Upload
others
View
0
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
PHẦN A. TÓM TẮT CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1. Kết quả nổi bật của đề tài
1.1. Đóng góp mới của đề tài
Đã đánh giá so sánh hiệu lực tồn lưu của 3 hóa chất thương phẩm là Hantox
200 EW, permethrin 50EC và Fedona 10 SC đối với muỗi Ae. aegypti chủng phòng
thí nghiệm để lựa chọn được hóa chất thích hợp cho phun tồn lưu chống muỗi
truyền sốt xuất huyết Dengue (SXHD).
Đã điều tra sự phân bố, các chỉ số muỗi, bọ gậy của muỗi Aedes tại thành phố
Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên và tại huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang và xác định thành
phần loài véc tơ tại điểm nghiên cứu chỉ có Ae. aegypti không có Ae. albopictus.
Đã đánh giá độ nhạy cảm của các chủng muỗi truyền bệnh sốt xuất huyết Ae.
aegypti tại thực địa thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên và tại huyện Cái Bè, tỉnh
Tiền Giang với hóa chất diệt côn trùng Alphacypermethrin.
Đánh giá được hiệu quả biện pháp phun hóa chất tồn lưu trong phòng chống
sốt xuất huyết chủ động là có hiệu quả và được sự chấp nhận của cộng đồng với
biện pháp phun hóa chất tồn lưu trong phòng phòng chống SXHD của 2 địa phương
đại diện cho khu vực thành thị và khu vực nông thôn.
1.2. Kết quả cụ thể
Tại tỉnh Tiền Giang, 2 xã đại diện cho vùng nông thôn là xã Mỹ Đức Đông
làm xã phun hóa chất và xã An Thái Đông làm xã đối chứng của huyện Cái Bè.
Tỉnh Phú Yên chọn 2 phường đại diện cho vùng thành thị là Phường 4 làm phường
phun hóa chất và phường 6 làm đối chứng của thành phố Tuy Hòa.
Việc điều tra véc tơ tại các điểm nghiên cứu trước khi phun hóa chất và hàng
tháng sau khi phun xác định rằng tại các điểm điều tra chỉ bắt được muỗi Ae.
aegypti mà không bắt được muỗi Ae. albopictus đã khẳng định véc tơ truyền SXHD
tại Phú Yên và Tiền Giang là Ae. aegypti.
1
Thu thập bọ gậy nuôi thành muỗi trưởng thành thử nhạy cảm để của muỗi
Aedes với Alphacypermethrin theo phương pháp của Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO). Với tỷ lệ muỗi chết khi tiếp xúc với hóa chất trong thử nghiệm tại Tuy
Hòa, Phú Yên đạt 73%, tại Cái Bè, Tiền Giang đạt 64,4% như vậy Muỗi Ae.
aegypti tại các điểm nghiên cứu đã kháng với hóa chất diệt côn trùng
Alphacypermethrin, mức độ kháng hóa chất này của Ae. aegypti ở Cái Bè cao hơn
Tuy Hòa 10%.
Mặc dù Ae. aegypti tại cả 2 điểm nghiên cứu đã kháng với Alphacypermethrin
(0,05%) nhưng phun tồn lưu hóa chất Alphacypermethrin liều 30mg/m2 tại các điểm
nghiên cứu vẫn có hiệu lực đối với loài này trong thời gian 3 tháng. So sánh các chỉ
số côn trùng điều tra được giữa lô thử nghiệm và lô đối chứng thấy rằng: Tại Phú
Yên, chỉ số mật độ muỗi Ae. aegypti ở lô phun hóa chất trước can thiệp là 0.38
con/nhà giảm xuống còn 0.01 con/nhà sau 1 tuần, 0.05 con/nhà sau 1 tháng và 0.1
con/nhà sau 2 tháng. Trong khi đó, ở lô đối chứng giảm từ 0,26 xuống còn 0,05 sau
1 tuần, 0,19 và 0,24 con/nhà sau 1 và 2 tháng. Ở thời điểm sau 5 tháng can thiệp,
chỉ số mật độ muỗi ở lô phun hóa chất lại lớn hơn chỉ số mật độ muỗi ở lô đối
chứng (0,58con/nhà so với 0,47 con/nhà). Tại Tiền Giang, sau khi tiến hành can
thiệp tại xã Mỹ Đức Đông các chỉ số muỗi, bọ gậy có xu hưởng giảm sau phun 7
ngày, sau phun 1 tháng đặc biệt giảm nhiều nhất thời điểm sau phun 7 ngày: Mỹ
Đức Đông: BI=15, CSMMĐ=0,8; tại xã đối chứng không có can thiệp các chỉ số có
giảm mạnh nhưng so với xã can thiệp vẫn cao hơn: An Thái Đông: BI=19,
CSMĐ=0,1. Thời điểm 1 tháng sau phun các chỉ số muỗi, bọ gậy ở cả 2 điểm
nghiên cứu có xu hướng tăng và tăng cao sau khi phun 4, 5 tháng. Đặc biệt đến
tháng thứ 4 sau phun cao hơn so với thời điểm trước khi can thiệp đặc biệt là
CSMĐ ở cả hai điểm: Mỹ Đức Đông: BI=29, CSMĐ=0,62; An Thái Đông: BI=32,
CSMMĐ=0,73. Thời điểm sau 4 tháng can thiệp các chỉ số tại xã can thiệp cao hơn
so với xã đối chứng.
2
Kết quả thấy rằng tại Tuy Hòa, Phú Yên, sau 5 tháng thì hóa chất vẫn còn tác
dụng diệt tốt với muỗi Ae. aegypti chủng nhạy phòng thí nghiệm (tỷ lệ chết đạt
62,5), nhưng chủng hoang dại đã kháng hóa chất này tại thực địa chỉ có hiệu lực
được 3 tháng, tỷ lệ muỗi chết đạt 53,3%, tháng thứ 4 sau phun tỷ lệ muỗi chết chỉ
còn 37,9%. Tại Tiền Giang, sau 5 tháng thì hóa chất vẫn còn tác dụng diệt tốt với
muỗi Ae. aegypti đối với chủng phòng thí nghiệm, tỷ lệ chết đạt 52,5, nhưng đối với
chủng kháng tại thực địa chỉ có hiệu lực đến tháng thứ 3 (tỷ lệ muỗi chết đạt 56,3%,
tháng thứ 4 sau phun tỷ lệ muỗi chết chỉ còn 32,9%).
Cả 2 điểm nghiên cứu thuộc Phú Yên và Tiền Giang đều có sự chấp nhận cao
của cộng đồng đối với biện pháp phun tồn lưu. 100% số người được phỏng vấn
muốn được phun mặc dù Fendona 10SC có gây nóng rát mặt cho người trực tiếp đi
phun hóa chất và một tỷ lệ nhỏ dân địa phương ở những hộ được phun.
1.3. Hiệu quả đào tạo
Cung cấp số liệu cho luận văn đào tạo 1 thạc sỹ tại Viện Sinh thái và Tài
Nguyên Sinh vật, năm 2016 “Đánh giá hiệu quả biện pháp phun hóa chất tồn lưu
trong phòng chống sốt xuất huyết chủ động”.
Đã nâng cao trình độ kỹ thuật chuyên môn nhất là kỹ năng thực hành cho các
cán bộ tham gia nghiên cứu tại địa phương về công tác điều tra côn trùng, phương
pháp đánh giá độ nhạy cảm với hóa chất và hiệu lực tồn lưu của hóa chất với muỗi.
1.4. Hiệu quả kinh tế
Trong thời gian nghiên cứu, nhờ được bảo vệ bằng biện pháp phun tồn lưu lô
thử nghiệm tại 2 điểm nghiên cứu đã không có người nào bị mắc SXHD, trong khi
ở lô đối chứng có 2 trường hợp ở Tuy Hòa.
Hiệu quả phòng chống của biện pháp phun tồn lưu nếu được áp dụng sẽ góp
phần giảm mắc SXHD sẽ giảm gánh nặng chi phí cho điều trị bệnh cho các gia đình.
1.5. Hiệu quả xã hội
Cung cấp bằng chứng cho chương trình phòng chống SXHD về bổ sung 1 biện
3
pháp có thể áp dụng để góp phần làm giảm bệnh tật cho những nơi được sử dụng và
giảm nguồn bệnh cho cộng đồng nói chung.
1.6. Các hiệu quả khác:Cung cấp số liệu của đề tài được đăng trong Tạp chí Phòng chống Bệnh sốt rét
và các bệnh ký sinh trùng (số 6/năm 2015), và số 1/2016.2. Áp dụng vào thực tiễn sản xuất và đời sống xã hội:
Kết quả nghiên cứu là nguồn tham khảo có giá trị đối với các nhà hoạch định chính sách trong công tác phòng chống SXHD, đặc biệt là áp dụng vào biện pháp phòng chống véc tơ tổng hợp trong chương trình quốc gia phòng chống SXHD.3. Đánh giá việc thực hiện đề tài3.1. Tiến độ: Đề tài thực hiện đúng tiến độ đề ra.3.2. Thực hiện các mục tiêu và nội dung nghiên cứu đề ra: Tất cả các mục tiêu và nội dung nghiên cứu đã được thực hiện đầy đủ.3.3. Các sản phẩm tạo ra so với dự kiến của bản đề cương: Các bảng số liệu rõ ràng, chính xác, đề cập đến các nội dung sau: Đánh giá hiệu quả biện pháp phun hóa chất tồn lưu trong phòng chống sốt xuất
huyết Dengue chủ động. Đánh giá sự chấp nhận của cộng đồng với biện pháp phun hóa chất tồn lưu trong
phòng phòng chống sốt xuất huyết Dengue. Báo cáo tổng kết nghiệm thu đề tài. 2 bài đăng tạp chí. 1 luận văn thạc sỹ.d. Đánh giá việc sử dụng kinh phí:
Chi phí hợp lý, đúng dự toán Tổng kinh phí dự toán: 760.000.000 VNĐ Kinh phí đã được cấp: 673.187.800 VNĐ
4. Các ý kiến đề xuấtSử dụng hóa chất Alphacypermethrin 10SC phun tồn lưu để diệt muỗi trưởng
kết hợp với các biện pháp chủ động trong chương trình giám sát SXH quốc gia có hiệu quả rõ rệt trong phòng chống muỗi truyền SXHD.
4
PHẦN B. NỘI DUNG BÁO CÁO CHI TIẾT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Muỗi Aedes aegypti đã được xác định là véc tơ chính truyền bệnh sốt
xuất huyết dengue (SXHD) ở nước ta, loài này có tập tính trú đậu trong nhà,
rình đốt mồi trong nhà là chủ yếu. Tuy rằng cũng có những nghiên cứu thấy
loài muỗi này chủ yếu đậu trên quần áo và các vật dụng treo trong nhà, ít đậu
trên tường vách, nhưng cũng chưa thấy có nghiên cứu nào xác định trung bình
một cá thể muỗi bao nhiêu lần muỗi đậu trên vật dụng thì có một lần đậu lên
tường vách, và nếu như trong đời một cá thể muỗi trung bình khoảng 30 ngày
chỉ một lần đậu lên tường thì con muỗi đó có thể bị tiêu diệt nếu trên tường có
hóa chất phun tồn lưu.
Trong những năm gần đây, mặc dù có nhiều nỗ lực trong công tác phòng
chống dịch chủ động bằng phương pháp phun không gian như ULV (Ultra
Low Volume), vệ sinh môi trường… nhưng Việt Nam vẫn ghi nhận ca mắc
SXHD ở mức cao. Do những yếu tố tác động khác nhau như sự biến đổi khí
hậu, sử dụng hóa chất diệt côn trùng rộng rãi trong nông nghiệp và y tế có thể
tác động đến tập tính của muỗi truyền bệnh…. làm cho việc phòng chống
muỗi ngày một khó khăn. Để kiểm soát véc tơ tốt hơn, Bộ Y tế hướng dẫn
phun ULV phòng chống SXHD chủ động nhằm làm giảm mật độ muỗi ở
những khu vực có nguy cơ cao. Tuy nhiên biện pháp phun ULV tỏ ra còn
nhiều hạn chế, biện pháp này chỉ có tác dụng tức thời trong một thời gian rất
5
ngắn, các chỉ số muỗi và bọ gậy lại trở lại bình thường sau khi phun thuốc 15
- 20 ngày. Việc làm cho các chỉ số muỗi và bọ gậy Aedes giảm xuống dưới
mức độ nguy hiểm là việc rất khó khăn, đòi hỏi phải kết hợp với một số biện
pháp khác hoặc tìm biện pháp hữu hiệu hơn.
Các thành phố lớn ở nước ta, nhất là các khu vực đông dân cư là trọng
điểm của bệnh SXHD như tỉnh Phú Yên và tỉnh Tiền Giang, là 2 trong 10 tỉnh
lưu hành SXHD cao nhất trong cả nước, những nỗ lực của địa phương cùng
với trung ương cũng chưa làm cho bệnh giảm mạnh và nhất là các chỉ số về
véc tơ vẫn ở mức nguy hiểm. Việc tìm giải pháp mới cho phòng chống véc tơ
SXHD có hiệu quả hơn là vô cùng cấp bách để chủ động hạn chế được sự lan
truyền của căn bệnh nguy hiểm này đặc biệt cho những thành phố lớn nơi tập
trung dân cư đông đúc.
Phun tồn lưu là biện pháp đã và đang được áp dụng cho phòng chống véc tơ
truyền bệnh sốt rét rất có hiệu quả, đã góp phần đắc lực trong việc phòng chống và
loại trừ sốt rét, nhưng biện pháp này hiện chưa được khuyến cáo để phòng chống
véc tơ SXHD với lý do muỗi Aedes ít trú đậu trực tiếp trên tường vách như một số
nghiên cứu đã khuyến cáo. Tuy nhiên, biện pháp này đã được sử dụng ở Việt Nam
trong những năm 1960 để phòng chống dịch sốt xuất huyết cũng có hiệu quả [6].
Mặt khác, hiệu lực diệt tồn lưu trên tường vách của một số hóa chất có thể kéo dài
5-6 tháng trở lên có thể là yếu tố quan trọng để áp dụng biện pháp này. Với những
lý do và tính cần thiết như đã nêu ở trên, chúng tôi đề xuất đề tài nghiên cứu khoa
học: “Đánh giá hiệu quả biện pháp phun tồn hóa chất lưu trong phòng chống
6
sốt xuất huyết chủ động” nhằm lựa chọn biện pháp sử dụng hóa chất diệt côn
trùng thích hợp có hiệu quả trong phòng chống SXHD với hai mục tiêu:
1. Đánh giá hiệu quả biện pháp phun hóa chất tồn lưu trong phòng chống sốt xuất
huyết Dengue chủ động.
2. Đánh giá sự chấp nhận của cộng đồng với biện pháp phun hóa chất tồn lưu trong
phòng phòng chống sốt xuất huyết Dengue.
7
2. TỔNG QUAN ĐỀ TÀI
2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước liên quan đến đề tài
Bệnh sốt xuất huyết Dengue do virus Dengue thuộc họ Flaviviridae, chi
Flavivirus gây nên, bệnh này được biết cách đây trên 3 thế kỷ ở các khu vực khí
hậu nhiệt đới và á nhiệt đới. Những vụ dịch đầu tiên xảy ra vào những năm 1778 –
1780 ở châu Á, châu Phi và Bắc Mỹ. Tỷ lệ mắc bệnh trên toàn thế giới đã tăng
nhanh trong những năm gần đây. Bệnh SXHD lưu hành trên 100 quốc gia ở châu
Phi, châu Mỹ, khu vực phía Đông Địa Trung Hải, Đông Nam Á và Tây Thái Bình
Dương. Cho đến nay người ta đã xác định có 4 chủng virus Dengue gây SXHD ở
người viết tắt là DEN-I, DEN-II, DEN-III và DEN-IV. Không chỉ có số trường hợp
mắc bệnh gia tăng mà khả năng nhiễm các chủng virus khác nhau cũng ngày càng
đáng báo động [26]. Trong 50 năm qua, số ca mắc tăng 30 lần, cùng với sự gia
tăng các vùng bị nhiễm mới, phân bố từ thành phố đến nông thôn. Ước tính khoảng
50 triệu ca SXHD xảy ra hàng năm và khoảng 2,5 tỉ người sống tại các quốc gia có
bệnh lưu hành.
Virus SXHD chủ yếu lây truyền qua muỗi thuộc giống Aedes, trong đó loài
Aedes aegypti và Aedes albopictus được coi là véc tơ (VT) chính truyền SXHD.
Ngoài ra, trong một số vụ dịch còn phân lập được virus Dengue ở một số loài
Aedes khác như: Aedes scutellaris, Aedes polynesiensis, Ae. cooki ở Nam Thái
Bình Dương [27].
Sự nhiễm virus do muỗi cái hút máu từ người đang bị SXHD trong giai đoạn
từ 2-10 ngày sẽ bị nhiễm virus trong các tế bào thành ruột của nó. Khoảng 8-10
ngày sau, virus xâm nhập đến các mô khác bao gồm tuyến nước bọt của muỗi.
Virus Dengue dường như không gây hại cho muỗi, muỗi bị nhiễm vẫn sống bình
thường [16].
8
Hiện nay trên thế giới SXHD chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, vắc xin đang
trong giai đoạn thử nghiệm lâm sàng mà chưa đưa vào sử dụng, chính vì vậy biện
pháp phòng chống SXHD chủ yếu vẫn dựa vào việc kiểm soát véc tơ, trong đó biện
pháp sử dụng hóa chất diệt côn trùng là đặc biệt có hiệu quả trong việc giảm nhanh
chóng các quần thể muỗi gây bệnh [27].
Xu hướng chung của phòng chống VT SXHD trên thế giới hiện nay là phối
hợp đồng thời nhiều biện pháp và nhấn mạnh sự tham gia của cộng đồng trong loại
trừ nguồn sinh sản là các ổ nước để tiêu diệt bọ gậy. Năm 1980, hội đồng chuyên
gia của WHO về phòng chống véc tơ bằng sinh học đưa ra 3 hình thức quản lý môi
trường bao gồm: Thay đổi môi trường, loại bỏ lâu dài nơi sinh sống của véc tơ;
quản lý dụng cụ chứa nước; phòng muỗi sinh sản trong các DCCN [28].
Đối với các biện pháp sử dụng hóa chất để phòng chống muỗi trưởng thành chủ
yếu sử dụng biện pháp phun không gian (ULV). Tuy nhiên một số nghiên cứu cũng
quan tâm đến biện pháp phun tồn lưu sau khi đã có những nghiên cứu kỹ lưỡng về
các đặc điểm sinh học và sinh thái học của muỗi.
Kết quả nghiên cứu của Chadee (2013), xác định tập tính của Ae. aegypti ở St
Augustine, Trinidad, thấy đa số muỗi cái thu thập từ phòng ngủ (81,9%), phòng
sinh hoạt (8,7%) và bếp (6,9%) và hầu hết muỗi được thu thập từ bề mặt tường tối
gần sàn chứ không phải trên bề mặt phía trên cao của bức tường [17]. Những kết
quả này tương tự như quan sát thấy của một số tác giả ở Cộng hòa Dominica năm
1990 [11], Puerto Rico năm 1994 [15] Panama năm 2000 [13], Costa Rica năm
2003 [19]…
Một nghiên cứu khác của Rozilawati và cộng sự (2005) ở Kuala Lumpur,
Malaysia cho thấy Deltamethrin WG được phun tồn lưu ngoài nhà liều 25mg/m2
thấy có hiệu lực tồn lưu trong 6 tuần sau khi phun, nhưng không có hiệu quả làm
giảm mật độ quần thể muỗi Aedes trong khu vực nghiên cứu [2].
9
Gần đây, vật liệu tẩm hóa chất diệt côn trùng (ITMs), được nghiên cứu và cho
thấy có khả năng làm giảm mật độ véc tơ sốt xuất huyết trong các hộ gia đình. Vật
liệu tẩm hóa chất diệt côn trùng có tác dụng diệt muỗi trưởng thành, giai đoạn quan
trọng nhất trong việc truyền bệnh của muỗi. Muỗi trưởng thành sẽ tiếp xúc trực tiếp
với ITMs trong quá trình tìm kiếm vật chủ đề đốt mồi, làm giảm tuổi thọ của
chúng, có hiệu quả làm thay đổi cấu trúc tuổi của quần thể véc tơ. Như vậy, tuổi
đời của muỗi sẽ sống ngắn hơn, không đủ lâu để có thể truyền bệnh (sốt rét, sốt
xuất huyết...). Hơn nữa, vật liệu tẩm hóa chất diệt côn trùng tồn lưu có hiệu lực kéo
dài trong thời gian ít nhất 1 đến vài năm [23], dài hơn bất kỳ biện pháp áp dụng nào
khác trong việc phòng chống muỗi gây bệnh. Một số thử nghiệm trước đây ở trong
cũng như ngoài nước cho thấy, việc sử dụng ITMs trong phòng chống muỗi có thể
ảnh hưởng đến quần thể véc tơ và có mức độ chấp nhận cao của các hộ gia đình
[13]. Hiện tại, ITMs được khuyến cáo như là công cụ có hiệu quả trong phòng
chống véc tơ truyền sốt rét, sốt xuất huyết.
- Tại Mexico và Venezuela: từ 2002 - 2003, đánh giá tác động của rèm cửa và
nắp đậy các dụng cụ trữ nước có tẩm hóa chất diệt côn trùng lên quần thể véc tơ
truyền bệnh sốt xuất huyết (Aedes aegypti) và khả năng lan truyền sốt xuất huyết.
Trong cả hai địa điểm nghiên cứu, các chỉ số cuối cùng của cuộc thử nghiệm thấp
hơn đáng kể hơn so với lúc ban đầu, mặc dù không có sự khác biệt đáng kể giữa
những cụm đối chứng và can thiệp. Chỉ số Breteau (BI) trung bình giảm từ 60% (ở
những cụm can thiệp) và 113% (cụm đối chứng) đến 7% (cụm can thiệp) và 12%
(cụm đối chứng) ở Veracruz và từ 38% đến 11% (cụm can thiệp) và từ 34% đến
17% (cụm đối chứng) ở Trujillo. Các chỉ số muỗi, quăng/bọ gậy ở các mô hình là
như nhau. Ngược lại, trong những xã không thử nghiệm gần đó thì các chỉ số côn
trùng biến đổi theo mô hình lượng mưa. Can thiệp làm giảm quần thể muỗi ở điểm
đối chứng lân cận (hiệu quả lan tỏa); những nhà gần với nhà nghiên cứu ít có khả
10
năng nhiễm hơn so với những nhà ở xa. Điều này tạo ra một hiệu ứng cộng đồng,
theo đó số lượng muỗi giảm khắp các điểm nghiên cứu [13].
- Cũng tại Venezuela: từ 2006-2008, đánh giá hiệu quả của vật liệu tẩm hóa
chất diệt côn trùng tồn lưu lâu (Insecticide treated materials-ITMs: rèm và nắp đậy
dụng cụ trữ nước) trong việc phòng chống muỗi truyền sốt xuất huyết (Aedes
aegypti) ở 10 cụm dân cư (5 cụm thuộc vùng đô thị và 5 cụm thuộc vùng ngoại ô)
với khoảng 4000 hộ gia đình ở Trujillo, Venezuela. Kết quả thấy rằng, tỷ lệ hộ gia
đình có ≥ 1 ITM là 79.7% trong vùng nội thành và 75.2% ở vùng ngoại thành,
nhưng lại giảm còn 32,3% và 39,0% sau 18 tháng. Các con số tương ứng cho tỷ lệ
dụng cụ chứa nước sử dụng nắp đậy ITMs là 34,0% và 50,8% tại vùng nghiên cứu
và 17,0% và 21,0% sau 18 tháng. Trước khi can thiệp, BI = 8,5 ở các cụm trong
vùng đô thị và 42,4 ở các cụm trong vùng ngoại thành, và chỉ số PPI tương ứng là
0,2 và 0,9. Với các cụm nghiên cứu trong cả hai vùng đô thị và ngoại thành, chỉ số
BI cho thấy duy trì giảm 55% [25].
- Tại Haiti: từ tháng 7/2003 đến tháng 7/2004, sử dụng màn tẩm hóa chất diệt
côn trùng trong phòng chống véc tơ truyền truyền bệnh sốt xuất huyết. Khu vực
nghiên cứu (1017 nhà) được chia thành 18 cụm: chín cụm sử dụng màn tẩm hóa
chất diệt côn trùng (màn Olyset® tẩm hóa chất diệt côn trùng tồn lưu lâu) và chín
cụm đối chứng không sử dụng màn này. Điều tra côn trùng (chỉ số Breteau - BI, chỉ
số House Index - HI, chỉ số Container Index - CI và chỉ số quăng trên người (Puape
per Person - PPI) và hoạt động đẻ trứng của muỗi được thực hiện ở các mốc: trước
can thiệp, 1 và 5 tháng sau khi can thiệp. Tất cả các hộ tham gia nghiên cứu được
đo tọa độ để phân tích không gian. Những cụm nghiên cứu nhận màn sử dụng trong
vòng 6 tháng, và tiến hành 1 cuộc điều tra côn trùng và thái độ của người dân được
thực hiện vào tháng 12 sau cuộc điều tra đầu tiên. Đánh giá tỷ lệ bệnh nhân mắc sốt
xuất huyết ở thời điểm bắt đầu nghiên cứu và sau 12 tháng. Hiệu quả của màn tẩm
11
hóa chất đánh giá bằng phương pháp thử sinh học theo quy trình của WHO. Kết
quả, sau 1 tháng can thiệp, các chỉ số côn trùng giảm trong tất cả các cụm nghiên
cứu, với HI và BI trong vùng có màn tẩm hóa chất giảm trung bình tương ứng là
6,7 (95% CI- 10.6, -2,7; P <0,01) và 8,4 (95% CI - 14.1, - 2.6; P <0,01). Hơn nữa, ở
tháng thứ nhất, bẫy trứng thu được trứng ở những cụm đối trứng nhiều hơn đáng kể
so với các cụm có sử dụng màn tẩm hóa chất (P <0,01). Đến tháng thứ năm, tất cả
các chỉ số vẫn ở mức thấp và các chỉ số HI, CI và BI cũng thấp hơn đáng kể hơn so
với những cụm đối chứng. Một cuộc khảo sát cuối cùng vòa tháng thứ 12 sau khi
bắt đầu nghiên cứu (5 tháng sau khi màn tẩm hóa chất được trao cho tất cả các hộ
gia đình) chỉ ra rằng tất cả các chỉ số thấp hơn đáng kể hơn so với lúc ban đầu (P
<0,001). Các nhà đối chứng nằm trong phạm vi 50 m so với nhà có màn tẩm hóa
chất có chỉ số CI thấp hơn đáng kể (Z = - 2,67, P = 0.008) và PPI (Z = - 2,19, P =
0,028) ở tháng thứ nhất, có hiệu quả mở rộng đến 100 m ở tháng thứ 5 (Z = - 2,03,
P = 0,042 và Z = - 2,37, P = 0,018), cho thấy hiệu quả lan tỏa của việc sử dụng màn
tẩm hóa chất. Một cuộc điều tra bệnh nhân mắc sốt xuất huyết thấy rằng giảm
15,3% (95% CI 5,0 - 25,5%, P <0,01) trong số lượng bệnh nhân dương tính với vi
rút sốt xuất huyết từ thời điểm bắt đầu can thiệp đến tháng thứ 12 sau đó [14].
- Tại Thái Lan: đánh giá tác dụng của rèm tẩm hóa chất diệt côn tùng
PermaNet® lên muỗi Aedes aegypti sau 1 năm sử dụng ở các hộ gia đình và đánh
giá ảnh hưởng của ánh sáng mặt tời và bụi bẩn, các hoạt động giặt giũ sử dụng các
chất tẩy. Kết qủa là tỷ lệ muỗi chết 100% trước khi nghiên cứu, 100% ở tháng thứ 8
và 98.2% (95% CI 97.9–98.5) ở tháng thứ 12 sau khi sử dụng. Ánh sáng mặt trời,
giặt tẩy, giặt máy và sử dụng chất tẩy rửa không ảnh hưởng đến hoạt tính tồn lưu
lâu của hóa chất diệt côn trùng sau 12 tháng. Tuy nhiên, tỷ lệ sống sót của muỗi
tăng bởi yếu tố rèm giặt máy là 6.4 (95% CI 3.5–11.8) và do rèm không được đậy
bởi bụi bẩn là 2.0 (95% CI 1.4–2.9) [23]
12
- Tại New Delhi, Ấn Độ: Sử dụng rèm tẩm Deltamethrin để phồng chống muỗi
đồng thời kết hợp với phòng chống vật truyền bệnh trong nhà. Một thử nghiệm
thực địa được tiến hành tại khu F thuộc khu vực Moyi Bagh của thành phố
New Delhi để đánh giá biện pháp phòng chống Anopheles stephensi và Aedes
aegypti bằng cách phun Deltamethrin ở liều lượng 100 mg/m2 lên rèm cửa sổ và
cửa ra vào của các hộ gia đình. Kết quả cho thấy mật độ các loài nghiên cứu
giảm mạnh (87,9-93,7%, P <0,05) trong khu vực thử nghiệm. Tác động của các
rèm tẩm Deltamethrin cũng có tác động rõ ràng đến các loài côn trùng gây bệnh
khác (67,9-85,7%, P <0,05). Rèm tẩm hóa chất được sử dụng vẫn còn nhạy cảm
với An. stephensi và Ae. aegypti (tỷ lệ chết 100%) sau cho 3-4 tháng thử nghiệm,
tiếp theo là một sự suy giảm dần dần trong những tháng kế tiếp. Sử dụng rèm
tẩm Deltamethrin cho kết quả là tỷ lệ lam dương tính với ký sinh trùng sốt rét
giảm 92,0% và giảm 95,4% các trường hợp mắc sốt rét trên mỗi nghìn dân.
Các chi tẩm Deltamethrin là 41,15 Rs (<$ 1 USD) cho mỗi nhà/năm. Rèm tẩm
hóa chất diệt côn trùng có thể là biện pháp sử dụng để phòng chống muỗi và các
loài côn trùng gây hại khác ở đây [10].
- Tại Venezuela và Thái Lan: đánh giá tác động của rèm và nắp đậy dụng cụ tẩm
hóa chất diệt côn trùng và chấp nhận của cộng đồng lên phòng chống sốt xuất
huyết. Trong năm 2007, rèm và nắp đậy dụng cụ trữ nước tẩm hóa chất diệt côn
trùng (Permanet®) đã được phân phát cho 4.101 hộ gia đình (10 cụm) ở Venezuela
và 2032 hộ gia đình (22 cụm) ở Thái Lan. Việc sử dụng các vật liệu tẩm hóa chất
diệt côn trùng được đánh giá tại thời điểm , ở 5/6 tháng (sử dụng ngắn hạn) và
18/22 tháng (tiếp tục sử dụng) sau khi cấp phát. Rèm tẩm hóa chất được cấp phát ở
Venezuela là 76,7% và ở Thái Lan là 92,3% so với …. Đối với người sinh sống
trong vùng > 5 năm (OR Venezuela 3,0 95% CI 2,0-4,4; OR Thái Lan 3,5; 95% CI
1,7-7,3) và sử dụng rèm không tẩm hóa chất trước khi can thiệp (OR Venezuela
2,2; 95% CI 1,4-3.6). Việc tiếp tục sử dụng gì? giảm đáng kể với 38,4% hộ gia đình 13
ở Venezuela và 59,7% ở Thái Lan và đã được sử dụng ngắn hạn, chỉ được xác định
bởi sự hiểu biết về hiệu quả của rèm tẩm hóa chất diệt côn trùng (OR Venezuela
13,0 95%CI 8.7-19.5; OR Thái Lan 4.9 95% CI 3.1-7.8).
Hiểu biết về bệnh và nhận thức về mối nguy hại của muỗi trước khi can thiệp
không liên quan với sự chấp nhận của cộng đồng hoặc sử dụng rèm tẩm hóa chất.
Sự chấp nhận của cộng đồng về nắp đậy dụng cụ trữ nước ở Venezuela là 21,5% và
về cơ bản được xác định bởi sự hiện diện của dụng cụ không được đậy nắp trong hộ
gia đình (OR 32,5 95% CI 14,5-72,6). Việc tiếp tục sử dụng các vật liệu này, trong
điều kiện thời gian ngắn, liên quan mật thiết với việc các hộ gia đình sử dụng
Abate® (OR 7,8 95% CI 2,1-28,9). Việc sử dụng rèm tẩm hóa chất diệt côn trùng
giảm nhanh chóng theo thời gian. Những hộ gia đình tiếp tục sử dụng chủ yếu là do
có sự hiểu biết về hiệu quả của chúng. Điều này đặt ra một thách thức thực sự nếu
rèm tẩm hóa chất diệt côn trùng được sử dụng trong các chương trình phòng chống
bệnh sốt xuất huyết [24].
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam từ năm 1913, Gaide đã thông báo về bệnh SXH tại miền Bắc và
miền Trung. Năm 1929, Boye’ thông báo về một vụ dịch SXH (1927) ở miền Nam.
Năm 1958, Chu Văn Tường và cộng sự thông báo về một vụ dịch nhỏ kiểu SXH ở
Hà Nội, nhưng chưa rõ nguyên nhân. Vào tháng 6 năm 1960, trên miền Bắc đã
bùng ra một vụ dịch SXH bắt đầu từ Hà Nội, sau đó lan ra 29 tỉnh miền Bắc, kéo
dài 4 tháng, tỷ lệ mắc 900 bệnh nhân/100 000 dân [3].
Từ năm 1990 - 1996, dịch SXHD liên tục xảy ra ở một số tỉnh: Hà Nội, Hà
Bắc, Bắc Thái, Hải Hưng, Hải Phòng, Hà Tây, Vĩnh Phú, Nam Hà, Thái Bình
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh với 29,54% mẫu huyết thanh dương tính với virus
Dengue [5].
14
Ở các tỉnh miền Bắc, virus DEN-1 có chu kỳ hoạt động từ 1989 đến 1996;
DEN-2 hoạt động từ 1987-1997; DEN-3 bắt đầu hoạt động từ 1995 và còn hoạt
động trong thời gian tới. Virus DEN-4 xuất hiện rải rác các năm 1987, 1990, 1991,
1992, 1998. Vụ dịch ở Hà Nội năm 1991 có cả 4 loại virus, năm 1998 chỉ có DEN-
1, DEN-2 và DEN-3. Xét nghiệm MAC - ELISA trong năm 1998 ở miền Bắc có
30036 trường hợp mắc SXHD (lâm sàng), xét nghiệm 1142 trường hợp (tỷ lệ
3,80%; dương tính 525 trường hợp 45,59%) [5].
Ở các tỉnh phía Nam, năm 1998 là năm có dịch lớn với 445 trường hợp
mắc/100 000 dân và 1,27 trường hợp chết/100 000 dân, chủng virus DEN-3 chiếm
ưu thế. Ngược lại, năm 1999 số trường hợp mắc và chết thấp (80,7 trường
hợp/100000 dân và 0,23 trường hợp chết/100000 dân), tuýp DEN-4 mới xuất hiện
và tăng dần (Nguyễn Thị Kim Tiến và ctv., 2000).
Năm 2012 cả nước ghi nhận 87 202 trường hợp mắc, 79 trường hợp tử vong [1],
năm 2013 tuy có giảm hơn nhưng cũng ghi nhận 66 138 trường hợp mắc và 42
trường hợp tử vong. Hàng năm số ca mắc tăng dần từ tháng 5 có đỉnh vào các tháng
tháng 7,8,9,10 và giảm thấp nhất vào các tháng 2,3,4 [6].
Diệt muỗi bằng hóa chất: Hiện nay các hoá chất diệt côn trùng thuộc nhóm hữu
cơ tổng hợp thường được sử dụng ở 4 nhóm chính: nhóm Clo hữu cơ, nhóm Phốt
pho hữu cơ, nhóm Carbamat và nhóm Pyrethroid. Bộ Y tế Việt Nam đã có hướng
dẫn sử dụng từng loại hoá chất như độc lực, liều hoạt tính, kỹ thuật sủ dụng... để các
địa phương áp dụng [3]. Biện pháp sử dụng hoá chất diệt côn trùng cũng rất phong
phú, từ máy phun thô sơ tới các máy phun có động cơ, từ việc sử dụng người đến
phun bằng ô tô, máy bay... Có thể phun bám tường, vách diệt muỗi bằng tiếp xúc,
phun không gian dưới dạng khí dung thể tích cực nhỏ (ULV), dạng khói nóng để
tăng hiệu quả tức thời và tiết kiệm hoá chất [17]. Ưu điểm cơ bản của phương pháp
sử dụng các hoá chất diệt côn trùng là có tác dụng nhanh, có thể triển khai trên một
15
diện rộng trong một thời gian ngắn rất có hiệu quả trong công tác dập dịch SXHD
bằng cách hạ nhanh mật độ quần thể muỗi Aedes trong các ổ dịch.
Tuy nhiên, biện pháp hoá học phun ULV diệt Ae. aegypti cũng như nhiều loại
côn trùng truyền bệnh khác có những nhược điểm: mang tính chất thụ động, có tác
dụng dập dịch hơn là phòng dịch. Phun ULV chỉ có tác dụng trong một thời gian
ngắn, sau khi phun thuốc 15 - 20 ngày, các chỉ số muỗi và bọ gậy lại trở lại bình
thường. Hơn nữa Aedes aegypti thường đẻ trứng trên thành các dụng cụ có nước chứ
không đẻ trực tiếp xuống nước nên trứng này không nở ngay thành bọ gậy nếu
không có nước. Trong điều kiện thí nghiệm trứng có thể tồn tại tới 4 tháng tỷ lệ nở
vẫn đạt 60-70% [7]. Nếu không phối hợp với các biện pháp khác sẽ không đưa được
các chỉ số muỗi và bọ gậy muỗi Ae. aegypti xuống dưới mức độ nguy hiểm [4].
Một nghiên cứu từ rất lâu (1969) của Vũ Thị Phan và CS đã cho thấy rằng sử
dụng phun tồn lưu DDT (Dichloro Dietyl Trichloroethan) 2,5g/m2 đã có hiệu lực diệt
Aedes aegypti và bổ sung thêm 666 liều 0,3g/m2 (Hexachlorocyclohexan) để chống
dịch SXH ở Hà Nội và một số địa phương khác ở miền Bắc đã đạt hiệu quả rất cao
bởi 666 ngoài tồn lưu lâu còn có khả năng diệt tức thời bằng xông hơi [6]. Kết quả
đã làm giảm các chỉ số muỗi và bọ gậy, đặc biệt là sau 14 ngày các ổ dịch không còn
phát hiện bệnh nhân mới.
Ngoài biện pháp phun tồn lưu, các vật liệu tẩm hoá chất diệt côn trùng nhóm
Pyrethroid (màn và rèm) đã và đang là một biện pháp ngăn ngừa, phòng chống
SXHD hiệu quả ở Việt Nam. Dưới đây trình bày kết quả một số nghiên cứu điển
hình về lĩnh vực này đã được thực hiện ở nước ta trong thời gian qua.
- Trong giai đoạn 1993 – 1998, màn Olyset do hãng Sumitomo Nhật Bản sản
xuất (hàm lượng 1.000 mg Permethrin/m2) dùng làm rèm cửa sổ và cửa ra vào được
sử dụng kết hợp với các biện pháp khác để phòng chống chủ động sốt xuất huyết tại
thành phố Nha Trang. Kết quả thử nghiệm cho thấy rèm Olyset có hiệu lực phòng
16
chống muỗi Aedes aegypti tốt nhất trong 4 tháng đầu tiên kể từ khi đưa vào sử
dụng, và hiệu lực giảm vào tháng thử 5, nhưng nếu ngâm rèm vào nước ấm thì hiệu
lực phòng chống muỗi lại tăng lên [3].
- Từ tháng 7/2008 đến tháng 9/2009, nghiên cứu áp dụng nắp đậy bằng chất liệu
tẩm hóa chất diệt côn trùng đối với các dụng cụ trữ nước trong việc làm giảm mật
độ muỗi truyền sốt xuất huyết ở vùng có dịch là xã Đồng Thanh (huyện Cần Giuộc,
tỉnh Long An). Tỷ lệ bọ gậy thu thập được trong các dụng cụ trữ nước ở vùng
nghiên cứu là thấp hơn đối với vùng đối chứng ở hầu hết các vùng nghiên cứu ở
những cuộc điều tra côn trùng (có ý nghĩa thống kê P < 0.05). Số lượng bọ gậy
trong bể chứa nước mới là thấp hơn đối với dụng cụ phế thải trong vùng can thiệp
có ý nghĩa thống kê từ lần điều tra thứ hai chon đến làn thứ năm (độ tin cậy tương
ứng là P < 0.01, P < 0.001, P < 0.01 và P < 0.05. Tuy nhiên, với số dụng cụ trữ
nước cũ hiện có, các chỉ số véc tơ không thay đổi ở vùng can thiệp. Trên 94% các
hộ gia đình đậy kín dụng cụ trữ nước của họ với hai lớp màn và dùng các dụng cụ
mới được sử dụng vòi ở tất cả các vùng nghiên cứu. Thời gian trung bình cọ rửa
dụng cụ trữ nước mới trong suốt ba tháng là thấp, dao động từ 0,4 đến 0,8 lần. Số
lượng bình đựng nước cũ được giảm đều đặn trung bình từ 5,3 đến 2,24 giữa các
đợt điều tra và số lượng trong đợt điều tra thứ năm là thấp hơn hẳn so với đợt điều
tra thứ hai (P < 0,001). 100% số hộ chấp nhận dụng cụ trữ nước mới và 96% số hộ
nói họ có khả năng sửa chữa lại những nắp đậy bị hỏng [12].
- Năm 2006, một nghiên cứu về sự phổ biến của việc sử dụng màn và làm sáng
tỏ hiệu quả việc ngủ màn ban ngày để phòng chống sốt xuất huyết dengue (DHF) ở
trẻ em tại Khánh Hòa. Một cuộc điều tra cắt ngang dân số và nghiên cứu các trường
hợp mắc và các đối tượng tham gia nghiên cứu nhóm đối chứng trên địa bàn tỉnh
Khánh Hòa nơi mà không chỉ có một số trẻ nhỏ mà còn có một số học sinh bậc
trung học, người có một giấc ngủ ngắn vào buổi trưa trước khi trở lại trường, được
17
sử dụng màn chống muỗi trong ngày. Trong số 36.901 trẻ em từ 2-10 tuổi, hầu hết
sử dụng màn không tẩm hóa chất vào ban đêm (98,3%) so với 8,4% trong ngày.
Kết quả nghiên cứu các trường hợp mắc và các đối tượng tham gia nghiên cứu
nhóm đối chứng, xác định 151 trường hợp phải nhập viện với DHF trong các bệnh
viện tỉnh và 604 thuộc nhóm đối chứng, đã không hỗ trợ cho giả thuyết của chúng
tôi rằng trẻ em sử dụng màn không tẩm hóa chất trong ngày ít có khả năng phải
nhập viện với DHF (tỷ lệ chênh lệch được điều chỉnh = 0,56, khoảng tin cậy 95%,
= 0,23-1,39) [21].
Năm 2013, Takashi và CS. đã nghiên cứu thử nghiệm sử dụng màn tồn lưu lâu
Olyset® và hóa chất diệt cọ gậy pyriproxyfen trên thực địa để phòng chống véc tơ
sốt xuất huyết Aedes aegypti ở miền Nam Việt Nam. Kết quả cho thấy, các chỉ số
dụng cụ trữ nước và chỉ số nhà có bọ gậy/quăng Ae. aegypti giảm mạnh một tháng
sau khi can thiệp ở khu vực thử nghiệm. Nắp đậy có sử dụng màn tồn lưu lâu
Olyset có tác dụng làm giảm rõ rệt mật độ ấu trùng muỗi Ae. aegypti sau 1 tháng
thử nghiệm [22].
18
3. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 1/2015 đến tháng 11/2015.
3.2. Địa điểm nghiên cứu
Tại phòng thí nghiệm:
Tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng trung ương tiến hành thử nghiệm
để lựa chọn hóa chất phun tồn lưu.
Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng TP. Hồ Chí Minh và Viện Sốt rét -
Ký sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn tiến hành nhân nuôi muỗi Aedes để thử
nghiệm tại thực địa các tỉnh Tiền Giang và tỉnh Phú Yên. Nhân nuôi muỗi Ae.
aegypti chủng thực địa và chủng labo để thử nhạy cảm của Ae. aegypti với hóa chất
Alphacypermethrin và đánh giá hiệu lực tồn lưu của hóa chất trên với tường xây
lăn sơn là loại tường phổ biến ở các khu vực nghiên cứu.
Tại thực địa:
Tiêu chí chọn điểm: chọn những tỉnh/thành phố có tình mắc SXHD cao trong
những năm gần đây (theo báo cáo của Cục Y tế Dự phòng, Bộ Y tế). Tiêu chuẩn để
chọn các lô nghiên cứu là thuộc các khu vực có tỷ lệ bệnh nhân SXHD các năm gần
đây cao hơn các vùng lân cận. Phạm vi mỗi điểm nghiên cứu sẽ chọn 1 cụm dân cư
khoảng 1000 hộ thuộc 1 phường/xã để phun tồn lưu, 1 phường/xã đối chứng.
Khoảng cách giữa các điểm nghiên cứu cách nhau tối thiểu 400 mét để đảm bảo
hạn chế đến mức thấp nhất sự phát tán của muỗi từ lô này sang lô khác.
Các điểm nghiên cứu sẽ được chọn tại 2 địa phương là thành phố Tuy Hòa, tỉnh
Phú Yên và huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Các địa phương này là các điểm đại diện
cho các vùng miền, nơi có tình hình SXHD cao trong năm 2014 và có diễn biến
SXHD phức tạp trong nhiều năm gần đây (theo báo cáo của Cục Y tế Dự phòng).
19
Thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên đại diện cho khu vực đô thị: Chọn chủ đích
2 phường có sinh cảnh tương đối giống nhau lấy ngẫu nhiên 1 phường phun tồn lưu
và 1 phường làm đối chứng.
Huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang đại diện cho khu vực nông thôn: Chọn chủ
đích 2 xã có sinh cảnh tương đối giống nhau lấy ngẫu nhiên 1 xã phun tồn lưu và 1
xã làm đối chứng (Bảng 1).
Bảng 1. Địa điểm nghiên cứu
Tỉnh Quận/huyện Xã/phường
Tỉnh Phú Yên Tuy HòaChọn phường 4 để phun
Phường 6 làm đối chứng
Tỉnh Tiền Giang Cái BèChọn Mỹ Đức Đông để phun
Xã An Thái Đông làm đối chứng
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Thiết kế nghiên cứu tại phòng thí nghiệm:
Thử nhạy cảm của muỗi Ae. aegypti chủng phòng thí nghiệm với
Alphacypermethrin, Deltamethrin, Permethrin theo phương pháp của WHO để
kiểm định độ nhạy cảm của chủng phòng thí nghiệm với hóa chất thuộc nhóm
pyrethroids tại thời điểm nghiên cứu. Sở dĩ chọn 3 hóa chất này là 3 hóa chất đang
được sử dụng để phun trong phòng chống SXHD và Sốt rét ở Việt Nam. Giấy thử
tiêu chuẩn của WHO bao gồm Alphacypermethrin 0,05%, Deltamethrin 0,05%,
Permethrin 0,75% và giấy đối chứng chỉ được tẩm dung môi hòa tan hóa chất là
silicone oil. Mỗi lần thử tối thiểu với 100 muỗi thử nghiệm và 50 muỗi đối chứng
chi 1 hóa chất.
20
Tiêu chuẩn để đánh giá nhạy cảm được tính bằng tỷ lệ muỗi chết do tiếp xúc
với giấy tẩm hóa chất sau thử nghiệm (đã hiệu chỉnh theo công thức Abbotte): Từ
98% đến 100% thì quần thể muỗi còn nhạy với hóa chất đó; Từ 90% đến 97% thì
quần thể muỗi tăng sức chịu đựng; Từ dưới 90% trở xuống thì quần thể muỗi đã
kháng với hóa chất đó.
Phun tồn lưu các hóa chất Alphacypermethrin, Deltamethrin, Permethrin theo
liều khuyến cáo của nhà sản xuất trong phòng thí nghiệm với tường xây lăn sơn,
đây là loại tường phổ biến ở khu vực sẽ nghiên cứu. Sử dụng bình phun tồn lưu đeo
vai Semco là bình chuyên dụng để phun tồn lưu. Các bộ dụng cụ thử tồn lưu, thử
nhạy cảm với hóa chất theo tiêu chuẩn của WHO.
Hóa chất sử dụng cho phun tồng lưu: Fendona 10SC (Alphacypermethrin) là
hóa chất được sử dụng phun tồn lưu phòng chống sốt rét hiện nay và Permethrin
50EC, Hantox-200 Deltamethrin 3EW là hóa chất đang sử dụng trong chương trình
Quốc gia phòng chống SXHD, thử nghiệm trong phòng thí nghiệm để lựa chọn loại
tối ưu khi triển khai ở thực địa.
Cụ thể liều phun của mỗi hóa chất theo khuyến cáo của nhà sản xuất với
Hantox 200 -3EW do Công ty Cổ phần Dược và Thú y (HANVET) sản xuất với
thành phần chính là Deltamethrin 3% (tỷ lệ phần % hoạt chất là 3 EW). Permethrin
50 EC Công ty Hockley International Ltd của Anh quốc sản xuất với thành phần
chính là Permethrin và Fendona 10 SC do công ty BASF - CHLB Đức sản xuất có
thành phần chính là Alphacypermethrin.
Theo dõi hiệu lực tồn lưu trên tường sau 2 tuần, 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng và 4
tháng bằng phương pháp thử sinh học với muỗi Ae. aegypti chủng nhạy phòng thí
nghiệm.
Tiêu chuẩn để đánh giá hiệu lực của phun tồn lưu trên bề mặt tường với muỗi
theo hướng dẫn của WHO: Tỷ lệ muỗi chết (đã hiệu chỉnh theo công thức Abbotte)
từ 50% trở lên thì còn hiệu lực; Tỷ lệ muỗi chết dưới 50% thì hết hiệu lực.
21
3.3.2. Thiết kế nghiên cứu tại thực địa
Chọn điểm nghiên cứu, đảm bảo các tiêu chí đã đề ra về thực trạng sinh cảnh
tự nhiên, điều kiện xã hội và tình hình SXHD trong những năm gần đây thông qua
số liệu báo cáo của địa phương. Hồi cứu số liệu về tình hình bệnh nhân SXHD
trong vòng 3 năm gần đây để xem xét chọn 2 phường có sinh cảnh tương đối gần
nhau để nghiên cứu. Danh sách nhân khẩu của các hộ này được thiết lập để theo dõi
tình hình mắc SXH và các chỉ số về véc tơ.
Điều tra cắt ngang về véc tơ trước khi phun hóa chất để thu thập các chỉ số
muỗi, bọ gậy bằng bộ dụng cụ để điều tra, thu thập muỗi, bọ gậy. Theo quy trình của
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO, 2009) [33], và của Bộ Y tế 2014. Các loại biểu mẫu
điều tra muỗi, bọ gậy, phiếu thử tồn lưu, nhạy cảm, phiếu phỏng vấn. Bọ gậy bắt
được ở các điểm điều tra đem về phòng thí nghiệm, nuôi lên muỗi trưởng thành để
tiến hành thử nhạy cảm và thử hiệu lực tồn lưu hóa chất phun trên tường vách.
Điều tra thu thập muỗi bọ gậy Aedes ngẫu nhiên ở 100 hộ trong số các hộ đã
chọn của mỗi lô nghiên cứu. Như vậy mỗi tỉnh/thành phố điều tra 200 hộ, tổng
cộng 2 tỉnh/thành phố là 400 hộ. Phương pháp điều tra theo thường quy và tính các
chỉ số theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Thu thập muỗi Aedes trú đậu trong nhà ban
ngày bằng máy hút muỗi, mỗi nhà thu thập trong 15 phút. Kết quả điều tra sẽ được
điền vào mẫu in sẵn. Các mẫu muỗi để riêng từng cá thể trong ống eppendorf, ghi
rõ trong phiếu: tên chủ nhà, thời gian, vị trí muỗi đậu. Bọ gậy thu ở từng loại dụng
cụ để riêng, ghi theo mẫu in sẵn: tên chủ nhà, tên dụng cụ, vị trí để dụng cụ.v.v...
(Phiếu điều tra muỗi và bọ gậy Aedes).
Định loại muỗi và bọ gậy bằng đặc điểm hình thái theo tài liệu của Vũ Đức
Hương (1997).
Điều tra thu thập định tính và định lượng các loại dụng cụ có bọ gậy, ổ bọ gậy
nguồn của từng loài Aedes. Bọ gậy thu được sẽ nhân nuôi thành muỗi trưởng thành
để thử nhạy cảm với Alphacypermethrin theo quy trình của WHO, 2013.
22
Các thời điểm điều tra muỗi và bọ gậy cho cả 2 lô:
+ Trước khi phun hóa chất (điều tra lần 1)
+ Sau khi phun 7 ngày (điều tra lần 2)
+ Sau khi phun 1 tháng (điều tra lần 3)
+ Sau khi phun 2 tháng (điều tra lần 4)
+ Sau khi phun 3 tháng (điều tra lần 5)
+ Sau khi phun 4 tháng (điều tra lần 6)
+ Sau khi phun 5 tháng (điều tra lần 7)
Số nhà mỗi lần điều tra đạt 100 nhà/1 lô/ lần
Các chỉ số điều tra về véc tơ:
Những chỉ số sử dụng để theo dõi muỗi Aedes (tính theo từng loài).
a. Chỉ số mật độ (CSMĐ) muỗi:
CSMĐ (con/nhà) =Số muỗi cái bắt được
Số nhà điều tra
b. Chỉ số nhà có muỗi (CSNCM):
CSNCM (%) =Số nhà có muỗi cái
x 100Số nhà điều tra
Có 3 chỉ số được sử dụng để theo dõi bọ gậy của muỗi Aedes aegypti và Aedes
albopictus được sử dụng trong nghiên cứu này:
a. Chỉ số nhà có bọ gậy Aedes (CSNBG):
CSNBG (%) =Số nhà có bọ gậy Aedes
x 100Số nhà điều tra
b. Chỉ số dụng cụ chứa nước có bọ gậy Aedes (CSDCBG):
CSDCBG (%) =Số DCCN có bọ gậy Aedes
x 100Số DCCN điều tra
23
c. Chỉ số Breteau (BI) là số DCCN có bọ gậy Aedes trong 100 nhà điều tra. Tối
thiểu điều tra 30 nhà, vì vậy BI được tính như sau:
BI =Số DCCN có bọ gậy Aedes
x 100Số nhà điều tra
3.3.3. Thử nhạy cảm của muỗi Ae. aegypti chủng thu thập tại thực địa với
Alphacypermethrin
Quy trình thử theo phương pháp và bằng bộ thử của WHO với giấy thử đã
tẩm sẵn hóa chất Alphacypermethrin 0,05% để kiểm định độ nhạy cảm của chủng
thực địa với hóa chất sử dụng để phun tại thời điểm nghiên cứu. Sử dụng bọ gậy
thu được tại thực địa được nuôi cho nở thành muỗi trưởng thành. Lựa chọn những
con muỗi khỏe đủ tiêu chuẩn để thí nghiệm. Đếm số lượng muỗi, chia và để riêng
số muỗi cho mỗi ống thử, loại những con không đủ tiêu chuẩn trước khi cho tiếp
xúc với giấy thử. Phương pháp thử tương tự như với thử nghiệm trong phòng thí
nghiệm.
3.3.4. Phun hóa chất cho lô thử nghiệm
Tiến hành phun hóa chất Fendona sau khi đã điều tra các chỉ số muỗi, quăng,
bọ gậy. Phun mặt trong tường vách, mặt trong của mái nhà nếu tường vách thấp
dưới 2 m. Phía sau tủ, gầm giường, gầm bàn, phía sau cánh cửa, phun cả chuồng
gia súc và các công trình phụ (nếu có). Phun tồn lưu trong nhà 1 lần duy nhất theo
hướng dẫn của Viện Sốt rét - KST-CT TƯ. Phun tồn lưu Fendona 10SC liều
30mg/m2, pha 60 ml hóa chất Fendona 10SC trong 8 lít nước phun cho 200 m2 bề
mặt, tường, vách. Phun độ cao 2m trở xuống tính từ mặt sàn. Những đồ vật khác
như các loại rèm, cửa, sau tủ, gầm bàn, gầm ghế, gầm giường cũng được phun.
Lô thử nghiệm: Điểm can thiệp phun tồn lưu hóa chấtlà Phường 4, thành phố
Tuy Hòa ở Phú Yên đại diện cho khu vực đô thị và xã Mỹ Đức Đông, huyện Cái
Bè ở Tiền Giang đại diện cho khu vực nông thôn.
24
Lô đối chứng: Lô đối chứng không phun hóa chất là Phường 6, thành phố
Tuy Hòa tỉnh Phú Yên đại diện cho khu vực đô thị và xã An Thới Đông, huyện Cái
Bè ở Tiền Giang đại diện cho khu vực nông thôn.
3.3.5. Đánh giá tác dụng không mong muốn của hóa chất và sự chấp nhận của
cộng đồng
Tác dụng không mong muốn của hóa chất phun đối với toàn bộ những người
trực tiếp phun, những người trực tiếp tham gia thử nghiệm và những người dân
sống trong vùng sử dụng hóa chất sẽ được phỏng vấn trên bảng câu hỏi với toàn bộ
người tham gia phun và chọn ngẫu nhiên 100 hộ/lô được phun sau 24 giờ sau khi
kết thúc phun và 1 tháng sau khi phun.
Các triệu chứng sau đây sẽ được theo dõi: đau đầu, ngứa, ho, buồn nôn, mùi,
hắt hơi, đau bụng, nôn, kích thích mắt, sổ mũi, tiêu chảy, chóng mặt, dị ứng da và
các triệu chứng khác nếu có.
Sự chấp nhận của cộng đồng thể hiện thực tế tỷ lệ hộ hưởng ứng tạo điều kiện
cho phun, tỷ lệ người đồng ý hưởng ứng phun nếu được phun lần sau.
3.3.6. Đánh giá hiệu lực của hóa chất phun tồn lưu
Sau khi phun tồn lưu tiến hành đánh giá hiệu lực tồn lưu theo phương pháp thử
sinh học của WHO trên loại tường vách trong lô nghiên cứu với muỗi Ae. aegypti ở
các thời điểm: sau 7 ngày, 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 4 tháng, 5 tháng.
Bảng 2. Tóm tắt các bước chính thực hiện tại điểm nghiên cứu
TT Hoạt động Lô Phun tồn lưu Lô Đối chứng
1 Chọn điểm nghiên cứu
tại tỉnh Phú Yên: Chọn 2
phường đại diện cho
thành thị. Cách nhau tối
Chọn ngẫu nhiên 1
phường đại diện cho
thành thị phường trọng
điểm có tình hình SXHD
Chọn 1 phường có điều
kiện tự nhiên và xã hội
tương tự. Có sự tương
đồng về sinh cảnh, chỉ
25
thiểu 400m phức tạp trong những
năm gần đây.
số véc tơ, tỷ lệ sử dụng
dụng cụ chứa nước sinh
hoạt...
2 Chọn điểm nghiên cứu
tại tỉnh Tiền Giang và
Phú Yên: Tỉnh Tiền
Giang chọn 2 xã đại diện
cho thành thị. Cách nhau
tối thiểu 400m của
huyện Cái Bè. Tỉnh Phú
Yên chọn 2 phường của
thành phố Tuy Hòa
Chọn ngẫu nhiên 1 xã
đại diện cho thành thị xã
trọng điểm có tình hình
SXHD phức tạp trong
những năm gần đây.
Chọn 1 xã có điều kiện
tự nhiên và xã hội
tương tự. Có sự tương
đồng về sinh cảnh, chỉ
số véc tơ, tỷ lệ sử dụng
dụng cụ chứa nước sinh
hoạt...
3 Điều tra trước khi phun:
Điều tra véc tơ
Điều tra các chỉ số muỗi,
bọ gậy
Điều tra các chỉ số
muỗi, bọ gậy
4 Nuôi và thử nhạy cảm
của muỗi Aedes trưởng
thành thu từ các điểm
nghiên cứu theo phương
pháp WHO
Thử với
Alphacypermethrin
Thử với
Alphacypermethrin
5 Tổ chức phun tại cộng
đồng:
Phun tồn lưu mỗi lô
nghiên cứu một cụm dân
cư khoảng 1000 hộ dân
bằng máy phun tay sử
dụng Fendona 10SC.
Phun 1 lần duy nhất, liều
phun: 30mg/m2
Không phun hóa chất.
Các biện pháp thường
quy của chương trình
quốc gia PC SXHD
26
Các biện pháp thường
quy của chương trình
quốc gia PC SXHD vẫn
thực hiện bình thường.
vẫn thực hiện bình
thường.
6 Đánh giá hiệu lực của
hóa chất tại thực địa với
muỗi Aedes trưởng
thành theo phương pháp
của Bộ Y tế và của
WHO
Thử tồn lưu với tường
phun tồn lưu
Điều tra các chỉ số muỗi,
bọ gậy1 tuần, 1 tháng 2
tháng, 3 tháng, 4 tháng...
Điều tra các chỉ số
muỗi, bọ gậy 1 tuần, 1
tháng 2 tháng, 3 tháng,
4 tháng..
7 Điều tra sự chấp nhận
của cộng đồng về biện
pháp phun tồn lưu
Phỏng vấn 100 hộ/
phường, xã theo mẫu in
sẵn
8 Điều tra bệnh nhân sau
khi phun
Điều tra số lượng bệnh
nhân mắc 1 tháng 2
tháng, 3 tháng, 4 tháng,
5 tháng sau khi phun
Điều tra số lượng bệnh
nhân mắc 1 tháng 2
tháng, 3 tháng, 4 tháng,
5 tháng sau khi phun
3.3.7. So sánh hiệu quả can thiệp
Chỉ số hiệu quả can thiệp trong nghiên cứu can thiệp theo công thức sau:
Chỉ số hiệu quả của nhóm chứng.
P Ch t - P Ch s
CSHQ PCh (%) = --------------------- x 100
PCh t
Chỉ số hiệu quả can thiệp của nhóm can thiệp.
P CTt - P CTs
CSHQ PCT (%) = --------------------- x 100
27
P CTt
Ghi chú. (t): trước; (s): sau; (CT): nhóm can thiệp; (Ch): nhóm chứng
PCh t là tỷ lệ hiện mắc sốt rét trước can thiệp của nhóm chứng
P Ch s là tỷ lệ hiện mắc sốt rét sau can thiệp của nhóm chứng
CSHQ PCh là hiệu quả của nhóm chứng (trước và sau)
P CTt là tỷ lệ hiện mắc sốt rét trước can thiệp của nhóm can thiệp
P CTs là tỷ lệ hiện mắc sốt rét sau can thiệp của nhóm can thiệp
CSHQ PCT là hiệu quả can thiệp của nhóm can thiệp.
Hiệu quả thực sự của can thiệp được tính bằng cách so sánh trước - sau và so
sánh với nhóm đối chứng:
Hiệu quả can thiệp của nhóm chứng: Là hiệu quả phòng chống sốt xuất huyết
thường quy tại nhóm chứng sau can thiệp so với trước can thiệp.
Hiệu quả can thiệp của nhóm can thiệp: Là hiệu quả của phun tồn lưu kết hợp
với các biện pháp thường quy trong phòng chống sốt xuất huyết taijnhoms can
thiệp sau can thiệp so với trước can thiệp.
Hiệu quả can thiệp
HQCT = CSHQ PCT - CSHQ PCh.
Các nhóm chỉ số đánh giá hiệu quả can thiệp
Mật độ muỗi.
Chỉ số nhà có muỗi.
Chỉ số BI.
Chỉ số nhà có bọ gậy.
Chỉ số dụng cụ chứa nước có bọ gậy.
3.4. Phân tích và xử lý số liệu
- Số liệu được nhập vào phần mềm Excel.
- Nhập liệu vào phần mềm SPSS 19.0 để so sánh, phân tích.
28
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Hiệu lực tồn lưu của một số hóa chất diệt côn trùng với Ae.aegypti trong
phòng thí nghiệm
Để lựa chọn được hóa chất phun tồn lưu thực hiện ở thực địa, việc so sánh hiệu
lực tồn lưu với mỗi Ae.aegypti đã tiến hành triển khai tại phòng thí nghiệm trước khi
tiến hành tại thực địa với 3 hóa chất thương phẩm đang được lưu hành và sử dụng
trong phòng chống muỗi ở Việt Nam. Phun tồn lưu những hóa chất này trên tường
xây quét sơn là vật liệu phổ biến ở khu vực nghiên cứu. Kết quả được thực hiện
trong bảng 3.
Bảng 3. Kết quả thử hiệu lực tồn lưu của 3 hóa chất điệt côn trùng đối với muỗi
Ae. aegypti trong phòng thí nghiệm
Hóa chất Thời gian
thử nghiệm
Số muỗi
thử (con)
Số muỗi chết
sau 24 giờ
Tỷ lệ muỗi chết sau 24
giờ sau 30 phút tiếp xúc
(%)
Fendona 10SC
Sau 24 giờ 90 90 100 %
Sau 10 ngày 90 90 100 %
Sau 2 tuần 90 90 100 %
Sau 1 tháng 90 90 100 %
Sau 2 tháng 90 90 100 %
Sau 3 tháng 90 90 100 %
Sau 4 tháng 90 90 96,7 %
Hantox - 200
Sau 24 giờ 90 54 60 %
Sau 10 ngày 90 16 17,8
Sau 2 tuần 90 14 15,6
Permethrin Sau 24 giờ 90 28 42,2
Sau 10 ngày 90 10 11,1
29
50EC Kết quả thể hiện trong bảng 3 thấy rằng, khi sử dụng sử dụng Hantox - 200 để
phun tồn lưu thì sau 1 tháng, tỷ lệ muỗi chết sau 24 giờ khi cho tiếp xúc với tường
đạt trung bình 14%. Chế phẩm Hantox - 200 sử dụng phương pháp phun tồn lưu trên
tường vách có tác dụng diệt muỗi Ae. aegypti kém.
Khi sử dụng Permethrin 50 EC để phun thì sau 24 giờ, tỷ lệ muỗi chết sau 24 giờ
khi cho tiếp xúc với tường đạt trung bình 42,2%. Chế phẩm Permethrin 50EC sử dụng
phương pháp phun tồn lưu trên tường vách có tác dụng diệt muỗi Ae. aegypti kém.
Sử dụng chế phẩm Fendona 10 SC để phun thì sau 4 tháng, tỷ lệ muỗi chết khi
cho muỗi tiếp xúc với tường đạt trung bình 96,7%. Chế phẩm Fendona 10 SC sử dụng
phương pháp phun tồn lưu trên tường vách có tác dụng diệt muỗi Ae. aegypti tốt.
Với kết quả này, đề tài đã sử dụng chế phẩm Fendona 10 SC để phun tồn lưu tại
thực địa.
4.2. Kết quả nghiên cứu tại khu vực đô thị tỉnh Phú Yên
4.2.1. Độ nhạy cảm với hóa chất diệt côn trùng của muỗi Aedes aegypti chủng
phòng thí nghiệm và chủng thực địa
Tiến hành thử nhạy cảm của muỗi Aedes aegypti chủng phòng thí nghiệm
của Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Quy Nhơn với giấy tẩm hóa chất diệt
côn trùng: Alphacypermethrin (0,05%), Deltamethrin (0,05%) và Permethrin
(0,75%) tại thời điểm nghiên cứu. Kết quả được thể hiện trong bảng 4.
Bảng 4. Độ nhạy cảm của muỗi Aedes aegypti chủng phòng thí nghiệm với một
số hóa chất hóa chất diệt côn trùng
Giấy thử Số muỗi
Ống thử
Ống thử 2
Ống thử 3
Ống thử 4
Số muỗi chết sau
Mẫu ĐC 1
Mẫu ĐC
Số muỗi ĐC chết
30
thử 1 24h TN 2 sau 24h Alphacypermethrin
(0,05%)100 25 25 25 25 100 25 25 0100 25 25 25 25 100 25 25 0
Deltamethrin (0,05%)
100 25 25 25 25 100 25 25 0100 25 25 25 25 100 25 25 0
Permethrin (0,75%)
100 25 25 25 25 100 25 25 0100 25 25 25 25 100 25 25 0
Tỷ lệ trung bình chủng phòng thí nghiệm 100% 0%
Kết quả trong bảng 4 thấy rằng muỗi Ae. aegypti chủng phòng thí nghiệm
vẫn còn nhạy cảm với hóa chất Alphacypermethrin, deltamethrin và permethrin tại
thời điểm nghiên cứu (tỷ lệ chết trung bình 100%).
Kết quả thử nhạy cảm của muỗi Ae. aegypti chủng thực địa với
Alphacypermethrin. Kết quả được trình bày trong bảng 5.
Bảng 5. Kết quả nhạy cảm của muỗi Aedes aegypti thu thập ở thực địa tại Phú Yên với Alphacypermethrin
Địa điểm Số muỗi thử
Ống thử 1
Ống thử 2
Ống thử 3
Ống thử 4
Số muỗi chết sau 24h TN
Mẫu ĐC 1
Mẫu ĐC 2
Số muỗi chết sau 24h ĐC
Phường 4100 25 25 25 25 77 25 25 0100 25 25 25 25 63 25 25 0100 25 25 25 25 75 25 25 0100 25 25 25 25 79 25 25 0
Phường 6100 25 25 25 25 73 25 25 0100 25 25 25 25 69 25 25 0100 25 25 25 25 76 25 25 0100 25 25 25 25 72 25 25 0
Tỷ lệ chết trung bình chủng thực địa 73% 0%
Kết quả thể hiện trong bảng 5 thấy rằng muỗi Ae. aegypti chủng thực địa
(thành phố Tuy Hòa) đã kháng với Alphacypermethrin (tỷ lệ chết trung bình 73%).
31
4.2.2. Hiệu lực tồn lưu của Fendona 10SC với Aedes aegypti
Sau khi phun fendona 10SC (Alphacypermethrin) với liều 30mg/m2, sử dụng bộ
thử tồn lưu để thử hiệu quả của hóa chất phun trên tường vách đối với muỗi Ae. aegypti
chủng phòng thí nghiệm và chủng thực địa. Chủng phòng thí nghiệm nhạy cảm với hóa
chất Alphacypermethrin, nhưng chủng thực địa đã kháng với hóa chất này. Kết quả
được thể hiện trong bảng 6 và hình 1.
Bảng 6. Hiệu lự tồn lưu của Fendona 10SC với muỗi Aedes aegypti tại Phú Yên
Sau can thiệp 7 ngày
Sau can
thiệp 1 tháng
Sau can
thiệp 2 tháng
Sau can
thiệp 3 tháng
Sau can
thiệp 4 tháng
Sau can
thiệp 5 tháng
Ae. aegypti chủng thực địa 83 97 76 53.3 37.9 35Ae. aegypti chủng labo 100 100 81 70 73.3 62.5
Hình 1. Tỷ lệ chết của muỗi Ae. aegypti sau khi tiếp xúc với tường phun hóa chất tại Phú Yên
32
Giá trị giới hạn 50%
Kết quả thể hiện trong bảng 6 và hình 1 thấy rằng tỷ lệ chết của chủng nhạy trong
phòng thí nghiệm đạt 100% sau khi phun 1 tuần, tỷ lệ chết giảm dần theo thời gian,
nhưng vẫn chết 62,5% sau 5 tháng thử nghiệm. Đối với chủng kháng ngoài thực
địa, sau 1 tuần phun thì muỗi chết 83%, sau 1 tháng muỗi chết đạt 97%, đến tháng
thứ 3 chỉ còn 53.3%, sau 4 tháng là 37.9% và sau 5 tháng là 35%. Như vậy, hiệu
quả tồn lưu của hóa chất có tác dụng diệt tốt với muỗi Ae. aegypti chủng phòng thí
nghiệm sau ít nhất 5 tháng, đối với chủng thực địa chỉ có tác dụng được 3 tháng.
4.2.3. Tác động của phun tồn lưu tới các chỉ số muỗi, bọ gậy
Tại các điểm điều tra, chỉ bắt được muỗi Ae. aegypti ở cả gai đoạn muỗi
trưởng thành và giai đoạn ấu trùng (quăng, bọ gậy), nhưng không bắt được muỗi
Ae. albopictus. Các chỉ số được thể hiện trong bảng 7.
Bảng 7: Chỉ số muỗi, bọ gậy Aedes aegypti tại điểm nghiên cứu Phú Yên
Thời điểm điều
traLô
Chỉ số muỗi Chỉ số (CS) bọ gậy
CSMĐ
(con/nhà
)
CSNC
M
(%)
BreteauNhà có
bọ gậy
Dụng cụ
có bọ
gậy
Trước can
thiệp
Lô thử nghiệm 0,38 15 35 22 25Lô đối chứng 0,26 21 48 44 29
Sau can thiệp 7
ngày
Lô thử nghiệm 0,03 2 8 4 6Lô đối chứng 0,12 7 14 9 12
Sau can thiệp 1
tháng
Lô thử nghiệm 0,09 5 11 7 8Lô đối chứng 0,19 9 17 9 14
Sau can thiệp 2
tháng
Lô thử nghiệm 0,17 7 12 7 8,5Lô đối chứng 0,21 9 16 11 11,6
Sau can thiệp 3
tháng
Lô thử nghiệm 0,23 15 18 16 12Lô đối chứng 0,27 13 21 13 15
33
Sau can thiệp 4
tháng
Lô thử nghiệm 0,70 36 33 26 34,7Lô đối chứng 0,72 42 21 16 18,2
Sau can thiệp 5
tháng
Lô thử nghiệm 0,58 32 29 26 39Lô đối chứng 0,47 24 21 18 26,8
CSMĐ: Chỉ số mật độ muỗi; CSNCM: Chỉ số nhà có muỗi; Phường 4: Lô can thiệp; Phường 6: Lô đối chứng4.2.3.1 So sánh hiệu quả can thiệp của chỉ số mật độ muỗi tại Phú Yên
Chỉ số mật độ muỗi được thể hiện trong hình 2
Hình 2. Sự biến thiên của chỉ số mật độ (DI) muỗi Ae. aegypti tại Phú Yên
Kết quả trên hình 2 cho thấy trước và sau phun tại Phú Yên thấy rằng, chỉ số
mật độ muỗi Ae. aegypti giảm mạnh ở cả lô phun hóa chất (phường 4) và lô đối
chứng (phường 6). Tuy nhiên, khi so sánh giữa hai lô với nhau, chỉ số mật độ muỗi
Ae. aegypti ở lô phun hóa chất giảm mạnh hơn lô đối chứng trong vòng 3 tháng (sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê, p<0.05). Sau 4 và 5 tháng can thiệp, sự khác biệt
giữa chỉ số mật độ muỗi Ae. aegypti ở 2 lô là không có ý nghĩa thống kê (P>0.05).
Chỉ số mật độ muỗi Ae. aegypti ở lô phun hóa chất trước can thiệp là 0.38 con/nhà
giảm xuống còn 0.03 con/nhà sau 1 tuần, 0.09 con/nhà sau 1 tháng và 0.17 con/nhà
34
sau 2 tháng. Trong khi đó, ở lô đối chứng giảm từ 0,26 xuống còn 0,12 sau 1 tuần,
0,19 và 0,21 con/nhà sau 1 và 2 tháng. Ở thời điểm sau 5 tháng can thiệp, chỉ số
mật độ muỗi ở lô phun hóa chất lại lớn hơn chỉ số mật độ muỗi ở lô đối chứng
(0,58 con/nhà so với 0,47 con/nhà).
So sánh hiệu quả can thiệp về chỉ số mật độ muỗi giữa nhóm can thiệp với
nhóm chứng được thể hiện trên bảng 8.
Bảng 8. Hiệu quả can thiệp của phun tồn lưu với chỉ số mật độ muỗi tại Phú Yên
Thời gian sau can thiệp CSHQ PCT (%) CSHQ PCh (%)
Chỉ số hiệu quả
7 ngày 92.1 53.8 38.31 tháng 76.3 26.9 49.42 tháng 55.3 19.2 36.13 tháng 39.5 -3.8 43.34 tháng -84.2 -176.9 92.75 tháng -52.6 -80.8 28.2
Bảng 8 cho thấy tác dụng của phun tồn lưu với chỉ số mật độ muỗi kéo dài suốt 5 tháng
theo dõi.
4.2.3.2. So sánh hiệu quả can thiệp của chỉ số nhà có muỗi tại Phú Yên
Chỉ số nhà có muỗi được thể hiện trong hình 3.
35
Hình 3. Sự biến thiên của chỉ số nhà có muỗi tại Phú Yên
Kết quả trong hình 3 thấy rằng tương tự như chỉ số mật độ muỗi, sau khi can
thiệp thấy chỉ số nhà có muỗi giảm nhanh chóng ở cả lô phun hóa chất và lô đối
chứng. Tuy nhiên, ở lô phun hóa chất, chỉ số nhà có muỗi giảm hơn so với lô đối
chứng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Sự giảm này kéo dài được 2
tháng sau khi can thiệp, các tháng sau đó sự khác nhau không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 9. Hiệu quả can thiệp của phun tồn lưu với chỉ số nhà có muỗi tại Phú Yên
Thời gian sau can thiệp CSHQ PCT (%) CSHQ PCh (%)
Chỉ số hiệu quả
7 ngày 86.67 70 16.671 tháng 66.67 57.5 9.172 tháng 53.33 37.5 15.833 tháng 0 27.5 -27.54 tháng -140 -82.5 -57.55 tháng -113.3 12.5 -125.8
Đối với chỉ số nhà có muỗi thì hiệu quả của phun tồn lưu có hiệu lực được
trong 2 tháng (bảng 9).
36
4.2.3.3. So sánh hiệu quả can thiệp của chỉ số BI tại Phú Yên
Chỉ số Breteau (BI), số dụng cụ chứa nước có bọ gậy Aedes trong 100 nhà
điều tra được trình bày trong hình 4. Chỉ số BI đều giảm mạnh sau khi can thiệp ở
cả lô phun hóa chất và lô đối chứng, nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê (P>0,05).
Hình 4. Sự biến thiên của chỉ số Bretaeu (BI) tại Phú Yên
Bảng 10. Hiệu quả can thiệp của phun tồn lưu với chỉ số BI tại Phú Yên
Thời gian sau can thiệp CSHQ PCT (%) CSHQ PCh (%)
Chỉ số hiệu quả
7 ngày 77.1 70.8 6.31 tháng 68.6 64.6 4.02 tháng 65.7 66.7 -0.93 tháng 48.6 56.3 -7.74 tháng 5.7 56.3 -50.55 tháng 17.1 56.3 -39.1
Kết quả thu được thấy rằng hiệu quả can thiệp ở Phú Yên đối với mật độ muỗi
có hiệu quả sau 5 tháng can thiệp. Đối với chỉ số nhà có muỗi là sau 2 tháng can
thiệp, đối với Chỉ số BI là sau 1 tháng can thiệp.37
4.2.3.4. So sánh hiệu quả can thiệp của chỉ số nhà có bọ gậy tại Phú Yên
Chỉ số nhà có bọ gậy được thể hiện trong hình 5.
Hình 5. Sự biến thiên của chỉ số nhà có bọ gậy tại Phú Yên
Sau khi can thiệp 7 ngày, chỉ số nhà có bọ gậy giảm mạnh (từ 22 xuống còn 4
ở lô can thiệp, và từ 44 xuống 9 ở lô đối chứng). Chỉ số này tăng chậm ở 1 tháng, 2
tháng sau khi can thiệp, và tăng dần sau 2 tháng. Đặc biệt sau khoảng 2,5 tháng đến
5 tháng sau khi can thiệp, chỉ số nhà có bọ gậy ở lô phun hóa chất lại cao hơn lô đối
chứng.
4.2.3.5. So sánh hiệu quả can thiệp của chỉ số dụng cụ chứa nước có bọ gậy tại
Phú Yên
Chỉ số dụng cụ chứa nước có bọ gậy được thể hiện trong hình 6.
38
Hình 6. Sự biến thiên của chỉ số dụng cụ chứa nước có bọ gậy tại Phú Yên
Tương tự như chỉ số nhà có bọ gậy, sau khi can thiệp 7 ngày, chỉ số dụng cụ
chứa nước có bọ gậy cũng giảm mạnh (từ 25 xuống còn 3 ở lô can thiệp, và từ 29
xuống 12 ở lô đối chứng). Chỉ số này tăng chậm ở lô can thiệp sau 1 tháng, 2 tháng
và 3 tháng, nhưng tăng rất nhanh sau 4 tháng can thiệp. trong khi đó ở lô đối chứng,
chỉ số dụng cụ chứa nước có bọ gậy giảm dần sau 7 ngày, tháng và 2 tháng sau khi
can thiệp, và tăng chậm dần sau 2 tháng.
4.2.4. Tác dụng không mong muốn của hóa chất và sự chấp nhận của cộng đồng
Tác dụng không mong muốn của hóa chất và sự chấp nhận của cộng đồng được
trình bày trong bảng 11-12.
Bảng 11. Kết quả phỏng vấn tác dụng dụng phụ cho người trực tiếp
phun hóa chất tại phường 4, Tuy Hòa, tỉnh Phú YênTT Nội dung phỏng
vấnTổng số
người được phỏng vấn
Ngay sau khi phun
Tỷ lệ % Sau 24 giờ
Tỷ lệ%
1 Bình thường 10 0 0 0 02 Thấy mùi khó chịu 10 0 0 0 0
39
3 Nóng rát mặt 10 10 100 0 04 Da bị kích ứng 10 0 0 0 05 Hắt hơi 10 0 0 0 06 Chảy nước mũi 10 0 0 0 07 Đau đầu 10 0 0 0 08 Buồn nôn 10 0 0 0 09 Chảy nước mắt 10 0 0 0 010 Triệu chứng khác 10 0 0 0 0
Bảng 12. Kết quả phỏng vấn tác dụng dụng phụ hộ được phun hóa chất ngay sau thời điểm phun tại phường 4, Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
TT Nội dung phỏng vấn
Tổng số hộ gia đình được phỏng vấn
Ngay sau khi phun
Tỷ lệ %
Sau 24 giờ
Tỷ lệ %
1 Bình thường 100 86 86 100 1002 Thấy mùi khó chịu 100 0 0 0 03 Nóng rát mặt 100 17 17 0 04 Da bị kích ứng 100 2 2 0 05 Hắt hơi 100 0 0 0 06 Chảy nước mũi 100 0 0 0 07 Đau đầu 100 0 0 0 08 Buồn nôn 100 0 0 0 09 Chảy nước mắt 100 0 0 0 010 Triệu chứng khác 100 0 0 0 0
Có 10/10 người trực tiếp phun hóa chất có dấu hiệu nóng rát mặt.Có 12/100 số hộ gia đình phun hóa chất thấy có triệu chứng nóng rát mặt, và
2/100 người bị dị ứng da mặtCó 0/100 số hộ gia đình phun hóa chất sau 1 tháng không thấy phản ứng phụ
của hóa chất.100% các hộ gia đình được phỏng vấn đều muốn phun hóa chất trong phòng
chống SXHD.
40
4.2.5. Chi phíBảng 13. Chi phí cho phun tồn lưu tại Phú Yên
Nội dung Đơn vị tính Số lượng Định mức Tổng tiềnHộ phun Hộ 1000 36,559mlSố người/ hộ Người 4,3Tổng số m2/người m2/người 28,34Tổng số hóa chất/200m2 Ml 60
Giá tiền/lít Lít 37 1,250,000đ 46,250,000
Công phun Công (1 người phun 25 nhà/1 ngày) 1000 nhà 100,000 4,000,000
Tổng 50,250,000Như vậy, để phun 1000 hộ tại Phú Yên thì chi phí khoảng 50,250,000 đ
4.3. Kết quả nghiên cứu tại khu vực nông thôn tỉnh Tiền Giang
4.3.1. Độ nhạy cảm với hóa chất diệt côn trùng của muỗi Aedes aegypti chủng
phòng thí nghiệm và chủng thực địa
Tiến hành thử nhạy cảm của muỗi Ae. aegypti chủng phòng thí nghiệm của
Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Thành phố Hồ Chí Minh với hóa chất
Alphacypermethrin (0,05%), Deltamethrin (0,05%) và Permethrin (0,75%) tại thời
điểm nghiên cứu. Kết quả được thể hiện trong bảng 14.
Bảng 14. Độ nhạy cảm của muỗi Ae. aegypti chủng phòng thí nghiệm với một
số hóa chất hóa chất diệt côn trùng
Hóa chất Số
muỗi
thử
Ống
thử 1
Ống
thử 2
Ống
thử 3
Ống
thử 4
Số muỗi
chết sau
24h TN
Mẫu
ĐC 1
Mẫu
ĐC 2
Số muỗi
ĐC chết
sau 24h
Alphacypermethrin
(0,05%)
150 25 25 25 25 100/100 25 25 0/50
150 25 25 25 25 100/100 25 25 0/50
Deltamethrin
(0,05%)
150 25 25 25 25 100/100 25 25 0/50
150 25 25 25 25 100/100 25 25 0/50
Permethrin 150 25 25 25 25 100/100 25 25 0/50
41
(0,75%) 150 25 25 25 25 100/100 25 25 0/50
Tỷ lệ trung bình chủng phòng thí nghiệm 100% 0%
Kết quả trong bảng 14 thấy rằng muỗi Ae. aegypti chủng phòng thí nghiệm
của Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn
nhạy cảm với hóa chất Alphacypermethrin (0,05%), Deltamethrin (0,05%) và
Permethrin (0,75%) tại thời điểm nghiên cứu.
Kết quả thử nhạy cảm của muỗi Ae. aegypti chủng thực địa với
Alphacypermethrin. Kết quả được trình bày trong bảng 15.
Bảng 15. Kết quả nhạy cảm của Aedes aegypti thu thập tại thực địa với Alphacypermethrin
Địa điểm
Số muỗi thử
Mẫu thử 1
Mẫu thử 2
Mẫu thử 3
Mẫu thử 4
Tỷ lệ chết TB sau 24h
mẫu TN
Mẫu ĐC 1
Mẫu ĐC 2
Tỷ lệ chết TB sau 24h
mẫu ĐC
Ấp Mỹ Phú
100 25 25 25 25 60/100 25 25 0/50100 25 25 25 25 71/100 25 25 0/50100 25 25 25 25 58/100 25 25 0/50100 25 25 25 25 65/100 25 25 0/50100 25 25 25 25 78/100 25 25 0/50100 25 25 25 25 55/100 25 25 0/50
Ấp Thái Hòa
100 25 25 25 25 58/100 25 25 0/50100 25 25 25 25 62/100 25 25 0/50100 25 25 25 25 65/100 25 25 0/50100 25 25 25 25 72/100 25 25 0/50
Tỷ lệ trung bình 64,4% 0%Kết quả thể hiện trong bảng 15 thấy rằng muỗi Ae. aegypti chủng thực địa
(huyện Cái Bè) đã kháng với Alphacypermethrin (tỷ lệ chết trung bình 64,4%).
4.3.2. Hiệu lực tồn lưu của Fendona 10SC với Aedes aegypti
42
Sau khi phun Fendona 10SC với liều 30mg/m2, sử dụng bộ thử tồn lưu để thử
hiệu quả của hóa chất phun trên tường vách đối với muỗi Ae. aegypti chủng phòng thí
nghiệm và chủng thực địa. Chủng phòng thí nghiệm nhạy cảm với hóa chất
Alphacypermethrin , nhưng chủng thực địa đã kháng với hóa chất này. Kết quả được
thể hiện trong hình 7.
Hình 7. Tỷ lệ chết của muỗi Ae. aegypti sau khi tiếp xúc với tường phun hóa chất
Kết quả được thể hiện trong hình 7 thấy rằng tỷ lệ chết của chủng nhạy trong
phòng thí nghiệm đạt 100% sau khi phun 1 tuần, tỷ lệ chết giảm dần theo thời gian,
nhưng vẫn chết 52% sau 5 tháng thử nghiệm. Đối với chủng kháng ngoài thực địa,
sau 1 tuần phun thì muỗi chết 87,8%, đến tháng thứ 3 chỉ còn 56,25%, sau 4 tháng
là 39,15% và sau 5 tháng là 28,75%. Như vậy, hiệu quả tồn lưu của hóa chất có tác
dụng diệt tốt với muỗi Ae. aegypti chủng phòng thí nghiệm sau 5 tháng, đối với
chủng thực địa là có tác dụng 3 tháng.
4.3.3. Tác động của phun tồn lưu tới các chỉ số muỗi, bọ gậy
Tại các điểm điều tra tại tỉnh Tiền Giang, chỉ bắt được muỗi Ae. aegypti ở cả
gai đoạn muỗi trưởng thành và giai đoạn ấu trùng (quăng, bọ gậy), nhưng không
bắt được muỗi Ae. albopictus. Các chỉ số được thể hiện trong bảng 16.43
Giá trị giới hạn 50%
Bảng 16: Chỉ số muỗi, bọ gậy Aedes aegypti ở điểm nghiên cứu tại Tiền Giang
Thời điểm
Địa điểm LoàiChỉ số muỗi Chỉ số (CS) bọ gậy
CSMĐ (con/nhà)
CSNCM (%)
BreteauNhà có bọ gậy
Dụng cụ có bọ gậy
Trước can thiệp
Lô thử nghiệm Ae. aegypti 0,35 32 40 35 15Lô đối chứng Ae. aegypti 0.4 38 54 48 18
Sau phun 7 ngày
Lô thử nghiệm Ae. aegypti 0,08 4 15 12 7Lô đối chứng Ae. aegypti 0,12 12 19 15 8
Sau phun 1 tháng
Lô thử nghiệm Ae. aegypti 0,07 5 22 16 6Lô đối chứng Ae. aegypti 0,17 13 23 17 8
Sau phun 2 tháng
Lô thử nghiệm Ae. aegypti 0,09 8 14 10 7Lô đối chứng Ae. aegypti 0,25 18 20 20 8
Sau phun 3 tháng
Lô thử nghiệm Ae. aegypti 0,37 24 19 13 10Lô đối chứng Ae. aegypti 0,29 19 22 21 12,8
Sau phun 4 tháng
Lô thử nghiệm Ae. aegypti 0,62 37 29 39 19Lô đối chứng Ae. aegypti 0,73 31 32 33 17
Sau phun 5 tháng
Lô thử nghiệm Ae. aegypti 0,4 25 25 21 15,4Lô đối chứng Ae. aegypti 0,35 16 18 12 12,2
Kết quả điều tra các chỉ số muỗi, bọ gậy cho thấy, cả hai điểm điều tra thấy
chỉ có muỗi Ae. aegypti, không thấy xuất hiện muỗi Ae. albopictus. Trước khi tiến
hành can thiệp phun tồn lưu hóa chất Fendona 10SC tại lô thử nghiệm (xã Mỹ Đức
Đông) và lô chứng không phun (xã An Thái Đông) các chỉ số muỗi, bọ gậy ở cả 2
lô là cao không khác nhau nhiều, đặc biệt là chỉ số DI tương ứng là 0,35 và 0,40 ;
và BI tương ứng là: 40 và 54. Sau khi tiến hành can thiệp tại lô đối chứng các chỉ
số muỗi, bọ gậy có xu hướng giảm sau phun 7 ngày, sau phun 1 tháng đặc biệt
giảm nhiều nhất thời điểm sau phun 7 ngày: lô thử nghiệm BI=15, DI=0,08; tại xã
đối chứng không có can thiệp các chỉ số có giảm nhưng so với xã can thiệp vẫn cao
hơn: An Thái Đông: BI=19, CSMĐ=0,1. Tại hai xã các biện pháp phòng chống sốt
xuất huyết thuộc chương trình giám sát quốc gia vẫn được tiến hành bình thường.
Sau thời điểm 1 tháng sau phun các chỉ số muỗi, bọ gậy ở cả 2 điểm nghiên cứu có
44
xu hướng tăng và tăng cao sau khi phun 4, 5 tháng. Đặc biệt đến tháng thứ 4 sau
phun cao hơn so với thời điểm trước khi can thiệp đặc biệt là CSMĐ ở cả hai điểm:
lô thử nghiệm BI=29, DI=0,62; lô đối chứng BI=32, DI=0,73. Thời điểm sau 4
tháng can thiệp các chỉ số tại xã can thiệp cao hơn so với xã đối chứng.
- So sánh hiệu quả can thiệp của nhóm chứng, hiệu quả can thiệp của nhóm
can thiệp, hiệu quả can thiệp của nhóm can thiệp so với nhóm chứng.
4.3.3.1. So sánh hiệu quả can thiệp của chỉ số mật độ muỗi
Chỉ số mật độ muỗi được thể hiện trên hình 8.
Hình 8. Sự biến thiên của chỉ số mật độ (DI) muỗi Ae. aegypti
Kết quả trên hình 8 cho thấy trước và sau phun tại Tiền Giang thấy rằng, chỉ
số mật độ muỗi Ae. aegypti giảm mạnh ở cả lô phun hóa chất (xã Mỹ Đức Đông)
và lô đối chứng (xã An Thới Đông). Tuy nhiên, khi so sánh giữa hai lô với nhau,
chỉ số mật độ muỗi Ae. aegypti ở lô phun hóa chất giảm mạnh hơn lô đối chứng sau
phun 1 tháng và 2 tháng (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p<0.05). Tuy nhiên, đến
tháng thứ 3 và tháng thứ 5 thì chỉ số mật độ muỗi Ae. aegypti ở lô thử nghiệm lại
cao hơn ở lô đối chứng. Chỉ số mật độ muỗi Ae. aegypti ở lô phun hóa chất trước
45
can thiệp là 0.35 con/nhà giảm xuống còn 0.08 con/nhà sau 1 tuần, 0.07 con/nhà
sau 1 tháng và 0.09 con/nhà sau 2 tháng. Trong khi đó, ở lô đối chứng giảm từ 0,4
xuống còn 0,12 sau 1 tuần, 0,17 và 0,25 con/nhà sau 1 và 2 tháng.
Bảng 17. Hiệu quả can thiệp của phun tồn lưu với chỉ số mật độ muỗi tại Tiền Giang
Thời gian sau can thiệp CSHQ PCh (%) CSHQ PCT (%)
Chỉ số hiệu quả
7 ngày 77.1 70 7.11 tháng 80 57.5 22.52 tháng 74.3 37.5 36.83 tháng -5.7 27.5 -33.24 tháng -77.1 -82.5 5.45 tháng -14.3 12.5 -26.8
Hiệu quả của phường đối chứng có tác dụng sau 2 tháng, phường can thiệp là
sau 3 tháng.
4.3.3.2. So sánh hiệu quả can thiệp của chỉ số nhà có muỗi.
Chỉ số nhà có muỗi được thể hiện trong hình 9.
Hình 9. Sự biến thiên của chỉ số nhà có muỗi
46
Kết quả trong hình 9 thấy rằng tương tự như chỉ số mật độ muỗi, sau khi can
thiệp thấy chỉ số nhà có muỗi giảm nhanh chóng ở cả lô phun hóa chất và lô đối
chứng, đặc biệt là sau thời gian thử nghiệm 2 tháng. Ở lô phun hóa chất, chỉ số nhà
có muỗi giảm hơn so với lô đối chứng. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Bảng 18. Hiệu quả can thiệp của phun tồn lưu với chỉ số nhà có muỗi tại Tiền Giang
Thời gian sau can thiệp CSHQ PCh (%) CSHQ PCT (%)
Chỉ số hiệu quả
7 ngày 87.5 68.4 19.11 tháng 84.375 65.8 18.62 tháng 75 52.6 22.43 tháng 25 50 -254 tháng -15.625 18.4 -34.05 tháng 21.875 57.9 -36.0
4.3.3.3. So sánh hiệu quả can thiệp của chỉ số BI:
Chỉ số BI, số dụng cụ chứa nước có bọ gậy Aedes trong 100 nhà điều tra
được trình bày trong hình 10. Chỉ số BI đều giảm mạnh sau khi can thiệp ở cả lô
phun hóa chất và lô đối chứng sau 5 tháng can thiệp, nhưng sự khác biệt này không
có ý nghĩa thống kê (P>0,05).
47
Hình 10. Sự biến thiên của chỉ số Bretaeu (BI)
Bảng 19. Hiệu quả can thiệp của phun tồn lưu với chỉ số BI tại Tiền Giang
Thời gian sau can thiệp CSHQ PCh (%) CSHQ PCT (%)
Chỉ số hiệu quả
7 ngày 62.5 64.8 -2.31 tháng 45 57.4 -12.42 tháng 65 62.9 2.03 tháng 52.5 59.3 -6.84 tháng 27.5 40.7 -13.25 tháng 37.5 66.7 -29.2Kết quả thu được thấy rằng hiệu quả can thiệp ở Tiền Giang đối với mật độ
muỗi có hiệu quả sau 3 tháng can thiệp. Đối với chỉ số nhà có muỗi là sau 3 tháng
can thiệp, đối với Chỉ số BI thì không có hiệu quả.
4.3.3.4. So sánh hiệu quả can thiệp của chỉ số nhà có bọ gậy
Chỉ số nhà có bọ gậy được thể hiện trong hình 11.
48
Hình 11. Sự biến thiên của chỉ số nhà có bọ gậy
Kết quả trong hình 11 thấy rằng sau khi can thiệp 7 ngày, chỉ số nhà có bọ gậy
giảm mạnh từ 35 xuống còn 12 ở lô can thiệp, và từ 48 xuống 15 ở lô đối chứng.
Chỉ số này vẫn giữ thấp trong 3 tháng sau khi can thiệp, và tăng lên sau 4 tháng can
thiệp, chỉ số nhà có bọ gậy ở lô phun hóa chất thấp hơn lô đối chứng.
4.3.3.5. So sánh hiệu quả can thiệp của chỉ số dụng cụ chứa nước có bọ gậy
Chỉ số dụng cụ chứa nước có bọ gậy được thể hiện trong hình 12.
49
Hình 12. Sự biến thiên của chỉ số dụng cụ chứa nước có bọ gậy
Tương tự như chỉ số nhà có bọ gậy, sau khi can thiệp 7 ngày, chỉ số dụng cụ
chứa nước có bọ gậy cũng giảm mạnh từ 15 xuống còn 7 ở lô can thiệp, và từ 18
xuống 8 ở lô đối chứng. Các chỉ số này gần như giữ nguyên sau khi can thiệp 3
tháng, và chỉ tăng sau 4 tháng và giảm sau 5 tháng.
4.3.4. Tác dụng không mong muốn của hóa chất và sự chấp nhận của cộng đồng
Đánh giá tác dụng không mong muốn đối với người trực tiếp phun hóa chất tồn
lưu Fendona 10SC. Kết quả có 4/10 (40%) người trực tiếp tham gia phun có triệu
trứng nóng rát mặt sau khi phun. Sau khi phun 24, 1 tháng trong các hộ gia đình
được phun hóa chất không có người nào có các triệu chứng tác dụng không mong
muốn (Bảng 20-21).
Có 14 người trong 12/100 hộ được phun hóa chất tồn lưu Fendona 10SC có
người có triệu chứng nóng rát mặt ngay sau thời điểm phun.
Bảng 20. Kết quả phỏng vấn tác dụng dụng phụ cho người trực tiếpphun hóa chất tại An Thái Đông, Nhà Bè, tỉnh Tiền Giang
TT Nội dung phỏng vấn
Tổng số người được phỏng vấn
Ngay sau khi phun
Tỷ lệ % Sau 24 giờ
Tỷ lệ %
50
1 Bình thường 10 6 60 10 1002 Thấy mùi khó chịu 10 0 0 0 03 Nóng rát mặt 10 4 40 0 04 Da bị kích ứng 10 0 0 0 05 Hắt hơi 10 0 0 0 06 Chảy nước mũi 10 0 0 0 07 Đau đầu 10 0 0 0 08 Buồn nôn 10 0 0 0 09 Chảy nước mắt 10 0 0 0 010 Triệu chứng khác 10 0 0 0 0
Phỏng vấn đối với những người sống ở những nhà có phun hóa chất sẽ có 3 đợt
điều tra về tác dụng phụ vào các thời điểm sau khi sử dụng hóa chất 24 giờ, 1 tuần
và 1 tháng không có trường hợp nào có các triệu chứng không mong muốn.
Bảng 21. Kết quả phỏng vấn tác dụng dụng phụ hộ được phun hóa chất ngay sau thời điểm phun An Thái Đông, Nhà Bè, tỉnh Tiền Giang
TT Nội dung phỏng vấn
Tổng số hộ gia đình được phỏng vấn
Ngay sau khi phun
Tỷ lệ %
Sau 24 giờ
Tỷ lệ %
1 Bình thường 100 88 88 100 1002 Thấy mùi khó chịu 100 0 0 0 03 Nóng rát mặt 100 12 12 0 04 Da bị kích ứng 100 0 0 0 05 Hắt hơi 100 0 0 0 06 Chảy nước mũi 100 0 0 0 07 Đau đầu 100 0 0 0 08 Buồn nôn 100 0 0 0 09 Chảy nước mắt 100 0 0 0 010 Triệu chứng khác 100 0 0 0 0
4.3.5. Chi phí
Bảng 22. Chi phí phun tồn lưu tại Tiền GiangNội dung Đơn vị tính Số lượng Định mức Tổng tiềnHộ phun Hộ 1000 25,526mlSố người/ hộ Người 3,5Tổng số m2/người m2/người 24,31Tổng số hóa chất/200m2 Ml 60
51
Giá tiền/lít Lít 261,250,000đ
32,500,000
Công phunCông (1 người phun 25 nhà/1 ngày)
1000 nhà 100,000 4,000,000
Tổng 36,500,000Như vậy, để phun 1000 hộ tại Tiền Giang thì chi phí khoảng 36,500.000 đ
5. BÀN LUẬN
5.1. Hiệu lực tồn lưu của Fendona 10sc với Aedes aegypti
Kết quả thử nghiệm hiệu lực tồn lưu của hóa chất fendona 10SC trên tường
vách có tác dụng diệt tốt với muỗi Ae. aegypti chủng nhạy phòng thí nghiệm sau 5
tháng. và sau 3 tháng đối với chủng thực địa (tỷ lệ chết trên 50%) ở cả điểm nghiên
cứu Tiền Giang và Phú Yên. Như vậy nếu ở những địa phương có Ae. aegypti còn
nhạy cảm với hóa chất phun thì hiệu quả phòng chống của biện pháp này được kéo
dài tối thiểu là 5 tháng. Tuy nhiên đối với các địa phương véc tơ đã kháng nhưở điểm
nghiên cứu thì hiệu lực bị giảm xuống chỉ còn tác dụng trong thời gian 3 tháng. Mặt
khác mặc dù có hiệu lực như vậy nhưng kết quả cho thấy phun tồn lưu chủ yếu ảnh
hưởng đến mật độ muỗi trong nhà còn các chỉ số khác ít bị ảnh hưởng bởi tất cả các
biện pháp phòng chống véc tơ của chương trình mục tiêu quốc về phòng chống muỗi
truyền bệnh SXHD vẫn thực hiện đầy đủ cho cả lô thử nghiệm và lô đối chứng.
Ngoài ra, khi tiến hành điều tra côn trùng trước can thiệp cũng như sau khi can thiệp
7 ngày, 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 4 tháng và 5 tháng có thể ảnh hưởng trực tiếp đến
các chỉ số muỗi, bọ gậy, làm cho các chỉ số này giảm. Bên cạnh biện pháp phun tồn
lưu hóa chất tại các điểm nghiên cứu, hoạt đồng tuyên truyền tác hại của bệnh SXHD
và biện pháp phòng chống véc tơ cũng có thể là một nguyên nhân tác động đến ý
thức người dân tại điểm nghiên cứu, cả ở lô đối chứng và lô thử nghiệm. Do vậy
người dân có ý thức trong việc loại bỏ các ổ bọ gậy nguồn (thường xuyên thay nước
52
ở lọ hoa, thau rửa chum vại...) có thể đã góp phần vào làm giảm mật độ muỗi, bọ gậy
ở các lô đối chứng.
Một số bằng chứng cho thấy các biện pháp phòng chống muỗi truyền thống
riêng lẻ để loại bỏ muỗi Ae. Aegypti ở giai đoạn muỗi trưởng thành bằng phun ULV
là không đủ để kiểm soát và ngăn chặn dịch bệnh SXHD, đó là lý do cấp thiết để
tìm kiếm biện pháp bổ sung hoặc có thể thay thế có hiệu quả trong việc phòng
chống muỗi trưởng thành [8]. Sử dụng các vật liệu tẩm hóa chất diệt côn trùng
(ITMs) có thể làm giảm đáng kể các chỉ số muỗi Aedes truyền bệnh SXHD. Các
vật liệu đó như rèm cửa, nắp đậy chum vại…, những vật liệu này có tác dụng khác
nhau tùy thuộc vào mức độ sử dụng, sự phù hợp với các tập quán của người dân và
sự phù hợp của cấu trúc nhà ở tùy theo từng địa phương[4 ], [5], [11], [12], [14].
Màn tẩm hóa chất diệt côn trùng đã được báo cáo là có tác dụng giảm các chỉ số
muỗi, bọ gậy Ae. aegypti và các tác giả đưa ra giả thuyết rằng sử dụng màn tẩm hóa
chất diệt côn trùng trong diện rộng sẽ có tác dụng trong phòng chống SXHD, tương
tự như sử dụng biện pháp phun tồn lưu hóa chất trên tường [10].
Có rất ít nghiên cứu về hiệu quả của phun tồn lưu trong phòng chống muỗi Ae.
aegypti. Trong tháng 12 năm 1998, ở Queensland thành lập đội phản ứng nhanh với
SXHD, gồm một nhóm chuyên gia được đào tạo bài bản về phòng chống côn trùng.
Vai trò của đội này là đưa ra chiến lược kiểm soát và phòng chống muỗi Ae.
aegypti truyền bệnh SXHD. Đội này đã sử dụng biện pháp phun hóa chất tồn lưu
hóa chất để phòng chống muỗi truyền bệnh SXHD, kết hợp với việc loại bỏ ổ bọ
gậy. Kết quả là các vụ dịch SXHD đã kết thúc trong vòng ba tháng khi đội phản
ứng nhanh này bắt đầu hoạt động. Tác giả cũng thấy rằng đối với các trường hợp
mắc SXHD đầu tiên được ghi nhận, việc kết hợp phun tồn lưu trong nhà và loại bỏ
ổ bọ gậy đã dẫn tới thành công của việc kiểm soát và phòng chống dịch SXHD
bùng phát [39].
53
Tại Malaysia, Rozilawati (2005) đã nghiên cứu hiệu quả của Deltamethrin
trong phòng chống muỗi Aedes trong một khu vực ngoại ô thuộc thành phố Kuala
Lumpur. Tuy nhiên, tác giả đã sử dụng biện pháp phun tồn lưu ngoài nhà để phòng
chống muỗi Aedes. Sử dụng bình phun tồn lưu nén khí để phun Deltamethrin WG
với liều 25 mg/m2. Hiệu quả của Deltamethrin đã được theo dõi dựa vào kết quả
thử hiệu lực sinh học đối với muỗi trên tường đã được phun hóa chất và dùng bẫy
trứng, bọ gậy để giám sát các chỉ số côn trùng. Kết quả là Deltamethrin được phun
ở liều 25mg/m2 vẫn còn hiệu lực trong vòng 6 tuần sau khi thử nghiệm. Sử dụng
Deltamethrin để phun tồn lưu không có hiệu quả nhiều trong việc làm giảm mật độ
các quần thể muỗi Aedes trong khu vực nghiên cứu (không có ý nghĩa thống kê đối
với lô đối chứng, p> 0,05) [10].
Biện pháp phun tồn lưu từ lâu đã được xem là biện pháp rất có hiệu quả và
được áp dụng rất thành công trong phòng chống muỗi truyền sốt rét. Tuy nhiên,
trong phòng chống SXHD chỉ được coi là biện pháp thứ yếu bởi các nhà chiến lược
cho rằng muỗi truyền SXHD rất ít khi đậu trên tường vách [WHO 2009]. Tuy
nhiên, muỗi Aedes hoạt động chủ yếu vào ban ngày nên việc điều tra muỗi trong
nhà có phần hạn chế bởi khi người đến điều tra thì muỗi lại bay ra tìm mồi. Hơn
nữa, lúc đang rình mồi hoặc vừa hút no máu muỗi phải tạm nghỉ trên tường vách
hay vật dụng ở nơi gần nhất để thải nước giảm trọng lượng trước khi tìm được nơi
trú đậu ưa thích. Như vậy nếu những nơi này có hóa chất thì chúng sẽ bị tiêu diệt.
5.2. Hiệu quả của biện pháp phun hóa chất tồn lưu với muỗi truyền SXHD
SXHD chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, vắc xin đang trong giai đoạn thử
nghiệm, chính vì vậy biện pháp phòng chống SXHD chủ yếu vẫn dựa vào việc
kiểm soát véc tơ, trong đó biện pháp sử dụng hóa chất diệt côn trùng là đặc biệt có
hiệu quả trong việc giảm nhanh chóng các quần thể muỗi gây bệnh [11].
54
Hiện nay trên thế giới thế giới cũng như ở Việt Nam, xu hướng chung trong
phòng chống véc tơ SXHD là phối hợp đồng thời nhiều biện pháp và nhấn mạnh sự
tham gia của cộng đồng trong loại trừ nguồn sinh sản là các ổ nước để tiêu diệt bọ
gậy. Năm 1980, hội đồng chuyên gia của WHO về phòng chống véc tơ bằng sinh
học đưa ra 3 hình thức quản lý môi trường bao gồm: Thay đổi môi trường, loại bỏ
lâu dài nơi sinh sống của véc tơ; Quản lý dụng cụ chứa nước; Phòng muỗi sinh sản
trong các dụng cụ chứa nước.
Khi dịch SXHD xảy ra ở Việt Nam cũng như trên thế giới, sử dụng hóa chất
phun không gian (phun ULV) là biện hữu hiệu trong việc làm giảm nhanh chóng
quần thể muỗi trưởng thành đang mang bệnh, góp phần làm hạn chế bùng phát dịch.
Tuy nhiên, biện pháp này chỉ là giải pháp bị động, tạm thời khi xuất hiện ổ
dịch, khi chỉ sử dụng một biện pháp đơn lẻ là phun ULV sẽ không có hiệu quả
trong một thời gian dài. Có một số báo cáo phun ULV có làm giảm chỉ số côn
trùng tức thời mà không được duy trì và các chỉ số có xu hướng phục hồi chỉ trong
vòng 1-2 tuần [3]. Sự thất bại của việc phun hóa chất theo phương pháp phun ULV
trong việc tác động lâu dài đến muỗi truyền bệnh SXHD đã được giải thích là do
tập tính trú đậu của muỗi Ae. aegypti [2], [13]. Muỗi Ae. aegypti đốt máu và trú đậu
trong nhà, do vậy sử dụng sử dụng hóa chất diệt côn trùng phun trong nhà để diệt
chúng như là một biện pháp chính để giảm số lượng những con muỗi đã trưởng
thành. Mặt khác khi phun không gian thì khoảng cách càng xa vòi phun thì mật độ
các hạt hóa chất trong không khí càng giảm, đến một mức độ nào đó hóa chất
không gây chết được muỗi được dẫn tới sự thích nghi và phát triển tính kháng. Như
vậy phun không gian tuy làm giảm được mật độ muỗi tức thời nhưng lại làm tăng
nhanh sự kháng hóa chất. Phun tồn lưu các hạt hóa chất được bám đều trên mặt
tường vách và các dụng cụ nên đa phần muỗi còn nhạy cảm sẽ bị diệt khi tiếp xúc
mà ít có khả năng sống sót để phát triển tính kháng. Với lý do như vậy, phun tồn
55
lưu hóa chất có thể là một biện pháp hữu hiệu sử dụng lồng ghép phòng chống véc
tơ tổng hợp để phòng chống muỗi truyền bệnh SXHD .
Nghiên cứu trong đánh giá hiệu quả biện pháp phun tồn lưu hóa chất Fendona
10SC (thuộc nhóm pyrethroid tổng hợp) cũng là hướng thăm dò mới trong phòng
chống muỗi Aedes aegypti bởi nhiều tác giả cho rằng đối với pha muỗi trưởng
thành loài này rất ít trú đậu trên tường vách mà chủ yếu trú đậu vào các vật tạm
thời nhất là quần áo. Nghiên cứu này nhằm vào phòng chống véc tơ chính truyền
bệnh SXHD tại thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên và huyện Cái Bè, tỉnh Tiền
Giang, những tỉnh có tình hình SXHD diễn ra phức tạp trong những năm gần đây ở
Việt Nam. Mặc dù đã triển khai phun ULV phối hợp với phát động nhân dân tham
gia loại trừ ổ bọ gậy nguồn hàng năm nhưng bệnh vẫn phức tạp, muỗi vẫn phát
triển với các chỉ số cao. Tại các điểm nghiên cứu có những điều kiện thuận lợi cho
muỗi Aedes phát triển như ở Phú Yên, gần như 100% các nhà đều có lọ hoa có
nước trong nhà, còn ở Tiền Giang, các hộ gia đình đều sử dụng chum, lu... để chứa
nước sinh hoạt, nhưng kết quả thấy rằng quần thể muỗi Ae. aegypti tại các điểm
nghiên cứu giảm mạnh sau khi can thiệp phun tồn lưu Fendona 7 ngày.
Hiệu quả của phun tồn lưu hóa chất thể hiện trên chỉ số mật độ muỗi và nhà có
muỗi giảm mạnh so với trước can thiệp và kéo dài sau 3 tháng can thiêp và giảm
mạnh nhất sau 7 ngày, ở cả điểm nghiên cứu ở Phú Yên và Tiền Giang. Sau 3 tháng
các chỉ số trên có xu hướng tăng trở lại, bởi hiệu lực không còn đủ để ảnh hưởng
tới quần thể đã kháng đặc biệt là ở thành phố Tuy Hòa, vì tháng Chín là tháng bắt
đầu mùa mưa ở Tuy Hòa, do vậy bắt đầu từ tháng này, các chỉ số muỗi, bọ gậy tăng
cao hơn so với thời điểm trước khi phun tồn lưu hóa chất vào tháng Sáu, và các chỉ
số đạt đỉnh cao nhất vào tháng Mười. Tương tự như ở điểm nghiên cứu huyện Cái
Bè, tỉnh Tiền Giang, các chỉ số muỗi, bọ gậy cũng tăng vào tháng thứ 4 và tháng
thứ 5 sau can thiệp. Tuy nhiên độ biến thiên nào dao động không nhiều, do từ tháng
56
Chín đến tháng Mười một thì ở Tiền Giang lượng mưa ít có sự thay đổi so với
tháng trước đó.
Kết quả thực hiện tại Phú Yên và Tiền Giang thấy rằng, các chỉ số muỗi, bọ
gậy sau khi can thiệp giảm rất nhanh sau 7 ngày, chỉ tăng chậm sau đó 4 tháng, tuy
nhiên sau 4 tháng thì các chỉ số tăng cao. Như vậy, phun tồn lưu hóa chất có thể có
hiệu quả trong 2-3 tháng. Kết quả này cũng phù hợp với các kết quả nghiên cứu của
các tác giả Vũ Thị Phan, 1973; Morrison, 2008 là sau khi phun tồn lưu hóa chất,
dịch không có xu hướng gia tăng và trong 3 tháng không xuất hiện thêm ca bệnh
nhân mới nào [8], [22].
Sau khi phun tại các điểm nghiên cứu, dịch không có xu hướng gia tăng. Tại
Tuy Hòa, ở lô can thiệp, sau khi phun hóa chất thì không có trường hợp nào mắc
mới SXHD , trong khi đó ở lô đối chứng có thêm 2 trường hợp mắc SXHD mới.
Còn ở Tiền Giang, không có xuất hiện thêm trường hợp mới nào bị mắc SXHD.
5.3. Sự chấp nhận của cộng đồng với phun tồn lưu
Mặc dù có những hạn chế trong việc sử dụng biện pháp phun tồn lưu để phòng
chống muỗi Aedes truyền SXHD bao gồm việc khó khăn về chi phí có thể tốn kém
hơn so với phun ULV hay trong việc xin phép chủ nhà được vào nhà để phun khi
trong nhà để các vật dụng chật trội, nhất là đối với các thành phố lớn, hoặc thiếu
thốn về nhân lực và hạn chế nguồn lực tài chính [8], hoặc không có hiệu quả đối
với muỗi ở ngoài nhà. Tuy nhiên, biện pháp phun tồn lưu cũng có những ưu điểm
như không đòi hỏi khắt khe về thời điểm phun trong ngày như ULV, hóa chất
không bay lơ lửng để con người có thể hút phải gây độc hại. Trên thực tế việc phun
ULV phòng chống SXHD ở Hà Nội và một số địa phương khác năm 2015 đã phản
ánh những thông tin người dân bị kích ứng khi hít phải hóa chất. Sự chấp nhận cao
của cộng đồng trong nghiên cứu này cũng là cơ sở để có thể triển khai phun tồn
lưu. Chính các lý do trên có thể phun tồn lưu được xem như là một phương pháp
57
hữu ích được sử dụng trong phòng chống véc tơ tổng hợp. Hơn nữa, trên thực tế là
muỗi Ae. aegypti là loài muỗi đốt máu và trú đậu chủ yếu trong nhà [2], điều này
càng củng cố hướng áp dụng phun tồn lưu như một công cụ trong việc phòng
chống véc tơ SXHD.
Khi bệnh SXHD tiếp tục gia tăng như là một vấn đề y tế toàn cầu, các chiến
lược mới trong việc kiểm soát véc tơ đang ngày càng cần thiết để phòng chống
quần thể muỗi truyền bệnh sốt xuất huyết. Với kết quả nghiên cứu thu được ở Phú
Yên và Tiền Giang thì trong một số trường hợp, phun tồn lưu hóa chất có thể là
một công cụ hiệu quả và thích hợp trong việc chủ động phòng chống làm giảm mật
độ quần thể muỗi Ae. aegypti trước mùa bệnh cho những vùng có nguy cơ cao, góp
phần hạn chế bùng phát dịch, đặc biệt là khu vực hay xảy ra các ổ dịch lớn.
Tuy nhiên việc sử dụng thường xuyên của phun tồn lưu để phòng chống véc tơ
sốt xuất huyết còn gặp nhiều những khó khăn như: tiếp cận với nhà dân, thời gian,
nhân lực và nguồn lực tài chính (Morrison et al. 2008) nhưng đây có thể là một
biện pháp góp phần quan trọng trong chiến lược quản lý véc tơ tổng hợp (IVM).
Với đặc điểm sinh thái muỗi Aedes aegypti có thời gian trú đậu một thời gian dài
trong nhà do đó hóa chất tồn lưu lâu cũng là một yêu tố diệt quan trọng.
Với tình hình sốt xuất huyết có xu hướng gia tăng như hiện nay một vấn đề
quan trọng của toàn cầu là tìm ra một chiến lược phòng chống véc tơ hiệu quả là
cực kỳ quan trọng. Trong nghiên cứu này chúng tôi nghiên cứu một số các chỉ số
và đặc biệt là đưa ra biện pháp làm giảm mật độ muỗi Aedes aegypti. Do dố phun
tồn lưu có thể là một công cụ hữu hiệu để làm việc đó.
6. KẾT LUẬN
Sử dụng hóa chất Fendona 10SC phun tồn lưu để diệt muỗi trưởng thành kết hợp với các biện pháp chủ động trong chương trình giám sát SXH quốc gia có hiệu quả ró rệt:
58
6.1. Sử dụng hóa chất Fendona 10SC để phun tồn lưu trong nhà liều 30mg/m2 làm
giảm mật độ muỗi Ae. aegypti trong nhà sau 5 tháng đối với quần thể muỗi còn nhạy
vơi Alphacypermethrin và từ 2-3 tháng đối với quần thể muỗi kháng hóa chất này.
6.2. Kết quả thu được thấy rằng hiệu quả can thiệp ở Phú Yên đối với mật độ muỗi
có hiệu quả sau 5 tháng can thiệp. Đối với chỉ số nhà có muỗi là sau 2 tháng can
thiệp, đối với Chỉ số BI là sau 2 tháng can thiệp. Hiệu quả can thiệp ở Tiền Giang
đối với mật độ muỗi có hiệu quả sau 3 tháng can thiệp. Đối với chỉ số nhà có muỗi
là sau 3 tháng can thiệp, đối với Chỉ số BI thì không có hiệu quả
6.3. Hóa chất Fendona 10SC phun tồn lưu trong nhà liều 30mg/m2 gây cảm giác
nóng rát phần da hở tức thời cho người trực tiếp phun và một số nười dân nhưng
không có các tác dụng khong mong muốn khác cho con người. Người dân tại các
điểm nghiên cứu ủng hộ biện pháp phun tồn lưu và các hoạt động phòng chống
dịch bệnh sốt xuất huyết Dengue.
59
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y Tế (2014), Báo cáo tổng kết hoạt động phòng chống sốt xuất huyết năm
2013 và kế hoạch hoạt động năm 2014.
2. Bộ Y tế (2014), Hướng dẫn Giám sát và Phòng, Chống bệnh Sốt xuất huyết
dengue, theo QĐ số 3711/QĐ-BYT ngày 19 tháng 09 năm 2014 của Bộ trưởng
Bộ Y tế.
3. Trần Thanh Dương và CS. (2011), Hướng dẫn Giám sát và phòng chống Sốt xuất
huyết, Bộ Y tế, 138tr.
4. Nguyễn Văn Châu, Nguyễn Huy Bính, Đoàn Văn Trí và ctv (2000), “Phòng
chống chủ động bệnh sốt xuất huyết Dengue tại thành phố Nha Trang”, Thông
tin Phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, 4, tr. 56-65.
5. Bùi Đại (1999), Dengue sốt xuất huyết, Nxb Y học, Hà Nội, tr. 1-126.
6. Vũ Đức Hương và ctv. (1985), “Đặc điểm sinh thái của một số loài muỗi
Aedes truyền bệnh sốt xuất huyết ở miền Bắc Việt Nam”, Kỷ yếu công trình
nghiên cứu khoa học, Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn trùng, Nxb Y học, tr.
70-81.
7. Trương Uyên Ninh và CS. (2000), “Giám sát bệnh sốt xuất huyết Dengue tại
một số tình thành miền Bắc Việt Nam”, Tuyển tập CTNCKH Viện VSDTTW,
tr. 238 – 241.
8. Vũ Thị Phan, Phạm Huy Tiến, Vũ Đức Hương và cộng sự (1973), Trung gian
truyền bệnh sốt xuất huyết năm 1969 ở miền Bắc Việt nam. Kỷ yếu Công trình
nghiên cứu khoa học, Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn trùng, Nxb Y học, tr.
259 – 271.
Tài liệu tiếng nước ngoài
9. Ansari, M. A.; Razdan, R. K. (2001), “Concurrent control of mosquitoes and
domestic pests by use of deltamethrin-treated curtains in the New Delhi
Municipal Committee, India”, J. Am. Mosq. Control Assoc., 17 (2), pp. 131-136.
60
10. Chadee, D. D. (2013) “Resting behavior of Aedes aegypti in Trinidad: with
evidence for the re-introduction of indoor residual spraying (IRS) for dengue
control”, Parasites & Vectors, 6: 225.
11. Clark GG, Seda H, Gubler DJ: Use of the “CDC backpack aspirator” for
surveillance of Aedes aegypti in San Juan, Puerto Rico. J Am Mosq Control
Assoc 1994, 10:119–124.
12. Eisen L, Beaty BJ: Innovative decision support and vector control approaches
to control Dengue. In Vector-Borne Diseases: Understanding the
Environmental, Human Health and Ecological Connections. Washington, DC,
USA: Workshop Summary, The National Academies Press; 2008.
13. Esu, E.; Lenhart, A.; Smith, L. and Horstick, O. (2010), “Effectiveness of
peridomestic space spraying with insecticide on dengue transmission;
systematic review”, Trop. Med. Int. Health, 15, pp. 619-631.
14. Gubler D.J. & Clark, G.G. (1995), “Dengue and haemorrhagic fever: the
emergence of a global health problem”, Emerging Infectious Diseases, 1, pp.
55 -57.
15. Hau P.T.; Adams, J.; Jeffery, J.A.L.; Yen, T.N.; Nam, S.V.; Kutcher, S.; Kay,
B.H.; Ryan, P.A. (2010), “Householder perspectives and preferences on water
storage and use, with reference to dengue, in the Mekong Delta, southern
Vietnam”, International Health, 2, pp. 136-142.
16. Hau P.T.; Trang, T.T.H.; Yen, T.N.; Kutcher, S.; O’Rourke, P.; Marquart, L.;
Ryan, P.A. and Kay, B.H. (2012), “Low Entomological Impact of New Water
Supply Infrastructure in Southern Vietnam, with Reference to Dengue
Vectors”, Am. J. Trop. Med. Hyg., 87(4), pp. 631–639.
17. Hien, T. V. (2011), “Application of mosquito-proof water containers in the
reduction of dengue mosquito population in a dengue endemic province of
Vietnam”, Asian Pac. J. Trop. Dise., 270-274.
61
18. Knox, T.B.; Yen, N.T.; Nam, V.S.; Gatton, M.L.; Kay, B.H.; Ryan, P.A.
(2007), “Critical evaluation of quantitative sampling methods for Aedes
aegypti (Diptera: Culicidae) immatures in water storage containers in
Vietnam”, J Med Entomol., 44(2), pp. 192-204.
19. Kroeger, A.; Lenhart, A.; Ochoa, M.; Villegas, E.; Levy, M. et al (2006),
“Effective control of dengue vectors with curtains and water container covers
treated with insecticide in Mexico and Venezuela: cluster randomised trials”,
BMJ, 332, pp. 1247 - 1252.
20. Koenraadt, C.J.M.; Aldstadi, J.; Kijchalao, U.; Kengluecha, A.; Jones, J.W. and
Scott, T.W. (2007), “Spatial and temporal patterns in the recovery of Aedes
aegypti (Diptera: Culicidae) populations after insecticide treatment”, J. Med.
Entomol., 44, pp. 65-71.
21. Manrique-Saide, P.; Che-Mendoza, A.; Barrera-Perez, M.; Guillermo-May, G.;
Herrera-Bojorquez, J.; Dzul-Manzanilla, F.; Gutierrez-Castro, C.; Lenhart, A.;
Vazquez-Prokopec, G.; Sommerfeld, J.; McCall, P.J. and Arredondo-Jimenez,
J.I. (2015), “Use of insecticide-treated house screens to reduce infestations of
dengue virus vectors, Mexico”, Emerg. Infect. Dis., 21, pp. 308-311.
22. Morrison, A.C.; Zielinski-Gutierrez, E.; Scott, T.W. and Rosenberg, R. (2008),
“Defining challenges and proposing solutions for control of the virus vector
Aedes aegypti”, PLos Med., 5: e68.
23. Lauren M.S.; Elizabeth M.H.; Durbin, A.P.; Longini, I.M. (2015), “The dengue
vaccine pipeline: Implications for the future of dengue control”, Vaccine, 33,
pp. 3293-3298.
24. Lenhart, A.; Orelus, N.; Maskill, R.; Alexander, N. and McCall, P.J. (2008),
“Insecticide-treated bednets to control dengue vectors: preliminary evidence
from a controlled trial in Haiti”, Trop. Med. Int. Health., 13, pp. 56-67.
62
25. Lenhart, A.; Trongtokit, Y.; Alexander, N.; Apiwathnasorn, C.; Satimai, W.;
Vanlerberghe, V.; Van der Stuyft, P.; McCall, P.J. (2013), “A cluster-
randomized trial of insecticide-treated curtains for dengue vector control in
Thailand”, Am. J. Trop. Med. Hyg., 88, pp. 254-259.
26. Lenhart, A.; Orelus, N.; Maskill, R.; Alexander, Neal.; Streit, T.; and McCall,
P. J. (2008), “Insecticide-treated bednets to control dengue vectors:
preliminary evidence from a controlled trial in Haiti”, Trop. Med. Int. Health,
13(1), pp. 56-67.
27. Le Anh P. Nguyen; Archie C.A. Clements; Jason A.L. Jeffery; Nguyen Thi Yen;
Vu Sinh Nam; Gregory Vaughan; Ramon Shinkfield; Simon C. Kutcher;
Michelle L. Gatton; Brian H. Kay; Peter A. Ryan. (2001), “Abundance and
prevalence of Aedes aegypti immatures and relationships with household water
storage in rural areas in southern Viet Nam”, Int. Health., 3(2), pp.115-125.
28. Perich, M. J.; Davila, G.; Turner, A.; Garcia, A. and Nelson. M. (2000),
“Behavior of resting Aedes aegypti (Culicidae: Diptera) and its relation to
ultra-low volume adulticide efficacy in Panama City, Panama”, J. Med.
Entomol., 37, pp. 541-546.
29. Perich MJ, Rocha O, Castro L, Alfaro W, Platt KB, Solano T, Rowley WA:
Evaluation of the efficacy of Lambda-Cyhalothrin applied by three spray
application methods for emergency control of Aedes aegypti in CostaRica. J
Am Mosq Control Assoc 2003, 19, pp.58–62.
30. Perich MJ, Tidwell MA, Williams DC, Sardelis MR, Pena CJ, Mandeville D,
Boobar LR: Comparison of ground and aerial ultra-low-volumeapplications of
Malathion against Aedes aegypti in Santo Domingo, Dominican Republic. J
Am Mosq Control Assoc 1990, 6. Pp. 1–6.
63
31. Rozilawati, H.; Lee, H.L.; Mohd Masri, S.I.; Mohd Noor and Rosman, S.
(2005), “Field bioefficacy of deltamethrin residual spraying against dengue
vectors”, Tropical biomedicine, 22, pp. 143-148.
32. Tsuzuki, A.; Thiem, V. D.; Suzuki, M.; Yanai, H.; Matsubayashi, T.; Yoshida,
Lay-Myint; Tho, L. H.; Minh, T. T.; Anh, D. D.; Kilgore, P. E.; Takagi, M.
and Ariyoshi, K. (2010), “Can daytime use of bed nets not treated with
insecticide reduce the risk of dengue hemorrhagic fever among children in
Vietnam?” Am. J. Trop. Med. Hyg., 82(6), pp.1157-1159
33. Takashi Tsunoda, Hitoshi Kawada, Trang TT Huynh, Loan Le Luu, San Hoang
Le, Huu Ngoc Tran, Huong Thi Que Vu, Hieu Minh Le, Futoshi Hasebe,
Ataru Tsuzuki and Masahiro Takagi (2013), Field trial on a novel control
method for the dengue vector, Aedes aegypti by the systematic use of Olyset®
Net and pyriproxyfen in Southern Vietnam, Parasites & Vectors, 6:6, 11pp.
34. Vanlerberghe, V.; Trongtorkit, Y.; Cremonini, L.; Jirarojwatana, S.;
Apiwathnasorn, C. and Van der Stuyft, P. (2010), “Residual insecticidal
activity of long-lasting deltamethrin-treated curtains after 1 year of household
use for dengue control”, Trop. Med. Int. Health, 15(9), pp. 1067-1071.
35. Vanlerberghe, V.; Villegas, E.; Jirarojwatana, S.; Santana, N.; Trongtorkit, Y.;
Jirarojwatana, R.; Srisupap, W.; Van der Stuyft, P. (2011), “Determinants of
uptake, short-term and continued use of insecticide-treated curtains and jar
covers for dengue control”, Trop. Med. Int. Health, 16(2), pp. 162-173.
36. Vanlerberghe, V.; Villegas, E.; Oviedo, M.; Baly, A.; Lenhart, A.; McCall, P.
J.; Stuyft, P. V. D. (2011), “Evaluation of the Effectiveness of Insecticide
Treated Materials for Household Level Dengue Vector Control”, PloS. Negl.
Trop. Dis. 5(3): e994.
37. Vanlerberghe, V.; Trongtokit, Y.; Jirarojwatana, S.; Jirarojwatana, R.; Lenhart, A.;
Apiwathnasorn, C.; McCall, P.J.; Van der Stuyft, P. (2013), “Coverage-
64
dependent effect of insecticide-treated curtains for dengue control in Thailand”,
Am. J. Trop. Med. Hyg., 89, pp. 93-98.
38. Vazquez-Prokopec, G. M.; Kitron, U.; Montgomery, B.; Horne, P. and Ritchie,
S.A. (2010), “Quantifying the spatial dimension of dengue virus epidemic
spread within a tropical urban environment”, PLoS Neglected Tropical
diseases, 4: e920.
39. Ritchie, S. A.; Hanna, J.; Hills, S.; Piispanen, J.; McBride, W. and Pyke, A.
(2002), “Dengue control in North Queensland, Australia: Case recognition and
selective indoor residual spraying”, Dengue Bulletin, 26, pp.7-13.
40. World Health Organization (2006), Pesticides and their Application. For the
Control of Vectors and Pests of Public Health Importance,
WHO/CDS/NTD/WHOPES/GCDPP/2006.1, 114p.
41. World Health Organization (2006), Guidelines for testing mosquito adulticides for
indoor residual spraying and treatment of mosquito nets,
WHO/CDS/NTD/WHOPES/GCDPP/2006.3, Geneva.
42. World Health Organization (2006), Indoor Residual Spraying. Use of indoor
residual spraying for scaling upglobal malaria control and elimination,
WHO/HTM/MAL/2006.1112, 10p.
43. World Health Organization (2009), Dengue: guidelines for diagnosis,
treatment, prevention and control, WHO/HTM/NTD/DEN/2009.1, New
edition, 147p.
65
Phụ lục 1: Phiếu phỏng vấn tác dụng phụ cho người trực tiếp phun hóa chất
Ngày tháng năm............................................
Họ và tên .......................... tuổi....................
Hóa chất phun..................................Dạng phun: ULV. □...Tồn lưu...... □
Khi đi phun hóa chất chống muỗi anh/chị thấy như thế nào?
Bình thường □ Thấy mùi khó chịu □ Nóng rát mặt □ Da bị kích ứng □
Hắt hơi □ Chảy nước mũi □ Đau đầu □ Buồn nôn □
Chảy nước mắt □ Triệu chứng khác □
Giải thích rõ..........................................
Phụ lục 2: Phiếu phỏng vấn tác dụng phụ cho hộ được phun hóa chất
Ngày tháng năm............................................
Họ và tên .......................... tuổi....................
Hóa chất phun..................................Dạng phun: ULV. □...Tồn lưu...... □
1. Khi được phun hóa chất chống muỗi anh/chị thấy như thế nào?
Bình thường □ Thấy mùi khó chịu □ Nóng rát mặt □ Da bị kích ứng □
Hắt hơi □ Chảy nước mũi □ Đau đầu □ Buồn nôn □
Chảy nước mắt □ Triệu chứng khác □
Giải thích rõ..........................................
2.Anh chị có THÍCH được phun hóa chất chống muỗi không?
Có □. không □
66
Phụ lục 3PHIẾU ĐIỀU TRA VECTOR SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE
Phiếu số:……………Tên chủ hộ:………….……………………..……………………………..……… Thôn/Tổ…………………………………………………………….…………….Phường/xã………..…..…Quận/huyện…………...…….Tỉnh………….…………Thời gian thu thập: ………giờ………….ngày………. tháng …… /201Người điều tra: 1………………………………2…………….………………….Thời tiết: mưa nắng râm mát
Muỗi trưởng thànhAedesaegypti
Aedes albopictus
Culex AnophelesGiống khác
Số lượng muỗi
TT Loại ổ bọ gậySố lượng bọ gậy Số lượng
dụng cụ cùng loại
Aedesaegypti
Aedes albopictus
Culex Anopheles
1 Bể >500 lit2 Bể < 500 lít4 Chum, > 100 lít5 Chum < 100 lít6 Giếng7 Phuy8 Bể cầu9 Xô, thùng10 Bẫy kiến11 Lọ hoa
67
12 Vại13 Chậu cảnh14 Lốp xe15 Dụng cụ phế thải16 Khác
CộngNhận xét:Người định loạiPhụ lục 4PHIẾU ĐIỀU TRA NHÂN KHẨU TẠI ĐIỂM NGHIÊN CỨU
Tên tỉnh……..…………….….… Tên huyện /thị……………..……...........…..Tên xã/ phường………....…Dân số: ……..……. người; số thôn:…….……...….Tên thôn/tổ dân phố:…………………… Tọa độ:…….…………………….……Dân số:…... Số hộ: ….…Số nhà cấp 4: ..….. nhà 2 tầng trở lên …..nhà tạm ……Số người mắc/tử vong do SXH năm nào gần đây nhất:……..…..Năm:……...….Số hộ có giếng nước:…. số hộ dùng nước máy:…số hộ có nguồn nước khác…...Tỷ lệ dân số có nước sạch đang sử dụng:……………………….………………..Số lượng cơ sở y tế trên địa bàn:………………………………………..………..Thu nhập bình quân trên đầu người:………………………………………..…….Tỷ lệ người cao tuổi (trên 60 tuổi):……………………………………………....Tỷ lệ người không có khả năng lao động:……………………….………………..Tỷ lệ người có nhà riêng, nhà cho thuê:……………………….………..………..Tỷ lệ người tham gia sản xuất nông nghiệp:……………………………………..Tỷ lệ người bản xứ:……………..……………………………….………………..
Thời gian điều tra: ngày…………… tháng ………. /2011
68
Phụ lục 5PHIẾU THỬ NHẠY CẢM CỦA AEDES ……………… VỚI HÓA CHẤT1. Ngày thử nghiệm:…………………..Nơi thử………………………………......2. Điểm bắt muỗi: Thôn:……………….….……..Xã:…….….....……………......Toạ độ (ở Thôn)……………………………………….………Huyện:……………..…… ….Tỉnh:…………………..….…..3. Muỗi thử được thu thập bằng phương pháp:…………………………..……….- Soi trong nhà ngày - Nuôi từ trứng- Nuôi từ bọ gậy - Bắt muỗi bằng cách khác:4. Trạng thái sinh lý của muỗi: Đói No máu Bán chửa Chửa Hút Glucose 10%5. Hóa chất thử nghiệm:………………………….……… Nồng độ:……..…......6. Hạn dùng của giấy đến:……….. 7. Giấy sử dụng lần đầu tiên ngày:…..….......8. Điều kiện nhiệt độ, ẩm độ thử nghiệm:
- Thời gian tiếp xúc: Nhiệt độ:…………....oC. Độ ẩm:………………..%- Thời gian nghỉ: Nhiệt độ từ:….. đến……...oC. Độ ẩm từ:.…. đến….….%
9. Kết quả:Các chỉ số theo dõi Ống
tiếpỐng tiếp
Ống tiếp
Ống tiếp
Đốichứng
Đốichứng
69
xúc 1 xúc 2 xúc 3 xúc 4 1 2Giấy thử lần thứSố lượng muỗi thửGiờ bắt đầu tiếp xúcSố lượng muỗi ngã sau tiếp xúc10 phút15 phút20 phút30 phút40 phút50 phút60 phútSố muỗi chết sau 24 giờ10. Cán bộ thử:………………………………………………….…………….
Phụ lục 6Một số hình ảnh triển khai nghiên cứu
70
Gắn phễu thử tồn lưu Thử tồn lưu
Điều tra bọ gậy Phun tồn lưu
71