang
trọng. Có bài ngoài phần tham gia bình chọn 100 bài thơ
còn kèm theo cả một bức thư dài với lời lẽ tâm huyết
gửi đến Ban tổ chức, bày tỏ suy nghĩ về thành tựu rực rỡ
của nền thơ ca Việt Nam thế kỷ XX, và những lời cảm ơn
Ban tổ chức đã phát động cuộc thi nhằm khơi dậy niềm
yêu mến thơ ca trong lòng công chúng. Thậm chí nhiều
bài còn viết lại nội dung của 100 bài thơ như: bài của ông
Đặng Văn Toàn, Nguyễn Đình Hà, ở khu 4 xã Thượng
Nông huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ... Có trường hợp
sau khi phát hiện ra bài dự thi của mình gửi đi rồi nhưng
còn một số sơ suất như lỗi do in ấn, ngay lập tức đã viết
thư tới Ban tổ chức và yêu cầu đổi lại bài mới hoàn chỉnh
hơn. Bài của Thạc sĩ văn học Nguyễn Nguyên Tản ở
Hưng Yên còn đưa ra những tiêu chí lựa chọn cũng như
những cách sắp xếp 100 bài thơ. Ngoài ra còn nhiều bài
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 255 256 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
rất công phu như: bài của ông Đoàn Hải Hưng, Hội viên
hội văn học nghệ thuật Phú Thọ dày 205 trang, trình bày
trang trọng có lời nói đầu, dưới mỗi bài thơ đều có lời
bình của người dự thi. Bài của hai nhà giáo Đăng Phúc và
ái Liên ở Hà Nội dày 296 trang. Bài của cô giáo Vũ Thị
Phượng ở Vụ Bản, Nam Định dày 154 trang... Điều đó
chứng tỏ sự trân trọng và thái độ nghiêm túc của công
chúng đối với cuộc thi nói riêng và với thơ ca nói chung.
Điều đó cũng đặt ra cho Ban tổ chức và Ban giám khảo
phải làm việc hết sức nghiêm túc, thận trọng, công minh
và tỉnh táo. Ban giám khảo đã tập hợp nhiều tuyển tập thơ
và các tài liệu liên quan đến thơ Việt Nam thế kỷ XX.
Ban giám khảo cùng các nhà nghiên cứu, các nhà lý luận,
các giáo sư nổi tiếng kiểm tra đi kiểm tra lại để đảm bảo
sự chính xác, công minh cho các bài dự thi. Có như vậy
mới xứng đáng với lòng tin cậy của bạn đọc và xứng
đáng với tầm của cuộc thi.
Bên cạnh đó cũng còn một số bài dự thi không hợp lệ
mà chúng tôi phải loại ra như: có những tác giả chưa in
thơ ở đâu bao giờ thay vì chọn 100 bài hay nhất của các
nhà thơ nổi tiếng trong thế kỷ XX lại gửi cả tập thơ do
chính họ sáng tác tới để dự thi... Đây là một cuộc thi bình
chọn vì vậy rất cần những ý kiến chủ quan, sáng suốt của
từng cá nhân nhưng rất tiếc là có nhiều tập thể trong khi
phổ biến cuộc thi cho đơn vị mình đồng thời làm luôn
một bài mẫu và mọi người cùng chép để gửi đi.
Kính thưa các quý vị!
Thế kỷ XX đã đi qua, một thế kỷ với bao biến động,
đổi thay của nhân loại và đất nước Việt Nam nhưng
những giá trị tốt đẹp đích thực nhất vẫn được chúng ta
lưu giữ đó là 100 bài thơ hay nhất thế kỷ. Trong không
khí ấm áp của ngày thơ Việt Nam hôm nay, ý nghĩa của
cuộc thi càng lớn hơn. Vì việc làm của chúng ta không
chỉ nhằm tôn vinh các nhà thơ Việt Nam nói chung và
các nhà thơ Việt Nam thế kỷ XX nói riêng, mà kết quả
của cuộc bình chọn này liên quan trực tiếp đến nền thơ ca
nước nhà. Những bài thơ hay, mang ý nghĩa sâu xa và
đầy cá tính tạo nên sự phong phú được bình chọn một
cách vô tư, không thiên kiến, lấy cái “hay” làm tiêu chí
được thẩm định bởi hàng nghìn độc giả cùng các nhà thơ
tên tuổi và các Giáo sư đầu ngành đã từng nghiên cứu,
giảng dạy nhiều năm về thơ Việt Nam sẽ còn đọng mãi
trong lòng mỗi người dân nước Việt.
Mặc dù làm việc với tinh thần hết sức nghiêm túc và
thận trọng, nhưng không tránh khỏi thiếu sót, chúng tôi
rất mong được lượng thứ.
Thay mặt Ban tổ chức, tôi xin kính chúc các vị đại
biểu, các nhà thơ, và toàn thể công chúng yêu thơ bước
sang năm mới dồi dào sức khỏe, hạnh phúc và thành đạt!
Bài phát biểu của nhà văn Lê Lựu – Giám đốc Trung
tâm Văn hóa Doanh nhân Việt Nam,
Trưởng ban tổ chức cuộc thi bình chọn
"100 bài thơ hay thế kỷ XX"
tại lễ trao giải thưởng cuộc thi
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 257 258 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Mục lục
Lời nói đầu ........................................................... 5
1. Hồ chí minh
Nguyên tiêu (Rằm tháng Giêng)........................... 7
2. Phùng khắc bắc
Ngày hòa bình đầu tiên ......................................... 8
3. Nguyễn bính
Những bóng người trên sân ga ............................. 9
4. Thu bồn
Tạm biệt Huế ........................................................ 11
4. đồng đức bốn
Vào chùa ............................................................... 13
6. Nhã ca
Tiếng chuông Thiên Mụ ....................................... 14
7. Văn cao
Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc ......................... 17
8. Vũ cao
Núi Đôi ................................................................. 20
9. Hoàng cầm
Bên kia sông Đuống ............................................. 24
10. Huy cận
Tràng Giang .......................................................... 30
11. Nông quốc chấn
Dọn về làng .......................................................... 32
12. Nguyễn bá chung Quê hương ............................................................ 36
13. Vũ hoàng chương
Say đi em .............................................................. 38
14. Hoàng trần cương
Miền Trung ........................................................... 41
15. đoàn văn cừ
Đường về quê mẹ ................................................. 43
16. Lâm thị mỹ dạ
Anh đừng khen em ............................................... 45
17. Xuân diệu
Nguyệt cầm........................................................... 47
18. Phạm tiến duật
Cô bộ đội ấy đi rồi ................................................ 48
19. Quang dũng
Tây tiến ................................................................. 51
20. Khương hữu dụng
Lên Côn Sơn ......................................................... 53
21. Nguyễn duy
Đò Lèn .................................................................. 54
22. Hồ dzếnh
Chiều .................................................................... 56
23. Tản đà
Thăm mả cũ bên đường ........................................ 57
24. Lê đạt
Cha tôi .................................................................. 59
25. Nguyễn khoa điềm
Mẹ và quả ............................................................. 64
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 259 260 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
26. Cầm giang
Núi Mường Hung dòng sông Mã ......................... 65
27. Bùi giáng
Mắt buồn .............................................................. 67
28. t.t.kh
Hai sắc hoa tigôn .................................................. 68
29. Trần mạnh hảo
Nguyễn Trãi trước giờ tru di ................................ 71
30. Tế hanh
Bài thơ tình ở Hàng Châu ..................................... 74
31. Ca lê hiến
Trở về quê nội ...................................................... 77
32. Tô hoàn
Đêm mưa .............................................................. 80
33. Thi hoàng
Những đứa trẻ chơi trước cửa đền ........................ 81
34. Nguyên hồng
Cửu Long Giang ta ơi ........................................... 83
35. Minh huệ
Đêm nay Bác không ngủ ...................................... 87
36. Quang huy
Nỗi niềm Thị Nở .................................................. 91
37. đinh hùng
Đường khuya trở bước ......................................... 93
38. Hoàng hưng
Người về ............................................................... 94
39. Chính hữu
Đồng chí ............................................................... 95
40. Tố hữu
Khi con tu hú ........................................................ 97
41. Thôi hữu
Lên Cấm Sơn………………………………... 98
42. Trang thế hy
Lời nói dối nhân ái……………………… 102
43. á nam trần tuấn khải
Gánh nước đêm .................................................... 103
44. bích khê
Tỳ bà ..................................................................... 104
45. Trần đăng khoa
Gửi bác Trần Nhuận Minh ................................... 106
46. Nguyễn khuyến
Thu điếu ................................................................ 108
47. Yến lan
Bến My Lăng ........................................................ 109
48. Du tử lê
Khi người về ......................................................... 111
49. Vũ đình liên
Ông đồ .................................................................. 113
50. Hữu loan
Đèo cả ................................................................... 115
51. Hoàng lộc
Viếng bạn ............................................................. 119
52. Lưu trọng lư
Tiếng thu .............................................................. 121
53. Thế lữ
Nhớ rừng .............................................................. 122
54. Nguyễn đức mậu
Một vị tướng về hưu ............................................. 125
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 261 262 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
55. Lê thị mây
Những mùa trăng mong chờ ................................. 127
56. Trần nhuận minh
Dặn con ................................................................ 129
57. Vũ đình minh
Hội Lim ................................................................ 130
58. tú mỡ
Khóc người vợ hiền .............................................. 131
59. Nguyễn mỹ
Cuộc chia ly màu đỏ ............................................. 134
60. giang nam
Quê hương ............................................................ 136
61. Anh ngọc
Thị Mầu ................................................................ 138
62. Hồng nguyên
Nhớ ....................................................................... 140
63. Phan thị thanh nhàn
Trời và đất ............................................................ 143
64. ý nhi
Người đàn bà ngồi đan ......................................... 145
65. Trần mai ninh
Nhớ máu ............................................................... 147
66. Nguyễn ngọc oánh
Mẹ ......................................................................... 152
67. Ngô văn phú
Bông và mây ......................................................... 154
68. Việt phương
Muôn vàn tình thương yêu trùm lên khắp quê
hương ...................................................................
155
69. Vũ quần phương
Đợi ........................................................................ 161
70. Y phương
Tên làng ................................................................ 162
71. Phùng quán
Lời mẹ dặn ............................................................ 164
72. Bùi minh quốc
Có khi nào ............................................................ 167
73. Xuân quỳnh
Tự hát ................................................................... 168
74. Nguyên sa
áo lụa Hà Đông ..................................................... 170
75. Trần vàng sao
Bài thơ của một người yêu nước mình ................. 172
76. Lò ngân sủn
Người đẹp ............................................................. 179
77. Nguyễn trọng tạo
Đồng dao cho người lớn ....................................... 180
78. Thâm tâm
Tống biệt hành ...................................................... 181
79. Thanh thảo
Những dấu chân qua trảng cỏ ............................... 183
80. Nguyễn đình thi
Đất nước ............................................................... 185
81. Nguyễn quang thiều
Những người đàn bà gánh nước sông ................... 188
82. Hữu thỉnh
Nghe tiếng cuốc kêu ............................................. 190
83. Hoàng trung thông
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 263 264 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
Bao giờ trở lại ....................................................... 194
84. Trúc thông
Bờ sông vẫn gió .................................................... 197
85. Anh thơ
Bến đò ngày mưa .................................................. 198
86. Trần hữu thung
Thăm lúa ............................................................... 199
87. PHạM THIÊN THƯ
Cổ Luỹ cô thôn…………………………….. 202
88. Thu trang
Nói sao cho vợi ..................................................... 203
89. Trần huyền trân
Mưa đêm lều vó .................................................... 205
90. Vương trọng
Bên mộ cụ Nguyễn Du ......................................... 206
91. Thanh tịnh
Nhớ Huế quê tôi ................................................... 208
92. đoàn phú tứ
Màu thời gian ....................................................... 210
93. Hàn mặc tử
Đây thôn Vĩ Dạ..................................................... 211
94. Cầm vĩnh ui
Nhớ vợ .................................................................. 212
95. Bạc văn ùi
Em tắm ................................................................. 214
96. đinh thị thu vân
Một ngày ta ngoái lại ............................................ 215
97. Chế lan viên
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng ...................... 217
98. Bằng việt
Bếp lửa ................................................................. 221
99. Lưu quang vũ
Vườn trong phố .................................................... 224
100. Trần tế xương
Thương vợ ............................................................ 227
Lời bạt .................................................................. 228
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 265 266 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX
100 bài thơ hay thế kỷ XX
*
Nhà xuất bản giáo dục
T.t văn hóa doanh nhân Việt Nam
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Ngô trần ái
Lê lựu Chịu trách nhiệm bản thảo:
Lê lựu
Biên tập: vũ xuân vinh
Bìa: gia khánh
Kỹ thuật vi tính: Tạ Thu Huyền
Sửa bản in: Trần thị hồng
In lần thứ nhất 1.000
c, khổ 14,5 x 20,5cm.
Tại Xí nghiệp in Thương Mại
Số đăng ký kế hoạch xuất bản:370-2006/CXB/15-49/HHTT
In xong và nộp lưu chiểu quý I năm 2007.