230
1 BÚT KÝ VIỆT NAM VÀ ĐỜI TÔI QUA HAI THK20 VÀ 21. KHIT CHÂU NGUYN-HUY HÙNG (Cựu Đại Tá Quân lc Vit Nam Cng Hòa) Tng hp tháng 4 năm 2016.

 · 2 Nguyễn-Huy Hùng, ảnh chụp năm 1969. ĐÔI LỜI TÂM SỰ Tôi gia nhập Quân đội từ năm 1947 và tiếp tục cuộc đời binh nghiệp cho đến ngày Quố

  • Upload
    others

  • View
    2

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

  • 1

    BÚT KÝ VIỆT NAM VÀ ĐỜI TÔI QUA HAI THẾ KỶ 20 VÀ 21.

    KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG (Cựu Đại Tá Quân lực Việt Nam Cộng Hòa)

    Tổng hợp tháng 4 năm 2016.

  • 2

    Nguyễn-Huy Hùng, ảnh chụp năm 1969.

    ĐÔI LỜI TÂM SỰ Tôi gia nhập Quân đội từ năm 1947 và tiếp tục cuộc đời binh nghiệp cho đến ngày Quốc Hận 30-4-1975 thì bị bạo quyền Việt Cộng bắt đi tù tập trung cải tạo suốt 13 năm sau mới được tha về sống đoàn tụ với gia đình tại Saigon. Tháng 8 năm 1992 được bạo quyền trục xuất ra khỏi nước cùng với vợ các con và các cháu nội cháu ngoại đi định cư tỵ nạn chính trị Cộng sản tại Hoa Kỳ theo diện H.O.10 (Humanitarian Operation). Suốt từ ngày tới Hoa Kỳ đến nay, ngoài việc lo cho gia đình Tôi vẫn hăng hái tham gia hoạt động chính trị chống Cộng cùng với các Hội đoàn cựu Chiến binh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa và các Tổ chức Cộng đồng người Việt Tỵ nạn Cộng sản trên toàn thế giới. Tôi cũng đã thường xuyên đóng góp rất nhiều bài tham luận đăng trên các Diễn đàn Intrenet, các báo Việt ngữ, đọc trên Đài phát thanh và Vô tuyến truyền hình của người Việt nơi hải ngoại. Lúc này các Cộng đồng người tỵ nạn cư trú trên toàn thế giới đang rầm rộ tổ chức tưởng niệm THÁNG TƯ ĐEN, nên Tôi thấy là cần gom một số bài quan trọng mà Tôi đã đóng góp từ trước đến nay vào Tập Bút Ký này, để các Bạn Trẻ đang hăng hái dấn thân tiếp nối công cuộc đấu tranh chống Cộng của Ông Cha mình cho đến khi toàn dân Việt Nam thoát khỏi ách thống trị độc tài tàn bạo của bè đảng Việt Cộng (chưa có dịp đọc trước đây) tùy nghi tham khảo./. Chào kính mến, NGUYỄN-HUY HÙNG.

  • 3

    SỰ THẬT LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀO NĂM 1945

    Nguyễn-Huy Hùng (K1 trường VBQGVN)

    Cựu Hoàng Bảo Đại, Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam.

    NGÀY 11 THÁNG 3 NĂM 1945,

    QUỐC GIA VIỆT NAM ĐỘC LẬP THỐNG NHẤT,

    SAU 61 NĂM BỊ THỰC DÂN PHÁP THỐNG TRỊ (1884-1945)

    Trong suốt thời gian dài hơn 60 năm qua, nhóm người Cộng sản

    Việt Nam theo chủ nghiã Tam Vô chuyên chính toàn trị vong nô bán

    nước hại dân, đã cố tình dùng những phương tiện tuyên truyền xảo quyệt

    gian dối lừa bịp nhân loại, bóp méo sự thật về hoàn cảnh lịch sử mà toàn

    dân tộc Việt Nam đã sát cánh bên nhau giành lại được Độc lập cho đất

    nước sau 61 năm bị Thực dân Pháp thống trị, khi Thế giới Đại Chiến II

    chấm dứt.

    Người viết là một nhân chứng, sống trong lòng dân tộc Việt Nam

    trên đất nước Việt nam suốt từ Thập niên 1930 cho đến giữa Thập niên

    1990, thấy có bổn phận phải ghi lại sự thật những gì đã xẩy ra trên đất

    nước Việt Nam, để giúp cho các thế hệ Trẻ sau này biết được sự thật về

    giai đoạn lịch sử này của Dân tộc Việt Nam, để thấy được những gì

  • 4

    Cộng sản Việt Nam tiếm nhận khoe khoang phổ biến cho đến nay đều

    hoàn toàn không đúng với sự thật hiển nhiên đã xẩy ra.

    1. TÌNH HÌNH QUỐC TẾ KHI THẾ GIỚI ĐẠI CHIẾN II CHẤM DỨT.

    Sau khi Hoa Kỳ thả 2 quả bom nguyên tử xuống đất Nhật, san

    bằng 2 thành phố Hiroshima ngày 6 tháng 8 năm 1945, và Nagasaki

    ngày 9 tháng 8 năm 1945, Hoàng Đế Nhật Bản phải tuyên bố đầu hàng

    vô điều kiện vào ngày 15 tháng 8 năm 1945. Nhờ vậy, Thế giới Đại

    chiến II, do phe Trục Đức-Ý-Nhật chủ xướng từ năm 1939 được coi là

    chấm dứt hoàn toàn trên cả 5 Châu: Âu, Phi, Á, Úc, và Mỹ.

    Hết Thế giới Đại chiến II, Chính phủ Hoa Kỳ hỗ trợ Cao trào các

    Tiểu nhược quốc Thuộc địa trên toàn Thế giới, đang bị các nước Thực

    dân Đế quốc da trắng đô hộ cai trị áp bức, vùng lên giành lại Độc lập Tự

    do cho Dân tộc mình, để xây dựng Thể chế Chính trị theo mô thức Dân

    chủ Tự do Tư bản.

    Khối Quốc tế Cộng sản do Liên Xô Viết Nga lãnh đạo (phe đối

    nghịch với khối Thế giới Tự do Tư bản) cũng nhân cơ hội này, dùng các

    tay sai người bản xứ lôi cuốn các nhóm công nông vô sản dùng bạo lực

    hăm dọa song hành với phương thức truyên truyền xảo quyệt buộc

    quảng đại quần chúng dân lành phải đi theo chúng dưới mỹ từ làm Cách

    mạng giải phóng quê hương, cũng như để bành trướng thế lực nhằm

    thực hiện sách lược Xích hoá toàn Thế giới theo chủ nghĩa Cộng sản

    Tam Vô chuyên chính. Tại Việt Nam có tay sai bán nước hại dân là Hồ

    Chí Minh và nhóm đồng chí Việt Minh của hắn.

    2.- HOÀN CẢNH DÂN TỘC VIỆT NAM VÀO NĂM 1945. A.- Trong nước, vào ngày Chủ Nhật 11 tháng 3 năm 1945 (hai

    ngày sau khi quân Nhật lật đổ Pháp nắm toàn quyền cai trị Đông

    Dương), Vua Bảo Đại được Vua Nhật giúp tái lập Quốc Gia Việt Nam

    Độc Lập (thống nhất cả 3 miền Bắc Trung Nam) trong Khối Đại Đông Á

    do Nhật chủ xướng. Ông Trần Trọng Kim đã được Vua Bảo Đại cử làm

    Thủ Tướng thành lập chính phủ điều hành Quốc gia, và ban bố chương

    trình hưng quốc vào ngày 8 tháng 5 năm 1945, trong đó quy định Quốc

    Kỳ là cờ Quẻ Ly, nền vàng giữa có biểu tượng Quẻ Ly mầu đỏ nằm

  • 5

    dọc theo bề dài nền cờ (2 vạch dài liền, nằm song song 2 bên 1 vạch

    đứt quãng chính giữa, trông như chữ CÔNG của Hán tự).

    Quốc Ca là bài “Việt Nam minh châu trời Đông” của nhạc sĩ

    Hùng Lân.

    Việt Nam minh châu trời Đông!

    Việt Nam nước thiêng Tiên Rồng!

    Non sông như gấm hoa uy linh một phương,

    Xây vinh quang ngất cao bên Thái Bình Dương.

    Từ ngàn xưa tài danh lừng lẫy khắp nơi,

    Tiếng anh hùng tạc ghi núi sông muôn đời.

    Máu ai còn vương cỏ hoa,

    Giục đem tấm thân xẻ với sơn hà.

    Giơ tay cương quyết, Ta ôn lời thề ước.

    Hy sinh tâm huyết, Ta báo đền ơn nước.

    Dầu thân này nát tan tành gói da ngựa cũng cam,

    Thề trọn niềm trung thành với sơn hà nước Nam.

    Khoảng hơn 5 tháng sau, vào ngày 17 tháng 8 năm 1945 (hai

    ngày sau khi Vua Nhật tuyên bố đầu hàng quân Đồng Minh do Hoa Kỳ

    lãnh đạo), các đoàn thể Công chức và quần chúng Việt Nam họp mít tinh

    trước Nhà Hát Lớn tại Hà nội, để ủng hộ ông Trần Trọng Kim tiếp tục

    làm Thủ Tướng. Nhưng, đã bị nhóm Việt Minh của Hồ Chí Minh trà

    trộn vào lèo lái biến thành cuộc xuống đường đòi Chính phủ Trần trọng

    Kim từ chức. Đồng thời, nhóm Hồ Chí Minh và Việt Minh cũng đưa

    người vào Huế làm áp lực buộc Vua Bảo Đại phải thoái vị, để nhường

    quyền cho nhóm Việt Minh thành lập các Ủy ban Nhân dân Cách mạng

    thay thế các tổ chức hành chánh của Chính phủ Trần trọng Kim.

  • 6

    B.- Nơi Hải ngoại, những nhà yêu nước thuộc các Phe nhóm và

    Đảng phái Cách mạng Nhân bản Việt Nam chống Thực dân Pháp, đang

    lưu vong bên Trung Hoa Lục địa (trong đó có cả nhóm Việt Minh và Hồ

    Chí Minh*), được Chính quyền Trung hoa Dân quốc của Tưởng Giới

    Thạch bảo trợ giúp hoàn cảnh cho ngồi lại với nhau, lập ra một tổ chức

    đoàn kết hợp nhất với danh hiệu VIỆT NAM CÁCH MẠNG ĐỒNG

    MINH HỘI (VNCMĐMH) do Cụ Nguyễn Hải Thần làm Chủ Tịch.

    [Ghi chú *: Hồ Chí Minh bị chính quyền tỉnh Quảng Tây bắt giam

    vào tháng 10 năm 1942 trong ngục tối ở Tĩnh Tây, vì hoạt động gián

    điệp cho Cộng sản Nga trên đất Trung Hoa Dân Quốc, đến tháng 5-1943

    bị giải sang Liễu Châu. Cụ Nguyễn Hải Thần và các nhà Cách mạng

    Nhân bản Việt Nam chống Pháp đang lưu vong bên Trung Hoa, thấy Hồ

    Chí Minh và phe Việt Minh của hắn ta cũng đang hoạt động đấu tranh

    chống Thực dân Pháp, nên đã vì tình nghiã Đồng bào không kỳ thị

    khuynh hướng chính trị Cộng sản mà Hồ Chí Minh đang theo, đồng lòng

    vận động bảo lãnh xin cho Hồ Chí Minh được tha ra khỏi ngục tù của

    Trung Hoa Dân Quốc, để cùng nhau hợp tác tiếp tục công cuộc chống

    Pháp và Nhật giành lại quyền Tự do Độc lập cho Dân tộc và quê hương

    Việt Nam. Hồ Chí Minh được tha vào ngày 10 tháng 9 năm 1943.]

    Vào ngày 28-8-1945, trong khi quân đội Mỹ đổ bộ lên chiếm đóng

    đất Nhật Bản thua trận đầu hàng, thì 5 Đoàn quân Trung Hoa Dân Quốc

    của ông Tưởng Giới Thạch đại diện Liên Hiệp Quốc do Tướng Lư Hán

    chỉ huy, cũng tiến vào Việt Nam bằng 5 ngả : Lạng Sơn, Lào kay, Lai

    Châu, Hà Giang, Móng Cáy, để thực hiện việc giải giới quân Phiệt Nhật

    tại phiá Bắc Vĩ Tuyến 16 của Bán đảo Đông Dương. Đi theo các Đạo

    quân Trung Hoa này, có các toán thuộc Việt Nam Cách Mạng Đồng

    Minh Hội về theo, để phối hợp cùng các Đoàn thể Việt Nam đấu tranh ở

    trong nước, thành lập Chính phủ Liên Hiệp gồm thành phần đại diện của

    mọi Phe nhóm Đảng phái, cũng như vận động quần chúng tham gia ứng

    cử và bầu cử đại diện vào Quốc Hội Lập Hiến cho Việt Nam. Mọi

    chuyện tiến hành êm đẹp, Hồ Chí Minh (thuộc phe Việt Minh Cộng sản

    chiếm đa số trong Quốc Hội) được bầu làm Chủ tịch Chính phủ Liên

    Hiệp, Cụ Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ tịch, và cựu Hoàng Bảo Đại

    (ông Vua thoái vị) được mời làm Cố vấn cho Hồ Chí Minh Chủ Tịch

    Chính phủ Liên Hiệp.

  • 7

    Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí minh, đại diện Chính phủ Liên

    Hiệp đọc bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng

    Hoà, trước đông đảo Đồng bào Việt Nam tham dự cuộc mít tinh tại vườn

    hoa Ba Đình* ở Hà Nội. [*Vườn hoa Ba đình thời Pháp thuộc gọi là

    vườn hoa Con Cóc, một bùng binh (rond point) ở giữa có những tượng

    con cóc bằng đồng đúc, ngồi quanh một chiếc hồ phun các vòi nước từ

    miệng ra, được xây dựng trước Phủ Toàn quyền Pháp cũ, đã được ông

    Trần Huy Lai Đốc lý Hà Nội thời Chính phủ Trần Trọng Kim đổi tên là

    Quảng trường Ba Đình từ ngày 3 tháng 8 năm 1945.]

    Ngày 28 tháng 1 năm 1946, quân đội Vương Quốc Anh (England)

    đại diện tổ chức Liên Hiệp Quốc, đổ bộ xuống Saigon để phụ trách việc

    giải giới quân Phiệt Nhật tại các vùng ở miền Nam Vĩ Tuyến 16 của Bán

    đảo Đông Dương. Quân Anh đã dung túng cho nhóm 200 quân Pháp

    tháp tùng để tái chiếm miền Nam Việt Nam, và ngày 4 tháng 2 năm

    1946 Pháp đã công khai tuyên bố thành lập Chính quyền Hành

    chánh cai trị dưới danh xưng Nam Kỳ Tự Trị. [Trong thời Pháp

    thuộc từ trước năm 1945, Nam phần Việt Nam là một nhượng địa cho

    Pháp gọi là Cochinchine có hệ thống Hành chánh cai trị riêng biệt không

    lệ thuộc Hoàng triều An-Nam, y như trường hợp nhượng địa Hồng Kông

    của Trung Hoa cho Vương Quốc Anh vậy.]

    Lợi dụng cơ hội này, Hồ Chí Minh Chủ tịch Chính phủ Liên Hiệp đã gian manh tổ chức TUẦN LỄ VÀNG, kêu gọi nhân dân Việt

    Nam đóng góp vàng để mua súng chống Pháp tái xâm lăng Việt Nam.

    Nhưng thực tế, Hồ Chí Minh đã dùng số vàng thu được để đút lót (hối

    lộ) mua chuộc Tướng Lư Hán và các Tướng, Tá trong Ban Tham mưu

    quân Tầu tại Hà Nội cũng như tại các thành phố có quân Tầu đang trấn

    đóng, làm ngơ cho phe Việt Minh và Hồ Chí Minh mở các cuộc hành

    quân Cảnh sát tiêu diệt thành viên các Đảng phái Quốc gia không thuận

    theo Cộng sản, để chiếm độc quyền cai trị dân tộc Việt theo Chế độ

    Cộng sản Quốc tế do Liên Xô Viết Nga lãnh đạo.

    Trong cùng lúc đó, Hồ Chí Minh và nhóm Việt Minh lén lút

    tiếp xúc rồi ký Hiệp ước Sơ bộ với Sainteny (đại diện Pháp) vào lúc

    4 giờ chiều ngày 6 tháng 3 năm 1946 tại căn nhà số 38 đường Lý

    Thái Tổ Hà Nội. Theo bản Hiệp ước, thì Chính phủ do Hồ Chí Minh

    lãnh đạo thoả thuận cho Pháp được tự do đổ quân chiếm đóng nhiều

  • 8

    Tỉnh trọng yếu tại miền Trung và miền Bắc Việt Nam (kể cả Thủ đô Hà

    Nội). Các đảng phái chính trị không Cộng sản trong Chính phủ Liên

    Hiệp tổ chức biểu tình chống đối, đã bị Hồ Chí Minh và phe Việt

    Minh gian manh xảo quyệt phao tin vu khống là các Đảng phái

    Quốc gia cấu kết với Pháp phản bội Tổ quốc, để công khai dùng Binh

    lực và Công An tổ chức các cuộc hành quân thẳng tay tiêu diệt các thành

    phần đối lập với Cộng sản, ngay tại Hà Nội và tại các Tỉnh khác mà

    quảng đại quần chúng sợ bị liên lụy không dám phản kháng.

    Cụ Nghuyễn Hải Thần đã được anh em Đồng Minh Hội đưa trốn

    thoát khỏi HàNội lên thị xã Lạng Sơn, và được anh em Phục Quốc Quân

    tại đây hộ tống trốn sang Tầu qua cửa Ải Nam Quan tại Đồng Đăng, bản

    thân người viết lúc đó là một thành viên trong đoàn hộ tống cụ Nguyễn

    Hải Thần sang Bình Tường bên đất Trung Hoa.

    Đêm 19 tháng 12 năm 1946, chiến tranh giữa quân Pháp và quân Việt Minh bùng nổ trên toàn lãnh thổ Việt Nam, vì tranh chấp

    thương thảo chia chác quyền cai trị đất nước giữa Việt Minh và Pháp

    không êm xuôi. Quân của Hồ Chí Minh thua phải bỏ Thủ đô Hà Nội và

    nhiểu Thành phố trọng yếu khác để rút vào rừng vùng Việt Bắc (gọi là

    Bưng). Trước khi rút vào bưng, Hồ Chí Minh ra lệnh bắt buộc nhân dân

    Việt Nam cả thành thị lẫn thôn quê, phải thực hiện chính sách “Tiêu thổ

    kháng chiến” (tức là phá bình địa tất cả các nhà gạch to lớn đồ sộ của tư

    nhân, cũng như cơ sở công cộng, Nhà Thờ, Đình, Chùa, đào đường đắp

    mô, phá cầu cống…) gọi là chiến lược chống Pháp tái xâm lăng. Nhưng

    mục đích thực sự sâu xa của việc làm này là, để thực hiện bước đầu tiên

    bần cùng vô sản hoá toàn dân, chuẩn bị xây dựng chế độ vô sản chuyên

    chính độc tài tàn bạo theo mô hình của Quốc tế Cộng sản do Liên Xô

    Viết Nga chỉ đạo.

    Thời gian tiếp theo, dân chúng phải sống dưới cảnh một cổ 2 tròng,

    y như thời gian từ 1940 đến 1945 bị Pháp và Nhật song hành cai trị.

    Công việc làm ăn mưu sinh hàng ngày của dân chúng rất khổ cực, và

    luôn luôn lo lắng cho phần an ninh cá nhân và gia đình, vì hệ thống

    Công an của cả 2 bên Pháp và Việt Minh hoạt động khủng bố ngày đêm

    rất là tàn bạo.

    Mãi đến giữa năm 1947, những thành phần Nhân Sĩ Quốc Gia

    sống sót sau chiến dịch Cộng sản tiêu diệt hồi đầu năm 1946, ngồi lại

  • 9

    với nhau tìm giải pháp giành lại Độc Lập cho đất nước bằng đường

    lối hoà bình, và đã quyết định mời Cựu Hoàng Bảo Đại đang lưu vong

    tại Hồng Kông, đứng ra thương thuyết với Chính phủ Pháp về việc tái

    thiết một Quốc Gia Việt Nam Độc lập Thống nhất trong Khối Liên Hiệp

    Pháp tại Đông Dương. Năm 1946 sau khi ký Hiệp ước Sơ bộ tại Hà Nội

    với Sainteny, Hồ Chí Minh cũng đã sang Pháp thương thuyết nhưng đã

    bị thất bại ê chề.

    Ngày 19 tháng 8 năm 1947 tại Hồng Kông, Cựu Hoàng Bảo Đại

    chấp nhận lời kêu gọi đứng ra tiếp xúc với Chính phủ Pháp, và ngày 5

    tháng 6 năm 1948, Hiệp định Hạ Long được ký kết giữa Thủ Tướng

    Chính phủ Trung Ương Nguyễn văn Xuân đại diện Việt Nam Thống

    Nhất cả 3 miền Bắc Trung Nam, và ông Bollaert đại diện Chính phủ

    Pháp (trước sự chứng kiến của Cựu Hoàng Bảo Đại) trên chiến hạm

    Duguay Trouin của Hải quân Pháp đậu tại Vịnh Hạ Long, Bắc phần

    Việt Nam. Hiệp định công nhận Quốc Gia Việt Nam Độc Lập Thống

    nhất cả 3 miền Bắc Trung Nam trong Khối Liên Hiệp Pháp, có Chính

    phủ độc lập và Quân đội riêng, cũng như có toàn quyền thiết lập bang

    giao với mọi nước trên toàn Thế giới ngoài nước Pháp, về Kinh tế và

    Khoa học Kỹ thuật thì ưu tiên giao dịch với Pháp và các nước thuộc

    Khối Liên Hiệp Pháp. (Khối Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương lúc đó

    gồm 3 nước Việt nam, Lào, Cao Miên, và tại Phi Châu gồm các nước

    Algéria, Tunisia, Maroc, và Sénégal.)

    Quốc Kỳ của Quốc Gia Việt Nam, được định lại là nền vàng

    với biểu trưng quẻ Càn mầu đỏ (3 vạch dài bằng nhau) nằm dọc

    chính giữa suốt bề dài của cờ, trong dân gian thường gọi nôm na là Cờ

    Vàng Ba Xọc Đỏ.

  • 10

    Quốc Ca* là bài “Tiếng gọi Công dân”, nguyên là bài “Sinh viên

    hành khúc” nhạc của Lưu Hữu Phước, lời do một ủy ban sinh viên Đại

    học Hà Nội đặt gồm 3 Đoạn và 1 Điệp khúc. Bài “Sinh viên hành khúc”

    được các sinh viên trình bầy hợp ca lần đầu tiên vào ngày 15 tháng 3

    năm 1942, trong buổi trình diễn văn nghệ do sinh viên tổ chức tại Viện

    Đại Học Hà Nội, để lấy tiền giúp các bệnh nhân nghèo tại các bệnh viện

    mà sinh viên Y Khoa Đại học Hà Nội đến thực tập. (*ghi chú: Quốc Ca

    chỉ dùng có Đoạn I của bài “Sinh viên hành khúc” mà thôi. Tên bài

    hát được đổi thành “Tiếng gọi Công dân”, và các từ “Sinh viên”

    trong bài ca đổi thành từ “Công dân”.) Đoạn I.

    Này sinh viên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi!

    Đồng lòng cùng đi, đi, mở đường khai lối.

    Vì non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên.

    Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn!

    Hồn thanh xuân như gương trong sáng,

    Đừng tiếc máu nóng, tài xin ráng!

    Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta,

    Dầu muôn trông gai vững lòng chi sá.

    Đường mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương,

    Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường.

    (Điệp khúc)

    Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng!

    Sinh viên ơi! Ta thề đem hết lòng!

    Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống!

    Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!

    Đoạn II.

    Này sinh viên ơi! Dấu xưa vẫn còn chưa xoá!

    Hùng cường trời Nam, ghi trên bảng vàng bia đá!

    Lùa quân Chiêm nát tan, thành công Nam tiến luôn,

    Bình bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn.

    Hồ Tây tranh phong oai son phấn,

    Lừng tiếng Sát Thát, Trần Quốc Tuấn.

    Mài kiếm cứu nước nhớ người núi Lam,

    Trừ Thanh, Quang Trung giết hằng bao đám.

  • 11

    Nòi giống có khí phách từ xưa chớ quên,

    Mong đến ngày vẻ vang ta thắp hương nguyền.

    (trở lại Điệp khúc)…

    Đoạn III.

    Này sinh viên ơi! Muốn đi đến ngày tươi sáng!

    Hành trình còn xa, chúng ta phải cùng nhau gắng!

    Ngày xưa ai biết đem tài cao cho núi sông,

    Ngày nay ta cũng đem lòng son cho giống dòng.

    Là sinh viên vun cây văn hoá,

    Từ trước sẵn có nhiều hoa lá.

    Đời mới kiến thiết đáp lòng những ai,

    Hằng mong ta ra vững cầm tay lái.

    Bền chí quyết cố gắng làm cho khắp nơi,

    Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời.

    (trở lại Điệp khúc)…

    Vào tháng 3 năm 1945, sau khi Nhật đảo chánh Pháp, một phong

    trào Thanh niên Tiền phong được tổ chức tại miền Nam Việt Nam,

    nhóm này lấy bài “Sinh viên hành khúc” dùng làm Đoàn Ca, nhưng đổi

    tên bài hát là “Tiếng gọi Thanh niên” và các từ “Sinh viên” được thay

    bằng từ “Thanh niên”.

    Sau khi Quốc Trưởng Bảo Đại bị ông Ngô Đình Diệm tổ chức

    trưng cầu dân ý để truất phế vào ngày 23 tháng 10 năm 1955, miền Nam

    Việt Nam thành lập nền Đệ Nhất Cộng Hoà, Quốc hội Lập Hiến năm

    1956 đã quyết định tiếp tục dùng bài “Tiếng gọi Công dân” làm Quốc

    Ca (nhưng lời ca được đổi lại như ghi dưới đây), và Quốc Kỳ cũng vẫn

    là Cờ Quẻ Càn của thời Quốc Gia Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của

    Quốc trưởng Bảo Đại, và hiện nay tập thể các Cộng Đồng Người Việt

    lưu vong tỵ nạn Cộng sản trên toàn Thế giới vẫn tôn trọng là Quốc Ca và

    Quốc Kỳ chính thống gốc Việt của mình:

    Này Công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng,

    Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống.

    Vì tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên,

    Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.

    Dầu cho thây phơi trên gươm giáo,

  • 12

    Thù nước lấy máu đào đem báo.

    Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy,

    Người Công dân luôn vững bền tâm trí.

    Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi,

    Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời.

    (Điệp khúc)

    Công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!

    Công dân ơi! Mau làm cho cõi bở!

    Thoát cơn tàn phá vẻ vang đời sống,

    Xứng danh ngàn năm dòng giống Lạc Hồng.

    Kể từ sau khi Đại diện Việt Nam và Đại diện Pháp ký Hiệp

    Ước Hạ Long ngày 5 tháng 6 năm 1948 trở đi, Quốc Gia Việt Nam

    do Quốc Trưởng Bảo Đại đứng đầu, được cả trăm nước trên toàn

    Thế giới lần lượt tuyên bố công nhận, và trao đổi cơ sở Ngoại Giao

    với hàng Đại Sứ. Trong khi đó Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà

    do Hồ Chí Minh và phe Việt Minh cướp đoạt ôm giữ từ ngày 2 tháng 9

    năm 1945 cho đến lúc đó tháng 6 năm 1948, vẫn không được một nước

    nào trên Thế giới nhìn nhận, kể cả Liên Xô Nga và các nước trong khối

    Cộng sản theo Nga.

    Quốc Trưởng Bảo Đại đã chính thức công khai gửi lời mời Hồ Chí

    Minh và nhóm Việt Minh hợp tác chấm dứt chiến tranh, để cùng toàn

    dân xây dựng kiến thiết đất nước mau hùng mạnh thịnh cường. Nhưng vì

    Hồ Chí Minh là đảng viên trung kiên của Quốc tế Cộng sản luôn luôn

    phải tuân hành lệnh của Quốc tế Cộng sản do Liên Xô Viết Nga chỉ đạo,

    nên đã từ chối và tiếp tục được Nga Xô và Trung Cộng yểm trợ đẩy

    mạnh chiến tranh du kích khủng bố dân lành không cho làm ăn phát

    triển kinh tế, đốt làng xóm, phá hoại cầu đường giao thông, và các cơ sở

    công cộng tiện ích xã hội do Chính phủ Quốc Gia Việt Nam xây dựng để

    phục vụ quảng đại quần chúng tại các thành thị và thôn quê.

    3.- ĐỂ KẾT LUẬN. Qua các sự kiện lược kể trên đây, chúng ta thấy rõ ràng nhóm Hồ

    Chí Minh và Việt Cộng không hề có công đấu tranh giành lại Độc lập

    Tự do, hay làm cách mạng để đem lại hạnh phúc ấm no cho Dân tộc và

    phồn vinh cho quê hương Việt Nam. Tất cả những gì Cộng sản khoe

  • 13

    khoang vơ vào bấy lâu nay, đều là xảo trá láo khoét, trâng tráo vô liêm sỉ

    của nhóm mafia vong nô tay sai của Quốc tế Cộng sản nay đã tan rã. Sự

    thật bao giờ cũng vẫn là sự thật, cây kim dù bọc kỹ lưỡng đến đâu, lâu

    ngày cũng sẽ bị rỉ sét làm lòi ra giữa ánh sáng mặt trời

    Thật đáng tiếc cho vận nước Việt Nam gặp thời bĩ cực, nếu không

    có bọn Quốc tế Cộng sản do Liên Xô Nga lãnh đạo thúc đẩy yểm trợ cho

    tên tay sai đại gian manh xảo quyệt Hồ Chí Minh và nhóm đồng chí Việt

    Minh Cộng sản của hắn thực hiện cái gọi là cách mạng muà Thu 1945,

    thì nước Việt Nam Độc lập thống nhất từ ngày 11-3-1945 dưới quyền

    lãnh đạo của cựu Hoàng Bảo Đại có thể đã theo thể chế chính trị Quân

    chủ Lập hiến như Anh quốc, Nhật bản, Thái Lan…, thì dân tộc Việt

    Nam đâu có phải tốn bao nhiêu xương máu của nhiều thế hệ một cách vô

    ích và đất nước bị bom đạn tàn phá suốt mấy chục năm chiến tranh.

    Suốt 35 năm qua đất nước không còn chiến tranh nữa mà quảng

    đại quần chúng nhân dân Việt Nam vẫn phải tiếp tục sống cuộc sống khổ

    cực như nô lệ thời Phong kiến Thực dân, các quyền tự do nhân bản của

    con người trong một nước độc lập không được tôn trọng bảo vệ dưới ách

    cai trị chuyên chính độc đảng tàn bạo vô nhân đạo của bè lũ độc tài Việt

    Cộng nay đã trở thành nhóm Phong kiến Thực dân đại tư bản Đỏ vong

    nô bán nước hại dân !!!

    Tất cả những điều trình bầy trên đây đều là những sự kiện thật đã

    xẩy ra, và là những dấu ấn được khắc ghi sâu đậm trong bộ não của

    người viết, theo thời gian chung sống hoà đồng cùng dân tộc đồng bào

    của mình ngay trên đất nước Việt Nam, chớ không hư cấu tưởng tượng

    cường điệu để tuyên truyền.

    Quý Vị độc giả có toàn quyền tự do phân định giả chơn, và tự

    quyết định nên đứng vào hàng ngũ những người đang tranh đấu hỗ trợ

    quảng đại quần chúng dân tộc Việt Nam ở trong nước, đẩy mạnh cuộc

    đấu tranh loại trừ bè lũ Việt Cộng gian xảo vô nhân đạo, để giành lại Tự

    do Dân chủ Nhân quyền và cuộc sống bình đẳng ấm no hạnh phúc cho

    toàn dân tộc Việt Nam, đã bị bọn bạo quyền này tước đoạt từ hơn nửa

    Thế kỷ nay, hay vì lợi ích riêng tư vị kỷ cá nhân cố tình giả ngộ ngu ngơ

    tiếp tục tin theo lời tuyên truyền xảo trá gian ngoan mời gọi nịnh vuốt

    ngọt ngào của bè lũ phản dân hại nước Cộng sản VN này, mà hoà hợp

    hoà giải quên đi quá khứ tàn bạo khát máu của chúng đối với dân tộc

  • 14

    suốt hơn 60 năm qua, và làm ăn buôn bán cộng tác tiếp tay cho chúng có

    thêm thời cơ kéo dài cường quyền tiếp tục bán nước hại dân lâu thêm

    nữa.

    Phụ chú, Xin mời Qúy Vị đọc thêm bài viết dưới đây của ông Phạm Cao

    Dương đăng trên Diễn Đàn 1000 Elites do Tiến sĩ Ngô văn Tuấn bên Âu

    Châu đảm trách đưa lên ngày 23-1-2015.

    Corona, Nam California, Hoa Kỳ. NGUYỄN-HUY HÙNG.

    Cựu đảng viên Phục Quốc hoạt động tại Thị xã Lạng Sơn trong thập

    niên 1940.

    Cựu Đại Tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Phụ tá Tởng cục trưởng

    Chiến tranh Chí Trị, kiêm Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến.

    Cựu Tù nhân Chính trị, 13 năm khổ sai trong các trại tập trung của đảng

    Việt Cộng và nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam sau ngày

    Quốc hận 30-4-1975.

    Subject: E. Lẽ Ra Ngay Từ Năm 1945 Dân Tộc Ta Đã Có Dân Chủ - Tự Do Rồi

    Date: Fri, 23 Jan 2015 20:01:38 +0100

    From: Phong Lan

    To: Phong Lan

    Elite 2015-01-167 _____________________________________________________________

    Elite là diễn đàn khoa học quan hệ quốc tế, thường xuyên tổ chức hội nghị quốc tế, chuyên nghiên cứu về tình

    trạng căng thẳng ở Biển Đông và vùng phụ cận, cũng như về kinh tế và xã hội trong nước, đặc biệt là nhân

    quyền ______________________________________________

    From: Hinh KHONG TRONG

    Date: 2015-01-23 19:56 GMT+01:00

    Subject: Lẽ Ra Ngay Từ Năm 1945 Dân Tộc Ta Đã Có Dân Chủ - Tự Do Rồi

    Phạm Cao Dương - Nhân dịp đầu năm Ất Mùi - 2015, một chút lịch sử gửi tuổi trẻ Việt Nam: Lẽ Ra Ngay Từ Năm 1945 Dân Tộc Ta Đã Có Dân Chủ - Tự Do Rồi Thứ Năm, ngày 22 tháng 1 năm 2015

    mailto:[email protected]:[email protected]

  • 15

    Hoàng Ðế Bảo Ðại

    Do sự phức tạp của thời thế và sự nóng nảy muốn giành độc lập nhất thời của chính người Việt, lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đã không những không biến chuyển như mọi người mong muốn mà còn đầy rẫy những ngộ nhận, từ đó oan khuất cần phải được giải toả và làm sáng tỏ. Đây là một việc làm

    vô cùng khó khăn mà một cá nhân khó có thể làm nổi. Tuy nhiên, tuy gọi là khó

    nhưng những người quan tâm và hiểu biết ít nhiều vẫn phải làm để sau này sẽ có

    người tiếp tục và điều chỉnh. Vì là một khoa học, sử học luôn luôn tiến bộ. Những

    gì gọi là đúng ngày hôm nay có thể sẽ cần phải được ít ra là điều chỉnh và bổ

    khuyết ngày mai, không có gì gọi là chân lý vĩnh cửu trong môn học này. Người

    học sử không thể chủ quan nhất định điều mình nói, viết ra hay được học mãi mãi

    là đúng, là chân lý bất di bất dịch. Trong bài này cũng như một số bài trước, người viết xin gửi tới các bạn đọc, đặc

    biệt là các nhà tranh đấu cho một nước Việt Nam tự do và dân chủ, một vài nhận

    định về những gì Hoàng Đế Bảo Đại và vị thủ tướng đầu tiên của nước Việt Nam

    độc lập là nhà giáo kiêm học giả Trần Trọng Kim cùng với các bộ trưởng của ông,

    đã làm, trong một thời gian ngắn ngủi hơn ba tháng của năm 1945, từ ngày 8 tháng

    5 đến ngày 6 tháng 8 năm 1945, để xây dựng một chính thể dân chủ lâu dài cho đất

    nước và ban hành các quyền tự do cho người dân từ cách nay ngót 70 năm bằng

    những đạo luật không phải là không tiến bộ. Đây là một việc làm mà 70 năm sau

    với ít nhất ba thế hệ đã qua đi một cách uổng phí, với hàng triệu sinh mạng đã bị hi

    sinh cùng với máu và nước mắt của người dân lành vô tội, người ta vẫn chưa muốn

    làm hay chưa làm được. Bốn bước tiến đã được Vua Bảo Đại thực hiện trong thời gian này gồm có:

    http://2.bp.blogspot.com/-VzjypclytgU/VMGU5erOtwI/AAAAAAAAj8U/-ccyiNSdzl8/s1600/5322862696_48b3221e0f_o.jpg

  • 16

    Thứ nhất: Ban hành dụ “Dân vi Quý” Thứ hai: Đích thân tham khảo ý kiến của các quan lại, các thân hào, nhân sĩ có uy

    tín để thành lập một chính phủ mới Thứ ba: Thành lập các hội đồng chuyên môn để mọi người có thể tham gia việc

    soạn thảo hiến pháp và các sinh hoạt quan trọng của quốc gia Thứ tư: Ban hành các đạo dụ liên quan đến các quyền tự do cơ bản của người dân Sau đây là những chi tiết liên hệ tới bốn bước tiến kể trên: Khẩu hiệu “Dân Vi Quý” của Hoàng Đế Bảo Đại Đây là khẩu hiệu của vị vua cuối cùng của Nhà Nguyễn mà ai đã từng học sử Việt

    Nam đều biết và cũng là bước tiến đầu tiên của vị hoàng đế này trên đường thực

    hiện chế độ dân chủ của ông. Khẩu hiệu này được trích dẫn từ sách Mạnh Tử, một

    trongTứ Thư của các Nhà Nho ta thời xưa[1], nguyên văn là “Dân vi quý, xã tắc

    thứ chi, quân vi khinh” có nghĩa là “Dân là quý, sau đó là xã tắc, vua là nhẹ”, được

    nhà vua chính thức đưa ra trong Dụ Số 1, mở đầu cho một giai đoạn mới trong

    triều đại của ông. Dụ này được ban hành ngày 17 tháng 3 dương lịch năm 1945,

    nguyên văn như sau: Dương Lịch ngày 17 tháng 3 năm 1945 Nước Nhật muốn hoàn toàn thực hiện chương trình sây nền thịnh vượng

    chung ở Đại-Đông-Á đã giải phóng cho nước Nam ta, và Trẫm tuyên bố Việt

    Nam độc lập rồi. Nay Trẫm có trách nhiệm đối với lịch sử và thần dân, nên tự cầm lấy quyền

    để bảo vệ lấy quyền lợi cho Tổ-quốc và giáng dụ rằng 1) Chế độ chính trị từ nay căn cứ vào khẩu hiệu “DÂN VI QUÍ’ 2) Trong chính giới sẽ chiêu tập các nhân tài đích đáng để chỉnh đốn lại

    nền tảng Quốc gia cho xứng đáng là một nước độc lập chân chính có thể hợp

    tác với Đại-Nhật-Bản trong công cuộc kiến thiết Đại-Đông-Á. 3) Trẫm sẽ tái định và tuyên bố các cơ quan chính trị để ban hành những

    phương pháp hợp với nguyện vọng của Quốc dân. Nhận định về đạo dụ này, Nguyễn Tường Phượng trong bài “Một Đạo Dụ,

    Một Chế Độ” đăng trên Tri Tân Tạp Chí số ra ngày 20 tháng 4 năm 1945, trên

    trang đầu, đã viết như sau:

  • 17

    “Ba điều ban bố trên đáng ghi vào lịch sử xứ này, thật là trên thuận lòng

    giời, dưới đẹp lòng dân, quốc dân rất trông mong ở sự thi hành triệt để khác nào

    như đói mong ăn và khát mong uống vậy. “Nếu một khi nhà nước dùng được người tài, đức vẹn hai ra gánh vác, đảm

    đương những trọng trách, lại thêm vào đấy cái chính sách thân dân, thể tất đến dân

    nguyện thời nền tảng quốc gia xứ này có thể phục hưng. “Được như vậy, đạo dụ ngày 17 tháng ba đáng ghi vào trang đầu lịch sử của

    nước Việt-Nam độc lập.” Còn Luật Sư Bùi Tường Chiểu, trong bài “Đạo Dụ Số 1 Của Đức Bảo Đại

    Hoàng Đế” đăng trên Thanh Nghị, số 107, “Số Đặc-San Chính Trị”, ra ngày 5

    tháng Năm 1945, cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng đặc biệt của đạo dụ này.

    Ngay những dòng mở đầu ông viết: “Đạo dụ trên đối với chế độ chính trị nước ta sau này có một tính cách quan

    trọng đặc biệt mà ta có thể nói rằng đạo dụ này đã nêu lên một cách tóm tắt những

    quả quyết rõ ràng những nguyên tắc kiến thiết chính thể nước Việt-Nam sau này.”

    rồi nhấn mạnh hơn đến ba chữ Dân Vi Quý, ông phân tích: “Nay đạo Dụ số 1 đã nêu lên khẩu hiệu Dân vi quí có nghĩa là đức Bảo-Đại

    đã hủy bỏ cái lý thuyết cũ mà đến nay hầu hết các nước văn minh đã cho là không

    hợp thời. Đã lấy dân làm trọng, đã lấy quyền lợi dân để trên tất cả thì vua tất chỉ là

    một cơ quan tối cao trong nước điều khiển những cơ quan chính trị khác để phụng

    vụ quốc gia, tìm những phương pháp hợp với nguyện vọng của cả quốc dân mà thi

    hành. Như thế là trong nền chính trị đức Bảo-Đại Hoàng-Đế đã định đặt quốc dân

    ta đi vào một con đường mới.”

    Cuối cùng đi xa hơn nữa, vị luật gia này còn nói tới hiến pháp. Ông viết: “Xong chúng ta có thể căn cứ vào điều thứ 3 của bản Dụ mà nói rằng đức

    Bảo-Đại sẽ tuyên bố các cơ quan chính trị mới mà trong câu cơ quan ấy sẽ có một

    cơ quan có quyền lập pháp. Muốn tổ chức một cách phân minh các cơ quan hành

    chính, lập pháp và tư pháp, tất nhiên phải có một đạo hiến-luật để ấn định rõ ràng

    những quyền hành của các cơ quan chính trị.”

    Đúng như vậy, Hoàng Đế Bảo Đại sau đó đã từng bước tiến hành những

    biện pháp mang tính cách dân chủ để xây dựng một thể chế mới với sự đóng góp

    của nhiều người thay vì của một thiểu số quan lại trong triều. Sau đây là những nét

    chính của những nỗ lực này.

  • 18

    Đặt nền tảng cho việc xây dựng chế độ mới và sửa soạn cho những công trình

    tái dựng đất nước lâu dài (sửa lại chính thể và toàn bộ guồng máy chính

    quyền) Đây là bước tiến thứ hai trong tiến trình xây dựng chế độ dân chủ bằng cách tạo

    dịp cho người dân mà đại diện là các nhân sĩ, trí thức và chuyên viên các ngành

    được tham gia việc nước, đồng thời thực hiện khẩu hiệu Dân Vi Quý của Hoàng

    Đế Bảo Đại. Bước đầu tiên là việc Vua Bảo Đại tham khảo ý kiến các quan lại, trí

    thức nhằm thành lập chính phủ đầu tiên cho nước Việt Nam độc lập thay thế cho

    Nội Các Phạm Quỳnh đã từ chức. Với bước tiến thứ hai, vào khoảng từ trung tuần

    tháng sáu đến thượng tuần tháng bảy, vừa nhằm chiêu dụ nhân tài, vừa nhằm tạo

    cơ hội cho người dân được góp phần vào việc đặt nền tảng và thiết lập các cơ chế

    căn bản cho mọi phạm vi sinh hoạt lâu dài của đất nước, bốn hội đồng đã được

    thành lập qua ba đạo dụ và một đạo sắc. Bốn hội đồng này gồm có: Hội Đồng Dự Thảo Hiến Pháp, do Phan Anh làm Thuyết Trình Viên gồm có các

    ông Phan Anh, Hoàng Đạo tức Nguyễn Tường Long, Vũ Đình Hoè, Huỳnh Thúc

    Kháng, Hồ Tá Khanh, Nguyễn Huy Lai, Đặng Thái Mai, Vương Quang Nhường,

    Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Văn Sâm, Nhượng Tống, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Văn

    Thinh và Nguyễn Trác (Dụ số 60 ngày 7 tháng 7 năm 1945. Dụ này được đăng

    trong Việt Nam Tân Báo số ra ngày 7 tháng 7 năm 1945). Hội Đồng Cải Cách cai Trị, Tư Pháp và Hành Chính, do Vũ Văn Hiền làm

    Thuyết Trình Viên, gồm có các ông Vũ Văn Hiền, Trần Văn Ân, Trần Văn

    Chương, Phạm Khắc Hoè, Lê Quang Hộ, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Khoát,

    Trần Văn Lý, Trần Đình Nam, Nguyễn Khắc Niêm, Đặng Như Nhơn, Dương Tấn

    Tài, Nguyễn Hữu Tảo, Trịnh Đình Thảo và Phan Kế Toại (Dụ số 70 ngày 30 tháng

    6 năm 1945. Dụ này được đăng trong Việt Nam Tân Báo số ra ngày 9 tháng 7 năm

    1945). Hội Đồng Cải Cách Giáo dục, do Hoàng Xuân Hãn làm Thuyết Trình Viên, gồm

    có Bà Hoàng Thị Nga, các ông Hoàng Xuân Hãn, Tạ Quang Bửu, Kha Vạng Cân,

    Nguyên Văn Chi, Hoàng Minh Giám, Nguyễn Thành Giung, Ngụy Như Kontum,

    Bùi Kỷ, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Quang Oánh, Ưng Quả, Nguyễn Mạnh Tường, Hồ

    Đắc Thắng, Nguyễn Văn Thích, Hoàng Đạo Thúy và Nguyễn Xiển (Dụ số 71 ngày

    30 tháng 6 năm 1945. Dụ này được đăng trong Việt Nam Tân Báo số ra ngày 10

    tháng 7 năm 1945). Hội Đồng Thanh Niên. Hội Đồng này gồm có Chủ Tịch: Hoàng Đạo Thúy

  • 19

    Phó Chủ Tịch: Trần Duy Hưng, Bắc Chi Bộ Phó Chủ Tịch: Tạ Quang Bửu, Nam Chi Bộ Cố Vấn Bắc Chi Bộ: Bà Nguyễn Thị Thục Viên, các ông Nguyễn Xiển, Phạm

    Thành Vinh, Vũ Văn Cẩn, Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Xuân

    Phương, Trần Văn Quý, Phan Huy Quát, Ngụy Như Kon-tum, Phạm Ngọc Khuê,

    Nguyễn Tường Bách. Cố Vấn Nam Chi Bộ: Bà Nguyễn Đình Chi, các ông Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn

    Văn Thủ, Tôn Quang Phiệt, Kha Vạng Cân, Nguyễn Tư Vinh, Huỳnh Văn Tiểng,

    Nguyễn Văn Thích, Nguyễn Kinh Chi và Thái Can (Sắc số 65 ngày 15 tháng 6

    năm 1945)[2] Khi đọc danh sách các hội viên được đề nghị tham gia các hội đồng kể trên để trình

    lên Hoàng Đế Bảo Đại phê duyệt, Phạm Khắc Hoè tỏ ý thắc mắc là có tên những

    người ông “chưa từng thấy bao giờ” nên đã hỏi Trần Trọng Kim và được Trần

    Trọng Kim cho biết là các danh sách này “đã được toàn thể Nội các và nhất là các

    ông bộ trưởng thuyết trình viên đồng ý cả rồi, tuy chưa hỏi được ý kiến của tất cả

    những người hữu quan, song chắc họ vui lòng nhận cả, vì lúc này ai mà chẳng sẵn

    sàng ra thờ vua giúp nước” và nói thêm “Vậy ông chịu khó xin Hoàng Đế phê

    chuẩn đi cho kịp thời, đừng nên hỏi đi hỏi lại nữa.” Kết quả, theo lời Phạm Khắc

    Hoè, là“chỉ mấy phút sau, bốn dự thảo của nội các trở thành ba đạo dụ và một đạo

    sắc chính thức.”[3] Những lời đối thoại này cho ta thấy tính cách hữu hiệu và làm

    việc chạy theo thời gian của Trần Trọng Kim và nội các của ông dù đó mới chỉ là

    ban hành được những đạo dụ hay đạo sắc để làm nền tảng pháp lý cho những bước

    kế tiếp trong tương lai. Nó cũng nói lên tính cách hữu hiệu của chế độ quân chủ

    chuyên chế và sự tin tưởng của Hoàng Đế Bảo Đại vào vị thủ tướng và nội các

    đương thời, vì bình thường những quyết định liên hệ đến thể chế và những cơ chế

    tương lai trong một quốc gia dân chủ bình thường không thể nào có thể thực hiện

    được trong vòng trên dưới hai tháng tính từ ngày Nội Các Trần Trọng Kim họp

    phiên họp đầu tiên, ngày 8 tháng 5, đến ngày 10 tháng 7, ngày đạo dụ cuối cùng

    trong bốn đạo sắc dụ này được đệ trình, rồi được vị nguyên thủ quốc gia phê chuẩn

    trong có“mấy phút sau”. Một thời gian kỷ lục. Cũng nên để ý là các vị bộ trưởng

    được Trần Trọng Kim nói đến ở đây là Bộ Trưởng Thanh Niên Phan Anh, Bộ

    Trưởng Tài Chánh Vũ Văn Hiền và Bộ trưởng Giáo Dục và Mỹ thuật Hoàng Xuân

    Hãn. Cả ba, ngoài bằng cấp chuyên môn, đều là những chuyên viên hàng đầu của

    Việt Nam thời đó. Họ là những người từ lâu đã tìm hiểu, nghiên cứu và viết

    những những bài tham khảo bàn về những lãnh vực riêng của mình và là những

    cây bút nòng cốt của tờ Thanh Nghị, một thứ “think tank” của chính phủ đương

    thời. Đây cũng là dịp để họ thi thố tài năng và thực thi hoài bão mà từ lâu họ đã

    từng thai nghén. Cũng nên nhớ là thành ngữ “thờ vua giúp nước” cho đến thời

  • 20

    điểm này vẫn chưa trở thành lạc hậu. Thế nhưng họ vẫn bị Phạm Khắc Hoè cản trở

    và mỉa mai. (Chú thích) “Tuần lễ của các Tự Do” Đây là sự ban hành một số những đạo dụ ấn định những nguyên tắc liên hệ đến các

    quyền tự do căn bản của người dân. Ba đạo dụ sau đây đã được báo Thanh

    Nghị số 117, ra ngày 21 tháng Bảy năm 1945[4] ghi nhận theo thứ tự thời gian

    gồm có: 1. Dụ số 73, ngày 26 tháng 5 năm Bảo Đại thứ 20 tức ngày 5 tháng 7 dương lịch

    năm 1945 về tự do lập nghiệp đoàn. 2. Dụ số 78, ngày 1 tháng 6 năm Bảo Đại thứ 20 tức ngày 9 tháng 7 năm 1945

    về tự do lập hội. 3. Dụ số 79, ngày 1 tháng 6 năm Bảo Đại thứ 20 tức ngày 9 tháng 7 năm 1945

    về tự do hội họp. Cả ba đạo dụ này đã được ban hành trong một thời gian ngắn là thượng tuần tháng

    bảy năm 1945 và Thanh Nghị đã gọi tuần lễ này là “Tuần của các Tự Do.” Về chi tiết, báo Thanh Nghị tóm tắt như sau: Tự do lập hội: Từ nay phàm người công dân Việt Nam ai nấy đều có quyền lập

    những hội có mục đích chính trị, văn hóa, tôn giáo hay xã hội, ngoài những hội có

    mục đích kiếm lợi. Chỉ cần mục đích của hội không trái với pháp luật, luân lý

    hoặc là có hại đến nền duy nhất và sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia. Nhưng cần

    phải báo trước với nhà chức trách ít nhất là 30 ngày trước khi hoạt động Muốn phân biệt các hội do đạo Dụ số 78 với các hội có mục đích kiếm lợi phải xét

    xem các hội viên có chia lãi cho nhau hay không? Nếu chia lãi thì tất phải theo

    những luật lệ hiện hành về các hội buôn. Nhiều người hội họp với nhau nhiều lần cũng lại không họp thành một hội vì

    không có điều lệ để hội viên theo. Cho nên trong tờ khai phải đính theo cả bản

    điều lệ của hội mình định sáng lập. Hội có thể tự giải tán (theo điều lệ hay theo ý muốn toàn thể hội viên) hay bị toà án

    giải tán, nếu mục đích trái với pháp luật, luân lý, hại tới quốc gia, nếu không khai

    báo cho đúng thể lệ (chưa kể những sự trừng phạt về tội hình những người có trách

    nhiệm). Tài sản của hội khi đó sẽ phân phát theo điều lệ của hội, theo quyết định

    của đại hội đồng của hội hay theo lệnh của toà.

  • 21

    Có hai thứ hội: hội thường và hội được Hội Đồng Nội Các công nhận là một hội có

    ích lợi chung. Hội thường có quyền tố tụng, thu nhập tiền đóng góp của hội viên,

    có quyền mua, quyền sở hữu và quản lý nhà hội quán, quản trị những bất động sản

    mà bộ Nội Vụ và Tài Chính cho phép mua. Còn hội được chính quyền công nhận

    là có ích lợi chung thì ngoài những quyền này còn có quyền được nhận những tặng

    dữ. Tự do hội họp: Người dân được quyền tự do hội họp nhưng Dụ số 72 phân biệt

    hai thứ hội họp là hội họp trong tư gia có tính cách gia đình hay lễ nghi và các hội

    họp ở những nơi công cộng. Đối với các hội họp trong gia đình hay lễ nghi hay những hội họp của các hội tư

    nhóm họp trong tư gia với số người tham dự không quá 30 người, người triệu tập

    không cần phải khai báo. Các cuộc hội họp khác cũng được tự do nhưng phải khai

    báo với nhà chức trách. Tất cả các cuộc hội họp ở các nơi công cộng như họp ở

    ngoài đượng phố, trong các công viên hay các thị xã đều phải xin phép trước. Giờ

    họp không được quá 12 giờ đêm trừ khi có phép riêng. Ngoài ra một nhân viên

    hành chánh hay tư pháp cũng có quyền tới dự. Tự do lập nghiệp đoàn: Việc lập nghiệp đoàn cũng được coi như quyền tự do của

    người dân với những quy luật được ấn định trong Dụ số 73, theo đó, để tránh

    không cho những hội kiếm lợi giả danh làm nghiệp đoàn với mục tiêu trốn thuế,

    các nghiệp đoàn bị cấm không được chia lời cho các đoàn viên và khi giải tán thì

    của cải không được đem chia cho các đoàn viên. Đồng thời để bảo vệ những người

    trong nghề, dụ này cấm không cho nghiệp đoàn cưỡng ép những người này phải

    gia nhập hay bắt đoàn viên phải ở lại trong nghiệp đoàn vĩnh viễn nhưng ngược lại

    cho phép nghiệp đoàn được từ chối không nhận một người làm đoàn viên theo điều

    lệ của mình. Mặt khác, nghiệp đoàn có tư cách pháp nhân trong việc bảo vệ các

    quyền lợi của mình, có quyền sở hữu các động sản hay bất động sản nếu xin phép,

    có quyền liên kết với nhau để thành lập các liên đoàn và về phía chính quyền,

    chính quyền có quyền cử nguời kiểm soát việc quản lý tài chánh của nghiệp đoàn

    hay liên đoàn. Cuối cùng vì nghiệp đoàn là một tổ chức có thể dùng để tranh đấu

    nên người sáng lập bắt buộc phải có quốc tịch Việt Nam và phải ở trong nghề ít

    nhất một năm. Vì ba đạo luật kể trên đã được ban hành trong thượng tuần tháng 7 năm 1945 nên

    tác giả của bài báo gợi ý gọi tuần lễ này là “Tuần Lễ Của Các Tự Do”. Mặt khác

    nếu người ta theo dõi những cuộc hội họp của người dân ở cả hai miền Trung và

    Bắc đã diễn ra liên tiếp từ ngày 10 tháng 3, sau ngày Nhật đảo chánh Pháp, đặc biệt

    là ở Huế và Hà Nội với hàng vạn người tham dự một cách tự do, thoải mái, thì sự

  • 22

    ban hành các đạo dụ này “đã làm hợp pháp một tình trạng riêng của các tỉnh ở Bắc

    Bộ Việt Nam vì từ sau ngày 9 tháng 3 các hội, các đoàn mọc lên như nấm, các

    cuộc hội họp công khai tự do vô cùng”.[5]

    Kết Luận Tất cả các công trình lớn lao kể trên đã được Hoàng Đế Bảo Đại, Thủ Tướng Trần

    Trọng Kim và các vị bộ trưởng trong chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc

    lập trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn và trong một thời gian kỷ lục chưa

    tới ba tháng ngắn ngủi kể từ ngày 8 tháng 5 khi chính phủ này được trình diện đến

    ngày 6 tháng 8 năm 1945 khi chính phủ này từ chức và được Hoàng Đế Bảo Đại

    cho phép, ngắn hơn nữa nếu tính đến ngày 9 tháng 7, ngày các Dụ số 78 về Tự Do

    Lập Hội và số 79 về Tự Do Hội Họp được nhà vua chấp nhận. Đây là một phần

    của một cuộc cải cách rộng lớn hơn bao trùm mọi phạm vi sinh hoạt đương thời,

    gọi theo Sử Gia Na Uy Stein Tonnesson là “từ trên xuống”, còn gọi theo Vũ Ngự

    Chiêu thì đó là một cuộc cách mạng cũng từ trên xuống: “cách mạng từ trên

    xuống”. Cả hai sử gia này đều có lý vì tính cách nhanh chóng ít ai có thể ngờ của

    nó. Câu hỏi được đặt ra ở đây là làm sao nó có thể xảy ra được trong một chế độ

    quân chủ chuyên chế đã từng tồn tại cả ngàn năm như vậy? Có ba sự kiện người ta

    có thể nghĩ tới để trả lời câu hỏi này. Đó là ý muốn của người cầm đầu hay đúng

    hơn vị nguyên thủ quốc gia, ước vọng và khả năng của những người lãnh nhiệm vụ

    thực hiện cuộc cải cách theo ý muốn của vị nguyên thủ quốc gia ấy và cuối cùng là

    sự đón nhận của dư luận đương thời. Cả ba sự kiện này Đế QuốcViệt Nam ở thời

    điểm đương thời đều có đủ. Từ Vua Bảo Đại đến Thủ Tướng Trần Trọng Kim và

    các vị bộ trưởng đều là những người được huấn luyện đầy đủ, có kiến thức và nhất

    là có thực tâm, tha thiết với nền độc lập và sự tiến bộ của nước nhà. Điều đáng tiếc

    là biến cố 19 tháng 8 đã xảy ra, Việt Minh cướp chính quyền và tất cả đều đã bị

    dẹp bỏ, điển hình là ngày 22 tháng 9 năm 1945, 20 ngày sau khi tuyên ngôn độc

    lập, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bãi bỏ các nghiệp đoàn trong toàn cõi Việt

    Nam[6] và Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Võ Nguyên Giáp ký NghịĐịnh ngày 14 tháng 9

    giải tán Hội Khai Trí Tiến Đức trong khi cùng ngày lại ký một nghị định khác “cấp

    năng lực pháp luật”[7] cho hội “Văn Hoá Cứu Quốc Việt Nam” (Việt Minh)[8].

    Cuối cùng thì sau 70 năm, cho đến tận ngày hôm nay khi bài này được viết, bất

    chấp mọi sự hy sinh, gian khổ, máu và nước mắt của hàng triệu đồng bào,Tự Do và

    Dân Chủ, Công Bằng và Bác Ái vẫn nguyên vẹn chỉ là niềm mơ ước hầu như còn

    lâu mới đạt được của người dân Việt. Phạm Cao Dương Viết để tưởng niệm các học giả Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, những người đã góp phần xây dựng nền giáo dục mới cho nước Việt Nam độc lập và một thế hệ trí thức mới đã đứng ra làm việc nước

  • 23

    [1]Đoàn Trung Còn, dịch giả, Tứ Thư, Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh

    Tử. Quyển Bảy, “Chương Sau: Tận Tâm”. Huế: Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, 2000,

    tr. 263.- Nguyễn Đức Lân (dịch và chú giải), Tứ Thư Tập Chú, “Mạnh Tử, ChươngXIV, Tân Tâm, Chương Cú Hạ”. Hà nội: Nhà

    Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin, 1999, tr. 1346.- Nguyễn Hiến Lê, Mạnh

    Tử. Saigon: Cảo Thơm, 1975; Nhà Xuất Bản Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ, Los

    Alamitos, CA, tr. 58. – Phan Bội Châu, Khổng Học Đăng Trọn Bộ. Houston: Xuân

    Thu tái bản tại Hoa Kỳ, không đề năm, tr. 463.-Bàn về khẩu hiệu này, Phạm Khắc

    Hoè, Ngự Tiền Tổng Lý Văn Phòng của Vua Bảo Đại và là người thân Việt Minh

    nằm trong Đại Nội bên cạnh nhà vua cho là do một người nào đó “mớm” cho nhà

    vua chứ Bảo Đại không thể có ý tưởng đó được. Nhận xét này nhiều phần không

    đúng nếu ta để ý tới căn bản giáo dục mà Bảo Đại nhận được xuyên qua Phụ Đạo

    Lê Nhữ Lâm từ hồi ông mới 6 tuổi rồi sau đó theo ông sang Pháp trong suốt thời

    gian ông ở Pháp để dạy ông về đạo làm vua theo truyền thống Việt Nam trong đó

    có Khổng Giáo, tiếp theo là những gì ông làm trong thời kỳ cải cách trước đó và

    những gì ông viết trong hồi ký sau này của ông. Xem thêm Phạm Khắc Hoè, Từ

    Triều Đình Huế Đến Chiến Khu Việt Bắc. Huế: Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, 1987,

    tr. 22-23. [2]Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế…, dẫn trên, tr. 41-43. [3] - như trên -, tr. 41. [4]Trong mục “Đời Sống Đông Dương qua bài báo nhan đề“Mấy Đạo Dụ về Tự

    Do”, tr. 23-25. [5]- như trên-, tr. 25 [6]Việt Nam Dân Quốc Công Báo, số 2, 6 Tháng Mười 1945, “Mục Lục Công

    Báo ngày 6 tháng 10 năm 1945” [7]Tư cách pháp nhân [8]Việt Nam Dân Quốc Công Báo, dẫn trên.

  • 24

    NHÌN LẠI MÌNH 62 NĂM VỀ TRƯỚC

    Tôi mãn Khoá Peleton I Vệ Binh, được thăng cấp Hạ sĩ Nhất vì đậu thủ khoa, trở về Đại đội đang đóng quân tại thị xả Quảng Yên làm việc được khoảng một tháng sau thì Thiếu Úy Boulanger Đại đội trưởng được thăng cấp Trung Úy, và nhận được lệnh ra Hongay thành lập Bộ Chỉ huy Liên đoàn Tự trị Vệ Binh Biên phòng miền Đông Bắc Kỳ (Groupe Autonome de la Garde Frontalière de l’Est Tonkinois) để chỉ huy một số Đại đội Vệ Binh đang trấn giữ các vị trí an ninh vòng bên Vịnh Hạ Long là Hongay, Cẩm Phả, Bãi Cháy, và Quảng Yên. Tôi là một trong những người được ông đem theo để thành lập Bộ Tham mưu Liên đoàn, đóng trong một biệt thự to rộng ba tầng lầu nguyên thuộc sở Quan Thuế Pháp ngày xưa trên một đỉnh núi tại thị xã Hongay nhìn ra Vịnh Hạ Long.

    Làm việc tại Bộ Tham mưu mới này, Tôi thường xuyên phải đi theo làm thông dịch viên cho Liên đoàn trưởng trong những dịp thanh tra các Đại đội bằng thuyền buồm có động cơ, ngoài công việc hàng ngày là thư ký đánh máy (nhưng có nhiều văn thư thuộc loại Mật và Tối Mật được giao cho các Trung sĩ người Pháp đánh máy chứ không phải Tôi), nhật tu các hồ sơ quân số các Đại đội, và phụ trách việc tổng kết tình hình quân sự hàng đêm do các Đại đội gửi về trình lên Liên đoàn trưởng y như Hạ sĩ quan thường vụ của Liên đoàn vậy. Ngoài ra Trung Úy Boulanger còn đưa cho Tôi những cuốn cẩm nang huấn luyện chỉ dẫn các trách vụ của Hạ sĩ quan thuộc Vệ Binh Pháp để tìm học. Nhờ vậy, Tôi mới thấy rằng quân đội cũng là một ngành nghề chuyên nghiệp quan trọng trong xã hội, làm Tôi thích thú, khác hẳn với mục đích ban đầu của Tôi là nhập ngũ để có cơ hội thoát khỏi thị xã Lạng Sơn miền thượng du, xuống Hà Nội phục vụ cho hết hạn kỳ tình nguyện 2 năm thì giải ngũ để trở về đời sống dân sự, tiếp tục học các ngành nghề khác có lợi ích hơn cho xã hội và cuộc sống sau này của bản thân.

    Tại Hongay, các văn phòng làm việc của Bộ Chỉ Huy Liên đoàn và nơi cư ngụ của Liên đoàn trưởng và các nhân viên thuộc Ban tham mưu và lính phòng vệ BCH Liên đoàn, cũng đều ở trong cùng một biệt thự, thành ra tất cả cấp chỉ huy và nhân viên thuộc quyền đều thấy mặt nhau thường xuyên suốt ngày đêm.

  • 25

    Hai tháng trôi qua, từ Hà Nội, một ông Đại Úy Vệ binh Pháp tên Fauvel mới ở Pháp sang, đến nhận trách nhiệm làm Liên đoàn trưởng thay thế Trung Úy Boulanger trở về làm Đại đội trưởng Đại đội 4 tại thị xã Quảng Yên như cũ. Tôi cảm thấy rất buồn vì phải ở lại không được đi theo Trung Úy Boulanger, một vị chỉ huy trẻ trung vui tính lúc nào cũng tỏ ra rất nhân hậu phóng khoáng dân chủ, nên toàn thể nhân viên người Pháp cũng như Việt rất quý mến.

    Chắc là đã được Trung Úy Boulanger giới thiệu sao đó, nên Đại Úy Fauvel cư xử với Tôi cũng rất lịch thiệp y như cư xử với các Hạ sĩ quan người Pháp vậy. Ông này tuổi cỡ xấp xỉ 40, già hơn Trung Úy Boulanger cả chục tuổi, tính tình rất điềm đạm, tốt bạn và rất cởi mở bình dân, coi Tôi như con. Những lúc rảnh sau bữa cơm tối, ông thường hỏi truyện Tôi về Đạo Cao Đài, vì ông đang nghiên cứu về Đạo này. Tôi thú nhận là có nghe nói tại tỉnh Tây Ninh gần thành phố Saigon, là nơi có Thánh Thất lớn của Đạo Cao Đài, và hình như Đạo này thờ cả Chúa Cứu Thế, Phật Thích Ca Mâu Ni, cùng nhiều Vị Thánh hiền, danh nhân khác như Victor Hugo, Trần Hưng Đạo, Khổng Phu Tử…, và đặc biệt dùng hình ảnh tượng chưng cho Đạo bằng hình MỘT CON MẮT nằm trong hình tam giác cân, chớ không phải là hình CHỮ VẠN của Đạo Phật, hay THẬP TỰ GIÁ của Thiên Chuá Giáo, và Tôi cũng không biết rõ về nguồn gốc và Tôn chỉ của Đạo này ra sao. Đại Úy Fauvel đã đưa cho Tôi mượn cuốn Le Caodaisme để tham khảo tìm hiểu.

    Tôi làm việc dưới quyền Đại Úy Fauvel chưa được trọn tháng, thì một buổi tối sau bữa cơm, ông gọi Tôi vào văn phòng đưa cho một tờ Sự vụ lệnh (Ordre de mission) mà ông đã ký và do ai đánh máy chứ không phải Tôi, để sáng sớm mai lên đường có xe đưa đi Hà Nội. Tôi ngạc nhiên hỏi để làm gì, thì ông ấy cười nói là: “Đại Tá Tư lệnh Lực lượng Vệ Binh Bắc Kỳ, gửi điện văn ra lệnh phải cho anh trình diện Bộ Tư lệnh tại trại Ngọc Hà ở Hà Nội gấp, để đưa anh đi Huế nhập học khoá đào tạo Sĩ quan Việt Nam, theo quyết định của Bộ Quốc Phòng Chính phủ Quốc gia Việt Nam.”

    Tôi sửng sốt và lo lắng nói: “Úi chà! học làm sĩ quan à, liệu Tôi đủ khả năng theo học không Đại Úy?” Ông ta cười thân mật vỗ vai Tôi nói: “Tôi mừng cho anh, tương lai của anh sáng sủa lắm, chịu khó cố gắng. Tôi tin rằng anh sẽ đạt được kết quả tốt.”

    Sáng hôm sau, xe đưa Tôi và một số nhân viên đi công tác tại Hà Nội rời Hongay, qua phà Bãi Cháy (Tôi nhớ hình như Pháp gọi là Watchay) để đi theo Quốc lộ 10 về qua Quảng Yên, Núi Đèo sang Hải Phòng đi Hà Nội. Nhưng khi xe tới thị xã Quảng Yên thì trời đã xế chiều, nên phải ghé BCH Đại đội 4, nay đã di chuyển vào làng Yên Trì, để nghỉ qua đêm. Tôi cảm thấy rất thích thú có được dịp gặp lại Trung Úy Boulanger trước khi lên đường. Thầy trò cũ gặp nhau, tay bắt

  • 26

    mặt mừng, và khi được Tôi trình bầy lý do sự ra đi của Tôi, thì thấy Trung Úy Boulanger không tỏ vẻ ngạc nhiên gì cả. Ông chậm rãi chúc Tôi đi đường bình an may mắn và kết luận: “Tôi đã biết trước về sự việc này sẽ xẩy đến với anh, nhưng không ngờ lại nhanh như vậy. Khi nào tới nơi, nhớ biên thư về đây, Tôi sẽ gửi tiếp những tài liệu cần thiết khác giúp anh học thêm ngoài những gì nhà trường sẽ chỉ dạy.” Lúc đó Tôi mới hiểu ra rằng chính Trung Úy Boulanger là ân nhân đã đề nghị cho Tôi theo học khoá đào tạo sĩ quan này từ khi ông đang còn làm Liên đoàn trưởng, và do đó ông đã tạo môi trường khích lệ Tôi phải tìm học những điều cần am hiểu kỹ càng về quân đội trước khi đi học Khoá sĩ quan, mà Tôi không hề biết.

    Sáng hôm sau, chúng tôi rời Quảng Yên tiếp tục cuộc hành trình, mãi đến chiều tối xe mới tới Hậu Cứ của BCH Liên đoàn Vệ binh Biên phòng miền Đông Bắc Kỳ, đóng trong khu gia binh gần vận động trường Ngọc Hà. Hôm đó là ngày Thứ Tư trong tuần, đến sáng Thứ Bẩy mới là ngày phải trình diện Bộ Tư lệnh Vệ binh Bắc Kỳ để làm thủ tục. Lợi dụng cơ hội được hai ngày nghỉ xả hơi, Tôi đi thăm khu Văn Miếu, Đền Quan Thánh bên cạnh Hồ Tây, Đền Ngọc Sơn giữa Hồ Hoàn Kiếm, và Chùa Một Cột, để cầu xin quý Vị Linh Thần Tiền Nhân của dòng giống Tiên Rồng phù hộ cho Tôi gặp nhiều may mắn trong tương lai sự nghiệp của mình.

    Sáng Thứ Bẩy, xe Hậu Cứ đưa Tôi (mang theo quân trang mới) đến trình diện tại Trại Ngọc Hà, nơi hồi đầu năm Tôi theo học Khoá Peleton-1. Đến nơi, thấy khoảng hơn chục anh em cũng trạc tuổi hoặc hơn Tôi vài bốn tuổi, đã có mặt ở đó từ trước. Chỉ có 5 người quen là Trung sĩ (TS) Nguyễn Khắc Thăng, TS Đàm Quang Yêu, TS Nguyễn Bá Liêm và TS Lê văn Nhật. Hồi Tôi là Binh Nhất học Peleton-1 để ra Hạ sĩ, thì các anh ấy đã là Hạ sĩ vừa tốt nghiệp Peleton-1 được lưu giữ ở lại học tiếp Peleton-2 để ra Trung sĩ. Còn những người kia, biết được tên là nhờ xem tờ Sụ Vụ Lệnh do anh Thăng làm trưởng toán cầm giữ, đó là Binh Nhì (B2) Bùi Đình Đạm, B2 Nguyễn văn Thản, Hạ sĩ (HS) Đàm Quang Quảng, HS Đàm Quang Đột, HS Phạm văn Khái, HS Đỗ văn Tâm, HS Phan Huy Chương, HS Phạm Ngần, và Nguyễn văn Thành mang cấp bậc Hạ sĩ Nhất như Tôi, nhưng lớn hơn chúng tôi cả chục tuổi lận (sau này đang học mới được hơn tháng thì anh ấy rời trường không học tiếp, không biết vì lý do gì). Như vậy, tổng cộng nhóm chúng tôi gồm cả thầy 14 người, chia ra: 4 Trung sĩ, 2 Hạ sĩ Nhất, 6 Hạ sĩ, và 2 Binh Nhì.

    Đến khoảng 9 giờ, tât cả chúng tôi được một Thượng sĩ Pháp đến mời lên xe để di chuyển qua cầu Long Biên sang phi trường Gia Lâm. Chúng tôi biết ngay là đi bằng máy bay Hàng không dân sự, vì nếu đi máy bay quân sự thì phải tới phi trường Bạch Mai ngay gần Ngã Tư Vọng. Vào tới phi trường Gia Lâm, mọi người được hướng dẫn vào làm thủ tục ghi danh, cân hành lý đi máy bay của hãng SITA, loại máy bay hai động cơ, cửa cho hành khách lên xuống được mở ra ở phía đầu

  • 27

    phi cơ, ngay phiá bên dưới phòng lái của phi hành đoàn. Đi chung phi cơ với chúng tôi là khoảng 20 hành khách dân sự.

    Làm xong thủ tục, chúng tôi được dẫn vào phòng đợi giờ lên phi cơ, thì Đại Tá Tư lệnh Vệ Binh Bắc Kỳ và Đại úy Fauvel Liên đoàn trưởng Vệ Binh Biên phòng miền Đông Bắc Kỳ bước vào thăm hỏi bắt tay chúng tôi. Họ chúc chúng tôi đi đường bình an, giữ gìn sức khoẻ cho tốt, và nhất là chăm chỉ học hành đạt kết quả tốt, để sau này về chỉ huy các đơn vị Vệ Binh.

    Sau khoảng hơn một giờ bay cao tít trên các tầng mây, máy bay bắt đầu hạ cao độ lượn vòng đáp xuống phi trường Phú Bài gần Huế. Đây là một phi trường dùng chung cho cả máy bay quân sự và dân sự, nằm dài trên dải đất giữa Biển Đông và dẫy Trường Sơn trùng điệp cao vút rậm rạp cây rừng. Trung úy An thuộc Bộ chỉ huy Lực lượng Việt Binh Đoàn (do Đại úy Nguyễn Ngọc Lễ chỉ huy, về sau các đơn vị Việt Binh Đoàn được cải biến thành các Tiều đoàn Bộ binh Quân đội Quốc gia Việt Nam, đến thời Đệ Nhất Cộng Hoà ông Lễ đã được Tổng Thống Ngô Đình Diệm cất nhắc thăng cho lên đến cấp Trung Tướng) đợi đón chúng tôi và hướng dẫn về Trường. Trung Úy An là sĩ quan phụ trách về hành chánh và tiếp vận của Lực lượng Việt Binh Đoàn.

    Xe chở chúng tôi rời phi trường chạy trên quốc lộ song hành với đường xe lửa xuyên Việt, được khoảng mấy chục cây số thì qua gần bên chân núi Ngự Bình (nơi có Trường huấn luyện Hạ sĩ quan cho Lực lượng Việt Binh Đoàn, có ga xe lửa An Cựu, có doanh trại của đơn vị Thiếp giáp Pháp), qua chợ An Cựu, qua thêm một quãng đồng trống thì bắt đầu vào Khu Pháp (quartier francais) bên tả ngạn sông Hương của Thị xã Huế. Xe đến đầu cầu Tràng Tiền rẽ phải theo con đường Lê Lợi đi về phía Đập Đá trên đường đi Phú Vang chớ không qua cầu, được chừng mấy trăm thước thì đến Trường.

    Trường là một khu biệt thự rộng, bề ngang 400 mét và sâu khoảng 200 mét, nằm bên phiá trái đường sát bên bờ sông Hương, đối diện với chợ Đông Ba phía bên kia sông. Suốt mặt tiền Trường sát ngay bên lề phố là một dẫy tường gạch cao 2 mét, ở khoảng giữa có một cổng rộng chừng 8 mét, phiá trên gắn bảng hiệu hình vòng cung sơn mầu xanh lá cây, trên kẻ chữ mầu vàng “ECOLE DES OFFICIERS VIETNAMIENS”. Hông bên trái Trường hướng Tây sát với các nhà dân, được ngăn bằng một hàng rào kẽm gai cao 2 mét đan ô vuông dầy 20 phân, từ lề đường phố thẳng tuốt xuống tận bờ sông Hương, và có một cổng phụ cho xe hơi tiếp vận ra vào Trường. Hông bên phải hướng Đông có một dẫy tường đá dầy 40 phân, cao hơn 1 mét để ngăn cách với khu biệt thự kế bên cũng rất rộng đang bỏ trống không người ở.

  • 28

    Sau này vào năm 1951, khi đào tạo xong 2 khoá đầu tiên: Khoá 1 (Bảo Đại, đến thời Đệ Nhất Cộng Hoà đổi tên là Phan Bội Châu) và Khoá 2 (Quang Trung) thì Trường di chuyển vào Đà Lạt bên cạnh hồ Saint Bennois, cải danh thành Trường Võ Vị Liên Quân Đà Lạt (EMIAD=École Militaire Inter Armes DaLat), đến thời Đệ Nhất Cộng Hoà Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho xây cất cơ sở Trường mới gần Hồ Than Thở và cải danh thành Truờng Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Tính từ cuối năm 1948 cho đến 30-4-1975 Trường đã đào tạo cả thẩy được 31 Khoá cung cấp nhiều ngàn Thiếu Úy Hiện dịch cho Quân đội.

    Sau khi Trường Sĩ Quan Việt Nam bên bờ sông Hương rời về Đà lạt, cơ sở cũ này được phá đi cùng với biệt thự bên cạnh để xây cất Trường Võ bị Địa Phương (École Militaire Régionale) thuộc Quân Khu 2, làm nơi đào tạo các Chuẩn Úy (Aspirant) đáp ứng cho nhu cầu bành trướng của Quân đội. Mấy năm sau, Trường Võ bị Địa phương giải tán, cơ sở này được giao cho Quân Vụ Thị Trấn Huế quản trị dùng làm Câu Lạc Bộ và nhà vãng lai cho Sĩ quan độc thân. Sau trận Việt Cộng tấn công chiếm Huế vào dịp Tết Mậu Thân 1968, Tôi được Tổng Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị dẫn đoàn Tổng thanh tra Quân đội hỗn hợp Việt-Mỹ ra quan sát duyệt xét tình trạng Quân Y Viện nằm trong thành Mang Cá kế bên Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh (lúc đó do Đại Tá Ngô Quang Trưởng làm Tư lệnh), nên đã có dịp cư trú trong Câu lạc bộ Sĩ quan này bên cạnh bờ sông Hương.

    Bước qua ngưỡng cổng chính của Trường vào trong, ngay bên phiá trái là một sân tập họp thật rộng, có dựng một cột cao treo cờ Quốc gia Việt Nam (nền vàng 3 sọc đỏ). Tiếp đến là một ngôi nhà ngói khoảng 400 mét vuông, dùng làm trụ sở của Ban Giám Đốc Trường gồm văn phòng Trung Tá Chaix Chỉ huy trưởng, văn phòng Đại Úy Joly Giám đốc Huấn luyện, các văn phòng của các sĩ quan Huấn luyện viên kiêm Trung đội trưởng Khoá sinh, và các Hạ sĩ quan phụ tá (moniteur).

    Phiá bên phải, sau cổng vào là Trạm kiểm soát gồm văn phòng Sĩ quan trực nhật, Phòng Y tế, và nơi ngủ của các lính canh phòng doanh trại. Kế đến là một dẫy nhà dài khoảng 50 mét, rộng 8 mét, dùng làm phòng ăn tập thể cho khoá sinh, đồng thời cũng dùng làm Giảng Đường lớn khi phải tập trung toàn Khoá. Ngay sau lưng Trạm kiểm soát và Nhà Ăn tập thể, có 3 dẫy nhà khác nhỏ và ngắn hơn, dùng làm phòng học và sinh hoạt riêng cho từng Trung đội Khoá sinh. Tất cả các dẫy nhà đều lợp mái bằng gốc dạ rất dầy, tường chung quanh là liếp nứa đan. Mỗi nhà chỉ có 2 cửa ra vào tại 2 đầu nhà, dọc hai bên nhà là 2 dẫy cửa sổ rộng có cánh liếp nâng lên hạ xuống được để thông thoáng gió và cho ánh sáng lọt vào nhà những khi không bật đèn.

    Bên trong Nhà Ăn, ngoài lối đi rộng hơn 1 mét ở chính giữa, suốt chiều dài của nhà có kê 2 dẫy bàn dài bề ngang 1 mét với những dẫy ghế dài không lưng tựa

  • 29

    dọc 2 bên để làm bàn ăn, và bàn viết khi cả khoá tập trung nghe các giảng viên ngoài đến thuyết trình. Đến giờ ăn, các Trung đội tập họp ngoài sân rồi lần lượt theo nhau vào kiếm chỗ ngồi ăn 4 người một mâm. Cơm và thức ăn đã được nhân viên nhà bếp (do nhà thầu tư nhân đảm trách) bầy sẵn từng mâm có lồng bàn đậy cản ruồi trên các bàn. Thức ăn hàng bữa gồm 3 món (xào, mặn, và canh), nấu theo khẩu vị người Trung, và thường là hơi ít không đủ no. Bữa điểm tâm nào cũng là xôi đậu (ăn xường xượng như có lẫn gạo tẻ) chấm muối mè có bỏ thêm chút đường cát trắng. Đa số anh em thường phải ăn quà thêm, bún bò, cháo huyết, bánh mì cặp thịt, mua của các gia đình tư nhân ở sát hàng rào bên hông Trường, hoặc bánh xèo “Mụ Béo” ngay bên kia đường trước cổng Trường, bán cho ăn chịu ghi sổ cuối tháng lãnh lương mới trả.

    Bên trong Nhà Học riêng của từng Trung đội Khoá sinh được trang trí y như trong một lớp dành cho các học trò Trung học vậy. Suốt bề dài căn nhà, kê 2 dẫy bàn học trò, loại bàn liền ghế cho 2 người ngồi chung. Nơi đầu phòng có một bảng đen lớn và một bàn viết và ghế dành riêng cho Huấn luyện viên đến sinh hoạt với khoá sinh.

    Phiá trong cùng của khu đất, song song dọc bờ sông Hương, có 2 dẫy nhà dài nối tiếp nhau dùng làm Nhà Ngủ cho Khoá sinh. Nhà xây tường gạch, mái lợp ngói, bề cao từ nền đến nóc khoảng 5 mét, không có lớp trần che cản sức nóng từ nóc nhà phả xuống, nên mùa Hè rất nóng và ngược lại mùa Đông rất lạnh. Dẫy phía bên trái được ngăn đôi, một nửa dùng làm kho và phòng ngủ của Thượng Sĩ Nhất Lục Sĩ Mẫn, Hạ sĩ quan phụ trách Thường Vụ (service général) của Trường, còn nửa kia dành làm phòng ngủ chung cho Khoá sinh thuộc Trung đội 1 (người từ miền Nam ra). Dẫy bên phải, nửa bên trái dành cho Khoá sinh thuộc Trung đội 2 (người miền Trung), và nửa bên phải dành cho Khoá sinh thuộc Trung đội 3 là chúng tôi từ miền Bắc vào.

    Dọc theo chiều dài Nhà Ngủ, kê 2 dẫy giường cá nhân bằng gỗ, có cọc khung gỗ để giăng mùng chống muỗi riêng cho mỗi giường. Giường được kê từng cặp sát nhau, một đầu sát tường. Giữa mỗi cặp giường để chừa một khoảng cách 1 mét để hai người ngồi đối diện không dụng đầu gối chân của nhau. Mỗi giường có một chiếu bằng cói, và một nệm nằm nhồi cỏ khô và bông gòn, có thể gập đôi lại được. Ban ngày, mùng phải tháo ra khỏi khung gập lại xếp ngăn nắp cùng với gối và mền, để phiá đầu giường sát tường, rồi gập đôi nệm đè lên sao cho thật vuông vắn đẹp mắt. Vali và túi đựng quần áo và tư trang riêng phải để gọn gàng dưới gầm giường phía sát tường. Quần áo cá nhân cần giặt ủi, phải tập trung đưa nhà thầu nhận giao hàng ngày, hoặc tự mang ra các tiểm giặt ủi tư nhân ngay 2 bên đường phố cạnh Trường.

  • 30

    Tại một góc tường bên gần cửa ra vào nơi đầu nhà, có một giá gỗ để gác súng của Trung đội Khoá sinh. Mỗi Khoá sinh được cấp một khầu súng trường Garant riêng, để gìn giữ lau chùi và xử dụng trong việc tập luyện thao tác cơ bản, duyệt binh, tác chiến, và tập bắn. Loại súng này hơi dài và nặng đối với những người có hình vóc nhỏ thó, nhưng bắn lại đầm không giật hậu mạnh như các loại Mousqueton và Mas 36, nên trong các kỳ thi bắn dễ đạt được điểm trúng bia rất cao.

    Từ đầu Nhà Ngủ của chúng tôi ra đến bờ sông Hương có một con đường đất rộng khoảng 5 mét. Cuối đường là một sàn gỗ dài rộng khoảng 25 mét vuông, cao hơn mặt nước sông chừng 30 phân, dùng làm Cầu Bến Tắm Giặt cho khoá sinh. Bên phải con đường xuống Cầu Bến Tắm là Nhà Bếp. Đặc biệt nước sông Hương trong vắt có thể nhìn suốt tận đáy, ban đêm nhiều thuyển nhỏ đốt đuốc soi sáng nơi đầu thuyền, bơi dọc ven sông để người ngồi trên dùng cây chĩa đôi bằng sắt đâm xuống nước để bắt cá.

    Chúng tôi đến Trường đúng vào trưa ngày Thứ Bẩy nghỉ, tất cả Khoá sinh nhập Trường trước chúng tôi đều đi dạo phố hoặc về thăm gia đình, nên Trường vắng tanh. Tuy nhiên nhà thầu đã được thông báo trước, nên đã chuẩn bị sẵn sàng cơm bữa cho chúng tôi dùng không phải ra phố.

    Vừa ổn định chỗ nằm xong, anh Tôn Thất Tương (khoá sinh người miền Trung) đang thi hành trách vụ Sĩ quan Trực Nhật ghé vào thăm làm quen với chúng tôi. Anh Tương tự giới thiệu mình là người thuộc Hoàng Tộc, nên có nhà ở ngay bên cạnh Viện Bảo Tàng của Triều đình nhà Nguyễn trong Thành Nội. Anh rủ chúng tôi muốn đi xem, sáng sớm hôm sau là Chủ Nhật, anh ấy sẽ đến đón và dẫn đi coi. Các anh Liêm, Yêu, Nhật, Thản, Đột, Tâm và Tôi nhận lời nhờ anh Tương hướng dẫn.

    Sáng hôm sau, anh Tương đến dẫn chúng tôi ra khỏi Trường, qua cầu Tràng Tiền, đổ xuống khoảng giữa đường Trần Hưng Đạo, rẽ trái đến Cửa Thượng Tứ để vào Thành Nội. Trước nhất, anh Tương dẫn chúng tôi vào giới thiệu với bà xã, sau đó đi thăm Viện Bảo Tàng (nơi lưu giữ chiếc ngai vàng để Vua ngồi, áo Cẩm Bào, Vương miện, và nhiều đồ quý khác bằng ngọc thạch hoặc vàng). Tiếp đó là Lầu Kiến Chung gần cửa Hoà Bình (nơi Vua ngồi ký các Chiếu Chỉ, Sắc lệnh), rồi đến Điện Thái Hoà (nơi họp Đại Triều), sân trưng bầy Cửu Đỉnh (chín chiếc lư hương thật to cao hơn đầu người đúc bằng đồng), các Khẩu Thần Công, Kỳ Đài, Ngọ Môn Quan (chỉ mở để đón tiếp Sứ Thần các nước tới yết kiến Vua), Hồ Tĩnh Tâm gần thành Măng Cá.

    Thăm Thành Nội xong, chúng tôi trở ra phiá Cửa Thượng Tứ, rẽ phải đi dọc theo con đường Nguyễn Hoàng, đến khoảng trước Ngọ Môn Quan băng qua

  • 31

    đường để xem Phú Văn Lâu sát bên bờ sông Hương và Bến Trương Bạc. Tít xa, tận cùng đường Nguyễn Hoàng là cầu Bạch Hổ bằng sắt bắc ngang sông Hương, và Tháp Chùa Thiên Mụ.

    Quay trở lại đầu cầu Tràng Tiên đi hết con đường Trần Hưng Đạo là Chợ Đông Ba, và Cầu Gia Hội (bên kia cầu có một nhà hàng cơm Tầu rất được khách sành ăn hâm mộ). Phiá sau và bên hông Chợ Đông Ba là bờ sông dầy đặc thuyền làm nhà ở, nhiều chiếc trong số này cho thuê để khách làng chơi ngày đêm xuống ăn nhậu mua vui nghe các ca nhạc sĩ cổ nhạc Hò Huế… Nhìn qua bên kia bờ sông, thấy 2 dẫy Nhà Ngủ của Khoá sinh chúng tôi và Nhà Bếp nằm dài tiếp nối nhau suốt bề ngang khu đất Trường, và chiếc Cầu Bến Tắm. Nhìn xuôi sang phiá trái thêm khoảng nữa là Đập Đá, và ngoài xa xa thấy Cồn Hến nổi lên bập bềnh cản dòng chẩy của sông Hương.

    Sáng Thứ Hai, tất cả mọi người tập họp ngồi chặt Nhà Ăn để làm thủ tục Khai giảng Khoá học. Lúc đó được coi là giây phút đầu tiên anh em toàn khoá thấy mặt nhau đầy đủ. Anh em Trung đội 3 chúng tôi có sĩ số ít nhất (chỉ có 14 người so với 2 Trung đội kia là 21 hoặc 22), số tuổi trung bình cũng trẻ nhất, và cấp bậc cũng nhỏ hơn các anh trong các Trung đội 1 và 2 toàn là Trung sĩ Nhất, Thượng sĩ và Thượng sĩ Nhất thâm niên. Có điều đặc biệt đáng chú ý là, quân phục của anh em không đồng nhất, vì được tập trung từ nhiều loại đơn vị có nguồn gốc khác nhau trên toàn quốc.

    Trước khi buổi lễ chính thức bắt đầu, Đại Úy Joly Giám đốc Huấn luyện giới thiệu các Sĩ quan Huấn luyện viên kiêm Trung đội trưởng Khoá sinh, và các Hạ sĩ quan phụ tá (moniteur) của từng Trung đội. Trung Úy Scuanec và HSQ moniteur (không nhớ tên) phụ trách Trung đôi 1 gồm toàn người từ miền Nam ra. Trung Úy Peledieu và Adjudant Chef DO phụ trách Trung đội 2 gồm anh em thuộc miền Trung. Và người phụ trách Trung đội 3 chúng tôi là Trung Úy Besson và Sergent Kervenic (cả Trung Úy Besson và Trung sĩ Kervenic đều còn rất trẻ, tính tình rất hiền lành và tốt bạn, không như Thượng sĩ Nhất DO lúc nào cũng tỏ ra quan trọng và nghiêm khắc).

    Buổi lễ khai mạc khoá rất đơn giản, không có khách bên ngoài tham dự. Chỉ có một mình Trung Tá Chaix Chỉ huy trưởng vào ra mắt chào mừng chúng tôi, và nhắn nhủ mấy điểm chính yếu sau:

    1.- Vì phần lớn đã là Hạ Sĩ Quan thâm niên có nhiều kinh nghiệm trong các hoạt động quân đội, nên một phần Chương trình của Khoá học được cắt bỏ bớt, do đó thời gian Khoá học sẽ ngắn hơn dự liệu khoảng 6 tháng.

  • 32

    2.- Kể từ ngày nhập Trường, ai chưa là Hạ sĩ Quan sẽ được thăng cấp Trung sĩ và lãnh lương hàng tháng theo cấp bậc này, những người khác có cấp bậc cao hơn tiếp tục lãnh lương theo cấp bậc hiện tại của mình.

    3.- Mọi người phải cố gắng học hành để đạt kết quả tốt, nhằm cung ứng nhu cầu Sĩ qua