40
BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ ______________ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Số: /TTr- BKHĐT Hà Nội, ngày tháng 3 năm 2014 TỜ TRÌNH Về Dự án Luật Đầu tư (sửa đổi) Kính gửi: Chính phủ Thực hiện Nghị quyết số 45/2013/QH13 ngày 18/6/2013 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014 và Quyết định số 1441/QĐ-TTg ngày 16/8/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phân công cơ quan chủ trì soạn thảo các dự án luật năm 2014 , Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ Dự án Luật Đầu tư (sửa đổi) như sau: I. SỰ CẦN THIẾT SỬA ĐỔI LUẬT ĐẦU TƯ Việc ban hành Luật Đầu tư năm 2005 là một bước tiến quan trọng trong tiến trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư tại Việt Nam. Cùng với Luật Doanh nghiệp được thông qua và có hiệu lực thi hành vào cùng một thời điểm (1/7/2006), đây là đầu tiên sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam có một khung pháp luật về đầu tư, doanh nghiệp áp dụng thống nhất cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Những quy định của Luật Đầu tư đã mở rộng quyền tự chủ trong hoạt động đầu tư, kinh doanh của các nhà đầu tư bằng việc xóa bỏ một loạt rào cản đầu DỰ THẢO

Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ______________

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số: /TTr- BKHĐT Hà Nội, ngày tháng 3 năm 2014

TỜ TRÌNH

Về Dự án Luật Đầu tư (sửa đổi)

Kính gửi: Chính phủ

Thực hiện Nghị quyết số 45/2013/QH13 ngày 18/6/2013 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014 và Quyết định số 1441/QĐ-TTg ngày 16/8/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phân công cơ quan chủ trì soạn thảo các dự án luật năm 2014 , Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ Dự án Luật Đầu tư (sửa đổi) như sau:

I. SỰ CẦN THIẾT SỬA ĐỔI LUẬT ĐẦU TƯ

Việc ban hành Luật Đầu tư năm 2005 là một bước tiến quan trọng trong tiến trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư tại Việt Nam. Cùng với Luật Doanh nghiệp được thông qua và có hiệu lực thi hành vào cùng một thời điểm (1/7/2006), đây là đầu tiên sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam có một khung pháp luật về đầu tư, doanh nghiệp áp dụng thống nhất cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.

Những quy định của Luật Đầu tư đã mở rộng quyền tự chủ trong hoạt động đầu tư, kinh doanh của các nhà đầu tư bằng việc xóa bỏ một loạt rào cản đầu tư không phù hợp với thông lệ kinh tế thị trường và cam kết hội nhập của Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng ngày càng thuận lợi, minh bạch và bình đẳng giữa các nhà đầu tư.

Tuy nhiên, sau hơn 8 năm triển khai thi hành, bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, một số quy định của Luật Đầu tư cũng như thực tiễn quá trình thi hành Luật đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, cần phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung; cụ thể như sau:

Một là, với phạm vi điều chỉnh rộng, bao quát toàn bộ hoạt động đầu tư (gồm cả đầu tư trực tiếp và gián tiếp), hoạt động đầu tư kinh doanh vốn nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài, Luật Đầu tư về cơ bản đảm bảo thực hiện chức năng như một luật khung điều chỉnh toàn bộ các

DỰ THẢO

Page 2: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

hoạt động đầu tư kinh doanh trong tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên, ngay sau khi Luật Đầu tư và Nghị định 108/2006/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, một số đạo luật liên quan đến hoạt động đầu tư, kinh doanh đã được ban hành hoặc sửa đổi (như Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Chứng khoán, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu....). Sự tồn tại của các luật nêu trên, trong khi chưa có quy định phân định rõ mối quan hệ cũng như nguyên tắc áp dụng giữa các luật, đã làm phát sinh một số vướng mắc trong việc xác định phạm vi điều chỉnh giữa Luật Đầu tư với các luật liên quan, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến lĩnh vực, điều kiện, thủ tục đầu tư và ưu đãi đầu tư.

Hai là, việc lần đầu tiên áp dụng khung pháp lý về đầu tư, kinh doanh thống nhất cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế đã không tránh khỏi một số khó khăn nhất định. Thực tế cho thấy, do Luật Đầu tư chưa quy định rõ một số khái niệm cơ bản (như dự án đầu tư, điều kiện đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài...) nên việc xác định quyền, nghĩa vụ cũng như điều kiện và thủ tục đầu tư, kinh doanh của các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài, còn chưa có quan điểm thống nhất giữa các cơ quan quản lý, đẫn đến lúng túng trong quá trình thực hiện.. Bên cạnh đó, việc chuyển từ chế độ quản lý một doanh nghiệp ĐTNN được thành lập trên cơ sở một dự án đầu tư sang chế độ quản lý một doanh nghiệp được tổ chức, hoạt động thống nhất trong khuôn khổ Luật Doanh nghiệp và được phép đăng ký đầu tư đồng thời với đăng ký kinh doanh trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau cũng làm cho việc xác định thủ tục đầu tư, kinh doanh đối với các doanh nghiệp này trở nên khó khăn.

Ba là, các lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư theo quy định Luật này và các luật liên quan chưa được quy định thống nhất. Mặt khác, một số lĩnh vực ưu đãi đầu tư theo quy định của Nghị định 108/2006/NĐ- CP còn dàn trải chưa thật sự hướng mạnh vào việc thu hút các dự án đầu tư với chất lượng và hiệu quả cao hơn. Hạn chế này cùng với một số bất cập trong quá trình thẩm tra dự án đầu tư đã phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN). Thực tế cho thấy, hoạt động ĐTNN trong thời gian qua chưa thật sự đạt được kỳ vọng về thu hút công nghệ cao, công nghệ nguồn, công nghiệp hỗ trợ, đầu tư phát triển hạ tầng và chuyển giao công nghệ; chất lượng một số dự án ĐTNN nhìn chung chưa cao, giá trị gia tăng thấp, sự tham gia đầu tư theo chuỗi sản xuất toàn cầu của các tập đoàn xuyên quốc gia còn hạn chế…

Bốn là, các biện pháp bảo đảm đầu tư theo quy định của Luật về cơ bản là phù hợp với thông lệ quốc tế, được các nhà đầu tư hoan nghênh, đánh giá cao.

2

Page 3: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

cũng như các cam kết của Việt Nam theo các điều ước quốc tế. Tuy nhiên, Luật hiện hành chưa quy định rõ nguyên tắc đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư nước ngoài (nguyên tắc đối xử tối huệ quốc) đã được Việt Nam cam kết trong các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Các quy định về bảo đảm không hồi tố trong trường hợp pháp luật, chính sách mới được ban hành làm ảnh hưởng bất lợi đến nhà lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư còn thiếu cụ thể, dẫn đến lúng túng trong quá trình thực hiện, đồng thời chưa thể hiện rõ cam kết của Việt Nam trong WTO về bảo đảm không hồi tố các điều kiện đầu tư. theo đánh giá của các nhà đầu tư, môi trường pháp lý của Việt Nam còn tiềm ẩn rủi ro do việc thi hành pháp luật và điều ước quốc tế chưa thật sự nhất quán, còn tồn tại trên thực tế sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư và chưa có cơ chế minh bạch, chắc chắn cho việc thực hiện biện pháp bảo đảm đầu tư. Những bất cập nêu trên đã phần nào ảnh hưởng đến hiệu lực thi hành một số cam kết quốc tế của Việt Nam về mở cửa thị trường và tự do hóa đầu tư, đồng thời là một trong những nguyên nhân quan trọng làm phát sinh tranh chấp giữa các cơ quan nhà nước và nhà đầu tư.

Năm là, mặc dù đã có nhiều cải cách, nhưng các quy định về thủ tục đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư và triển khai thực hiện dự án, mặc dù đã có nhiều cải cách, nhưng chưa xác định rõ hồ sơ, quy trình trình tự cũng như nội dung cụ thể của việc việc thực hiện dự án đầu tư từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư, cấp Giấy chứng nhận đầu tư đến giai đoạn thực hiện đầu tư triển khai dự án và chấm dứt dự án hoạt động đầu tư. Mặt khác, các thủ tục đầu tư, đất đai, xây dựng cũng chưa được quy định thống nhất, đồng bộ giữa các luật nên đã dẫn đến sự chồng chéo về mục tiêu, nội dung quản lý, cơ quan thẩm định, phê duyệt, đồng thời không có sự kế thừa, công nhận kết quả của nhau. Cơ chế “một cửa” đang thực hiện ở một số địa phương mới chỉ thiết lập được quy trình một đầu mối trong tiếp nhận và trả kết quả thủ tục hành chính, nhưng trên thực tế, nhà đầu tư vẫn phải nộp hồ sơ cho nhiều cơ quan chuyên môn khác nhau của UBND cấp tỉnh để được giải quyết lần lượt thủ tục hành chính theo quy định của các luật khác nhau. Kết quả rà soát thủ tục hành chính cho thấy, nhà đầu tư phải thực hiện trung bình 18 thủ tục liên quan đến đất đai, xây dựng, môi trường để triển khai dự án đầu tư. Cộng đồng doanh nghiệp cho rằng, thủ tục đầu tư, đất đai, xây dựng là chuỗi thủ tục tồn tại nhiều khó khăn nhất cho doanh nghiệp và là một trong những “nút thắt” phải tháo gỡ nhằm tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh.

nhưng chưa làm rõ quy trình thực hiện dự án và còn tồn tại nhiều đầu mối xem xét, giải quyết, chưa thật sự đáp ứng yêu cầu đơn giản hóa thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các tiêu chí và cơ chế quản

3

Page 4: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

lý nhà nước đặc thù đối với từng lĩnh vực, ngành nghề, dự án cũng chưa được ban hành kịp thời. Điều này gây khó khăn, lúng túng trong việc xác định điều kiện đầu tư đối với một số dự án, đặc biệt là các dự án có sử dụng đất và các dự án thuộc Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện theo pháp luật chuyên ngành và điều ước quốc tế.Bên cạnh đó, những quy định của Luật còn tồn tại một số khác biệt không cần thiết giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài liên quan đến thủ tục đầu tư thành lập doanh nghiệp, thủ tục mua cổ phần, phần vốn góp, thủ tục mở chi nhánh, văn phòng đại diện, thay đổi địa điểm trụ sở chính, chuyển nhượng vốn... Hiện nay, nhà đầu tư nước ngoài/doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang phải thực hiện các hoạt động này với thủ tục phức tạp hơn, khó khăn và tốn kém hơn nhiều so với doanh nghiệp trong nước.

Cộng đồng doanh nghiệp cho rằng, thủ tục đầu tư, đất đai, xây dựng là chuỗi thủ tục tồn tại nhiều khó khăn nhất cho doanh nghiệp và là một trong những “nút thắt” phải tháo gỡ nhằm tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh.

Sáu là, các quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư chưa được hoàn thiện kịp thời trong bối cảnh thực hiện chế độ phân cấp. cũng gây khó khăn trong hoạt động quản lý đầu tư. Sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đầu tư còn nhiều tồn tại một số bất cập từ công tác cung cấp thông tin, xây dựng cơ chế, chính sách, xúc tiến đầu tư đến cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của dự án đầu tư về tiến độ thực hiện dự án, góp vốn… cũng như các vấn đề liên quan đến quản lý lao động, tài chính, ngân hàng, môi trường, xây dựng, khoa học công nghệ... chưa thực sự phát huy hiệu quả; chưa có chế tài xử lý nghiêm những vi phạm liên quan đến chế độ phân cấp, cơ chế báo cáo, trao đổi thông tin giữa các cơ quan trung ương, địa phương và giữa các Bộ, ngành.

Bảy là, các quy định về cấp Giấy chứng nhận đầu tư và quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài còn tồn tại những hạn chế cơ bản là: chưa xác định rõ mục đích quản lý của nhà nước là kiểm soát nguồn tiền chuyển ra nước ngoài hay quản lý toàn bộ hoạt động đầu tư ở nước ngoài; thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài chưa được hướng dẫn chi tiết, kịp thời; một số hình thức đầu tư mới phát sinh trong quá trình thực hiện các hoạt động đầu tư ra nước ngoài chưa được quy định trong Luật nên việc triển khai còn lúng túng; cơ chế phối hợp trong quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài còn thiếu cụ thể…

4

Page 5: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

(Những mặt tích cực và hạn chế, bất cập trong quy định của Luật Đầu tư và việc thi hành Luật đã được trình bày chi tiết tại Báo cáo tổng kết kèm theo Tờ trình này).

Những hạn chế nêu trên đã làm cho môi trường đầu tư trở nên kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư , nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang phải đối mặt với xu hướng cạnh tranh thu hút ĐTNN ngày càng gay gắt từ các nước trên thế giới và trong khu vực. Trong bối cảnh đó, Theo đánh giá của các nhà đầu tư mặc dù Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện môi trường đầu tư nói chung và cải cách thủ tục hành chính nói riêng nước ngoài, nhưng so với nhiều nước ASEAN thì hệ thống luật pháp và thủ tục hành chính của nước ta vẫn chưa thật sự đáp ứng được kỳ vọng mặc dù Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện môi trường đầu tư nói chung và cải cách thủ tục hành chính nói riêng. Do vậy, để thu hút đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia hàng đầu thế giới thì cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đầu tư, trong đó có Luật Đầu tư.

Bên cạnh đó, quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng chất lượng, hiệu quả và hội nhập sâu rộng hơn với khu vực và thế giới cũng đặt ra yêu cầu cấp bách phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách trong đó có Luật Đầu tư, để thích ứng với đòi hỏi cao hơn của quá trình phát triển kinh tế- xã hội cũng như thực hiện cam kết quốc tế về tự do hóa đầu tư và thương mại.

Trong năm 2011, Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam đã tổ chức rà soát độc lập 16 luật liên quan đến đầu tư, kinh doanh. Kết quả khảo sát cho thấy, cộng đồng doanh nghiệp đã thống nhất kiến nghị sửa đổi Luật Đầu tư để tạo môi trường thuận lợi, minh bạch hơn nữa cho hoạt động đầu tư.

II. QÚA TRÌNH SOẠN THẢO LUẬT

Thực hiện Nghị quyết số 45/2013/QH13 ngày 18/6/2013 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014 và Quyết định số 1441/QĐ-TTg ngày 16/8/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phân công cơ quan chủ trì soạn thảo các dự án luật năm 2014, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Quyết định thành lập Ban Soạn thảo và Tổ biên tập Luật Đầu tư (sửa đổi).

Để triển khai xây dựng Luật theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức tổng kết thi hành Luật Đầu tư và trình Thủ tướng Chính phủ định hướng xây dựng Luật, đồng thời hoàn thành báo cáo nghiên cứu pháp luật về đầu tư của các một số nước để tham khảo trong quá trình xây dựng Luật.

Trên cơ sở đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tiến hành nghiên cứu, xây dựng Dự thảo Luật, tổ chức một số cuộc họp của Ban soạn thảo, Tổ biên tập và nhiều

5

Page 6: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

hội thảo, hội nghị để lấy ý kiến của các doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước ở các địa phương về Dự thảo Luật.

Dự thảo Luật đã được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và gửi Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam để tham khảo ý kiến cộng đồng doanh nghiệp.

III. MỤC TIÊU QUAN ĐIỂM VÀ YÊU CẦU SỬA ĐỔI LUẬT

1. Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật

Dự thảo Luật được xây dựng trên cơ sở nhữngg mục tiêu, quan điểm cơ bản sau đây:

a) Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm tạo môi trường đầu tư thông thoáng, thuận lợi, minh bạch hơn nữa để thu hút, sử dụng và quản lý hiệu quả nguồn vốn đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài và đầu tư của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế các nguồn lực về đất đai, tài nguyên khoáng sản , theo định hướng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020, đồng thời góp phần thực hiện chủ trương tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế nói chung và tái cơ cấu đầu tư, doanh nghiệp nói riêng.

b) Tạo bước chuyển biến mới về cải cách thủ tục hành chính trong thực hiện dự án đầu tư; giải quyết những khó khăn trong hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp, đặc biệt là những vướng mắc trong việc áp dụng các quy định về điều kiện đầu tư và thủ tục đầu tư nhằm tạo điều kiện để nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư với thủ tục đơn giản hơn và chi phí thấp hơn.

c) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trên cơ sở hoàn thiện chế độ phân cấp quản lý hoạt động đầu tư và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện công tác này.

d) Tạo cơ sở pháp lý đồng bộ để củng cố, tăng cường cơ chế khuyến khích, bảo hộ đầu tư phù hợp với cam kết về mở cửa thị trường và tự do hóa đầu tư theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

2. Những yêu cầu soạn thảo Luật:

Để thực hiện những mục tiêu, quan điểm nêu trên, việc xây dựng Luật phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau đây:

a) Đảm bảo kế thừa, tiếp tục phát triển và hoàn thiện những quy định thông thoáng của Luật còn phù hợp với thực tế và đã có tác động tích cực đối với môi trường đầu tư, đồng thời xem xét sửa đổi, bổ sung những quy định đã phát sinh hạn chế, vướng mắc trong quá trình thực hiện, đặc biệt là các quy định

6

Page 7: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

về điều kiện đầu tư, thủ tục đầu tư, triển khai dự án đầu tư và công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư.

b) Đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật về đầu tư theo hướng phân định rõ mối quan hệ và nguyên tắc áp dụng Luật Đầu tư, các luật liên quan và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

c) Cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong hoạt động đầu tư, nhưng phải đảm bảo thực hiện có hiệu qủa công tác quản lý nhà nước, tăng cường chế độ kiểm tra, giám sát và phối hợp giữa các cơ quan quản lý ở trung ương và địa phương.

3. Về hình thức ban hành văn bản:

Những hạn chế trong quá trình thi hành Luật như đã trình bày ở trên tồn tại trong hầu hết các Chương, điều khoản của Luật, trong đó nhiều quy định vướng mắc hiện nay có liên quan và tác động đến tất cả nội dung khác của Luật (như các khái niệm cơ bản, điều kiện đầu tư, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư…). Bên cạnh đó, khá nhiều nội dung của Luật cần được điều chỉnh về kỹ thuật, thuật ngữ sử dụng… Do vậy, thay vì chỉ sửa đổi, bổ sung một số điều, cần xem xét sửa đổi toàn diện các quy định của Luật.

IV. NHỮNG NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CHỦ YẾU:

Dự thảo Luật về cơ bản tiếp tục duy trì kết cấu của Luật Đầu tư hiện hành với 910 Chương, 76 Điều, trong đó có những nội dung sửa đổi, bổ sung sau:

1. Phạm vi điều chỉnh và nguyên tắc áp dụng pháp luật đầu tư:

Để đảm bảo tính minh bạch, thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật, Dự thảo Luật này đã quy định cụ thể mối quan hệ và nguyên tắc áp dụng Luật Đầu tư và các luật liên quan theo hướng phân định rõ hoạt động đầu tư được điều chỉnh theo Luật này và hoạt động đầu tư chứng khoán theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Cụ thể, Luật này điều chỉnh thống nhất các hoạt động đầu tư, trừ hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán, dịch vụ về chứng khoán thực hiện theo quy định của pháp luật chứng khoán. Mặt khác, Luật cũng quy định rõ hoạt động đầu tư đặc thù được điều chỉnh theo quy định của các luật khác, (gồm hoạt động đầu tư trong lĩnh vực ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm) (Điều 5 Ddự thảo Luật).

Bên cạnh đó, những nội dung cụ thể của Dự thảo Luật đã được thiết kế trên cơ sở phân định rõ mối quan hệ giữa Luật Đầu tư với các luật liên quan khác nhằm đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật; cụ thể là: gồm: Luật Doanh nghiệp, các luật về thuế, Luật Quản lý, sử dụng tài sản của

7

Page 8: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

nhà nước để kinh doanh (đang trong quá trình soạn thảo), Luật Xây dựng, Luật Đất đai, một số luật chuyên ngành điều chỉnh hoạt động đầu tư trong một số lĩnh vực (như kinh doanh bất động sản, đô thị, khoáng sản, giáo dục, đào tạo, y tế...).

- Trong quan hệ với Dự thảo Luật Đầu tư công và Dự thảo Luật quản lý, sử dụng vốn đầu tư của nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh: Luật Đầu tư không điều chỉnh quá trình lập, phê duyệt kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công, đồng thời cũng không quy định lĩnh vực, nguyên tắc, thẩm quyền và thủ tục quyết định thực hiện dự án sử dụng vốn nhà nước để đầu tư kinh doanh. Tuy nhiên, đối với dự án sử dụng vốn nhà nước để thực hiện các hình thức đầu tư quy định tại Luật Đầu tư, thì sau khi chủ trương thực hiện dự án đã được quyết định theo quy định tại 02 Luật nêu trên, nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục đầu tư và triển khai hoạt động của dự án đầu tư theo Luật Đầu tư. Ngoài ra, để tránh trùng lặp không cần thiết, Dự thảo Luật này đã bỏ Chương quy định về đầu tư kinh doanh vốn nhà nước trong Luật Đầu tư hiện hành.

- Trong quan hệ với Luật Doanh nghiệp: Luật Đầu tư quy định về lĩnh vực, điều kiện, hình thức đầu tư, thủ tục thực hiện hoạt động đầu tư của tất cả các doanh nghiệp, trong khi Luật Doanh nghiệp quy định về quyền thành lập, hoạt động và tổ chức quản lý doanh nghiệp của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt hình thức sở hữu.

- Trong quan hệ với các Luật về thuế: Luật Đầu tư quy định lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư và nguyên tắc áp dụng ưu đãi đầu tư, còn mức ưu đãi cụ thể được quy định trong pháp luật thuế và pháp luật có liên quan.

- Trong quan hệ với Luật Xây dựng: Luật Đầu tư điều chỉnh toàn bộ quá trình thực hiện dự án đầu tư, kể cả dự án đầu tư có công trình xây dựng, nhưng xác định rõ việc lập quy hoạch xây dựng, khảo sát xây dựng, thiết kế xây dựng công trình, thi công xây dựng công trình, giám sát thi công xây dựng công trình, quản lý xây dựng công trình thực hiện theo quy định của pháp luật về xây dựng.

- Trong quan hệ với Luật Đất đai: Các quy định của Luật Đầu tư liên quan đến điều kiện sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất, thời hạn thực hiện dự án đầu tư... được thiết kế phù hợp với quy định tương ứng của Luật Đất đai.

2. Những quy định chung (Chương I):

2.1. Một số khái niệm cơ bản của Dự thảo Luật:

- Khái niệm Nhà đầu tư nước ngoài (Khoản 3 Điều 3):

Việc xác định khái niệm nhà đầu tư nước ngoài là cơ sở quan trọng để áp dụng điều kiện và thủ tục đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài phù hợp với

8

Page 9: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

pháp luật chuyên ngành và điều ước quốc tế. Tuy nhiên, khái niệm này chưa được quy định rõ trong Luật Đầu tư hiện hành nên đã gây nhiều lúng túng trong việc áp dụng điều kiện và thủ tục đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài/doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Nếu theo khái niệm quy định tại Luật Đầu tư thì có thể hiểu, doanh nghiệp đã thành lập tại Việt Nam có 1% vốn của nhà đầu tư nước ngoài cũng bị coi là nhà đầu tư nước ngoài và phải tuân thủ điều kiện đầu tư nước ngoài. Hạn chế này là nguyên nhân phát sinh hầu hết vướng mắc trong việc áp dụng các quy định về điều kiện và thủ tục đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài.

Để tạo cơ sở pháp lý áp dụng thống nhất quy định về vấn đề này, Dự thảo Luật quy định khái niệm nhà đầu tư nước ngoài căn cứ vào quốc tịch, nơi đăng ký thành lập của cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng như tỷ lệ sở hữu, mức độ tham gia quản lý của tổ chức, cá nhân nước ngoài trong doanh nghiệp đã thành lập tại Việt Nam. Cụ thể, nhà đầu tư nước ngoài bao gồm: (i) cá nhân nước ngoài; (ii) tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài; (iii) tổ chức thành lập và hoạt động tại Việt Nam có cá nhân, tổ chức quy định tại điểm (i) và (ii) nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên, công ty hợp danh có cá nhân nước ngoài làm thành viên; (iv) tổ chức thành lập và hoạt động tại Việt Nam có tổ chức, cá nhân quy định tại điểm (i), (ii), (iii) nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên.

- Khái niệm điều kiện đầu tư (Khoản 12 Điều 3):

Dự thảo Luật bổ sung quy định nhằm làm rõ khái niệm, hình thức áp dụng, cơ quan ban hành các điều kiện đầu tư. Theo đó, điều kiện đầu tư là điều kiện nhà đầu tư phải đáp ứng để thực hiện hoạt động đầu tư theo các hình thức đầu tư quy định tại Luật này và được quy định trong Luật, Pháp lệnh, Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ dưới các hình thức: (i) điều kiện về lĩnh vực và phạm vi hoạt động đầu tư; (ii) điều kiện về hình thức đầu tư; (iii) điều lệ về vốn chủ sở hữu để thực hiện dự án đầu tư; (iv) điều kiện về tỷ lệ sở hữu vốn của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp hoặc đối tác Việt Nam tham gia dự án; (v) điều kiện về vốn pháp định.

- Khái niệm hình thức Hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công – tư (Hợp đồng PPP) (Khoản 14 Điều 3):

Trên thực tế, các Hợp đồng BOT, BTO, BT đều là các hình thức cụ thể của Hợp đồng PPP và hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang soạn thảo Nghị định về đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP trên cơ sở hợp nhất Nghị định 108/2006/NĐ-CP và Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg. Do vậy, để hoàn thiện chính sách đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP phù hợp với thông lệ quốc tế,

9

Page 10: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

Dự thảo Luật thay thế khái niệm về các hình thức Hợp đồng BOT, Hợp đồng BTO, Hợp đồng BT bằng khái niệm chung nhất về Hợp đồng PPP. Theo đó, Hợp đồng PPP gồm các hình thức Hợp đồng nêu trên, Hợp đồng O&M và các hình thức hợp đồng nhượng quyền khác được ký kết giữa Cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư.

Ngoài ra, Dự thảo Luật đã chuẩn xác lại khái niệm đầu tư, dự án đầu tư và các khái niệm về khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, dự án đầu tư mới, dự án đầu tư mở rộng trên cơ sở luật hóa quy định tương ứng trong các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật, đồng thời bãi bỏ một số khái niệm không còn thích hợp, trùng lặp với quy định của luật khác hoặc không cần thiết để điều chỉnh một số nội dung của Luật (như khái niệm vốn nhà nước, chủ đầu tư, đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài...).

2.2. Nguyên tắc đầu tư (Điều 4):

Dự thảo Luật hoàn thiện các quy định về vấn đề này theo hướng khẳng định nguyên tắc nhà đầu tư được đầu tư trong tất cả các lĩnh vực và ngành, nghề mà pháp luật không cấm; được quyền tự chủ quyết định hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và pháp luật liên quan; nhà nước đối xử bình đẳng trước pháp luật đối với các nhà đầu tư phù hợp với pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; hoạt động đầu tư phải phù hợp quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành, lĩnh vực và sản phẩm; quy hoạch sử dụng đất; quy hoạch xây dựng; quy hoạch kết cấu hạ tầng - kỹ thuật; quy hoạch sử dụng khoáng sản và các nguồn tài nguyên khác.

3. Bảo đảm đầu tư (Chương II)

Những quy định về bảo đảm đầu tư theo Luật Đầu tư hiện hành được đánh giá về cơ bản là phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như các cam kết quốc tế về đầu tư của Việt Nam tại thời điểm ban hành Luật Đầu tư. Tuy nhiên, Luật chưa có quy định về nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (nguyên tắc đối xử tối huệ quốc). Nguyên tắc không hồi tố trong trường hợp thay đổi luật pháp, chính sách cũng chỉ áp dụng đối với các ưu đãi đầu tư, chưa thực hiện đối với các điều kiện về phạm vi hoạt động, tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư theo cam kết của Việt Nam trong WTO.

Do vậy, Để tiếp tục hoàn thiện chính sách bảo đảm đầu tư phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 và để cập nhật cam kết quốc tế về bảo hộ đầu tư mà Việt Nam đã thỏa thuận trong thời gian qua, Dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung một số nội dung sau:

10

Page 11: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

- Bổ sung cam kết của nhà nước trong việc đối xử không phân biệt giữa các nhà đầu tư nước ngoài (nguyên tắc đối xử tối huệ quốc) phù hợp với điều kiện và lộ trình quy định tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (Khoản 1 Điều 7).

- Bổ sung nội dung bảo đảm đầu tư trong trường hợp pháp luật, chính sách thay đổi làm ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích của nhà đầu tư đã được quy định tại Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (nguyên tắc không hồi tố) theo hướng nhà nước cam kết không chỉ bảo đảm tiếp tục duy trì ưu đãi đầu tư mà còn cho phép nhà đầu tư được tiếp tục áp dụng điều kiện đầu tư theo quy định tại Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (Điều 10).

Nguyên tắc không hồi tố (với những nội dung nêu trên) là biện pháp bảo đảm đầu tư quan trọng, góp phần tạo môi trường đầu tư an toàn, tin cậy cho nhà đầu tư, nhất là trong bối cảnh chính sách, pháp luật đầu tư của Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện, hay thay đổi, gây xáo trộn hoạt động đầu tư của nhà đầu tư. Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc này khá nhạy cảm vì có liên quan đến thẩm quyền ban hành, điều chỉnh pháp luật của nhà nước và việc giải quyết không thỏa đáng sẽ dẫn đến khiếu kiện của nhà đầu tư. Do vậy, để đảm bảo tính khả thi của Luật và có thời gian hoàn thiện quy định về vấn đề này trên cơ sở tổng kết, rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện, trước mắt Luật chỉ quy định về nguyên tắc và giao Chính phủ quy định cụ thể.

4. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư (Chương III)

Luật Đầu tư quy định các dự án đầu tư được đảm bảo cân đối ngoại tệ, gồm: các dự án năng lượng, kết cấu hạ tầng giao thông và xử lý chất thải. Quá trình thực hiện Luật Đầu tư cho thấy, việc quy định cụ thể 03 loại dự án nêu trên không đảm bảo tính linh hoạt của các cơ quan quản lý trong việc xem xét, quyết định cân đối ngoại tệ đối với một số dự án đầu tư khác thật sự có nhu cầu khuyến khích đầu tư (như một số dự án PPP trong lĩnh vực xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, dự án thuộc lĩnh vực xã hội hóa đầu tư hoặc cung cấp dịch vụ công…).

Do vậy, Dự thảo Luật đã sửa đổi quy định về quyền tiếp cận ngoại tệ của nhà đầu tư theo hướng giao Chính phủ quy định việc bảo đảm cân đối ngoại tệ đối với một số dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng và các dự án quan trọng khác phù hợp với mục tiêu, tính chất dự án đầu tư và khả năng đáp ứng ngoại tệ trong từng thời kỳ (Điều 15).

Ngoài ra, Dự thảo Luật đã cập nhật, bổ sung một số quy định về quyền tự chủ thực hiện hoạt động đầu tư và quyền tuyển dụng lao động của nhà đầu tư.

5. Hình thức đầu tư (Chương IV)

11

Page 12: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

Dự thảo Luật về cơ bản duy trì các hình thức đầu tư đã được quy định trong Luật hiện hành, đồng thời hoàn thiện một số nội dung sau:

- Sửa đổi các quy định về hình thức đầu tư để đảm bảo quyền của nhà đầu tư nước ngoài trong việc thực hiện hoạt động đầu tư để thành lập tổ chức kinh tế phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã và pháp luật liên quan (Điều 20).

- Bổ sung quy định về đầu tư theo hình thức Hợp đồng PPP phù hợp với chủ trương thu hút các nguồn vốn đầu tư tư nhân để phát triển các công trình kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công. Theo đó, nhà đầu tư ký kết Hợp đồng PPP với Cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng, quản lý và vận hành công trình kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công.

- Sửa đổi, bổ sung các quy định về đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần theo hướng khẳng định quyền của nhà đầu tư trong việc góp vốn, mua lại phần vốn góp, mua cổ phần và sáp nhập, mua lại doanh nghiệp trên cơ sở đáp ứng các điều kiện, thủ tục được quy định cụ thể tại Luật này (gồm những quy định đặc thù áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài).

Ngoài ra, Dự thảo Luật đã bỏ quy định về hình thức đầu tư phát triển kinh doanh vì nội dung này trong Luật Đầu tư hiện hành về cơ bản trùng lặp với quy định về nội dung dự án đầu tư mở rộng và thực chất đây là mục đích đầu tư chứ không phải là một hình thức đầu tư. Trên thực tế, trong thời gian qua, không có dự án đầu tư nào thực hiện theo hình thức này.

6. Lĩnh vực, địa bàn đầu tư và ưu đãi, hỗ trợ đầu tư (Chương V):

6.1. Về Danh mục lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư

Để nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư phù hợp với nhu cầu, định hướng tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế nói chung và tái cơ cấu đầu tư nói riêng, Dự thảo Luật tiếp tục hoàn thiện các quy định về lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư theo hướng áp dụng ưu đãi đầu tư đối với các dự án có công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, khoáng sản, đất đai…, đồng thời làm rõ tiêu chí xác định một số lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư để đảm bảo tính khả thi, minh bạch và đồng bộ với quy định của pháp luật liên quan.

6.2. Về Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện, cấm đầu tư

Một số lĩnh vực đầu tư có điều kiện theo Luật Đầu tư hiện hành chưa được quy định rõ ràng nên đã gây ra các hiểu đa nghĩa, áp dụng tùy tiện (như lĩnh vực tác động đến sức khỏe cộng đồng, lĩnh vực tác động đến quốc phòng,

12

Page 13: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, lĩnh vực môi trường sinh thái...). Mặt khác, việc áp dụng điều kiện đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài cũng gặp nhiều khó khăn do hầu hết cam kết quốc tế về điều kiện đầu tư đều được áp dụng trực tiếp, lại không có văn bản hướng dẫn.

Do vậy, ngoài việc làm rõ khái niệm điều kiện đầu tư như đã trình bày ở trên, Luật yêu cầu Bộ, cơ quan ngang bộ công bố công khai các lĩnh vực cấm đầu tư và điều kiện đầu tư đối với từng lĩnh vực phù hợp với pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, gồm những nội dung: căn cứ pháp lý, đối tượng, phạm vi và nội dung điều kiện đầu tư cụ thể áp dụng đối với từng lĩnh vực.

6.3. Các quy định về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư

Bên cạnh việc xác định rõ cơ sở áp dụng ưu đãi đầu tư, Dự thảo Luật bổ sung quy định về ưu đãi đối với doanh nghiệp công nghệ cao sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản phẩm công nghệ cao. Theo đó, doanh nghiệp được hưởng ưu đãi cao nhất theo quy định của pháp luật về đất đai, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; được xem xét hỗ trợ kinh phí đào tạo, nghiên cứu và phát triển, sản xuất thử nghiệm từ kinh phí của Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao.

Dự thảo Luật khẳng định nguyên tắc nhà đầu tư được hưởng ưu đãi đầu tư khi có dự án đầu tư thuộc lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư; ưu đãi này được áp dụng cho cả dự án đầu tư mới và dự án đầu tư mở rộng. Đồng thời, để bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, các lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu tư quy định tại Luật Đầu tư sẽ là cơ sở để áp dụng các hình thức ưu đãi đầu tư quy định tại các luật khác nhau (như ưu đãi thuế thuế thu nhập, thuế nhập khẩu, ưu đãi về sử dụng đất, ưu đãi tín dụng...).

6.4.Về hỗ trợ đầu tư

Dự thảo Luật tiếp tục duy trì các hình thức hỗ trợ đầu tư đã được quy định trong Luật hiện hành (như hỗ trợ chuyển giao công nghệ, đào tạo, dịch vụ đầu tư...), đồng thời hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế theo hướng:

- Làm rõ các điều kiện, tiêu chí hỗ trợ một phần vốn ngân sách và nguồn vốn tín dụng ưu đãi để đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong và ngoài hàng rào KCN, KCX, KKT tại một số địa phương có địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn hoặc địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

- Tạo cơ chế hỗ trợ phát triển nhà ở và công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động trong KCN, KCX, KKT theo hướng yêu cầu các địa

13

Page 14: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

phương có KCN, KCX, KKT phải xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển nhà ở, công trình dịch vụ và tiện ích công cộng cho người lao động trong các khu này. Đối với các KCN, KCX gặp khó khăn trong bố trí quỹ đất xây dựng nhà ở cho người lao động, cơ quan có thẩm quyền quyết định việc dành một phần diện tích đất trong các khu này để phát triển nhà ở và công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động.

7. Thủ tục đầu tư (Chương VI)

7.1.Thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư:

Luật Đầu tư hiện hành chưa xác định rõ quy trình cũng như nội dung cụ thể của việc thực hiện dự án đầu tư từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư, cấp Giấy chứng nhận đầu tư đến giai đoạn thực hiện đầu tư và chấm dứt dự án đầu tư. Mặt khác, các thủ tục đầu tư, đất đai, xây dựng cũng chưa được quy định thống nhất, đồng bộ giữa các luật nên đã dẫn đến sự chồng chéo về mục tiêu, nội dung quản lý, cơ quan thẩm định, phê duyệt, đồng thời không có sự kế thừa, công nhận kết quả của nhau. Cơ chế “một cửa” đang thực hiện ở một số địa phương mới chỉ thiết lập được quy trình một đầu mối trong tiếp nhận và trả kết quả thủ tục hành chính, nhưng trên thực tế, nhà đầu tư vẫn phải nộp hồ sơ cho nhiều cơ quan chuyên môn khác nhau của UBND cấp tỉnh để được giải quyết lần lượt thủ tục hành chính theo quy định của các luật khác nhau. Kết quả rà soát thủ tục hành chính cho thấy, nhà đầu tư phải thực hiện trung bình 18 thủ tục liên quan đến đất đai, xây dựng, môi trường để triển khai dự án đầu tư. Cộng đồng doanh nghiệp cho rằng, thủ tục đầu tư, đất đai, xây dựng là chuỗi thủ tục tồn tại nhiều khó khăn nhất cho doanh nghiệp và là một trong những “nút thắt” phải tháo gỡ nhằm tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh.

Trên tinh thần đó, Dự thảo Luật đã sửa đổi căn bản quy định về thủ tục thực hiện dự án đầu tư theo hướng:

- Thu hẹp đáng kể diện các dự án phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Theo đó, các dự án phải thực hiện thủ tục này, gồm: (i) Dự án đề nghị nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc chuyển mục đích sử dụng đất; (ii) Dự án thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện; (iii) Dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường theo quy định của pháp luật về môi trường; (iv) Dự án thuộc diện hưởng ưu đãi, hỗ trợ đầu tư.

- Tiếp tục duy trì chế độ phân cấp cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo hướng phân công UBND và Ban Quản lý KCN, KCX, KCNC thực hiện thủ tục này; Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối một số dự án PPP theo phân cấp của Chính phủ.

- Thiết lập cơ chế liên thông giải quyết thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu

14

Page 15: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

tư và thủ tục liên quan đến sử dụng đất đai, xây dựng. Theo cơ chế này, nhà đầu tư chuẩn bị hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư, gồm dự án đầu tư và hồ sơ liên quan đến sử dụng đất đai, xây dựng. Cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư chịu trách nhiệm tổ chức xem xét, lấy ý kiến các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh về hồ sơ dự án đầu tư mà không yêu cầu nhà đầu tư phải đến từng cơ quan khác nhau để thực hiện từng thủ tục.

- Sửa đổi, bổ sung nội dung thẩm tra dự án đầu tư nhằm đảm bảo thực hiện dự án phù hợp với quy hoạch, đồng thời nâng cao trách nhiệm của nhà đầu tư trong việc triển khai dự án theo đúng tiến độ, nội dung đã cam kết. Theo đó, những vấn đề quan trọng được bổ sung trong nội dung thẩm tra gồm: sự phù hợp của dự án đầu tư với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội; quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực và sản phẩm; quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị và quy hoạch sử dụng đất; tiến độ thực hiện dự án (gồm tiến độ thực hiện vốn đầu tư, tiến độ xây dựng và đưa công trình chính vào hoạt động, nếu có); tiến độ thực hiện các mục tiêu hoạt động của dự án…

- Sửa đổi, bổ sung một số nội dung khác liên quan đến hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.

Ngoài ra, Dự thảo Luật quy định về thủ tục thực hiện dự án đầu tư được nhà nước giao đất, cho thuê đất có từ hai nhà đầu tư trở lên quan tâm theo hướng yêu cầu tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu để lựa chọn nhà đầu tư, đồng thời thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đơn giản trong trường hợp này (Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền không thẩm tra, xem xét lại những nội dung đã được thẩm tra, xem xét trong quá trình đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư).

7.2. Thủ tục triển khai dự án đầu tư:

Đây là một trong những nội dung quan trọng quyết định hiệu quả hoạt động đầu tư cũng như công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động này, nhưng chưa được quy định đầy đủ, hợp lý, minh bạch và khả thi trong Luật Đầu tư hiện hành. Cụ thể, Luật chưa quy định rõ ràng và đồng bộ các điều kiện, thủ tục thực hiện dự án, điều chỉnh dự án, tạm ngừng, giãn tiến độ triển khai dự án, chuyển nhượng dự án, chấm dứt hoạt động và thanh lý dự án…. Bên cạnh đó, thời hạn thực hiện dự án đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư cũng không được quy định đồng bộ với thời hạn sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai. Quá trình thi hành Luật cho thấy, những hạn chế, bất cập trong các quy định về vấn đề này không chỉ gây cản trở cho hoạt động đầu tư của nhà đầu tư mà còn dẫn đến nhiều vướng mắc đối với các cơ quan quản lý trong quá trình theo dõi, giám sát và xử lý những vấn đề phát sinh trong hoạt động của dự án đầu tư.

15

Page 16: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

Để khắc phục những hạn chế nêu trên, Dự thảo Luật sửa đổi một số quy định về triển khai dự án đầu tư theo hướng:

- Quy định các hoạt động liên quan đến thuê, giao nhận đất và thời hạn thực hiện dự án đầu tư phù hợp với các điều kiện và thời hạn theo quy định của pháp luật về đất đai.

- Bổ sung quy định về điều chỉnh dự án đầu tư, điều kiện tạm ngừng, giãn tiến độ đầu tư; tạm ngừng, đình chỉ hoạt động của dự án đầu tư; thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư... theo hướng xác định cụ thể điều kiện thực hiện đối với từng trường hợp nêu trên, trách nhiệm của nhà đầu tư và thẩm quyền giải quyết của cơ quan quản lý ở địa phương. Những quy định này tạo điều kiện để cơ quan quản lý thực hiện công tác kiểm tra, giám sát có hiệu quả tình hình hoạt động của dự án đầu tư, đồng thời tạo cơ sở pháp lý để áp dụng các biện pháp xử lý trong trường hợp nhà đầu tư có hành vi vi phạm hoặc bảo đảm giải quyết quyền lợi của người lao động, các chủ nợ, thanh lý tài sản của doanh nghiệp có chủ đầu tư bỏ trốn.

- Quy định về giám định lại chất lượng và giá trị máy móc, thiết bị nhập khẩu của dự án đầu tư trong trường hợp cần thiết để đảm bảo thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị hoặc xác định căn cứ tính thuế nhằm góp phần hạn chế tình trạng chuyển giá của một số doanh nghiệp. Cũng với mục đích đó, nhà đầu tư phải đăng ký hợp đồng quản lý tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

7.3. Quy định về thành lập doanh nghiệp và thực hiện hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài

Theo Luật Đầu tư hiện hành, nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam phải có dự án đầu tư gắn với thành lập tổ chức kinh tế; Giấy chứng nhận đầu tư cấp cho nhà đầu tư nước ngoài đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trong thời gian qua, việc thực hiện quy định nêu trên gặp nhiều vướng mắc mà trước hết là vướng mắc trong cách hiểu thế nào là “lần đầu đầu tư vào Việt Nam”. Quy định về Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nhằm mục tiêu đơn giản hóa thủ tục cho nhà đầu tư nước ngoài, nhưng lại dẫn đến rất nhiều khó khăn cho nhà đầu tư bởi đây là hai loại giấy tờ khác nhau về bản chất pháp lý. Thủ tục góp vốn, mua cổ phẩn của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam cũng không được thực hiện thống nhất giữa các địa phương, còn tồn tại quan điểm khác nhau về sự cần thiết phải cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với trường hợp này cũng như điều kiện, thủ tục xem xét điều kiện đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam.

16

Page 17: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

Để khắc phục những bất cập nêu trên và tạo mặt bằng pháp lý thống nhất về thủ tục đầu tư áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước, Dự thảo Luật đã sửa đổi căn bản quy định về thủ tục đầu tư áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài theo hướng:

- Bỏ quy định yêu cầu nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư tại Việt Nam phải có dự án đầu tư và thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (tức là tách nội dung đăng ký kinh doanh ra khỏi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư). Theo đó, nhà đầu tư nước ngoài cũng được phép đăng ký kinh doanh để thành lập doanh nghiệp theo thủ tục như quy định đối với nhà đầu tư trong nước; Cơ quan đăng ký kinh doanh chỉ kiểm tra điều kiện đầu tư (nếu có) áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đồng thời, doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập sẽ thực hiện dự án đầu tư theo thủ tục về cơ bản thống nhất áp dụng đối với nhà đầu tư trong nước như đã trình bày tại Mục 7.1 và 7.2 nêu trên.

- Trong trường hợp nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam, Cơ quan đăng ký kinh doanh chỉ kiểm tra điều kiện về tỷ lệ sở hữu và điều kiện hoạt động áp dụng đối với và doanh nghiệp nhận vốn góp, bán cổ phần cho nhà đầu tư nước thực hiện thủ tục thay đổi đăng ký kinh doanh (thay đổi cổ đông, thành viên) theo quy định của Luật Doanh nghiệp.

- Xác định rõ điều kiện đầu tư và tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong trường hợp thành lập doanh nghiệp cũng như đầu tư góp vốn, mua lại phần vốn góp, cổ phần, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp Việt Nam. Theo đó, (i) tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại các công ty niêm yết thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán; (ii) tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, điều kiện hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài quy định trong pháp luật chuyên ngành thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành; (iii) tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước cổ phần hóa hoặc chuyển đổi sở hữu theo hình thức khác thực hiện theo pháp luật về cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp 100% vốn nhà nước; (iv) tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, điều kiện hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài quy định tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên áp dụng theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Như vậy, theo quy định nêu trên, trừ yêu cầu về thẩm tra điều kiện đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài phù hợp với pháp luật điều ước quốc tế, nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài đã được đối xử bình đẳng về quyền gia nhập thị trường và thực hiện hoạt động đầu tư.

17

Page 18: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

8. Quy định về hoạt động đầu tư ra nước ngoài (Chương VII)

Nhằm khắc phục những hạn chế nêu tại Mục 1 Tờ trình này, Để thật sự tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài trên cơ sở kết hợp hài hòa mục tiêu quản lý của nhà nước, Dự thảo Luật đã sửa đổi căn bản nội dung này Chương này quy định về hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo hướng:

- Khẳng định nguyên tắc nhà đầu tư được đầu tư ra nước ngoài theo quy định của Luật này, pháp luật có liên quan, pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động đầu tư. Căn cứ định hướng phát triển kinh tế, xã hội và chính sách quản lý ngoại hối trong từng thời kỳ, Chính phủ ban hành Danh mục lĩnh vực cấm đầu tư và đầu tư ra nước ngoài có điều kiện.

- Doanh nghiệp Nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài có quyền: (i) được chuyển vốn đầu tư bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác ra nước ngoài để thực hiện đầu tư; (ii) được bảo hộ hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; (iii) tuyển dụng lao động Việt Nam để thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài; (iv) được hưởng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư theo quy định của pháp luật. Doanh nghiệp có nghĩa vụ: (i) tuân thủ nguyên tắc nêu trên; (ii) thực hiện chế độ báo cáo về hoạt động đầu tư ở nước ngoài (iii) thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam; (iv) tuân thủ quy định về tuyển, sử dụng lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài; (v) chuyển lợi nhuận và các khoản thu nhập từ hoạt động đầu tư trực tiếp ở nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật.

- Đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài sử dụng vốn nhà nước, đại diện chủ sở hữu nhà nước quyết định hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh.Việc quyết định đầu tư ra nước ngoài sử dụng nguồn vốn khác thực hiện theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật liên quan.

- Căn cứ quyết định đầu tư ra nước ngoài theo quy định nêu trên, nhà đầu tư đăng ký vốn đầu tư ra nước ngoài tại Cơ quan nhà nước quản lý ngoại hối (nếu chuyển vốn bằng tiền ra nước ngoài). Việc chuyển ra nước ngoài máy móc, thiết bị, vật tư, hàng hóa và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài phải phù hợp với mục tiêu hoạt động đầu tư ra nước ngoài và tuân thủ quy định của pháp luật về xuất, nhập khẩu. Hoạt động đầu tư gián tiếp ra nước ngoài thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân hàng, chứng khoán và các quy định của pháp luật khác có liên quan. Chính phủ quy định chi tiết lĩnh vực, điều kiện, hồ sơ, thủ tục và quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài.

18

Page 19: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

Như vậy, với những nội dung sửa đổi, bổ sung nêu trên, Luật đã xác định rõ mục tiêu quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài cũng như cơ quan có thẩm quyền quyết định hoạt động này. Theo đó, việc quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài sẽ chủ yếu tập trung vào việc kiểm soát nguồn vốn đầu tư bằng tiền chuyển ra nước ngoài nhằm đảm bảo để doanh nghiệp sử dụng nguồn tiền chuyển ra nước ngoài một cách hợp pháp.

9. Quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư (Chương VIII):

Nhằm tạo cơ sở pháp lý cho công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư, Dự thảo Luật bổ sung một số nội dung quản lý, gồm: cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, tổng hợp, báo cáo hoạt động đầu tư, quản lý nhà nước về khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, tổ chức quản lý hoạt động xúc tiến đầu tư.

Ngoài ra, những bất cập trong quá trình thực hiện quy định về vấn đề này sẽ được xem xét, giải quyết trong Dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật.

10. Điều khoản thi hành (Chương IX):

10.1. Điều khoản chuyển tiếp:

Để duy trì ổn định hoạt động của dự án đầu tư/doanh nghiệp đã hoạt động trước thời điểm Luật này có hiệu lực, Dự thảo Luật quy định: các dự án đầu tư/doanh nghiệp đang hoạt động theo Luật Đầu tư 2005 và Luật Đầu tư nước ngoài được tiếp tục hoạt động theo Giấy chứng nhận đầu tư đã cấp. Trường hợp có nhu cầu, nhà đầu tư thực hiện thủ tục đổi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo quy định của Luật này tại Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư.

10.2. Về các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật:

Chính phủ sẽ ban hành 03 Nghị định, gồm: (i) Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư (sửa đổi); (ii) Nghị định về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài; (iii) Nghị định về đầu tư theo hình thức đối tác công – tư .

V. NHỮNG VẤN ĐỀ XIN Ý KIẾN THÀNH VIÊN CHÍNH PHỦ

1. Về phạm vi dự án phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư

Trong quá trình trao đổi về Dự thảo Luật, đa số ý kiến thống nhất với phương án thu hẹp phạm vi các dự án phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (gồm: (i) Dự án đề nghị nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc chuyển mục đích sử dụng đất; (ii) Dự án thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện; (iii) Dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường theo quy định của pháp luật về môi trường; (iv) Dự án thuộc diện hưởng ưu đãi, hỗ trợ đầu tư)

19

Page 20: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

và áp dụng thống nhất thủ tục liên thông về đầu tư, đất đai, xây dựng cho cả nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.

Tuy nhiên, có ý kiến khác cho rằng, việc đề nghị tiếptục duy trì thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư là cần thiết vì đây là cơ sở để các cơ quan quản lý thực hiện công tác kiểm tra, giám sát quá trình triển khai dự án, đồng thời là căn cứ pháp lý để nhà đầu tư thực hiện các thủ tục liên quan. Mặt khác, Giấy chứng nhận đầu tư cấp cho nhà đầu tư nước ngoài còn là cơ sở để cơ quan quản lý thực hiện công tác theo dõi, quản lý dòng vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, gồm cả đầu tư trực tiếp và gián tiếp. Với lý do đó, trong trường hợp cần thiết, chỉ nên bỏ hoàn toàn thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với nhà đầu tư trong nước, nhưng cần duy trì thủ tục này đối với nhà đầu tư nước ngoài.

Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau:

- Một là, việc thu hẹp diện dự án phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư và áp dụng thống nhất thủ tục liên thông về đầu tư, đất đai, xây dựng cho nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài không chỉ tạo cơ sở để cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính cho nhà đầu tư mà còn góp phần đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đồng thời tạo mặt bằng pháp lý bình đẳng về thủ tục đầu tư cho các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế.

theo quy định hiện hành, Thực tiễn quá trình thi hành Luật cho thấy, phạm vi các dự án phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư được quy định quá rộng, trong đó có nhiều dự án chỉ thực hiện hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ thông thường và cũng không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện. Trong bối cảnh pháp luật hiện hành đã có quy định cụ thể về các điều kiện kinh doanh và quản lý hoạt động kinh doanh đối với từng ngành nghề thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, quy định nêu trên vừa tạo thêm gánh nặng thủ tục hành chính không cần thiết cho nhà đầu tư, vừa dẫn đến trùng lặp trong quản lý nhà nước.trong bối cảnh pháp luật hiện hành đã có quy định cụ thể về các điều kiện kinh doanh và quản lý hoạt động kinh doanh đối với từng ngành nghề thì việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho các dự án nêu trên vừa tạo thêm gánh nặng thủ tục hành chính không cần thiết, vừa không thật sự đạt được mục tiêu quản lý của nhà nước. Do vậy, thay vì dàn trải công tác quản lý đầu tư đối với mọi dự án, cần tập trung nguồn lực quản lý vào các dự án có sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản, các dự án đầu tư có điều kiện hoặc một số dự án có tác động đến môi trường. Đối với các dự án này, nhà nước cần kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc nhằm đảm bảo thực hiện cam kết của nhà đầu tư về mục tiêu, quy mô, tiến độ đầu tư, đáp ứng yêu cầu. Quy định này cũng cần được áp dụng thống nhất cho nhà đầu tư nước ngoài nhằm đảm bảo phù hợp với nguyên tắc không phân biệt đối xử mà Việt Nam đã cam kết theo các điều ước quốc tế. nhằm đảm bảo quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước, bảo vệ môi trường

20

Page 21: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

sinh thái. Quy định như vậy không chỉ tạo cơ sở để cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính cho nhà đầu tư, góp phần đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư, mà còn tạo mặt bằng pháp lý bình đẳng về thủ tục đầu tư cho các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế.

- Hai là, việc bỏ thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với một số dự án, trong đó có dự án đầu tư nước ngoài không làm mất đi công cụ quản lý của nhà nước bởi như đã trình bày ở trên, các cơ quan quản lý vẫn có thể thực hiện chức năng của mình thông qua công tác kiểm tra, giám sát thực hiện các điều kiện đầu tư, kinh doanh đã được pháp luật quy định cụ thể. Đối với nhà đầu tư nước ngoài, thực hiện dự án đầu tư không thuộc diện phải cấp Giấy chứng nhận đầu tư thì ngoài bên cạnh việc thực hiện thủ tục việc đăng ký kinh doanh, còn phải thực hiện tiến độ góp vốn vào doanh nghiệp và thông báo địa điểm kinh doanh theo quy định chặt chẽ của Luật Doanh nghiệp, đồng thời phải tuân thủ các quy định chung về bảo vệ môi trường, sử dụng lao động, phòng chống cháy nổ… Việc quản lý dòng vốn đầu tư nước ngoài vào và ra khỏi Việt Nam được thực hiện theo quy định của pháp luật ngoại hối và vay, trả nợ nước ngoài. Ngoài ra, đối với các dự án không thuộc diện phải cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư nêu trên, Dự thảo Luật đã quy định cơ chế linh hoạt để nhà đầu tư có thể đề nghị cấp loại Giấy này nếu có nhu cầu thực hiện các thủ tục liên quan theo quy định của pháp luật.

Những thay đổi căn bản về thủ tục hành chính như đã trình bày ở trên sẽ có tác động đáng kể nhất định đến cơ chế quản lý hoạt động đầu tư và các quy định của pháp luật liên quan cũng như chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý. Do vậy, để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của việc thực hiện thủ tục quy định mới này, bên cạnh việc hướng dẫn chi tiết về hồ sơ, trình tự, thủ tục thực hiện thủ tục liên thông về đầu tư, đất đai, xây dựng, cần có phương án hoàn thiện đồng bộ các quy định tương ứng của pháp luật về đất đai, xây dựng, môi trường và pháp luật liên quan. Mặt khác, để tránh tạo ra khoảng trống trongvề quản lý nhà nước đối với các dự án không thuộc diện cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, nhất là các dự án đầu tư nước ngoài, cần tiếp tục hoàn thiện công tác quản lý nhà nước sau đăng ký kinh doanh, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý và củng cố chế độ báo cáo, thống kê, kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư đôối với các dự án này. Ngoài ra, cần có phương án hoàn thiện tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý ở địa phương, trong đó có việc nghiên cứu hình thành một tổ chức dịch vụ công nhằm hỗ trợ nhà đầu tư trong toàn bộ quá trình thực hiện thủ tục đầu tư và các hoạt động liên quan.

21

Page 22: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

2. Về thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với dự án đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài

Theo quy định của Dự thảo Luật đã đổi mới cơ chế quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo hướng bỏ thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài và thay bằng cơ chế đăng ký hoạt động chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài tại Cơ quan nhà nước quản lý ngoại hối. , căn cứ quyết định của đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước (đối với doanh nghiệp nhà nước) và người có thẩm quyền của doanh nghiệp khác theo quy định pháp luật về doanh nghiệp, nhà đầu tư đăng ký hoạt động đầu tư ra nước ngoài tại Cơ quan nhà nước quản lý ngoại hối (nếu chuyển vốn đầu tư bằng tiền ra nước ngoài).

Về vấn đề này, có ý kiến khác cho rằng, việc áp dụng chế độ đăng ký chuyển tiền ra nước ngoài tại Cơ quan nhà nước quản lý ngoại hối thay cho việc bỏ thủ tục cấp gGiấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài là không chưa phù hợp với điều kiện quản lý của Việt Nam, gây nhiều khó khăn trong cân đối vĩ mô và kiểm soát dòng vốn đầu tư ra nước ngoài. . Mặt khác, việc áp dụng chế độ đăng ký chuyển tiền ra nước ngoài tại Cơ quan nhà nước quản lý ngoại hối cần được cân nhắc bởi cơ quan này không có thẩm quyền quản lý hoạt động đầu tư.

Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau:

cho rằng, quy định của Dự thảo Luật này là cần thiết và khả thi vì những lý do sau:

- Một là, Luật Đầu tư và Nghị định số 78/2006/NĐ-CP quy định việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài và quản lý hoạt động của dự án với nội dung khá rộng, bao quát toàn bộ hoạt động đầu tư ở nước ngoài (như mục tiêu, quy mô, địa điểm, phạm vi hoạt động, tổng vốn đầu tư…). Quy định như vậy không rõ ràng về mục tiêu quản lý của nhà nước (tức là quản lý nguồn vốn chuyển ra nước ngoài hay toàn bộ hoạt động của dự án), đồng thời cũng không khả thi bởi các hoạt động đầu tư ở nước ngoài phải tuân thủ pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư. Thực tiễn cho thấy, hầu hết các nước trên thế giới đều chỉ thực hiện chế độ kiểm soát dòng tiền chuyển ra nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư và có chính sách cấm, hạn chế chuyển tiền ra nước ngoài trong một số trường hợp nhất định để đảm bảo cân đối vĩ mô cũng như tính hợp pháp của nguồn tiền, mà không quản lý toàn bộ hoạt động đầu tư ở nước ngoài bởi những hoạt động này được thực hiện tại nước tiếp nhận đầu tư và phải tuân thủ pháp luật của nước đó. hầu hết các nước trên thế giới đều chỉ thực hiện chế độ kiểm soát dòng tiền chuyển ra nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư và có chính sách cấm, hạn chế chuyển tiền ra nước ngoài trong một số trường hợp nhất định để đảm bảo cân đối vĩ mô cũng như tính hợp pháp của nguồn tiền, mà không quản lý toàn bộ hoạt động đầu tư ở nước ngoài bởi những hoạt động này được thực hiện tại nước tiếp nhận đầu tư và phải tuân thủ pháp luật của nước đó. Do

22

Page 23: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

vậy, việc thẩm tra cấp Giấy chứng nhận đầu tư với những nội dung ghi nhận toàn bộ hoạt động của dự án đầu tư (như mục tiêu, phạm vi hoạt động, ) vừa không khả thi, lại vừa không rõ ràng về mục tiêu quản lý của nhà nước (tức là quản lý nguồn vốn chuyển ra nước ngoài hay toàn bộ hoạt động của dự án).

- Hai là, việc bỏ thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài không phải là giải pháp nhằm tự do hóa dòng vốn đầu tư ra nước ngoài, đồng thời cũng không đồng nghĩa với việc chúng ta từ bỏ hay nới lỏng quản lý nhà nước đối với hoạt động này mà chỉ nhằm thay đổi phương thức quản lý nhà nước từ chế độ cấp Giấy chứng nhận đầu tư sang chế độ quản lý, sử dụng dòng vốn đầu tư ra nước ngoài trên cơ sở phân định rõ trách nhiệm của nhà đầu tư và trách nhiệm của từng cơ quan quản lý chuyên ngành. .Cụ thể, đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước (đối với dự án sử dụng vốn nhà nước) và người có thẩm quyền của doanh nghiệp theo quy định pháp luật về doanh nghiệp (đối với dự án sử dụng nguồn vốn khác), quyết định và chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động đầu tư ở nước ngoài; cơ quan quản lý ngoại hối chịu trách nhiệm quản lý, kiểm soát nguồn vốn chuyển ra nước ngoài nhằm đảm bảo để nhà đầu tư sử dụng đúng mục đích và tuân thủ quy định của pháp luật ngoại hối. Ngoài ra, theo chức năng, thẩm quyền, Bộ Tài chính và các Bộ, ngành liên quan tham gia quản lý nguồn vốn và tài sản nhà nước chuyển ra nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư.

Theo đó, Dự thảo Luật đã phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý vốn, tài sản nhà nước cũng như cơ quan quản lý ngoại hối cũng như trách nhiệm của nhà đầu tư trong việc quyết định đầu tư và quản lý ng. Theo đó, đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp (đối với doanh nghiệp nhà nước) và người có thẩm quyền của doanh nghiệp khác theo quy định pháp luật về doanh nghiệp quyết định theo thẩm quyền và chịu trách nhiệm về hoạt động đầu tư ra nước ngoài; cơ quan quản lý ngoại hối có trách nhiệm quản lý, giám sát

- Ba là, cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý theo phương án nêu trên, đồng thời với việc Dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung nhiều một số nội dung quan trọng để vừa đơn giản hóa thủ tục hành chính, vừa nhằm đảm bảo quản lý chặt chẽ chặt chẽ nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài. Cụ thể, Luật giao Chính phủ quy định chi tiết lĩnh vực cấm đầu tư ra nước ngoài và lĩnh vực đầu tư có điều kiện, đồng thời quy định rõ quyền, nghĩa vụ và tránh nhiệm của nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài. theo hướng sau:

23

Page 24: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

Theo cơ chế này, chức năng quản lý của nhà nước hoàn toàn không bị triệt tiêu mà đã được cũng cố và phân định rõ ràng. nhằm đảm bảo để nhà đầu tư sử dụng đúng mục đích và tuân thủ quy định của pháp luật ngoại hối

Như vậy, các quy định của Dự thảo Luật về vấn đề này cơ chế mới không làm mất đi công cụ quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài, mà trái lại góp phần củng cố cơ chế công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động này phù hợp chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước, đồng thời góp phần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính cho nhà đầu tư. với định hướng phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, đồng thời đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính cho nhà đầu tư.

Việc thực hiện quy định mới nêu trên cũng có tác động nhất định đối với Ngoài việc một số quy định về chức năng, nhiệm vụ quản lý Việc thực hiện các quy định mới nêu trên về cơ bản không có tác động đáng kể đến công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài, trừ việc bỏ đi một thủ tục chưa thật sự cần thiết cho. cơ chế quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là các quy định liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành. Do vậy, để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả trong quá trình thực hiện, cần rà soát toàn bộ quy định của pháp luật về vấn đề này để có phương án hoàn thiện phù hợp và đồng bộ với với cơ chế mới. Theo đó, Dự thảo Luật quản lý, sử dụng vốn đầu tư nhà nước vào sản xuất, kinh doanh cần bổ sung một số nội dung quy định về thẩm quyền, thủ tục quyết định đầu tư và quản lý nguồn vốn nhà nước đầu tư ở nước ngoài; các quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối, xuất nhập khẩu, hải quan... cũng cần được điều chỉnh để đảm thực hiện quy trình, thủ tục đăng ký nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài. Bên cạnh đó, cần hình thành hệ thống công cụ quản lý mới (như xây dựng hệ thống thông tin, chế độ báo cáo, thống kê, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý trong việc quản lý nguồn vốn đầu tư ở nước ngoài và các chế tài xử lý vi phạm...).

Trên đây là giải trình của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về Dự án Luật Đầu tư (sửa đổi). Do điều kiện thời gian hạn chế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị lấy ý kiến Thành viên Chính phủ đồng thời với việc thực hiện thủ tục thẩm định Dự án Luật. Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ có báo cáo tiếp thu ý kiến của Hội đồng thẩm định trước Phiên họp của Chính phủ. Tuy nhiên, để có thể đạt được mục tiêu quản lý mới thì cần xem xét hoàn thiện đồng bộ các văn bản pháp luật liên quan theo hướng: - Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật cần có quy định cụ thể về lĩnh vực, địa bàn cấm đầu tư và đầu tư có điều kiện, xác định rõ quy trình, thủ tục đăng ký hoạt động đầu tư ra nước ngoài và cơ chế phối hợp trong quản lý hoạt động này.

24

Page 25: Bkhdt 1352 t-tr-bkhđt_10032014

- Dự thảo Luật quản lý, sử dụng vốn đầu tư nhà nước vào sản xuất kinh doanh cần bổ sung một số nội dung quy định về thẩm quyền, thủ tục quyết định đầu tư và quản lý nguồn vốn nhà nước đầu tư ở nước ngoài.

- Giao Ngân hàng nhà nước Việt Nam chủ trì xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài.

- Hệ thống pháp luật cần phải được quy định rõ ràng và đồng bộ. Luật đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước phải được bổ sung các nội dung liên quan đến ĐTRNN, Luật Hải quan, Pháp lệnh Ngoại hối và một số Nghị định liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của một số bộ, ngành... cần được rà soát, sửa đổi, bổ sung.

- Hình thành hệ thống công cụ quản lý mới: hệ thống thông tin đồng bộ; chế độ báo cáo đầy đủ và các chế tài xử lý đồng bộ.

- Chức năng quản lý nhà nước của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định tại Chương VIII của dự thảo Luật Đầu tư cũng phải thiết kế lại, theo hướng một số nội dung quản lý nhà nước về ĐTRNN cần chuyển cho các Bộ, ngành liên quan.

………………………….

Bộ Kế hoạch và Đầu tư kính trình Chính phủ xem xét, quyết định./.

Nơi nhận:- Như trên;- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng (để báo cáo);- Văn phòng Chính phủ;- Bộ Tư pháp;- Lãnh đạo Bộ;- ĐTNN, ĐKKD, QLKKT, PTDN, QLKT,- Lưu VT, PC.

KT. BỘ TRƯỞNG

THỨ TRƯỞNG

Bùi Quang VinhNguyễn Văn Trung

25