120
CON ðƯỜNG HOÀNG GIA André Malraux Making Ebook Project BOOKAHOLIC CLUB

André Malraux - s3.amazonaws.com · Malraux sinh t ại Paris vào n ăm 1901, là con trai c ủa Fernand-Georges Malraux và Berthe Lamy (Malraux). Cha m ẹ ông chia tay nhau

  • Upload
    vanphuc

  • View
    216

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

André Malraux

Making Ebook Project

BOOKAHOLIC CLUB

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

2

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

• Tên sách: CON ðƯỜNG HOÀNG GIA • Tác giả: André Malraux • Nguyên tác: La Voie Royal • Dịch giả: Hoàng Hữu ðản • Nhà xuất bản: Thanh Niên • Năm xuất bản: 2001 • Số trang: 382 • Khổ sách: 13x20cm • Giá bìa: 30.000 ñồng

ðánh máy: Kim Thoa, Diệp Anh, Nhật Vi, Thành Tài, Phạm Trang, Vân Anh, Thanh Loan Kiểm tra: Thu Diệp Chế bản ebook: Thu Diệp Ngày thực hiện: 3/10/2011 Making Ebook Project #184 – www.BookaholicClub.com

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

3

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

MỤC LỤC

MỤC LỤC

GIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ

LỜI CẢM TẠ

PREFACE

LỜI GIỚI THIỆU

LỜI TỰA

PHẦN THỨ NHẤT

I

II

III

IV

PHẦN THỨ HAI

I

II

III

PHẦN THỨ BA

I

II

III

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

4

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

IV

V

PHẦN THỨ TƯ

I

II

III

IV

BÌNH LUẬN

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

5

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

GIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ

André Malraux (3/11/1901 – 23/11/1976) là một nhà văn Pháp. Ông

cũng là người ưa ñi ñây ñi ñó. ðã ñi khắp cùng Trung Quốc và các nước

ðông Dương, Malraux ghi chép lại những gì trông thấy và cảm nhận ñược

của mình trong cuốn tiểu thuyết có tựa La Condition Humaine (Thân phận

con người). Tác phẩm này ñoạt ñược giải Goncourt năm 1933. Ông ñược

Tướng Charles de Gaulle chỉ ñịnh làm Bộ trưởng Bộ Thông tin (1945-1946),

sau ñó giữ chức Quốc vụ khanh (1958–1959), và là Bộ trưởng Bộ Văn Hóa

ñầu tiên dưới thời De Gaulle's làm Tổng thống nước Pháp (1959–1969).

Malraux sinh tại Paris vào năm 1901, là con trai của Fernand-Georges

Malraux và Berthe Lamy (Malraux). Cha mẹ ông chia tay nhau vào năm

1905, ñiều này khiến cho ông nội của ông ñã tự vẫn vào năm 1909.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

6

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Malraux lớn lên dưới sự nuôi nấng của mẹ, dì Marie và bà ngoại Adrienne

Lamy-Romagna, bà sở hữu một cửa hàng tạp hóa ở thị trấn Bondy nhỏ bé.

Cha của ông, một người môi giới chứng khoán, tự vẫn vào năm 1930 sau sự

kiện Ngày thứ ba ñen tối – ngày ðại khủng hoảng trên thị trường chứng

khoán. Chàng thanh niên Malraux rời bỏ việc học chính quy từ sớm, nhưng

bù lại ông thu ñược kiến thức từ công việc bán sách, nhân viên bảo tàng và

nhân viên trong thư viện.

Kết hôn lần ñầu với Clara Goldschmidt năm 1922, lần 2 với Marie-

Madeleine Lioux – nghệ sĩ dương cầm, năm 1948 và sống ngoài giá thú với

Josette Clotis – nhà báo, nhà văn trong khoảng thời gian giữa 2 lần kết hôn,

Malraux có 3 người con: 1 gái và 2 trai.

Các tác phẩm của Malraux, ñặc biệt là cuốn La Condition Humaine (Thân

phận con người), ñều gây ấn tượng mạnh. Tác phẩm Antimemoirs (Phản ký

ức) – một tập trong bộ truyện có tựa Miroir des limbes (Tấm gương của cõi

Minh phủ) cũng tuyệt vời không kém.

Năm 1968, Hiệp hội quốc tế Malraux ñược thành lập tại Mỹ. Tổ chức này

phát hành tạp chí Revue André Malraux Review tại trường ñại học Oklahoma

do Michel Lantelme làm chủ biên.

Tổ chức Amitiés internationales André Malraux ñược gây dựng tại Paris

và quảng bá cho những tác phẩm của ông.

Một trang web tiếng Pháp Site littéraire André Malraux cung cấp cho mọi

người những nghiên cứu và thông tin liên quan ñến André Malraux cũng như

những ñề tài về văn học, nghệ thuật, tôn giáo, lịch sử và văn hóa.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

7

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Cet ouvrage, publicé dans lè programme de participation à la publication,

bénéficie du soutien du Service Culturel et de Coopération de l’Ambassade

de France en République Socialiste du Vietnam.

Tác phẩm này xuất bản trong khuôn khổ chương trình tham gia vào việc

xuất bản, ñã ñược sự giúp ñỡ của Phòng Văn Hóa và Hợp Tác của ðại Sứ

Quán Pháp tại nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

8

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

LỜI CẢM TẠ

Chúng tôi chân thành cảm tạ

ðẠI SỨ QUÁN PHÁP TẠI HÀ NỘI

và TỔNG LÃNH SỰ QUÁN PHÁP

TẠI TP HỒ CHÍ MINH

ñã giúp ñỡ chúng tôi

về vật chất cũng như về tinh thần trong việc xuất

bản cuốn sách này

REMERCIEMENTS

Nous remercions

L’ AMBASSADE DE FRANCE AU VIETNAM

à Hanoi

et LE CONSULAT GENERAL DE FRANCE

À HOCHIMINH-VILLE.

du généreux concours qu’ils nous ont apporté pour

la publication de cet ouvrage.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

9

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

10

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Người nhìn lâu vào các giấc chiêm bao

thì sẽ trở thành giống như cái bóng của chính mình

Tục ngữ Malabar1

1 Một số bản in mở ñầu bằng một ñề từ không có trong nguyên bản cũng không có trong bản in của tủ

sách Pléiade, nhưng ăn khớp với một số ñề từ của cuốn La Tentation de L’Occident (sự cám dỗ của phương Tây).

“Kẻ nào nhìn khỉ lâu ngày

Sẽ trở thành giống hình bóng chính mình.”

(Tục ngữ Malabar)

ðoạn cũ nhất của cuốn Royatume – Farfelu (Vương quốc kỳ cục) xuất bản cùng một năm với La Voie Royale (Con ðường hoàng gia) bắt ñầu bằng cầu “Tôi viết ñể sở hữu ñược những giấc mơ của tôi” Những nhân vật phiêu lưu của Con ðường hoàng gia, cũng như tác giả của chúng, không chỉ bằng lòng với ước mơ, họ muốn cụ thể hóa ước mơ của mình.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

11

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

PREFACE

puor l’édition vietnamienne

ANDRÉ MALRAUX

ET LA VOIE ROYALE

Stéphane Doutrelant

Attaché de Coopération

Consulat Général de France

HoChiMinh-Ville

La Voie Royale, roman en partie autobiographique publié à Paris par les

editions Grasset en 1930, s’inspire du premier séjour d’André Malraux en

Indochine en 1923-1924. Il n’a alors que 22 ans quand il s’embarque à

Marseille sur le paquebot Angkor, à destination d’un Extrême-Orient qu’il

connaît depuis son adolescence par les livres et par la frequentation éclairée

des collections d’art asiatique du muse du Trocadéro et du muse Guimet à

Paris. Muni d’une autorisation offielle pour faire des recherché

archéologiques au Cambodge, royaume place sous le Protectorat français

d’Indocine, Malraux s’apprête à vivre aventure que le lecteur découvrira ici

dans sa transposition Romanesque.

Sans doute les données de la biographie de l’auteur, mediatesée par la

process que lui ont fait les autorités colonials pour avoir prélevé des bas

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

12

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

reliefs d’apsaras khmères dans la jungle, ont-elles contribute au jugement des

critiques de l’époque qui ont vu dans La Voie Royale un roman d’avantures

exotiques, genre hérité du XIXe siècle qui jouit d’un regain de popularité au

début du XXe siècle.

La Voie Royale est certes un roman d’aventures, mais don’t la finalité

n’est pas l’évasion romantique qui caractérise habituellement ce genre.

L’aventure n’est plus ici une fin en soi et sa narration ne se donne pas por

objectif de faire rêver le lecteur français avec l’exotisme de contrées

lointaines, inconnues de la grande majorité. Les influences littéraires ne sont

donc pas à chercher chez Jules Verne ou chez Pierre Loti, auteurs connus de

romans d’aventures à la fin du XIXe siècle, mais bien plutôt dans la

modernité d’un Joseph Conrad: à l’instar de;’auteur de Coeur des Ténèbres,

Malraux renouvelle le roman d’aventures en le chargeant d’une dimension

métaphysique. L’aventure et l’action, veritable laboratories, permettent à

l’homme, en le confrontant à des situations extremes, d’éprouver ses limites

et de se reveler.

Mais quelles sont ces limites don’t le jeune André Malrux a si fortement

conscience en ce début de siècle? Les limites qui s’imposent à nous, Malraux

leur donne un nom: Le Destin. Et te destin de l’homme, c’est d’abord la mort

– qu’il distingue du «trépas», la mort qui englobe tout ce qui écrase l’homme,

tout ce qui résiste à sa volonté: la maladie, la vieillesse et ses manifestations,

qui ont pour effet de nous faire prendre conscience de la vanité de la vie. De

cela, il est amplement question dans La Voie Royale.

Produit du bébat d’idées des vingt premières années de ce siècle, Malraux

vit avec angoisse la remise en cause des valeurs traditionnelles. L’Europe sort

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

13

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

tout juste de la barbarie de la Grande Guerre et, pour de nombreux

intellectuels, la religion n’apporte plus de réponse satisfaisante aux questions

que se pose l’homme. Dostoievski et Nietzsche sont passes par là: sans Dieu,

comment échapper à l’absurdité de la mort? Sans transcendance divine, sans

au-delà, cette vie – une vie et une seule – est notre seul terrain d’action. Si le

sens de l’existence n’est plus donné par reference à Dieu, c’est à l’homme de

lui donner un sens par son action. L;existentialisme de sa jeunesse, Malraux

le résume ainsi à Julien Green: “entre dix-huit et vingt ans, la vie est comme

un marché où l’on achète des valeurs, non avec de l’argent, mais avec des

actes. La plupart des homes n’achètent rien.”

Comme la plupart de ses romans, Malraux situe La Voie Royle en Asie, en

Indochine, qu’il connaît pour y avoir sojourné à deux reprises –

principalement à Saigon - en 1923-1924 et en 1925. Cette Asie, cet Orient

Extrême, gardera toujours pour lui une signification particulière. En 1966,

dans Le Miroir des Limbes, évoquant la fascination que l’Asie exerça sur sa

jeunesse, il commente la function de cette rencontre, de cette confrontation

avec une autre culture qui “tenait à une surprise essentielle devant les forms

qu’a pu prendre l’homme, mais aussi à l’éclairage que toute civilization

étrangère projetait sur la sienne, à la singularité ou à l’arbitraire qu’il révélait

en tel de ses aspects”.

Cette function de l’Orient dans sa pensée, Malraux l’expose la première

fois dans La Tentation de l’Occident2, essai épistolaire publié quatre an

savant La Voie Royale. C’est au contact de l’Orient qu’il comprend le mieux

l’Occident, en vertu du principe selon lequel c’est par l’examen et la

2 La Tentation de l’Occident est disponible en vietnamien dans une traduction publicée en 1997 par la Dr Le Trong Bong aux editions TheGioi.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

14

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

confrontation des oppositions que l’on arrive à apprehender les valeurs

fondamentales d’une culture. Cette method dialectique et contrastive,

Malraux l’applique également à l’analyse des oeuvres d’art: “le genie grec

sera mieux compris par l’opposition d’unne statue grecque à une statue

égyptienne ou asiatiqu, que par la connaissance de cent statues grecques”. On

sait l’importance que la réflexion sur l’art eut tout au long de sa vie et don’t

La Voie Royale se fait l’écho dans les échanges entre Claude Vannec et

Ramèges.

Si la première partie de La Voie Royale, l’expédition au temple de Banteaï

Srey, est intimement liée à la biographie de l’auteur, la deuxième partie du

roman, l’histoire de Perken et les récits lies à la vie d’aventuriers français en

Indochine à la fin di XIXe siècles: David de Mayréna, Marie Ier roi des

Sédangs, qui en 1888 tente fédérer les tribus insoumises des hauts plateau et

tint tête aux autorités colonials. Ephémère «roi», Perken évoque à plusieurs

reprises la legend de cet aventurier mégalomane et Romanesque. Mais aussi

l’archéologue Prosper Odend’hal qui, en 1906, mourut assassin en pays Jarai

dans sa quête du Sabre sacré du Sadète du feu. Ou encore Henri Maître,

explorateur géographe qui, vers 1910, parcourut les terres inecplorées du sud

de la peninsula indochinoise et qui, comme Perken, voulait laisser «une

cicatrice» sur la carte.

Malraux connaît l’histoire de ces homes, foncièrement individualists, qui

préférainent risquent la mort plutôt que de renoncer à l’idée qu’ils se faisaient

de leur destin. Dans les Antimémoires, texte écrit au crepuscule de sa vie,

Malraux évoque ces aventuriers et revient longuement sur La Voie Royale et

sur Perken: “Le livre et le personage sont nés d'une meditation sur ce que

peut l’homme contre la mort. D’où ce type de héros sans cause, prêt à risqué

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

15

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

la torture pour la seule idée qu’il a de lui-même, et peut-être pour une sorte de

saisie fulgurante de son destin, parce que le risqué de la torture lui paraît seul

vainqueur de la mort”.

Le désespoir qui domine la fin du roman, le Destin qui semble avoir le

dernier mot, font basculer le récit d’aventures dans la tregédie et ajoutent à la

force de ce livre, incarnée par Perken, figure prométhéenne qui tire sa

grandeur de sa lucidité et de la résistance qu’il oppose au Destin. “Battu, mais

pas vaincu”, aurait dit Hémingway.

La traduction de Monsieur Hoang Huu Dan fait justice à un auteur qui,

plus que tout autre intellectual français, eut l’intuition du devenir-du destin-

qui serait celui du Vietnam.

De sa formation classique chez les pères franciscains dans les années 30,

Monsieur Dan gardé la passion des letters auxquelles il consacre sa vie.

Helléniste et latiniste, il est l’auteur de la traduction vietnamienne en vers de

l’Iliade et de L’Odyssée, ainsi que de quatre monuments de la tragédie

grecque: Prométhée Enchaîné, Oedipe Roi, Antigone,et Médée. Mais c’est à

la diffusion de la literature française au Vietnam qu’il s’emploie depuis

plusieur décennies. Traducteur des traductions de Flaubert, de Zola et, plus

récemment, de Pagnol.

Comme nombre de traducteurs littéraires, Monsieur Dan est lui-même

écrivain. Auteur d’une oeuvre poétique conséquente, il est également

dramaturge. Le Secret du Jardin des Letchis, qu’il écrit en 1962 à l’occasion

du 520ème anniveraure du roi La Loi, est une tragédie historique à these sur la

mort du roi Ly Thai Ton, qui est l’origine de la chute de Nguyen Trai.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

16

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

La maîtrise qu’a Monsieur Dan de l’art de la traduction littéraire, sa

connaissance intime du roman modern et de la tragédie frecque en faisaient le

traducteir iodine pour render en langue vietnamienne La Voie Royale, roman

dans lequel le soufflé épique, le lyrisme et le style aphoristique reflètent au

plus près les interrogations d’un André Malraux qui reste d’une éclatante

modernité à l’aube du XXIe Siècle.

Ho Chi Minh-Ville, le 2 janvier 2000

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

17

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

LỜI GIỚI THIỆU

Viết cho lần xuất bản bằng tiếng Việt

ANDRÉ MALRAUX

và tiểu thuyết CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

Stéphane Doutrelant Tùy viên Hợp

tác của Tổng Lãnh sự quán Pháp tại

Thành phố Hồ Chí Minh

Con ðường Hoàng gia là một cuốn tiểu thuyết tự truyện. Nó ñược nhà

xuất bản Grasset in và phát hành tại Paris năm 1930. ðề tài của nó ñược rút

ra từ những năm 1923-1924. Ông mới hai mươi tuổi khi ông bước chân

xuống chiếc tàu Angkor tại cảng Marseille ñể sang Viễn ðông, một xứ Viễn

ðông mà ông ñã ñược biết qua sách vở và qua những buổi thường xuyên lui

tới các Viện Bảo tàng Trocadéro va Guimet, nghiên cứu, tìm hiểu những bộ

sưu tập về nghệ thuật Á ðông. Ông ñược cấp một giấy phép chính thức ñể

tiến hành những chuyến tìm tòi khảo cổ tại Campuchia, một Vương quốc ñặt

dưới quyền bảo hộ của Chính phủ Pháp tại ðông Dương. Malraux chuẩn bị

sẵn sàng sống một cuộc sống phiêu lưu mà ñộc giả sẽ phát hiện ra ở ñây dưới

hình thức một cuốn tiểu thuyết. Chắc chắn những dữ kiện về tiểu sử tác giả,

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

18

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

ñược thể hiện cụ thể qua bản án của nhà chức trách kết tội ông ñã chiếm ñoạt

một số phù ñiêu tượng phật Apsara của Khơme ở trong rừng rậm, ñã phần

nào làm cơ sở cho ý kiến của các nhà phê bình ñương thời; họ ñã nhìn thấy ở

Con ðường hoàng gia một cuốn tiểu thuyết viết về những vùng ñất lạ - là

một thể loại thừa kế của thế kỷ XIX và ñang ñược quần chúng hâm mộ trở lại

trong những năm ñầu thế kỷ XX. ðúng Con ðường hoàng gia là một cuốn

tiểu thuyết phiêu lưu, nhưng cứu cánh của nó không phải là ñể dẫn tới một sự

thoát ly lãng mạn như người ta thường thấy trong loại sách này. Ở ñây, truyện

phiêu lưu tự nó không còn là một cứu cánh nữa, và khi kể truyện tác giả

không nhằm gây cho ñộc giả Pháp say sưa mơ màng về vùng ñất xa xôi mà

phần lớn họ chưa hề biết ñến bao giờ. Vậy ta sẽ không tìm thấy trong ñó ảnh

hưởng của Jules Verne hay của Pierre Loti, là những tác giả quen thuộc của

những cuốn tiểu thuyết phiêu lưu của thế kỷ XIX, mà nói ñúng hơn, là ta tìm

thấy ảnh hưởng của tính hiện ñại của Joseph Conrad. Tương tự như tác giả

cuốn Trái tim của Bóng tối (Coeur des Ténèbres), Malraux ñã ñổi mới tiểu

thuyết phiêu lưu bằng cách nâng nó lên tầm cỡ siêu hình học. Phiêu lưu và

hành ñộng, như những phòng thí nghiệm thực sự, cho phép con người ñối

mặt với những hoàn cảnh cực ñoan, kiểm nghiệm ñược giới hạn thật của

mình và tự bộc lộ.

Nhưng ñâu là những giới hạn mà chàng thanh niên André Malraux ñã ý

thức ñược vào những năm ñầu thế kỷ? Những giới hạn mà con người phải cúi

ñầu chấp nhận, Malraux ñặt cho nó cái tên là “Số phận”. Và số phận con

người trước tiên là Cái Chết – ông phân biệt cái chết (la mort) với sự qua ñời

(le trépas) - cái chết nó bao trùm tất cả những cái gì chà ñạp, nghiến nát con

người, tất cả những cái gì chống lại ý muốn của con người: bệnh tật, tuổi già

và những biểu hiện của nó, tất cả những gì có tác dụng làm cho chúng ta ý

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

19

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

thức ñược cái hư vô của cuộc ñời. trong Con ðường hoàng gia, vấn ñề này

ñược ông ñề cập tới một cách rộng rãi và sâu sắc.

Là sản phẩm các cuộc tranh luận tư tưởng hai mươi năm ñầu thế kỷ XX,

Malraux bàng hoàng nhìn thấy những giá trị truyền thống ngày nay ñang bị

xáo lộn. Châu Âu vừa ra khỏi cái dã man của cuộc ðại Chiến Thế Giới, và

ñối với số ñông các nhà trí thức, tôn giáo không cỏn mang lại một câu trả lời

thỏa ñáng cho những vấn ñề mà con người ñang ñặt ra – Dostoievski và

Nietzsche ñã trải qua tâm trạng ñó: - Không có Thượng ðế, làm sao thoát

khỏi cái phi lý của cái chết? Không có một ý niệm thần linh siêu việt, không

có một ñời sống ở thế giới bên kia, thì cuộc sống hiện tại – nó là một và chỉ

một mà thôi – là môi trường hoạt ñộng duy nhất của chúng ta. Nếu ý nghĩa

của sự tồn tại không ñược quy vào Thượng ðế nữa thì chính con người phải

bằng hành ñộng mà ñem lại cho sự tồn tại của mình một ý nghĩa. Tư tưởng

hiện sinh của Malraux thời còn trẻ, ông ñã tóm tắt lại với Julien Green như

sau: “Giữa cái tuổi mười tám ñôi mươi, cuộc ñời như một cái chợ mà người

ta mua mọi giá trị không phải bằng tiền mà bằng hành ñộng. phần lớn người

ta chẳng mua gì cả.”

Cũng như phần lớn các tiểu thuyết của mình, Malraux ñặt Con ðường

hoàng gia vào ñịa bàn Châu Âu, ở ðông Dương mà ông quen biết vì ñã hai

lần ở ñó, chủ yếu ở Saigon, vào năm 1923-1924 và năm 1925. Cái Châu Á

ấy, cái Phương ðông cực xa ấy, ñối với ông, vẫn luôn luôn mang một ý nghĩa

ñặc biệt. năm 1966, trong cuốn Le Miroir des Limbos (Tấm gương của cõi

Minh phủ), nhắc lại sức quyến rũ của Á Châu ñối với tuổi trẻ của mình, ông

bình luận về chức năng của cuộc tiếp xúc này, của cuộc ñối ñầu với một nền

văn hóa khác – cuộc ñối ñầu vừa như là một sự ngạc nhiên mang tính bản

chất trước những hình thái khác nhau mà con người có thể khoác cho mình

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

20

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

tùy nơi tùy lúc, ñồng thời vừa như là ánh sáng của các nền văn minh ngoại

lai rọi vào nền văn minh của nó, một nét cá biệt hay ñộc ñoán bộc lộ ra ở

phương diện này hay phương diện kia của nó.»

Cái chức năng của Phương ðông trong tư tưởng của Malraux, ông diễn

ñạt qua cuốn La Tentation de l’Occident (Sự cám dỗ của phương Tây) – tiểu

luận thư tín xuất bản bốn năm trước Con ðường hoàng gia. Chính nhờ có

tiếp xúc với Phương ðông mà ông hiểu rõ Phương Tây hơn hết. theo nguyên

tắc: Chính là bằng sự nghiên cứu và ñối chiếu các mặt ñối lập mà người ta có

thể hiểu rõ ñược các giá trị cơ bản của một nền văn hóa. Phương pháp biện

chứng và tương phản ấy, Malraux ñã áp dụng vào việc phân tích các tác phẩm

nghệ thuật: “Thiên tài Hy-Lạp sẽ ñược hiểu rõ hơn bằng cách ñối lập một

bức tượng Hy-Lạp với một bức tượng Ai-Cập hay một bức tượng Á Châu,

hơn là bằng sự hiểu biết một trăm tượng Hy-Lạp.” Người ta ñã biết tầm quan

trọng với những suy nghĩ về nghệ thuật mà Malraux ñã phát biểu rải rác trong

suốt cuộc ñời ông và ñã ñược hồi âm lại trong cuốn Con ðường hoàng gia,

qua những cuộc trao ñổi ý kiến giữa Ramèges với Claude.

Nếu như phần ñầu của cuốn Con ðường hoàng gia kể lại chuyến ñi khảo

sát ñền Banteai Srey, với nhân vật trung tâm là Claude, liên quan mật thiết

ñến tiểu sử của tác giả, thì phần thứ hai, trong ñó nhân vật trung tâm là

Perken và Grabot, lại là bắt nguồn từ những huyền thoại và những câu

chuyện kể liên quan ñến một số nhà phiêu lưu Pháp cuối thế kỷ XIX – ñầu

thế kỷ XX: David de Mayrena, Marie Ier Vua người Sedang – cuối thế kỷ

XIX ñã cố sức liên kết các bộ tộc không chịu khuất phục của miền Tây

Nguyên chống lại các nhà ñương cục thực dân. Cũng là một “ông vua phù

du”, Perken ñã nhiều lần gợi lại cuộc ñời của tay phiêu lưu mơ mộng hoang

tưởng này. Câu truyện cũng liên quan ñến nhả khảo cổ học phiêu lưu Prosper

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

21

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Odend’hal, năm 1906 bị ám sát tại vùng Giarai trong khi ông ñi tìm Lưỡi

Gươm Thần do gã Thầy mo của Lửa cất giữ. Hay ñến cả Henri Maitre, nhà

thám hiểm ñịa lý năm 1910 ñã ñi khắp những vùng ñất chưa ai ñặt chân tới

miền Nam bán ñảo ðông Dương và cũng như Perken, muốn ñể lại một “vết

sẹo” trên bản ñồ.

Malraux biết tiểu sử những con người ñó, những con người hoàn toàn cá

nhân chủ nghĩa ñã chọn châu Á làm ñịa bàn hoạt ñộng và thích ñương ñầu,

thử thách cái chết hơn là từ bỏ ước vọng của mình. Trong cuốn Antimémoires

(Phản ký ức) viết năm 1967, vào lúc hoàng hôn của cuộc ñời, Malraux lại

nhắc tới những con người phiêu lưu này và trở lại cuốn Con ðường hoàng

gia, với nhân vật Perken trong khá nhiều trang: “Cuốn sách và nhân vật ra

ñời từ một suy tư về cái gì con người có thể làm ñược ñể chống lại cái chết.

Do ñó mà xuất hiện kiểu người hùng không mục ñích, sẵn sàng chấp nhận cả

sự tra tấn chà ñạp, duy nhất chỉ vì một ý tưởng tự khẳng ñịnh mình, và có lẽ

vì một sự bắt gặp chớp nhoáng và chói lọi với Số Phận, bởi vì, ñối với ông,

dường như chỉ có cách liều mạng chịu tra tấn quằn quại mới có thế chiến

thắng cái chết.”

Tuyệt vọng bao trùm lên phần kết thúc của cuốn tiểu thuyết, cái Số Phận

có vẻ như có tiếng nói cuối cùng, làm cho câu chuyện phiêu lưu chuyển thành

một bi kịch và tăng thêm sức mạnh của cuốn sách; sức mạnh ấy thể hiện qua

nhân vật Perken, một gương mặt mang dáng dấp Prométhée, mà cái ñẹp tỏa

ra từ cuộc phản kháng của anh chống lại cái Số Phận: “Bị ñánh nhưng không

bị thua” theo cách nói của Hemingway.

Bản dịch của ông Hoàng Hữu ðản ñã thừa nhận cái nhìn sắc sảo của một

tác giả mà, hơn bất cứ một nhà trí thứ nào khác của nước Pháp, ñã thấy trước

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

22

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

ñược, bằng trực giác, cái “ñang trở thành” - tức cái “số phận” tương lai dân

tộc Việt Nam.

ðược tiếp thu một nền giáo dục cổ ñiển trong nhà trường các cha dòng

Franciscain ở những năm ba mươi, ông Hoàng Hữu ðản ñã luôn duy trì ñược

niềm say mê văn học…

Là nhà Hy-lạp học và Latinh học, ông là tác giả bản dịch toàn văn bằng

thơ tiếng Việt của hai Anh hùng ca Iliade và Odyssée, và của bốn bi kịch vĩ

ñại cổ Hy-Lạp, Prométhée bị xiềng, Edipe Làm Vua, Antigone và Médée.

Nhưng chính là ñể phổ biến văn học Pháp mà ông ñã cống hiến nhiều công

lao, sức lực của mình trong nhiều thập niên nay. Là dịch giả của Corneille –

Le Cid, Horace… ông cũng ñã dịch những tác phẩm của Flaubert, Zola, và,

gần ñây, của Marcel Pagnol.

Cũng như nhiều dịch giả văn học, bản thân ông ðản là một nhà văn, tác

giả một sự nghiệp thơ quan trọng. Ông còn là một nhà viết kịch sân khấu. Vở

Bí mật Vườn Lệ Chi của ông viết năm 1962 nhân dịp kỷ niệm 520 năm ngày

mất của nhà thơ Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc và là nhà chiến lược

của vua Lê Lợi, là một vở kịch luận ñề lịch sử về cái chết của vua Lê Thái

Tôn, ñầu mối vụ án oan nghiệt của Nguyễn Trãi.

Khả năng của ông Hoàng Hữu ðản trong dịch thuật văn học, sự hiểu biết

sâu của ông về tiếu thuyết hiện ñại cũng như về bi kịch Hy-Lạp, ñã khiến ông

trở thành một dịch giả xứng hợp ñể dịch tiếng Việt cuốn Con ðường hoàng

gia, cuốn tiếu thuyết trong ñó cảm hứng sử thi, yếu tố trữ tình và phong cách

châm ngôn phản ánh gần như hoàn chỉnh những câu hỏi của một André

Malraux, nhà văn mãi mãi sáng ngời tính chất hiện ñại trong buổi bình minh

của thế kỷ XXI.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

23

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 2 tháng 1 năm 2000

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

24

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

LỜI TỰA

Christiane MOATTI

Xuất bản khi nhà văn chưa ñến ba mươi tuổi, là một “câu truyện – ngã ba

ñường” không biết nên xếp vào thể loại nào. Những mộng tưởng phiêu lưu

ñây ñó quen thuộc của tuổi ấu thơ, sự nổi loạn và bất tuân phục của tuổi vị

thành niên, sự khiếp sợ của tuổi già nhìn thấy những tham vọng của mình ñổ

vỡ mà ñành chịu bất lực, ñều ñược biểu hiện một cách cô ñọng và ñậm ñà

trong cuốn sách này. Sau một cuốn tiểu thuyết ñầu tiên Những Người Chinh

Phục, mà chính tác giả ñánh giá là cuốn tiểu thuyết của tuổi vị thành niên,

Malraux ñã hình thành, trong cuốn sách thứ hai này, một lối viết và một thế

giới mang dấu ấn mãnh liệt của riêng ông, trong ñó sự bỡ ngỡ, sự hoạt ñộng

táo bạo, nguy hiểm, pha trộn với những ý nghĩ siêu hình. Tập truyện ký tương

ñối ngắn này không nổi tiếng bằng cuốn “Thân Phận Con Người” hay cuốn

“Hy Vọng”, chứa ñựng mầm mống nhiều ý niệm – chủ ñạo của sự nghiệp

sáng tác của ông, kể cả tiểu thuyết và tiểu luận. như chính ông ñã khẳng ñịnh

khi nói về Dostoievski: “một tiểu thuyết ñích thực bao giờ cũng chỉ có một

chủ ñề ñích thực: cái mà tác giả quan tâm sâu sắc hơn tất cả, dù ông ta có biết

hay không biết”. Cuốn sách này, cũng như quyển trước nó và quyển sau nó,

trước tiên là một bản cáo trạng về thân phận con người.

Thế nhưng ñọc qua lần ñầu, nó ñã tỏ ra là một cuốn tiểu thuyết hành ñộng

ở nhịp ñộ nhanh. Cốt truyện có nhiều tình tiết có thể tóm tắt như sau.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

25

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Chàng trai người Pháp Claude Vannec ñi sang Campuchia tìm kiếm

những kho tàng nghệ thuật Khmer tại vùng Angkor, mà chưa một nhà khảo

cổ nào của Nhà Nước khám phá. Anh tưởng có thể tìm thấy lại Con ðường

hoàng gia – con ñường xưa kia nối liền Angkor với vùng hồ lưu vực sông

Ménam. Anh tin chắc rằng rải rác dọc con ñường ấy – có nhiều ñền chùa ñã

bị ñổ nát và vùi lấp dưới những khu rừng rậm rạp cận nhiệt ñới chưa ñược

xác ñịnh vị trí cũng như chưa ñược kiểm kê về kho tàng báu vật của chúng.

Cái dự án ñối với anh khá hấp dẫn vì có hai cái lợi sau ñây: một là kiểm tra

xác minh tính thực tế của giả thiết, hơn nữa kiếm ñược một món tiền nhất

ñịnh nhờ bán các hiện vật sẽ thu thập ñược trong chuyến ñi mạo hiểm ấy, ñể

có thể sống một cuộc sống tự do sau này. Trên chuyến tàu biển ñi ðông

Dương, anh gặp một gã phiêu lưu dường như không theo quốc tịch nào

nhưng có uy tín. ðó là Perken. Anh bắt tay với Perken cùng nhau tiến hành

cuộc thám hiểm, bởi Perken là con người giàu kinh nghiệm sống nơi rừng

núi. Về phía mình, Perken cũng dễ dàng bị thuyết phục trước cái triển vọng

có thể chia nhau những món lợi mà những phát hiện có thể mang ñến cho họ;

bởi y ñang cần tiền ñể mua súng – phương tiện duy nhất giúp y bảo vệ ñược

những vùng rừng núi xa xôi tận cùng biên giới Lào – Xiêm3 mà y ñã trở

thành ông chủ. Y cũng dự ñịnh ñi qua vùng ñất Tây nguyên, về phía Bắc, ñể

tìm Grabot, một người Âu mất tích trong một chuyến ñi công cán.

Sau khi ñã cùng nhau vượt nhiều khó khăn gian khổ, hai người tìm thấy

ñược một ngôi ñền và tước ñoạt ñược một số hiện vật kiến trúc tuyệt mỹ.

Nhưng mất người dẫn ñường, họ bắt buộc phải ngang qua một vùng gần như

man rợ và bất ổn, ñể ñi tìm Grabot. Họ ñi về phía núi. Sau nhiều ngày vượt

suối băng ngàn, họ tìm thấy Grabot trong một làng người dân tộc Thượng;

1 Tên cũ của nước Thái Lan.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

26

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

anh ta ñã bị bắt làm nô lệ và bị mù. Nhờ sự can ñảm và mưu mẹo của Perken,

họ thoát ñược cái bẫy chết người của những vùng này, và Grabot ñược gửi

sang Bangkok ñể ñược chăm sóc sức khỏe. Nhưng Perken ñã không may bị

thương dọc ñường vì anh ñã dám dũng cảm chống lại cả bộ tộc ñang tập hợp

ñông ñảo. Claude không muốn bỏ bạn lại, một mình trong hoàn cảnh bi ñát.

Hai người tiếp tục cuộc hành trình khó khăn của mình, xuyên rừng, về hướng

“Vương quốc” Perken. Cuốn tiểu thuyết kết thúc một cách bi kịch trước khi

họ ñi tới nơi dự ñịnh.

Câu chuyện sinh ñộng ñầy những tình tiết phiêu lưu ngoại lai, bắt ñầu trên

ñại dương và kết thúc trên rừng cận nhiệt ñới ấy, ñã mang ñến cho ñộc giả

thời gian giữa hai cuộc chiến tranh cái cảm xúc say sưa của sự ngỡ ngàng lạ

người lạ cảnh, trong một thời kỳ chưa có những ñoàn du lịch ñông người trên

những miền ñất xa xôi. Họa hoằn chỉ vài người vì nhu cầu nghề nghiệp, vì

máu phiêu lưu hay vì tò mò muốn ñi sưu tầm những hiện vật nghệ thuật hoặc

tìm hiểu những bộ tộc ít người mà rời ñất nước ñi tìm ở phương xa những

cảm giác, những tình huống mới lạ chưa hề biết ñến, như Kessel ñi Sahara,

Claudel ñi Trung Quốc, Farrère ñi sang ñất nước Phù Tang. Con ðường

hoàng gia chọn làm bối cảnh chính cái phương ðông, mà những ảo ảnh,

trong thế kỷ vừa qua, ñã từng thu hút bao nhiêu nhà văn du khách –

Chateaubriand, Lanmartine, Nerval, Flaubert, Gobineau, Loti và sau ñó là

Ségalen. Vì những ñộng cơ, những lý do khác nữa, Châu Á hiện ñại một lần

nữa lại trở thành một chủ ñề thời thượng trong giới văn học, thời trai trẻ của

Malraux. Nó ñã trở thành một trong những “thiên ñường ưu việt của mộng

mơ”4. ñối với Malraux, cũng như với Saint-John Perse, Morand và các nhà

văn siêu thực. Năm 1930, khi cuốn Con ðường hoàng gia ñược xuất bản, hội

4 Chữ của Malraux trong cuốn “Le Miroir des Limbes (Tấm gương cõi Minh Phủ)”

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

27

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

ñồng giải thưởng Goncourt ñã chọn ñể tặng giải một cuốn truyện phiêu lưu

nơi ñất lạ: cuốn Malaisie (Malaixia) của Henri Fauconnier. Thật là một việc

làm có ý nghĩa.

Những cái tên thành phố, Djibouti, Bab-el-Mandeb, Colombo, Bangkok,

Saigon, Angkor…ñối với phần ñông người Pháp lúc bấy giờ chỉ là những cái

chấm trên bản ñồ, ñược tưởng tượng ra từ những cuốn sách họ ñọc ñược hoặc

từ một vài bức ảnh hiếm hoi… ñánh dấu các chặng ñường ñã ñi qua của các

nhân vật Con ðường hoàng gia. Sau ñó các nhân vật này tiếp xúc với giới

ñộng vật và thực vật cực kỳ phong phú của cái xứ sở “Campuchia ñang bị tan

rã”, với khí hậu gió mùa ẩm ướt quanh năm. Chúng ta ñi sâu vào bầu không

khí ngột ngạt và ấm áp của những khu rừng chằng chịt dây leo và xao xác

tiếng côn trùng, trong một thứ ánh sáng vàng ố. Chúng ta ñược chiêm ngưỡng

trong khung cảnh sơ thủy của nó một ngôi ñền Brahman cổ với hàng ngàn

hình chạm, vừa hết sức ñồ sộ vừa hết mực tinh vi.

Chúng ta cùng chung niềm xúc ñộng khi ñứng trước cái ñẹp xốn xang tâm

hồn, dưới lớp gỉ thời gian của những di tích Khmer, dấu vết còn ñể lại của

một ñế quốc hùng mạnh ñã mất mà hầu như người ta không biết tí gì về nó.

Những truyện thần thoại chứa ñựng trong bộ sử thi ñồ sộ Ramayana ñược

phổ biến rộng rãi ở Châu Á ñã sống lại ñược với chúng ta qua những chủ ñề

thể hiện ở các phù ñiêu chạm khắc, ñồng thời cũng qua những bài hát kể của

một nghệ sĩ hát rong trên ñường phố Phnom-Penh. Rồi theo dấu chân các

lãng tử người da trắng, chúng ta tiến sâu vào hậu phương mới ñược thám

hiểm nửa vời của những tỉnh xa xôi hẻo lánh nhất của nước Xiêm, nước

Campuchia và Lào. Ngay từ khi còn ở trên tàu rẽ sóng chạy về hướng Châu

Á, người ta ñã nhắc ñến một số người phương Tây ít nhiều ñáng tin cậy bị

các xứ thuộc ñịa này hấp dẫn: những người ñi khai thác hay những người

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

28

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

thương nhân ham muốn làm giàu một cách nhanh chóng, những nhà thông

thái say sưa ñi tìm những chuyện kỳ lạ về dân tộc học hay khảo cổ học,

những tên quan cai trị dựa vào vũ lực ñể áp ñặt quyền hành nhân danh các

nhà nước thực dân mà họ ñại diện. Tới ñây, người ta ñược biết rằng những

nhà nước thực dân này thường quan tâm ñến cứu cánh hơn là phương tiện, vì

vậy mà ủy thác những công việc thăm thú ñầy nguy hiểm khó khăn cho

những tay phiêu lưu ngoài phận sự, sẵn sàng lao thân vào mọi thứ hiểm nguy.

Những tình tiết xảy ra trong quá trình hành ñộng ñã cho phép chúng ta phát

hiện ra nhiều bộ tộc bản xứ khác nhau. ðiều kiện ăn ở của họ, những chuyện

ñánh nhau giữa bộ tộc này với bộ tộc kia, những nghi thức và tín ngưỡng của

họ, làm nảy sinh trong chúng ta cái ấn tượng sâu sắc về sự lạ kỳ mang tính

chất huyền bí của các bộ tộc này: nào sự bất khả vi phạm của lời thề uống

rượu, nào những nghi thức tang ma, những ngôi mộ chạm trổ những chủ ñề

khêu gợi… Như vậy, theo một phương thức hoàn toàn khác tập tiểu luận “Sự

cám dỗ của phương Tây”, tác giả ñã cho chúng ta chứng kiến cuộc chạm trán

nảy lửa giữa hai nền văn minh, người dân bản xứ ñã phải dùng bạo lực ñể tự

vệ, chống lại sự xâm nhập và sức mạnh của người Da Trắng.

ðộng cơ của Malraux không phải là ñi tìm cái yếu tố ngoại lai và cái ñẹp

tuyệt vời của cảnh vật, mà là tìm những sự kiện nho nhỏ mà thực, theo kiểu

Stendhal, ông mở ra những tầm nhìn lớn vào cái lục ñịa mới mẻ kia, bằng

một vài chi tiết cụ thể liên quan chặt chẽ với tình huống câu truyện ñang kể.

Ông ý thức rằng mình ñang gợi lại, trong cuốn sách của ông, hình ảnh một

thế giới mà trước sau rồi cũng bị triệt tiêu hay ít ra cũng bị biến ñổi một cách

sâu sắc một khi những sự khác biệt ñã dần dần bị xóa sạch. Cái ý nghĩ này

ñược diễn ñạt một cách kín ñáo trong những trang mô tả và kể truyện, nhưng

khá rõ ràng qua những lời phát biểu của Perken. Nó không ñi kèm theo những

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

29

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

câu xác ñịnh lập trường tương tự công khai xung quanh vấn ñề xung ñột

thuộc ñịa theo kiểu Bodard, Jules Roy hay Larteguy. Ở ñây, cuốn tiểu thuyết

không chuyển sang màu sắc chính trị, càng không phải là một cuốn tiểu

thuyết luận ñề. Tuy nhiên, trong những chương cuối tiểu thuyết, người ta thấy

sự tiến bộ kỹ thuật dưới dạng một con ñường sắt, ñẩy dần, ñẩy dần xa mãi

vào xứ sở dã man, ñến những miền ñất không thể khai phá nổi – nghĩa là ñến

sự diệt vong – những bộ tộc bản xứ bị rơi vào cảnh ñói khát nghèo nàn, còn

những kẻ ñi khai khẩn thì tàn phá rừng và hủy hoại môi trường thiên nhiên.

Những ý niệm trên ñây không bắt nguồn từ một chủ nghĩa ngoại lai tùy

hứng. Nó có cơ sở vững chắc ở những cuộc tiếp xúc thực tế của bản thân tác

giả và ở bằng chứng có thực của một số người Âu khác ñáng tin cậy. Cái số

phận hư cấu cũng như lai lịch các nhân vật ở ñây thuộc về văn học kinh

nghiệm ñã hình thành trong khoảng năm ba mươi và thông qua những thể tài

rất khác nhau do tác dụng của những tác phẩm ñi tiên phong, từ cuốn tiểu

thuyết Nadia của Henri Breton, cho ñến cuốn Voyage au bout de la nuit

(Cuộc du lịch vào cuối ñêm) của bác sĩ Destouches tức Céline. Tất cả các tiểu

thuyết của André Malraux ñều là những sự chuyển di từ những kinh nghiệm

thực tế, dứt khoát sang tưởng tượng: chất hư cấu lãng mạn bắt nguồn và khắc

sâu ý nghĩa của nó trong những phản ứng riêng biệt của tác giả trước những

tình huống nào ñó của cuộc sống thực; chính cái thực tế ñã ñược sống này

mang lại cho cái thế giới tưởng tượng kia sự bảo ñảm của tính ñích thực của

nó. Nhưng trong Thân phận con người, Hy Vọng, Thời gian của sự khinh bỉ

(Le temps du mépris), tác giả ñã thêu dệt tình tiết và hư cấu nhân vật bằng

cách mở rộng những kinh nghiệm cá nhân mình ñến tầm cỡ những sự kiện

tập thể lớn của thế kỷ mà ông ñã từng tham gia, khiến người ta hút vai trò của

con người trong ñó. Trái lại trong cuốn Con ðường hoàng gia, ông vẫn còn

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

30

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

ñứng gần những diễn biến của ñời sống riêng tư của ông. Tập truyện này là

một cuốn sách mang nhiều yếu tố tự truyện hơn tất cả. Nào chuyện cãi cọ bất

ñồng với Chính phủ thuộc ñịa, nào chuyện khó khăn trong việc tách những

tấm ñá chạm ra khỏi một ngôi ñền cũ Khmer và việc chuyên chở chúng ñi,

mảng tình tiết cơ bản tạo nên kết cấu của cốt truyện ở phần ñầu cuốn sách, ñó

là những trang văn tiểu thuyết hóa và kịch tính hóa cuộc phiêu lưu ðông

Dương ñã ñược Clara và André Malraux thực tế trải qua và còn ñể lại dấu vết

trong các tập hồi ký của họ.

Tóm lại, sự việc thế này: ñôi vợ chồng ra ñi ñể tìm kiếm những kho tàng

nghệ thuật và khảo cổ, ñã phát hiện ñược trong núi rừng Campuchia một ngôi

ñền nhỏ ñổ nát; họ ñã dùng cưa cắt rồi ñược một vài mẩu chạm trổ mang ñi.

Học bị bắt giữ tên ñường trở về. Malraux bị quản thúc tại Phnom-Penh suốt

năm 1924 và ñưa ra tòa về tội danh “ñập phá ñền ñài” và “ñánh cắp các mảnh

phù ñiêu lấy từ ñền Banteai Srey thuộc nhóm Angkor”. Malraux bị kết án.

Câu chuyện phiêu lưu thời trai trẻ dùng làm bàn ñạp cho sức tưởng tượng

và cung cấp dữ kiện, ñã mang ñến cho cuốn tiểu thuyết một âm sắc thầm kín

và một dung lượng cảm xúc nồng ñậm, bộc lộ khá rõ ràng nhân cách của nhà

văn. Nhân vật trung tâm, Claude Vannec, say mê nghệ thuật Khmer, có nhiều

ñiểm chung với tác giả: tuổi tác (hai mươi sáu tuổi), quá khứ gia ñình (ông

nội làm chủ tàu buôn, cha mẹ ly dị nhau ngay khi con còn tấm bé), cha là một

chiến binh ñược ñánh giá là con người dũng cảm, mẹ thua kém hơn, bị chồng

bỏ, ñược một người ñàn ông mang về cưu mang cả mẹ lẫn con (mẹ của

Malraux thì ñược bà ngoại cưu mang), cả tuổi thanh thiếu niên sống cô ñộc.

Hai người giống nhau ñến cả trong tính sợ nhện và sợ mọi loại côn trùng…

Cũng một hoàn cảnh kinh tế không lấy gì làm sáng sủa, cũng một thái ñộ nổi

loạn chống lại cuộc sống mà cả xã hội lẫn ñất nước có xu hướng áp ñặt cho

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

31

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

mình – Cả tác giả lẫn nhân vật hư cấu ñều có những quan ñiểm và thị hiếu

nghệ thuật giống nhau.

Những cuốn sách ñọc ñã mở ñường cho Claude ñi sang Viễn ðông cũng

là những cuốn sách ñọc của Malraux. Tại Hà Nội, trong một cuộc viếng thăm

chính thức ban lãnh ñạo trường Viễn ðông Bác Cổ, cuộc tranh luận của

Claude với Albert Ramèges ñặc biệt phong phú về âm vang ñể lại. Qua vài

trang viết này, người ta nhận ra bản phác thảo những luận ñiểm của Malraux

về sự biến dạng của các tác phẩm nghệ thuật qua thời gian; Claude, dự báo

trước nhà ngôn ngữ học so sánh nổi tiếng của những tiểu luận sau này khi nhà

văn ñã ñạt tới ñộ chín muồi, - diễn tả niềm say mê sâu sắc của mình ñối với

những tác phẩm ra ñời trong lòng những nền văn minh rất cách biệt chúng ta

trong thời gian hoặc trong không gian, mà vẫn gây cho chúng ta nhiều xúc

cảm. ðối với nhân vật Claude cũng như ñối với Malraux trong La

Métamorphose des dieux (Sự thay hình ñổi dạng của các thần), thì “những

viện bảo tàng là nơi mà những tác phẩm của quá khứ biến thành huyền thoại,

ñang ngủ - nghĩa là ñang sống cuộc sống lịch sử - ñể chờ ñợi các nghệ sĩ ñưa

chúng trở lại cuộc sống hiện thực”, khi mà huyền thoại ngày nay trùng hợp

với huyền thoại ngày xưa; như vậy, người nghệ sĩ mang trong mình khả năng

làm cho sự vật tái sinh.

Khi nào anh ñứng ñối diện với những pho tượng mà anh ñã từ rất xa xôi

tới ñây tìm kiếm. Claude ñể trở thành “ngỡ ngàng – như khi chúng ta bị mọi

vật xung quanh kéo mình ra khỏi thân phận con người – trước hình ảnh

những vũ nữ khắc sâu vào thời gian ñiệu múa vô tận của mình trên một cái

sân ñầy rắn rết, bọ chiếu và những con vật của sự hoang tàn mang một sức

sống không bao giờ lý giải nổi, thích hợp một cách hoàn toàn với sự vắng

lặng sinh ñộng ấy.”

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

32

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Qua ñoạn văn trên ñấy lấy từ bản thảo ra, bằng chứng về cái cảm hứng

chung của nhà viết tiểu luận và nhà viết tiểu thuyết ấy, người ta ñã thoáng

nghe phần kết thúc sau cùng ñầu xúc cảm của cuốn “Tiếng nói của im lặng”

(Les Voix du Silence) rồi.

Nhưng tác giả khai thác một cách thoải mái những chất liệu từ chính tiểu

sử của mình, bởi vì dự kiến của ông không phải là kể lại một cách trung thực

cuộc sống của ông mà là chuyển ñạt những ý tưởng mà ông tha thiết nhất

dưới hình thức một truyện ngụ ngôn trong ñó có cái thực và cái hư hỗ trợ cho

nhau. Malraux thuộc tầng lớp những nhà văn hòa lẫn cái hư cấu vào cuộc

sống thật của mình ñể rồi sống ngang tầm của sống hư cấu ñó và dùng tác

phẩm của mình ñể khám phá những mảng ñời có thể xảy ra. Con ðường

hoàng gia là một câu hỏi ñạo ñức học và siêu hình học về những mối quan hệ

của con người và thân phận của nó, về ý nghĩa cuộc sống.

Ngay từ nửa ñầu cuốn tiểu thuyết, cho ñến lúc các nhân vật ñặt tay lên

những mảnh ñiêu khắc quý giá ấy, tác giả ñã uốn nắn thực tế theo yêu cầu

của công cuộc tìm kiếm. Cuốn sách càng dày lên và tình tiết càng tiến triển

thì yếu tố tưởng tượng càng phát huy và áp ñặt các quy luật của nó và càng ñi

xa thực tế, theo cái cách viết mà Malraux ñã áp dụng trong cuốn Những

Người chinh phục (Les Conquérants). Nửa sau của Con ðường hoàng gia

diễn biến trong một miền ñất mà tác giả chưa từng ñặt chân ñến bao giờ.

Hình tượng trung tâm không còn là chàng trai Vannec mà là người bạn thân

của anh ta, tay chinh phục mạo hiểm Perken.

Vào một thời kỳ mà công cuộc chinh phục thuộc ñịa ñã ñi ñến giai ñoạn

chấm dứt cùng với cái uy tín của những cuộc phiêu lưu ñịa lý, như tác giả sẽ

nhắc lại trong tập Phản ký ức (Anti – memoires), thì cái ñiều mà tác giả muốn

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

33

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

nêu lên và nhấn mạnh như ông sẽ làm sau này ñối với người cách mạng, tên

khủng bố hay người nghệ sĩ chính là cái tâm lý con người phiêu lưu trong ý

nghĩa sâu sắc nhất của nó. Malraux bộc lộ ý ñịnh “nói lên sự thật của cuộc

phiêu lưu, một sự thật mà thực ra chỉ là cái chính xác mà thôi”. Vấn ñề là phá

tan cái ảo tưởng về một giấc mơ phần nào lãng mạn và sai lầm. Chuyện phiêu

lưu – tác giả ghi chú dựa trên kinh nghiệm – ñó là những con kiến bị dí chết

dưới lòng bàn tay, những côn trùng, rắn rết, những mối hiểm nguy kinh tởm

mà chốn rừng rú người ta có thể gặp ở mỗi bước chân ñi. Vậy vì sao lại chọn

cuộc sống ấy? Ngoại trừ những vị linh mục thừa sai mà chuyện phiêu lưu

mạo hiểm ñối với họ là một phương tiện chứ không phải một cứu cánh hay

một sự ẩn thân, thì ñối với những người khác cái ñộng cơ chủ yếu hình như là

lợi nhuận. Nhưng ñó chẳng qua là một cái cớ. Lấy ví dụ kẻ ñi tìm vàng, tác

giả nhấn mạnh: “Nếu anh ta chịu suy nghĩ kỹ càng chỉ năm phút thôi thì anh

ta sẽ là người ñầu tiên xác nhận rằng một vài mảnh vàng nhỏ nhoi mà anh ta

có thể tìm ñược sau ba năm cực nhọc tìm tòi quả là không bõ công một chút

nào. Không, anh ta tự trốn tránh mình, có nghĩa là vừa trốn tránh cái tư tưởng

sợ chết – ñồng thời vừa chạy nhanh ñến cái chết”. ðó là cái ñộng cơ sâu sắc

của Perken. Còn món lợi mà cả hai nhân vật dự tính thu từ những kho tàng

khảo cổ họ ñã trả phải bỏ ra bao công sức ñi tìm, họ ñã bàn ñi tính lại khá dài

dòng lúc mới bắt ñầu lao vào hành ñộng, thì sau ñó họ không còn quan tâm

nữa.

Con người phiêu lưu hành ñộng và dám lao vào nguy hiểm không nhằm

chuyện làm giàu và gây thế lực cho bằng nhằm lý giải sự hiện diện của mình

trên mặt ñất. Tác giả ñịnh nghĩa quan niệm ñó của mình như sau: “Kẻ phiêu

lưu dĩ nhiên là kẻ sống bên ngoài pháp luật. Cái sai lầm ở chỗ nghĩ rằng anh

ta chỉ ở bên ngoài pháp luật thành văn, bên ngoài những quy ước xã hội. Anh

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

34

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

ta ñối lập với xã hội chừng nào mà xã hội còn là một hình thái của cuộc sống.

Anh ta chống lại những quy ước hợp lý của nó ít hơn là chống lại bản chất

của nó. Cũng như nhà thơ thay những mối tương quan chữ nghĩa bằng những

mối tương quan mới, con người phiêu lưu muốn thay thế những mối quan hệ

sự vật với nhau – tức các quy luật của cuộc sống – bằng một mối quan hệ ñặc

biệt. Sự phiêu lưu khởi ñầu bằng sự ngỡ ngàng xa lạ, ñể rồi kết thúc là thành

một người ñiên, một ông vua hay một vị ẩn tu: nó là chủ nghĩa hiện thực của

truyện thần tiên”. Malraux liên kết tính bất phục tùng của kẻ phiêu lưu với

tính bất phục tùng của người nghệ sĩ. Ông ñánh giá cao hai người ngang

nhau, bởi cả hai, mỗi người một kiểu, ñều là những “tay thủy thủ cừ” bị

những miền ñất xa xôi cám dỗ; thần tượng ước mơ của họ chính là sự phủ

nhận thực tế như nó ñang tồn tại. Tác giả ñã kể cho một nhân vật của Con

ðường hoàng gia nói rằng: “Tất cả những kẻ phiêu lưu ñều sinh ra từ một

con người chuyên bịa chuyện hão huyền.” Và tất cả các tiểu thuyết gia cũng

có khác gì! Trong tác phẩm Thân phận con người, Clappique – một kiểu

người bịa chuyện khác – ñã dám nói: “các cuốn tiểu thuyết không nghiêm túc

chút nào; chỉ có sự bịa truyện mới nghiêm túc”, có nghĩa là: chính sức mạnh

bên trong ñưa một con người cá biệt sống trong một thế giới do hắn tái tạo

lại, dù cuộc sống ñược lấy ra từ trong thực tế hay từ trí tưởng tượng, - ñể

chống trả lại cả vũ trụ.

Từ ñó mà nhà văn luôn lươn bị lôi cuốn bởi những nghệ sĩ lớn ñồng thời

bởi những tay phiêu lưu chinh phục còn sống mãi trong ký ức mọi người:

Alexandre ðại ñế, Nữ hoàng Saba, Napoléon và Lawrence d’Arabie, và trong

Con ðường hoàng gia, David de Mayrena.

Chính là sự ám ảnh của cái không thể nào sửa chữa, của những giới hạn

không thể nào xê dịch về thời gian cuộc sống của con người nó thúc ñẩy

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

35

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Perken mạnh dạn lao vào nguy hiểm. Con người ñứng trước ngưỡng cửa của

tuổi già thường ñể ý quan sát những dấu hiệu của tuổi tác, sự suy giảm về ñời

sống tình dục. Bao nhiêu biểu hiện của cái chết người ta mang trong mình.

Do ñó mà nảy sinh nhu cầu lao vào những hành vi cuồng nhiệt một cách mù

quáng, vào những ham muốn ái ân không bao giờ thỏa mãn, mà lối ra là một

thứ khoái lạc chủ nghĩa không có gì là lạc thú. Từ ñó mà anh ta có cái cảm

giác kỳ lạ về tự do, về sự “hứng thú khốc liệt”, về “ niềm vui dữ tợn” mà anh

ta trải qua trong cuộc hành trình ñiên loạn ñến với những chiến binh vùng

Tây Nguyên…

Trong một cảnh tượng ñầy bi kịch, ñược coi như ñỉnh cao nhất của sự

nghiệp tiểu thuyết của Malraux, nhân vật sẵn sàng làm bất cứ cái gì ñể thoát

khỏi một sự sỉ nhục và một sự sụp ñổ không thể tránh mà Grabot ñã gợi cho

anh một hình tượng ghê tởm ñến rùng mình.

Nhưng hành ñộng của anh không chỉ liên quan ñến bản thân anh; nó còn

mang một tầm ý nghĩa khái quát và phi thời gian vượt lên trên cá nhân con

người: “Là một Prométhée mới thách thức số phận, Perken coi số phận như

một sự giải phóng cho thân thế con người”. Trái với mọi sự chờ ñợi và có thể

nói mọi quy luật hợp lý, lòng can ñảm và mưu trí của anh ñã chiến thắng thử

thách; nhưng cái chết sẽ tóm anh trở lại. Cái chết là ñịch thù duy nhất của

anh. Phần kết thúc miêu tả sự thất bại não nề của lòng kiêu căng của con

người trước cái chết. trong trận ñấu cuối cùng, ñã thể hiện sự nổi loạn trước

sự phi lý của cái chết, ñược xem như một sự thất bại lớn lao và không thể nào

chấp nhận, như biểu hiện cao nhất của sự ñau thương và bất lực của con

người. ðến lúc hết mọi khả năng và phương tiện, nhân vật chỉ còn cách là

buộc lòng phải nhìn thẳng sự hư vô của mình. Mối “tình thân ái tuyệt vọng”

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

36

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

của Claude trước cảnh tượng Perken hấp hối ở ñây cũng như trong mọi cuốn

tiểu thuyết cua Malraux, là cái giá trị thật sự bảo ñảm duy nhất tồn tại.

Bức chân dung con người phiêu lưu ấy khiến tác giả phải ñề cập ñến

những chủ ñề khác nhau: vấn ñề hứng dục, vấn ñề tự sát. Ông gợi lên một

cách khá sắc nét vấn ñề ñạo lý mà hành vi tự sát ñặt ra trong văn hóa của

chúng ta. Chẳng mấy thích thú, cũng chẳng do một kích ñộng bệnh hoạn nào,

tác giả không lên hành vi tự sát khi tự sát biểu hiện phương tiện duy nhất ñể

khẳng ñịnh tự do của mình, như trường hợp nhân vậy Kyo trong Thân phận

con người, hay trường hợp người ông Dietrich Berger trong “Những cây hồ

ñào Altenburg. (Les Noyers de l’Altenburd).

Nhưng Con ðường hoàng gia mang nội dung một cuốn tiểu thuyết hơn là

một tiểu luận siêu hình học. Trước hết, nó là một tác phẩm nghệ thuật, một

cuốn sách ñược xây dựng lên trong ñó những yếu tố bề ngoài có vẻ hiện thực

ñược bổ sung thêm một ý nghĩa tượng trưng. Tư tưởng của nó không phải là

trừu tượng, nó biến thành huyền thoại ñặc biệt nhờ các hình tượng. Những

trang miêu tả, dài hơn ở hầu hết những tiểu thuyết hành ñộng khác của

Malraux, tạo ra một không khí thật tình ngột ngạt. Rõ hơn cái vẻ bên ngoài

của nó, việc gợi lên hình ảnh của những khu rừng cận nhiệt ñới, với hàng tỉ

những côn trùng, cái thảm thực vật phong phú ñầy sốt rét thương hàn và lam

sơn chướng khí, với chất ñất xốp môi trường của thối rữa… trở thành biểu

tượng của hư vô, của tất cả sức mạnh thiên nhiên vô tình liên kết với xã hội -

văn minh hay man rợ - nhằm chà ñạp con người. Rừng rú, nó là sự ñương ñầu

của cuộc sống sơ khai, tập thể, nguyên thủy, với ý thức và nghị lực của cá

nhân ñơn ñộc. Cả cái khối ñộng vật và thực vật của nó trở thành một mối

nguy cơ ñe dọa mà dân ñịa phương ñã biến thành những thần linh”. Ở ñây

vẫn còn vang lên những tiếng nói xưa nhất của cái chết. Những bùa phép của

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

37

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

nó cuối cùng ñã ñồng hóa cả mọi thú vật ñầy rẫy và cả người dân bản xứ sinh

sống ở ñây. Cả bệnh tật nữa cũng trở thành một biểu hiện của rừng xanh;

chính là bệnh tật ñã ngăn cản sự di chuyển kịp thời của Perken và ñã giết anh

ta hơn là mũi chông của người ñịa phương tình cờ anh giẫm phải làm cho anh

bị thương. Cái “rừng núi – cảnh trí” ñã trở thành diễn viên của vở kịch trên

sân khấu.

Xuất phát ñiểm của sự căng thẳng là một loạt những sự ñối lập nhau giữa

một bên là lòng dũng cảm, tính kiên gan của con người và một bên là sự thoái

hóa và sự bất lực của nó trước cái chết; giữa cái nhân văn (nghệ thuật, nhân

ái, tình dục) với cái phi nhân văn (sự lúc nhúc ñáng sợ của những yếu tố khó

lòng chế ngự ñược: rừng rú, côn trùng, sự man rợ…), giữa phương ðông với

phương Tây… Chữ “Con ðường hoàng gia” – tựa ñề của cuốn sách – cũng

mang hai ý nghĩa, rõ ràng hơn ở những văn bản ñầu tiên của cuốn truyện như

ta thường thấy ở Malraux. Nó vừa là ñịa ñiểm ñịa lý vừa là biểu tượng của

một nghệ thuật “phản số phận”; những ngôi ñền của nó tồn tại như một sự

thách thức của con người trước những lời nguyền rủa của thời gian.

Cuốn tiểu thuyết ñược ñón tiếp nồng nhiệt

Nội dung rộng lớn của Con ðường hoàng gia, sự phong phú của các chủ

ñề, thường là dưới hình thức ám chỉ, cái âm vang và những nét hài hòa của

chúng ñược ñộc giả ngày nay tiếp nhận dưới ánh sáng của những tác phẩm ñồ

sộ tiếp theo… Năm 1930, người ñương thời ñược ñọc cuốn tiểu thuyết thứ

hai ñó trong Tạp chí Paris ñăng tải nhiều lần theo cách thức thời ñó, từ ngày

15 tháng 8 năm 1930 cho ñến ngày 1 tháng 10 năm ấy mới hết. Cuốn sách ra

ñời 15 ngày sau (15/10/1930) tại nhà xuất bản Grasset trong “Tủ Sách Xanh”

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

38

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

(Cahiers Verts) do Daniel Halévy chịu trách nhiệm; trang cuối ñề “in xong

ngày 07 tháng 10”. Bản in ñầu tiên (nguyên bản) này bao gồm ở phần Vĩ

thanh một tiểu dẫn giới thiệu cuốn tiểu thuyết này như tập 1 của “một tác

phẩm lớn hơn “Những thế lực của sa mạc” – mà phần vào ñề ñầy kịch tính

này chỉ là ñoạn mở ñầu” – Phần tiếp theo chẳng ra ñời bao giờ, nhưng câu hỏi

ñầy bi kịch mà cuốn truyện ñặt ra thật sự vẫn có những hồi âm kéo dài:

những cuốn sách mà tác giả ñã viết những năm sau ñó chính là phác thảo của

những câu trả lời, theo trình tự chính trị hay nghệ thuật, cho tiếng thét khủng

khiếp ñã thốt lên trong phần cuối quyển sách chống lại sự lặng im của các vị

Thần Linh. “Những tập tiếp theo” – tác giả viết trong Phản ký ức “ñã trở

thành Thân Phận Con Người” (La Condition humaine). Có thể nói thêm rằng

các cuốn “Chiến ñấu chống lại thiên thần” (La Lutte contre les anges). “Con

Quỷ Của Sự Tuyệt ðối” (Le Démon de l’alsolu) xoay xung quanh hình tượng

một anh chàng phiêu lưu khác, Thomas Edward Lawrence tức Lawrence

d’Arabie, cũng là sự nối tiếp của “Những thế lực của sa mạc”.

ðộc giả ít nhiều bị sửng sốt trước sự chuyển hướng mà cuốn tiểu thuyết

phiêu lưu này dường như là một sự ñánh dấu. Cuốn “Những Kẻ Chinh Phục”

ra ñời ñã làm cho tác giả nổi tiếng như một nhà văn chính trị, dấn thân vào

Cách mạng. Nhưng, như những nhà phê bình tiếng tăm nhất của thời ñại ñã

nói về cuốn tiểu thuyết ngày từ khi nó mới ra ñời thì phần ñông ñộc giả ñều

thấy rõ chất lượng cao của tác phẩm. Họ ca ngợi cái giá trị văn học ñích thực

của nó, cũng như cái văn phong khỏe khoắn vững vàng. Benjamin Crénieux,

trong tập san Biên niên (Les Annales) không tiếc lời ca ngợi những cái ñẹp

của những trang gợi lại hình tượng núi rừng, nó ñẹp ngang hàng, về mặt miêu

tả cô ñọng và về chất thơ vũ trụ, nhưng lại không giống, với những trang ñẹp

nhất của Loti Và Conrad. Một vài người (như Edmond Jaloux trong tờ Tin

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

39

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

văn (Les Nouvelles Littéraires), René Lalou trong Châu Âu mới (l’Europe

nouvelle) Auguste Bailly trong Candide muốn lưu ý ñộc giả ñến cái nội dung

triết lý của cuốn tiểu thuyết.

Những phản ứng tiêu cực chủ yếu là ở khía cạnh ñạo ñức, và là của những

cây bút phê bình thuộc cánh bảo thủ hoặc cực hữu (Pierro Loewel trong báo

“Trật tự” (L’Ondre), Tournoel trong “Hành ñộng Pháp” (L’Action

française) hay của những tên thực dân ñang nhớ lại vụ xử án ở Phnom-Penh

và những bài xã luận thù ñịch với chính phủ thực dân, do chủ bút tờ báo

ðông Dương – (Tờ tin tức của hãng kinh tế ðông Dương). Nhân danh ñạo

ñức, họ lên án hai nhân vật ñứng ngoài pháp luật và những cơn ñiên khùng

kiêu căng của họ; nhân danh sự chính xác về sự kiện, người ta phản bác lại

một vài ñiểm chi tiết, ví dụ sự ñịnh vị những người dân tộc vùng Tây Nguyên

ở phía hữu ngạn sông Mekong. ðiều ñó không ngăn cản Drieu la Rochelle

hết lời ca ngợi tác giả trong một bài báo nổi tiếng ñến ngày nay (Tân tạp chí

Pháp – La nouvelle Revue Française, số tháng 12/1930), dưới cái tựa ñề

“Malraux con người mới”.

Người ñương thời ñã không hiểu sai về triển vọng và hứa hẹn của bản

thiết kế văn học này. Malraux là người ñầu tiên, tháng 12 năm 1930, ñược

tặng giải nhất của Giải Interallié. Như vậy, ông ñã mở rộng uy tín của mình

ñối với quảng ñại quần chúng trước khi giải Goncourt dành cho tác phẩm tiếp

theo của ông, Thân Phận Con Người (1933), ñã ñưa ông lên hàng những nhà

văn tầm cỡ quốc tế.

Những lần xuất bản

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

40

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Từ bản in ñầu tiên của nhà xuất bản “Sách Xanh” (Cahiers Verts), Con

ñường Hoàng Gia ñã ñược in ñi in lại nhiều lần trong “Tủ sách bỏ túi” (Le

Livre de poche), của nhà xuất bản Grasset, cũng như trong các tủ sách trang

nhã dành cho những nhà ham sách, và có minh họa (của Walter Spitger, Zao-

Wou-Ki, Alexeieff, ñây chỉ kể tên những bản nổi tiếng nhất). Cuốn tiểu

thuyết cũng ñã ñược tái bản trong những tác phẩm tổng hợp như Oeuvres

Complètes – Tổng tập (Skira, 1954); Gallimard… La Gerbe illustrée (Chùm

tác phẩm minh họa – 1970) hoặc Tiểu thuyết (Les Romans) xuất bản lần thứ

nhất của “Tủ sách La Pléiade” (Bifhiohèque de la Pléiade) năm 1947, trong

ñó chỉ có ba cuốn truyện về cách mạng: “Những kẻ chinh phục (Les

Conquérants), “Thân Phận Con Người”(La Condition humanine) và “Hy

Vọng” (L’Espoir). Ngược lại, trong lần tái bản năm 1976 – năm mất của tác

giả - cuốn “Con ðường hoàng gia” lại ñược tác giả ñưa vào, sau khi ñã xem

lại và sửa chữa.

Cuốn Malraux toàn tập ñầu tiên - của La Pléiade, ñăng ñầy ñủ cả nguyên

bản kèm theo những phần nhận xét, phê bình – cho ñến nay vẫn chỉ có một

bản này. Một trăm năm mươi trang vừa trình bày vừa chú thích và ñối chiếu

các dị bản do Walter Langlois (Tác giả cuốn “André Malraux, Cuộc Phiêu

lưu ðông Dương”) tập hợp và ñính chính, ñã mang lại cho chúng ta một khối

lượng rất lớn những thông tin liên quan ñến mặt tiểu sử và lịch sử, và những

phần hiệu ñính khoa học sâu sắc rất bổ ích cho chúng ta. Nó gợi lên một ý

niệm chính xác hơn về cái hậu cảnh của “Con ðường hoàng gia” và cấu trúc

phức tạp của cuốn tiểu thuyết về sự phiêu lưu và về cái chết, hết sức kỳ lạ

này.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

41

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Dự án dựng phim

Cuốn truyện này ñã ñược nhiều người lập dự án ñưa lên màn ảnh mà

không thành. Lý do là vì Malraux rất dè dặt trong vấn ñề chuyển thể các tiểu

thuyết của ông thành kịch bản sân khấu cũng như ñiện ảnh, trừ khi chính ông

viết lấy kịch bản, tùy ý của ông thành một tác phẩm mới, như cuốn “Sierra

de Teruel- L’Espoir”. Theo tài liệu lưu trữ của nhà xuất bản Grasset mà

chúng tôi ñã ñược tham khảo, tác giả ñã tính ñến chuyện cộng tác với Hãng

Iberia Film (thư của Malraux gửi Bernard Privat ñề ngày 13 tháng 3 năm

1956).

Một bức thư của Manès Sperber gửi cho Malraux ngày 30 tháng 7 năm

1956, có nói ñến lòng mong mỏi thiết tha của Rossen muốn ñược cùng

Columbia làm một cuốn film, “nhưng tự ông ta viết lấy kịch bản” mà “vẫn

bám sát cuốn sách của Malraux”. còn Columbia thì một hai cứ muốn ñưa

thêm vào một diễn viên ngôi sao nữa. Có lúc người ta ñã nghĩ ñến sẽ tập hợp

lại, trong một buổi phân vai tưng bừng, ba diễn viên có khả năng tạo ra một

luận chứng quyết ñịnh trước con mắt của các ông bầu Hollywood, và làm cho

họ quên ñi câu chuyện yêu ñương: Curl Jurgens, diễn viên người ðức rất

ñược hâm mộ (ñặc biệt ñối với người Mỹ), Louis Jourdan và Jaines Mason.

Trong lưu trữ của nhà xuất bản Grasset, người ta lại ñã tìm thấy, ñề ngày

23 tháng 3 năm 1959, một bản hợp ñồng ký khống dự ñịnh chuyển thể “Con

ðường hoàng gia”. Về sau, qua văn phòng thư ký của ông, Malraux ñã từ

chối ñề nghị của ông Tesseire, chỉ rõ ràng rằng không thể có vấn ñề chuyển

thể các tác phẩm của ông bao lâu ông còn giữ chức vụ Bộ trưởng. Trong thư

trả lời gửi Jean-Claude Fasquele ngày 28 tháng 5 năm 1969, cuối cùng

Malraux ñã thông qua trung gian của Albert Beuret (thư ngày 4 tháng 7 năm

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

42

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

1969) cho phép Metro Goldwin Mayer xây dựng một cuốn phim với ñạo diễn

Térence Young. Cuộn phim ấy chẳng ñược thực hiện bao giờ.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

43

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

PHẦN THỨ NHẤT

I

Lần này nỗi ám ảnh5 của Claude bắt ñầu vào cuộc chiến. Anh nhìn chằm

chằm không chớp mắt vào khuôn mặt người ñó, cố tình tìm cho ra một nét gì

hiện lên, trong cái tranh tối tranh sáng do một ngọn ñèn từ phía sau lưng hắt

ánh lại. Giống cái hình thù không rõ nét của những ngọn ñèn chiếu trên bờ

biển Somalie, bị lu mờ ñi dưới ánh trăng vằng vặc, mơ màng lung linh trên

các ruộng muối. Một giọng nói mỉa mai, nhấn mạnh; anh có cảm giác nó

ñang tan biến ñi trong cái bóng tối của Châu Phi và hòa vào cái huyền thoại6

ñược dựng lên xung quanh cái bóng dáng mờ mờ ảo ảo này, do bọn khách

qua ñường ham thích ồn ào và ñánh bài, và cái mạng lưới những chuyện

huyên thuyên, tiểu thuyết và mơ mộng thường theo chân những người da

trắng từng có dính líu vào ñời sống các quốc gia ñộc lập của Châu Á.

5 Bản chất cái “ám ảnh” ấy sẽ ñược nói rõ ở ñoạn sau. 6 Tác giả tạo ra ngay từ ñầu một không khí huyền bí xung quanh hai nhân vật chính. Huyền thoại Perken, gắn với “Cuộc sống các nước ñộc lập châu Á” cũng sẽ ñược nói rõ ở ñoạn. Nó bắt nguồn từ cuộc ñời của những nhà phiêu lưu châu Âu ñã ñặt bước chân sang châu Á trong nửa cuối thế kỷ XIX, giữa lúc các nước mạnh của châu Âu ñã ñặt nền thống trị thực dân tại ñó.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

44

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

“Bọn trẻ hiểu sai cái… Cậu dùng chữ gì nhỉ?... à, tình dục7. Trước cái tuổi

bốn mươi, người ta phạm sai lầm, người ta không biết cách tự giải thoát khỏi

tình yêu: một người ñàn ông mà không nghĩ ñến một người ñàn bà như là sự

bổ sung hoàn chỉnh của chuyện ái ân mà nghĩ ñến cái chuyện ái ân như là sự

bổ sung của người ñàn bà, thì người ñàn ông ñó ñã quá mòn về tình yêu- Kệ

hắn! Nhưng tệ hơn cả, là thời ñại, cái thời ñại mà sự ñam mê tình dục, sự ám

ảnh của tuổi xuân ñang trở lại mãnh liệt hơn. Cái thời ñại nuôi dưỡng bằng

trăm thứ hoài niệm…”

Con người Claude toát ra cái mùi hôi của bụi bặm, của hạt vừng và thịt

cừu dính vào quần áo. Anh nhìn lại cái cửa bằng bao tải ghép vào nhau cuộn

cao lên chút xíu; ñằng sau cửa, vừa rồi, một cánh tay ñã ñể lộ cho anh thấy

một cô gái da ñen vị thành niên, trần truồng, một giọt nắng chói lọi chiếu

xuống bầu vú rất căng bên phải, cái nhu cầu ñiên loạn.

- Cái nhu cầu ñi cho ñến tận cùng của sự thỏa mãn. - Perken nói.

Y nói tiếp:

- Những hoài niệm, cũng biến dạng. Trí tưởng tượng, thật là ñiều kỳ lạ!

Tự thân nó, xa lạ ngay cả ñối với chính nó… trí tưởng tượng… nó luôn luôn

bù ñắp…

Khuôn mặt rất có ñường nét của y mới thoát ra chút ít ngoài cái bóng tối

lờ mờ; nhưng ánh sáng ñã rọi vào giữa hai làn môi, xuống ñầu ñiếu thuốc,

chắc là mạ vàng, của y. Claude cảm thấy rằng ñiều Perken suy nghĩ cũng

ñang tới gần những lời y nói, như chiếc tàu này ñang ñến, từng bước chầm

7 Vấn ñề tình dục ñược nói ñến khá nhiều trong tác phẩm ñầu tiên của Malraux, như một hành vi có ý nghĩa nhân bản (xem bài bình luận của Ông về cuốn tiểu thuyết Người tình của Lady Chatterley và cuốn Những quan hệ nguy hiểm).

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

45

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

chậm nhẹ nhàng, ánh ñèn trên tàu phản chiếu xuống những cánh tay song

song ñang khua ñộng mái chèo.

- Cụ thể anh muốn nói gì?

- Một ngày kia, tự cậu sẽ hiểu… Những nhà chứa ở Somalie sẽ ñầy

chuyện bất ngờ…

Claude rất quen thuộc với câu nói mỉa mai, thù hận mà một người ñàn ông

thường chỉ dùng ñể nói về bản thân hoặc với số phận của mình.

- ðầy chuyện bất ngờ, - Perken lặp lại.

“Bất ngờ nào?” - Claude tự hỏi. Anh nhìn thấy lại những chấm ñèn dầu

bao quanh là từng ñàn côn trùng, những cô gái mũi thẳng không có gì ñể gọi

là “cô gái da ñen” ngoài cái tròng trắng rất trắng của mắt giữa cái tròng ñen

và nước da màu sẫm. Theo nhịp sáo của một người mù, các cô gái tiến ra theo

hình vòng tròn, mỗi cô ñi sau vỗ mạnh như ñiên vào ñôi mông quá khổ của

cô ñi trước. Rồi cùng một lúc, tiếng nhạc tắt thì hàng lối của họ cũng bị phá

vỡ luôn; mỗi người cất tiếng hát của mình nâng ñỡ cho tiếng sáo khêu gợi; họ

dừng bước, ñầu và vai bất ñộng, mắt nhắm, thân hình căng thẳng, tự giải

phóng mình bằng cách làm rung lên vô hạn ñộ những bắp cơ chắc rắn của ñôi

mông và vú phải, những giọt mồ hôi ñẫm ướt càng làm nổi bật lên cái rạo rực

của những thân hình… Bà chủ ñã ñẩy tới phía Perken một cô gái rất trẻ; cô

mỉm cười.

- Không, - y bảo, - cô kia cơ! Ít ra cô ta tỏ ra không ưa gì cái chuyện ñó.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

46

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

“Một gã bạo dâm ư?” - Giờ ñây, Claude tự hỏi như vậy. Người ta có nói

ñến những công vụ mà nước Xiêm8 giao cho y thực hiện ñối với những bộ tộc

không chịu khuất phục; về việc y tổ chức nước Shan và những cuộc hành

quân của Lào, về những quan hệ ñặc biệt của y với Chính phủ Bangkok khi

thì thân ái, khi thì dọa dẫm; về cái ham muốn thống trị của y trước ñây, theo

như người ta nói; và cái ham muốn thứ quyền lực man rợ mà y không cho

phép bất cứ ai kiểm soát; về sự suy sụp của y, về tính phóng ñãng của y; Tuy

nhiên, trên chiếc tàu này, nếu y không tự ngăn cấm lấy mình thì ñã có bao

nhiêu người phụ nữ vây quanh y. “Có một cái gì ñó, nhưng không phải là sự

bạo dâm!”

Perken gối ñầu lên lưng của chiếc ghế dài. Cái bộ mặt thương sứ thô bạo

của y hiện ra dưới ánh sáng của ngọn ñèn, càng nổi rõ lên nhờ cái bóng của

ñôi mắt và cái mũi nhô cao.

Làn khói thuốc lá của y phả ra bay thẳng lên rồi mất hút trong màn ñêm

ñen nghịt. Cái từ “Bạo dâm” vẫn ñọng lại trong ñầu óc Claude và gợi nhớ

một hoài niệm.

- Một hôm, người ta dẫn mình tới một ngôi nhà chứa tồi tàn, ở Paris. Tại

phòng khách chỉ có một người ñàn bà duy nhất, bị trói bằng dây vào một cái

giá, y như trong nhà hát hài kịch ghê rợn, váy lật ngược lên…

8 Bắt ñầu từ ngày nước Pháp ñặt nền thống trị ở ðông Dương, những ñất ñai bị thực dân hóa gồm, trong năm 1888, Nam kỳ, Trung kỳ, Bắc kỳ và Campuchia (chế ñộ bảo hộ) với Lào (từ 1893), Nhà Vua Xiêm ngày càng lo cho số phận ñất nội ñịa (Hinteriand) của người dân thường và tăng cường hoạt ñộng nhằm củng cố sự có mặt của mình ñến tận biên giới Bắc kỳ - Trung kỳ. Nước Pháp cố chống lại sự xâm nhập của Xiêm, bằng cách gửi hết phái ñoàn này ñến phái ñoàn khác nhằm xác ñịnh những ñoạn biên giới tranh chấp và khẳng ñịnh sự có mặt của mình tại vùng ñất này. Chính vì mục ñích này mà phái ñoàn khôing chính thức David de Mayrena ñược gửi lên vùng ñó. Áp lực của Pháp ñã dẫn ñến sự ký kết một hiệp ước với Xiêm năm 1893 thừa nhận Pháp ñược sở hữu miền tả ngạn sông Mékông, vùng bản ñịa người Thượng ở Trung kỳ và Campuchia.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

47

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Nằm sấp hay nằm ngửa?

- Nằm sấp. Xung quanh, có sáu, bảy gã ñàn ông; những gã thị dân tiểu tư

bản, cà vạt thắt chững chạc, áo vét vải paga (lúc ñó là mùa hè, không nóng

nực bằng ở ñây…), mắt lồi, má sạm; họ cố tình làm ra vẻ muốn “chơi”… Họ

tới gần người ñàn bà, lần lượt kẻ trước người sau, vỗ vào mông người ñàn bà

mỗi người một vỗ, trả tiền rồi bước ra, hoặc lên lầu một.

- Thế thôi sao?

- Thế thôi. Và cũng rất ít người lên lầu: hầu hết ra về… Chỉ có thế, ước

mơ của những con người chất phác ñó; mà lúc về vẫn nhớ ñội lên ñầu chiếc

mũ hẹp vành và vuốt lại ve áo cho thẳng.

- Dầu sao, cũng là hạng người chất phác! - Perken chìa cánh tay phải ra

như ñể nói một câu gì ñó, nhưng do dự, ñấu tranh với ý nghĩ của mình.

- ðiều chủ yếu là không cần gì hiểu biết về ñối tượng. Miễn ñối tượng ñó

là người khác giới.

- Và không phải là một con người có một cuộc sống riêng của mình?

- Trong lối tình dục biến thái thích ñau thì hơn cả thế nữa. Họ chỉ tự ñánh

mình, tự hành hạ mình mà thôi. Họ thêm vào trí tưởng tượng những cái gì

thêm ñược, chứ không phải cái gì họ muốn. Những cô gái ñiếm ngốc nghếch

nhất cũng biết những người ñàn ông giày vò họ hoặc bị họ giày vò ấy xa lạ

với họ biết chừng nào! Anh có biết họ gọi ñàn ông “bất thường” là gì không?

- Những kẻ tâm thần!

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

48

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Claude nghĩ rằng cả chữ “bất thường” nữa cũng… Anh không rời con mắt

khỏi cái khuôn mặt căng thẳng của Perken. Cuộc hội thoại này phải chăng ñã

ñược ñịnh hướng?

- Những kẻ tâm thần. - Perken lặp lại. - Và họ nói ñúng. Chỉ có một thứ

loạn dâm, như những kẻ ngu ngốc nói; ñó là sự phát triển của tưởng tượng, sự

bất lực không thể ñi ñến thỏa mãn. Ở bên kia, tại Bangkok tôi có biết một

người ñàn ông ñã yêu cầu một người ñàn bà trói hắn ta trần truồng trong một

căn buồng tối suốt trong một tiếng ñồng hồ.

- Rồi sao?

- Chỉ vậy thôi, thế là ñủ. Gã ñàn ông ấy ñúng là một tên “loạn dâm” hoàn

toàn trong sạch…

Y ñứng dậy.

- Y muốn ñi ngủ chăng? - Claude tự hỏi, - hay muốn cắt ngang không

muốn trò chuyện nữa?

Qua làn khói bay lên, Perken bỏ ñi, lần lượt bước qua những chú da ñen

bé con ñang nằm ngủ giữa những cái rổ ñựng san hô, miệng hé mở, hồng hào.

Bóng của y nhỏ ñi, còn bóng của Claude vẫn kéo dài ra trên sân tàu, do ñó,

cái cằm nhô của anh trông cũng khỏe chẳng kém gì hàm răng của Perken. Cái

bóng ñèn lung lay. Cái bóng cũng lung lay. trong hai tháng nữa, có dấu vết gì

của cái bóng và của cái thân thể mà giờ ñây nó ñang kéo dài ra nữa hay

không? Một hình thù không có mắt, không có cái nhìn quả quyết và lo âu nó

diễn tả tính cách của y chiều nay một cách – ñậm ñà hơn nhiều so với cái

bóng dáng oai phong mà con mèo nuôi trên tàu sửa soạn nhảy qua. Y chìa tay

ra: con mèo chạy trốn. Sự ám ảnh lại rơi trở lại lòng anh.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

49

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Còn mười lăm ngày khao khát như thế nữa, mười lăm ngày chờ ñợi trên

chiếc tàu này, lòng khắc khoải như một người nghiện ma túy mà không có

thuốc. Anh lại trải ra một lần nữa tấm bản ñồ khảo cổ Campuchia và Xiêm,

anh ta thuộc lòng nó hơn cả mặt mình… Anh bị lóa cả mắt vì những cái bóng

tròn tô xanh mà anh ñã vẽ bao quanh những thành phố ñã chết vì những nét

chấm chỉ vị trí Con ðường hoàng gia xưa, vì câu khẳng ñịnh ñầy ñe dọa của

nó: bị bỏ rơi giữa núi ngàn bát ngát của Xiêm. “Ít nhất có 50% khả năng

mình bị rơi vào hoàn cảnh ñó!”; nhưng con ñường mòn lờ mờ với xác khô

của những con vật nho nhỏ bị bỏ rơi bên cạnh những ñống lửa gần tắt; giai

ñoạn kết thúc của cuộc ñi thám hiểm vừa qua ở Giarai: viên trưởng ñoàn

người da trắng Odend’ hal9 bị ñâm chết dưới những ngọn mác Lào, lúc ban

ñêm, của gã thầy mo của Lửa, trong tiếng xào xạc của những cành lá cọ bị

giẫm, báo hiệu có ñàn voi ñi qua. Bao nhiêu ñêm anh ñã thức ròng, mệt nhoài

lại bị muỗi cắn, hay liều ngủ một giấc dưới sự bảo vệ của người dẫn ñường

nào ñó? Ít khi có cơ hội ñể ñánh nhau… Perken biết rất rõ cái xứ sở này,

nhưng y không nói ñến bao giờ. Claude trước tiên ñã bị cái giọng nói của y (y

là ngươi duy nhất trên chuyến tàu biết phát âm chữ Énergie nghị lực) một

cách giản dị; anh ñoán ngay rằng con người có mái tóc gần hoa râm kia chắc

cũng thích những ñiều mà chính anh ñang thích. Lần ñầu tiên, trước một bức

9 Prosper Odend’hal là một nhân vật khá quen thuộc và quan trọng của lịch sử thực dân Pháp. Là một sĩ quan chuyên nghiệp trong giai ñoạn ñầu của sự hiện diện ngừoi Pháp tại ðông Dương, ông ta ñược giao phó cầm ñầu nhiều phái ñoàn thám hiểm ñịa hình và dân tộc học. Năm 1904 trong chuyến ñi công tác ñịa lý ở xứ sở người Giarai trong bản ñịa người Thượng, ông ta ñã có có những phát hiện thú vị, sự phát hiện ấy ñã khiến ông ta quyết ñịnh tiến sâu vào một vùng ñất nguy hiểm mà không cần nhận thêm vũ khí dự bị, ñể tỏ rõ cho người dân ñịa phương biết ý ñịnh hòa bình của mình. Những ìm tòi của ông về thần thoại Chiếc gươm thần nổi tiếng của người Chăm là nguyên nhân ñưa ñến cho ông cái chết, ông bị ám sát bất ngờ theo lệnh của lão Phù thủy Nước – một trong hai ñại phù thủy của người Giarai. Cái chết bất ngờ của Odend’hal là một cái cớ cho quân ñội Pháp chiếm lấy vùng cao nguyên này. Trong Antimémoires (Phản ký ức), Malraux nói cụ thể rằng sự khâm phục của ông ñối với những tay phiêu lưu từng ñi khắp ðông Dương dành chủ yếu cho những người như Odend’hal ñã dám (…) tay không dẫn thân vào xứ sở của người dân tộc không quy phục hoặc nổi loạn.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

50

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

thành ñá cao to màu ñỏ trên bờ biển Ai Cập, anh ñã nghe y kể, với cái giọng

vừa hào hứng vừa xao ñộng căm thù; chuyện y ñã phát hiện hai bộ xương

người (Có thể là của bọn trộm cắp ở các lăng mộ) tìm thấy trong cuộc khai

quật khảo cổ sau cùng tại “Thung Lũng Các Vua”, ngay trên nền một gian

phòng ngầm dưới ñất, ñầu mối của nhiều hầm khác chứa ñầy rẫy xác ướp của

những con “Mèo Thánh”. Một kinh nghiệm nho nhỏ thôi cũng ñủ ñể chứng

minh cho anh biết rằng trong hàng ngũ những kẻ giang hồ cũng có lắm thằng

ngu như bất cứ nơi nào khác; Nhưng cái gã ñàn ông Perken này khiến anh tò

mò. Từ hồi ñó, anh ñã từng nghe y nói ñến Mayréna, “Ông vua một hôm” của

người Xơñăng.10

- Tôi nghĩ ñây có thể là một kẻ rất mê biểu diễn tiểu sử của mình, như một

diễn viên ñóng vai mộ nhân vật11. Các người là người Pháp, các người thích

những kẻ quan tâm… cái gì nhỉ.. à phải rồi, quan tâm diễn tốt vai trò hơn là

chiến thắng.

(Claude nhớ lại cha, người cha ñã anh dũng hy sinh trên bờ sông Marne,

với tư cách là lính tình nguyện sau khi ñã viết những dòng sau ñây: “Giờ ñây,

anh bạn thân mến ơi! Người ta ñang ñộng viên cả luật pháp, cả văn minh, cả

những bàn tay bị chặt ñứt của trẻ con. ðời tôi ñã hai ba lần chứng kiến những

chuyện ngu xuẩn ồ ạt, sự kiện Dreyphus, mức ñộ ngu xuẩn không ñến nỗi

10 Tay phiêu lưu thuộc loại “có tính chất tiểu thuyết” nhất này tới ðông Dương năm 1865, ñã thuyết phục ñược nhà chức trách Pháp phái ông ta ñi công tác tại vùng ñất nằm giữa Trung kỳ và sông Mékông, vào năm 1886. Ông ta ñã khéo léo thương lượng với người ñịa phương chỉ qua mấy tháng thôi ký ñược một bản thỏa hiệp cá nhân thừa nhận ông là “Vua” một liên minh người Sedang – ông tính chuyện mang vùng ñất này ra tống tiền nước Pháp nhưng không thành. Ông mất năm 1890 trong nghèo khổ, vì rắn ñộc cắn. Dường như Perken cũng ñã thực hiện ñược một liên minh tương tự nhưng là với nước Xiêm. 11 Cái ý ñịnh làm một con người ñi tìm chính mình qua những mẫu mức có tầm cỡ lớn, và từ ñó rèn luyện một lý tưởng nào ñó ñể tự hóa mình vào ý tưởng ñó, không lạ lùng gì ñối với nhân cách của Malraux.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

51

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

thấp lắm; nhưng ñến sự kiện này ñây thì chắc chắn ở mức ñộ ngu xuẩn cao

hơn gấp bội về mọi phương diện so với những sự kiện trước nó. Cả về chất

lượng cũng hơn!”)

- Thái ñộ ñó, - Perken nói tiếp, - biểu dương tinh thần dũng cảm, là một

bộ phận của vai trò… Mayrna rất dũng cảm. Ông ta ñã ñặt thi thể cô vợ bé

người Chàm của ông ta lên lưng voi, xuyên qua vùng núi rừng bất khuất, ñem

chôn cất ñúng lễ nghi dành cho các cô công chúa của giống nòi mình. (Các cố

ñạo thừa sai từ chối không cho mai tang trong nghĩa ñịa của họ). Cậu biết ông

ta ñã trở thành vua sau khi ñã dung mã tấu ñánh thắng hai thủ lĩnh người

Xơñăng và ñã cầm cự ñược một thời gian trên ñất Giarai, là ñiều không phải

dễ…

- Anh có quen nhiều người sống trên ñất Giarai ư?

- Tớ! ðây này: tám tiếng ñồng hồ.

- Quá ít, - Claude mỉm cười ñáp.

Perken rút ra khỏi túi bàn tay trái của y và giơ lên trước mặt Claude, cả

năm ngón xòe ra; ba ngón lớn nhất ñều mang sẹo: một cái rãnh sâu hình tròn

ốc, giống như cái mở nút chai vậy.

- Bị ñốt bằng dây bấc, chuyện dài lắm.12

Thấy xấu hổ về sự vụng về của mình, Claude do dự. Nhưng Perken ñã trở

lại câu chuyện Mayrena.

- Rốt cuộc, ông ta ñã chết khổ sở, như hầu hết mọi người...

12 Những tập tục ñó của người Thượng tại xứ Giarai ñã ñược các nhà sử học nói ñến.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

52

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Claude ñã biết cái giây phút hấp hối ñó trong một ngôi nhà tranh ở

Malaixia: Con người bị phân hủy ñi vì niềm hy vọng bị tan vỡ, giống như kẻ

bị ung thư, nghe tiếng nói của chính mình vọng lại từ những cây cối khổng lồ

mà khiếp sợ kinh hoàng...

- Không ñến nỗi lắm…

- Chuyện tự sát tớ chẳng thích nghe.

- Vì sao?

- Người tự sát theo ñuổi một cái hình bóng do chính anh ta vẽ nên: người

ta bao giờ cũng tự sát ñể cho mình tồn tại. Tớ không thích người ta bị Chúa

lừa dối.

Cứ mỗi ngày, sự giống nhau mà Claude thấy rõ bằng linh cảm lại càng trở

nên rõ rệt; nó ñược tô ñậm lên qua cái giọng nói khi lên bổng khi xuống trầm

của Perken, qua chữ “Họ” mỗi khi nói ñến những khách qua ñường. Và có

thể cũng là "Người ta” nói chung, làm như y ñã tách biệt, xa lạ ñối với họ do

chỗ y thờ ơ không buồn tự xác ñịnh về mặt xã hội. Qua cái giọng của y,

Claude ñoán rằng Perken có một kinh nghiệm làm người khá dày dặn,13 mặc

dù có thể ñã bị xói mòn về mặt nào ñó, và hoàn toàn phù hợp với cái tầm sâu

trong cái nhìn của y: nó vừa nặng nề, vừa bao quát nhưng cương quyết một

cách ñặc biệt khi một lời khẳng ñịnh, trong một khoảnh khắc nào ñó, làm cho

những cơ bắp mệt mỏi của khuôn mặt y căng lên.

13 Cái lý tưởng nhân bản biểu hiện qua nhân vật Perken thường trở lại nhiều lần trong các tác phẩm của Malraux. Trả lời câu hỏi: “Theo anh, một con người có thể làm ñược gì tốt hơn từ cuộc sống của mình?”, một nhân vật – phát ngôn của tác giả trong L’Espoir (Hy vọng) trả lời: “Biến thành ý thức một kinh nghiệm rộng hết tầm cỡ có thể”.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

53

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Giờ ñây trên boong tàu hầu như chỉ còn một mình y. Chắc chắn y sẽ

không ngủ. Mơ mộng hay ñọc sách? Giở ñi giở lại lần thứ một trăm cuốn

“Kiểm kê mô tả những ñền ñài Campuchia”14, lại ném trí tưởng tượng, cũng

như ném cái ñầu mình vào một bức tường, vào những cái Kinh ñô tro bụi của

dây leo và tháp cổ chạm mặt người ñã bị vùi lấp rất sâu dưới những vết xanh

của những thành phố ñã chết ư? Và bất chấp cái niềm tin ương ngạnh luôn

luôn là sức mạnh của y, bắt gặp trở lại những trở ngại xé tan mơ mộng của y,

nhưng mơ mộng luôn luôn nằm một chỗ, kiên trì, bền vững ñến khắc nghiệt

ư?

Bab-el-Mandeb15: Cánh cửa của Thần Chết. Cứ mỗi lần nói chuyện với

Perken là những lời ám chỉ một quá khứ mà Claude không hề biết ñến lại làm

anh khó chịu. Chuyến gặp gỡ thân mật của hai người tại Djibouti sở dĩ anh ñã

vào ngôi nhà ấy chứ không vào một ngôi nhà nào khác, là vì anh ñã nhìn thấy

dưới cánh tay ôm của một cô gái da ñen to lớn mặc áo váy màu ñỏ và ñen, là

hình dáng mờ mờ của Perken không làm cho anh thoát khỏi sự tò mò khắc

khoải luôn luôn ñẩy anh ñến với y, như thể anh ñã nhìn thấy trước con ñường

số phận của anh: ñến với cuộc ñấu tranh của một kẻ không thích sống giữa

cộng ñồng loài người một khi tuổi tác ñã bắt ñầu ñè nặng lên lưng anh và anh

sống lẻ loi cô ñộc. Ông già người Arménie thỉnh thoảng ñi với anh ñã quen

anh từ lâu; nhưng anh ít nói ñến ông ta; anh làm theo một ý nghĩ tiên cảm, có

lẽ do sợ mà thôi: ông già ấy từng là người quen biết của Perken, nhưng chắc

chắn không phải là một người bạn của y. Thế rồi, cũng giống như một tiếng

máy chạy ñều ñều dưới những câu nói luôn luôn thay ñổi, sự ám ảnh của rừng

rú và của các cung ñền lại trở về, lại phủ lên mọi vật, và lại ñè nặng lên con 14 “Mục lục miêu tả các ñền ñài Campuchia”, cuốn sách tham khảo của nhân vật và của tác giả. 15 Bab-el-Mandeb (tên của eo biển nối Hồng Hải với Ấn ðộ Dương) nguyên là “Cửa nước măt”. Nó ñã trở thành một dấu hiệu của kết thúc.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

54

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

người Claude sự thống trị của nó ngày xưa. Trong giấc ngủ mơ màng. Như

thể Châu Á ñã tìm thấy ở con người này kẻ ñồng tình có quyền lực, sự ám

ảnh lại ñưa anh về cả với những mơ mộng nảy sinh từ những cuốn sử biên

niên16: những chuyến lên ñường của các ñạo quân trong hương vị buổi chiều

rộn rã tiếng ve kêu, với những ñàn muỗi mềm mại trên bụi mù của những vó

ngựa phi; tiếng gọi của những ñoàn người lội bộ qua những ngọn suối con

sông ấm nước; những ñoàn công vụ phải dừng chân vì nước bị cạn trước

những luồng cá phản ánh màu xanh thì trời ñầy bươm bướm; những ông vua

tiêu tan sự nghiệp do bàn tay của ñàn bà; và cái mơ mộng kia, bất khả diệt

vong; những ñền ñài, những vị thần bằng ñá phủ rêu xanh, một con ếch nằm

trên vai và cái ñầu bị thời gian bào mòn, lăn ra ñất ngay cạnh hai người.

Câu chuyện huyền thoại của Perken giờ ñây ñang lảng vảng trên con tàu,

ñi từ ghế dài này sang ghế dài khác như nỗi thấp thỏm nay chờ ñợi cập bến,

như cái buồn chán không lành của những chuyến ñi biển. Chẳng bao giờ

thành dạng thành hình. Nhiều chuyện huyền bí hơn là sự kiện. Nhiều người

hăm hở ñưa tin, ñược lắng nghe, ñằng sau cái ống loa tay của họ: “một gã

diệu kỳ, các anh biết không, “Riệu kỳ” hơn là những người biết chuyện. Y ñã

sống giữa những người dân bản xứ và ñã thống trị họ, trong những vùng mà

bao nhiêu kẻ ñi trước y ñã bị giết, có lẽ sau những hành vi phi pháp. Ðó là tất

cả những gì người ta biết ñược, Claude nghĩ: Y ñã có tác dụng chắc chắn là

do kiên trì trong nghị lực, biết chịu ñựng, do những ñức tính một người lính

kết hợp với một lý trí ñủ bao quát ñể tìm những hạng người rất khác biệt với

16 Malraux coi trọng những tư liệu cũ liên quan ñến ñế quốc Khmer, những trích ñoạn của lưu trữ trong ñó có những cuốn “Biên niên hoàng gia”, ở ñây các Vua Angkor có ghi chép những sự kiện lớn ñã xảy ra trong triều ñại họ, lịch sử chiến tranh của họ. Không may, những chuyện chiến sự ấy phần lớn ñã bị mất ñi. Về các thời ñại những ông vua lớn, chỉ còn lại những bộ sưu tập muộn màng, những huyền thoại và những truyền thuyết, truyền khẩu mà như người ta thấy, yếu tố hoang ñường, lấn áp yếu tố lịch sử.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

55

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

y hơn là do những câu chuyện phiêu lưu kia. Chưa bao giờ Claude thấy có

một nhu cầu về những chuyện bịa ñặt lãng mạn sâu sắc như thế ở những công

chức muốn dùng chuyện bịa ñể nuôi dưỡng giấc mơ của mình nhu cầu ñã

ngay tức khắc vấp phải một trở ngại ở cái sợ bị mắc lừa nếu chấp nhận sự tồn

tại của một thế giới khác với thế giới của họ. Những người này tin tất cả về

huyền thoại Mayrena - ông ta ñã chết- và có thể cả huyền thoại Perken nữa

một khi anh ta ñi xa. Ở ñây họ tự bảo vệ mình chống lại sự im lặng của y,

cảnh giác, mong muốn trả thù, bằng một vài cử chỉ khinh bỉ, về cái ý muốn

sống cô ñộc ñôi khi bộc lộ khá rõ ràng của y. Trước tiên, Claude tự hỏi vì sao

Perken ñã chấp nhận sự có mặt của anh: anh là người duy nhất khâm phục y

và có thể là hiểu y, mà không tìm cách phê phán - Anh cố gắng hiểu y hơn,

nhưng lại vụng về trong liên kết những mẩu chuyện bịa ñặt, “tiểu thuyết” (Ví

dụ chuyện những cái ống ñựng thư, trong lúc ñang tổ chức nước Shan ở phía

bên kia cái vòng tròn những bộ tộc nổi loạn, trong những cái chai cạn rượu-

và cho ñến cả những chuyện ảo thuật) với cái mà anh cho là cơ bản ở y - con

người không quan tâm gì ñến việc ñề cao cái tiểu sử của mình, hờ hững với

cái nhu cầu khen ngợi hành vi của mình, và dưới sự chỉ ñạo của một nghị lực

sâu sắc mà nhiều lần Claude cảm thấy gần như sắp sửa tiếp cận ñược rồi

nhưng vẫn không làm sao nắm ñược. Thuyền trưởng cũng có cái cảm giác

như anh. "Bất cứ khách giang hồ nào cũng sinh ra từ một người quen bịa

chuyện", ông ta nói với Claude như vậy; nhưng hành ñộng chính xác của

Perken, ý thức tổ chức của y, việc y luôn luôn từ chối kể chuyện ñời tư của

mình khiến ông ta vô cũng ngạc nhiên.

- Y làm cho tôi chợt nghĩ tới những quan chức của Cơ quan tình báo

(Intelligence service) mà nước Anh vừa dùng vừa phủ nhận nhưng mà cuối

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

56

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

cùng y sẽ không trở thành trưởng phòng phản gián tại Luân ðôn ñâu. Y còn

có một cái gì thêm nữa, y là người ðức.

- Ðức hay Ðan Mạch?

- Ðan Mạch, do Schleswig ñã ñược trả lại theo quyết ñịnh của hiệp ước

Varsailles17 thế là ổn cho y: cán bộ quân ñội và cảnh sát Xiêm ñều là người

Ðan Mạch. Ôi! Hématlos18. Tất nhiên!... Không, tôi không tin là y cuối cùng

sẽ làm việc trong một văn phòng; các người thấy không, y từ Châu Á về...

- Phục vụ chính phủ Xiêm phải không?

- Phải và không phải… Bao giờ cũng thế! Y ñang tìm một người ñã ở lại

những vùng bất khuất phục - ở lại, mất tích hoặc một cái gì ñó tương tự… -

Còn một ñiều ñáng ngạc nhiên hơn nữa là hiện giờ y quan tâm ñến tiền… Sự

kiện mới ñấy!...

Một mối liên hệ ñặc biệt ñã hình thành. Claude nghĩ tới chuyện ñó, ngay

khi mà sự ám ảnh tạm thời giảm xuống khiến anh quá rỗi rãi thời giờ, không

có việc gì ñể làm. Perken thuộc gia ñình những người duy nhất mà ông nội

của anh – là người ñã nuôi dạy anh – cảm thấy có liên quan. Một thứ bà con

xa: cùng thù ñịch với những giá trị ñã sắp ñặt sẵn, cùng ham thích những

hành vi của con người gắn với cái ý thức về tính chất hư ảo của nó; và nhất là

cùng những ñiều từ chối như nhau. Những hình ảnh mà Claude thoáng thấy

về tương lai của anh chia làm hai mảng, một bên là những hoài niệm của anh

17 Hiệp ước Varsaille (28/6/1919) ký giữa Pháp và các nước ñồng minh, chấm dứt chiến tranh thế giới thứ nhất 1914- 1918. 18 Heimatlos – tiếng ðức – có nghĩa là “Không tổ quốc”, chỉ một con người ñã mất quốc tịch gốc mà không có quốc tịch mới thay thế. Trong một thời gian dài, những tay phiêu lưu ñã coi nước Xiêm (Thái Lan) như là một nước lý tưởng. Tới ñó, họ ñược tiếp ñãi, trong khuôn khổ quân ñội hay cảnh sát, bởi một ông vua rất mong muốn ñổi mới ñất nước.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

57

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

về quá khứ và một bên là sự hiện diện này, nó chi phối anh như hai mối ñe

dọa cùng một lúc, như hai vế khẳng ñịnh song song của một lời tiên tri.

Trong những lần nói chuyện với Perken, anh chỉ có khả năng ñối lập lại với

kinh nghiệm, với ký ức người ñối thoại, một cái vốn ñọc sách khá sâu và

rộng; ñôi khi anh phải nói ñến ông nội của anh như Perken nói về cuộc ñời

của y, ñể khỏi phải luôn luôn lấy sách vở ra mà ñối chọi với hành ñộng, ñể

ñược thừa hưởng cái mối quan tâm ñặc biệt mà Perken dành cho cuộc sống

ấy. Vả lại chỉ cần Perken nói một cái gì ñó về bản thân là gợi lên tức khắc

trong ký ức của Claude hình ảnh chòm râu bạc của ông nội19 anh, sự ghê tởm

thế giới, những câu chuyện ñắng cay của ông trong buổi thiếu thời. Ông anh

xưa rất lấy làm tự hào về gốc gác của mình: tổ tiên ông là những tay cướp

biển mà tên tuổi ñã ñi vào huyền thoại; ông nội của ông làm nghề bốc dỡ

hàng ở cảng, rất hãnh diện ñược nện gót chân lên boong tàu, giống như người

nông dân ñược hãnh diện vuốt ve những con vật của mình. Vậy là buổi thiếu

thời ñã gắn cho ông cái trách nhiệm xây dựng gia ñình Vannec ñể giống nòi

tồn tại mãi mãi sau. Ba mươi lăm tuổi, ông cưới vợ, mười hai ngày sau vợ

ông bỏ về nhà mình, bị bố mắng không cho gặp mặt; mẹ kết luận với cái

giọng thất vọng chán chường: “Con gái ơi! Cứ về ñi… những chuyện ñó…

có con với nhau là ổn tất…” Và “cô dâu” mới cưới ñành trở về với tòa nhà ñã

cũ mà ông tôi ñã mua nó cho bà: cổng xe phía trên treo hình những biểu hiện

của nghề hàng hải, sân rộng mênh mông phơi ñầy những chiếc buồm. Bà ñã

hạ hết chân dung các cụ thân sinh ra ông tôi xuống, vất vào gầm giường và

thay vào ñó là một cây thập tự nho nhỏ. Ông tôi chẳng nói gì. Mấy ngày liền

19 Nguyên mẫu nhân vật này là ông nội của tác giả Alphonse Malraux: “… Người ông ấy chính là ông nội của tôi, có lẽ ñã biến hóa qua “Văn học dân gian” của gia ñình”, tác giả viết trong Phản hồi ký. “ðó là một ông chủ ñóng tàu, mà tôi ñã mượn những nét giống nhất ñể miêu ta người ông nội của nhân vật Con ðường hoàng gia và trước tiên là cái chết của ông xứng ñáng với cả ñoàn tàu của mình mà hầu hết ñã bị ñắm chìm nơi biển cả. (Miroir des Limbers, 1976 tr.11).

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

58

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

chẳng ai nói với ai một tiếng. Thế rồi cuộc sống chung bắt ñầu trở lại. Cả hai

người ñều là con cháu những gia ñình có truyền thống lao ñộng, ghét mọi thứ

ảo tưởng ba hoa, cho nên nỗi oán hận gây ra bởi sự hiểu lầm nhau ñầu tiên ấy

không biểu hiện bằng xung ñột: họ chia một phần cuộc ñời của họ cho một sự

ñối ñầu thầm lặng như người tàn tật chia một phần ñời cho sự tàn tật của

mình. Mỗi một bên ñều vụng về trong việc diễn tả tình cảm của mình; muốn

tỏ tình giỏi hơn, hai bên ñều lao vào công việc, tìm thấy trong công việc vừa

là một nơi ñể lẩn tránh, vừa là một nơi ñể say mê. Sự có mặt của con cái chen

thêm vào mối hận cũ của hai người một sợi dây liên hệ mới xót xa hơn. Cứ

mỗi lần tổng kết là một lần phát hiện ra những sức căm thù mới: khi ñêm về

trùm bóng lên ngôi nhà và lên những cánh buồm nâu ở sân, và các thủy thủ,

các công nhân ñều ñã ñi nằm hoặc ñã ñi chơi, vào một giờ khuya nào ñó,

người ta trông thấy người chồng nghiêm mình qua cửa sổ nhìn sang buồng

bên kia thấy ñèn vẫn sáng lại cố gắng làm thêm một việc mới gì ñó, mặc dù

rất mệt mỏi. Người vợ bị bệnh lao, nhưng vẫn bất chấp; và mỗi năm, “chàng”

làm việc nhiều hơn ñể ngọn ñèn của mình không phải tắt trước ngọn ñèn của

“nàng” vẫn sáng suốt canh thâu.

Một hôm, ông tôi thấy các bức chân dung cha mẹ mình ñã bị hạ xuống ñể

ở gầm giường bên cạnh cây thập tự.

Bất bình vì ñã trải qua quá nhiều ñau khổ không những vì cái chết của

những người thân yêu mà cả vì cái chết của một người vợ mà ông chẳng yêu

tí nào, ông tôi ñã chấp nhận cái chết của bà khi nó xảy ñến, với một thái ñộ

chịu ñựng xót xa. Ông vốn ñánh giá cao và khâm phục vợ; ông biết rất rõ vợ

mình ñã khổ cực – cuộc sống cứ như vậy mà trôi ñi. Hơn cả cái chết của vợ,

chính là sự ngán ngẩm sự ñời ñã làm cho sức khỏe và tinh thần ông suy sụp

nhanh chóng. Khi các công ty bảo hiểm từ chối không ñền bù cho ông về

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

59

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

chuyện cả ñoàn tàu của ông bị bão tố tan tành gần hết ở ngoài khơi Terre

Neuve; khi ông bỏ trọn một ngày ñể phát cho các bà quả phụ những chồng

tiền cũng ngang hàng với số thuỷ thủ của ông ñã bị chết, với một nỗi ghê tởm

ñồng tiền chưa từng thấy bao giờ, ông ñã rời bỏ các xí nghiệp của ông; và cả

những việc kiện tụng bắt ñầu. Những vụ kiện dồn dập liên miên. Mang nặng

ñối với những ñức tính ñược tôn trọng một mối căm thù nung nấu bấy lâu,

ông già ñón nhận vào cái sân buồm của ông những ñoàn xiếc mà tòa thị chính

không cho lưu trú; và bà già giúp việc ñã mở rộng cả hai cánh cổng từ bao

năm nay không một chiếc xe nào lui tới – cho con voi vào. Một mình trong

phòng ăn rộng lớn, ông ngồi ở một chiếc ghế bành trang trí bằng những hình

xoắn, nhấm nháp một ly rượu loại ngon nhất của mình, ông vừa lần giở

những quyển sổ kế toán vừa lần lượt gợi lại những kỷ niệm ngày xưa.

ðến cái tuổi hai mươi, các con cái lục tục ra ñi, bỏ lại ngôi nhà ngày càng

lặng lẽ quạnh hiu, quạnh hiu cho ñến khi chiến tranh ñưa Claude về lại ñó.

Cha Claude chết trận. Mẹ Claude từ lâu ñã bỏ chồng, hôm nay trờ về thăm

con. Ông già Vannec ñã ñón chị. Ông ñã quen coi thường hành ñộng của con

người ñến mức ông bao dung tất cả trong một tấm lòng vừa ñộ lượng vừa

căm hờn. Buổi tối, ông vẫn giữ chị lại, bất bình khi nghĩ rằng lúc con trai ông

còn sống thì con dâu ông ra ở khách sạn, ngay trong thành phố. Kinh nghiệm

cho ông hiểu rằng tinh thần hiếu khách không loại trừ tấm lòng thù hận. Họ

ñã nói chuyện ñúng hơn, là chị ta ñã nói: một người ñàn bà bị bỏ rơi, luôn

luôn bị tuổi tác mình ám ảnh ñến quằn quại, biết chắc không tránh khỏi sa

ñọa, và nhìn ñời bằng con mắt lạnh lùng tuyệt vọng. Một người mà ông có

thể sống với ñược. Chị ta ñã bị phá sản, nếu không phải là nghèo. Ông không

thích gì chị, nhưng lại chịu ảnh hưởng của một tinh thần tập thể kỳ lạ: cũng

như ông, chị cách biệt với cộng ñồng con người nó ñòi hỏi phải chấp nhận

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

60

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

bao nhiêu ñiều ngu xuẩn hoặc mờ ám; cô em họ của ông giờ ñây già quá rồi,

quản lý ngôi nhà không nổi nữa…, ông khuyên chị ta ở lại và chị ta ñã nhận

lời.

Dùng phấn son ñể che giấu sự cô ñơn, che giấu các bức chân dung của các

ông chủ nhà ngày trước, những biểu tượng của ngành hàng hải; dùng phấn

son chủ yếu ñể che giấu những tấm gương soi mà chị không có cách nào

chống chọi ngoài những bức màn chéo và những thủ thuật “ánh sáng mờ”,

chị ta ñã chết vì một sự hồi xuân quá sớm, như thế sự kinh hoàng của chị ñã

là một ñiều tiên ñoán. Ông ñã chấp nhận cái chết này, với một sự ñồng tình

tang tóc… “Ở cái tuổi của tôi, người ta không thay ñổi tôn giáo nữa…” Số

phận hãy cứ dệt cho xong cái tấm vải của sự ñần ñồn kia ñể làm thành cuộc

dời của chị: Tốt thôi! Từ ñó, ông chỉ ra khỏi tình trạng lặng lẽ căm thù trong

ñó ông tự giam mình ñể nhằm chăm sóc nuôi nấng Claude. Do sự thúc ép của

tư tưởng ích kỉ của người già, ông luôn luôn ñể cái quyền quở quạt cậu bé

cho cô em họ, cho mẹ cậu hoặc cho các thầy giáo của cậu; ñến nỗi ở

Dunkerque (và cả sau này nữa, khi cậu bé ñã là sinh viên và biết ñược các

chú, cậu của mình), Claude luôn luôn có cảm giác rằng tư tưởng của mình

mang tính tự do một cách kỳ lạ. Trong ông già giản dị, lớn lên nhờ những cái

chết vây quanh và bởi cái ánh sáng ñầy bi kịch mà biển cả ñã tô ñiểm cho

những cuộc ñời sống chết vì nó, có một nhà tu hành thô lỗ nhưng không biết

sợ Chúa, một số câu ông ñã dùng ñể diễn tả cái kinh nghiệm nặng nề của

mình vẫn âm vang trong ký ức của Claude như tiếng kẹt cửa lặng lẽ của cái

cửa con trong tòa nhà, giờ ñây sừng sững cô ñơn trên ñường phố vắng, mỗi

lúc ñêm về, ngăn cách anh với thế giới xung quanh. Sau bữa ăn tối, khi ông

nói chuyện, chòm râu cằm của ông phất phơ chạm vào ngực, câu nói nặng

suy tư của ông khiến Claude hoang mang; Claude chống lại với những câu

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

61

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

nói của ông như thể nó là những lời băng qua thời gian hay biển cả vọng tới

tai anh, từ những miền xa xôi nào, xứ sở riêng của những miền xa xôi nào, xứ

sở riêng của những người mà, hơn tất cả mọi người khác, từng thấu rõ sự

nặng nề, nỗi ñắng cay và sức mạnh huyền bí của cuộc ñời. “Một trí nhớ là

một cái nhà mồ thiêng liêng của gia ñình ñấy, cháu ạ. Sống với nhiều người

chết hơn người sống… Người của gia ñình chúng ta, ông rất biết: tất cả, kể cả

cháu, ñều có chung một bản chất. Và khi họ không thích… cháu biết không,

có những con cua lấy ngay thân xác mình ñể nuôi nấng, như một người mẹ

nuôi con mà không hề ngờ ñến, chính những con vật ăn bám ñang rỉa rấy gặm

nhấm thịt mình. Là một người con cháu dòng họ Vannec, ñiều ñó có mang

một ý nghĩa nhất ñịnh về mặt tốt cũng như mặt xấu…”

Khi Claude lên Paris ñể tiếp tục việc học có mình, ông già ñã có cái thói

quen ngày ngày ñến viếng bức tưởng kỷ niệm những người thủy thủ ñã chết ở

biển khơi; ông ganh tỵ cái chết của họ và rất vui vẻ hòa nhập cái tuổi già của

mình với cái hư vô kia. Một hôm, ông muốn bày vẽ cho một anh thợ chậm

chạp biết, ở vào thời ñiểm ông, người ta chẻ gỗ mũi thuyền như thế nào, ông

ñã bị một cơn choáng ngay khi ông ñang múa chiếc búa hai lưỡi lên ñã bổ

luôn vào chính ñầu mình. Thế là, trước mặt Perken, Claude ñã tìm thấy lại sự

thích thú, sự thù ñịch, mối quan hệ ñam mê ñã buộc chặt anh với ông già bẩy

mươi sáu tuổi cương quyết không bỏ quên cái tài năng cũ của mình và ñã

chết trong ngôi nhà hoang vắng, cái chết của một ông giá Viking20 chính

cống. “Còn con người này, sẽ kết thúc cuộc ñời như thế nào?” Một hôm y ñã

trả lời anh, trước ñại dương mênh mông: “Tớ nghĩ rằng ông nội của cậu

không mang một ý nghĩa gì quá ñặc biệt như cậu tưởng ñâu, mà chính cậu

mới là người mang một ý nghĩa lớn” hơn nhiều! Như thể cả hai người ñều 20 Viking: Những người ñi biển và thương nhân ñầu tiên của vùng Scandinavie, ñã từng vượt sông vượt biển từ nước Nga ñến ðại Tây Dương.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

62

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

diễn ñạt bằng ẩn dụ, họ ñã xích lại gần nhau hơn, dưới tấm màn che của

những kỷ niệm.

Sương tan, mưa trùm cả con tàu. Chùm ánh sáng phát ra theo hình một

tam giác dài từ ngọn ñèn pha của thành phố Colombo ñang chiếu dập dềnh

trên dãy dài những bến cảng. Hành khách tập trung cả lên boong ñang ñứng

nhìn ở phía bên kia bờ của thành tàu ñẫm nước tất cả những tia sáng ñang run

rẩy ñó. Cạnh Claude, một người ñàn ông to mập ñang giúp một gã Arménien

- môi giới buôn bản vừa mua ngọc lam ở Ceylan ñem ñi bán ở Thượng Hải

xếp ñặt gọn những chiếc va ly của hắn. Perken, xa ñó một chút, nói chuyện

với viên thuyền trưởng; nhìn nghiêng nét mặt của hắn kém vẻ ñàn ông, nhất

là khi y cười mỉm.

- Anh nhìn cái mặt của hắn kia. Của lão Chang ấy, - người ñàn ông to mập

nói. - Như thể hắn có vẻ ñứng ñắn.

- Ông gọi hắn ta là gì?

- Người Xiêm gọi hắn ta như vậy. Có nghĩa là con voi, không phải con voi

người ta nuôi tại nhà, mà là con voi kia cơ. Về hình thức cái tên ñó không

hợp lắm, nhưng về tinh thần thì hợp.

Quệt sáng của ngọn ñèn pha chiếu sáng tất cả mọi người trong giây lát,

tiêu ñiểm của nó lóe rực lên rồi lại chìm vào ñêm tối, chỉ ñể lại trong luồng

sáng của con tàu, chói lọi và cuồn cuộn, một chiếc thuyền buồm Arập cao

mạn, chạm trổ từ mũi ñến tận lái, bất ñộng và vàng hoe, ñậu riêng một mình

giữa những khối bóng ñen. Perken vừa tiến hai bước lên phía trước; do linh

tính, người ñàn ông to mập hạ giọng. - Claude mỉm cười.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

63

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Ồ y không làm tôi sợ ñâu, dĩ nhiên là như vậy. Tôi ñã ở các vùng thuộc

ñịa hai mươi bảy năm rồi. Anh tính! Nhưng... có thể nói hắn làm cho tôi hơi

ngại. Anh thì không chứ?

- Làm bất chấp như vậy là rất tốt, gã Arménien trả lời – hắn không nói to -

nhưng không phải khi nào cũng thắng lợi ñâu!

- Anh thông thạo tiếng Pháp lắm...

Chắc là gã trả thù vì bị ai ñó làm nhục. Và có thể là gã ñã phải ñợi, ñể trả

thù, cái phút cuối cùng trước khi rời con tàu chăng? Giọng nói của gã không

mỉa mai mà tràn ñầy oán hận.

Perken lại lánh ñi chỗ khác một lần nữa

- Tôi là người Constatinople... và là người Montmartre trong những kỳ

nghỉ hè của tôi. Không, thưa ông, không phải khi nào cũng thắng lợi ñâu!

Và ngoảnh sang phía Claude:

- Chẳng bao lâu ông cũng sẽ chán y thôi, như mọi người khác... Về những

chuyện mà y ñã làm. Nhưng nếu y có kiến thức kỹ thuật, tôi nói “Kỹ thuật”,

thưa ông, thì với vị trí của y, khi y coi cái xứ sở này như nước Xiêm, y có thể

tạo ñược một cơ nghiệp, biết ñâu ñấy... thật là ñồ sộ...”

Hai tay huơ mạnh, gã Arménien vẽ hình một vòng tròn tạm che khuất ñi

trong chốc lát những ánh ñèn của ñất liền giờ ñây ñã gần hơn nhưng cũng mờ

hơn như thể những ánh ñèn cũng bị thấm nước như những chất xốp.

- Nên nhớ rằng lại các chợ Xiêm, cách các làng không chịu khuất phục ñộ

mươi lăm cây số, nếu anh tinh ranh, nếu anh biết làm chuyện buôn bán, anh

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

64

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

có thể tìm ñược những viên hồng ngọc với cái giá rất hờ...! Anh, anh không

thể nào hiểu nổi, bởi anh không phải người trong cuộc.. Vẫn còn hơn là ñi ñổi

những ñồ trang sức gia công nhưng là ñồ dởm lấy những ñồ trang sức thô

nhưng bằng vàng. Mặc dù mới hai mươi ba tuổi, (thực ra, cái việc này có phải

tự y làm ñâu: một người da trắng ñã làm với chính vua Xiêm cách ñây năm

mươi năm), nhưng anh ta quyết tâm ñến với họ; cũng lạ là họ không thịt y

ngay lúc bấy giờ. Luôn luôn y cứ muốn làm một thủ lĩnh. Như tôi ñã nói với

anh, có những ngày mà y chẳng ñạt chút thành công nào; người ta ñã chứng

minh cho y rõ ñiều ñó tại Châu Âu. Hai trăm ngàn franc! Kiếm ñược hai trăm

ngàn franc - ñâu có dễ dàng gì; chi bằng cứ liều ñóng vai những ngài thủ lĩnh!

(tuy nhiên, khỏi phải nói, y ñã tranh thủ ñược tín nhiệm của người dân bản

xứ).

- Y cần tiền ư?

- Cần tiền, nhưng không phải ñể sống, nhất là ở những vùng cao ấy...

Những chiếc salúp cập bến, ñầy hoa quả và ñầy những người Ấn vừa

bước lên vừa vắt kiệt những chiếc khăn ñầu sũng nước của họ. Gã Arménien

ñi theo một nhân viên khách sạn.

“Y cần tiền”... Claude tự nhắc lại câu nói ñó với mình.

- Về vấn ñề này, con khỉ ñột nói có lý, - gã Arménien mập ụ nói tiếp, -

trên ñó ñời sống không thể quá ñắt ñỏ!...

- Anh là nhân viên kiểm lâm ạ?

- Trưởng trạm.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

65

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Một lần nữa, Claude lại bị ám ảnh mãnh liệt như một cơn sốt: anh có thể

hỏi chuyện người ñàn ông này về cái trò chơi nguy hiểm mà anh sắp sửa dấn

thân vào.

- Anh ñã từng ñi ñường trường bằng xe trâu kéo chưa?

- Dĩ nhiên là tôi ñã làm việc với những chiếc xe trâu kéo ấy, cậu nên biết

vậy!

- Mỗi chiếc có sức chuyên chở ñược bao nhiêu ký hàng?

- Xe nhỏ lắm, cậu hiểu không? Chỉ chở những hàng nặng mà không cồng

kềnh.

- Ðá chẳng hạn?

- Trọng tải ổn ñịnh là sáu chục ký.

Nếu cái sức trọng tải không ñược quy ñịnh do một trong các luật lệ thực

dân – chỉ tồn tại trước mắt bọn quan cai trị - thì không nên nghĩ ñến cái

phương tiện xe trâu này nữa. Vậy là cái ý nghĩ bị bỏ rơi giữa chốn núi rừng

vẫn cứ theo anh cho ñến cả ñây.

Chuyển bằng lưng người suốt một tháng, những tảng ñá nặng hai trăm ký

ư? Không thể. Hay ta dùng voi?

- Voi ạ? Anh bạn trẻ ơi! Tôi sắp nói cho anh nghe ñây: phải dùng mẹo

mới ñược.

Người ta tưởng voi khó tính, hay õng ẹo. Không ñúng. Cái khó là voi

không thích người ta ñeo ñai ñeo càng lên lưng nó, nó có máu buồn. Vậy phải

làm thế nào, cậu có biết?

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

66

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Tôi, tôi ñang nghe anh ñây.

Nhẹ nhàng, người ñàn ông to béo ñặt tay lên vai Claude:

- Cậu hãy lấy một cái săm ô tô, một cái săm Michelin nào ñó cũng ñược,

khoác vào cổ con voi như thể quàng khăn cho nó ấy. Rồi sau ñó cậu buộc các

thứ vào cái săm ấy. Thế là ñược... dễ thôi mà. Cao su mềm, anh hiểu không?

- Có thể có voi ñi lên cực bắc vùng Angkor không?

- Cực bắc ư?

- Vâng.

Một giây lát im lặng.

- Qua bên kia dãy núi DangRek à?21

- Ðến Sông Sémoun.

- Một người ñã trắng mà ñịnh làm chuyện phiêu lưu này một mình, không

có bạn bè nào giúp ñỡ thì hỏng!

- Có thể có voi ñể thuê không?

- Chung qui ñó là việc của anh... Còn voi ư? Tôi thấy khó lòng ñấy; trước

hết, người bản xứ chẳng khoái gì chuyện ñi dạo mát lên trên ñó ñâu; cậu có

nhiều khả năng bị rơi vào tay những người bất tuân phục ấy, là chuyện chẳng

hay ho gì! Thêm chuyện nữa là người dân những bản làng cuối cùng bị sốt rét

hành hạ cho ñến mụ mẫm con người, mí mắt thâm tím như bị ñánh từ bảy

21 DangRek là một dãy núi dốc cách vùng Biển Hồ khoảng 100km về phía Bắc, gần Angkor. Nó chảy dài theo hướng Tây – ðông từ biên giới nước Xiêm (Thái Lan) ñến tận dãy Trường Sơn của Việt Nam. Sémoun là một con sông nhỏ chảy vào sông Mekong ñất Lào, phía Bắc dãy DangRek.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

67

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

tám hôm, chẳng có khả năng làm bất cứ việc gì. Sau nữa, nếu anh bị muỗi

cắn - là cái ñiều không tránh khỏi - thì nên nhớ ñó không phải là muỗi lành

ñâu. A! Bò cái thật!... Và sau nữa... nhưng thôi, hôm nay chúng ta hãy biết

ñến ñó... Cậu có muốn ñi dạo một vòng? Salúp kia...

- Không!

Anh tiếp tục dòng suy nghĩ.

“Nếu y cần tiền, không phải là ñể sống, nhất là ở vùng cao ấy!”. Không

nghi ngờ gì nữa. Ðể làm gì? Hơn cả sự ñe dọa của rừng sâu, câu chuyện

huyền thoại ác ý này không phải không có cái mặt cao cả của nó, ñang làm

phân hủy ra như một chất men, như cái ñêm này, cái ñiều mà ñối với Claude

chính là thực tế. Mỗi lần tiếng còi của một chiếc tàu rực sáng gọi các xuồng

con, tiếng còi ñược làn không khí mặn mà của vịnh biển truyền ñi rất lâu rất

xa; thành phố càng chìm ñi, càng tan biến ñi trong ñêm Ấn ðộ. Nhưng tư

tưởng phương tây cuối cùng của anh ñắm chìm trong cái không khí kinh dị và

tạm thời ấy; một làn gió thoảng nhẹ nhàng mang lại sự mát mẻ khoan khoái

trên ñôi mí mắt, ñã làm nổi bật lên trên khuôn mặt Perken không phải những

nét cá biệt, khác thường, mà là những dấu hiệu của sự thích nghi. Cũng như

tất cả những người ñối lập lại với thế giới, Claude tìm kiếm theo bản năng

những kẻ tương ñồng và muốn cho họ cao cả; trong trường hợp này, anh

không sợ là nạn nhân của chính sự lừa bịp của mình nữa. Nếu con người kia

mong có tiền, không phải là ñể sưu tập các loài hoa tuy líp. Qua câu chuyện

anh ñã kể, ñồng tiền trong giờ phút này, trôi ñi như tiếng ve râm ram dưới sự

im lặng. Cả ông thuyền trưởng cũng ñã nói: “Giờ ñây y ñã quan tâm ñến

ñồng tiền.”

Và tay trưởng trạm kiểm lâm thì nói:

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

68

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Một gã da trắng mà ñịnh ñi qua con ñường ấy một mình, là hỏng việc

rồi!

Trong lúc này, chắc chắn Perken ñang ngồi ở quán rượu.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

69

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

II

Claude chẳng phải ñi ñâu tìm y; y ñang ngồi trước một chiếc bàn làm

bằng mây song mà các tiếp viên ñã kê từng dãy trên boong; một tay giữ cái ly

ñặt trên một chiếc khăn bàn, nhưng lưng ngoảnh lại, tay kia dựa trên tay vịn

boong tàu, y có vẻ ñang nhìn những ánh ñèn lung linh trước gió ở phía sau

vịnh biển.

Claude tự cảm thấy mình vụng về.

- Chỗ ghé chân cuối cùng của tớ ñây! Perken vừa chỉ những ánh ñèn xa xa

với bản tay tự do của y vừa nói.

ðó là bàn tay trái: ñược ánh ñèn của chiếc tàu chiếu sáng có một phía, nó

nổi bật lên chốc lát giữa nền trời giờ ñây ñã ñược rửa sạch và ñầy sao, mỗi

một khe ngón tay của nó hiện hình lên như một ñường cong ñen sẫm. Y quay

người hẳn sang phía Claude, vẻ mặt buồn nản của y làm cho Claude ngạc

nhiên; bàn tay y ñã rụt lại.

- Một tiếng ñồng hồ nữa là chúng ta lên ñường. Thực tế mà nói thì ñối với

cậu, “ñến” có nghĩa là gì?

- Là hành ñộng thay cho mơ mộng. Còn ñối với anh?

Perken làm một ñộng tác như ñể tránh né câu chuyện; tuy nhiên y vẫn trả

lời:

- Là mất thời giờ...

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

70

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Claude ñưa mắt ngắt lời y; y nhắm mắt lại. “Có chiều không ổn rồi”,

chàng trai suy nghĩ. “Ta thử làm cách khác”.

- Anh lại trở lên xứ sở của những người bất tuân phục ư, Perken?

- Ðó không phải là cái mà tôi gọi là mất thời giờ, trái lại.

Claude vẫn tìm hiểu ý tưởng của y, anh trả lời hú họa:

- Trái lại ư?

- Trên vùng ấy, tôi ñã tìm thấy hầu như mọi thứ.

- Ngoài ñồng tiền ra, phải không?

Perken nhìn anh chăm chú, không ñáp.

- Nếu, trên ñó, có tiền thì sao?

- Thì hãy lên ñó mà kiếm tiền!

- Có thể...

Claude do dự; từ một ngôi ñền xa xa vọng lại những tiếng hát trầm trầm,

thỉnh thoảng bị ngắt quãng bởi tiếng còi của một chiếc ô tô trên con ñường

hoang vắng.

- Trong rừng từ Lào ñến biển, có rất nhiều ngôi ñền mà người Châu Âu

chưa biết ñến.

- À! Những tượng thần bằng Vàng? Không dám ñâu!

- Phù ñiêu và tượng - không phải bằng vàng - mà có giá trị cực kỳ to lớn.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

71

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Anh vẫn do dự.

- Anh mong muốn kiếm ñược hai trăm nghìn franc phải không?

- Gã Arménien nói chuyện ñó với cậu, chắc thế? Vả lại, tớ chẳng giấu

giếm gì. Cũng có những ngôi mộ các Pharaon, và gì gì nữa không rõ?

- Anh Perken này, anh tưởng tôi ñi tìm mộ những Pharaon giữa những con

mèo?

Perken ra chiều suy tư. Claude nhìn y, và phát hiện ra rằng tất cả lý lịch,

tất cả sự kiện ñều bất lực trước uy thế của một số người nào ñó cũng như

trước sắc ñẹp của một người ñàn bà. Những câu chuyện nữ trang, tiểu sử

cuộc ñời của con người ñó giờ ñây không tồn tại. Hắn ta ñứng ñó, thật ñến

nỗi tất cả những việc làm của cuộc ñời quá khứ của hắn ta ñã tách rời khỏi

hắn ta như những giấc mộng. Về sự kiện, Claude chỉ nhớ những sự kiện nào

phù hợp với tâm tư của anh... liệu y có trả lời không ñây.

- Ta ñi bộ ñi, ñồng ý chứ?

Họ lặng lẽ ñi vài bước. Perken luôn luôn ñể mắt nhìn những ánh sáng màu

vàng của cảng, bất ñộng dưới những ngôi sao sáng ñẹp hơn. Không khí, mặc

dù ban ñêm dính vào da thịt Claude như một bàn tay mềm mại mỗi lần anh

im lặng. Y mở bao thuốc, rút ra một ñiếu, nhưng bực mình vì cái cứ chỉ uể

oải của mình, y ném ñiếu thuốc xuống biển;

- Tớ ñã gặp nhiều ngôi ñền, cuối cùng Perken nói. Trước hết không phải

ñền nào cũng ñược trang trí.

- Không phải tất cả những mà nhiều.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

72

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Cassirer22, tại Berlin ñã trả từ năm nghìn ñồng mark vàng cho hai ông

phật Damrong23 cho tôi... Nhưng mà ñi tìm những ñền ñài thì thà rằng ñi tìm

kho báu như người bản xứ.

- Nếu anh biết chắc có năm chục kho báu ñã ñược chôn giấu dọc bờ một

con sông, giữa hai ñịa ñiểm xác ñịnh, cách nhau sáu trăm mét một chẳng hạn,

liệu anh có ñi tìm không?

- Không có sông.

- Không. Cậu có muốn ñì tìm kho báu không?

- Cho anh ư?

- Với tôi, chia ñều.

- Con sông?

Nụ cười nửa miệng của Perken khiến cho Claude bực tức ñến cực ñiểm.

- Cứ tới xem.

Dọc hành lang dẫn hai người tới buồng của Claude, Perken ñặt tay lên vai

chàng trai.

- Hôm qua, cậu có ñể lộ cho tớ thấy cái ý ñồ sẽ chơi một cuộc cuối cùng.

Cậu liên hệ ñến cái chuyện cậu vừa nói tới, phải không? 22 Cassier – cái tên riêng này có thể ñược gợi lên trong ý nghĩ tác giả do nghĩ tới Ernst Cassirer, triết gia người ðức có trình ñộ kiến thức rất cao, rất quan tâm tới thế giới hình thức mỹ học, tới các tôn giáo và thần thoại (Triết lý các hình thái tượng trưng La Philosophie des formes symboliques, NXB B. Cassier, Berlin, 1923 – 1929, 3 tập). 23 Hoàng thân Damrong Rajanubhat là một trong số 40 con trai của Rama IV và là em của Vua Xiêm. Là một nhà khảo cổ học sành sỏi và là Chủ tịch cơ quan khảo cổ học Xiêm, ông ñã giúp Lunet de Lajonquiere lập cuốn “Mục lục các ñền ñài Khmer tại Xiêm”. Trong Hồi ký của mình, Clara Malraux có nhắc ñến những câu chuyện mà cả xung quanh một dự án mua bộ sưu tập của vị hoàng thân ñó.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

73

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Ðúng.

Claude tưởng tìm thấy tấm bản ñồ vẫn ñể mở trên giường nằm của mình,

nhưng chú bé phục vụ ñã gấp nó lại. Anh mở bản ñồ ra.

- ðây là vùng biển hồ. Tất cả những chấm ñỏ tập trung xung quanh chỉ

các ñền chùa. Những ñiểm rải rác: những ñền chùa khác.

- Còn những ñiểm màu xanh này?

- Là những thành phố cũ ñã hoang tàn của Campuchia. Ðã ñược khai quật.

Theo ý tôi, vẫn còn những thành phố khác. Nhưng thôi, cho qua. - Tôi chỉ

tiếp. - Anh thấy những ñiểm ñỏ chỉ vị trí các ñền có rất nhiều ở ñầu ñường

gạch ñen của tôi và ñi theo hướng của ñường gạch.

- Nó là cái gì ñấy?

- Con Ðường hoàng gia ñấy. Nối liền Angkor và vùng hồ với lưu vực

Sông Ménam. Nó cũng quan trọng, tương tự như con ñường nối liền sông

Rhône với sông Rhin thời trung cổ.

- Các ñền ñài nằm dọc theo con ñường ấy cho tới ñâu?

- Tên cái làng không quan trọng: cái quan trọng là nó ñi tới chỗ tiếp giáp

với những vùng thật sự ñã ñược thám hiểm. - Tôi nói. - Chúng ta chỉ cần

dùng ñịa bàn ñi theo dấu vết con ñường cũ là có thể tìm thấy những ngôi ñền

thôi. Giả sử Châu Âu bị chìm ngập dưới bạt ngàn rừng rú, sẽ là cực kỳ cô lý

nếu ta nghĩ rằng từ Marseille tới Cologne qua con ñường Sông Rhône mà lại

không gặp những ngôi nhà thờ ñổ nát! Cũng ñừng quên rằng về cái vùng ñã

ñược thám hiểm - ñiều tôi nói lên ñây có thể kiểm tra ñược và ñã ñược kiểm

tra rồi - những bài ký sự của những du khách trước ñây ñều nói rõ ñiều ñó.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

74

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Anh dừng lại ñể trả lời cho cái liếc mất dò hỏi của Perken:

- (Tôi không phải là người từ trời rơi xuống mà từ các ngôn ngữ phương

ñông ñến ñây: tiếng Phạn không phải bao giờ cũng vô ích). Những du khách

ñã từng phiêu lưu cách các vùng có bản ñồ cụ thể ấy ñộ mươi cây số ñều

khẳng ñịnh như thế.

- Cậu tưởng cậu là người ñầu tiên giải thích tấm bản ñồ này theo cách ñó

à?

- Sở ñịa lý họ không quan tâm ñến vấn ñề khảo cổ.

- Viện Hàn Lâm Pháp thì sao?

Claude giở cuốn Mục lục tài sản tại một trang có ñánh dấu; một số câu

ñược gạch chân: “việc còn lại là phải kê danh sách những ñền ñài ở bên

ngoài những nẻo ñường tìm kiếm của chúng ta. Chúng ta không thể quả quyết

rằng các bản danh sách của chúng ra ñã trọn vẹn24...”

ðây là bản tổng kết của chuyến ñi khảo sát rất lớn sau cùng của chúng ta.

Perken nhìn bản tổng kết.

- 1908?

- Chẳng có gì quan trọng xảy ra giữa năm 1908 ñến năm ñầu cuộc chiến

tranh. Từ cái thời hạn ñó, có những cuộc thám hiểm chi tiết. Những cuộc ñối

chiếu tài liệu cho phép tôi tin chắc rằng cái ñộ dài của các ñơn vị ño ñạc của

người xưa ñược ghi lại ở ñây cần phải ñược ñiều chỉnh lại. Dọc Con ðường

hoàng gia, phải kiểm tra lại: nhiều ñiều khẳng ñịnh bị coi là huyền thoại, thực

24 Câu này trích trong cuốn Mục lục của Lunet de Lajonquìere.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

75

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

ra là mang ñầy hứa hẹn. ðây là chúng ta mới nói ñến Campuchia: anh biết

rằng tại Xiêm người ta chưa làm ñược gì cả.

Một câu trả lời, thay vào im lặng ấy!

- Anh ñang nghĩ gì vậy?

- Chiếc ñịa bàn có thể chỉ cho ta cái hướng ñi chung chung; sau ñó ta phải

dựa vào sự hướng dẫn của dân ñịa phương, phải không?

- ðúng thế, nhưng phải dựa vào người dân của những làng không ở cách

xa con ñường lắm.

- Có thể... nhất là ở Xiêm; tớ biết khá nhiều tiếng Xiêm ñể buộc họ phải

nói. Chính tớ cũng ñã gặp những ñền ñài như thế. ðó là những ñền ñài cũ của

hồi giáo phải không?

- ðúng.

- Như vậy là chẳng có chuyện cuồng tín gì ñâu; chúng ta vẫn là tiếp xúc

với những người phật giáo thôi. Dự án có lẽ không ñến nỗi quá kỳ quặc lắm!

Cậu biết rõ về cái nghệ thuật này không?

- Tôi còn nghiên cứu nó trong một thời gian khá dài.

- Từ... Cậu tuổi thực nay bao nhiêu?

- Hai mươi sáu tuổi.

- A!

- Tôi có vẻ trẻ hơn so với tuổi, ñúng tôi biết...

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

76

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Không phải tớ ngạc nhiên, mà là... tớ ghen với cậu ñấy!

Giọng nói của y không phải là mỉa mai.

- Chính phủ Pháp chẳng mấy thích thú...

- Tôi ñược giao trách nhiệm công tác.

Sự ngạc nhiên ngăn cản Perken không cho anh trả lời ngay.

- Tôi càng ngày càng hiểu rõ hơn...

- Ồ, công tác không lương! Về chuyện này các bộ của nhà ta chẳng dè sẻn

chút nào!

Claude thấy lại ông trưởng phòng nhã nhặn và bệ vệ, những hành lang

vắng vẻ ñể những tia nắng của mặt trời rọi thẳng vào những chiếc bản ñồ

ngây thơ trên ñó những thị trấn – Vientiane, Tombouctu, Djibouti ngự trị ở

trung tâm những vòng tròn màu hồng giống như những kinh ñô, rồi những

mớ tiện nghi trò hề màu vàng và màu hồng lựu...

- Những quan hệ với Viện Bác cổ Hà Nội25, và những cái phiếu trưng tập,

tôi thấy Perken nói tiếp. Chả có gì, nhưng dù sao...

Y lại nhìn vào tấm bản ñồ:

- Vận chuyển: xe trâu!

- Này, anh nói cho tôi biết: nên nghĩ như thế nào về cái trọng tải sáu mươi

ký?

25 ðây nói về trường ðông phương Bác cổ của Pháp.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

77

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Chẳng nghĩ thế nào cả. Quan trọng gì ñâu! Từ năm chục cho ñến ba trăm

ký tùy những thứ mà cậu sẽ gặp. Vậy là: xe trâu! Nếu như sau một tháng tìm

kiếm mà chẳng phát hiện ñược một thứ gì.

- Khó tin lắm! Anh thừa biết là dãy núi DangRek chưa hề ñược thăm dò

chút nào.

- Không ñến mức như cậu tưởng ñâu.

- Và người bản xứ thì họ biết rõ các ñền ñài ở ñâu. Sao? Anh bảo “Không

ñến mức như tôi tưởng” có nghĩa là thế nào?

- Chúng ta sẽ trở lại vấn ñề này.

Y im lặng một lát.

- Chính phủ Pháp, tôi biết. Cậu không phải là người của họ. Họ sẽ gây

khó khăn trở ngại. Nhưng nguy cơ không lớn lắm. Cái nguy cơ kia mới lớn

gấp bội!

- Nguy cơ kia, là cái nào?

- Là cái nguy cơ phải gửi xác ở lại ñó.

- Người thượng26 ư?

26 Người Thượng (nguyên văn: Người Mọi): thực dân Pháp gọi các dân tộc thiểu số người Thượng của Việt Nam và Lào là “Mọi” với ý nghĩa khinh bỉ (dân tộc còn dã man). Các dân tộc thiểu số này sống ở vùng núi hẻo lánh miền Tây Trung bộ Việt Nam, chưa ñược khai thác và vẫn luôn luôn chống lại chính sách thực dân của Pháp từ hai phía ðông Trung bộ Việt Nam và vùng lưu vực sông Cửu Long (Nam bộ), tìm cách ñàn áp ñể chinh phục. Trong số người Thượng có ba dân tộc ñược ñề cập tới trong cuốn tiểu thuyết là người Xơ-ðăng phía Tây Quảng Ngãi, trên dãy Trường Sơn – nơi mà theo như cuốn sách này nói, Mayrena ñã làm nơi Vua – và luôn luôn lo chuyện ñánh giặc, người Giarai ở phía Tây Nam và luôn luôn ñánh nhau với người Xơ-ðăng ý là những người ña nghi và thù ñịch, chính họ ñã ñốt ngón

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

78

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Họ, rừng và sốt rét rừng.

- Tôi cũng nghĩ thế!

- ðừng nói chuyện ñó nữa: Tớ, tớ quen rồi. Hãy nói chuyện tiền bạc ñi!

- Ðơn giản lắm: một cái phù ñiêu tý xíu, một bức tượng nào ñó, là ñã giá

trị bằng ba chục ngàn franc rồi!

- France vàng?

- Cậu tham ăn quá ñấy!

- Mặc kệ! Tôi phải kiếm cho ñược ít nhất là mười cái. Và mười cho anh:

vị chi hai mươi.

- Hai mươi mảng ñá.

- Tất nhiên; chẳng khó khăn lắm ñâu!

- Vả lại chỉ một bức phù ñiêu thôi, nếu ñẹp: hình một vũ nữ chẳng hạn, ñã

ñáng giá ít nhất hai trăm ngàn franc rồi.

- Mỗi phù ñiêu bao gồm mấy mảng?

- Ba, bốn mảng...

- Anh chắc chắn sẽ bán ñược chứ?

- Chắc. Tớ quen biết nhưng tay chuyên gia cừ của Londres và Paris. Và

cũng ñể dâng tổ chức một cuộc bán công khai.

tay Perken bằng dây bấc và ám sát Presper Odend’hal; sau nữa là người Stiêng, ở phía nam, trong nửa thứ hai của cuốn tiểu thuyết, những người dân tộc Stiêng này sẽ ñóng một vai trò quan trọng.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

79

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Dễ dàng nhưng mà mất nhiều thời gian.

- Chả có gì ngăn cấm ta bán trực tiếp, tớ muốn nói không cần bán công

khai. Những thứ này thuộc loại cực hiếm. Sau khi chiến tranh kết thúc, thứ

hàng này lên giá rất cao, mà từ ñó ñến nay, người ta chẳng phát hiện ra một

thứ nào cả.

- Một ñiều nữa: giả sử chúng ta tìm thấy những ngôi ñền...

(“Chúng ta”, Claude thì thầm.)

- Cậu ñịnh dùng cách nào ñể tách những mảng ñã chạm trổ ấy ra?

- Tôi nghĩ... ñó là vấn ñề khó khăn hơn cả.

- Những tảng khá lớn, nếu tớ nhớ không sai.

- Chú ý: các ngôi ñền Khmer ñược xây dựng không xi măng, không

móng. Những lâu ñài domino.27

- Mỗi tảng ñã ấy tiết diện là một hình vuông mỗi cạnh là năm mươi phân,

dài một mét... gần bảy trăm rưỡi ký mỗi tảng - chẳng nặng tý nào!

- Tôi ñã nghĩ ñến cách cưa dọc nó ra và ta chỉ tách lấy những phần mặt

bằng có chạm khắc; nhưng mà vẫn vô phương. Loại cưa cưa kim loại, nhanh

hơn, tôi có, nhưng chủ yếu là dựa vào thời gian: nó ñã hất ñổ hầu như tất cả

xuống ñất, vào cây bồ ñề của các ñền chùa ñổ nát, cũng như vào những tên

chuyên ñốt rừng người Xiêm, chúng ñã thực hiện nhiệm vụ tàn phá này

chẳng kém gì so với thời gian.

27 Tức xây bằng những tảng ñá vuông vức, cân ñối, giống nhau, chồng lên nhau như những quân cờ Domino – ND.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

80

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Tớ ñã gặp nhiều ñất ñá lở hơn là ñền chùa – và cả bọn ñi tìm kho báu

nữa, cũng ñã ñi qua ñường này. Từ trước ñến nay, tớ chẳng mấy quan tâm

ñến ñền chùa một cách thuần túy mà là qua diễn biến hoạt ñộng của bọn

người này?

Perken ñã xếp tấm bản ñồ lại không dùng nữa, mà nhìn ñăm ñắm vào cái

bóng ñèn. Claude tự hỏi có phải y suy nghĩ hay không, vì cái nhìn của y giờ

ñây là cái nhìn của một con người mơ mộng. Anh biết gì về con người ấy? -

Claude nghĩ như vậy một lần nữa. Anh có cảm giác ngạc nhiên trước khuôn

mặt có vẻ xa xôi mà in rõ nét lên tấm gương buồng rửa mặt. Những tiếng

ñộng âm vang và chậm rãi của máy dội vào im lặng, và mỗi tiếng ñộng ñè

nặng lên trên ñịch thủ ấy ñể buộc anh ta phải chấp nhận.

- Thế nào?

Perken ñẩy tẩm bản ñồ ra, ngồi lên giường.

- Hãy bỏ qua những ý kiến phản ñối. Xét cho cùng, cái dự án này tự nó

vẫn ñứng vững ñược; quả tình tớ chẳng có suy nghĩ gì; tớ chỉ mơ ñến cái phút

giây mà tớ sẽ có tiền... tớ không có ý ñịnh lao vào những công việc mà chắc

chắn sẽ thành công; những công việc như vậy tớ làm thì lại thất bại. Tuy

nhiên cậu phải hiểu rằng sở dĩ tớ chấp nhận trước tiên vì tớ phải ñi ñến xứ sở

những người dân tộc thiểu số.

- Ở ñâu?

- Xa hơn nữa về phía bắc, nhưng hai việc ñó không hề ngăn trở nhau. Tớ

chỉ biết ñích xác là tớ phải ñến Bangkok; tớ ñi tìm - ñi tìm lại - một người ñàn

ông mà tớ vừa cảm tình lại vừa cảnh giác. Tại Bangkok, người ta sẽ trao lại

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

81

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

cho tớ tờ ñiều tra của binh lính bản xứ về sự mất tích của con người ñó, như

họ nói, tớ nghĩ...

- Nghĩa là... anh nhận?

- Vâng, nhận... tớ nghĩ rằng hắn ta ñã ñến cái vùng mà tớ ñang quan tâm

tới. Nếu hắn ta chết rồi, tớ sẽ biết mình phải làm gì. Nếu không...

- Nếu không, thì sao?

- Tớ không quan tâm ñến sự hiện diện của hắn. Hắn sẽ làm hỏng mọi sự...

Từ vấn ñề này y chuyển qua vấn ñề kia nhanh ñến nỗi Claude không kịp

nghe. Ngay sau khi vừa chấp nhận, thì con người ñó ñã không tồn tại. Anh

theo dõi cái nhìn của Perken: chính là hình ảnh của anh – Claude - mà Perken

tái hiện, nhưng trên một tấm gương. Chính vầng trán của anh, cái cằm nhô

của anh, anh nhìn thấy mình qua cái nhìn của một người khác. Và chính là về

anh mà người kia ñang nghĩ tới:

- Chỉ nên trả lời nếu cậu thích...

Cái nhìn của y trở lên cụ thể hơn.

- Sao cậu lại ñi lao mình vào cuộc mạo hiểm ñó?

- Tôi có thể trả lời anh. Bởi vì tôi gần hết sạch cả tiền rồi, ñó là ñiều có

thật.

- Có những cách kiếm tiền khác. Và vì sao anh lại muốn có tiền? Rõ ràng

không phải ñể hưởng thụ!

(Còn anh thì sao? - Claude nghĩ bụng).

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

82

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Sự nghèo hèn ngăn cản không cho người ta chọn kẻ thù, - anh ñáp. - Tôi,

tôi chả tin gì nơi cái món tiền lẻ của sự nổi loạn...

Perken vẫn nhìn anh hoài, bằng một cái nhìn vừa cứng cỏi vừa mơ mộng

ñầy những hoài niệm, nó khiến cho Claude nghĩ tới cái nhìn của những vị

linh mục thông minh; vẻ mặt bề ngoài của nó trở nên rắn rỏi hơn:

- Chẳng bao giờ người ta làm nên trò trống gì với cuộc sống của mình!

- Nhưng cuộc sống thì lại làm nên nhiều chuyện từ chúng ta.

- Không phải luôn luôn như vậy ñâu! Cậu chờ ñợi gì ở cuộc sống của

mình?

Claude không trả lời ngay. Quá khứ của con người ñó ñã chuyển biến

thành kinh nghiệm, thành tư tưởng bắt ñầu chớm nở, thành cái nhìn, một cách

hoàn hảo, khiến cho tiểu sử của y cũng không còn gì quan trọng. Cái ñiều gắn

bó hai người lại với nhau, cuối cùng chỉ còn lại cái bản ngã sâu sắc nhất tồn

tại trong mỗi một con người.

- Tôi nghĩ rằng tôi biết chủ yếu là cái ñiều mà tôi không chờ ñợi ở cuộc

sống.

- Mỗi lần cần phải lựa chọn, có thể...

- Không phải tôi là người lựa chọn: mà là cái gì chống lại.

- Chống lại cái gì mới ñược chứ?

Anh ñã từng tự mình hỏi mình như vậy, cho nên anh có thể ñáp ngay

Perken:

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

83

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Chống lại cái ý thức về cái chết28.

- Cái chết ñích thực chính là sự thoái hóa. - Giờ ñây Perken nhìn thẳng

mặt mình trong gương. – "Già ñi mới là ñiều thực sự nghiêm trọng" hơn

nhiều. Chấp nhận số phận mình, chức năng của mình, cái ổ chó lót ngay giữa

cuộc ñời ñộc nhất của mình... Người ta không biết cái chết là gì khi người ta

còn trẻ...

Và bỗng dưng Claude phát hiện ra cái gì ñã gắn liền anh với con người ñã

chấp nhận anh mà anh không hiểu vì sao: ñó là sự ám ảnh của cái chết.

Perken cầm lấy tấm bản ñồ:

- Tớ sẽ trả lại cậu ngày mai.

Y bắt tay Claude và bước ra.

Không khí của căn buồng lại ñè nặng xuống Claude như cánh cửa của một

buồng giam. “Vấn ñề Perken” ở lại với anh như một tù nhân thứ hai. Cả lời

bắt bẻ của y. Không, không có nhiều cách ñể giành lại tự do như vậy ñâu!

Trước kia, anh ñã có suy nghĩ, mà không ñến nỗi ngạc nhiên một cách ngây

thơ, tới những diều kiện của nền văn minh mà tác ñộng ñối với tinh thần của

những kẻ sống bằng nền văn minh ñó, hơi kỳ quặc: có lẽ vì sống quá thừa

thãi cho nên mỗi ngày họ dễ dàng có cái xu hướng ăn uống với cái giá khiêm

tốn. Rồi sao? Họ chẳng thích bán ô tô, bán cổ phiếu hoặc diễn văn như một

số bạn bè của anh mà mái tóc chải keo dính là dấu hiện của sự hào hoa; cũng

chẳng thích xây dựng cầu cống, như những ông bạn mà mái tóc cắt nham nhở

là dấu hiệu của khoa học. Những kẻ ñó, vì sao họ làm việc? Ðể có danh vọng.

28 Những suy nghĩ về “Ý thức về cái chết” và “Ý nghĩa của cuộc sống” ấy là tư tưỏng chủ ñạo của cuốn tiểu thuyết này và của toàn bộ sự nghiệp văn học của André Malraux.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

84

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Claude rất ghét cái danh vọng mà những kẻ ñó ñi tìm. Sự khuất phục trật tự

của một người không con cũng không Chúa là một sự khuất phục sâu sắc

nhất trước cái chết; tức là “ñi tìm vũ khí ở những nơi kẻ khác không tìm: cái

mà một kẻ sống cách ly xã hội ñòi hỏi trước tiên ở mình, là lòng dũng cảm.

Xử lý thế nào ñây những cái xác chết của những tư tưởng ñã thống trị phong

cách sống của những người tin rằng sự tồn tại của họ là có ích cho sự cứu rỗi

một ai ñó? Xử lý thế nào ñây lời nói của những kẻ muốn rập khuôn cuộc sống

của họ vào một hình mẫu nhất ñịnh, những xác chết kia? Sự thiếu vắng một

tính mục ñích dành cho cuộc sống ñã trở thành một ñiều kiện hành ñộng.

Người khác cứ tùy nghi lẫn lộn sự phó mặc cho may rủi với sự suy nghĩ và

tiên ñoán về những ñiều xa lạ chưa hề biết ñến. Tước ñi của cuộc ñời ngưng

ñọng những hình ảnh của chúng nó mà nó ñang sở hữu... - Anh suy nghĩ:

“Cái mà họ gọi là phiêu lưu không phải là một sự lẩn tránh mà là một cuộc

Săn lùng; trật tự thế giới không bị hủy hoại ñi một cách có lợi cho ngẫu

nhiên, mà có lợi cho cái ý muốn lợi dụng phiêu lưu. Những kẻ coi chuyện

phiêu lưu chỉ là thức ăn của mơ mộng, anh biết họ lắm; hãy chơi ñi! Anh có

thể mơ mộng). Yếu tố kích thích sự nảy nở tất cả mọi phương sách ñể có

ñược hy vọng, anh cũng biết. Sự thống trị nghiêm ngặt mà anh vừa nói

chuyện với Perken - tức sự thống trị của cái chết - ñang dậy lên trong anh qua

nhịp ñập dồn dập của dòng máu trên thái dương anh, cũng mãnh liệt như sự

ñòi hỏi sinh lý. Bị giết, hay mất tích ñối với anh không quan trọng - Anh

không mấy quan tâm ñến mình và như vậy anh có thể tìm thấy nếu không

phải là chiến thắng thì ít ra là cuộc chiến. Nhưng sống mà chấp nhân sự vô vị

của cuộc sống như một thứ bệnh ung thư... Sống mà với cái băng giá của cái

chết trong tay... (Từ ñâu dâng lên, nếu không phải từ chính nó, nỗi khao khát

những cái vĩnh hằng sặc mùi xác thịt của nó?). Sự ñòi hỏi cái chưa biết ñó là

gì, sự hủy hoại tạm thời các quan hệ tù nhân với ông chủ, mà những ai chưa

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

85

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

hề biết ñến gọi là “chuyện phiêu lưu” là gì. nếu không phải là một sự tự vệ

chống lại chính bản thân? Một cách tự vệ của người mù, mong muốn chiếm

lấy tự do ñể biến nó thành mục ñích ñược thua...

Sở hữu nhiều hơn bản thân, thoát khỏi cuộc sống tro bụi của những người

mà anh ta nhìn thấy hằng ngày...

***

Ðêm Singapore, Perken lên bộ, ñi Bangkok. Hai bên ñã hẹn với nhau,

Claude sẽ gặp lại y tại Phnom-Penh sau khi ñã về Saigon xin thị thực vào tờ

công lệnh của mình và ñến thăm Viện Khảo Cổ Pháp. Những phương tiện

hoạt ñộng ñầu tiên của anh tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa anh với ông

giám ñốc Viện ấy, là người rất thù ñịch ñối với những sáng kiến như sáng

kiến của anh.

Một buổi sáng - thời tiết một lần nữa lại không thuận lợi - anh nhìn qua

của sổ buồng thì thấy hành khách ai cũng giơ ngón tay trỏ chỉ vào một hiện

tượng gì ñó ñang xảy ra. Anh vội vàng lên boong tàu xem. Mặt trời ñã xé ñôi

những ñám mây xám xịt, rọi một làn ánh sáng nhạt xuống tận những làn nước

bị phân hủy dọc bờ biển Sumatra. Qua ống nhòm, anh nhìn thấy cái cảnh

tượng ñồ sộ của cả núi rừng ra hoa nảy lộc, man mác chạy dài từ những ñỉnh

cao xuống tận những bãi cát sỏi, thỉnh thoảng, ñó ñây có những cây cọ cao

vút chọc thẳng lên trời trên muôn dặm núi ngàn không màu sắc. Xa xa, trên

các ñỉnh cao nhất, có những làn khói tỏa dày và thấp thoáng những ngọn lửa

nhạt; thấp hơn một chút là những ñám dương xỉ mơn mởn non tơ nổi sáng lên

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

86

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

từng cụm giữa những khối dày phủ bóng âm u. Anh không thể nào rời con

mắt khỏi những ñiểm màu sẫm trong ñó bao nhiêu lá hoa cây cối chen chúc

ngút ngàn. Tự vạch lấy một con ñường qua một thảm thực vật tốt tươi phong

phú như thế ư? Những người khác ñã làm ñược, vậy thì anh cũng làm ñược.

Trước sự khẳng ñịnh ñậm sắc thái ưu tư ñó, mảng trời ñầy mây và cái thảm

cây lá chằng chịt dày ñặc các thứ côn trùng kia ñang phản kháng lại bằng một

lời khẳng ñịnh lặng lẽ và ñầy sức mạnh.

Anh trở lại căn buồng của mình. Cái ý ñồ của anh, bao lâu anh vẫn mang

nặng nó một mình, ñã tách rời anh ra khỏi thế giới ñể gắn chặt anh vào một

vũ trụ không thể nào liên lạc ñược như vũ trụ người mù hoặc người ñiên, một

vũ trụ trong ñó núi rừng và những lâu ñài chùa chiền cũ trở nên sôi ñộng mỗi

khi sự chú ý của anh lắng xuống; và thù ñịch với anh chẳng khác nào những

con dã thú... Sự có mặt của Perken ñã ñưa tất cả về bản chất con người,

nhưng rồi anh lại chìm vào trong một nỗi ám ảnh như người nghiện ngập,

vừa sáng suốt vừa căng thẳng tinh thần. Anh lại mở những cuốn sách ra ở

những trang có ñánh dấu:

“Những họa tiết trang trí ñã bị ñổ nát rất nhiều do thời tiết ẩm ướt thường

xuyên của núi rừng và do sự xói mòn của những trận mưa lớn thường

xuyên... Các vòm cong hoàn toàn bị sụp ñổ... Chắc chắn người ta có thể tìm

thấy những ñền chùa ấy trong những vùng ngày nay gần như hoàn toàn

hoang vu, chỉ còn lại những góc rừng thưa xứ sở qua lại của những ñàn voi

lang thang và những trâu rừng. Những tảng sành làm nên vòm ñền giờ ñây

nằm ngổn ngang ở mọi ngóc ngách, trong tình trạng ñổ nát một cách ñáng

ngại, dường như do việc sử dụng gỗ vào việc xây dựng. Có những cây gỗ mọc

lên rải rác giữa những ñống hoang tàn ñó ñã lên cao quá bức tường và, vầng

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

87

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

rễ ñầy những khúc mắc của chúng tạo nên một hệ thống mắt lưới dày ñặc

bao quanh thân cây... ðất nước gần như hoang dã...”29

Anh sẽ chiến ñấu bằng phương tiện nào ñây? Tiếng máy chạy ầm ầm; anh

cố tình tự giải thoát mình ra khỏi bốn chữ “Viện Bác Cổ Pháp, Viện Bác cổ

Pháp, Viện Bác cổ Pháp.” Nhưng ñể thoát khỏi một cái lưỡi cưa. “Tớ hiểu

biết bọn này lắm, cậu không phải người của chúng!”

Perken ñã từng nói với anh như vậy. Chuyện rõ như ban ngày. Anh sẽ

cảnh giác. Tuy nhiên anh vẫn biết rằng con người ta ñoán ñược những ai từ

chối những ñiều mà mình chấp nhận; rằng kẻ vô thần gây ra nhiều tai tiếng

hơn từ khi ñức tin không còn nữa ở con người. Suốt ñời ông nội anh sống chỉ

ñể dạy cho anh ñiều ñó. Những Con người như vậy ñã có hai phần ba số vũ

khí của anh.

***

Tự giải thoát mình khỏi cuộc sống thêu dệt bằng hy vọng và mộng mơ kia

ñi! Thoát mình ra khỏi chiếc tàu bị ñộng kia ñi!

29 Ở ñoạn này Malraux tóm tắt lại nhiều ñoạn cuốn “Mục lục”

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

88

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

III

Trước cái cửa sổ hắt một mảng ánh sáng hình vuông vào một chiếc lá cọ

và một bức tường ñậm một lớp rêu xanh do những cơn mưa rào cận nhiệt ñới,

Albert Ramèges, giám ñốc Viện Bác cổ Pháp30, ñứng nhìn ông Vannec bước

vào, tay vân vê chòm râu mép màu hạt dẻ của mình.

- Bộ Thuộc Ðịa, thưa ông, ñã báo cho chúng tôi biết ông ñã lên ñường; và

hôm qua, tôi ñã nhận ñược tin ông ñến, qua cú ñiện thoại của ông gọi cho tôi.

Tất nhiên là chúng tôi sẽ làm mọi sự giúp ñỡ ông trong phạm vi khả năng của

mình; ông sẽ tìm thấy ở mọi người cộng tác của chúng tôi, nếu như ông cần

ñến, những lời... chỉ dẫn, những lời khuyên, một tấm lòng khoan dụng thân

tình. Lát nữa, chúng tôi sẽ tổ chức cho hoàn bị ñâu vào ñấy.

Ông rời bàn giấy của mình, ñi ñến ngồi bên cạnh Claude. Claude nghĩ

bụng: '“Tấm lòng khoan dung bắt ñầu”. Giọng nói của ông Giám ñốc trở nên

thân mật hơn.

- Tôi rất hài lòng ñược thấy ông ở ñây, thưa ông thân mến. Tôi ñã ñọc một

cách chăm chú những thông tin thú vị liên quan ñến những nghệ thuật Á châu

mà ông ñã xuất bản năm ngoái. Và, tôi thú nhận, cả học thuyết của ông, khi

ñược tin ông ñến. Tôi phải nói rằng tôi ñã bị lôi cuốn hơn là bị thuyết phục vì

30 ðoạn kể hấp dẫn này, tác giả dựa trên cuộc gặp gỡ của chính mình với Léonard Aurousseau vừa bị một cú thất bại trong nghiên cứu của mình ngay vào lúc Malraux ñến gặp ông ta.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

89

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

những ý kiến suy luận ông ñã trình bày; nhưng thực ra, tôi cũng có liên quan

trong vấn ñề này. Cái tinh thần của thế hệ các ông thật lạ kỳ lý thú...

- Tôi ñưa ra những ý kiến ñó nhằm (anh nghĩ: nhằm “dọn ñường”, và do

dự), ñi ñến, một cách hoàn toàn tự do, một ý kiến khác mà tôi quan tâm hơn

nhiều.

Ramèges cắt lời anh bằng một cái nhìn. Claude cảm thấy một cách mãnh

liệt cái ước muốn của ông ta là không lẫn lộn con người với cái chức của

mình, mà vượt lên cao hơn, tiếp ñón anh như một khách mời do tác dụng của

sự chán chường và có thể của một chút tinh thần tập thể nào ñó. Ngoài ra,

Claude thừa hiểu cái ác cảm ñáng buồn cười ñối lập những kẻ khảo cổ ñược

ñào tạo qua khoa ngữ văn học31, với mọi chuyên viên khảo cổ khác. Ramèges

từng mơ ước Viện Khảo cổ này. Cho nên không thể nào ñề cập ngay với ông

về công tác ñặc biệt của anh: kẻ ñối thoại của anh chắc chắn sẽ bị chạm lòng

tư ái, như một ñiều xúc phạm vậy

- Ý tôi muốn nói là cái giá trị chủ yếu dành cho người nghệ sĩ thường che

khuất trước con mắt chúng ta một trong những phương diện thiết yếu của ñời

sống một tác phẩm nghệ thuật: trạng thái của nền văn minh ñang ñề cao nó.

Dường như trong nghệ thuật, thời gian không tồn tại. Cái tôi quan tâm, ông

hiểu không, ñó là sự phân hủy, là sự thay hình ñổi chất của những tác phẩm

ấy; là cuộc sống sâu sắc nhất của chúng, ñược tạo nên từ cái chết của con

người. Mọi tác phẩm nghệ thuật rốt cuộc ñều có xu hướng trở thành huyền

thoại.

31 Trường ðông phương Bác cổ ñã ñược xây dựng lên nhằm tiến hành một cách có hệ thống chính sách khai thác về khảo cổ học và ngữ văn học bán ñảo ðông Dương, như cái tiêu ñề của tờ “Thông báo” của nó ñã nói rõ.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

90

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Anh cảm thấy ñã tóm tắt ý nghĩa của mình một cách cô ñọng quá, trở

thành tối nghĩa, vì cứ phải lo tìm cách diễn ñạt làm sao cho gọn cái mục ñích

thăm viếng của anh và cũng ñể làm dịu lòng người ñối thoại của anh ñang tò

mò muốn biết... Ramèges suy nghĩ. Tiếng những giọt nước ñang chậm rãi và

nặng nề rơi bên ngoài, vọng vào phòng.

- Dù sao, cũng hơi kỳ lạ…

- Viện Bảo tàng ñối với tôi là các tác phẩm nghệ thuật, trở thành huyền

thoại, ñang nằm ngủ - tức ñang sống một cuộc sống lịch sử - ñể chờ ñợi các

nghệ sĩ ñưa chúng trở về với một cuộc sống thực tế. Và nếu như chúng liên

quan trực tiếp ñến tôi, là vì người nghệ sĩ có cái quyền lực làm cho chúng

sống lại. Về chiều sâu, bất cứ một nền văn minh nào cũng không thể hiểu

thông tỏ một nền văn minh khác. Nhưng mà ñồ vật thì vẫn còn, và trước sự

hiện diện của chúng, chúng ta ñều là những người mù không nhìn thấy, cho

ñến khi chúng trở thành huyền thoại của chúng ta.

Ramèges vẫn tiếp tục cười vừa tò mò vừa thận trọng. “Hắn ñang coi ta

như một tên mê say lý thuyết, Claude suy nghĩ. Hẳn ta nước da nhợt nhạt,

chắc là bị viêm gan; chắc hắn sẽ hiểu ta sâu sắc hơn nếu hắn cảm thấy rằng

cái ñiều gắn bó ta với chốn này chính là một cuộc ñến tranh quyết liệt của con

người ñể tự bảo vệ mình chống lại cái chết, bằng sự vĩnh hằng gồ ghề xộc

xệch ấy, nếu như ta gắn liền cái ñiều ta nói với cái bệnh viêm gan của hắn!

Thôi cho qua...” Anh lại mỉm cười, và cái nụ cười, mà Ramèges cho là nụ

cười lấy lòng ấy ñã tạo nên giữa hai người một chút thân mật...

- Chung quy, - cuối cùng ông giám ñốc nói, - là ông không tin tưởng, sự

thật là ñấy, ông không tin tưởng... Ồ! Giữ ñược lòng tin ñâu phải khi nào

cũng dễ dàng, tôi biết lắm.. Ông hãy xem hình gốm kia, dưới cuốn sách ấy,

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

91

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

ñúng. Nó ñược từ Thiên Tân gửi ñến. Những hình vẽ là của Hy Lạp cổ xưa,

tất nhiên rồi, ít nhất cũng thuộc thế kỷ 6 trước công nguyên. Và con rồng

chạm hình trên chiếc khiên! Bao nhiêu ñiều cần xét lại, trong số những ý kiến

của ta ñã có về những mối quan hệ giữa châu Âu và châu Á trước kỷ nguyên

thiên chúa giáo!... Biết làm sao ñược? Khi khoa học ñã chỉ cho chúng ta thấy

rằng chúng ta ñã lầm, thì ñành phải làm lại chứ...

Bây giờ, Claude cảm thấy gần gũi với Ramèges hơn vì cái giọng buồn

buồn của ông trong khi ông nói. Những cuộc phát hiện ấy có phải nó ñã bắt

buộc ông ta từ bỏ một công việc ñã từng theo ñuổi bao lâu nay? Vì lịch sự,

Claude xem những tấm ảnh khác, có cái là những pho tượng Khmer, có cái là

tượng Chàm, tách ra làm hai loại. Ðể phá tan sự im lặng ñang diễn ra giữa hai

người, anh chỉ hai cái gói, hỏi:

- Ông thích cái nào?

- Ông bảo tôi thích cái nào hơn ư? Tôi làm công tác khảo cổ... Tôi ñã chán

ngấy cái thích thú ấy rồi! - Cái giọng ñiệu của ông ta có ý nói vậy, - chán

ngấy cái ngây ngô của buổi thiếu thời...

Anh ñoán biết ñây là một sự lùi bước và cảm thấy hơi bất bình. Khi ông ta

không ñặt những câu hỏi nữa cũng là khi ông ñiều khiển trò chơi ñây.

- Thưa Ông, ta hãy bàn vào dự án của ông ñi. Nếu tôi không lầm thì ông

có ý ñịnh ñi theo con ñường mòn mang dấu vết Con Ðường hoàng gia Khmer

cũ...

Claude gật ñầu.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

92

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Trước hết tôi phải nói với ông rằng cái lối mòn, chính cái lối mòn ấy, tôi

không nói ñến con ñường, cũng chẳng còn dấu vết gì trên những vùng rộng

lớn. ðến gần dãy núi DangRek thì nó hoàn toàn mất hẳn.

- Tôi sẽ tìm lại ñược nó! - Claude trả lời với một nụ cười mỉm.

- Tôi hy vọng thế. Nhiệm vụ, và cũng là chức năng của tôi, là phải nhắc

nhở ông ñề phòng những nguy hiểm mà ông sẽ gặp. Không phải ông không

biết cái chuyện hai nhân viên cộng tác của chúng tôi là Henri Maitre32 và

Odend’ hal33 ñã bị giết hại. Tuy rằng hai ông bạn bất hạnh của chúng tôi rất

am hiểu về xứ sở này.

- Chắc tôi sẽ không làm ông ngạc nhiên, thưa ông, nếu tôi nói với ông

rằng tôi không ñi tìm cái sung túc và cái yên tĩnh. Tôi có thể xin phép hỏi ông

một ñiều: ông có thể giúp ñỡ tôi bằng những phương tiện nào?

- Ông sẽ ñược cấp những cái “bông trưng tập”; nhờ những cái bông này,

theo như ñã quy ñịnh, ông có thể thông qua ñại diện các tòa Công Sứ, trưng

dụng những chiếc xe trâu bò kéo của Campuchia kể cả người ñánh xe, ñể

chuyên chở hành lý. May mà những hành lý phải chuyên chở trong một

chuyến ñi khảo sát như chuyến ñi của ông cũng tương ñối nhẹ nhàng thôi...

- Ðá mà nhẹ sao?

32 ðến ðông Dương vào năm 1904 với tư cách là một viên chức, chàng thanh niên tự học (Henri Maitre) thông minh và cương nghị hơn người, lại có thêm những khả năng trời phú của nhà nghiên cứu và nhà văn này, ñã thực hiện thành công nhiều chuyến công tác khảo cổ tại vùng chưa ñược khai thác của bán ñảo, ñặc biệt tại xứ sở người Stiêng ông ñã tập hợp ñược những tư liệu Khoa học về người Stiêng ñầu tiên. Ông thiết lập một số cơ sở hành chính trong vùng và thuyết phục ñược các bộ tộc ñịa phương chấp nhận chính quyền của Pháp. Nhưng những hoạt ñộng của ông trái ngược với ý kiến các thủ lãnh ñịa phương nên ông ta bị ám sát. 33 Xin xem chú thích 9

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

93

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- ðể khỏi phải bực mình và ân hận những chuyện lạm dụng ñáng tiếc

năm ngoái có thể lại xảy ra, chính phủ ñã có văn bản quy ñịnh rằng mọi thứ

hiện vật dù là loại nào cũng ñều phải ñể nguyên tại chỗ - In situ.

- Xin lỗi, ông nói sao?

- In situ - nguyên tại chỗ. Tất cả những hiện vật ñều phải ñược kiểm kê và

báo cáo. Sau khi xem xét báo cáo, nếu cần thì ông sếp của cơ quan khảo cổ sẽ

thân hành ñến tận nơi...

- Sau những ñiều ông vừa kể, tôi nghĩ rằng ông sếp cơ quan khảo cổ của

ông không dám liều lĩnh ñặt chân tới vùng mà tôi có thể ñi qua ñâu...

- Trường hợp này hơi ñặc biệt, chúng tôi sẽ lưu ý.

- Vả lại, giả sử ông ta có dám liều ñi một chuyến, tôi muốn hiểu về lý do

gì tôi lại phải vì lợi ích của ông ta mà ñóng vai người ñi thăm dò.

- Vậy ông muốn làm việc vì lợi ích của ông? - Ramèges hỏi nhẹ nhàng.

- Trong suốt hai mươi năm, các cơ quan của ông không hề thăm dò cái

vùng này34. Chắc là họ có những việc làm khác có lợi hơn. Nhưng tôi biết tôi

vượt nguy hiểm ñể làm gì, và tôi mong sẽ vượt nguy hiểm không phải theo

mệnh lệnh người khác.

- Nhưng với sự giúp ñỡ của người khác thì ñược chứ?

Hai người nói chuyện chậm rãi, không lên giọng. Claude phải nén mình

trước cơn ñiên giận ñang xâm nhập vào anh: gã công chức kia lấy tư cách gì

mà tự cho mình cái quyền ñối với những ñồ vật do chính anh, Claude, có thể 34 Chỗ này, Claude ñi chệch sự thật ñã xảy ra. Chưa ñầy bảy năm trước ñó Parmentier ñã tìm thấy và xác ñịnh ñược ngôi ñền Banteai- Sray và bắt ñầu giải tỏa ngôi ñền.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

94

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

khám phá ñược, những ñồ vật mà anh tới ñây là cốt ñể tìm kiếm nó và là

niềm hy vọng cuối cùng của anh?

- Không ngoài sự giúp ñỡ mà các ông ñã hứa với tôi. Một sự giúp ñỡ

không ñáng gì so với sự giúp ñỡ mà các ông ñưa lại cho một sĩ quan kiêm

nhà vật lý học ñể ñi qua một vùng dân cư ñã khuất phục rồi.

- Ông không chờ ñợi Chính phủ cấp cho ông một ñoàn tùy tùng quân sự à,

thưa Ông?

- Tôi có xin Chính phủ ñiều gì ngoài cái mà chính ông ñề nghị với tôi, tức

là cái phương tiện ñược trưng dụng những người ñánh xe trâu ñâu (bởi ở ñây

cũng chẳng có phương tiện nào khác ñể hoạt ñộng)?

Ramèges nhìn Claude im lặng. Claude ñang lắng chờ nghe tiếng nước

chảy bên ngoài sau một vài phút im lặng lộn xộn. Mưa không còn rơi nữa.

- Sẽ xảy ra một trong hai ñiều, - anh nói tiếp, - hoặc tôi không trở về nữa,

và chấm dứt câu chuyện; hoặc tôi sẽ trở về, và dù riêng tôi có ñược lợi lộc

nhiều hay ít, thì cái lợi ñó sẽ vô nghĩa so với cái kết quả mà tôi mang về.

- Mang về cho ai?

- Thưa ông, tôi sẽ không làm ông phật lòng nếu tôi nghĩ rằng ông kiên

quyết không chấp nhận bất cứ một ñóng góp nào cho lịch sử nghệ thuật ngoài

những ñóng góp của cái Viện mà ông ñiều khiển chứ?

- Giá trị những ñóng góp ñó, tiếc thay, lại quá lệ thuộc và chỉ lệ thuộc vào

sự ñào tạo kỹ thuật, vào kinh nghiệm, vào tập quán giữ gìn kỷ luật của người

có công ñóng góp...

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

95

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Làm gì có tinh thần kỷ luật ở một xứ sở không chịu khuất phục!

- Nhưng cái tinh thần chỉ ñạo ở một nước không chịu khuất phục… –

Ramèges không nói hết câu ñứng dậy. - Quả thực thưa ông, tôi phải giúp ông

một công việc nhất ñịnh. Ông hãy tin ở tôi, hãy tin là ông sẽ nhận ñược sự

giúp ñỡ ấy của tôi, còn những chuyện khác...

- Còn những chuyện khác...

Claude khoát tay, với một cử chỉ mang cái ý nghĩa hết sức kín ñáo mà rõ

ràng là “Tôi sẽ tự lo lấy”!

- Ông ñịnh khi nào lên ñường?

- Càng sớm càng hay.

- Vậy ông sẽ nhận ñược những tài liệu cần của ông vào tối mai.

Viên giám ñốc tiễn anh ra tận cửa với một thái ñộ rất lịch sự.

* * *

“Ta tổng hợp lại xem.” Claude băng qua sân và nhìn, như ñể thoát khỏi

cái mệnh lệnh của chính mình, những mảng tượng thần trên ñó bóng chiều ñã

ngoằn ngoèo in dấu.

“Ta tổng hợp lại xem”.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

96

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Anh không làm sao tổng hợp ñược. Anh dấn bước vào con ñường ñại lộ

vắng tanh. Cái từ “Thuộc ñịa” ám ảnh lòng anh với một âm vang than thở

quen thuộc có trong các bản tình ca các ñảo... Những con mèo chạy lướt qua,

bí mật, dọc theo các rãnh...

“Gã quý tốc rậm râu ấy không muốn cho ai xía vào công việc của mình”.

Tuy nhiên anh bắt ñầu hiểu rằng Ramèges hành ñộng như vậy không phải do

một ñộng cơ vị lợi như anh ñã tưởng. Ông ta bảo vệ trật tự có lẽ không phải

ñể chống lại một dự án mà là chống lại một bản lĩnh trái ngược với bản lĩnh

của ông ta ñến mức ấy...

Và ông ta bảo vệ uy tín Viện Bác cổ của ông. “ðáng lẽ, xuất phát từ chính

quan ñiểm của ông ta, ông ta phải cố moi móc ở tôi những cái gì tôi có thể

mang lại cho ông ta mới phải, bởi vì rõ ràng là những cộng tác viên hiện tại

của ông ta chẳng ai dám liều mạng mình mà dấn thân vào những chốn ấy cả.

Ông ta hành ñộng y hệt một viên quan cai trị ñang thiết lập những kho dự trữ

của mình:

Có lẽ ba mươi năm sau, vẫn vẫn... Ba mươi năm sau, liệu cái Viện của

ông ta có còn tồn tại ở ñây nữa hay không? Và người Pháp ở ðông Dương35

liệu có còn như ngày hôm nay không?

Chắc ông ta nghĩ rằng: nếu như những nhân viên khảo sát của ông chết ñi,

ắt phải có những người cộng sự của ông tiếp tục công việc, mặc dù chẳng có

nhân viên khảo sát hoặc người cộng sự nào chết vì cái Viện của ông ta cả... 35 Tác giả là người ñã sống giữa lòng chế ñộ thực dân năm 1925 tại Sài Gòn, trải qua kinh nghiệm làm chủ bút tờ báo chủ trương Pháp – Việt ñề huề ðông Dương sau trở thành tờ báo “ðông Dương bị xiềng “, ñã bộc lộ cái nghi ngờ của mình qua câu hỏi trên báo này (Liệu trong 30 năm nữa cái Viện của ông ta có còn ở chỗ ấy và người Pháp có còn ở chỗ ấy và người Pháp có còn trên ñất ðông Dương nữa hay không? (30 năm nữa tức 1955: sau chiến thắng ðiện Biên Phủ 7/5/1954 và Hiệp nghị Genève (20/7/1954) toàn bộ quân Pháp ñã phải rút khỏi ðông Dương ñúng là một lời tuyên ñoán L.N.D).

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

97

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Nếu như ông ta bảo vệ mình là ñể bảo vệ cho một tập thể thì ông ta sắp sửa

trở thành con người cáu kỉnh; nếu ông ta ñang nghĩ mình ñang bảo vệ cho

những người chết, thì ông ta sẽ trở thành rồ dại; thử ñoán xem ông ra sắp bày

cái trò gì mới ñây...!”

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

98

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

IV

Trên khung cửa kính chiếc thuyền máy ñang ñưa họ lên bộ, Claude lại bắt

gặp cái bóng dáng nghiêng nghiêng của Perken như anh thường thấy trong

các bữa ăn, trên cửa sổ của con tàu khách, phía sau là chiếc tàu sơn trắng ñưa

họ từ Phnom-Penh tới ñây, ñã ñược neo vào bên cạnh. Cái nơi mà anh bạn

của Perken ñã bị mất tích ở không cách xa Con ðường hoàng gia bao nhiêu –

con ñường này gần như cũng là ranh giới tiếp giáp với vùng ly khai.

Những thông tin mà Claude ñã khôn khéo tập hợp ñược tại Bangkok xác

minh giá trị bản kế hoạch của anh.

Chiếc thuyền con mở máy nhằm trước mặt mà ñi vào, giữa những cây cối

bị ngập nước. Các cửa kính chạm nhẹ vào cành cây vấy bùn khô, và những

sợi bùn lủng lẳng ñeo vào cành; thân cây mang dấu vết những bùn mùa nước

lũ còn ñể lại. Claude say sưa nhìn những cảnh tượng giáo ñầu của miền rừng

núi chờ ñợi anh ấy; lòng anh bị ám ảnh vì cái mùi bùn ñang nồng nặc lên với

ánh mặt trời, cái mùi bọt nhàn nhạt ñang khô, cái mùi hôi của những con vật

ñang phân hủy, vì những cảnh lười biếng của những con vật lưỡng cư, màu

ñất bùn bám sát vào cảnh cây. Qua vầng lá, mỗi lúc có chỗ hở, anh cố tình

nhìn thấy những ngôi chùa tháp Angkor-Wat sau hình dáng nghiêng nghiêng

của những hàng cây bị gió hồ vặn vẹo: vô ích, chẳng thấy gì! Những vầng lá

nhuộm ñỏ màu hoàng hôn - ñã khép lại trên cuộc sống ñầm lầy. Không khi

hôi hám nhắc anh nhớ lại tại Phnom-Penh, anh ñã phát hiện ra, một em bé

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

99

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

khốn khổ, một ông già mù ê a hát bản trường ca Ramayana36, tay ñệm một

chiếc ñàn thô thiển. Nước Campuchia trên ñường phân hủy gắn liền với ông

già khốn khổ này, với thiên anh hùng ca của mình, chỉ còn khuấy ñộng ñược

ít nhiều một ñám nhỏ những lão ăn mày và những lũ ñầy tớ gái: mảnh ñất bị

chiếm hữu, mảnh ñất riêng, của gia ñình mà từ các kinh nguyện cho ñến các

ñền chùa ñều ñổ nát; mảnh ñất chết trong những miền ñất chết; và những lũ

ốc sên dính ñất ñang lúc nhúc trong cái vỏ của chúng, những giun dế ghê

tởm... Ðối diện anh là rừng núi trần gian, kẻ thù sừng sững như một nắm ñất

chắc nịch, chờ sẵn.

Cuối cùng, chiếc thuyền máy cập bến!

Những chiếc Xe Ford của hãng cho thuê ñang chờ khách. Một người bản

xứ tách ra khỏi bọn và ñến với người thuyền trưởng.

- Người ta ñang cần ñấy, - viên thuyền trưởng nói với Claude.

- Anh bồi ư?

- Tôi chưa rõ cậu ta có giỏi giang nhanh nhẩu gì không, nhưng ở Xiêm

Riệp37 chẳng có loại nào hơn ñâu.

Perken hỏi anh bồi vài câu cho có lệ rồi thuê luôn.

- Nhất là ñừng có trả lương trước. -Viên thuyền trưởng ñã ñi hơi xa còn

ngoảnh lại gào to dặn anh. Anh chàng người bản xứ hơi nhún vai một chút và

36 Ramayana: Trường ca dài 48.000 câu thơ này chắc chắn là ñược sáng tác vào khoảng thế kỷ thứ V sau công nguyên, kể lại những chuyện phiêu lưu của Rama là người ñược coi như là sự hóa thân lần thứ 7 của vị thần Hinñu Vishnu, ñi tìm vợ là nàng Sita xinh ñẹp bị ông Vua – Quỷ Ravana bắt cóc mang về XâyLan (Srilanca). Truyền thuyết mà bản trường ca tiếp tục truyền mãi lại về sau ấy cũng ñóng một vai trò quan trọng ở phương ðông, cũng như Thần Thoại, Kinh Thánh ở phương Tây…

37 Xiêm Riệp: Thành phố nhỏ này là tỉnh lỵ, một tỉnh cùng tên, ở cách Angkor vài kilomet.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

100

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

lên ngồi kề anh lái chiếc xe của người da trắng; xe lăn bánh ñi ngay. Một

chiếc xe con khác chở hành lý.

- Về nhà trọ chứ? - Anh lái xe hỏi, không ngoảnh mặt lại. (Chiếc xe trên

con ñường thẳng băng ñã vụt ñi rất nhanh).

- Không, tới tòa Công sứ trước.

Rừng chạy trốn hai bên con ñường ñất ñỏ, trên ñó nổi bật lên cái ñầu cạo

trọc của tên bồi. Tiếng ve ran vang lên inh ỏi ñến nỗi ngồi trên xe vẫn nghe,

mặc dầu tiếng máy ầm ầm. Bỗng anh lái xe giơ tay lên chỉ về phía chân trời

xuất hiện trong chốc lát: “Angkor-Wat kia”! Nhưng Claude chẳng nhìn thấy

gì nữa ngoài hai mươi mét.

Cuối cùng, những ánh ñèn và những ngọn lửa xuất hiện, loáng thoáng có

bóng dáng những con lợn và con gà ñen thui ñi qua ñi lại phía trước:

Ngôi làng ñây rồi. Mấy phút sau, chiếc xe dừng lại.

- Ðây là tòa ðại lý của Công sứ?

- Thưa ông, vâng.

- Có lẽ tôi chỉ ghé qua ñây một chốc lát thôi, - Claude nói với Perken.

Viên ñại lý38 chờ anh trong một gian phòng cao. Ông ta ñến với anh, chậm

rãi cầm tay anh lắc lắc như ñể xem nặng nhẹ.

- Rất hài lòng ñược gặp ông, ông Vannec, rất hài lòng ñược gặp ông. Tôi

ñã chờ ông một lát, không lâu... Nó tới trễ, cái chiếc tàu này, bao giờ cũng

vậy. 38 Viên ñại lý của chính phủ tại Xiêm Riệp Crémazy, là nguyên mẫu của nhân vật này.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

101

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Ông ta gầm gừ câu chào hỏi ñằng sau cái bộ ria dày bạc trắng của mình;

tay ông vẫn nắm chặt tay Claude. Cái mũi to chắc của ông ta phủ bóng lên

bức tường quét vôi trắng, làm cho bức tranh Campuchia treo trên ñó như bị

cắt mất ñi một góc.

- Như vậy là ông muốn làm một chuyến ñi thăm rừng rú ư?

- Bởi ông ñã ñược thông báo trước tôi sẽ tới, thưa ông, tôi nghĩ rằng ông

ñã biết rất ñầy ñủ về chuyến ñi khảo sát mà tôi phải tiến hành, phải không ạ?

- Mà ông... mà ông phải tiến hành... Chung quy, ñó là công việc của ông.

- Tôi nghĩ rằng tôi có thể nhờ ông giúp ñỡ tôi thực hiện những lệnh trưng

tập cần thiết cho ñoàn tôi lên ñường.

Viên ñại lý già không trả lời, ñứng lên. Các khớp xương của ông ta kêu

răng rắc trong im lặng.

Ông ta bắt ñầu ñi ngang qua gian phòng, theo sau là cái bóng của ông.

- Ông Vannec này, phải ñi lại luôn nếu ông không muốn lũ muỗi phải gió

kia nó ăn thịt ông...Trời, vào cái giờ này không tốt ñâu, ông biết...

- Lệnh trưng tập... hừ!...

(Cái giọng cổ khàn khàn ấy làm ta khó chịu, Claude suy nghĩ: Chơi cái trò

tướng già lẩm cẩm thế ñủ rồi).

- Lệnh trưng tập à?

- Ô, thế này... muốn có lệnh trưng tập, thì ông sẽ có thôi, dĩ nhiên, có ñiều

là, ông biết, các thứ lệnh trưng tập ấy, nó chẳng có tác dụng gì quan trọng.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

102

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Tôi rất biết rằng những người có nhiệm vụ ñi khảo sát ñến ñây không thích

thấy chúng tôi có vẻ như muốn lên lớp cho họ. Cái ñó gây phiền toái, khó

chịu cho họ... nhưng mà dẫu sao...

- Xin ông cho biết...

- Ông, cái công việc ông dự ñịnh làm... không phải là một chuyện ñùa vui

như việc những người khác. Vậy nên tôi phải nói với ông một ñiều rất hay:

lệnh trưng tập, trong cái xứ sở này, nó cũng giống như người ta thường nói:

cái da.

- Tôi sẽ chẳng ñược gì cả ư?

- Tôi không nói thế. Ông nhận ñi một chuyến khảo sát; ông thực hiện một

chuyến ñi khảo sát. Chúng tôi không thể ngăn cản. Về phía ñó, ông hãy yên

tâm. Chỉ thị là chỉ thị. (Mặc dù ñối với ông, những chỉ thị ñó chẳng hay ho gì

như cái vẻ bề ngoài của nó.)

- Nghĩa là?

- Ông biết rõ là tôi không có mặt ở ñây ñể nói với ông những ñiều tâm sự,

phải không? Nhưng nói thực ra, có những ñiều tôi chẳng thích thú tí nào,

trong cái nghề phải gió này, tôi không ưa những chuyện rắc rối. Vậy nên, ông

thấy không, tôi muốn nói với ông thêm một ñiều tốt nữa, một ñiều ñích thực

là tốt, cái ñiều ñó... là một lời khuyên; chứ sao! Ông Vannec ạ, không nên

vào chốn rừng rú làm gì! Hãy từ bỏ ý ñịnh ñi thì hay hơn. Hãy trở về một

thành phố lớn, Sài Gòn chẳng h:ạn. Và chờ ñợi một chút. Tôi khuyên ông.

- Ông nghĩ rằng tôi ñã ñi nửa vòng trái ñất ñể ñến Sài Gòn, thỏa mãn với

một bộ mặt ngây ngô ngờ nghệch thật sao?

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

103

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Cái nửa vòng ấy, ông biết, người ta ñã ñi rồi, và chẳng ai thấy tự hào tí

nào về chuyện ñó... Nhưng chính là chỗ ñó; bởi vì ông ñã trải qua bao vất vả,

cho nên rất khó mà dàn xếp cho ñược giữa ông với ông Ramèges và cái... cái

Viện của ông ta. Có thể tốt hơn cho mọi người nhiều và tôi, tôi sẽ khỏi phải

dính vào một câu chuyện rắc rối! Bây giờ, cái ñiều tôi muốn nói với ông về

cái việc ñó.

- Một ñằng, thưa ông, thì ông cho tôi một lời khuyên. Nhờ một cảm tình

nào ñó (Anh suýt nói thêm: “hoặc nhờ một ác cảm nào ñó ñối với Viện Bác

cổ Pháp” nhưng rồi thôi); nhưng một ñằng ông lại bảo tôi dù trong tình thế

nào người ta cũng sẽ không ngăn cản tôi thực hiện chuyến ñi khảo sát của tôi:

Tôi khó mà...

- Tôi có nói vậy ñâu. Tôi ñã nói là người ta sẽ cấp cho ông cái mà ông có

quyền ñược.

- À… ðúng. Có lẽ tôi bắt ñầu hiểu. Nhưng dù sao tôi cũng muốn…

- Biết nhiều hơn nữa? Ông hãy tin ñó là ñiều mong muốn không bao giờ

ñược ñáp ứng, giờ ñây, ta nên thực tế một chút. Ông có muốn suy nghĩ thêm?

- Không!

- Ông vẫn cứ quyết ñịnh ñi?

- Hoàn toàn ñúng thế!

- ðược! Mong rằng ông quyết ñịnh vậy là có lý do ñúng ñắn; bởi vì, ông

Vannec ạ, nếu không thế thì, xin lỗi ông, ông sẽ sai phạm lớn ñấy! ðến ñây

tôi phải cho ông… không, sau này sẽ hay, tôi phải nói với ông một lời về

ông Perken.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

104

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Cái gì?

- Tôi có ñây, khoan… trong tập hồ sơ kia cơ39, phải không? Nhưng chẳng

sao!... Tôi có, trong cặp hồ sơ nào ñấy, một công văn của sở mật thám

Campuchia, mà tôi cũng phải truyền ñạt trên tinh thần công văn ấy cho ông.

Chúng ta nên thông cảm với nhau. Tôi, cái ñiều tôi sắp nói với ông... tôi phải

nói là vì tôi chịu trách nhiệm về ông ta. Bởi vì, ông biết không, tính tôi rất

kinh tởm những chuyện ñó. Thật là vô nghĩa. Trong vùng nảy chỉ có một vấn

ñề nghiêm túc, ñó là vấn ñề buôn bán gỗ, tốt nhất là người ta giúp tôi làm

việc một cách nghiêm túc hơn là làm phiền tôi với những câu chuyện ñá và

sỏi...

- Vậy thì?

- Thế này: Ông Perken ñang ñi với ông, người ta sẽ cấp cho ông ta giấy

hộ chiếu bởi vì chính phủ Xiêm ñã can thiệp, năn nỉ. Ông ta nói muốn ñi tìm

một ông Grabot nào ñó. Ông nên nhớ người ta ñã có thể từ chối, bởi vì ông

Grabot ấy, ở ñất nước chúng tôi, là một tên ñào ngũ...

- Thế vì sao người ta ñã không từ chối? Không phải vì nhân ñạo chứ?

- Những câu chuyện mất tích, ở ñây, phải ñưa nó ra ánh sáng. Nói tóm

lại, Grabot là một tên vô lại, thế thôi. Hôm hắn ta ra ñi, ở vùng bãi biển thì

ñúng hơn.

- Tôi nghĩ Perken biết Grabot không nhiều lắm. Nhưng ñiều ñó quan hệ

gì tôi ñâu?

39 Trong lúc vụ án xử ông ñang diễn ra và cả sau này, trong cuốn Phản ký ức (Antimemoirs), Malraux ñã bộc lộ cái ý nghĩ quả quyết rằng ông cũng là ñối tượng của một cuộc ñiều tra kiểu này của Sở mật thám Pháp tiến hành.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

105

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Ông Perken là một kiểu công chức nước Xiêm, phải không, mặc dù ông

ta không công khai cho lắm. Tôi rất biết ông ta, mười năm nay tôi ñã nghe

nói ñến ông ta, và tôi nói riêng với ông ñiều này: trước khi ông ta ñi qua

Châu Âu, ông ta có ñến ñây thương lượng với chúng ta. Với chúng ta chứ

không phải chính phủ nước Xiêm, ông hiểu chứ? ðể có ñược một vài khẩu

súng máy.

Claude lặng lẽ nhìn viên ñại lý.

- Như vậy ñó, ông Vannec ạ. Ông muốn bao giờ thì lên ñường?

- Càng sớm càng tốt.

- Thế thì trong ba ngày nhé. Ông sẽ ñược cái ñiều ông cần, vào hồi sáu giờ

sáng. Ông có một thằng bồi không?

- Có ở trên xe ấy.

- Tôi sẽ xuống với ông. Tôi sẽ cho nó chỉ thị cần thiết. A! Các bức thư của

ông.

Ông ta trao cho Claude mấy chiếc phong bì trong ñó có một cái ñóng dấu

Viện Bác cổ Pháp. Claude sửa soạn; nhưng viên ñại lý lên tiếng gọi anh bồi

với cái giọng khang khác khiến anh ngẩng ñầu lên: chiếc ô tô ñang chờ, xanh

sẫm một màu dưới ánh ngọn ñèn ñiện ở cổng. Tên bồi, vừa ñi xa ñó một chút

có lẽ vì thấy viên ñại lý ñi ra ñang ngập ngừng ñi lại phía cửa. Họ trao ñổi

nhau một ñôi câu bằng tiếng Việt, Claude càng nhìn kỹ hơn vì anh không

hiểu. Anh bồi có vẻ thẫn thờ vì sợ; viên ñại lý, bộ râu mép trắng toát tràn

ngập ánh ñiện, thì múa tay múa chân.

- Tôi báo cho ông biết trước rằng tên bồi này vừa mới ở tù ra ñấy.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

106

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Vì tội gì?

- ðánh bạc, trộm cắp. Tốt hơn là ông nên tìm một tên khác.

- Tôi sẽ lo.

Tôi ñã bảo cho hắn biết rồi. Nếu ông thay ñứa khác, hừ… Hắn sẽ truyền

ñạt lại những chỉ thị của tôi...

Viên ñại lý còn nói thêm một câu bằng tiếng Việt, ñoạn bắt tay Claude.

Ông ta nhìn chàng trai ñăm ñắm, mấp máy miệng như sắp sửa nói ñiều gì.

Thân hình ông bất ñộng, nổi bật lên nền sẫm của núi rừng từ cái ñầu bạc lởm

chởm ñến tận ñôi chân ñi giày vải. Ông ta vẫn nắm chặt tay Claude. "Hắn

ñịnh nói gì với ta ñây". Claude tự hỏi mình – Nhưng viên ñại lý bỗng buông

tay anh ra, quay lưng lại, "Hừ" một tiếng ồm ồm nữa rồi ñi vào.

- Bồi?

- Thưa ông gọi tôi?

- Anh tên gì?

- Tên Xa40.

- Anh có nghe ông ñại lý nói gì về anh không?

- Thưa ông, không phải vậy ñâu!

40 Nguyên mẫu nhân vật tên bồi (Xa) là có thật, và thái ñộ của Claude ñối với anh ta cũng có thật (Clara Malraux, “Tuổi hai mươi của chúng tôi” trang 133-134).

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

107

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Phải hay không phải, chẳng quan hệ gì ñối với tôi. Không quan hệ gì,

nghe chưa? Nếu anh làm cho tôi ñúng những việc anh phải làm, thế là ñủ,

ngoài ra tôi không quan tâm. Anh hiểu không?

Anh bồi sửng sốt nhìn Claude.

- Vâng thưa ông...

- Tốt! Anh cũng nghe ông thuyền trưởng nói gì chứ?

- "Không trả trước".

- Năm ñồng ñây! Ông tài ơi, ta ñi thôi. Anh lại ngồi vào chỗ của mình.

- ðây là một phương pháp ư? - Perken mỉm cười hỏi.

- Có thể. Nếu hắn là tên trộm cắp thì ngày mai ta không còn thấy mặt hắn

nữa ñâu. Ngược lại, là ta tranh thủ thêm ñược một người. Tính trung thực là

một trong những ñức tính mà tôi thấy không bị thoái hóa...

- Có thể... còn cái gã cựu binh già, hắn gầm gừ gì thế?

Claude suy nghĩ.

- Những ñiều hơi lạ lùng mà tôi sẽ phải nói hết với anh; nhưng ta hãy tóm

tắt lại những ñiều cần biết: chúng ta sẽ có những chiếc xe trâu của chúng ta

vào ngày kia. Hắn gợi ý khá rõ ràng với tôi nên trở về Sài Gòn là hơn.

- Bởi vì?

- Bởi vì... Chẳng bởi vì gì cả. Hắn không nói nhiều hơn. Hắn có ý ñịnh

tuân theo những chỉ thị... rõ ràng là làm hắn bực mình hoặc gây phiền hà cho

hắn.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

108

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Cậu không thể biết nhiều hơn về chuyện ñó à?

- Không. Trừ khi... hẵng ñợi chút... ñợi... chút.

Anh ñang giữ chiếc phong bì trong tay. Khó khăn lắm anh mới mở ñược

ra, và khi lấy thư ra rồi, không thể nào ñọc ñược. Perken lấy chiếc ñèn pin ra.

- Khoan! - Claude la lên.

Tiếng máy giảm xuống và chìm dần vào tiếng ve kêu.

“Thưa ông thân mến,” - Claude cất tiếng ñọc to, “tôi thấy có trách nhiệm

(vào ñề khéo ñấy!) – ðể khỏi phải sợ có một sự lầm lẫn nào và ñể ông có thể

kiểm tra theo dõi chu ñáo những người có khả năng cùng ñi ñường với ông –

chuyển cho ông nghị ñịnh của quan Toàn Quyền ðông Dương kèm theo; nghị

ñịnh này vẫn còn hiện hành, có những ñiểm nào chưa ñược rõ thì nội trong

tuần lễ này sẽ có một quyết ñịnh hành chánh mới nói rõ và bổ sung.

“Xin ông hãy tin (Thôi, bỏ qua ñoạn này... à, mà không, không) vào tất cả

những lời chúc mừng may mắn của tôi. Tôi vẫn rất quan tâm ñến ông. (Nghị

ñịnh nào?)”

Anh cầm tờ thứ hai của bức thư lên. “Toàn Quyền ðông Dương, theo ñề

nghị của ông Giám ñốc Việc Bác cổ Pháp... (Cho qua, mẹ kiếp!) ra nghị ñịnh:

"Tất cả mọi ñền ñài kiến trúc ñã phát hiện và sẽ ñược phát hiện ở trên ñịa

phận các tỉnh Xiêp Riệp, Battambang và Sisophon, ñều ñược công bố là di

sản lịch sử"... nghị ñịnh này ñược ban bố năm 1908.”

- Có văn bản kèm theo không?

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

109

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Văn bản hành chính: ñáng tiếc là ñã phải dừng bước giữa một con ñường

ñẹp như thế này! Ông tài ơi! Lại ñi thôi!

- Sao?

Perken giờ ñây chiếu thẳng ñèn pin vào mặt anh.

- Tắt ñèn ñi, ñồng ý không? Sao? Anh không nghĩ rằng ñiều ñó làm tôi

thay ñổi ý ñịnh à?

- Tôi rất hài lòng mà suy nghĩ ñúng ñắn rằng ñiều ñó không làm thay ñổi ý

ñịnh của cậu. Tôi biết thế nào Chính phủ cũng sẽ có một phản ứng kiểu này,

như tôi ñã nói với cậu trên tàu. Sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, thế thôi. Nhưng

giữa núi rừng...

Claude ở trong tình thế không thể nào quay trở lại ñược nữa ñã rõ ràng

quá ñi rồi, khiến anh bực mình không muốn bàn cãi về việc mình sắp phải

làm. Cuộc chơi ñã bắt ñầu; càng hay! Anh xua ñuổi lo âu; phải ñi xa hơn,

phải tiến lên phía trước như chiếc ô tô ñang lao vào bầu không khí ñen ngòm

của khu rừng mờ mơ không hình không dáng.

Bóng một con ngựa xuất hiện ñột nhiên và biến ñi ngay lập tức trong

luồng sáng của chiếc ñèn pha, tiếp ñó là những bóng ñèn ñiện.

Nhà hàng.

Anh bồi lo chuyển hành lí. Claude không ñợi cả kêu nước uống, ñã trải ra

trên chiếc bàn bằng mây song, những số họa báo ñã ố vàng và bất chấp tiếng

vo ve của ñàn muỗi, mở nắp bút máy luôn.

- Cậu không ñịnh trả lời ngay bây giờ ñấy chứ?

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

110

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Hãy yên trí! Tôi chỉ gửi bức thư khi nào chúng ta lên ñường. Nhưng tôi

sẽ trả lời, như vậy tôi ñỡ căng thẳng. Vả lại chỉ vài dòng ngắn thôi.

Và ñúng thế, chỉ vẻn vẹn ba dòng. Anh trao tờ giấy cho Perken trong khi

anh ghi ñịa chỉ lên phong bì:

"Thưa ông,

"Cả da gấu nữa cũng ñược công bố là lâu ñài kiến trúc lịch sử, nhưng ñến

tận nơi mà tìm thì có lẽ không ñược khôn ngoan cho lắm.

Tôi vẫn quan tâm nhiều hơn nữa...

Claude Vannec".

Anh bồi của nhà hàng mang soda tới, một cách hú họa.

- Ta uống ñi, rồi ra, - Claude nói, - chưa hết ñâu.

Phía bên kia ñường, là bắt ñầu cái sân lớn của Angkor-Wat. Họ bước lên,

chân họ bị trẹo lại ở mỗi bước ñi trên những tảng ñá lát chuệch choạc tách rời

nhau. Perken ngồi xuống 1 tảng ñá.

- Chuyện gì nữa?

Claude kể lại với Perken cuộc ñối thoại giữa anh và viên ñại lý. Perken

châm một ñiếu thuốc. Bộ mặt của y trong một giây gần ánh lửa, ñược toát ra

ngoài bóng tối; tàn tạ, hốc hác và hòa nhập vào với ñóm lửa màu ñỏ nhạt của

ñiếu thuốc.

- Về tớ, viên ñại lý không có nói thêm gì ạ?

- Bắt ñầu ñủ lắm rồi!

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

111

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Thế cậu ñã nghĩ gì về tất cả những chuyện ñó?

- Chẳng nghĩ gì cả. Chúng ta cùng nhau ñang ñùa với mạng sống của

mình41. Tôi, tôi ở ñây. ðể giúp ñỡ anh, không phải ñể ñòi nợ gì anh. Nếu anh

cần có một khẩu liên thanh, tôi tiếc rằng anh ñã không cho tôi biết sớm, vì tôi

rất muốn tìm cho anh một khẩu?

Cái im lặng rộng lớn của núi rừng lại phủ xuống, với cái mùi ñất vừa mới

cày xáo.

Tiếng ộp oạp khàn khàn của một con cóc trâu rất giống tiếng của một con

lợn bị chọc tiết bỗng vang dậy cả một khu rừng vắng lặng, và tan ñi cùng một

lúc trong bóng tối và trong mùi riêng biệt của các mặt hồ...

- Hãy hiểu cho tôi. Nếu tôi chấp nhận một người nào, tức là tôi chấp nhận

anh ta một cách trọn vẹn, tôi chấp nhận anh ta như chính bản thân tôi. Có

hành vi sai phạm nào của con người ñó – là một người thân của tôi - ñã làm,

mà tôi dám quả quyết là tôi sẽ không làm trong một trường hợp tương tự?

Lại im lặng, một lần nữa.

- Cậu chưa bao giờ bị phản bội nghiêm trọng à?

- Nghĩ ñiều không tốt chống lại cả cái khối con người là chuyện nguy

hiểm. Tôi sẽ ñến với ai, nếu không phải là với kẻ biết tự bảo vệ mình như tôi?

- Hoặc kẻ biết tấn công…

- Hoặc kẻ biết tấn công.

41 Cái thái ñộ của người ñánh bạc, “cần phải xông vào những chỗ hiểm nghèo ñể tự cảm thấy mình ñang tồn tại ñó” là một nét tính cách ñược miêu tả nổi bật như một giá trị ở con người Perken, cũng như ở nhân vật Garine ở cuốn “Những Người Chinh phục”.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

112

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Và ñến bất kể nơi nào mà tình bạn có thể lôi cuốn cậu ñến ư?

- Không lẽ tôi lại sợ tình yêu vì sợ bệnh giang mai! Tôi không nói: "Bất

kể nơi nào", tôi nói: "Tôi chấp nhận".

Trong ñêm tối, Perken ñặt tay lên vai Claude.

- Tớ chúc cho cậu ñược chết trẻ, Claude. Trên ñời tôi chẳng có mấy ñiều

mong ước... cậu không có thể ñoán ñược thế nào là phải làm tù nhân của

chính cuộc ñời mình; tớ, tớ chỉ mới bắt ñầu ñoán ra cái ngày mà tớ với Sarah

phải chia tay nhau. Cô ta có ngủ với những gã ñàn ông có lời nói quyến rũ,

nhất là khi cô ta ở một mình, hay cô ta có theo tớ vào nhà tù khổ sai, cái

chuyện ñó chẳng có sao cả, và cô ta ñã trải qua nhiều chuyện tại nước Xiêm

từ ngày cô ta kết hôn với ông hoàng Pitsanulok…42 Một người ñàn bà rất am

hiểu cuộc sống, nhưng hiểu cái chết thì không. Một hôm, bỗng cô ta nhận

thấy rằng cuộc ñời mình ñã mang một hình dáng: cái hình dáng của tôi; rằng

số phận của cô ta là ở ñó chứ không ở ñâu khác; và cô ta bắt ñầu nhìn tôi với

một nỗi căm hờn như cô căm hờn tấm gương soi của cô. (Cái nhìn của người

ñàn bà da trắng ñược tấm gương chỉ cho thấy một lần nữa rằng trời ñất miền

nhiệt ñới chẳng bao lâu nữa sẽ biến cái ñầu của cô thành cái ñầu của một

bệnh nhân sốt rét, cậu biết không...) Bao nhiêu hy vọng cũ của người phụ nữ

giữa lúc xuân thì ñã ñua nhau gặm mòn cuộc sống của cô như một căn bệnh

giang mai bị nhiễm từ tuổi vị thành niên, bệnh của tớ bị nhiễm vì lây... Cậu

chưa biết thế nào là một số phận có giới hạn, không thể nào từ chối nó ñược,

nó rơi xuống ñầu cậu như kỷ luật nhà tù rơi xuống ñầu tù nhân: khi cậu biết

42 Ông Hoàng thân này (Pitsanulok) là có thật trong thực tế. Ông là con thứ hai của Vua Xiêm, ông ly dị người vợ thứ nhất mà ông ta gặp gỡ ở Mạc Tư Khoa. Sau ngày ly hôn, ông ta mất ñột ngột ngay khi ông ta ñến thăm người vợ thứ hai ñang ở Singapore. Cô vợ này bị lên án nhưng chẳng có “chứng cớ” gì, ñành chịu. Câu truyện khá lãng mạn của ông hoàng thân này có một chỗ ñứng quan trọng trong trạng thái ñầu tiên của tiểu thuyết.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

113

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

chắc rằng cậu sẽ là "cái ñó" chứ không phải cái gì khác; rằng cậu ñã là "cái

ñó" chứ không phải cái gì khác; rằng cái mà cậu ñã không có thì cậu sẽ chẳng

có bao giờ. Và ñằng sau cậu, là tất cả những niềm hy vọng, những niềm hy

vọng nằm trong da trong thịt, như không một vật thể sống nào như vậy.

Cái mùi hôi hám xông lên từ các ao tù bao vây Claude; anh nhìn thấy lại

mẹ mình lang thang qua lâu ñài của ông nội; gần như khuất hẳn trong bóng

tối lờ mờ, từ cái búi tóc nặng nề rọi ánh sáng ban ngày; mẹ ñang hoảng hốt

nhìn vào chiếc gương con trang trí hình một con thuyền lãng mạn, khóe

miệng trễ xuống, sống mũi to lên, ñang xoa xoa lên mí mắt với cử chỉ của

người mù...

- Tôi ñã hiểu, - Perken nói tiếp, - bởi vì chính tôi cũng ñang không xa

cách cái giây phút ấy bao nhiêu, cái giây phút mà con người ta thanh toán nợ

nần với những niềm hy vọng của mình. Tương tự như thể chúng ta phải giết

chết một con người mà ta ñã sống cả cuộc ñời vì nó. Cũng dễ dàng như vầy

và cũng vui như vậy. Còn những từ này nữa mà chắc cậu không hiểu ñược

hết nghĩa – giết một người không muốn chết hy vọng của mình... Và khi

người ta không có con cái, khi người ta không muốn có con cái, thì hy vọng

không thể ñem bán ñược, không thể cho ai ñược, và vấn ñề là cứ phải tự mình

giết chết... Vì vậy, mà cảm tình có thể trở nên rất sâu sắc như thế một khi

người ta bắt gặp nó ở người khác...

Như một nốt nhạc lặp ñi lặp lại, qua các bát ñộ tiếp nhau, tiếng kêu của lũ

ếch nhái xuyên sâu bóng tối cho ñến tận chân trời vô hình.

- Tuổi trẻ là một thứ tôn giáo mà cuối cùng bao giờ người ta cũng phải

ñành chia tay... Tuy nhiên... Tớ ñã cố thử, một cách nghiêm túc, làm cái ñiều

mà Mayerena ñã thử làm khi hắn tưởng hắn ñang ở trên sân khấu kịch của

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

114

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

các cậu. Làm vua là ñiều ngu xuẩn; cái quan trọng là làm ñược một vương

quốc – Tớ ñã không chơi trò ngu với một lưỡi kiếm; tớ chỉ mới sử dụng sơ sơ

khẩu súng của mình (Mặc dù tớ bắn súng không tồi chút nào). Nhưng tớ lại

liên hệ bằng cách này hay cách nọ với hầu hết các tù trưởng các bộ tộc tự do,

tới tận vùng Thượng Lào. Như vậy từ mười lăm năm nay. Và tớ ñã chinh

phục ñược họ, hết người này sang người khác, cả dũng cảm lẫn ngu ñần. Và

không phải là họ biết nước Xiêm ñâu, họ chỉ biết tớ.

- Anh ñịnh sử dụng họ làm gì?

- Tớ ñã muốn... trước hết là một lực lượng quân sự. Thô sơ nhưng có thể

cải tổ nhanh chóng. Và chờ ñợi cuộc xung ñột không thể tránh khỏi ở ñây,

hoặc giữa thực dân và dân thuộc ñịa, hoặc giữa thực dân với nhau. Lúc ñó, kế

hoạch có thể thực hiện. Tồn tại trong một số ñông người và có thể trong thời

gian khá lâu. Tớ muốn ñể lại một vết sẹo43 trên tấm bản ñồ này. Bởi tớ phải

ñối mặt ñùa với cái chết, tớ muốn chơi với hai chục bộ tộc hơn là với một ñứa

trẻ con. Tớ muốn ñiều này như bố tớ muốn mảnh ñất của ông hàng xóm, như

tớ muốn ñàn bà.

Giọng nói của Perken làm cho Claude càng ngạc nhiên. Chẳng có chút gì

gọi là giọng của một người bị ma ám cả: cái giọng nói có suy nghĩ, rất chặt

chẽ.

- Vì sao anh không muốn nữa?

- Tớ muốn ñược yên tĩnh.

43 Nếu như tiểu sử của y có khá nhiều ñiều bí ẩn, thì mục tiêu của y trái lại, rõ ràng. Cái cần thiết phải có quyền lực và có thời gian ñó, sẽ ñược bắt gặp lại ở những nhân vật khác của Malraux: Garine trong “Những Kẻ Chinh phục” và Ferral trong ‘Thân phận con người”.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

115

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Y nói "Yên tĩnh" như nói "Hành ñộng". ðiếu thuốc y châm rồi, nhưng y

không tắt bật lửa. Y ñưa bật lửa sát tường, nhìn chăm chú vào những bản ñiêu

khắc và cái ñường ngăn chia các mảng ñá. Yên tĩnh? Dường như y tìm cái

yên tĩnh ở chỗ ñó.

- Một bức tường như thế này, khó mà lấy ñược một mảnh mang ñi...

Bây giờ y tắt ngọn lửa bé nhỏ ấy ñi. Bóng ñêm lại ập xuống bức tường,

dày ñặc, chỉ thỉnh thoảng có một chút sáng lóe lên phía trên ñầu họ (Chắc là

ánh lửa của những nén nhang thắp trước các tượng Phật). Một nửa số các vì

sao bị che khuất bởi cái khối vật chất ñổ nát ngã xuống trước mặt họ mà họ

không thấy, nó sừng sững, chỉ bằng sự có mặt của nó trong bóng tối mà khiến

người ta phải quan tâm.

- Mùi bùn ư? Cậu có ngửi thấy không? - Perken tiếp tục nói. - Cả kế

hoạch dự ñịnh của tớ cũng ñã bị phân hủy. Tớ không còn thời gian. Không

ñầy hai năm nữa, những con ñường sắt phát triển thêm sẽ ñược hoàn thành.

Không tới năm năm nữa, người ta sẽ xuyên ñược qua rừng rú, bằng ñường bộ

hoặc bằng xe lửa.

- Cái giá trị chiến lược của ñường bộ làm anh lo lắng ư?

- Giá trị ư? Hoàn toàn chẳng có gì? Nhưng với rượu và hàng lậu, thì các

ông dân tộc thiểu số của tớ sẽ hỏng mất. Chẳng làm gì ñược. Tớ phải trao

quyền lại cho nước Xiêm hoặc ñành bỏ dở.

- Nhưng còn những chiếc liên thanh?

- Ở trong vùng tớ ñang cư trú; tớ tự do mà! Và nếu tớ ñược vũ trang, tớ sẽ

có thể sống ở ñó cho ñến lúc chết. Vả lại còn có ñàn bà! Cái vùng này với

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

116

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

một vài khẩu súng liên thanh, thì một nhà nước cũng khó lòng làm gì ñược

nó, trừ khi phải hy sinh ñi bao nhiêu con người.

Tuyến ñường sắt còn làm dang dở, chưa xong có phải là một lý do ñầy ñủ

ñể xác minh lời nói của y?44 Không chắc gì một vùng ñất không chịu khuất

phục có thể sống trái người với "nền văn minh", chống lại ñội tiền phong của

nó là nước Xiêm và nước Việt Nam ñược. "ðàn bà..." Claude không quên

Djibouti.45

- Có phải chỉ có những suy nghĩ làm cho anh xa cách với những dự án của

anh?

- Tớ không quên ñiều ñó: nếu cơ hội... Nhưng tớ không thể sống trước

tiên vì nó. Tớ cũng không nghĩ ñến nó nhiều lắm, sau vụ thất bại ở cái nhà

chứa Djibouti. Cậu thấy không, tớ nghĩ rằng cái ñã làm tớ ly khai với nó, là

những người ñàn bà mà tớ ñã không chiếm nổi. Không phải vì bất lực, cậu

nên hiểu thế. Mà là một sự ñe dọa... Như lần ñầu tiên tớ thấy Sarah ñang già

ñi. Sự kết thúc của một cái gì ñó, nhất là... Tớ cảm thấy niềm hy vọng của

mình bị rỗng, với một sức mạnh trào lên trong con người mình, chống lại

mình, như cơn ñói vậy.

Y cảm thấy sự tiếp xúc ngột ngạt mà những câu nói nhấn mạnh ấy ñang

duy trì lại giữa Claude và y.

44 Những nước mạnh ñang ñối chọi nhau tại ðông Dương ñều quan tâm việc xây dựng con ñường sắt qua ñịa phương mình vì những lý do vừa chiến lược vừa kinh tế. 45 Văn bản cho phép người ta hiểu rằng câu chuyện “ñi thăm” nhà chứa ở Djibouti ñối với Perken ñã là một tình huống mà Perken lần ñầu tiên ñã bộc lộ sự bất lực của mình những câu úp mở ấy tô ñậm thêm câu chuyện mà y ñã nói từ ñầu cuốn tiểu thuyết, với Claude về vấn ñề tình dục.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

117

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Lâu nay tớ vẫn thờ ơ với ñồng tiền. Nước Xiêm nợ tớ nhiều hơn cái số

mà tớ có thể sẽ ñòi hỏi ở nó. Nhưng mà nó không ăn thua nữa rồi. Nó không

tin nữa. Không, không phải vì nó có những lý do ñặc biệt nào ñể làm như vậy

ñâu, mà vì nói chung không tin, - như bản thân tớ, và những năm mà tớ buộc

lòng phải lẩn trốn hy vọng của mình. Phải tự mình làm lấy cái việc ñó, không

dựa dẫm vào một quốc gia nào, không ñóng cái vai trò một con chó săn chờ

cơ hội ñể săn mồi cho chính nó. Nhưng chưa bao giờ có ai thành công trong

vấn ñề này, và chung quy chẳng một ai thử làm một cách nghiêm túc cả. –

Brooke ở Sarawak46, ngay cả Mayerena. Nếu nghĩ ñến giá trị của nó thì

những kế hoạch ấy ñều là những kế hoạch bệnh hoạn. Nếu tớ ñánh cuộc

mạng sống của mình trong một trò chơi lớn hơn tớ...

- Thì anh sẽ làm cái gì khác?

- Chẳng gì cả. Nhưng mà cái trò chơi ñó che giấu ñi cho tớ khỏi phải thấy

mặt trái cuộc ñời; và ñôi khi tớ ñặc biệt cần nó phải ñược che giấu ñi như

vậy. Cái kế hoạch ấy, nếu tớ ñã thực hiện... nhưng dù tất cả những ñiều tư

duy của tớ ñều là những thứ rữa thối, cũng mặc! Bởi ñã có những người ñàn

bà.

- Những cái thân thể?

- Người ta không thể tưởng tượng nó chứa ñựng bao nhiêu căm thù ñối

với thế gian trong mấy chữ "Thêm một người ñàn bà nữa". Tất cả những cái

thân thể nào mà người ta không chiếm ñược ñều là thù ñịch. Giờ ñây tớ có tất

cả những giấc mơ cũ của mình trong bụng. 46 James Brooke người Anh, sau này làm “Vua” ñảo Sumatra, ñã dựng lập một vương quốc nhỏ tại Sarawak ở miền tây Bắc Bornéo. Malraux còn nhắc ñến ông ta lần nữa trong cuốn Antimémoires (Phản ký ức), nêu lên mối quan hệ tương ñồng giữa truyện phiêu lưu của ông ta với cuộc phiêu lưu của Mayrena – Parken (le Miroir des Limbes, tr. 379).

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

118

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Cái ý muốn thuyết phục của y ñè nặng lên Claude, rất gần, như ngôi ñền

kia khuất trong ñêm.

- Sau nữa, hãy biết rõ tính chất của ñất nước này. Hãy nhớ rằng tớ ñã bắt

ñầu hiểu cái phong tục thờ cúng chuyện tình dục; sự ñồng hóa của người ñàn

ông ñến mức ñộ mà, cả trong cảm giác, nó hòa lẫn làm một với người ñàn bà

mà nó ñang ân ái, và tưởng tượng nó vừa là nàng mà luôn luôn vẫn vừa là

chính nó. Tất cả ñều trở thành vô nghĩa bên cạnh cái khoái lạc của một con

người bắt ñầu không thể chịu ñựng nổi khoái lạc nữa. Không, những người

ñàn bà ấy, không phải là những thân thể, ñó là những... những khả năng,

ñúng. Và tớ muốn...

Y làm một ñộng tác mà Claude chỉ ñoán chừng trong ñêm như một bàn

tay ñang dí xuống.

- Như tớ ñã muốn chiến thắng những con người...

“Cái mà y muốn,” - Claude nghĩ thầm, - “là tự làm cho mình biến thành

hư vô. Y có hoài nghi mình nhiều hơn là y nói không? Y sẽ ñạt ñược cái y

muốn khá dễ dàng.”

Về những niềm hy vọng bị chà ñạp của mình, Perken ñã nói cái giọng ñặc

biệt không cho phép người ta tin rằng Perken ñã từ bỏ nó; hoặc nếu có từ bỏ

hy vọng chăng nữa, thì sự ñền bù không phải chỉ có riêng tình dục.

- Tớ chưa hết vấn ñề với con người ñâu... Do ñó, dù ở ñâu, tớ sẽ có thể

kiểm soát con sông MeKong (Chỉ tiếc rằng chúng ta không biết rõ cái vùng

mà chúng ta ñang ñi ñây, hoặc cậu không biết Con ðường hoàng gia cách ba

trăm Kilomet về phía trên chúng ta); nhưng tớ quyết ñịnh kiểm soát vùng này

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

119

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

một mình không có một ông láng giềng nào cả. Phải tìm hiểu xem Grabot47

hiện nay như thế nào...

- Anh ta ñi ñâu?

- Gần dãy núi DangRek cách ñoạn ñường ta ñang ñi năm chục kilomet. ðể

làm gì? Bạn bè của anh ta ở Bangkok bảo rằng anh ta ñi tìm vàng; mọi thứ.

Tất cả những kẻ khố rách áo ôm Châu Âu ñều nghĩ tới vàng. Nhưng anh ta

am hiểu vùng ñất này lắm; anh ta không tin cái chuyện ấy ñâu. Người ta cũng

có nói với tớ về chuyện anh ta muốn kết hợp hai ba công việc với nhau,

chuyện bán dụng cụ vắt sữa cho các người dân bất phục tùng...

- Họ thanh toán như thế nào?

- Thanh toán bằng da thú, một ít bột vàng. Một sự kết hợp ñôi ba công

việc thì hợp lý hơn. Anh ta là người Paris; bố anh ta chắc ñã làm ra những ñồ

dùng ñể treo cravate, những bộ khởi ñộng, những cái chắn vòi nước, tớ tin

chắc là anh ñã ñi chủ yếu ñể thanh toán một số khoản nợ của chính anh ta...

Tớ sẽ nói chuyện này với cậu, một ngày nào ñó nhưng chắc chắn là anh ta ñã

ñi, với sự thỏa thuận của ông thống ñốc Bangkok, bằng không thì người ta ñã

chẳng thiết tìm anh về cho bằng ñược ñể làm gì. Chắc hẳn là anh ta ñã tới ñể

làm cho họ và ñã bắt ñầu thi hành cái trò chơi của chính anh ta, dầu sao cũng

vẫn là quá sớm! Nếu không như vậy thì anh ta ñã liên hệ báo tin cho họ rồi.

Cũng có thể bọn họ bảo anh ta kiểm soát cái ñịa vị của tớ trên vùng ñó, chả

thế mà anh ta ñã nhằm lúc tớ ñi vắng ñể lên ñường...

47 Tay phiêu lưu mà chúng ta phát hiện dần dần cái bản lĩnh của ý qua những câu truyện của Perken, ñã ñược hình thành trong cảm hứng của tác giả qua cuốn tiểu thuyết của Conrad Coeur des Tènèbes (Trái tim của bóng tối): nhân vật chính cuốn sách, Marlow, ngược dòng sông ñể ñi tìm Kurtz, một người phương Tây xuất chúng, bị giam cầm bởi xứ sở dã man.

André Malraux CON ðƯỜNG HOÀNG GIA

120

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Nhưng anh ta ñâu có ñi tới cùng cái vùng mà anh ta ñã ở.

- Có thể anh ta ñã ñược tiếp ñón bằng những mũi tên ngay từ khi anh ta

mới tới. Nhất là bằng một vài viên ñạn súng Gran của tớ dùng ñể huấn luyện.

Chẳng làm thế nào ñược. Nếu anh ta muốn, chỉ có thể tìm cách ñi tới bằng

con ñường qua DangRek.

- Anh ta là con người như thế nào?

- Cậu nghe ñây, trong thời kỳ anh ta làm nghĩa vụ quân sự, có một y tá

trưởng quân y không thừa nhận anh bị bệnh, hình như thế, vì vậy mà anh ta

ghét cay ghét ñắng hắn ta. Hoặc một lý do khác nào ñó. Tuần sau anh ta lại

báo ốm lần nữa và ñi bệnh xá: "Lại anh? – Tôi bị nhọt.48 – ðâu? Anh ta mở

bà ri tay ra: sáu cái khuy quần lót. Một tháng tù! Anh ta liền viết ngay cho

ông thiếu tướng nói rõ anh ta bị ñau mắt (Tớ quên không nói với cậu là anh ta

bị bệnh lậu), anh ta lấy mủ bệnh lậu cho vào mắt, khiến cho viên hạ sĩ quan

quân y bị phạt. Còn anh bị hỏng một mắt, thành chột, dĩ nhiên. Một cái ñầu

tròn người Pháp các cậu, với một cái mũi to như củ khoai tây và cái thân hình

của một người dọn nhà thuê. Ở Bangkok, anh ta sung sướng ñược bước vào

các quán rượu khệnh khạng như một con dã thú. Cậu thấy ñiều này: những

cái nìn theo dõi trộm anh ta; những gã ñàn ông xa lánh dần anh ta và trong

một góc là mấy thằng bạn – không nhiều – vừa nâng cốc vừa la ó... một gã

ñào ngũ các tiểu ñoàn Châu Phi của các cậu. Lại một gã có những mối liên hệ

về tình dục khá ñặc biệt...

48 Chữ "bouton" trong tiếng Pháp có hai nghĩa: "Mụn nhọt" và "Khuy áo".