Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
Vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu
các tổ chức phát hành thẻ trong nước chặn
những giao dịch thẻ quốc tế phát sinh tại các
đơn vị chấp nhận thẻ của tổ chức thanh toán
thẻ ở nước ngoài được gắn mã MCC 7995,
6211… Động thái này cho thấy, việc giám sát
hoạt động thanh toán thẻ quốc tế do tổ chức
trong nước phát hành đang được tăng cường.
Theo đó, các tổ chức thẻ quốc tế Visa,
Mastercard cũng khuyến nghị Việt Nam cần
nhanh chóng ngăn chặn việc khách hàng sử
dụng thẻ quốc tế tại đơn vị chấp nhận thẻ
(merchant) có độ rủi ro cao.
Tin nổi bật
Chặn thanh toán thẻ quốc tế không an toàn
Tín hiệu khả quan cho tăng trưởng tín dụng
Lãi suất huy động sẽ như thế nào trong những
tháng cuối năm?
UOB: Dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam 7,1%
vào năm 2021
Thương mại toàn cầu đang dần phục hồi?
Chủ tịch FED cảnh báo về hậu quả tồi tệ nếu Mỹ
không có gói kích thích tài khóa
Thứ Năm, ngày 08/10/2020
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 07/10)
VN - Index 919,72 0,44%
HNX - Index 136,13 1,19%
D.JONES CK Mỹ 28.303,46 1,91%
STOXX CK C.Âu 3.233,43 0,00%
CSI 300 CK TQ 4.587,39 - -
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 08/10)
SJC Ng.đ/L 56.100 0,09%
Quốc tế USD/Oz 1.887,43 0,62%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 23.203 0,01%
EUR/USD 1,1767 0,30%
Dầu
WTI USD/th 39,93 0,35%
6
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Chặn thanh toán thẻ quốc tế
không an toàn
Lãnh đạo trung tâm thẻ VPBank cho biết, thời gian qua, có 1 lượng khách
hàng sử dụng thẻ mang thương hiệu của tổ chức thẻ quốc tế được phát
hành bởi các tổ chức phát hành thẻ tại VN thanh toán tại website ở nước
ngoài không phù hợp với quy định của pháp luật VN như KDNH, CK, tiền
ảo, đánh bạc, cá độ… Trước thực tế này, Visa, Mastercard khuyến nghị
VN cần nhanh chóng ngăn chặn việc khách hàng sử dụng thẻ quốc tế
tại những đơn vị chấp nhận thẻ (merchant) có độ rủi ro cao. Thời gian qua,
NHNN đã y/c các tổ chức phát hành thẻ trong nước chặn các giao dịch
thẻ quốc tế phát sinh tại merchants của tổ chức thanh toán thẻ ở nước
ngoài được gắn mã MCC 7995, 6211… Động thái này cho thấy, việc
giám sát các hoạt động thanh toán thẻ quốc tế do tổ chức trong nước
phát hành đang được tăng cường. Theo lãnh đạo Cục Cảnh sát phòng
chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (C50, trong quản lý ngoại hối và
TTQT, thanh toán thẻ quốc tế là vấn đề cần quan tâm khi đã xuất hiện
những giao dịch thanh toán không phù hợp với quy định của pháp luật
VN, dù chưa thành án. Để phục vụ công tác phòng chống loại tội phạm
này, C50 và NHNN cùng thống nhất phải có biện pháp ngăn chặn kịp
thời.“Đó là lý do NHNN đã nhanh chóng ban hành các văn bản y/c các
tổ chức phát hành thẻ, tổ chức thanh toán thẻ triển khai 1 số biện pháp
để kiểm soát và ngăn chặn các giao dịch thẻ quốc tế không an toàn”.
Tín hiệu khả quan cho tăng
trưởng tín dụng
Tại buổi họp báo thường kỳ Chính phủ tháng 9, Phó Thống đốc Thường
trực Đào Minh Tú cho biết, đến cuối tháng 9, tín dụng 6,1%, cao hơn
nhiều sv mức 5,12% tại thời điểm 22/9 mà Tổng cục Thống kê công
bố. Trong điều kiện nền KT chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19,
Q.I tín dụng tăng rất chậm, Q.II tăng nhanh hơn 1 chút nhưng vẫn trong
bối cảnh hết sức khó khăn do dịch tác động tiêu cực tới nhiều ngành, lĩnh
vực, thì KQ đạt được trong Q.III là rất đáng mừng. Đây là dấu hiệu tích
cực trong việc tiếp cận vốn của DN. Trên thực tế, thời gian qua, các NH
thực hiện nghiêm túc chủ trương của Chính phủ, NHNN, đồng hành và
chia sẻ, hỗ trợ thị trường, hỗ trợ DN, người dân vượt qua giai đoạn khó
khăn thông qua nhiều chính sách đưa ra các gói kích thích, miễn, giảm
LS cho vay để hỗ trợ các DN bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Hiện tại,
Tài chính – Ngân hàng
3
hầu hết các NH đều đã và đang triển khai các chương trình tín dụng ưu
đãi từ vài ngàn tỷ đồng lên mấy chục ngàn tỷ đồng tùy theo quy mô và
khả năng tài chính. Môi trường LS thấp cùng 1 loạt tín hiệu KTVM tích
cực được nhận định sẽ tạo động lực cho TTTD. Nếu KT phục hồi tốt hơn
trong Q.IV, theo nhận định của TS.Trần Du Lịch, mục tiêu TTTD 9-10%
là hoàn toàn khả thi, góp phần thúc đẩy tăng trưởng KT 2020 và cả sang
những tháng đầu năm 2021. TS.Cấn Văn Lực tin rằng, với các giải pháp
phù hợp, tín dụng những tháng cuối năm có khả năng sẽ tăng trưởng
thêm 1%/tháng để tăng trưởng cả năm đạt 8-9%. Phó thống đốc cho biết,
trong 3 tháng còn lại của năm, NHNN sẽ tiếp tục bám sát kế hoạch để
đẩy mạnh TTTD, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng KT. Thực tế, nhiều NH
đã được nới room tín dụng để tạo dư địa TTTD trong thời gian tới như:
Techcombank, VPBank được nâng room tín dụng tới 19-23%; MBB điều
chỉnh room tín dụng từ 11,75% lên 20%; VIB nới lên 12,5% sv hạn mức
ban đầu; TPBank tăng room lên 11,5%... Việc hạ LS là giải pháp cơ bản,
quan trọng cho tín dụng mở rộng. Mặc dù vậy, giới chuyên môn khuyến
nghị, khi sức hấp thụ vốn của nền KT chưa thực sự tốt, nếu cố gắng đẩy
mạnh TTTD cao sẽ xảy ra nguy cơ vốn chảy vào các kênh đầu cơ như
CK, BĐS, vàng. Theo đó, tiềm ẩn rủi ro xuất hiện bong bóng tài chính sẽ
rất lớn. Vì vậy, vấn đề chất lượng tín dụng vẫn phải đặt lên hàng đầu để
hạn chế rủi ro tín dụng, NX phát sinh, đe dọa đến an toàn hoạt động NH.
Lãi suất huy động sẽ như thế nào
trong những tháng cuối năm?
Theo BC dẫn thống kê của Fiin Group, LS huy động có xu hướng giảm
trong tháng 9 đối với cả kỳ hạn 6&12th ở tất cả các nhóm NH. Cụ thể, đối
với kỳ hạn 6th, LS của nhóm NH gốc quốc doanh 0,125%; NHTMCP có
quy mô nhỏ (vốn <5.000 tỷ đồng) 0,163%; NHTMCP có quy mô lớn (vốn
>5.000 tỷ đồng) 0,14%. Trong khi đó, đối với kỳ hạn 12th, LS của nhóm
NH gốc quốc doanh 0,225%; NHTMCP có quy mô nhỏ và NHTMCP
có quy mô lớn có mức giảm lần lượt là 0,08 và 0,19%. LS huy động
tiếp tục giảm chủ yếu do thanh khoản hệ thống NH đang duy trì dồi dào.
Tính tới 30/9, TTTD vẫn dừng ở mức 6,09% sv đầu năm tăng trưởng
9,4% trong cùng kỳ 2019. Sức hấp thụ của nền KT suy giảm do ảnh
hưởng của đại dịch Covid-19 đã khiến cho TTTD duy trì ở mức thấp sv
cùng kỳ. Tuy nhiên, TTTD đã bật tăng mạnh trong 2 tuần cuối tháng 9,
từ mức 4,81% tính tới 16/9. Việc hồi phục TTTD cho thấy nỗ lực khôi
phục SXKD và thúc đẩy tăng trưởng GDP. NHNN trong tuần qua cũng
quyết định giảm LS điều hành thêm 0,5%. Tuy nhiên, BVSC cho rằng
4
động thái này sẽ không có quá nhiều tác động đối với mặt bằng LS hiện
nay trên thị trường, mà chỉ phản ánh nỗ lực đồng hành, hỗ trợ nền KT
của NHNN nhằm thúc đẩy tăng trưởng GDP trong Q.IV. Dự báo LS huy
động các kỳ hạn ngắn (<6th) có thể vẫn còn dư địa để giảm thêm nhưng
LS các kỳ hạn dài hơn (>6th) nhiều khả năng sẽ ổn định trong Q.IV.
Nhiều doanh nghiệp sẵn sàng với
chuẩn báo cáo tài chính IFRS
Khảo sát về Tính sẵn sàng áp dụng IFRS tại DN được HOSE và Deloitte
VN thực hiện diễn ra vào 20/7-5/8 nhằm tìm hiểu mức độ sẵn sàng và
chia sẻ những thách thức mà DN phải đối mặt trong việc áp dụng IFRS
theo Quyết định số 345/QĐ-BTC phê duyệt đề án áp dụng Chuẩn mực
BCTC quốc tế (QĐ345) của Bộ Tài chính. KQ khảo sát cho thấy, có hơn
50% DN tham gia cho biết đã áp dụng hoặc đang chuẩn bị chuyển đổi
theo chuẩn mực IFRS. Sau gần 6th ban hành QĐ345, trong số DN đang
chuẩn bị hoặc chưa áp dụng IFRS, hơn 55% cho biết sẽ áp dụng chuyển
đổi trước 2025, năm cuối cùng trong giai đoạn tự nguyện theo lộ trình áp
dụng IFRS đề cập trong QĐ345. Tỷ lệ tự nguyện áp dụng chuyển đổi
IFRS được cho là sẽ tiếp tục tăng trong các năm tiếp theo. Theo Deloitte
VN, đây là 1 tín hiệu lạc quan cho thấy sự ủng hộ việc áp dụng IFRS ở
cộng đồng DN. Mức độ đáp ứng trong thời gian ngắn như vừa qua cho
thấy việc đón nhận tích cực của DN đối với QĐ345 sv các chính sách về
kế toán tài chính đã ban hành trước đây. Trong bối cảnh hội nhập KT thế
giới sâu rộng, việc áp dụng IFRS sẽ giúp giải quyết bài toán hội tụ kế
toán theo chuẩn mực chung, đáp ứng y/c của NĐT và góp phần nâng
cao vai trò của quản trị DN. Một số ngành tiềm năng đã chuyển đổi sang
IFRS hoặc trong giai đoạn chuẩn bị gồm có ngành NH do y/c quản lý và
tuân thủ, ngành trọng điểm như năng lượng và công nghiệp, ngành chiến
lược của VN như bảo hiểm, quản lý đầu tư, công nghệ, truyền thông và
viễn thông. DN FDI tham gia khảo sát chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp sau là
DNNY, DN đại chúng quy mô lớn và tập đoàn KT Nhà nước. 4 nhóm này
chiếm hơn 70% DN tham gia khảo sát, thực tế đây là nhóm đóng góp
nhiều cho nền KTXH. Theo UB Chuẩn mực BCTC quốc tế (IASB), đến
nay đã có hơn 130 quốc gia/vùng lãnh thổ y/c lập BCTC theo chuẩn mực
IFRS đối với DNNY. Tại VN, tháng 3, Bộ Tài chính ban hành QĐ345 được
xem như tuyên bố chính thức của VN trong việc ủng hộ việc áp dụng
ngôn ngữ kế toán toàn cầu, ngôn ngữ KD quốc tế - IFRS, đồng thời đưa
VN vào bản đồ các quốc gia và vùng lãnh thổ cho phép áp dụng IFRS.
5
Dự báo tăng trưởng kinh tế Việt
Nam 7,1% vào năm 2021
Theo đánh giá từ BC Global Outlook (Triển vọng toàn cầu) Q.IV/2020 của
Bộ phận KT toàn cầu & Nghiên cứu thị trường UOB, đà hồi phục của nền
KT tạm thời bị ảnh hưởng trong Q.III do đợt dịch thứ 2 và kỳ vọng sự hồi
phục sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn vào Q.IV. Dự báo mức tăng GDP Q.III là
3% (dự báo trước là 4,5%) và Q.IV là 4% (dự báo trước là 5,5%). Điều đó sẽ
khiến dự báo tăng trưởng cả năm 2020 là 2,8% thay vì mức 3,5% đưa ra
trước đó nhưng sẽ đạt tới 7,1% vào 2021, tăng sv mức dự báo 6,6%
trước. Cơ sở cho việc dự báo tăng trưởng 7,1% trong 2021 đến từ việc
VN đã khống chế thành công Covid-19, tạo nền tảng vững chắc cho các
hoạt động KT trong nước bắt đầu trở lại và tình hình sẽ tiếp tục cải thiện
trong 2021. Với kinh nghiệm và nguồn lực tốt hơn khi ứng phó Covid-19,
nhiều quốc gia sẽ mở cửa các hoạt động trở lại bình thường vào cuối
2020 và đầu 2021. Do vậy, nhu cầu sẽ tăng lên và sẽ giúp VN trong hoạt
động XK. Ngoài ra, dòng vốn FDI vào VN rất ổn định trong nửa đầu 2020
dù có Covid-19. Điều này có nghĩa sự quan tâm của NĐT vào VN rất lớn,
ngay cả trong đại dịch. Xu hướng này sẽ tăng mạnh hơn trong 2021 khi
mà nhiều quốc gia bình thường trở lại và nhu cầu đa dạng hóa chuỗi
cung ứng sẽ tiếp tục lớn mạnh, đặc biệt sau dịch. Với mức tăng trưởng
thấp 2020 do Covid-19, khi các hoạt động KT trở lại bình thường trong
2021, sẽ có mức hồi phục mạnh mẽ theo sơ đồ hình chữ V và xu hướng
này xảy ra cho nhiều nước, trong đó có VN. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng
mức trung bình của 2020-2021 với nhiều nền KT, trong đó có VN, sẽ vẫn
thấp hơn 2018-2019, có nghĩa là vẫn còn tiềm năng tăng trưởng hay tăng
trưởng mạnh 2022 nếu không có sự cố bất ngờ nào xảy ra.
18 tỉnh thành và bộ ngành trả lại
hơn 9.000 tỷ đồng vốn ODA
Bộ Tài chính cho biết, tổng dự toán vốn nước ngoài được giao từ nguồn
NSTW là 60.000 tỷ đồng, số được phân bổ cho các Bộ/ngành/địa phương
để nhập vào hệ thống TABMIS là 18.216 tỷ đồng, cho địa phương là
38.484 tỷ đồng. Đến cuối tháng 8, tỷ lệ nhập dự toán trên TABMIS chi
tiết theo dự án sv kế hoạch vốn được giao của các CQ đạt 87,74%, trong
đó, có 8/12 Bộ đã nhập và phân bổ 100% dự toán vốn vay nước ngoài
trên TABMIS; 3/12 Bộ đã nhập và phân bổ trên 70% dự toán; riêng Bộ
NN&PTNT nhập 50,3% dự toán (do dự kiến hủy #50% dự toán). Tỷ lệ nhập
Kinh tế Việt Nam
6
dự toán trên TABMIS chi tiết theo dự án sv kế hoạch vốn cấp phát được
giao cho địa phương đạt 90,4%, trong đó 53/62 địa phương đã phân bổ
70% dự toán vốn ODA. Có 9/12 Bộ đề nghị trả lại kế hoạch vốn với số
vốn đề nghị trả lại là 4.587 tỷ đồng; 9/62 địa phương đề nghị trả lại kế
hoạch vốn với tổng số 4.480,2 tỷ đồng. Sau 2th có chỉ đạo quyết liệt, tỷ lệ
giải ngân vốn ODA của các Bộ/địa phương có chuyển biến tích cực. Cụ
thể, các Bộ/ngành đạt 21,28% và địa phương đạt 22% dự toán vốn cấp
phát được giao. Tỷ lệ giải ngân vốn ODA theo kế hoạch vốn 2020 tương
đối cao hơn sv cùng kỳ 2019 nhưng thấp hơn sv KQ giải ngân vốn đầu
tư công trong nước. 8th đầu, do ảnh hưởng của dịch, các dự án sử dụng
vốn ODA gặp khó khăn, vay ưu đãi theo đó gặp nhiều trở ngại. Nhìn
chung, tỷ lệ giải ngân vốn ODA theo kế hoạch vốn 2020 tương đối cao
hơn sv cùng kỳ 2019. Tuy nhiên, nếu sv KQ giải ngân vốn đầu tư công
trong nước (45% theo kế hoạch 8th đầu năm) thì tỷ lệ giải ngân vốn ODA
vẫn còn thấp. Với tốc độ giải ngân như hiện nay, nếu các Bộ/ngành/địa
phương không có giải pháp thì khó có thể hoàn thành nhiệm vụ của
Chính phủ giao với nguồn vốn vay ODA và vay ưu đãi 2020.
7
Thương mại toàn cầu đang dần
phục hồi?
Theo WTO, thương mại toàn cầu sẽ suy giảm ít hơn dự báo trong 2020,
từ mức dự báo 12,9% trước đó được điều chỉnh thành 9,2%. "Thương
mại toàn cầu đang có nhiều dấu hiệu phục hồi từ mức suy giảm sâu do
đại dịch Covid-19 nhưng các chuyên gia KT của WTO thận trọng cho
rằng mọi sự phục hồi có thể bị đứt quãng bởi tác động của đại dịch hiện
nay". Tăng trưởng thương mại toàn cầu được dự báo ở mức 7,2% vào
2021, thay vì 21,3% như dự báo trước. Tăng trưởng GDP toàn cầu sẽ
4,8% trong 2020 trước khi 4,9% vào 2021 nhưng"còn tùy vào các
biện pháp chính sách và mức độ nghiêm trọng của dịch bệnh". Sự tái
bùng phát dịch kéo theo các lệnh phong tỏa mới có thể làm giảm tăng
trưởng GDP toàn cầu 2-3 điểm % và "cướp đi" 4 điểm % tăng trưởng
trong thương mại hàng hóa 2021. Việc nhanh chóng bào chế loại vaccine
hiệu quả ngừa Covid-19 có thể làm tăng niềm tin và thúc đẩy tăng trưởng
1-2 điểm % vào 2021 và sẽ tăng thêm 3 điểm % cho tốc độ tăng trưởng
thương mại. Trong khi đó, theo BC "10.000 tỷ USD cho thương mại mở"
được Boston Consulting Group và HSBC soạn thảo, gửi lên chính phủ
G20, nền KT toàn cầu có thể 10.000 tỷ USD vào 2025 nếu các chính
phủ không bãi bỏ hoặc giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế quan
đang cản đường thương mại hàng hóa. Cụ thể, ở kịch bản 1 (kịch bản
thương mại mở), hoạt động thương mại được duy trì với độ mở cao và
dựa trên các quy tắc. Tại kịch bản 2 (kịch bản thương mại bảo hộ), hạn
chế thương mại được đẩy lên mức tối đa, trong đó có việc tăng các mức
thuế quan BQ trên toàn cầu và tiếp tục áp thuế quan liên quan đến căng
thẳng thương mại Mỹ-Trung. Trong năm đầu tiên, cả 2 kịch bản đều có
tác động KT tương tự nhau nhưng sau đó bắt đầu chuyển hướng. Theo
kịch bản bảo hộ, giá trị hàng hóa giao dịch và GDP đều chững lại, trong
khi ở kịch bản thương mại mở, giá trị thương mại 2-2,6 điểm %/năm,
kích GDP 1,8-2,3 điểm %/năm. KQ này chỉ mới căn cứ vào thương mại
hàng hóa. Nếu gồm cả thương mại DV, tác dụng của việc nới lỏng các
hạn chế thương mại sẽ cao hơn. Theo WTO, các biện pháp hạn chế NK
được áp dụng từ 2019 mà vẫn còn hiệu lực có tác động đến 10,3% giá
trị NK của các nước G20, #1.600 tỷ USD.
Kinh tế Quốc tế
8
Thâm hụt thương mại Mỹ tháng 8
lên mức cao nhất trong 14 năm
Bộ Thương mại Mỹ cho biết, thâm hụt thương mại tháng 8 đã tăng lên
mức cao nhất 14 năm qua, là dấu hiệu cho thấy thương mại có thể là tác
nhân làm giảm tăng trưởng KT trong Q.III. Thâm hụt thương mại tháng 8
là 5,9%, đạt 67,1 tỷ USD, mức cao nhất từ tháng 8/2006. Cụ thể, NK
3,2%, đạt 239 tỷ USD, trong đó NK hàng hóa 6,5 tỷ USD lên 203 tỷ
USD. XK 2,2% lên 171,9 tỷ USD, trong đó XK hàng hóa 3,5 tỷ USD
lên 191,1 tỷ USD. Tuy nhiên, thâm hụt thương mại với TQ 1,9 tỷ USD,
xuống 26,4 tỷ USD. Cuộc khủng hoảng Covid-19 đã làm đứt quãng
nghiêm trọng các dòng chảy thương mại, qua đó ảnh hưởng tới tốc độ
tăng trưởng KT Mỹ… Theo khảo sát do Hiệp hội KT KD Quốc gia Mỹ,
các nhà KT đã bớt lạc quan về đà phục hồi của KT Mỹ từ cuộc suy thoái
do đại dịch gây ra giữa những lo ngại về làn sóng thứ 2. Các nhà KT đã
hạ dự báo tốc độ tăng trưởng KT Mỹ Q.IV xuống 4,9% từ 6,8% trong
khảo sát vào tháng 6 và dự báo, tăng trưởng GDP 2021 1,2% xuống
3,6%. Khoảng ½ nhà KT cho rằng tỷ lệ suy thoái "kép" ở Mỹ là 20% hoặc
thấp hơn, trong khi 12% đánh giá tỷ lệ này là 50% hoặc cao hơn. Tuy
nhiên, các nhà KT vẫn còn chia rẽ về thời điểm KT Mỹ sẽ trở lại mức tăng
trưởng trước đại dịch, khi 38% dự báo vào nửa cuối năm 2021, 32% cho
rằng nửa đầu 2022 và 22% tin rằng sẽ xảy ra vào nửa cuối 2022.
Chủ tịch FED cảnh báo về hậu
quả tồi tệ nếu Mỹ không có gói
kích thích tài khóa
Ngày 6/10, Chủ tịch FED đã cảnh báo về hậu quả KT tồi tệ nếu Quốc hội
và Nhà Trắng không cung cấp thêm gói hỗ trợ cho hộ gia đình và DN
chịu ảnh hưởng gián đoạn bởi Covid-19. "Quá trình tăng trưởng KT còn
lâu mới hồi phục. Ở thời điểm này, tôi có thể khẳng định chính sách đang
không cân xứng. Quá ít hỗ trợ sẽ khiến cho KT hồi phục yếu. Ngay cả
nếu can thiệp chính sách có nhiều hơn cần thiết, chắc chắn cũng sẽ
không hề phí phạm". Tuy nhiên, theo Tổng thống Trump, ông đang tạm
hoãn lại các cuộc đàm phán với nghị sỹ Đảng Dân chủ để kéo dài chương
trình trợ cấp thất nghiệp và hỗ trợ cho DN, chính quyền các bang/thành
phố đang gặp khó khăn tài chính kết thúc vào tháng 7. KT đang tăng
trưởng tốt mà không cần đến thêm các biện pháp chi tiêu và "Tôi đã y/c
các đại diện của tôi ngừng đàm phán cho đến sau cuộc bầu cử".
9
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/
https://hnx.vn/vi-vn/hnx.html
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
https://goldprice.org/vi
http://www.sjc.com.vn/
https://www.sbv.gov.vn/TyGia/faces/TyGia.jspx?_afrWindowMode=0&_afrLoop=2045785475492
8577&_adf.ctrl-state=1a9g0kizgf_4
Tin Tài chính - NH https://tinnhanhchungkhoan.vn/chan-thanh-toan-the-quoc-te-khong-an-toan-post251782.html
https://ndh.vn/ngan-hang/tin-hieu-kha-quan-cho-tang-truong-tin-dung-1277543.html
https://cafef.vn/lai-suat-huy-dong-se-nhu-the-nao-trong-nhung-thang-cuoi-nam-
20201007095241178.chn
https://www.thesaigontimes.vn/309149/nhieu-doanh-nghiep-san-sang-voi-chuan-bao-cao-tai-
chinh-ifrs.html
Tin KT vĩ mô https://ndh.vn/vi-mo/du-bao-tang-truong-kinh-te-viet-nam-7-1-vao-nam-2021-1277568.html
https://vietnambiz.vn/18-tinh-thanh-va-bo-nganh-tra-lai-hon-9000-ti-dong-von-oda-
20201007144903545.htm
Tin KT quốc tế https://vietnambiz.vn/thuong-mai-toan-cau-dang-dan-phuc-hoi-20201007220403255.htm
https://vietstock.vn/2020/10/my-tham-hut-thuong-mai-cua-thang-8-len-muc-cao-nhat-trong-14-
nam-775-797430.htm
https://vietnambiz.vn/chu-tich-fed-canh-bao-rui-ro-khi-dung-cac-goi-kich-thich-kinh-te-
20201007111227124.htm
10
Danh mục viết tắt
B K
Ban lãnh đạo BLĐ Khách hàng DN KHDN
BH BH Khách hàng cá nhân KHCN
BH tiền gửi BHTG KT KT
BH y tế BHYT KT xã hội KTXH
BH thất nghiệp BHTN KT vĩ mô KTVM
BH xã hội BHXH Kiểm soát rủi ro KSRR
BH nhân thọ BHNT Kết quả KQ
BĐS BĐS Khu vực KV
Bình quân BQ Khu công nghiệp KCN
C
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD L
Chỉ số giá tiêu dùng CPI LS LS
Chính sách tiền tệ CSTT Liên NH LNH
Chính sách tín dụng CSTD Lợi nhuận trước thuế LNTT
Chứng khoán/CTCK CK/CTCK Lợi nhuận sau thuế LNST
Công nghệ thông tin CNTT
Công ty cổ phần CTCP M
Cổ phần hóa CPH Mua bán, sáp nhập M&A
Cơ sở hạ tầng CSHT
Cơ quan/Cơ quan quản lý CQ/CQQL N
Cơ quan Nhà nước CQNN NĐT NĐT
D NĐT nước ngoài NĐTNN
Dịch vụ DV NH NH
DN DN NH liên doanh NHLD
DN nhà nước DNNN NH Nhà nước NHNN
DN tư nhân DNTN NH quốc doanh NHQD
DN vừa và nhỏ DNVVN NH thương mại cổ phần NHTMCP
DN có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI NH thương mại Nhà nước NHTM NN
Dự trữ bắt buộc DTBB NH nước ngoài NHNNg
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI NH trung ương NHTW
Đầu tư gián tiếp FII NH chính sách xã hội NHCSXH
Định chế tài chính ĐCTC Ngân sách nhà nước NSNN
G Ngân sách địa phương NSĐP
Giấy chứng nhận GCN Nhập khẩu NK
Giá trị gia tăng GTGT NX NX
Giám đốc GĐ Nợ quá hạn NQH
H
Hợp tác xã HTX
11
P V
Phòng giao dịch PGD Vốn điều lệ VĐL
Phó Giám đốc PGĐ Vốn tự có VTC
Vốn chủ sở hữu VCSH
Q Văn bản pháp luật VBPL
Quản lý rủi ro QLRR
Quỹ tín dụng nhân dân QTDND X
Xã hội XH
S Xuất khẩu XK
SX SX Xuất nhập khẩu XNK
SX kinh doanh SXKD Xây dựng XD
So với SV Xây dựng cơ bản XDCB
T Quốc gia/Tổ chức
Tài chính - NH TC-NH VN VN
Tài sản bảo đảm TSBĐ Kho bạc Nhà nước KBNN
TTTD TTTD Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX
Thanh toán quốc tế TTQT Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE
Thanh toán nội địa TTNĐ Tổng cục thống kê GSO (TCTK)
TTCK TTCK Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT
Thị trường mở OMO Ủy ban Chứng khoán Nhà nước UBCKNN
Thu nhập cá nhân TNCN Viện Nghiên cứu KT và Chính sách VERP
Thu nhập DN TNDN Cục dự trữ liên bang Mỹ FED
TCTD TCTD Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN
Tổng giám đốc TGĐ Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE
Tổng tài sản TTS Liên minh châu Âu EU
Tổng sản phẩm quốc nội GDP NH Thế giới (World Bank) WB
TP Chính phủ TPCP NH Phát triển châu Á ADB
TP DN TPDN NH trung ương châu Âu ECB
NH trung ương Trung Quốc PBOC
NH trung ương Nhật Bản BOJ
NH TTQT BIS
Tổ chức thương mại thế giới WTO
Tổ chức Hợp tác và Phát triển KT OECD
Trung Quốc TQ
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF