Upload
ngotuyen
View
221
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH DOANH NGHIỆP
VÀ NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2014-2015
(Báo cáo phục vụ Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp năm 2014)
I - Tổng quan tình hình kinh tế xã hội và phát triển doanh nghiệp
1.1. Tổng quan tình hình kinh tế xã hội và nhiệm vụ phát triển kinh tế
xã hội năm 2014-2015
Tình hình kinh tế thế giới và khu vực còn nhiều diễn biến phức tạp, kinh tế
thế giới phục hồi chậm hơn dự báo; những hạn chế yếu kém vốn có của nền kinh
tế trong nước chậm được khắc phục cùng những vấn đề mới phát sinh tác động
không thuận lợi đến ổn định kinh tế vĩ mô. Trước tình hình đó, Đảng, Nhà nước
và Chính phủ đã nỗ lực chỉ đạo quyết liệt các cấp, ngành, địa phương thực hiện
tích cực, đồng bộ các giải pháp, chủ động khắc phục khó khăn để từng bước ổn
định và phát triển sản xuất kinh doanh.
Tình hình kinh tế xã hội năm 2013 đã có chuyển biến tích cực, đúng
hướng. Trong tổng số 15 chỉ tiêu chủ yếu Nghị quyết Quốc hội đề ra trong kế
hoạch năm 2013 có 10 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch; 3 chỉ tiêu đạt xấp xỉ kế
hoạch (tốc độ tăng trưởng GDP, tạo việc làm, tỷ lệ lao động qua đào tạo); 2 chỉ
tiêu chưa đạt kế hoạch là tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước so với GDP và tỷ lệ
giảm hộ nghèo. Năm 2013 đã cơ bản chặn được đà suy giảm tăng trưởng từ năm
2010. Tăng trưởng GDP cả năm đạt 5,42%, cao hơn mức tăng 5,25% của năm
2012, đưa quy mô nền kinh tế lên khoảng 170,4 tỷ USD và thu nhập bình quân
đầu người đạt khoảng 1.900 USD. Lạm phát năm 2013 thấp nhất trong vòng 10
năm trở lại đây. Chỉ số giá tiêu dùng đã giảm từ 18,13% năm 2011 xuống 6,81%
năm 2012 và năm 2013 được kiểm soát ở mức 6,04%. Chỉ số sản xuất toàn ngành
công nghiệp năm 2013 tăng 5,9%, cao hơn mức tăng năm 20121.
Thị trường tiền tệ cơ bản ổn định. Chính sách tiền tệ được điều hành linh
hoạt, thận trọng, vừa kiềm chế được lạm phát vừa từng bước hạ lãi suất, ổn định
thị trường tiền tệ, góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh. Tổng
phương tiện thanh toán (M2) năm 2013 tăng 18,5% so với cuối năm 2012, cao
hơn so với định hướng từ 14-16% cho cả năm 2013. Xử lý nợ xấu của hệ thống
1 Nguồn: Báo cáo đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 và tình hình
triển khai Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 gửi Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư
2
ngân hàng đã đạt được kết quả bước đầu với việc xử lý được trên 101 nghìn tỷ
đồng nợ xấu bằng dự phòng rủi ro của các tổ chức tín dụng2.
Cán cân thương mại thặng dư năm thứ hai liên tiếp. Xuất khẩu tiếp tục duy
trì đà tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra với thị trường ngày càng được mở rộng
và đa dạng hoá, cơ cấu hàng hoá có sự đóng góp ngày càng nhiều của nhóm hàng
công nghiệp chế biến. Hoạt động nhập khẩu, nhất là nhập khẩu máy móc, thiết bị,
nguyên vật liệu phục vụ đầu tư và sản xuất kinh doanh được cải thiện. Kim ngạch
xuất khẩu năm 2013 đạt 132,135 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm 2012, nhập siêu
giảm dần, năm 2010 là 12,6 tỷ USD, chiếm tới 17,4% tổng kim ngạch xuất khẩu,
đến năm 2012 đã xuất siêu 749 triệu USD, chiếm 0,7% tổng kim ngạch xuất
khẩu3.
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2013 đạt 1.091,1 nghìn tỷ
đồng, bằng 30,4% GDP, vượt kế hoạch đề ra (khoảng 30% GDP). Trong đó, vốn
đầu tư của dân cư và tư nhân là 410,5 nghìn tỷ đồng. Trong điều kiện cạnh tranh
quốc tế ngày càng gay gắt và Việt Nam đã là nước có thu nhập trung bình nhưng
kết quả vận động, thu hút và giải ngân các nguồn vốn ODA vẫn tăng mạnh đã
đóng góp quan trọng làm tăng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Tổng vốn
ODA và vốn vay ưu đãi ký kết năm 2013 đạt 6,431 tỷ USD, tăng 9,07% so với
năm 2012. Trong năm 2013, tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm vốn FDI là
22,35 tỷ USD, tăng 35,9% so với năm 2012, số vốn giải ngân đạt khoảng 11,5 tỷ
USD, tăng 9,9%4.
Bước sang năm 2014, mặc dù nền kinh tế duy trì một số dấu hiệu tích cực
của năm 2013 nhưng nhìn chung kinh tế nước ta vẫn đang trong giai đoạn khó
khăn, tiếp tục phải đối mặt với nhiều thách thức trong ngắn hạn. Khó khăn trong
sản xuất kinh doanh chưa được giải quyết triệt để và ngày càng tác động rõ hơn
đến người dân và doanh nghiệp. Thị trường trong nước chưa phát triển mạnh.
Sức cầu của nền kinh tế tiếp tục duy trì ở mức thấp. Tổng cầu của nền kinh tế tuy
có chuyển biến nhưng vẫn chưa có sự cải thiện đáng kể. Tổng mức bán lẻ hàng
hoá và dịch vụ (loại trừ yếu tố giá) chỉ tăng 5,7% năm 2013 và 5,1% Quý I/2014,
thấp hơn mức tăng 6,5% của năm 20125. Tốc độ phục hồi sản xuất chậm.
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 3 tháng đầu năm 2014 duy trì ở mức
tăng thấp 5,2% (cùng kỳ 2013 tăng 5%). Nguồn vốn bị ách tắc trong hệ thống
ngân hàng. Tốc độ tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng trong quý 2 Nguồn: Báo cáo đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 và tình hình
triển khai Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 gửi Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư 3 Nguồn: Như trên.
4 Nguồn: Như trên.
5 Nguồn: Như trên.
3
I/2014 không những chưa có sự cải thiện so với cùng kỳ nằm trước mà còn có
dấu hiệu giảm sút cho thấy nền kinh tế chưa phục hồi rõ nét, nhu cầu tín dụng
cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và nền kinh tế còn thấp do khó
khăn về vấn đề giải quyết nợ xấu, hàng tồn kho và sức cầu thấp của nền kinh tế.
Tổng phương tiện thanh toán đến 20/3/2014 ước tăng 3,56% so với tháng 12 năm
2013, thấp hơn cùng kỳ năm 2013 (3,85%). Tín dụng đối với nền kinh tế đến
20/3/2014 giảm 0,57% so với tháng 12 năm 2013 (cùng kỳ năm 2013 tăng
0,03%), trong đó dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế bằng VND ước giảm 1,38%6.
Số lượng doanh nghiệp gặp khó khăn phải giải thể hoặc ngừng hoạt động
lớn. Năm 2013 đã có 60,737 doanh nghiệp phải dừng hoạt động, tăng 11,9% so
với 2012. Trong quý I/2014 đã có thêm 16.745 doanh nghiệp phải dừng hoạt
động, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm 2013. Tăng trưởng xuất khẩu phụ thuộc chủ
yếu vào khu vực FDI, trong khi tăng trưởng xuất khẩu của khối doanh nghiệp
trong nước còn nhiều hạn chế. Năm 2013, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của khối
doanh nghiệp 100% vốn trong nước là 3,9%, tuy cao hơn năm 2012 nhưng vẫn
thấp hơn rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của cả nước7.
Mục tiêu tổng quát Quốc hội đề ra tại Nghị quyết về kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội năm 2014 là: tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát;
tăng trưởng hợp lý và nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh
tế trên cơ sở đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình
tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, cải
thiện đời sống nhân dân. Sử dụng hợp lý và có hiệu quả tài nguyên. Đẩy mạnh
cải cách hành chính; cải thiện môi trường kinh doanh. Trong đó các chỉ tiêu kinh
tế vĩ mô chủ yếu được đề ra là: phấn đấu đạt tốc độ tăng tổng sản phẩm trong
nước (GDP) khoảng 5,8%; kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 10%; tỷ lệ nhập
siêu khoảng 6% kim ngạch xuất khẩu; tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) khoảng
7%; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 30% GDP; tạo việc làm cho
khoảng 1,6 triệu lao động; tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước 5,3% GDP8.
Năm 2014-2015 là giai đoạn quan trọng đảm bảo thực hiện thành công kế
hoạch kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2015. Việc thực hiện thành công các mục
tiêu nêu trên đặt ra thách thức to lớn đối với Chính phủ, các Bộ ngành, địa
phương trong đó có vai trò quan trọng của cộng đồng doanh nghiệp ở cả 3 khu
vực DNNN, doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp ngoài nhà nước.
6 Nguồn: Báo cáo đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 và tình hình
triển khai Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 gửi Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư 7 Nguồn: Như trên. 8 Các chỉ tiêu được qui định tại Nghị quyết số 53/2013/QH13 ngày 11/11/2013 của Quốc hội về kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội năm 2014.
4
Để đạt được tốc độ tăng GDP khoảng 5,8%, tức là khoảng 4.221,2 nghìn tỷ
đồng năm 2014 đặt ra yêu cầu cho từng khu vực kinh tế như sau: kinh tế nhà
nước tạo ra khoảng 1.374,8 nghìn tỷ; kinh tế ngoài nhà nước đóng góp khoảng
2.083,2 nghìn tỷ đồng và khu vực FDI là 763,2 nghìn tỷ đồng9. Với cơ cấu đóng
góp khoảng gần 50% trong cơ cấu GDP (năm 2012), khu vực ngoài nhà nước
đóng vai trò quan trọng để đảm bảo tốc độ tăng trưởng GDP đề ra, đây là thách
thức lớn đối với Chính phủ trong việc tìm ra giải pháp hỗ trợ hiệu quả cho khu
vực đang gặp nhiều khó khăn này.
Bên cạnh chỉ tiêu đóng góp GDP, các chỉ tiêu tăng trưởng về xuất khẩu,
đầu tư, thu ngân sách cũng đang đặt ra những thách thức lớn đối với khu vực
doanh nghiệp. Cụ thể, để đạt mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu 10% năm 2014,
tương đương khoảng 144 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu, khu vực doanh nghiệp
trong nước (bao gồm DNNN và doanh nghiệp ngoài nhà nước) cần đóng góp
khoảng 48,76 tỷ USD trong năm 2014, tạo ra thêm 4,46 tỷ USD doanh thu xuất
khẩu so với năm 2013. Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội năm 2014 theo kế
hoạch của các khu vực kinh tế đặt ra là 1.241,8 nghìn tỷ đồng, trong đó huy động
vốn đầu tư của dân cư và tư nhân đạt chỉ tiêu là 522,4 nghìn tỷ đồng, vốn đầu tư
của DNNN (vốn tự có) là 45 nghìn tỷ đồng. Như vậy, đầu tư của dân cư và khu
vực tư nhân phải huy động thêm trong năm 2014 là 115 nghìn tỷ đồng (năm 2013
khu vực này thực hiện 407,4 nghìn tỷ đồng); chiếm 42,1% trong cơ cấu vốn đầu
tư thực hiện toàn xã hội. Tương tự như vậy chỉ tiêu thu ngân sách năm 2014 đặt
ra là 782,7 nghìn tỷ đồng, trong đó thu nội địa (chủ yếu từ khu vực doanh nghiệp
chiếm tỷ trọng 75%) đạt 539 nghìn tỷ đồng, tăng thêm 9 nghìn tỷ đồng so với số
ước thực hiện năm 2013 là 530 nghìn tỷ. Ngoài ra, các chỉ tiêu về tổng mức
doanh thu bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng trưởng khoảng
15%, tương đương khoảng 3.000 tỷ đồng; vốn tín dụng đầu tư tăng thêm từ 53,4
nghìn tỷ đồng lên 58,7 nghìn tỷ đồng10
v.v... cũng đang đặt ra các thách thức
không nhỏ trong công tác hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp của Chính phủ.
Bối cảnh kinh tế trong nước và nhiệm vụ to lớn đặt ra trong phát triển kinh
tế xã hội năm 2014, năm bản lề đảm bảo việc thực hiện thành công kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015, đặt ra thách thức cho Chính phủ và các
Bộ ngành, địa phương trong việc nhận diện ra các khó khăn để có giải pháp phù
hợp nhằm tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi
và phát triển để có thể đạt được mục tiêu kế hoạch đặt ra.
9 Tính toán dựa trên các chỉ tiêu được qui định tại Quyết định số 2336/QĐ-TTg ngày 30/11/2013 của Chính phủ
về việc giao chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014. 10 Như trên. Riêng tính toán chỉ tiêu về thu ngân sách qui định tại Nghị quyết số 57/2013/QH13 ngày 12/11/2013
về dự toán ngân sách nhà nước năm 2014 và Quyết định số 2336/QĐ-TTg ngày 30/11/2013 của Chính phủ về
việc giao chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế xã - hội năm 2014.
5
1.2. Tình hình doanh nghiệp gia nhập, rút khỏi thị trường
1.2.1. Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới có dấu hiệu tăng
trở lại nhưng quy mô vốn đăng ký giảm
Trong giai đoạn 2011-2013, cả nước có thêm 224.200 doanh nghiệp thành
lập mới, chiếm 40,9% tổng số doanh nghiệp được thành lập trong giai đoạn 20
năm từ 1991-2010. Xu hướng tăng trưởng liên tục bị ngắt quãng kể từ năm 2012
khi nền kinh tế bước vào giai đoạn khó khăn. Số lượng doanh nghiệp thành lập
mới giảm từ 83.600 doanh nghiệp năm 2010 xuống còn 77.500 doanh nghiệp
năm 2011, tiếp đó giảm sâu xuống còn 69.800 doanh nghiệp năm 2012, giảm
13.800 doanh nghiệp trong 2 năm11
.
Năm 2013, dấu hiệu kinh tế phục hồi và một số khó khăn vĩ mô đã giảm
bớt giúp cho số lượng doanh nghiệp thành lập mới có dấu hiệu tăng trở lại, đạt
76.955 doanh nghiệp (tăng 10% so với năm 2012), nhưng không bằng số lượng
doanh nghiệp thành lập mới của các năm 2009 và 2010. Trong Quý I/2014, cả
nước có hơn 18.000 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký gần
98 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 17% về số doanh nghiệp và 23% về vốn đăng ký
so với cùng kỳ 2013. Cũng trong Quý I/2014, vẫn còn gần 17.000 doanh nghiệp
gặp khó khăn phải giải thể hoặc đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 9,6% so với
cùng kỳ năm trước12
. Nhìn chung, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn, phục hồi tăng trưởng ở mức thấp và thiếu bền
vững.
Biểu 1: Số lượng doanh nghiệp đăng ký mới giai đoạn 1991-1999
và những năm từ 2000-2013 Đơn vị: Nghìn doanh nghiệp
11
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư 12
Nguồn: Như trên
6
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Mặc dù số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới năm 2013 và Quý
I/2014 có dấu hiệu tăng trở lại so với năm 2012 nhưng số vốn đăng ký năm 2013
chỉ đạt 398.681 tỷ đồng, giảm 14,7% so với 2012 và giảm sâu so với 513.700 tỷ
đồng năm 201113
.
Tình hình khó khăn những năm gần đây cũng khiến quy mô vốn đăng ký
bình quân một doanh nghiệp có xu hướng giảm. Năm 2011, bình quân 1 doanh
nghiệp đăng ký với 6,63 tỷ đồng, nhưng đã giảm xuống 5,13 tỷ đồng năm 2013
(chưa tính tới yếu tố lạm phát)14
. Qua đó có thể thấy rằng trong thời kỳ khó khăn
và môi trường kinh doanh còn nhiều rủi ro, doanh nghiệp đã thận trọng hơn với
từng đồng vốn bỏ ra, thể hiện qua việc thu hẹp quy mô vốn để nâng cao hệ số an
toàn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Biểu 2: Quy mô vốn đăng ký thành lập doanh nghiệp giai đoạn 2006-2013.
13
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư 14
Nguồn: Như trên
7
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
1.2.2. Doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường có xu hướng gia tăng
Chất lượng doanh nghiệp đang được sàng lọc trong những năm gần đây.
Số lượng doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động trong năm 2013 là 60.737
doanh nghiệp, tăng 11,9% so với 2012 và tăng 12,5% so với 201115
. Số doanh
nghiệp gặp khó khăn phải rút lui khỏi thị trường ngày càng nhiều cho thấy những
thách thức của nền kinh tế trong giai đoạn khó khăn 2011-2012 đã và đang dần
loại bỏ khỏi thị trường các doanh nghiệp yếu kém, không đủ sức tồn tại, hoặc
không kịp thay đổi để thích nghi với điều kiện mới.
Biểu 3: Số DN thành lập mới so với số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động
15
Nguồn: Như trên
146.3
473.8
569.5 517
489.6 513.7 467.2
398.6
3.13
8.06 8.72
6.13 5.86 6.63 6.69
5.18
0
2
4
6
8
10
12
14
0
100
200
300
400
500
600
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Tỷ đồng Nghìn tỷ đồng
Số vốn của doanh nghiệp đăng ký thành lập
0 20,000 40,000 60,000 80,000 100,000
2013
2012
2011
Số DN giải thể, dừng hoạt động
Số DN đăng ký mới
DN
8
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
1.2.3. Doanh nghiệp ngoài nhà nước là lực lượng chính trong các khu
vực doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế
Về số lượng doanh nghiệp đang hoạt động, doanh nghiệp ngoài nhà nước
là lực lượng chính trong nền kinh tế, luôn chiếm khoảng 96% tổng số doanh
nghiệp đang hoạt động trong giai đoạn 2010-2012. Cùng với số lượng doanh
nghiệp gia nhập thị trường, số lượng doanh nghiệp ngoài nhà nước đang hoạt
động tăng từ 268.831 doanh nghiệp năm 2010 lên 334.562 doanh nghiệp năm
2012.
Tiếp theo là khu vực doanh nghiệp FDI với 7.248 doanh nghiệp đang hoạt
động năm 2010 (chiếm 2,59%) tăng lên 8.976 doanh nghiệp năm 2012 (chiếm
2,59%).
DNNN chiếm tỷ trọng ít nhất, với 3.281 doanh nghiệp đang hoạt động năm
2010 (chiếm 1,17%) giảm còn 3.236 doanh nghiệp năm 2012 (chiếm 0,93%) và
sẽ tiếp tục giảm trong giai đoạn tới do Chính phủ đang đẩy mạnh tái cơ cấu, trọng
tâm là cổ phần hóa khu vực này.
Bảng 1: Số lượng và tỷ trọng doanh nghiệp đang hoạt động
2010
2011
2012
Số DN
Tỷ trọng
(%) Số DN
Tỷ trọng
(%) Số DN
Tỷ trọng
(%)
DNNN 3.281 1,17 3.265 1,01 3.239 0,93
DN ngoài
NN 268.831 96,23 312.416 96,22 334.562 96,48
DN FDI 7.248 2,59 9.010 2,77 8.976 2,59
Tổng 279.360 100 324.691 100 348.342 100
Nguồn: Tổng cục Thống kê
1.3. Đóng góp của doanh nghiệp trong phát triển kinh tế - xã hội
1.3.2. Đóng góp của doanh nghiệp trong tăng trưởng GDP và tạo việc
làm
Doanh nghiệp Việt Nam đã có nhiều bước tiến đáng kể sau khi Luật doanh
nghiệp 2005 ra đời. Về tỷ trọng trong cơ cấu GDP, doanh nghiệp ngoài nhà nước
luôn chiếm tỷ trọng cao nhất, ở mức 48-49% tổng GDP toàn xã hội trong giai
đoạn 2009-2012. Tỷ trọng của khu vực DNNN chiếm thứ 2 nhưng đang có xu
hướng giảm dần theo chương trình cổ phần hóa của Chính phủ. Tỷ trọng trong
GDP của khu vực DNNN giảm từ 37,72% năm 2009 xuống 32,57% năm 2012.
9
Cuối cùng là khu vực doanh nghiệp FDI, chiếm tỷ trọng thấp nhất, tương đối ổn
định ở mức 17-18% trong giai đoạn 2009-201216
.
Có thể thấy doanh nghiệp ngoài nhà nước mặc dù chiếm trên 96% tổng số
doanh nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế nhưng do chủ yếu ở quy mô nhỏ
và vừa, nên tỷ trọng đóng góp trong cơ cấu GDP của khu vực này chỉ ở mức
49%, chưa tương xứng với quy mô số lượng của khu vực này.
Biểu 4: Cơ cấu GDP theo giá hiện hành phân theo các thành phần kinh tế (%)
Nguồn: Tổng Cục Thống kê
Lao động làm việc trong các khu vực doanh nghiệp tăng nhẹ trong giai
đoạn 2010-2012, tăng từ 9,83 triệu lao động năm 2010 lên 11,08 triệu lao động
năm 2012 (tăng 12,72%). Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước là khu vực thu
hút nhiều lao động nhất với 5,98 triệu lao động năm 2010 (chiếm 60,86% tổng số
lao động làm việc tại các khu vực doanh nghiệp) tăng lên 6,76 triệu lao động năm
2012 (chiếm 60,97%). Đứng thứ 2 là khu vực doanh nghiệp FDI, tăng từ 2,16
triệu lao động năm 2010 (chiếm 21,93%) lên 2,72 triệu lao động năm 2012
(chiếm 24,54%). Cuối cùng là khu vực DNNN với 1,69 triệu lao động (chiếm
17,21%) giảm xuống 1,61 triệu lao động năm 2012 (chiếm 14,49%)17
. Trong giai
đoạn qua, đã có một lực lượng lớn lao động chuyển từ khu vực DNNN sang khu
vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và FDI do quá trình sắp xếp, tái cơ cấu các
DNNN.
Biểu 5: Lao động tại các khu vực kinh tế
16
Nguồn: Tổng cục thống kê 17
Nguồn: Tổng cục thống kê 1692 1664 1606
5983 6681 6759
2156 2551 2720
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
8000
2010 2011 2012
DNNN
DN ngoài NN
DN FDI
%
37.72 33.46 32.68 32.57
47.97 48.85 49.27 49.35
17.31 17.69 18.05 18.08
0
10
20
30
40
50
60
2009 2010 2011 2012
DNNN
DN ngoài NN
DN FDI
Nghìn lao động
10
Nguồn:Tổng Cục Thống kê
Mặc dù số lượng lao động làm việc trong các khu vực doanh nghiệp có
tăng nhưng quy mô lao động bình quân 1 doanh nghiệp giai đoạn 2010-2012 có
xu hướng giảm, từ 35 lao động/DN năm 2010 xuống 32 lao động/DN năm 2012.
Khu vực DNNN có quy mô lao động bình quân 1 DN lớn nhất, bình quân 516 lao
động/DN năm 2010 xuống còn 496 lao động/DN năm 2012. Tiếp đó là DN FDI
với 297 lao động/DN năm 2010 lên 303 lao động/DN năm 2012. Thấp nhất là
khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước với 22 lao động/DN năm 2010 xuống còn
20 lao động/DN năm 201218
. Sự chênh lệch đáng kể về quy mô giữa 3 khu vực
kinh tế cho thấy khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước hoạt động còn manh mún,
nhỏ lẻ so với 2 khu vực còn lại.
Biểu 6: Quy mô lao động bình quân 1 DN tại các khu vực kinh tế
Nguồn: Tổng Cục Thống kê
1.3.2. Vốn đầu tư toàn xã hội của các khu vực kinh tế
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện của các khu vực kinh tế tăng qua
các năm, từ 830,3 nghìn tỷ đồng năm 2010 lên 1.091,1 nghìn tỷ đồng năm 2013.
Tuy nhiên, tốc độ tăng giai đoạn 2010-2013 thấp hơn tốc độ tăng của giai đoạn
trước 2006-2010.
Tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội của các khu vực kinh tế có nhiều thay đổi
trong giai đoạn 2006- 2013. Khu vực DNNN chiếm tỷ trọng lớn nhưng có xu
18
Nguồn: Tổng cục thống kê và tính toán
516 510 496
22 21 20
297 283 303
0
100
200
300
400
500
600
2010 2011 2012
DNNN
Dn ngoài NN
DN FDI
Lao động
11
hướng giảm dần từ 45,7% năm 2006 giảm xuống còn 40,37% năm 2013. Tiếp
theo là khu vực doanh nghiệp nhà nước thay đổi không đáng kể, chiếm 38,05%
năm 2006 và chiếm 37,62% năm 2013. Chiếm tỷ trọng thấp nhất là khu vực
doanh nghiệp FDI. Khu vực này chỉ chiếm 16,21% năm 2006 nhưng tăng mạnh
lên 30,92% năm 2008. Tuy nhiên, sau khi xảy ra khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu, tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội của khu vực này giảm đáng
kể từ 30,92% năm 2008 xuống còn 22% năm 201319
.
Biểu 7: Thay đổi tỷ trọng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện phân
theo thành phần kinh tế 2006 – 2013 (%)
Nguồn: Tổng Cục Thống kê
1.3.3. Đóng góp vào ngân sách nhà nước của các khu vực doanh nghiệp
Trong giai đoạn 2010-2012, đóng góp của doanh nghiệp Việt Nam vào
ngân sách nhà nước có tăng nhưng tốc độ tăng thấp hơn nhiều so với các năm
trước. Cụ thể năm 2011, đóng góp của doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế là
515,8 nghìn tỷ đồng, tăng 22,5% so với 2010 nhưng năm 2012 thì đóng góp ngân
sách của các doanh nghiệp là 556,9 nghìn tỷ đồng, chỉ tăng 7,9% so với năm
201120
.
Về tỷ trọng đóng góp của các thành phần kinh tế, khu vực DNNN vẫn giữ
ổn định ở mức khoảng 35%-36% qua các năm từ 2010-2012. Trong khi đó, khu
vực doanh nghiệp ngoài nhà nước giảm đáng kể từ 40,35% năm 2010 xuống
32,76% năm 2012. Ngược với khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước, khu vực
doanh nghiệp FDI tăng đáng kể từ 23,31% lên 31,43% cho thấy khu vực doanh
nghiệp ngoài nhà nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc khủng hoảng kinh tế21
.
19
Nguồn: Tổng cục thống kê 20
Nguồn: Tổng cục thống kê 21
Nguồn: Tổng cục thống kê
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
35%
40%
45%
50%
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
DNNN
Dn ngoài NN
DN FDI
12
Biểu 8: Đóng góp của các khu vực kinh tế vào ngân sách nhà nước
N
Nguồn: Tổng Cục Thống kê
1.4. Kết quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp
1.4.1. Kết quả hoạt động về doanh thu, lợi nhuận
Nhìn chung, tổng doanh thu của các khu vực kinh tế có xu hướng tăng
nhưng lợi nhuận của khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghiệp FDI
giảm đáng kể. Cụ thể:
- Doanh thu khu vực DNNN tăng từ 2.167 nghìn tỷ đồng năm 2010 lên
3.051 nghìn tỷ đồng năm 2012 (tăng 40,7%) , lợi nhuận tăng từ 115,2 nghìn tỷ
lên 170,7 nghìn tỷ đồng (tăng 48,2%)22
;
- Doanh thu khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng từ 4.271 nghìn tỷ
đồng năm 2010 lên 5.930 nghìn tỷ đồng năm 2012 (tăng 38,8%) nhưng lợi nhuận
lại giảm đáng kể từ 115,6 nghìn tỷ đồng năm 2010 xuống 68,1 nghìn tỷ đồng
năm 2012 (giảm 41,1%)23
.
- Doanh thu khu vực FDI tăng từ 1.418 nghìn tỷ đồng năm 2010 lên 2.476
nghìn tỷ đồng năm 2012 (tăng 74,5%) nhưng lợi nhuận giảm từ 125,4 nghìn tỷ
đồng năm 2010 xuống 120,0 nghìn tỷ đồng năm 2012 (giảm 4,3%)24
.
Các số liệu trên cho thấy trình độ và năng lực quản lý của khu vực doanh
nghiệp ngoài nhà nước thời gian qua bộc lộ nhiều hạn chế. Trong điều kiện nền
22
Nguồn: Tổng cục thống kê và tính toán 23
Nguồn: Tổng cục thống kê và tính toán 24
Nguồn: Như trên
152,933
180,260
199,446
169,808 169,465 182,482
98,119
166,102 175,070
0
50,000
100,000
150,000
200,000
250,000
2010 2011 2012
DNNN DN ngoài NN DN FDI
Tỷ đồng
13
kinh tế khó khăn, thị trường suy giảm, khả năng quản lý bao gồm quản lý chi phí
yếu kém của các chủ doanh nghiệp dẫn tới chi phí sản xuất kinh doanh cao, lợi
nhuận sụt giảm nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp.
Biểu 9: Doanh thu, lợi nhuận của các khu vực kinh tế (nghìn tỷ đồng)
Nguồn: Tổng Cục Thống kê
1.4.2. Tỷ lệ doanh nghiệp thua lỗ gia tăng đáng kể
Từ năm 2010, ảnh hưởng của khó khăn kinh tế trong nước đã khiến tỷ lệ
doanh nghiệp thua lỗ tăng đáng kể, từ 25,14% năm 2010 lên 65,8% vào hết tháng
9 năm 2013. Tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh có lãi cũng giảm từ 64,12% năm
2010 xuống còn 34,2% vào hết tháng 9 năm 201325
.
Thua lỗ nhiều và kéo dài khiến doanh nghiệp rơi vào phá sản, giải thể và
tạm dừng hoạt động. Tình trạng này sẽ tiếp tục gây ảnh hưởng xấu cho kết quả
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung trong thời gian tới.
Biểu:
Tuy vậy, một số tỉnh có số doanh nghiệp lỗ cao đáng chú ý như Đà Nẵng có
3.424 DN tư nhân có lãi trên tổng số 10.229 DN đang hoạt động (33,5%), trong
khi có tới 6.805 DN tư nhân lỗ (66,5%), ước 6 tháng đầu 2013 có 7.164 DN lỗ,
25
Nguồn: Tổng cục thống kê và Bộ Tài chính (Hội nghị đối thoại về thủ tục thuế, hải quan giữa Bộ Tài chính,
VCCI, Tổng cục thuế, Hải quan, tháng 10/2013)
21
67
.8
27
98
.8
30
51
42
71
.6
56
97
.3
59
30
.3
14
18
.8
20
81
.3
24
76
.6
0
20
40
60
80
100
120
140
160
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
2010 2011 2012
Doanh thu DNNN Doanh thu DN ngoài NN Doanh thu DNFDI
Lợi nhuận DNNN Lợi nhuận DN ngoài NN Lợi nhuận DN FDI
Biểu 10: Số DN lãi/ lỗ và tỷ trọng doanh nghiệp lãi/lỗ
0
10
20
30
40
50
60
70
80
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 13-Sep
DN có lãi
DN thua lỗ
Doanh thu Lợi nhuận
Nghìn tỷ đồng Nghìn tỷ đồng
14
3.119 DN lãi; Bắc Ninh năm 2011 có 70% doanh nghiệp đang hoạt động có lãi
(khoảng 2.700 DN), thế như năm 2012, số doanh nghiệp có lãi giảm đáng kể, chỉ
còn 850 DN, chiếm 19% số doanh đang hoạt động; Đắk Nông, có 1354 doanh
nghiệp lỗ và 342 doanh nghiệp có lãi (80% doanh nghiệp lỗ, 20% doanh
Nguồn: Bộ Kế h Bộ Tài chính
Nguồn: Tổng Cục Thống kê và Bộ Tài chính
1.5. Một số vấn đề tồn tại trong phát triển của các doanh nghiệp Việt
Nam
Mặc dù doanh nghiệp Việt Nam có những bước chuyển biến tích cực trong
thời gian qua nhưng sự phát triển này còn nhiều hạn chế. Chất lượng phát triển
của khu vực này vẫn còn ở mức thấp và cần được hỗ trợ để cải thiện.
1.5.1. Quy mô doanh nghiệp vẫn chủ yếu là nhỏ và vừa
Mặc dù phát triển nhanh về số lượng doanh nghiệp xét về tổng thể nhưng
phần lớn doanh nghiệp Việt Nam đến nay chủ yếu có quy mô nhỏ và vừa.
Bảng 2: Tỷ lệ doanh nghiệp năm 2012 phân theo quy mô lao động
Đơn vị tính: (%)
Tổng số
DN
đang hoạt
động
Tỷ lệ
DN
lớn
DN siêu nhỏ,
nhỏ và vừa
(DNNVV)
Chia ra
Siêu
nhỏ Nhỏ Vừa
Tổng số 100,0 2,3 97,7 68,7 27,1 1,9
Phân theo loại hình kinh tế
- DN NN 100,0 40,7 59,3 3,5 39,9 16,0
- DN ngoài NN 100,0 1,4 98,6 70,6 26,4 1,6
- DN FDI 100,0 21,6 78,8 22,8 47,1 8,9
Nguồn: Tổng Cục Thống kê
Nếu xét về qui mô lao động, trong tổng số doanh nghiệp đến 2012 của tất
cả các khu vực kinh tế thì DN siêu nhỏ, nhỏ và vừa (DNNVV) chiếm tới 97,7%.
Trong khối doanh nghiệp ngoài nhà nước thì DNNVV cũng chiếm đa số với tỷ lệ
lên đến 98,6%. Đặc biệt, tỷ lệ doanh nghiệp có quy mô vừa chỉ chiếm 1,6% trong
tổng số các doanh nghiệp ngoài nhà nước.
15
Nếu xét về qui mô vốn cũng tương tự với bức tranh về lao động, trong đó
tỷ lệ doanh nghiệp quy mô vốn nhỏ và vừa chiếm đến 94,8%. Số doanh nghiệp
có qui mô vốn vừa chỉ đạt 17,6% đối với khối doanh nghiệp ngoài nhà nước.
1.5.2. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của khu vực doanh nghiệp ngoài
nhà nước còn thấp, cần được cải thiện
Bảng 3 dưới đây so sánh về tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và tỷ suất lợi
nhuận trên vốn sản xuất kinh doanh của các khu vực doanh nghiệp. Số liệu cho
thấy hiệu suất hoạt động của doanh nghiệp ngoài nhà nước còn rất thấp mặc dù
khu vực này chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu doanh nghiệp nói chung ở một số
chỉ tiêu cơ bản (số lượng doanh nghiệp chiếm 96,5%; số lao động 60,97%; doanh
thu 51,6%). Điều đó chứng tỏ năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp khu vực này
còn thấp do các yếu tố như quy mô vốn, năng lực quản lý, điều hành, khả năng
công nghệ, khả năng tiếp cận thị trường đều thấp hơn so với DNNN và DN FDI.
Bảng 3: Tỷ suất lợi nhuận của các khu vực doanh nghiệp
Đơn vị tính: %
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu Tỷ suất lợi nhuận trên vốn sxkd
Năm 2010 2011 2012 2010 2011 2012
DNNN 5,31 5,18 5,59 2,87 2,98 3,17
DN ngoài NN 2,71 1,48 1,15 1,86 1,11 0,86
DN FDI 8,84 5,06 4,85 6,58 4,41 4,43
Nguồn: Tổng Cục Thống kê
1.5.3. Thị trường trong nước phát triển chậm, nguy cơ mất thị phần gia
tăng
Sau giai đoạn giảm sút, thị trường hàng hóa dịch vụ trong nước và xuất
khẩu năm 2013 có dấu hiệu phục hồi nhưng ở mức chậm. Ở trong nước, sức mua
của người dân vẫn chưa phục hồi, giá cả một số hàng hóa xuất khẩu giảm, thị
trường xuất khẩu gặp khó khăn do hàng rào kỹ thuật của các nước dựng lên ngày
càng gia tăng.
Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 2 tháng đầu năm 2014
tăng thấp, chỉ tăng 4,3% so với cùng kỳ năm 201326
. Chỉ số tồn kho ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo tuy giảm nhưng vẫn ở mức cao: tại thời điểm 12/2013
tăng 10,2% và Quý I/2014 tăng 13,4%. Trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho
cao như: chế biến sữa, sản xuất đường (tăng 44-46%); sản xuất da và sản phẩm
liên quan (tăng 53%); thuốc, hóa dược và dược liệu (tăng 61%). Chỉ số sử dụng
26
Nguồn: Tổng cục thống kê
16
lao động của các doanh nghiệp công nghiệp thời điểm 01/12/2013 chỉ tăng 0,8%
phản ánh các hoạt động sản xuất kinh doanh còn đang ở mức cầm chừng, chưa
được mở rộng. Sức cầu của nền kinh tế tiếp tục duy trì ở mức thấp. Tổng mức
hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2013 chỉ tăng 12,6% và là
mức tăng thấp nhất trong vòng bốn năm trở lại đây. Quý I/2014 chỉ tăng thấp ở
mức 10,2% so với cùng kỳ năm trước27
.
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu năm 2013 đạt
132,17 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm 201228
. Tuy nhiên thị phần xuất khẩu chủ
yếu đóng góp bởi khu vực doanh nghiệp FDI. Các doanh nghiệp trong nước chỉ
chiếm tỷ trọng 33% với mức tăng trưởng thấp 3,5% so với năm 2012. Trong khi
đó các doanh nghiệp FDI (không kể dầu thô) chiếm tỷ trọng tới 61,4% và tăng
26,8%. Xuất khẩu của khu vực này trong những năm gần đây luôn tăng mạnh,
mức tăng năm 2011 tăng 41%; năm 2012 tăng 31,1%; năm 2013 tăng 22,4%.
Về thị trường bán lẻ, kinh tế ngoài nhà nước hiện tham gia hoạt động kinh
doanh trên thị trường trong nước với tỷ trọng cao trong cơ cấu tổng mức bán lẻ
hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng. Tuy nhiên, các nhà bán lẻ nước ngoài
hiện chiếm tỷ trọng đến 40% với sự có mặt của nhiều tập đoàn phân phối hàng
đầu như: Metro (Đức), Casino (Pháp), Lion (Malaysia), Lotte (Hàn Quốc), Aeon
(Nhật) cùng nhiều thương nhân Trung Quốc. Các doanh nghiệp thương mại có
vốn đầu tư nước ngoài này đang phát triển mạnh do có tiềm lực tài chính dồi dào,
thương hiệu nổi tiếng và kinh doanh bài bản.
Bên cạnh đó, cam kết mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ từ 1/1/2015 khi
Việt Nam gia nhập WTO cùng với mức thuế quan giảm xuống 0% đối với nhiều
mặt hàng nhập khẩu trong thời gian tới khi Việt Nam tham gia Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ là những áp lực lớn cho các doanh nghiệp
trong nước duy trì thị phần và mở rộng thị trường trong thời gian tới. Thị trường
của doanh nghiệp Việt Nam cơ bản vẫn manh mún, nhỏ lẻ, thực hiện thương mại
theo hình thức truyền thống. Thương mại hiện đại như mua bán qua siêu thị,
thương mại điện tử, mua hàng trực tuyến… chiếm tỷ trọng nhỏ. Nguy cơ mất thị
trường ngay trên sân nhà đang hiện hữu với làn sóng “thôn tính” của các doanh
nghiệp FDI đối với các doanh nghiệp và thương hiệu Việt Nam.
1.5.4. Khả năng hấp thụ vốn thấp, doanh nghiệp khó tiếp cận vốn
Trong giai đoạn 2011-2013, chính sách tiền tệ về cơ bản được điều hành
linh hoạt, chặt chẽ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát. Lãi suất
cho vay tại các ngân hàng thương mại được điều chỉnh giảm dần nhằm tháo gỡ
27
Nguồn: Như trên 28
Nguồn: Như trên
17
khó khăn cho doanh nghiệp. Tỷ trọng các khoản dư nợ có lãi suất cao đã được
giảm xuống. Đến cuối năm 2013, tỷ trọng dư nợ cho vay bằng VNĐ cụ thể có
mức lãi suất dưới 10% chiếm tỷ trọng 31,91%; từ 10-13%/năm là 48,37%, từ 13-
15%/năm là 13,42%; trên 15%/năm chiếm tỷ trọng 6,3%. Cơ cấu tín dụng tiếp
tục tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên theo
chủ trương của Quốc hội, Chính phủ29
.
Mặc dù lãi suất giảm nhưng khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp thấp.
Tăng trưởng tín dụng đến 20/3/2014 ước chỉ tăng 0,61% so với tháng trước và
giảm 0,57% so với tháng 12 năm 2013 (cùng kỳ năm 2013 tăng 0,03%). Đặc biệt,
tín dụng cho các DNNVV tăng trưởng rất chậm (cả năm 2013 ước chỉ tăng
0,95% so với cuối năm 2012). Như vậy, tốc độ tăng trưởng tín dụng không những
chưa có sự cải thiện so với cùng kỳ nằm trước mà còn có dấu hiệu giảm sút.
Thực tế này cho thấy nền kinh tế chưa cho thấy dấu hiệu phục hồi rõ nét,
nhu cầu tín dụng cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và nền kinh tế
còn thấp do khó khăn về vấn đề giải quyết nợ xấu, hàng tồn kho và sức cầu thấp
của nền kinh tế. Doanh nghiệp có xu hướng co cụm hoặc e ngại vay vốn, mở
rộng sản xuất dẫn đến tình trạng dư thừa tín dụng của các ngân hàng.
Biểu 11: Tăng trưởng tín dụng hàng năm giai đoạn 2006-2013.
2014*: Số liệu tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán tháng 01/2014, tăng trưởng tín dụng Quý 1/2014.
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Ngoài ra, doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn
ngân hàng. Doanh nghiệp muốn được vay vốn ngân hàng phải có hồ sơ pháp lý;
tài chính và hoạt động sản xuất - kinh doanh; vay vốn; tài sản đảm bảo... nhưng
rào cản vướng nhất là hồ sơ về tài sản đảm bảo.
Số lượng DNNVV, đại diện chủ yếu cho khu vực doanh nghiệp ngoài nhà
nước, còn dư nợ tại các tổ chức tín dụng liên tục giảm trong các năm gần đây:
29Đến cuối năm 2013, tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tăng khoảng 18%, lĩnh vực xuất khẩu
tăng 3,65%; công nghiệp hỗ trợ tăng 12,52%; doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng 26,94% so với cuối
năm 2012.
18
năm 2011 là 126.245 DN; 2012 là 126.030 DN; đến 30/09/2013 là 124.996 DN,
giảm 1.249 DN so với thời điểm 31/12/2011. Tổng dư nợ cho vay cũng giảm: tại
thời điểm 31/12/2012 là 643.382 tỷ đồng; đến 30/09/2013 là 637.114 tỷ đồng,
giảm 6.268 tỷ đồng30
.
Các giải pháp chính sách của ngân hàng Nhà nước nhằm tháo gỡ khó khăn
cho khu vực doanh nghiệp về xử lý nợ xấu, giảm rào cản về điều kiện tín dụng
chưa phát huy được tác dụng. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng tăng từ
4,08% (cuối năm 2012) đến 4,73% tổng dư nợ tín dụng vào tháng 10/2013.
Trong thời gian vừa qua doanh nghiệp đã thế chấp hết các tài sản đã có và
hiện nay không thể dùng hàng tồn kho làm tài sản thế chấp để đảm bảo cho vay
nữa. Vì vậy trong khi số lượng và dư nợ tín dụng của DNNVV giảm thì tổng giá
trị tài sản đảm bảo cho dư nợ tăng liên tục: 2011 là 994 nghìn tỷ đồng (chiếm
161% dư nợ); 2012 ở mức 1.058 nghìn tỷ đồng (chiếm 164% dư nợ); tại thời
điểm 30/9/2013 đạt 1.138 nghìn tỷ đồng (chiếm 178% dư nợ)31. Thêm vào đó,
bảo lãnh vay vốn không phát triển32
. Vì vậy dù lãi suất cho vay hạ, nguồn vốn
của ngân hàng có thừa, doanh nghiệp vẫn khó có cơ hội tiếp cận nguồn vốn vay
cho đầu tư, sản xuất kinh doanh trong bối cảnh sức mua của thị trường, tồn kho
chưa cải thiện nhiều.
II- Tình hình triển khai các giải pháp của Chính phủ và một số vấn đề
đặt ra trong công tác phát triển doanh nghiệp giai đoạn tới
2.1. Đánh giá chung
Kể từ năm 2010 đến nay, sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế toàn cầu đã khiến các doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp quy
mô nhỏ và vừa trải qua một giai đoạn khó khăn, nhiều doanh nghiệp đã không
duy trì được sản xuất kinh doanh dẫn tới tình trạng ngừng hoạt động, giải thể phá
sản.
Trước bối cảnh đó, Đảng, Chính phủ đã nỗ lực tập trung, quyết liệt trong
việc triển khai thực hiện các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh
nghiệp ổn định sản xuất kinh doanh và phát triển. Hàng loạt các Nghị quyết, văn
bản luật, chính sách được ban hành quy định các giải pháp đồng bộ từ ổn định
kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, điều chỉnh lãi suất cho đến các hành động cụ
thể như giãn, giảm thuế, hỗ trợ tìm kiếm thị trường đầu ra, hỗ trợ tiếp cận vốn,
30
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 31
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 32
Theo báo cáo của Ngân hàng phát triển Việt Nam và các ngân hàng thương mại, từ năm 2012 đến nay 9/2013
không có DNNVV được bảo lãnh để vay vốn.
19
mặt bằng sản xuất kinh doanh v.v…đã phần nào tháo gỡ các khó khăn cho cộng
đồng doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực ngoài nhà
nước. Cụ thể hơn, ngày 7/9/2012, Chính phủ đã ban hành Quyết định 1231/QĐ-
TTg phê duyệt Kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2011-2015 nhằm đưa ra
một loạt các nhóm giải pháp, chương trình cụ thể để hỗ trợ DNNVV. Đánh giá
chung về tình hình triển khai các chính sách, chương trình hỗ trợ trong giai vừa
qua như sau:
- Sự quan tâm tới hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp ngoài nhà nước, đặc biệt
là DNNVV ngày càng được nâng cao, thể hiện qua các chính sách, chương trình
hỗ trợ khu vực này. Tuy nhiên, sự quan tâm đó tại các địa phương còn chưa đồng
đều, chưa tương xứng với vai trò của khu vực này.
- Môi trường kinh doanh, khung pháp lý hoạt động cho doanh nghiệp ngày
càng được chú trọng, cải thiện. Các địa phương có nhiều hành động cụ thể, tích
cực nhằm thu hút đầu tư, đơn giản hóa quy trình thủ tục hành chính thông qua cơ
chế 1 cửa, giảm thiểu thanh, kiểm tra chồng chéo giữa các cơ quan để thuận lợi
cho doanh nghiệp hoạt động, đặc biệt trong các lĩnh vực thuế, đất đai, xây dựng.
- Các chương trình hỗ trợ thực hiện ở các tỉnh phần nhiều mang tính rời
rạc, theo nhiệm vụ với cách làm truyền thống mà chưa có sự chủ động, liên kết
giữa các chương trình. Các chương trình mang tính tuyên truyền, phổ biến thông
tin được triển khai tốt, tích cực (như Chương trình đào tạo nguồn nhân lực,
chương trình hỗ trợ thông tin, xúc tiến thương mại cho DNNVV, chương trình hỗ
trợ pháp lý cho doanh nghiệp). Một số chương trình với sự phức tạp hơn, đòi hỏi
sự chủ động hơn (như các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới khoa học
công nghệ, bảo lãnh tín dụng…) còn triển khai chậm, số lượng doanh nghiệp tiếp
cận được rất hạn chế.
- Hầu hết các tỉnh thiếu công cụ để đánh giá tác động của chương trình hỗ
trợ tới sự phát triển của doanh nghiệp. Báo cáo từ các chương trình chỉ dừng lại ở
tình hình thực hiện, số lượng doanh nghiệp, số lượng lao động được hưởng lợi từ
chương trình chứ chưa có phân tích đánh giá tác động, hiệu quả mà các chương
trình hỗ trợ mang lại cho doanh nghiệp.
Tình hình thực hiện các chương trình, chính sách cụ thể như sau:
2.1.1. Môi trường kinh doanh đã có những cải thiện đáng kể tạo điều
kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh
Sau khi Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư 2005 có hiệu lực, doanh nghiệp
Việt nam đã có những bước tiến vượt bậc về cả số lượng và quy mô như đã phân
tích ở trên. Các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong gia nhập thị trường, triển khai
các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh. Các quy định về thuế cũng được hoàn
20
thiện trong Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật Thuế giá trị gia tăng năm
2008.
Tuy nhiên, sau gần 10 năm triển khai thi hành, bên cạnh những kết quả tích
cực, các quy định trên bộc lộ nhiều hạn chế bất cập, không phù hợp với sự phát
triển của doanh nghiệp. Chính phủ đang tiến hành sửa đổi các Luật trên để tạo
môi trường thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh.
Cụ thể, dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) và Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) đang được
gấp rút hoàn thiện để giải quyết những hạn chế như: lĩnh vực, địa bàn khuyến
khích đầu tư quy định còn dàn trải, thiếu tính thống nhất và chưa thực sự hướng
mạnh vào việc thu hút các dự án đầu tư có chất lượng và hiệu quả; các quy định
về điều kiện và thủ tục đầu tư, kinh doanh còn thiếu tính minh bạch, thiếu khả thi
và đồng bộ, chưa thực sự tạo lập được một mặt bằng pháp lý bình đẳng cho nhà
đầu tư trong nước và nước ngoài, chưa tương thích với thông lệ quốc tế tốt nhất
đồng thời chưa có cơ chế để đảm bảo thực hiện một cách nhất quán và hiệu quả
các cam kết quốc tế của Việt Nam.
Dự kiến dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) và Luật Đầu tư (sửa đổi) sẽ
trình Quốc hội vào tháng 5/2014 và theo kế hoạch sẽ được Quốc hội thông qua
vào tháng 11/2014, có hiệu lực từ 1/7/2015.
Luật thuế Giá trị gia tăng (GTGT) số 31/2013/QH10 được Quốc hội thông
qua và có hiệu lực thi hành từ 1/1/2014, trong đó một số nội dung quan trọng
được sửa đổi theo hướng tạo điều kiện cho DNNVV như: (i) hàng hóa, dịch vụ
của hộ, cá nhân kinh doanh có mức doanh thu hàng năm từ một trăm triệu trở
xuống thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT; (ii) quy định cụ thể hơn về cách
tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp
trên giá trị gia tăng (cách xác định, đối tượng áp dụng, tỷ lệ % để tính thuế GTGT
theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng theo từng trường hợp).
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số 32/2013/QH10 sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp được Quốc hội thông qua và có hiệu
lực thi hành từ 1/1/2014, trong đó quy định: (i) Mức thuế suất phổ thông là 22%.
Riêng doanh nghiệp có doanh thu bình quân năm dưới 20 tỷ đồng thì áp dụng
thuế suất 20% kể từ ngày 1/7/2013; (ii) bổ sung chính sách ưu đãi thuế đối với
lĩnh vực khoa học và công nghệ, công nghệ cao … để khuyến khích, hỗ trợ doanh
nghiệp đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ.
Bên cạnh đó, một loạt các văn bản Luật liên quan khác như: dự thảo Luật
Phá sản (sửa đổi), Luật Hải quan (sửa đổi), Luật ngân sách nhà nước (sửa đổi),
Luật Đầu tư công, Luật quản lý ngoại thương, Luật quản lý, sử dụng vốn nhà
nước vào sản xuất, kinh doanh v.v… đều đang được gấp rút hoàn thiện để trình
Quốc hội ban hành nhằm hoàn thiện một bước môi trường kinh doanh cho doanh
nghiệp.
2.1.2. Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận tài chính, tín dụng và nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn
21
Lãi suất đã được điều chỉnh giảm đáng kể nhưng tiếp cận tín dụng từ hệ thống ngân hàng thương mại vẫn còn hạn chế
Trong giai đoạn 2011-2013, NHNN đã điều hành lãi suất theo hướng phù
hợp với diễn biến lạm phát, thị trường tiền tệ, kểm soát và điều tiết lãi suất thị
trường ở mức hợp lý nhằm đảng bảo khả năng huy động vốn của TCTD, góp
phần ổn định thị trường tiền tệ và tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng.
Từ năm 2011, NHNN đã thực hiện 08 lần điều chỉnh giảm các mức lãi suất
điều hành của NHNN; theo đó, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 14%/năm xuống còn
7%/ năm, lãi suất tái chiết khấu giảm từ 12%/năm xuống còn 5%/năm, lãi suất
qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt
trong thanh toán bù trừ giảm từ 15%/năm xuống còn 8%/năm.
Mặc dù lãi suất được điều chỉnh giảm nhưng số lượng DNNVV tiếp cận tín
dụng tính đến ngày 30/9/2013 chỉ đạt 124.996 DN trên tổng số 348.342 DN đang
hoạt động (đến cuối năm 2012), chiếm 35,8%, Bảng 4 dưới đây cho thấy tình
hình tiếp cận tín dụng và tình hình nợ xấu của khu vực DNNVV tại các ngân
hàng thương mại giai đoạn 2011-2013:
Bảng 4. Kết quả đầu tư tín dụng đối với các DNNVV giai đoạn 2011-2013:
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu 31/12/2011 31/12/2012 30/09/2013
1. Tổng số DNNVV còn dư nợ 126.245 126.030 124.996
2. Tổng số dư nợ tín dụng DNNVV 615.514.202 643.382.299 637.114.448
2.1. Phân loại theo thời hạn cho vay 615.514.202 643.382.299 637.114.448
- Ngắn hạn 401.627.514 425.643.779 428.081.243
- Trung hạn 213.886.689 217.738.520 209.033.205
2.2. Phân loại theo tiền 615.514.202 643.382.299 637.114.448
- VNĐ 511.554.755 552.589.648 562.774.437
- Bằng ngoại tệ ( quy VNĐ) 103.959.448 90.792.650 74.340.011
2.3 Nợ xấu 23.977.821 32.396.974 36.167.841
3.Tổng giá trị TSĐB đảm bảo cho
tổng dư nợ DNNVV
994.209.821 1.057.977.558 1.138.425.679
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Tuy nhiên, trong tổng dư nợ thì chủ yếu các doanh nghiệp vay ngắn hạn
nhằm cung ứng vốn lưu động trong kinh doanh như: mua nguyên vật liệu sản
xuất, chi trả lương…, với đặc điểm vòng quay thu hồi vốn nhanh. Đối với các
khoản vay trung, dài hạn chủ yếu nhằm tài trợ cho các nhu cầu đầu tư mua sắm
thiết bị máy móc, đổi mới dây chuyền công nghệ.
- Về chất lượng tín dụng:
22
Nợ xấu của các DNNVV từ năm 2011-2013 đã tăng cả về giá trị lẫn tỷ lệ
trên tổng dư nợ. Nợ xấu của các DNNVV đă tăng từ 23.977 tỷ đồng năm 2011
lên 32.397 tỷ đồng năm 2012 và tại thời điểm 30/9/2013 là 36.168 tỷ đồng. Về tỷ
lệ nợ xấu trên tổng dư nợ năm 2011 là 3,9%, năm 2012 là 5%, thời điểm
30/9/2013 là 5,7%33
. Vấn đề khó khăn trong hoạt động của các DNNVV cũng
làm giảm khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng.
- Về tổng giá trị tài sản đảm bảo của các DNNVV:
Tổng giá trị tài sản đảm bảo cho dư nợ của các DNNVV đã tăng liên tục
qua các năm từ 2011-2013. Tổng giá trị đảm bảo cho dư nợ của các DNNVV
năm 2011 là 994 nghìn tỷ đồng (chiếm 161% dư nợ). Đến năm 2012 tăng 64 tỷ
đồng so với 31/12/2011 và ở mức 1.058 nghìn tỷ đồng (chiếm 164% dư nợ). Tại
thời điểm 30/9/2013 tổng giá trị tài sản đảm bảo đạt 1.138 nghìn tỷ đồng (chiếm
178% dư nợ) và tiếp tục tăng 80 tỷ đồng so với 31/12/201234
. Tuy nhiên, nếu
đánh giá lại theo giá thị trường, thời điểm hiện nay thì giá trị tài sản đảm bảo sẽ
giảm thấp hơn nhiều và khó có khả năng xử lý do tài sản có đặc thù và khả năng
thanh khoản của nền kinh tế từng thời kỳ.
Hoạt động bảo lãnh chưa được triển khai hiệu quả, số lượng doanh
nghiệp, đặc biệt là DNNVV được bảo lãnh còn rất hạn chế:
- Về bảo lãnh của Ngân hàng Phát triển cho DNNVV vay vốn tại NHTM:
ngày 10/1/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 03/2011/QĐ-TTg
về Quy chế bảo lãnh cho DNNVV vay vốn tại NHTM thay thế Quyết định số
14/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 và Quyết định số 60/2009QĐ-TTg sửa đổi,
bổ sung Quyết định 14/2009/QĐ-TTg. Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ cũng
đã ban hành Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg ngày 15/10/2013 thay thế Quyết
định số 193/2011/QĐ –TTg ngày 20/12/2011 về quy chế thành lập, tổ chức và
hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV nhằm tạo thuận lợi cho doanh
nghiệp hơn. Chính sách bảo lãnh tín dụng cho DNNVV ra đời từ năm 2001 và
được kỳ vọng sẽ tháo gỡ bớt khó khăn cho DNNVV trong tiếp cận vốn tín dụng.
Tuy nhiên, hơn 10 năm từ khi có Quy chế, hiện nay cả nước mới chỉ có 11
tỉnh, thành phố thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV và hoạt động của
các Quỹ bảo lãnh tín dụng này còn rất hạn chế, rất ít các DNNVV được bảo lãnh.
Hoạt động bảo lãnh cho DNNVV vay vốn tại NHTM do Ngân hàng Phát
triển Việt Nam thực hiện còn khiêm tốn. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước
tính đến tháng 9/2013, tổng dư nợ tín dụng của DNNVV tại các ngân hàng
33
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 34
Nguồn: Như trên
23
thương mại là hơn 637 nghìn tỷ đồng. Trong khi số dư bảo lãnh được Ngân hàng
Phát triển Việt Nam chấp thuận chỉ ở mức 2,4 nghìn tỷ đồng (chiếm 0,37%) cho
thấy Ngân hàng Phát triển Việt Nam chưa quan tâm tới DNNVV.
Bảng 5. Số liệu cho vay có bảo lãnh cho các DNNVV của Ngân hàng
Phát triển Việt Nam
Đơn vị: Doanh nghiệp, Tỷ đồng
Năm
Bảo lãnh của NHPT Cho vay của NHTM Số tiền
NHPT
trả thay
lũy kế
(tỷ
đồng)
Số tiền
NHPT
từ chối
trả thay
luỹ kế
(tỷ
đồng)
Số DN
được
chấp
nhận
bảo
lãnh
(DN)
Tổng
số tiền
thông
báo
chấp
thuận
bảo
lãnh
(tỷ
đồng)
Số dư
bảo
lãnh
cuối
kỳ
(tỷ
đồng)
Số
doanh
nghiệp
được
chấp
nhận
cho vay
(DN)
Tổng
tiền ký
HĐTD
(tỷ
đồng)
Dư nợ
cuối
kỳ
(tỷ
đồng)
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8)
2011 5 33 2.536 12 80 1.174 111 153
2012 0 0 2.047 0 0 1.119 236 168
9/2013 0 0 2.432 0 0 1.009 272 188
Nguồn: Ngân hàng Phát triển Việt Nam
Tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp ngoài nhà nước tiếp cận tín dụng thông
qua Quỹ Phát triển DNNVV
Hiện nay, chủ yếu nguồn tín dụng cho doanh nghiệp là vốn tự có của
doanh nghiệp và từ vốn vay của các ngân hàng thương mại. Giai đoạn kinh tế khó
khăn vừa qua đã bộc lộ nhiều bất cập khi các doanh nghiệp gần như không thể
tiếp cận các nguồn vốn khác ngoài vốn vay từ ngân hàng thương mại. Do đó, việc
tăng cường các nguồn vốn khác để doanh nghiệp có nhiều kênh tiếp cận là một
trong những giải pháp tăng cường hỗ trợ tín dụng cho doanh nghiệp, đặc biệt là
doanh nghiệp ngoài nhà nước.
Ngày 17/4/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 601/QĐ-TTg
về việc thành lập Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) nhằm mục
tiêu hỗ trợ các DNNVV có dự án, phương án sản xuất kinh doanh khả thi thuộc
lĩnh vực ưu tiên, khuyến khích của Nhà nước, nâng cao năng lực cạnh tranh, góp
phần làm tăng thu nhập, tạo việc làm cho người lao động. Hiện nay, Chính phủ
đang hoàn thành các thủ tục để Quỹ đi vào hoạt động.
24
2.1.3. Các hoạt động hỗ trợ đổi mới công nghệ và áp dụng công nghệ
mới trong doanh nghiệp được tăng cường đẩy mạnh nhưng triển khai vẫn còn
chậm, số lượng doanh nghiệp tiếp cận các chương trình còn ít
Trong giai đoạn qua, hàng loạt những chính sách, chương trình nhằm
khuyến khích và thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới, ứng dụng khoa học công nghệ
vào sản xuất kinh doanh đã được Chính phủ ban hành. Trong số 9 chương trình
quốc gia về phát triển khoa học công nghệ đã được phê duyệt, có một số chương
trình, hoạt động liên quan nhiều đến hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp như Chương
trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 202035; Chương trình hỗ trợ phát
triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2011-201536, Chương trình quốc gia nâng cao năng
suất và chất lượng sản phẩm sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đến
năm 202037
.v.v.
Những chính sách, chương trình trên là một trong những giải pháp rất quan
trọng để thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới, sáng tạo, nâng cao hàm lượng tri thức,
giá trị gia tăng cho sản phẩm, dịch vụ để có thể trụ vững trong bối cảnh khó khăn
hiện nay của nền kinh tế. Nhiều chính sách đã đem lại tác động thuận lợi cho
doanh nghiệp như với chính sách đăng ký quyền sở hữu công nghiệp, trong giai
đoạn 2011-2013 đã có hơn 50.000 đơn đăng ký sở hữu công nghiệp, trong đó có
hơn 24.000 lượt doanh nghiệp được tư vấn và hơn 36.000 đơn vị được cấp bằng
bảo hộ; các hoạt động chuyển giao công nghệ thông qua 3 kỳ Techmart (2011-
2013) trong nước đã thu hút hơn 1000 đơn vị tham gia với tổng giá trị ký kết là
2.232 tỷ đồng; các khóa đào tạo về tiêu chuẩn hóa, năng suất chất lượng cũng
được tích cực tổ chức nhằm tuyên truyền, phổ biến kiến thức về năng suất chất
lượng; đào tạo bồi dưỡng kiến thức và hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng
và áp dụng các hệ thống quản lý, mô hình, công cụ cải tiến năng suất và chất
lượng.
Tuy nhiên, phần lớn các Chương trình này được xây dựng và phê duyệt
trong giai đoạn 2010-2011 và đang trong giai đoạn bắt đầu triển khai thực hiện
nên kết quả chưa được thể hiện rõ và tác động đến các doanh nghiệp chưa nhiều.
Cụ thể như Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2011-2015
được phê duyệt theo Quyết định số 2204/QĐ-TTg được sự quan tâm lớn của
cộng đồng doanh nghiệp, nhưng tính đến tháng 8/2013, Chương trình mới chỉ
phê duyệt triển khai 11 dự án áp dụng sáng chế. Tuy nhiên, 11 dự án trong 3 năm
triển khai là chưa đủ, chưa đáp ứng được nhu cầu của hơn 400.000 doanh nghiệp
đang hoạt động. Hoặc sau 6 năm triển khai Nghị định 80/2007/NĐ-CP về doanh
35
Được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2457/QĐ-TTg ngày 31/12/2010. 36
Được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2204/QĐ-TTg ngày 06/12/2010. 37
Được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 712/QĐ-TTg ngày 31/5/2010.
25
nghiệp khoa học công nghệ, tính hết tháng 6/2013, cả nước chỉ có 62 doanh
nghiệp được cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp Khoa học và công nghệ và có
khoảng 40 doanh nghiệp đang thẩm định hồ sơ.
2.1.4. Phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quản trị cho doanh
nghiệp
Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho DNNVV đã nhận được
sự ủng hộ, quan tâm của các Bộ, tổ chức hiệp hội và sự đồng thuận của cộng
đồng DNNVV. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho DNNVV đã
tạo được sự phát triển lớn về chiều rộng và từng bước hướng vào đào tạo có trọng
tâm, trọng điểm và vào chất lượng đào tạo. Trong 3 năm 2011-2013, kết quả từ
hoạt động này như sau:
Bảng 6. Kết quả chương trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực 2011-2013
Số khóa đào
tạo
Số học viên Kinh phí
NSTW hỗ trợ
(triệu đồng)
Năm 2011 189 7.636 10.814
Năm 2012 928 38.974 41.258
Năm 2013 900 35.838 41.071
Cộng 2.017 72.448 93.143
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Một kết quả rõ nét là hầu hết các học viên đều cho rằng, khả năng và năng
lực kinh doanh của họ được cải thiện đáng kể sau khi tham dự các khóa đào tạo.
Sự tự tin trong quản lý và điều hành hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh
nghiệp là tiến bộ rõ rệt nhất. Chương trình này đã góp phần tạo sự chuyển biến
tích cực về nhận thức của các cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp về hoạt động
đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, sự cần thiết phải xây dựng kế hoạch, chiến
lược đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp. Hoạt động đào tạo triển khai tại
các đơn vị bước đầu mang lại hiệu quả và tác động nhất định cho các học viên,
đặc biệt là học viên tại các địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn tham gia
tích cực các khóa đào tạo.
Tuy nhiên, sau 3 năm triển khai, chương trình đã bộc lộ một số hạn chế
chính như sau: ngân sách dành cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
cho DNNVV còn hạn hẹp, mới chỉ đáp ứng một phần nhu cầu đào tạo của các
DNNVV; nội dung của các khóa đào tạo mới chỉ đáp ứng được nhu cầu cơ bản
về khởi sự doanh nghiệp, cũng như những kiến thức tổng quan về quản lý doanh
nghiệp. Nội dung thiết kế còn khá đơn giản, phương pháp giảng dạy còn đơn
điệu, thời gian thảo luận, giải đáp vướng mắc còn chưa nhiều; tổ chức có nhiệm
26
vụ triển khai hỗ trợ các DNNVV và đội ngũ cán bộ làm công tác trợ giúp bồi
dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực cho DNNVV còn thiếu và yếu.
2.1.5. Tháo gỡ khó khăn về mặt bằng sản xuất kinh doanh cho doanh
nghiệp chưa có bước tiến đột phát
Trong thời gian qua, các chính sách liên quan đến đất đai từng bước được
sửa đổi, bổ sung theo hướng ngày càng thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, đặc biết
là các DNNVV tiếp cận mặt bằng sản xuất kinh doanh. Để tạo quỹ đất cho các
doanh nghiệp thuê Bộ Tài Nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ,
ngành thống kê thu hồi đất hoang hóa, sử dụng không đúng mục theo Chỉ thị số
31/2007/CT-TTg ngày 14/12/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc kiểm kê quỹ
đất đang sử dụng của các tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, trong đó
có kiểm kê các doanh nghiệp thuộc đối tượng tổ chức kinh tế đang quản lý, sử
dụng mà được Nhà nước giao hoặc cho thuê đất.
Các chủ trương chính sách về cải thiện tình trạng thiếu mặt bằng sản xuất,
tăng cường bảo vệ môi trường thông qua việc lập và công khai quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất; tạo điều kiện phát triển các khu cụm công nghiệp có quy mô
hợp lý, có giá thuê phù hợp với khả năng của doanh nghiệp; hỗ trợ di dời các
doanh nghiệp gây ô nhiễm, tác hại đến môi trường tại các khu dân cư và đô thị
đến các khu cụm công nghiệp vẫn được chỉ đạo điều hành trong giai đoạn vừa
qua. Tuy nhiên, số liệu hay báo cáo đánh giá tác động từ chính sách đất đai hiện
nay chưa thật sự rõ ràng.
Tháng 11/2013, Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai (sửa đổi), trong đó 42
Điều quy định nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận đất để kinh doanh.
Trong đó, có 11 Điều quy định nhằm tạo kiện cho doanh nghiệp tiếp cận đất sạch
thông qua đấu giá quyền sử dụng đất.
2.1.6. Cung cấp thông tin, hỗ trợ xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị
trường và công tác kiểm soát hàng lậu, hàng giả, bảo vệ thị trường trong nước
Thông tin về các chương trình hỗ trợ, các quy định pháp lý liên quan đến
sản xuất kinh doanh được ngày càng được chú trọng quan tâm, cập nhật kịp thời,
minh bạch từ các cấp Trung ương tới địa phương qua các cổng thông tin điện tử
của mình.
Các hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường thuộc Chương
trình xúc tiến thương mại quốc gia38 đã hỗ trợ nguồn kinh phí quan trọng cho các
địa phương và tổ chức hiệp hội trong các ngành hàng thực hiện các hoạt động
xúc tiến thương mại (XTTM), hỗ trợ doanh nghiệp củng cố thị trường xuất khẩu
38
Được quy định tại Quyết định số 72/2010/QĐ-TTg ngày 15/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ.
27
và nội địa, góp phần thực hiện tốt các Nghị quyết của Chính phủ về những giải
pháp hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh và phát triển
thị trường.
Năm 2012, cả nước tổ chức hàng ngàn hoạt động TTM với nhiều hình
thức khác nhau. Trong đó, Chương trình TTM quốc gia đóng vai trò nòng cốt
đã tập trung nguồn kinh phí là 93,08 tỷ đồng cho 114 đề án, đạt tỷ lệ giải ngân là
99,1%. Chương trình đã hỗ trợ 4.596 doanh nghiệp, trong đó 90 % là DNNVV
tham gia với hơn 7.924 gian hàng, gần 677.582 lượt giao dịch, 28.879 hợp đồng,
số khách tham quan đạt 979.935 lượt người. Tổng giá trị hợp đồng và doanh số
đạt gần 1 tỷ USD và hơn 1.200 tỷ đồng.
Các chương trình năm 2013 tiếp tục hỗ trợ hàng nghìn lượt doanh nghiệp
trong việc duy trì quan hệ bạn hàng cũ và mở rộng quan hệ với nhiều đối tác mới,
phát triển thị trường, quảng bá hàng hóa và doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường
nội địa và thị trường thế giới. Ngoài ra, Bộ Công Thương cũng đã nghiên cứu
thực hiện Chiến lược xuất khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020, định hướng đến
năm 2030 (theo Quyết định số 2741/2011/QĐ-TTg) và xây dựng cổng thông tin
điện tử xúc tiến mở rộng thị trường.
Các hoạt động đưa hàng Việt về nông thôn, vận động Người Việt Nam ưu
tiên dùng hàng Việt Nam đã có nhiều dấu hiệu tích cực, góp phần nâng cao tổng
mức lưu chuyển hàng hóa của các doanh nghiệp. Mặc dù vậy, hệ thống phân phối
trong nước đối với hàng hóa của các doanh nghiệp, đặc biệt khối doanh nghiệp
ngoài nhà nước còn nhiều hạn chế. Hầu hết phân phối qua các cửa hàng bán lẻ
làm nâng chi phí, tăng giá thành khi đến tay người tiêu dùng.
Về bảo vệ thị trường trong nước, mặc dù Chính phủ triển khai các hoạt
động nhằm ổn định thị trường như bình ổn giá và chống buôn lậu, hàng giả, hàng
kém chất lượng; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý vi phạm trong kinh doanh nhưng
các hoạt động này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp. Lượng
hàng lậu, hàng giả tràn ngập thị trường, tạo thách thức lớn khiến các doanh
nghiệp phải cạnh tranh không công bằng ngay tại thị trường trong nước. Ngoài
ra, thực trạng chuỗi phân phối hiện nay chủ yếu bị chi phối và kiểm soát bởi các
công ty nước ngoài cũng là thách thức để hàng hóa của doanh nghiệp có thể thâm
nhập vào các chuỗi này.
2.2. Một số vấn đề đặt ra trong công tác hỗ trợ doanh nghiệp
Mặc dù đã có sự nỗ lực to lớn của Chính quyền các cấp như khẳng định ở
trên, các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó đa số là DNNVV vẫn có quy mô nhỏ,
năng lực cạnh tranh hạn chế và dễ bị tổn thương từ suy giảm kinh tế. Có thể kể
28
đến một số nguyên nhân chính khiến doanh nghiệp chưa phát huy được năng lực
để phát triển như sau:
- Môi trường kinh doanh mặc dù được cải thiện đáng kể vẫn tiềm ẩn sự bất
bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực giữa các khu vực kinh tế, do đó chưa tạo đủ
niềm tin và động lực để doanh nghiệp, đặc biệt d bỏ vốn đầu tư, dám làm và sáng
tạo. Môi trường kinh doanh thuận lợi không chỉ bao gồm tạo điều kiện cho doanh
nghiệp gia nhập, rút lui khỏi thị trường thuận lợi, mà còn tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh, tạo cơ hội công bằng để khuyến khích doanh nghiệp ở mọi
thành phần kinh tế dám chấp nhận rủi ro, bỏ vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh,
làm giàu cho mình và đất nước.
- Cơ cấu ngành chưa khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực
cần khuyến khích đầu tư. Trong những năm trước đây, vốn và nhân lực được
nhiều doanh nghiệp chuyển dịch, đầu tư vào một số ngành như tài chính, chứng
khoán, ngân hàng, bất động sản, trong khi đó các ngành kỹ thuật, công nghệ, cơ
khí thì không hấp dẫn được nhà đầu tư, sinh viên và người lao động. Do đó,
những ngành công nghiệp hỗ trợ, công nghệ cao thiếu nguồn đầu tư, thiếu nhân
lực có chất lượng để phát triển.
- Năng lực của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, chưa gia nhập vào chuỗi
giá trị toàn cầu: Chất lượng nhân lực thấp bao gồm cả nhân lực quản lý và người
lao động, thiếu hụt lực lượng lao động có tay nghề. Chất lượng quản trị điều hành
doanh nghiệp nhìn chung vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập. Doanh nghiệp thiếu
vốn đầu tư vào công nghệ, nhiều doanh nghiệp áp dụng công nghệ lạc hậu dẫn
đến năng suất thấp, giá thành cao, sức cạnh tranh kém.
- Nguồn lực dành cho trợ giúp doanh nghiệp còn hạn chế trong khi công
tác tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp còn mang tính dàn trải, phân tán và rời rạc. Đối
tượng thụ hưởng trong một số chính sách, chương trình trợ giúp chưa rõ ràng,
chưa có sự liên kết và tập trung cho một nhóm doanh nghiệp trọng điểm để phát
triển thành các doanh nghiệp lớn. Các doanh nghiệp chỉ nhận được một trong các
chương trình hỗ trợ, chưa mang tính tổng thể, toàn diện, do đó chưa tạo được tác
động cộng hưởng để doanh nghiệp có thể phát triển bền vững trên cơ sở năng lực
cạnh tranh ngày một cao hơn.
- Các địa phương chưa dành đủ quan tâm đến công tác hỗ trợ, phát triển
DNNVV: Kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2011-2015 được phê duyệt tại
Quyết định số 1231/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 7/9/2012 đã thực
hiện được hơn 1 năm với một số kết quả nhất định đạt được như trình bày ở trên.
Ở cấp trung ương, hầu hết các Bộ ngành nghiêm túc, tích cực triển khai các giải
pháp phê duyệt tại Kế hoạch và kịp thời báo cáo tình hình triển khai về Bộ Kế
29
hoạch và Đầu tư để tổng hợp, xử lý. Ở cấp địa phương có khoảng 70% (44/63)
tỉnh, thành phố xây dựng kế hoạch phát triển DNNVV của địa phương và có báo
cáo về tình hình thực hiện kế hoạch, các khó khăn, vướng mắc để Bộ Kế hoạch
và Đầu tư tổng hợp, hướng dẫn xử lý. Bên cạnh đó, khoảng 30% số địa phương
chưa phê duyệt và triển khai kế hoạch phát triển DNNVV của tỉnh cũng như chưa
có báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch.
- Chưa quan tâm đúng mức và chưa có chính sách phù hợp cụ thể đối với
việc mở rộng thị trường đầu tư cho khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước, đặc
biệt cho DNNVV, bao gồm cả thị trường mua sắm của Chính phủ và thị trường
tiêu dùng của dân cư. Chưa có đánh giá và nhìn nhận đúng mức tác hại nguy
hiểm của tình trạng gian lận thương mại, buôn lậu qua biên giới, hàng giả, hàng
kém chất lượng và sản phẩm độc hại đối với nền kinh tế, đặc biệt đối với
DNNVV.
Các vấn đề trên đặt ra thách thức cho Chính phủ và các Bộ ngành trong
việc xem xét, tìm ra cách thức hỗ trợ phát triển doanh nghiệp ngoài nhà nước và
DNNVV trong thời gian tới để huy động nguồn lực, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát
triển của khu vực này.
III- Một số định hướng, giải pháp phát triển doanh nghiệp trong thời
gian tới
3.1. Đẩy mạnh triển khai thực hiện các nhóm giải pháp đề ra tại Kế
hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2011-2015
3.1.1. Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, đẩy nhanh tiến độ trình và
ban hành Luật Đầu tư (sửa đổi) và Luật Doanh nghiệp (sửa đổi)
Tiếp tục hoàn thiện và đảm bảo tính ổn định khung pháp lý, cải cách thủ
tục hành chính, gia nhập và rút khỏi thị trường, tạo điều kiện, cơ chế để các
doanh nghiệp ngoài nhà nước được tiếp cận bình đẳng các nguồn lực về đất đai,
về vốn, công nghệ để ổn định sản xuất, phát triển kinh doanh.
Cần tiếp tục đẩy mạnh việc dự thảo, sửa đổi bổ sung và trình Quốc hội
thông qua các văn bản luật quan trọng liên quan đến môi trường pháp lý cho
doanh nghiệp như: Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), Luật Đầu tư (sửa đổi), Luật Phá
sản (sửa đổi), Luật Hải quan (sửa đổi), Luật đầu tư công, Luật ngân sách nhà
nước (sửa đổi), Luật quản lý ngoại thương, Luật Đầu tư và quản lý vốn đầu tư
của Nhà nước vào doanh nghiệp.
Việt sửa đổi Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư 2005 (2 bộ luật có vai trò
quan trọng tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp, dự kiến trình
30
Quốc hội trong tháng 10/2014) được hy vọng sẽ đem lại những kết quả khả quan
trong việc tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. Cụ thể:
Dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) thể hiện mạnh mẽ tinh thần “cởi
trói” cho kinh doanh. Một số điểm dự thảo sửa đổi quan trọng bao gồm: (1)
Doanh nghiệp có quyền tự chủ đăng ký và kinh doanh các ngành, nghề mà luật,
pháp lệnh và nghị định không cấm; (2) Bộ, cơ quan ngang bộ, HĐND và UBND
các cấp không được quy định ngành, nghề cấm kinh doanh, ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh; (3) Dự thảo cũng bãi bỏ việc bắt
buộc doanh nghiệp đăng ký ngành nghề kinh doanh.
Với quy định mới, quyền cấm kinh doanh và đặt ra điều kiện kinh doanh
chỉ thuộc về 3 chủ thể gồm Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính
phủ39
. Thay vì chỉ được hoạt động theo đúng ngành nghề đã ghi trong Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp được chủ động mở rộng ngành
nghề và chỉ phải thông báo thay đổi tới Cơ quan đăng ký kinh doanh. Đây thực
sự là một bước đột phá trong việc tạo thuận lợi cho hoạt động khởi nghiệp và
kinh doanh nói chung, khẳng định hơn nữa chủ trương người dân có quyền làm
tất cả những gì pháp luật không cấm và sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình; trong khi cơ quan Nhà nước và cán bộ, công chức chỉ
được làm những gì mà pháp luật cho phép. Nhà nước phải làm tốt chức năng kiến
tạo phát triển, pháp luật và cơ chế chính sách phải tạo thuận lợi nhất cho mọi
người dân và doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh.
Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) theo hướng tạo môi trường đầu tư thông
thoáng, thuận lợi, minh bạch để thu hút đầu tư; tạo bước chuyển biến mới về cải
cách thủ tục hành chính trong thực hiện dự án đầu tư; giải quyết những khó khăn
trong hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp. Trong đó có một số điểm nổi bật
như:
- Quy định không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư thuộc các thành
phần kinh tế. Trong trường hợp pháp luật thay đổi, các ưu đãi với nhà đầu tư sẽ
được duy trì;
- Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) đã bãi bỏ yêu cầu cấp giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư đối với tất cả dự án đầu tư trừ dự án thuộc lĩnh vực đầu tư có điều
kiện.
39
Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp 2005 dù được đánh giá là đã tạo ra bước đột phá về tư duy, từ
tư duy chỉ được kinh doanh trong phạm vi pháp luật cho phép sang tư duy người dân được quyền tự do kinh
doanh tất cả những lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Song trên thực tế, khái niệm “pháp luật” là rất rộng, hoạt
động kinh doanh vẫn chịu sự điều chỉnh của nhiều cấp văn bản qui định.Mặt khác, các luật này cũng quy định
doanh nghiệp phải hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã đăng ký
31
- Nhấn mạnh việc thiết lập cơ chế “một cửa” tiếp nhận hồ sơ và giải quyết
tập trung các thủ tục đầu tư, đất đai, xây dựng thông qua cơ quan cấp giấy chứng
nhận đăng ký đầu tư. Cơ quan cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu phải tư chịu
trách nhiệm tổ chức xem xét, lấy ý kiến các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban
nhân dân cấp tỉnh về các nội dung thẩm tra, mà không yêu cầu nhà đầu tư phải
đến từng cơ quan để thực hiện các thủ tục khác nhau.
Ngoài ra, việc xây dựng Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư và quản lý vốn đầu
tư của Nhà nước tại doanh nghiệp theo định hướng trên cũng tạo điều kiện cho
doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng khả năng tiếp cận nguồn lực đầu tư của Chính
phủ vốn được tập trung nhiều cho DNNN trước đây.
3.1.2. Tháo gỡ khó khăn, cải thiện tình trạng tiếp cận vốn, tín dụng cho
doanh nghiệp
Mặc dù thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến
khích các tổ chức tín dụng tăng cường cho vay cho các doanh nghiệp ngoài nhà
nước, DNNVV, tuy nhiên dư nợ cho vay đối với các doanh nghiệp này chưa đạt
được những kết quả như mong muốn do nhiều nguyên nhân như: hành lang pháp
lý cho hoạt động của các doanh nghiệp ngoài nhà nước, DNNVV và các chính
sách hỗ trợ chưa đầy đủ; báo cáo tài chính của DNNVV chưa theo chuẩn mực,
không được kiểm toán, các thông tin, số liệu chưa đầy đủ và thiếu tin cậy ảnh
hưởng đến việc ra quyết định cho vay cũng như chất lượng khoản vay; quy mô
nhỏ, năng lực tài chính hạn chế là những rào cản khiến các DNNVV gặp khó
khăn khi đáp ứng đủ các điều kiện vay vốn của ngân hàng v.v…
Do đó, để cải thiện thực trạng nói trên, các hỗ trợ của Chính phủ trong thời
gian tới cần tập trung để tăng cường năng lực cho doanh nghiệp, hỗ trợ, tư vấn,
đào tạo cho doanh nghiệp kỹ năng xây dựng kế hoạch, phương án kinh doanh khả
thi, cải thiện năng lực, độ tin cậy để đáp ứng yêu cầu vay vốn của ngân hàng và
các tổ chức tín dụng.
Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục chỉ đạo các tổ chức chủ động tiếp cận
DNNVV để tư vấn cho vay các dự án, phương án sản xuất kinh doanh có hiệu
quả, mở rộng loại hình cho vay dựa trên tín chấp và phương án kinh doanh. Tăng
cường công tác đào tạo cho cán bộ, đặc biệt là cán bộ tín dụng trong việc nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ thẩm định cho vay đối với các DNNVV; chủ
động xây dựng các chương trình tín dụng cho đối tượng khách hàng là DNNVV;
tăng cường cải cách thủ tục vay vốn để các DNNVV dễ dàng tiếp cận nguồn vốn
vay.
32
Bên cạnh nguồn vốn tín dụng ngân hàng, Bộ Tài chính cần chỉ đạo đẩy
mạnh triển khai các hoạt động hỗ trợ DNNVV thông qua Quỹ bảo lãnh tín dụng
tại Ngân hàng phát triển và hệ thống Quỹ Bảo lãnh tín dụng tại địa phương.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư sớm đưa Quỹ Phát triển DNNVV vào hoạt động
hỗ trợ phát triển doanh nghiệp.
3.1.3. Hình thành hàng rào kỹ thuật bảo vệ thị trường trong nước, kiểm
soát chuỗi phân phối đảm bảo đầu ra cho doanh nghiệp
Bộ Công Thương tăng cường công tác quản lý thị trường, giúp cho doanh
nghiệp trong nước có môi trường cạnh tranh lành mạnh, giải quyết vấn đề doanh
nghiệp trong nước phải cạnh tranh với hàng nhái, hàng kém chất lượng, giá rẻ từ
bên ngoài, phá vỡ tính lành mạnh của thị trường. Quản lý chặt chẽ chất lượng
hàng hóa nhập khẩu, đặc biệt là hàng tiểu ngạch để bảo vệ người tiêu dùng đồng
thời tạo cơ hội kinh doanh cho DNNVV. Bộ Công Thương cũng cần tăng cường
quản lý trong lĩnh vực bán lẻ nội địa, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong
nước đưa được sản phẩm, hàng hóa của mình vào hệ thống phân phối, đến được
tay người tiêu dùng trong nước; đồng thời bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp trong
nước, tránh tình trạng bị các đơn vị nước ngoài áp giá. Tăng cường quản lý và có
cơ chế hỗ trợ lĩnh vực này nhằm giúp cho sản phẩm và doanh nghiệp trong nước
có cơ hội mở rộng sản xuất, kinh doanh, từng bước tham gia vào chuỗi cung ứng
ở cấp độ toàn cầu. Thực hiện kích cầu nội địa, “Người Việt Nam dùng hàng Việt
Nam” hỗ trợ và bảo vệ sản xuất trong nước một cách lành mạnh và đúng theo qui
định của luật pháp quốc tế.
3.1.4. Cải thiện môi trường đầu tư thông qua hình thành và hoàn thiện cơ
chế một cửa 3 khâu đầu tư, xây dựng và đất đai
Hiện nay, các thủ tục đầu tư, đất đai, xây dựng cũng chưa được quy định
thống nhất, đồng bộ giữa các luật nên đã dẫn đến sự chồng chéo về mục tiêu, nội
dung quản lý, cơ quan thẩm định, phê duyệt, đồng thời không có sự kế thừa, công
nhận kết quả của nhau. Cơ chế “một cửa” đang thực hiện ở một số địa phương
mới chỉ thiết lập được quy trình một đầu mối trong tiếp nhận và trả kết quả thủ
tục hành chính, nhưng trên thực tế, nhà đầu tư vẫn phải nộp hồ sơ cho nhiều cơ
quan chuyên môn khác nhau của UBND cấp tỉnh để được giải quyết lần lượt thủ
tục hành chính theo quy định các luật khác nhau. Kết quả rà soát thủ tục hành
chính cho thấy, nhà đầu tư phải thực hiện trung bình 18 thủ tục liên quan đến đất
đai, xây dựng, môi trường để triển khai dự án đầu tư. Cộng đồng doanh nghiệp
cho rằng, thủ tục đầu tư, đất đai, xây dựng là chuỗi thủ tục tồn tại nhiều khó khăn
nhất cho doanh nghiệp và là một trong những “nút thắt” phải tháo gỡ nhằm tạo
môi trường thông thoáng, thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh.
33
Để giải quyết vấn đề trên, Dự thảo Luật Đầu tư sửa đổi đang được điều
chỉnh quy định về thủ tục thực hiện dự án đầu tư theo hướng thiết lập cơ chế một
cửa tiếp nhận hồ sơ và giải quyết tập trung các thủ tục đầu tư, đất đai, xây dựng
thông qua Cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Đây có thể giúp tháo gỡ
đáng kể khó khăn trong triển khai dự án đầu tư cho doanh nghiệp.
3.1.5. Hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh
tranh
Hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng
sản phẩm là một trong những giải pháp quan trọng để thúc đẩy doanh nghiệp đổi
mới, sáng tạo, nâng cao hàm lượng tri thức, giá trị gia tăng cho sản phẩm, dịch
vụ. Tuy nhiên, phần lớn các chương trình hỗ trợ mới được Bộ Khoa học và Công
nghệ đưa vào triển khai thực hiện trong 2 năm gần đây, tiến độ triển khai chậm,
quy mô nhỏ, chưa có tác động cụ thể đối với khu vực doanh nghiệp.
Do đó, trong giai đoạn từ nay đến năm 2015, Bộ Khoa học Công nghệ cần
tập trung chỉ đạo, đẩy nhanh tiến độ triển khai các chương trình chuyển giao, đổi
mới công nghệ, chương trình nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa,
năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đẩy nhanh việc triển khai thực hiện các
chương trình hỗ trợ, phổ biến, ứng dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến tới các
DNNVV, khuyến khích hợp tác và chia sẻ công nghệ giữa DNNVV với doanh
nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Khuyến khích DNNVV
tham gia các chương trình liên kết ngành, liên kết vùng và phát triển công nghiệp
hỗ trợ.
3.1.6. Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp
Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục triển khai hiệu quả hoạt động đào tạo, bồi
dưỡng quản trị kinh doanh cho các DNNVV. Bộ Lao động Thương binh và ã
hội (Tổng Cục dạy nghề) đẩy mạnh công tác đào tạo nghề đảm bảo cung cấp
nguồn nhân lực có kỹ năng cho doanh nghiệp. Chú trọng đào tạo nghề các ngành,
lĩnh vực sử dụng công nghệ cao để chuyển dịch cơ cấu lao động từ thô sơ sang
lao động có tay nghề trình độ, đáp ứng yêu cầu phát triển của DNNVV trong giai
đoạn mới. Khuyến khích doanh nghiệp thành lập hoặc liên kết với cơ sở dạy nghề
trong đào tạo và giải quyết việc làm. Phát triển đồng bộ thị trường lao động; phát
triển hệ thống cơ sở dữ liệu về thị trường lao động, các hình thức thông tin thị
trường lao động nhằm kết nối cung cầu lao động.
3.2. Thay đổi tư duy trong thực hiện chính sách trợ giúp phát triển
doanh nghiệp từ phân tán, cắt khúc sang đồng bộ và có trọng tâm, trọng điểm
34
Hiện nay các chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp được các cơ
quan bộ ngành từ trung ương đến địa phương thực hiện dựa trên các chương trình
mục tiêu riêng, chẳng hạn: Bộ Công Thương có chương trình hỗ trợ xúc tiến
thương mại quốc gia, Chương trình khuyến công cho doanh nghiệp; Bộ Khoa học
Công nghệ có Quỹ Phát triển Khoa học Công nghệ và Chương trình đổi mới công
nghệ quốc gia đến 2020; Bộ Kế hoạch và Đầu tư có Chương trình đào tạo trợ
giúp phát triển DNNVV; Bộ NN&PTNT có chương trình khuyến nông…Mặc dù
đều có đối tượng chung là doanh nghiệp, nhưng các hoạt động hỗ trợ này mang
tính dàn trải, phân tán dẫn đến hệ quả là một doanh nghiệp chỉ nhận được một
trong các hỗ trợ về đào tạo, về đổi mới công nghệ, về khuyến nông hoặc mở rộng
thị trường v.v…Trong khi các doanh nghiệp ngoài nhà nước nhỏ và vừa với quy
mô và năng lực hạn chế đòi hỏi có sự hỗ trợ tổng thể, toàn diện về nhiều mặt mới
có đủ khả năng cạnh tranh để gia nhập thị trường.
Trong điều kiện ngân sách nhà nước có hạn, hoạt động hỗ trợ phát triển
doanh nghiệp ngoài nhà nước, DNNVV cần thực hiện có trọng tâm, trọng điểm,
tập trung vào nhóm các doanh nghiệp bám theo chuỗi giá trị trên cơ sở tạo lập
liên kết giữa các ngành, vùng, giữa doanh nghiệp nhỏ với doanh nghiệp lớn, phát
triển theo chuỗi giá trị bền vững. Do đó, việc triển khai thực hiện các chính sách,
chương trình trợ giúp cho doanh nghiệp thời gian tới cần được tiến hành đồng bộ,
có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành, địa phương với vai trò đầu mối của
một cơ quan điều phối chung về DNNVV, đảm bảo nguồn lực không bị phân tán
và hiệu quả của công tác hỗ trợ cũng có thể đo đếm được./.