132
Trung tâm văn hóa doanh nhân Việt Nam 100 Bài thơ hay thế kỷ XX Nhà xuất bản Giáo dục T.t văn hóa doanh nhân Việt Nam

100 bai tho hay the ky 20

Embed Size (px)

Citation preview

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 3 4 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Trung tâm văn hóa doanh nhân Việt Nam

100 Bài thơ hay thế

kỷ XX

Nhà xuất bản Giáo dục

T.t văn hóa doanh nhân Việt Nam

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 5 6 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

tựa

"Một trăm bài thơ hay thế kỷ XX" - đó là kết quả

bước đầu cuộc thi: "Bình chọn một trăm bài thơ hay thế

kỷ XX" của Trung tâm Văn hóa Doanh nhân Việt Nam

và Nhà xuất bản Giáo dục phối hợp tổ chức. Trên hai

năm kể từ khi phát động cuộc thi đến nay đã có tới hàng

nghìn bài dự thi của các tác giả từ ba mươi sáu tỉnh thành

trong cả nước và đồng bào ở nước ngoài như: Nga,

Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Đức… gửi tác phẩm về

tham dự.

Rất nhiều bạn đọc cho rằng đây là một cuộc thi

độc đáo, đặc biệt có lẽ vào loại nhất ở nước ta của cả một

thế kỷ. Chúng tôi rất cảm ơn những ý kiến của bạn đọc

nhưng có lẽ nó độc đáo ở chỗ đây không phải là sự lựa

chọn của một nhóm người nào mà cả một tập thể lớn bạn

đọc trong cả nước. Và chọn bài thơ hay chứ không chọn

tên tác giả. Tác phẩm dự thi chỉ chọn "tên" sáng tác, mà

cụ thể là "tên" của một trăm bài thơ vào loại hay nhất.

Độc đáo, đặc biệt và cũng thật là mạo hiểm. Nó mạo

hiểm ở chữ "hay".

Ban tổ chức và hội đồng giám khảo sau nhiều khó

khăn và phức tạp cuối cùng cũng lựa chọn một cách công

phu, nghiêm túc và trách nhiệm trong tổng số hàng nghìn

tác giả với hàng triệu bài thơ đã được công bố trên thi

đàn Việt Nam trong suốt thế kỷ XX qua sự sàng lọc chọn

lựa của hàng nghìn “thí sinh” đồng thời là giám khảo

chọn ra 100 bài thơ hay này. Một thế kỷ – nghĩa là một

trăm năm chỉ có một trăm bài thơ hay.

Tuy đã được tinh tuyển công phu nhưng cũng chưa

thể khẳng định một cách dứt khoát. Bởi vì lấy gì làm mực

thước cho sự "hay" này.

Cái chỗ để chúng ta cùng bằng lòng với nhau đó là

sự chọn lựa là của một tập thể đông đảo các thí sinh ở

nhiều lứa tuổi, nhiều trình độ, nhiều học vấn, nhiều vùng

quê khác nhau. Trong đó có cả các nhà văn, nhà thơ, các

giáo sư nổi tiếng, những người từng giảng dạy nhiều năm

trong các trường Đại học, trường PTTH, những người

Việt đang sống và làm việc ở nước ngoài chung góp lại.

"Một trăm bài thơ hay thế kỷ XX" đã định hình.

Phải nói đây là một công trình tập thể của những người

yêu thơ trong và ngoài nước và cũng phải nói rằng đây

mới chỉ là bước đầu cho dù đã hết sức khắt khe, nghiêm

túc và minh chính.

Chúng tôi nghĩ kết quả này phải được công bố

dưới hình thức xuất bản và cuối cùng thời gian và công

chúng sẽ tiếp tục giúp chúng ta trả lại sự công bằng minh

chính cho thơ ca.

Chúng tôi hy vọng và trông chờ mọi ý kiến tham

gia góp ý xây dựng và chỉ bảo cụ thể của bạn đọc trong

và ngoài nước. Chúng tôi xin nghiêm túc tiếp thu và từng

bước tiếp tục hoàn chỉnh để chúng ta sớm có được một

tác phẩm thi ca chọn lọc xứng đáng với một dân tộc, một

đất nước giàu truyền thống anh hùng và thơ mộng: Việt

Nam.

Trung tâm Văn hóa Doanh nhân Việt Nam –

Nhà xuất bản Giáo dục

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 7 8 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Hồ Chí Minh (1890 – 1969)

Chữ hán

phiên âm

thế lộ nan

Tẩu biến cao sơn dữ tuấn nham

Na tri bình lộ cánh nan kham

Cao sơn ngộ hổ chung vô dạng

Bình lộ phùng nhân khước bị giam.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 9 10 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Dịch nghĩa

đường đời hiểm trở

Từng đi khắp núi cao non hiểm, ngờ đâu đến nơi

đường phẳng lại gặp nhiều gian nan. Nơi núi cao gặp

hổ, chung quy vẫn không sao. Xuống đường phẳng

gặp người lại bị bắt giam.

Dịch thơ

Đi khắp đèo cao, khắp núi cao

Ngờ đâu đường phẳng lại lao đao

Núi cao gặp hổ mà vô sự

Đường phẳng gặp người, bị tống lao.

Phùng khắc bắc

(1944 – 1991). Quê: Bắc Giang

Tác phẩm thơ đã in: Một chấm xanh.

Ngày hòa bình đầu tiên

Những sợi nắng xuyên qua nhà mình

Thành những mũi tên

Thành những viên đạn

Bắn tiếp vào anh không gì che chắn

Phải nhận tất cả

Van anh.

Hôm qua chưa nhận được viên đạn

Hôm nay nhận những lỗ thủng

Vũ khí lúc này hai bàn tay

Mẹ giục:

– Ăn cơm, con!

Hòa bình trong canh cua, mồng tơi, cà

Mùi ổ rơm.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 11 12 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Nguyễn bính

(1918 – 1966). Quê: Nam Định

Tác phẩm thơ đã in: Lỡ bước sang ngang.

Tâm hồn tôi. Hương cố nhân. một nghìn

cửa sổ. Người con gái ở lầu hoa. Mười hai

bến nước. Mây tần. Tỳ bà truyện. ông lão

mài gươm. Đồng tháp mười. Trả ta về.

Gửi người vợ miền Nam. Trông bóng cờ bay.

Tiếng trống đêm xuân. tình nghĩa đôi ta.

đêm sao sáng. nước giếng khơi.

tuyển tập Nguyễn Bính.

những bóng người trên sân ga

Những cuộc chia lìa khởi tự đây

Cây đàn sum họp đứt từng dây

Những lời phiêu bạt thân đơn chiếc

Lần lượt theo nhau suốt tối ngày

Có lần tôi thấy hai cô bé

Sát má vào nhau khóc sụt sùi

Hai bóng chung lưng thành một bóng

"Đường về nhà chị chắc xa xôi?"

Có lần tôi thấy một người yêu

Tiễn một người yêu một buổi chiều

ở một ga nào xa vắng lắm

Họ cầm tay họ bóng xiêu xiêu

Hai người bạn cũ tiễn chân nhau

Kẻ ở trên toa kẻ dưới tàu

Họ giục nhau về ba bốn bận

Bóng nhòa trong bóng tối từ lâu

Có lần tôi thấy vợ chồng ai

Thèn thẹn đưa nhau bóng chạy dài

Chị mở khăn giầu, anh thắt lại:

"Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi!"

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 13 14 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Có lần tôi thấy một bà già

Đưa tiễn con đi trấn ải xa

Tàu chạy lâu rồi bà vẫn đứng

Lưng còng đổ bóng xuống sân ga

Có lần tôi thấy một người đi

Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì

Chân bước hững hờ theo bóng lẻ

Một mình làm cả cuộc phân ly

Những chiếc khăn màu thổn thức bay

Những bàn tay vẫy những bàn tay

Những đôi mắt ướt tìm đôi mắt

Buồn ở đâu hơn ở chốn này?

Thu bồn

(1935 – 2003). Quê: Quảng Nam

Tác phẩm thơ đã in: bài ca chim ch'rao (tc). Tre xanh.

Quê hương mặt trời vàng. azan khát.

cămpuchia hy vọng (tc). Oran 76 (TC).

Người vắt sữa Bầu trời (tc). Thông điệp

mùa Xuân (TC). Tuyển tập trường ca

100 bài thơ tình nhờ em đặt tên.

Tạm biệt huế

Bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ

Chén ngọc giờ chìm đáy sông sâu

Những lăng tẩm như hoàng hôn

chống lại ngày quên lãng

Mặt trời vàng và mắt em nâu

Xin chào Huế một lần anh đến

Để ngàn lần anh nhớ trong mơ

Em rất thực nắng thì mờ ảo

Xin đừng lầm em với cố đô

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 15 16 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy

Nắng mênh mang mấy nhịp Tràng Tiền

Nón rất Huế nhưng đời không phải thế

Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng

Nhịp cầu cong và con đường thẳng

Một đời anh tìm mãi Huế nơi đâu

Con sông dùng dằng con sông không chảy

Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu

Tạm biệt Huế với em là tiễn biệt

Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya

Tạm biệt nhé chiếc hôn thầm lặng

Anh trở về hóa đá phía bên kia.

Huế, 8-1983

đồng đức bốn

(948 – 2004). Quê: Hải Phòng

Tác phẩm thơ đã in: chăn trâu đốt lửa.

trở về với mẹ ta thôi.

cuối cùng vẫn còn dòng sông.

tuyển tập thơ đồng đức bốn.

vào chùa

đang trưa ăn mày vào chùa

Sư cụ cho một lá bùa rồi đi

Ăn mày không biết làm gì

Lá bùa nhét túi lại đi ăn mày.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 17 18 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Nhã ca

Sinh: 1939. Quê: Thừa Thiên Huế

Hiện sinh sống ở nước ngoài

Tác phẩm đã in: Trên 36 truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết... và tập

Thơ nhã ca (gồm Thi tập Nhã Ca mới và

những bài thơ mới viết, 1973).

Tiếng chuông thiên mụ

Tôi lớn lên bên này sông Hương

Con sông chẻ đời ra những vùng thương nhớ

Cây trái Kim Long, sắt thép cầu Bạch Hổ

Cửa từ bi vồn vã bước chân sông

Mặt nước xanh trong suốt tuổi thơ hồng

Tháp cổ chuông xưa sông hiền sóng mọn

Những đêm tối bao la những ngày tháng lớn

Những sáng chim chiều dế canh gà

Tiếng chuông buồn vui dợn thấu trong da

Người với chuông như chiều với tối

Tôi bỏ nhà ra đi năm mười chín tuổi

Đêm trước ngày đi nằm đợi tiếng chuông

Cuối cơn điên đầu giấc ngủ đau buồn

Tiếng chuông đến dịu dàng lay tôi dậy

Tiếng chuông đến và đi chỉ mình tôi thấy

Chỉ mình tôi nhìn thấy tiếng chuông tan

Tiếng chuông tan đều như hơi thở anh em

Tiếng chuông tan rời như lệ mẹ hiền

Tiếng chuông tan lâu như mưa ngoài phố

Tiếng chuông tan dài như đêm không ngủ

Tiếng chuông tan tành như tiếng vỡ trong tôi

Từ dạo xa chuông khôn lớn giữa đời

Đổi họ thay tên viết văn làm báo

Cơm áo dạy mồm ăn lơ nói láo

Cửa từ bi xưa mất dấu đứa con hư

Tháp cổ chuông xưa, sông nhỏ sương mù

Dòng nước cũ trong mắt nhìn ẩm đục

Con đường cũ trong hồn nghe cỏ mọc

Chuông cũ giờ đây bằn bặt trong da

Tuổi hồng sa chân chết đuối bao giờ

Ngày tháng cũ cầm bằng như nước lũ

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 19 20 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Nhưng sao chiều nay bỗng bàng hoàng nhớ

Tiếng chuông xưa bừng sống lại trong tôi

Tiếng chuông xưa kìa tuổi dại ta ơi

Chuông òa vỡ trong tôi nghìn tiếng nói

Những mảnh đồng đen như da đêm tối

Những mảnh đồng đen như tiếng cựa mình

Những mảnh đồng đen như máu phục sinh

Những mảnh đồng đen kề nhau bước tới

Tôi thức dậy rồi đây chuông ơi chuông hỡi

Tôi thức dậy đây tôi thức dậy rồi

Thức dậy thực sự rồi

Thức dậy cùng giông bão, thức dậy cùng tan vỡ

Thức dậy cùng lịch sử

Mẹ hiền ơi thành phố cũ chiều nay

Có tiếng chuông nào rơi như lệ trên tay

Trên mặt nước trên mặt người mặt lộ

Cho con trở về đứng mê sảng ngó.

văn cao

(1923 – 1995). Quê: Nam Định

Tác phẩm thơ đã in: những người trên cửa biển.

Lá. tuyển tập thơ văn cao

Chiếc xe xác qua phường dạ lạc

Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa

Chập chờn ảo hóa tà ma...

Đôi dãy hồng lâu cửa mở phấn sa

Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục

Lạnh ngắt tiếng ca nhi phách giục

Tình tang... Não nuột khóc tàn sương

áo thế hoa rũ rượi lượn đêm trường

Từng mỹ thể rạc hơi đèn phù thế

Ta đi trên đường dương thế

Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây.

Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy

Xác trụy lạc rũ bên thềm lá phủ

Ai hát khúc thanh xuân hờ ơi phấn nữ

Thanh xuân hờ thanh xuân

Bước gần ta chút nữa thêm gần

Khoảng giữa tuổi thanh xuân

nghe loạn trùng hút tủy

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 21 22 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Ai hủy đời trai trên tang trống nhỉ?

Hay ác thần gõ quách nạo mồ khuya!

Đảo điên... mê say... Thể phách chia lìa

Nghe gieo mạnh chuỗi tiền cười lạnh lẽo!

Tiền rơi! Tiền rơi! Chùm sao huyền diệu

Lấp lánh hằng hà gạo rơi! Tiền rơi!

Ta lả nhìn cửa sổ mắt mờ rồi

Vàng mấy lá thừa đãi thây phủ chiếu.

Ngã tư nghiêng nghiêng chia nẻo

Dặt dìu cung bậc âm dương

Tàn xuân nhễ nhại mưa cô tịch

Đầm đìa rả rích phương Đông

Mang mang thở dài hôn đất trích

Lưới thép trùng trùng khép cố đô

Cửa ô đau khổ

Bốn ngả âm u

(Nhà ta thuê mái gục tự mùa Thu

Gác cô độc hướng về phường Dạ Lạc)

Đêm đêm, đài canh tan tác

Bốn vực nhạc động, vẫy người

Dẫy đèn chao thắp đỏ quạnh máu đời

Ta về gác gió cài then cửa cũ

Trên đường tối đêm khỏa thân khiêu vũ

Kèn nhịp xa điệu múa vô luân

Run rẩy giao duyên khối nhạc trầm trầm

Hun hút gió nâng cầm ca nặng nhọc

Kiếp người tang tóc

Loạn lạc đòi nơi xương chất lên xương

Một nửa kêu than, ma đói sa trường

Còn một nửa lang thang tìm khoái lạc

Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác

Đi vào ngõ khói Công Yên

Thấy bâng khuâng lối cỏ u huyền

Hương nha phiến chập chờn mộng ảo

Bánh nghiến nhựa đang kêu sào sạo

– Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe

Chiếc quỷ xa qua bốn ngả ê chề

Chở vạn kiếp đi hoang ra khỏi vực

Mưa, mưa hằng thao thức

Trong phố lội đìu hiu

Mưa, mưa tràn trên vực

Trong tối gục tiêu điều

Mang linh hồn cô liêu

Tiếng xe càng ám ảnh

Tiếng xe dần xa lánh

Khi gà đầu ô kêu.

1945

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 23 24 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Vũ cao

Sinh: 1922. Quê: Nam Định

Hiện sống và viết tại Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: sớm nay, đèo trúc. Núi đôi

Núi đôi

Bảy năm về trước em mười bảy

Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng

Xuân Dục Đoài, Đông hai cánh lúa

Bữa thì em tới, bữa anh sang

Lối ta đi giữa hai sườn núi

Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi

Em vẫn đùa anh: Sao khéo thế

Núi chồng, núi vợ đứng song đôi!

Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới

Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau

Mới ngỏ lời thôi, đành lỗi hẹn

Đâu ngờ từ đó mất tin nhau

Anh vào bộ đội, lên đông bắc

Chiến đấu quên mình năm lại năm

Mỗi bận dân công về lại hỏi

Ai người Xuân Dục, núi Đôi chăng?

Anh nghĩ quê ta giặc chiếm rồi

Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi

Mỗi tin súng nổ vùng đai địch

Sương trắng người đi lại nhớ người.

Đồng đội có nhau thường nhắc nhở

Trung du làng nước vẫn chờ trông

Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm

Em vẫn đi về những bến sông?

Náo nức bao nhiêu ngày trở lại

Lệnh trên ngừng bắn, anh về xuôi

Hành quân qua tắt đường sang huyện

Anh ghé thăm nhà, thăm núi Đôi

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 25 26 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Mới đến đầu ao, tin sét đánh

Giặc giết em rồi, dưới gốc thông

Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa

Em sống trung thành, chết thuỷ chung

Anh ngước nhìn lên hai dốc núi

Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen

Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói

Núi vẫn đôi mà anh mất em!

Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo

Em còn trẻ lắm, nhất làng trong!

Mấy năm cô ấy làm du kích

Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng?

Từ núi qua thôn, đường nghẽn lối

Xuân Dục, Đoài, Đông cỏ ngút đầy

Sân biến thành ao nhà đổ chái

Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay

Cha mẹ dìu nhau về nhận đất

Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau

Nứa gianh nửa mái lều che tạm

Sương nắng khuây dần chuyện xót đau

Anh nghe có tiếng người qua chợ

Ta gắng, mùa sau lúa sẽ nhiều

Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc

Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu!

Nhưng núi còn kia, anh vẫn nhớ

Oán thù còn đó, anh còn đây

ở đâu cô gái làng Xuân Dục

Đã chết vì dân giữa đất này!

Ai viết tên em thành liệt sĩ

Bên những hàng bia trắng giữa đồng

Nhớ nhau anh gọi: em, đồng chí

Một tấm lòng trong vạn tấm lòng

Anh đi bộ đội, sao trên mũ

Mãi mãi là sao sáng dẫn đường

Em sẽ là hoa trên đỉnh núi

Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.

1956

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 27 28 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Hoàng cầm

Sinh: 1922. Quê: Bắc Ninh

Hiện sống và viết tại Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: Men đá vàng (tc).

mưa thuận thành. Lá diêu bông.

bên kia sông đuống. Về Kinh bắc. 99 tình

khúc.

bên kia sông đuống

em ơi! Buồn làm chi

Anh đưa em về sông Đuống

Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Xanh xanh bãi mía bờ dâu

Ngô khoai biêng biếc

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc

Sao xót xa như rụng bàn tay

Bên kia sông Đuống

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô

Nhà ta cháy

Chó ngộ một đàn

Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang

Mẹ con đàn lợn âm dương

Chia lìa đôi ngả

Đám cưới chuột đang từng bừng rộn rã

Bây giờ tan tác về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống

Cho ta gửi tấm the đen

Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên

Những hội hè đình đám

Trên núi Thiên Thai

Trong chùa Bút Tháp

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 29 30 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Giữa huyện Lang Tài

Gửi về may áo cho ai

Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu

Những cô nàng môi cắn chỉ quết trầu

Những cụ già phơ phơ tóc trắng

Những em sột soạt quần nâu

Bây giờ đi đâu? Về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống

Có nhớ từng khuôn mặt búp sen

Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa Thu toả nắng

Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen

Bãi Trầm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối

Những nàng dệt sợi

Đi bán lụa màu

Những người thợ nhuộm

Đồng Tỉnh, Huê Cầu

Bây giờ đi đâu? Về đâu?

Bên kia sông Đuống

Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong

Dăm miếng cau khô

Mấy lọ phẩm hồng

Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm

Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn

Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo

Xì xồ cướp bóc

Tan phiên chợ nghèo

Lá đa lác đác trước lều

Vài ba vết máu loang chiều mùa Đông

Chưa bán được một đồng

Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong

Bước cao thấp bên bờ tre hun hút

Có con cò trắng bay vùn vụt

Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu?

Mẹ ta lòng đói dạ sầu

Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ.

Thuyền ai thấp thoáng bến Hồ

Xoá cho ta hết những giờ thảm thương.

Bên kia sông Đuống

Ta có đàn con thơ

Ngày tranh nhau một bát cháo ngô

Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn

Lấy mẹt quây tròn

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 31 32 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Tưởng làm tổ ấm

Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm

ú ớ cơn mê

Thon thót giật mình

Bóng giặc giày vò những nét môi xinh

Đã có đất này chép tội

Chúng ta không biết nguôi hờn.

Đêm buông xuống dòng sông Đuống

– Con là ai? Con ở đâu về

Hé một cánh liếp

– Con vào đây bốn phía tường che

Lửa đèn leo lét soi tình mẹ

Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng

Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể

Những chuyện muôn đời không nói năng

Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống

Bộ đội bên sông đã trở về

Con bắt đầu xuất kích

Trại giặc bắt đầu run trong sương

Dao loé giữa chợ

Gậy lùa cuối thôn

Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn

Ăn không ngon

Ngủ không yên

Đứng không vững

Chúng mày phát điên

Quay cuồng như xéo trên đống lửa

Mà cánh đồng ta còn chan chứa

Bao nhiêu nắng đẹp mùa Xuân

Gió đưa tiếng hát về gần

Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa

Tiếng bà ru cháu buổi trưa

Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu:

– "à ơi! Cha con chết trận từ lâu

Con càng khôn lớn, càng sâu mối thù"

Tiếng em cắt cỏ hôm xưa

Căm căm gió rét mịt mù mưa bay

– "Thân ta hoen ố vì mày

Hờn ta cùng với đất này dài lâu..."

Em ơi? Đừng hát nữa! Lòng anh đau

Mẹ ơi đừng khóc nữa! Dạ con sầu

Cánh đồng im phăng phắc

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 33 34 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Để con đi giết giặc

Lấy máu nó rửa thù này

Lấy súng nó cầm chắc tay

Mỗi đêm một lần mở hội

Trong lòng con chim múa hoa cười.

Vì nắng sắp lên rồi

Chân trời đã tỏ

Sông Đuống cuồn cuộn trôi

Để cuốn phăng ra bể

Bao nhiêu đồn giặc tơi bời

Bao nhiêu nước mắt

Bao nhiêu mồ hôi

Bao nhiêu bóng tối

Bao nhiêu nỗi đời...

Bao giờ về bên kia sông Đuống

Anh lại tìm em

Em mặc yếm thắm

Em thắt lụa hồng

Em đi trẩy hội non sông

Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.

Việt Bắc 4-1948

Huy cận

(1919 - 2005). Quê: Hà Tĩnh

Tác phẩm thơ đã in: lửa thiêng. vũ trụ ca.

Đất nở hoa. Bài thơ cuộc đời. Những năm

sáu mươi. cô gái mèo. Chiến trường gần

chiến trường xa. Những người mẹ

những người vợ. Ngày hằng sống

ngày hằng thơ. Ngôi nhà giữa nắng.

hạt lại gieo.

Tràng giang

Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài

H.C

Tặng Trần Khánh Giư

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy giòng

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 35 36 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

nông quốc chấn

Dân tộc Tày

(1923 – 2003). Quê: Bắc Cạn

Hiện sống và viết tại: Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: tiếng ca người việt bắc.

đèo gió. Bước chân pác pó.

Dòng thác. suối và biển.

Tuyển tập thơ nông quốc chấn.

Dọn về làng

Mẹ! – Cao Lạng hoàn toàn giải phóng

Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn

Vệ quốc quân chiếm lại các đồn

Người đông như kiến, súng dầy như củi

Sáng mai về làng, sửa nhà phát cỏ

Cày ruộng vườn, trồng lúa ngô khoai

Mấy năm qua quên tết tháng Giêng

quên rằm tháng Bảy

Chạy hết núi lại khe cay đắng đủ mùi

Nhớ một hôm mù mịt mưa rơi

Cơn gió bão trên rừng cây đổ

Cơn sấm sét lán sụp xuống nát cửa

Đường đi lại vắt bám đầy chân

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 37 38 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Súng nổ kìa! Giặc Tây lại đến lùng

Từng cái lán nó đốt đi trơ trụi

Nó vơ vét áo quần trong túi

Mẹ địu em chạy tót lên rừng

Lẩn đi trước, mẹ vẫy gọi con sau lưng

Tay dắt bà, vai đeo đẫy nải

Bà lòa mắt không biết lối bước đi

Làm sao bây giờ: Ta phải chống

Giặc đã bắt cha con đi, nó đánh

Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây

Súng nổ ngay đì đùng một loạt

Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất

Cha ơi! Cha không biết nói rồi...

Chúng con còn thơ, ai nuôi, ai dậy

Không ai chống gậy khi bà cụ qua đời!

Mẹ ngồi khóc con cúi đầu cũng khóc

Sợ Tây nghe mẹ dỗ "nín", con im

Lán anh em rải rác không biết nơi tìm

Không ván, không người đưa cha đi cất

Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng

Con cởi áo liệm thân cho bố!

Mẹ con đưa cha đi nằm một chỗ

Máu đầy tay, trên mặt nước tràn

Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn

Băm xương thịt mày tao mới hả!

Hôm nay Cao-Bắc-Lạng cười vang

Dọn lán, rời rừng, người xuống làng

Người nói cỏ lay trong ruộng rậm

Con cày, mẹ phát ruộng ta quang

Đường cái kêu vang tiếng ô tô

Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ

Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá

Mặc gà gáy, chó sủa không lo

Ngày hai bữa rau ta có muối

Ngày hai buổi không tìm củ pấu, củ nâu

Có bắp say độn gạo no lâu

Đường ngõ từ nay không cỏ rậm

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 39 40 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Trong vườn chuối hổ không dám đến đẻ con

Quả trên cành không lo tự chín, tự rụng

Ruộng không thành nơi máu chảy từng vũng

Bộ đội đỡ phải đi thung lũng núi rừng

Ra đường xe hát, nói ung dung

Từng đoàn người dắt lá cây tiến bước

Súng bên vai, bao gạo buộc bên vai

Chân đi có giầy không sợ nẻ

Trên đầu có mũ che nắng mưa

Mặt trời lên sáng rõ rồi mẹ ạ

Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà

Giặc Pháp, giặc Mỹ còn giết người,

cướp của trên đất nước ta

Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ.

Mùa Đông, 1950

Nguyễn bá chung

Việt kiều tại Mỹ

Quê hương

Ba mươi năm xa cách quê hương

Bảy lần về thôi cũng là tạm đủ

Nhớ lần đầu – tóc tang trời ủ rũ

Đến bây giờ ánh sáng đã bừng lên

Có cái gì là lạ không thể quên

Như nỗi nhớ không biết tên mà gọi

Như nỗi đau không thể làm dịu vợi

Như ngôi nhà vẫn mãi mãi đi tìm

Như bầu trời nửa xám nửa không quen

Mảnh đất vỡ bồi máu xương ta đó

Đỉnh Yên Tử hoa đại còn vết đỏ

Những người xưa vì nước xả thân mình

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 41 42 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Con đường quê vẫn mãi mãi gập ghềnh

Bao năm tháng những người làng chịu đói

Năm ất Dậu tất cả làng tụ lại

Ăn cháo hoa suốt cả mấy tháng trời

Bát cháo hoa mà ngọt cả một đời

Quý hơn cả bao ngọc vàng cộng lại

Xa ngàn dặm để mà còn nhớ mãi

Vết thương đau chưa chôn đủ tháng ngày

Để về đây nhận lại mặt người

Để mình biết mình vẫn là mình cũ

Bao đổi thay thăng trầm bong lớp vỏ

Nhìn quê hương để lại nhận ra mình.

Vũ hoàng chương

(1916 – 1976). Quê: Nam Định

Tác phẩm thơ đã in: thơ say. Mây. Thơ lửa.

tâm sự kẻ sang tần. Rừng phong.

Hoa đăng. tâm tình người đẹp.

Trời một phương. lửa từ bi. ánh sáng

đạo lý. Bút nở hoa đàm. cành mai

trắng mộng. Ta đợi em từ ba mươi năm.

say đi em

Khúc nhạc hồng êm ái

Điệu kèn biếc quay cuồng

Mặt trời phấn hương

Đôi người gió sương

Đầu xanh lận đận, cùng xót thương,

càng nhớ thương

Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề,

tình nay sao héo

Hồn ngã lâu rồi nhưng chân còn dẻo

Lòng chót nghiêng mà bước vẫn du hương

Lòng nghiêng tràn hết yêu đương

Bước chân còn nhịp nghê thường lẳng lơ

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 43 44 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

ánh đèn tha thướt

Lưng mềm não nuột dáng tơ

Hàng chân lả lướt

Đê mê hồn gửi cánh tay hờ

Âm ba gờn gợn nhỏ

ánh sáng phai phai dần

Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân

Lui đôi vai, tiến đôi chân

Riết đôi tay, ngả đôi thân

Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió

Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ

Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta!

Cổ chưa khô, đầu chưa nặng, mắt chưa hoa

Tay mềm mại, bước còn chưa chếnh choáng

Chưa cuối xứ Mê Ly, chưa cùng trời Phóng Đãng

Còn chưa say, hồn khát vẫn thèm men

Say đi em! Say đi em

Say cho lơi lả ánh đèn

Cho cung bậc ngả nghiêng, điên rồ xác thịt

Rượu, rượu nữa và quên, quên hết!

Ta quá say rồi

Sắc ngã màu trôi

Gian phòng không đứng vững

Có ai ghì hư ảnh sát kề môi?

Chân rã rời

Quay cuồng chi được nữa

Gối mỏi gần rơi

Trong men cháy giác quan vừa bén lửa

Say con còn biết chi đời

Như em ơi,

Đất trời nghiêng ngửa

Mà trước mắt thành Sầu chưa sụp đổ;

Đất trời nghiêng ngửa

Thành Sầu không sụp đổ em ơi.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 45 46 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Hoàng trần cương

Sinh: 1948. Quê: Nghệ An

Hiện sống và viết tại: Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: đường chân trời. Dấu vết

tháng ngày. trầm tĩnh (Tc)

Miền trung

Bao giờ em về thăm

Mảnh đất quê anh một thời ngún lửa

Miền Trung mỏng và sắc như cật nứa

Chuốt ruột mình thành dải lụa sông Lam

Miền Trung

Tấm lưng trần đen sạm

Những đốt sống Trường Sơn lởm chởm giăng màn

Thoáng bóng giặc núi lửa thành bàng súng

Những đứa con văng như mảnh đạn

Thương mẹ một mình trời sinh đá mồ côi

Miền Trung

Đã bao đời núi với bể kề đôi

Ôi! Bể Đông – giọt nước mắt của muôn ngàn

thế hệ

Nóng hổi như vừa lăn xuống

Theo những tảng đá cụt đầu

của Trường Sơn uy nghiêm

Miền Trung

Câu ví dặm nằm nghiêng

Trên nắng và dưới cát

Đến câu hát cũng hai lần sàng lại

Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 47 48 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Miền Trung

Bao giờ em về thăm

Mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt

Lúa con gái mà gầy còm úa đỏ

Chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ

Không ai gieo mọc trắng mặt người

Miền Trung

Eo đất này thắt đáy lưng ong

Cho tình người đọng mật

Em gắng về đừng để mẹ già mong.

5-1990

đoàn văn cừ

(1913 – 2004). Quê: Nam Định

Tác phẩm thơ đã in: thôn ca. Thôn ca II.

Dọc đường xuân. đường về

quê mẹ. Tuyển tập đoàn văn cừ.

đường về quê mẹ

u tôi ngày ấy mỗi mùa Xuân

Dặm liễu mây bay sắc trắng ngần

Lại dẫn chúng tôi về nhận họ

Bên miền quê ngoại của hai thân

Tôi nhớ đi qua những rặng đề

Những dòng sông trắng lượn ven đê

Cồn xanh bãi tía kề liền tiếp

Người xới cà ngô rộn bốn bề

Thúng cắp bên hông nón đội đầu

Khuyên vàng yếm thắm, áo the nâu

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 49 50 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Trông u chẳng khác thời con gái

Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au

Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng

Đoàn người về ấp gánh khoai lang

Trời xanh cò trắng bay từng lớp

Xóm chợ lều phơi xác lá bàng

Tà áo nâu in giữa cánh đồng

Gió chiều cuốn bụi bốc sau lưng

Bóng u hay bóng người thôn nữ

Cúi nón mang đi cặp má hồng

Tới đường làng gặp những người quen

Ai cũng khen u nết thảo hiền

Dẫu phải theo chồng thân phận gái

Đường về quê mẹ vẫn không quên.

1942

Lâm thị mỹ dạ

Sinh: 1949. Quê: Quảng Bình

Hiện sống và viết tại: Thừa Thiên Huế

Tác phẩm thơ đã in: trái tim sinh nở.

Bài thơ không năm tháng.

hái tuổi em đầy tay. Mẹ và con.

đề tặng một giấc mơ.

Anh đừng khen em

Lần đầu khi mới làm quen

Anh khen cái nhìn em đẹp

Trời mưa òa cơn nắng đến

Anh khen đôi má em hồng

Gặp người tàn tật em khóc

Anh khen em nhạy cảm thông

Thấy em sợ sét né giông

Anh khen sao mà hiền thế

Thấy em nâng niu con trẻ

Anh khen em thật dịu dàng

Khi hôn lên câu thơ hay

ấp trang sách vào mái ngực

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 51 52 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Em nghe tim mình thổn thức

Thương người làm thơ đã mất

Trái tim giờ ở nơi đâu

Khi đọc một cuộc đời buồn

Lòng em xót xa ấm ức

Anh khen em cảm xúc

Và bao điều nữa... anh khen

Em sợ lời khen của anh

Như sợ đêm về trời tối

Nhiều khi ngồi buồn một mình

Trách anh sao mà nông nổi

Hãy chỉ cho em cái kém

Để em nên người tốt lành

Hãy chỉ nơi anh cái xấu

Để em chăm chút đời anh

Anh ơi anh có biết không

Vì anh em buồn biết mấy

Tình yêu khắt khe thế đấy

Anh ơi anh đừng khen em.

Xuân diệu

(1916 – 1985). Quê: Hà Tĩnh

Tác phẩm thơ đã in: thơ thơ. Gửi hương cho gió.

Ngọn quốc kỳ. Hội nghị non sông. mẹ con.

Ngôi sao. Riêng chung. Mũi cà mau

với cầm tay. Một khối hồng. Hai đợt sóng.

Tôi giàu đôi mắt. Hồn tôi đôi cánh.

Thanh ca. Tuyển tập xuân diệu.

Nguyệt cầm

Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh

Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần

Đàn buồn, đàn lạnh, ôi đàn chậm!

Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 53 54 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh,

Lung linh bóng sáng bỗng rung mình

Vì nghe nương tử trong câu hát

Đã chết đêm rằm theo nước xanh.

Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời

Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi...

Long lanh tiếng sỏi vang vang hận

Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người.

Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê

Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề

Sương bạc làm thinh, khuya nín thở

Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.

Phạm tiến duật

Sinh: 1941. Quê: Phú Thọ

Hiện sống và viết tại: Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: vầng trăng quầng lửa.

Thơ một chặng đường. ở hai đầu núi.

Tiếng bom và tiếng chuông.

Cô bộ đội ấy đã đi rồi

Cô bộ đội ấy đã đi rồi

Chuyển đơn vị vào vùng rừng trong ấy

Em gái đi, các anh ở lại

Biết đến bao giờ mới được gặp nhau

Lũng thì thẳm mà rừng thì sâu

Để hun hút nhớ nhau biền biệt

Bao nhiêu bạn bè, bao nhiêu bạn bè thân thiết

Xa nhau như xa nhau hôm nay

Thôi em đừng bẻ đốt ngón tay

Nước mắt dễ lây mà rừng thì lặng quá

Anh biết rồi bao nhiêu vất vả

Tháng năm dài cùng nhau đi qua

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 55 56 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Để sáu bảy năm em gái xa nhà

Hăm bảy tuổi chuyện chồng con chưa nói

Cả một thời trẻ trung sôi nổi

ở bên nhau bếp lửa giữa rừng xa

Nhớ nhau, nhớ nhau ở giữa rừng già

Ngón tay nóng cầm viên thuốc mát

Cái đêm đói ngồi nghe chim đắp tát

Con chó vàng cọ chân em đòi ăn

Nhớ nhau, nhớ nhau những buổi mưa dầm

Căn nhà dột tóc em ướt hết

Anh ngồi nghĩ gì em chẳng biết

Cứ hát tràn những câu hát bâng quơ

Nhớ trưa đỉnh đèo ta đứng ngẩn ngơ

Nhìn mây trắng chân trời ngỡ biển

Biển Đông thì xa, biết ta nhìn chẳng đến

Nhưng em vui anh kể chuyện em nghe

Trưa vác gạo ta dừng bên khe

Một đoàn tù binh đi qua đang đứng ngó

Bên những thằng người áo quần loang lổ

Bóng em lồng bóng suối trong veo

Lúc ấy lòng anh biết mấy tự hào

Tự hào vì có em ở đây, tự hào vì đất nước

ở đây màu hồng xiết bao thân thuộc

Xao xuyến lòng anh, xao xuyến bạn bè

Đến chào anh sáng mai em đi

Như ngày nào chào bà con hàng xóm

Sự xa cách nhỏ trong sự xa cách lớn

Một cuộc chia tay trong triệu cuộc chia tay

Rồi ngày mai xa vắng nơi đây

Em lại có bao nhiêu đồng đội mới

Trong chiến tranh một khát khao sôi nổi

Là nhân dân đoàn tụ muôn đời

Cô bộ đội ấy đã đi rồi.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 57 58 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Quang dũng

(1921 - 1988). Quê: Sơn Tây

Tác phẩm thơ đã in: bài thơ sông Hồng. Mây đầu ô

Thơ văn quang dũng.

tây tiến

sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ, bỏ quên đời!

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa Xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Phù Lưu Chanh 1949

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 59 60 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

khương hữu dụng

(1907 – 2005). Quê: Quảng Nam

Tác phẩm thơ đã in: kinh nhật tụng

của người chiến sĩ. Từ đêm 19.

Những tiếng thân yêu. quả nhỏ. Bi bô.

Lên côn sơn

Lên đỉnh Côn Sơn tìm Nguyễn Trãi

Trên đầu xanh ngắt một bầu không

Bàn cờ thế sự quân không động

Mà thấy quanh mình nỗi bão giông.

Nguyễn duy

Sinh 1948. Quê: Thanh Hóa

Hiện sống và viết tại: Tp Hồ Chí Minh

Tác phẩm thơ đã in: cát trắng. ánh trăng. Bụi.

mẹ và em. đường xa. Quà tặng. Về.

đò lèn

Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

Níu váy bà đi chợ Bình Lâm

Bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

Và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần

Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị

Chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng

Mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm

Điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng

Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

Bà mò cua xúc tép ở Đồng Quan

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 61 62 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Bà đi gánh chè xanh Ba Trại

Quán Cháo, Đồng Dao thập thững những đêm hàn

Tôi trong suốt giữa hai bờ hư thực

Giữa bà tôi và tiên, phật, thánh, thần

Cái năm đói củ rong riềng luộc sượng

Cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm

Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất

Đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền

Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết

Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn

Tôi đi lính lâu không về quê ngoại

Dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi

Khi tôi biết thương bà thì đã muộn

Bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi.

Hồ dzếnh

(1916 – 1991). Quê: Trung Quốc (sinh tại Thanh Hóa)

Tác phẩm thơ đã in: quê ngoại. hoa xuân đất việt.

Chiều

Trên đường về nhớ đầy

Chiều chậm đưa chân ngây

Tiếng buồn vang trong mây

Chim rừng quên cất cánh

Gió say tình ngây ngây

Có phải sầu vạn cổ

Chất trong hồn chiều nay?

Tôi là người lữ khách

Màu chiều khó làm khuây

Ngỡ lòng mình là rừng

Ngỡ hồn mình là mây

Nhớ nhà châm điếu thuốc

Khói huyền bay lên cây...

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 63 64 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Tản đà

(1889 – 1939). Quê: Hà Tây

Tác phẩm thơ đã in: Khối tình con i, ii, iii.

tản đà vận văn i, ii. Thơ tản đà.

Thăm mả cũ bên đường

Chơi lâu nhớ quê về thăm nhà

Đường xa, người vắng, bóng chiều tà

Một dãy lau cao làn gió chạy

Mấy cây thưa lá sắc vàng pha

Ngoài xa trơ một đống đất đỏ

Hang hốc đùn lên đám cỏ gà

Người nằm dưới mả, ai ai đó?

Biết có quê đây hay vùng xa?

Hay là thuở trước kẻ cung đao?

Hám đạn liều tên quyết mũi dao

Cửa nhà xa cách vợ con khuất

Da ngựa gói bỏ lâu ngày cao

Hay là thuở trước kẻ văn chương?

Chen hội công danh nhỡ lạc đường

Tài cao phận thấp chí khí uất

Giang hồ mê chơi, quên quê hương

Hay là thuở trước khách hồng nhan?

Sắc sảo khôn ngoan trời đất ghen

Phong trần xui gặp bước lưu lạc

Đầu xanh theo một chuyến xuân tàn

Hay là thuở trước khách phong lưu?

Vợ con đàn hạc đề huề theo

Quan san xa lạ đường lối khó,

Ma thiêng nước độc phong sương nhiều

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 65 66 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Hay là thuở trước bậc tài danh?

Đôi đôi lứa lứa cũng linh tinh

Giận duyên tủi phận hờn ân ái

Đất khách nhờ chôn một khối tình!

Suối vàng sâu thẳm biết là ai

Mả cũ không ai kẻ đoái hoài

Trải bao ngày tháng trơ trơ đó

Mưa dầu, nắng dãi, trăng mờ soi!

ấy thực quê hương con người ta

Dặn bảo trên đường những khách qua

Có tiếng khóc oe thời có thế

Trăm năm ai lại biết ai mà.

Lê đạt

Sinh: 1929. Quê: Yên Bái

Hiện sống và viết tại: Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: bóng chữ.

Cha tôi

Đất quê cha tôi

đất quê Đề Thám

Rừng rậm sông sâu

Con gái cũng đòi theo nghề võ

Ngày nhỏ

cha tôi dẫn đầu

lũ trẻ chăn trâu

Phất ngọn cờ lau

Vào rừng Na Lương đánh trận

Mơ làm Đề Thám...

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 67 68 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Lớn lên,

Cha tôi đi dạy học

Gối đầu lên cuốn Chiêu hồn nước

Khóc Phan Chu Trinh

Như khóc người nhà mình

Ôm mộng bôn ba hải ngoại

Lênh đênh khói một con tàu

Sớm tối

ngâm nga mấy vần cảm khái

Đánh nhau với Tây

Bỏ việc

lang thang

vào Nam

ra Bắc

Cắt tóc đi tu

nhưng quá nặng nghiệp đời

Gần hai mươi năm trời

Tôi vẫn nhớ lời cha tôi cháy bỏng

Dạy tôi

làm thơ

ước mơ

hy vọng

Những câu Kiều say sưa

đưa cuộc đời bay bổng

Tiếng võng

trưa hè mênh mông

"Phong trần mài một lưỡi gươm

Những phường giá áo túi cơm sá gì".

Nhưng công việc làm ăn mỗi ngày một khó

Cuộc đời chợ đen chợ đỏ

Thù hằn con người

"Muốn sống thanh cao

đi lên trời

mà ở

Mày đã quyết kiêu căng

Níu lấy cái lương tâm gàn dở

Dám

không tồi

như chúng tao

Suốt đời mày sẽ khổ".

Quan lại trù cha tôi

cứng đầu cứng cổ

Người "An-nam" dám đánh "ông Tây"

Mẹ ỉ eo dằn vặt suốt ngày

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 69 70 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Chửi mèo, mắng chó:

"Cũng là chồng là con

Chồng người ta khôn ngoan

Được lòng ông tuần ông phủ

Mang tiền về nuôi vợ".

Bát đĩa xô nhau vỡ

Cha tôi nằm thở dài

Anh em tôi, bỏ cơm

Hai đứa dắt nhau ra đường tha thẩn

Trời mùa Thu trăng sáng

Sao nở như hoa

Không biết Ngưu Lang trên kia

Có bao giờ cãi nhau cùng Chức Nữ.

Rồi cha tôi

lui tới nhà quan tuần, quan phủ

Lúc về

gặp tôi

đỏ mặt

quay đi

Một hôm...

tôi thấy chữ R.O(*)

treo ngoài cửa

Cha tôi không dạy tôi làm thơ nữa

Người còn bận đếm tiền

ghi sổ

Thỉnh thoảng nhớ những ngày oanh liệt cũ

Một mình uống rượu say

Ngâm mấy câu Kiều,

ôm mặt khóc

Tỉnh dậy

lại loay hoay

ghi sổ

đếm tiền

Hai vai lún xuống

Như không mang nổi cuộc đời

Bóng in tường vôi

im lặng

Ngọn đèn lắt leo ánh sáng

Bóng với người

như nhau

_______________ (*) Régied o pium: Cửa hàng đ ược phép Tây cho bán thuố c

phiệ n.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 71 72 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Mùi ẩm mốc, tiếng mọt kêu cọt kẹt

ở chân bàn

hay ở cha tôi?

Cuộc sống hàng ngày

nhỏ nhen

tàn bạo.

Rác rưởi gia đình

miếng cơm

manh áo

Tàn phá con người.

Những mơ ước thời xưa

như con chim gẫy cánh

Rũ đầu chết ngạt trong bùn

Năm tháng mài mòn

bao nhiêu khát vọng.

Cha đã dạy con một bài học lớn

Đau thương

kiên quyết làm người.

7-1956

Nguyễn khoa điềm

Sinh: 1943. Quê: Thừa Thiên Huế

Hiện sống và viết tại: Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: Đất ngoại ô. Mặt đường

khát vọng (Tc). Ngôi nhà có ngọn lửa ấm.

Thơ Nguyễn khoa điềm.

mẹ và quả

những mùa quả mẹ tôi hái được

Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng

Những mùa quả lặn rồi lại mọc

Như mặt trời, khi như mặt trăng

Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên

Còn những bí và bầu thì lớn xuống

Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn

Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi

Và chúng tôi, một thứ quả trên đời

Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái

Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi

Mình vẫn còn một thứ quả non xanh?

1982

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 73 74 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

cầm giang

(1931 - 1989). Quê: Thanh Hoá

Tác phẩm thơ đã in: gió núi biên phòng.

Rừng trắng hoa ban. Người bản

nà phiêu. nà phiêu đánh mỹ

núi mường hung(*)

dòng sông mã

Anh là núi Mường Hung

Em là dòng sông Mã

Sông nhiều rêu, nhiều cá

Núi nhiều thú, nhiều măng

Chiều bóng anh che sông

Sớm mắt em lóng lánh

Sáo cành cây anh thổi vang lanh lảnh

Gió lùa qua miệng anh lại mỉm cười

Rộn lòng em thuyền độc mộc ngược xuôi

Như trăm nỗi băn khoăn khi đến tuổi

Nếu trời làm em sóng nổi

Anh ngả mình ngăn lại lúc phong ba

Em là búp bông trắng

Anh là ngọn lúa vàng

_______________ (*) Núi Mường Hung là núi lớn nhấ t ở Sơn La, Lai Châu.

Thi nhau lớn đẹp nương

Toả mùi thơm cùng nghe chim hót

Em cứ về nhà trước

Đợi anh ở bên sông

Anh làm no lòng mường

Em làm vui ấm bản

Nếu con gấu giẫm gãy cành bông trắng

Lá lúa anh sẽ cứa đứt chân

Nếu lúa này chuột, khỉ dám đến ăn

Sợi bông em sẽ bay mù mắt nó

Anh là rừng thẳm

Em là suối sâu

Cây rừng anh làm cầu

Bắc ngang lên dòng suối

Hoa sim nở đỏ chói

Soi bóng xuống lòng em

Nếu hùm về, suối em thành thác

Nếu sói về, rừng anh sẽ thành chông

Quyết chẳng chịu đau lòng

Đời chúng ta rừng núi

Suối em phá tan bóng tối

Rừng anh chặn lại bão giông

Để anh lớn mãi thành núi Mường Hung

Em ngoan chảy thành dòng sông Mã.

2-1953

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 75 76 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

bùi giáng

(1926 – 2001). Quê: Quảng Nam

Tác phẩm thơ đã in: mưa nguồn. Ngàn thu rơi hột.

Lá hoa cồn. Màu hoa trên ngàn.

Mắt buồn

Dặm khuya ngất tạnh mù khơi

Nguyễn Du

Bóng mây trời cũ hao mòn

Chiêm bao náo động riêng còn hai tay

Tấm thân với mảnh hình hài

Tấm thân thể với canh dài bão giông

Cá khe nước cõng lên đồng

Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một Giêng

Tạ từ tháng Chạp quay nghiêng

ấn trang sử lịch thu triền miên trôi

Bỏ trăng gió lại cho đời

Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa

Bỏ người yêu, bỏ bóng ma

Bỏ hình hài của tiên nga trên trời

Bây giờ riêng đối diện tôi

Còn hai con mắt khóc người một con.

t.t.kh

Cho đến nay vẫn không rõ nhân thân tác giả.

Hai sắc hoa "ti gôn"

Một mùa Thu trước mỗi hoàng hôn

Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn

Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc

Tôi chờ người đến với yêu đương

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng

Dải đường xa vút bóng chiều phong

Và phương trời thẳm mờ sương cát

Tay vít dây hoa trắng cạnh lòng

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi

Thở dài trong lúc thấy tôi vui

Bảo rằng: "Hoa dáng như tim vỡ

Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi"

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 77 78 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì

Cánh hoa tan tác của sinh ly

Cho nên cười đáp: "Màu hoa trắng

Là chút lòng trong chẳng biết suy"

Đâu biết lần đi một lỡ làng

Dưới trời gian khổ chết yêu đương

Người xa xăm quá, tôi buồn lắm

Trong một ngày vui pháo nhuộm đường

Từ đấy thu rồi thu lại thu

Lòng tôi còn giá đến bao giờ

Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ

Người ấy cho nên vẫn hững hờ

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời

ái ân lạt lẽo của chồng tôi

Mà từng thu chết, từng thu chết

Vẫn giấu trong tim bóng một người

Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết

Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa

Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ

Và đỏ như màu máu thắm pha

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi

Một mùa Thu trước rất xa xôi

Đến nay tôi hiểu thì tôi đã

Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ

Chiều thu hoa đỏ rụng chiều thu

Gió về lạnh lẽo chân mây vắng

Người ấy ngang sông đứng ngóng đò

Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng

Trời ơi! Người ấy có buồn không?

Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ

Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?

1937

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 79 80 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

trần mạnh hảo Sinh: 1949. Quê: Nam Định

Hiện sống và viết tại Tp Hồ Chí Minh

Tác phẩm thơ đã in: mặt trời trong lòng đất. Ba

cặp núi và một hòn núi lẻ. Mình

anh trong một thế giới. đất

nước hình tia chớp. Thơ tứ tuyệt

trần mạnh hảo. giáng tiên.

Nguyễn Trãi, trước giờ tru di

Trên đường pháp trường con dâu ta trở dạ

Tiếng cháu thét chào đời

như tiếng nghìn chim lợn báo tang

Đội ơn vua ban tã lót

Để cháu khỏi bị chém trần truồng trên thớt

Ôi con đường ba họ ta đến nơi thọ hình

Sao dài hơn đường mười năm Lam Sơn

phò Thái Tổ

Ông Cao Xanh bỏ kinh thành về rừng xưa ở

Nơi vua lấy đất làm ngai, tình huynh đệ

làm long bào

Nơi ta mót dần xã tắc cho vua như mót lúa

Chừng như ta đã đi con đường này từ ải Bắc

Tiễn cha già hay đưa tiễn đời ta?

Đêm mưa đá, mưa tròng ngươi,

mưa xuống nghìn con mắt

Ôi xã tắc

Con đường nào cũng dẫn đến pháp trường

Bàn tay chỉ đường nào cũng bàn tay đao phủ

Thân tùng bách há phải thân mồng tơi

Mây trắng xưa ơi

Sao giờ toàn những đám mây mưng mủ

Ta thương xã tắc không mất về tay giặc

Lại mất về tay bọn nịnh thần

Triều đình ai cũng là Lê Sát

Mắt thiên tử như Nam Hải đố ai lấp đầy giai nhân

Luân thường đem gác gác bếp

Chỉ ba ông đầu rau nhìn thấy dân

Ôi Hàn Tín, Phạm Tăng, Phàn Khoái

Gió trung thần đang hú gọi hồn đi

Dưới vòm trời Lã Hậu

Mưa tru di đỏ rực gió lăng trì

Lẽ nào gươm Hán Cao Tổ cùn đến vậy?

Thị Lộ ơi, dưới lòng sông

hẳn nàng nóng ruột đợi ta

Rắn quyền lực muôn đời còn phục đấy

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 81 82 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Đôi ta bị trói chặt vào nhau

bằng dây trói mãng xà

Vẫn biết vân cẩu bày trò sinh diệt chơi

Lịch sử cợt đùa sai đúng

Sao cứ quặn lòng nhìn đám trẻ lôi thôi

Đội ơn vua không trói chúng

Tội chết chém còn được vua ban đao phủ cõng

Giá chỉ mình ta chui qua lỗ nẻ

giữa đất dày trời cao

ừ, mây mù vừa làm cỏ sạch trăng sao

Chợt gió dữ tru di mây trời từng đám

Mặt trời văng ra như đầu thánh hiền bị trảm

Sao phép nước dùng dao chém đại thần

Để chém trẻ sơ sinh?

Mai sau lấy gì chém sông núi?

Đầu người đang rụng quanh ta

Máu là nước lũ Hồng Hà dời non

Hồn ta là đứa trẻ con

Đi vào cõi chết vẫn còn ngu ngơ

Nỗi oan không chết bao giờ

Ta còn bị chém dọc bờ thế nhân.

Sài Gòn, tháng 9-1993

tế hanh

Sinh: 1921. Quê: Quảng Ngãi

Hiện sống và viết tại: Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: hoa niên. lòng miền Nam.

Gửi miền Bắc. Tiếng sóng. Bài thơ

tháng bảy. Hai nửa yêu thương.

khúc ca mới. đi suốt bài ca.

Câu chuyện quê hương. theo nhịp

tháng ngày. Con đường và dòng sông.

bài ca sự sống. Vườn xưa. Em chờ anh.

Bài thơ tình ở hàng châu

Anh xa nước nên yêu thêm nước

Anh xa em càng nhớ thêm em

Trăng Tây Hồ vời vợi thâu đêm

Trời Hàng Châu bốn bề êm ái

Mùa Thu đã đi qua còn gửi lại

Một ít vàng trong nắng trong cây

Một ít buồn trong gió trong mây

Một ít vui trên môi người thiếu nữ...

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 83 84 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Anh đã đến những nơi lịch sử

Đường Tô Đông Pha làm phú

Đường Bạch Cư Dị đề thơ

Hồn người xưa vương vấn tự bao giờ

Còn thao thức trên cành đào ngọn liễu

Phong cảnh đẹp nhưng lòng anh thấy thiếu

Bức tranh kia anh muốn điểm thêm màu

Có hai ta cùng tựa bên cầu

Cho mặt nước Tây Hồ trong sáng nữa.

Lá phong đỏ như mối tình đượm lửa

Hoa cúc vàng như nỗi nhớ day dưa

Làn nước qua, ánh mắt ai đưa

Cơn gió đến bàn tay em vẫy

Chúng mình đã yêu nhau từ độ ấy

Có núi sông và có trăng sao

Có giận hờn và có chiêm bao

Cay đắng ngọt bùi cuộc đời kháng chiến

Nói sao hết em ơi bao kỷ niệm...

Những ngày buồn nghĩ đến thấy vui vui

Những ngày vui sao lại thấy ngùi ngùi

Anh không muốn hỏi nhiều quá khứ

Ngày đẹp nhất là ngày rồi gặp gỡ

Rời Tây Hồ trăng xuống Bắc Cao Phong(*)

Chỉ mình anh với im lặng trong phòng

Anh ngước nhìn bức thêu trên vách:

Hai bóng người đi

một hàng tùng bách

Bàn tay nào đã dệt nỗi lòng anh?

Tiếng mùa Xuân đem sóng vỗ bên mình

Vơ vẩn tình chăn chập chờn mộng gối

Anh mơ thấy Hàng Châu thành Hà Nội

Nước Tây Hồ bỗng hóa nước Hồ Tây.

Hai chúng mình cùng bước dưới hàng cây.

1956

_______________ (*) Mộ t dãy núi ở Hàng Châu.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 85 86 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Ca lê hiến (Lê Anh Xuân)

(1940 - 1968). Quê: Bến Tre

Tác phẩm thơ đã in: Tiếng gà gáy. hoa dừa.

Trường ca Nguyễn văn trỗi.

Thơ lê anh xuân.

Trở về quê nội

Ôi quê hương xanh biếc bóng dừa

Có ngờ đâu hôm nay ta trở lại

Quê hương ta tất cả vẫn còn đây

Dù người thân đã ngã xuống đất này

Ta lại gặp những mặt người ta yêu biết mấy

Ta nhìn, ta ngắm, ta say

Ta run run nắm những bàn tay

Thương nhớ dồn trong tay ta nóng bỏng.

Đây rồi đoạn đường xưa

Nơi ta vẫn thường đi trong mộng

Kẽo kẹt nhà ai tiếng võng trưa

ầu ơ... thương nhớ lắm

Ơi những bông trang trắng,

những bông trang hồng.

Như tấm lòng em trong trắng thuỷ chung

Như trái tim em đẹp màu đỏ thắm

Con sông nhỏ tuổi thơ ta đã tắm

Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng

Hoa lục bình(*)

tím cả bờ sông.

Mẹ lưng còng tóc bạc

Ngậm ngùi kể chuyện ta nghe

Tám em bé chết vì bom xăng đặc

Trên đường đi học trở về.

Giặc giết mười người trong một ấp

Bà con khiêng xác chất đầy ghe

_______________ (*) Bèo Nhậ t Bả n.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 87 88 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Chở lên Bến Tre đấu tranh với giặc

Làng ta mấy lần bom giội nát

Dừa ngã ngổn ngang, xơ xác bờ tre,

Mẹ dựng tạm mái lều che mưa che gió.

Ta có ngờ đâu mái lều của mẹ

Dưới lớp đất kia ngọn lửa vẫn còn

Mẹ ta tần tảo sớm hôm

Nuôi các anh ta dưới hầm bí mật

Cả đời mẹ hy sinh gan góc

Hai mươi năm giữ đất, giữ làng

Ôi mẹ là bà mẹ miền Nam.

Ta có ngờ đâu em ta đấy

Dưới mái lều kia em đã lớn lên

Em đẹp lắm như mùa Xuân bừng dậy

Súng trên vai cũng đẹp như em

Em ơi! Sao tóc em thơm vậy

Hay em vừa đi qua vườn sầu riêng

Ta yêu giọng em cười trong trẻo

Ngọt ngào như nước dừa xiêm

Yêu dáng em đi qua cầu tre lắt lẻo

Dịu dàng như những nàng tiên

Em là du kích, em là giao liên

Em chính là quê hương ta đó

Mười một năm rồi ta nhớ, ta thương.

Đêm đầu tiên ta ngủ giữa quê hương

Sao thấy lòng ấm lạ

Dù ngoài trời tầm tã mưa tuôn

Tiếng đại bác gầm rung vách lá

Ôi quê hương ta đẹp quá!

Dù trên đường còn những hố bom

Dù áo em vẫn còn mảnh vá

Ta về đây chẳng mang gì cho em cả

Chỉ có trái tim chung thuỷ, sắt son

Và khẩu súng trong tay cháy bỏng căm hờn.

9-1965

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 89 90 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Tô hoàn

Sinh: 1949. Quê: Bắc Giang

Hiện sống và viết tại Bắc Giang

Tác phẩm thơ đã in: có một lời ru.

đêm mưa

con về thăm mẹ đêm mưa

Mới hay nhà dột gió lùa bốn bên

Bao nhiêu hạt thẳng hạt xiên

Đã rơi vào mẹ những đêm trắng trời?

Con đi đánh giặc suốt đời

Mà không che nổi một nơi mẹ nằm!

Thi hoàng

Sinh: 1943. Quê: Hải Phòng

Hiện sống và viết tại: Hải Phòng

Tác phẩm thơ đã in: ba phần tư trái đất.

Nhịp sóng. Gọi nhau qua vách núi.

Bóng ai gió tạt.

Những đứa trẻ Chơi trước cửa đền

ông từ giữ đền ơi xin ông đấy

Chấp với bọn trẻ ranh rửng mỡ làm gì

Thế là ông cười rồi ông nhỉ

Cho chúng nó chơi, đừng đuổi chúng đi

Này thằng Tâm con nhà bố Tầm

Trước cửa đền không được giồng cây chuối

Lại còn hét lên như giặc cái

Con bé cái Nhân con bà Nhẫn kia

Những mắt cười vê tít lại cứ như sợi chỉ

Gạch sân đền ấm lên ửng má

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 91 92 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Tiếng trẻ con non màu lá mạ

Vệt mồ hôi tươi mưởi quệt ngang mày

Thật tuyệt vời thằng cháu ông Dương

Ngón tay cái rất to cho được vào lỗ mũi

Ra đây nhảy dây ra đây trốn đuổi

Chúng như là hạt mẩy dưới hoàng hôn

Hoa mẫu đơn cũng tưng bừng í ới

Khói hương bài thơm tỷ tê lân la

Cây vun tán lên đơm xôi đóng oản

Gió liu riu cho thấm tháp chan hòa

Chợt ngẫm thấy trẻ con là giỏi nhất

Làm được buổi chiều rất giống ban mai

Thánh cũng hân hoan. Đố ai biết được

Ngài ở trong kia hay ở ngoài này.

1992

Nguyên hồng

(1916 - 1982). Quê: Nam Định

Tác phẩm thơ đã in: cửu long giang ta ơi

Cửu long giang ta ơi!

Ngày xưa ta đi học

Mười tuổi thơ nghe gió thổi mùa Thu

Mắt ngẩng lên trông bản đồ rực rỡ

Như đồng hoa bỗng gặp một đêm mơ.

Bản đồ mới tường vôi cũng mới

Thầy giáo lớn sao, thước bảng cũng lớn sao,

Gậy thần tiên và cánh tay đạo sĩ

Đưa ta đi sông núi tuyệt vời.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 93 94 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Tim đập mạnh hồn ngây không sao hiểu

Mê Kông sông dài hơn hai ngàn cây số mông mênh

Nguồn tự Trung Hoa có Vạn Lý Trường Thành

Có Hy Mã Lạp Sơn, Động Đình Hồ,

Tây Du, Thuỷ Hử

Mê Kông chảy

Cây lao đá đổ

Lan hoang dứa mật thông nhựa lên hương

Những trưa hè ngun ngút nắng Trường Sơn

Ngẫm nghĩ voi đi

Thác Khôn cười trắng xoá

Rừng Lào – Miên rộng quá

Dân Lào – Miên mến yêu

Xôi nếp nước trong sẵn sàng chia bạn đói.

Ta đi... bản đồ không nhìn nữa

Sáng trời thu lại còn bướm với trời xanh

Trúc đào tươi chim khuyên rỉa cánh sương đọng

long lanh

Ta cởi áo lội dòng sông ta hát

Mê Kông chảy Mê Kông cũng hát

Rừng núi lùi xa

Đất phẳng thở chan hoà.

Sóng toả chân trời buồm trắng

Nam Bộ

Nam Bộ

Chín nhánh Mê Kông phù sa nổi váng...

Ruộng bãi Mê Kông trồng không hết lúa

Bến nước Mê Kông tôm cá ngập thuyền

Sầu riêng thơm dậy đất Thủ Biên

Suối mát dội trong lòng dừa chĩu quả

Mê Kông quặn đẻ...

Chín nhánh sông vàng

Nông dân Nam Bộ gối đất nằm sương

Mồ hôi vã bãi lầy thành đồng lúa

Thành những tên đọc lên nước mắt đều muốn ứa

Những Hà Tiên, Gia Định, Long Châu

Những Gò Công, Gò Vấp, Đồng Tháp, Cà Mau

Những mặt đất

Cha ông ta nhắm mắt

Truyền cháu con không bao giờ chia cắt.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 95 96 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Ta đã lớn

Thày giáo già đã khuất

Thước bảng to này thành cán cờ sao

Những tên làm man mác tuổi thơ xưa

Đã thấm máu của bao hồn bất tử

Những Minh Khai, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong,

Trần Phú...

Những bông hoa dân tộc anh hùng

Mười sáu tuổi xanh

Em Đuốc Sống đốt mình phá tan kho đạn giặc

Võ Thị Sáu vành răng cắn chặt

Giữ trung trinh cho đến phút cuối cùng

Đạn giặc xuyên lỗ chỗ ngực măng non

Đỏ thắm nụ cười

Chào Bác Hồ và Việt Nam bất diệt.

Đêm nay

Cửu Long Giang vẫn âm vang sóng cát

Sao khuya lấp lánh

Lửa chài thức sáng nhịp hát hò ơ

Đồng Tháp xa đưa những tiếng mẹ ru

Hồ Chí Minh thành ca dao bát ngát...

Minh huệ

Sinh: 1927. Quê: Nghệ An

Tác phẩm thơ đã in: tiếng hát quê hương.

đất chiến hào. mùa xanh đến.

đêm nay bác không ngủ.

đêm nay bác không ngủ

Anh đội viên thức dậy

Thấy trời khuya lắm rồi

Mà sao Bác vẫn ngồi

Đêm nay Bác không ngủ

Lặng yên như bếp lửa

Vẻ mặt Bác trầm ngâm

Ngoài trời mưa lâm thâm

Mái lều gianh xơ xác

Anh đội viên nhìn Bác

Càng nhìn lại càng thương

Người Cha mái tóc bạc

Đốt lửa cho anh nằm

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 97 98 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Rồi Bác đi dém chăn

Từng người, từng người một

Sợ cháu mình giật thột

Bác nhón chân nhẹ nhàng

Anh đội viên mơ màng

Như nằm trong giấc mộng

Bóng Bác cao lồng lộng

ấm hơn ngọn lửa hồng

Thổn thức cả nỗi lòng

Thầm thì anh hỏi nhỏ:

– Bác ơi, Bác chưa ngủ

Bác có lạnh lắm không?

– Chú cứ việc ngủ ngon

Ngày mai đi đánh giặc

Vâng lời anh nhắm mắt

Nhưng bụng vẫn bồn chồn

Không biết nói gì hơn

Anh nằm lo Bác ốm

Lòng anh cứ bề bộn

Vì Bác vẫn thức hoài

Chiến dịch hãy còn dài

Rừng lắm dốc lắm ụ

Đêm nay Bác không ngủ

Lấy sức đâu mà đi

... Lần thứ ba thức dậy

Anh hốt hoảng giật mình

Bác vẫn ngồi đinh ninh

Chòm râu im phăng phắc

Anh vội vàng nằng nặc

– Mời Bác ngủ, Bác ơi

Trời sắp sáng mất rồi

Bác ơi, mời Bác ngủ

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 99 100 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

– Chú cứ việc ngủ ngon

Ngày mai đi đánh giặc

Bác thức thì mặc Bác

Bác ngủ không yên lòng

Bác thương đoàn dân công

Đêm nay ngủ ngoài rừng

Rải lá cây làm chiếu

Manh áo phủ làm chăn

Trời thì mưa lâm thâm

Làm sao cho khỏi ướt

Càng thương càng nóng ruột

Mong trời sáng mau mau

Anh đội viên nhìn Bác

Bác nhìn ngọn lửa hồng

Lòng vui sướng mênh mông

Anh thức luôn cùng Bác

Đêm nay Bác ngồi đó

Đêm nay Bác không ngủ

Vì một lẽ thường tình:

Bác là Hồ Chí Minh.

1951

quang huy

Sinh 1936. Quê: Hưng Yên

Hiện sống và viết tại: Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: gió từ đâu. chim gọi mùa.

Dòng suối thức.

Nỗi niềm thị nở

Người ta cứ bảo dở hơi

Chấp chi miệng thế lắm lời thị phi

Dở hơi, nào dở hơi gì

Váy em sắn lệch nhiều khi cũng tình

Làng này khối kẻ sợ anh

Rượu be với chiếc mảnh sành cầm tay

Sợ anh chửi đổng suốt ngày

Chỉ mình em biết anh say rất hiền

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 101 102 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Anh không nhà cửa, bạc tiền

Không ưa luồn cúi, không yên phận nghèo

Cái tên thơ mộng Chí Phèo

Làm em đứt ruột mấy chiều bờ ao

Quần anh ống thấp, ống cao

Làm em hồn vía nao nao đêm ngày

Khen cho con Tạo khéo tay

Nồi này thì úp vung này chứ sao!

Đêm nay trời đất rất cao

Sương thì đẫm quả, trăng sao lại nhòa

Người ta... mặc kệ người ta

Chỉ em rất thật đàn bà với anh

Thôi rồi, đắt lắm tiết trinh

Hồn em nhập bát cháo hành nghìn năm.

đinh hùng

(1920 – 1967). Quê: Hà Tây

Tác phẩm thơ đã in: mê hồn ca. đường vào tình sử.

Ngày đó có em. đốt lò hương cũ.

đường khuya trở bước

tôi đến đêm xưa em vắng nhà

Trăng vàng, mây bạc, sầu như hoa

Tôi từ viễn phố rời chân lại

Chỉ thấy sương chiều như lệ sa

ở cũng bâng khuâng đi chẳng đành

Đêm trời, sao cũ sáng long lanh

Lòng ta ngẫm chuyện mười phương vậy

Người gái khuê phòng kia mắt xanh

Tôi cũng chưa đi hết dặm đường

Đời dài mới hết nửa sầu thương

Một đêm trở bước cho lòng nghĩ

Sao biếc rơi tàn mộng phấn hương.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 103 104 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

hoàng hưng

Sinh: 1942. Quê: Bắc Ninh

Hiện sống và viết tại: Tp. Hồ Chí Minh

Tác phẩm thơ đã in: đất nắng. ngựa biển.

người đi tìm mặt.

Người về

Người về từ cõi ấy

Vợ khóc một đêm, con lạ một ngày

Người về từ cõi ấy

Bước vào cửa người quen tái mặt

Người về từ cõi ấy

Giữa phố đông nhồn nhột sau gáy

Một năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui

Hai năm còn mộng toát mồ hôi

Ba năm còn nhớ một con thạch thùng

Mười năm còn quen ngồi một mình trong tối

Một hôm có kẻ nhìn trân trối

Một đêm có tiếng bâng quơ hỏi

Giật mình

Một cái vỗ vai.

chính hữu

Sinh: 1926. Quê: Hà Tĩnh

Hiện sống và viết tại Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: Đầu súng trăng treo.

Ký hoạ mùa Xuân. thơ chính hữu.

đồng chí

Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi, đôi người xa lạ,

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỷ.

Đồng chí!

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 105 106 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.

áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giầy

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

Chiến dịch Việt Bắc 1947

Tố hữu

(1920 – 2003). Quê: Thừa Thiên Huế

Tác phẩm thơ đã in: từ ấy. Việt bắc. Gió lộng.

Ra trận. Máu và hoa.

Một tiếng đờn. Tuyển thơ tố hữu.

Khi con tu hú

Khi con tu hú gọi bầy

Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần

Vườn ươm dậy tiếng ve ngân

Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào,

Trời xanh càng rộng càng cao

Đôi con tu hú lộn nhào từng không

Ta nghe hè dậy bên lòng

Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi

Ngột làm sao, chết uất thôi

Con chim tú hú ngoài trời cứ kêu.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 107 108 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

á nam trần tuấn khải

(1894 – 1983). Quê: Nam Định

Gánh nước đêm

Em bước chân ra

Con đường xa tít

Con sông mù mịt

Bên vai kĩu kịt

Nặng gánh em trở ra về

Ngoảnh cổ trông sông rộng giời khuya...

Vì chưng nước cạn nặng nề em dám kêu ai!

Nghĩ tiếc công cho bà Nữ Oa đội đá, vá giời

Cho dã tràng lấp bể biết đời nào xong!

Cái bước đêm khuya thân gái ngại ngùng

Nước non gánh nặng

Cái đức ông chồng hay hỡi có hay?

Em trở vai này...

Bích khê

(1916 – 1946). Quê: Quảng Ngãi

Tác phẩm thơ đã in: tinh huyết. Thơ bích khê.

Tỳ bà

Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mền

Trăng đan qua cành muôn tay êm

Mây nhung pha màu thu trên trời

Sương lam phơi màu thu muôn nơi

Vàng sao nằm im trên hoa gầy

Tương tư người xưa thôi qua đây

Ôi! Nàng năm xưa quên lời thề

Hoa vừa đưa hương gây đê mê

Cây đàn yêu đương làm bằng thơ

Dây đàn yêu đương run trong mơ

Hồn về trên môi kêu: Em ơi

Thuyền hồn không đi lên chơi vơi

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 109 110 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Tôi qua tim nàng vay du dương

Tôi mang lên lầu lên cung Thương

Tôi không bao giờ thôi yêu nàng

Tình tang tôi nghe như tình lang

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi

Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi

Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi

Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi

Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu

Sao tôi không màng kêu: Em yêu

Trăng nay không nàng như trăng thiu

Đêm nay không nàng như đêm hiu

Buồn lưu cây đàn tìm hơi xuân

Buồn sang cây tùng thăm đông quân

Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông.

Trần đăng khoa

Sinh: 1958. Quê: Hải Dương

Hiện sống và viết tại: Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: từ góc sân nhà em.

Góc sân và khoảng trời.

Khúc hát người anh hùng (tc).

Bên cửa sổ máy bay. Thơ trần đăng khoa.

Gửi bác trần nhuận minh

Bỏ làng ra thành phố

Hai anh em thợ cày

Thân cũng như hoa cỏ

Hồn gửi vào gió mây

Người bảo bác theo Đỗ(*)

Em phải học Lý(**)

thôi

Bác đã bay dưới đất

Em đành đi trên giời

_______________ (*), (**) Đỗ Phủ và Lý Bạ ch, hai phong cách thơ rấ t khác

nhau ở đ ời Đường.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 111 112 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Bác âm thầm chìm nổi

Cùng kiếp người lang thang

Em lông nhông bầu bạn

Với kiến đen chó vàng(*)

Bao nhiêu là giun dế

Đã khiêng vác em lên

Tên tuổi em sủng soảng

Những mõ ran trống rền...

Bác làm bông lau ngàn

Thả hồn vào hoang vắng

Khi buồn thì hát ca

Lúc vui thì im lặng

_______________ (*) , (**) Những nhân vậ t củ a thơ Trầ n Đă ng Khoa

thuở nhỏ .

Em quẩy bầu trăng gió

Bác gánh bao nỗi người

Sánh đôi mà đơn độc

Đi mang mang trong đời(*)

Giờ thì em đã chán

Những vinh quang hão huyền

Muốn làm làn mây trắng

Bay cho chiều bình yên

Trả niềm vui cho cỏ

Trả nỗi buồn cho cây

Lại áo tơi nón lá

Ta về với luống cày

Đất trời thì chật hẹp

Làng quê thì mênh mông

Thung thăng em với bác

Ta cưỡi thơ ra đồng.

_______________ (*) Câu thơ Trầ n Nhuậ n Minh.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 113 114 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Nguyễn khuyến

(1835 – 1909). Quê: Hà Nam

Còn có tên là Tam Nguyên Yên Đổ

Thu điếu

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Sóng biếc theo làn hơi gợn tý

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Tựa gối, buông cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Yến lan

(1916 – 1999). Quê: Bình Định

Tác phẩm thơ đã in: những ngọn đèn.

Tôi đến tôi yêu. lẵng hoa hồng.

Giữa hai chớp lửa. én đào. thơ yến lan.

Bến my lăng

Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách

Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu

Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách

Ông lái buồn để gió lén mơn râu

Ông không muốn run người ra tiếng địch

Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao

Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch

Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao

Trôi quanh thuyền, những lá vàng quá lạnh

Tơ vương trời, nhưng chỉ rải trăng... trăng

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 115 116 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh

Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng

Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã

Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly

Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả

Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi

Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách

Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng

Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách

Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng

Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng

Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng.

Du tử lê

Sinh: 1942. Quê: Hà Nam

Hiện sinh sống ở nước ngoài

Tác phẩm thơ đã in: thơ du tử lê. Tình khúc tháng 11.

Tay gõ cửa đời. Thơ du tử lê 1976 – 1972.

Lục bát du tử lê. đời mãi ở phương đông.

Khi người về

Người về đâu không người không về đâu

Chiều chưa mưa nên chiều chưa thay màu

Tôi cây me đứng run từng lá

Lá đã vàng rồi tôi đã vàng theo

Tình người say không tình người không say

Đêm sắp sang nên đêm sắp ùa đầy

Hồn tôi ngủ sớm trong tay áo

Tay áo người bay hương ngất ngây

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 117 118 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Người yêu ai không người không yêu ai

Lời tôi van xin lời tôi trải dài

Trên trang nhật ký tôi than trách

Tôi trách than người không tôi trách than ai

Khi người về tôi không nhìn không trông

Lòng tôi sông nước đủ trăm giòng

Quanh co một nỗi buồn vô hạn

Qua suốt một đời vẫn nhớ nhung

Người không về nên lòng người dửng dưng

Tình tôi mong nên tình tôi khôn cùng

Xế trưa sân nắng sầu con gió

Tôi gió may nhiều tôi tủi thân

Người thương người không người không thương

Tôi xa xôi nên tôi chả được gần

Người kiêu sa thế tôi đành ước

Vôi vữa cho người lát tuổi xuân

Người không về nên tôi cũng chả buồn đi

Bao nhiêu dự tính có ra gì

Bèo trôi từng lớp trên lưng sóng

Tôi quá chân rồi tôi giết tôi

Người phương nào người có nghe nôn nao

Tôi ở đây nghe lòng tôi rì rào

Lá me vàng rụng con đường nhớ

Tôi nghĩ về người đêm ngày tôi xanh xao.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 119 120 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Vũ đình liên

(1913 – 1996). Quê: Hải Dương

ông đồ

mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bày mực tàu giấy đỏ

Bên phố đông người qua

Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài

"Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay"

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu?

Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu...

Ông đồ vẫn ngồi đấy

Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài giời mưa bụi bay

Năm nay đào lại nở

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 121 122 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Hữu loan

Sinh: 1916. Quê: Thanh Hoá

Hiện sống và viết tại: Thanh Hoá

Tác phẩm thơ đã in: màu tím hoa sim.

Màu tím hoa sim

Nàng có ba người anh đi bộ đội

Những em nàng

Có em chưa biết nói

Khi tóc nàng xanh xanh.

Tôi người Vệ quốc quân Xa gia đình

Yêu nàng như tình yêu em gái

Ngày hợp hôn

Nàng không đòi may áo mới

Tôi mặc đồ quân nhân

Đôi giầy đinh

Bết bùn đất hành quân

Nàng cười xinh xinh

Bên anh chồng độc đáo

Tôi ở đơn vị về

Cưới nhau xong là đi

Từ chiến khu xa

Nhớ về ái ngại

Lấy chồng thời chiến chinh

Mấy người đi trở lại

Lỡ khi mình không về

Thì thương

Người vợ chờ

Bé bỏng chiều quê...

Nhưng không chết

Người trai khói lửa

Mà chết

Người gái nhỏ hậu phương

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 123 124 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Tôi về

Không gặp nàng

Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối

Chiếc bình hoa ngày cưới

Thành bình hương

Tàn lạnh vây quanh

Tóc nàng xanh xanh

Ngắn chưa đầy búi

Em ơi giây phút cuối

Không được nghe nhau nói

Không được trông nhau một lần

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím

áo nàng màu tím hoa sim

Ngày xưa

Một mình

Đèn khuya

Bóng nhỏ

Nàng vá cho chồng tấm áo

Ngày xưa...

Một chiều rừng mưa

Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc

Biết tin em gái mất

Trước tin em lấy chồng,

Gió sớm thu về rờn rợn nước sông

Đứa em nhỏ lớn lên

Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị

Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí

Chiều hành quân

Qua những đồi sim

Những đồi sim dài trong chiều không hết

Màu tím hoa sim

Tím chiều hoang biền biệt

Nhìn áo rách vai

Tôi hát

Trong màu hoa

"áo anh sứt chỉ đường tà

Vợ anh mất sớm mẹ già chưa khâu".

1948

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 125 126 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Hoàng lộc

(1920 - 1949)

viếng bạn

Hôm qua còn theo anh

Đi ra đường quốc lộ

Hôm nay đã chặt cành

Đắp cho người dưới mộ

Đứa nào bắn anh đó?

Súng nào nhằm trúng anh?

Khôn thiêng xin chỉ mặt

Gọi tên nó ra anh!

Tên nó là đế quốc?

Tên nó là thực dân?

Nó là thằng thổ phỉ?

Hay là đứa Việt gian?

Khóc anh không nước mắt

Mà lòng đau như thắt

Gọi anh chẳng thành lời

Mà hàm răng dính chặt

ở đây không gỗ ván

Vùi anh trong tấm chăn

Của đồng bào Cửa Ngăn

Tặng tôi ngày phân tán

Mai mốt bên cửa rừng

Anh có nghe súng nổ

Là chúng tôi đang cố

Tiêu diệt kẻ thù chung.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 127 128 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Lưu trọng lư

(1912 – 1991). Quê: Quảng Bình

Tác phẩm thơ đã in: tiếng thu. Tỏa sáng đôi bờ.

Người con gái sông gianh. Từ đất này.

Tiếng thu

Tặng bạn Văn

Em không nghe mùa Thu

Dưới trăng mờ thổn thức?

Em không nghe rạo rực

Hình ảnh kẻ chinh phu

Trong lòng người cô phụ?

Em không nghe rừng thu

Lá thu kêu xào xạc

Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô?

Thế lữ

(1907 – 1989). Quê: Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: mấy vần thơ.

Mấy vần thơ (tập mới).

Nhớ rừng

(Lời con hổ ở vườn Bách thú)

Tặng Nguyễn Trường Tam

Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt

Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua

Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ

Dương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm

Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm

Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi

Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi

Với cặp báo chuồng bên vô tư lự

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ

Thuở tung hoành, hống hách những ngày xưa

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 129 130 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Với khi thét khúc trường ca dữ dội

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng

Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc

Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc

Là khiến cho mọi vật đều im hơi

Ta biết ta chúa tể cả muôn loài

Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi

Nào những đâu đêm vàng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới

Đâu những bình minh cây xanh nắng gội

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

– Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu

Ghét những cảnh không đời nào thay đổi

Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng

Giải nước đen giả suối chẳng thông giòng

Len dưới nách những mô gò thấp kém

Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm

Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu

Của chốn ngàn năm cao cả, âm u

Hỡi oai linh cảnh nước non hùng vĩ

Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị

Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa

Nơi ta không còn được thấy bao giờ!

Có biết chăng những ngày ngao ngán

Ta đương theo giấc mộng vàng to lớn

Để hồn ta phảng phất được gần ngươi

– Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

1936

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 131 132 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Nguyễn đức mậu

Sinh: 1948. Quê: Nam Định

Hiện công tác tại Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: cây xanh đất lửa. áo trận.

Mưa trong rừng cháy. trường ca sư đoàn.

hoa đỏ nguồn sông. từ hạ vào thu. Bão và

sau bão.

Một vị tướng về hưu

(Tặng Nguyễn Chuông và những

người anh ở sư đoàn cũ)

Thôi đã dứt đường binh nghiệp

Tuổi hưu rồi, bác ở quê

Chạnh nhớ bạn bè thuở trước

Cùng đi có đứa không về

Người vợ tuổi già như bác

Miếng trầu nhai dập chiều mưa

Hồi son trẻ xa nhau mãi

Giờ thương biết mấy cho vừa

Huân chương xếp vào góc tủ

Nay hàm tướng tá mà chi

Tuổi già công danh xem nhẹ

Cuộc đời như nước trôi đi

Ngày trước bạn cùng súng đạn

Nay khuây hàng xóm: bạn già

Bao dốc bao rừng đã vượt

Lối vườn quanh quẩn vào ra

Ngày đi khuất bóng mẹ cha

Ngày về sửa sang mộ cũ

Âm thầm một tấc đất sâu

Hương khói tỏ mờ màu cỏ

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 133 134 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Ngôi nhà nắng mưa vẫn đó

Đàn con mỗi đứa một nơi

Nếu không có trẻ hàng xóm

Tuổi già hẳn nhiều đơn côi

Những đêm gió thổi buốt trời

Vết thương cũ còn đau nhức

Ôi! Sư đoàn xưa giờ đâu

Người cũ ai còn, ai mất?

Về hưu, giờ thôi quyền chức

Ai người nhớ bác lại chơi

Ai kẻ xa lòng tránh mặt

Niềm riêng một mảnh trăng trời...

lê thị mây

Sinh: 1949. Quê: Quảng Bình

Hiện công tác tại Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: những mùa trăng mong chờ.

Dịu dàng. Tặng riêng một người.

Một mình. Giấc mơ thiếu phụ.

những mùa trăng mong chờ

Thư anh tin ngày về

Cho vầng trăng hẹn mọc

Trong ngần hoa cau thơm

Mây chớm màu tha thiết

Trăng non nghiêng qua rồi

Bom rung vầng trăng khuyết

Xô thuyền trong xa xôi

Giữa gập ghềnh núi biếc

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 135 136 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Anh khoác ba lô về

Đất trời dồn chật lại

Em tái nhợt niềm vui

Như trăng mọc ban ngày

Gặp nhau tròn mùa trăng

Em trẻ như bầu trời

Vòng tay anh đằm thắm

Giấu lời ru trên môi

Mai lại tiễn xa nhau

Vầng trăng cong chẽn lúa

Đêm đêm chín ngàn sao

Rỏ vào tim giọt lửa

Mong chờ em mong chờ

Vầng trăng xinh – gương mặt

Sáng sáng đầy theo anh

Suốt chặng đường đánh giặc.

Trần nhuận minh

Sinh: 1944. Quê: Hải Dương

Hiện sống và viết tại: Quảng Ninh

Tác phẩm thơ đã in: đấy là tình yêu. âm điệu

một vùng đất. Thành phố bên này sông.

nhà thơ áp tải. nhà thơ và hoa cỏ.

Dặn con

Chẳng ai muốn làm hành khất

Tội trời đày ở nhân gian

Con không được cười giễu họ

Dù họ hôi hám úa tàn

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 137 138 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Nhà mình sát đường, họ đến

Có cho thì có là bao

Con không bao giờ được hỏi

Quê hương họ ở nơi nào

Con chó nhà mình rất hư

Cứ thấy ăn mày là cắn

Con phải răn dạy nó đi

Nếu không thì con đem bán

Mình tạm gọi là no ấm

Ai biết cơ trời vần xoay

Lòng tốt gửi vào thiên hạ

Biết đâu nuôi bố sau này...

Cửa Lục Thủy, 13-11-1991

Vũ đình minh

Sinh: 1944. Quê: Vĩnh Phúc

Hiện công tác tại Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: gió đông. mưa trước cửa nhà.

Hội lim

Tôi chót biết đời riêng em trắc trở

Nên hội này xem hát chẳng vô tư

Nón thúng quai thao em thẹn thò che má

Hát đắm say cho đứt ruột gan người

Hát như thể cuộc đời toàn nhàn hạ

Chỉ để yêu, để nhớ, để thương thôi

Xin gió lạnh đừng lật nghiêng vành nón

Kẻo tôi nhìn thấy nước mắt em rơi...

1988

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 139 140 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Tú mỡ

(Tên thật: Hồ Trọng Hiếu)

(1900 – 1976). Quê Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: dòng nước ngược I, II.

Nụ cười kháng chiến.

Nụ cười chính nghĩa. ông và cháu.

tuyển thơ tú mỡ.

Khóc người vợ hiền

Bà Tú ơi! Bà Tú ơi!

Té ra bà đã qua đời, thực ư?

Tôi cứ tưởng nằm mơ quái ác

Vùng dậy là tỉnh giấc chiêm bao

Tỉnh dậy, nào thấy đâu nào

Nào đâu bóng dáng ra vào hôm mai

Đâu bóng dáng con người thùy mỵ

Tuy tuổi già sấp sỉ bảy mươi

Vẫn còn khỏe mạnh, vui tươi

Le te, nhanh nhẹn như hồi xuân xanh

Nhìn sau lưng vô tình cứ ngỡ

Một cô nào thiếu nữ thanh tân

Vậy mà cái chết bất thần

Cướp bà đi mất vô ngần xót xa

Kể từ thuở đôi ta kết tóc

Thấm thoát gần năm chục năm qua

Thủy chung chồng thuận vợ hòa

Gia đình hạnh phúc thật là ấm êm

Tôi được bà vợ hiền thuần thục

Cảm thấy mình tốt phúc bao nhiêu!

Đôi ta cùng một cảnh nghèo

Đạo chồng vợ lấy chữ yêu làm nền

Nhớ khi giường bệnh đã nằm

Bà còn thủ thỉ tình thâm thương chồng

"Tôi mà chết thì ông sẽ khổ

Vì, cứ theo câu cổ ngữ ta

Xưa nay con cái nuôi cha

Cũng không chu đáo bằng bà nuôi ông."

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 141 142 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Bà ơi, hãy dầu lòng yên dạ

Giấc nghìn thu cho thỏa vong hồn

Bà đi, đã có dâu con

Một lòng phụng dưỡng, chăm nom bố già

Tôi có khổ, âu là chỉ khổ

Vì thiếu bà nhà cửa vắng tanh

Khổ khi thức giấc tàn canh

Bên giường trống trải một mình nằm trơ

Khổ nhớ lại sớm trưa ngày trước

Pha ấm trà chén nước mời nhau

Giờ tôi chẳng thấy bà đâu

Bên bàn thờ nhắp chén sầu đầy vơi...

Khổ những lúc ra sân mê tỉnh

Ngắm vườn nhà thấy cảnh thênh thang

Mà bà khuất núi cho đang

Quả cau tươi, lá trầu vàng ai xơi?

Khổ trông thấy cái cơi còn đó,

Đã khô trầu, khô vỏ, khô cau

Ba thước đất đã vùi sâu

Cặp môi cắn chỉ ăn trầu đỏ tươi

Ngẫm: Cảnh già cuộc đời sung sướng

Tưởng vợ chồng còn hưởng dài lâu

Không ngờ con tạo cơ cầu

Bà đi, để tủi để sầu cho tôi

Ôi! Duyên nợ thế thôi là hết

Năm mươi năm thắm thiết yêu nhau

Bà về trước, tôi về sau

Thôi đành tạm biệt nuốt sầu gượng vui

Bà đi rồi nhưng tôi phải ở

Công việc đời còn dở tí thôi

Bao giờ nhiệm vụ xong xuôi

Về nơi cực lạc, lại tôi với bà...

19-11-1968

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 143 144 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Nguyễn mỹ

(1935 - 1971). Quê: Khánh Hoà

Tác phẩm thơ đã in: Cuộc chia ly màu đỏ.

Cuộc chia ly màu đỏ

Đó là cuộc chi ly chói ngời sắc đỏ

Tươi như cánh nhạn lai hồng

Trưa một ngày sắp ngả sang đông

Thu, bỗng nắng vàng lên rực rỡ

Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ

Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa.

Chồng của cô sắp sửa đi xa,

Cùng đi với nhiều đồng chí nữa.

Chiếc áo đỏ rực như than lửa

Cháy không nguôi trước cảnh chia ly.

Vườn cây xanh và chiếc nón kia

Không giấu nổi tình yêu cô rực cháy

Không che được nước mắt cô đã chảy

Những giọt long lanh nóng bỏng, sáng ngời

Chảy trên bình minh đang hé giữa làn môi.

Và rạng đông đã bừng trên nét mặt

– Một rạng đông với màu hồng ngọc –

Cây si xanh gọi họ đến ngồi

Trong bóng rợp của mình, nói tới ngày mai

Ngày mai sẽ là ngày sum họp

Đã toả sáng. Những tâm hồn cao đẹp!

Nắng vẫn còn ngời trên mắt lá si

Và người chồng ấy đã ra đi...

Cả vườn hoa đã ngập tràn nắng xế

Những cánh hoa đỏ vẫn còn rung nhè nhẹ

Gió nói tôi nghe những tiếng thì thào

"Khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau"

Nhưng tôi biết cái màu đỏ ấy

Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy

Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi

Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người.

Sẽ là ánh lửa hồng trên bếp

Một làng xa giữa đêm gió rét...

Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi

Như không hề có cuộc chia ly...

9-1964

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 145 146 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

giang nam

Sinh: 1929. Quê: Khánh Hoà

Hiện sống và viết tại: Nha Trang

Tác phẩm thơ đã in: Tháng tám ngày mai.

Quê hương. Người anh hùng đồng tháp.

hạnh phúc từ nay. Vầng sáng phía chân

trời. Thành phố chưa dừng chân.

quê hương

Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường

Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ

"Ai bảo chăn trâu là khổ?"

Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao.

Những ngày trốn học

Đuổi bướm cầu ao

Mẹ bắt được...

Chưa đánh roi nào đã khóc!

Có cô bé nhà bên

Nhìn tôi cười khúc khích...

Cách mạng bùng lên

Rồi kháng chiến trường kỳ

Quê tôi đầy bóng giặc

Từ biệt mẹ, tôi đi

Cô bé nhà bên (có ai ngờ!)

Cũng vào du kích

Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích

Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!)

Giữa cuộc hành quân không nói được một lời

Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại

Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi...

Hoà bình tôi trở về đây

Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày

Lại gặp em

Thẹn thùng nép sau cánh cửa

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 147 148 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ

Chuyền chồng con (khó nói lắm anh ơi!)

Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi

Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng...

Hôm nay nhận được tin em

Không tin được dù đó là sự thật

Giặc bắn em rồi, quăng mất xác

Chỉ vì em là du kích, em ơi!

Đau xé lòng anh, chết nửa con người!

Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm

Có những ngày trốn học bị đòn, roi

Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất

Có một phần xương thịt của em tôi.

1960

Anh ngọc

Sinh: 1943. Quê: Nghệ An

Hiện sống và viết tại: Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: hương đất màu cờ. Ngàn dặm

và Một bước. Sông mê công bốn mặt (tc).

điệp khúc vô danh (tc). Sông núi

trên vai (tc). Thơ tình. Thị mầu.

thị mầu

Người mấy trăm năm làm rung chuyển

những sân đình

Làm điên đảo những phông màn khép mở

Người táo bạo người không hề biết sợ

Người chưa từng lùi bước trước tình yêu

Người phá tung khuôn khổ những điệu chèo

Để cuộc sống ùa lên đầu cửa miệng

Người trung thực đến không thèm dấu diếm

Cặp môi hồng con mắt ướt đong đưa

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 149 150 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Người cả gan sàm sỡ cả cửa chùa

Chọn sắc áo cà sa mà chọc ghẹo

Thừa sinh lực nên người luôn túng thiếu

Nén hương trầm tiếng mõ khéo trêu ngươi

Người đi qua nghiêng ngả những trận cười

Chấp tất cả lời ong ve mai mỉa

Người chịu hết mọi thói đời độc địa

Chiếc quạt màu khép mở vẫn ung dung

Trên môi người tiếng hát vẫn trẻ trung

Từng sợi tóc vẫn rung theo nhịp phách

Mùi táo chín, mùi hương, mùi da thịt

Người đi qua sân khấu tới đời thường

Người sống trong hơi thở của nhân dân

Mấy trăm năm ai để thương để giận

Câu sa lệch cũng hò reo nổi loạn

Mặt trống gầm lên những khát vọng không lời

Những khát vọng nằm sâu

trong những trái tim người

Được sống đúng với lòng mình thực chất

Những xiềng xích phết màu sơn đạo đức

Mấy trăm năm không khóa nổi Thị Mầu

Những cánh màn đã khép lại đằng sau

Táo vẫn rụng sân đình không ai nhặt

Bao Thị Mầu đã trở về đời thực

Vị táo còn chua mãi ở đầu môi.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 151 152 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

hồng nguyên

(Tên thật: Nguyễn Văn Vượng)

(1924 - 1954). Quê: Thanh Hoá

Nhớ

Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ

Gặp nhau hồi chưa biết chữ

Quen nhau từ buổi "một hai"

Súng bắn chưa quen

Quân sự mươi bài

Lòng vẫn cười vui kháng chiến

Lột sắt đường tàu

Rèn thêm dao kiếm

áo vải chân không

Đi lùng giặc đánh

Ba năm rồi gửi lại quê hương

Mái lều gianh

Tiếng mõ đêm trường

Luống cày đất đỏ

ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân bên cối gạo canh khuya

Chúng tôi đi

Nắng mưa sờn mép ba lô,

Tháng năm bạn cùng thôn xóm.

Nghỉ lại lưng đèo

Nằm trên dốc nắng.

Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng,

Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa.

– Đằng nớ vợ chưa?

– Đằng nớ?

– Tớ còn chờ Độc Lập

Cả lũ cười vang bên ruộng bắp

Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu.

Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động,

Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng.

Đã nghỉ lại rất nhiều nhà dân chúng

Tôi nhớ bờ tre gió lộng

Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau

Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau.

Có tiếng gà gáy xóm,

Có "khai hội, yêu cầu, chất vấn!"

Có mẹ hiền bắt rận cho những đứa con xa.

Trăng lên tập hợp hát om nhà

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 153 154 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Tôi nhớ

Giường kê cánh cửa,

Bếp lửa khoai vùi

Đồng chí nứ vui vui,

Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ,

Đồng chí mô nhớ nữa,

Kể chuyện Bình Trị Thiên,

Cho bầy tôi nghe ví,

Bếp lửa rung rung đôi vai đồng chí.

– Thưa trong nớ hiện chừ vô cùng gian khổ,

Đồng bào ta phải kháng chiến ra ri.

Đêm đó chúng tôi đi,

Nòng súng nghiêng nghiêng

Đường mòn thấp thoáng...

Trong điếm nhỏ,

Mươi người trai tráng,

Sờ chuôi lựu đạn,

Ngồi thổi nùn rơm

Thức vừa rạng sáng,

Nhìn trời sương nhẩm bước chúng tôi đi,

Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni,

Dân chúng cầm tay lắc lắc:

"Độc lập nhớ rẽ viền(*)

chơi ví chắc!"

_______________ (*) Tiế ng Thanh Hoá nghĩ a là về .

Phan thị thanh nhàn Sinh: 1943. Quê: Hà Nội

Hiện sống và viết tại: Hà Nội

Tác phẩm đã in: hương thầm. Chân dung người

chiến thắng. bông hoa không tặng.

Nghiêng về anh. câu thơ cuộc đời.

Trời và đất

Chiều nay chắc giận em ghê lắm

Anh bực mình triết lý lung tung

Hai đứa ta như trời với đất

Tính tình sao xung khắc vô cùng

Vâng, trời đất chẳng hề thân thiết

Và tính tình có giống nhau đâu

Trời vui buồn ồn ào lộ liễu

Đất trầm tư suy nghĩ trước sau

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 155 156 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Anh ơi! Nếu ví được cao xa như thế

Em cũng chẳng là trời đất gì đâu

Nhưng anh có biết không? Trời đất

Sẽ chẳng là gì nếu thiếu nhau

Nhưng trời đất dẫu cao xa lồng lộng

Tính vẫn thường bồng bột đổi thay

Khi giận dữ bão nghiêng đất lở

Bão tan rồi trời xanh thơ ngây

Đất khiêm nhường màu xanh lay động

Và thẳm sâu lặng lẽ sinh sôi

Trên mặt đất chính là cuộc sống

Có cần chi biện bạch nhiều lời.

ý nhi

Sinh: 1944. Quê: Quảng Nam

Hiện sống và viết tại: Tp. Hồ Chí Minh

Tác phẩm thơ đã in: Đến với dòng sông.

Cây trong phố. Chờ trăng.

Người đàn bà ngồi đan. Ngày thường.

Mưa tuyết. Gương mặt.

Người đàn bà ngồi đan

Giữa chiều lạnh

Một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ

Vẻ vừa nhẫn nại vừa vội vã

Nhẫn nại như thể đó là việc phải làm suốt đời

Vội vã như thể đó là lần sau chót

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 157 158 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Không thở dài

Không mỉm cười

Chị đang giữ kín đau thương

Hay là hạnh phúc

Lòng chị đang tràn đầy niềm tin

Hay là ngờ vực

Không một lần nào chị ngẩng nhìn lên

Chị đang qua những phút giây trước lần gặp mặt

Hay sau buổi chia ly

Trong mũi đan kia ẩn giấu niềm hân hoan

hay nỗi lo âu

Trong đôi mắt kia là chán chường hay hy vọng

Giữa chiều lạnh

Một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ

Dưới chân chị

Cuộn len như quả cầu xanh

Đang lăn những vòng chậm rãi.

1-1984

Trần mai ninh

(1917 - 1948). Quê: Thanh Hoá

Tác phẩm thơ đã in: Thơ văn trần mai ninh.

Nhớ máu

Ơ cái gió Tuy Hoà...

Cái gió chuyên cần

Và phóng túng.

Gió đi ngang, đi dọc,

Gió trẻ lại – lưng chừng

Gió nghĩ,

Gió cười,

Gió reo lên lồng lộn.

Tôi đã thấy lòng tôi dậy

Rồi đây

– Còn mấy bước tới Nha Trang

– A, gần lắm!

Ta gần máu

Ta gần người,

Ta gần quyết liệt.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 159 160 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Ơ hỡi Nha Trang!

Cái đô thành vĩ đại.

Biết bao người niệm đọc tên mi.

Và Khánh Hoà vĩ đại.

Mắt ta căng lên

Cả mặt

Cả người.

Cả hồn ta sát tới

Nhìn mi!

Ta có nhớ

Những con người

Đã bước vào bất tử!

Ơ, những người!

Đen như mực, đặc thành keo

Tròn một củ

Hay những người gầy sắt lại

Mặt rẹt một đường gươm

Lạnh gáy...

Lòng bàn tay

Khắc ấn chuôi dao găm.

Chân bọc sắt,

Mắt khoét thủng đêm dày

Túi chứa cả Nha Trang... họ bước

Vương Gia Ngại... Cung Giũ Nguyên

Chút chít Hoàng Bá San... còn nữa!

Cả một đàn chó ghẻ

Sủa lau nhau

Và lần lượt theo nhau

Chết không ngáp!

Dao găm để gáy,

Súng màng tang

ồng ộc xối đầy đường máu chó,

Chúng nó rú,

Cả trại giặc kinh hoàng

Quy - lát khua lắc cắc,

Giầy đinh xôn xao.

Còi và kèn...

Cả trại giặc bạt hồn, bạt vía...

Chạy lung tung

Sớm mai, xét và bắt...

Thiết giáp, cam - nhông

Rầm rập nối đuôi nhau,

Và đêm khuya: Lại chết

Chồn Pháp, chó Việt gian

ằng ặc máu

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 161 162 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Mắt ta căng lên,

Cả mặt,

Cả người,

Cả hồn ta sát tới

Biết bao người!

Sống lẩn lút nhưng ngang tàng

Bên lưng giặc!

Vẫn tổ chức, vẫn tuyên truyền,

Hoặc giao thông hay liên lạc,

Rải giấy,

Treo cờ

Hay gồng vai tiếp tế

Từ bình minh cho tới trăng tàn:

Đúc bê-tông bên mặt trận:

Và thì thào cùng du kích đi lên...

Cả ngàn chiến sĩ,

Cả ngàn con bạc, con vàng

Của Tổ quốc!

Sống... trong đám âm thầm

Mà nắm chắc tối cao vinh dự!

Quắc mắt nhìn vào thăm thẳm tương lai

Vững tin tưởng nơi oai hùng,

Và chiến thắng

Câu Việt Nam dân tộc!

Cờ đã nâng cao

Màu đỏ máu

Với sao vàng tung bay rực rỡ!

Mắt hoàn cầu đã họp những tia xanh

Trán nhíu lại

Chú ý nhìn Châu á phía Đông Nam.

Ta quyết thắng!

Việt Nam rồi đứng dậy,

Sáng vô chừng!

Rất tươi đẹp với Nha Trang và Nam Bộ

Phan Thiết, Phan Rang, Đà Lạt

Máu chan hoà trên góc cạnh kim cương

Các anh hùng tay hạ súng trường

Rồi khẽ vuốt mồ hôi và máu

Họ cười vang rung lớp lớp tinh cầu!

(Kết thúc đêm 9-11-1946 tại Tuy Hoà)

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 163 164 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Nguyễn ngọc oánh

Sinh: 1937. Quê: Nghệ An

Hiện sống và viết tại: Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: chân trời thương nhớ.

Thức cùng sao. Lời của hạ. Hương ổi.

mẹ

cành bàng thả lá heo may

Mẹ gầy, cái dáng khô gầy cành tre

Gót chai nứt nẻ đông hè

Ruộng sâu bấm mãi đã tòe ngón chân

Mẹ ngồi vá áo trước sân

Vá bao mong ước, tay sần mũi kim

Bát canh đắng lá chân chim

Lẫn vài con tép Mẹ tìm dành con

Co ro một mảnh chăn mòn

Tàn đêm giấc ngủ hãy còn ngoài chăn

Mẹ gom giẻ rách, giấy manh

Mặc đôi quang thủng giữ lành tiếng rao

áo nâu phơi vẹo bờ rào

Cái phận đã bạc còn cào phải gai

Quả cà cõng mấy củ khoai

Con thút thít, Mẹ nghẹn hai ba lần

Tối về đến lớp bình dân

I tờ nhặt được đôi vần lại rơi

Cha con trời gọi về trời

Chái nhà mưa dột, ướt lời ru thương

Tiễn con ra chốn chiến trường

Gạt thầm nước mắt mong đường con khô

Hai tay hết sẻ lại cho

Còn phần Mẹ – một thân cò qua sông...

1994

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 165 166 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Ngô văn phú

Sinh: 1937. Quê: Vĩnh Phúc

Hiện sống và viết tại: Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: gió vào trận bão.

khúc hát về một con đường.

trong lửa đạn. ngọn giáo búp đa.

Tháng năm mùa gặt. đi ngang đồi cọ.

Cỏ bùa mê. mặt trái xoan. Hoa trắng

tình yêu. trời xanh, cỏ đắng. heo may.

Phương gió nổi. Mùa chim giẽ.

Chiêm bao. Tuyển thơ ngô văn phú.

Bên lở bên bồi.

Bông và mây

Trên trời mây trắng như bông

ở dưới cánh đồng bông trắng như mây

Có cô má đỏ hây hây

Đội bông như thể đội mây về làng.

việt phương

Sinh: 1928. Quê: Hà Nội

Hiện sống và viết tại Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: cửa mở.

Muôn vàn tình thân yêu

Trùm lên khắp quê hương

I

Trời đổ mưa, đi viếng Bác, đồng bào chờ, bị ướt

Bác thương đồng bào, con biết Bác không vui

Ngừng đập trái tim tột bậc con người

Cây cỏ đất trời không thật nữa

Mắt ta nhìn sắc màu cũng giả

Ôi ước gì không thật cả nỗi đau mồ côi

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 167 168 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Con đóng cửa buồng, ở mình con với Bác

Chưa muốn cùng ai chia bớt nỗi đau này

Quanh người con và trong con

tất cả đều bỗng khác

Bác qua đời rồi sao con vẫn ngồi đây

Con không thể nghĩ rằng Bác Hồ đã mất

Mà nắng vẫn chuyền như sóc giữa lùm cây

Con chim đuôi dài được Bác chở che

vẫn bay về trước cổng

Cây vú sữa đầu nhà đang xoè rộng tán xum xuê

Bầy cá rô phi nhớ giờ Bác cho ăn

lại ngoi lên đớp sóng

Con ra đường quen đứng ngóng Bác quay về

Hôm nay trên vườn ta trời uy nghi lồng lộng

Hàng bụt mọc trầm tư vút thẳng bên bờ ao

Gió heo may trong cành đa lao xao tìm gọi nắng

Lênin trên bàn đang chờ đón Bác đi vào

Bác ơi lúa mùa này đồng thấp đồng cao

lên đẹp lắm

Cơn bão vào đất liền đi chậm lại rồi tan

Mua bia đã bớt xếp hàng và anh em còn cố gắng

Đêm qua 140 bốt đồn thù bị ta đánh trong Nam

Con trữ các loại tin đứng chờ đây

mong từ Bác một lời ánh sáng

Như từ lâu nay con thường vẫn hay làm

Bác lại về đi Bác ơi sau mấy ngày đi vắng

Khoẻ mạnh hồng hào trong nắng óng vườn cam

II

Đêm nay nghìn vạn chúng con

xếp thành hàng đi viếng Bác

Ôi làm sao nguôi được nhớ thương này

Chúng con đi cho cả người vắng mặt

Người chưa sinh, người đã khuất cũng về đây

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 169 170 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Việt Nam đau cả lòng người dạ đất

Sao mùa Thu như nước mắt trời mây

Chúng con đi theo tiếng Người phía trước

Đường Hùng Vương dân tộc đi

từ dựng nước đến ngày nay

Hãy về đây lũ làng Tây Nguyên

đánh tiếng cồng thương xót

Những con nước Cửu Long bát ngát đợi Cha về

Đội áo tím sông Hương diệt Mỹ xong

bỗng bồi hồi kinh ngạc

Khi biết tiếng súng mình tai Bác vẫn hằng nghe

Về đây những tấm lòng trung kiên

trong chuồng cọp

Vết tím bầm thân ghi tạc những câu thề

Về đây bà mẹ nghèo ở miền cao Hát Lót

Đã nhiều đêm gặp Bác giữa cơn mê

Hãy về đây những thợ xúc và lái xe khu mỏ

Vùng than ơi Người nhắc nhở bao lần

Những O gái Vĩnh Linh đầu tuyến lửa

Mơ Bác Hồ thương gian khổ vào thăm

Ông ké già nhà bên chân Pác Bó

Còn bàng hoàng hôm gặp gỡ đầu xuân

Những chiến sĩ trẻ măng trên Cồn Cỏ

Đài Bác cho đưa đất mẹ thêm gần

Muôn dòng sông chảy về lòng biển cả

Bác nằm đây nhớ rõ mỗi người thân.

III

Bác thường để lại đĩa thịt gà mà ăn trọn

mấy quả cà xứ Nghệ

Tránh nói chữ to và đi rất nhẹ cả trong vườn

Tim đau hết nỗi đau người ở chân trời góc bể

Đến bên Người ta thở dễ dàng hơn.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 171 172 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Khi đã quyết rất kiên cường mạnh mẽ

Đốt cháy Trường Sơn đánh Mỹ cũng không sờn

Lòng trời biển dịu hiền khi gặp trẻ

Sấm sét im cho nắng ấm chồi non.

Bác không bằng lòng gọi trận đánh

chết nhiều người là "đánh đẹp"

Con xoá chữ "đẹp" đi như xoá sự cạn hẹp

trong lòng con

Thêm hiểu lòng Người

đối với quân thù như sắt thép

Mà tình thương mênh mông ôm hết mọi linh hồn

Ngoài bảy nhăm, Bác vẫn thường ném bóng

Cái gạt tàn thuốc lá đã hàng năm

thôi không nóng trên bàn

Mỗi ban mai Bác luyện chân như ngày xưa

tập trèo sườn núi vắng

Con biết lòng Người quyết sống cho miền Nam

Con biết lòng Người quyết sống cho Việt Nam

và thế giới

Đầu bạc phơ trăm mối nước non nhà

Căn nhà nhỏ những canh khuya vời vợi

Vẫn lo toan tháo cởi những bất hoà

Trái tim lớn đêm ngày quên mệt mỏi

Dệt dải hồng chắp nối bạn gần xa

IV

Ôi lòng Bác bao la trong Di chúc

Vẫn hạt lúa củ khoai chân chất bình thường

Cả dân tộc khóc Người thương mình nhất

Người được thương trên tất cả người thương

Người suốt đời quên mình cho Tổ quốc

Khi ra đi chỉ dép lốp chiến trường

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 173 174 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Nguồn ánh sáng đến muôn đời chẳng tắt

Vượt cao hơn sự chết vẫn soi đường

Ba Đình nức nở và ròng ròng nước mắt

Muôn vàn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương

Ôi ta khóc tim ta dường như xé

Từ trái tim giọt lệ hoá câu nguyền

Ta chẳng giấu trước bạn bè quốc tế

Nỗi đau này cao cả thiêng liêng

Ta khóc cho mọi nơi còn xích xiềng áp bức

Cho đời ta và lớp lớp đời sau

Cho Trường Sơn, cho Tháp Mười, cho miền Nam

ân hận chưa được chào đón Bác

Ta khóc những lỗi lầm làm tim Bác thêm đau

Ta tự biết sức ta trong những dòng nước mắt

Cho ta khóc hôm nay để từ mai ta lao lên

đánh giặc ở tuyến đầu

Sau bao năm đồng chí với Người, con gọi Người:

Đồng chí

Là khi con vĩnh biệt Người, đồng chí, Bác Hồ ơi!

Con nguyện làm một mảnh của Người,

đến trọn đời tận tuỵ

Hồ Chí Minh, người cộng sản rất mực Việt Nam

và vô cùng chung thuỷ con người

Ta gạt nước mắt ngẩng đầu lên,

vẫn nắng Ba Đình trong veo.

Người đem về năm trước

Ta thề mang ánh nắng này

đến nhà mẹ già ở tận chót Cà Mau

Những biên đội không quân

như hình ảnh dân tộc ta

lượn quanh Người, lớn vượt

Cất cánh bay cao theo tay Bác vẫy trên đầu.

4-10 tháng 9 năm 1969

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 175 176 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

vũ quần phương

Sinh: 1940. Quê: Nam Định

Hiện sống và viết tại: Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: hoa trong cây. Những điều

cùng đến. Vầng trăng trong xe bò.

Mênh mông giấy trắng.

đợi

Anh đứng trên cầu đợi em

Dưới chân cầu nước chảy ngày đêm

Ngày xưa đã chảy, sau còn chảy

Nước chảy bên lòng, anh đợi em

Anh đứng trên cầu nắng hạ

Nắng soi bên ấy lại bên này

Đợi em. Em đến? Em không đến?

Nắng tắt, còn anh đứng mãi đây

Anh đứng trên cầu đợi em

Đứng một ngày đất lạ thành quen

Đứng một đời đất quen thành lạ

Nước chảy... kìa em, anh đợi em.

y phương

Dân tộc Tày

Sinh: 1948. Quê: Cao Bằng

Hiện sống và viết tại: Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: Tiếng hát tháng giêng.

Lời chúc. đàn then. Chín tháng (tc).

Tên làng

Con là con trai của mẹ

Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ

Ba mươi tuổi từ mặt trận về

Vội vàng cưới vợ

Ba mốt tuổi tập tành nhà cửa

Rào miếng vườn trồng cây rau

Hạnh phúc xinh xinh nho nhỏ ban đầu

Như mặt trời mới nhô ra khỏi núi

Con là con trai của mẹ

Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ

Mang trong người cơn sốt cao nguyên

Mang trên mình vết thương

Ơn cây cỏ quê nhà

Chữa cho con lành lặn

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 177 178 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Con là con trai của mẹ

Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ

Lần đầu tiên ôm tiếng khóc lên ba

Lần đầu tiên sông núi gọi ông bà

Lần đầu tiên nhóm lửa trên mặt nước

Lần đầu tiên sứ sành rạn nứt

Lần đầu tiên ý nghĩ khôn lên

ý nghĩ khôn lên nỗi buồn thấm tháp

Bàn chân từng đạp bằng đá sắc

Trở về làng bập bẹ bước đầu tiên

Ơi cái làng của mẹ sinh con

Có ngôi nhà xây bằng đá hộc

Có con đường trâu bò vàng đen đi kìn kịt

Có niềm vui lúa chín tràn về

Có tình yêu tan thành tiếng thác

Vang lên trời

Vọng xuống đất

Cái tên làng Hiếu Lễ của con.

Mùa Xuân 1993

Phùng quán

(1932 – 1995). Quê: Thừa Thiên Huế

Tác phẩm thơ đã in: tiếng hát trên địa ngục

côn đảo (TC). Tôi muốn mời đến

Tổ quốc tôi (TC). Thơ phùng quán.

Lời mẹ dặn

Tôi mồ côi cha năm hai tuổi

Mẹ tôi thương con không lấy chồng

Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải

Nuôi tôi đến ngày lớn khôn

Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ

Ngày ấy tôi mới lên lăm

Có lần tôi nói dối mẹ

Hôm sau tưởng phải ăn đòn

Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn

Ôm tôi hôn lên mái tóc:

– "Con ơi! Trước khi nhắm mắt

Cha con dặn con suốt đời

Phải làm một người chân thật"

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 179 180 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

– "Mẹ ơi, chân thật là gì?"

Mẹ tôi hôn lên đôi mắt

– "Con ơi, một người chân thật

Thấy vui muốn cười cứ cười

Thấy buồn muốn khóc là khóc

Yêu ai cứ bảo là yêu

Ghét ai cứ bảo là ghét

Dù ai ngon ngọt nuông chiều

Cũng không nói yêu thành ghét

Dù ai cầm dao dọa giết

Cũng không nói ghét thành yêu"

Từ đấy người lớn hỏi tôi:

– "Bé ơi bé yêu ai nhất?"

Nhớ lời mẹ, tôi trả lời

– "Bé yêu những người chân thật"

Người lớn nhìn tôi không tin

Cho tôi là con vẹt nhỏ

Nhưng không! Những lời dặn đó

In vào trí óc của tôi

Như trang giấy trắng tuyệt vời

In lên vết son đỏ chói

Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi

Đứa bé mồ côi thành nhà văn

Những lời mẹ dặn thuở lên năm

Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ

Người làm xiếc đi dây rất khó

Nhưng chưa khó bằng nhà văn

Đi chọn đời trên con đường chân thật

Yêu ai cứ bảo là yêu

Ghét ai cứ bảo là ghét

Dù ai ngon ngọt nuông chiều

Cũng không nói yêu thành ghét

Dù ai cầm dao dọa giết

Cũng không nói ghét thành yêu

Tôi muốn làm nhà văn chân thật

Chân thật trọn đời đường mật công danh

Không làm ngọt được lưỡi tôi

Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã

Bút giấy tôi ai cướp giật đi

Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá!

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 181 182 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Bùi minh quốc

Sinh: 1940. Quê: Hà Tây

Hiện sống và viết tại Lâm Đồng

Tác phẩm thơ đã in: mảnh đất nuôi ta thành dũng sĩ.

đôi mắt nhìn tôi. Thơ tình

bùi minh quốc.

Có khi nào

Có khi nào trên đường đời tấp nập

Ta vô tình đã đi lướt qua nhau

Bước lơ đãng chẳng ngờ đang để mất

Một tâm hồn ta đợi đã từ lâu.

Xuân quỳnh (1942 – 1988). Quê: Hà Tây

Tác phẩm đã in: hoa dọc chiến hào. gió lào-

cát trắng. lời ru trên mặt đất.

Sân ga chiều em đi. tự hát. hoa cỏ may.

Bầu trời trong quả trứng.

Tuyển thơ xuân quỳnh.

Tự hát

Chẳng dại gì em ước nó bằng vàng

Trái tim em anh đã từng biết đấy

Anh là người coi thường của cải

Nên nếu cần anh bán nó đi ngay

Em cũng không mong nó giống mặt trời

Vì sẽ tắt khi bóng chiều đổ xuống

Lại mình anh với đêm dài câm lặng

Mà lòng anh xa cách với lòng em

Em trở về đúng nghĩa trái tim

Biết làm sống những hồng cầu đã chết

Biết lấy lại những gì đã mất

Biết rút gần khoảng cách của yêu, tin

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 183 184 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Em trở về đúng nghĩa trái tim em

Biết khao khát những điều anh mơ ước

Biết xúc động qua nhiều nhận thức

Biết yêu anh và biết được anh yêu

Mùa Thu nay sao bão mưa nhiều

Những cửa sổ con tầu chẳng đóng

Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm

Em lạc loài giữa sâu thẳm rừng anh

Em lo âu trước xa tắp đường mình

Trái tim đập cồn cào không thể nói

Trái tim đập cồn cào cơn đói

Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn

Em trở về đúng nghĩa trái tim em

Là máu thịt, đời thường ai chẳng có

Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa

Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.

Nguyên sa

Tên thật: Trần Bích Lan

(1932 – 2005). Quê: Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: Thơ nguyên sa.

Những năm sáu mươi.

áo lụa Hà Đông

Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát

Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông

Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng

Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng.

Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn

Mà mùa Thu dài lắm ở chung quanh

Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung

Bày vội vã vào trong hồn mở cửa

Gặp một bữa anh đã mừng một bữa

Gặp hai hôm thành nhị hỉ của tâm hồn

Thơ học trò anh chất lại thành non

Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 185 186 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Em không nói đã nghe lừng giai điệu

Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh

Anh đã trông lên bằng đôi mắt chung tình

Với tay trắng em vào thơ diễm tuyệt

Em chợt đến, chợt đi anh vẫn biết

Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng vì đâu

Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau

Để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại

Để anh giận mắt anh nhìn vụng dại

Giận thơ anh đã nói chẳng nên lời

Em đi rồi, sám hối chạy trên môi

Những ngày tháng trên vai buồn bỗng nặng

Em ở đâu hỡi mùa Thu tóc ngắn

Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông

Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng

Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng.

Trần vàng sao

Sinh: 1942. Quê: Thừa Thiên - Huế

Hiện sống và viết tại: Thừa Thiên - Huế

Bài thơ của một người yêu nước mình

Buổi sáng tôi mặc áo đi giầy

ra đứng ngoài đường

Gió thổi những bông mía trắng bên sông

Mùa toóc(*)

khô còn thơm lúa mùa qua

Bầy chim sẻ đậu trước sân nhà

Những đứa trẻ đứng nhìn ngấp nghé

Tôi yêu đất nước này như thế

Mỗi buổi mai

Bầy chim sẻ ngoài sân

Gió mát và trong

Đường đi đầy cỏ may và muộng chuộng

Tôi vẫn sống, vẫn ăn, vẫn thở như mọi người

Đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ

Một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu

Một vết bùn khô trên mặt đá

Không có ai chia tay

Cũng nhớ một tiếng còi tàu.

_______________ (*) Toóc: Gố c rạ .

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 187 188 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Mẹ tôi thức khuya dậy sớm

Năm nay ngoài năm mươi tuổi

Chồng chết đã mười mấy năm

Thuở tôi mới đọc được i tờ

Mẹ thương tôi mẹ vẫn tảo tần

Nước sông gạo chợ

Ngày hai buổi nhà không khi nào

vắng người đòi nợ

Sống qua ngày nên phải nghiến răng

Cũng không vui nên mẹ ít khi cười

Những buổi trưa buổi tối

Ngồi một mình hay khóc

Vẫn thở dài mà không nói ra

Thương con không cha

Hẩm hiu côi cút

Tôi yêu đất nước này xót xa

Mẹ tôi nuôi tôi mười mấy năm không lấy chồng

Thương tôi nên ở goá nuôi tôi

Những đứa bà con hàng ngày chửi bới

Chúng cho mẹ con tôi áo quần tiền bạc

như cho một đứa hủi

Ngày kỵ cha, họ hàng thân thích không ai tới

Thắp ba cây hương

Với mấy bông hải đường

Mẹ tôi khóc thút thít

Cầu cha tôi phù hộ tôi nên người:

Con nó còn nhỏ dại

Trí chưa khôn chân chưa vững bước đi

Tôi một mình nuôi nó có kể chi mưa nắng

Tôi yêu đất nước này cay đắng

Những năm dài thắp đuốc đi đêm

Quen thân rồi không ai còn nhớ tên

Dĩ vãng đè trên lưng thấm nặng

áo mồ hôi những buổi chợ về

Đời cúi thấp

Giành từng lon gạo mốc

Từng cọng rau hột muối

Vui sao khi còn bữa đói bữa no

Mẹ thương con nên cách trở sông đò

Hàng gánh nặng phải qua cầu xuống dốc

Đêm nào mẹ cũng khóc

Đêm nào mẹ cũng khấn thầm

Mong con khôn lớn cất mặt với đời

Tôi yêu đất nước này khôn nguôi

Tôi yêu mẹ tôi áo rách

Chẳng khi nào nhớ tuổi mình bao nhiêu.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 189 190 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Tôi bước đi

Mưa mỗi lúc mỗi to

Sao hôm nay lòng thấy chật

Như buổi sáng mùa Đông chưa thấy mặt trời mọc

Con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua

Nỗi mệt mỏi rưng rưng từng con nước

Chim đậu trên cành chim không hót

Khoảng vắng mùa Thu ngủ trên cỏ may

Tôi yêu đất nước này những buổi sớm mai

Không ai cười không tiếng hát trẻ con

Đá đất cỏ cây ơi

Mười ba năm có héo mòn

Đất đá cỏ cây ơi

Lòng vẫn thương mẹ nhớ cha

Ăn quán nằm cầu

Hai hàng nước mắt chảy ra

Mỗi đêm cầu trời khấn Phật tai qua nạn khỏi

Ngày mai mua may bán đắt

Tôi yêu đất nước này áo rách,

Căn nhà dột phên không ngăn nổi gió

Vẫn yêu nhau trong từng hơi thở

Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài

Thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai

Tôi yêu đất nước này như thế

Như yêu cây cỏ ở trong vườn

Như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương

Nuôi tôi thành người hôm nay

Yêu một giọng hát hay

Có bài mái đẩy thơm hoa dại

Có sáu câu vọng cổ chứa chan

Có ba ông táo thờ trong bếp

Và tuổi thơ buồn như giọt nước trong lá sen

Tôi yêu đất nước này và tôi yêu em

Thuở tóc kẹp tuổi ngoan học trò

áo trắng và chùm hoa phượng đỏ

Trong bước chân chim sẻ

Ngồi học bài và gọi nhỏ tên tôi

Hay nói chuyện huyên thuyên

Chuyện trên trời dưới đất rất lạ

Chuyện bông hoa mọc một mình trên đá

Cứ hay cười mà không biết có người buồn

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 191 192 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Sáng hôm nay gió lạnh vẫn còn

Khi xa nhà vẫn muốn ngoái lại

Ngó cây cam cây cải

Thương mẹ già như chuối ba hương

Em chưa buồn

Vì chưa rách áo

Tôi yêu đất nước này rau cháo

Bốn ngàn năm cuốc bẫm cày sâu

áo đứt nút qua cầu gió bay.

Tuổi thơ em hãy giữ cho ngoan

Tôi yêu đất nước này lầm than

Mẹ đốn củi trên rừng cha làm cá ngoài biển

Ăn rau rìu, rau éo, rau trai

Nuôi lớn người từ ngày mở đất

Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật

Một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ

Một tiếng nói cũng đầy hồn Thánh Gióng

Tôi đi hết một ngày

Gặp toàn người lạ

Chưa ai biết chưa ai quen

Không biết tuổi không biết tên

Cùng sống chung trên trái đất

Cùng nỗi đau chia cắt Bắc Nam

Cùng có chung tên gọi Việt Nam

Mang vết thương chảy máu ngoài tim

Cùng nhức nhối với người chết oan chết ức

Đấm ngực giận hờn tức tối

Cùng anh em cất cao tiếng nói

Bản Tuyên ngôn mười bốn triệu người

đòi độc lập tự do

Bữa ăn nào cũng phải được no

Mùa lạnh phải có áo ấm

Được nói cười, hát ca yêu đương không ai cấm

Được thờ cúng những người mình tôn kính

Hai mươi năm cuộc đời chưa khi nào định

Tôi trở về căn nhà nhỏ

Đèn thắp ngọn lù mù

Gió thổi trong lá cây xào xạc

Vườn đêm thơm mát

Bát canh rau dền có ớt chìa vôi

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 193 194 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Bên hàng xóm có tiếng trẻ con khóc

Mẹ bồng con lên non ngồi cầu ái Tử

Đất nước hôm nay đã thấm hồn Người

Ve sắp kêu mùa Hạ

Nên không còn mấy Thu

Đất nước này còn chua xót

Nên trông ngày Thống nhất

Cho bên kia không gọi bên này

là người miền Nam

Cho bên này không gọi bên kia

là người miền Bắc.

Lòng vui hôm nay không thấy chật

Tôi yêu đất nước này chân thật

Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi

Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi

Và yêu tôi đã biết làm người

Cứ trông Đất nước mình Thống nhất.

19-12-1967

lò ngân sủn

Dân tộc Dáy

Sinh: 1945. Quê: Lào Cai

Hiện sống và viết tại: Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: chiều biên giới. đường dốc.

Chợ tình. những người con của

núi. đám cưới. Dòng sông mây.

đầu nguồn nước.

Người đẹp

Ai viết tên em bằng ánh sáng

Ai vẽ hình em bằng ánh trăng

Dân ca Dáy

Người đẹp trông như tuyết

Chạm vào lại thấy nóng

Người đẹp trông như lửa

Sờ vào lại thấy mát

Người không khát – nhìn thấy người đẹp cũng khát

Người không đói – nhìn thấy người đẹp cũng đói

Người muốn chết – gặp người đẹp

lại không muốn chết nữa

Ơ

Người đẹp là ước mơ

Treo trước mắt mọi người.

1993

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 195 196 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Nguyễn trọng tạo

Sinh: 1947. Quê: Nghệ An

Hiện sống và viết tại: Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: tình yêu sáng sớm.

Gương mặt tôi yêu. tình ca người lính.

đồng giao cho người lớn.

đồng dao cho người lớn

Có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi

Có con người sống mà như qua đời

Có câu trả lời biến thành câu hỏi

Có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới

Có cha có mẹ có trẻ mồ côi

Có ông trăng tròn nào phải mâm xôi

Có cả đất trời mà không nhà ở

Có vui nho nhỏ có buồn mênh mông

Mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ

Mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió

Có thương có nhớ có khóc có cười

Có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi.

1992

Thâm tâm

(1917 – 1950). Quê: Hải Dương

Tác phẩm thơ đã in: thơ thâm tâm.

Tống biệt hành

đưa người ta không đưa qua sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Bóng chiều không thắm, không vàng vọt

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

Đưa người, ta chỉ đưa người ấy

Một giã gia đình, một dửng dưng...

– Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ

Chí lớn chưa về bàn tay không

Thì không bao giờ nói trở lại!

Ba năm mẹ già cũng đừng mong

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 197 198 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Ta biết ngươi buồn chiều hôm trước

Bây giờ mùa Hạ sen nở nốt

Một chị, hai chị cùng như sen

Khuyên nốt em trai dòng lệ sót

Ta biết người buồn sáng hôm nay

Trời chưa mùa Thu, tươi lắm thay

Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc

Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...

Người đi? ừ nhỉ, người đi thực!

Mẹ thà coi như chiếc lá bay

Chị thà coi như là hạt bụi

Em thà coi như hơi rượu say(*)

.

_______________ (*) Theo Phạ m Quang Hòa (mộ t trong những người bạ n

củ a tác giả ) thì bài này còn có mộ t khổ cuố i:

Mây thu đ ầ u núi giá lên tră ng

Cơn lạ nh chiề u nao đ ổ bóng thầm

Ngừng ở ven trờ i nghe tiế ng khóc

Tiế ng đ ờ i xô đ ộ ng, tiế ng lòng câm.

Xem Thâm Tâm và T.T.TH. Tủ sách Thế giới vă n họ c,

Nxb. Hộ i Nhà vă n, 1991.

thanh thảo

Sinh: 1946. Quê: Quảng Ngãi

Hiện công tác tại Quảng Ngãi

Tác phẩm thơ đã in: những người đi tới biển (Tc).

Dấu chân qua trảng cỏ.

Khối vuông rubic.

Từ một đến một trăm.

Những ngọn sóng mặt trời (tc).

những dấu chân qua trảng cỏ

Buổi chiều qua trảng cỏ voi

Ngước nhìn mút mắt khoảng trời long lanh

Gió nghiêng ngả giữa màu xanh

Tiếng bầy chim két bỗng thành mênh mang

Lối mòn như sợi chỉ giăng

Còn in đậm đặc vô vàn dấu chân

Dấu chân ai đọc nên vần

Nên nào biết, ai đi gần, đi xa

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 199 200 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Cuộc đời trải mút mắt ta

Lối mòn nhỏ cũng dẫn ra chiến trường

Những người sốt rét đang cơn

Dấu chân bấm xuống đường trơn, có nhoè?

Chiếc bòng con đựng những gì

Mà đi cuối đất mà đi cùng trời

Mang bao khát vọng con người

Dấu chân nho nhỏ không lời không tên

Thời gian như cỏ vượt lên

Lối mòn như sợi chỉ bền kéo qua

Ai đi gần, ai đi xa

Những gì gửi lại chỉ là dấu chân

Vùi trong trảng cỏ thời gian

Vẫn âm thầm trải mút tầm mắt ta

Vẫn đằm hơi ấm thiết tha

Cho người sau biết đường ra chiến trường.

Nguyễn đình thi

(1924 – 2002). Quê: Hải Phòng

Tác phẩm thơ đã in: người chiến sĩ. Bài thơ hắc hải.

Tia nắng. dòng sông trong xanh.

Sóng reo. Thơ nguyễn đình thi.

đất nước

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa Thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Mùa Thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc

nói cười thiết tha

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 201 202 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm ngát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về

Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

Từ những năm đau thương chiến đấu

Đã ngời lên nét mặt quê hương

Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu

Đã bật lên những tiếng căm hờn

Bát cơm chan đầy nước mắt

Bay còn giằng khỏi miệng ta

Thằng giặc Tây thằng chúa đất

Đứa đè cổ đứa lột da

Xiềng xích chúng bay không khoá được

Trời đầy chim và đất đầy hoa

Súng đạn chúng bay không bắn được

Lòng dân ta yêu nước thương nhà

Khói nhà máy cuộn trong sương núi

Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng

Ôm đất nước những người áo vải

Đã đứng lên thành những anh hùng

Ngày nắng đốt theo đêm mưa giội

Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh

Trán cháy rực nghĩ trời đất mới

Lòng ta bát ngát ánh bình minh

Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Giũ bùn đứng dậy sáng loà.

1948 - 1955

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 203 204 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Nguyễn quang thiều

Sinh: 1957. Quê: Hà Tây

Hiện công tác tại Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: ngôi nhà tuổi 17. Sự mất ngủ

Của lửa. Những người lính Của làng.

Những người đàn bà gánh nước sông

Những người đàn bà gánh nước sông

Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen

tõe ra như móng chân gà mái

Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm

và nửa đời tôi thấy

Những người đàn bà xuống gánh nước sông

Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và mượt

Những bàn tay họ bám vào đầu đòn gánh

bé bỏng chơi vơi

Bàn tay kia bấu vào mây trắng

Sông gục mặt vào bờ đất lần đi

Những đàn ông mang cần câu và cơm

và cơn mưa biển ra khỏi nhà lặng lẽ

Những con cá thiêng quay mặt khóc

Những chiếc phao ngô chết nổi

Những người đàn ông giận giữ, buồn bã và bỏ đi

Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm

và nửa đời tôi thấy

Những người đàn bà gánh nước sông

và lũ trẻ cởi chuồng

Chạy theo mẹ và lớn lên

Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến

Con trai lại vác cần câu và cơn mưa biển

ra khỏi nhà lặng lẽ

Và cá thiêng lại quay mặt khóc

Trước những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 205 206 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Hữu thỉnh

Sinh: 1942. Quê: Vĩnh Phúc

Hiện sống và viết tại: Hà Nội

Tác phẩm đã in: âm vang chiến hào.

đường tới thành phố (Tc).

Thư mùa đông. trường ca biển.

Thương lượng với thời gian.

Nghe tiếng cuốc kêu

Những đám mây bay đi

Tôi với người ở lại

Cuốc kêu ngoài bến sông

Cuốc kêu vì bẫy hiểm

Bèo leo nheo nước lên

Tôi âm thầm gọi tên

Bàn ghế và quần áo cũ

Tuổi trẻ đột ngột về

Ngơ ngác nhìn tôi

Những cánh diều để chỏm

Vui hơn điều đáng vui

Bánh đa phồng giữa chợ

Che bớt một phần buồn

Tôi ngồi gọi tên những quân bài tam cúc

Xe pháo mã những ngả đường xa lắc

Còn lại thôi hồi tiếng cuốc kêu

Cuốc kêu từ ngày chưa ai đặt tên cho cuốc

Cha tôi nhào đất đắp đường

Ông táo bằng đất

Chiếc chén bằng đất

Những người uống rượu lần lượt bỏ đi

Cha tôi cầm chiếc chén lên

Như cầm một phần đời mình

Đã khô ra thành đất

Cuốc kêu ngoài bãi xa

Cuốc kêu từ ngày cây tre chưa đủ lá đan sàng

Trên đất ướt có người đến ở

Họ bắt đầu như một chiếc rễ nâu

Họ làm ra mọi thứ để nuôi nhau

Mong con cái có ngày mở mặt

Trời tối thì cậy ngọn đèn

Ngọn đèn bấc thắp bằng dầu lạ

Ngọn đèn bấc gió nhiều phen cướp mất

Cuốc kêu ngoài bãi xa

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 207 208 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Cuốc kêu từ ngày em lạy mẹ cha

Đi theo một sợi tơ hồng

Về với anh thành vợ thành chồng

Tình yêu nhiều đứt nối

Ta xin rừng một chiếc giường con

Xin đất một chiếc ấm nhỏ

Một đời người mà chiến trinh nhiều quá

Em níu giường níu chiếu đợi anh

Em trát những người con trai đẹp

Đợi anh

Chỉ mong anh về

áo rách cũng thơm

Chiếc chạn nhỏ với vài đôi đũa mộc

Anh cứ tưởng sau chiến tranh

thì toàn là hạnh phúc

Chúng ta đã từng vò võ đợi nhau

Nhưng không phải em ơi, quốc kêu không phải thế

Trưa nay có điều gì mà quốc kêu như xé

Tôi mất hai người anh

Cả hai đều rất trẻ

Sáng nay lại có người hàng xóm chạy sang

Mỗi lần sau đám tang

Lòng ai cũng héo

Dạ ai cũng sầu

Tôi cứ tưởng không ai còn xấu nữa

Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu

cũng còn chưa đủ

Nhưng không phải, trời ơi,

cuốc kêu không phải thế

Giếng nước than lắm kẻ chao chân

Khu vườn than: Có những con sên

ngấp nghé lên trời

Qua mùa hoa thì bướm cũng bay đi

Tôi ngồi buồn như lá sen rách

Cuốc kêu gì mà khắc khoải trưa nay

Tôi ngồi buồn tôi đếm ngón tay

Có mười ngón tay đếm đi đếm lại

Đếm đi đếm lại trời ngả sang chiều

Chúng ta bị cái chết gạt về một phía

Bị hư danh gạt về một phía

Phải vượt mấy trùng khơi mới bắt gặp nụ cười

Vừa bắt gặp nụ cười thì lại nghe tiếng cuốc.

7-1989

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 209 210 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Hoàng trung thông

(1923 – 1993). Quê: Nghệ An

Tác phẩm thơ đã in: quê hương chiến đấu.

đường chúng ta đi. đầu sóng.

Những cánh buồm. Trong gió lửa.

hương mùa thơ. Tiếng thơ không dứt.

Mời trăng.

Bao giờ trở lại

Các anh đi

Ngày ấy đã lâu rồi

Xóm làng tôi còn nhớ mãi

Các anh đi

Bao giờ trở lại

Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong

Làng tôi nghèo

Nho nhỏ bên sông

Gió bấc lạnh lùng

Thổi vào mái rạ

Làng tôi nghèo

Gió mưa tơi tả

Trai gái trong làng vất vả ngược xuôi

Các anh về mái ấm nhà vui

Tiếng hát câu cười

Rộn ràng xóm nhỏ

Các anh về tưng bừng trước ngõ

Lớp đàn em hớn hở theo sau

Mẹ già bịn rịn áo nâu

Vui đàn con ở rừng sâu mới về

Từ lưng đèo

Dốc núi mù che

Các anh về

Xôn xao làng tôi bé nhỏ

Nhà lá đơn sơ

Nhưng tấm lòng rộng mở

Nồi cơm nấu dở

Bát nước chè xanh

Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau

Anh giờ đánh giặc nơi đâu

Chiềng Vàng, Vụ Bản, hay vào Trị Thiên

Làng tôi thắng lợi vụ chiêm

Lúa thêm xanh ngọn khoai lên thắm vồng

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 211 212 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Giảm tô hai vụ vừa xong

Đêm đêm ánh đuốc dân công rực đường

Dẫu rằng núi gió đèo sương

So anh máu nhuộm chiến trường thấm chi

Bấm tay tính buổi anh đi

Mẹ thường vẫn nhắc: Biết khi nào về

Lúa xanh xanh ngát chân đê

Anh đi là để giữ quê quán mình

Cây đa, bến nước, sân đình

Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường

Hoa cau thơm ngát đầu nương

Anh đi là giữ tình thương dạt dào

Các anh đi

Khi nào trở lại

Xóm làng tôi

Trai gái vẫn chờ mong

Chờ mong chiến dịch thành công

Xác thù chất núi bên sông đỏ cờ

Anh đi chín đợi mười chờ

Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?

Trúc thông

Sinh: 1940. Quê: Hà Nam

Hiện sống và viết tại: Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: chầm chậm tới mình.

ma ra tông.

Bờ sông vẫn gió

(Chị em con kính dâng hương hồn Mẹ)

Lá ngô lay ở bờ sông

Bờ sông vẫn gió

Người không thấy về

Xin Người hãy trở về quê

Một lần cuối... một lần về cuối thôi

Về thương lại bến sông trôi

Về buồn lại đã một thời tóc xanh

Lệ xin giọt cuối để dành

Trên phần mộ Mẹ nương hình bóng Cha

Cây cau cũ giại hiên nhà

Còn nghe gió thổi sông xa một lần

Con xin ngắn lại đường gần

Một lần... rồi Mẹ hãy dần dần đi...

1983

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 213 214 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Anh thơ

(1921 – 2005). Quê: Bắc Giang

Tác phẩm thơ đã in: bức tranh quê. Kể chuyện

vũ lăng. theo cánh chim câu. Đảo ngọc.

Hoa dứa trắng. mùa Xuân màu xanh.

Quê chồng. Lệ sương.

Bến đò ngày mưa

Tre rũ rượi ven bờ chen ướt át

Chuối bơ phờ đầu bến đứng dầm mưa

Và dầm mưa dòng sông trôi rào rạt

Mặc con thuyền cắm lại đậu trơ vơ

Trên bến vắng, đắm mình trong lạnh lẽo

Vài quán hàng không khách đừng xo ro

Một bác lái ghé buồm vào hút điếu

Mặc bà hàng sù sụ sặc hơi ho

Ngoài đường lội họa hoằn người đến chợ

Thúng đội đầu như đội cả trời mưa

Và họa hoằn một con thuyền ghé chở

Rồi âm thầm bến lại lặng trong mưa.

trần hữu thung

(1923 – 1999). Quê: Nghệ An

Tác phẩm thơ đã in: đồng tháng tám. ngày thu ấy.

Gió nam. anh vẫn hành quân.

Tiếng chim đồng. sen quê bác.

Thăm lúa

Mặt trời càng lên tỏ

Bông lúa chín thêm vàng

Sương treo đầu ngọn cỏ

Sương lại càng long lanh

Bay vút tận trời xanh

Chiền chiện cao tiếng hót

Tiếng chim nghe thánh thót

Văng vẳng khắp cánh đồng

Đứng chống cuốc em trông

Em thấy lòng khấp khởi

Bởi vì em nhớ lại

Một buổi sáng mai ri

Anh tình nguyện ra đi

Chiền chiện cùng cao hót

Lúa cũng vừa sẫm hột

Em tiễn anh lên đường

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 215 216 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Chiếc xắc mây anh mang

Em nách mo cơm nếp

Lúa níu anh trật dép

Anh cúi sửa vội vàng

Vượt cánh đồng tắt ngang

Đến bờ ni anh bảo:

– “Ruộng mình quên cày xáo

Nên lúa chín không đều

Nhớ lấy để mùa sau

Nhà cố làm cho tốt”

Xa xa nghe tiếng hát

Anh thấy rộn trong lòng

Sắp đến chỗ người đông

Anh bảo em ngoái lại.

Cam ba lần có trái

Bưởi ba lần ra hoa

Anh bước chân đi ra

Từ ngày đầu phòng ngự

Bước qua kỳ cầm cự

Anh có gửi lời về

Cầm thư anh mân mê

Bụng em giừ phấp phới

Anh đang mùa thắng lợi

Lúa em cũng chín rồi

Lúa tốt lắm anh ơi

Giải thi đua em giật

Xoè bàn tay bấm đốt

Tính đã bốn năm ròng

Người ta bảo không trông

Ai cũng nhủ đừng mong

Riêng em thì em nhớ!

Chuối đầu vườn đã lổ

Cam đầu ngõ đã vàng

Em nhớ ruộng nhớ vườn

Không nhớ anh răng được

Mùa sau kề mùa trước

Em vác cuốc thăm đồng

Lúa sây hạt nặng bông

Thấy vui vẻ trong lòng

Em trông ngày chiến thắng.

1-1-1950

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 217 218 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Phạm Thiên Thư Sinh: 1940. Quê: Hải Phòng

Hiện sống và viết tại: Tp.Hồ Chí Minh

Cổ luỹ cô thôn

(Xóm vắng thành xưa)

Một dãy trường thành trấn ải biên

Còn viền dương lạnh gác bên triền

Cô thôn trúc lặng - sương nhoà khói

Cổ Luỹ thành trơ gió thoảng nền

Buồm cá nâu vênh - bờ bến đậu

Đàn cò trắng nổi - cụm tùng lên

“Cô Thôn Cổ Luỹ” hư mà thực

Dù chỉ nghe qua cũng chạnh niềm.

Thu trang

Sinh: 1932. Quê: Hà Nội

Việt kiều tại Pháp

Tác phẩm thơ đã in: nói sao cho vợi.

Nói sao cho vợi

Thương mến gửi các em ở bên nhà

Pari tối nay tuyết đổ

Rơi rơi phủ trắng phố phường

Hoa đèn tăng phần rực rỡ

Kinh thành bát ngát sắc hương

ánh sáng át hẳn màn sương

Chen chân trên khắp ngả đường

Vui tươi trai thanh gái lịch

Hồn nhiên họ đón xuân sang

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 219 220 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Chân bước mà lòng miên man

Quê ơi, xa cách muôn vàn

Không khóc mà lòng thổn thức

Nói sao cho vợi niềm thương

Pari bát ngát sắc hương

Quê tôi giờ này ai biết

Chắc bên mái tranh đạm bạc

Vườn rau là bãi chiến trường

Tôi đi giữa vầng ánh sáng

Nhìn thiên hạ đón xuân sang

Nghe câu hỏi thầm đau buốt

Bao giờ mùa Xuân Việt Nam?

Bao giờ xuân Thanh bình sang?

Mùa Xuân Thống nhất quê hương

Mùa Xuân Tự do Độc lập

Mùa Xuân không đượm tóc tang!

Trong hồn day dứt mênh mang

Quê tôi miền Bắc miền Nam

Chắc đang hào hùng chiến đấu

Ngăn bàn tay giặc hung tàn

Giữa muôn hương sắc huy hoàng

Tôi không thấy mùa Xuân sang

Hồn tôi ở phương trời ấy

Tôi đợi mùa Xuân Việt Nam!

1969

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 221 222 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

trần huyền trân

(1913 – 1989). Quê: Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: rau tần.

Mưa đêm lều vó

Mưa lũa ao bèo mưa trắng đêm

Cây bờ ngơ ngác nước đang lên

Lều tôi kiến đã rời lên mái

Bà lão chài lo chửa có thuyền

Vó nghèo được nước đã lê thê

Đàn cá giang hồ nhảy nhót đi

Cả cụm bèo xanh nằm cạn mãi

Cũng như cất cánh gọi không về

Tôi ở lều gianh cống Trắng này

Chạnh lòng cá nhảy với chim bay

Đêm sầu kẽo kẹt ngư bà thức

Giăng phải hồn tôi một lưới đầy.

Khâm Thiên, 1938

vương trọng

Sinh: 1943. Quê: Nghệ An

Hiện công tác tại Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: thơ người ra trận. Khoảng trời quê hương.

những ngày xa.

Về thôi nàng vọng phu. đảo chìm.

tặng người trong mơ.

tuyển thơ vương trọng.

Bên mộ cụ Nguyễn du

Tưởng là phận bạc Đạm Tiên

Ngờ đâu cụ Nguyễn Tiên Điền nằm đây

Ngửng trời cao, cúi đất dày

Cắn môi, tay nắm bàn tay của mình

Một vùng cồn bãi trống trênh

Cụ cùng thập loại chúng sinh nằm kề.

Hút tầm chẳng cánh hoa lê

Bạch đàn đôi ngọn gió về nỉ non

Xạc xào lá cỏ héo hon

Bàn chân cát bụi, lối mòn nhỏ nhoi

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 223 224 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Lặng im bên nấm mộ rồi

Chưa tin mình đã đến nơi mình tìm!

Không cành để gọi tiếng chim

Không hoa cho bướm mang thêm nắng trời

Không vầng cỏ ấm tay người

Nén hương tảo mộ cắm rồi lại xiêu

Thanh minh trong những câu Kiều

Rưng rưng con đọc với chiều Nghi Xuân.

Cúi đầu tưởng nhớ vĩ nhân

Phong trần còn để phong trần riêng ai

Bao giờ cây súng rời vai

Nung vôi, chở đá tượng đài xây lên

Trái tim lớn giữa thiên nhiên

Tình thương nối nhịp suốt nghìn năm xa...

Nghi Xuân, 7-3-1982

thanh tịnh

(1911 - 1988). Quê: Thừa Thiên - Huế

Tác phẩm thơ đã in: hận chiến trường. Thơ ca.

đi giữa mùa sen .

Nhớ huế quê tôi

Sông núi vươn dài tiếp núi sông

Cò bay thẳng cánh nối đồng không

Có người bảo Huế xa, xa lắm

Nhưng Huế quê tôi ở giữa lòng.

Mười một năm trời mang Huế theo

Rừng cao nắng tắt bóng cheo leo

Giọng hò mái đẩy vờn mây núi

Man mác sông Hương lướt đỉnh đèo...

Tôi gặp bao người nhớ Huế xa

Đèn khuya thức mãi chí xông pha

Mở đường giải phóng về quê mẹ

Dựng khắp non sông bóng xóm nhà

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 225 226 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Có bao người Huế không về nữa

Gửi đá ven rừng chép chiến công

Có mồ liệt sĩ nâng lòng đất

Buồm phá Tam Giang gió thổi lồng

Nặng trĩu trăm năm bóng cổ thành

Bao lần máu đỏ nhuốm đồng xanh

Cờ sao ngày ấy trùm cung cấm

Sông nước xôn xao núi chuyển mình

Bao độ thu về thu lại qua

Huế tôi thăm thẳm nhớ con xa

Mỗi lần phượng nở rung màu đỏ

Càng giục canh sương rộn tiếng gà...

Hà Nội, thu 1956

Thanh tâm tuyền

Tên thật: Dzữ Văn Tâm

(1936 – 2005). Quê: Tp. Vinh

Tác phẩm thơ đã in: tôi không cô độc.

Liên đêm mặt trời tìm thấy.

Phục sinh

Tôi buồn khóc như buồn nôn

Ngoài phố

Nắng thủy tinh

Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ

Thanh Tâm Tuyền

Buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường

Tôi xin một chỗ quỳ thầm kín

Cho đứa nhỏ linh hồn

Sợ chó dữ

Con chó đói không màu

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 227 228 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Tôi buồn chết như buồn ngủ

Dù tôi đang đứng trên bờ sông

Nước đen sâu thao thức

Tôi hét tên tôi cho nguôi giận

Thanh Tâm Tuyền

Đêm ngã xuống khoảng thì thầm tội lỗi

Em bé quàng khăn đỏ ơi

Này một con chó sói

Thứ chó sói lang thang

Tôi thèm giết tôi

Loài sát nhân muôn đời

Tôi gào tên tôi thảm thiết

Thanh Tâm Tuyền

Bóp cổ tôi chết gục

Để tôi được phục sinh

Từng chuỗi cuộc đời tiếp nối

Nhân loại không tha thứ tội giết người

Bọn đao phủ quỳ gối

Giờ phục sinh

Tiếng kêu là kinh cầu

Những thế kỷ chờ đợi

Tôi thèm sống như thèm chết

Giữa hơi thở giao thoa

Ngực cháy lửa

Tôi gọi khẽ

Em

Hãy mở cửa trái tim

Tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ

Trong sạch như một lần sự thật.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 229 230 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

đoàn phú tứ

(1910 – 1989). Quê: Bắc Ninh

Tác phẩm thơ đã in: màu thời gian.

Màu thời gian

Sớm nay tiếng chim thanh

Trong gió lành

Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình

Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần phi

Ta lặng dâng nàng

Trời mây phảng phất nhuốm thời gian

Màu thời gian không xanh

Màu thời gian tím ngắt

Hương thời gian không nồng

Hương thời gian thanh thanh

Tóc mây một món chiếc dao vàng

Nghìn trùng e lệ phụng quân vương

Trăm năm tình cũ lìa không hận

Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng

Duyên trăm năm đứt đoạn

Tình một thuở còn hương

Hương thời gian thanh thanh

Màu thời gian tím ngát.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 231 232 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

hàn mặc tử

(1912 – 1940). Quê: Quảng Bình

Tác phẩm thơ đã in: lệ thanh thi tập. Gái quê.

đau thương. xuân như ý.

cẩm châu duyên. tuyển tập hàn mặc tử.

đây thôn vĩ dạ

sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay...

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Mơ khách đường xa khách đường xa

áo em trắng quá nhìn không ra

ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Cầm vĩnh ui

Dân tộc Thái

Nhớ vợ

Tôi nhớ vợ tôi lắm

Xin anh về hai ngày

Nhà tôi ở Mường Lay

Có con sông Nậm Rốm

Ngày kia tôi sẽ đến

Lại cầm súng được ngay

Tôi càng bắn trúng Tây

Vì tay có hơi vợ

Cho tôi đi, đừng sợ

Tôi không chết được đâu

Vì vợ tôi lúc nào

Cũng mong chồng mạnh khoẻ

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 233 234 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Cho tôi đi anh nhé

Về ôm vợ hai đêm

Vợ tôi nó sẽ khen

Chồng em nên người giỏi

Ngày kia tôi về tới

Được đi đánh cái đồn

Hay được đi chống càn

Là thế nào cũng thắng

Nếu có được trên tặng

Cho một cái bằng khen

Tôi sẽ rọc đôi liền

Gửi cho vợ một nửa.

(Cầm giang dịch)

Bạc văn ùi

Dân tộc Thái

Em tắm

Sao anh lại rình

Trộm xem em tắm?

Da của em ngần trắng

Da của mẹ, của cha

Tay của em lấm lem

Tay của than của bụi

Tay của rừng của núi

Tay của đất của nương

Em tắm xong lại sạch

Vẫn ngát thơm hoa rừng

Da của em trắng ngần

Là của anh tất cả

Không phải người xa lạ

Việc gì mà trộm xem

Em tắm suối giữa mường

Tắm trong mối yêu thương

Có anh đang đứng giữ

Chớ để Tây đến mường.

(Cẩm Giang dịch)

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 235 236 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Đinh thị thu vân

Sinh: 1955. Quê: Long An

Hiện sống và viết tại: Long An

Tác phẩm thơ đã in: thay cho lời hát ru anh.

Một ngày ta ngoái lại

Một ngày ta ngoái lại

Rồi sẽ có một ngày ta ngoái lại

Bạn bè ơi, khi ấy có còn nhau

Cơn lốc đời đưa đẩy bạn về đâu

Ta ngoái lại tìm nhau, e mất dấu

Ta ngoái lại tìm nhau, mong ẩn náu

Góc bạn bè yên ấm cảm thông ơi

Ta ngoái lại rụng rời đôi cánh mỏi

Góc bạn bè tin cậy, bớt chơi vơi

Ta ngoái lại tìm nhau đừng sỏi đá

Đừng dập vùi chi nữa trái tim hoang

Thôi đừng nhớ, đừng quên, đừng xa vắng

Xin một lần tha thứ thuở lang thang

Tha thứ nhé bạn ơi ngày cay đắng

Ta quẩn quanh nuôi giữ xót xa mình

Tha thứ nhé những niềm vui không vóc dáng

Thuở đam mê bè bạn khuất xa dần...

Rồi sẽ có một ngày, sau tháng ngày dâu bể

Chúng mình cùng ngoái lại tìm nhau

Ta nói yêu thương khi mắt đổi thay màu

Bàn tay héo cầm lâu cho ấm mãi

Trái tim héo, nụ cười xưa dẫu héo

Chỉ xin đừng tàn lụi chút niềm tin

Dẫu mong manh vụn vỡ chẳng nguyên lành

Xin hãy có một ngày nhen nhúm lại.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 237 238 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Chế lan viên

(1920 – 1989). Quê: Quảng Trị

Tác phẩm thơ đã in: Điêu tàn. gửi các anh.

ánh sáng và phù sa. Hoa ngày thường.

chim báo bão. Đối thoại mới.

Hoa trước lăng người. Hoa trên đá.

Di cảo chế lan viên i, ii, iii.

Tuyển thơ chế lan viên.

Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng

Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm

Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?

– Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày

đẹp nhất

Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,

Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hoá thành văn,

Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc,

Hưng Đạo diệt quân Nguyên

trên sóng Bạch Đằng...

Những ngày tôi sống đây

là ngày đẹp hơn tất cả

Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn!

Trái cây rơi vào áo người ngắm quả,

Đường nhân loại đi qua bóng lá xanh rờn,

Mặt trời đến mỗi ngày như khách lạ

Gặp mỗi mặt người đều muốn ghé môi hôn...

Cha ông xưa từng đấm nát tay

trước cửa cuộc đời,

Cửa vẫn đóng và Đời im ỉm khoá

"Những pho tượng chùa Tây Phương"

không biết cách trả lời(*)

Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ

Văn Chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi(**)

_______________ (*) Trong bài "Các vị La Hán chùa Tây Phương" củ a Huy

Cậ n có câu:

Mộ t câu hỏ i lớn không lờ i đ áp

Cho đ ế n bây giờ mặ t vẫ n chau (**) Vă n Chiêu hồ n củ a Nguyễ n Du tả mười loạ i chúng sinh

không có cách giả i thoát.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 239 240 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Có phải cha ông đến sớm chăng

và cháu con thì lại muộn

Dẫu có bay giữa trăng sao cũng tiếc không được

sống phút bây giờ

Buổi đất nước của Hùng Vương có Đảng

Mỗi người dân đều được thấy Bác Hồ,

Thịt xương ta giặc phơi ngoài bãi bắn

Lại tái sinh từ Pắc Bó, Ba Tơ...

Không ai có thể ngủ yên trong đời chật

Buổi thuỷ triều vẫy gọi những vầng trăng,

Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt,

Gỗ trăm cây đều muốn hoá nên trầm,

Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt

Mỗi con sông đều muốn hoá Bạch Đằng...

Ôi Trường Sơn vĩ đại của ta ơi!

Ta tựa vào Ngươi kéo pháo lên đồi.

Ta tựa vào Đảng ta, lên tiếng hát

Dưới chân ta, đến đầu hàng Đờ Cát,

Rồng năm móng vua quan thành bụi đất,

Mỗi trang thơ đều dội tiếng ta cười!

Đều lộng hương thơm những cánh đồng hợp tác

Chim cu gần, chim cu gáy xa xa...

Ruộng đoàn tụ nên người thôi chia cắt,

Đêm no ấm giọng chèo khuya khoan nhặt

Lúa thêm mùa khi lúa chín về ta.

Rồi với đôi tay trắng từ Đinh, Lý, Trần, Lê,

Đảng làm nên công nghiệp

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 241 242 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Điện trời ta là sóng nước sông Hồng,

An Dương Vương hãy dậy cùng ta xây sắt thép

Loa Thành này có đẹp mắt Người chăng?

Ong bay nhà khu tỉnh uỷ Hưng Yên

Mật đồng bằng mùa nhãn ngọt môi em

Cây xanh ngắt đất bạc màu Vĩnh Phúc...

Ôi! Cái thuở lòng ta yêu Tổ quốc

Hạnh phúc nào không hạnh phúc đầu tiên?

Ôi cái buổi sinh thành và tái tạo

Khi thiếu súng và khi thì thiếu gạo

Nhưng phù sa này đẻ ra những Cà Mau

thịnh vượng mai sau

Dẫu là Chúa cũng sinh từ ruột máu,

Ta đẻ ra Đời, sao khỏi những cơn đau.

Hãy biết ơn vị muối của đời cho thơ chất mặn!

Ôi! Thương thay những thế kỷ vắng anh hùng,

Những đất nước thiếu người cầm thanh gươm

nghìn cân ra trận...

Nhà thơ sinh đồng thời với mưa phùn

và những buổi hoàng hôn

Cả xứ sở trắng một màu mây trắng!

Ai biết mây trên trời buồn hơn hay thơ mặt đất

buồn hơn?

Chọn thời mà sống chăng? Anh sẽ chọn

năm nào đấy nhỉ?

Cho tôi sinh ra buổi Đảng dựng xây đời,

Mắt được thấy dòng sông ra gặp bể,

Ta với mẻ thép gang đầu là lứa trẻ sinh đôi,

Nguyễn Văn Trỗi ra đi còn dạy chúng ta cười...

Cho tôi sinh giữa những ngày diệt Mỹ

Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến luỹ

Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng

và hạ trực thăng rơi.

1965

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 243 244 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Bằng việt

Sinh: 1941. Quê: Hà Tây

Hiện công tác tại Hà Nội

Tác phẩm thơ đã in: những gương mặt những

khoảng trời. đất sau mưa.

Khoảng cách giữa lời. Cát sáng.

Phía nửa mặt trăng chìm.

nén câu thơ vào gió.

Tuyển thơ bằng việt.

bếp lửa

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe.

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:

"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố

Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!"

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 245 246 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

– Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...

1963

Lưu quang vũ

(1948 - 1988). Quê: TP Đà Nẵng

Tác phẩm thơ đã in: mây trắng của đời tôi.

Bầy ong trong đêm sâu.

tuyển thơ Lưu quang vũ.

vườn trong phố

Trong thành phố có một vườn cây mát

Trong triệu người có em của ta

Buổi trưa nắng bầy ong đi kiếm mật

Vào vườn rồi ong chẳng nhớ lối ra

Vườn em là nơi động gió trời xa

Hoa tím chim kêu bàng thưa lá nắng

Con nhện đi về giăng tơ trắng

Trái tròn căng mập nhựa sinh sôi

Nơi ban mai cỏ ướt sương rơi

Một hạt nhỏ mơ hồ trên lá

Hơi lạnh nào ngón tay cầm se giá?

Suốt cuộc đời cũng chẳng hiểu vì sao...

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 247 248 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Nơi đêm khuya vọng lại tiếng còi tàu

Bỗng nhớ xa xôi những miền đất nước

Nơi bài hát lên đường ta hẹn ước

Nơi góc vườn ta để quên chùm hoa...

Nơi vòm lá rì rào xao động cơn mưa

Quả ngọt chín khi mùa ve lại đến

Những chân trời màu hồng

những chân trời màu tím

Những ngôi sao bàng bạc cả hoàng hôn

Nơi lá chuối che nghiêng như một cánh buồm

Cánh buồm xanh đi về trong hạnh phúc

Se sẽ chứ, không cánh buồm bay mất

Qua dịu dàng ẩm ướt của làn môi

Dưa hấu bổ ra thơm suốt ngày dài

Em cũng mát lành như trái cây mùa hạ

Nước da nâu và nụ cười bỡ ngỡ

Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa

Đến bây giờ đánh giặc anh đi xa

Nhìn lại mảnh vườn xưa thấy hẹp

Biết bao điều anh còn chưa nói được

Rối rít trong lòng một nỗi em em...

Rừng rậm đèo cao anh đã vượt lên

Theo tiếng gọi con tàu ngày bé dại

Vườn không níu được bước chân trở lại

Nhưng lá còn che mát suốt đường anh

Mảnh vườn em vẫn là mảnh vườn xanh

Nơi ban đầu lòng ta ươm tổ mật

Nơi ta hát những chùm thơ thứ nhất

Nơi thu sang mây trắng vẫn bay về.

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 249 250 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Trần tế xương

(1870 – 1907). Quê: Nam Định

Tên khai sinh: Trần Tế Xương

Tác phẩm thơ đã in: thơ văn trần tế xương.

Thương vợ

Quanh năm buôn bán ở mom song

Nuôi đủ đủ năm con với một chồng

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông

Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không!

Tô thùy yên

Sinh: 1938. Quê: Sài Gòn – Gia Định

Chuyện tình người lỡ vận

Tặng người thiếu phụ đọc thơ cứ tưởng có mình ở trong

Một cơn chóng mặt xanh từ kiếp trước

Nay biến ta thành một con trốt say

Ta hốt ta đi cho đời thảng thốt

Ta làm trò tung hứng trái tim chai

Ta xuất hiện như tên tù tẩu thoát

Trọn gia tài một huyết thống phiêu lưu

Ta hát lớn những ưu sầu chất ngất

Lời vỗ về trao hết mọi ngu ngơ

Ta gặp em như gặp người thứ nhất

Em gặp ta như gặp kẻ cuối cùng

Nhưng đêm đó, một vành trăng đã khuyết

Làm hoang đường những mộng mỵ trăm năm

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 251 252 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Biết đã trễ nên không thèm hối hả

Cuộc tình này như chút đỉnh khoan dung

Của định mệnh cũng có lần nới thả

Hạnh phúc này như sóng rã trên sông

Lòng hoài vọng những điều không rõ rệt

Buồn quá nên yêu yêu quá nên buồn

Việc vô ích mà ta công kỹ nhất

Thân thể ta, ta đổi tiếng cười suông

Như yêu lại một người yêu thất tiết

Xót xa này chan đổ muối trong lòng

Đời lỡ vận một lần nên lỡ miết

Chí lớn đành đốn sập đốt ra than

Thà làm kẻ si tình hát điên loạn

Hơn làm người thành đạt thời nhiễu nhương

Ta sống cuộc đời không sửa soạn

Như nhan sắc em cần chi điểm trang

Ta cứ coi em như hoàng hậu góa

Dẫu biết thừa em vốn gái lê dân

Còn ta đây: một vĩ nhân tàn tạ

Chẳng làm nên công nghiệp đáng lưu danh

Ta dắt em đi giữa ngày tháng rối

Như đôi du hồn khất thực co ro

Cả xã hội bu quanh cười cợt hỏi

Em cứ sắm tuồng đi, ta nhắc cho

Em làm khôn, còn ta, ta giả dại

Ngày bồn chồn ngày, đêm khắc khoải đêm

Ta tủi thân thêm mỗi lần vượt ải

Nghề ngông cuồng tập mãi cũng thành quen.

7-1991

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 253 254 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Tổng kết cuộc thi:

"Bình chọn 100 bài thơ hay Thế kỷ xx"

Thay lời bạt

kính thưa các vị đại biểu!

Qua hơn 2 năm phát động cuộc thi "Bình chọn 100 bài

thơ hay thế kỷ XX". Trung tâm Văn hóa Doanh nhân

Việt Nam và Nhà xuất bản Giáo dục đã nhận được hàng

nghìn bài dự thi từ 36 tỉnh thành trong cả nước và người

Việt ở nhiều quốc gia gửi về tham dự. Nhiều ý kiến đánh

giá đây là một cuộc thi độc đáo, giàu chất trí tuệ, bổ ích

và hấp dẫn. Song cũng là một việc làm không đơn giản,

mỗi người dự thi chỉ được chọn 100 bài thơ trong số hàng

nghìn tác giả Việt Nam, hàng triệu bài thơ đã được công

bố trên thi đàn Việt Nam trong thế kỷ XX. Để có được

kết quả chính xác và 100 bài thơ được chọn xứng đáng là

100 bài thơ hay thế kỷ XX, Ban tổ chức đã thành lập Hội

đồng Ban sơ khảo và Hội đồng Ban chung khảo gồm

nhiều nhà thơ, nhà lý luận phê bình văn học Việt Nam uy

tín hiện nay tham gia chấm bài dự thi. Ban sơ khảo cũng

như Ban chung khảo đã làm việc nhiều lần để cùng trao

đổi, bàn luận nhằm đưa ra một tiêu chí chấm phù hợp và

có hiệu quả nhất. Đây là một công việc vô cùng khó, làm

thế nào đạt được sự chính xác và công tâm giữa hàng

nghìn bài dự thi? Niềm đam mê thơ ca của công chúng đã

truyền cảm hứng cho những người chấm giải. Cả những

người tổ chức cuộc thi cũng vào cuộc để tìm ra 100 bài

thơ hay thế kỷ XX. Kết quả thật bất ngờ, ngoài cả sự

mong đợi của ban tổ chức. Chúng tôi thực sự xúc động

khi nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ của đông đảo

quần chúng, có nhiều cụ già trên 80 tuổi (cụ Nguyễn

Trung Ngạn ở Tam Nông, Phú Thọ, cụ Nguyễn Văn, hội

viên Hội Văn học Nghệ thuật Thái Bình) và những em

học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, những người còn

đang công tác trong nhiều lĩnh vực và những người đã

nghỉ hưu, những trí thức thành thị, những nông dân ở các

vùng quê hẻo lánh và những người làm nghề tự do... cũng

tham gia cuộc thi. Nhiều bài được trình bày một cách

công phu cẩn thận, được đóng bìa cứng mạ vàng rất trang

trọng. Có bài ngoài phần tham gia bình chọn 100 bài thơ

còn kèm theo cả một bức thư dài với lời lẽ tâm huyết

gửi đến Ban tổ chức, bày tỏ suy nghĩ về thành tựu rực rỡ

của nền thơ ca Việt Nam thế kỷ XX, và những lời cảm ơn

Ban tổ chức đã phát động cuộc thi nhằm khơi dậy niềm

yêu mến thơ ca trong lòng công chúng. Thậm chí nhiều

bài còn viết lại nội dung của 100 bài thơ như: bài của ông

Đặng Văn Toàn, Nguyễn Đình Hà, ở khu 4 xã Thượng

Nông huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ... Có trường hợp

sau khi phát hiện ra bài dự thi của mình gửi đi rồi nhưng

còn một số sơ suất như lỗi do in ấn, ngay lập tức đã viết

thư tới Ban tổ chức và yêu cầu đổi lại bài mới hoàn chỉnh

hơn. Bài của Thạc sĩ văn học Nguyễn Nguyên Tản ở

Hưng Yên còn đưa ra những tiêu chí lựa chọn cũng như

những cách sắp xếp 100 bài thơ. Ngoài ra còn nhiều bài

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 255 256 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

rất công phu như: bài của ông Đoàn Hải Hưng, Hội viên

hội văn học nghệ thuật Phú Thọ dày 205 trang, trình bày

trang trọng có lời nói đầu, dưới mỗi bài thơ đều có lời

bình của người dự thi. Bài của hai nhà giáo Đăng Phúc và

ái Liên ở Hà Nội dày 296 trang. Bài của cô giáo Vũ Thị

Phượng ở Vụ Bản, Nam Định dày 154 trang... Điều đó

chứng tỏ sự trân trọng và thái độ nghiêm túc của công

chúng đối với cuộc thi nói riêng và với thơ ca nói chung.

Điều đó cũng đặt ra cho Ban tổ chức và Ban giám khảo

phải làm việc hết sức nghiêm túc, thận trọng, công minh

và tỉnh táo. Ban giám khảo đã tập hợp nhiều tuyển tập thơ

và các tài liệu liên quan đến thơ Việt Nam thế kỷ XX.

Ban giám khảo cùng các nhà nghiên cứu, các nhà lý luận,

các giáo sư nổi tiếng kiểm tra đi kiểm tra lại để đảm bảo

sự chính xác, công minh cho các bài dự thi. Có như vậy

mới xứng đáng với lòng tin cậy của bạn đọc và xứng

đáng với tầm của cuộc thi.

Bên cạnh đó cũng còn một số bài dự thi không hợp lệ

mà chúng tôi phải loại ra như: có những tác giả chưa in

thơ ở đâu bao giờ thay vì chọn 100 bài hay nhất của các

nhà thơ nổi tiếng trong thế kỷ XX lại gửi cả tập thơ do

chính họ sáng tác tới để dự thi... Đây là một cuộc thi bình

chọn vì vậy rất cần những ý kiến chủ quan, sáng suốt của

từng cá nhân nhưng rất tiếc là có nhiều tập thể trong khi

phổ biến cuộc thi cho đơn vị mình đồng thời làm luôn

một bài mẫu và mọi người cùng chép để gửi đi.

Kính thưa các quý vị!

Thế kỷ XX đã đi qua, một thế kỷ với bao biến động,

đổi thay của nhân loại và đất nước Việt Nam nhưng

những giá trị tốt đẹp đích thực nhất vẫn được chúng ta

lưu giữ đó là 100 bài thơ hay nhất thế kỷ. Trong không

khí ấm áp của ngày thơ Việt Nam hôm nay, ý nghĩa của

cuộc thi càng lớn hơn. Vì việc làm của chúng ta không

chỉ nhằm tôn vinh các nhà thơ Việt Nam nói chung và

các nhà thơ Việt Nam thế kỷ XX nói riêng, mà kết quả

của cuộc bình chọn này liên quan trực tiếp đến nền thơ ca

nước nhà. Những bài thơ hay, mang ý nghĩa sâu xa và

đầy cá tính tạo nên sự phong phú được bình chọn một

cách vô tư, không thiên kiến, lấy cái “hay” làm tiêu chí

được thẩm định bởi hàng nghìn độc giả cùng các nhà thơ

tên tuổi và các Giáo sư đầu ngành đã từng nghiên cứu,

giảng dạy nhiều năm về thơ Việt Nam sẽ còn đọng mãi

trong lòng mỗi người dân nước Việt.

Mặc dù làm việc với tinh thần hết sức nghiêm túc và

thận trọng, nhưng không tránh khỏi thiếu sót, chúng tôi

rất mong được lượng thứ.

Thay mặt Ban tổ chức, tôi xin kính chúc các vị đại

biểu, các nhà thơ, và toàn thể công chúng yêu thơ bước

sang năm mới dồi dào sức khỏe, hạnh phúc và thành đạt!

Bài phát biểu của nhà văn Lê Lựu – Giám đốc Trung

tâm Văn hóa Doanh nhân Việt Nam,

Trưởng ban tổ chức cuộc thi bình chọn

"100 bài thơ hay thế kỷ XX"

tại lễ trao giải thưởng cuộc thi

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 257 258 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Mục lục

Lời nói đầu ........................................................... 5

1. Hồ chí minh

Nguyên tiêu (Rằm tháng Giêng)........................... 7

2. Phùng khắc bắc

Ngày hòa bình đầu tiên ......................................... 8

3. Nguyễn bính

Những bóng người trên sân ga ............................. 9

4. Thu bồn

Tạm biệt Huế ........................................................ 11

4. đồng đức bốn

Vào chùa ............................................................... 13

6. Nhã ca

Tiếng chuông Thiên Mụ ....................................... 14

7. Văn cao

Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc ......................... 17

8. Vũ cao

Núi Đôi ................................................................. 20

9. Hoàng cầm

Bên kia sông Đuống ............................................. 24

10. Huy cận

Tràng Giang .......................................................... 30

11. Nông quốc chấn

Dọn về làng .......................................................... 32

12. Nguyễn bá chung Quê hương ............................................................ 36

13. Vũ hoàng chương

Say đi em .............................................................. 38

14. Hoàng trần cương

Miền Trung ........................................................... 41

15. đoàn văn cừ

Đường về quê mẹ ................................................. 43

16. Lâm thị mỹ dạ

Anh đừng khen em ............................................... 45

17. Xuân diệu

Nguyệt cầm........................................................... 47

18. Phạm tiến duật

Cô bộ đội ấy đi rồi ................................................ 48

19. Quang dũng

Tây tiến ................................................................. 51

20. Khương hữu dụng

Lên Côn Sơn ......................................................... 53

21. Nguyễn duy

Đò Lèn .................................................................. 54

22. Hồ dzếnh

Chiều .................................................................... 56

23. Tản đà

Thăm mả cũ bên đường ........................................ 57

24. Lê đạt

Cha tôi .................................................................. 59

25. Nguyễn khoa điềm

Mẹ và quả ............................................................. 64

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 259 260 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

26. Cầm giang

Núi Mường Hung dòng sông Mã ......................... 65

27. Bùi giáng

Mắt buồn .............................................................. 67

28. t.t.kh

Hai sắc hoa tigôn .................................................. 68

29. Trần mạnh hảo

Nguyễn Trãi trước giờ tru di ................................ 71

30. Tế hanh

Bài thơ tình ở Hàng Châu ..................................... 74

31. Ca lê hiến

Trở về quê nội ...................................................... 77

32. Tô hoàn

Đêm mưa .............................................................. 80

33. Thi hoàng

Những đứa trẻ chơi trước cửa đền ........................ 81

34. Nguyên hồng

Cửu Long Giang ta ơi ........................................... 83

35. Minh huệ

Đêm nay Bác không ngủ ...................................... 87

36. Quang huy

Nỗi niềm Thị Nở .................................................. 91

37. đinh hùng

Đường khuya trở bước ......................................... 93

38. Hoàng hưng

Người về ............................................................... 94

39. Chính hữu

Đồng chí ............................................................... 95

40. Tố hữu

Khi con tu hú ........................................................ 97

41. Thôi hữu

Lên Cấm Sơn………………………………... 98

42. Trang thế hy

Lời nói dối nhân ái……………………… 102

43. á nam trần tuấn khải

Gánh nước đêm .................................................... 103

44. bích khê

Tỳ bà ..................................................................... 104

45. Trần đăng khoa

Gửi bác Trần Nhuận Minh ................................... 106

46. Nguyễn khuyến

Thu điếu ................................................................ 108

47. Yến lan

Bến My Lăng ........................................................ 109

48. Du tử lê

Khi người về ......................................................... 111

49. Vũ đình liên

Ông đồ .................................................................. 113

50. Hữu loan

Đèo cả ................................................................... 115

51. Hoàng lộc

Viếng bạn ............................................................. 119

52. Lưu trọng lư

Tiếng thu .............................................................. 121

53. Thế lữ

Nhớ rừng .............................................................. 122

54. Nguyễn đức mậu

Một vị tướng về hưu ............................................. 125

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 261 262 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

55. Lê thị mây

Những mùa trăng mong chờ ................................. 127

56. Trần nhuận minh

Dặn con ................................................................ 129

57. Vũ đình minh

Hội Lim ................................................................ 130

58. tú mỡ

Khóc người vợ hiền .............................................. 131

59. Nguyễn mỹ

Cuộc chia ly màu đỏ ............................................. 134

60. giang nam

Quê hương ............................................................ 136

61. Anh ngọc

Thị Mầu ................................................................ 138

62. Hồng nguyên

Nhớ ....................................................................... 140

63. Phan thị thanh nhàn

Trời và đất ............................................................ 143

64. ý nhi

Người đàn bà ngồi đan ......................................... 145

65. Trần mai ninh

Nhớ máu ............................................................... 147

66. Nguyễn ngọc oánh

Mẹ ......................................................................... 152

67. Ngô văn phú

Bông và mây ......................................................... 154

68. Việt phương

Muôn vàn tình thương yêu trùm lên khắp quê

hương ...................................................................

155

69. Vũ quần phương

Đợi ........................................................................ 161

70. Y phương

Tên làng ................................................................ 162

71. Phùng quán

Lời mẹ dặn ............................................................ 164

72. Bùi minh quốc

Có khi nào ............................................................ 167

73. Xuân quỳnh

Tự hát ................................................................... 168

74. Nguyên sa

áo lụa Hà Đông ..................................................... 170

75. Trần vàng sao

Bài thơ của một người yêu nước mình ................. 172

76. Lò ngân sủn

Người đẹp ............................................................. 179

77. Nguyễn trọng tạo

Đồng dao cho người lớn ....................................... 180

78. Thâm tâm

Tống biệt hành ...................................................... 181

79. Thanh thảo

Những dấu chân qua trảng cỏ ............................... 183

80. Nguyễn đình thi

Đất nước ............................................................... 185

81. Nguyễn quang thiều

Những người đàn bà gánh nước sông ................... 188

82. Hữu thỉnh

Nghe tiếng cuốc kêu ............................................. 190

83. Hoàng trung thông

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 263 264 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Bao giờ trở lại ....................................................... 194

84. Trúc thông

Bờ sông vẫn gió .................................................... 197

85. Anh thơ

Bến đò ngày mưa .................................................. 198

86. Trần hữu thung

Thăm lúa ............................................................... 199

87. PHạM THIÊN THƯ

Cổ Luỹ cô thôn…………………………….. 202

88. Thu trang

Nói sao cho vợi ..................................................... 203

89. Trần huyền trân

Mưa đêm lều vó .................................................... 205

90. Vương trọng

Bên mộ cụ Nguyễn Du ......................................... 206

91. Thanh tịnh

Nhớ Huế quê tôi ................................................... 208

92. đoàn phú tứ

Màu thời gian ....................................................... 210

93. Hàn mặc tử

Đây thôn Vĩ Dạ..................................................... 211

94. Cầm vĩnh ui

Nhớ vợ .................................................................. 212

95. Bạc văn ùi

Em tắm ................................................................. 214

96. đinh thị thu vân

Một ngày ta ngoái lại ............................................ 215

97. Chế lan viên

Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng ...................... 217

98. Bằng việt

Bếp lửa ................................................................. 221

99. Lưu quang vũ

Vườn trong phố .................................................... 224

100. Trần tế xương

Thương vợ ............................................................ 227

Lời bạt .................................................................. 228

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX 265 266 100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

100 bài thơ hay thế kỷ XX

*

Nhà xuất bản giáo dục

T.t văn hóa doanh nhân Việt Nam

Chịu trách nhiệm xuất bản:

Ngô trần ái

Lê lựu Chịu trách nhiệm bản thảo:

Lê lựu

Biên tập: vũ xuân vinh

Bìa: gia khánh

Kỹ thuật vi tính: Tạ Thu Huyền

Sửa bản in: Trần thị hồng

In lần thứ nhất 1.000

c, khổ 14,5 x 20,5cm.

Tại Xí nghiệp in Thương Mại

Số đăng ký kế hoạch xuất bản:370-2006/CXB/15-49/HHTT

In xong và nộp lưu chiểu quý I năm 2007.