69
Bardo - Nghệ thuật sinh tử Bardo – Nghệ Thuật Sinh Tử: 1. Khổ Đế Nền tảng Phật pháp căn bản ứng dụng trong đời sống Trong quá khứ, Đức Phật Thích Ca từng lấy hình ảnh bánh xe làm biểu tượng cho cuộc sống với hàm ý rằng cuộc sống dưới góc độ tương đối cũng giống như bánh xe và chính là vòng luân hồi; đồng thời, hình ảnh bánh xe hay Pháp luân cũng là biểu tượng cho giáo pháp và sự hiển bày chân lý tuyệt đối của vũ trụ. Ý nghĩa Phật pháp như thế chính là quá trình trưởng dưỡng tâm linh của mỗi cá nhân, giúp chúng ta tận dụng cuộc sống và năng lực quý giá của thân người để không ngừng tu tập và hoàn thiện bản thân, hợp nhất cuộc sống với hành trình giải thoát giác ngộ. Cốt tủy của giáo lý Bardo hay Nghệ thuật sinh tử chính là hợp nhất tu tập thực hành vào trong chính đời sống này. Nếu bạn có thể giác ngộ ngay trong cuộc sống thì chắc chắn có thể giác ngộ trước tiến trình chết. Bậc Giác ngộ là người đã chuẩn bị sẵn sàng, viên mãn cho hành trình giải thoát thông qua cái

Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Hành trình tìm hiểu cái nội tại trong mình tức là đang sống thành thật với mình và vũ trụ

Citation preview

Page 1: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Bardo - Nghệ thuật sinh tử

Bardo – Nghệ Thuật Sinh Tử: 1. Khổ Đế

Nền tảng Phật pháp căn bản ứng dụng trong đời sống

Trong quá khứ, Đức Phật Thích Ca từng lấy hình ảnh bánh xe làm biểu tượng

cho cuộc sống với hàm ý rằng cuộc sống dưới góc độ tương đối cũng giống như

bánh xe và chính là vòng luân hồi; đồng thời, hình ảnh bánh xe hay Pháp luân cũng

là biểu tượng cho giáo pháp và sự hiển bày chân lý tuyệt đối của vũ trụ. Ý nghĩa

Phật pháp như thế chính là quá trình trưởng dưỡng tâm linh của mỗi cá nhân, giúp

chúng ta tận dụng cuộc sống và năng lực quý giá của thân người để không ngừng tu

tập và hoàn thiện bản thân, hợp nhất cuộc sống với hành trình giải thoát giác ngộ.

Cốt tủy của giáo lý Bardo hay Nghệ thuật sinh tử chính là hợp nhất tu tập thực hành

vào trong chính đời sống này. Nếu bạn có thể giác ngộ ngay trong cuộc sống thì

chắc chắn có thể giác ngộ trước tiến trình chết. Bậc Giác ngộ là người đã chuẩn bị

sẵn sàng, viên mãn cho hành trình giải thoát thông qua cái chết ngay trong cuộc

sống hiện đời. Cái chết với các Ngài là cơ hội giải thoát lớn lao!

Như vậy, toàn bộ quá trình trưởng dưỡng tâm linh, thực hành Phật pháp trong

đời sống là sự chuẩn bị cho cái chết. Quá trình chuẩn bị này được thực hiện theo lời

dạy của đức Phật qua nền tảng giáo pháp Tam thừa, với những giáo pháp căn bản

Page 2: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

nhất của Nguyên thủy Phật giáo (Tứ Diệu đế, Thập nhị nhân duyên, Bát chính

đạo…) kết hợp với tinh thần vô ngã vị tha của Đại thừa Phật giáo thể hiện qua tu tập

trưởng dưỡng Bồ đề tâm, biến hành trình tâm linh của mỗi cá nhân thành con

đường hành Bồ tát đạo vì lợi ích vô lượng hữu tình. Sau cùng, những pháp thực

hành vô cùng thiện xảo, thù thắng của Kim Cương thừa như sám hối tịnh hóa, Guru

Yoga, Yoga Bản tôn, Sáu Yoga của Naropa, Thiền Đại Thủ Ấn,… sẽ giúp chúng ta

có thể đạt được quả vị giác ngộ ngay trong một đời!

Tóm lại, thực hành Nghệ thuật sinh tử không gì khác chính là thực hành tinh

túy, cốt tủy của cả Ba thừa Phật giáo ứng dụng vào đời sống thường nhật giúp hành

giả tiến bước trên hành trình tâm linh siêu việt hướng đến Giác ngộ cứu kính. Trên

tiến trình này vai trò của Thượng sư là trọng tâm bởi Ngài chính là tinh túy của Tam

Bảo, Tam Căn Bản, Tam thế Phật và Tam Thân, là cội nguồn của mọi sự gia trì,

thành tựu và công hạnh giác ngộ!

Với tâm chí thành hướng về bậc Kim Cương Thượng sư, Đức Pháp Vương

Gyalwang Drukpa và để chào mừng Hội nghị Thường niên chư Thượng sư Truyền

thừa Drukpa (tổ chức trong khoảng thời gian từ 29/8-05/9/2013 tại tại Tự viện

Hemis, Ladakh, Ấn Độ), chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu những vấn đề cơ bản nhất

của tiến trình giác ngộ, được trích lược từ ấn phẩm “Bardo – Bí Mật Nghệ Thuật

Sinh Tử”, một tác phẩm của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa do Drukpa Việt

Nam chuyển dịch, phát hành trong năm 2012:

Phần I - Nguyên thủy Phật giáo

I. Khái quát về Tứ Diệu đế

Biển Phật pháp vô tận mênh mông, tám vạn bốn ngàn pháp môn Đức Phật chế

ra đều nhằm mục đích đối trị phiền não, giúp chúng sinh giải thoát khổ đau, sinh tử

và đạt được hạnh phúc chân thực. Tinh túy của tám vạn bốn ngàn pháp môn được

tóm gọn trong Tứ Diệu đế. Đây là giáo lý được đức Phật thuyết giảng ngay sau khi

Ngài thành đạo cho năm anh em ông Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển, gần thành

Ba La Nại. Tứ Diệu đế truyền tải nội dung kinh nghiệm giác ngộ của chính Đức Phật,

và cũng là nội dung chính của bài kinh đầu tiên, Kinh Chuyển Pháp Luân. Vì vậy,

đây còn gọi là lần chuyển pháp luân thứ nhất.

Tứ Diệu đế mang nghĩa bốn chân lý cao cả, vi diệu. Gọi là chân lý hay “đế” bởi

nó nêu lên sự thật chắc chắn, xác thực, bất di bất dịch. Gọi là “Diệu” bởi nó vô cùng

màu nhiệm, đem lại giải thoát và hạnh phúc đích thực cho những ai đạt được hiểu

biết và sự thực hành đúng đắn về những chân lý này.

Page 3: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Giáo lý Tứ Diệu đế bao hàm đầy đủ cả hai mặt lý thuyết và thực hành, trình bày

theo thứ tự: Khổ đế (sự thật về khổ), Tập đế (nguyên nhân của khổ), Diệt đế (quả vị

giải thoát) và Đạo đế (con đường tu tập thoát khổ). Phương cách Đức Phật thuyết

giảng giáo lý này cũng vô cùng thiện xảo. Ngài đã khai thị về Quả cho chúng sinh

biết để khi họ thấy đúng, tin mới thuyết về Nhân. Chân lý về Khổ quả thật rất dễ hiểu

và thiết thực với mỗi người. Tuy nhiên, nếu chỉ thuyết Khổ - Tập thì chúng sinh sẽ

bế tắc, vì vậy sau khi thuyết cặp nhân quả thế gian Khổ - Tập, Đức Phật tiếp tục

giảng rõ về cặp nhân quả xuất thế gian Diệt - Đạo giúp chúng sinh vĩnh viễn giải

thoát khổ đau, chứng đạt hạnh phúc chân thật.

II. Khổ đế

Khổ đế là sự thật về khổ đau trên thế gian mà con người phải gánh chịu.

1. Khổ

Trong cuộc sống này, có những nỗi khổ đau mà ai ai cũng phải nếm trải, từ nỗi

khổ khi sinh ra, cho đến nỗi khổ khi già yếu, bệnh tật và qua đời. Đây là những nỗi

khổ về thân, những đau đớn về mặt thể xác mà chúng ta có thể thấy rất rõ sự trải

nghiệm ở chính bản thân mình cũng như mọi người. Hàng ngày, chỉ cần ra ngoài

hoặc mở ti vi, báo đài, bất cứ lúc nào chúng ta cũng thấy đau khổ về thân hiển hiện

khắp nơi trên thế giới này.

Ngoài ra, chúng ta còn phải chịu khổ về tâm, đó là những bất mãn, buồn khổ,

những cảm xúc tiêu cực thiêu đốt và làm tổn hao sinh lực của chúng ta như sân

hận, đố kỵ, bám chấp, tiếc nuối… Chúng ta đau khổ khi không có được điều mình

mong muốn. Rồi ngay cả khi đã có được thứ mình mong cầu, chúng ta vẫn đau khổ

vì lo sợ sẽ đánh mất nó. Loại khổ thứ ba xảy ra khi chúng ta phải gặp gỡ những

người mà chúng ta ghét bỏ, thù hận hoặc những hoàn cảnh không mong muốn song

lại chẳng có cách nào để trốn tránh. Loại khổ thứ tư là khi chúng ta buộc phải xa lìa

những người, đồ vật hay hoàn cảnh mà mình yêu mến.

Tâm chúng ta luôn luôn bất an do sự chi phối của các xúc tình phiền não tham,

sân, si... Tâm tham lam chẳng bao giờ biết đủ, tham vọng quá nhiều nhưng lại

chẳng đạt được là bao nên chúng ta thất vọng, buồn chán. Thậm chí khi có được

thứ mình hằng mơ ước, chúng ta chẳng mấy chốc lại thấy chán chường và mong

cầu thứ khác đẹp đẽ, hấp dẫn hơn. Tâm tham khiến chúng ta luôn cho rằng thứ

đáng khát khao tìm cầu luôn là thứ mà ta không có được. Chúng ta không bao giờ

biết tri ân và tri túc với những gì mình đang có. Cuộc sống con người vì thế rơi vào

vòng xoáy luẩn quẩn của sự bất mãn không nguôi.

Page 4: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Không chỉ vậy, vì tôn thờ cái ngã, chấp rằng thân (sắc uẩn) và tâm (thọ, tưởng,

hành, thức uẩn) này là có thật, chúng ta luôn luôn tức tối, nổi giận mỗi khi gặp điều

gì trái với bản ngã, khiến ta không vừa lòng. Ai đó chê bai, đối xử không tốt với ta,

một nghịch cảnh trái ý,… tất cả đều khiến tâm sân phát khởi và gây cho ta cảm thụ

khổ đau. Đó là khổ đau do ngũ uẩn gây ra cho chúng ta trong hiện đời. Bên cạnh đó,

sự hiện diện của ngũ uẩn hiện đời này có nguyên nhân từ quá khứ, do chịu tác động

của nghiệp lực, các hành động bất thiện và xúc tình phiền não nhiễm ô trong quá

khứ gây nên, vì vậy bản chất của chúng vốn đã là ô nhiễm và khổ đau. Hơn nữa,

chúng ta lại luôn có sự bám chấp kiên cố cho rằng các uẩn là thường hằng, là thanh

tịnh, là an lạc, là bản ngã. Kết quả, chúng ta càng bị lặn ngụp trong tầng tầng lớp lớp

khổ đau.

Ở một góc độ khái quát khác, khổ đau căn bản có thể bao gồm những hình thái

sau: Thứ nhất, đó là cái khổ từ sự không rõ ràng, không chắc chắn và không trường

tồn của những hạnh phúc dục lạc thế gian. Thứ hai, đó là khổ đau do bất mãn -

chúng ta liên tục cố gắng để có nhiều dục lạc thế gian hơn nữa nhưng kết quả

chẳng bao giờ được như ý. Thứ ba, còn có nỗi khổ đau ghê gớm do hết lần này tới

lần khác phải xả lìa thân xác. Từ vô thủy kiếp tới nay, chúng ta đã chết đi rồi sinh ra

không biết bao lần, đau đớn, sợ hãi không bút nào tả xiết nhưng mỗi khi nhập thai

cách ấm chúng ta đều mê mờ quên mất điều này. Thứ tư, đó là nỗi khổ do gặp phải

nhiều nỗi khổ đau hết lần này tới lần khác. Thứ năm, khổ vì bản chất thăng trầm của

đời sống. Tiếp theo cao trào sẽ là thoái trào, kế tiếp thành công là thất bại, phía sau

hội ngộ là chia lìa, sự sống đi đến tận cùng lại là cái chết… Cuối cùng là nỗi khổ của

sự cô độc. Trên tất cả những cột mốc quan trọng của đời người gồm sinh, lão, bệnh,

tử, chúng ta đều chỉ có một mình, không người giúp đỡ, không chốn tựa nương.

Bệnh tật hay khổ đau, sự sống hay cái chết đều chỉ do chính chúng ta trải nghiệm,

không thể san sẻ hay nương tựa vào ai. Trải nghiệm về sự cô độc này lên tới đỉnh

điểm trong giai đoạn Bardo cái chết khi chúng ta một mình lang thang trong thân

Trung ấm, đối diện với biết bao phóng chiếu, ảo cảnh khổ sở, kinh hoàng...

Như vậy, có thể thấy rằng khổ đau hiện diện khắp nơi và bao trùm toàn bộ cuộc

sống của chúng ta. Chúng ta lặn ngụp trong đau khổ nhưng không ý thức được một

cách rõ ràng về điều này. Quá quen với khổ đau, chúng ta coi khổ đau là một việc

bình thường, thậm chí còn vui vẻ một cách đầy vô minh trước những nỗi khổ đau

của mình và người khác. Đức Phật đã dùng Khổ đế để nói thẳng rằng bản chất cuộc

đời này là khổ, từ đó chân lý khổ đau được chỉ bày một cách cụ thể, toàn diện và vô

cùng xác đáng.

2. Vô thường

Page 5: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Vô thường mang nghĩa thay đổi sinh diệt, không chắc chắn, không trường tồn.

Trên đời này, chẳng có gì không thay đổi, chẳng có gì là vĩnh viễn thường

hằng. Chúng ta có thể nhìn vào cuộc đời của chính mình để suy ngẫm về điều này.

Trải qua khoảng thời gian chỉ vài chục năm, xác thân này không ngừng biến đổi, từ

giọt tinh cha huyết mẹ trong bào thai hình thành em bé, qua tuổi thiếu thời đến thanh

niên thấm thoắt đã tới trung tuần rồi tuổi già hiện lên trong bóng ảnh trước khi xác

thân tứ đại vô thường lại trả về cho đất, nước, gió, lửa. Mọi sự vật hiện tượng trong

cuộc sống này cũng thay đổi không ngừng như vậy. Nhà thơ xưa từng có câu:

“Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”

để chỉ sự thay đổi “thương tang, dâu bể” này.

Cho đến tâm tưởng chúng ta cũng vậy. Hôm nay vui, ngày mai ta sẽ buồn, lúc

này, ta thấy quý trọng, yêu mến người này, nhưng một thời gian sau, vì những lý do

nào đó, chúng ta lại sinh tâm hằn học, ghét bỏ người đó. Ngoài ra, dễ thấy vô cùng

là sự đổi thay, sinh diệt của vô vàn ý nghĩ của chúng ta trong từng giây, phút, sát na.

Luận bàn về vô thường, có thể chia làm hai loại là thô và tế. Vô thường thể thô

rất dễ lý giải. Chẳng hạn như, buổi sáng sẽ chuyển qua buổi chiều, buổi chiều rồi sẽ

tới buổi tối,… cứ liên tục thay đổi như vậy. Ngày mỗi ngày, hoa nở rồi tàn, lá xanh lại

úa, thời gian trôi chảy không ngừng. Tất cả những đổi thay này chúng ta có thể quan

sát một cách dễ dàng, vì thế chúng được gọi là vô thường thể thô.

Vô thường thể tế khó nhận biết hơn vì thường được lẩn giấu trước sự vô minh,

mê muội của phàm phu chúng ta. Chúng ta vô minh đến mức không nhận ra mình

vô minh và thậm chí coi vô minh là cần thiết. Tuy nhiên, bạn hoàn toàn có thể nhận

diện vô thường vi tế thông qua suy luận logic. Chẳng hạn như, những thay đổi nhỏ

nhiệm, liên tục đang diễn ra trong cuộc sống này chính là vô thường. Nếu không có

những thay đổi liên tục, vi tế này, bạn sẽ không thể già đi, sự vật hiện tượng cũng sẽ

đứng yên không thay đổi. Điều này hoàn toàn dễ hiểu. Bạn không thể nói rằng, tôi

bất thình lình già đi sau một phút. Bạn cũng không thể nói rằng, đến tận sáng nay,

tôi vẫn còn trẻ. Chỉ sau đó, tôi mới trở nên già đi. Thực tế hoàn toàn không phải như

vậy. Sự thay đổi đó, sự già đi đó diễn ra trong từng giây, từng phút, từng sát na liên

tục nối tiếp nhau, phút tiếp phút, giờ tiếp giờ, ngày nối ngày, tuần này qua tuần khác,

tháng này qua tháng khác, năm này tới năm khác… Dần dần, qua cả quá trình,

chúng ta thay đổi, chúng ta già đi. Tòa nhà này đang hoại diệt trong từng sát na.

Bông hoa kia cũng dần héo tàn trong từng khoảnh khắc. Mặc dù con mắt phàm phu

Page 6: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

của bạn không thể trông thấy những điều này, nhưng về mặt logic, bạn hoàn toàn có

thể lý giải. Hơn nữa, từ trải nghiệm của chính mình, bạn hoàn toàn có thể chiêm

nghiệm và đạt được hiểu biết đúng đắn về vô thường vi tế.

Nói một cách chung nhất, vô thường là một tính chất căn bản của vạn pháp thế

gian bao quát toàn bộ thân, tâm, cảnh. Sự thật rằng vạn pháp là vô thường bổ trợ và

minh chứng cho chân lý Khổ đế.

3. Vô ngã

Chính vì vạn pháp thế gian vốn vô thường nên chúng không thực sự tồn tại như

ta hằng lầm tưởng. Nói cách khác, tất cả đều không có tự ngã chân thật, vì vậy gọi

là vô ngã. Bản thân ngôi nhà kia nếu đem phân tích, chia chẻ sẽ chẳng có gì được

gọi là ngôi nhà một cách độc lập, riêng biệt. Ngôi nhà đó bao gồm các yếu tố như

cốt thép, xi măng, gạch, ngói, vôi vữa. Nếu thiếu đi dù chỉ một yếu tố sẽ không thể

tạo nên ngôi nhà. Bản thân “cái tôi” mà chúng ta vẫn nhận lầm là Ngã cũng chỉ là

một tập hợp của “ngũ uẩn” với “uẩn” mang nghĩa các yếu tố tích tập lại mà thành.

Không có gì gọi là một cái tôi thực sự, thuần nhất, bất biến. Như vậy, đời sống của

mỗi chúng ta thực chất chỉ là một chuỗi hiện tượng thân tâm, một chuỗi hiện tượng

đã hoạt động vô lượng kiếp trước khi ta sinh ra và sẽ còn tiếp tục vô tận sau khi ta

chết đi. Ngũ uẩn này dù riêng lẻ từng uẩn hay hợp chung lại, chúng không hề tạo

thành một cái gì gọi là “cái tôi”. Lòng tin có một “cái tôi”, có một nhân cách độc lập,

chỉ là một ảo tưởng vĩ đại!

Không may thay, người thế gian luôn bám chấp vào cái tôi, luôn duy trì ảo

tưởng huyễn hoặc về một thực ngã như vậy. Hầu hết mọi vấn đề xung đột về sắc

tộc, tôn giáo, lãnh thổ, kinh tế, chính trị,… giữa các quốc gia, hay ở phạm vi hẹp

hơn, mâu thuẫn giữa cá nhân này với cá nhân khác đều do sự chi phối của ảo

tưởng nói trên mà thành. Vì vậy, đây cũng là nguồn gốc của mọi đau khổ.

4. Không

Bởi vạn pháp bao gồm ngũ uẩn là vô thường, vô ngã nên bản chất của nó chỉ là

giả huyễn, là không. Chữ “không” ở đây không mang nghĩa không có gì, mà là

không thực hữu, không có tự tính, không tồn tại độc lập một mình mà phải có sự liên

hệ nhân và duyên. Thân người là một hợp thể nhân duyên bao gồm yếu tố vật chất

và yếu tố tinh thần, gọi một cách chung lại là ngũ uẩn. Sắc uẩn bao gồm bốn yếu tố

tứ đại đất, nước, lửa, gió, biến đổi liên tục và sẽ tan rã, phân ly không chỉ khi chúng

ta chết đi mà ngay trong từng sát na của cuộc sống. Thụ uẩn cũng hình thành một

cách có điều kiện dựa trên sự tiếp xúc của sáu cơ quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý)

Page 7: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

với sáu yếu tố ngoại cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Các uẩn còn lại, từ

tưởng uẩn là sự nhận biết, suy tưởng dựa trên các cảm thụ của thụ uẩn, cho đến

hành uẩn là những hoạt động tâm lý sau khi có tưởng và cuối cùng, thức uẩn là ý

thức phân biệt, tất cả đều được hình thành dựa trên hàng loạt yếu tố và mối quan hệ

nhân duyên tương hỗ, đan xen. Dễ thấy rằng, chúng ta sẽ không thể duy trì thân

người, không thể duy trì mạng sống này nếu thiếu dù chỉ một yếu tố tứ đại. Nếu

thiếu Hỏa đại, con người không còn hơi ấm, nếu thiếu Thủy đại, các yếu tố có tính

chất lỏng như máu huyết… sẽ cạn khô. Sự thiếu hụt, rối loạn này đều là nguyên

nhân và dấu hiệu của bệnh tật và cái chết. Cũng tương tự, xét về yếu tố tinh thần,

sẽ không có cảm thụ nếu thiếu một trong hai yếu tố giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi,

thân, ý) hoặc trần cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Các uẩn còn lại cũng

nương nơi thụ uẩn mà hình thành.

Nói tóm lại, sự không tồn tại thực ngã của vạn pháp gọi là không, tính chất này

có liên hệ mật thiết với Vô ngã. Không nói lên rằng mọi sự vật hiện tượng chỉ tồn tại

một cách tương đối, do nhân duyên. Nếu xét về bản chất, tất cả đều là hư huyễn.

Như vậy, bốn khía cạnh vô thường, khổ, không, vô ngã góp phần hoàn thiện

bức tranh khổ đau miên viễn của đời sống - một sự thật, một chân lý không thể chối

bỏ.

Khi nghe thuyết giảng về Khổ đế, một số người dựa vào hiểu biết cạn cợt cho

rằng thế giới quan Đạo Phật như thế là bi quan, yếm thế. Thực ra để nhìn thẳng vào

sự thật, dù nó đắng cay thế nào đòi hỏi cả trí tuệ và lòng quả cảm. Mặt khác, Đức

Phật không chỉ nêu lên vấn đề, Ngài cũng phân tích nguyên nhân sâu xa của vấn đề

đồng thời đưa ra giải pháp xử lý tối ưu và rốt ráo.

Bardo – Nghệ Thuật Sinh Tử: 2. Tập Đế

Với tâm chí thành hướng về bậc Kim Cương Thượng sư, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa và để chào mừng Hội nghị Thường niên chư Thượng sư Truyền thừa Drukpa (tổ chức trong khoảng thời gian từ 29/8-05/9/2013 tại  tại Tự viện Hemis, Ladakh, Ấn Độ),  chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu những vấn đề cơ bản nhất của tiến trình giác ngộ, được trích lược từ ấn phẩm “Bardo – Bí Mật Nghệ Thuật Sinh Tử”, một tác phẩm của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa do Drukpa Việt Nam chuyển dịch, phát hành trong năm 2012:

(Các bài trích lược trước của mục Nghệ Thuật Sinh Tử có thể được truy cập tại đây)

Phần I - Nguyên thủy Phật giáo

III. Tập đế

Page 8: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Đây là chân lý chỉ bày nguyên nhân của đau khổ. Con người vì vô minh, vì nghiệp tích tập bao đời mà mãi trầm luân trong bể khổ. Để tận diệt được quả khổ, chúng ta phải tiêu trừ được cái nhân của nó. Tập đế đã vạch mặt chỉ tên thủ phạm đằng sau mọi khổ đau của chúng sinh. Vô minh chính là cội nguồn của tham, sân, si kéo lôi con người tạo nghiệp để rồi tái sinh và chịu quả khổ.

1. Nguyên nhân chấp Ngã (tham, sân, si)

Như đã đề cập đến trong phần Khổ đế, tham lam, sân hận, mê mờ là những xúc tình phiền não căn bản khiến con người luôn trầm luân với khổ đau. Do vô minh, mê mờ chúng ta chấp trì, nhận lầm ngũ uẩn giả huyễn là cái tôi chắc thật, hình thành nên một bản ngã vô cùng kiên cố. Chúng ta không nhận ra tự tính duyên khởi, phụ thuộc lẫn nhau của vạn pháp. Mọi sự vật hiện tượng trên thế gian này đều vô thường và biến đổi từng phút giây, tất cả đều nương vào nhau mà sinh khởi, không một cái nào có tự tính riêng biệt, độc lập. Tâm bo bo chấp ngã, chấp pháp, không thấu rõ bản chất chân thực của vạn pháp thế gian vốn là vô thường, khổ, không, vô ngã là gốc rễ phát khởi lòng tham, tính vị kỷ cũng như tâm sân hận, tật đố và các phiền não nhiễm ô khác. Cho rằng tôi là chúa tể, lợi ích của tôi là tâm điểm, chúng ta luôn tham lam muốn vun vén, chiều chuộng và chạy theo những nhu cầu bất tận của bản thân. Lòng tham khiến ta không bao giờ hài lòng và biết trân trọng, tri ân những gì mình đang có, ngược lại, chúng ta tìm mọi cách thỏa mãn tham vọng cá nhân, kể cả làm những việc bất chính hay chà đạp, gây đau khổ cho người khác. Vì tham mà gia đình ly tán, anh em bất hòa, bạn bè xung đột. Tội ác và bạo lực xảy ra khắp nơi cũng đều bắt nguồn từ tham vọng ích kỷ của con người. Cũng chính vì tôn thờ cái tôi nên tâm sân hận như ngọn lửa luôn chực bùng phát bất cứ khi nào bản ngã bị mếch lòng hay lợi ích của cái tôi bị xung đột. Tâm tham lam càng mạnh mẽ thì sân hận càng có nhiều điều kiện để phát khởi, do ham muốn không được thỏa mãn. Vì bám chấp vào “cái tôi” cố hữu, chúng ta luôn tự đồng hóa với những cảm xúc của chính mình và trở thành nô lệ chịu sự xoay vần của những cơn bão cảm xúc triền miên như tham luyến, sân hận, đố kỵ, kiêu mạn. Cuộc sống của chúng ta vì vậy trở nên vô cùng đau khổ và mỏi mệt.

2. Mười hai nhân duyên

Thuyết Mười hai nhân duyên chỉ bày tiến trình của vô minh, là căn nguyên của mọi khổ đau và sinh tử luân hồi. Mười hai nhân duyên giải thích tường tận guồng máy sinh diệt của hữu tình, chỉ rõ cho chúng ta thấy mọi sự vật hiện tượng đều do nhân duyên giả hợp. Yếu tố nhân (nguyên nhân), duyên (điều kiện) kết hợp là cơ sở sinh khởi các pháp, khi nhân, duyên lìa tan sẽ khiến các pháp diệt vong. Vô minh được đề cập đến đầu tiên bởi đó là nguyên nhân căn bản; tiếp đến, theo thứ tự nhân duyên, chúng ta có: Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Lục nhập, Lục nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thụ, Thụ duyên Ái, Ái duyên  Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sinh, Sinh duyên Lão, Lão duyên Tử.

Vô minh

Vô minh là sự mê mờ, không hiểu rõ chân lý của Tứ Diệu đế. Vì không thấu rõ bản chất của mọi sự vật hiện tượng là khổ đau, vô thường, không thực hữu nên dẫn đến chấp ngã, từ đó phát sinh những hành động, tạo tác sai lầm. Như vậy gọi là “Vô minh duyên Hành”.

Page 9: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Hành

Hành được hiểu là hành động tác ý, có thể ở ba dạng thân, khẩu, ý. Hành là cơ sở tạo Nghiệp. Hành thân thanh tịnh hay ô nhiễm sẽ đi liền với thân nghiệp thanh tịnh hoặc nhiễm ô. Tương tự như vậy với hành khẩu hay hành ý.

Xét ở cấp độ vi tế, tâm ta như một dòng sông, sự chuyển động (hành) của nó được tạo thành từ sự chuyển động liên tục của vô vàn giọt nước. Tương tự vậy, tâm là một chuỗi tương tục của thiện ác, yêu ghét, vui buồn. Sự liên tục xê dịch, đổi dời, triền miên chuyển động biến hóa này là Hành ấm.

Những hành nghiệp trong quá khứ là nguyên nhân của quả báo hiện tại. Và bất cứ hành vi nào trong hiện tại cũng sẽ đem lại quả báo trong tương lai. Tất cả những nghiệp nhân đã tạo đều được huân tập vào A lại da thức, năng lực nghiệp tiềm ẩn này có thể thúc đẩy tâm thức trong chiều sâu, dẫn dắt hành trình sinh khởi trong tương lai.

Thức

Thức là toàn thể tâm thức của chúng ta (tức Bát thức, gồm sáu thức đầu, Mạt na thức và Tạng thức). Đó là sự hiểu biết phân biệt còn nằm trong trạng thái mê vọng sai lầm. Trong vòng quay sinh tử, dưới tác động của Nghiệp, thần thức đi tìm bụng mẹ, chịu quả báo tái sinh, như vậy gọi là “Hành duyên Thức”.

Danh sắc

Danh thuộc phần tâm lý, tinh thần. Sắc thuộc phần sinh lý, vật chất. Trong hành trình tái sinh, thần thức hoan hỷ khi thấy hình ảnh cha mẹ tương lai giao hợp. Lúc đó, thần thức nhập mẫu thai, chấp trì vào giọt tinh cha hòa quyện cùng giọt huyết mẹ. Thức tâm là Danh thuộc yếu tố vô hình và phôi thai từ tinh cha huyết mẹ là Sắc thuộc yếu tố hữu hình. Sự chấp trì này gọi là “Thức duyên Danh Sắc”.

Lục nhập

Sau khi hình thành bào thai tức Danh sắc, hình thành của sáu căn. Sáu căn này gọi là Lục nhập chỉ cho sáu giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Như vậy gọi là “Danh sắc duyên Lục nhập”.

Xúc

Xúc chỉ sự tiếp xúc giữa con người với ngoại cảnh thông qua sáu giác quan. Sáu căn tiếp xúc với sáu trần, tức sáu yếu tố ngoại cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp chỉ cho màu sắc, âm thanh, mùi hương, vị ngon, sự xúc chạm, sau cùng là vạn pháp - đối tượng của ý căn) như vậy gọi là “Lục nhập duyên Xúc”.

Thụ

Sáu căn tiếp xúc với sáu trần sinh ra cảm thụ, gọi là “Xúc duyên Thụ”. Cảm thụ bao gồm ba loại chính là lạc thụ (cảm giác vui sướng), khổ thụ (cảm giác đau khổ) và si thụ (cảm giác không vui không buồn, do tâm si mê đem lại).

Ái

Page 10: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Khi có cảm thụ buồn vui sẽ nảy sinh tâm ham muốn, luyến ái hay chối bỏ. Như thế được gọi là “Thụ duyên Ái”. Nhiều người nói rằng cảm thụ cũng có thể sinh tâm ghét bỏ nếu đó là khổ thụ. Tuy nhiên, ghét bỏ chỉ là phạm trù đối lập với ái luyến, có ghét bỏ tức có ái luyến bởi khổ thụ thúc đẩy sự tìm cầu lạc thụ. Vì vậy, nói một cách khái quát nó vẫn không nằm ngoài nội dung của Thụ duyên Ái.

Thủ

Thủ có nghĩa là nắm chặt, giữ chặt, gây nên ràng buộc. Vì yêu thích, ái luyến nên sẽ sinh lòng bám giữ, tâm chấp thủ.  Đó là “Ái duyên Thủ”. Tâm chấp thủ đó thể hiện rõ rệt nhất ở sự chấp ngã, yêu mến cái tôi, nhận ngũ uẩn là tôi.

Hữu

Hữu mang nghĩa là Có, là hiện hữu, tồn tại hay sự sống. Sự thủ chấp kiên cố là cơ sở cho sự hình thành, sự tồn tại, hay một đời sống mới. Ham muốn dẫn đến chấp thủ, chấp thủ tạo thành động lực cho sự tái sinh. Tâm chấp thủ đã gieo vào Tạng thức một nhân là cơ sở cho sự hình thành ở đời sau. Do đó, gọi là “Thủ duyên Hữu”. Hữu là nhân được ví như cái thai sau này hình thành hài nhi.

Sinh

Vì đã có sẵn nhân nên khi gặp duyên tức các điều kiện chín muồi thì sẽ dẫn đến tái sinh. Vì vậy, gọi là “Hữu duyên Sinh”.

Lão, bệnh, tử

Đã có sinh khởi, hình thành một đời sống tức có lão, bệnh, tử, nên gọi là “Sinh duyên Lão, Bệnh, Tử”. Vòng quay không hề chấm dứt ở đây bởi yếu tố vô minh phát khởi dẫn đến tiếp theo chuỗi sinh diệt, biến đổi tương tục trong luân hồi.

Triết lý Mười hai nhân duyên không chỉ giải thích tiến trình sinh diệt của thân trong vòng quay sinh tử mà còn mô tả tiến trình tư tưởng. Triết lý này chỉ rõ, mọi hiện tượng tâm lý và vật lý tạo nên đời sống đều nằm trong vòng liên hệ qua lại, chúng là nguyên nhân của một yếu tố này và là kết quả của một yếu tố khác, tạo thành một vòng liên tục với mười hai yếu tố không có điểm kết thúc cũng như bắt đầu. Đây chính là nguyên lý căn bản của sinh tử luân hồi, tức khổ đau.

3. Quy luật Nghiệp

Nghiệp xuất phát từ gốc tiếng Phạn “Karma”, nghĩa là hành động có tác ý. Nghiệp luôn được bắt nguồn từ những tạo tác của tâm thông qua những hoạt động của thân, khẩu và ý, gọi chung là tam nghiệp. Quy luật Nghiệp nói rằng tất cả mọi hành động tạo tác với động cơ nhất định sẽ đem lại một kết quả tất yếu sau này. Một cách dễ hiểu, quy luật Nghiệp cho rằng chúng ta sẽ nhận về những gì mình đã tạo ra, một cá nhân hoàn toàn chịu mọi trách nhiệm trước hành động tác ý của chính mình. Đây là một quy luật tự nhiên, chi phối tất cả không loại trừ bất cứ đối tượng nào, đồng thời, nó bao trùm khắp cả ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai. Với quy luật Nghiệp hoàn toàn khách quan, công bằng như vậy, chúng ta thấy rõ mình là chủ nhân của chính số phận bản thân, hoàn toàn không có bất cứ Thượng đế hay đấng siêu hình nào đó ban phúc hay giáng họa. Một hành động tạo tác thiện lành sẽ đem lại một kết quả tốt đẹp về sau, trái lại, một hành động tạo tác bất thiện sẽ đem đến kết quả xấu ác sau

Page 11: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

này. Hành động đó không chỉ là hành động của thân mà còn bao gồm cả những tạo tác từ lời nói và suy nghĩ. Bằng cách này, dù bạn chỉ phạm phải sự bất thiện trong suy nghĩ thì một cách tương ứng, bạn sẽ nhận về kết quả bất thiện của suy nghĩ đó sau này.

Quy luật Nghiệp giúp chúng ta giải thích rõ ràng, logic và triệt để về nguyên nhân của khổ đau. Như trên đã nói, căn nguyên của mọi đau khổ và luân hồi là vô minh. Vì vô minh, chúng ta tin tưởng và đắm chấp vào cái tôi của ngũ uẩn giả hợp, từ đó phát sinh mọi xúc tình phiền não tham lam, sân hận, đố kỵ, kiêu mạn… Những xúc tình phiền não này vẫn sai sử, chi phối chúng ta trong từng giây phút của đời sống hàng ngày, không ngừng khiến chúng ta tạo tác những nghiệp tiêu cực của thân, khẩu và ý, gây ra vô số quả khổ mà sau này chính chúng ta phải lĩnh thụ. Chẳng hạn, tâm tham khiến ta muốn trộm đoạt tài sản của người khác để làm giàu bất chính cho mình, sát hại vô số sinh mạng chỉ để phục vụ cho khoái cảm muốn hưởng thụ miếng ngon của mình, nói dối chỉ để bao biện và tư lợi cá nhân,… Những hành động tạo tác đó gây ra các bất thiện nghiệp. Chúng ta có thể thấy những kết quả nhãn tiền ngay trong đời này (vì trộm cắp, ta bị pháp luật trừng phạt, vì sát sinh, ta bị đoản mạng, vì nói dối, ta cũng bị người khác lọc lừa…), nhưng cũng có nhiều nghiệp quả phải đợi đến đời sau, hoặc vô số các kiếp sau này mới trổ quả. Đời sống hiện tại của chúng ta cũng chính là kết quả của những nghiệp nhân trong quá khứ. Chướng ngại, khổ đau, tai nạn,… không từ trên trời rơi xuống, không do “ông Trời” giáng xuống cho ta như nhiều người thường nghĩ, mà là kết quả tất yếu của những nhân xấu ác chúng ta đã gieo trồng từ vô thủy kiếp. Hiểu rõ về quy luật Nghiệp như vậy, chúng ta đã nắm trong tay chiếc chìa khóa giải mã luân hồi khổ đau.

Một cách khái quát, đức Phật đã chỉ ra rằng, nguyên nhân cơ bản dẫn tới đau khổ được hình thành do chấp ngã, vô minh khởi nên tham, sân, si là nền tảng cho tất cả mọi xúc tình tiêu cực khiến chúng sinh tạo nghiệp. Nói rộng ra, tiến trình Mười hai nhân  duyên nói lên sự vận hành của bánh xe sinh tử luân hồi không ngừng quay mãi, không có điểm khởi đầu cũng như kết thúc.

Bardo – Nghệ Thuật Sinh Tử: 3. Diệt Đế & Đạo Đế

10:06 09/08/2013 Xem : 229

Với tâm chí thành hướng về bậc Kim Cương Thượng sư, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa và để chào mừng Hội nghị Thường niên chư Thượng sư Truyền

thừa Drukpa (tổ chức trong khoảng thời gian từ 29/8-05/9/2013 tại  tại Tự viện Hemis, Ladakh, Ấn Độ),  chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu những vấn đề cơ bản nhất của tiến trình giác ngộ, được trích lược từ ấn phẩm “Bardo – Bí Mật Nghệ

Thuật Sinh Tử”, một tác phẩm của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa do Drukpa Việt Nam chuyển dịch, phát hành trong năm 2012:

(Các bài trích lược trước của mục Nghệ Thuật Sinh Tử có thể được truy cập tại đây)

Page 12: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Phần I - Nguyên thủy Phật giáo

IV. Diệt đế

Không chỉ nói về khổ và nguyên nhân của khổ, đức Phật còn chỉ cho chúng ta thấy rằng có thể tận diệt khổ đau, chấm dứt luân hồi sinh tử, đạt được quả vị giải thoát chân thật. Trạng thái giải thoát đó thường được gọi dưới cái tên Niết bàn tịch diệt. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng, Niết bàn không phải một cõi, một nơi nào đó xa rời thế gian này, cũng không thể hiểu một cách máy móc rằng nơi đó chỉ có sự rỗng không, vắng lặng, diệt trừ hết tất cả chẳng còn gì tồn tại, hiện hữu. Niết bàn là sự chấm dứt hoàn toàn của khổ đau, là sự vắng mặt của tham, sân, si là tâm giác ngộ tuyệt đối vốn siêu việt mọi ngôn từ và nhận thức thế gian thông thường.

Một cách thực tiễn hơn, khi đã giác ngộ được chân lý về khổ được trình bày trong Khổ đế, hiểu được bản chất những nguyên nhân gây ra đau khổ trong Tập đế, cũng như thành tựu thực hành tu tập các phương pháp diệt khổ trong Đạo đế, hành giả coi như đã thành tựu quả vị giác ngộ, đạt được chân hạnh phúc và giải thoát luân hồi sinh tử. Mỗi chúng ta đều có thể đạt được quả vị giác ngộ theo cách này. Dù

Page 13: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

chưa thể thành tựu giác ngộ tuyệt đối, chúng ta vẫn có thể đạt được những cấp bậc giác ngộ khác nhau tương ứng với trình độ hiểu biết và thực hành ba chân lý còn lại của Tứ Diệu đế. Chẳng hạn, ngay khi nhận ra rằng cái tôi này không phải thực ngã, chỉ do sự ngộ nhận và bám chấp vào ngũ uẩn mà hình thành, chúng ta sẽ giảm bớt được tâm chấp trước, vị kỷ, tham lam… để trở nên một con người cởi mở, vị tha và hoan hỷ hơn. Khi thấu hiểu về bản chất khổ đau của cuộc sống cùng những nguyên nhân dẫn đến khổ đau, chúng ta dám đối diện với những khó khăn, bất trắc, đau khổ trong cuộc sống, biết cách chấp nhận cũng như hóa giải chúng thay vì đổ lỗi cho người khác, hay bi quan, chán nản, trốn tránh hoặc tìm lối thoát trong những mê tín giáo điều. Chúng ta sẽ tinh tấn thực hành con đường thoát khổ, đổi ác làm lành, tránh xa đường tà, bạn dữ, trưởng dưỡng từ bi và trí tuệ. Nhờ đó, ta có được sự tự tại, an lạc ngay trong đời sống này. Hoặc chí ít, chúng ta cũng sẽ không bị chi phối quá nhiều bởi các xúc tình phiền não, không còn mù quáng chạy theo sự sai sử của cái tôi vô minh. Đó chính là các khía cạnh của Diệt đế mà chúng ta có thể đạt được ngay trong hiện đời.

Bên cạnh đó, sự giác ngộ tuyệt đối vốn siêu việt mọi ngôn từ. Cảnh giới giác ngộ là không thể nghĩ bàn bởi càng dùng ý niệm và ngôn từ phân biệt để diễn tả thì càng xa với chân lý. Dù vậy, đức Phật từ bi vô lượng, vì muốn cho chúng sinh được thấu rõ chân lý và phát khởi tín tâm tu tập, Ngài đã khai thị một cách khái quát về các quả vị giác ngộ này. Tuy vậy, chúng ta cần hiểu rằng các cấp bậc đó cũng chỉ là sự chia chẻ mang tính tương đối, giúp tâm đối đãi nhị nguyên của chúng sinh dễ tiếp cận mà thôi. Có thể điểm qua những quả vị này trong bản đồ tu tập của Tam thừa như sau:

Quả vị của Nguyên thủy Phật giáo

Trải qua các thứ lớp tu tập và chứng ngộ từ quả Dự lưu (bắt đầu nhập dòng Thánh). Quả Nhất lai (hành giả còn phải tái sinh lại một lần nữa để tu tập đoạn trừ nốt mê lầm). Quả Bất lai (hành giả dứt hết mê lầm nên không phải tái sinh vào cõi Dục thêm nữa mà sinh về cõi trời Sắc cứu kính và tiếp tục tu tập để đoạn dứt vi tế hoặc), cuối cùng hành giả chứng đắc quả vị cao nhất trong hàng  Thanh Văn thừa là A la hán quả (còn gọi là quả Vô sinh). Ở quả vị này bậc A la hán đã tận diệt tham, sân, si nên không còn chịu sự chi phối của sinh tử luân hồi.

Ngoài ra, còn có quả vị Bích Chi Phật (còn gọi là Độc Giác Phật). Bậc Bích Chi Phật ra đời vào thời không có giáo pháp của đức Phật, các Ngài tự quán sát Mười hai nhân duyên mà chứng đạt giác ngộ.

V. Đạo đế

Con đường hướng đến giác ngộ Niết bàn đã được Đức Phật vạch rõ chi tiết trong Đạo đế, sự thật về con đường chấm dứt khổ đau, đưa đến hạnh phúc chân thật.

1. Trí tuệ nhìn nhận bản chất của cuộc sống

Khi đã được Đức Phật chỉ bày về bản chất khổ đau của cuộc sống cũng như những nguyên nhân dẫn đến khổ đau, bạn cần suy ngẫm, quán xét để hiểu rõ giáo Pháp. Chỉ khi có được hiểu biết đúng đắn, bạn mới có thể bước tiếp và đi đúng hướng trên con đường tu tập. Nếu bạn vẫn chưa thể nhận thấy một cách sâu sắc rằng cuộc đời này, vạn pháp trên thế gian này cũng như chính thân tâm bạn đều chịu sự chi phối của quy luật vô thường, khổ, không và vô ngã thì mọi sự tu tập đều không được lợi

Page 14: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

ích và bạn sẽ rất khó đạt được tiến bộ trong những thực hành của mình. Bởi vậy, trí tuệ hiểu biết đúng đắn này cũng được đề cập tới như là “chính kiến”, yếu tố đầu tiên của Bát chính đạo.

2. Bát chính đạo

Bát chính đạo là những chỉ dẫn của đức Phật về cách thực hành tu tập nhằm đưa hành giả thoát khỏi mọi bám chấp và vọng tưởng mê lầm, nó như một phương dược giúp đối trị khổ đau và hiển lộ trí tuệ hiểu biết về bản chất chân thực của vạn pháp. Bát chính đạo nói về tám khía cạnh thực hành khác nhau nhưng đó không phải là những khía cạnh hay các bước thực hành độc lập, từng bước từng bước một mà tất cả những khía cạnh này có mối quan hệ tương hỗ mật thiết và cần được thực hành đồng thời.

Chính kiến là sự hiểu biết, quan kiến đúng đắn. Chính kiến có được khi bạn giác ngộ về Khổ đế, nhìn mọi sự vật hiện tượng như bản chất chân thật của chúng thay vì nhìn qua lăng kính vọng tưởng thông thường của thế gian. Để có được quan kiến chân chính này, bạn cần thấu hiểu rằng lý vô thường, khổ, không, vô ngã và  quy luật về Nghiệp chi phối mọi sự vật, hiện tượng thế gian. Chính kiến không được xây dựng nên từ những hiểu biết, phân biệt nhị nguyên mà cần được bắt đầu bằng trực giác quán chiếu sâu sắc sự thật về khổ, bản chất của khổ đau. Khi nhận ra cuộc sống này là vô thường, bạn sẽ bình thản đón nhận mọi thăng trầm của cuộc đời với tâm an nhiên không vướng bận. Hiểu được cội nguồn của đau khổ, bạn sẽ không bị chi phối quá nhiều bởi sự tham đắm, tâm sân hận hay những xúc tình tiêu cực khác. Sự hiểu biết về bản chất vô ngã giúp bạn xả bỏ bám chấp, nuôi dưỡng tâm từ bi, xa lìa những tham ái vị kỷ bởi nhận ra rằng đem lại an vui cho người khác cũng chính là vun trồng hạnh phúc cho chính mình. Chính kiến là yếu tố tiên quyết bởi chỉ có chính kiến mới đem lại suy nghĩ và hành động đúng đắn.

Chính tư duy là suy nghĩ đúng đắn, là thanh lọc tâm để loại trừ những tư tưởng bất thiện và chăm bón những hạt giống thiện lành trong khu vườn tâm. Nếu như Chính kiến nói về khía cạnh nhận thức của trí tuệ thì Chính tư duy nói về khía cạnh của sức mạnh tinh thần (ý chí) điều khiển mọi hành động của bản thân. Chính tư duy giúp bạn thoát khỏi tham dục, sân hận và những niệm phiền não tương ứng bằng cách xả bỏ bám chấp, trưởng dưỡng suy nghĩ và hành động tốt đẹp cũng như từ bỏ những suy nghĩ và hành động xấu ác, tổn hại đến tha nhân, qua đó trưởng dưỡng tâm từ bi.

Chính ngữ vô cùng cần thiết bởi nó hỗ trợ cho sự tịnh hóa về mặt tinh thần. Không có lời nói đúng đắn, bạn không thể thanh lọc tâm ý, trưởng dưỡng tâm linh. Trong đời sống thế gian, lời nói có thể gây chiến tranh hay đem lại hòa bình, có thể tạo nên kẻ thù hay bằng hữu, có thể cứu sống hay đoạt mạng. Vì vậy, Đức Phật dạy rằng chính ngữ chỉ có thể đạt được khi bạn không nói dối, đặc biệt là sự dối lừa có chủ đích, không nói lời xấu ác, không nói lời thêu dệt vu khống, không nói lời vô nghĩa thị phi. Tóm lại, lời nói chính ngữ là lời nói chân thật, hòa nhã, mềm mỏng và có ý nghĩa thực sự.

Chính nghiệp là hành thiện, xa lìa ác hạnh. Chính nghiệp chỉ những tạo tác liên quan đến hoạt động của thân. Để có Chính nghiệp, bạn không được làm tổn hại hay đoạt mạng sống của chúng sinh, dù là bất kỳ hữu tình hàm thức nào, không được chiếm

Page 15: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

đoạt, trộm cắp bất cứ thứ gì không phải của mình, không được tà dâm tức là hành vi dâm dục bất chính, làm tổn hại tới người khác.

Có thể thấy rằng, hai yếu tố đầu tiên (Chính kiến, Chính tư duy) là sự tu tập, rèn luyện đối với ý. Chính ngữ thuộc về khẩu và Chính nghiệp thuộc về thân. Ba yếu tố này bổ trợ lẫn nhau giúp hành giả đạt được sự thanh tịnh của thân, khẩu, ý.

Chính mạng là phương tiện sinh sống đúng đắn. Chính mạng dạy chúng ta phải kiếm sống bằng những nghề nghiệp lương thiện. Một cách cụ thể, người tu tập Chính mạng phải xa lìa công việc liên quan tới vũ khí, tới chất độc, chất gây nghiện (rượu, bia, ma túy, thuốc lá...) hay làm tổn hại mạng sống của chúng sinh (giết mổ…). Ngoài ra, những công việc mâu thuẫn với Chính ngữ, Chính nghiệp cũng cần phải từ bỏ vì không đem lại Chính mạng.

Chính tinh tiến có thể coi là yếu tố vô cùng quan trọng để  thực hành và thành tựu bảy chi còn lại của Bát chính đạo. Nếu không tinh tấn, miên mật một cách đúng đắn, bạn sẽ không thể thành tựu bất cứ chi nào và sẽ bị thoái thất hay sai lệch trong sự thực hành của mình. Chính tinh tiến có được dựa trên sức mạnh nội tâm, chính là những năng lực của tham ái, đố kỵ, sân hận… được chuyển hóa. Một cách cụ thể, bạn cần từ bỏ những điều xấu ác đã lỡ phát sinh, ngăn chặn những niệm xấu ác chưa phát sinh, phát khởi những niệm thiện lành và duy trì, trưởng dưỡng những việc thiện lành đã phát sinh. Vì vậy, Chính tinh tiến phải luôn được dẫn dắt bởi Chính kiến.

Chính niệm là tỉnh giác, chú tâm và nhận biết rõ ràng những gì đang diễn ra trong giây phút hiện tại. Chính niệm có được bằng cách xa rời mọi vọng tưởng, mọi sự phóng chiếu nhị nguyên, mọi so sánh đối đãi. Thông thường, chúng ta làm mọi việc trong sự thiếu tỉnh thức, bị chi phối bởi đủ mọi xúc tình, vọng tưởng. Chính niệm giống như mỏ neo giúp ta nhận thức mọi thứ một cách sáng rõ, quán chiếu sâu sa bên trong của sự vật hiện tượng thay vì bị cuốn theo. Bằng chính niệm, tỉnh thức, chúng ta giữ vai trò quan sát và chủ động để có thể nhận thức rõ ràng toàn bộ tiến trình của tâm ý. Chẳng hạn, khi tức giận, bạn thường để bị cuốn theo cơn sân hận và hành động thiếu suy nghĩ, gây đổ vỡ và oán hờn, để rồi sau đó cảm thấy hối tiếc. Tuy nhiên, nếu lúc đó chúng ta tỉnh thức, quán chiếu cơn giận, chỉ cần quan sát mà không cần dồn nén cưỡng ép cảm xúc, cơn nóng giận của chúng ta cũng dần dần nguội bớt. Đức Phật dạy ta bốn phương pháp để nuôi dưỡng chính niệm bao gồm quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường và quán pháp vô ngã.

Bước cuối cùng trên con đường Bát chính đạo là Chính định - phương pháp thiền định chân chính. Thiền định được hiểu là sự chú tâm, an định tâm vào một đề mục hay đối tượng nhất định. Khi tâm an định, vững vàng, phiền não tạm thời lắng xuống, tâm trở nên sáng rõ, trí tuệ dần được hiển bày. Chính định chỉ có được nhờ tinh tấn công phu thiền định. Khi đạt được cấp độ nhuần nhuyễn nhất định, bạn có thể định tâm một cách nhậm vận trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

Như vậy, có thể thấy rằng Bát chính đạo không phải một lý thuyết xa vời mà đó là bản đồ tu tập, kim chỉ nam cho sự thực hành trong cuộc sống của bất cứ cá nhân nào muốn hoàn thiện bản thân, thoát khỏi sự chi phối của khổ đau hướng tới giải thoát, giác ngộ. Bát chính đạo bao hàm cả ba khía cạnh tu tập là Giới, Định, Tuệ. Chính ngữ, Chính nghiệp và Chính mạng thuộc về Giới. Chính tinh tiến, Chính niệm, Chính định thuộc về Định và Chính kiến, Chính tư duy thuộc về Tuệ. Giới được ví

Page 16: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

như rễ cây, Định là thân cây, Trí tuệ và quả vị Niết bàn chính là hoa trái của công phu tu tập. Đây là con đường đưa đến hạnh phúc lâu bền mà Đức Phật đã chỉ dạy cho chúng ta.

3. Ba phẩm chất trí tuệ: lắng nghe, suy ngẫm và thực hành thiền định

Để có thể tiến bộ trên con đường tâm linh, chúng ta cần phải có một nền tảng tu học vững chắc dựa trên việc học, suy ngẫm và thực hành giáo pháp. Đầu tiên chúng ta phải bắt đầu bằng việc lắng nghe giáo pháp để có kiến thức. Tiếp đến, chúng ta cần suy ngẫm tư duy về những gì học được cho đến khi nhận hiểu được giá trị của giáo pháp. Sau khi đã hiểu được ý nghĩa giáo pháp, chúng ta cần lấy giáo pháp là căn bản của thiền định. Khi cả ba bước lắng nghe, suy ngẫm và thiền định được thực hiện một cách chính xác và đúng pháp, sự thực hành của chúng ta sẽ tự nhiên trở nên đầy đủ và mang lại lợi ích cho bản thân và cả chúng sinh. Nếu không biết lắng nghe, tư duy rồi thực chứng giáo pháp qua thực hành thiền định, chúng ta sẽ có những hiểu biết sai lệch hoặc tri thức cạn cợt, dẫn đến việc thực hành Phật pháp không đúng đắn, chính xác hoặc không mang lại lợi ích.

Lấy ví dụ Đức Phật dạy rằng con người ai cũng phải chịu đựng khổ đau của sinh, già, bệnh, chết. Khi lắng nghe giáo pháp, chúng ta sẽ có một chút kiến thức về vấn đề này. Sau đó, chúng ta suy ngẫm về các loại khổ đau khác nhau, nhận ra được thế nào là khổ đau, và thấy cần phải thay đổi lại cách sống để loại bỏ những phiền não ngay trong kiếp này và trong tương lai. Chúng ta sẽ quyết định chứng ngộ được tự tính tâm, vượt biển sinh tử, thoát khỏi khổ đau. Sau khi đã hoàn thiện phần văn, tư, thiền định, chúng ta cần phải có trách nhiệm thực hành, áp dụng Phật pháp vào đời sống để đạt được giải thoát.

a. Trí tuệ đầu tiên: học tập hay lắng nghe giáo pháp.

Lắng nghe giáo pháp được ví như mặt đất, rất cần thiết cho phát triển mùa màng. Nếu không có mặt đất là nền tảng ban đầu thì sẽ không có gì để phát triển. Cũng tương tự như vậy, nếu như không lắng nghe giáo pháp khai thị, chúng ta không có gì làm căn cứ để suy ngẫm. Không lắng nghe và suy ngẫm sẽ không có gì áp dụng cho thực hành thiền định. Chính vì vậy, việc lắng nghe và nghiên cứu giáo pháp với tâm rộng mở và bình đẳng là bước khởi đầu rất quan trọng.

Có rất nhiều khía cạnh để lắng nghe giáo pháp

Chúng ta lắng nghe tiếng nói nội tâm, tiếng nói của bậc Thầy bên trong. Ngoài ra, thuật ngữ “lắng nghe giáo pháp” bao gồm rất nhiều thể loại như đọc sách và kinh điển Phật pháp, đón nhận khai thị giáo pháp qua các phương thức khác nhau như băng đĩa, tư liệu phim ảnh…

Hãy học những gì thật sự cần thiết

Có một câu châm ngôn nói rằng một khi đã đổ sữa vào trong nước, bạn sẽ không thể tách sữa ra khỏi nước được nữa. Trong phần lắng nghe giáo pháp, chúng ta được khuyến tấn nên tiếp cận “phần sữa ở bên ngoài cốc nước”. Điều này hàm chỉ mặc dù có rất nhiều điều có thể tìm học, song bạn phải biết ưu tiên và lựa chọn những gì cần thiết nhất.

Page 17: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Học tập hoặc nghe giáo pháp cũng được coi là thực hành

Học tập hoặc lắng nghe giáo pháp rất được chú trọng trên con đường thực hành Phật Pháp. Học tập hoặc nghe giáo pháp cũng được coi là thực hành. Thông thường người ta thường hiểu nhầm về hai mối quan hệ này. Họ cho rằng việc học trên sách vở và ứng dụng vào thực tế là hai việc hoàn toàn khác nhau. Nhiều người quan niệm việc thực hành chỉ bao gồm quán tưởng Bản tôn và trì tụng chân ngôn chứ không liên quan đến học đọc. Đôi khi họ lại nghĩ rằng nghiên cứu là rất tốt nhưng chỉ là tri thức đơn thuần không giúp bạn tích lũy nhiều công đức. Tuy nhiên, sự thật là việc học đọc Phật pháp cũng là phương cách giúp tăng trưởng trí tuệ, hiểu biết và trưởng dưỡng nội tâm. Học tập thực sự cũng là cách thức tốt để tích luỹ công đức.

b. Trí tuệ thứ hai: Suy ngẫm giáo pháp

Giai đoạn thứ hai của phát triển trí tuệ là tiến trình suy ngẫm tư duy sâu xa về những gì bạn đã lắng nghe. Trong trường hợp này, suy ngẫm giống như thiền định phân tích. Thực hành Phật pháp bao gồm phân tích kỹ lưỡng các ý nghĩa, nội dung của giáo pháp và làm sáng tỏ các dẫn chứng, minh họa cho nội dung đó. Những phân tích này sẽ tạo nền tảng cho trí tuệ thứ ba: trí tuệ thiền định.

Khi suy ngẫm về giáo pháp khai thị, bạn cần phải loại bỏ đi những chấp trước, định kiến cố thủ và sở tri chướng sẵn có nơi mình.  Hãy để những gì bạn suy ngẫm thâm nhập vào tâm bạn và tạo ra những trải nghiệm. Như Đức Jesun Milarepa đã dạy rằng “trải nghiệm giống như sương mù, chúng sẽ tan biến đi”, nghĩa là tất cả những trải nghiệm bạn đã có trong thực hành dù là hỷ lạc, trong sáng, không vọng tưởng… tất cả cuối cùng đều sẽ tan biến giống như sương mù buổi sáng.

Để phát triển được trí tuệ thông qua suy ngẫm hoặc phân tích, quán chiếu, bạn cần kiểm tra các luận chứng về những gì đã nghe, đã học một cách kỹ lưỡng. Lý do là khi suy nghĩ vấn đề gì lần đầu tiên, bạn thường hiểu được một khía cạnh. Khi bạn suy ngẫm lần nữa, bạn hiểu thêm một khía cạnh khác, và khi nghĩ đến lần thứ ba, sự hiểu biết của bạn sẽ trở nên sâu sắc đầy đủ hơn. Khi tư duy một vấn đề gì đó theo cách này, bạn sẽ hiểu tại sao sự trải nghiệm được ví giống như sương mù.

Chúng ta thực hành suy ngẫm như thế nào? Thiền định tư duy hay thiền quán có nghĩa là suy ngẫm, quán chiếu về một đề mục nhất định. Chúng ta ngồi xuống khoảng mười phút, hai mươi phút và suy nghĩ về đề mục đã chọn. Khi tâm đi lạc hướng, chúng ta điều tâm trở lại về đề mục này. Chúng ta thường thực hành thiền định samatha hay thiền chỉ giảm bớt vọng tưởng mà ít khi thực hành thiền quán hơn. Thiền quán sử dụng các đối tượng thiền định bên ngoài mà không dùng hơi thở, chẳng hạn chúng ta có thể thiền quán về khổ đau, vô thường, nhân quả nghiệp báo, hay tình yêu thương, lòng từ bi ban trải đến mọi người.

Ví dụ như, khi thiền quán về khổ đau, vô thường, chúng ta sẽ trưởng dưỡng được niềm tin, khả năng đối diện một cách tự tại, thư giãn trước các vấn đề mà người bình thường hay né tránh. Khi ngồi xuống, thiền quán và nhìn thẳng vào khổ đau, vô thường, có thể chúng ta dấy khởi những cảm xúc tiêu cực hay thậm chí bị sốc trước những sự thật được phơi bày như vô thường và cái chết. Song vì cái chết chắc chắc sẽ xảy đến với bất kỳ ai, chúng ta sẽ nhận ra được sự thật và chân lý của vũ trụ. Tất cả những trải nghiệm như vậy đều ảnh hưởng đến thân, tâm, các trạng thái cảm

Page 18: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

xúc, tạo động lực giúp chúng ta phải nhìn nhận và xem xét lại quãng đời còn lại của mình. Điều này cũng giống như khi bị ốm nặng phải nằm trên giường bệnh, chúng ta thường bắt đầu suy ngẫm về cuộc đời mình. Bạn suy ngẫm về bản thân, hồi tưởng về những gì đã làm trong quá khứ, nghĩ về những gì bạn bạn muốn làm, những gì đáng lẽ bạn không nên làm, đưa ra các nhận định mới về cuộc sống và ý nghĩa cuộc sống trên từng phương diện trải nghiệm. Đây chính là phương pháp tư duy thiền định. Bạn suy ngẫm, mở ra  những chân trời hiểu biết sâu sắc và thay đổi cách nhìn nhận với thế giới bên ngoài.

c. Trí tuệ thứ ba: thực hành thiền định

Chúng ta đón nhận những khai thị từ bậc Thầy, sau đó suy ngẫm tư duy về những gì đã học, so sánh với những trải nghiệm cá nhân trước đây để công nhận hay phủ định những khai thị này. Chúng ta kiểm tra và phân tích ở mức độ lý thuyết với những gì chúng ta được nghe để xác minh tính xác thực và độ chính xác của giáo pháp. Điều này rất lợi ích nhưng lại không giúp mang lại những trải nghiệm thực chứng tự tính tâm.

Vì vậy, chúng ta cần thiền định, tiếp cận một cách trực giác và trung đạo để làm quen với trực nhận tự tính tâm mà không nghiên cứu mổ xẻ về mặt tri thức. Không giống như cách thiền định phân tích tìm cách chia chẻ và cụ thể hóa bản chất tâm để nghiên cứu chính nó, cách tiếp cận này bao gồm kéo dài thực tại “tỉnh thức nguyên sơ” trong tự tính tâm căn bản để hé lộ chính nó: “từ tâm đến tâm”. Thay vì nghiên cứu “tâm” là gì, qua phương pháp thiền định chúng ta thư giãn mở ra cánh cửa tâm, để tâm phát lộ tự tính một cách tự nhiên không tạo tác. Đặc trưng của giai đoạn này là không có chủ thể nghiên cứu và cũng không có đối tượng được nghiên cứu, không có chủ thể và khách thể, chỉ có thực tại tỉnh thức mà trong đó tự tính tâm được hiển lộ. Tại mức độ này, chúng ta không còn quan sát tâm như thiền định phân tích, thay vào đó, chúng ta nhìn mà không nhìn, hiểu mà không nghĩ, nhậm vận mà không nỗ lực.

Tất cả ba trí tuệ có thể được gọi một cách hợp lý là thiền định

Phương pháp cốt yếu của con đường đạo là phát triển trí tuệ. Để đạt được mục tiêu này chúng ta cần phải liên tục trưởng dưỡng việc lắng nghe, suy ngẫm, và thiền định. Cả ba phẩm chất này cần phải phát triển đồng đều và thường xuyên thì mới đem lại sự chứng ngộ, làm hiển lộ trí tuệ căn bản và tiêu trừ vô minh.

Thực tế là tất cả ba giai đoạn của con đường đạo bao gồm Văn, Tư, Tu có thể được gọi chung một cách hợp lý là thiền định. Theo ngôn ngữ Kim Cương thừa, từ “trưởng dưỡng” và “thiền định” có nghĩa gần  nhau. Cả hai từ này đều có cùng nguồn gốc về mặt nguyên từ, giống như sự chơi chữ. Trong một bài đạo ca, đức Milarepa từng khai thị rằng “Nếu đó không phải là thiền định thì là trưởng dưỡng. Trưởng dưỡng có nghĩa là chuyên môn”. Nói một cách khác, khi giáo pháp được trưởng dưỡng, huân tập và tạo điều kiện phát triển đầy đủ thì sẽ trở thành chuyên nghiệp, nhậm vận trong tâm chúng ta. Văn, Tư, Tu là tất cả giai đoạn cần phải được trưởng dưỡng để đạt được trí tuệ hay nói tóm lại, tất cả đều là khía cạnh của thực hành thiền định. Quan kiến Phật giáo nhìn nhận ý nghĩa vai trò của học tập, suy ngẫm và thiền định là hợp nhất, ngang bằng, không có gì khác biệt!

4. Quả vị tu tập của Nguyên thủy Phật giáo

Page 19: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Trước khi chứng quả Vô sinh A la hán, trong quá trình thực hành tu tập giáo pháp Nguyên thủy, hành giả lần lượt chứng đạt ba quả vị:

Quả Dự lưu: hành giả tu tập đạt đến trình độ ý thức sáng suốt, không còn bị mê lầm, phá được ba kiết sử là thân kiến, giới cấm thủ và nghi hoặc. Hành giả chứng đạt quả vị này chắc chắn sẽ giải thoát, không bao giờ còn bị rớt vào ba đường ác, lâu nhất trong vòng bảy kiếp sẽ chứng quả A la hán.

Quả Nhất lai: sau khi chứng đạt quả vị thứ nhất, tiếp tục tu tập, hành giả phá trừ được một phần của hai kiết sử tham và sân; tuy nhiên, tham và sân vi tế vẫn ẩn tàng. Hành giả phải tái sinh lại một lần nữa để tu tập đoạn trừ nốt mê lầm.

Quả Bất lai: hành giả đoạn sạch hai kiết sử tham và sân, dứt hết mê lầm nên không phải tái sinh vào cõi Dục thêm nữa mà sinh về cõi trời Sắc cứu kính và tiếp tục tu tập để đoạn dứt vi tế hoặc.

Cuối cùng, hành giả chứng đắc quả Vô sinh A la hán, thoát khỏi sinh tử luân hồi.

Bardo – Nghệ Thuật Sinh Tử: 4. Tứ Diệu Đế Hợp Pháp Với Bardo

10:33 09/08/2013 Xem : 210

Với tâm chí thành hướng về bậc Kim Cương Thượng sư, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa và để chào mừng Hội nghị Thường niên chư Thượng sư Truyền

thừa Drukpa (tổ chức trong khoảng thời gian từ 29/8-05/9/2013 tại  tại Tự viện Hemis, Ladakh, Ấn Độ),  chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu những vấn đề cơ bản nhất của tiến trình giác ngộ, được trích lược từ ấn phẩm “Bardo – Bí Mật Nghệ

Thuật Sinh Tử”, một tác phẩm của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa do Drukpa Việt Nam chuyển dịch, phát hành trong năm 2012:

(Các bài trích lược trước của mục Nghệ Thuật Sinh Tử có thể được truy cập tại đây)

Page 20: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Phần I - Nguyên thủy Phật giáo

VI. Tứ Diệu đế hợp pháp với Bardo

Giáo lý Bardo trong Phật giáo Kim Cương thừa có sự liên hệ mật thiết tới Tứ Diệu đế. Tất cả các tiến trình Bardo đều thể hiện một cách cụ thể và sâu sắc chân lý Khổ trong Tứ đế. Những trải nghiệm và phản ứng của chúng sinh trong các tiến trình đó đều bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa là vô minh chấp ngã, sinh ra căn bản phiền não. Ở một khía cạnh khác, giáo lý Bardo còn chỉ ra rằng hành giả ứng dụng tu tập thực hành theo phương pháp của Bardo có thể siêu việt khổ đau và chấm dứt sinh tử luân hồi - điều này tương ứng với Đạo đế. Các quả vị mà hành giả đạt được từ thực hành tu tập Bardo bao gồm chứng đắc Tam thân chính là tương ứng với Diệt đế trong giáo lý Tứ đế.

a. Khổ đế hợp pháp với Bardo

Giáo pháp Bardo bao quát toàn bộ nỗi khổ về thân và tâm. Trong Bardo đời sống, ngoài sinh, già, bệnh, chết là sự thật hiển nhiên của khổ, chính sự chi phối mạnh mẽ của tham, sân, si là gốc rễ căn bản tạo nên các nghiệp lực tiêu cực và mọi cảm thụ khổ đau trong hiện đời, đồng thời khiến ta tiếp tục xoay vần trong luân hồi ác đạo.

Page 21: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Trong các tiến trình Bardo cận tử và tái sinh, các hiện tượng khổ đau càng được mô tả rõ nét và khủng khiếp hơn nữa. Nếu đã đọc qua chương II, bạn hẳn có cảm nhận sâu sắc về những nỗi sợ hãi, thống khổ này. Điều tôi muốn nói là, toàn bộ những khổ đau như vậy, dù được thể hiện dưới hình thức nào, cũng không xa rời sự thật Khổ đế nói về đau khổ của thân và bất mãn của tâm. Mọi hiện tượng Bardo đều không xa rời bản chất vô thường, khổ, không, vô ngã của vạn pháp.

Khổ đau về Thân

Trong đời sống, vì có thân nên con người phải đón nhận vô vàn khổ đau. Đôi khi tứ đại và các luồng khí của thân thể bạn gặp một số vấn đề, gọi là mắc bệnh, đau ốm. Dù bệnh nặng hay nhẹ, bạn đều cảm thấy khổ sở, khó chịu. Nhưng chúng ta không thể đem so sánh những trục trặc nho nhỏ đó với quá trình phân ly và tan rã vĩnh viễn của tứ đại và ngũ uẩn trong giai đoạn Bardo cận tử. Những nỗi khổ thể xác lúc đó được đẩy lên đỉnh điểm. Ở tiến trình tan rã bên ngoài, người chết trải nghiệm cảm giác đau đớn và sợ hãi phi thường, bắt đầu bằng việc dần mất khả năng kiểm soát của tất cả mọi bộ phận, sự mất cảm giác của mọi cơ quan (các căn) và sự suy sụp dần các chức năng của cơ thể. Quá trình các luân xa lần lượt ngưng hoạt động và các đại lần lượt hòa tan vào nhau gắn liền với trải nghiệm vô cùng đau đớn như hơi ấm cơ thể tan biến, mất khả năng của cả hai đường bài tiết, hô hấp, cử động khó khăn tứ chi tê liệt... Người chết trải nghiệm những cảm giác khủng khiếp như rơi xuống vực thẳm không đáy, nhìn thấy hình ảnh phóng chiếu của ác quỷ, quái vật, chịu cảnh cắn xé phanh thây thành trăm vạn mảnh…, tất cả những trải nghiệm này đều thực sự kinh khiếp, ghê rợn.

Trong nhiều trường hợp, đặc biệt với xã hội hiện đại, khi cái chết bên ngoài vừa hoàn tất nhưng tiến trình chết bên trong vẫn đang diễn ra, người chết đã bị đưa vào nhà lạnh, bị mổ khám nghiệm tử thi, đem chôn hay hỏa táng. Như thế, người đó càng thêm bội phần đau đớn, chẳng khác nào bị đem chôn sống, thiêu sống hay bị đẩy vào địa ngục hàn băng.

Khổ đau về tâm

Trong tất cả mọi nỗi khổ của Bardo, nỗi khổ về tâm chiếm vai trò chi phối và kéo dài ngay cả khi chúng ta đã chết. Nỗi khổ về tâm thể hiện ở sự sợ hãi, không chấp nhận cái chết của “cái tôi” trong giai đoạn Bardo cận tử. Việc phải đối mặt với cái chết, biết rằng mình sẽ chết tạo nên một chấn động tâm lý rất lớn bởi lúc đó người chết sẽ nhận ra toàn bộ tài sản, mối quan hệ và sự sở hữu thế gian chỉ là phù phiếm, tất cả đều bị bỏ lại và không giúp ích gì. Lúc này, vì sợ hãi, vì thiếu chuẩn bị hành trang tâm linh, vì còn tham luyến cuộc sống, vì sân hận, bất mãn với những gì đang xảy đến với bản thân, nên nỗi khổ sở, đau đớn của người chết càng được phóng đại lên. Đây chính là những màn khổ đau tột cùng của con người.

Đặc biệt trong giai đoạn Trung ấm thân, vì vô minh, mê mờ, thần thức vẫn hoàn toàn chưa nhận ra mình đã chết và vẫn còn bám chấp mạnh mẽ vào đời sống vừa qua cùng những sở hữu của mình trong đời sống đó như gia đình, chồng vợ, tài sản, nhà cửa… Sự chấp trì kiên cố đó mang lại cho thần thức cảm giác đau đớn, hoang mang, cô độc, sân hận, oán ghét,… khi không thể giao tiếp với bạn bè hoặc người thân, hay chứng kiến những việc bất như ý như tài sản của mình bị phân chia, định đoạt bởi những người đang sống, vợ chồng con cái không thực lòng quan tâm, lo lắng đến mình, họ hàng, quyến thuộc vui mừng trước cái chết của mình…

Page 22: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Do không còn bị ngăn ngại bởi xác thân vật lý, tâm thức càng trở nên phóng chiếu, điên đảo và khó kiểm soát. Khi mỗi niệm vừa dấy khởi, thần thức lập tức bị cuốn đi trôi dạt khắp nơi theo gió Nghiệp, không thể trụ lại bất cứ nơi nào. Chẳng hạn, vừa khởi lên ý nghĩ về một nơi nào đó, thần thức sẽ lập tức đến ngay nơi này. Rồi trong tức khắc, thần thức lại đi tiếp đến nơi khác, sự vọng động như vậy khiến thần thức vô cùng mỏi mệt. Dù không mong muốn nhưng thần thức vẫn phải lang thang vô định khắp nơi trong sợ hãi, đói khát, buồn khổ, tham chấp, sân hận. Bên cạnh đó, trạng thái tâm thức lúc thì sáng suốt, khi lại mờ mịt càng làm gia tăng nỗi hoang mang, sợ hãi, mất phương hướng. Khi bất ngờ nhận ra mình đã chết thật sự, thần thức sẽ trải nghiệm tột đỉnh của đau đớn, bàng hoàng, tới mức rụng rời, ngất lịm, giống như phải chết thêm một lần nữa vậy.

Thần thức còn bị sợ hãi kinh hoàng do những âm thanh ghê rợn, trực tiếp, sống động như tiếng núi lở ầm ầm, đại dương hung nộ, cơn bão cuồng phong hay đám cháy đại ngàn gây nên bởi tâm vọng tưởng, tứ đại vi tế và những ác nghiệp. Không nhận ra chư Phật Bách tôn An bình và Uy mãnh thị hiện để cứu độ mình, thần thức càng vô cùng sợ hãi trước sự xuất hiện của các Ngài với vô số đầu, tay, cùng muôn vàn tia sáng, giọt sáng, cầu sáng chói lòa kích động tâm thức, tưởng như nghe thấy tiếng gào thét “Giết nó đi! Chém nó đi!”. Thần thức kinh hoàng thấy mình bị rơi xuống vực sâu lạnh lẽo, thăm thẳm không đáy mà không biết rằng đó chỉ là sự phóng chiếu của Tam độc.

Như vậy, trong suốt tiến trình của các trạng thái trung gian Bardo, khổ đau luôn song hành cùng bạn qua mọi giai đoạn, từ Bardo thức, mộng ngủ (Bardo đời sống) cho tới Bardo chết và tái sinh. Thay vì tận dụng những cơ hội giải thoát quý giá, bạn trầm chìm trong các trải nghiệm khổ đau của các Bardo mà không nhận ra những gì mình trải nghiệm đều là sự phóng chiếu của tâm thức và nghiệp.

b. Tập đế hợp pháp với Bardo:

Nguyên nhân chấp ngã (tham, sân, si)

Qua toàn bộ tiến trình Bardo, có thể thấy mọi nỗi sợ hãi, khổ đau của chúng ta đều xuất phát từ các phiền não căn bản là vô minh chấp ngã, tham lam bám chấp và sân hận. Vì vô minh, người chết không thể xả ly sự chấp ngã hay “cái tôi” ngũ uẩn giả hợp, do đó không thể chấp nhận cái chết. Vì tham lam, thần thức luôn hướng về đời sống cũ, thèm khát, bám luyến vào những mối quan hệ tình cảm với gia đình, người thân, muốn khẳng định quyền sở hữu với tài sản và tất cả mọi thứ bị bỏ lại. Sự bám chấp mạnh mẽ, vô nghĩa và tuyệt vọng đó kéo theo cảm giác bất mãn, bất an, sân hận, kinh hãi ngập tràn. Nếu có chút thức tỉnh về triết lý vô thường, khổ, không, vô ngã, thần thức có thể chủ động an định thân tâm, quán chiếu bản chất huyễn ảo của thân, tâm, cảnh, xả bỏ bám chấp buộc ràng và bình tĩnh tự tại đón nhận cái chết. Khi đó, những khổ đau về mặt thể xác sẽ giảm thiểu rất nhiều và đau đớn tinh thần sẽ hoàn toàn được loại bỏ.

Nghiệp lực

Ngoài những trải nghiệm khổ đau bắt nguồn từ tâm phiền não nhiễm ô, các giai đoạn Bardo còn đề cập đến sự khổ đau do Nghiệp lực gây ra. Nếu một người đã huân tập rất nhiều thiện nghiệp trong đời sống, khi cái chết xảy đến, người đó có thể được chư Phật, Bồ tát tiếp dẫn về cõi Tịnh độ của các ngài. Ngược lại, nếu ác

Page 23: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

nghiệp sâu dày, thần thức người chết sẽ trải nghiệm những ác cảnh vô cùng khủng khiếp như những binh đoàn người và thú dữ ghê rợn tới đòi mạng sống của mình. Giáo lý Bardo cũng nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cận tử nghiệp quyết định giải thoát hay đọa lạc. Trước giờ phút cái chết, chúng ta phải biết tích lũy, thực hành thiện nghiệp, hướng tâm chí thành lên Thượng sư, tuyệt đối tránh khởi sân hận hay ác niệm bởi điều này có thể dẫn dắt thần thức đọa thẳng vào ba đường dữ.

Nghiệp cũng chi phối những đau đớn, khổ sở về mặt thân xác trong quá trình tứ đại phân ly, hay phóng đại những cảm thụ khổ đau của thần thức. Tất cả mọi hiện tướng đáng sợ và khổ đau đều có nguyên nhân sâu xa do nghiệp lực và sự phóng chiếu của vọng tâm, chẳng hạn như trải nghiệm kinh hoàng về bốn loại âm thanh ghê rợn hay những hình ảnh dữ dội trong Bardo tái sinh. Ngoài ra, chính Nghiệp lực quyết định nơi mà thần thức sẽ tái sinh. Ví dụ, nếu có xu hướng nghiệp của loài Súc sinh, thần thức sẽ có những dấu hiệu vận động và cảm thụ giống loài vật tương ứng và hướng đầu thai vào cõi này.

Mười hai nhân duyên

Chuỗi mười hai nhân duyên giải thích cho sự vận hành sinh tử không cùng tận của Bardo, từ căn bản vô minh dẫn đến sự tạo tác của các hành nghiệp quá khứ là nguyên nhân của Bardo tái sinh hiện tại. Rồi từ Bardo đời sống hiện tại, mười hai nhân duyên tiếp tục được thiết lập, đi theo tiến trình sinh lão bệnh tử, rồi lại tiếp tục làm nhân cho những đời sống tái sinh trong tương lai.

c. Diệt đế hợp pháp với Bardo

Hành giả Kim Cương thừa có thể chứng đạt quả vị Tam thân Phật: Pháp thân, Báo thân và Hóa thân. Các quả vị này được trình bày chi tiết ở phần Quả Đại Thủ Ấn (chương III, phần IV). Tam thân Phật đạt được nhờ thực hành tu tập các giai đoạn Bardo tương ứng với Pháp, Báo, Hóa thân. Pháp thân có thể được chứng ngộ vào giai đoạn trung gian Bardo chết, Bardo Pháp tính lúc ngủ cũng như khi thiền định; Báo thân có thể được chứng ngộ trong Bardo giữa chết và tái sinh, Bardo mộng và Bardo thân vi tế khi thức; Hóa thân có thể được chứng ngộ vào giai đoạn Bardo tái sinh và Bardo thân thô lậu khi thức.

d. Đạo đế hợp pháp với Bardo

Điểm độc đáo của giáo lý Bardo là khai thị hết sức rõ ràng về cách thức, phương pháp tu tập để chứng ngộ giải thoát trong từng giai đoạn Bardo cụ thể. Trong suốt hành trình Bardo vào mọi thời từ những lúc thức, ngủ, mộng, khi thiền định hay khi phải trải nghiệm vô số cảm thụ đau đớn, sợ hãi, thống khổ của cái chết và sự tái sinh, giáo pháp Bardo khế hợp hoàn toàn với Tứ Diệu đế, luôn nhấn mạnh vào việc bạn cần nhìn nhận được bản chất như huyễn của vạn pháp, cần thực hành tâm xả ly, cởi bỏ sân hận và bám chấp, phát tâm Bồ đề, thực hành Lục độ, Trung đạo cho tới các phương pháp thiện xảo của Kim Cương thừa. Bạn thực hành giai đoạn phát triển và thành tựu, quán tưởng Bản tôn, thể nhập Báo thân hoặc Pháp thân thực chứng Đại Thủ Ấn tương ứng với những cơ hội giải thoát trong các giai đoạn Bardo khác nhau. Vì vậy, giáo pháp Bardo không nằm ngoài sự trình bày những phương pháp thực hành của Đạo đế ở phần trước và sẽ được giảng giải chi tiết hơn trong các phần tiếp theo của Chương III này.

Page 24: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Bardo – Nghệ Thuật Sinh Tử: 5. Trung đạo - Bồ đề tâm

04:25 14/08/2013 Xem : 187

Với tâm chí thành hướng về bậc Kim Cương Thượng sư, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa và để chào mừng Hội nghị Thường niên chư Thượng sư Truyền

thừa Drukpa (tổ chức trong khoảng thời gian từ 29/8-05/9/2013 tại  tại Tự viện Hemis, Ladakh, Ấn Độ),  chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu những vấn đề cơ bản nhất của tiến trình giác ngộ, được trích lược từ ấn phẩm “Bardo – Bí Mật Nghệ

Thuật Sinh Tử”, một tác phẩm của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa do Drukpa Việt Nam chuyển dịch, phát hành trong năm 2012:

(Các bài trích lược trước của mục Nghệ Thuật Sinh Tử có thể được truy cập tại đây)

Phần II. Đại thừa Phật giáo

I. Trung đạo

Trên hành trình dẫn đến giác ngộ chúng ta phải tránh cạm bẫy của hai thái cực, một bên là sự đam mê chạy theo những tham vọng của bản thân, bên kia là thái cực ngược lại, dồn ép mình vào những nguyên tắc cứng nhắc, khổ hạnh, hành hạ thân và tâm một cách bất hợp lý.

Con đường dẫn đến giác ngộ và trí tuệ của Tứ Diệu đế siêu vượt hai thái cực trên, giúp ta đạt được sự cân bằng và an bình nội tâm. Con đường này gọi là Trung đạo, được xây dựng trên nền tảng Bát chính đạo gồm Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mạng, Chính tinh tấn, Chính niệm, Chánh định.

Page 25: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Có thể nói, Trung đạo là con đường xa lánh hai cực đoan chấp có hoặc chấp không, chấp trường tồn hay chấp đoạn diệt. Trung đạo cũng chính là chân lý bất nhị, hợp nhất cả hai thái cực “có” và “không”. Với quan kiến Trung đạo, bạn cần nhận ra mọi trải nghiệm trong cuộc sống đều là sự phóng chiếu của tâm. Do hiểu rằng mọi thứ đều không thực sự tồn tại, đều là giả huyễn nên bạn không bám chấp thái quá vào cuộc sống. Bên cạnh đó, bạn cũng cần tôn trọng tất cả bởi thấy rằng tuy không thật nhưng chúng vẫn đang tồn tại. Vạn pháp xuất hiện và biến mất do những nguyên nhân từ vô thủy. Những chúng sinh vô minh cho rằng vạn pháp trong cuộc sống này tồn tại hay không tồn tại nhưng người có trí tuệ sẽ nhìn cuộc sống siêu vượt hai phạm trù tồn tại và không tồn tại.

Trung đạo không chỉ là cách nhìn nhận, hiểu biết về bản chất của cuộc sống và tự tính của vạn pháp. Nó còn là phương pháp tu tập thực hành giúp bạn tiêu trừ vô minh, xa lìa đau khổ, có được trí tuệ và an vui ngay trong đời hiện tại.

Chẳng hạn khi nhìn các sắc tướng, ta có thể khởi tâm phân biệt rằng chúng tốt hay xấu, đẹp hay không đẹp. Nhưng nếu áp dụng Trung đạo, bạn cần sáng suốt nhận ra rằng dù đẹp hay xấu đều, tất cả cùng là sự ngộ nhận, phóng chiếu của tâm mà thôi. Bạn có sự phóng chiếu của riêng bạn khi cho rằng bông hoa này đẹp. Nhưng người khác cũng lại có sự phóng chiếu riêng khi nói rằng bông hoa đó xấu. Nếu hiểu lý Trung đạo, bạn có thể buông xả và chấp nhận sự khác biệt này. Ngược lại, nếu cố chấp mãi vào quan kiến cá nhân thì điều này có thể phát sinh mâu thuẫn, xung đột như những gì thường thấy trong đời sống hiện nay.

Đối với âm thanh cũng vậy, bạn cần quán chiếu để nhận ra bản chất của mọi loại âm thanh, dù là du dương, dễ chịu hay đinh tai, khó nghe, dù là lời khen hay tiếng chê, đều giống nhau về mặt bản chất, đều không có thật tính và đều do duyên hợp mà thành.

Việc áp dụng thực hành Trung đạo đối với các xúc tình cũng tương tự. Chúng ta cần hiểu rằng các trạng thái tâm tham lam, sân hận, phiền não đều là vô thường, đều không có tự tính, do vô minh và chấp ngã gây nên. Trí tuệ Trung đạo quán chiếu những xúc tình tiêu cực thấy rõ chúng vốn không phải là tiêu cực. Khi chúng ta cảm thấy giận dữ, hãy tự hỏi mình giận dữ có bản chất không? Cách tiếp cận đúng đắn là, khi sân giận phát khởi, thay vì để bản năng phóng chiếu và phản ứng theo trạng thái sân giận đó, hãy buông xả để nó tự nhiên và an trụ trong trạng thái này. Khi đó, sân giận sẽ tự nhiên được trả về bản chất của chính nó, tức về Trung đạo, vượt qua những khái niệm về giận hay không giận, nó sẽ biến mất. Cách thực hành tương tự cũng cần áp dụng cho cảm thụ hạnh phúc, khổ đau và tất cả những xúc tình tích cực hay tiêu cực mà chúng ta phải đối diện và trải nghiệm.

Nói tóm lại, Trung đạo dạy bạn biết đón nhận tất cả mọi thứ, tự nhiên như nó vốn là, không khởi tâm chấp trước, phân biệt hay vọng tưởng nhị nguyên. Hiểu và thực hành được như thế sẽ giúp bạn thấu tỏ được bản chất của cuộc sống và đạt được tự tại vô ngại.

II. Bồ đề tâm

Bồ đề tâm còn gọi là “Bodhicitta”, trong đó “Bodhi” nghĩa là “giác ngộ”, còn chữ “citta” là “tâm”, ghép lại là Bodhicitta hay tâm giác ngộ. Như vậy, Bồ đề tâm mang nghĩa trí tuệ hiểu biết thấu triệt, giác ngộ toàn bộ vũ trụ. Bodhicitta cũng có nghĩa là

Page 26: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Từ bi hợp nhất với Trí tuệ, bởi “Bodhi” hay giác ngộ chính là Trí tuệ còn  “citta” - tâm hay trái tim - chính là Từ bi. Hai yếu tố từ bi và trí tuệ luôn cần kết hợp song hành với nhau. Nếu có trí tuệ mà không có tình thương yêu thì trí tuệ đó không phải trí tuệ chân chính. Trí tuệ này không có giá trị gì, chẳng hướng đến một hoạt động lợi ích nào. Từ bi là công cụ, là hoạt động, cho nên sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu trí tuệ không được khai triển qua năng lực hoạt động của tình yêu thương. Chẳng hạn, bạn có rất nhiều ý tưởng, muốn làm rất nhiều việc tốt cho xã hội, nhưng lại không có tay để viết, không có mắt để nhìn, không có chân để đi, tức là chẳng có gì cả, chỉ có bộ óc nghĩ ra nhiều điều tốt đẹp mà không có công cụ để thực hiện. Tương tự như vậy, nếu không có lòng từ bi thì trí tuệ trọn vẹn nào có ý nghĩa.

Ngược lại, nếu không có trí tuệ thì lòng từ bi sẽ trở thành bản năng, hoang dã và chẳng đem lại lợi ích, dù bạn có tình thương yêu rộng lớn thì cũng sẽ đi sai đường. Loài người chúng ta phải đối diện với rất nhiều vấn đề rắc rối, chỉ vì tình thương không được dẫn dắt bởi trí tuệ. Không những loài người mà loài vật cũng vậy. Chúng ta có bản năng rất mạnh, nhưng do thiếu trí tuệ, chúng ta sử dụng tình cảm vào rất nhiều mục đích khác nhau, đôi khi tình cảm chính là ái dục, có khi nó lại được sử dụng để làm hại người khác. Vô số hành động xấu ác như tổn hại, giết hại chúng sinh, lừa đảo,… đều do ái dục gây nên. Kết quả của ái dục này là sự hủy diệt. Tình thương yêu chân thật cần được sử dụng để xây dựng chứ không phải phá hủy. Ái dục cũng chính là nguyên nhân của mọi đau khổ, nó dẫn dắt chúng ta trôi lăn trong sinh tử. Vậy, bạn phải biết cách chuyển hoá chúng để đem lại lợi ích cho chính mình và mọi người. Đó chính là Từ bi hay Bồ đề tâm chân thực.

Để tu tập viên mãn Bồ đề tâm, chúng ta cần qua ba thứ lớp là: Cầu nguyện, Thiền định, Hành động thiết thực.

Cầu nguyện được hiểu là chia sẻ và sự chia sẻ đó cũng chính là con đường quan trọng để đạt đến Trí tuệ. Thông qua cầu nguyện, bạn chia sẻ tình yêu thương, niềm hạnh phúc và nguyên nhân của hạnh phúc cùng các công đức mà bạn đã tích luỹ. Bằng cách đó, chúng ta thấu hiểu hạnh phúc của người khác và của chúng sinh quan trọng như thế nào. Cũng bằng cách này, chúng ta không còn khư khư bám chấp vào lợi ích bản thân để phát triển hiểu biết chân thực rằng tất cả mọi người cho đến mọi loài đều mong cầu hạnh phúc bình đẳng như nhau. Hiểu biết đó chính là trí tuệ. Sau khi phát triển được trí tuệ này, tình thương yêu hay các hoạt động lợi tha sẽ trực tiếp hướng về mọi người mọi loài không phân biệt hay vị kỷ. Bạn cần phát tâm rộng lớn, cầu nguyện cho sự giải thoát của tất cả chúng sinh. Sự cầu nguyện rộng lớn như vậy sẽ đem lại công đức vô cùng, còn nếu chỉ cầu nguyện cho bản thân mình thì công đức chỉ bé nhỏ như hạt cải.

Cách thứ hai để phát triển Bồ đề tâm là phát triển trí tuệ thông qua thực hành thiền định về trí tuệ và lòng từ bi. Chúng ta phải tư duy quán chiếu về việc làm thế nào để có được hạnh phúc chân thật. Muốn vậy, chúng ta phải biết cách làm cho mọi người, mọi loài xung quanh được hạnh phúc. Nếu chỉ bản thân mình hạnh phúc mà mọi người xung quanh đau khổ, thì hạnh phúc đó không thể nào chân thực, bền lâu. Ví dụ trong một gia đình có ba người, sẽ không thể nào có việc một người rất hạnh phúc, trong khi hai người kia đau khổ, chẳng hạn người vợ rất hạnh phúc trong khi chồng và con chịu khổ đau. Hay, để đạt được hạnh phúc vị kỷ của riêng mình, chúng ta sẵn sàng giết hại chúng sinh, sẵn sàng chà đạp lên khổ đau của người khác. Điều này giống như một người mù muốn vị ngọt nhưng lại ăn ớt thì vị ngọt sẽ không bao giờ có được. Cũng như thế, khi gieo “nhân” đau khổ cho những chúng

Page 27: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

sinh khác, chúng ta sẽ không thể nào trải nghiệm “quả” hạnh phúc.  Hoặc như, nếu có điều gì buồn chán, chúng ta có thể uống rượu giải sầu, tìm chút vui thú nguôi ngoai trong vài tiếng đồng hồ. Khi cảm giác hạnh phúc giả tạm này chấm dứt, chúng ta lại phải chịu đựng đau khổ do gan bị thiêu đốt, tuổi thọ bị rút ngắn, ngày hôm sau thân thể mỏi mệt, tinh thần rã rời, cả một ngày sẽ trôi qua lãng phí. Hạnh phúc theo nghĩa của đạo Phật là hạnh phúc chân thật, bền chắc. Cách duy nhất để có được chân hạnh phúc này là bạn cần nỗ lực làm cho mọi người hạnh phúc. Đó là cách thứ hai để phát triển Bồ đề tâm tức là thiền định về từ bi và trí tuệ.

Như vậy, bạn cần thực tập cầu nguyện và thiền định thật sự sâu sắc, nhuần nhị. Bằng cách này, bạn từng bước trưởng dưỡng trí tuệ và tâm từ bi, để Bồ đề tâm được chín muồi, sau đó, bạn mới nỗ lực thực hiện các thiện hạnh như bố thí, cứu trợ, cho thuốc, giúp đỡ người tật nguyền, nghèo khó, bảo vệ động vật, bảo vệ môi trường và nhiều hoạt động khác, nhằm xoa dịu những nỗi khổ đau về cả thân lẫn tâm của chúng sinh, đem lại lợi ích thiết thực cho mọi người, mọi loài.

Đối với người thực hành Bồ đề tâm, trong mỗi lời cầu nguyện, trong mỗi sự thực hành của bạn bao giờ cũng bao gồm cầu nguyện cho tất cả pháp giới chúng sinh mẹ. Nhưng thiết thực trong đời sống, bạn cần bắt đầu thực hiện Bồ đề tâm ngay trong chính gia đình mình. Bạn hãy tự vấn rằng trong gia đình, mình đã đối xử với cha mẹ, người thân với trí tuệ, bằng tâm bao dung cảm thông hay tha thứ chưa. Trong tất cả hành xử đối với những người thân, mình đã đối xử bằng tâm từ bi trí tuệ hay chưa. Khi có thể hành xử  tốt với những người thân trong gia đình, điều đó chứng tỏ rằng chúng ta đã bước được bước đầu tiên trên con đường Bồ tát hạnh và dần dần, chúng ta có thể đem hạnh phúc an vui đến cho tất cả mọi loài chúng sinh. Đây là con đường dẫn đến giác ngộ và hạnh phúc chân thực.

Bồ đề tâm tương đối có Bồ đề nguyện và Bồ đề hạnh. Bồ đề nguyện là tâm nguyện muốn giải thoát hết thảy chúng sinh và dẫn dắt họ tới giác ngộ. Còn Bồ đề hạnh là sau khi phát nguyện thực hành hạnh Bố thí, thực hành Lục độ Ba la mật và các công hạnh khác vì lợi ích hết thảy chúng sinh, bạn thực sự bắt đầu thực hành. Sự phát nguyện và thực hành này cần luôn trang bị hai phẩm chất là trí tuệ và từ bi.

Bardo – Nghệ Thuật Sinh Tử: 6. Bồ tát đạo - Lục độ Ba la mật - Thứ lớp quả vị tu tập

02:43 17/08/2013 Xem : 148

Với tâm chí thành hướng về bậc Kim Cương Thượng sư, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa và để chào mừng Hội nghị Thường niên chư Thượng sư Truyền

thừa Drukpa (tổ chức trong khoảng thời gian từ 29/8-05/9/2013 tại  tại Tự viện Hemis, Ladakh, Ấn Độ),  chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu những vấn đề cơ bản nhất của tiến trình giác ngộ, được trích lược từ ấn phẩm “Bardo – Bí Mật Nghệ

Thuật Sinh Tử”, một tác phẩm của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa do Drukpa Việt Nam chuyển dịch, phát hành trong năm 2012:

(Các bài trích lược trước của mục Nghệ Thuật Sinh Tử có thể được truy cập tại đây)

Page 28: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Phần II. Đại thừa Phật giáo

III. Bồ tát đạo - Lục độ Ba la mật

Để có thể thực hành Bồ tát đạo một cách trọn vẹn, trước hết, bạn cần phát khởi Bồ đề tâm mạnh mẽ, kiên cố, tiếp đến, bạn thực hành các thiện hạnh. Chỉ khi các thiện hạnh được thực hiện thì chúng ta mới nói đến Bồ đề tâm hạnh hay các thiện hạnh hướng về sự giác ngộ cho hết thảy chúng sinh. Thiện hạnh này chính là Sáu Ba la mật - Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tiến, Thiền định và Trí tuệ. Trong khi thực hành, bạn tiếp tục duy trì Bồ đề tâm nguyện để trợ giúp cho sự thực hành và thành tựu viên mãn.

Hạnh đầu tiên trong Lục độ Ba la mật là Bố thí Ba la mật. Thực hành đầu tiên của Bồ tát là Bố thí Ba la mật nghĩa là cho đi mà không mong đợi được đền đáp. Tất nhiên, có nhiều người cho đi rất nhiều tiền, thực hiện  nhiều  hoạt động từ thiện, kỳ vọng vào các hoạt động công đức như thế. Nhưng lý do đó không được xem là thực hành bố thí đúng đắn bởi trong sâu thẳm thâm tâm luôn có kỳ vọng. Chúng ta phải thực hành không kỳ vọng ngay cả khi cho đi rất nhiều. Điều này là rất quan trọng trong thực hành xả ly bởi Bố thí là cách tốt nhất để thực hành không bám chấp - trở ngại chính trên con đường giải thoát, giác ngộ. Bố thí Ba la mật được thực hiện trên nền tảng tình yêu thương đích thực và trí tuệ quán chiếu về bản chất vô ngã, huyễn như của vạn pháp thế gian. Vì vậy, trong Bố thí Ba la mật không có kẻ cho, người nhận hay đối tượng cho đi, bạn bố thí nhưng không bám chấp vào sự bố thí đó.

Việc thực hành bố thí cũng cần thiết như thực hành tịnh hóa hay trì giới. Bởi vì bố thí còn được hiểu là giải thoát bản thân khỏi sự bám chấp vị kỷ cũng chính là nội dung cơ bản của tịnh hóa. Các yếu tố này có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Để

Page 29: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

có thể thành tựu tịnh hóa, mục đích của trì giới, chúng ta chắc chắn cần đến sự hỗ trợ thông qua việc thực hành bố thí.

Chúng ta thường nghĩ rằng thực hành bố thí có nghĩa là cho đi một thứ gì và nói “Hãy cầm lấy thứ này! Hãy lấy bất cứ thứ gì bạn muốn! Tôi đang hào phóng. Xin hãy cầm lấy đi!” Sự bố thí này cũng là điều đúng đắn, nếu xét từ một góc độ rất nông cạn. Nhưng bí mật của bố thí là buông xả. Trước hết, đó là sự buông xả thái độ chấp ngã của bản thân. Nhờ sự buông xả đó, bạn mới có thể thấy được rằng thực sự không có “Ta” là người đang thực hành bố thí. Tiếp đến, đó cũng chính là sự xả bỏ bám chấp vào vạn pháp, thấy được tính không là bản chất của các pháp, nghĩa là hiểu rằng tất cả các pháp đều không có tự tính giống như vẻ bề ngoài hay những gì bạn thường nhìn nhận về chúng. Nhờ vậy, bạn sẽ thấy không có đối tượng được nhận bố thí, cho tới cả hành vi bố thí cũng không.

Trì giới Ba la mật cũng rất quan trọng. Trì giới giúp chúng ta tịnh hóa bản thân khỏi mọi nhiễm ô. Không có Giới, bạn sẽ không thể kiểm soát được bản thân mình. Chúng ta cần phải thụ một số giới căn bản để có được một nền tảng vững chắc. Việc trì giới của chúng ta phải được thực hành tinh tiến, thường xuyên. Đây là một làn đường chính trên con đường tâm linh. Nếu không có các làn đường, đường cao tốc sẽ rất hỗn loạn vì chúng ta không biết ai đi trước và đi ở làn đường nào, tốc độ giới hạn ra sao... Để việc lưu thông trên con đường cao tốc được thuận lợi, cần có các làn đường khác nhau: làn đường nhanh, chậm và làn đường rất chậm. Tương tự như vậy, Giới luật sẽ xác định rõ cho bạn điều gì nên làm và không nên làm. Giới luật không chỉ có ý nghĩa trên con đường tâm linh mà còn cần thiết với cả đời sống thế tục, bởi các quy định hợp lý và khoa học này sẽ giúp cuộc sống chúng ta tránh khỏi sự hỗn loạn. Đôi khi, bạn cảm thấy giới luật thật rườm rà, phiền toái. Nhưng chính hàng rào giới luật đó che chở, giúp bạn điều phục thân, tâm, kiểm soát các ham muốn luôn có xu hướng chi phối, lôi kéo bạn. Khi có Giới luật, bằng cách nào đó bạn sẽ đạt được an lạc và hạnh phúc.

Nhẫn nhục Ba la mật là một trong những pháp thực hành quan trọng nhất của con đường Bồ tát. Khi tâm khởi sân hận, bạn cần trực diện quán chiếu sân hận, nó sẽ biến thành Đại viên cảnh trí. Bằng trí tuệ quán chiếu, sự giận dữ không còn nữa. Nguyên nhân cho sự tức giận đã biến mất. Đó là phương pháp hữu hiệu nhất để đối trị sân giận. Nếu chưa thể dùng trí tuệ như vậy, hãy tư duy quán niệm đúng đắn để khi có ai kích động, hãy nhớ: “Đây là một người thầy vĩ đại vì người này đã cho tôi cơ hội tuyệt vời để thực hành nhẫn nhục”. Bạn phải thật mạnh mẽ với quyết tâm của mình để có thể thực hành điều này. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh nhẫn nhục. Trước hết, khi bạn đang đau khổ tột cùng, đừng bao giờ buông xuôi và nản chí. Bạn cần lạc quan tiếp tục thực hành thiện hạnh và cần kiên trì thực hành Phật pháp. Khi mọi điều thuận lợi suôn sẻ đến với mình, bạn cũng không nên khởi tâm kiêu mạn về bản thân. Bạn cần biết vì sao mình có được hạnh phúc và biết tri ân những gì mình đang có. Nhưng bạn cũng cần quán chiếu về lẽ vô thường để hiểu rằng tất cả những điều tốt đẹp này cũng đều là vô thường, không bền lâu. Nếu những người khác làm tốt hơn bạn, thay vì buồn rầu, bạn cần khởi tâm hoan hỷ như chính mình đang thành công giống như họ. Bởi vậy, bất cứ một tình huống nào xảy ra trong đời sống, dù là thuận duyên hay nghịch cảnh, bạn đều nên sử dụng nó như một cơ hội để thực hành. Bằng cách này, bạn thuần thục với sự thực hành trong cuộc sống để chuẩn bị cho cái chết - sự thực hành vĩ đại nhất của đời người.

Page 30: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Bồ tát hạnh tiếp theo trong Lục độ là Tinh tiến Ba la mật, sự thực hành vô cùng quan trọng giúp bạn thành tựu các Ba la mật khác. Dù có một trí thông minh sắc bén, nhưng nếu bạn thiếu chuyên cần thì trí thông minh sẽ chẳng giúp ích gì cho bạn. Trí thông minh như lửa trên cỏ khô. Cỏ khô dễ dàng bén lửa, nhưng sức cháy lại không lâu, vì vậy không thể mang lại cho bạn bất cứ điều gì. Nhưng nếu bạn tinh tiến, nó sẽ giúp cho bạn một sự hiểu biết vững chắc ngay cả khi bạn không thực sự thông minh, nhanh nhạy. Nếu không tinh tiến thì sẽ không có phương pháp nào để thành công bất cứ điều gì. Chúng ta luôn giải đãi, thường viện cớ là mình bận việc, không có đủ thời gian, sức khỏe hay năng lực. Các bạn có thể đổ lỗi cho rất nhiều nguyên nhân. Và kết quả là bạn sẽ chẳng bao giờ làm nổi điều gì mà chỉ lãng phí cuộc sống quý giá này. Nhờ có được thân người vô giá, chúng ta có năng lực để thực hành thiện nghiệp, chúng ta được các bậc Thầy sách tấn, sự tu và học của chúng ta được cổ vũ, khích lệ. Chúng ta có biết bao nhiêu khả năng và vì thế không nên lãng phí thời gian mà cần nỗ lực tinh tiến không ngừng nghỉ để tu tập, rèn luyện trên hành trình giác ngộ.

Điểm cốt yếu của Chính tinh tiến là tâm hoan hỷ. Khi chúng ta cảm thấy an vui với những việc mình đang làm thì đó thực sự là tinh tiến tức Tinh tiến Ba la mật. Sự hoan hỷ an vui cần xuất hiện từ bước khởi đầu của hành trình tu tập, luôn hiện hữu trong suốt quá trình tu tập, và liên tục duy trì đến khi kết thúc và thậm chí cả sau đó. Giống như cây dược liệu sẽ trổ những quả dược liệu. Nhân nào cho quả đấy. Để dẫn tới quả vị an vui giải thoát thì hành trình tu tập cũng cần an vui. Vì vậy, chính tinh tiến là những nỗ lực không mệt mỏi được thực hiện trong sự an vui. Để có được điều đó, chúng ta phải biết trân trọng tất cả những gì mình đang thực hành. Dù đó chỉ là những thành tựu vô cùng nhỏ nhoi, nhưng với tâm trân trọng, chúng ta sẽ có được niềm hoan hỷ, lạc duyệt để tiếp tục tinh tiến trên con đường của Bồ tát, thực hành viên mãn Bồ đề tâm nguyện.

Thiền định Ba la mật: để đạt được một tâm thức an bình và phát triển sự nội chứng tâm linh sâu sắc, bạn cần thực hành thiền định. Thiền định giúp bạn trưởng dưỡng trí tuệ và là con dao sắc bén để cắt đứt mọi bám chấp của bản ngã và tất cả các phiền não, xúc tình tiêu cực. Nếu không có trí tuệ nội chứng đặc biệt này, sẽ rất khó khăn và không thể cắt đứt các ngã chấp. Đặc biệt trí tuệ nội chứng và bản ngã là hai thứ đối nghịch với nhau. Trí tuệ nội chứng là thuốc giải độc đặc biệt cho sự chấp ngã. Vì vậy, chúng ta được khuyên phải tập trung thực hành thiền định một cách sâu sắc, trọn vẹn.

Bằng thiền định, bạn có thể điều phục tâm, khiến tâm trở nên thuần thục và khi tâm đã thuần thục, bạn sẽ đạt được hiểu biết chân thực. Như vậy, tôi cho rằng thuần thục tâm chính là hiểu biết, trí tuệ. Thấu hiểu chính là trở nên thuần thục, nhuần nhị với những gì mình vốn xa lạ. Đó không là gì khác ngoài thiền định. Trong quá trình đào luyện tâm để trở nên thuần thục và tăng trưởng trí tuệ hiểu biết, thiền định có vai trò vô cùng quan trọng. Trên hành trình này, bạn sẽ thành tựu những tư lương cần thiết, sẽ trưởng dưỡng sức mạnh nội tâm giúp đoạn trừ mọi buộc ràng của tham ái, kết sử và chấp trước.

Bởi lẽ gốc rễ của luân hồi không thể nhổ bỏ một cách dễ dàng nên bạn có thể sẽ không bao giờ đạt được giác ngộ nếu không có được sự trợ giúp của trí tuệ nội chứng đặc biệt. Cho dù bạn có thực hành và nghiên cứu năm Ba la mật - bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến và thiền định, các Ba la mật đó cũng sẽ không thực sự mang lại giác ngộ. Giác ngộ tối tượng phụ thuộc vào Trí tuệ. Đó là trí tuệ sâu sắc,

Page 31: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

toàn diện về bản chất của vạn pháp thế gian được thành tựu thông qua sự điều phục tâm, kiểm soát tham, sân, si của chính mình, từ đó chuyển hóa xúc tình tiêu cực và trưởng dưỡng hiểu biết chân thực ngay trong đời sống này. Đó cũng chính là sự giác ngộ về thân huyễn ảo, về vô thường và hư vọng là những khía cạnh rất quan trọng của đời sống thế gian. Nói một cách thiết thực, để có thể trưởng dưỡng được trí tuệ nội chứng, bạn cần thực hiện công phu thiền định bằng sự nhất tâm, tập trung sâu sắc. Sau khi đã phát triển được nền tảng thiền định, bạn có thể thiết lập trí tuệ hoàn toàn không phụ thuộc vào khái niệm, chủ thể, khách thể hay hành động. Đây chính là Trí tuệ Ba la mật.

Như vậy, để có thể thành tựu Giác ngộ, bạn cần thực hành Lục độ Ba la mật. Sáu Ba la mật này cần được tu tập đồng thời, bổ trợ lẫn nhau, không khuyết thiếu bất cứ Ba la mật nào. Cũng giống như việc cột và kèo chống đỡ cho nhau tạo thành khung kết cấu của một tòa nhà, để thực sự tạo dựng các yếu tố của giác ngộ và đạt được giác ngộ, chúng ta cần đến tất cả những sự hỗ trợ của các Ba la mật và việc thực hành song song các Ba la mật đó. Điều quan trọng nhất là Lục độ Ba la mật kể trên cần được thực hành, tu tập cụ thể ngay trong đời sống này, trong sự tương tác giữa bạn và mọi người xung quanh, giữa bạn với hết thảy chúng sinh.

IV. Thứ lớp quả vị tu tập

Nhờ có trí tuệ nhìn rõ bản chất của khổ đau, cùng với thực hành phương pháp tu tập thù thắng của Bát chính đạo, thấm nhuần giáo lý Trung đạo, phát khởi Bồ đề tâm mạnh mẽ hành trì Lục độ Ba la mật, hành giả có thể trải qua các thứ lớp tu tập khác nhau với các cấp độ thành tựu khác nhau trên con đường dẫn tới Giác ngộ. Thứ lớp quả vị tu tập được trình bày như sau:

1. Thứ lớp ngôi vị tu tập của Bồ tát

Trong quá trình thực hành tu tập Bồ tát đạo, trước khi chứng đắc quả vị Phật Viên giác tối thượng, bậc Bồ tát trải qua các thứ lớp ngôi vị như sau:

Ngôi Thập tín: hành giả Bồ tát xây dựng được mười đức tin vững chắc, luôn an vui, tự tại và không thoái thất lùi bước trước bất kỳ trở lực khó khăn nào. Mười đức tin bao gồm: tín tâm, niệm tâm, tinh tấn tâm, định tâm, tuệ tâm, giới tâm, hồi hướng tâm, hộ pháp tâm, xả tâm và nguyện tâm.

Ngôi Thập trụ: hành giả tu tập, trưởng dưỡng và đạt được những phẩm chất gồm sơ phát tâm, trì địa trụ, tu hành trụ, sinh quý trụ, phương tiện cụ túc trụ, chính tâm trụ, bất thoái trụ, đồng chân trụ, pháp vương tử trụ, quán đỉnh trụ.

Ngôi Thập Hạnh: do nhàm chán các pháp hữu vi, mong cứu độ chúng sinh vô biên, viên thành quả Bồ đề cùng công đức Phật hạnh và thực chứng giác ngộ như Đức Phật, hành giả thành tựu mười phương pháp tu tập về công hạnh lợi tha của Bồ tát bao gồm: hoan hỷ hạnh, nhiêu ích hạnh, vô sân hận hạnh, vô tận hạnh, ly si loạn hạnh, thiện hiện hạnh, vô trước hạnh, tôn trọng hạnh, thiện pháp hạnh, chân thật hạnh.

Ngôi Thập hồi hướng: nhằm trưởng dưỡng tâm đại bi cứu độ hết thảy chúng sinh, Bồ tát tu tập thành tựu thập hồi hướng - tức mười việc lợi lành chia sẻ phúc báo đến muôn loài, hướng tới Phật quả - gồm: Cứu hộ chúng sinh ly chúng sinh tướng hồi

Page 32: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

hướng, Bất hoại hồi hướng, Đẳng chư Phật hồi hướng, Chí nhất thiết xứ hồi hướng, Vô tận công đức tạng hồi hướng, Tùy thuận nhất thiết kiên cố thiện căn hồi hướng, Đẳng tâm tùy thuận chúng sinh nhất thiết hồi hướng, Như tướng hồi hướng, Vô trước vô phược giải thoát tâm hồi hướng, Pháp giới vô lượng hồi hướng

Ngôi Thập địa: Bồ tát tu tập tuần tự từng ngôi địa thành tựu từng phần Pháp thân, hướng tới Phật quả tối thượng. Mười cấp độ của Thập địa bao gồm: Hoan hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm tuệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa.

Ngôi Đẳng giác: Bồ Tát thành tựu tâm bình đẳng, giác ngộ rằng các pháp đều bình đẳng như nhất, không sai khác, không phân biệt.

Ngôi Diệu Giác: Bồ Tát thành tựu diệu dụng của Tâm giác ngộ nhằm lợi ích vô lượng chúng sinh.

2. Quả vị Phật

Sau cùng, Bồ tát thành tựu quả vị Phật còn gọi là Viên Giác hay Vô thượng Chính đẳng Chính giác, là quả vị cuối cùng trên con đường giác ngộ. Bậc Viên Giác đã tròn đầy, viên mãn công hạnh tu tập tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.

Bardo – Nghệ Thuật Sinh Tử: 7. Mối liên hệ giữa Thượng sư và Đệ tử

08:07 17/08/2013 Xem : 167

Với tâm chí thành hướng về bậc Kim Cương Thượng sư, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa và để chào mừng Hội nghị Thường niên chư Thượng sư Truyền thừa Drukpa (tổ chức trong khoảng thời gian từ 29/8-05/9/2013 tại  tại Tự viện Hemis, Ladakh, Ấn Độ),  chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu những vấn đề cơ bản nhất của tiến trình giác ngộ, được trích lược từ ấn phẩm “Bardo – Bí Mật Nghệ Thuật Sinh Tử”, một tác phẩm của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa do Drukpa Việt Nam chuyển dịch, phát hành trong năm 2012:

(Các bài trích lược trước của mục Nghệ Thuật Sinh Tử có thể được truy cập tại đây)

Page 33: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Phần III - Kim Cương thừa

I. Mối liên hệ giữa Thượng sư và Đệ tử

1. Mối liên hệ Thượng sư và Đệ tử

a. Tầm quan trọng của bậc Thầy tâm linh

Trong Phật Giáo Kim Cương thừa, chúng ta thường nhắc đến mối liên hệ Thượng sư - đệ tử. Thượng sư là bậc hướng đạo, dẫn dắt đệ tử, không phải trong môn khoa học thông thường mà là khoa học giải thoát khổ đau và luân hồi sinh tử. Đây là lý do tại sao Thượng sư cần phải hội tụ đầy đủ những phẩm hạnh đặc biệt. Một bậc Thượng sư không thể đơn giản là người chỉ biết giảng Pháp, bởi nhiều người có thể thực hiện điều này khá dễ dàng và giáo pháp nói cho cùng chỉ là lý thuyết. Quan trọng nhất là người Thầy phải có những trải nghiệm chân thật, phải là bậc Thành tựu giác ngộ. Mặt khác, vì người đệ tử thực hành với mục đích chứng đạt giác ngộ với lời phát nguyện “thành tựu Phật quả ngay trong một đời” nên việc tu học theo Kim Cương thừa cũng đòi hỏi ở người đệ tử những phẩm chất đặc biệt.

Đối tượng quy y thông thường trong đạo Phật là “Phật, Pháp, Tăng”, tuy nhiên, trong Phật giáo Kim Cương thừa, chúng ta có thêm một đối tượng quy y nữa là Thượng sư và đây là đối tượng quy y quan trọng nhất. Tại sao Kim Cương thừa lại đặt Thượng sư ở vị trí hàng đầu? Bởi nếu không có sự hướng đạo trực tiếp của Ngài, chúng ta sẽ không có khả năng hay hy vọng nhận được giáo pháp của Đức Phật để thực hành. Điều này rất khó, hầu như không thể bởi vì Đức Phật Thế tôn đã thị hiện Niết bàn và vào lúc này phàm phu như chúng ta không thể thụ nhận giáo pháp trực tiếp từ Ngài. Chúng ta cũng chưa trưởng dưỡng được trí tuệ nội chứng để có thể thấu hiểu giáo pháp một cách sâu sắc nếu không có sự hướng đạo từ một Bậc thầy giác ngộ. Bởi vậy chúng ta rất cần sự trợ giúp và hộ trì từ bậc Thượng sư, Ngài

Page 34: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

chính là người thay vì đức Phật truyền dạy, hướng đạo cho chúng sinh. Nếu không có các Ngài thì chúng sinh không biết con đường tu tập chân chính đạt đến giải thoát.

Theo giáo lý Kim Cương thừa, bậc Kim cương Thượng sư đại diện cho cả Tam Bảo bởi Thân ngài là Tăng, Khẩu Ngài là Pháp và Ý Ngài là Phật. Và Ngài cũng là đại diện và là một trong những đối tượng quy y của Tam Căn bản: Thượng sư, Bản tôn và Dakini. Đồng thời, Ngài nêu biểu cho Tam thân: Pháp thân, Báo thân và Hóa thân Phật.

Khi quy y Kim cương Thượng sư chúng ta cũng quy y ba khía cạnh của bậc Thầy: Bậc Thầy bên ngoài, bậc Thầy bên trong (hướng đạo bên trong) và bậc Thầy bí mật. Bậc Thầy bên ngoài vô cùng quan trọng vì nương vào Ngài, chúng ta mới khai mở được bậc Thầy bên trong và từ đó chứng đạt bậc Thầy bí mật. Trước tiên chúng phải kết nối được với bậc Thầy bên ngoài để thụ nhận giáo pháp. Tiếp đến, chúng ta trưởng dưỡng bậc Thầy bên trong là trí tuệ nội chứng để hướng tới mục đích cao nhất là trở về với bậc Thầy bí mật, chính là Pháp thân hay Phật tính vốn sẵn đủ nơi mỗi người.

b. Tìm cầu bậc Thầy tâm linh trên con đường Mật thừa

Khéo léo lựa chọn bậc Thầy

Bởi bậc Thầy là đối tượng quy y tối thượng nên Kim Cương thừa đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tìm cầu và lựa chọn bậc Thượng sư có đầy đủ phẩm hạnh. Nhân duyên hạnh ngộ Thượng sư quả thật là mối nhân duyên lớn nhất của đời người. Vì có rất nhiều bậc Thầy cũng như nhiều truyền thống tu tập nên trước khi thụ nhận giáo pháp quán đỉnh từ bậc Thượng sư, hãy khéo léo tiếp cận kiểm tra phẩm chất của Ngài. Ở mức độ ban đầu, bạn cần tìm hiểu xem bậc Thầy mình vừa hạnh ngộ là ai, việc tu tập theo Ngài có phù hợp với động cơ, tâm nguyện và hoàn cảnh của mình không? Bạn cũng có thể tu học theo Ngài một thời gian để kiểm chứng xem nội tâm có gì chuyển hóa tích cực… Trước kia, các hành giả chân chính thường mất đến mười hai năm để lựa chọn bậc Thầy. Các bậc Thầy cũng thường quán xét và thử thách đệ tử trong nhiều năm trước khi ban truyền giáo pháp quán đỉnh. Ngày nay, quãng thời gian này có thể rút ngắn hơn. Thông thường, sau quá trình cầu tìm, chúng ta cần phải quán xét tìm hiểu phẩm hạnh của Thượng sư trong ba năm, còn Thượng sư cũng thường quán xét đệ tử trong sáu năm để đánh giá được đệ tử chân chính.

Trên thực tế, Thượng sư cũng tìm học trò và đệ tử. Một Thượng sư phải tìm đệ tử bởi mục đích các Ngài thị hiện trên thế gian này là để giúp đỡ và hướng đạo cho chúng sinh. Nếu không tìm được những đệ tử chân chính thì Ngài đã không hoàn thành tâm nguyện của mình và đã lãng phí rất nhiều thời gian. Khi đó tốt nhất là Ngài nên rời bỏ thế gian này đến những cõi khác để trợ giúp những chúng sinh nơi đó. Tuy nhiên, trong hầu hết trường hợp bản thân chúng ta phải nỗ lực để tìm cầu Thượng sư. Điều này cũng giống như một chú ong đang tìm nơi xây tổ. Chú ong phải tìm kiếm tổ chứ chiếc tổ không thể tới tìm chú ong. Tương tự như vậy, bản thân chúng ta phải tích lũy công đức và sự tịnh hóa thông qua việc trải qua đôi chút khó khăn trong khi tìm cầu Thượng sư. Việc hạnh ngộ và sự hiện diện của Thượng sư cũng chính là hiện thân của phước điền và thước đo công đức của người đệ tử.

Page 35: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Phẩm chất bên trong của Thượng sư

Theo quan kiến Kim Cương thừa, nếu không biết phương cách đúng đắn để tìm cầu Thượng sư, chắc chắn chúng ta sẽ bị xem là một đệ tử không đủ phẩm hạnh chân chính. Chúng ta đừng bối rối hay băn khoăn gì mà chỉ cần kiểm tra, suy xét chính bản thân về động cơ và phương cách chúng ta tìm cầu Thượng sư. Trên phương diện động cơ, mục đích của sự tu tập giác ngộ là để phát triển lòng Từ bi và Trí tuệ. Nếu đây không phải là động cơ hay tâm nguyện của mình thì không có lý gì bạn phải đi tìm cầu một bậc Thượng sư giác ngộ. Tiếp đến, dưới góc độ phương pháp, nếu chúng ta biết bằng cách nào để có được sự nhìn nhận đúng đắn thì có nghĩa là chúng ta đã đủ phẩm hạnh. Là hành giả chân chính của Kim Cương thừa, bạn phải biết nhìn vào tâm và sự chứng ngộ của Thượng sư chứ không phải hình dáng hay ngôn từ của Ngài. Một bậc Thượng sư được tôn kính do sự trưởng dưỡng và toàn thiện tâm chứ không nhờ hình tướng bên ngoài của Ngài. Thân tướng bên ngoài cũng chỉ giống như một kiến trúc hay một tòa nhà, nó vốn không có sự sống. Thượng sư chân chính là tâm Giác ngộ và các phẩm hạnh Giác ngộ. Vì sự chứng ngộ là một phẩm hạnh ẩn tàng nên nó không dễ nhận biết được, đó là lý do tại sao sự chứng ngộ được coi là Thượng sư “ẩn tàng” và vì phẩm hạnh này ẩn tàng nên đôi khi chúng ta gọi là Thượng sư “bí mật”.

Vì thế, khi tiếp cận với bậc Thầy, chúng ta phải rất tinh tế và cũng phải phát triển về mặt tâm linh để nhận biết những phẩm hạnh của các Ngài một cách kín đáo chân thật. Trí tuệ Bát Nhã và tâm từ bi vô điều kiện hướng tới hết thảy chúng sinh là hai phẩm hạnh quan trọng nhất của một Thượng sư chân chính. Hai phẩm hạnh này phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau. Một Thượng sư chân chính phải là bậc đã hoàn thiện viên mãn đại trí, đại bi. Nếu đã có nhân duyên hạnh ngộ bậc Thượng sư toàn vẹn hai phẩm hạnh này thì chúng ta không nhất thiết phải lo lắng về các phẩm hạnh khác. Những phẩm hạnh khác của Thượng sư có thể làm cho chúng ta khó lân mẫn trực tiếp với Ngài song đó chẳng phải là vấn đề quan trọng. Điều mấu chốt là Thượng sư phải hoàn thiện hai phẩm hạnh Đại bi và Đại trí.

Phẩm chất bên ngoài của bậc Thầy tâm linh

Như tôi đã nhắc ở phần trên, có rất nhiều cách để nhận biết một Thượng sư. Điều quan trọng là chúng ta phải thấu hiểu những phẩm hạnh giác ngộ của Thượng sư. Mặc dù sự thực chứng hay tâm giác ngộ của Ngài thuộc phạm trù tiềm ẩn bên trong mà bạn có thể chưa nhận ra ngay, tuy nhiên các dấu hiệu bên ngoài như công hạnh và những hành động của Thượng sư cũng đủ giúp bạn hiểu và đánh giá được phẩm hạnh của Ngài. Bạn hãy dành thời gian quan sát cách sống của Ngài, cách Ngài truyền giảng, cách cư xử với mọi người hoặc cách Ngài quan tâm tới người khác từ các thị giả tùy tùng cho đến những người xa lạ. Hãy quán chiếu xem dưới sự hướng đạo của Ngài, các học trò đã có sự chuyển hóa về tâm linh như thế nào.

Hầu hết mọi người thường có xu hướng đàm luận về sắc tướng bên ngoài của Thượng sư, đặc biệt là cách thức Ngài thuyết giảng. Nếu Thượng sư thuyết một bài pháp hay thì Ngài được coi là bậc “Thượng sư phi thường”. Tuy nhiên, đây không phải là cách đúng đắn để khẳng định Thượng sư có phải là chân chính hay không, bởi vì ai cũng có thể là một người thuyết giảng tốt. Họ có thể thuyết giảng hay nhưng lại rất tồi về nội tâm. Bởi vậy, chúng ta phải rất nghiêm cẩn và rất tinh xảo suy xét tường tận về tâm và sự chứng ngộ Thượng sư.

Page 36: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Thật đáng buồn, ngày nay nhiều Phật tử mới bước vào đạo Phật thường đàm luận về dáng vẻ bề ngoài của Thượng sư. Thượng sư cao bao nhiêu, Thượng sư già hay trẻ, hình dáng Thượng sư có đẹp đẽ hay không, Ngài được giáo dục như thế nào… Nhiều người rất coi trọng và đặt nặng những tiêu chí bên ngoài này nhưng nó thật sự chẳng có ý nghĩa gì cả. Thái độ này là một trở ngại vô cùng to lớn trong sự tu tập của chúng ta và đó không đáng là vấn đề để chúng ta bận tâm. Nếu muốn đàm luận về Thượng sư, thực sự chúng ta nên đàm luận xem Ngài từ bi như thế nào, Ngài tu học ra sao, nhập thất trong bao năm, bậc Thầy của Ngài là ai, Ngài đã chứng ngộ những gì, tâm nguyện của Ngài ra sao, Ngài đã nâng đỡ trợ giúp cho bao nhiêu người và hóa thân chuyển thế trong bao nhiêu đời. Đây là những vấn đề chúng ta nên đàm luận hơn là chỉ nói về tướng mạo hay sự nổi tiếng và vị thế bên ngoài của các Ngài bởi tất cả những điều này là hoàn toàn vô nghĩa và không được xem là phẩm hạnh và tiêu chuẩn của một Thượng sư chân chính.

Khi nói Bậc Thượng sư Mật thừa là bậc đã đạt được giác ngộ chúng ta cũng cần hiểu sâu hơn thế! Xuất phát từ tâm nguyện vị tha, lòng từ bi vô lượng cùng Bồ đề nguyện vô tận, các Ngài đã siêu việt Bardo, chủ định hóa thân chuyển thế thành các bậc Thượng sư giác ngộ đến với cõi luân hồi này nhiều lần với mục đích duy nhất là đem đến niềm an vui chân thật cho tất cả chúng sinh hữu tình và đánh thức tiềm năng tâm linh vốn sẵn đủ từ bi và trí tuệ nơi mỗi người. Chúng ta có thể thông qua Truyền thừa giác ngộ để tìm hiểu về tiểu sử, công hạnh tái sinh của Ngài. Vì thế, nếu nói tìm cầu bậc Thầy giác ngộ thôi thì chưa đủ, chúng ta cần tìm bậc Thượng sư giác ngộ hóa thân chuyển thế nhiều đời để lợi ích chúng sinh!

Thiết lập mối quan hệ thiêng liêng Thượng sư - đệ tử

Sau nhiều thiện xảo công phu tìm cầu được Thượng sư bên ngoài, bạn phải nhất tâm tinh tiến theo những khai thị của các Ngài. Bạn không được có những hoài nghi về việc thực hành hay việc tuân theo lời giáo huấn của các Ngài, bởi nếu bạn khởi nghi ngờ thì đó sẽ là một chướng ngại to lớn trên con đường tu tập. Vì vậy, sau khi tìm cầu được Thượng sư bên ngoài chúng ta phải nhất tâm chí thành hướng về giáo pháp và Thượng sư.

Để có thể tuân theo những giáo huấn của Thượng sư chứ không phải diện mạo hay hành vi của các Ngài, chúng ta phải chí thành tập trung vào tinh hoa chân chính và vẻ đẹp của giáo pháp. Vì giáo pháp chính là thứ sẽ nâng đỡ, trợ giúp cho chúng ta nên bạn phải tri ân giáo pháp ban truyền từ bậc Thượng sư với tâm chí thành cung kính nhất. Tất nhiên, sự tri ân cũng phải hướng đến nhục thân của các Ngài, bởi vì nếu không nhờ hình tướng này thì giáo pháp khẩu truyền và những khai thị, giáo huấn không thể được trao truyền. Mặc dù vậy, sự tri ân và tâm chí thành vẫn phải chủ yếu hướng tới những giáo pháp và những khai thị mà Thượng sư truyền thụ.

Chúng ta hãy bàn về một vài khía cạnh của chữ “Vâng theo”. Mỗi đệ tử đều có căn cơ khác nhau. Một vài đệ tử có thể thực hành theo Thân Giác ngộ của Thượng sư, một số khác có thể theo Tâm Giác ngộ của Ngài, một số khác nữa lại theo Ngữ Giác ngộ và một số có thể tuân theo cả ba khía cạnh trên cùng một lúc. Tuân theo Ngữ Giác ngộ của Thượng sư là phương pháp tốt vì nương vào những giáo lý mà Ngài truyền trao, bạn mới thực hành con đường đạo chân chính. Việc tuân theo Thân Giác ngộ của Thượng sư không có ý nghĩa thâm sâu trừ khi bạn đã đạt được mức độ tu tập cao cấp do thiện căn huân tập từ nhiều đời trước. Còn việc gắng sức thực

Page 37: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

hành theo Tâm Giác ngộ mà không tuân theo Thân và Khẩu của Ngài thì chẳng khác nào một vận động viên bơi lội bị mù chẳng đi đến đâu cả!

Trên thực tế, người đệ tử chân chính cần đồng thời tuân theo cả thân, ngữ và tâm của Thượng sư. Một Thượng sư thiện xảo luôn có những cách thức khác nhau để truyền trao giáo pháp, không chỉ qua phương pháp khẩu truyền mà còn có thể được trao truyền thông qua sự hiện diện của Thân cũng như Tâm Thượng sư. Tất nhiên, bạn có quyền đặt câu hỏi là trong tình huống Thượng sư yêu cầu đệ tử làm một vài thứ nhưng anh ta cảm thấy không thể làm được, ví dụ yêu cầu đệ tử mình nhảy xuống từ đỉnh núi, thì người đệ tử phải làm gì. Trong trường hợp như vậy, người đệ tử biết rằng anh ta không thể thực hiện được yêu cầu của bậc Thầy vì điều đó vượt ngoài khả năng của mình. Khi đó, anh ta có quyền thỉnh lại với Thượng sư: “Con có thể không làm việc này được không?” Một Thượng sư chân chính sẽ thấu hiểu được tình huống này và miễn cho đệ tử khỏi yêu cầu bắt buộc đó. Tuy nhiên, lời thỉnh cầu như vậy phải bắt nguồn từ một thái độ chân thành và thanh tịnh. Ngoài ra, đệ tử nên thực hành mọi điều được truyền trao từ Thượng sư, bao gồm cả những khẩu truyền và khai thị từ tâm của Thượng sư. Điều này được gọi là hợp nhất với Tâm Giác ngộ của Thượng sư. Một hành giả cao cấp có khả năng hợp nhất với Tâm Giác ngộ của Thượng sư như là kết quả tự nhiên của sự hợp nhất của Tâm Giác ngộ nơi Thượng sư với tâm thanh tịnh của hành giả.

Bởi vậy, có thể kể ra những cấp độ kết quả khác nhau của việc vâng theo Thượng sư. Cấp độ thứ nhất, khắc sâu và quán tưởng hòa nhập với sự hiện diện của Thượng sư, ở cấp độ này hành giả sẽ được kết quả là liễu ngộ khía cạnh Hóa thân của Tâm Giác ngộ. Ở cấp độ thứ hai, khi tuân theo giáo pháp Thượng sư, hành giả sẽ nhận ra khía cạnh Báo thân. Cao hơn nữa, tuân theo Thượng sư trong sự thực hành thiền định dựa vào Tâm Giác ngộ của Ngài, hành giả sẽ được kết quả là liễu ngộ được khía cạnh Pháp thân của Tâm Giác ngộ. Bởi vậy, việc tuân theo bậc Thượng sư chân chính như ba cách trên đây là con đường tu tập vô cùng đúng đắn và thiện xảo.

Một số người muốn biết có thể theo nhiều Thượng sư hay không? Theo quan điểm của tôi thì họ có thể thoải mái làm việc đó nếu như các Thượng sư mà họ theo đều chân chính. Mặc dù hình thức có thể khác nhau nhưng những khai thị và hướng đạo của các Ngài sẽ có sự tương đồng bởi các Thượng sư tồn tại trong trạng thái hợp nhất hoàn hảo. Mặc dù vậy, hành giả nên luôn nhận ra khả năng của chính mình về việc nên hay không cùng lúc đi theo sự hướng đạo của nhiều bậc Thượng sư khác nhau, phải suy xét liệu việc này có dẫn tới sự rối loạn và bế tắc sau này không? Vì vậy, điều quan trọng là bạn phải luôn biết sáng suốt lựa chọn.

Mối liên hệ với Thượng sư dựa trên căn bản Phật tính

Như vậy là chúng ta đã hạnh ngộ bậc Thầy và chính thức hóa mối quan hệ Thượng sư - đệ tử. Sau khi đã phát tâm đi theo Thượng sư, bạn phải loại bỏ tất cả tâm nhị nguyên để nhất tâm thành tựu Mật thừa và phụng sự Ngài hoằng dương giáo pháp. Sự trải nghiệm tâm linh của bạn từ nay sẽ dựa trên căn bản Phật tính, được trao truyền hướng đạo từ bậc Thầy và pháp tu, dựa trên nền tảng sự chứng ngộ Phật tính để khỏi lầm đường lạc lối. Bạn cần nỗ lực trưởng dưỡng mối liên hệ với bậc Thượng sư bên ngoài để thỉnh cầu sự gia trì giác ngộ Thượng sư bên trong và Bí mật. Mối liên hệ này được thể hiện rõ ràng qua từng lời kinh câu kệ mà bạn trì tụng hàng ngày, hàng giờ với tâm chí thành hướng về bậc Thượng sư:

Page 38: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Kính lễ đức Pháp Vương

Nguyện xót thương!

Gia trì con thực chứng bản tâm,

Gia trì con muôn niệm tự tại,

Ngay vạn pháp chứng ngộ Tam Thân!

Khi đã trưởng dưỡng tâm chí thành và lòng thành kính với bậc Kim cương Thượng sư, người đệ tử sẽ có sự kết nối chặt chẽ và dễ dàng chứng đạt giác ngộ. Nếu thiếu tâm dâng hiến và kính trọng Thượng sư, ngay cả việc thực hành nhiều lần giai đoạn Thành tựu dành cho Bản tôn của bốn Tantra, bạn cũng sẽ vẫn không đạt được bất cứ thành tựu chứng ngộ nào.

Mặt khác, nếu như bạn phát triển được tâm chí thành đích thực và lòng tôn kính, tất cả mọi chướng ngại trên con đường đạo sẽ được tiêu trừ. Chỉ bằng phương pháp đó, bạn sẽ đạt được thành tựu tâm linh. Vì vậy, lòng dâng hiến với Thượng sư là nền tảng của con đường thực hành Guru Yoga.

Trong kinh dạy rằng:

“Nếu biết coi Thượng sư là Phật, bạn sẽ nhận được ân phúc gia trì của Phật. Nếu biết coi Thượng sư là Bồ tát, bạn sẽ nhận ân phúc gia trì của Bồ tát. Nếu coi Thượng sư là thành tựu giả, bạn sẽ nhận được ân phúc gia trì của thành tựu giả. Nếu coi Thượng sư là một người bạn đạo, bạn sẽ nhận được ân phúc gia trì của bạn đạo. Nếu không có tâm dâng hiến và lòng thành kính với Thượng sư, bạn hoàn toàn không nhận được ân phúc gia trì”.

Đức Phật sẽ không ở đâu cả mà ở ngay Căn bản Thượng sư của bạn. Ngài là sự hợp nhất của mười phương ba đời chư Phật. Vô số những phẩm chất giác ngộ của chư Phật được hội tụ và thị hiện một cách sống động nơi bậc Căn bản Thượng sư. Tâm nguyện và lòng từ vĩ đại của Ngài mang lại sự sống an lành cho muôn loài hữu tình, cũng giống như mặt trăng, mặt trời, thuốc trường sinh, y dược, con thuyền và cầu bè, tất cả đều là sự thị hiện sáng tạo của Căn bản Thượng sư.

c. Chuyển hóa cảm xúc, tình cảm thành tâm chí thành

Nếu những phẩm hạnh của bậc Thầy là điều kiện cần thì tâm chí thành mà chúng ta đã trưởng dưỡng với Ngài qua thực hành Thượng sư tương ưng pháp là điều kiện đủ để bạn tiến tu trên hành trình giác ngộ. Bề ngoài, bạn tu tập theo một bậc Thượng sư, từ Thượng sư bạn nhận được nhiều chỉ dẫn nhập môn và hướng đạo, nhưng sự thực hành sẽ không đúng và không mang lại kết quả nếu về phía mình, bạn thiếu đi tâm chí thành thực sự.

Chúng ta có thể phân chia tâm chí thành làm ba cấp độ:

- Tâm chí thành truyền cảm gắn với cảm xúc.

- Tâm chí thành tín nguyện, dựa vào sự hiểu biết chính xác và đức tin chân thật.

Page 39: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

- Tâm chí thành không phụ thuộc vào sự hiểu biết mà là thành tựu thực sự, sự thành tựu của trí tuệ không có quan hệ gì với cái gọi là quy luật tình cảm.

Từ Tâm chí thành truyền cảm

Tâm chí thành truyền cảm là cảm xúc tôn kính được khơi gợi từ các phẩm hạnh của Guru. Đôi lúc, khi hướng về phẩm hạnh của Thượng sư, nghĩ đến các giáo lý hay lời huấn từ của Thầy, hoặc khi được lân mẫn Ngài, bạn cảm thấy trào dâng lòng kính ngưỡng sâu sắc thúc đẩy niềm mong muốn thực hành nơi bạn. Đó là phương diện của tâm chí thành truyền cảm hay cảm xúc.

Tuy nhiên, ta chỉ có thể thực sự gọi đó là tâm chí thành nếu cái tâm ấy thúc đẩy bạn đến với thực hành. Đây là một khía cạnh thâm mật mà bạn cần hiểu. Nếu tâm chí thành không khích lệ bạn thực hành thì đó không còn là gì ngoài một cảm xúc nhất thời, một trạng thái tình cảm không dẫn bạn đến với tư duy về vô thường, tính không,... tóm lại không khích lệ bạn thay đổi cuộc đời mình. Cảm hứng nhất thời khiến bạn thốt lên: “Ôi, Giáo lý an vui! Chúng ta đã trải qua giây phút tuyệt vời làm sao!” Bạn tự cảm thấy rõ như vậy. Tôi đồng ý với bạn như thế là không có gì xấu cả. Nhưng đó chưa được coi là tâm chí thành mà chỉ đơn thuần là cảm xúc nhất thời.

Vì vậy, chúng ta bắt đầu với tâm chí thành được khơi gợi từ cảm hứng. Chúng ta gọi đó là tâm chí thành cảm xúc, vì nó gắn với cảm xúc, ngập tràn và chồng chéo trong cảm xúc. Đây là một giai đoạn thực sự gian nan để nhận diện bản chất của các loại xúc tình mà bạn trải nghiệm. Vậy, đôi khi bạn có thể ở trong trạng thái ngập tràn một loại cảm xúc rất mạnh, không giống với tâm chí thành và hơi có vẻ không đúng chỗ, nhưng không có nghĩa đó không thể là tâm chí thành. Phương tiện duy nhất để kiểm chứng là bạn hãy tự hỏi tình cảm đó có khích lệ mình đến với sự thực hành Phật pháp hay không. Chỉ khi cảm xúc đưa bạn đến với thực hành thì đó mới thực là một chỉ dẫn đáng giá. Nếu không, đấy chỉ là một sự lãng phí thời gian.

Trong giai đoạn này của tâm chí thành xúc cảm, bạn cần dè chừng sao cho cảm xúc không kéo mình sa vào các thái độ đối nghịch với con đường tâm linh, ví dụ như sân giận, tị hiềm, tự mãn một cách trực diện hay phi trực diện. Càng gần gũi thân cận Thượng sư, bạn càng cần dè chừng không cho tính vị kỷ, tự mãn chi phối mình. Dĩ nhiên, những xúc tình đó đang hiện hữu nơi chúng ta! Vấn đề là phải biết được liệu sự xáo trộn đó có phải là do nhãn quan không thanh tịnh của chúng ta về Thượng sư khơi dậy hay không? Nếu không phải thế thì có thể chấp nhận được bởi chúng ta vẫn luôn mắc phải tâm xáo trộn do các tập khí phóng dật của cõi ta bà; bởi thế nên những sự xáo trộn trong tâm đó không có gì là kỳ lạ. Điều quan trọng là không bao giờ được để những xúc tình tiêu cực bị khơi dậy bởi các liên hệ dù là trực tiếp hay gián tiếp tới Thượng sư: như thái độ tràn đầy kiêu hãnh chỉ vì chúng ta được gần với Thượng sư, hay sự dày vò ghen tị đối với bằng hữu nhận nhiều giáo lý hay sự quan tâm bên ngoài hơn chúng ta...

Ví dụ như Đức Milarepa, trong suốt nhiều năm đi theo Thượng sư của mình, Ngài chưa bao giờ được thụ nhận giáo lý từ Ngài Marpa, trong khi Ngài Marpa lại thâu nhận hàng trăm đệ tử, truyền pháp và đối đãi với họ bằng ly trà và những món quà hậu hĩnh. Về phần mình, Ngài Milarepa không nhận được bất cứ thứ gì: không quà, không giáo lý, không thụ giới. Thay vì thế, Ngài đã bị hành hạ một cách phũ phàng. Ngài Marpa đã đích thân đánh đập và tống cổ Ngài Milarepa ra ngoài, thậm chí không cho phép Ngài Milarepa vào ở trong đền. Ngài Marpa đã nói với Ngài

Page 40: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Milarepa rằng Ngài còn chưa thanh tịnh, rằng Ngài không thể so sánh mình với những người khác, rằng Ngài không là gì hết, và Ngài không có quyền cũng không xứng đáng được hưởng điều gì. Tuy bị đối xử nghiệt ngã thế nhưng Ngài Milarepa không bao giờ sinh lòng tị hiềm, oán thán.

Ngài hẳn đã rất thất vọng và đau khổ, đến mức muốn tự sát. Nghĩ rằng mình không nhận được giáo pháp gì từ bậc Thượng sư, Ngài đã muốn chết với một tâm nguyện sẽ được tái sinh để có cơ hội hạnh ngộ Thượng sư Marpa một lần nữa và cuối cùng sẽ được thụ nhận giáo lý từ Thượng sư. Ngài đã tin rằng trong cuộc đời này, do đã phạm nhiều sai lầm quá nặng, Ngài sẽ không nhận được điều gì hết, đối với Ngài đó là những lỗi lầm không thể lượng thứ. Đó chỉ là một cái cớ cho ý muốn tự tử của Ngài Milarepa chứ không phải là lòng ghen tị, oán thán, tự mãn hay sân giận.

Vì vậy, bạn cần chắc chắn rằng những xáo động này không bị khơi dậy do bậc Thầy hay bởi sự hiện diện của Thầy dù là trực tiếp hay gián tiếp. Đây là điểm thứ hai cần kiểm chứng. Điểm thứ nhất là xem xét tâm chí thành có nằm ngoài giới hạn một cảm xúc thuần tuý hay không, có thúc đẩy bạn thực hành Phật pháp hay không. Nếu bạn nhận thấy thái độ của mình đúng mực trong cả hai trường hợp thì mọi thứ còn lại đều không quan trọng.

Bạn nên nhớ các nghịch cảnh và gian truân phải trải qua đều không ảnh hưởng tới tâm chí thành của Ngài Milarepa đối với bậc Thầy của mình, cũng không ảnh hưởng tới tâm nguyện được thụ nhận giáo lý, thực hành và chứng đạt giác ngộ của Ngài Milarepa. Tâm chí thành cảm hứng của Ngài không bao giờ bị dao động, bất chấp những khổ đau mà Ngài đã trải qua và những thử thách mà Ngài đã gặp phải. Thậm chí ý tưởng tự vẫn cũng là một phần trong tâm chí thành của Ngài: rời bỏ cuộc đời này đối với Ngài chỉ là một phương tiện để tái sinh dưới hình tướng một con người tốt hơn, để cuối cùng sẽ được thụ nhận giáo lý của Thượng sư Marpa; Theo hướng đó, Ngài đã cầu nguyện và tin tưởng tâm nguyện của mình sẽ được chấp thuận. Do đó, động cơ của Ngài khác nhiều so với loại động cơ dẫn những người phàm tình đến với sự tự sát, bị thúc đẩy bởi tâm sân giận phiền não của chính họ.

Đến tâm chí thành tín nguyện và bất diệt

Như vậy là mức độ thứ nhất của tâm chí thành là tâm chí thành cảm hứng, một dạng tình cảm khởi phát ở mức độ bề mặt, không thật sâu sắc. Một khi đã vượt qua nấc thang này rồi, không còn lý do gì để cảm xúc cứ dai dẳng bám mãi trong sự sùng kính, và cảm xúc sẽ chuyển hóa thành một dạng hiểu biết chân thật bền vững ở một giai đoạn cao hơn. Ta có thể gọi là giai đoạn này là tâm chí thành tín nguyện dựa trên hiểu biết thâm sâu, chân xác.

Cuối cùng, ta đạt tới tâm chí thành bất diệt hay đức tin chân thật, hoàn toàn không còn lệ thuộc vào một nguồn cảm hứng bên ngoài nào nữa. Đây là một dạng tâm chí thành thanh tịnh, hết sức mạnh mẽ, ổn định, bất khả xâm phạm, chỉ còn lại đó bản chất chân xác của tâm chí thành được gợi lên trong vô thường. Chúng ta gọi đó là đức tin chân thật hay tâm chí thành bất diệt. Đến đây có thể nói chúng ta đã tiến tu một mức độ cao trên con đường Mật thừa.

Từ tâm chí thành bên ngoài, chúng ta đã vượt qua cả tâm chí thành bên trong, dựa trên sự hiểu biết thâm sâu để cuối cùng đạt tới được chân lý, tỉnh giác hoàn toàn trong đức tin chân thật!

Page 41: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Phụng sự Thượng sư

Bởi vì mọi phẩm chất tâm linh của bạn phụ thuộc vào Thượng sư, nên hãy nghĩ rằng mọi hành động thân khẩu ý của bạn đều phụng sự Thượng sư. Hãy luôn nghĩ đến Thượng sư với lòng kính ngưỡng và cầu nguyện Ngài trường thọ và phát nguyện thúc đẩy, hỗ trợ, mở rộng các hoạt động hoằng pháp tâm linh của Ngài.

Nếu có niềm tin với bậc Thượng sư như vậy, bạn sẽ đạt được giải thoát. Trong kinh điển dạy rằng:

Việc quán tưởng một trăm nghìn sắc tướng Bản tôn khác nhau,

Được thực hiện hàng trăm nghìn lần

Cũng không bằng nhất tâm quán tưởng Căn bản Thượng sư.

Hàng triệu pháp thực hành giai đoạn Thành tựu được thực hiện hàng trăm ngàn lần

Cũng không có kết quả bằng ba lần cầu nguyện và thành tâm cúng dàng lên Thượng sư.

Một người thực hành thiền định của giai đoạn Thành tựu trong một kỳ kiếp, thực hành hai mươi nghìn lần

Không bằng một hành giả trong tâm luôn xuất hiện Thượng sư.

Thực hành con đường chí thành bao gồm hai hướng dẫn dưới đây:

- Thực hiện bất kỳ điều gì Thượng sư dạy bạn làm

- Thực hiện bất cứ điều gì Thượng sư muốn làm

Như thế, trên phương diện Thân, bạn đỉnh lễ, lân mẫn Thượng sư, khiêm cung tự đảm nhận những việc vặt như chắp tác, gánh nước, lau dọn...

Trên phương diện Khẩu, bạn cầu nguyện và tán tụng để mọi người cùng biết đến phẩm hạnh giác ngộ của Thượng sư. Hãy thỉnh cầu Ngài muốn bạn làm những gì với lời nói tôn kính, lịch sự và trung thực. Dù ở công cộng hay riêng tư, không bao giờ được tỏ thái độ bất kính với Thượng sư trên mọi phương diện Thân - Khẩu - Ý.

Nếu áp dụng đúng những gì ở trên, bạn sẽ thực sự vững bước trên con đường thực hành Guru Yoga. Thiếu lòng tôn kính đối với bậc Thầy xuất phát từ tâm không trân trọng giáo pháp. Nếu thiếu tôn trọng giáo pháp, sự thực hành sẽ trở nên không hiệu quả và không giúp hoàn thiện các phẩm chất giác ngộ. Nếu không có lòng thành kính hướng về bậc Thầy và giáo pháp, bạn sẽ ngạo mạn cho rằng không bậc Thượng sư nào có thể trao truyền cho bạn phẩm chất giác ngộ và sẽ hành thiền với thái độ sai lệch. Bởi đã phạm nhiều lỗi lầm, tất cả công đức bạn tích lũy trước đây đều bị thiêu hủy. Kính trọng Thượng sư và giáo pháp làm tăng trưởng ý chí của bạn. Nếu biết trân trọng những thiện hạnh của Thượng sư, tất cả phẩm chất giác ngộ theo đó sẽ tăng trưởng mà không cần bất kỳ nỗ lực nào.

Page 42: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Tâm chí thành và tín tâm với Thượng sư không dễ dàng có được. Hãy biết cúng dàng Bậc Thế Tôn, phụng sự chư Phật, thực hành các thiện hạnh. Sau đó bạn nên thiền định và cầu nguyện rằng: “Mọi công đức con tích lũy đều truyền cảm hứng mạnh mẽ cho việc phát triển tâm chí thành và lòng thành kính lên Thượng sư”. Người có tâm chí thành và lòng thành kính vĩ đại sẽ có nhiều hoạt động đem lại lợi ích lớn lao cho nhiều người. Người có tâm chí thành và lòng thành kính trung bình sẽ chỉ thực hiện hoạt động với lợi ích ở mức trung bình. Người có tâm chí thành và lòng thành kính nhỏ hẹp sẽ chỉ thực hiện hoạt động lợi ích trong phạm vi nhỏ hẹp.

Đức Naropa, Maitripa, Milarepa… và những thành tựu giả khác đã đạt được giác ngộ đều nhờ bài tập khổ luyện về phụng sự và làm thế nào để tuân theo sự hướng đạo của Thượng sư. Phàm phu chúng ta không thể làm gì khác những gì chư Thượng sư trong quá khứ đã làm để quy y và phụng sự bậc Thầy. Tâm chí thành chân thật và lòng tôn kính không đến một cách dễ dàng, song các bậc Thầy trứ danh đều đã trưởng dưỡng và luyện rèn phẩm chất này thông qua sự cầu nguyện và nhất tâm tuân theo giáo huấn Thân - Khẩu - Ý của bậc Thượng sư giác ngộ!

Bardo – Nghệ Thuật Sinh Tử: 8. Quán đỉnh

08:22 17/08/2013 Xem : 183

Với tâm chí thành hướng về bậc Kim Cương Thượng sư, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa và để chào mừng Hội nghị Thường niên chư Thượng sư Truyền thừa Drukpa (tổ chức trong khoảng thời gian từ 29/8-05/9/2013 tại  tại Tự viện Hemis, Ladakh, Ấn Độ),  chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu những vấn đề cơ bản nhất của tiến trình giác ngộ, được trích lược từ ấn phẩm “Bardo – Bí Mật Nghệ Thuật Sinh Tử”, một tác phẩm của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa do Drukpa Việt Nam chuyển dịch, phát hành trong năm 2012:

(Các bài trích lược trước của mục Nghệ Thuật Sinh Tử có thể được truy cập tại đây)

Page 43: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Phần III - Kim Cương thừa

I. Mối liên hệ giữa Thượng sư và Đệ tử

2. Quán đỉnh

Một cách thông thường, người đệ tử được thụ nhận hướng đạo, khai thị giáo pháp hay truyền thừa tâm từ Thượng sư. Trong Kim Cương thừa, có ba cách truyền dạy giáo pháp, thứ nhất là khẩu truyền, người thực hành được hướng dẫn bằng lời nói. Cách thứ hai, vi tế hơn là truyền thừa bằng cử chỉ, không phải truyền đạt bằng lời giảng mà thông qua các dấu hiệu. Cách thứ ba là truyền thừa tâm, theo cách này nền tảng tự tính Phật được khai thị một cách trực tiếp, truyền từ tâm Thượng sư tới tâm của đệ tử.

Trong tiếng Tạng, thuật ngữ Wang hay quán đỉnh có nghĩa là sự tự chủ, đạt được hoặc làm chủ một quyền lực nào đó. Ví dụ, nếu bạn là người bảo hộ thì sức khỏe, thân mạng tôi thuộc về bạn và bạn được coi là người có quyền lực (wang) với tôi. Hay nếu như bạn cho tôi một đồ vật thuộc sở hữu của mình thì tiếp đến tôi cũng sẽ có quyền sở hữu và sử dụng (wang) đối với đồ vật đó. Cũng như vậy, khi chúng ta có thể tự tại, làm chủ và không để các đối tượng như sắc tướng, âm thanh, vọng niệm ý thức chi phối và lôi kéo thì có nghĩa là chúng ta đã nhận được Wang đối với các đối tượng này.

Theo quan kiến Kim Cương thừa, quán đỉnh là sự khai thị Bản tâm, là phương pháp truyền đạt tinh túy giáo pháp một cách trực tiếp và sinh động. Để thụ lĩnh quyền lực tâm linh, chúng ta phải thỉnh cầu bậc Kim cương Thượng sư trao truyền bởi các

Page 44: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Ngài là bậc thành tựu đã nắm giữ quyền năng vô úy tự tại trong luân hồi sinh tử và tâm nguyện của các Ngài là trao truyền chìa khóa giải thoát khổ đau chứng đạt hạnh phúc cho chúng sinh hữu tình không phân biệt. Quán đỉnh là một giáo pháp, là sự khai thị trực tiếp truyền đạt tinh túy của tất cả giáo pháp một cách sinh động Nếu không thụ nhận quán đỉnh, hành giả sẽ không được phép thực hành bất kì Mật pháp nào. Sau quá trình tìm cầu hạnh ngộ Thượng sư, đây chính là điểm khởi đầu cho trải nghiệm thiền định và thiền quán, hòa nhập thành tự tính thực tại của vạn pháp. Trên phương diện nghi quỹ, quán đỉnh dẫn chúng ta thể nhập vào Mandala của Bản tôn, hòa nhập vào toàn bộ trải nghiệm và phẩm chất của Bản tôn. Quán đỉnh cũng là pháp đối trị với tâm nhị nguyên, tâm không thỏa mãn, luân hồi, cuồng tín. Trong suốt thời gian thu nhận trao truyền quán đỉnh, chúng ta loại bỏ hoàn toàn những định kiến và cố chấp vào bản thân mình. Thay vào đó, chúng ta nhận ra tâm trí tuệ của Bản tôn là tiềm năng Phật tính hoàn hảo nơi tự thân mỗi người.

Dưới góc độ bí mật, việc thụ nhận quán đỉnh từ bậc Thượng sư giác ngộ tạo nguồn năng lượng mạnh mẽ giúp cắt đứt hoàn toàn những chấp trước, khái niệm, mê lầm để hành giả có thể liễu ngộ chân tâm bản tính. Vì lý do này, người ta nói rằng khi nhân duyên chín muồi, nếu một Bậc thầy chứng ngộ ban quán đỉnh cho một người đệ tử có căn cơ cao, người đệ tử có thể tức thì chứng đạt giác ngộ. Trong các truyền thống như truyền thống Đại Thủ Ấn, chúng ta có thể đọc thấy những lời khai thị sau: “Khi chứng ngộ điều này, nếu bạn thiền định vào buổi sáng, bạn sẽ giác ngộ vào buổi tối. Nếu bạn thiền định vào buổi tối, bạn sẽ giác ngộ vào buổi sáng hôm sau”. Điều này có thể xảy ra với các hành giả cao cấp nương năng lực giác ngộ của bậc Thầy trao truyền quán đỉnh.

Như vậy, khi bắt đầu tu tập Kim Cương thừa, điều tối quan trọng là bạn cần thụ nhận quán đỉnh từ bậc Thượng sư của mình. Đây chính là ngưỡng cửa đặc trưng của Kim Cương thừa để hành giả có thể thực hành nghi quỹ tu trì theo một Bản tôn nhất định (ví dụ Phật Bản tôn Quan Âm, Phật Bản tôn Dược Sư hay Bản tôn Trí tuệ Văn Thù…). Nói cách khác, quán đỉnh là nghi thức mà một bậc Thượng sư tu chứng trao truyền thể nhập thực hành trực tiếp một pháp môn cho đệ tử, bao gồm mô tả, giảng nghĩa, quán tưởng, thứ lớp tu tập cùng với các nghi lễ cúng dàng và chân ngôn tương ứng.

a. Những yêu cầu để được thụ nhận quán đỉnh

Để có thể thụ nhận quán đỉnh, hành giả phải phát tâm thụ nhận ân đức gia trì, thực hành những giáo pháp tương ứng trong tương lai và phát tâm tức thời thực hành giáo pháp được truyền thụ. Để thành tựu, lễ truyền pháp quán đỉnh cần hội đủ ba nhân duyên điều kiện sau:

- Động cơ của bậc Thượng sư phải thanh tịnh dựa trên cơ sở tình yêu thương và lòng bi mẫn. Bậc Thượng sư cũng phải đã từng đón nhận lễ truyền pháp quán đỉnh và bản thân có kinh nghiệm tu chứng.

- Người đệ tử phải có tín tâm không chút nghi báng về sự hợp thức của buổi lễ và phẩm hạnh của Thượng sư. Người Thầy phải được hiểu là hiện thân của Đức Phật và bậc Thượng sư của chính Ngài. Những phẩm chất cá nhân thường nhật của người Thầy không quan trọng bằng vai trò Kim cương Thượng sư của Ngài.

Page 45: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

- Những pháp khí biểu tượng trong buổi lễ như tranh ảnh, hình tượng, bình quán đỉnh bumpa, Torma (phẩm vật cúng dàng truyền thống dùng trong các nghi lễ Mật thừa, được làm chủ yếu từ bột mì và bơ) và những phẩm vật cúng dàng được chuẩn bị đầy đủ khác.

Quán đỉnh bao gồm rất nhiều khía cạnh khác nhau, từ phẩm chất của sự chuẩn bị và thực hành trong cả một đời bậc Thầy và đặc biệt là phẩm chất và sự chuẩn bị nơi người đệ tử. Bởi quán đỉnh là sự truyền trao năng lực giác ngộ từ tâm đến tâm, là kết quả của mối quan hệ giữa Thượng sư và đệ tử nên thành tựu của pháp này hoàn toàn phụ thuộc vào sự hiểu biết và tin tưởng rất mạnh mẽ từ cả hai phía. Đây được gọi là “gia trì” và quán đỉnh, theo nghĩa đích thực của nó, phải dẫn chúng ta đến việc đón nhận gia trì cùng sự chuyển hóa thật sự nơi thân tâm hướng về giác ngộ. Điều tương tự cũng đúng với các phương pháp thiện xảo khác trong Kim Cương thừa như trì tụng chân ngôn, thực hành thiền định, kỹ năng quán tưởng,… Chúng đều có cùng một mục tiêu: sự chuyển hóa hoàn toàn của Thân, Khẩu, Ý và toàn bộ sự tồn tại của chúng ta. Bởi quán đỉnh liên quan đến bốn điều này nên trong Kim Cương thừa cũng có bốn thứ lớp quán đỉnh.

b. Định nghĩa quán đỉnh

Con đường thực hành, giác ngộ và thành tựu quán đỉnh được chia làm Căn quán đỉnh, Đạo quán đỉnh và Quả quán đỉnh

Căn quán đỉnh - phẩm tính Phật sẵn có trong mỗi chúng sinh

Căn quán đỉnh là phẩm tính Phật sẵn có trong mỗi chúng ta, không thể tìm cầu ở bên ngoài hay do các bậc Thầy ban cho. Đúng hơn là các bậc Thầy quán đỉnh để khai thị cho chúng ta về trí tuệ Bản lai. Một cách tuyệt đối, đó là sự gặp gỡ, hòa nhập tâm giác ngộ của bậc Thầy và tâm của đệ tử thông qua Đạo quán đỉnh. Tâm giác ngộ của bậc Kim cương Thượng sư không là gì khác hơn sự chứng ngộ tuyệt đối của Phật Bản tôn, là tự tính Bản Lai của chúng ta.

Đạo quán đỉnh: nghi thức trao truyền quán đỉnh

Đây là sự truyền trao ân phúc gia trì và cho phép thực hành Bản tôn.

Tâm thức phàm phu của chúng ta không được thành thục và chín muồi. Vì thế, nó cần phải được thuần thục bằng quán đỉnh. Trong thuật luyện kim, các hợp kim được chuyển hóa thành vàng. Tâm thức của chúng ta giống như hợp kim được chuyển hóa thành vàng nhờ vào lễ truyền pháp quán đỉnh. Trong khi dòng suối cam lồ được quán đỉnh ban phúc lên chúng ta trong buổi lễ, chúng ta thiền định và quán tưởng mình chuyển hóa, thể nhập và an trụ trong trạng thái của Bản tôn, nhờ đó tịnh hóa hết thảy ám chướng và tà niệm. Chúng ta hiển lộ tâm tính của mình đồng như tâm của Bản tôn không khác. Toàn bộ sắc thân của chúng ta được chuyển hóa thành Mandala của Bản tôn. Việc quán tưởng tự thân là Bản tôn, cầu nguyện triệu thỉnh Bản tôn bên ngoài và thực hành quán hòa tan hợp nhất có diệu dụng đánh thức tâm giác ngộ nơi mỗi chúng ta. Khả năng chuyển hóa và tịnh hóa này đến từ bậc Thượng sư và năng lực vĩ đại này được Ngài trì giữ và thành tựu từ một Truyền thừa giác ngộ. Chính vì thế, quán đỉnh còn mang ý nghĩa nhiều hơn những gì cấu thành nên nó; đó là sự trao truyền nguồn ân phúc và năng lực gia trì của cả một

Page 46: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

dòng Truyền thừa từ Đức Phật và là sự giới thiệu trực tiếp vào thực tại tuyệt đối, trí tuệ bất nhị hay chân tính của vạn pháp.

Mandala

Sau khi thụ quán đỉnh, chúng ta được phép thực hành Bản tôn trong đó bao gồm quán tưởng Thiên Cung hay còn gọi là Mandala hoặc Mandala của Bản tôn. Có hai loại Mandala chính là Mandala bên ngoài và Mandala bên trong, ngoài ra còn có Mandala thiền định đối với hành giả có khả năng thiền định cao mà không cần đối tượng bên ngoài, nhưng trường hợp này rất hiếm. Đối với Mandala bên ngoài, bậc Kim cương Thượng sư thực hiện nghi lễ quán đỉnh sử dụng Mandala in trên giấy hoặc vải hoặc tạo ra Mandala trên cát. Mandala cát cũng thường được sử dụng khi có các quán đỉnh lớn như Thắng Lạc Kim Cương và thường được một số chư Tăng Ni được huấn luyện đặc biệt kiến lập. Mandala bên ngoài thường được dùng như là pháp khí chính của việc quán đỉnh, nhưng không phải là Mandala thật; Mandala thật là Mandala được quán tưởng trong khi quán đỉnh. Mục đích của Mandala tự tạo bên ngoài là giúp cho các bậc Thượng sư giải thích đặc điểm của Mandala thật cho người đệ tử trong khi cử hành nghi lễ quán đỉnh. Ở một số tự viện có thể có Mandala ba chiều. Đây là một công trình xây dựng đồ sộ với nền móng kim cương bốn cửa và tất cả các sức trang hoàng chỉ để dành cho thiền định, giúp thiền giả thực hành quán tưởng Mandala. Thường là có những bức tường hở để có thể nhìn thấy được các Bản tôn bên trong nhưng những Mandala ba chiều này lại không được dùng trong nghi lễ quán đỉnh. Mandala quán đỉnh thường dựa trên Mandala in vẽ hay Mandala cát. Mandala bên ngoài ba chiều được đặt vào trong một ngôi nhà Mandala ba chiều phủ rèm xung quanh.

Trong phần đầu của lễ quán đỉnh, đệ tử cuốn một dải vải đỏ trên trán biểu thị bị bịt mắt bởi vì chưa được quán đỉnh nên họ không được phép nhìn thấy Mandala. Vào một thời điểm nhất định trong lễ quán đỉnh khi Kim cương Thượng sư cho phép, rèm của ngôi nhà Mandala được kéo lên thể hiện Mandala và dải băng bịt mắt sẽ được tháo ra. Trong Mandala thật được quán tưởng có thể có rất nhiều Bản tôn tùy thuộc vào các quán đỉnh, chẳng hạn như Mandala Mật tập có ba mươi hai Bản tôn và một trong những quán đỉnh về Heruka thì có sáu mươi hai Bản tôn. Mỗi khía cạnh của Mandala mang một ý nghĩa, ví dụ như bốn cửa nêu biểu cho Tứ niệm xứ hay Tứ diệu đế, tám cột nêu biểu cho Bát chính đạo… Bởi vậy Mandala không được tưởng tượng giống như bê tông hoặc gạch mà phải được xây dựng trong sự chứng ngộ của thiền giả. Mandala bên trong là nơi mà toàn bộ thân và tâm được quán tưởng đầu tiên trở thành một Mandala nơi an trụ của chư Bản tôn. Nhiều nghi quỹ hướng dẫn phần thực hành này. Tiếp theo lời cầu nguyện mở đầu, thông thường là phần giảng về các uẩn, đại, giác quan, đối tượng của giác quan hay các chi của bạn là một Mandala hoàn hảo với năm Phật Thiền na và Phật mẫu, các Bồ tát nam, nữ cùng với các Bản tôn phẫn nộ. Không phải tất cả các thực hành Bản tôn có giai đoạn thực hành Mandala bên trong. Bên cạnh Mandala bên ngoài và bên trong, một vài Mật điển đề cập đến Mandala thân thể, nghĩa là sự thực hành có liên quan tới các đại của Mandala tương ứng với các bộ phận của thân hành giả. Mỗi pháp thực hành các Bản tôn khác nhau sẽ có cách giải thích khác nhau nhưng nhìn chung, trong Mandala thân thể, các yếu tố của thân và năm giác quan được quán tưởng thành Bản tôn.

Tứ quán đỉnh

Page 47: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Trong Kim Cương thừa có bốn quán đỉnh tương ứng với bốn con đường: con đường tu tập quán tưởng, con đường hòa tan, con đường bí mật và con đường cảnh giới Đại Thủ Ấn. Các thứ lớp quán đỉnh nêu biểu cho sự tu tập nền tảng tới con đường và kết quả rốt ráo (Căn, Đạo, Quả). Thông qua bốn quán đỉnh, chúng ta tịnh hóa bốn ám chướng. Nhờ tịnh hóa bốn ám chướng, chúng ta gieo trồng hạt giống thành tựu Tứ thân trong tương lai. Các thứ lớp này là những yếu tố căn bản của Tantra, gốc rễ của hệ thống Kim Cương thừa. Nếu không đón nhận lễ truyền pháp quán đỉnh này, chúng ta không có quyền thực hành tu tập Kim Cương thừa. Vì thế chúng ta cần phải biết trân quý cơ hội hy hữu khi được đón nhận quán đỉnh từ bậc Thượng sư Giác ngộ.

Bốn quán đỉnh đó là:

- Quán đỉnh Bình: giúp tịnh hóa ám chướng nơi Thân và thành tựu Hóa thân

- Quán đỉnh Bí mật: giúp tịnh hóa ám chướng nơi Khẩu và thành tựu Báo thân

- Quán đỉnh Trí tuệ: giúp tịnh hóa ám chướng nơi Ý và thành tựu Pháp thân

- Quán đỉnh Ngữ tôn quý: giúp tịnh hóa các ám chướng Khí vi tế và thành tựu Thể tính thân

Thông qua thiền định về quán đỉnh đầu tiên, tức là Bình quán, chúng ta tịnh hóa các ám chướng của Thân. Hiện giờ chúng ta thấy bản thân mình chỉ là một phàm phu thường tình bằng xương, bằng máu vốn là nguồn gốc của khổ đau phiền não. Nếu thấy rõ được điều này trong lễ truyền pháp quán đỉnh, chúng ta có thể hiển lộ được thân phàm phu của mình thành thân giác ngộ. Nói cách khác, chúng ta chuyển hóa bản thân mình thành Bản tôn. Bằng cách thể nhập vào trạng thái của Bản tôn, chúng ta gieo trồng hạt giống thành tựu Hóa thân Phật.

Trong phần quán đỉnh thứ hai gọi là Mật quán, chúng ta tịnh hóa những ám chướng gây ra bởi Khẩu nghiệp. Tất cả những khẩu nghiệp bất thiện và những lời vô nghĩa không biết dừng nghỉ của chúng ta được chuyển hóa thành Khẩu giác ngộ của Đức Phật. Bằng cách tịnh hóa các ác nghiệp ám chướng thuộc về khẩu, chúng ta gieo trồng hạt giống thành tựu Báo thân Phật.

Nhờ quán đỉnh thứ ba tức là quán đỉnh Trí tuệ, chúng ta tịnh hóa tất các ác nghiệp ám chướng thuộc về Ý. Tất cả si mê ám chướng (Trần sa hoặc) của chúng ta được chuyển hóa thành bản chất Trí tuệ và tự tính tâm của chúng ta hiển lộ vô biên không giới hạn. Bằng cách tịnh hóa Ý nghiệp, chúng ta gieo trồng hạt giống thành tựu Pháp thân Phật.

Quán đỉnh thứ tư đôi khi còn được gọi là quán đỉnh Ngữ tôn quý, song thông thường được gọi là quán đỉnh “thứ tư”. Nhờ được thụ nhận quán đỉnh thứ tư này, chúng ta tịnh hóa các ám chướng vi tế (Vô minh hoặc) để thành tựu quả vị giác ngộ. Những ám chướng vi tế của phân biệt nhị nguyên được chuyển hóa thành sự tỉnh thức nguyên thủy - Trí tuệ bản lai. Bằng cách tịnh hóa các ám chướng vi tế, chúng ta gieo trồng hạt giống thành tựu Thể tính thân siêu việt.

Bốn quán đỉnh này thường tương ứng với bốn thứ lớp Tantra tối thượng như Tantra Hỷ Kim Cương, Thắng Lạc Kim Cương, Kim Cương Phật Mẫu.

Page 48: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

Nghi thức truyền Quán đỉnh

Nghi thức truyền Quán đỉnh có thể ngắn hoặc dài, đơn giản hay phức tạp. Nó thường bao gồm (1) wang tức là phần quán đỉnh thánh hóa người đệ tử thành vị Bản tôn thiền định, (2) lung tức là phần khẩu truyền tụng đọc một bài kinh văn (đôi khi có thể là tụng bản cô đọng hoặc tụng nhanh đầy đủ cả bài kinh), và (3) tri là những phần giảng dạy hướng dẫn cách tu tập thực hành. Trong những trường hợp đặc biệt, chỉ cần một nghi lễ rút gọn kết nối người đệ tử với nghi quỹ thực hành đi kèm cùng việc trì tụng chân ngôn liên quan là đủ.

Thông thường, trong một Đại lễ quán đỉnh, nhiều phần quán tưởng và nghi lễ khác nhau như Quy y, phát nguyện Trì giữ Tam muội da và tịnh hóa thân, khẩu, ý được thực hiện. Có thể bậc Kim cương Thượng sư sẽ giới thiệu về các đề mục này ngay từ đầu, hoặc giải thích vào thời điểm thích hợp sau đó. Quán tưởng trong phần chính của nghi lễ quán đỉnh wang phức tạp hơn quán tưởng trong nghi lễ chuẩn bị. Chẳng hạn, trong phần chính bạn có thể phải quán tưởng về các vị Bản tôn xuất hiện trên không trung, hay từ tim của Kim cương Thượng sư, và những chủng tử tự bằng tiếng Tạng hiện ra ở những vị trí nhất định trên thân Ngài hay ngay trên thân bạn. Bạn có thể được yêu cầu quán tưởng những luồng ánh sáng với màu sắc khác nhau từ tim Ngài phóng ra tỏa chiếu lên bạn cùng vô số chúng hữu tình, thanh lọc mọi phiền trược nhiễm ô.

Theo yêu cầu của Kim cương Thượng sư, bạn có thể phải quán tưởng về chính tự thân mình trong Pháp tướng của Bản tôn quán đỉnh. Lễ Tịnh hóa Thân, được thực hiện khi vị thị giả dâng hương, giúp thanh lọc những uế trược về thân để chúng ta có thể quán tưởng bản thân mình thành vị Bản tôn thiền định. Bất luận già hay trẻ, nam hay nữ, chúng ta lúc này đều quán tưởng mình là Phật Bản tôn, ví dụ như Bản tôn Quán Âm - vị Phật của lòng bi mẫn với một mặt, bốn tay, cầm tràng hạt và ngọc như ý...

Tiếp đến, trong phần Tịnh hóa Khẩu, thông thường bạn sẽ phải quán tưởng chân ngôn viết bằng tiếng Tạng của vị Bản tôn đi từ tim của bậc Kim cương Thượng sư thể nhập vào tim bạn. Lúc này, Ngài sẽ trì chân ngôn và bạn nhắc theo ba lần. Lễ Tịnh hóa Khẩu giúp thanh lọc Khẩu nghiệp và cho phép chúng ta trì tụng câu chân ngôn tương ứng của Bản tôn.

Nghi thức Tịnh hóa Ý giúp ta thực chứng sự bất nhị của tâm mình và tâm của Bản tôn, từ đó siêu việt được năng - sở đối đãi nhị nguyên thường ngày. Trong nghi lễ Tịnh hóa Ý, bạn quán tưởng trong tâm chủng tử tự của vị Bản tôn và bằng cách chú tâm vào chủng tử tự hay tinh yếu của Đức Bản tôn, bạn cố gắng liễu ngộ tâm mình và tâm của Thượng sư hay Đức Bản tôn là bất khả phân.

Cả ba nghi lễ trên đây ban năng lực cho phép ta hành trì một pháp tu thiền định nào đó mà theo đấy ta được phép quán tưởng tự thân là Bản tôn, trì tụng chân ngôn, xua tan những vọng tưởng phân biệt giữa bản thân mình và bậc Bản tôn thiền định. Hình thức tu tập này giúp chúng ta liễu ngộ bản tâm mình với tâm của chư Phật không khác.

Đại lễ Quán đỉnh kết thúc với nhiều bài tán tụng cầu nguyện và lễ cúng dàng Mandala cuối cùng để bày tỏ lòng tri ân tới bậc Kim cương Thượng sư vì đã trao truyền quán đỉnh. Trong phần kết thúc quán đỉnh, các đệ tử xếp thành hàng một đi

Page 49: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

nhiễu qua nơi tòa của Kim cương Thượng sư để thụ nhận gia trì, chẳng hạn Ngài sẽ đặt chày kim cương hay bình quán đỉnh lên đỉnh đầu đệ tử, hoặc đôi khi để chiêm bái một hình ảnh giác ngộ nào đó.

Nếu Mandala của vị Bản tôn đã được kiến lập dành cho những Đại lễ quán đỉnh, bạn nên chiêm bái và đỉnh lễ Đức Bản tôn ở trung tâm của Mandala để đón nhận gia trì và thành tựu pháp.

Bởi quán đỉnh phù hợp với căn cơ kẻ thụ nhận cũng như mối liên hệ linh thiêng Thượng sư - đệ tử nên bạn phải tránh chạy theo các Bậc Thầy và thụ nhận quán đỉnh mà không kiểm tra trước với Bậc Thầy Căn bản Thượng sư xem bạn đã sẵn sàng phù hợp với pháp thực hành này chưa. Hãy thận trọng khi nghe thấy một vài quán đỉnh rất bí mật sẽ được cử hành ở đâu đó vì nếu bạn tham gia các quán đỉnh này mà chưa được chuẩn bị hoặc có một nền tảng tu tập vững chắc thì hậu quả sẽ rất nghiêm trọng. Sự vội vã thậm chí có thể hủy hoại đường đạo của bạn.

Như vậy, chúng ta có thể nói việc thụ nhận quán đỉnh cũng giống như việc gieo một hạt giống trong tâm thức để trong quá trình sau này, khi hội đủ nhân duyên, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành quả Giác ngộ. Các nhân duyên được trưởng dưỡng qua quá trình tham học kinh luận, miên mật thực hành giáo pháp được trao truyền và đặc biệt là việc trì giữ trọn vẹn Tam muội da giới một cách thanh tịnh giữa hành giả với pháp tu, với bậc Thượng sư và chân lý vũ trụ.

Quả quán đỉnh: sau khi thực hành, hành giả hoàn thiện được Bốn thân Phật và Ngũ trí Phật

Bốn quán đỉnh được gọi là “quán đỉnh bình”, “quán đỉnh bí mật”, “quán đỉnh trí tuệ” và “quán đỉnh ngữ”. Các thành tố cơ bản mà quán đỉnh tác động lên là kinh mạch, khí và minh điểm tinh túy. Ba thứ này được sử dụng trong mối liên hệ với tâm. Do vậy, quán đỉnh đầu tiên liên quan đến kinh mạch, quán đỉnh thứ hai liên quan đến tinh túy và quán đỉnh thứ ba liên quan đến khí hay năng lượng, và thứ tư liên quan đến Tâm. Mục đích kết quả của quán đỉnh đầu tiên là đánh thức và hiển lộ khía cạnh của Hóa thân cho đệ tử. Cũng như vậy, quán đỉnh thứ hai là nhằm hiển lộ Báo thân. Với quán đỉnh thứ ba là sự hiển lộ của Pháp thân, và với quán đỉnh thứ tư là sự chứng ngộ của Thể tính thân nơi chúng ta. Khi bốn quán đỉnh được ban truyền lần đầu, chúng được gọi là quán đỉnh chủng tử vì bậc Thầy đã ươm trồng hạt giống để sau đó người đệ tử tiếp tục trưởng dưỡng nhằm đạt được hiểu biết và trải nghiệm giác ngộ.

Năm quán đỉnh phổ biến của Ngũ bộ Phật

Thông qua năm quán đỉnh phổ biến của Ngũ bộ Phật, hành giả nhận được năng lực chuyển hóa các phẩm tính bình thường thành các phẩm chất giác ngộ.

- Quán đỉnh Bình: hành giả chuyển hóa thức thứ tám (Tàng thức) thành Đức Akshobya Bất Động Phật, cảm xúc sân giận thành Đại viên cảnh trí.

- Quán đỉnh Vương miện: hành giả chuyển hóa thụ uẩn thành Đức Ratnasambhava Bảo Sinh Phật, cảm xúc kiêu mạn thành Bình đẳng tính trí.

Page 50: Bardo - Bí Mật Nghệ thuật sinh tử.docx

- Quán đỉnh Kim Cương: hành giả chuyển hóa tưởng uẩn thành Đức Amitabha A Di Đà Phật, cảm xúc tham dục thành Diệu quan sát trí.

- Quán đỉnh Chuông: hành giả chuyển hóa hành uẩn thành Đức Amoghasiddhi Bất Không Thành Tựu Phật, cảm xúc căm ghét, thù hận thành Thành sở tác trí.

- Quán đỉnh Tên: hành giả chuyển hóa sắc thân thành Đức Vairochana Đại Nhật Phật, cảm xúc vô minh thành Pháp giới thể tính trí.

Càng hiểu biết, cách tiếp cận của chúng ta đối với vạn pháp càng thay đổi. Khi nhận thức về tâm trở nên chín muồi nhờ những trải nghiệm và chứng ngộ thực tế, chúng ta sẽ gặt hái được nhiều lợi ích hơn từ những quán đỉnh sau này. Thực tế là trên hành trình tâm linh của mình, chúng ta không chỉ thụ nhận một vài mà có thể hàng trăm quán đỉnh hoặc nhiều hơn thế nữa. Cùng với sự tinh tấn và trưởng thành trong tu tập, chúng ta cần tiếp tục thụ nhận quán đỉnh để đạt được chứng ngộ cứu kính đích thực. Khi đã chứng ngộ rồi, tất cả những quán đỉnh cũng như tất cả những khía cạnh của sự luyện tập trước đó sẽ thể hiện qua sự chứng ngộ của bạn. Quán đỉnh, trong tự tâm đích thực và tối thượng này, không còn là năng lực gì đó bậc Thượng sư ban cho đệ tử mà được khởi nguồn từ bên trong hành giả và tương ứng với chứng ngộ tự giác hoàn toàn.

Quán đỉnh được truyền trao tùy theo căn cơ của hành giả. Đối với những hành giả đánh giá cao sự tướng, quán đỉnh sẽ được truyền trao theo các nghi thức vô cùng long trọng. Đối với những người căn cơ cao, bậc Thượng sư có thể sử dụng những cách khai thị rất đơn giản thậm chí không sử dụng hỗ trợ bên ngoài. Dù được đón nhận quán đỉnh nào, điều quan trọng là chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng, đã và đang tịnh hóa ác nghiệp cũng như xúc tình tiêu cực, sẵn sàng giác ngộ bản tâm thanh tịnh hay tự tính tâm của mình.

Vì những lí do trên, việc ấn định lịch trình cố định cho sự trao truyền quán đỉnh là không cần thiết bởi quán đỉnh có thể được thực hiện dưới bất cứ hình thức nào, vào bất kỳ khi nào, miễn là chúng ta có được sự hoan hỷ, an lạc và tâm chí thành chân thật hướng tới bậc Thầy, tới chư vị Bản tôn quán đỉnh và Tam bảo, hay nói cách khác, chúng ta đã thiết lập được sợi dây kết nối với bậc Thầy và một pháp thực hành nào đó.

http://www.drukpavietnam.org/index.php?option=com_content&view=category&layout=blog&id=117&Itemid=117&lang=vi