Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 1/48
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
BẢN TIN THÁNG 09/2018 (Phục vụ cung cấp thông tin trọn gói)
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Chế tạo thiết bị bộ nhớ có kích thước chưa đến 7nm mà không sử dụng kỹ thuật chế tạo nano
Samsung phát triển thành công chip moderm 5G chuẩn quốc tế đầu tiên
Trí tuệ nhân tạo giúp dự báo động đất và dư chấn động đất
Robot gián thế hệ tiếp theo có thể lặn dưới nước
Rô bốt nhỏ cảm biến môi trường có thể khám phá ruột và đường ống dẫn khí
Thiết kế robot mềm, đa chức năng có kích thước nhỏ lấy cảm hứng từ loài nhện công
Mở rộng giới hạn của pin Li-ion: Điện cực cho pin thể rắn
In 3D dùng cho thế hệ tiếp theo của pin
Chế tạo thuyền từ công nghệ 3D vượt Đại Tây Dương của Italy
Vật liệu sinh học in 3D sử dụng trong kỹ thuật mô xương
Vòng đeo tay thông minh có khả năng theo dõi sức khỏe và đo lường ô nhiễm môi trường
Pin giấy hoạt động nhờ vi khuẩn
Chất điện ly an toàn chống cháy nổ trong pin Lithium-ion
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Lần đầu tiên, các nhà nghiên cứu biến đổi chất khử trùng mạnh và nhớt thành sương mù
Thiết bị thu hoạch nước cầm tay có thể lấy tới 10 gallon nước từ không khí mỗi giờ
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Vật liệu làm từ vỏ cua và sợi cây sẽ thay thế túi nhựa đựng thực phẩm
Công nghệ tách nước mới hỗ trợ phát triển nguồn năng lượng sạch từ hydro
Xác định enzyme thúc đẩy quá trình sản xuất nhiên liệu sinh học
Y DƯỢC
Kiểm tra hơi thở giúp chẩn đoán bệnh Parkinson sớm
Kích thích não có thể cải thiện trí nhớ trong khi bạn ngủ
Nghiên cứu phát hiện một loại thuốc có thể ngăn chặn bệnh Alzheimer
Bệnh động kinh: Những phát hiện mới có thể thay đổi sách giáo khoa
Probiotic có thể gây ra tình trạng rối loạn chức năng não và đầy hơi
Cơ chế tế bào có thể thay đổi phương pháp điều trị ung thư
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 2/48
Thuốc chống ung thư mới làm cho các tế bào ung thư “ngủ” vĩnh viễn
Các nhà khoa học phát hiện ra tế bào phòng chống ung thư vú
Phát hiện và chẩn đoán sớm bệnh u tủy - dạng ung thư hiếm gặp bằng các xét nghiệm
máu đơn giản
Phương pháp mới chẩn đoán ung thư bằng protein sốt rét
Cải tiến phương pháp phân tích mẫu tế bào
Cấy ghép thành công phổi sinh học vào lợn
Vi khuẩn đường ruột có thể làm cho việc giảm cân khó khăn hơn
Kỹ thuật mới biến đổi mỡ trắng thành mỡ nâu
Các nhà nghiên cứu phát triển các loại thuốc tiềm năng để hạn chế cơn thèm thuốc lá
Bước nhảy vọt của y học: Giới khoa học tìm ra cách chuyển nhóm máu A thành nhóm
máu O
Hoàn tất giải mã trình tự bộ gen của lúa mì
Sản xuất thức ăn nuôi trồng thủy sản bền vững từ sản phẩm tương tự vi tảo biển
MÔI TRƯỜNG
Phương pháp tự nhiên, chi phí thấp để loại bỏ các chất ô nhiễm khỏi nước
Biến đổi khí CO2
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 3/48
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Chế tạo thiết bị bộ nhớ có kích thước chưa đến 7nm mà không sử dụng kỹ thuật chế tạo nano
Mới đây, các nhà khoa học đã phát
triển các nam châm nhỏ nhất thế giới, chỉ có
kích thước 3-7 nanomet (nm). Nhờ kích thước
nhỏ và tính ổn định nhiệt cao, cũng như được
chế tạo bằng quy trình tự lắp ráp đơn giản,
nam châm nano được xem là một bước tiến
quan trọng hướng tới khả năng thiết kế và phát
triển thiết bị bộ nhớ thế hệ kế tiếp với mật độ
cực cao và mức tiêu thụ điện năng thấp.
Nhóm nghiên cứu bao gồm Jeongmin
Hong và Long You tại trường Đại học Khoa
học và Công nghệ Huazhong, cùng với K.
Dong, Đại học Khoa học Địa chất Trung
Quốc và Jeffrey Bokor, Đại học California-
Berkeley. Bài báo về kết quả nghiên cứu của
nhóm được công bố trên tạp chí Applied
Physics Letters.
Nghiên cứu trước đây đã giới thiệu
một số loại nam châm cấu trúc nano đơn hàng
khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay, tất cả các
kỹ thuật được sử dụng để chế tạo các cấu trúc
này liên quan đến các quá trình tạo hình phức
tạp và đắt tiền, chẳng hạn như kỹ thuật khắc
hình (thuật in đá) hay kỹ thuật khắc chùm ion.
Còn trong nghiên cứu mới, nam châm nano
có khả năng tự lắp ráp, với quá trình phún xạ
đơn giản và không đòi hỏi bất kỳ quá trình
tạo hình nano nào.
Trao đổi với Phys.org, Hong cho biết:
"Yếu tố quan trọng nhất được chứng minh
trong nghiên cứu này là tính ổn định nhiệt tốt
của tập hợp các ô nhớ có kích thước dưới 5
nm. Nghiên cứu là một phần quan trọng cho
các ứng dụng bộ nhớ truy suất ngẫu nhiên từ
tính dựa trên công nghệ mô-men xoắn spin -
chuyển giao (STT), hoặc MRAM (Ram từ
tính) sử dụng trong các chip bộ nhớ tương lai
cho gần như tất cả các ứng dụng điện tử.
Chúng tôi đã sử dụng phương pháp tự lắp ráp
để tạo ra các hạt nanomaget với đường kích 5
nm để lưu trữ thông tin mà không cần sử
dụng kỹ thuật chế tạo nano”.
Thiết bị nam châm nano (nanomagnet)
bao gồm các hạt phân tử nano sắt-bạch kim
với đường kính trung bình là 5 nm. Mỗi
nanomagnet có khả năng từ hóa theo hai
hướng, được xác định bởi các hướng của nam
châm nano. Hai hướng từ hóa tương ứng với
hai trạng thái (song song và đối song song)
của một đường nối đường hầm từ tính, tạo
thành khối xây dựng cơ bản của một tập hợp
các ô nhớ không biến đổi.
Bằng cách sử dụng một đầu dò spin
tập trung cao độ hiện đại, các nhà nghiên cứu
đã chứng minh rằng một dòng điện được áp
dụng có khả năng kích hoạt sự từ hóa của các
nam châm nano riêng lẻ nhờ mômen truyền
spin. Đặc biệt, nam châm nano siêu nhỏ thể
hiện độ ổn định nhiệt cao tương ứng với thời
gian lưu trữ dữ liệu hơn 10 năm.
"Hiện tại, chúng tôi đang nghiên cứu
cách thức kiểm soát kích thước thiết bị để tích
hợp hệ thống ngay lập tức một cách đáng tin
cậy", You cho biết. "Ngoài ra, chúng tôi cũng
dự định sẽ nghiên cứu các hiệu ứng nhiệt gây
ra bởi đầu dò spin mật độ cao".
Theo vista.gov.vn, 14/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 4/48
Samsung phát triển thành công chip moderm 5G chuẩn quốc tế đầu tiên
Nguồn: GSMArena.com
Samsung Electronics vừa phát triển
thành công chip Exynos Modem 5100, chip
modem 5G đầu tiên hoàn toàn tương thích với
chuẩn quốc tế 3GPP của mạng 5G mới.
Exynos Modem 5100 mới hỗ trợ băng
tần sub-6GHz và mmWave theo tiêu chuẩn
3GPP. Nó cũng tương thích với các các mạng
2G, 3G và 4G LTE.
Samsung tuyên bố rằng 5100 có thể đạt
tốc độ truyền dẫn lên đến 2Gbps/giây trong ở
băng tần sub-6Ghz và lên đến 6Gbps sử dụng
băng tần mmWave, cả hai đều tăng đáng kể so
với những gì hiện có trên mạng 4G.
Samsung đã thực hiện thử nghiệm
thành công chip 5100 bằng cuộc gọi dữ liệu
qua mạng không dây (OTA) 5G-NR trong
môi trường không dây sử dụng trạm gốc 5G
và mẫu thiết bị 5G tích hợp chip Exynos
Modem 5100.
Samsung cũng đang hợp tác chặt chẽ
với một số hãng di động và đối tác toàn cầu
để nhanh chóng đưa mạng 5G di động ra thị
trường.
Theo vietnamplus.vn, 16/08/2018 Trở về đầu trang
**************
Trí tuệ nhân tạo giúp dự báo động đất và dư chấn động đất
Dư chấn xảy ra sau một trận động đất
nhiều khi có sức tàn phá lớn hơn trận động
đất đó. Vì vậy, việc dự báo dư chấn và địa
điểm có thể chịu ảnh hưởng là hết sức quan
trọng. Hiện nay, công việc này có thể dễ dàng
hơn nhờ sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo (AI).
Trên thực tế, các nhà nghiên cứu địa
chấn đã có các phương pháp dự báo thời gian
xảy ra dư chấn và cường độ dư chấn, song
còn chưa chắc chắn về cách thức dự báo
những vị trí xảy ra dư chấn.
Để giải quyết vấn đề này, một nhóm
nhà nghiên cứu đã sử dụng một chương trình
AI mang tên "deep learning" tập hợp dữ liệu
của hàng chục nghìn trận động đất và các đợt
dư chấn cũng như các vị trí xảy ra dư chấn.
Nhờ cơ chế hoạt động giống như cách
não bộ con người tìm ra những mối liên kết
trong các sự việc hiện tượng, chương trình
này giúp các nhà nghiên cứu lập bản đồ liên
hệ giữa các đặc điểm của một trận động đất
mạnh (gồm hình thái vết nứt gãy, độ phân
tách của vết nứt gãy...) và vị trí xảy ra dư
chấn.
Nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm để
đánh giá độ chính xác của dự đoán mà
chương trình này đưa ra bằng cách nhập vào
chương trình 75% dữ liệu các trận động đất
mà họ đã thu thập, sau đó kiểm tra dự báo của
chương trình về các vị trí xảy ra dư chấn đối
với 25% dữ liệu còn lại.
Kết quả là, 6% số vị trí mà chương
trình này dự đoán có nguy cơ cao xảy ra dư
chấn trùng khớp với các vị trí đã xảy ra dư
chấn trên thực tế. Các phương pháp dự đoán
trước đó chỉ đạt độ chính xác khoảng 3%.
Theo Giáo sư Gregory Beroza tại Đại
học Stanford, mặc dù vẫn cần tiến hành thêm
nhiều nghiên cứu chuyên sâu, song nghiên
cứu trên đóng vai trò "tiền đề" cho các nghiên
cứu sau này về tính hữu dụng của AI trong dự
báo động đất và dư chấn.
Theo vietnamplus.vn, 30/08/2018 Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 5/48
Robot gián thế hệ tiếp theo có thể lặn dưới nước
'HAMR' có thể đi bộ trên mặt đất, bơi lội và đi dưới mặt nước
Trong tự nhiên, gián có thể tồn tại dưới
nước trong tối đa 30 phút. Bây giờ, một con
gián robot có thể làm tốt hơn nữa. Microrobot
Ambulatory của Harvard, được gọi là HAMR,
có thể đi bộ trên mặt đất, bơi trên mặt nước
và đi dưới mặt nước trong thời gian cần thiết,
mở ra nhiều môi trường mới cho robot nhỏ
này để khám phá.
HAMR thế hệ mới này sử dụng miếng
đệm chân đa chức năng dựa trên sức căng bề
mặt khi HAMR cần bơi, nhưng cũng có thể
cấp điện áp để phá vỡ sức căng bề mặt khi
HAMR cần phải chìm. Quá trình này được gọi
là electrowetting, đó là giảm góc tiếp xúc giữa
vật liệu và mặt nước dưới điện áp được cấp.
Sự thay đổi góc tiếp xúc này làm cho các vật
thể dễ dàng phá vỡ sức căng bề mặt của nước.
Di chuyển trên mặt nước cho phép
microrobot tránh được các chướng ngại vật
chìm trong nước và giảm lực cản. Sử dụng
bốn cặp cánh không đối xứng và thiết kế bơi
tùy chỉnh, HAMR robo chèo trên mặt nước để
di chuyển. Robot tạo ra dáng đi trên nước
giống như con bọ nước bằng cách đập cánh
và chèo chân, điều này cho phép robot bơi
một cách hiệu quả về phía trước và rẽ.
Nghiên cứu này chứng tỏ rằng
microrobotics có thể giúp cho ngành vật lý
hẹp - trong trường hợp này là sức căng bề mặt
- để thực hiện các chức năng và khả năng mà
các robot lớn hơn khó có thể làm được.
Kích thước của HAMR là chìa khóa
cho khả năng của nó, nếu nó lớn hơn, nó sẽ tự
mất đi khả năng đi trên mặt nước, nhưng nếu
nó nhỏ hơn, nó sẽ không đủ lực để phá vỡ sức
căng mặt nước, bởi vậy nó sẽ mất đi khả năng
lặn.
HAMR nặng 1,65 gram (khoảng bằng
một kẹp giấy lớn), có thể mang 1,44 gram
trọng tải bổ sung mà không bị chìm và có thể
chèo chân của nó với tần số lên đến 10 Hz.
Nó được bọc trong Parylene để giữ cho nó
không bị ngấm nước.
Một khi nó ở bên dưới bề mặt của
nước, HAMR sử dụng dáng đi giống như để
đi bộ trên vùng đất khô. Để trở về vùng đất
khô HAMR phải đối mặt với thách thức to
lớn từ việc giữ nước. Lực căng bề mặt nước
lớn gấp hai lần trọng lượng robot, lực này tác
động lên robot, cộng với mô men xoắn gây ra
cũng làm tăng đáng kể ma sát trên hai chân
sau của robot. Các nhà nghiên cứu đã củng cố
hệ thống truyền động của robot và lắp các
miếng đệm mềm vào chân trước của robot để
tăng khả năng tải trọng và phân phối lại ma
sát trong khi leo. Cuối cùng, robot có thể
thoát ra khỏi lực giữ của nước bằng cách đi
hơi nghiêng.
Robot này thể hiện một số thách thức
và cơ hội với robot quy mô nhỏ, việc thu hẹp
lại mang lại cơ hội tăng khả năng di chuyển -
như đi bộ trên mặt nước - nhưng cũng là
những thách thức vì các lực mà chúng ta cho
là ở quy mô lớn hơn có thể bắt đầu chiếm ưu
thế với kích thước của côn trùng.
Tiếp theo, các nhà nghiên cứu hy vọng
sẽ tiếp tục cải thiện vận động của HAMR và
tìm cách quay thoát ra khỏi mặt nước mà
không cần đoạn đường nối, có lẽ là họ kết
hợp các chất kết dính lấy cảm hứng từ tắc kè
hoặc các cơ chế nhảy của côn trùng.
Theo vista.gov.vn, 02/08/2018 Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 6/48
Rô bốt nhỏ cảm biến môi trường có thể khám phá ruột và đường ống dẫn khí
Các kỹ sư tại Viện Công nghệ Massachusetts
(MIT) đã thiết kế được những con rô bốt nhỏ
có khả năng cảm biến môi trường xung
quanh. Vi rô bốt có kích thước bằng một tế
bào trứng ở người, có thể được sử dụng để
khám phá các con đường khó tiếp cận như
ruột người hoặc đường ống dẫn khí.
Nhóm nghiên cứu đã thiết kế rô bốt
nhỏ bằng cách nối mạch điện với các chất
keo, hỗn hợp tạo ra các hạt không hòa tan có
kích thước quá nhỏ nên không bao giờ lắng
đọng trong nước hoặc không khí. Các hạt keo
vẫn luôn phân tán.
Michael Strano, giáo sư kỹ thuật hóa
học cho biết: "Chúng tôi muốn tìm ra các
phương thức để ghép các mạch điện tử hoàn
chỉnh vào các hạt keo". Trước đây, các nhà
nghiên cứu đã cố gắng biến các hạt hoặc phân
tử nhỏ thành rô bốt, nhưng chủ yếu tập trung
cải thiện khả năng di chuyển của vi rô bốt.
Nhóm nghiên cứu tại MIT muốn chế tạo vi rô
bốt có nhiều chức năng hơn.
Mạch điện mới cho phép rô bốt có kích
thước tế bào cảm nhận được môi trường xung
quanh, lưu trữ dữ liệu và thực hiện các nhiệm
vụ cơ bản. Đi ốt quang nhỏ cung cấp cho mỗi
mạch của rô bốt điện công suất siêu nhỏ đủ để
rô bốt cảm nhận môi trường xung quanh và
ghi lại các quan sát của nó.
Thay vì sử dụng vi mạch truyền thống
cần được gắn với chất nền cứng, các nhà
nghiên cứu đã chế tạo mạch từ vật liệu mỏng
và dẻo như graphene. Mạch chỉ cần ít điện
năng để hoạt động. Độ dẻo cho phép mạch
bám vào các hạt keo, chịu được lực nhiều cấp
độ khác nhau khi lơ lửng trong chất lỏng hoặc
khí.
Rô bốt mới có thể được sử dụng không
chỉ để nội soi đại tràng theo hướng ít xâm lấn,
mà còn để tìm kiếm các lỗ hổng cấu trúc bên
trong đường ống dẫn dầu và khí. Các nhà
khoa học hy vọng sẽ cải tiến để đưa ra những
phương thức mới áp dụng công nghệ rô bốt.
Vi rô bốt mới nhỏ chưa từng có với
khả năng cảm nhận môi trường xung quanh
đã được nhóm nghiên cứu mô tả trong một
bài báo trên tạp chí Nature Nanotechnology.
Theo vista.gov.vn, 06/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Thiết kế robot mềm, đa chức năng có kích thước nhỏ lấy cảm hứng từ loài nhện công
Các nhà nghiên cứu robot đang hình
dung ra một viễn cảnh trong tương lai, trong
đó robot có cấu tạo thân mềm, lấy cảm hứng
từ động vật sẽ thay thế các loại robot cứng
bằng kim loại để có thể sử dụng một cách an
toàn trong những môi trường khó tiếp cận,
chẳng hạn như bên trong cơ thể con người
hoặc trong không gian làm việc quá nguy hiểm
đối với con người. Đã có nhiều loại robot mềm
với kích thước đạt đến mức độ centimet đã
được tạo ra, nhưng cho đến nay, các nhà khoa
học vẫn chưa thể chế tạo loại robot linh hoạt
đa chức năng có khả năng di chuyển và vận
hành ở các kích thước nhỏ hơn.
Một nhóm các nhà nghiên cứu tại Viện
Kỹ thuật phỏng sinh học Wyss thuộc Trường
Đại học Harvard, Trường Kỹ thuật và Khoa
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 7/48
học ứng dụng Havard John A.Paulson
(SEAS) và trường Đại học Boston đã vượt
qua thách thức này bằng cách phát triển một
quy trình chế tạo tích hợp cho phép thiết kế
robot mềm với kích thước đạt mức độ
milimet với các tính năng có độ chính xác đến
từng micromet. Để chứng minh khả năng của
công nghệ mới, các nhà khoa học đã tạo ra
một thiết kế nhện robot thân mềm lấy cảm
hứng từ loài nhện công đầy màu sắc phân bố
ở Úc từ một loại vật liệu đàn hồi duy nhất với
các đặc điểm tạo hình, chuyển động và màu
sắc. Bài báo về nghiên cứu được đăng tải trên
tạp chí Vật liệu tiên tiến.
Sheila Russo, nghiên cứu sinh ngành
Khoa học & Kỹ thuật Ứng dụng thuộc Trường
Đại học Harvard, tác giả của nghiên cứu cho
biết: "Cấu tạo của hệ thống robot mềm nhỏ
nhất vẫn rất đơn giản với 1 bậc tự do, có
nghĩa là chúng chỉ có thể thực hiện một thay
đổi cụ thể về hình dạng hay hình thức chuyển
động". Russo là người khởi xướng dự án trong
nhóm của Robert Wood tại Viện Wyss và
SEAS, hiện là Trợ lý Giáo sư tại Đại học
Boston. "Bằng cách phát triển một công nghệ
lai mới dựa trên kết hợp ba kỹ thuật chế tạo
khác nhau, chúng tôi đã tạo ra một thiết kế
nhện robot thân mềm bằng cao su silicon với
18 bậc tự do, có khả năng thay đổi về cấu trúc,
chuyển động và màu sắc, với các tính năng đạt
độ chính xác trong phạm vi micromet".
Wood, giáo sư Kỹ thuật và Khoa học
Ứng dụng Sông Charles tại SEAS và là người
đồng sáng lập nền tảng Robot mềm phỏng sinh
học tại Viện Wyss cho biết: "Trong lĩnh vực
thiết bị robot mềm, phương pháp tiếp cận chế
tạo mới này đã mở đường cho khả năng
nghiên cứu và chế tạo robot ở mức độ phức
tạp và chức năng tương tự ở quy mô nhỏ này
như quy mô mà hệ thống robot cứng đã vận
hành. Trong tương lai, nó cũng có thể giúp
chúng ta mô phỏng và nhận thức rõ hơn về các
mối quan hệ giữa cấu trúc-chức năng ở các
loài động vật nhỏ bé so với các robot cứng”.
Trong thiết bị vi lỏng dành cho các thiết
bị khí nén/thủy lực (MORPH) có thể tái cấu
trúc, nhóm nghiên cứu đầu tiên sử dụng kỹ
thuật in thạch bản mềm để tạo ra 12 lớp silicon
đàn hồi tạo thành cơ sở vật chất của robot
nhện mềm. Mỗi lớp được cắt ra khỏi khuôn
bằng kỹ thuật vi laser có độ chính xác cao, sau
đó liên kết với lớp bên dưới để hình thành nên
cấu trúc 3-D thô của robot nhện mềm.
Chìa khóa để chuyển cấu trúc trung
gian này thành thiết kế hoàn thiện nằm ở
mạng lưới các kênh vi lỏng rỗng được tích
hợp vào các lớp riêng lẻ. Nhóm nghiên cứu
áp dụng kỹ thuật thứ ba được gọi là kỹ thuật
phun tạo ra hiện tượng tự bao phủ, tạo áp lực
lên bộ kênh vi lỏng tích hợp bằng một loại
nhựa dẻo có thể tự đông cứng từ phía ngoài,
tạo ra các lớp riêng biệt và các lớp lân cận để
có thể uốn cong cục bộ thành hình dạng cuối
cùng, được cố định trong không gian khi
nhựa cứng lại. Bằng cách này, chiếc bụng
phình căng và những cái chân cong xuống
của robot nhện mềm được cố định vĩnh viễn.
“Chúng tôi có thể kiểm soát chính xác
quy trình gấp giống như nghệ thuật gấp giấy
origami bằng cách thay đổi độ dày và tính
nhất quán tương đối của vật liệu silicone liền
kề với các kênh trên các lớp khác nhau hoặc
bằng cách cắt laser ở các khoảng cách khác
nhau từ các kênh. Trong quá trình điều áp,
các kênh sau đó hoạt động như các bộ truyền
động tạo ra sự thay đổi cấu trúc vĩnh cửu",
Tommaso Ranzani, tác giả đầu tiên và là
người bắt đầu nghiên cứu với tư cách là thành
viên trong nhóm Wood, hiện nay là trợ lý
giáo sư tại Đại học Boston cho biết.
Tập hợp các kênh vi lỏng tích hợp còn
lại được sử dụng làm thiết bị truyền động bổ
sung để tô màu mắt và mô phỏng các mẫu
màu ở phần bụng của loài nhện công với các
chất lỏng màu và để tạo ra những chuyển
động giống như đi bộ trong cấu trúc chân.
"Hệ thống MORPH đầu tiên này được chế tạo
trong một quy trình thiết kế nguyên khối duy
nhất được thực hiện trong vài ngày và có thể
dễ dàng lặp lại trong nỗ lực tối ưu hóa thiết
kế", Ranzani nói.
Bác sĩ y khoa, Tiến sĩ Donald Ingber
và là Giám đốc sáng lập của Viện Wyss cho
biết: "Phương pháp tiếp cận MORPH mở ra
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 8/48
lĩnh vực robot mềm cho các nhà nghiên cứu
tập trung vào các ứng dụng y tế vì kích thước
nhỏ cùng tính linh hoạt của các robot này có
thể cho phép thực hiện kỹ thuật nội soi và vi
phẫu hoàn toàn mới".
Theo vista.gov.vn, 14/08/2018 Trở về đầu trang
**************
Mở rộng giới hạn của pin Li-ion: Điện cực cho pin thể rắn
Các nhà khoa học đã giải quyết được
một trong những nhược điểm chính của pin thể
rắn bằng cách phát triển các pin có điện trở
suất thấp ở điện cực. Pin được chế tạo cho
thấy các tính chất điện hóa tuyệt vời vượt trội
so với các pin Li-ion truyền thống và phổ biến,
thể hiện tiềm năng của pin thể rắn trong việc
cách mạng hóa các thiết bị điện tử cầm tay.
Nhiều người tiêu dùng đã quen thuộc
với pin lithium ion có thể sạc lại, loại pin đã
phát triển trong vài thập kỷ qua, và hiện nay
đang rất phổ biến trong tất cả các loại thiết bị
điện tử. Mặc dù sử dụng rộng rãi, các nhà
khoa học và kỹ sư tin rằng công nghệ pin Li-
ion truyền thống đã gần hết tiềm năng và các
loại pin mới là cần thiết.
Pin thể rắn là một loại pin Li-ion mới,
và được chứng minh là thiết bị lưu trữ năng
lượng an toàn hơn và ổn định hơn với mật độ
năng lượng cao hơn. Tuy nhiên, việc sử dụng
pin như vậy bị giới hạn do một bất lợi lớn:
điện trở của chúng ở điện cực quá cao, cản trở
việc sạc và xả nhanh.
Các nhà khoa học từ Viện Công nghệ
Tokyo và Đại học Tohoku, dẫn đầu bởi Giáo
sư Taro Hitosugi, chế tạo pin thể rắn với điện
trở ở các cực thấp sử dụng Li (Ni0.5Mn1.5)
O4 (LNMO), bằng cách chế tạo và đo đạc pin
dưới điều kiện chân không, để đảm bảo rằng
các điện cực không có tạp chất.
Sau khi chế tạo, các tính chất điện hóa
của các pin này được đặc trưng để làm sáng
tỏ sự phân bố Li-ion xung quanh điện cực. Sự
nhiễu xạ tia X và quang phổ Raman được sử
dụng để phân tích cấu trúc tinh thể của màng
mỏng bao quanh pin. Sự di chuyển tự phát
của các ion Li đã được tìm thấy xảy ra từ lớp
Li3PO4 đến lớp LNMO, chuyển đổi một nửa
LNMO thành L2NMO tại điện cực Li3PO4 /
LNMO. Việc di chuyển ngược lại xảy ra
trong quá trình sạc ban đầu để tái tạo LNMO.
Điện trở của điện cực này, được xác
minh bằng quang phổ trở kháng điện hóa, là
7,6 Ω cm2, nhỏ hơn rất nhiều so với pin thể rắn
sử dụng LMNO trước đó và thậm chí nhỏ hơn
pin Li-ion điện phân lỏng sử dụng LNMO.
Loại pin mới này cũng cho thấy khả năng sạc
nhanh và xả, hay là sạc / xả một nửa dung
lượng pin chỉ trong vòng một giây. Hơn nữa
pin cho thấy không có sự xuống cấp trong hiệu
suất ngay cả sau 100 chu kỳ sạc / xả.
Li (Ni0.5Mn1.5) O4 là vật liệu hứa
hẹn để tăng mật độ năng lượng của pin, bởi vì
vật liệu cung cấp điện áp cao hơn. Nhóm
nghiên cứu hy vọng rằng những kết quả này
sẽ tạo thuận lợi cho việc phát triển các loại
pin thể rắn có hiệu năng cao, có thể cách
mạng hóa các thiết bị điện tử cầm tay hiện đại
và xe điện.
Theo vista.gov.vn, 17/08/2018 Trở về đầu trang
**************
Ảnh: Pin được làm bằng cách xếp chồng các lớp
khác nhau thông qua các phương pháp lắng đọng màng mỏng. Mặt tiếp xúc LNMO / Li3PO4 cho thấy sự di chuyển tự nhiên của các ion Li và có hệ số
kháng thấp chưa từng thấy.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 9/48
In 3D dùng cho thế hệ tiếp theo của pin
In 3D có thể được sử dụng để sản xuất
các điện cực cho pin lithium-ion - nhưng vì
bản chất của quá trình sản xuất, thiết kế của
các điện cực in 3D này bị giới hạn ở một vài
cấu trúc nhất định. Cho đến nay thông qua
việc in 3D, cấu trúc bền vững nhất bên trong
của các điện cực xốp là một hình xen kẽ - các
ngạnh kim loại đan xen nhau như các ngón
tay của hai bàn tay siết chặt.
Dung lượng pin lithium-ion có thể
được cải thiện đáng kể nếu điện cực của
chúng có thêm các lỗ nhỏ và các kênh. Một
cấu trúc hình học xen kẽ không phải là tối ưu,
mặc dù nó cho phép lithium vận chuyển qua
pin hiệu quả trong quá trình sạc và xả.
Rahul Panat, một giáo sư kỹ sư cơ khí
tại Đại học Carnegie Mellon, và một nhóm
các nhà nghiên cứu từ Carnegie Mellon phối
hợp với Đại học Khoa học và Công nghệ
Missouri đã phát triển một phương pháp mới
về các điện cực pin in 3-D, tạo ra một cấu
trúc 3-D mạng siêu nhỏ với độ xốp kiểm soát.
Cấu trúc 3-D mạng siêu nhỏ này có thể cải
thiện đáng kể công suất và tỷ lệ xả điện cho
pin lithium-ion. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra
trong một bài báo được công bố trên tạp chí
Additive Manufacturing.
Đối với pin lithium-ion, các điện cực
có kiến trúc xốp có khả năng sạc cao hơn.
Cấu trúc như vậy cho phép lithium thâm nhập
qua khối điện cực dẫn đến tối ưu hóa việc sử
dụng điện cực, và do đó có khả năng lưu trữ
năng lượng cao hơn. Trong pin bình thường,
30-50% tổng lượng điện cực chưa được sử
dụng. Bằng cách sử dụng in 3D, các nhà khoa
học có thể tạo ra một kiến trúc điện cực mạng
siêu nhỏ cho phép vận chuyển hiệu quả
lithium qua toàn bộ điện cực, điều này cũng
làm tăng tốc độ sạc pin.
“Phương pháp sản xuất thêm vào”
được trình bày trong bài này thể hiện tiến bộ
lớn trong việc in 3-D hình học phức tạp. Các
nhà nghiên cứu ước tính rằng công nghệ này
sẽ sẵn sàng cho các ứng dụng công nghiệp
trong khoảng 2-3 năm tới.
Cấu trúc mạng siêu nhỏ microlattice
(Ag) được sử dụng như điện cực của pin
lithium-ion có thể cải thiện hiệu suất hoạt động
của pin theo nhiều cách như tăng gấp 4 lần
công suất riêng và tăng gấp đôi dung lượng khi
so sánh với điện cực khối (Ag). Hơn nữa, các
điện cực giữ lại cấu trúc lưới 3D phức tạp của
chúng sau 40 chu kỳ điện hóa, điều này thể
hiện độ bền cơ học của chúng. Do đó, pin có
dung lượng lớn cho cùng một trọng lượng, với
cùng công suất, trọng lượng giảm đáng kể -
đây là một thuộc tính quan trọng để ứng dụng
vào ngành giao thông.
Các nhà nghiên cứu đã phát triển
phương pháp in 3-D của riêng mình để tạo ra
các kiến trúc vi mô xốp trong khi tận dụng
khả năng hiện tại của hệ thống in phun
Aerosol Jet 3-D. Hệ thống Aerosol Jet cũng
cho phép các nhà nghiên cứu in các cảm biến
phẳng và các thiết bị điện tử khác trên quy
mô nhỏ, được triển khai tại Đại học Kỹ thuật
Carnegie Mellon vào đầu năm nay.
Cho đến nay, các nỗ lực sản xuất pin
in 3-D được giới hạn trong in ấn dựa trên
phương pháp đùn và đắp, trong đó một sợi vật
liệu được ép đùn từ vòi phun, tạo ra các cấu
trúc liên tục. Cấu trúc mạng có thể sử dụng
phương pháp này. Với phương pháp in mới,
các nhà nghiên cứu có thể in 3-D điện cực pin
bằng cách nhanh chóng kết hợp từng giọt
mực in một thành một cấu trúc ba chiều. Kết
quả cho ra các cấu trúc hình học phức tạp
không thể chế tạo bằng cách sử dụng các
Ảnh: Kiến trúc mạng có thể cung cấp các kênh để
vận chuyển hiệu quả chất điện phân bên trong khối vật liệu, trong khi đối với điện cực khối lập
phương, hầu hết vật liệu sẽ không được tiếp xúc với chất điện phân. Hình ảnh mặt cắt ngang cho
thấy lưới bạc cho phép vận chuyển ion dương tới bộ thu dòng điện và phần lớn vật liệu in đã được
sử dụng như thế nào
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 10/48
phương pháp đùn điển hình. Bởi vì những
giọt tách biệt nhau, cho nên có thể tạo ra
những hình dạng phức tạp mới.
Phương pháp mang tính cách mạng này
sẽ rất quan trọng đối với các thiết bị điện tử
tiêu dùng, công nghiệp thiết bị y tế, cũng như
các ứng dụng hàng không vũ trụ. Nghiên cứu
này sẽ tích hợp tốt với các thiết bị điện tử y
sinh học, nơi cần có pin thu nhỏ. Các thiết bị
vi điện tử phi sinh học cũng sẽ được hưởng lợi
từ công việc này. Và trên quy mô lớn hơn, các
thiết bị điện tử, máy bay nhỏ và các ứng dụng
hàng không vũ trụ cũng có thể sử dụng công
nghệ này, do trọng lượng thấp và dung lượng
cao của pin được in bằng phương pháp này.
Theo vista.gov.vn, 17/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo thuyền từ công nghệ 3D vượt Đại Tây Dương của Italy Hành trình xuyên Đại Tây Dương từ lâu
đã không còn là khoảng cách mang tính thử
thách đối với các nhà hàng hải trên thế giới.
Tuy nhiên, vượt Đại Tây Dương bằng
một con thuyền được in theo công nghệ 3D
lại là ý tưởng tiên phong trên thế giới của dự
án khởi nghiệp mang tên Ocore của những
nhà sáng chế trẻ Francesco Belvisi, Daniele
Cevola và Mariga Perlongo đến từ Palermo,
thủ phủ vùng tự trị Sicily, miền Nam Italy.
Đây là chiếc thuyền đầu tiên trên thế
giới được sản xuất từ công nghệ in 3D và qua
đó, Ocore muốn chứng minh tiềm năng của
công nghệ tiến tiến này có thể thực hiện
những dự án lớn hơn trong tương lai.
Nhà sáng chế Francesco Belvisi cho
biết: "Một trong những thế mạnh lớn của
chúng tôi là có thể tạo ra các cấu trúc phức
tạp, nhẹ và rất bền, nhờ vào thuật toán tiên
tiến trong chế tạo vật liệu mới."
Phát huy các kết quả nghiên cứu đã có,
dự án Ocore sẽ có thể cho phép sản xuất "các
vật thể lớn được tối ưu hóa cấu trúc trong
hình học và ánh sáng, hoàn hảo cho việc vận
hành thuyền với hiệu suất cao.”
Bên cạnh đó, công nghệ này hoàn toàn
có thể mang lại các ứng dụng ở các lĩnh vực
khác.
Con thuyền buồm mang tên Mini 6.50
dự kiến sẽ được hoàn thành và hạ thủy vào
tháng 10 tới và tham gia vào cuộc đua thuyền
buồm nổi tiếng Mini Transat 2019, được tổ
chức 2 năm một lần lần từ La Rochelle đến
Martinique và chỉ dừng lại một lần tại quần
đảo Canary.
Những thành viên tham gia sẽ phải
một mình vượt qua 4.000 dặm trên biển với
người bạn đồng hành là chiếc thuyền buồm
dài 6,5m.
Dự án này của Ocore đã nhận được
nhiều sự tài trợ, hỗ trợ đến từ khắp nơi trên
thế giới. Vật liệu mới dùng để in con thuyền
đã được gửi đến từ tập đoàn nổi tiếng
Lehvoss của Đức. Công ty Autodest cung cấp
phần mềm thiết kế con thuyền.
Theo vietnamplus.vn, 30/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Vật liệu sinh học in 3D sử dụng trong kỹ thuật mô xương
Trên thực tế, các tổn thương hay
khuyết tật trong xương không thể tự chữa
lành. Tuy nhiên, giờ đây, kỹ thuật mô xương
(BTE) - lĩnh vực đang phát triển trong kỹ
thuật chỉnh hình có thể kết hợp khoa học vật
liệu, kỹ thuật mô và y học tái tạo có thể giải
quyết được vấn đề đó. Các nhà khoa học vật
liệu đã nỗ lực nghiên cứu và chế tạo ra loại
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 11/48
vật liệu sinh học lý tưởng có khả năng bắt
chước cấu trúc của xương tự nhiên, phân hủy
sinh học như các dạng xương mới với kỹ
thuật sản xuất mang lại hiệu quả về chi phí.
Mặc dù các ứng dụng trong BTE nhằm phục
hồi các khuyết tật trong xương lớn vẫn chưa
được thực hiện thành công kể cả trong phạm
vi phòng thí nghiệm đến thực hành lâm sàng,
lĩnh vực này vẫn đang đóng vai trò rất đáng
kể với những nỗ lực nghiên cứu tích cực và
dần trở thành công nghệ tiên phong.
Công nghệ in 3 chiều (3D) hay còn gọi
là công nghệ sản xuất đắp dần (additive
manufacturing) hiệu quả về chi phí kết hợp
các kỹ thuật rẻ tiền để tạo ra các giàn giáo
bằng mực sinh học. Các kỹ sư sinh học tại
trường Đại học bang Pennsylvania (Hoa Kỳ)
mới đây đã phát triển một loại mực hỗn hợp
làm từ loại ba vật liệu để in cấu trúc xốp 3D
giống xương. Các vật liệu cốt lõi:
polycaprolactone (PCL) và poly (D, L-lactic-
co-glycolide) axit (PLGA) là hai trong số các
vật liệu sinh học có tính tương hợp sinh học
thường được sử dụng phổ biến trong BTE.
Các vật liệu thể hiện tính tương tác sinh học
thuận lợi trong phòng thí nghiệm, mang lại
kết quả tích cực trong quá trình tái tạo xương
ở cơ thể sống trên mô hình động vật.
Do xương là một cấu trúc phức tạp nên
Moncal và các cộng sự đã phát triển một loại
mực sinh học được làm bằng các phân tử PCL,
PLGA và hydroxyapatite (HAps) có tính
tương hợp sinh học, kết hợp các tính chất sức
mạnh cơ học, phân hủy sinh học và dẫn tạo
xương (osteoconduction) giống xương để hỗ
trợ sửa chữa các khuyết tật, tổn xương trong
xương tự nhiên. Sau đó, nhóm thiết kế một hệ
thống ép đùn cơ khí mới và lắp đặt trên Máy
In sinh học nhiều nhánh (MABP) được phát
triển trước đó, để sản xuất các cấu trúc 3D.
Các nhà khoa học sử dụng phần mềm
Mach3 để thiết kế cấu trúc mô xương, sau đó,
in cấu trúc này. Trong nghiên cứu, các cấu
trúc phức hợp PCL/PLGA/HAp được so sánh
với các cấu trúc PCL đơn để nắm được được
vai trò quan trọng của việc thay đổi tính chất
hóa học của vật liệu đối với quá trình mô
phỏng cấu trúc giống xương.
Hệ thống cơ khí chạy bên trong được
thiết kế để đẩy các phân tử PCL và mực làm
bằng vật liệu composite, sử dụng một vòi
phun kim loại và một thiết bị máy đùn cơ khí
gắn trên MABP. Bộ điều khiển nhiệt độ/quy
trình tiên tiến được sử dụng để duy trì nhiệt
độ ở đầu đầu vòi phun kim loại, cùng với cảm
biến phản hồi cặp nhiệt điện loại K được đặt
ở đầu dưới của ống xylanh để điều chỉnh
nhiệt độ trong quá trình lắng đọng polyme.
Kiến trúc vi mô của các cấu trúc xốp in
3-D có thể quan sát được một phần bằng kính
hiển vi điện tử quét và sau đó được kiểm tra
về các tính chất hóa học, cơ học và cấu trúc
của chúng trong phòng thí nghiệm. Khả năng
hỗ trợ sự phát triển các tế bào sinh học của
vật liệu đã được thử nghiệm thông qua các
tương tác tế bào - vật chất bằng cách sử dụng
tế bào gốc tủy xương, hiển thị hóa bằng kính
hiển vi huỳnh quang.
Khả năng biệt hóa thành osteoblasts (tế
bào tạo xương) trong quá trình tạo xương
(phát triển xương) được quan sát bằng kỹ
thuật Real-time PCR bằng cách xác định các
gen quan trọng được biểu hiện bởi các tế bào
trong quá trình tạo xương. Các gen quan
trọng bao gồm yếu tố phiên mã liên quan đến
runt 2 (RUNX2), osteocalcin (OCN còn được
gọi là BGLAP) và phosphatase kiềm (ALP),
kết hợp với khả năng biệt hóa thành nguyên
bào xương osteoblast.
Vật liệu composite 3D
(PCL/PLGA/HAp) cho thấy sự phát triển tế
bào được cải thiện và biểu hiện gen đa dạng
trong quá trình tái tạo xương so với kỹ thuật
in PCL 3D. Khả năng tạo xương được cải
thiện tương đối của vật liệu tổng hợp 3D cũng
đã được công nhận sau thử nghiệm cấy vào
cơ thể sống, mô hình động vật. Các nhà
nghiên cứu quan sát thấy tỷ lệ tăng mô xương
mới được hình thành mới sau 8 tuần với kỹ
thuật mô học.
Quan sát ghi nhận thành phần của vật
liệu, vì độ ẩm bề mặt lớn hơn (chất kỵ ẩm) và
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 12/48
các yếu tố thúc đẩy ăn mòn giúp tăng trưởng
tế bào tốt hơn trên vật liệu composite so với
PCL kỵ nước.
Các nghiên cứu in vitro và in vivo mở
rộng đã chứng minh rằng loại mực hỗn hợp
được phát triển trong phòng thí nghiệm cho
kỹ thuật in 3 chiều là loại vật liệu tiềm năng,
đầy hứa hẹn cho các ứng dụng BTE. Các vật
liệu BTE sinh học, tế bào và gen được mô tả
là vật liệu thế hệ thứ ba có khả năng sửa chữa
tổn thương, khuyết tật trong xương và vẫn là
một lĩnh vực nghiên cứu tích cực. Các nhà
khoa học vật liệu cũng tập trung vào kỹ thuật
và cải tiến các vật liệu BTE thế hệ tiếp theo
có khả năng tích hợp chiều thứ tư của thời
gian vào các cấu trúc 3D và trong các polyme
thông minh để tạo ra các polyme bốn chiều
(4D) cho các ứng dụng BTE trong kỹ thuật
chỉnh hình.
Theo vista.gov.vn, 20/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Con mắt điện tử đầu tiên được chế tạo nhờ công nghệ in 3D
Một nhóm nghiên cứu tại Đại học
Minesota (Mỹ) đã lần đầu tiên in 3D thành
công tia thụ cảm ánh sáng trên bề mặt bán cầu.
Phát hiện trên đã đánh dấu một bước
tiến quan trọng tới việc chế tạo “con mắt điện
tử” hỗ trợ người khiếm thị hoặc người có thị
lực kém. Bài nghiên cứu được đăng tải trên
tạp chí Advanced Materials. Tác giả nghiên
cứu cũng sở hữu bằng sáng chế cho các thiết
bị bán dẫn in 3D.
Các nhà nghiên cứu thuộc ĐH Minesota đã in 3D tia cảm thụ hình ảnh trên một khung bán cầu, tạo ra nguyên mẫu “con mắt điện tử” đầu tiên. Ảnh: Nhóm nghiên cứu McAlpine, Đại học Minnesota .
Đồng tác giả Michael McAlpine, giáo
sư Kỹ thuật Cơ học, ĐH Minesota cho biết,
bằng máy in 3D đa chất liệu, con người đang
đưa những con mắt điện tử trong các câu
chuyện khoa học viễn tưởng đến gần hơn với
hiện thực.
Đầu tiên, các nhà nghiên cứu bắt đầu
in trên một chụp kính vòm dạng bán cầu để
kiểm chứng sức bền khi in các vật liệu điện tử
trên bề mặt cong. Họ bắt đầu in bằng mực nền
là các phần tử bạc trên máy in 3D tự chế. Kết
quả là mực in không bị chảy xuống bề mặt
cong mà giữa nguyên vị trí và khô đều nhau.
Sau đó, các vật liệu polyme bán dẫn được in
lên các đi-ốt quang nhằm chuyển hóa ánh
sáng thành điện năng. Toàn bộ quá trình diễn
ra trong vòng 1 giờ đồng hồ.
Theo McAlpine, điều đáng ngạc nhiên
nhất trong suốt quy trình là việc bộ phận bán
dẫn hoàn chỉnh có thể chuyển hóa ánh sáng
thành điện với hiệu suất lên tới 25%. Dù còn
cần nhiều thời gian để có thể in thành công
các vật liệu điện tử theo dây chuyền, nhưng
các chất bán dẫn in 3D của McAlpine đã cho
thấy tiềm năng cạnh tranh với các sản phẩm
từ các cơ sở công nghệ vi chế tạo
(microfabrication), và còn vượt qua họ ở khả
năng in trên bề mặt cong.
Mc Alpine và nhóm nghiên cứu của
mình còn được biết tới với các sản phẩm in
như “tai điện tử”, các cơ quan nội tạng nhân
tạo sống phục vụ phẫu thuật, da điện tử làm
từ vải, cũng như các tế bào và khung xương
giúp những bệnh nhân chấn thương cột sống
phục hồi chức năng.
Bước tiếp theo, nhóm sẽ thực hiện một
bản mẫu mắt điện tử với nhiều thụ quan ánh
sáng nhằm đạt hiệu suất cao hơn đồng thời
tìm cách in vật liệu mềm dạng bán cầu có thể
được cấy ghép vào mắt thật.
Theo khoahocphattrien.vn,31/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 13/48
Vòng đeo tay thông minh có khả năng theo dõi sức khỏe và đo lường ô nhiễm môi trường
Các kỹ sư của trường Đại học Rutgers-
New Brunswick (New Jersey, Mỹ) đã tạo ra
một loại vòng tay theo dõi sức khỏe kết nối
không dây với smartphone, nhiều khả năng trở
thành một trào lưu mới trong lĩnh vực thiết bị
theo dõi môi trường và sức khỏe cá nhân.
Công nghệ này có thể tích hợp vào
đồng hồ và các thiết bị đeo khác để theo dõi
nhịp tim và các hoạt động thể chất, được giới
thiệu chi tiết trong tạp chí điện tử
Microsystems & Nanoengineering.
"Thiết bị có chức năng giống như sản
phẩm vòng tay sức khỏe Fitbit nhưng có thêm
cảm biến sinh học để đếm số lượng các tế bào
máu, vi khuẩn, các hạt hữu cơ hoặc vô cơ
trong không khí." PGS. Mehdi Javanmard, bộ
môn Điện và Kỹ thuật Máy tính thuộc Khoa
Kỹ thuật, Đại học Rutgers, người hướng dẫn
nghiên cứu, cho biết.
Theo Abbas Furniturewalla, trưởng
nhóm sinh viên nghiên cứu tại bộ môn Điện và
Kỹ thuật Máy tính: “Các thiết bị đeo trên thị
trường hiện nay chỉ đo được một số thông số
vật lý như nhịp tim và hoạt động tập luyện. Vì
thế, loại vòng đeo tay có khả năng theo dõi số
lượng các tế bào máu khác nhau sẽ cho phép
theo dõi sức khỏe cá nhân ở tầm cao mới."
Dây đeo bao gồm một bảng mạch xử
lý tín hiệu, bộ vi điều khiển để số hóa dữ liệu,
bộ truyền dữ liệu không dây Bluetooth và bộ
cảm biến sinh học tích hợp đường ống có
đường kính nhỏ hơn sợi tóc người, với các
điện cực bằng vàng được nhúng vào bên
trong. Các mẫu máu được lấy nhờ các gai
siêu nhỏ (pinpricks), sau đó truyền qua cảm
biến sinh học để đếm các tế bào máu. Dữ liệu
sẽ được gửi đến ứng dụng trên smartphone để
xử lý và hiện thị kết quả.
Nhờ công nghệ này, chuyên gia y tế có
thể nhận được kết quả xét nghiệm máu nhanh
chóng từ bệnh nhân mà không cần các thiết bị
xét nghiệm đắt tiền. Số lượng tế bào máu có
thể dùng để chẩn đoán các bệnh như số lượng
hồng cầu thấp, xuất huyết nội hoặc các bệnh
khác.
Javanmard nói: “Có rất nhiều bệnh mà
số lượng tế bào máu có vai trò quan trọng. Số
lượng bạch cầu cao hoặc thấp bất thường là
dấu hiệu của một số căn bệnh ung thư, ví dụ
như ung thư máu (leukemia)."
Các thế hệ thiết bị đeo tay sau này có
thể sử dụng trong một loạt các ứng dụng y
sinh và môi trường. Bệnh nhân sẽ có thể tự
theo dõi liên tục sức khỏe của mình và gửi kết
quả đến cho bác sĩ từ xa.
Theo cesti.gov.vn, 10/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Pin giấy hoạt động nhờ vi khuẩn
Tại các vùng sâu vùng xa trên thế giới
hoặc ở những vùng có nguồn tài nguyên hạn
chế, các vật dụng hàng ngày như ổ cắm điện
và pin là những thứ xa xỉ. Nhân viên y tế ở
những nơi này thường thiếu điện để cung cấp
cho các thiết bị chẩn đoán và pin thương mại
có thể không có hoặc có giá thành quá cao.
Do vậy cần có nguồn năng lượng mới giá rẻ
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 14/48
và di động. Hiện nay, nhóm nghiên cứu tại
trường Đại học New York đã chế tạo được
loại pin giấy mới hoạt động nhờ vi khuẩn, có
thể giải quyết những thách thức này.
Nghiên cứu sinh Seokheun (Sean)
Choi, đồng tác giả nghiên cứu cho biết: “Giấy
có những ưu điểm độc đáo như làm vật liệu
cho cảm biến sinh học. Giấy có giá thành rẻ,
dùng một lần, linh hoạt và có diện tích bề mặt
lớn. Tuy nhiên, các cảm biến tinh vi cần sử
dụng nguồn điện. Sử dụng pin thương mại
quá lãng phí và tốn kém, nên chúng không
được tích hợp vào giấy. Giải pháp tốt nhất là
sử dụng pin sinh học gắn trên giấy".
Trước đây, các nhà nghiên cứu đã từng
chế tạo cảm biến sinh học trên giấy dùng một
lần để chẩn đoán bệnh và các vấn đề sức khỏe
với chi phí thấp và thuận tiện, cũng như phát
hiện các chất ô nhiễm trong môi trường. Nhiều
thiết bị cùng loại dựa vào những thay đổi màu
sắc để thông báo kết quả, nhưng chúng thường
không nhạy. Để tăng độ nhạy, các cảm biến
sinh học cần một nguồn điện. Vì thế, nhóm
nghiên cứu đã chế tạo loại pin giấy rẻ tiền hoạt
động nhờ vi khuẩn, có thể dễ dàng tích hợp
vào loại thiết bị sử dụng một lần.
Các nhà khoa học đã tạo ra loại pin
giấy bằng cách in các lớp kim loại mỏng và
các vật liệu khác lên bề mặt giấy. Sau đó, họ
đặt "exoelectrogen" sấy đông lạnh trên giấy.
Exoelectrogen là một loại vi khuẩn đặc biệt
có thể truyền các điện tử bên ngoài tế bào của
chúng. Các điện tử được sinh ra khi vi khuẩn
sản sinh năng lượng cho bản thân chúng, đi
qua màng tế bào. Sau đó, các điện tử có thể
tiếp xúc với các điện cực bên ngoài và cấp
điện cho pin. Để kích hoạt pin, các nhà
nghiên cứu đã bổ sung nước hoặc nước bọt.
Trong vòng vài phút, chất lỏng đã làm cho vi
khuẩn sống lại sản sinh đủ điện tử để cung
cấp năng lượng cho một điốt phát sáng và
một máy tính.
Các nhà khoa học cũng nghiên cứu
cách oxy ảnh hưởng đến hiệu suất của thiết
bị. Oxy, dễ dàng di chuyển qua giấy, có thể
hấp thụ các điện tử do vi khuẩn tạo ra trước
khi chúng đi đến điện cực. Nhóm nghiên cứu
đã phát hiện ra rằng dù oxy giảm nhẹ hiệu
suất phát điện, nhưng phạm vi ảnh hưởng
không đáng kể. Lý do là vì các tế bào vi
khuẩn bám chặt vào các sợi giấy, nhanh
chóng đưa các điện tử ra xa cực dương trước
khi oxy có thể can thiệp.
Pin giấy có thể được sử dụng một lần
và sau đó vứt bỏ, hiện có thời hạn sử dụng
khoảng bốn tháng. Nhóm đang nghiên cứu
các điều kiện để kéo dài thời gian sử dụng và
tăng hiệu quả của các vi khuẩn được sấy đông
khô, cho phép kéo dài tuổi thọ pin. Nghiên
cứu sinh Choi cho rằng hiệu suất năng lượng
cũng cần phải được cải thiện khoảng 1.000
lần cho hầu hết các ứng dụng thực tế. Mục
tiêu này có thể đạt được bằng cách xếp chồng
và kết nối nhiều pin giấy. Loại pin mới đã
được xin cấp sáng chế. Nhóm nghiên cứu
đang tìm kiếm các đối tác công nghiệp để
thương mại hóa sản phẩm.
Theo vista.gov.vn, 28/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Chất điện ly an toàn chống cháy nổ trong pin Lithium-ion
Các vụ tai nạn giao thông và hỏa hoạn
hàng không xảy ra gần đây đã cho thấy mối
đe dọa từ pin Lithium-ion – loại pin được sử
dụng phổ biến trong các thiết bị điện tử và xe
điện. Nếu loại pin này bị va đập, nghiền nát
hoặc vặn xoắn thì màng nhựa xốp làm từ chất
điện ly ngăn cách 2 điện cực bên trong sẽ
nhanh chóng bị phá hủy, khiến 2 điện cực
chạm nhau và gây ra hỏa hoạn.
Nhà hóa học Gabriel Veith và các cộng
sự của mình tại Phòng thí nghiệm quốc gia
Oak Ridge (Tennessee, Hoa Kỳ) đã tìm ra
một hỗn hợp gọi là oobleck để giải quyết vấn
đề cháy nổ của pin Lithium-Ion. Hỗn hợp
được tạo ra bằng cách trộn silica vào chất
điện ly để biến chất điện ly vốn rất dễ cháy
trở thành dạng rắn khi có tác động của ngoại
lực. Hỗn hợp này ở dạng chất lỏng đậm đặc.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 15/48
Khi pin bị va đập, nghiền nát hoặc vặn
xoắn, chất diện ly sẽ trở nên rắn hơn, không
bị phá hủy nên giúp tránh bị chạm các điện
cực gây hỏa hoạn.
Đầu năm nay, nhóm nghiên cứu của
Veith đã mô tả cách tạo ra loại silica cho
oobleck trên tạp chí Applied Materials &
Interfaces bằng cách sử dụng quá trình
Stöber, một công nghệ cũ có từ thập kỷ trước,
để tạo ra các hạt nano silica hoàn hảo (loại
thường dùng trong y học để vận chuyển thuốc
đến tế bào con người). Loại hạt nano silica
này có thể làm cho chất điện ly ngăn cách 2
điện cực trong pin trở nên cứng hơn, nhưng
vẫn dễ sản xuất. “Không cần phải chỉnh sửa
lại công nghệ sản xuất pin vì nó tương thích
với dây chuyền hiện tại.” Veith nói.
Tuy nhiên, oobleck không thể tiêm vào
pin Lithium-Ion như một chất điện ly bình
thường vì có thể tác động vào hỗn hợp và
biến nó trở thành chất rắn ngay. Để giải quyết
vấn đề, nhóm nghiên cứu của Veith đã đặt các
hạt silica vào trong một màng tách nhựa, sau
đó mới tiêm chất điện ly lỏng vào. Như vậy,
không những giúp oobleck chỉ biến rắn khi
có tác động của ngoại lực, mà còn khiến nó
dễ sản xuất và hiệu quả hơn các chất đã được
thử nghiệm trước đó.
Oak Ridge oobleck đã được cấp bằng
sáng chế, dưới tên gọi là chất điện ly an toàn
chống va đập (Safe Impact Resistant
Electrolyte) - hợp chất có khả năng quay trở
lại thành chất lỏng sau va chạm vài giây và
cho phép phản ứng điện hóa giữa 2 điện cực
trong pin tiếp tục diễn ra. Veith lưu ý rằng,
hỗn hợp cũng có thể được ứng dụng hiệu quả
trong áo khoác quân đội hoặc áo giáp chống
đạn, đồng thời nhóm nghiên cứu của ông
cũng hy vọng công nghệ này sẽ được tích hợp
vào pin Lithium-Ion trong vòng một vài năm
tới.
Theo cesti.gov.vn,29/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo loại pin tốt hơn bằng chất nhuộm công nghiệp
Nhắc tới methylen xanh thì người ta
thường nghĩ ngay tới tình trạng ô nhiễm nước
hoặc những tổn hại mà một số loại sinh vật
sống phải gánh chịu. Làm sao để khắc phục
những mối nguy hại do chất nhuộm công
nghiệp này gây ra đối với môi trường, đồng
thời sử dụng nó theo cách hữu ích hơn?
Mới đây, các nhà nghiên cứu tại Đại
học Buffalo (Hoa Kỳ) đã tìm ra phương pháp
chế tạo pin (phục vụ việc lưu trữ và cung cấp
năng lượng) từ methylen xanh. Kết quả này
đã được công bố trên Tạp chí
ChemElectroChem vào hôm 13/08.
Methylen xanh, chất nhuộm công nghiệp cực kỳ độc hại. Ảnh: Futurism
Trong công nghiệp, methylen xanh
thường được dùng để nhuộm vải tại các nhà
máy dệt; nhiều khi lượng thuốc còn sót lại có
thể bị phát tán ra môi trường bên ngoài và
hoàn toàn không dễ để làm sạch. “Phương
pháp tách methylen xanh khỏi nước đòi hỏi
phải thực hiện qua nhiều bước, rất đắt đỏ,
nhưng đôi khi vẫn để lại nhiều loại chất thải
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 16/48
khác” - trưởng nhóm nghiên cứu Timothy
Cook phát biểu trong một thông cáo báo chí.
Tác giả Anjula Kosswattaarachchi –
đứng tên đầu bài báo – tiếp tục bổ sung:
“Thay vì chỉ nghĩ đến làm sạch nước, tại sao
chúng ta không thử tìm ra cách khác để sử
dụng methylen xanh?” Bị thôi thúc bởi ý
tưởng như vậy, nhóm của Cook và
Kosswattaarachchi đã nghiên cứu và chế tạo
thành công hai mẫu pin sử dụng dung dịch
methylene xanh và nước muối để nạp, lưu trữ
và giải phóng các electron – ba tính năng mà
một pin điện cần có. Kết quả chạy thử cho
thấy, loại pin thứ nhất đã hoạt động với hiệu
suất đạt xấp xỉ 100% và giải phóng lượng
năng lượng gần như chính xác với các tính
toán kỳ vọng. Mặc dù mức hiệu suất này sẽ bị
giảm đi rõ rệt sau khoảng 50 chu trình xạc –
xả, nguyên nhân là tại lớp màng được sử
dụng để làm pin, tuy nhiên vấn đề này hoàn
toàn có thể được giải quyết nhờ thay thế một
lớp mới.
Vì vậy, các nhà khoa học tin tưởng
rằng nguồn nước thải methylen xanh từ các
nhà máy dệt có thể đóng vai trò như một
nguồn vật liệu khả thi cho loại pin lỏng – vốn
rất lý tưởng trong việc lưu trữ năng lượng tại
những trang trại gió hay các tấm pin mặt trời.
Chưa kể, loại pin này còn có một ưu điểm
khác so với pin truyền thống nhờ khả năng
nạp đầy điện gần như ngay lập tức.
Trong thời gian tới, nhóm nghiên cứu
dự kiến sẽ tiếp tục tiến hành các thử nghiệm
để xác định tính khả thi của loại pin mới như
một lựa chọn thay thế. Nếu điều này trở thành
hiện thực, chúng ta hoàn toàn có thể chặn
nước thải methylen xanh tại các nhà máy rồi
tận dụng để chế tạo thành loại pin oxy hóa
khử. Điều đó không chỉ giúp ngăn ngừa các
tác hại của loại chất nhuộm công nghiệp đối
với môi trường, mà đồng thời còn thúc đẩy
tiến trình chuyển sang sử dụng năng lượng tái
tạo – quả là “nhất cử lưỡng tiện” (win/win
solution).
Theo khoahocphattrien.vn, 31/08/2018
Trở về đầu trang
**************
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Lần đầu tiên, các nhà nghiên cứu biến đổi chất khử trùng mạnh và nhớt thành sương mù
Một nhóm các kỹ sư và bác sĩ ở San
Diego, Hoa Kỳ đã chế tạo được một thiết bị
có khả năng khuếch tán các chất khử trùng
mạnh vào trong không khí. Đáng chú ý, thiết
bị có thể hoạt động với nhiều loại chất khử
trùng trước đây chưa từng được phun sương
như Triethylene glycol hoặc TEG.
Trong nghiên cứu được công bố trên
tạp chí Applied Microbiology and
Biotechnology, nhóm nghiên cứu đã sử dụng
thiết bị để phun sương các chất khử trùng trên
bề mặt môi trường bị nhiễm khuẩn. Kết quả
đã bỏ hiệu quả 100% vi khuẩn thường gây
nhiễm trùng bệnh viện. Ngoài ra, dung dịch
khử trùng phun sương, ethanol và TEG đã
loại bỏ hoàn toàn các chủng vi khuẩn kháng
thuốc rất cao bao gồm K. pneumoniae.
Tiến sĩ Monika Kumaraswamy, nhà
khoa học tại trường Đại học California San
Diego và là đồng tác giả nghiên cứu cho biết:
“Làm sạch và khử trùng bề mặt trong môi
trường của các cơ sở y tế là một biện pháp
phòng ngừa và kiểm soát nhiễm khuẩn
nghiêm trọng. Thiết bị này sẽ giúp việc giữ
sạch phòng bệnh trở nên dễ dàng hơn nhiều".
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 17/48
Các nhà nghiên cứu cho biết: một
trong số 25 bệnh nhân nằm viện vào năm
2011 phải kéo dài thời gian lưu trú vì các
bệnh nhiễm trùng liên quan đến vấn đề chăm
sóc sức khỏe tại bệnh viện.
Công nghệ mới còn có nhiều ứng dụng
trên phạm vi rộng hơn. Nó có thể được áp
dụng để phân phối một loại thuốc hoàn toàn
mới cho bệnh nhân qua ống hít. James Friend,
giáo sư kỹ thuật cơ khí tại Trường Kỹ thuật
UC San Diego Jacobs và là một trong những
tác giả nghiên cứu cho biết: “Mục tiêu của
chúng tôi là đưa ra các phương pháp điều trị
bằng đường tiêm”.
Các nhà nghiên cứu đã chế tạo thiết bị
bằng cách sử dụng các linh kiện điện thoại
thông minh có sẵn để tạo ra sóng âm. Trong
điện thoại, các linh kiện này được sử dụng chủ
yếu để lọc tín hiệu di động không dây và nhận
dạng cũng như lọc thông tin thoại và dữ liệu.
Trong nghiên cứu này, các nhà khoa
học đã sử dụng các linh kiện điện thoại thông
minh để tạo ra sóng âm ở tần số cực cao - từ
100 triệu đến 10 tỷ hertz - để tạo nên các sóng
mao mạch lỏng, phun giọt và tạo ra sương
mù. Quá trình này được gọi là phun sương.
Hiện nay, chất lỏng có thể được phun
sương bằng các phương tiện cơ học như trong
bình xịt nước hoa hoặc bằng cách sử dụng
siêu âm. Nhưng các phương pháp này không
hiệu quả với chất lỏng nhớt, đòi hỏi quá nhiều
năng lượng hoặc phá vỡ một số thành phần
hoạt tính của chất lỏng và cần sự hỗ trợ của
thiết bị đắt tiền.
Công nghệ mới khắc phục những hạn
chế nêu trên, vì các linh kiện điện thoại thông
minh sử dụng Lithium Niobate hoặc LN, vật
liệu tạo ra nhiều rung động siêu âm hiệu quả
năng lượng và ổn định hơn. Kết quả là thiết bị
có thể phun sương thậm chí với các chất lỏng
nhớt siêu để tạo thành một màn sương mịn có
thể bay trong không khí hơn một giờ.
Dù thiết bị này hoạt động tốt trên vi
khuẩn gây viêm phổi và nhiều chủng kháng
thuốc khác nhau, nhưng TEG phun sương
không loại bỏ được MRSA, gây ngạc nhiên
cho cho các nhà nghiên cứu.
Các nhà khoa học hiện đang nghiên
cứu để xây dựng mẫu thiết bị cải tiến để sử
dụng trong môi trường bệnh viện, dự kiến sẽ
mất một hoặc hai năm. Thiết bị này cũng có
thể được sử dụng tại sân bay, trong máy bay
và phương tiện giao thông công cộng trong
mùa cúm.
Theo vista.gov.vn, 14/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Thiết bị thu hoạch nước cầm tay có thể lấy tới 10 gallon nước từ không khí mỗi giờ
Trong hàng ngàn năm qua, người dân ở
vùng Trung Đông và Nam Mỹ đã phải lấy
nước từ không khí để phục vụ nhu cầu sinh
hoạt của người dân. Để giải quyết vấn đề này,
các nhà nghiên cứu hiện tại trường Đại học
Akron, Hoa Kỳ đang phát triển một thiết bị thu
hoạch nguồn nước ngọt chạy bằng pin, có
trọng lượng nhẹ và đặc biệt là có khả năng thu
hoạch đến 10 gallon nước từ không khí mỗi
giờ, ngay cả ở những khu vực khô hạn, đất đai
cằn cỗi. Họ cho biết công nghệ mới dựa trên
sợi nano có thể giúp giải quyết tình trạng thiếu
nước trong cuộc sống hiện đại do ảnh hưởng
của hiện tượng biến đổi khí hậu, ô nhiễm công
nghiệp, hạn hán và suy thoái chất lượng nước
ngầm. Nhóm nghiên cứu trình bày kết quả tại
Hội nghị Quốc gia lần thứ 256 và Triển lãm
của Hiệp hội Hóa học Mỹ (ACS).
Shing-Chung (Josh) Wong cho biết:
"Tôi đã đến thăm đất nước Trung Quốc - một
trong những nơi đang gặp tình trạng khan
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 18/48
hiếm nước ngọt trầm trọng nhất trên thế giới.
Mặc dù đã có nhiều dự án đầu tư vào hệ
thống xử lý nước thải, nhưng tôi nghĩ rằng nỗ
lực đó chưa đủ". Wong cho rằng thay vì chỉ
phụ thuộc vào nguồn nước thải đã qua xử lý
và kiểm soát, thì việc cần thiết là phát triển
một phương pháp thu hoạch nước mới để tận
dụng được các hạt phân tử nước dồi dào sẵn
có trong khí quyển.
Thu hoạch nước từ không khí có một
lịch sử lâu dài. Từ hàng ngàn năm trước,
người Inca của vùng Andean đã thu hoạch các
hạt sương buổi sớm và đựng trong các bể
chứa. Gần đây hơn, một số nhóm nghiên cứu
đã phát triển thiết bị hứng các hạt sương mù ở
vùng núi Andean và châu Phi.
Để hạn chế phát sinh và nâng cao hiệu
quả của nguồn nước, Wong và các sinh viên
của mình đã tiến hành thử nghiệm với sợi
polyme được sản xuất bằng kỹ thuật quay
điện hóa. Vật liệu này được sử dụng phổ biến
trong hơn một thập kỷ. Kỹ thuật quay điện
hóa (electrospinning) sử dụng điện áp cao để
tạo ra các sợi polyme có độ dày chỉ từ hàng
chục nanomet đến 1 micromet - kích thước lý
tưởng để có thể làm ngưng tụ và chiết xuất
các giọt nước từ không khí. Những sợi
polyme có cấu trúc nano cung cấp tỉ lệ diện
tích bề mặt so với thể tích lớn hơn nhiều so
với các cấu trúc và màng thông thường được
sử dụng trong các thiết bị chưng cất nước.
Sau khi thử nghiệm các biện pháp kết
hợp các polyme ưa nước và kị nước khác
nhau, nhóm nghiên cứu kết luận rằng hoàn
toàn có thể chế tạo một hệ thống thu hoạch
nước bằng công nghệ nano. Bên cạnh đó,
nhóm của Wong xác định rằng màng polyme
có thể thu hoạch 744 mg/cm2/h, cao hơn 91%
so với các màng không có các sợi nano có
thiết kế tương tự.
Không giống như các công nghệ khác
hiện đang được áp dụng, thiết bị thu hoạch
nước của Wong có thể hoạt động trong môi
trường sa mạc khô cằn nhờ diện tích bề mặt
so với thể tích của màng cao. Ngoài ra, nhu
cầu năng lượng tối thiểu cũng được đáp ứng.
"Chúng tôi có thể tự tin khẳng định, rằng với
những tiến bộ đạt được thời gian gần đây
trong phát triển công nghệ pin lithium-ion,
chúng tôi cuối cùng có thể chế tạo được một
thiết bị thu hoạch nước có kích thước nhỏ
hơn, chỉ tương dương với một chiếc ba lô",
ông nói.
Hơn nữa, thiết kế dựa trên sợi nano của
nhóm nghiên cứu có khả năng đồng thời lấy và
lọc nước cùng lúc. Mạng lưới sợi polyme quay
điện hóa có thể hoạt động như một bề mặt
chống bẩn, làm bong tróc các vi khuẩn bám,
cư trú trên bề mặt của thiết bị. Vì vậy, chất
lượng của nguồn nước thu được chắc chắn sẽ
rất "sạch, không bị ô nhiễm" và có thể ngay
lập tức sử dụng sau khi thu hoạch.
Tiếp theo, Wong hy vọng sẽ có thêm
kinh phí để xây dựng một nguyên mẫu của
máy thu hoạch nguồn nước ngọt. Ông dự
đoán chi phí để sản xuất nguyên mẫu thiết bị
của ông không hề tốn kém.
Theo vista.gov.vn, 28/08/2018
Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Lớp phủ dầu ăn ngăn ngừa vi khuẩn phát triển trên thiết bị chế biến thực phẩm
Thao tác làm sạch, vệ sinh các thiết bị
máy móc để sản xuất các loại thực phẩm trên
quy mô công nghiệp bao gồm nhiều loại
nguyên liệu trộn lẫn không hề đơn giản. Việc
sử dụng lặp đi lặp lại sẽ khiến trên bề mặt
thiết bị xuất hiện những vết xước và rãnh nhỏ,
đây cũng chính là nơi ẩn náu lý tưởng, tạo
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 19/48
điều kiện cho các loài vi khuẩn và màng sinh
học - một nhóm các vi sinh vật với các tế bào
dính vào nhau sinh sống và phát triển. Mặc dù
nhìn bằng mắt thường, có thể những vết xước
trên bề mặt thiết bị có vẻ rất nhỏ nhưng đối
với những loài vi khuẩn có kích thước chỉ vài
micromet thì chúng giống như một hẻm núi
vậy. Chất tồn dư và vi khuẩn thực phẩm bị
mắc kẹt trên bề mặt là nguyên nhân làm tăng
nguy cơ nhiễm khuẩn từ các vi sinh vật như
Salmonella, Listeria và E. coli.
Các nhà khoa học gồm giáo sư Ben
Hatton thuộc Khoa Khoa học và Kỹ thuật Vật
liệu, trường Đại học Toronto, Tiến sĩ Dalal
Asker và Tiến sĩ Tarek Awad đang nghiên
cứu những phương pháp chi phí rẻ hơn, an
toàn hơn và hiệu quả hơn để ngăn vi khuẩn
phát triển mạnh bên trong những thiết bị máy
móc này, từ đó, giảm thiểu nguy cơ nhiễm
chéo có thể dẫn đến các bệnh do thực phẩm
gây ra. Nhóm nghiên cứu đã đề xuất một giải
pháp mới và đơn giản, đó là: tráng một lớp
dầu ăn mỏng ở bề mặt kim loại để lấp đầy các
vết xước, vết nứt và rãnh nhỏ xíu, từ đó, ngăn
chặn sự gắn kết vi khuẩn.
Họ phát hiện ra rằng giải pháp này
giúp làm giảm tỉ lệ vi khuẩn bám bề mặt
xuống tới 1.000 lần. Bài báo về kết quả
nghiên cứu mới đây được công bố trên tạp chí
ACS Applied Materials & Interfaces.
Hatton đã hợp tác với AGRI-NEO,
một công ty chế biến hạt giống Ontario để tìm
kiếm giải pháp cho một vấn đề chung trong
ngành công nghiệp thực phẩm. Ông cho biết:
“Phương pháp phủ một lớp dầu ăn hàng ngày
lên bề mặt thép không gỉ đã chứng tỏ hiệu
quả đáng kể trong việc đẩy lùi sự phát triển
của vi khuẩn. Lớp dầu có tác dụng lấp đầy
các vết nứt, tạo ra một lớp kỵ nước và hoạt
động như một rào cản đối với các chất gây ô
nhiễm trên bề mặt".
Phương pháp thay thế đơn giản và hiệu
quả của nhóm nghiên cứu hoạt động dựa trên
công nghệ SLIPS (Slippery Liquid-Infused
Porous Surfaces), tạm dịch là Bề mặt xốp
thẩm thấu dịch lỏng. Công nghệ này được
phát triển lần đầu tiên tại trường đại học
Harvard nhằm mục đích bẫy các lớp chất bôi
trơn vào một vi cấu trúc bề mặt và tạo ra các
thuộc tính trơn trượt, không ướt và không
dính. Các loại dầu ăn như dầu ôliu, dầu bắp
hoặc dầu cải được xem là những lựa chọn an
toàn để làm sạch thiết bị máy móc chế biến
thực phẩm hơn là sử dụng các loại hóa chất
và chất khử trùng nguy hiểm. Kích thước của
máy móc là yếu tố gây khó khăn cho công
đoạn làm sạch các loại vật liệu. Ngoài ra, vi
khuẩn cũng có khả năng đề kháng đối với các
loại chất tẩy theo thời gian. Phương pháp phủ
đầy dầu vào những rãnh xước của Hatton
giúp ngăn không cho vi khuẩn lắng xuống và
làm sạch cơ bản bề mặt mà không để lại dư
lượng hóa chất trên bề mặt thép không gỉ.
"Thực phẩm nhiễm khuẩn từ thiết bị ô
nhiễm có thể ảnh hưởng đến sức khỏe người
tiêu dùng, gây tốn kém, thiệt hại về kinh tế do
thu hồi sản phẩm hỏng mà thực phẩm vẫn
không được làm sạch hoàn toàn bằng cách sử
dụng hóa chất", Hatton cho biết. "Nghiên cứu
cho thấy rằng việc áp dụng công nghệ xử lý
bề mặt và lớp hàng rào dầu ăn sẽ tạo ra lớp
bao phủ lớn giúp giảm thiểu được tới 1.000
lần tỉ lệ vi khuẩn bám bề mặt".
Nhóm nghiên cứu của Hatton tiếp tục
thử nghiệm kết hợp sử dụng các loại dầu,
thực phẩm và màng sinh học để tăng hiệu quả
của các rào cản vi khuẩn. Bên cạnh đó, họ
cho biết trong tương lai sẽ tìm hiểu các
phương án áp dụng phương pháp này ở các
nước đang phát triển để giảm thiểu tình trạng
nhiễm khuẩn cũng như cải thiện tỷ lệ tử vong
do mắc các bệnh nhiễm khuẩn.
Theo vista.gov.vn, 02/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 20/48
Vật liệu làm từ vỏ cua và sợi cây sẽ thay thế túi nhựa đựng thực phẩm
Các nhà khoa học tại Viện Công nghệ
Georgia đã chế tạo được loại vật liệu mới từ
vỏ cua và sợi cây. Nhóm nghiên cứu hy vọng
vật liệu này sẽ được sử dụng làm lựa chọn
thay thế bền vững cho túi nhựa dẻo để giữ
cho thực phẩm tươi lâu hơn.
J. Carson Meredith, giáo sư hóa học và
kỹ thuật lưỡng phân tử và là đồng tác giả
nghiên cứu cho biết: “Tiêu chuẩn chính mà
chúng tôi so sánh là nhựa PET hay
polyethylene terephthalate, một trong những
nguyên liệu phổ biến nhất từ dầu mỏ được sử
dụng cho bao bì trong suốt mà bạn nhìn thấy
trong các máy bán hàng tự động và chai nước
giải khát. Vật liệu của chúng tôi được chứng
minh có khả năng giảm 60% tỷ lệ thẩm thấu
oxy so với một số dạng nhựa PET, có nghĩa là
về lý thuyết thực phẩm sẽ được bảo quản tươi
lâu hơn”.
Để tạo ra màng bọc thực phẩm thân
thiện với môi trường, các nhà khoa học đã
xem xét hai loại polyme sinh học phổ biến
trong tự nhiên, bao gồm xenlulô có nguồn gốc
từ thực vật và chitin có trong động vật giáp
xác, côn trùng và nấm.
Các nhà nghiên cứu đã cho xenlulô và
các sợi nano chitin lơ lửng trong dung dịch
nước và sau đó, phun chúng thành các lớp đan
xen trên chất nền trước khi làm khô. Các lớp
sợi tạo thành vật liệu chắc chắn nhưng dẻo.
GS. Meredith nói: "Chúng tôi đã
nghiên cứu các tinh thể nano xenlulô trong
nhiều năm và tìm cách cải tiến để sử dụng
tinh thể trong vật liệu composit nhẹ cũng như
bao bì thực phẩm, vì cơ hội cho thị trường
bao bì có thể tái tạo và phân hủy là rất lớn.
Và bao bì thực phẩm sẽ càng quan trọng hơn
khi dân số tiếp tục gia tăng”.
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra
rằng kết hợp các sợi nano chitin tích điện
dương với các tinh thể nano xenlulô tích điện
âm để tạo ra vật liệu compostit mới. Giao
diện xơ mới ngăn khí xâm nhập vào vật liệu.
GS. Meredith cho rằng: "Thật khó để
một phân tử khí thâm nhập vào tinh thể rắn,
vì phân tử phải phá vỡ cấu trúc tinh thể. Mặt
khác, vật liệu giống nhựa PET có cấu trúc vô
định hình, nên sẽ có nhiều con đường dễ dàng
cho một phân tử khí nhỏ tìm đường đi qua".
Dù hiệu quả và tác động đến môi
trường của vật liệu mới lớn hơn nhựa PET,
nhưng các nhà nghiên cứu sẽ tìm cách để mở
rộng quy mô sản xuất trước khi các nhà sản
xuất thực phẩm thông qua việc áp dụng công
nghệ này.
Nghiên cứu đã được công bố trên trên
tạp chí ACS Sustainable Chemistry &
Engineering.
Theo vista.gov.vn, 03/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Công nghệ tách nước mới hỗ trợ phát triển nguồn năng lượng sạch từ hydro
Hydro là loại năng lượng sạch đang
được ưa chuộng nhằm thay thế các loại năng
lượng hóa thạch truyền thống. Đốt hydro
hông chỉ sản sinh rất nhiều năng lượng mà
còn tạo ra lượng lớn sản phẩm phụ là nước
tinh khiết.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 21/48
Hydrogen được coi là một nguồn năng lượng thay thế lý tưởng, cũng bởi sản phẩm phụ của nó
là nước. Ảnh: Pexels
Vì rất khó để lấy được đủ số lượng
hydro tinh khiết cho việc đốt, các nhà khoa
học đã nghiên cứu chuỗi phản ứng tiến hóa
của hydro, hay HERs (hydrogen evolution
reactions). Đây là một loại công nghệ tách
nước, trong đó các điện cực được bọc bởi các
chất xúc tác được thả vào nước rồi nạp điện.
Sự tương tác giữa điện, chất xúc tác và nước
tạo ra khí hydro và oxy sạch.
Thay vì bọc điện cực bằng các kim
loại quý hiếm và đắt đỏ (vd: bạch kim) như
hiện nay, Xinjian Shi, sinh viên tốt nghiệp
ĐH Stanford đã tìm ra giải pháp ít tốn kém
hơn. Các sulfit kim loại tổng hợp, với nguồn
cung dồi dào và giá thành thấp, sẽ trở thành
các điện cực phục vụ phản ứng tiến hóa
hydro. Quy trình này được miêu tả trong
nghiên cứu trên tạp chí Energy and
Environmental Science.
Cùng với giáo sư hướng dẫn Xiaolin
Zheng, Shi khởi đầu với ý tưởng quen thuộc
với các nhà khoa học rằng hiệu suất của các
cực điện sulfit sẽ được cải thiện nếu “truyền”
cho kim loại các phân tử cô-ban. Tuy nhiên,
điểm đột phá trong phương pháp của Shi lại
nằm ở hai bước như sau. Thứ nhất, hai người
tìm cách kiểm soát chính xác lượng cô-ban
được truyền vào trong điện cực. Thứ hai, thay
vì chỉ truyền mặt ngoài của miếng kim loại
như các thí nghiệm trước đó, họ đã cho truyền
toàn bộ cực điện với cô-ban.
Zheng và Shi đốt lửa nhằm oxi hóa
một sợi kim loại vonfram, biến nó thành dạng
khí. Sau đó, khí sẽ được làm lạnh, khiến hơi
gas cô lại thành các ống nanotube chứa
vonfram oxide. Một kĩ thuật đốt thứ hai sẽ
được dùng để truyền phân tử cô-ban vào các
ống nanotube. Cuối cùng, các nanotube sẽ
được nung với lưu huỳnh trong lò nung và tạo
ra kim loại vonfram di-sun-fit với cô-ban ở
toàn bộ mặt ngoài.
Với quy trình này, các nhà khoa học có
thể điều chỉnh mật độ cô-ban trong điện cực ở
mức vừa phải – tối đa là 15% và xác lập kỉ
lục mới về điện cực HER gốc kim loại sulfit.
Tuy nhiên, hiệu suất của loại cực điện
vonfram disulfit vẫn còn kém xa so với bạch
kim. Các nhà nghiên cứu đang lên kế hoạch
áp dụng quy trình tương tự lên các sulfit khác
nhằm tìm ra loại có hiệu suất gần với bạch
kim nhất, trong đó có molybdenum disulfide,
rẻ hơn bạch kim hàng chục lần.
Theo khoahocphattrien.vn,20/08/2018
Trở về đầu trang
************** CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Vi khuẩn dưới đất phân hủy nhựa thay thế
Nhóm nghiên cứu tại Viện Công nghệ
Liên bang Thụy Sĩ (ETH Zurich) đã chứng
minh một loại nhựa thay thế có tên là PBAT,
viết tắt của poly (butylene adipate-co-
terephthalate), có thể bị phân hủy bởi vi
khuẩn trong đất.
Các nhà nghiên cứu hy vọng vật liệu
này có thể được sử dụng để thay thế màng
phủ polyethylene. Màng PE được sử dụng
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 22/48
phổ biến trên các cánh đồng để hỗ trợ tăng
năng suất cây trồng bằng cách tăng nhiệt độ
của đất và giữ ẩm cho đất.
Xử lý tấm nhựa là việc làm khó khăn
và khối lượng lớn nhựa cuối cùng sẽ tích tụ
trong đất. Ô nhiễm nhựa polyethylene có thể
làm gián đoạn chu trình vận chuyển nước và
làm suy giảm chất lượng đất.
Các nhà nghiên cứu tại ETH Zurich đã
tìm hiểu xem chất thay thế polyme như PBAT
có thân thiện với môi trường hay không.
Polyme được coi là phân hủy sinh học để ủ
phân, nhưng không được sử dụng trong nông
nghiệp.
Trong thí nghiệm, các nhà khoa học đã
tổng hợp PBAT với một lượng đồng vị
cacbon -13 nhất định. Điều này cho phép các
nhà nghiên cứu theo dõi sự phân hủy cacbon
theo các lộ trình phân hủy sinh học khác
nhau. Thông qua các mẫu đất, nhóm nghiên
cứu có thể theo dõi việc chuyển đổi cacbon
của polyme thành sinh khối và năng lượng,
cũng như sản phẩm phụ CO2.
Michael Zumstein, đồng tác giả nghiên
cứu cho rằng: "Điểm nổi bật trong nghiên cứu
là chúng tôi đã sử dụng những đồng vị ổn
định để theo dõi cácbon có nguồn gốc PBAT
theo nhiều con đường phân hủy sinh học của
polyme trong đất".
Hans-Peter Kohler, nhà vi sinh vật môi
trường và là đồng tác giả nghiên cứu cho biết:
“Theo định nghĩa, phân hủy sinh học đòi hỏi
vi sinh vật phải sử dụng trong quá trình trao
đổi chất toàn bộ cacbon trong các chuỗi
polyme để sản sinh năng lượng và tạo ra sinh
khối như chúng tôi đã chứng minh với PBAT.
Nhiều vật liệu nhựa vỡ vụn thành các mảnh
nhỏ và tồn lưu trong môi trường dưới dạng vi
nhựa, ngay cả khi loại nhựa này không thể
nhìn thấy bằng mắt thường".
Các nhà nghiên cứu cho rằng, chặng
đường kiểm soát ô nhiễm gây ra bởi ngành
công nghiệp nhựa toàn cầu vẫn còn dài và xử
lý nhựa theo cách phân hủy sinh học là bước
đi đúng hướng.
Nghiên cứu đã được công bố trên tạp
chí Science Advances và đây là nghiên cứu
đầu tiên chứng minh một loại nhựa thực sự có
khả năng phân hủy sinh học trong đất.
Theo vista.gov.vn, 06/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Các nhà khoa học 'sửa chữa' cây đời của vi khuẩn
Một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc
Đại học Queensland (Úc) do Giáo sư Philip
Hugenholtz thuộc Khoa Hóa học và Sinh học
Phân tử của UQ và Trung tâm Sinh thái học
(ACE) của UQ đứng đầu bao gồm các nhà
nghiên cứu ACE, Tiến sĩ Maria Chuvochina,
Tiến sĩ David Waite, Tiến sĩ Christian Rinke,
Adam Skarshewski và Pierre-Alain Chaumeil
đã mang đến một sự thay đổi, diện mạo mới
cho phương pháp phân loại vi khuẩn bằng
cách sử dụng cây tiến hóa dựa trên trình tự bộ
gen.
Nghiên cứu dựa vào kỹ thuật
metagenomics - cho phép khai thác được tối
đa, giải trình tự và phân tích ADN của các vi
sinh vật không nuôi cấy được trong các quần
thể sinh vật được thu thập trực tiếp từ các
mẫu môi trường, từ đó, tạo ra một bức tranh
hoàn chỉnh hơn mô tả cấu trúc của vương
quốc vi khuẩn.
Giáo sư Hugenholtz cho biết cấu trúc
có tên gọi là phép phân loại khoa học giúp kết
nối các mối quan hệ giữa các loài sinh vật
sống. Ông cho biết: "Phép phân loại giúp
gom nhóm và phân loại các loài sinh vật
bằng cách sắp xếp chúng trong một hệ thống
phân cấp các mối liên hệ từ gần đến xa theo
các cấp bậc, chẳng hạn như loài, chi, họ, bậc,
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 23/48
lớp, ngành và vực (đơn vị phân loại sinh vật ở
cấp cao nhất, hơn cả giới; còn gọi là siêu giới
hoặc lãnh giới, lĩnh giới)".
“Hệ thống phân loại mới cung cấp
những hiểu biết về mối tương tác giữa các
loài sinh vật trong chuỗi và lưới thức ăn,
chúng ta có thể liên tưởng đến các con số và
các đơn vị như giây, phút, giờ, v.v… trong đo
đạc thời gian hay các khái niệm như: đường
phố, ngoại ô, tiểu bang và Quốc gia trong địa
điểm địa lý".
Giáo sư Hugenholtz cho biết cộng
đồng khoa học nói chung đều tán thành ý kiến
cho rằng các mối quan hệ tiến hóa là cách
thức phân loại sinh vật mang tính tự nhiên
nhất, tuy nhiên, phép phân loại vi khuẩn vẫn
còn biểu hiện một số lỗi do những khó khăn
về yếu tố lịch sử tiến hóa mang lại.
"Điều này chủ yếu là do các loài vi
sinh vật có rất ít đặc điểm thể chất riêng biệt,
đặc trưng, vì thế, việc hàng nghìn loài bị
phân loại không chính xác xét theo tiêu chí
yếu tố lịch sử là không thể tránh khỏi", ông
nhấn mạnh. “Kỹ thuật phân loại cũng tương
đối phức tạp bởi thực tế là chúng tôi chưa thể
phát triển phần lớn các loài vi sinh vật trong
phạm vi phòng thí nghiệm. Chính vì lẽ đó,
cho đến nay, việc nhận biết, phân loại chúng
chưa được thực hiện đầy đủ".
Tiến sĩ Donovan Parks, nhà phát triển
phần mềm hàng đầu trong dự án, bày tỏ thái
độ vui mừng của ông về sự tiến bộ gần đây
của công nghệ giải trình tự bộ gen cũng như
cách thức nó giúp tái tạo lại cây đời của vi
khuẩn.
Ông nhấn mạnh: "Hệ thống phân loại
phát triển đến một mức độ đáng chú ý. Hiện
nay, chúng ta có trong tay bản sơ đồ di truyền
chi tiết của hàng trăm ngàn loài vi khuẩn, kể
cả những loài chưa được nuôi cấy trong
phòng thí nghiệm".
Nhóm nghiên cứu sau đó sử dụng các
sơ đồ di truyền để xây dựng một cây tiến hóa
khổng lồ của vi khuẩn dựa trên 120 gen được
bảo tồn an toàn, chặt chẽ trên toàn bộ vực vi
khuẩn.
"Cây tiến hóa là cơ sở để chúng tôi tạo
ra một mô hình chuẩn hóa - công cụ hỗ trợ
chúng tôi sửa chữa tất cả các phân loại chưa
chính xác và thực hiện tiến trình tiến hóa giữa
các nhóm vi khuẩn phù hợp", Tiến sĩ Parks
chia sẻ. "Ví dụ, chi Clostridium được xem là
một bãi rác cho vi khuẩn hình que sản xuất
bào tử bên trong tế bào của chúng, do đó,
chúng tôi phân loại lại nhóm này thành 121
nhóm chi riêng biệt trên 29 họ khác nhau”.
"Chúng tôi đã tao ra một sự thay đổi
diện mạo hoàn chỉnh trong phân loại vi
khuẩn, và đặc biệt vui mừng khi biết rằng
cộng đồng khoa học cũng tỏ thái độ hào hứng
về điều này".
Phương pháp phân loại của nhóm
nghiên cứu dựa trên Cơ sở dữ liệu Phân loại
Gen các loài được tài trợ bởi Hội đồng nghiên
cứu sinh người Úc Laureate Fellowship.
Bài báo về nghiên cứu được đăng tải
trên tạp chí Nature Biotechnology.
Theo vista.gov.vn, 29/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Xác định enzyme thúc đẩy quá trình sản xuất nhiên liệu sinh học
Các nhà nghiên cứu tại Viện Công
nghệ Tokyo đã tìm ra một loại enzyme thuộc
dòng glycerol-3-phosphate acyltransferase
(GPAT) có triển vọng làm tăng sản lượng
nhiên liệu sinh học từ tảo đỏ
Cyanidioschyzon merolae.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 24/48
Tảo được biết đến với khả năng lưu trữ
khối lượng lớn dầu triacylglycerol (TAG)
trong các điều kiện bất lợi như thiếu nitơ.
Hiểu chính xác cách tảo có thể làm được điều
này, là mối quan tâm chính của ngành công
nghệ sinh học, vì TAG có thể được chuyển
đổi thành diesel sinh học. Cuối cùng, nhóm
nghiên cứu đã sử dụng loài tảo đỏ đơn bào C.
merolae làm sinh vật mô hình để để khám phá
cách cải thiện sản lượng TAG.
Nhóm nghiên cứu tại Viện Công nghệ
Tokyo do Sousuke Imamura dẫn đầu, đã chỉ
ra rằng enzyme GPAT1 quyết định khả năng
lưu trữ TAG trong C. merolae ngay cả trong
các điều kiện sinh trưởng bình thường, nghĩa
là không cần gây sức ép. Đáng chú ý, các nhà
nghiên cứu đã chứng minh được rằng năng
suất TAG có thể tăng nhiều hơn 56 lần ở
chủng C. merolae biểu hiện mạnh GPAT1 so
với chủng kiểm soát, mà không gây tác động
xấu đến khả năng sinh trưởng của tảo.
Kết quả nghiên cứu đã được công bố
trên tạp chí Scientific Reports, tiếp nối nghiên
cứu trước đây của Imamura và các cộng sự
với đề xuất hai GPAT gồm GPAT1 và
GPAT2, có thể liên quan chặt chẽ đến sự tích
tụ của TAG trong C. merolae.
Theo các nhà khoa học, kết quả nghiên
cứu cho thấy phản ứng được xúc tác bởi
GPAT1, là một bước hạn chế tốc độ tổng hợp
TAG trong C. merolae và sẽ là một mục tiêu
tiềm năng để cải thiện năng suất TAG trong vi
tảo. Nhóm nghiên cứu dự định tiếp tục khám
phá cách cả GPAT1 và GPAT2 tác động đến
sự tích tụ TAG. Bước quan trọng tiếp theo sẽ
là xác định các yếu tố phiên mã kiểm soát biểu
hiện của từng gen được quan tâm.
Theo các nhà khoa học, “Nếu chúng ta
có thể xác định các yếu tố chi phối và thay
đổi chức năng của chúng, thì năng suất TAG
sẽ được cải thiện vì các yếu tố phiên mã ảnh
hưởng đến biểu hiện của rất nhiều gen bao
gồm cả các gen liên quan đến GPAT1.
Phương pháp này dựa vào cơ chế phân tử cơ
bản tổng hợp TAG sẽ dẫn đến hoạt động sản
xuất nhiên liệu sinh học thương mại thành
công nhờ sử dụng vi tảo".
Theo vista.gov.vn, 28/28/2018
Trở về đầu trang
**************
Y DƯỢC
Kiểm tra hơi thở giúp chẩn đoán bệnh Parkinson sớm
Các nhà khoa học ở Israel đã phát triển
thành công phương pháp xét nghiệm hơi thở
có thể giúp phát hiện và chẩn đoán sớm bệnh
Parkinson.
Nhóm nghiên cứu Viên Công nghệ
Technion Israel trước đó đã chỉ cho thấy rằng
xét nghiệm hơi thở này có thể phát hiện ra bệnh
nhân bị bệnh Parkinson đang được điều trị.
Trong một báo cáo công bố trên tạp
chí ACS Chemical Neuroscience mới đây,
nhóm nghiên cứu cho biết phương pháp xét
nghiệm phân tích các phân tử trong hơi thở
này có thể phát hiện ra bệnh Parkinson giai
đoạn đầu ở những người chưa từng được điều
trị và chẩn đoán mắc bệnh.
Phương pháp xét nghiệm này hiệu quả
hơn so với phương pháp xét nghiệm sử dụng
khứu giác để chẩn đoán bệnh và chỉ kém hiệu
quả hơn chút so với phương pháp quét siêu
âm não. Trong khi các thành quả có được
hiện nay vẫn cần phải nghiên cứu sâu hơn
nữa, nhóm nghiên cứu tin rằng, phương pháp
xét nghiệm này có thể dùng như một thiết bị
sàng lọc di động mà không cần sự trợ giúp
của các chuyên gia y tế.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 25/48
Parkinson là một bệnh thoái hóa phá
hủy mô não và ảnh hưởng đến vận động. Nó
có bốn triệu chứng chính như là: cứng khớp,
run rẩy, chậm chạp và các vấn đề với sự phối
hợp và cân bằng. Các vấn đề khác cũng có thể
phát triển khi bệnh tiến triển, bao gồm mệt
mỏi, khó khăn về lời nói, giấc ngủ bị gián
đoạn, các vấn đề về trí nhớ và trầm cảm.
Bệnh này phức tạp, nhiều dạng khác
nhau và triệu chứng phát ra ở mỗi người khác
nhau. Tuy nhiên, có một vài đặc điểm phổ
biến, một trong những đặc điểm chính đó là
các tế bào sản xuất dopamine bị chết bên
trong vùng não có tên gọi là substantia nigra.
Rất nhiều tế bào sản xuất dopamine bị
chết trước khi xuất hiện các triệu chứng bệnh
Parkinson. Có khoảng 10 triệu người sống
chung với bệnh Parkinson trên toàn thế giới,
trong đó có 1 triệu người ở Hoa Kỳ. Mặc dù
Parkinson có thể ảnh hưởng đến cả phụ nữ và
nam giới nhưng căn bệnh này phổ biến nhiều
hơn ở nam giới.
Phân tích hơi thở như một cách để
chẩn đoán bệnh đã có từ lâu. Từ thời Hy Lạp
cổ đại, các bác sĩ đã đánh hơi hơi thở của
bệnh nhân để hỗ trợ chẩn đoán bệnh.
Ngoài carbon dioxide, nitơ và oxy, hơi
thở của chúng ta chứa hơn 100 hợp chất dễ
bay hơi với số lượng có thể phản ánh được
tình trạng sức khỏe của chúng ta.
Giống như nhiều nhóm nghiên cứu ở
những nơi khác trên thế giới, nhóm các nhà
khoa học tại Viện Công nghệ Technion Israel
hiện đang nỗ lực phát triển các cách để chẩn
đoán các loại bệnh từ thành phần hóa học của
hơi thở. Họ rất thành thạo chuyên môn trong
việc áp dụng công nghệ nano và trí thông
minh nhân tạo để phát triển phân tích hơi thở
như một công cụ chẩn đoán.
Trong năm 2017, cùng với các đồng
nghiệp từ các trung tâm quốc tế khác, nhóm
nghiên cứu cho biết họ đã sử dụng "nano
thông minh nhân tạo" để chẩn đoán và phân
loại được 17 bệnh bằng cách phân tích "hơi
thở" của hơn 1.000 bệnh nhân trong một công
trình nghiên cứu hợp tác.
Xét nghiệm mới phát hiện được bệnh
Parkinson giai đoạn sớm
Thiết bị kiểm tra hơi thở mới này chứa
một loạt 40 cảm biến được làm từ ống nano
cacbon hoặc hạt nano vàng.
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng thiết bị
mới để kiểm tra hơi thở của 29 bệnh nhân
mới được chẩn đoán mắc bệnh Parkinson và
chưa bắt đầu điều trị. Họ cũng đã xét nghiệm
cho 19 người khỏe mạnh ở độ tuổi tương tự,
những người này không mắc bệnh.
Kết quả cho thấy mảng cảm biến này
có thể phát hiện ra những bệnh nhân
Parkinson giai đoạn đầu với độ nhạy là 79%,
độ đặc hiệu là 84% và độ chính xác là 81%.
Điều này tương ứng với độ nhạy cảm
của 93% và 62%, độ đặc hiệu 90% và 89, và
độ chính xác của 92% và 73% của các
phương pháp quét não và sử dụng khứu giác.
Độ chính xác, độ đặc hiệu và độ nhạy là
tiêu chuẩn đánh giá phương pháp chẩn đoán
này. Các kết quả thu được khi áp dụng công cụ
chẩn đoán mới này có tính chính xác cao.
Độ chính xác là khả năng phân biệt
chính xác giữa các đối tượng bị bệnh và khỏe
mạnh. Tính đặc hiệu là khả năng xác định
chính xác các đối tượng khỏe mạnh và độ
nhạy là khả năng xác định chính xác các đối
tượng bị bệnh.
“Chẩn đoán sớm bệnh Parkinson là
rất quan trọng bởi vì nó ảnh hưởng đến sự
lựa chọn phương pháp điều trị và nó chịu
mức độ lớn về các lỗi chẩn đoán sai”, các tác
giả nghiên cứu lưu ý. Ngoài ra, bệnh được
phát hiện sớm, tạo ra nhiều cơ hội điều trị
giúp ngăn ngừa tổn thương thần kinh não.
Theo vista.gov.vn, 03/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 26/48
Kích thích não có thể cải thiện trí nhớ trong khi bạn ngủ
Một nghiên cứu mới của các nhà khoa
học đến từ Đại học New Mexico ở
Albuquerque cho thấy việc kích thích não
không xâm lấn, hoạt hoá não bộ trong khi ngủ
có thể cải thiện trí nhớ vào ngày hôm sau.
Kích thích não sâu vốn là chủ đề nóng
mà các nhà thần kinh học trong những năm
gần đây quan tâm vì nó có thể mang lại những
phương pháp điều trị hiệu quả hơn cho các
triệu chứng của bệnh Parkinson. Tuy nhiên,
kích thích não sâu liên quan đến việc chèn các
điện cực vào sâu trong não do đó rất cần phải
cân nhắc kỹ của cả bác sỹ và bệnh nhân mặc
dù phương pháp này không xâm lấn, hoàn toàn
không tiếp cận trực tiếp đến não.
Gần đây, các nhà nghiên cứu đã bắt đầu
đặt ra câu hỏi: Quy trình kích thích não sâu
không xâm lấn này có thể cải thiện các khía
cạnh của nhận thức hay không? Liệu nó có khả
năng tăng cường trí nhớ cho con người?
Đầu tiên, các nhà nghiên cứu đã hướng
dẫn những người tham gia nghiên cứu thực
hiện bài tập phân biệt bằng trực giác thực tại.
Trong bài tập này, họ được yêu cầu tránh xa
các thiết bị nổ, súng bắn tỉa, các vật thể nguy
hiểm khác và tránh người. Để làm được được
điều này, người tham gia sẽ phải dè chừng
các dấu hiệu không dễ phát hiện ở trong môi
trường phức tạp. Suốt đêm, những người
tham gia được ngủ trong phòng thí nghiệm và
được tiến hành kích thích không xâm lấn. Sự
kích thích này được lập trình phù hợp với pha
và tần số dao động sóng chậm xảy ra trong bộ
não ngủ. Các nhà khoa học tin rằng những
dao động này là một phần quan trọng trong
việc củng cố trí nhớ; nhóm nghiên cứu đã
thúc đẩy hiệu quả các dao động bằng dòng
diện nhân tạo.
Ngày hôm sau, những người tham gia
đã được kiểm tra một bài tập trực quan tương
tự nhưng mới mẻ hơn. Sau khi kích thích não
suốt đêm, họ đã hoàn thành nhiệm vụ yêu cầu
của bài tập tốt hơn so với những đêm ngủ
không kích thích não. Kết quả cho thấy
phương pháp kích thích não không xâm lấn
đã giúp những người tham gia có khả năng
ghi nhớ tốt hơn.
Những nghiên cứu này đã được công
bố trên tạp chí The Neuroscience.
Theo vista.gov.vn, 06/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu phát hiện một loại thuốc có thể ngăn chặn bệnh Alzheimer
Bằng chứng mới xuất hiện cho thấy,
một loại thuốc “hiệu nghiệm” có sẵn có thể
ngăn chặn sự phát triển của bệnh Alzheimer
nhưng chỉ khi người bệnh phải duy trì dùng
thuốc lâu dài trước khi các triệu chứng bệnh
xuất hiện.
Bệnh Alzheimer là dạng phổ biến nhất
của bệnh mất trí nhớ; theo Trung tâm Kiểm
soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC), ước
tính có khoảng 5,7 triệu người trưởng thành ở
Hoa Kỳ sống với tình trạng này.
Một điều không may mắn đó là, không
có liệu pháp điều trị khỏi bệnh Alzheimer, và
sau khi bệnh khởi phát, các triệu chứng của
bệnh có xu hướng xấu dần. Do đó, nhiều
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 27/48
người đặt ra câu hỏi rằng: “Liệu các chuyên
gia có thể phòng ngừa bệnh này ở những
người được xem là có nguy cơ cao không?”
Mới đây, nhóm tác giả một nghiên cứu
mới thuộc Trường Đại học Virginia,
Charlottesville cho rằng, một loại thuốc có
tên là memantine - hiện đang được sử dụng
để kiểm soát các triệu chứng của bệnh
Alzheimer - thực sự có thể giúp ngăn ngừa
căn bệnh này. Tuy nhiên, thuốc chỉ hiệu
nghiệm nếu bệnh nhân dùng thuốc trước khi
triệu chứng bệnh xuất hiện.
Theo giáo sư George Bloom, Trường
Đại học Virginia, giám sát nghiên cứu, cho
biết: “Căn cứ vào các nghiên cứu cho đến nay,
sẽ hoàn toàn không có khả năng chữa được
căn bệnh Alzheimer khi bệnh nhân xuất hiện
các triệu chứng bệnh. Hy vọng lớn nhất có thể
chữa được căn bệnh này là đầu tiên phải nhận
diện được những bệnh nhân có nguy cơ, tiến
hành điều trị dự phòng bằng loại thuốc hiệu
nghiệm mới cho bệnh nhân, tiếp đến là thay
đổi điều chỉnh lối sống bệnh nhân để làm giảm
tốc độ tiến triển giai đoạn tiềm ẩn của bệnh.
Từ đó chúng ta có thể ngăn chặn bệnh ngay từ
khi nó bắt đầu hình thành”.
Những phát hiện này đã được công bố
trên tạp chí Alzheimer's & Dementia mới đây.
Các nhà nghiên cứu giải thích rằng
bệnh Alzheimer bắt đầu từ rất lâu trước khi
các triệu chứng bắt đầu xuất hiện, thậm chí là
một thập kỷ hoặc lâu hơn. Một trong những
đặc điểm của tình trạng này là: các tế bào não
cố gắng phân chia để cân bằng lại cái chết của
các tế bào thần kinh khác dù sau đó các tế bào
này cũng bị chết đi. Việc phân chia thêm các
tế bào não này hoàn toàn không bình thường
và không xảy ra trong một bộ não khỏe mạnh.
Giáo sư Bloom ước tính, 90% các tế
bào thần kinh bị chết xảy ra trong não của
bệnh nhân mắc Alzheimer. Bệnh nhân sẽ mất
khoảng 30% các tế bào thần kinh ở các thùy
trán của não.
Phát hiện của nhóm nghiên cứu hứa
hẹn rất lớn trong việc phòng ngừa bệnh
Alzheimer. Memantine có ít tác dụng phụ
được biết đến, và các tác dụng phụ xảy ra rất
hiếm và không ảnh hưởng lớn đến sức khỏe
của người bệnh.
Giáo sư Bloom tin rằng, trong tương
lai, đây sẽ một phương pháp phòng ngừa hữu
ích, có thể dùng để sàng lọc sớm cho những
người có nguy cơ mắc bệnh Alzheimer.
Hiện tại, Giáo sư Bloom và các đồng
nghiệp đang lên kế hoạch thử nghiệm lâm
sàng để kiểm tra chiến lược phòng ngừa bệnh
Alzheimer mà họ đã phác thảo trong nghiên
cứu.
Theo vista.gov.vn, 08/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Bệnh động kinh: Những phát hiện mới có thể thay đổi sách giáo khoa
Nghiên cứu mới phát hiện ra rằng hai
protein não chính có liên quan đến sự kích
thích quá mức thần kinh, đặc trưng của chứng
động kinh. Theo các nhà nghiên cứu, những
phát hiện này có khả năng thay đổi giáo trình
sách giáo khoa về bệnh động kinh, cũng như
mở đường cho các liệu pháp điều trị mới.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính
có khoảng 50 triệu người trên toàn thế giới bị
bệnh động kinh, làm cho nó trở thành một
trong những bệnh về thần kinh phổ biến nhất
trên thế giới. Tại Hoa Kỳ, khoảng 3,4 triệu
người - chiếm 1,2% dân số mắc bệnh này.
Ở bệnh động kinh, các bộ phận của
não có mức tín hiệu điện cao bất thường, làm
gián đoạn chức năng thần kinh bình thường
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 28/48
của chính nó. Một bộ não hoạt động tốt là nhờ
vào các tín hiệu điện mà các tế bào thần kinh
truyền cho nhau.
Việc hiểu rõ hơn về chức năng giữa
các tế bào thần kinh có thể tạo ra các phương
pháp điều trị tốt hơn cho bệnh động kinh.
Nghiên cứu mới sẽ đưa chúng ta đến gần hơn
mới mục tiêu này.
Các nhà thần kinh học do Rochelle
Hines, Trường Đại học Nevada, Las Vegas,
đứng đầu, đã tiến hành nghiên cứu cách thức
các protein não tương tác để điều chỉnh tín
hiệu điện của tế bào thần kinh.
Theo Hines, những phát hiện mà bà và
nhóm nghiên cứu đã công bố trên tạp chí
Nature Communications mới đây cho thấy có
thể thay đổi lại các kiến thức trong sách giáo
khoa về bệnh động kinh khi mà họ đã thay đổi
sâu sắc sự hiểu biết của các nhà nghiên cứu về
những gì đã điều chỉnh sự kích thích của các tế
bào thần kinh trong chứng động kinh.
Làm thế nào hai protein có thể thay
đổi sóng não
Như Hines và các đồng nghiệp giải
thích trong bài báo của họ, hoạt động của não
dựa vào chức năng giữa các tế bào kích thích
và các tế bào thần kinh ức chế; Điều này điều
chỉnh tỷ lệ kích thích toàn bộ tế bào và kiểm
soát sự kích thích của tế bào cục bộ.
Đối với chức năng này, các thụ thể loại
GABA tuýp A (GABAA) đóng vai trò quan
trọng. Các thụ thể GABAA là "các thụ thể
dẫn truyền thần kinh ức chế chính trong não
loài động vật có vú”. Các thụ thể này có
nhiều tiểu đơn vị, từ alpha đến theta.
Trong bệnh động kinh, các nghiên cứu
trước đây đã gợi ý rằng các tiểu đơn vị alpha
của các thụ thể GABAA làm trung gian nhắm
mục tiêu có chọn lọc các thụ thể não. Tuy
nhiên, các cơ chế đằng sau điều này không rõ
ràng.
Trong nghiên cứu mới này, Hines và
nhóm nghiên cứu đã thu hẹp các thụ thể này
thành hai protein quan trọng: tiểu đơn vị
alpha-2 (thuộc họ GABAA) và collybistin.
Khi họ phá vỡ giao tiếp giữa hai
protein này ở chuột, các xét nghiệm điện não
đồ cho thấy sóng não của chuột không đều và
không kiểm soát được, tương tự ở những
người bị bệnh động kinh và mắc chứng lo âu.
“Kết quả làm thay đổi sách giáo
khoa” và tạo ra các loại thuốc mới
Từ công trình nghiên cứu này, Hines giải
thích: “Đây là mảnh ghép có khả năng thay
đổi sách giáo khoa. Trước đây, nhóm nghiên
cứu cũng đã đặt câu hỏi về cách thức các
mảnh ghép này khớp với nhau và đã từng
nghĩ rằng có thể có 1 nhóm gồm 3 hay nhiều
protein tương tác. Công trình nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy có sự tương tác rất cụ thể
giữa hai protein này và điều này có ý nghĩa
lớn cho các nhà thần kinh học về việc làm sao
có thể điều chỉnh chúng”.
Việc điều chỉnh “ngăn” các protein
trong não kiểm soát tế bào truyền tín hiệu có
thể dẫn đến các phương pháp điều trị tốt hơn
để ngăn chặn hoặc phòng ngừa co giật.
“Nếu chúng ta có thể hiểu rõ hơn về
cách hoạt động của mô hình não, chúng ta có
thể hiểu nó có thể xảy ra như thế nào ở chứng
động kinh - chứng bệnh làm cho hoạt động
của não trở nên không kiểm soát được. Và
nếu chúng ta có thể hiểu điều gì là quan trọng
đối với việc kiểm soát này, chúng ta có thể
đưa ra các phương thức tốt hơn để điều trị và
cải thiện chất lượng cuộc sống cho những
người bị động kinh hoặc có thể là các loại rối
loạn khác chẳng hạn như chứng lo âu hoặc
rối loạn giấc ngủ”. Hines nhấn mạnh.
Stephen Moss, đồng tác giả nghiên
cứu, giáo sư về khoa học thần kinh tại Đại
học Tufts, Medford, MA, cho biết, những
phát hiện này sẽ gợi ý các nhà nghiên cứu tìm
ra những loại thuốc mới nhắm vào thụ thể
alpha-2 GABAA.
Theo vista.gov.vn, 17/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 29/48
Probiotic có thể gây ra tình trạng rối loạn chức năng não và đầy hơi
Những nghiên cứu trước cho thấy việc
điều chỉnh hệ vi khuẩn đường ruột thông qua
chế phẩm sinh học có thể có kết quả tích cực
đối với sức khỏe. Nghiên cứu mới, từ Đại học
Y Georgia ở Đại học Augusta - Hoa Kỳ, đã
báo cáo mối liên hệ giữa các triệu chứng liên
quan đến não bộ, bao gồm trí nhớ ngắn hạn
và khó tập trung và sự phát triển quá mức của
vi khuẩn ở ruột non do tiêu thụ probiotic.
Tác giả nghiên cứu Satish Rao cho
biết: Trong nghiên cứu chúng tôi đã thử
nghiệm với bệnh nhân phát triển cả hai triệu
chứng: chứng đờ đẫn não và đầy hơi ngay lập
tức sau khi ăn. Và kiểm tra hồ sơ trao đổi chất
của bệnh nhân và tìm thấy hàm lượng cao axit
D-lactic trong mẫu máu, bệnh nhân thường
xuyên tiêu thụ probiotic và sữa chua. Kết quả
cho thấy một số bệnh nhân biết cả tiêu thụ
men vi sinh và bị rối loạn chức năng não.
Chứng đờ đẫn não không phải là tình
trạng lâm sàng rõ ràng, nhưng thay vào đó,
thường có nhiều triệu chứng nhận thức mất
phương hướng, chẳng hạn như nhầm lẫn, khó
tập trung và trí nhớ kém. Các triệu chứng
thường thoáng qua. Các nhà khoa học đã tập
hợp một nhóm các đối tượng, có tất cả các
triệu chứng báo cáo về chứng đờ đẫn não và
đều có bằng chứng về việc sử dụng probiotic.
Các đối tượng đã phát triển quá mức về lượng
vi khuẩn trong ruột non của họ. Dẫn đến vi
khuẩn lactobacillus phát triển mạnh đã được
tìm thấy để sản xuất quá nhiều axit D-lactic.
Axit D-lactic được tạo ra khi một số vi
khuẩn phân hủy đường trong thức ăn. Quá
trình này có thể tạo ra các chất khí gây ra tình
trạng đầy bụng và khó chịu ở bụng, cũng như
axit D-lactic, có thể được hấp thu vào máu và
đến não. Axit D-lactic đã được tìm thấy là
độc hại đối với các tế bào não, dẫn đến những
bất thường nhận thức tạm thời. Satish Rao nói
rằng: Vi khuẩn probiotic có khả năng vỡ
đường và sản xuất axit D-lactic. Vì vậy nếu
ruột non tiếp xúc với vi khuẩn probiotic thì có
khả năng phát triển nhiễm acid lactic và
chứng đờ đẫn não. Những mẫu nhỏ của các
đối tượng tham gia nghiên cứu sau đó được
hướng dẫn để ngừng tiêu thụ probiotic hoặc
thực phẩm có chứa probiotic và dùng kháng
sinh để giảm số lượng vi khuẩn đường ruột.
85% tình nguyện viên mắc chứng đờ đẫn não
và sẽ hướng đến một phương pháp hoàn
chỉnh để chữa bệnh.
Năm 2017, nghiên cứu ở chuột từ Đại
học New South Wales - Úc đã phát hiện ra
rằng probiotics chỉ hữu ích ở động vật có
“sức khỏe đường ruột bị rối loạn chức năng”.
Không chỉ vậy, nhưng kết quả cho thấy chuột
có chế độ ăn lành mạnh, probiotic thực sự dẫn
đến một mức độ nhỏ của suy giảm trí nhớ.
Trong cả hai nghiên cứu cũ và mới, cơ chế
đằng sau chế phẩm sinh học và chức năng
nhận thức suy giảm vẫn chưa rõ ràng. Các
nhà nghiên cứu lưu ý cần thêm những nghiên
cứu sâu hơn, để có kết quả tốt nhất. Tuy
nhiên, Satish Rao cho rằng tự quản lý
probiotic nên được thực hiện thận trọng vì nó
có thể dẫn đến kết quả sức khỏe tiêu cực.
Probiotics nên được coi là một loại thuốc,
không phải là một thực phẩm bổ sung.
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí
Clinical and Translational Gastroenterology!
Theo vista.gov.vn, 14/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 30/48
Cơ chế tế bào có thể thay đổi phương pháp điều trị ung thư
Di căn là sự lây lan và phát triển của
bệnh ung thư từ một cơ quan hoặc một phần
của cơ thể sang một cơ quan khác bất kỳ khắp
cơ thể. Đây là một quá trình phức tạp mà các
nhà nghiên cứu đang nỗ lực nghiên cứu để
hiểu rõ và cuối cùng có thể ngăn chặn nó.
Nghiên cứu mới đây sẽ đưa chúng ta
tiến gần đến mục tiêu cuối cùng này, bởi vì
các nhà khoa học đã khám phá ra một cơ chế
giúp chúng ta thay đổi cách chúng ta hiểu về
sự gia tăng của các tế bào ung thư.
Việc hiểu được cách thức ung thư lan
rộng để ngăn chặn nó là rất quan trọng. Gần
đây, các nhà nghiên cứu đã đạt được tiến bộ
đáng kể theo hướng nghiên cứu này.
Bằng cách ứng dụng các kỹ thuật tạo
ảnh hiện đại nhất, các nhà khoa học đã có thể
quan sát thấy cách thức tế bào ung thư “trôi’
theo mạch máu, xâm nhập vào các mạch máu
nhỏ nào đó và bị mắc lại rồi sinh sôi, tăng
trưởng ở vị trí mới.
Các nghiên cứu khác đã chỉ ra được
việc bị suy giảm một số protein nhất định dẫn
đến làm cho các tế bào ung thư có thể biến
đổi hình dạng của chúng, giúp chúng vượt
qua khỏi hàng rào bảo vệ của hệ miễn dịch.
Hiện tại, một nghiên cứu mới đã
“phóng to” được cơ chế tế bào cho phép các
tế bào ung thư phân chia và di chuyển.
Nghiên cứu này được thực hiện bởi một nhóm
các nhà khoa học quốc tế do Steffen Scholpp,
giáo sư Trường Đại học Exeter (Vương quốc
Anh) đứng đầu.
Công trình nghiên cứu của họ đã được
công bố trên tạp chí eLife mới đây.
Để một cơ quan phát triển bình
thường, các tế bào phải có khả năng giao tiếp
hoặc gửi tín hiệu cho nhau. Protein rất quan
trọng cho quá trình phát triển này có tên gọi
là protein Wnt. Chúng kiểm soát sự gia tăng
của các tế bào, vì vậy chúng rất quan trọng
cho sự phát triển của phôi và các cơ quan.
Nói cách khác, tín hiệu Wnt thúc đẩy tăng
trưởng bằng cách cho phép các tế bào phân
chia. Trong khi tăng trưởng thường là một
điều tốt đối với các cơ quan khoẻ mạnh, thì
đối với ung thư, tín hiệu Wnt sai sẽ gây tác
dụng ngược lại, dẫn đến các tế bào xấu phân
chia (các trường hợp ung thư ác tính).
Vai trò của tín hiệu Wnt trong ung thư
đã được hoàn toàn ghi nhận, đầu tiên trong
ung thư đại trực tràng và sau đó ở các bệnh
khác. Nhưng cho đến nay cơ chế chính xác mà
Wnt gửi tín hiệu đi vẫn chưa được biết đến.
Tuy nhiên, mới đây Giáo sư Scholpp
và các cộng sự đã phát hiện ra một số chỗ lồi,
hay “các bướu” trên tế bào là chìa khoá để
truyền tín hiệu - điều này sẽ điều chỉnh tốc độ
tế bào phân chia và nhân lên. Những bướu tế
bào này được gọi là cytonemes, và chúng
đảm nhiệm chức năng truyền tín hiệu.
Giáo sư Scholpp và nhóm nghiên cứu
phát hiện ra rằng nếu ngăn chặn sự hình thành
của các cytonemes, điều này sẽ phá vỡ đường
truyền tín hiệu từ các tế bào sản sinh Wnt. Họ
cũng có thể quan sát cách thức WNT di
chuyển qua màng tế bào và tương tác với một
thụ thể giúp nó hình thành cytoneme.
Giáo sư Scholpp và các đồng nghiệp
hy vọng rằng những phát hiện của họ sẽ giúp
thay đổi các phương pháp điều trị không chỉ
đối với các bệnh ung thư mà còn thay đổi
phương pháp trị liệu cho các hội chứng rối
loại phát triển khác như tự kỷ.
Theo vista.gov.vn, 03/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 31/48
Thuốc chống ung thư mới làm cho các tế bào ung thư “ngủ” vĩnh viễn
Các nhà khoa học ở Melbourne đã phát
hiện ra một loại thuốc chống ung thư mới có
thể khiến cho các tế bào ung thư ngừng hoạt
động vĩnh viễn, mà không có tác dụng phụ
thường gây ra bởi các liệu pháp ung thư.
Nghiên cứu mới đã được công bố trên tạp chí
Nature, cho thấy loại thuốc chống ung thư
đầu tiên này hoạt động bằng cách làm bất
hoạt tế bào ung thư, ngăn chặn sự phát triển
và lan rộng của khối u mà không gây tổn
thương ADN của tế bào.
Các loại thuốc mới có thể cung cấp lựa
chọn thay thế thú vị cho các bệnh nhân ung
thư và có triển vọng tuyệt vời trong việc ngăn
chặn sự tiến triển của ung thư trong các mô
hình ung thư gan và máu, cũng như cản trở
ung thư tái phát.
Ngừng hoạt động vĩnh viễn
Nhóm nghiên cứu bao gồm PGS. Tim
Thomas và PGS. Anne Voss tại Viện nghiên
cứu Walter và Eliza Hall, GS. Jonathan Baell
tại Viện Khoa học dược phẩm Monash và TS.
Brendon Monahan thuộc Đơn vị nghiên cứu
liệu pháp ung thư CRC đã nghiên cứu liệu ức
chế các protein KAT6A và KAT6B. Đây có
thể là phương pháp mới để điều trị ung thư.
PGS. Thomas cho biết đây là loại
thuốc chống ung thư đầu tiên nhắm vào đích
là các protein KAT6A và KAT6B. Cả hai
protein được biết đóng vai trò quan trọng
trong việc điều khiển ung thư. KAT6A nằm ở
vị trí thứ 12 trong danh sách các gen phổ biến
nhất trong các loại ung thư.
PGS. Thomas cho biết: “Ban đầu,
chúng tôi đã phát hiện ra rằng KAT6A bị suy
giảm di truyền đã tăng bốn lần tuổi thọ của
các mô hình động vật thí nghiệm bị ung thư
máu thể u lympo. Biết được rằng KAT6A là
yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của
bệnh ung thư, chúng tôi bắt đầu tìm ra các
phương thức ức chế protein để điều trị ung
thư". Các hợp chất đã được chứng minh có
triển vọng lớn trong thử nghiệm tiền lâm sàng.
PGS. Thomas cho rằng đây là loại
thuốc chống ung thư mới có hiệu quả trong
việc ngăn chặn sự tiến triển của ung thư trong
các mô hình ung thư tiền lâm sàng. Đây là vũ
khí tiềm năng hoàn toàn mới chống ung thư.
Hợp chất này được dung nạp tốt trong các mô
hình tiền lâm sàng và phát huy tác dụng rất tốt
so với các tế bào khối u, trong khi xem ra
không có ảnh hưởng xấu đến các tế bào khỏe
mạnh.
ADN tổn thương nhiều hơn
Phương pháp hóa trị và xạ trị hoạt
động gây gây tổn thương vĩnh viễn cho ADN.
Các tế bào ung thư không thể sửa chữa tổn
thương này và chết. Hạn chế nằm ở chỗ các
liệu pháp không chỉ nhắm vào các tế bào ung
thư và gây tổn thương lớn cho cả các tế bào
khỏe mạnh. Điều này gây ra tác dụng phụ phổ
biến trước mắt như buồn nôn, mệt mỏi, rụng
tóc và dễ bị với nhiễm trùng, cũng như các
tác dụng lâu dài như vô sinh và tăng nguy cơ
phát triển các loại ung thư khác.
PGS. Voss cho biết: "Thay vì gây tổn
thương ADN do các phương pháp hóa trị và
xạ trị, loại thuốc chống ung thư mới này chỉ
đơn giản là làm cho tế bào ung thư “ngủ”
vĩnh viễn. Hợp chất mới này ngăn chặn các tế
bào ung thư phân chia bằng cách làm mất
khả năng “kích hoạt” sự khởi phát của chu kỳ
tế bào. Thuật ngữ kỹ thuật gọi là lão hóa tế
bào. Các tế bào không chết, nhưng chúng
không còn có thể phân chia và sinh sôi được
nữa. Nếu không có khả năng này, các tế bào
ung thư sẽ bị ngăn chặn một cách hiệu quả".
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 32/48
Nhóm nghiên cứu tin rằng các loại
thuốc này có hiệu quả trong việc trì hoãn tái
phát ung thư.
Theo vista.gov.vn, 08/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Các nhà khoa học phát hiện ra tế bào phòng chống ung thư vú
Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học
Johns Hopkins đã chứng minh được rằng
trong mô chuột nuôi cấy tại phòng thí nghiệm
có lớp tế bào bao quanh các ống dẫn sữa
vươn ra kéo các tế bào ung thư để ngăn chặn
tình trạng tế bào ác tính di căn khắp cơ thể.
Phát hiện nghiên cứu cho thấy lớp tế bào này
được gọi là myoepithelium, không phải là
một rào cản ổn định đối với hiện tượng ung
thư xâm lấn như các nhà khoa học trước đây
đã từng nghĩ, mà là một biện pháp phòng vệ
tích cực chống ung thư vú di căn. Nghiên cứu
đã được công bố trên tạp chí Cell Biology.
Tiến sĩ Andrew Ewald, giáo sư sinh
học tế bào tại Trường Y trực thuộc Đại học
Johns Hopkins và một trong các tác giả
nghiên cứu cho biết: “Hiểu được về các tế
bào ung thư có thể giúp chúng ta phát triển
những phương pháp dự báo nguy cơ ung thư
di căn cho mỗi người bệnh”.
Hầu hết các khối u vú khởi phát từ các
tế bào nằm trong ống dẫn sữa. Các tế bào này
lần lượt được bao quanh bởi các tế bào
myoepithelial, cùng phối hợp hoạt động để co
lại và đẩy sữa qua ống dẫn khi chuột con bú
mẹ.
Lớp myoepithelial này được sử dụng
về mặt lâm sàng để phân biệt giữa ung thư vú
tại chỗ với ung thư xâm lấn ở người. Khi các
tế bào ung thư vú chọc thủng lớp
myoepithelial, được gọi là ung thư biểu mô
xâm lấn, có liên quan đến tỷ lệ tái phát cao và
nhu cầu điều trị tích cực.
Trong nghiên cứu, các nhà khoa học
đã biến đổi các tế bào được lấy từ lớp lót của
ống dẫn sữa ở chuột để tạo ra protein Twist1,
hoạt động bằng cách thay đổi biểu hiện gen
và có liên quan đến ung thư di căn ở nhiều
loại khối u. Các nhà nghiên cứu đã nhận thấy
khi tế bào Twist 1 làm thủng lớp
myoepithelial, tế bào myoepithelial đã kéo
thành công các tế bào “lạc lối” trở lại ống dẫn
sữa mà chỉ mất 92% thời gian thông qua 114
quan trắc.
Để xác nhận các phát hiện này là
những hành vi tích cực, nhóm nghiên cứu đã
thay đổi hai đặc điểm chính của các tế bào
myoepithelial, đó là khả năng co lại và tỷ lệ tế
bào myoepithelial so với các tế bào xâm lấn.
Đầu tiên, các nhà nghiên cứu đã biến
đổi gen của tế bào myoepithelial ở chuột để
khai thác hết actin cơ trơn của chúng, một
loại protein cho phép tế bào co lại. Trong điều
kiện đó, số lượng tế bào xâm lấn thoát ra
xuyên qua lớp myoepithelial, tăng gấp ba lần
so với các tế bào điều khiển (kiểm soát) bằng
myoepithelium bình thường.
Tương tự như vậy, nhóm nghiên cứu
đã phát hiện ra rằng giảm tỷ lệ tế bào
myoepithelial so với (trên) các tế bào xâm lấn
làm tăng số lượng tế bào ung thư thoát ra
ngoài. Chỉ cần bổ sung hai tế bào
myoepithelial cho mỗi tế bào xâm lấn, tỷ lệ
thất thoát giảm bốn lần so với sự lây lan của
các tế bào xâm lấn khi không có hàng rào bảo
vệ.
TS. Eliah Shamir, nghiên cứu sinh về
bệnh lý phẫu thuật tại trường Đại học
California cho rằng: “Đây là điều này rất
quan trọng cần biết vì nó cho thấy cả sự hoàn
chỉnh của myoepithelium và biểu hiện gen
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 33/48
trong các tế bào myoepithelial là rất quan
trọng trong việc dự đoán hành vi của các khối
u vú ở người. Ở những nơi có lớp này mỏng
đi hoặc bị cong là cơ hội cho các tế bào ung
thư ‘trốn thoát’”.
Trong tương lai, nhóm nghiên cứu sẽ
xem xét các cơ chế tế bào thúc đẩy lớp
myoepithelial phản ứng một cách chủ động và
yếu tố khiến cho lớp myoepithelial bị lỗi
trong quá trình xâm lấn.
Theo vista.gov.vn, 14/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Phát hiện và chẩn đoán sớm bệnh u tủy - dạng ung thư hiếm gặp bằng các xét nghiệm máu đơn giản
Một nghiên cứu tiên phong có thể trở
thành phương pháp xét nghiệm máu đơn giản
mới giúp cải thiện chẩn đoán sớm trong điều
trị u tủy - một dạng bệnh ung thư hiếm gặp.
Nghiên cứu mới đây được xuất bản
trong Tạp chí Thực hành chung của Anh.
Nghiên cứu là sự hợp tác giữa các nhà
khoa học đến từ trường Đại học Oxford, Đại
học Exeter và Trung tâm Y tế Chiddenbrook
Surgery, Crediton ở Anh và được tài trợ bởi
Viện Nghiên cứu Sức khỏe Quốc gia (NIHR).
Các nhà nghiên cứu đã kiểm tra và
xem xét sự kết hợp tốt nhất giữa xét nghiệm
máu và các xét nghiệm chẩn đoán khác có thể
được áp dụng trong chẩn đoán u tủy trong
thực hành GP.
Cụ thể, nhóm đã tiến hành khảo sát
mức độ hiệu quả của một số biện pháp khác
nhau trong phát hiện và chẩn đoán bệnh cũng
như đề xuất những sự kết hợp tốt nhất, hiệu
quả nhất giữa các hình thức xét nghiệm để
ngăn chặn sự phát triển của bệnh và xua tan
nỗi lo lắng, ám ảnh của bệnh nhân.
Các nhà nghiên cứu phân tích các mẫu
xét nghiệm máu của 2703 trường hợp bệnh
nhân được thực hiện từ 5 năm trước và so
sánh với mẫu máu của 12.157 bệnh nhân
không bị ung thư, kết hợp trong số này các
trường hợp bệnh nhân cùng độ tuổi cùng các
thông số liên quan khác.
Kết quả cho thấy: sự kết hợp đơn giản
của hai thông số máu là yếu tố đủ để chẩn
đoán bệnh. Xét nghiệm máu thường được tiến
hành trong các cuộc phẫu thuật GP.
Constantinos Koshiaris, tác giả chính
của nghiên cứu, từ trường Đại học Oxford,
cho biết: "Sự kết hợp của nồng độ
hemoglobin, chất mang oxy trong máu, và
một trong hai Dấu ấn sinh học biểu hiện tình
trạng viêm (tỷ lệ lắng đọng của hồng cầu
hoặc độ nhớt của huyết tương) là quy tắc
kiểm tra đầy đủ. Nếu phát hiện bất thường
trong xét nghiệm này thì cần tiến hành xét
nghiệm nồng độ protein trong nước tiểu khẩn
cấp để giúp chẩn đoán nhanh hơn".
Mỗi năm có khoảng 5.700 người được
chẩn đoán mắc u tủy ở Anh. Triệu chứng phổ
biến của bệnh là các biểu hiện như: đau
xương, mệt mỏi và suy thận. Quá trình chẩn
đoán và phát hiện bệnh u tủy được đánh giá là
lâu nhất trong số tất cả các bệnh ung thư phổ
biến. Một số lượng lớn bệnh nhân được chẩn
đoán sau khi chăm sóc cấp cứu và hơn một
phần ba trong số đó cần ít nhất ba tư vấn về
chăm sóc chính.
Giáo sư Willie Hamilton, thuộc
Trường Đại học Y khoa Exeter, là điều tra
viên chính về nghiên cứu này. Ông cho biết:
"Thông thường, mỗi năm năm có một trường
hợp bệnh nhân u tủy được phát hiện và chẩn
đoán sớm bởi bác sĩ gia đình. Việc điều trị
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 34/48
kịp thời hơn có thể giúp cải thiện đáng kể tỷ
lệ sống sót cho bệnh nhân. Trong nghiên cứu,
chúng tôi đề xuất một phương pháp đơn giản
mà một bác sĩ có thể kiểm tra ở các bệnh
nhân xuất hiện những triệu chứng như: đau
lưng, đau xương sườn và đau ngực, hoặc
nhiễm trùng ngực tái phát và xác định xem
liệu họ có mắc bệnh u tủy hay không”.
Nhóm tác giả cũng đề xuất khả năng
tích hợp một hệ thống trong hồ sơ y tế điện tử
để cảnh báo các bác sĩ lâm sàng về các triệu
chứng hoặc thay đổi liên quan đến các thông
số máu ở bệnh nhân u tủy
Theo vista.gov.vn, 22/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Phương pháp mới chẩn đoán ung thư bằng protein sốt rét
Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học
Copenhagen đã phát hiện ra phương pháp chẩn
đoán nhiều loại bệnh ung thư ở giai đoạn đầu
bằng cách sử dụng một loại protein đặc trưng
cho bệnh sốt rét có thể bám vào các tế bào ung
thư trong máu. Các nhà nghiên cứu hy vọng
phương pháp này có thể được sử dụng để xét
nghiệm ung thư trong tương lai gần.
Mỗi năm, ung thư cướp đi sinh mạng
của khoảng 9 triệu người trên toàn thế giới và
chẩn đoán sớm là rất quan trọng để điều trị
hiệu quả và mang lại sựu sống cho người
bệnh. Giờ đây, các nhà nghiên cứu tại Khoa
Khoa học sức khỏe và y tế thuộc trường Đại
học Copenhagen đã đưa ra một phương pháp
mới chẩn đoán ung thư ở giai đoạn sớm nhờ
sử dụng một loại protein sốt rét có tên là
VAR2CSA để dính các tế bào ung thư. Tất cả
những gì các nhà khoa học cần để xác định
một người có bị ung thư hay không là một
mẫu máu.
Hiện nay, có nhiều cách để phát hiện tế
bào ung thư trong máu. Hầu hết các phương
pháp này đều dựa vào một dấu hiệu đặc biệt,
được tìm thấy trên bề mặt của các tế bào khối
u. Tuy nhiên, không phải tất cả các tế bào
khối u đều hiển thị dấu hiệu đó, nên các
phương pháp này không thể phát hiện các tế
bào ung thư lan sang các cơ quan khác như
gan, phổi và xương, trái ngược với phương
pháp dựa vào protein sốt rét.
Một vài năm trước, GS. Ali Salanti và
các nhà nghiên cứu khác đã khám phá ra một
phương pháp mới để điều trị ung thư bằng
protein VAR2CSA được sản sinh bởi ký sinh
trùng sốt rét. Phát hiện này đã tạo nền tảng cho
phương pháp chẩn đoán mới của nhóm nghiên
cứu. Nhóm nghiên cứu đã chỉ ra rằng protein
sốt rét bám vào một phân tử đường cụ thể,
được tìm thấy trong hơn 95% tổng số các loại
tế bào ung thư. Nói cách khác, phương pháp
chẩn đoán mới này có thể được áp dụng để
phát hiện tất cả các loại ung thư trên thực tế.
Các tế bào khối u tuần hoàn
Một khối u bao gồm một số loại tế bào
ung thư khác nhau, trong đó một số lây lan
nhờ di chuyển qua mô và vào trong máu. Các
tế bào ung thư trong máu được gọi là các tế
bào khối u tuần hoàn và chúng có thể phát
triển thành di căn, gây ra tới 90% các ca tử
vong do ung thư. Nếu ung thư có nguồn gốc
từ phổi lan đến não, được gọi là di căn não.
Phương pháp mới phát hiện các tế bào
khối u tuần hoàn trong một mẫu máu bằng
cách sử dụng protein sốt rét. Trong quá trình
phát triển phương pháp mới này, các nhà
nghiên cứu đã lấy 10 tế bào ung thư và bổ
sung 5 mililít máu và sau đó, thu hồi 9 trong
số 10 tế bào ung thư từ mẫu máu.
Mette Orskov Agerbæk, đồng tác giả
nghiên cứu cho rằng: "Chúng tôi đếm số
lượng tế bào ung thư và dựa vào đó, chúng
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 35/48
tôi có thể tiên lượng. Ví dụ, bạn có thể quyết
định thay đổi hướng điều trị nhất định nếu số
lượng tế bào khối u tuần hoàn không thay đổi
trong quá trình điều trị của bệnh nhân.
Phương pháp này cũng cho phép chúng ta lấy
ra các tế bào ung thư sống, sau đó phát triển
và sử dụng để thử nghiệm các phương pháp
điều trị để xác định phương thức điều trị nào
mà bệnh nhân đáp ứng được”.
Chương trình sàng lọc trong tương lai
Các nhà khoa học đang theo dõi các
kết quả trong một nghiên cứu lâm sàng quy
mô lớn, trong đó nhiều bệnh nhân ung thư
tuyến tụy đã được thử nghiệm bằng phương
pháp này. GS. Christopher Heeschen, đồng
tác giả của nghiên cứu cho biết: “Chúng tôi
đã tìm thấy số lượng lớn các tế bào khối u
tuần hoàn ở mọi bệnh nhân ung thư tuyến tụy,
nhưng trong nhóm đối chứng lại không có”.
Nhóm nghiên cứu hy vọng sẽ áp dụng
phương pháp này để sàng lọc những người có
nguy cơ cao mắc bệnh ung thư trong tương
lai. Tuy nhiên, phương pháp mới có thể được
sử dụng như chỉ dấu sinh học cho thấy một
bệnh nhân có phần lớn triệu chứng có nguy
cơ bị ung thư hay không. Điều này sẽ cho
phép các bác sĩ xác định giai đoạn của bệnh.
GS. Ali Salanti cho rằng: “Hiện nay,
khó xác định giai đoạn ung thư. Phương pháp
của chúng tôi giúp phát hiện ung thư ở giai
đoạn một, hai, ba và bốn. Dựa vào số lượng tế
bào khối u tuần hoàn được phát hiện trong
máu của một người nào đó, chúng tôi sẽ xác
định xem đây có phải là ung thư xâm lấn hay
không để điều chỉnh việc điều trị cho phù
hợp".
Theo vista.gov.vn, 28/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Phương pháp mới giúp đo lường mỡ thừa trong cơ thể chính xác và hiệu quả hơn Với mục tiêu hiểu rõ hơn về căn bệnh
béo phì, các nhà điều tra của Cedars-Sinai đã
phát triển một phương pháp mới để đo lượng
mỡ trong cơ thể một cách đơn giản và chính
xác hơn so với Chỉ số khối cơ thể (BMI) đang
được sử dụng rộng rãi hiện nay.
Phương pháp mới này đã được công bố
trên tạp chí Scientific Reports. "Mong muốn
của chúng tôi là tìm ra một phương pháp đáng
tin cậy, đơn giản và rẻ tiền hơn để đánh giá tỷ
lệ mỡ của cơ thể mà không cần dùng đến các
thiết bị phức tạp", nhà nghiên cứu Orison
Woolcott thuộc Cedars-Sinai cho biết.
Trong khi BMI đang được sử dụng
phổ biến thì nhiều chuyên gia về béo phì lại
cho rằng chỉ số này không chính xác, vì nó
không thể phân biệt giữa đâu là khối lượng
xương, khối lượng cơ và chất béo dư thừa.
BMI cũng không tính đến các ảnh hưởng của
giới tính, trong đó phụ nữ thường có nhiều
mỡ hơn nam giới.
Công thức mới này được gọi là Chỉ số
khối lượng chất béo tương đối (RFM), sử
dụng các số liệu về chiều cao và vòng eo để
đo lường tỷ lệ mỡ trong cơ thể.
"Kết quả tính toán trên rất nhiều đối
tượng đã cho thấy sự chính xác của công
thức: RFM là phuơng pháp đo lường lượng
mỡ trong cơ thể chính xác hơn các phuơng
pháp hiện đang được sử dụng trong y học và
khoa học, bao gồm cả BMI," Woolcott nói.
Đầu tiên, các nhà nghiên cứu đã tiến
hành đánh giá hơn 300 công thức đo lường
mỡ cơ thể dựa trên số liệu của 12.000 người
trưởng thành tham gia cuộc điều tra về sức
khỏe và dinh dưỡng do Trung tâm Kiểm soát
và Phòng ngừa dịch bệnh thực hiện.
Tiếp theo, các nhà nghiên cứu đã tính
toán tỷ lệ mỡ cho 3.500 bệnh nhân bằng
RFM, đồng thời cho họ thực hiện thêm
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 36/48
phương pháp quét DXA-một trong những
phương pháp đo mô, xương, cơ bắp và chất
béo trong cơ thể có độ chính xác cao nhất
hiện nay. Khi so sánh kết quả của 2 phương
pháp này, có thể thấy RFM và DXA có kết
quả gần giống nhau.
Tiến sĩ Richard Bergman, tác giả chính
của nghiên cứu và là giám đốc Trung tâm
nghiên cứu về Tiểu đường và Béo phì Cedars-
Sinai cho biết, RFM hiện đã được xác nhận là
có tính chính xác cao đối với nhiều bệnh
nhân, và các nhân viên y tế đang điều trị cho
những bệnh nhân béo phì mắc các vấn đề về
sức khỏe nghiêm trọng như tiểu đường, huyết
áp cao và bệnh tim có thể dễ dàng sử dụng.
Cách tính chỉ số RFM: Để tính chỉ số
RFM, cần phải đo chiều cao và chu vi vòng
eo.
Để đo vòng eo, đặt thước dây ngay
trên đầu xương hông và đưa thước vòng qua
cơ thể để lấy được số liệu chính xác nhất.
Tiếp theo, đặt những con số đó vào công thức
khối lượng chất béo tương đối như sau:
Đàn ông: RFM = 64 - (20 x (chiều cao/chu vi vòng eo))
Phụ nữ: RFM = 76 - (20 x (chiều cao /chu vi vòng eo))
Woolcott nói nói thêm: "Chúng tôi vẫn
phải kiểm tra chỉ số RFM trong các nghiên
cứu dài hạn, với số lượng đối tượng nghiên
cứu lớn hơn để xác định phạm vi tỷ lệ mỡ cơ
thể được coi là bình thường hoặc bất thường
trong mối quan hệ với các vấn đề sức khỏe
khác".
Theo cesti.gov.vn, 31/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Cải tiến phương pháp phân tích mẫu tế bào
Một nhóm các nhà nghiên cứu tại
trường Đại học Zurich, Thụy Sĩ đã phát triển
một phương pháp mới để phân tích mẫu tế
bào và các thành phần của tế bào, tạm gọi là
Kỹ thuật Hình ảnh Huỳnh quang Gián tiếp
Lặp lại (4i) (Iterative Indirect
Immunofluorescence Imaging). Công nghệ
mới ra đời cải tiến đáng kể kỹ thuật hình ảnh
huỳnh quang thông thường được áp dụng
trong y sinh học cũng như cung cấp cho bác
sĩ lâm sàng lượng lớn dữ liệu từng mẫu riêng
lẻ. Phương pháp 4i cho phép quan sát sự phân
bố không gian của ít nhất 40 loại protein và
phân tích quá trình biến đổi của chúng trong
tế bào, ở các mức độ khác nhau, từ phạm vi
mô đến phạm vi hệ cơ quan.
Số lượng protein được được quan sát
cùng lúc gấp 10 lần
Gabriele Gut, Viện Khoa học Đời sống
Phân tử tại UZH, tác giả chính của nghiên
cứu cho biết: "4i là kỹ thuật hình ảnh đầu tiên
mang lại cho chúng ta hình ảnh ghép kênh
của các mẫu sinh học trong phạm vi mô và cơ
quan. Lần đầu tiên, chúng tôi có thể kết nối
dữ liệu ghép kênh phạm vi mô, tế bào và dưới
tế bào trong cùng một thí nghiệm".
Immunofluorescence (IF) sử dụng
kháng thể để hiển thị hóa và định vị protein
trong các mẫu sinh học. Trong khi phương
pháp IF tiêu chuẩn thường đánh dấu ba
protein thì kỹ thuật 4i sử dụng kháng thể có
sẵn và kính hiển vi huỳnh quang thông
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 37/48
thường để hiển thị hóa số lượng protein gấp
mười lần bằng cách lặp lại và loại bỏ các
kháng thể khỏi mẫu. Gabriele Gut giải thích:
"Hãy tưởng tượng các nhà sinh học tế bào là
nhà báo. Mỗi thí nghiệm là một cuộc phỏng
vấn với một tế bào. Với IF thông thường tôi
có thể hỏi ba câu hỏi, trong khi với 4i, tôi có
thể thảo luận về hơn 40 chủ đề".
Bản đồ cung cấp khảo sát cái nhìn bao
quát có hệ thống về tế bào
Rào cản tiếp theo mà các nhà nghiên
cứu phải đối mặt là việc phân tích lượng dữ
liệu khổng lồ thu thập được. Nhóm tạo ra
hình ảnh của hàng nghìn tế bào với độ phân
giải dưới tế bào cho 40 kênh trong hơn 10
điều kiện điều trị. Trên thực tế, mắt người và
não bộ không thể xử lý độ phức tạp sinh học
do 4i thu thập.
Để tận dụng đầy đủ dữ liệu 4i,
Gabriele Gut đã phát triển một chương trình
máy tính mới để hiển thị hóa và phân tích có
tên gọi là Bản đồ Protein Ghép kênh. Nó tách
tín hiệu huỳnh quang ghép kênh cho hàng
triệu pixel và tạo ra một bản đồ trừu tượng
miêu tả sự phân bố protein ghép kênh trong
các tế bào.
Từ đó, các nhà nghiên cứu có thể khảo
sát một cách có hệ thống về bối cảnh tế bào:
Họ đã hiển thị hóa tổ chức nội bào không
gian của hầu hết các bào quan động vật có vú
dọc theo chu trình tế bào và trong các môi
trường vi mô khác nhau.
Thúc đẩy y học chính xác
Các ứng dụng cho kỹ thuật 4i và bản
đồ ghép kênh protein rất đa dạng trong nghiên
cứu cơ bản và y học chính xác. "Chúng tôi hy
vọng rằng kỹ thuật 4i và bản đồ ghép kênh
protein sẽ giúp các nhà nghiên cứu hiểu rõ
hơn về các quy trình vốn đã từng được xem là
vấn đề trọng tâm trong nghiên cứu sinh học
trong nhiều thập kỷ", Gut cho biết. Đồng thời,
các nhà khoa học cũng lên kế hoạch sử dụng
những công nghệ này để thúc đẩy các biên
giới của y học chính xác, đặc biệt là trong
chẩn đoán ung thư và lựa chọn liệu pháp.
Phương pháp mới đã được áp dụng
trong liệu pháp chữa ung thư
Phương pháp 4i mới cũng có thể được
sử dụng để xác định ảnh hưởng của các chất
dược lý đối với tổ chức và sinh lý tế bào. Kỹ
thuật này hiện cũng đang được sử dụng trong
một hợp tác nghiên cứu dịch thuật với các bác
sĩ lâm sàng và một công ty dược phẩm với
mục đích cải thiện kết quả điều trị ở bệnh
nhân ung thư. Nghiên cứu của Lucas
Pelkmans, giáo sư tại Viện Khoa học Đời
sống Phân tử tại UZH, và nhóm nghiên cứu
của ông nhắm tới mô tả đặc điểm tế bào ung
thư ở những bệnh nhân đã được điều trị bằng
các loại thuốc ung thư khác nhau. Các nhà
khoa học hy vọng rằng kết quả phòng thí
nghiệm sẽ cung cấp thông tin để hỗ trợ đưa ra
quyết định lâm sàng cho quá trình điều trị của
từng bệnh nhân. Bên cạnh đó, nhóm có kế
hoạch tiến hành thử nghiệm kỹ thuật 4i và
bản đồ ghép kênh protein trên các phần mô
của khối u để xác định các dấu ấn sinh học có
liên quan để từ đó cải thiện chất lượng chẩn
đoán và tiên lượng cho bệnh nhân ung thư.
Theo vista.gov.vn, 14/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Cấy ghép thành công phổi sinh học vào lợn
Cấy ghép nội tạng là một trong những
lĩnh vực khó khăn và phức tạp nhất của y học
hiện đại. Ngoài phải chờ đợi, tìm kiếm các
nguồn hiến tạng, thì ngay cả khi bệnh nhân đủ
điều kiện được ghép tạng thì việc thải ghép
rất dễ xảy ra. Điều này có thể dẫn đến ca cấy
ghép bị thất bại và cần phải phẫu thuật gỡ bỏ
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 38/48
ngay lập tức các cơ quan nội tạng đã được
cấy ghép.
Phổi là cơ quan rất khó cấy ghép vì
chứa nhiều mạch máu và chịu tác động lớn từ
hệ miễn dịch. Tuy nhiên, nếu các bác sỹ có
thể phát triển các cơ quan nội tạng theo yêu
cầu mong muốn từ các tế bào của chính bệnh
nhân thì sẽ mang lại nhiều hy vọng rất lớn
trong tương lai.
Mới đây các nhà khoa học Trường Đại
học Texas Medical Branch (UTMB) đã cấy
thành công phổi sinh học (bioengineered
lungs) vào lợn mà hoàn toàn không có biến
chứng sau cấy ghép.
Thay vì chờ đợi một người khác hiến
tặng nội tạng, trong tương lai, bệnh nhân dễ
dàng được cấy bất kỳ bộ phận nội tạng nào mà
họ cần được cấy ghép hoặc thậm chí in sinh
học 3D từ chính các tế bào của bệnh nhân.
Trong những năm gần đây, các nhà
nghiên cứu đã nỗ lực phát triển kỹ thuật sinh
học để tạo ra được các cấu trúc cơ thể khác
nhau như cơ bắp, mạch máu, thận, tuỷ xương
và da, mang lại cơ hội cấy ghép nội tạng giá
rẻ cho bệnh nhân trong tương lai.
Mới đây, các nhà nghiên cứu UTMB
đã cấy toàn bộ phổi vào lợn, được nuôi và
phát triển từ tế bào của chính họ. Để bắt đầu
thực hiện điều này, họ lấy một lá phổi từ một
con vật khác và làm sạch phổi trong một dung
dịch được thiết kế đặc biệt để loại bỏ tất cả
máu và tế bào sống. Những gì còn lại là một
“khung sinh học”của protein hình lá phổi.
Tiếp theo, các nhà nghiên cứu cắt một
bên phổi của mỗi con lợn đưa vào thử
nghiệm, và chọn lọc các tế bào của chúng.
Các khung sinh học này được làm sạch trong
một bể chứa đầy đủ dinh dưỡng và các tế bào
được chọn lọc từ lợn được đưa thêm vào
trong bể chứa này. Sau khi được thêm vào,
những tế bào này trải rộng khắp toàn bộ
khung sinh học trong vòng 30 ngày và hình
thành lá phổi hoàn toàn mới phục vụ quá trình
cấy ghép.
Để xem cơ quan mới này đã được tiếp
nhận như thế nào, các nhà nghiên cứu tiến
hành kiểm tra các nhóm lợn được cấy ghép
khác nhau theo các khoảng thời gian khác
nhau cụ thể là 10 tiếng, hai tuần, một tháng và
hai tháng sau khi phẫu thuật cấy ghép. Kết
quả sau kiểm tra cho thấy, tất cả các con lợn
vẫn khỏe mạnh trong suốt thời gian này, và
các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng phổi đã tự
điều chỉnh để phát triển các mạng lưới mạch
máu cần thiết trong hai tuần lễ.
Joan Nichols và Joaquin Cortiella,
trưởng nhóm nghiên cứu cho biết: “Chúng tôi
không thấy có dấu hiệu phù phổi, là dấu hiệu
thông thường cho thấy mạch máu không đủ
trưởng thành. Phổi sinh học tiếp tục phát
triển sau khi cấy ghép mà không cần phải
tiêm truyền bất kỳ các yếu tố tăng trưởng nào,
khung sinh học mới này tạo ra các khối kiến
tạo mà phổi mới cần thiết”.
Trong khi nghiên cứu này tập trung
vào việc phổi sinh học có thể tồn tại và phát
triển như thế nào trong vật chủ, nhóm nghiên
cứu lại chưa kiểm tra xem cơ quan phổi mới
này cung cấp oxy cho động vật tốt đến mức
độ nào.
Các nhà nghiên cứu nói rằng các
nghiên cứu trong tương lai sẽ phối hợp xem
xét khả năng cấp oxyu của cơ quan phổi mới
này trong các thử nghiệm. Nếu nó làm việc tốt,
phương pháp này có thể được sử dụng cho cấy
ghép trên người trong vòng 5 đến 10 năm.
Công trình nghiên cứu đã được công
bố trên tạp chí Science Translational
Medicine mới đây.
Theo vista.gov.vn, 08/082018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 39/48
Vi khuẩn đường ruột có thể làm cho việc giảm cân khó khăn hơn
Đối với một số người khi thực hiện
chế độ ăn uống, cân nặng có thể giảm, trong
khi những người khác lại gặp phải khó khăn
trong việc giảm cân. Bây giờ, một nghiên cứu
mới, cho thấy vi khuẩn đường ruột của con
người có thể đóng vai trò trong việc xác định
mức độ dễ hoặc khó của việc giảm cân.
Nghiên cứu cho thấy rằng, những
người từng có giai đoạn khó giảm cân, thì vi
khuẩn đường ruột của họ có khuynh hướng sử
dụng carbohydrate tốt hơn, cung cấp cho cơ
thể con người nhiều năng lượng hơn. Đây là
điều tốt, vì mọi người cần năng lượng để
cung cấp cho cơ thể. Nhưng đối với một số
người cố gắng giảm cân, thì khả năng vi
khuẩn đường ruột của họ cung cấp năng
lượng có thể là một sự ngăn chặn giảm cân.
Đồng tác giả nghiên cứu Tiến sĩ Purna
Kashyap cho biết: Nghiên cứu cho thấy, vi
khuẩn đường ruột có thể là yếu tố quan trọng
quyết định mức độ giảm cân, sau lối sống và
can thiệp chế độ ăn uống. Và nghiên cứu này
mới chỉ ở mức sơ bộ, cần những nghiên cứu
sâu hơn nữa. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy
cần phải đưa microbiome vào nghiên cứu lâm
sàng về giảm cân và nó mang đến hướng
quan trọng về việc chăm sóc bệnh nhân béo
phì.
Ở nghiên cứu này, các nhà khoa học đã
phân tích dữ liệu từ 26 người béo phì hoặc
những người béo phì có tham chương trình
điều trị béo phì liên quan đến chế độ ăn uống,
tập thể dục và thay đổi hành vi nhằm giúp
giảm cân và phân tích các mẫu phân của
người tham gia, được thu thập khi bắt đầu
nghiên cứu và sau ba tháng trong chương
trình giảm cân. Trong thời gian ba tháng này,
những người tham gia đã mất trung bình 8,2
lbs. (3,7 kg). Chín trong số những người tham
gia đã tiêu hao 5% trọng lượng cơ thể của họ,
trong nghiên cứu như vậy được coi là giảm
cân "thành công". 17 người khác giảm được
5% trọng lượng cơ thể của họ. Trong nhóm
giảm cân "thành công", người tham gia giảm
được 7,9 kg so với 1,5 kg trong nhóm "giảm
cân không thành công". Tiếp theo, nhóm
nghiên cứu sử dụng các mẫu phân, phân tích
vi khuẩn đường ruột của những người tham
gia cho các gen vi khuẩn đóng vai trò trong
việc phá vỡ các carbohydrate. Họ phát hiện ra
rằng, trong nhóm giảm cân không thành công,
có một số lượng lớn các gen vi khuẩn này, so
với nhóm giảm cân thành công.
Hơn nữa, nghiên cứu cũng phát hiện ra
rằng những người trong nhóm giảm cân thành
công có lượng vi khuẩn cao hơn gọi là
Phascolarctobacterium, trong khi những
người trong nhóm giảm cân không thành
công có lượng vi khuẩn cao hơn gọi là
Dialister. (Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu vi
khuẩn Dialister có sử dụng carbohydrates là
cách cụ thể có thể cản trở việc giảm cân, các
nhà nghiên cứu lưu ý). Tiến sĩ Purna Kashyap
cho biết: Cần thêm những nghiên cứu sâu hơn
để xác nhận những phát hiện của nghiên cứu
này, về các phương pháp nhắm vào mục tiêu
probiotic trước khi thực hiện trương chình
giảm cân.
Nghiên cứu này đã được công bố trên
tạp chí Mayo Clinic Proceeding!
Theo vista.gov.vn, 08/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 40/48
Kỹ thuật mới biến đổi mỡ trắng thành mỡ nâu
Mô mỡ màu nâu trong cơ thể có thể
đốt cháy khối năng lượng khổng lồ để sản
sinh nhiệt. Các nghiên cứu ở người và động
vật cho thấy tăng lượng mỡ nâu khỏe mạnh sẽ
giúp giảm cân và các triệu chứng của bệnh
tiểu đường. Tuy nhiên, làm thế nào để tăng
lượng mỡ nâu một cách an toàn và hiệu quả là
thách thức lớn đối với các nhà nghiên cứu.
Một nhóm kỹ sư tại trường Đại học
Columbia do Sam Sia, giáo sư kỹ thuật y sinh
dẫn đầu, đã đưa ra một phương pháp đơn
giản, sáng tạo để trực tiếp chuyển đổi mỡ
trắng thành mỡ nâu ở bên ngoài cơ thể và sau
đó cấy lại vào bệnh nhân. Kỹ thuật này sử
dụng phương pháp ghép mỡ thường được
thực hiện bởi các bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ,
trong đó mỡ được lấy từ dưới da, sau đó,
được cấy lại vào người bệnh để phục vụ mục
đích thẩm mỹ hoặc tái tạo. Nghiên cứu đã
được công bố trên Science Reports nêu rõ đã
biến đổi thành công mỡ trắng thành mỡ nâu
trong phòng thí nghiệm với tiềm năng sử
dụng làm liệu pháp.
Các phương pháp khác để tăng lượng
chất béo màu nâu bao gồm tiếp xúc thường
xuyên với nhiệt độ lạnh gây khó chịu cho hầu
hết mọi người và dược phẩm có thể gây ra tác
dụng phụ do hướng vào các cơ quan khác.
GS. Sia cho rằng: "Phương pháp mới tăng mỡ
nâu an toàn hơn thuốc vì thứ duy nhất mà
bệnh nhân tiếp nhận là mỡ nâu và hoạt động
này được kiểm soát chặt chẽ vì chúng tôi có
thể điều chỉnh lượng mỡ nâu được tiêm vào
cơ thể. Quá trình này còn đơn giản đến nỗi
nó có thể được thực hiện bằng cách sử dụng
một hệ thống tự động tại phòng khám tư".
Nhóm nghiên cứu đã chuyển đổi mỡ trắng
thành mỡ nâu bằng cách nuôi cấy các mảnh
mô trong môi trường có chứa các yếu tố tăng
trưởng và các yếu tố nhuộm nâu nội sinh khác
trong vòng từ 1-3 tuần để kích thích quá trình
"làm nâu". Các nhà khoa học đã đánh giá độ
nâu của mỡ trắng thông qua đo nồng độ của
một số chỉ dấu sinh học của mỡ nâu, bao gồm
hoạt động của ty thể và chỉ dấu protein của
mỡ UCP1. Qua một trong số các thí nghiệm,
các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng mỡ
trắng dưới da chuột có thể được chuyển trực
tiếp thành mỡ nâu bên ngoài cơ thể và mỡ
nâu tồn tại và vẫn ổn định sau khi tiêm vào
cùng chính con chuột đó trong một thời gian
dài (hai tháng sau thử nghiệm này).
Brian Gillette, kỹ sư y sinh và là đồng
tác giả nghiên cứu cho biết: "Sự tồn tại của
mỡ nâu đã chuyển đổi là rất quan trọng bởi
chúng ta biết rằng khi mỡ trắng được kích
thích theo cách tự nhiên để biến đổi thành mỡ
nâu trong cơ thể, ví dụ thông qua tiếp xúc
lạnh, nó có thể nhanh chóng biến đổi trở lại
khi ngừng kích thích. Dù chúng tôi có thể lặp
lại quy trình này vài lần nếu cần thiết, vì xâm
lấn rất ít, nhưng điều quan trọng là mỡ nâu
vẫn tồn tại và ổn đinh để có thể hoạt động
như một liệu pháp hiệu quả".
Sau đó, nhóm nghiên cứu đã áp dụng
các phương pháp mới cho mỡ dưới da người
và đã chuyển đổi thành mỡ nâu một cách hiệu
quả. Nicole Blumenfeld, nghiên cứu sinh tiến
sỹ và là đồng tác giả nghiên cứu cho rằng một
ngày nào đó có thể áp dụng phương pháp này
cho người như một liệu pháp tiềm năng để
giúp giảm cân, kiểm soát đường huyết hoặc
để ngăn chặn tình trạng tăng cân.
Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, dù
những con chuột theo chế độ ăn nhiều chất
béo được điều trị bằng mỡ nâu chuyển đổi
trực tiếp trong thí nghiệm, không cho kết quả
giảm cân nhiều hơn so với nhóm đối chứng
được điều trị bằng mỡ trắng chưa biến đổi,
nhưng nghiên cứu chứng tỏ phương pháp
ghép mô đơn giản và có thể mở rộng quy mô
làm tăng lượng mỡ nâu nội sinh.
Các nhà khoa học hiện đang cải tiến kỹ
thuật và thực hiện nghiên cứu sâu hơn về tác
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 41/48
động của phương pháp mới đến quá trình trao
đổi chất và cân nặng.
Theo dantri.gov.vn, 14/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Các nhà nghiên cứu phát triển các loại thuốc tiềm năng để hạn chế cơn thèm thuốc lá
Một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc
trường Đại học bang Washington (Hoa Kỳ)
đã nghiên cứu và phát triển hơn mười loại
thuốc thử nghiệm có tác dụng kiềm chế mong
muốn hút thuốc lá của người nghiện thuốc
bằng cách làm chậm quá trình phân hủy thuốc
trong cơ thể. Nhóm nghiên cứu hy vọng các
hợp chất này có thể góp phần giúp một bộ
phận những người thường xuyên có thói quen
hút thuốc lá nếu không thể bỏ hoàn toàn thì
cũng giảm thiểu lượng tiêu thụ thuốc lá.
Phát hiện mới được công bố trên Tạp
chí Hóa học dược phẩm, nhắm vào một loại
enzyme ở gan có tên gọi là CYP2A6 và là
chất chuyển hóa nicotin. Trước đó, vào giữa
những năm 90, các nhà nghiên cứu Canada đã
chứng minh rằng những người có ít bản sao
của một gen cho enzyme có khuynh hướng
hút thuốc ít hơn và ít có khả năng nghiện hút
thuốc hơn.
Nicotin giải phóng các chất dẫn truyền
thần kinh như dopamine và serotonin - hai
loại hóa chất được sản sinh trong cơ thể.Tuy
nhiên, khi nicotin được chuyển hóa, người hút
sẽ trải qua các triệu chứng vật vã vì thiếu
thuốc như: ngứa ran ở bàn tay và bàn chân,
đổ mồ hôi, lo âu và khó chịu.
Theo Travis Denton, trợ lý giáo sư
khoa học dược phẩm, tác giả chính và đặc
biệt cũng là một người đã từng hút thuốc lá đã
nghiên cứu các giải pháp hạn chế sự phụ
thuộc nicotin trong 15 năm, các nhà nghiên
cứu đang nhắm tới mục tiêu giảm thiểu những
cảm giác nêu trên.
"Bản thân tôi tin rằng những người
muốn có ý định bỏ thuốc lá thực sự muốn bỏ
thuốc lá", ông nói. "Họ không thể bỏ thuốc vì
đối với họ, việc này không thực sự dễ dàng.
Nếu bạn uống thuốc này thì những cảm giác
lo lắng, bồn chồn sẽ không đến nhanh, và
thuốc có tác dụng tăng cường để giúp bạn bỏ
thuốc lá".
Denton và Philip Lazarus - giáo sư
khoa học dược phẩm nổi tiếng của Boeing và
là đồng tác giả của bài báo, đã thiết kế hàng
chục phân tử có khả năng liên kết với enzyme
CYP2A6 và ức chế khả năng chuyển hóa
nicotin của nó.
Lazarus chia sẻ: "Việc ức chế CYP2A6
sẽ không làm ảnh hưởng đến sức khỏe tổng thể
của người hút. Nếu nhắm mục tiêu cụ thể vào
enzyme này, nó có thể hỗ trợ những người
nghiện thuốc lá ngừng hút thuốc hoặc ít nhất
là giảm lượng thuốc lá của họ tiêu thụ”.
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu đã
tiến hành thử nghiệm các loại thuốc nhằm
đảm bảo rằng chúng không làm gián đoạn
hoạt động của các enzyme chính khác chịu
trách nhiệm chuyển hóa các chất khác trong
cơ thể. Quá trình thử nghiệm thu gọn số
lượng thuốc tiềm năng xuống còn 18 loại.
Trong trường hợp được Cục Quản lý
Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA)
phê duyệt và thông qua nhằm xác minh tính
an toàn của thuốc, các thử nghiệm lâm sàng
sẽ bắt đầu được tiến hành để nghiên cứu cách
thức hoạt động của nó trên cơ thể người.
Theo vista.gov.vn, 29/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 42/48
Bước nhảy vọt của y học: Giới khoa học tìm ra cách chuyển nhóm máu A thành nhóm máu O
Một số loại vi khuẩn được tìm thấy
trong ruột người hứa hẹn sẽ đem lại cơ hội
sống cho hàng triệu người nhờ khả năng biến
đổi nhóm máu A thành nhóm máu O.
Trong một phiên họp của Hiệp hội Hóa
học Mỹ mới đây, nhà khoa học Steve Withers
thuộc Đại học British Columbia đã trình bày
về công trình nghiên cứu vô cùng hữu ích liên
quan đến cách biến đổi nhóm máu.
Theo Newsweek, Withers đã phát hiện
thấy một số loại enzym phân hủy trong đường
ruột có khả năng tạo ra phương pháp điều trị
y tế đột phá.
Theo Hội chữ thập đỏ Mỹ, con người
có 4 nhóm máu chính là A, B, AB và O. Mặc
dù số lượng tế bào hồng cầu trong mỗi nhóm
máu đều như nhau nhưng chúng lại có sự
khác biệt về lượng đường hoặc kháng
nguyên. Nhóm máu A có chứa kháng nguyên
A trong khi, nhóm máu B chứa kháng nguyên
B. Nhóm máu AB lại chứa cả hai kháng
nguyên A và B. Cuối cùng nhóm máu O
không có kháng nguyên.
Các nhóm máu bạn có thể cho (cột hai) và nhận (cột ba)
Điều này dẫn tới việc nhóm máu O có
thể tương thích với tất cả nhóm máu khác vì
nó không chứa bất kỳ kháng nguyên nào và
không phải lo cơ thể người nhận đào thải vì
không tương thích.
Ngoài ra còn có một loại protein gọi là
yếu tố RH. Khái niệm RH (Rhesus) chỉ tình
trạng protein trong máu. Việc xác định và kiểm
tra yếu tố Rh (+) hay Rh (-) trong máu rất quan
trọng vì nó ảnh hưởng đến sức khỏe thai nhi.
Nhóm máu O thường được gọi vui rằng là
"nhóm máu cho" vì khả năng truyền cho tất cả
mọi người chứa cả Rh (+) hoặc Rh (-).
Withers chia sẻ: "Chúng tôi phát hiện
thấy lớp đường trên tế bào hồng cầu gần như
tương đồng với loại đường được sản sinh ra
trên lớp lót thành ruột".
Trước đó, nhóm nghiên cứu của
Withers đã bắt đầu tìm kiếm các enzym trong
phân người có khả năng tách một tế bào khỏi
lớp đường phủ lên chúng. Tất nhiên enzym
này phải có khả năng hấp thụ đường khi đang
tồn tại trong đường ruột.
Nhóm nghiên cứu nhận thấy có một
enzym tách đường từ các protein trên thành
ruột, được gọi là dịch nhầy. Loại đường trong
dịch nhầy rất giống với các kháng nguyên
trên hồng cầu. Khi nhóm bổ sung thêm loại
enzym này vào nhóm máu A có yếu tố Rh (-),
nó đã ăn các kháng nguyên và chuyển máu
thành nhóm O Rh (-).
Withers tin tưởng, kỹ thuật này sẽ giúp
mở ra nguồn cung cấp nhóm máu O dồi dào
hơn, bởi lẽ đây là nhóm máu phù hợp với tất
cả mọi người. Nếu được áp dụng tại các khu
vực hẻo lánh hay trong chiến tranh, kỹ thuật
trên có thể giúp bổ sung nguồn máu dự trữ và
chữa trị kịp thời cho bệnh nhân nguy cấp.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 43/48
Từ lâu giới y học đã có phương pháp
chuyển các nhóm máu khác sang nhóm O,
nhưng phương pháp mới này có tốc độ
chuyển đổi nhanh hơn gấp 30 lần.
Các nhà khoa học lần đầu tiên chứng
minh được con người có thể chuyển đổi nhóm
máu B sang nhóm máu O vào năm 1982 nhờ
sử dụng một enzym từ hạt cà phê xanh. Tuy
nhiên quy trình chuyển đổi này đòi hỏi một
lượng lớn enzym, dẫn tới việc khó có thể áp
dụng trên quy mô lớn.
Hiện nhóm nghiên cứu của Withers
đang tiếp tục thử nghiệm và đánh giá enzym
để đảm bảo không xảy ra bất cứ hậu quả nào
ngoài ý muốn, trước khi được thử nghiệm lâm
sàng trên người.
Theo vnreview.vn, 23/08/2018
Trở về đầu trang
**************
NÔNG NGHIỆP Hoàn tất giải mã trình tự bộ gen của lúa mì
Các nhà khoa học cho biết, trình tự
hoàn chỉnh của bộ gen lúa mì đã được công
bố và bộ dữ liệu khổng lồ này sẽ thúc đẩy khả
năng phục hồi và kháng bệnh của các giống
cây trồng, đồng thời cung cấp đủ lương thực
cho con người trong thời đại bùng nổ dân số.
Lúa mì là loại cây lương thực được
trồng phổ biến nhất trên trái đất. Trong bữa
ăn hằng ngày, nó cung cấp nhiều protein hơn
thịt và đóng góp khoảng 1/5 số calo mà con
người tiêu thụ. Bên cạnh đó, nó cũng có một
bộ gen lớn và phức tạp với 16 tỷ cặp nucleotit
- lớn gấp năm lần bộ gen của con người.
Tuy nhiên, lúa mì dễ bị tổn thương bởi
hạn hán, lũ lụt và bệnh hại do nấm và virus.
Việc giải trình tự bộ gen của lúa mì sẽ mở
đường cho việc tạo ra những giống lúa mì bền
vững, sinh trưởng nhanh, năng suất cao, chất
lượng dinh dưỡng cao và thích nghi tốt với
biến đổi khí hậu.
Trình tự của bộ gen lúa mì từ lâu đã là
một thách thức lớn đối với các nhà khoa học.
Lúa mì có ba bộ gen phụ, với phần lớn là các
nguyên tố lặp đi lặp lại. Điều này có nghĩa là
các bộ gen của lúa mì trông rất giống nhau.
Cho đến bây giờ, rất khó để có thể phân biệt
mỗi bộ gen phụ và kết hợp các bộ gen vào
đúng thứ tự của nó.
Một bài báo đăng trên tạp chí Khoa
học của Hiệp hội Gen Lúa mì Quốc tế, với tác
giả là hơn 200 nhà khoa học đến từ 73 tổ
chức nghiên cứu ở 20 quốc gia, trong đó có
Trung tâm John Innes ở Anh đã trình bày chi
tiết trình tự của 21 nhiễm sắc thể, vị trí chính
xác của 107,891 gen và hơn 4 triệu chỉ thị
phân tử. Bài báo thứ hai thực hiện bởi một
nhóm các nhà nghiên cứu tại Trung tâm John
Innes đã cung cấp các chú giải và tài nguyên
hỗ trợ cho các nhà nghiên cứu và các nhà lai
tạo hiểu được sự ảnh hưởng của các gen đến
các tính trạng của lúa mì, giúp tạo ra các
giống lúa mì có năng suất cao, phục hồi
nhanh hơn trước những thay đổi của môi
trường và cải thiện sức đề kháng của lúa mì
với dịch bệnh.
Trong một công trình trước đây
tại Trung tâm John Innes, các nhà nghiên cứu
cũng đã hoàn thiện một kỹ thuật nhân giống
nhanh, sử dụng các nhà kính để rút ngắn chu
kỳ sinh trưởng của lúa mì, kết hợp với nguồn
gen được phát triển theo hai bài báo đã nêu,
đã giảm thiểu đáng kể thời gian kiểm tra xem
các chỉ thị di truyền có thực sự chống chịu
được hạn hán, và các nhà lai tạo có thể đưa
nhanh các giống mới ra thị trường hay không.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 44/48
Cristobal Uauy, Trưởng dự án nghiên
cứu di truyền cây trồng tại Trung tâm John
Innes cho biết: “Hiểu biết về di truyền của
các loại cây trồng đã thúc đẩy khả năng lựa
chọn và nhân giống các tính trạng quan trọng.
Giải quyết bộ gen khổng lồ của lúa mì là một
thách thức lớn, nhưng nếu hoàn thành công
việc này, chúng ta có thể xác định được các
gen kiểm soát những đặc điểm mong muốn
nhanh hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
nhân giống các giống lúa mì có các đặc điểm
như chống chịu hạn hán hoặc kháng bệnh."
Uauy nói thêm: "Có dự đoán rằng thế
giới sẽ cần thêm 60% lúa mì vào năm 2050
để đáp ứng nhu cầu toàn cầu. Qua những
nghiên cứu của chúng tôi cũng như các công
bố quốc tế, chúng ta đang có những lợi thế để
tăng năng suất cây trồng, tạo ra cây giống có
chất lượng dinh dưỡng cao và thích nghi hơn
với biến đổi khí hậu. "
Philippa Borrill, nghiên cứu viên tại
Trung tâm John Innes nói: "Những năm làm
việc để giải mã bộ gen lúa mì chỉ là khởi đầu.
Các kết quả này sẽ tạo điều kiện hợp tác giữa
các nhà khoa học, nhà lai tạo và nhà nông để
định vị và xác định các gen cải thiện năng
suất lúa mì theo cách bền vững và có trách
nhiệm."
Bộ gen thực sự là công cụ giúp chúng
ta giải quyết những thách thức về an ninh
lương thực và biến đổi khí hậu. Chúng tôi tin
rằng, trong vài năm tới chúng ta có thể cải
thiện tính trạng của lúa mì giống như đã tinh
lọc tính trạng của gạo và ngô, sau khi trình tự
gen của chúng được khám phá hoàn
toàn.", Ricardo Ramirez-Gonzalez, một nhà
khoa học tại Trung tâm John Innes nói.
Theo cesti.gov.vn.vn,18/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Các nhà nghiên cứu khám phá chìa khóa để sản xuất hàng loạt các hợp chất có lợi cho các loài thực vật
Một nhóm các nhà khoa học thuộc
trường Đại học Purdue (Hoa Kỳ) đã phát
hiện ra nút kích hoạt có khả năng làm ngưng
quá trình sản xuất terpenoids - nhóm hợp
chất đóng vai trò trong chức năng sinh lý học
ở thực vật, là một trong những thành phần
chính của các loại dầu thiết yếu của nhiều loại
cây và hoa và thường được sử dụng như là
chất phụ gia hương vị tự nhiên cho thực
phẩm, nước hoa và trong các loại thuốc
truyền thống và thay thế như dầu thơm,
hương liệu cho nhiên liệu sinh học và dược
phẩm. Bài báo về nghiên cứu được đăng tải
trên tạp chí Nature Plants.
Ngoài các lĩnh vực trên, terpenoids
cũng có thể được ứng dụng trong sản xuất các
loại dưỡng chất, thuốc trừ sâu tự nhiên và các
loại thuốc điều trị bệnh sốt rét và ung thư.
Thuốc hóa trị có thành phần Taxol được sử
dụng trong đặc trị cho phần lớn các loại bệnh
ung thư như ung thư vú, buồng trứng, phổi,
bàng quang và tuyến tiền liệt có nguồn gốc từ
terpenoids. Tuy nhiên, hàm lượng terpenoids
tự nhiên do thực vật sản xuất thường rất ít, do
vậy, việc chiết xuất hợp chất này để sử dụng
cho những mục đích nêu trên là không khả
thi.
Phát hiện mới của nhà nghiên cứu
Natalia Dudareva, giáo sư danh dự tại Khoa
Hóa sinh, đại học Purdue, Trung tâm Sinh
học thực vật Purdue cùng tiến sĩ Laura Henry,
phòng thí nghiệm Dudareva và các đồng
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 45/48
nghiệp từ Purdue và Viện Nghiên cứu Sinh
học Salk giải thích cách thức thực vật kiểm
soát các con đường trao đổi chất bằng cách
điều chỉnh các nhóm monophosphates được
sử dụng để sản xuất terpenoid.
Các nhà khoa học trước đó đã xác định
cách thức cây trồng kích hoạt quá trình sản
xuất terpenoid, tuy nhiên, việc nhận thức,
hiểu biết về cả hai công tắc "bật" và "tắt" là
rất cần thiết để cải thiện hàm lượng terpenoid.
Họ cũng phát hiện ra một hạn chế tiềm ẩn
trong sự thay đổi liên tục thông qua con
đường chuyển hóa của hợp chất terpenoid ở
thực vật.
Dudareva cho biết: "Đây là kiến thức
cơ bản quan trọng mở ra các mục tiêu mới
cho kỹ thuật chuyển hóa terpenoid. Trên thực
tế, trong tự nhiên, thực vật có khả năng sản
xuất các hợp chất này, nhưng với hàm lượng
rất nhỏ. Thậm chí, hàm lượng hợp chất tự
nhiên được chiết xuất từ hàng trăm hoặc
hàng nghìn cây cũng chỉ đủ để sử dụng trong
sản xuất dược phẩm".
Enzym Isopentenyl phosphate kinases
(IPK) có vai trò chuyển hóa các nhóm
monophosphates thành diphosphates vốn
được chuyển hóa thông qua các quá trình thu
hồi và thanh lọc các sản phẩm sinh tổng hợp
thành dẫn xuất terpenes. Dudareva và cộng sự
đã xác định được hai enzyme Nudix chịu
trách nhiệm khử phosphate - loại bỏ một
nhóm phosphate để biến các diphosphat có
ích trở lại thành nhóm monphosphat trơ.
Henry - nhà hóa học phân tích từ
Heritage Research Group cho biết: “Việc kết
hợp hai enzyme IPK và Nudix là để điều
chỉnh sự hình thành sản phẩm của quá trình
thu hồi và thanh lọc các sản phẩm sinh tổng
hợp. Ở nồng độ cao, một số các sản phẩm
này có thể gây độc, hại cho cây trồng. Đây là
cách thức điều chỉnh năng suất ở thực vật".
Phòng thí nghiệm của Dudareva hiện
đang nghiên cứu các phương pháp để thiết kế
các con đường trao đổi chất ở thực vật nhằm
mục đích cải thiện nồng độ terpenoid.
Dudareva nói: “Chúng ta có thể tổng
hợp một số hợp chất không có trong tự nhiên
ở thực vật, nhưng chúng ta có thể đưa một
gen quan trọng vào mô thực vật để tạo ra các
hợp chất mong muốn hoặc để làm gia tăng
đáng kể năng suất của chúng”.
Theo vista.gov.vn, 23/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Sản xuất thức ăn nuôi trồng thủy sản bền vững từ sản phẩm tương tự vi tảo biển
Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học
Dartmouth đã tạo ra một nguồn thức ăn bền
vững hơn cho nuôi trồng thủy sản bằng cách
sử dụng sản phẩm tương tự như vi tảo biển
làm một thành phần trong thức ăn chăn nuôi.
Đây là nghiên cứu đầu tiên đánh giá khả năng
thay thế bột cá bằng một sản phẩm tương tự
trong thức ăn cho cá rô phi ở sông Nile. Kết
quả nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí
truy cập mở, PLOS ONE.
Nuôi trồng thủy sản là ngành thực
phẩm phát triển nhanh nhất thế giới. Nuôi
trồng thủy sản cung cấp hơn 50% nguồn
lương thực cho con người, nhưng lại gây ra
một số sự cố môi trường. Thức ăn thủy sản sử
dụng 70% khối lượng bột cá và dầu cá của thế
giới bắt nguồn từ các loại cá nhỏ, đánh bắt
dưới đại dương như cá cơm, cá mòi, cá trích
và cá thu, rất cần cho phần dưới của chuỗi
thức ăn ở đại dương. Các nhà phân tích dự
đoán đến năm 2040, nhu cầu bột cá và dầu cá
sẽ vượt quá nguồn cung. Thức ăn thủy sản
cũng khai thác khối lượng lớn đậu tương và
ngô từ các trang trại công nghiệp, gây ra các
mối lo ngại khác về môi trường do sử dụng
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 46/48
phân bón và dòng thải tiềm ẩn đổ xuống sông,
hồ và các thủy vực ven biển. Ngoài ra, thức
ăn thủy sản có thể gây ô nhiễm dòng nước
thải nuôi trồng thủy sản, vì cá không thể tiêu
hóa hết đậu tương và ngô, thành phần chính
của thức ăn.
Để giải quyết các mối lo ngại về môi
trường bền vững của thức ăn thủy sản, nhóm
nghiên cứu tại trường Đại học Dartmouth đã
phát triển nguồn thức ăn bền vững cho cá rô
phi, xem xét hiệu quả của việc thay thế bột cá
và dầu cá bằng các loại vi tảo biển khác. Tảo
biển là nguồn cung cấp dồi dào các axit amin
thiết yếu, khoáng chất, vitamin và axit béo
omega-3, nên có thể đáp ứng các yêu cầu
dinh dưỡng cho cá. Axít béo Omega-3 rất
quan trọng để duy trì sức khỏe của cá; chúng
cũng tốt cho thần kinh, tim mạch và chống
ung thư ở con người.
Nhóm nghiên cứu đã thay thế bột cá
bằng Nannochloropsis oculata, sản phẩm
tương như vi tảo biển giàu protein và axit béo
omega-3 bao gồm axit eicosapentaenoic thiết
yếu tác động đến sự sự sinh trưởng và chất
lượng của cá. Các đồng sản phẩm còn lại là
bột tảo, sau khi các loại dầu được chiết xuất
từ sinh khối tảo được trồng thương mại để sản
xuất các chất dinh dưỡng, hóa chất và các ứng
dụng cho nhiên liệu. Các phát hiện nghiên
cứu cho thấy triển vọng thay thế các thành
phần protein thông thường trong thức ăn của
cá rô phi.
Nghiên cứu đã chứng minh sản phẩm
tương tự vi tảo có hàm lượng protein cao
nhưng có thể làm giảm khả năng tiêu hóa.
Các nhà khoa học cũng đã đánh giá một số
nguồn thức ăn thủy sản có tỷ lệ đồng sản
phẩm thay thế bột cá khác nhau. Khi 33% bột
cá được thay thế bằng một sản phẩm tương
tự, cá rô phi sông Nile sẽ có tốc độ tăng
trưởng cá và tỷ lệ chuyển hóa thức ăn và tỷ lệ
sống sót tương tự như chế độ ăn với bột cá là
7%. Nhóm nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng
sản phẩm tương tự vi tảo cần được tăng
cường enzyme để tăng tối đa khả năng cung
cấp chất dinh dưỡng và khắc phục hiện tượng
tiêu hóa kém như quan sát trong thí nghiệm.
PGS. Pallab Sarker, đồng tác giả
nghiên cứu cho rằng: “Triển vọng phát triển
phương pháp nuôi trồng thủy sản bền vững
thật thú vị. Xã hội của chúng ta có cơ hội
chuyển từ sự phụ thuộc vào thức ăn thủy sản
với các nguyên liệu từ cá sang sản phẩm
không sử dụng cá mà là vi tảo biển. Phát hiện
của chúng tôi cung cấp thông tin chi tiết về
cách chúng ta có thể đạt được mục tiêu đó”.
Theo vista.gov.vn, 28/08//2018
Trở về đầu trang
**************
MÔI TRƯỜNG
Phương pháp tự nhiên, chi phí thấp để loại bỏ các chất ô nhiễm khỏi nước
Nhóm nghiên cứu tại trường Đại học
quốc gia Singapo do giáo sư hoa học Cindy
Samet dẫn đầu, đã thực hiện các thử nghiệm
lọc nước bằng vỏ và hạt của hơn một chục
loại thực phẩm từ bí ngô và đậu bắp đến
chanh và chuối. Kết quả đã loại bỏ được
methylen xanh, chì và đồng thông qua quá
trình hấp phụ, liên kết hóa học của các phân
tử ô nhiễm trên bề mặt của vỏ. Nghiên cứu đã
được công bố trên tạp chí Chemical
Education.
Năm 2015, Suresh Valiyaveettil, đồng
tác giả nghiên cứu và là giáo sư tại trường
Đại học quốc gia Singapo đã công bố báo cáo
nghiên cứu ban đầu làm nền tảng cho nghiên
cứu mới của GS. Samet. Trong nghiên cứu
GS. Valiyaveettil đã phân tích khả năng của
vỏ quả bơ, dưa vàng và thanh long trong việc
lọc nước ô nhiễm. Vỏ bơ sấy khô có thể hấp
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 47/48
thụ khối lượng lớn methylene xanh trên bề
mặt của nó trong vài giờ.
GS. Samet đã làm theo phương pháp
của GS. Valiyaveettil để làm sạch bề mặt quả
bằng cách đun sôi vỏ/hạt để khử tạp chất hòa
tan trên bề mặt. Sau đó, vỏ được sấy khô và
nghiền trước khi được đưa vào dung dịch
chứa các chất ô nhiễm. Nghiên cứu đã thu
được nhiều kết quả như hạt chanh đã loại khử
100% ion chì, trong khi với vỏ canh, tỷ lệ này
là 96,4%. Vỏ đậu bắp cũng loại bỏ được
100% ion chì, trong khi với hạt là 50%.
GS. Samet cho rằng: "Kết quả nghiên
cứu mở rộng những gì chúng ta biết về vỏ rau
quả như là một phương pháp hữu cơ, tái tạo,
chi phí thấp để loại bỏ các chất ô nhiễm khỏi
nước. Chúng tôi đã nhân rộng kết quả từ
phòng thí nghiệm của GS. Valiyaveettil với bơ
và sau đó nghiên cứu các loại vỏ và hạt rau
quả chưa từng được thử nghiệm trước đây.
Điều này thật thú vị vì phương pháp lọc này
có thể được đưa từ phòng thí nghiệm để áp
dụng tại nhà bếp".
Trong tương lai, mọi người có thể sấy
khô vỏ để sử dụng như một lựa chọn tự nhiên,
tại nhà để loại bỏ tạp chất khỏi nước uống.
Nhưng Dự án của GS. Samet đã tập trung vào
các chất thải công nghiệp như thuốc nhuộm và
các ion kim loại nặng. Trên quy mô lớn, GS.
Samet cho rằng vỏ rau quả trong tương lai có
thể cung cấp một giải pháp hợp lý cho nhiều
nơi trên thế giới có nguồn cung cấp nước uống
sạch và an toàn đang bị thu hẹp (ít dần).
Theo vista.gov.vn, 14/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Biến đổi khí CO2
Một nhóm các nhà nghiên cứu tại
Trung tâm Xúc tiến khoa học và công nghệ
thuộc trường Đại học Delaware (CCST) đã
phát hiện ra một quy trình mới gồm hai bước
để tăng hiệu quả điện phân CO2, một phản
ứng hóa học được điều khiển bằng dòng điện
có thể hỗ trợ sản xuất hóa chất và nhiên liệu
có giá trị. Kết quả nghiên cứu mới được công
bố trên tạp chí Nature Catalysis.
Nhóm nghiên cứu do Feng Jiao, phó
giáo sư hóa học và kỹ thuật sinh học phân tử
dẫn đầu, đã gặt hái thành công nhờ chế tạo
một thiết bị chuyên dụng ba buồng gọi là bình
điện phân, sử dụng điện để khử CO2 thành
các phân tử nhỏ hơn.
So với nhiên liệu hóa thạch, sử dụng
điện là một phương pháp thân thiện với môi
trường và phù hợp cho các quy trình hóa học
sản xuất hóa chất và nhiên liệu thương mại.
Các sản phẩm này trong đó có ethylene, có
thể được sử dụng để sản xuất nhựa và
ethanol, phụ gia nhiên liệu giá trị.
PGS. Jiao cho rằng công nghệ điện
phân này mở ra một hướng mới để đạt mục
tiêu về tính chọn lọc cao với tốc độ phản ứng
đáng kinh ngạc. Đây là một bước tiến quan
trọng cho các ứng dụng thương mại.
Dù điện phân CO2 trực tiếp là phương
pháp tiêu chuẩn để khử CO2, nhưng nhóm
nghiên cứu đã tách quá trình điện phân thành
hai bước, bao gồm khử CO2 thành CO và sau
đó, khử CO thành các sản phẩm đa cacbon
(C2+). Phương pháp 2 bước này có nhiều lợi
thế hơn so với phương pháp thông thường.
PGS. Jiao nói: "Bằng cách biến đổi
quy trình điện phân thành hai bước, chúng tôi
đã đạt được mục tiêu về mức độ chọn lọc cao
hơn so với điện phân trực tiếp, nhằm hướng
đến các sản phẩm đa cacbon. Chiến lược
phản ứng tuần tự có thể mở ra những phương
thức mới để thiết kế các quy trình sử dụng
CO2 hiệu quả hơn".
Phối hợp với các nhà nghiên cứu tại
trường Đại học Thiên Tân ở Trung Quốc,
nhóm nghiên cứu đang thiết kế một hệ thống
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 09/2018 48/48
giảm phát thải khí nhà kính hoạt động bằng
năng lượng mặt trời được sản xuất theo cách
không thải cacbon.
PGS. Jiao cho rằng: "Chúng tôi hy
vọng nghiên cứu này sẽ làm cho công nghệ
triển vọng này được nghiên cứu và phát triển
mạnh mẽ hơn. Nhiều thách thức kỹ thuật vẫn
cần được giải quyết, nhưng chúng tôi đang
nghiên cứu chúng".
Theo vista.gov.vn, 28/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Hàn Quốc phát triển thành công chất dẻo thân thiện môi trường
Nguồn: SK Global Chemical Co.
Công ty hóa chất SK Global Chemical
Co. của Hàn Quốc đã phát triển thành công
một loại vật liệu dẻo mới thân thiện với môi
trường, có thể được sử dụng trong chế tạo ôtô
và nhẹ hơn các sản phẩm hiện có trên thị
trường.
Trong thông báo ngày 29/8, SK Global
Chemical Co. cho biết vật liệu dẻo
polypropylene mới có độ trong như pha lê, độ
bền cao và có thể sử dụng chế tạo nhiều bộ
phận của ôtô, kể cả cái hãm phanh. Sử dụng
vật liệu mới này có thể giảm tổng khối lượng
của một ôtô cỡ trung bình xuống khoảng 10kg.
Theo SK Global Chemical, trọng
lượng nhẹ hơn sẽ ôtô tiết kiệm nhiên liệu hơn
và qua đó thải ra ít khí nhà kính hơn. Sử dụng
sản phẩm này, hiệu quả sử dụng nhiên liệu
của ôtô có thể tăng 2,8%, trong khi lượng khí
carbon dioxide và nitrogen oxide thải ra môi
trường có thể giảm lần lượt 4,5% và 8,8%.
SK Global Chemical Co. cho biết ước
tính thị trường sản phẩm chất dẻo dành cho
ôtô tăng trưởng 8% mỗi năm và vật liệu mới
giúp công ty tăng thị phần tại phân khúc thị
trường này.
Theo vietnamplus.vn, 30/08/2018
Trở về đầu trang
**************