Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
ĐỊA LÝ HÀNH CHÍNH
Tỉnh Vĩnh Phúc tính đến 31/12/ 2008 có tổng diện tích tự nhiên là 1.231,76 ha, dân số
1.014.488 người, gồm 9 đơn vị hành chính là: Thành phố Vĩnh Yên (tỉnh lỵ), thị xã Phúc Yên và
các huyện: Lập Thạch, Tam Dương, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Tam Đảo, Bình Xuyên, Sông Lô.
Toàn tỉnh có 137 xã, phường, thị trấn.
Thời Hùng Vương với tên nước Văn Lang, Vĩnh Phúc nằm trong địa phận bộ Văn Lang,
trên hợp lưu của ba con sông: Sông Thao, Sông Đà, Sông Lô...
Năm 257- 110 TCN, địa bàn Vĩnh Phúc nằm trong nước Âu Lạc của Thục An Dương
Vương. Tên gọi vùng đất này theo thổ âm có thể là " M' rinh hay M' Linh, sau này được phiên âm
thành Mê Linh hay Mi Linh".
Từ năm 111 TCN, nhà Hán xâm chiếm nước ta, chia làm ba quận: Giao Chỉ, Cửu Chân,
Nhật Nam. Khi đó, dưới quận là huyện, và Vĩnh Phúc bấy giờ (cho tới năm 243 SCN ) nằm trong
huyện Mê Linh.
Đến thế kỷ thứ III, Vĩnh Phúc bị xé lẻ và nằm trong 2 huyện Gia Ninh và Mê Linh (thuộc
quận Tân Xương). Tới thế kỷ VI (thời nhà Tuỳ),Vĩnh Phúc nằm trong địa phận 2 huyện Gia Ninh
và Tân Xương...
Từ đó đến thế kỷ XIII,Vĩnh Phúc trải qua nhiều biến động. Từ thế kỷ XIII - XIV, nhà Trần
vẫn chia nước thành các lộ; đến nhà Hồ lại đổi lộ thành trấn. Dưới lộ (hay trấn) là các phủ, dưới
châu là huyện, dưới huyện là các xã. Lúc này, các huyện thuộc tỉnh Vĩnh Phúc (thời Trần Mạt ),
nằm trong ba trấn và lộ sau:
+ Lộ Đông Đô: Châu Tam Đới (Vĩnh Tường) có huyện Yên Lạc, huyện Yên Lãng và
huyện Lập Thạch.
+ Lộ Bắc Giang: Châu Bắc Giang có huyện Tân Phúc, châu Vũ Ninh có huyện Đông
Ngàn (gồm huyện Kim Anh, huyện Từ Sơn).
+ Trấn Tuyên Quang có huyện Dương.
Cho tới cuối đời thời Hậu Lê đầu nhà Nguyễn (đầu thế kỉ XIX ) vùng đất Vĩnh Phúc lại
nằm trong các trấn sau:
+ Trấn Kinh Bắc: Phủ Từ Sơn có huyện Đông Ngàn, phủ Bắc Hà có huyện Tân Phúc,
huyện Kim Hoa.
+ Trấn Sơn Tây: Phủ Tam Đới gồm các huyện Bạc Hạc, Lập Thạch, Yên Lạc, Yên Lãng;
Phủ Đoan Hùng có huyện Dương.
+ Trấn Thái Nguyên: Phủ Phú Bình có huyện Bình Tuyền.
Dưới triều Nguyễn (thế kỉ XIX), vua Minh Mệnh đổi trấn thành tỉnh, phạm vi Vĩnh Phúc lại
nằm vào 3 tỉnh Sơn Tây, Bắc Ninh và Thái Nguyên.
Đến cuối thế kỉ XIX, nhằm thực hiện chính sách chia để trị, thực dân Pháp tiếp tục chia
cắt và xáo lộn các huyện, các xã ở Bắc Kỳ để thành lập các trung tâm cai trị mới.Theo đó, các
tỉnh Sơn Tây, Bắc Ninh, Thái Nguyên bị cắt xén bớt đi, các tỉnh Vĩnh Yên, Phúc Yên lần lượt ra
đời.
- Tỉnh Vĩnh Yên được thành lập ngày 29/12/1890. Nhưng do hoàn cảnh lịch sử có những
biến động nên mãi tới năm 1899, toàn quyền Pháp ở Đông Dương mới ban hành quyết định
chính thức thành lập tỉnh Vĩnh Yên. Tuy vậy, qua nhiều lần xáo trộn, cuối cùng ngày 6/ 10/ 1901,
tỉnh Vĩnh Yên mới ổn định với một phủ là Vĩnh Tường và 4 huyện Yên Lạc, Lập Thạch, Tam
Dương, Bình Xuyên.
- Ngày 6/10/1901, Pháp thành lập tỉnh Phù Lỗ gồm phủ Đa Phúc, huyện Kim Anh và một
phần huyện Đông Khê (cắt từ tỉnh Bắc Ninh ra), hợp với huyện Yên Lãng (tách từ tỉnh Vĩnh Yên
ra), tỉnh lỵ đặt ở làng Phù Lỗ huyện Kim Anh.
Ngày 10/12/1903, tỉnh Phù Lỗ đổi tên thành tỉnh Phúc Yên.
Ngày 7/3/1913, tỉnh Phúc Yên đổi làm đại lý Phúc Yên, lệ thuộc tỉnh Vĩnh Yên.
Ngày 31/3/1923, Thống sứ Bắc Kỳ lại ra Nghị định lập lại tỉnh Phúc Yên, gồm hai phủ
(Đa Phúc, Yên Lãng) và hai huyện (Kim Anh - Đông Anh) - Đây là tỉnh nhỏ nhất xứ Bắc Kỳ lúc
bấy giờ.
*
* *
Tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập ngày 12/2/1950 theo Nghị định số 03/TTg của Thủ tướng
Chính phủ, trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên. Việc thành lập tỉnh Vĩnh Phúc là
nhằm tăng cường sự chỉ đạo phong trào đấu tranh hậu địch, tăng cường lực lượng ta về mọi
mặt, đưa cuộc kháng chiến chống Pháp sang giai đoạn mới…
Tuy vậy, về địa giới, tỉnh Vĩnh Phúc cũng không thật sự ổn định mà nhiều lần có sự tách
ra nhập vào.
Năm 1955 huyện Phổ Yên được tách khỏi Thái Nguyên và nhập vào Vĩnh Phúc, nhưng
đến đầu năm 1957, Phổ Yên lại được trả về Thái Nguyên.
Đầu năm 1961, huyện Đông Anh xã Kim Chung (huyện Yên Lãng), xóm Núi, xóm
Nguyễn, xóm Tiên thuộc thôn Đoài xã Phù Lỗ (huyện Kim Anh) được tách khỏi tỉnh Vĩnh Phúc,
chuyển giao về thủ đô Hà Nội.
- Ngày 26/1/1968, theo nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, hợp nhất hai tỉnh
Vĩnh Phúc và Phú Thọ thành một tỉnh, lấy tên là Vĩnh Phú.
- Từ tháng 1/1997, tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập theo Nghị quyết của Quốc hội khoá IX
kỳ họp thứ 10. Tỉnh có 9 đơn vị hành chính trong đó có thành phố Vĩnh Yên, thị xã
Phúc Yên và 7 huyện là: Lập Thạch, Tam Dương, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Bình
Xuyên, Tam Đảo, Mê Linh.
- Ngày 20/5/2008, Quốc hội khoá XII ban hành Nghị quyết số 15/2008/QH 12 v/v điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh có liên quan. Toàn bộ huyện Mê Linh chính thức sát nhập về thành phố Hà Nội.
- Ngày 23/12/2008, Chính phủ ra Nghị định số 09/NĐ CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Lập Thạch để thành lập huyện Sông Lô. Huyện Lập Thạch được tách ra thành hai huyện Lập Thạch và Sông Lô.
THÀNH PHỐ VĨNH YÊN
Được thành lập ngày 29/12/1899 (cùng với việc thành lập tỉnh Vĩnh Yên) theo Nghị định
thành lập tỉnh Vĩnh Yên của toàn quyền Đông Dương.
Trước khi trở thành thị xã, vùng đất này là xã Tích Sơn thuộc huyện Tam Dương, gồm
có 5 làng: Sơn Cao (tên nôm là Sậu), Sơn Tuyền (Khâu), Đắc Thư (Hạ), Đồng Thái (Tiếc ) và
làng Đậu.
Khi thực hiện Nghị định thành lập tỉnh lỵ Vĩnh Yên, chính quyền đô hộ Pháp đã dồn dân
đi nơi khác, chiếm toàn bộ dải đồi cao chạy dài từ Cống Tỉnh ra đến bờ Đầm Vạc, lấy đất xây
dinh Chánh sứ, Phó sứ và các công sở có người Pháp đứng đầu như: Sở Cẩm (đồi cao trước
rừng lim),Toà án, Đề lao, Kho bạc (địa điểm đài truyền hình tỉnh bây giờ)… Từ năm 1899 đến
năm 1904, ranh giới thị xã Vĩnh Yên (không tính khu người Pháp nắm giữ) là một tứ giác được
quy định như sau:
- Phía Bắc giáp theo tuyến đường sắt.
- Phía Đông bởi một đường thẳng hướng Bắc Nam tiếp tuyến với quai đê.
- Phía Tây bởi một đường thẳng chạy qua tâm giếng Tích Sơn (là giếng Mắt Rồng hiện
nay).
- Phía Nam bởi một đường thẳng (Đông sang Tây ) cắt ngang đường nói trên, cách
giếng Tích Sơn 820m. Tổng diện tích chưa đến 2km2.
Sau cách mạng tháng 8 - 1945, thị xã Vĩnh Yên là một cụm xã đặt dưới sự lãnh đạo của
thành uỷ Vĩnh Yên, bao gồm các xã Vĩnh Yên, Tích Sơn, Hợp Thịnh, Đông Đạo, Hạnh Phúc
( Khai Quang ) ngày nay.
Sau ngày 15/11/1955, hai xã Vĩnh Yên và Tích Sơn được chuyển giao cho huyện Tam
Dương quản lý.
Từ tháng 8/1949 đến tháng 7/1954, thị xã Vĩnh Yên có 4 phố chính là: Ngô Quyền, Lê
Văn Duyệt (sau gọi là Tân Lập), Trần Quốc Tuấn (nay nằm trong khu Chiền), Vĩnh Thịnh và 4
xóm là Vĩnh Tân, Tân Phúc, Đình, Dinh. Riêng xã Tích Sơn vẫn thuộc huyện Tam Dương.
Kháng chiến thắng lợi, tháng 7/1954 chính quyền ta tiếp quản vùng giải phóng và các cơ
quan đầu não của tỉnh đóng ở thị xã Phúc Yên.
Tháng 12/1955, Thủ tướng chính phủ ra Nghị định số 450/TTg quyết định tái lập thị xã
Vĩnh Yên.
Năm 1955, trong cuộc cải cách ruộng đất, các đơn vị hành chính sau đây được nhập vào
thị xã Vĩnh Yên.
- Xã Tích Sơn gồm các xóm: Khâu, Tiếc, Hạ, Gạch, Mới, Sậu, An Định và Gẩu (xóm Gẩu
từ xã Định Trung tách sang Tích Sơn, đổi lại xóm Đậu của Tích Sơn lại tách sang Định Trung)
- Ba làng Yên Lập của xã Định Trung.
- Xóm Bầu của xã Hạnh Phúc (Khai Quang ngày nay).
Tất cả các làng, xã trên được xếp thành 4 khu: Khu Tích Sơn (gồm Khâu, Tiếc, Hạ,
Gạch, Vĩnh Thịnh); Khu Đống Đa (gồm Đình, Tân Phúc, Ngô Quyền, Vĩnh Tân, Tân Lập, Chiền);
Khu Liên Minh (có 3 làng Láp và xóm Bầu); Khu Liên Bảo (sau này).
Đến tháng 7/1977 theo Quyết định số 178/CP của Hội đồng Chính phủ, thị xã Vĩnh Yên
được nhận thêm hai xã là Định Trung, Khai Quang và thị trấn Tam Đảo (trước đó đều thuộc
huyện Tam Dương).
Tính đến ngày 31/12/2008, thành phố Vĩnh Yên có diện tích 50,81km2; dân số 85.231
người; gồm 9 đơn vị hành chính; trong đó có 7 phường và 2 xã.
THỊ XÃ PHÚC YÊN
Được thành lập ngày 9/12/2003 theo Nghị định số 153 - 2003/NĐ - CP của Chính phủ.
Thị xã Phúc Yên có diện tích tự nhiên là 12.029,55 ha với số dân 82.730 người.
Địa giới hành chính thị xã Phúc Yên: Đông giáp thành phố Hà Nội; Tây giáp huyện Bình
Xuyên; Nam giáp huyện Mê Linh; Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên; gồm các phường và các xã:
+ Phường Hùng Vương có diện tích tự nhiên 158,6 ha và 9.341 nhân khẩu; Địa giới
hành chính: Đông giáp phường Phúc Thắng; Tây giáp xã Tiền Châu, Bắc giáp phường Trưng
Trắc.
+ Phường Trưng Trắc có diện tích 97,24 ha với số dân 8.168 người. Địa giới hành chính:
Đông giáp phường Phúc Thắng, Tây giáp xã Tiền Châu, Nam giáp phường Hùng Vương, Bắc
giáp phường Trưng Nhị và Phúc Thắng.
+ Phường Trưng Nhị có diện tích tự nhiên 169,04 ha với số dân 6.934 người. Địa giới
hành chính: Đông giáp phường Phúc Thắng, Tây giáp xã Tiền Châu, Nam giáp phường Trưng
Trắc, Bắc giáp xã Nam Viêm và Tiền Châu.
+ Phường Phúc Thắng có diện tích tự nhiên 637,29 ha với dân số 8.261 người. Địa giới
hành chính: Đông giáp thành phố Hà Nội, Tây giáp các phường Hùng Vương, Trưng Trắc, Trưng
Nhị; Nam giáp huyện Mê Linh; Bắc giáp xã Nam Viêm.
+ Phường Xuân Hoà có diện tích tự nhiên 763,66 ha với số dân 17.333 người. Địa giới
hành chính: Đông giáp thành phố Hà Nội, Tây giáp xã Cao Minh, Nam giáp xã Nam Viêm và
thành phố Hà Nội, Bắc giáp xã Ngọc Thanh.
+ Các xã Tiền Châu, Nam Viêm, Cao Minh, Ngọc Thanh.
Tính đến ngày 31/12/2008, thị xã Phúc Yên có diện tích 120,13km2; dân số 88.657
người; gồm 6 phường và 4 xã.
HUYỆN LẬP THẠCH
Theo sử sách ghi lại thì huyện Lập Thạch có từ đời Trần Thiếu Đế, năm Kiến Tân thứ 2
(1399). Lúc đó thuộc châu Tam Đới, lộ Đông Đô. Đời Lê, đời Nguyễn thuộc phủ Tam Đới, trấn
Sơn Tây. Năm 1891 thuộc đạo Vĩnh Yên; năm 1899 thuộc tỉnh Vĩnh Yên.
Năm 1903, huyện Lập Thạch có tới 11 tổng và 81 làng; 11 tổng là: Bạch Lưu, Đạo Kỷ,
Đông Định, Đông Mật, Hạ Ích, Hoàng Chỉ, Nhân Mục, Sơn Bình, Thương Đạt, Tử Du, Yên Xá.
Thời Tự Đức, giữa thế kỷ XIX, lỵ sở huyện Lập Thạch đặt ở xã Sơn Đông.
Tính đến ngày 31/12/2008, huyện Lập Thạch gồm 19 xã và 1 thị trấn; diện tích tự nhiên
173,10km2; dân số 123.664 người.
HUYỆN TAM DƯƠNG
Thời Trần Mạt, tên huyện Dương; Thời thuộc Minh vẫn là huyện Dương thuộc phủ Tuyên
Hoá.
Tên Tam Dương được đặt vào thời Lê Quang Thuận. Lúc đó Tam Dương thuộc phủ
Đoan Hùng, trấn Sơn Tây, đời Nguyễn năm 1830 thuộc phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây. Năm
1891, Tam Dương thuộc đạo Vĩnh Yên; năm 1899 thuộc tỉnh Vĩnh Yên.
Năm 1903, huyện Tam Dương có 10 tổng, 57 làng; 10 tổng đó là: Bình Hoà, Đạo Tú,
Định Trung, Hoàng Chuế, Hội Thượng, Miêu Duệ, Quan Ngoại, Tĩnh Luyện, Yến Dương, Hội Hạ.
Thời Tự Đức giữa thế kỷ XIX, lỵ sở huyện Tam Dương ở địa phận xã Tích Sơn, chu vi
52 trượng, trước là phủ Đoan Hùng, trấn Sơn Tây, đến năm Gia Long thứ 7 dùng làm lỵ sở
huyện Tam Dương.
Tính đến ngày 31/12/2008, huyện Tam Dương gồm 12 xã và 1 thị trấn; diện tích tự nhiên
107,18 km2, dân số 96.736 người.
HUYỆN BÌNH XUYÊN
Vào đời nhà Trần, lúc đó Bình Xuyên có tên gọi là Bình Lệ Nguyên (gọi tắt là Bình
Nguyên), thuộc châu Tuyên Hoá. Từ đời Hậu Lê đến đầu đời Nguyễn (1428- 1822), đất Bình
Xuyên ngày nay nằm trong 2 huyện Bình Tuyền và Yên Lãng.
Theo sách Đại Nam nhất thống chí, tên huyện Bình Tuyền xuất hiện vào đời Lê Thánh
Tông (1460- 1497) - khi đó đất này thuộc phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên bao gồm các xã ở phía
Bắc quốc lộ số 2 ngày nay trở ra phía sông Hồng thuộc huyện Yên Lãng, phủ Tam Đái, trấn Sơn
Tây.
Năm 1822, Vua Minh Mạng ra đạo dụ chuyển huyện Bình Tuyền sang Phủ Vĩnh Tường,
thuộc tỉnh Sơn Tây… Năm 1842, theo đạo dụ năm Thiệu Trị thứ hai đổi tên Bình Tuyền thành
Bình Xuyên và lại thuộc tỉnh Thái Nguyên. Đến năm 1890 thì huyện Bình Xuyên được cắt hẳn về
Vĩnh Yên.
Tại thời điểm năm 1903, huyện Bình Xuyên có 7 tổng và 41 làng. Các tổng đó là: Ba Hạ
(5 làng); Hương Canh (6 làng); Sơn Lôi (5 làng); Tam Lộng (8 làng); Thiện Kế (6 làng) và Xuân
Lãng (6 làng). Tới năm 1927, tổng Bá Hạ lại nhập vào tổng Sơn Lôi, tổng Hương Canh giảm bớt
làng Bảo Đức, toàn huyện lúc này còn 6 tổng với 33 làng.
Tính đến ngày 31/12/2008, huyện Bình Xuyên có 10 xã, 3 thị trấn; diện tích tự nhiên
145,67km2, dân số 108,944 người.
HUYỆN VĨNH TƯỜNG
Tên đất Vĩnh Tường đã có từ xa xưa. Đầu tiên, đất Vĩnh Tường thuộc Bộ Văn Lang, sau
đó thuộc về Phong Châu thừa hoá quận, đời nhà Đường (621- 939), từ 1225- 1400, thuộc Triều
Trần, Vĩnh Tường thuộc lộ Tam Giang. Thời thuộc Minh, Vĩnh Tường thuộc lộ Đông Đô (nằm
trong châu Tam Đới). Đời vua Lê Thánh Tông, đất này đổi gọi châu Tam Đới thành phủ Tam Đái
(1469), bao gồm Yên Lạc, Yên Lãng, Tiên Phong, Phù Khang, Lập Thạch, Bạch Hạc.
Đây là vùng đất trù phú, dân cư đông đúc. Đến đời nhà Nguyễn, năm Minh Mệnh thứ hai
(1821), Phủ Tam Đái được đổi tên thành phủ Tam Đa. Một năm sau đó (1822) lại đổi tên gọi là
phủ Vĩnh Tường, thuộc tỉnh Sơn Tây...Cho tới năm 1832, phủ Vĩnh Tường chỉ còn lại 3 huyện là
Bạch Hạc, Lập Thạch và Tam Dương. Gần sáu chục năm sau, vào năm 1890, phủ Vĩnh Tường
lại bao gồm 5 huyện: Bạch Hạc, Lập Thạch, Tam Dương, Yên Lạc và Yên Lãng.
Năm 1899, chính quyền Pháp thành lập tỉnh Vĩnh Yên và phủ Vĩnh Tường thành một đơn
vị độc lập, không bao gồm các huyện nữa.
Tới năm 1927, phủ Vĩnh Tường lại gồm 10 tổng là: Đồng Phú, Đồng Vệ, Hưng Lục, Kiên
Cương, Lương Điền, Mộ Chu, Nghĩa Yên, Tăng Đố, Thượng Trưng và Tuân Lộ.
Lỵ sở phủ Vĩnh Tường trước kia ở xã Văn Trưng. Năm 1831 dời đến địa phận 3 làng Bồ
Điền, Huy Ngạc, Yên Nhân. Thành phủ hiện còn di tích ở xã Vũ Di.
Tính đến ngày 31/12/2008, huyện Vĩnh Tường gồm 27 xã và 2 thị trấn; diện tích
141,90km2, dân số 198,918 người.
HUYỆN YÊN LẠC
Yên Lạc là tên vùng đất có từ thời nhà Đinh, nhà Lý và giữ nguyên tới nay. Tuy vậy, Yên Lạc
chỉ là một huyện độc lập từ năm 1899 (thuộc tỉnh Vĩnh Yên khi đó).
Thời xưa, Yên Lạc là huyện đông dân cư. Đến năm 1903, huyện Yên Lạc có 7 tổng với
60 làng, đó là: Tổng Đông Lỗ (9 làng); tổng Hồn Ngạc (9 làng); tổng Nhật Chiểu (7 làng); tổng
Phương Nha (7 làng); tổng Thư Xá (10 làng); tổng Vân Đài (14 làng); tổng Yên Lạc (4 làng).
Tới năm 1927, huyện Yên Lạc lại có 8 tổng, tức là thêm tổng Lưỡng Quán.
Tính đến ngày 31/12/2008, huyện Yên Lạc có 16 xã và 1 thị trấn; diện tích 106,77km2,
dân số 149,387 người.
HUYỆN SÔNG LÔ
Sông Lô là huyện miền núi mới được thành lập tháng 4 năm 2009 gồm 17 đơn vị hành
chính trực thuộc: Bạch Lưu, Hải Lựu, Đôn Nhân, Quang Yên, Lãng Công, Nhân Đạo, Phương
Khoan, Đồng Quế, Nhạo Sơn, Tân Lập, Như Thụy, Yên Thạch, Tứ Yên, Đồng Thịnh, Đức Bác,
Cao Phong và thị trấn Tam Sơn.
Địa giới hành chính huyện Sông Lô: phía Đông giáp huyện Lập Thạch; phía Tây giáp
huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ; phía Nam giáp thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; phía Bắc giáp
huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
Tổng diện tích tự nhiên của huyện tính đến ngày 31/12/2008 là 15.031,77 ha; 93.984
nhân khẩu, gồm các dân tộc anh em: Kinh, Dao, Cao lan, Sán dìu, Tày, Nùng, Hoa cùng sinh
sống. Tình hình an ninh chính trị của huyện ổn định, các dân tộc trong huyện đan xen chung
sống, hòa đồng cùng làm ăn, cùng phát triển.
HUYỆN TAM ĐẢO
Được thành lập ngày 9/12/2003 theo Nghị định số 153-2003/NĐ-CP của Chính Phủ. Có
diện tích tự nhiên tính đến ngày 31/12/2008 235,88km2 và dân số là 69.315 người; có 8 xã và 1
thị trấn.
ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN
Địa hình Vĩnh Phúc được tạo thành bởi kết quả hoạt động tổng hợp từ các quá trình địa
chất nội sinh và ngoại sinh cùng với tác động của con người như đắp đê ngăn nước, đắp đập,
phá rừng làm nương rẫy…
Vĩnh Phúc có 3 loại địa hình chính: Địa hình miền núi, địa hình vùng đồi và địa hình vùng
đồng bằng.
ĐỊA HÌNH MIỀN NÚI
Theo nguồn gốc hình thành và độ cao, địa hình miền núi Vĩnh Phúc chia làm 3 loại:
Loại địa hình núi cao: Chủ yếu thuộc dãy núi Tam Đảo. Trong đó, phần thuộc địa phận
Vĩnh Phúc bắt đầu từ xã Đạo Trù (Tao Đảo) có chiều dài trên 30 km, theo hướng Tây Bắc - Đông
Nam, địa hình phân cắt mạnh, có nhiều đỉnh cao trên 1000m. Cao nhất là đỉnh núi Giữa (1542m),
đỉnh Phù Nghĩa, Thạch Bàn, Thiên Thị đều cao trên dưới 1.400m nổi lên như 3 hòn đảo.
Địa hình núi thấp: Đại diện cho loại địa hình này là núi Sáng, thuộc địa phận hai xã
Đồng Quế, Lãng Công (Sông Lô) cao 633m, một dạng địa hình xâm thực, bóc mòn. Địa hình núi
thấp ở Vĩnh Phúc rộng hàng chục km2. Đó là những núi cấu tạo bằng đá cứng, phong hoá chậm
như quaczit, amphibolit có hình núi nhọn và cao trội hơn như núi Kim Tôn, núi Bầu ở Đồng Quế,
Lãng Công (Sông Lô). Ngoài ra còn những núi cấu tạo bằng đá dễ bị phong hoá như gơnaibiotit,
gơnai 2 mica và granit, kết hợp với hoạt động đứt gãy nên núi có hình bằng đi, thấp xuống, có khi
kéo dào theo phương đứt gãy như núi Ngang vùng Đạo Trù, Hợp Lý, các núi ở Bắc Bình, Quang
Sơn (Lập Thạch), Đại Đình (Tam Đảo).
Địa hình núi sót: Gồm núi Đinh, núi Trống nằm theo một trục trên địa bàn thị xã Vĩnh
Yên, huyện Bình Xuyên. Đây là một trục của nếp lồi khu vực có phương Tây Bắc - Đông Nam.
Các núi đều cấu tạo bởi các đá của hệ tầng sông Hồng, giới Proterozoi.
Vĩnh Phúc còn có một dạng địa hình núi kéo dài theo đứt gãy trẻ (thành tạo vào chu kỳ
tạo núi An - pi); thường nằm ở ven rìa đứt gãy và trùng với phương đứt gãy; cấu tạo bằng các đá
cuội kết cơ sở và răm kết kiến tạo.
Chiều dài của núi có thể tới vài ki lô mét, chiều rộng vài trăm mét như các núi Phù Mây
(Đại Đình, Tam Dương), các núi dạng đồi ở vùng Đạo Tú (Tam Dương), vùng Tiên Lữ (Lập
Thạch) với độ cao chỉ khoảng 50 - 70m.
ĐỊA HÌNH VÙNG ĐỒI
Ở Vĩnh Phúc huyện nào cũng có đồi. Có nhiều đồi nhất là hai huyện Lập Thạch và Tam
Dương. Các huyện đồng bằng như Vĩnh Tường, Yên Lạc còn sót lại một ít đồi gò như đồi Me, gò
Đồng Đậu. Đồi ở Vĩnh Phúc như bát úp, kích thước không lớn, có dạng vòm đường nét mềm
mại. Đồi ở vùng đồng bằng chỉ cao từ 20 - 50m, ở vùng trung du cao từ 50 - 200m.
Đồi xâm thực bóc mòn: Do các quá trình phân cắt và bào mòn bởi nước trên mặt đất ở
những miền núi cấu trúc dương được nâng yếu, gồm toàn bộ những đồi ở vùng núi Sáng (Lập
Thạch) vùng từ Tam Dương và khu vực thị xã Vĩnh Yên.
Tác dụng xâm thực là sự kết hợp đồng thời của các quá trình phá huỷ các đá có tính
chất cơ học của dòng chảy và quá trình bào phá lòng bởi chính dòng chảy cùng với quá trình hoà
tan các đá theo phương thức hoá học. Xâm thực bề mặt còn gọi là rửa trôi bề mặt hay bóc mòn
là kết quả tương hỗ tác động của nước mưa, nước tuyết tan chảy tràn trên mặt và các dòng chảy
nhỏ đang định vị trên mặt đất. Xâm thực mạnh mẽ ở các sườn đồi, các đường phân thuỷ tương
đối bằng, các bồn nước. Sự bào phá của các dòng chảy đã định vị tạo thành những mương, xói,
khe, rãnh, suối, sông phân cắt các miền đồi như hình dạng ngày nay. Sự xâm thực này càng rõ ở
các vùng đồi cấu tạo bằng các đá phiến giầu nhôm như vùng Lập Thạch, Tam Dương, Bình
Xuyên.
Sản phẩm trên bề mặt vùng đồi Vĩnh Phúc là sản phẩm phong hoá gồm các lớp đất sét
nâu đỏ, laterit và các mũ sắt. Nhân dân thường dùng lớp đất sét có latarit này để làm gạch đá
ong và gạch không nung.
Đồi tích tụ: Được hình thành do quá trình tích tụ và xâm thực, phân bố ở các cửa suối
lớn trong chân núi Tam Đảo như các suối ở Đạo Trù, Tam Quan, Hợp Châu, Minh Quang (Tam
Đảo), Thanh Lanh (Bình Xuyên). Đồi tích tụ thường có diện tích nhỏ, như một gò nổi giữa sông,
suối, cấu tạo chủ yếu là cuội, cát, sỏi, bột, sét và các tảng đá gốc hỗn độn. Hình thái của đồi
thường bị dòng nước phạt một bên sườn hoặc cả 2 bên sườn nếu đồi đang ở giữa 2 dòng chảy.
Đồi tích tục bóc mòn: Tạo thành từ đồi tích tụ nhưng bị bóc mòn. Dạng đồi này phổ
biến ở ven sông Lô từ Đồng Thịnh, Cao Phong đến Văn Quán, Xuân Lôi, Triệu Đề. Đồi có dạng
úp hoặc kéo dài, cấu tạo bởi các đá cát kết, sỏi kết, cuội, sỏi, sét, bột có tuổi từ Neogen đến thời
kỳ Đệ Tứ, do xâm thực bóc mòn các thềm sông cổ của dòng sông Lô.
ĐỊA HÌNH ĐỒNG BẰNG
Chiếm 40% diện tích toàn tỉnh. Đặc điểm chung là bề mặt tương đối bằng phẳng, có diện
tích đáng kể; độ cao tuyệt đối khác nhau tuỳ nơi phân bố của đồng bằng. Độ cao dao động rất
nhỏ trong một đồng bằng. Song có chênh lệch về độ cao khá lớn giữa vùng núi và vùng đồng
bằng.
Căn cứ vào độ cao tuyệt đối, hình thái, điều kiện thành tạo có thể chia đồng bằng Vĩnh
Phúc làm 3 loại: Đồng bằng châu thổ, đồng bằng trước núi và các thung lũng, bãi bồi và đầm.
Đồng bằng châu thổ: Là loại đồng bằng tích tụ liên quan đến quá trình lắng đọng trầm
tích tại các cửa sông lớn.
Đồng bằng châu thổ Vĩnh Phúc phát triển từ sự bồi tụ của các dòng sông Lô, sông Hồng,
sông Phó Đáy và của hệ thống sông suối ngắn từ dãy núi Tam Đảo chảy ra.
Diện tích đồng bằng phân bố trên toàn bộ huyện Yên Lạc, hầu hết huyện Vĩnh Tường,
chiếm diện tích lớn ở các huyện Tam Dương, Bình Xuyên, bề mặt tương đối bằng phẳng, hơi
nghiêng về phía sông Hồng và phía Nam huyện Yên Lạc. Đồng bằng châu thổ Vĩnh Phúc còn có
những phân dị:
Vùng phân dị gợn sóng: Tạo nên những dải ruộng dạng sóng theo hướng chính của
sông Hồng là Tây Bắc - Đông Nam kéo dài vài kilômét, rộng vài trăm mét, phân bố ở khu vực các
xã Đồng Văn (Yên Lạc), Bình Dương, Đại Đồng, Chấn Hưng, Lũng Hoà (Vĩnh Tường).
Vùng phân dị tạo thành những gò, đầm lớn: Đồng bằng châu thổ Vĩnh Phúc phát triển
trên nền địa chất đồng bằng có nguồn gốc sông, một thời là phù sa bồi lắng, vun đắp từ các dòng
sông Lô, sông Hồng, sông Đà và hệ thống sông suối từ vùng núi Tam Đảo.
Đồng bằng châu thổ phì nhiêu đã thu hút con người đến sinh cơ lập nghiệp. Hoạt động
của con người cũng đã góp phần làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt đồng bằng so với lúc nguyên
sơ. Làng xã, thành phố, thị trấn, đường giao thông, hệ thống đê sông Hồng, sông Lô, sông Phó
Đáy đã ngăn chặn và giảm thiểu sức tàn phá dữ dội của các dòng sông mùa mưa lũ đối với vùng
đồng bằng.
Đồng bằng trước núi (đồng bằng giới hạn)
Được kiến tạo do sự phá huỷ lâu dài của vùng núi, do sự bóc mòn, xâm thực của nước
mặt, nước ngầm và nước sông băng: Từ vùng núi cao thành vùng núi thấp, dần thành vùng đồi
và sau đó thành vùng đồng bằng có giới hạn vì bao quanh là đồi và núi.
So với đồng bằng châu thổ, đồng bằng trước núi kém màu mỡ hơn. Thành phần vật chất
phụ thuộc vào cấu tạo đá gốc dưới nền đồng bằng và sự rửa trôi bồi lắng của các vùng đồi, núi
xung quanh.
Các thung lũng, bãi bồi sông
Thung lũng sông: Thung lũng sông của Vĩnh Phúc là một dạng địa hình âm, chiều dài
gấp nhiều lần chiều rộng, được hình thành chủ yếu do tác động xâm thực của dòng chảy.
Địa hình thung lũng sông Lô chỉ tính ở bờ trái gồm lòng sông và sườn thung lũng. Thung
lũng có nhiều bãi bồi xen kẽ nên sườn thung lũng thoai thoải. Chiều rộng tính từ bờ đê ra đường
ranh giới có chỗ đến 150m.
Cấu tạo sườn thung lũng là các thềm sông. Thành phần vật chất của thung lũng là cát,
sét, cuội sỏi, thạch anh và silic: nguồn tài nguyên đáng kể phục vụ cho xây dựng trong tỉnh, Hà
Nội và các tỉnh lân cận.
Đáng chú ý có thung lũng sông Hồng chỉ tính trên phạm vi huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc
đã có chiều dài 40 km. Thung lũng sông Hồng bằng hơn, thoải hơn và rộng hơn thung lũng sông
Lô. Chiều rộng từ bờ đê quai của các xã An Tường, Cao Đại ra giữa sông có chỗ đến 300m;
trung bình là 150-200m.
Thung lũng sông Hồng có nhiều bãi bồi sông, là nguồn phù sa màu mỡ cung cấp cho các
tỉnh đồng bằng sông Hồng và đưa ra biển Đông bồi lấp hàng năm, mở rộng châu thổ.
Bãi bồi sông: Chủ yếu phân bố ở các thung lũng sông Hồng, sông Lô và sông Phó Đáy.
Dọc các thung lũng của 3 con sông chính của tỉnh có tới vài chục bãi bồi lớn nhỏ. Ở Vĩnh
Tường, Yên Lạc bãi bồi có chiều rộng hàng nghìn mét, dài vài kilômét. Bãi bồi sông Lô ở vùng
Đức Bác, Sơn Đông rộng vài trăm mét và dài hàng kilômét.
VỀ SÔNG NGÒI VÀ ĐẦM HỒ
Vĩnh Phúc có một mạng lưới sông, suối khá dày đặc với hai hệ thống sông chính là sông
Hồng và sông Cà Lồ.
Hệ thống sông Hồng.
Hệ thống sông Hồng gồm sông Hồng với hai nhánh lớn là sông Đà (bờ bên phải), sông
Lô (bờ bên trái) cùng với hai nhánh của sông Lô là sông Chảy (Tuyên Quang) và sông Phó Đáy
(Vĩnh Phúc).
Sông Lô
Sông Lô chảy vào giang phận Vĩnh Phúc từ xã Quang Yên (Sông Lô) qua xã Việt Xuân
(Vĩnh Tường) đến ngã ba Bạch Hạc thì đổ vào sông Hồng, có chiều dài 34km.
Sông Lô có lưu lượng dòng chảy bình quân (năm 1996) 1.213m3/giây; về mùa mưa lên
tới 3.230m3/giây; cao nhất năm 1966 là 6.560m3/giây, đột xuất ngày 20/8/1971, lên tới 14.000
m3/giây. Mực nước lúc cao nhất so với mực nước lúc thấp nhất thường chênh nhau 6m; năm
1971 chênh tới 11,7m; năm 1996, chênh 6,27m.
Hàm lượng phù sa ít hơn sông Hồng. Mùa mưa lũ, 1m3 nước chứa 2,310 kg phù sa. Mùa
cạn, nước sông trong xanh, hầu như không mang phù sa.
Phù sa sông Lô lượng ít hơn sông Hồng song giàu chất phù sa hơn; hàng năm vẫn bồi
đắp cho ruộng bãi đôi bờ, nhưng diện bồi hẹp hơn và lượng bồi cũng ít hơn sông Hồng. Sông Lô
còn tiếp thêm nước cho hệ thống nông giang Liễn Sơn qua trạm bơm Bạch Hạc.
Sông Phó Đáy
Sông Phó Đáy chảy vào địa phận Vĩnh Phúc từ xã Quang Sơn (Lập Thạch) ở bên bờ
phải và xã Yên Dương ở bên bờ trái, chảy giữa huyện Lập Thạch (bên phải) và hai huyện Tam
Dương, Vĩnh Tường (bên trái) dài 41,5km, rồi đổ vào sông Lô, giữa xã Sơn Đông (Lập Thạch) và
xã Việt Xuân (Vĩnh Tường) phía trên cầu Việt Trì độ 200m.
Sông Phó Đáy có lưu lượng bình quân 23 m3/giây; lưu lượng cao nhất là 833m3/giây;
mùa khô kiệt, lưu lượng chỉ 4m3/giây, có quãng sông cạn tới mức lội qua được.
Sông Phó Đáy cũng có lượng phù sa như sông Lô (2,44kh/m3) nhưng tác dụng nhất ở
chỗ cung cấp nước cho hệ thống nông giang Liễn Sơn dài 157km, tưới cho 14.000ha ruộng của
các huyện Tam Dương, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Bình Xuyên.
Sông Hồng
Sông Hồng chảy qua Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ vào địa phận Vĩnh Phúc từ Ngã Ba Hạc
dài 41 km.
Thời dựng nước, sông Hồng có tên là sông Văn Lang. Thời Lý - Trần, sông Hồng được
gọi là sông Lô. Thời thuộc Minh (đầu thế kỷ XV) cũng vậy. Sách An Nam chí nguyên (Q1, Sơn
xuyên, Giao châu phủ) chép sông Lô ở huyện Đông Quan (Hà Nội bây giờ) trên tiếp với sông
Bạch Hạc, dưới thông với sông Đại Hoàng chảy vào biển. Như thế, sông Lô tức là khúc sông
Hồng phía dưới ngã ba Hạc chảy ra biển.
Sông Hồng có lưu lượng dòng chảy trung bình trong cả năm là 3.860m 3/giây, lớn gấp 4
lần lưu lượng sông Thao, gấp đôi lưu lượng sông Đà, gấp 3 lưu lượng sông Lô. Lưu lượng dòng
chảy thấp nhất về mùa cạn là 1.870m3/giây. Lưu lượng dòng chảy trung bình trong mùa mưa lũ
là 8.000m3/giây. Lưu lượng lớn nhất là 18.000m3/giây. Mực nước cao trung bình là 9,75m, hàng
năm lên xuống thất thường, nhất là về mùa mưa, có những cơn lũ đột ngột, nước lên nhanh
chóng, có khi tới 3m trong vòng 24 giờ. Mực nước đỉnh lũ thường cao hơn mực nước mùa kiệt
trên dưới 9m (Trong cơn lũ lịch sử năm 1971, chênh tới 11,68m).
Về mùa khô hanh, hệ thống sông Hồng là nguồn nước quý giá vô tận cho các trạm bơm
hút lên tưới cho đồng ruộng đôi bờ. Với hàm lượng phù sa cao, tối đa có thể lên tới 14kg/m 3, số
lượng phù sa lớn (một năm là 80 triệu m3 hoặc 130 triệu tấn), chất lượng phù sa tốt và nước
sông còn chứa nhiều chất khoáng, sông Hồng đã bồi đắp cho Vĩnh Phúc dải đồng bằng phì nhiêu
màu mỡ. Hiện nay, sông vẫn tiếp tục bồi phù sa cho đồng bãi ven bờ và ngay cả cho ruộng trong
đê qua những con ngòi thông ra sông.
Hệ thống sông Cà Lồ.
Chảy trong nội tỉnh, hệ thống sông Cà Lồ gồm sông Cà Lồ và nhiều nhánh của nó, đáng
kể nhất là sông Phan, sông Cầu Bòn, sông Bá Hạ, suối Cheo Meo…
Sông Phan
Sông Phan bắt nguồn từ núi Tam Đảo, địa phận các xã Hoàng Hoa, Tam Quan, Hợp
Châu, chảy qua các xã Duy Phiên, Hoàng Lâu (Tam Dương ), Kim Xá, Yên Lập, Lũng Hoà, Thổ
Tang (Vĩnh Tường) theo hướng Đông Bắc - Tây Nam; vòng sang hướng Đông Nam qua các xã
Vũ Di, Vân Xuân (Vĩnh Tường) rồi theo hướng Tây Nam - Đông Bắc qua các xã Tề Lỗ, Đồng
Văn, Đồng Cương (Yên Lạc) đổ vào đầm Vạc (Vĩnh Yên), qua xã Quất Lưu chảy về Hương
Canh (Bình Xuyên) qua xã Sơn Lôi, nhập với sông Bá Hạ rồi đổ vào sông Cà Lồ.
Sông Cầu Bòn
Bắt nguồn từ Thác Bạc núi Tam Đảo, đổ xuống làng Hà, xã Hồ Sơn, hợp với suối Xạ
Hương, suối Bàn Long, xã Minh Quang (Tam Đảo), chảy từ phía Bắc xuống phía Nam qua các
xã Gia Khánh, Hương Sơn, Tam Hợp đổ vào sông Cánh ở địa phận xã Tam Hợp (đều thuộc
Bình Xuyên).
Sôn Phan và sông Cầu Bòn hình thành một đường vòng cung, hai đầu móc vào sườn
Tam Đảo, Phía Tây và Phía Đông. Khu nghỉ mát, chiều dài khoảng 120 km. Về mùa khô, mực
nước hai con sông này rất thấp, nhiều chỗ lội qua được. Nhưng về mùa mưa, nước từ Tam Đảo
trút xuống, không tiêu kịp vào sông Cà Lồ thường ứ lại ở đầm Vạc và làm ngập úng cả một vùng
rộng giữa hai huyện Yên Lạc và Bình Xuyên.
Phía Đông huyện Yên Lạc ngày nay còn lại nhiều dải đầm dài ở các xã Bình Định, Minh
Tân, Tam Hồng, Liên Châu (có thể đây là những vết tích của một dòng sông ngày xưa, một chi
lưu sông Hồng chảy từ làng Cẩm Khê, tổng Nhật Chiểu (Yên Lạc) về Đầm Vạc).
Sông Bá Hạ
Bắt nguồn từ suối Nhảy Nhót giữa xã Trung Mỹ (Bình Xuyên ) và xã Ngọc Thanh (thị xã
Phúc Yên ), sông Bá Hạ chảy giữa xã Bá Hiến (Bình Xuyên) đến hết địa phận xã Bá Hiến đầu xã
Sơn Lôi (Bình Xuyên), nhập với sông Cánh chảy về sông Cà Lồ.
Sông Cà Lồ.
Sông Cà Lồ là một nhánh của sông Diệp Du, còn gọi là sông Nguyệt Đức, nó là một
nhánh sông Hồng tách ra từ xã Trung Hà (Yên Lạc).
Sông cà Lồ chảy ngoằn ngoèo từ xã Vạn Yên (Mê Linh) theo hướng Tây Nam - Đông
Bắc, giữa hai huyện Bình Xuyên vòng quanh thị trấn Phúc Yên rồi theo một đường vòng cung
rộng phía Nam hai huyện Kim Anh, Đa Phúc cũ, đổ vào sông Cầu ở thôn Lương Phúc, xã Việt
Long (nay thuộc huyện Sóc Sơn), dài 86km.
Nguồn nước sông Cà Lồ ngày nay chủ yếu là nước các sông, suối bắt nguồn từ núi Tam
Đảo, núi Sóc Sơn, lưu lượng bình quân chỉ 30m3/giây. Lưu lượng cao nhất về mùa mưa chỉ
286m3/giây. Tác dụng chính là tiêu úng mùa mưa. Riêng khúc sông đầu nguồn cũ, từ Vạn yên
đến sông Cánh đã được đắp chặn lại dài gần 20km, biến thành một hồ chứa nước lớn tướii
ruộng và nuôi cá.
Tầng chứa nước địa chất thuỷ văn
Ngoài các sông suối, Vĩnh Phúc còn có các tầng chứa nước địa chất thuỷ văn:
- Tầng chứa nước Proterozoi: Cấu tạo bởi các đá biến chất cao, chủ yếu là đá phiến
gơnai, quaczit, ămphibolit. Nước ở tầng chứa proterozoi trong, chất lượng rất tốt, lưu lượng nhỏ;
tuy nhiên ở những đới phá huỷ, đập vỡ, lưu lượng nước có thể đạt trên 5 lít/giây. Tầng phá huỷ
của tầng chứa Proterozoi có nước chất lượng tốt, có thể nghiên cứu đóng chai làm nước giải
khát.
- Tầng chứa nước Mezozoi: Cấu tạo bởi các đá phun trào Triat giữa và muộn và các
thành tạo chứa than của hệ tầng Văn Lãng. Chất lượng nước không đều, có nơi bị nhiễm sắt,
lưu lượng nhỏ.
- Tầng chứa nước Kainozoi: Đây là tầng chứa nước quan trọng. Tuy nhiên do vỏ phong
hoá mỏng nên lưu lượng nước không lớn, phần lớn chỉ sâu 4 - 5m đã gặp đá gốc. Tầng chứa
nước đứt gãy: Trong các đới phá huỷ, nước tập trung với các tiềm năng lớn, chất lượng tốt.
Đầm hồ
Ngoài hệ thống sông ngòi và trữ lượng nước ngầm, Vĩnh Phúc còn có nhiều đầm, hồ
lớn, thiên tạo có Đầm Vạc (Vĩnh Yên ), đầm Dưng, vực Xanh, vực Quảng Cư, đầm Ngũ Kiên
(Vĩnh Tường); đầm Tam Hồng, đầm Cốc Lâm (Yên Lạc), hồ Đá Ngang, hồ Khuôn, hồ Suối Sải
(Lập Thạch ), đầm Riệu (Phúc Yên)… nhân tạo có hồ Xạ Hương (Bình Xuyên), hồ Làng Hà (Tam
Dương), hồ Vân Trục, hồ Bò Lạc …
Đầm Vạc
Đầm Vạc là một đầm thiên nhiên có từ hàng nghìn năm nay. Có người nói xưa kia mặt
nước mênh mông, lắm cá nhiều tép, lau sậy um tùm nên các loài chim trời như mòng, két, cò,
cốc, le le, vịt trời, bồ nông, cuốc thi nhau về đây sinh sống; đêm dù tối trời hoặc có trăng sao thì
từng đàn vạc cũng kéo nhau về kiếm ăn và gọi nhau râm ran một khoảnh trời, do đó mới gọi là
Đầm Vạc.
Đầm vạc có diện tích mặt nước lên tới 48,4km2. Đây nguồn cung cấp nước ngọt cho
nông nghiệp và đời sống sinh hoạt của nhân dân.
Tại đây còn có mỏ đất sét với trữ lượng khoảng 21 triệu tấn có thể cung cấp nguyên liệu
cho làng gốm cổ truyền Hương Canh.
Đầm Vạc có tiềm năng thuỷ sản phong phú, chủng loại đa dạng, như trắm, chép, mè,
trôi… Nhiều loại xếp vào hàng đặc sản như lươn vàng, cá trê, cá chiên, cá nheo, trạch làn, trạch
chấu, tép dầu, bông bống, ba ba, cá quả…
Đầm Vạc còn có tiềm năng lớn về du lịch. Trong “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch
tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 1998-2010”, đầm Vạc là điểm chủ yếu trong cụm du lịch Vĩnh Yên và
phụ cận. Nơi đây, sau khi xung quanh đầm được cải tạo mặt bằng, xây dựng các khách sạn, nhà
nghỉ, bãi tắm, sân chơi thể thao… thì địa điểm nơi đây sẽ là khu du lịch nghỉ dưỡng, nghỉ cuối
tuần, vui chơi giải trí hấp dẫn.
Hồ Đại Lải
Hồ Đại Lải là hồ nhân tạo lớn nhất tỉnh Vĩnh Phúc, thuộc địa bàn hai xã Ngọc Thanh (Thị
xã Phúc Yên) cách tỉnh lỵ Vĩnh Yên 21 km, cách thủ đô Hà Nội 45km.
Diện tích mặt hồ rộng 525km2, chứa 26,4 triệu m3 nước, bảo đảm tưới tiêu cho 2900 ha đất
canh tác.
Ngành Thuỷ lợi đã tiến hành khảo sát và thiết kế xây dựng hồ chứa nước Đại Lải với
nhiệm vụ “phục vụ đại bộ phận ruộng nằm bên bờ sông Cà Lồ với tổng số diện tích 9000 ha”.
Bên cạnh lợi ích của một công trình đại thuỷ nông đối với sản xuất nông nghiệp, hồ Đại
Lải còn là một trọng điểm của cụm du lịch Xuân Hoà và phụ cận, một khu du lịch nghỉ dưỡng cuối
tuần hấp dẫn.
Hồ Xạ Hương
Hồ Xạ Hương nằm trong thung lũng núi Con Trâu thuộc làng Xạ Hương, xã Minh Quang.
Hồ được xây dựng từ năm 1984, nằm ở độ cao 53m so với mực nước biển. Ở đây có đập chính
cao 41m, phía trong được kè đá tảng kiên cố để có thể tích nước hồ lên cao tới cốt 92 tạo mặt hồ
rộng tới 83ha, với sức chứa hơn 10 triệu m3 nước, đủ tưới quanh năm cho 1850 ha đất canh tác
phía hạ lưu.
Với lưu vực hơn 24 km2 gồm 4 con suối lớn và hàng chục khe nước nhỏ chảy vào quanh
năm, hồ Xạ Hương không bao giờ hết nước. Theo thiết kế, dù nước hồ xuống đến mức không tự
chảy ra mương được nữa thì trong lòng hồ vẫn còn tới 700.000m3 nước dự trữ, nhiều chỗ có độ
sâu tới 13 m.
Như vậy, Vĩnh Phúc có một hệ thống sông ngòi khá phong phú. Mang lại nhiều lợi tích
thiết thực cho nhân dân, cho sản xuất nông nghiệp của tỉnh.
VỀ THỔ NHƯỠNG
Theo kết quả tổng điều tra thì chất lượng đất ở Vĩnh Phúc có 8 loại thuộc 3 nhóm đất là:
Nhóm đất phù sa các sông, nhóm đất bạc màu và nhóm đất vùng núi đặc trưng.
Nhóm đất phù sa các sông chiếm 62,2% diện tích, gồm:
+ Loại đất phù sa được bồi hàng năm dọc các sông: Sông Cầu, sông Cà Lồ và sông Phó
Đáy: Có 46,22ha (ký hiệu: Pb C-CL-PĐ).
+ Loại đất phù sa được bồi hàng năm dọc các sông Hồng, sông Đà, sông Lô: Có
1945,26ha (PbH-Đ-L).
+ Loại đất phù sa úng nước nội đồng: 6726,23ha (Pu).
+ Loại đất phù sa không được bồi hàng năm của sông Hồng, sông Đà, sông Lô:
11.085,43ha. (P.H.L.Đ).
+ Loại đất phù sa Feralitic: 7178,37ha (P.F).
+ Loại đất phù sa không được bồi hàng năm thuộc các sông Cầu, Cà Lồ, Phó Đáy:
1.889,19ha (P.C-CL.PĐ).
Nhóm đất bạc màu chiếm 24,8% diện tích:
+ Loại đất phù sa cũ bạc màu: 7.908,01ha (PFB).
+ Loại đất dốc tụ ven đồi núi, cấy lúa, bạc màu: 2.696,03ha (LDB).
+ Loại đất Feralitic biến đổi do trồng lúa không bị bạc màu: 818,66ha (LFB).
Nhóm đất vùng núi đặc trưng chiếm 13,1% diện tích:
+ Loại đất phù sa xen giữa đồi núi: 265,54 ha (Pxđ).
+ Loại đất dốc tụ cấy lúa không bị bạc màu: 4.527,34ha (LD).
+Loại đất Feralitic biến đổi do trồng lúa không bị bạc màu: 874,44ha(LF).
+ Loại đất lầy thụt: 404,35ha (J).
Phân theo cấp địa hình, đất cao có 9383ha, vàn cao 9125ha, vàn thấp 6829 ha và đất
thụt 6628ha. Phân theo thành phần cơ giới, đất cát có 1094ha, đất cát pha có 13.239ha, thịt nhẹ
12.770ha, thịt trung bình 11.799ha, thịt nặng 7.510ha. Phân theo hoá tính, đất có độ chua (pH
KCL) dưới 4,5 chiếm 12% diện tích, pH từ 4,5 đến 5,5 chiếm 36%, pH trên 5 chiếm 43%. Diện
tích có độ mùn dưới 1% chiếm 25,6%; từ 1-2% chiếm 63% và trên 2% chiếm 11,24%. Đất có
lượng lân dễ tiêu (mg/100g đất), dưới 10mg chiếm 60%, từ 10 - 15 mg chiếm 28,4% và trên
15mg chiếm 11,5%.
Có 3 loại đất phù sa ít được bồi thuộc sông Hồng và sông Lô, đất phù sa trong đê sông
Hồng là ít chua và không chua với trị số pH>5,5. Còn lại là đất chua, đặc biệt chua ở hai loại đất
phù sa úng nước mưa mùa hè (Pu) và đất lầy thụt (J) với trị số pH<4,5. Xét về hàm lượng mùn,
đất Vĩnh Phúc chủ yếu là nghèo mùn (mùn <2%).
Xét về hàm lượng đạm tổng số, trong 8 loại đất đã điều tra có 7 loại là có hàm lượng
đạm trung bình (N%=0,08-0,14%) duy chỉ có đất lầy thụt J là giầu đạm (N=0,194%).
Về lân, có 3 loại đất có hàm lượng lân tổng số khá giàu, đó là sét pHib (P2O5= 0,129%)
đất PF (phù sa Feralitic) P2O5=0,142%, sáu loại đất còn lại đều nghèo lân tổng số (P2O5=0,07%).
Về lân dễ tiêu, chỉ có 2 loại đất pHib và PF có hàm lượng lân giàu còn lại rất nghèo.
Về Kali, có 3 loại đất có hàm lượng Kali tổng số trung bình> 0,08%; đó là đất Plib
(K2O=0,81%), pHib (K2O=0,85%), Ph (K2O=0,08%).
Về Kali dễ tiêu, các đất LDB, PFB, J rất nghèo. Chỉ có PF có hàm lượng Kali dễ tiêu
trung bình thấp (10,7mg/100g đất).
Phân bố thổ nhưỡng 5 loại đất chủ yếu ở Vĩnh Phúc chiếm 80,5% theo thứ tự tỷ lệ
diện tích như sau:
+ Đất phù sa sông Hồng, sông Đà, sông Lô (pH.Đ.L) không được bồi hàng năm chiếm
23,8% diện tích đất ruộng, tập trung hầu hết ở vùng lúa của tỉnh.
Phân bố ở những xã Yên Đồng, Tam Hồng, Minh Tân, Nguyệt Đức (Yên Lạc), Tuân
Chính, Vũ Di, Thượng Trưng (Vĩnh Tường), Sơn Lôi, Tam Canh (Bình Xuyên) dọc theo sông
Hồng.
Nơi địa hình thấp hơn, thường xuyên có nước, là những chân ruộng cấy 2 lúa, sự lắng
đọng phù sa nhiều, có nơi dày trên 10m, thành phần cơ giới thường nặng. Do ảnh hưởng của
mạch nước ngầm nên phổ biến có gley từ trung bình đến mạnh nhưng phần lớn là gley sâu. Căn
bản còn giữ được màu sắc của phù sa sông Hồng màu nâu tươi, trung bính ít chua. Hàng năm
sau khi gặt lúa, đất phải được phơi nỏ cho xác để hạn chế quá trình gley hoá kết hợp tăng phân,
cày sâu dần, mở rộng diện tích làm đất bằng cơ giới để đỡ tốn sức lao động.
+ Đất phù sa cũ, bạc màu, có sản phẩm feralitic chiếm 17,2% diện tích đất ruộng; Phân
bố rộng khắp, tập trung nhiều ở Tam Dương, Bình Xuyên, bắc Vĩnh Tường, Yên Lạc.
Ở Vĩnh Phúc, diện tích đất cần cải tạo chiếm 2/3 diện tích canh tác, trong đó hầu hết là
đất bạc màu, bằng biện pháp thuỷ lợi và bón nhiều phân hữu cơ.
+ Đất phù sa cũ có sản phẩm feralitic không bạc màu (pF) chiếm 15,4% diện tích đất
ruộng.
- Đất phù sa cũ có sản phẩm feralitic chua hoặc rất chua. Loại này có diện tích chiếm
khoảng 4%, phân bố rải rác khắp các huyện, thường xen kẽ với vùng bạc màu, ở địa hình
thường thấp hơn gồm các xã: Đoàn Kết, Trung Nguyên, Đồng Cương (Yên Lạc)…, Đại Đồng,
Vân Xuân, Bình Dương (Vĩnh Tường), Tam Dương, Bình Xuyên đều có.
- Đất phù sa có sản phẩm feralitic trên có lớp phù sa sông Hồng phủ dày trên 20cm
chiếm khoảng 1% diện tích các loại đất; phân bố chủ yếu ở ven sông Cà Lồ như Phúc Thắng (thị
xã Phúc Yên), Đạo Đức, Tam Canh, Phú Xuân (Bình Xuyên).
+ Đất phù sa úng nước nội đồng (Pu): Chiếm 14,5% diện tích đất ruộng. Phân bố ở các
xã Bình Định, Tề Lỗ, Tam Hồng (Yên Lạc), Tân Phong, Thanh Lãng (Bình Xuyên), Cao Đại, Vân
Xuân (Vĩnh Tường), Đồng Thịnh (huyện Sông Lô).
Vĩnh Phúc có 2 vùng chiêm trũng: Thuộc 2 hệ thống sông Hồng và sông Lô. Ở phía Nam Yên
Lạc, Vĩnh Tường thường ít chua hơn vì mang tính chất phù sa sông Hồng. Vùng Lập Thạch
mang tính chất phù sa sông Lô cũng ít chua.
Các chất tổng số: Đạm, kali trung bình khá; lân nghèo; các chất dễ tiêu: Đạm trung bình,
lân và kali nghèo can xi, ma nhê trung bình thường chỉ cấy 1 vụ lúa còn vụ mùa ngập nước.
+ Đất dốc tụ trồng lúa bị bạc màu (LD): Chiếm 9,75% diện tích ruộng; Phân bố ở hầu
khắp các huyện trong tỉnh như Lập Thạch, bắc Tam Dương, Bình Xuyên, ven theo các đồi núi
thấp, hình thành những dải ruộng nhỏ hẹp bậc thang hay dốc thoải.
Loại đất này chua nhiều, lớp mặt pha trộn nhiều cát, có nước thì tơi, bở, ít lắng rẽ như
đất bạc màu.
Các chất tổng số: Đạm trung bình khá, lân và kali nghèo. Các chất dễ tiêu: Đạm amôn và
kali khá, lân, can xi và ma nhê thấp; ít bị rửa trôi nên lượng mùn khá, lớp mặt chua do ảnh
hưởng nước rỉ chua của sắt, nhôm ở ven đồi núi rỉ ra.
Dinh dưỡng đất trên một số phương thức sử dụng chủ yếu cho thấy:
- Trên đất chuyên màu: Vùng bãi ven sông có độ phì khá lớn hơn vùng trong đê, xét trên
cả 7 chỉ tiêu đánh giá là độ chua pH, mùn, đạm, lân, kali tổng số và đạm, lân dễ tiêu.
- Trên đất 3 vụ: 2 lúa + 1 vụ đông.
Nhìn chung đất 2 vụ lúa 1 vụ đậu tương đông có hàm lượng mùn và đạm khá hơn đất
trồng ngô đông và khoai lang đông; đất trồng khoai lang trên nền 2 vụ lúa là xấu nhất.
- Đất trồng 2 vụ lúa: Nhìn chung xét cả hai loại đất là lầy thụt và phù sa sông Hồng, sông
Lô trên đất trồng 2 vụ lúa, các chỉ tiêu dinh dưỡng còn ở mức trung bình khá nhưng do chế độ
nước mà chế độ sử dụng đất phải chấp nhận ở 2 vụ lúa, điều kiện sản xuất vụ đông có khó khăn.
- Đất 1 lúa: Tập trung ở vùng đất trũng, chịu ảnh hưởng của chế độ ngập úng mùa mưa.
Nhìn chung đất có độ chua khá, hàm lượng mùn, đạm ở mức trung bình.
- Đất chuyên trồng rau: Mặc dù diện tích không nhiều nhưng đất trồng rau ít chua hơn so
với đất trồng các cây trồng khác, hàm lượng lân và kali khá hơn.
- Đất chuyên trồng hoa: Tương tự đất chuyên trồng rau tuy hàm lượng mùn và đạm vẫn
không thể vượt xa so với các chế độ sử dụng khác mặc dù đầu tư phân bón ở mức khá hơn
nhiều.Nói chung đất đai toàn tỉnh Vĩnh Phúc có độ phì ở mức trung bình thấp; hầu hết các loại
đất có hàm lượng lân và kali ở mức nghèo, đất chua và rất chua.