9
I Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 262-270 Bàn thêm về câu trúc ngữ nghĩa tiêng Anh và tiêng Việt dưói góc độ Ngữ pháp Tri nhận Trần Hữu Mạnh* Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Anh - Mỹ, Trường Đại học Ngoại ngữ , ĐHQGHN, Phạm Văn Đong, Cầu Giây, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 8 tháng 11 năm 2007 Tóm tắt. Nhận thức rõ tầm quan trọng của cấu trúc ngừ nghĩa của ngôn ngữ loài người (cùng với cấu trúc ngừ âm và cấu trúc ngữ pháp), bài viết điểm xuyết các quan điếm về câu trúc ngữ nghĩa do Langacker (1987) và Taylor (2002) để xuất và sau đó gợi ý nôn nghiên cứu xem xét cấu trúc ngữ nghĩa theo sự tống hòa/kôt hợp dựa trôn nhừng phố quát ngôn ngữ bao gổm: (a) sự kết hợp nghĩa của các từ và đoản ngữ tạo nên câu; (b) vị trí tưang đối của các thực thể được kế đến trong câu; (c) sự hiệu chinh và các vùng năng động; (d) các không gian tâm linh chung cho sự thông hiểu cú a con người; và (e) sự thông hiểu về mặt dụng học dựa trên các đặc điểm về ngôn cảnh. Đổng thời xem xét cấu trúc ngữ nghĩa theo sự không tổng hòa/kết hợp dựa trên những đặc thù của ngôn ngữ cụ thể đang được nghiên cứu (tiếng Anh và tiêng Viột) bao gổm (a) tính thành ngữ; (b) các tục ngừ, ngạn ngừ; (c) ẩn dụ và các trường hợp nói bang gió, hình tượng; (d) việc sử dụng quán tử tiếng Anh và từ loại tương đương với nó trong tiôhg Việt: và (e) hiộn tượng đặc trưng ngôn ngừ như trong tiếng Việt là điệp từ, điệp ngữ, nói lái. Những trường hợp này được minh họa bằng các ví dụ trong tiếng Anh và tiêng Việt. Bài viết cuối cùng nêu lỏn các công thức của ngữ nghĩa câu là: M sent = f [St ± compositionality (RIT)] (in the light of Halliday's functional grammar) Or M sent = f [St ± comp (Pred. + Arg(s)] (in the light of Cognitive Linguistics). 1. Đặt vấn đê Từ góc độ ngữ nghĩa cùa từ đến vân đề ngữ nghĩa của đoán ngữ và câu, có nhiều quan điểm khác nhau. Chomsky, Halliday, Lyons đã có những lý giái có những phẩn cơ bàn giông nhau nhưng có khá nhiều nét khác nhau về những suy xét sâu hơn! Chằng hạn Chomsky khi xem xét ngữ nghĩa của từ đã đoản ngữ đã dựa trên lý luận của Fillmore về * ĐT: 84-4-7852898 E-mail: [email protected] lý thuyết về cách (theory of case), những khái niệm về phép biêh đồi (cải biên - transformation) và các yêu tô' khác về logic, xạ ảnh Halliday tập trung xem xét nghĩa của cú (có thể coi là tương đương vói khái niệm câu trong các cu ôn ngữ pháp học và ngôn ngữ học khác) dựa trên ba siêu chức năng của ngôn ngữ: ý tưởng hoá, liên nhân và văn bản. Việc xem xét ý nghĩa của cú trong câu trúc ngữ nghĩa của cú câu theo quan điểm của Halliday đà được Nguyễn Hoà nêu lên thành công thức: Msent = f(STIR) [1, p.198]. Trong cuốn sách viết về Ngữ pháp học tri 262

Bàn thêm về câu trúc ngữ nghĩa tiêng Anh và tiêng Việt dưói …repository.vnu.edu.vn/bitstream/11126/6581/3/TC_00149… ·  · 2017-08-09Bàn thêm về câu trúc

  • Upload
    lelien

  • View
    215

  • Download
    2

Embed Size (px)

Citation preview

I

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 262-270

Bàn thêm về câu trúc ngữ nghĩa tiêng Anh và tiêng Việt dưói góc độ Ngữ pháp Tri nhận

Trần Hữu Mạnh*

Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Anh - Mỹ, Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN,Phạm Văn Đong, Cầu Giây, Hà Nội, Việt Nam

Nhận ngày 8 tháng 11 năm 2007

Tóm tắt. Nhận thức rõ tầm quan trọng của cấu trúc ngừ nghĩa của ngôn ngữ loài người (cùng với cấu trúc ngừ âm và cấu trúc ngữ pháp), bài viết điểm xuyết các quan điếm về câu trúc ngữ nghĩa do Langacker (1987) và Taylor (2002) để xuất và sau đó gợi ý nôn nghiên cứu xem xét cấu trúc ngữ nghĩa theo sự tống hòa/kôt hợp dựa trôn nhừng phố quát ngôn ngữ bao gổm: (a) sự kết hợp nghĩa của các từ và đoản ngữ tạo nên câu; (b) vị trí tưang đối của các thực thể được kế đến trong câu; (c) sự hiệu chinh và các vùng năng động; (d) các không gian tâm linh chung cho sự thông hiểu cú a con người; và (e) sự thông hiểu về mặt dụng học dựa trên các đặc điểm về ngôn cảnh. Đổng thời xem xét cấu trúc ngữ nghĩa theo sự không tổng hòa/kết hợp dựa trên những đặc thù của ngôn ngữ cụ thể đang được nghiên cứu (tiếng Anh và tiêng Viột) bao gổm (a) tính thành ngữ; (b) các tục ngừ, ngạn ngừ; (c) ẩn dụ và các trường hợp nói bang gió, hình tượng; (d) việc sử dụng quán tử tiếng Anh và từ loại tương đương với nó trong tiôhg Việt: và (e) hiộn tượng đặc trưng ngôn ngừ như trong tiếng Việt là điệp từ, điệp ngữ, nói lái. Những trường hợp này được minh họa bằng các ví dụ trong tiếng Anh và tiêng Việt. Bài viết cuối cùng nêu lỏn các công thức của ngữ nghĩa câu là:

M sent = f [St ± compositionality (RIT)] (in the light of Halliday's functional grammar)Or M sent = f [St ± comp (Pred. + Arg(s)] (in the light of Cognitive Linguistics).

1. Đặt vấn đê

Từ góc độ ngữ nghĩa cùa từ đến vân đề ngữ nghĩa của đoán ngữ và câu, có nhiều quan điểm khác nhau. Chomsky, Halliday, Lyons đã có những lý giái có những phẩn cơ bàn giông nhau nhưng có khá nhiều nét khác nhau về những suy xét sâu hơn! Chằng hạn Chomsky khi xem xét ngữ nghĩa của từ đã đoản ngữ đã dựa trên lý luận của Fillmore về

* ĐT: 84-4-7852898E-mail: [email protected]

lý thuyết về cách (theory of case), những khái niệm về phép biêh đồi (cải biên - transformation) và các yêu tô' khác về logic, xạ ảnh Halliday tập trung xem xét nghĩa của cú (có thể coi là tương đương vói khái niệm câu trong các cu ôn ngữ pháp học và ngôn ngữ học khác) dựa trên ba siêu chức năng của ngôn ngữ: ý tưởng hoá, liên nhân và văn bản. Việc xem xét ý nghĩa của cú trong câu trúc ngữ nghĩa của cú câu theo quan điểm của Halliday đà được Nguyễn Hoà nêu lên thành công thức: Msent = f(STIR) [1, p.198].

Trong cuốn sách viết về Ngữ pháp học tri

262

Trần Hữu Mạnh Ị Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 262-270 263

nhận, J. R. Taylor nhân m ạnh rằng câu trúc ngữ nghĩa, song hành với câu trúc ngữ âm và cấu trúc ngữ pháp là một trong thành tô' của cấu trúc ngôn ngữ vốín dĩ là m ột bộ phận không thể tách rời của sự tri nhận và dành cả m ột chương để xem xét vân đề này.

Có thể nói chắc chắn rằng quan niệm của ngữ pháp tri nhận, theo cách nhìn nhận mới nhất, là điểu mà chúng ta hiện đang quan tâm nghiên cứu. Và cách nhìn nhận của nó về cấu trúc ngữ nghĩa (CTNN) mà chúng tôi sẽ giới thiệu một cách chiêm nghiệm dưới đây sẽ là điều mà nhiều nhà ngôn ngữ học trong chúng ta quan tâm.

2. Cấu trúc ngữ nghĩa theo cách nhìn của Ngữ pháp Tri nhận (Taylor, 2002)

2.2. Trưóc hết, có thể thây nhận định cơ bản sau đây của Ngữ pháp Tri nhận: Ngữ nghĩa của một biểu thức phức hợp (complex expression) không đơn thuần chỉ là một hàm sô' của các ý nghĩa của các phần của nó và phương thức mà theo đó chúng được kết hợp lại.

Một cách điển hình, nghĩa của toàn bộ biểu thức là cụ thể hơn hay thậm chí có thể thay đổi so vói ý nghĩa mà các phần từ của nó kê't hợp lại, và có thể bao gồm các thành tô' hoàn toàn không được thực tê' hình tượng hoá bời bất cứ một yêu tố nào thuộc về các đan vị thành tô' [2, p.96].

2.2. Taylor liệt kê các trường hợp sau đây khi xem xét cấu trúc ngữ nghĩa của một đơn vị ngôn ngữ.

2.2.1. Nguyên tắc kêì hợp nghĩa (compositionality)

Theo nguyên tắc kê't hợp (hay còn có thể gọi là tổng hoà nghĩa), nghĩa của một biếu

thức phức hợp (complex expression) được đúc kết từ các ý nghĩa của các thành tô' của nó theo cách thức mà chúng được kết hợp lại với nhau [2, p.97].

Hiển nhiên trong hai câu sau đây (1) và (2)(1) "The cat stole the hat" có ý nghĩa khác vói câu (2) "The cat ate the hat" (MCon mèo đánh cắp cái mũ" và "con mèo an cái mủ") chính là vì 'stole' và 'ate' có những đóng góp về nghĩa khác nhau với việc thông hiểu nghĩa của cả câu, và cũng vì những đóng góp này có quan hệ một cách có hệ thông đến những tầm (ranges) có tính cha't quy ưóc cách sử dụng khả châp của người nói tiêng Anh thông thường [2, p.97; 3, p.132-133].

Taylor [2, p.98] nói rõ bôn điều kiện xác định ý nghĩa của biểu thức dựa trên nguyên tắc kê't hợp này.

Cũng theo Taylor, những trường hợp nằm ngoài nguyên tắc kê't hợp kể trên bao gổm:

1. Các thành ngữ (idioms): Một thành ngữ là một biểu thức mà nghĩa của nó không thể được tính toán (cộng đơn thuần) từ các ý nghĩa của các thành tô' tạo nên nó. Ví dụ:(3) You're opening a can o f worms.

= Anh đang chọc vào một tổ kiên lửa đấy! hay (4) He kicked the bucket = Hắn ngoẻo rồi.

2. Ẩn dụ: Ẩn dụ là một trong nhiều biện pháp của 101 nói bóng bẩy (figures of speech) bao gồm ngoa dụ (hyperpole), hài hưóc/châm biếm (irony) và hoán dụ (metonymy).

Ẩn dụ, theo định nghĩa thông thường, dựa trên sự liên tường về nghĩa (association) trên ca sờ sự giông nhau hàm ẩn giữa các từ / cụm từ được sử dụng và từ / cụm từ dựa trên nghĩa đen của chúng. Chẳng hạn:(5) I have a thousand and one things to do.

= Tôi có đê'n nghìn lẻ việc phải làm. và (6) Christmas is approaching.

= Lễ Noel đang đêh gần.

264 Trần Hữu Mạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhãn văn 23 (2007) 262-270

3. Sự thông hiểu về m ặt dụng học: Nhìn chung mỗi phát ngôn đều có thể hiểu được theo các cách khác nhau, ít nha't theo hai câp độ về nghĩa: 1. Nghĩa đen của biểu thức, tức là dựa trên nghĩa gốc của các từ và 2. Nghĩa suy diễn theo ngữ cảnh, tức là nghĩa mà người nói m uôn biểu đạt trong ngữ cảnh cụ thế.

2.2.2. (7) "The football under the table" (Quả bóng (nằm) dưới cái bàn).

Taylor giải thích ý nghĩa của cụm từ này (một danh ngữ phức) theo vị trí tương đôi của quả bóng vói cái bàn như sau:

- Quả bóng ở dưới gầm bàn, trong đó cái bàn được kê ở vị trí thường thây của nó và quả bóng nằm dưói gầm bàn.

- Quả bóng nằm dưới mặt bàn, trong đó cái bàn kê ngửa lên trên sàn nhà và m ặt bàn đè lên quả bóng (trên sàn nhà)

- Quả bóng bị cái bàn kê nghiêng đè lên (trên sàn nhà)

Đó chính ba cách thông hiểu cụm từ này [4, p.280].

2.2.3. Sự hiệu chỉnh và các vùng năng động (accommodation and active zones)

Khi các câu trúc khái niệm (conceptual stuctures) được kê't hợp vói nhau, thông thường mỗi kê't câu cần phải hiệu chỉnh đôì vói kết câu Ida sao chc cả hai sẽ tham gia nhịp nhàng hợp lý trong khuôn khổ khái niệm hoá phức hợp đó (conplex conceptualisation). Chẳng hạn động từ "run" (= chạy) áp dụng khác nhau cho các chủ thể như: người, ngựa, bò, chuột, báo, hổ. Hay động từ "eat" (= ăn) cùng có thể áp dụng khác nhau cho các trường hợp trong tiêhg Anh: a person eats a beefsteak/an icecream; a dog eats a bone; and a snake eats a bird (eat = an, nhai, nhâm nháp, gặm, nuo't).

Đổng thời khi các thực thể tham gia vào một cảnh huông chi có m ột sô' bộ phận nào đó của thực thể đó được kể đến.

Chằng hạn:(8) John kicked the table = Giôn đá cái bàn.

Trong ví dụ này, hai thực thế được kể đến(tham thê) là Giôn và "cái bàn - Giôn" là tác nhân, tham gia vào sự kiện 'đá’ (chi có bàn chân của Giôn thôi); và "cái bàn" là vật thể bị tác động, tức là đích thể (patient) và thực tê'là chỉ một bộ phận của cái bàn, chân chẳng hạn, như vậy là chi có bàn chân của Giôn tác động đến "chân" của cái bàn. Đây chính là những vùng năng động của các thực thể.

2.2.4. Các không gian tâm linh và cách dùng quán từ (xác định và không xác định)

Ta hãy xét ví dụ dưới đây:(9) The girl with green eyes has blue eyes - Cô gái vói đôi mat xanh lục ây có đôi m ắt xanh lam.

Rõ ràng nêu đơn thuần xét về m ặt kê't hợp nghĩa (compositionality), ví dụ này có sự mâu thuẫn (green eyes khác blue yes). Nhưng chúng ta có thể thây rõ ý nghĩa (sense) của câu này khi xét về không gian tâm linh (mental spaces): hai không gian tâm linh - một thuộc về cô gái m ắt xanh lục, một thuộc về cô gái m ắt xanh lam; và quan hệ tương đổng giữa cô gái và các đôi m ắt trong hai không gian đó. Cả các không gian tâm linh và các mối quan hệ tương đồng (correspondence relations) đều không được mã hoá rõ ràng trong biểu thức ngôn ngữ học. Và do vậy, không gian tâm linh có lẽ nằm ngoài phạm vi của sự kêìt hợp nghĩa nghiêm ngặt (strict compositionality) và nằm trong nội hàm văn hóa.

Bên cạnh đó, ta có thể thây sự khác nhau của các ý nghĩa của các cánh dùng quán từ trong ví dụ sau đây:

Trần Hữu Mạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 262-270 265

(10) "Ursula wants to marry a millionaire = "Ursula m uôn cưới m ột ông triệu phú"."A millionaire" ở đây khác hằn vói "a

millionaire" trong ví dụ "Ursula married a millionaire” (cưới m ột ông triệu phú) về mặt quy chiếu ("phi quy chiêu" và "quy chiêu").

Xem xét theo một cách khác, ta có thể thây có hai cách thông hiểu ví dụ (10) này:

1. Có m ột ngài triệu phú bằng xương bằng thịt và Ursula m uôn cưói ông ta Đây chính là trường hợp thông hiểu cụ thể không xác định (indefinite specific interpretation) (+ referential).

2. Ursula hiện tại vẫn chưa kiêm được ngài triệu phú này, nhưng trong tâm tưởng cô nàng vẫn hy vọng là sẽ kiêm được một ý trung nhân như vậy. Đây chính là sự thông hiểu phi cụ thể không xác định (indefinite non-specific interpretation) (- referential) [2, p.98-114; 5, tr.302-307].

3. Đề xuất của chúng tôi về cấu trúc ngữ nghĩa

Theo cách phân tích trên về cấu trúc ngữ nghĩa của ngữ pháp trí nhân (Langacker và Taylor), chúng tôi thây phần nào đó cách phân chia của các tác giả này chưa thật rạch ròi và dễ lẫn lộn với nhau. Do vậy chúng tôi mạnh dạn đề xuất cách phân tích sau đây:

3.1. Nhận định chung

Trước hết khi đ ề cập đêh câu trúc ngữ nghĩa của thành tô' của câu, và đặc biệt của câu, cẩn thây rõ câu trúc ngữ nghĩa đó bị chi phôi bởi các yêu tô' ngôn ngữ và văn hoá của từng ngôn ngữ (Anh và Việt chằng hạn). Do vậy, câu trúc ngữ nghĩa của mỗi ngôn ngữ đều mang đậm nét phổ quát (universal) và không phổ quát (non-universal). Nói khác đi, trong trường hợp ngữ nghĩa của câu là sự

tổng hoà các thành tô' của câu, đó chính là tính phổ quát của ngôn ngữ - mọi ngôn ngữ đều mang tính phổ biên này. Còn trường hợp phi phổ quát chính là khi khi nghĩa của câu không phái là sự tổng hoà của các thành tô' của câu mà có thể do những yêu tô' khác như văn hoá là chú yêu hay đôi khi do cá nhân người nói và người nghe (thứ yếu) thông dịch ngữ liệu đó. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nói đêh những nhân tô' thuộc về logic (phổ quát) và văn hoá (không phổ quát).

3.2. Các trường hợp cụ thề

3.2.2. Cấu trúc ngữ nghĩa dựa trên tính phổ quát (logic) của ngôn ngữ

Theo nguyên tắc này, ngữ nghĩa của câu / phát ngôn chính là sự tổng hoà (hay kết hợp) của các yếu tô' câu thành phát ngôn theo Ngữ pháp Tri nhận. Đây chính là các trường hợp.

1. Nghĩa của m ột biểu thức phức (complex expression) - có thể là đoản ngữ hay câu - được kết hợp từ các ý nghĩa cùa các thành tô' câu thành nên nó (xem 2.2.1. và các ví dụ (1) và (2)).

2. Nghĩa được xác định bời vị trí không gian của vật thể được kể đến trong phát ngôn (đoản ngữ hay câu). Các vị trí không gian này (spatial positioning) có thể khác nhau (xem2.2.2 với ví dụ trong tiểu phần này về cái bàn và quả bóng về cái bàn và quả bóng).

3. Nghĩa bị chi phôi bởi sự điều tie't và các vùng năng động: Đây chính là sự thông hiểu của các thành viên của cộng đổng ngôn ngữ vói các động từ chỉ hoạt động vật chất và cả tinh thần, nói năng... của con người. Đồng thời cũng phải hiểu khi nói đến một thực thể được kể đêh trong một hành động chi có một vùng năng động / hoạt động của thực thể đó được kể đêh trong hành động (xem phần2.2.3 và ví dụ (8)).

266 Trần Hữu Mạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhản văn 23 (2007) 262-270

4. Nghĩa được suy ra từ các không gian tâm linh có thể được kéo theo vào trong một phát ngôn, và do vậy các kết hợp nghĩa của các thành tô' xem ra có thể là mâu thuẫn nhau (xem 2.2.4. và ví dụ (9)).

5. Nghĩa dựa trên sự thông hiểu về mặt dụng học: suy diễn theo ngữ cảnh (cũng là nét chung song cũng mang tính đặc thù cho từng ngôn ngữ ) [2, p. 103].

3.2.2. Cấu trúc ngôn ngữ dựa trên tính phi phổquát

Hay nói khác đi là tính đặc thù của ngôn ngữ (tức là các đặc điếm về văn hoá đặc thù, có thể gọi là phi logic hình thức của các ngôn ngữ cụ thê). Trong phạm vi của bài viết, chúng tôi xin nêu lên một sô' trường hợp điến hình sau đây:

1. Trường hợp nghĩa thành ngữ (idiomatic meanings): Trong trường hợp này khi nghiên cứu tiêng Anh và tiêng Việt (một ngôn ngữ An - Au có phân tích đúng cao và một ngôn ngữ A - Úc đơn lập) có thể thây những:

+ Đặc điểm chung: nghĩa của thành ngữ được suy diễn từ các thành tô' (có thể xếp vào trường hợp 3.1.1).(11) a. Chơi với lửa (Việt) = play with fire (Anh).

b. Đồ con lừa (Việt) = you donkey (Anh).+ Đặc thù từng ngôn ngữ: mang đậm nét

văn hoá (truvền thông'* như:(12) a. Con chiên ghè (Việt) = a black sheep (Anh).

(A disobediant catholician)b. Ăn cháo đái bát = kick down the ladder.(eat the soup and kich the bowl)c. Khó Ờ (uneasy to exist) = under the weather.d. Ngay lập tức (immediate at the moment)

= at once.(Xem thêm các ví dụ (3) + (4) của 2.2.1.).2. Trương hợp tục ngữ (proverbs): trường

hợp này rõ ràng mang sắc thái, bản chất văn hoá của từng ngôn ngữ dựa trên sự đúc kết

kinh nghiệm sản xua't, sông và trải nghiệm khoa học, học thuật của từng cộng đổng ngôn ngữ. Chằng hạn:(13) a. Ngưu tầm ngưu, mà tãm mã (Việt)

= Birds o f a feather flock together (Anh). (Buffaloes seek buffaloes, horses seek horses)

b. Chó chê mèo lắm lông = The pot calls the kettle black.

(Dogs disparage cats to be full of hair) Trong trường hợp này, một câu tục ngữ /

ngạn ngữ tiêng Anh có thể chuyển dịch sang tiêng Việt theo các câu nói khác nhau do tiêng Việt có thể có những tương đương đẳng ngữ, chẳng hạn 13b có thể là: "Thờn bơn méo miệng chê trai lệch m om ' hay "Chuột chù chê khi rằng hôi..."

3. Nghĩa ẩn dụ và một sô' trường hợp nghĩa dựa trên lôi nói bóng bẩy như ngoa dụ, hài hước. Trên thực tê' có thể thây một sô' trường hợp có thể được coi là chung cho mọi ngôn ngữ.(14) a. Chân đồi = the foot o f the hill.

b. Miêng hang = the mouth of the cave.Hay như những trường hợp (5) và (6) của

2.2.1. đã nêu trên đây.Nhưng cũng có những trường hợp sự

khác nhau nhất định trong cách sử dụng ẩn dụ trong hai ngôn ngữ:(15) a. Chân trời - horizon (không ẩn dụ).

b. Quả / trái tim ~ the heart (không ẩn dụ), và c. Con ngươi của mắt bạn (không ẩn dụ)

~ the apples of your eyes (ẩn dụ),d. Một thành phô' hiển hoà (thân thiện)

(không ẩn dụ) ~ a friendly city (ẩn dụ nhân cách hoá).

Trong các ví dụ trên: a và b trong tiêng Việt là ẩn dụ còn tiêng Anh tương ứng không phải là ẩn dụ, và ngược lại vói c và d, tiêng Việt không mang rõ nét ẩn dụ còn tiêng Anh lại là ẩn dụ rõ ràng.

Đổng thòi, trong râ't nhiều trường hợp ẩn

Trần Hữu Mạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 262-270 26 7

dụ thường được lổng ghép vói hoán dụ p .112]. Theo Lakoff [6], khi nói về "anger" (sự(metonymy - vân đề thường gặp trong trường giận dữ) ta có biểu tóm tắt sau đây (phần dịchhợp ý nghĩa phổ quát của ngôn ngữ [2, sang tiêng Việt là của chúng tôi).

METONYMY (Hoán dụ) METAPHORS (Ẩn dụ)

INCREASE / IN BODY TEMPERATURE STANDS FOR ANGER (Sự tăng lên của nhiệt độ cơ thế thế hiện sự giận dữ ANGER / IS HEAT

(Sự giận dữ |là nhiệt lượng)

ANGER IS FIRE

(Sự giận dừ là lửa cháy)

ANGER IS THE HEAT +OF A FLUID IN A CONTAINER

(Sự giận dữ là nhiệt lượng của một dòng chảy trong một công - ten - nơ)

(Dần theo Ungerer & Schmid [7, p.134])

THE BODY IS A CONTAINER FOR EMOTIONS

(Cơ thể là một công-te-nơ chứa đựng các cảm xúc)

Như vậy trong khá nhiều trường hợp không có sự phân định rạch ròi giữa nghĩa kê't hợp (phổ quát) và không kê't hợp (phi phổ quát).

Ngoa dụ và hài hước cũng mang những nét phổ quát và phi phổ quát như:

+ Phố quát(16) a. Đen như than = black as coal.

b. Sự rôỉ rắm bời bời = a nice mess (mớ bòng bong thú vị).+ Phi phổ quát

(17) a. Đen như chó mực ~ (as) unlucky as (Hobson + H obsons choice)b. Da trời không nhuộm mà xanh ngắt

Mắt lão không viên củng đò hoe (~ The skỵ is so blue without being dyed And my eyes get so red due to trachoma).

4. Cách dùng quán từ tiêng Anh và việc sử dụng loại từ và phân định từ (classifier and identifier) trong tiêng Việt.

Quán từ trong tiếng Anh là một nét đặc thù của loại ngôn ngữ Giecmanh này. Nó khác râ't nhiều so với các loại quán từ dùng trong nhiều ngôn ngữ Ân Au khác (chẳng hạn tiêng Latin, tiêng Rumani, tiêng Pháp và thậm chí cả tiêng Đức) ở chỗ không có sự

phân biệt về giông và số. Nó gắn liền với quy chiêu ngữ pháp (reference in grammar) bao gồm các tiểu phạm trù: Nghĩa chung (generic refence) nghĩa cụ thể (specific repence), nghĩa đơn nha't (unigue reference) nghĩa cụ thể (specific reference), nghĩa đơn nha't (unique reference). Ngoài các ví dụ (14) và (15) đã nêu trên đây, ta có thể nêu thêm một vài ví dụ:(18) In the country o f the blind the one - eyed man

is king = Trong xứ mù anh chột làm vua.Việc sừ đụng quán từ "the" trong ba danh

ngữ đẩu và quán từ zero trong danh ngữ cuôĩ là khá đặc thù của tiếng Anh (khác vói nghĩa).(19) Ạ n apple a day keeps the doctor away.

= A n một quả táo một ngày giúp bạn cường tráng suôi đời (cách ly bạn khỏi bác sỹ).

Nghĩa của quán từ: an = một, a = mỗi; the vói ý nghĩa phân định "ông bác sỹ" của bạn là m ột nét đặc trưng nữa của tiêng Anh.

Loại từ (classifier) và từ phân định/xác định (identifier) là nét đặc thù của tiêng Việt gồm cái (loại từ), anh/ông/lão (từ phân định)(20) Cái anh chàng nhà quê đua đòi hãnh tiên

= that upstart snobbish country-lad.

268 Trần Hữu Mạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhản văn 23 (2007) 262-270

(trong đó "chàng nhà quê" có thể coi là danh từ đẩu tô' - head noun - là một danh từ ghép). Câu tạo của danh từ ngữ phức tiêng Việt cũng là một hiện tượng khá đặc trưng cho loại ngôn ngữ đơn lập này với từ "này/kia/nọ/đó" là từ xác định (determiner) tách ra đứng cuôì danh ngữ phức khác hẳn với từ xác định tiêng Anh (this, that, these, those) mà theo truyền thông là từ chi định (demonstratives).

5. Nghĩa do một sô' yêu tô' đặc trưng cho ngôn ngữ (bao gồm cả yếu tô' văn hoá) quy định. Trong tiêng Việt, chằng hạn, có thể liệt kê một số nét đặc trưng cùa loại ngôn ngữ đơn lập này.

- Hiện tượng lặp từ (điệp ngữ) trong câu tạo câu có thể bao gồm:

+ Lặp lại hoàn toàn: lặp chú ngữ mang nghĩa sô' nhiều, (a) hay lặp vị ngử nghĩa giảm nhẹ (b).(21) a. N gitời người thi đua, ngành ngành thi đua.

= Everyone and every organization emulates. Nhà nhà làm từ thiện. Ngưòi ngưòi mua

chứng khoán.= Every home does charity. Every one buys stock tickets.b. Ông ấy dạo này điên điên khùng khùng.= He's now a little bit crazy.Bà ây sau trận ôm cứ nhỏ nhỏ quên quen. = She got a little bit forgetful after the illness. Hiện tượng lặp này còn xảy ra vói các

trạng ngữ:(22) a. Mắt đen tròn thương thương quá đi thôi

= Her round black eyes looked so charming.b. Gia tư nghi cũng thường thường bậc trung = His family properly ranks among the mid-

level.c. Ngày ngày đêm đêm em ngóng chờ tin anh. = Day and night I would expect the news from

you.Theo Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hoà:

"Điệp ngữ là biện pháp lặp lại một hay nhiều lần những từ, ngữ nhằm mục đích mờ rộng nghĩa gây ấn tượng mạnh mẽ hoặc gợi ra những xúc cảm trong lòng người đọc, nghe":(23) Chiều chiều lại nhớ chiều chiều

Đôi 0 bướm trắng dải điều thắt lưng.= A t dusk we miss the scene when dusk came, Couple o f girls with red belt at waist turned round [8, tr.210].

+ Lặp lại có biên đổi thanh điệu: đo đò, bàng bạc, bằn bặt, thiêm thiếp,... thường dùng để câu tạo từ, gọi là từ láy. Theo chúng tôi loại từ láy này cũng thường xuất hiện trong câu hay cụm từ chứ ít khi đứng một m ình và gây nhiều phiền toái cho cả dịch giả Việt - Anh.

- Hiện tượng nói lái (spoonerism) thường gặp trong trường hợp thông tục hay chơi chữ. Hiện tượng nói lái này nhiều khi thay đổi theo tập quán từng vùng.(24) a. Dèo Hải Vân = đèo vẩn hai/ vần hải đeo (phía Bắc)

(= Hai Van pass) = đần hải veol đẵn vải heo (phía Nam).

b. M u a hai lạng = m ua lang hại/ lang hai mua (phía Bắc)

(= buy 200grs) = mang hai lụa/mai lua hạng (phía Nam).

Nêu tiếp tục suy diễn theo lỗi nói lái này, nghĩa của đoản ngữ (danh ngữ hay động ngừ) sẽ biên đổi khòn lường và gây nhiều trờ ngại cho người nước ngoài học tiêng Việt.

Trưòng hợp này tương tự vói tiêng Anh trong spoonerism:(25) Well- boiled icycles (= well- oiled bicycles) (= xe do't tầu).

4. Mấy ý kiến kết luận

4.1. Khi xem xét câu trúc ngôn ngữ, đổng thời với việc xem xét cấu trúc vật cha't cùa nó:

Trần Hữu Mạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 262-270 269

câu trúc ngữ âm và câu trúc cú pháp [5] cần xem xét cấu trúc ngữ nghĩa chính là sự thể hiện về mặt tinh thần, tâm lý, tâm linh con người khi sử dụng ngôn ngữ. Rõ ràng có mối liên hệ hữu cơ giữa các câu trúc nói trên, nói khác đi là giữa ngữ âm, cú pháp và ngữ nghĩa của mọi ngôn ngữ.

4.2. Cấu trúc ngữ nghĩa của ngôn ngữ được xác định bời hai yêu tô': CO hay KHỔNG sự kê't hợp nghĩa nghiêm ngặt các thành tô' tạo nên đơn vị ngôn ngữ, mà đơn vị cơ bản chính là CÂU hoặc c ú . Từ phân tích trên, ta hoàn toàn có thể xác định công thức tạo thành nghĩa của câu (khác vói công thức của Nguyễn Hoà 2006) [1].

4.2.1. Theo ngữ pháp Chức năng - Hệ thông (theo quan điếm của Halliday):

Tiêng Anh: clause = sentence.Msent = f [St ± comp (RIT)]

Giải thích: Meaning of sentence = function of [structure (i.e.senmantic structure) ± compositionality (Representational + Interpersonal + Textual)].

Tiếng ViệtNghĩa câu = hs [Ctr ± k.hợp (Tgiải +

Lnhân + V bản)]Giải thích: Nghĩa của câu = hàm sô' của

[Câu trúc ngữ nghĩa ± kết hợp các thành tô' (tưòng giải + Liên nhân + Văn bản)].

4.2.2. Theo ngữ pháp tri nhận và Cú pháp kê't hợp Ngữ nghĩa (theo quan điểm các nhà Cú pháp học đương đại):

Tiếng Anh: Theo cách nhìn nhận về mệnh đề logic (proposition): Msent = f [St ± comp (Pred + Arg (s)].

Giải thích: Meaning of sentence = function of [structure ± compositionality (Predicatior + Argumentis).

Tiếng Việt:Nghĩa câu = hs (Ctr ± kê't hợp (Vt + Tht)]

Giải thích: Nghĩa của câu = hàm sô' của [câu trúc ngữ nghĩa ± kê't hợp nghĩa của (Vị trí + Tham tô)].

4.3. Sự xem xét tính đến các nhân tô' tạo thành câu trúc ngữ nghĩa của câu, đơn vị cơ bản của mọi ngôn ngữ đều tuân thủ các nguyên tắc chúng tôi đã nêu trong phần 3 của bài viết này. Do vậy các nhà ngôn ngữ học, đặc biệt ngôn ngữ học đôi chiêu, cẩn đi sâu xem xét các trường hợp thể hiện trong công thức "± comp (= ± k.hợp)" khai thác các trường hợp phổ quát và phi phổ quát của ngôn ngữ loài người mà theo ý của chúng tôi sô' lượng các trưòng hợp khá cân bằng (5:5). Nhưng có lẽ đây là sự cân bằng đã lý tường hoá.

Tài liệu tham khảo

[1] Nguyen Hoa, Understanding English Semantics, VNƯ Hanoi Press, Hanoi, 2006.

[2] J. R. Taylor, Cognitive Grammar, Oxford University Press, Oxford, 2002.

[3] E. Sweetser, Compositionality and blending: Semantic composition in a cognitive realistic framework, In Janssen and Redeker (eds - 1999), Longman, London, 1999.

[4] R. w . Langacker, Foundations of Cognitive Grammar; Vol 1: "Theoretical Prerequisites", Standford, California, 1987.

[5] Trần Hữu Mạnh, Ngôn ngữ học đôĩ chiêu: Cú pháp tiếng Anh - tiêhg Việt, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, H., 2007.

[6] G. Lakoff, Women, Fire, and Dangerous Things: What Categories Reveal about the Mind, Chicago, USA, 1987?

[7] F. ưngerer, H. J. Schmidt An Introduction to Cognitive Linguistics, Longman, London, 1997.

[8] Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hoà, Phong cách học tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999.

270 Trần Hữu Mạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 262-270

On the semantic structure of English and Vietnamese in the light of Cognitive Linguistics

Tran Huu Manh

Department of Anglo-American Language and Culture, College o f Foreign Languages, VNU,Pham Van Dong, Cau Giay, Hanoi, Vietnam

Realizing the importance of the semantic structure of hum an languages (together with the phonological structure and the syntactic structure), the article makes a review of the conception of semantic structure raised by Langacker (1987) and Taylor (2002) and then suggests at the study of this in terms of (1) compositionality, based on language universals, including (a) the combination of the meanings of words and phrases making up the sentence, (b) the relative positioning of the entities involved in the sentence; (c) the accommodation and the active/dynamic zones; (d) the mental spaces common to hum an beings' interpretation; and (e) the pragmatic interpretation based on the context features; and (2) uncompositionality, based on percularities of particular languages under study, namely: (a) idiomacity; (b) proverbs; (c) m etaphor and other figures of speech usage; (d) article usage in English and its Vietnamese equivalents; and (e) reiteration, reduplications and spoonerisms which are particularly popular in Vietnamese. These cases are supported by examples in the English and the Vietnamese language. The article finally arrives at the formulas of the meaning of the sentence as follows:

M sent = f [St ± compositionality (RIT)] (in the light of Halliday's functional grammar)Or M sent = f [St ± comp (Pred. + Arg(s)] (in the light of Cognitive Linguistics).