31
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU: KHẢO SÁT ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH VÀ PHÁT TRI N QUA CÁC HI N PHÁP VI T NAM VÀ G I Ý V CÁC HOẠT ĐỘ NG C A VI N ROSA LUXEMBURG T I VI T NAM TRONG GIAI ĐOẠ N 2015-2020 Biên soạn: TS Vũ Công Giao 72 Xuan Dieu, Tay Ho, Hanoi, Vietnam Phone +83 4 3 718 5836 Fax +84 4 3 718 5834 Email [email protected] www.rosalux.vn

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU - rls-sea.derls-sea.de/.../5/...Vietnamese-Report-of-Findings_online-version_final.pdf · 4 Vào năm 179 TCN, nước Âu Lạc bị nước Nam Việt ở

  • Upload
    others

  • View
    4

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU: KHẢO SÁT ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH VÀ PHÁT

TRIỂN QUA CÁC HIẾN PHÁP VIỆT NAM VÀ GỢI Ý VỀ CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN ROSA LUXEMBURG TẠI

VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2015-2020

Biên soạn: TS Vũ Công Giao

72 Xuan Dieu, Tay Ho, Hanoi, Vietnam Phone +83 4 3 718 5836 Fax +84 4 3 718 5834 Email [email protected] www.rosalux.vn

Table of Contents I TÓM TẮT ............................................................................................................................ 3

II KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ ĐẤT NƯỚC VÀ LỊCH SỬ LẬP HIẾN CỦA VIỆT NAM ................... 3

2.1 Khái lược lịch sử Việt Nam ...................................................................................... 3

2.2 Khái lược lịch sử lập hiến của Việt Nam .................................................................. 4

III KHÁI QUÁT BỐI CẢNH CHÍNH TRỊ VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH THỂ HIỆN TRONG

CÁC HIẾN PHÁP 1946,1959,1980,1992 ............................................................................... 8

3.1 Hiến pháp 1946 ........................................................................................................ 8

3.2 Hiến pháp 1959 ........................................................................................................ 9

3.3 Hiến pháp 1980 ...................................................................................................... 10

3.4 Hiến pháp 1992 ...................................................................................................... 12

IV HIẾN PHÁP SỬA ĐỔI 2013 ........................................................................................... 14

4.1 Khái quát tiến trình sửa đổi Hiến pháp 1992 (lần thứ hai) ...................................... 14

4.2 Những điểm mới quan trọng của Hiến pháp sửa đổi 2013 ..................................... 16

4.2.1 Lời nói đầu .......................................................................................................... 16

4.2.2 Chế độ chính trị (Chương I) ................................................................................ 16

4.2.3 Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Chương II) ............ 17

4.2.4 Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường (Chương

III) ................................................................................................................................ 19

4.2.5 Bảo vệ Tổ quốc (Chương IV) .............................................................................. 20

4.2.6 Về bộ máy nhà nước nói chung .......................................................................... 20

4.2.7 Về Quốc hội (Chương V) .................................................................................... 20

4.2.8 Về Chủ tịch nước (Chương VI) ........................................................................... 21

4.2.9 Về Chính phủ (Chương VII) ................................................................................ 22

4.2.10 TAND, VKSND (Chương VIII) ........................................................................... 22

4.2.11 Về chính quyền địa phương (Chương IX) ......................................................... 23

4.2.12 Về Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước (Chương X)...................... 23

4.2.13 Hiệu lực và việc sửa đổi Hiến pháp (Chương XI) .............................................. 24

V NHỮNG TRIỂN VỌNG THAY ĐỔI VÀ THÁCH THỨC TRONG VIỆC THỰC THI HIẾN

PHÁP 2013 ......................................................................................................................... 24

5.1 Những triển vọng thay đổi từ Hiến pháp 2013 ........................................................ 24

5.2 Những thách thức với việc thực thi Hiến pháp 2013 .............................................. 26

VI TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH ....................................................................................... 29

VII Lưu ý chung ................................................................................................................... 31

3

I TÓM TẮT

Báo cáo này phân tích những điểm nổi bật về thể chế, chính sách thể hiện qua năm bản Hiến

pháp (1946,1959,1980,1992,2013) của Việt Nam, song tập trung vào Hiến pháp hiện hành

2013, từ đó đưa ra gợi ý về những hoạt động của Viện Rosa Luxemburg (RLS) ở Việt Nam

trong giai đoạn 2015-2017.

Báo cáo bắt đầu bằng việc mô tả vắn tắt lịch sử đất nước và lịch sử lập hiến (Mục II) như là

bối cảnh nền tảng tác động đến những dịch chuyển về thể chế, chính sách trong các bản hiến

pháp của Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ vừa qua. Ở mục tiếp theo (Mục III), báo cáo lần lượt

phân tích những nội dung cốt lõi trong các bản Hiến pháp trước đây của Việt Nam

(1946,1959,1980,1992), lý giải một cách khái quát nguyên nhân và chỉ ra động lực của những

thay đổi về đường lối chính trị và thể chế nhà nước trong từng bản hiến pháp này.

Mục IV của báo cáo được dành riêng để miêu tả và bình luận về lý do, tiến trình, kết quả của

việc sửa đổi Hiến pháp 1992 – sự kiện chính trị pháp lý quan trọng nhất của Việt Nam vừa

diễn ra trong hai năm vừa qua. Trong Mục IV, các điểm mới quan trọng nhất của Hiến pháp

sửa đổi 2013 được đánh giá một cách chi tiết, tạo cơ sở cho việc đưa ra những nhận định về

triển vọng và thách thức trong việc thực thi bản hiến pháp này ở Mục V.

Nhìn tổng quát các mục II-V, báo cáo cho thấy có một sự biến động liên tục về đường lối

chính trị, kinh tế, xã hội qua các hiến pháp của Việt Nam, mà nguyên nhân quan trọng là sự

chi phối của ý thức hệ tư tưởng. Các mốc biến chuyển về đường lối chính trị, kinh tế mạnh

mẽ nhất trong hiến pháp là 1946-1959, 1980-1992. Tương ứng, những bản hiến pháp ghi dấu

ấn thể chế nhiều nhất là 1946,1980,1992. Hiến pháp 2013, tuy có nhiều điểm mới, song

không phải là những bước ngoặt, mà chỉ là sự mở rộng, đào sâu những định hướng cải tổ đã

được đề cập từ Hiến pháp 1992. Điều thú vị là xét ở những điểm cốt lõi, sự chuyển động về

thể chế, chính sách qua các bản hiến pháp của Việt Nam có vẻ đang theo một hình tròn, thể

hiện ở việc nhiều tư tưởng, giá trị dân chủ, pháp quyền trong bản hiến pháp đầu tiên (1946)

đã dần dần quay trở lại ngày càng nhiều hơn trong các hiến pháp về sau (1992,2013). Vòng

tròn đó cũng phản ánh sự biến động về ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác Lênin ở Việt Nam.

Tương ứng với mỗi điểm dừng trong vòng tròn biến động nêu trên, vị trí, vai trò của người

dân và xã hội dân sự (các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ, các cơ quan học thuật, giới

truyền thông) trong việc quản lý nhà nước và xã hội là khác nhau. Đỉnh điểm của nấc thang

dân chủ (chỉ xét trong bối cảnh Việt Nam) vẫn là Hiến pháp đầu tiên năm 1946. Với nhiều quy

định mới về cải cách thể chế, Hiến pháp 2013 đánh dấu một bước tiến lớn trong vấn đề này

so với các Hiến pháp 1959,1980,1992, tuy nhiên, nó vẫn chưa đạt được đến mức độ dân chủ

như Hiến pháp 1946.

II KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ ĐẤT NƯỚC VÀ LỊCH SỬ LẬP HIẾN CỦA VIỆT NAM

2.1 Khái lược lịch sử Việt Nam

Việt Nam là một quốc gia nằm ở vùng Đông Nam châu Á, được hình thành vào khoảng thế kỷ

thứ 7 trước Công nguyên (thời đại Hùng vương), đầu tiên ở vùng đồng bằng sông Hồng (khu

vực Bắc bộ). Nhà nước đầu tiên của người Việt có tên là Văn Lang, sau đổi thành Âu Lạc.

4

Vào năm 179 TCN, nước Âu Lạc bị nước Nam Việt ở phương Bắc thôn tính. Kể từ đó bắt đầu

một thời kỳ đô hộ hơn một ngàn năm của các triều đại phong kiến Trung Quốc ở Việt Nam1.

Năm 938, người Việt giành được độc lập lâu dài từ người Trung Quốc (tuy có một giai đoạn

10 năm bị nhà Minh quay lại thống trị), bắt đầu thời kỳ phong kiến Việt Nam với nhiều triều đại

(Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Nguyễn) nối tiếp nhau đến tận giữa thế kỷ 19.

Năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược và đến năm 1886 thì đặt xong ách cai trị của họ

lên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Vào năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, Việt

Nam giành được độc lập từ tay Pháp-Nhật, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Ngay

sau đó cuộc kháng chiến chống Pháp (quay lại xâm lược) bắt đầu, kéo dài 9 năm và kết thúc

với sự thất bại của người Pháp trong trận Điện Biên Phủ (5/1954), dẫn đến việc ký kết Hiệp

định Giơ-ne-vơ (7/1954). Theo Hiệp định này, vĩ tuyến 17 được dùng làm giới tuyến phân

chia hai vùng tập kết quân sự tạm thời của hai bên (quân đội Việt Nam DCCH ở phía Bắc,

quân đội khối Liên hiệp Pháp ở phía Nam) với dự kiến sau 2 năm sẽ tiến hành tổng tuyển cử

để thống nhất đất nước.

Tuy nhiên, ở phía Nam, chính phủ Việt Nam Cộng hòa (thành lập ngày 25/4/1954, do tổng

thống Ngô Đình Diệm đứng đầu) đã từ chối thực hiện tổng tuyển cử. Với sự can thiệp và hỗ

trợ của các cường quốc (Trung Quốc, Liên Xô và phe XHCN cho miền Bắc, Hoa Kỳ và một số

nước theo Hoa Kỳ cho miền Nam), chiến tranh bùng nổ giữa hai miền trong hai thập kỷ và chỉ

chấm dứt với sự sụp đổ của chính quyền miền Nam vào ngày 34/4/1975.

Sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam còn phải tiến hành hai cuộc chiến tranh bắt buộc ở

biên giới Tây-Nam với Campuchia (1977-1979) và ở biên giới phía Bắc với Trung Quốc

(1979), đồng thời phải chịu sự cấm vận của Hoa Kỳ và các nước phương Tây đến năm 1995.

Khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng trong thập kỷ 1980-1990 cùng với sự sụp đổ của chỗ

dựa về chính trị, kinh tế là hệ thống các nước XHCN ở Liên Xô-Đông Âu cũ đã buộc Đảng

cộng sản Việt Nam phải khởi động công cuộc Đổi mới để hội nhập quốc tế vào năm 1986.

Chính sách đổi mới đã giúp Việt Nam từ một trong số những nước nghèo nhất thế giới gia

nhập nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình thấp vào năm 2010. Mặc dù vậy, sự phát

triển của đất nước kể từ khi Đổi mới vẫn được cho là thấp so với tiềm năng, và hiện tại Việt

Nam đang phải chật vật đối phó với một loạt vấn đề gây trở ngại cho sự phát triển tiếp theo,

trong đó lớn và khó giải quyết nhất là sự lạc hậu về thể chế chính trị và kinh tế.

Việt Nam gia nhập Liên Hợp Quốc năm 1977, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)

năm 1995, Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu (ASEM) năm 1996, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-

Thái Bình Dương (APEC) năm 1998, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2006 và

hiện có quan hệ ngoại giao với 167 quốc gia.2

2.2 Khái lược lịch sử lập hiến của Việt Nam

Suốt thời kỳ phong kiến và thời kỳ thuộc Pháp, Việt Nam không có hiến pháp. Tuy nhiên, kể

từ đầu thế kỷ XX, tư tưởng lập hiến đã bắt đầu được du nhập và truyền bá ở Việt Nam bởi

một số sĩ phu và nhà cách mạng, trong đó tiêu biểu là Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phạm

1 Còn được gọi là “thời kỳ Bắc thuộc”, trong thời kỳ này có một vài năm ngắn ngủi người Việt giành

được độc lập nhưng nhanh chóng bị đàn áp

2 Nguồn: http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr040807105001/ns050818141957

5

Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Trực, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái

Quốc (Hồ Chí Minh)... 3

Quan điểm về xây dựng hiến pháp ở Việt Nam thời kỳ này rất đa dạng, do chịu ảnh hưởng từ

nhiều luồng tư tưởng và những xu hướng, lợi ích chính trị khác nhau, tuy nhiên có thể chia

thành hai trường phái chính: 4

Trường phái ôn hòa (đại diện tiêu biểu là Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Trực, Phạm Quỳnh,

Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường) chủ trương vận động chính quyền thực dân Pháp cho

phép xây dựng một bản hiến pháp trong đó trao các quyền chính trị cho người Việt Nam,

tiến tới một quốc gia tự trị nhưng vẫn nằm trong khối Liên hiệp Pháp. Mặc dù quan điểm

về hình thức tổ chức nhà nước của nhóm này có khác nhau (Bùi Quang Chiêu và Phạm

Quỳnh chủ trương xây dựng một chế độ quân chủ lập hiến theo mô hình của Anh và

Nhật,5 trong khi Phan Chu Trinh lại cực lực phản đối),

6 song tất cả đều đề cao vai trò của

hiến pháp như là công cụ để cải cách dân chủ, từng bước giành độc lập cho đất nước.

Một số thành viên trong nhóm này, cụ thể là Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, đã đề

cập và phân tích khá sâu sắc những tư tưởng rất tiến bộ về chế độ dân chủ, chủ nghĩa

hiến pháp và học thuyết phân quyền7.

Tuy nhiên, do chủ trương dựa vào chính quyền Pháp để thực hiện cải cách và xây dựng hiến

pháp, cũng như chấp nhận Việt Nam nằm dưới sự bảo hộ của Pháp nên tư tưởng của nhóm

ôn hòa bị các nhà lịch sử Mác-xít ở Việt Nam phê phán là bảo thủ, cải lương.

Trường phái cách mạng (đại diện tiêu biểu là Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn

Ái Quốc, Nguyễn An Ninh) chủ trương người Việt Nam tự xây dựng hiến pháp trên nền

tảng một chính quyền mới của mình, được thành lập sau khi xóa bỏ chế độ nửa thực dân,

nửa phong kiến. Theo trường phái này, để có hiến pháp, trước hết dân tộc Việt Nam phải

làm cách mạng, dùng bạo lực để giành độc lập từ người Pháp và lật đổ chế độ phong

kiến. Giống như nhóm ôn hòa, một số thành viên trong nhóm cách mạng, tiêu biểu là

Phan Bội Châu và Nguyễn Ái Quốc, đã đề cập và phân tích một số vấn đề quan trọng của

hiến pháp như bản chất của quyền lực nhà nước, chủ quyền nhân dân, dân quyền8…

Quan điểm lập hiến của nhóm cách mạng cũng chính là quan điểm của Đảng cộng sản Việt

Nam, thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 năm 1939 của Đảng, trong đó

khẳng định: “Đảng Cộng sản đấu tranh cho sự thống nhất dân tộc Việt Nam không phải bằng

3 Xem thêm, Phan Đăng Thanh – Trương Thị Hòa, Lược sử lập hiến Việt Nam, NXB Tổng hợp

TP.HCM, 2013, tr.12.

4 Xem thêm, PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng, Tư tưởng lập hiến ở Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám

năm 1945, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11/2011.

5 Xem thêm, Phan Đăng Thanh, Tư tưởng lập hiến Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb.Tư pháp, 2006,

tr. 182-183.

6 Xem Phan Chu Trinh: “Bài diễn thuyết về quân trị và dân trị chủ nghĩa”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử,

số 67, tháng 10-1964, tr. 22.

7 Xem Phan Chu Trinh, tài liệu đã dẫn, tr. 22. Cũng xem Phan Văn Trường, Pháp luật lược luận, Nxb.

Xưa – Nay, Sài Gòn, 1926, tr. 18 -28.

8 Ví dụ, xem Phan Bội Châu niên biểu, Phạm Trọng Điềm và Tôn Quang Phiệt dịch, Nxb. Văn, Sử, Địa,

Hà Nội, 1957, tr. 72.

6

cách quỵ lụy hay mặc cả với đế quốc ban hành cho một bản Hiến pháp, trái lại bằng cách liên

kết tất cả các dân tộc, các giai cấp, các đảng phái phản đế để đánh đổ đế quốc làm cách

mạng giải phóng dân tộc..”9

Thấy được ý nghĩa, tầm quan trọng của hiến pháp, ngay sau khi giành được độc lập (1945),

tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (ngày

3/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra 6 nhiệm vụ, trong đó có việc phải khẩn trương soạn

thảo Hiến pháp. Một Uỷ ban soạn thảo được thành lập vào ngày 20/9/1945 và bản Hiến pháp

đầu tiên của Việt Nam được Quốc Hội thông qua ngày 8/11/1946.

Tiếp theo Hiến pháp 1946, Việt Nam còn có các bản hiến pháp năm 1956, 1959, 1967, 1980,

1992 và 2013 (xem bảng tóm tắt dưới đây). Tuy nhiên, do các Hiến pháp 1956 và 1967 của

chính quyền miền Nam không được thừa nhận (và thực tế chính quyền đó đã sụp đổ năm

1975) nên sẽ không được phân tích sâu trong mục III của báo cáo này.

9 Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng từ 1939 – 2.9.1945, NXb Sự thật, Hà Nội, 1963, tr. 54

7

Thông tin tóm tắt về các bản hiến pháp của Việt Nam từ trước đến nay

Tt Hiến pháp

Ngày được thông qua

Chính quyền thông qua

Số chương, điều

Ghi chú

1. Hiến pháp 1946

9/11/1946 Quốc hội nước Việt Nam DCCH

7 chương, 10 điều

Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam. Trong thực tế không được áp dụng do điều kiện kháng chiến chống Pháp không thể tổ chức thi hành.

2. Hiến pháp 1956

31/12/1956 Quốc hội Lập hiến Việt Nam Cộng hòa

Là một trong hai hiến pháp của chính quyền ở miền Nam (đối lập với Đảng cộng sản) trong thời gian chiến tranh Việt Nam, thực tế chỉ có hiệu lực ở miền Nam.

3. Hiến pháp 1959

31/12/1959 Quốc Hội nước Việt Nam DCCH

10 chương, 72 điều

Bản hiến pháp này là của chính quyền do Đảng cộng sản lãnh đạo ở miền Bắc trong thời gian chiến tranh Việt Nam, thực tế cho đến trước 30/4/1975 chỉ có hiệu lực ở miền Bắc.

4. Hiến pháp 1967

18/3/1967 Quốc hội Lập hiến Việt Nam Cộng hòa

Giống ghi chú về Hiến pháp 1956.

5. Hiến pháp 1980

18/12/1980 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam

12 chương, 147 điều

Bản hiến pháp đầu tiên sau khi đất nước thống nhất, của chính quyền do Đảng cộng sản lãnh đạo, có hiệu lực trên cả nước.

6. Hiến

pháp

1992

15/4/1992 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam

12 chương, 147 điều

Bản hiến pháp thể chế hóa đường lối Đổi mới mà Đảng cộng sản khởi xướng năm 1986.

7. Hiến

pháp

2013

28/11/2013 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam

Bản hiến pháp hiện hành của Việt Nam.

8

III KHÁI QUÁT BỐI CẢNH CHÍNH TRỊ VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH THỂ HIỆN TRONG

CÁC HIẾN PHÁP 1946,1959,1980,1992

3.1 Hiến pháp 1946

Hiến pháp 1946 được xây dựng và thông qua trong một bối cảnh đặc biệt: Việt Nam vừa

giành được độc lập từ tay thực dân Pháp và phát xít Nhật nhưng ngay lập tức phải đối mặt

với nguy cơ thực dân Pháp quay trở lại tái đặt ách đô hộ. Chính vì vậy, việc xây dựng bản

hiến pháp này trước hết nhằm củng cố nền độc lập và chủ quyền của dân tộc, sau đó là để

làm cơ sở xây dựng một chính quyền dân chủ của người Việt Nam. Trong thực tế, cùng với

Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, sự ra đời của Hiến pháp 1946 đã khẳng định Việt Nam là một

quốc gia độc lập có chủ quyền, không còn là một thuộc địa của nước Pháp.

Về mặt thể chế chính trị, mặc dù ở thời điểm đó hệ thống XHCN đã hình thành trên thế giới,

song trong Hiến pháp 1946, các nhà lập hiến Việt Nam đã không chọn hình thức chính thể

nhà nước XHCN, mà xác định Việt Nam là một nhà nước dân chủ cộng hoà (Điều 1). Với mô

hình này, các nhà lập hiến Việt Nam khi đó thể hiện mong muốn xây dựng một nhà nước của

mọi tầng lớp nhân dân, không có sự phân biệt giai cấp cũng như không mang bản chất của

bất cứ giai cấp nào theo như quan điểm về nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là bởi

ảnh hưởng của phe XHCN đến Việt Nam khi đó còn hạn chế (nước Việt Nam DCCH khi đó

chưa có quan hệ ngoại giao với bất cứ nước XHCN nào), nhưng quan trọng hơn, các nhà lập

hiến (trong đó hầu hết là thuộc Đảng cộng sản) đã thấy được rằng hình thức nhà nước dân

chủ cộng hòa là phù hợp nhất cho mục đích đoàn kết toàn dân chống lại âm mưu tái xâm

lược của thực dân Pháp, bảo vệ nền độc lập còn non trẻ của đất nước. Mục tiêu chính trị này

cũng thể hiện rõ ngay trong Lời nói đầu của Hiến pháp 1946, trong đó khẳng định ba nguyên

tắc cơ bản đó là: (i) Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai cấp, tôn giáo;

(ii) Đảm bảo các quyền tự do dân chủ, và (iii) Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt

của nhân dân.

Với mục tiêu xây dựng một chính quyền mạnh, Hiến pháp 1946 (các Chương III và IV) xác

lập bộ máy nhà nước theo mô hình cộng hòa lưỡng tính (pha trộn các nguyên tắc của hai mô

hình cộng hòa tổng thống và cộng hòa đại nghị).10

Cụ thể, nguyên thủ quốc gia (Chủ tịch

Nước) không những là người đại diện cho nhà nước về đối nội, đối ngoại, mà còn là người

đứng đầu Chính phủ, trực tiếp lãnh đạo bộ máy hành pháp (đặc trưng của cộng hòa tổng

thống). Mặc dù cũng do Nghị viện bầu ra nhưng nguyên thủ quốc gia không phải chịu trách

nhiệm trước Nghị viện, trừ tội phản bội Tổ quốc (nguyên tắc của cộng hòa đại nghị). Sự

lưỡng tính còn thể hiện ở việc bên cạnh nguyên thủ quốc gia đứng đầu ngành hành pháp còn

có nội các Chính phủ (bao gồm Thủ tướng, phó Thủ tướng và các bộ trưởng) do nguyên thủ

đề nghị nhưng phải được Nghị viện biểu quyết, phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện và có

thể bị Nghị viện bỏ phiếu bất tín nhiệm.

Ngoài những đặc điểm trên, về tổ chức bộ máy nhà nước, Hiến pháp năm 1946 còn có một

số quy định đặc biệt khác mà không được kế thừa trong các hiến pháp vể sau của Việt Nam;

cụ thể như: Quan niệm về cơ quan tư pháp chỉ là các tòa án (các Hiến pháp về sau quan

niệm cơ quan tư pháp bao gồm cả hệ thống tòa án và viện kiểm sát) và hệ thống tòa án được

tổ chức theo chức năng xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm) chứ không theo hệ

thống đơn vị hành chính (chương VI); Quy định việc tổ chức chính quyền địa phương theo

10

Nguyễn Đăng Dung, “Chính thể Hiến pháp năm 1946 – Sự sáng tạo tài tình của Chủ Tịch Hồ Chí

Minh”, trong Hiến pháp năm 1946: Sự kế thừa và phát triển, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1998.

9

hướng phân biệt và đa dạng hóa, thể hiện ở việc không phải ở mọi cấp chính quyền đều có

cơ quan đại diện (hội đồng nhân dân) do dân bầu ra.11

Xét tổng quát, nội dung của Hiến pháp 1946 được các chuyên gia trong nước đánh giá cao ở

nhiều điểm. Thứ nhất, nó thể hiện rõ tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân (quy

định mọi quyền bính trong nước thuộc về nhân dân; hiến pháp đã được đặt cao hơn nhà

nước; nghị viện không thể tự mình sửa đổi hiến pháp mà mọi sửa đổi, bổ sung đều phải đưa

ra toàn dân phúc quyết). Thứ hai, nó xác lập cách thức tổ chức quyền lực nhà nước theo học

thuyết tam quyền phân lập của Montesquieu, trong đó quyền lực nhà nước được phân chia

giữa các cơ quan lập pháp (Quốc Hội), hành pháp (Chính phủ) và Tư pháp (Tòa án), các cơ

quan này độc lập và kiểm soát lẫn nhau. Thứ ba, nó ghi nhận một phạm vi rộng rãi các quyền

công dân như là những giá trị tự nhiên, vốn có của con người mà nhà nước phải bảo đảm,

trong đó có các tự do chính trị (tư tưởng, lập hội, hội họp, biểu tình, bầu cử) và các quyền sở

hữu tài sản, tự do kinh doanh... Thứ tư, nó xác định rõ ràng mối quan hệ và sự phân cấp

quản lý giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương. Thứ năm, nó quy định rõ vị

thế độc lập của hệ thống toà án, bảo đảm các cơ quan nhà nước khác không thể can thiệp

vào công việc xét xử của tòa án.12

Trong nhiều hiến pháp về sau, những nội dung đã nêu

không được kế thừa hoặc có nhưng không được quy định rõ ràng, đầy đủ, cụ thể như trong

Hiến pháp 1946.

3.2 Hiến pháp 1959

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Đảng cộng sản nắm quyền ở miền Bắc, đồng thời vẫn còn

lực lượng và ảnh hưởng lớn ở miền Nam, vì vậy, nếu cuộc tổng tuyển cử theo Hiệp định Giơ-

ne-vơ năm 1954 được thực hiện, khả năng Đảng cộng sản nắm được chính quyền trên cả

nước là rất lớn.

Tuy nhiên, do chính quyền Việt Nam cộng hòa từ chối, tổng tuyển cử theo Hiệp định Giơ-ne-

vơ năm 1954 đã không được tổ chức. Trong bối cảnh đó, Đảng cộng sản quyết định thực thi

đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược đó là: tiến hành xây dựng CHXH ở miền Bắc và tiếp tục

cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (cách mạng giải phóng dân tộc, huy động mọi

thành phần trong xã hội tham gia) để lật đổ chính quyền miền Nam do Hoa Kỳ hậu thuẫn, tiến

tới thống nhất đất nước. Để thực hiện các nhiệm vụ chiến lược này, liên minh giữa nước Việt

Nam DCCH với khối các nước XHCN tiếp tục được tăng cường.

Hiến pháp 1959 được Đảng cộng sản tổ chức xây dựng để thể chế hóa đường lối cách mạng

trong giai đoạn mới như nêu trên, vì thế nó bắt đầu mang các dấu ấn về cấu trúc và nội dung

của hiến pháp các nước XHCN.

Dấu ấn quan trọng nhất liên quan đến quy định về chính thể. Với ý định tạo ra sự chuyển tiếp

dần dần nên Hiến pháp 1959 vẫn quy định hình thức chính thể của nhà nước là dân chủ cộng

hoà và xác định quyền lực nhà nước thuộc về mọi tầng lớp nhân dân, không tập trung vào bất

kỳ một giai cấp nào; tuy nhiên, nếu như trong Hiến pháp 1946, bộ máy nhà nước được tổ

chức theo học thuyết tam quyền phân lập phổ biến ở các nước tư bản phương Tây, thì trong

11

Nguyễn Đăng Dung, tài liệu đã dẫn.

12 Phạm Duy Nghĩa, Vang vọng tiếng dân, tại http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/96260/vang-vong-tieng-

dan.html; Nguyễn Sĩ Dũng, Hiến pháp 1946 với tư tưởng pháp quyền, tại

http://www.tuanvietnam.net/2010-05-07-hien-phap-1946-voi-tu-tuong-phap-quyen; Nguyễn Minh Tuấn,

Hiến pháp 1946: Thể hiện cơ chế phân công và kiểm soát quyền lực, tại

http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=4720

10

Hiến pháp 1959, nó được tổ chức theo học thuyết tập quyền phổ biến ở các nước XHCN,

trong đó mọi quyền lực nhà nước tập trung vào Quốc Hội (Điều 43). Phù hợp với sự thay đổi

này, Hiến pháp 1959 bỏ quy định nguyên thủ quốc gia (Chủ tịch nước) đồng thời đứng đầu bộ

máy hành pháp, mà chỉ xác định Chủ tịch nước có vai trò chủ yếu là mang tính đại diện cho

nhà nước về đối nội và đối ngoại. Thêm vào đó, cơ chế tập trung, bao cấp kế hoạch hóa (đặc

trưng của các nhà nước XHCN) bắt đầu được thể hiện trong Hiến pháp 1959, qua nhiều quy

định, tiêu biểu như việc nhà nước lãnh đạo nền kinh tế theo kế hoạch thống nhất (Điều 10),

việc thống nhất về tổ chức chính quyền địa phương ở tất cả các cấp (Chương VII); việc điều

chỉnh tổ chức của hệ thống tòa án nhân dân theo đơn vị hành chính (Chương VIII); việc thành

lập thêm hệ thống Viện kiểm sát nhân dân (cũng được coi là cơ quan tư pháp, tổ chức theo

đơn vị hành chính như hệ thống tòa án) với chức năng công tố và kiểm sát chung việc tuân

thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước khác theo mô hình các nước XHCN (Chương VIII).

Một số quy định khác trong Hiến pháp 1959 cũng cho thấy sự chuyển dịch rõ ràng sang mô

hình hiến pháp XHCN. Cụ thể, Lời nói đầu đề cập đến vai trò của Đảng cộng sản trong việc

giành độc lập cho đất nước và trong việc lãnh đạo nhà nước và xã hội (quy định này đánh

dấu sự khởi đầu của việc quy định cụ thể và mạnh mẽ hơn vai trò của Đảng cộng sản như là

đảng chính trị duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội trong các Hiến pháp 1980,1992,2013).

Hiến pháp 1959 cũng lần đầu tiên xác định nguyên tắc tập trung dân chủ - một trong những

nguyên tắc cơ bản cho hoạt động của Đảng cộng sản13

- là nguyên tắc hoạt động của bộ máy

nhà nước (Điều 4). Ngoài ra, Hiến pháp 1959 có thêm một chế định về chế độ kinh tế

(Chương II), trong đó quy định nguyên tắc nhà nước thống nhất lãnh đạo nền kinh tế (Điều

10) và xác định các hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là chủ đạo và được ưu tiên

(Điều 12,13), còn hình thức sở hữu tư nhân tuy vẫn được bảo hộ nhưng nhà nước khuyến

khích chuyển sang sở hữu nhà nước và tập thể (Điều 14,15,16,18,19). Quy định này đã thúc

đẩy công việc cải tạo nông, công, thương nghiệp ở miền Bắc (bắt đầu từ năm 1958 và kết

thúc vào cuối năm 1960) mà cơ bản đã xóa bỏ loại hình sở hữu tư nhân về ruộng đất và các

dạng tư liệu sản xuất khác của nông dân, các nhà tư sản dân tộc và tiểu thương.

Với những đặc điểm cơ bản nêu trên, có thể thấy mô hình nhà nước trong Hiến pháp 1959 là

một nhà nước quá độ từ chế độ dân chủ nhân dân lên CNXH.

3.3 Hiến pháp 1980

Sau khi chính quyền được hậu thuẫn bởi Hoa Kỳ ở miền Nam sụp đổ (1975), với tư cách là

bên thắng cuộc, Đảng cộng sản xác định cách mạng dân chủ nhân dân đã hoàn thành ở Việt

Nam và đề ra nhiệm vụ xây dựng chế độ XHCN trên phạm vi cả nước. Hiến pháp 1980 được

xây dựng (thay thế Hiến pháp 1959) để cụ thể hóa đường lối đó của Đảng.

Ở thời điểm xây dựng Hiến pháp 1980, Việt Nam vừa trải qua hai cuộc chiến tranh biên giới

ngắn ngủi nhưng tàn khốc ở phía Bắc với Trung Quốc và phía Nam với chế độ Khơ me Đỏ

của Campuchia. Quan hệ với Trung Quốc rất xấu trong khi phương Tây vẫn đang cấm vận

khiến Việt Nam buộc phải ngả hẳn sang khối các nước XHCN ở Liên Xô-Đông Âu cũ. Tháng

6/1978, Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ kinh tế (tổ chức hợp tác về kinh tế của khối

13

Nguyên tắc tập trung dân chủ có nghĩa là trong mọi hoạt động của Đảng và của bộ máy nhà nước

mọi đảng viên, cán bộ đều được tự do bày tỏ chính kiến của mình để góp phần thống nhất về quan

điểm, chủ trương, kế hoạch hành động (biểu hiện của dân chủ). Sau khi đã thảo luận dân chủ, việc

thực hiện các quan điểm, chủ trương, kế hoạch sẽ giao cho một cá nhân, đơn vị chỉ đạo, đôn đốc thực

hiện để thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động, theo phương châm thiểu số phục tùng đa số,

cấp dưới phục tùng cấp trên (biểu hiện của tập trung).

11

Liên Xô-Đông Âu). Đến tháng 11 cùng năm, Việt Nam kí kết Hiệp ước hữu nghị toàn diện

(hiệp ước đồng minh) với Liên Xô. Trong bối cảnh đó, Hiến pháp 1980 có cấu trúc và nội

dung mô phỏng nhiều nhất (so với tất cả các bản hiến pháp của Việt Nam) hiến pháp của các

nước XHCN trong khối Liên Xô-Đông Âu cũ, đặc biệt là Hiến pháp Liên Xô 1977. Nói cách

khác, Hiến pháp 1980 thể hiện một cách đầy đủ nhất nhận thức và nỗ lực của Đảng cộng sản

Việt Nam về việc xây dựng chế độ XHCN.14

Khác với Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 xác định rõ Việt Nam theo mô hình nhà nước

chuyên chính vô sản, đặt dưới sự lãnh đạo hoàn toàn, duy nhất của Đảng Cộng sản (Lời nói

đầu và Điều 4), có mục tiêu xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, tiến tới chủ nghĩa cộng sản

(Điều 2). Mặc dù tiếp tục quy định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân (Điều 6) như

trong Hiến pháp 1959, song Hiến pháp 1980 đồng thời xác định nòng cốt của chế độ - tức chủ

thể chính của quyền lực chính trị - là liên minh giữa hai giai cấp công nhân, nông dân, do giai

cấp công nhân lãnh đạo (Điều 3). Các quy định mâu thuẫn đó xuất phát từ điều lệ của các

đảng cộng sản và công nhân trong các nước XHCN.

Phù hợp với những thay đổi trên, trong Chương II (quy định về chế độ kinh tế), Hiến pháp

1980 chỉ quy định hai hình thức sở hữu về đất đai và tư liệu sản xuất, đó là sở hữu toàn dân

và sở hữu tập thể. Hình thức sở hữu tư nhân về đất đai và tư liệu sản xuất không được thừa

nhận, nhà nước chỉ bảo hộ quyền sở hữu tư nhân với nhà ở và tài sản dùng để đáp ứng

những nhu cầu sinh hoạt. Mục đích của những quy định này là để thực hiện mục tiêu xây

dựng xong cơ sở vật chất cho CNXH trong vòng 20 năm (tức là hết thế kỷ 20) và bắt đầu xây

dựng CNXH phát triển toàn diện – chủ trương mà đã được Đảng cộng sản đề ra từ Đại hội

toàn quốc lần thứ IV (năm 1976).

Cũng khác với Hiến pháp 1959, trong Hiến pháp 1980, cơ chế quản lý nhà nước tập trung,

quan liêu, bao cấp được xác định rõ ràng và nhất quán. Hiến pháp khẳng định: “Nhà nước

lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống nhất” (Điều 33), đồng thời quy định

nguyên tắc lãnh đạo và chịu trách nhiệm tập thể trong bộ máy nhà nước (thay cho nguyên tắc

lãnh đạo và chịu trách nhiệm cá nhân trước đây). Ví dụ, chế định nguyên thủ quốc gia trong

Hiến pháp 1959 được thay bằng chế định Hội đồng Nhà nước, còn chế định Chính phủ được

thay bằng Hội đồng Bộ trưởng. Ngoài ra, về phương diện quyền công dân, Hiến pháp 1980

đã mở rộng đáng kể mức độ bảo đảm với các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa theo như quy

định trong hiến pháp của các nước XHCN khác. Cụ thể, Hiến pháp quy định việc học tập,

chăm sóc y tế đều miễn phí; người dân có quyền có nhà ở, việc làm và được nhà nước giúp

đỡ để thực hiện hai quyền này.

Những quy định nêu trên cho thấy Hiến pháp 1980 đã được “xã hội chủ nghĩa hóa” ở mức độ

sâu sắc hơn nhiều so với Hiến pháp 1959. Bản Hiến pháp này thể hiện các mục tiêu và mong

muốn của Đảng cộng sản về việc xây dựng càng nhanh càng tốt chế độ XHCN ở Việt Nam.

Một số quy định xét về lý thuyết là tiến bộ (ví dụ như các quy định về quyền học tập, chăm sóc

y tế, nhà ở, việc làm) song đã không thể thực hiện đầy đủ trong thực tế, do nguồn lực của đất

nước lúc đó rất hạn chế. Một số quy định khác đã gây ra những hậu quả tiêu cực nhiều hơn

tích cực. Cụ thể, các quy định về đặt nhà nước và xã hội dưới sự sự lãnh đạo toàn diện và

duy nhất của Đảng cộng sản, cùng với quy định về chế độ lãnh đạo tập thể đã khiến bộ máy

nhà nước trở nên ngày càng cồng kềnh, chồng chéo và quan liêu; quá trình ra quyết định rất

chậm, trách nhiệm cá nhân không được làm rõ – hậu quả là hiệu quả quản lý rất thấp. Mô

14

Xem thêm, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Khoa Luật ĐHQG Hà Nội (tái bản năm 2013), tr.34.

12

hình quản lý nhà nước kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp mà đã phát huy tác dụng

huy động nguồn nhân lực, vật lực cho cuộc chiến tranh Việt Nam nay đã tỏ ra không còn phù

hợp với bối cảnh hòa bình và trở thành một lực cản cho sự phát triển. Đặc biệt, việc nôn nóng

tiến hành cuộc “cách mạng về quan hệ sản xuất” để xây dựng nền kinh tế với hai thành phần

chủ yếu là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể đã dẫn tới triệt để xóa bỏ sở hữu tư nhân, cải

tạo (mà thực chất là tiêu diệt) các thành phần kinh tế phi XHCN (đặc biệt là ở miền Nam).

Hậu quả của những sai làm đã nêu là gây nên tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm

trọng trong những năm 1980-1985. Cuộc khủng hoảng này buộc Đảng cộng sản phải tiến

hành công cuộc đổi mới và mở cửa vào năm 1986 và sửa đổi Hiến pháp 1980.

Việc sửa đổi Hiến pháp 1980 trong thực tế đã diễn ra qua hai giai đoạn: Giai đoạn đầu được

tiến hành ngay sau năm Đại hội toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) của Đảng. Với mục đích mở

cửa làm ăn và quan hệ ngoại giao với tất cả với các nước không phân biệt chế độ chính trị,

Lời nói đầu của Hiến pháp 1980 đã được sửa đổi để bỏ đi những đoạn lên án gay gắt các

nước thực dân, đế quốc và bành trướng (Trung Quốc). Giai đoạn thứ hai được tiếp hành sau

khi chỗ dựa về chính trị và kinh tế của Việt Nam thời kỳ đó là hệ thống các nước XHCN ở

Liên Xô-Đông Âu sụp đổ, nhằm sửa đổi một cách toàn diện nội dung. Kết quả của giai đoạn

hai là việc Hiến pháp 1980 bị thay thế bởi Hiến pháp 1992.

3.4 Hiến pháp 1992

Hiến pháp 1992 được Đảng cộng sản xây dựng để thay thế Hiến pháp 1980, thể chế hoá

đường lối đổi mới mà Đảng đề ra trong Đại hội toàn quốc lần thứ VI năm 1986 và Cương lĩnh

xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được Đảng thông qua trong Đại hội toàn

quốc lần thứ VII năm 1991. Cốt lõi đường lối của Đảng thể hiện qua các văn kiện này đó là:

Đổi mới mạnh mẽ về kinh tế kết hợp với đổi mới dần dần, vững chắc về chính trị song vẫn

kiên định mục tiêu xây dựng CNXH ở Việt Nam.

Xét cơ cấu và số điều khoản, Hiến pháp 1992 không khác với Hiến pháp 1980, song về mặt

nội dung có rất nhiều thay đổi. Trước hết, về thể chế chính trị, Hiến pháp 1992 vẫn quy định

Đảng cộng sản là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội (Điều 4), song đã thay quy

định nhà nước Việt Nam là nhà nước chuyên chính vô sản trong Hiến pháp 1980 thành “nhà

nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” (Điều 2). Điều này không có nghĩa là thay đổi

bản chất giai cấp của nhà nước (vì Hiến pháp 1992 vẫn quy định sự lãnh đạo độc quyền của

Đảng cộng sản và đặt nhà nước trên nền tảng liên minh giữa hai giai cấp công nhân, nông

dân như Hiến pháp 1980, chỉ mở rộng thêm liên minh cho giới trí thức); tuy nhiên, nó cho thấy

Đảng cộng sản đã nhận thấy nhu cầu cần thay đổi và từ bỏ cách thức quản lý xã hội theo kiểu

dùng bạo lực cách mạng và đấu tranh giai cấp một cách cực đoan, khắc nghiệt trong nhà

nước chuyên chính vô sản.

Cũng liên quan đến thể chế, Hiến pháp 1992 đã thay đổi các quy định về nguyên tắc lãnh đạo

và chịu trách nhiệm tập thể trong Hiến pháp 1980 theo hướng xác lập lại nguyên tắc lãnh đạo

và chịu trách nhiệm cá nhân như trong các Hiến pháp 1946,1959. Ví dụ, chế định Hội đồng

Nhà nước (nguyên thủ quốc gia tập thể) trong Hiến pháp 1980 được thay bằng chế định Chủ

tịch Nước (nguyên thủ quốc gia là cá nhân). Chế định Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ tập

thể) được thay thế bằng chế định Chính phủ do Thủ tướng đứng đầu…Sự thay đổi này nhằm

nâng cao trách nhiệm giải trình của người đứng đầu các cơ quan nhà nước và làm cho quá

trình ra quyết định được nhanh chóng, kịp thời hơn.

Về chế độ kinh tế, Hiến pháp 1992 đã từ bỏ cơ chế kinh tế tập trung, kế hoạch, bao cấp được

nhấn mạnh trong Hiến pháp 1980, thay vào đó là quy định về phát triển nền kinh tế hàng hóa

nhiều thành phần, với nhiều hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, dựa trên nhiều chế độ

13

sở hữu về tư liệu sản xuất (Điều 15). Hiến pháp quy định các thành phần kinh tế, bao gồm

kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản

nhà nước đều được thừa nhận và khuyến khích (Điều 16), đồng thời khẳng định tài sản hợp

pháp của cá nhân, tổ chức sẽ không bị quốc hữu hóa (Điều 23).

Về phương diện nhân quyền, Hiến pháp 1992 lần đầu tiên đề cập đến khái niệm quyền con

người và khẳng định các quyền con người về mọi lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội,

văn hóa đều được nhà nước tôn trọng (Điều 50). Bản Hiến pháp này cũng tái ghi nhận quyền

sở hữu tài sản và tư liệu sản xuất (Điều 58) và khẳng định quyền tự do kinh doanh (Điều 57)

– những quyền nền tảng cho việc thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế tư nhân.

Thêm vào đó, Hiến pháp 1992 cũng sửa đổi những quy định mang tính “lý tưởng hóa, phi

thực tế” về một số quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong Hiến pháp 1980. Cụ thể, theo Hiến

pháp 1992, học tập và chăm sóc y tế chỉ còn miễn phí với một số đối tượng; nhà nước thừa

nhận các quyền lao động và quyền xây dựng nhà ở nhưng không có nghĩa vụ phải cung cấp

việc làm và nhà ở cho công dân như trước đây.

Đứng trước yêu cầu tiếp tục cải cách thể chế chính trị và kinh tế, năm 2001, Hiến pháp 1992

được sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất (với 24 điều), trong đó những bổ sung vào Điều 2 có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng. Lần đầu tiên cụm từ “nhà nước pháp quyền XHCN” được nhắc

đến trong Hiến pháp Việt Nam, khẳng định quyết tâm của Đảng cộng sản trong việc chuyển

đổi cách thức quản lý nhà nước bằng đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng sang quản

lý bằng pháp luật. Thêm vào đó, Điều 2 còn được bổ sung quy định “quyền lực nhà nước là

thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện

các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Như vậy, mặc dù vẫn trung thành với nguyên tắc

tập quyền, song Hiến pháp 1992 đã bắt đầu thừa nhận và tích hợp những yếu tố tiến bộ của

nguyên tắc phân quyền mà hiện là nền tảng của chế định về thể chế chính trị trong hiến pháp

của hầu hết quốc gia trên thế giới.

Xét tổng quát, mặc dù so với Hiến pháp 1980, nội dung Hiến pháp 1992 có sự đổi mới toàn

diện, song những đổi mới về chế định kinh tế vẫn là chủ yếu. Sự đổi mới về thể chế chính trị

vẫn còn rất ít ỏi, mang tính chất thử nghiệm, “dò dẫm” với mục tiêu nhằm tìm ra phương thức

vận hành mới cho hệ thống chính trị hiện hành hơn là nhằm thay thế nó. Việc Hiến pháp 1992

vẫn giữ nguyên chính thể cộng hòa XHCN và tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo độc tôn của

Đảng cộng sản với nhà nước và xã hội cho thấy rõ điều đó. Đây cũng là điểm đặc trưng trong

suốt quá trình đổi mới, mở cửa của Việt Nam cho đến thời điểm hiện nay, đó là đổi mới từ từ,

chậm chắc, bắt đầu từ đổi mới kinh tế rồi mới đến đổi mới về chính trị. Điều này trong thực tế

đã giúp Đảng cộng sản Việt Nam duy trì, củng cố được quyền lực chứ không rơi vào sụp đổ

đột ngột và nhanh chóng như các đảng cộng sản và công nhân ở các nước XHCN ở Liên Xô

– Đông Âu cũ trong những năm cuối thế kỷ 20, song cũng đặt ra một loạt thách thức cần giải

quyết liên quan đến những cải cách tiếp theo về thể chế chính trị, kinh tế ở Việt Nam. Đây

chính là lý do khiến Đảng cộng sản vào năm 2011 đã khởi động tiến trình sửa đổi Hiến pháp

1992 lần thứ hai, dẫn đến việc bản hiến pháp này được thay thế bởi Hiến pháp (sửa đổi) vào

năm 2013.

14

IV HIẾN PHÁP SỬA ĐỔI 2013

4.1 Khái quát tiến trình sửa đổi Hiến pháp 1992 (lần thứ hai)

Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) đã tạo lập cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực hiện

công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản đề ra trong Đại hội VI và Cương lĩnh xây dựng đất nước

trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991. Qua 20 năm thực hiện bản Hiến pháp này, Việt

Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đặc biệt là về phương diện kinh

tế.

Mặc dù vậy, đến cuối thập kỷ 2010, sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam bắt đầu chậm lại.

Một loạt vấn đề mới nảy sinh hoặc trở lên ngày càng nghiêm trọng hơn như tình trạng tham

nhũng tràn lan, sự sụp đổ của các tập đoàn kinh tế của nhà nước, sự phá sản hàng loạt của

các doanh nghiệp, thị trường bất động sản đóng băng, tính cạnh tranh của nền kinh tế ngày

càng giảm…và đặc biệt là sự bất bình, phản ứng chống đối chính quyền của người dân ngày

càng tăng đã khiến Đảng cộng sản nhận ra rằng cần tiếp tục đổi mới thể chế chính trị và kinh

tế mới có thể duy trì được sự phát triển của đất nước và bảo vệ được chế độ. Trong bối cảnh

đó, Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó xác định những

mục tiêu, định hướng phát triển trong giai đoạn mới, hướng vào thực hiện 8 đặc trưng của chế

độ XHCN ở Việt Nam (so với 2 đặc trưng trong Cương lĩnh năm 1991), bao gồm: (i) Dân giàu,

nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; (ii) Do nhân dân làm chủ; (iii) Có nền kinh tế phát

triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ

yếu; (iv) Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; (v) Con người có cuộc sống ấm

no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; (vi) Các dân tộc trong cộng đồng Việt

Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; (vii) Có Nhà nước pháp

quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; (viii) Có

quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.15

Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi lần 2 để thể chế hóa đường lối, mục tiêu kể trên của

Đảng, cụ thể là để ”…bảo đảm đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng Nhà nước

pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, hoàn thiện thể chế

kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ

cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích cực và chủ động hội nhập quốc

tế”.16

Để chuẩn bị sửa đổi lần 2, từ năm 2011, Đảng cộng sản đã tổ chức tổng kết thi hành Hiến

pháp 1992 đồng thời thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Ủy ban này xác định các

yêu cầu cần đạt được trong lần sửa đổi này, bao gồm:17

(i) Tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn

những nội dung có tính bản chất của chế độ mà đã được quy định trong Hiến pháp năm

1992, cụ thể là về phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phát triển nền

kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN;

15

Xem Lê Hữu Nghĩa (Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia

Hồ Chí Minh), Những đặc trưng thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây

dựng, tham luận tại phiên họp sáng 14/1 tại Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng xem toàn

văn Cương lĩnh tại http://www.xaydungdang.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=3525&print=true

16 Xem Tờ trình số 194/TTr-UBDTSĐHP ngày 19/10/2012 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm

1992.

17 Tài liệu trên.

15

(ii) Thể chế hóa những quan điểm, chủ trương lớn được nêu trong Cương lĩnh (năm 2011) và

các văn kiện khác của Đảng (thông qua tại Đại hội XI); (iii) Hoàn thiện kỹ thuật lập hiến, bảo

đảm để Hiến pháp thực sự là đạo luật cơ bản, có tính ổn định, lâu dài.

Trên cơ sở những yêu cầu trên, Ủy ban xác định các quan điểm sửa đổi bao gồm:18

(i) Kế

thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 và của các bản Hiến pháp trước đây còn phù

hợp; sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự cần thiết, những vấn đề đã rõ, được thực tiễn

chứng minh là đúng, có đủ cơ sở, nhận được sự thống nhất cao và phù hợp với tình hình mới

đã được văn kiện Đại hội XI của Đảng xác định; (ii) Tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình

tổng thể của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh (năm

2011) và Hiến pháp năm 1992, đó là: Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN

của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân;

quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan

nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; (iii) Khẳng định Đảng

Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của

nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công

nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí

Minh; là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội ; (iv) Phát triển nền kinh tế thị trường định

hướng XHCN; đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị, vì mục tiêu xây dựng nước

Việt Nam XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh ; (v) Tôn trọng và bảo

đảm quyền con người, quyền công dân; quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của

công dân; thực hiện dân chủ XHCN; tăng cường kỷ luật, kỷ cương; xây dựng khối đại đoàn

kết toàn dân tộc; (vi) Sửa đổi Hiến pháp phải tiến hành chặt chẽ, khoa học dưới sự lãnh đạo

của Đảng; bảo đảm sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý; tổ

chức lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân và các cơ quan, tổ chức; chú trọng công tác thông tin,

tuyên truyền, bảo đảm đúng định hướng, không để các đối tượng xấu, thế lực thù địch lợi

dụng để chống phá, xuyên tạc.

Sau hơn một năm chuẩn bị, ngày 02/1/2013, Đảng cộng sản quyết định tổ chức lấy ý kiến

nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 – điều mà không được dự kiến trong kế hoạch

ban đầu. Theo một số chuyên gia trong và ngoài nước, đây là một hành động khôn ngoan

nhằm tạo lập tính pháp lý chính danh cho bản hiến pháp sửa đổi do Đảng tổ chức soạn thảo

trước những đòi hỏi cải cách hiến pháp theo hướng dân chủ hóa lên cao chưa từng thấy

trong xã hội Việt Nam từ trước tới nay, mà tiêu biểu là bản Kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992

do 72 nhân sĩ, trí thức khởi xướng và công bố vào ngày 19/01/2013,19

với hàng chục ngàn

18

Tài liệu trên.

19 Xem toàn văn bản Kiến nghị này (tiếng Việt), tại http://boxitvn.blogspot.com/2013/01/kien-nghi-ve-

sua-oi-hien-phap-1992.html. Hai bản kiến nghị khác cũng có số chữ ký ở mức hàng chục ngàn người

là Thư của Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, nhận định

và góp ý sửa đổi Hiến pháp (được công bố vào ngày 01/03/2013, xem toàn văn bản tiếng Việt tại

http://www.hdgmvietnam.org/thu-cua-hoi-dong-giam-muc-viet-nam-nhan-dinh-va-gop-y-sua-doi-hien-

phap/4750.116.3.aspx) và Lời tuyên bố của nhóm Công dân mạng Tự do (xem toàn văn bản tiếng việt

tại http://diendancuachungta.com/cong-cuoc-dau-tranh-cho-tu-do-dan-chu/loi-tuyen-bo-cua-cac-cong-

dan-tu-do/) nêu ý kiến mạnh mẽ về việc bãi bỏ Điều 4 về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong Hiến

pháp và tổ chức Hội nghị Lập hiến để xây dựng một bản hiến pháp mới thực sự là ý chí của toàn dân

Việt Nam. Ngoài ra còn có kiến nghị và hoạt động vận động của nhiều nhóm xã hội dân sự khác cổ vũ

cho những cải cách dân chủ trong sửa đổi Hiến pháp 1992, cụ thể như Kiến nghị của các tổ chức xã

hội dân sự Việt Nam (35 tổ chức) về việc sửa đổi Hiến pháp 1992 (xem toàn văn bản tiếng Việt tại

16

chữ ký ủng hộ chỉ sau hơn hai tháng. Việc lấy ý kiến theo kế hoạch sẽ được kết thúc vào

ngày 31/3/2013, nhưng sau đó được kéo dài đến cuối năm 2013, dưới ba hình thức chính: tổ

chức các hội nghị, hội thảo; lấy ý kiến thông qua mạng Internet và phát phiếu xin ý kiến đến

từng hộ gia đình. Theo thông báo của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, tính đến 17/5/2013,

đã có hơn 26.091.000 lượt ý kiến góp ý của nhân dân và hơn 28.000 hội nghị, hội thảo, tọa

đàm được tổ chức.20

Tuy nhiên, một số nhóm đối lập cho rằng, kết quả đa số người dân tán

thành dự thảo hiến pháp sửa đổi có được là do chính quyền địa phương các cấp đã sử dụng

một số «thủ thuật », cùng với sự hiểu biết hạn chế và sự thờ ơ của một số lớn người dân

bình thường với những vấn đề phức tạp như hiến pháp.21

Ngày 28/11/2013, Quốc Hội khóa XIII bỏ phiếu thông qua Hiến pháp (sửa đổi) năm 2013, với

97,59% (486/488) đại biểu có mặt bỏ phiếu tán thành, chỉ có 2 đại biểu bỏ phiếu trắng.

4.2 Những điểm mới quan trọng của Hiến pháp sửa đổi 2013

Hiến pháp 2013 gồm 11 chương, 120 điều (so với Hiến pháp 1992 giảm 01 chương, 27 điều,

chỉ giữ nguyên 7 điều, bổ sung 12 điều mới và sửa đổi 101 điều). Mức độ sửa đổi như vậy là

rất lớn, trong đó những điểm mới quan trọng như sau:

4.2.1 Lời nói đầu

Lời nói đầu được viết cô đọng, súc tích hơn, mặc dù vẫn kế thừa các nội dung cơ bản như về

truyền thống, lịch sử đất nước, dân tộc, lịch sử lập hiến, nhiệm vụ của cách mạng trong giai

đoạn mới, mục tiêu xây dựng đất nước...của Hiến pháp 1992. Khác biệt quan trọng nhất là

một quy định mới, nêu rằng: "Nhân dân Việt Nam xây dựng và thi hành Hiến pháp này..” - cho

thấy tư tưởng về chủ quyền của nhân dân với hiến pháp (mà từng được nêu trong Hiến pháp

1946) đã được tái khẳng định sau khi bị bỏ đi trong các Hiến pháp 1959,1980. Đây là một

trong những thành quả vận động nổi bật của các chuyên gia luật và các tổ chức xã hội ở Việt

Nam trong đợt sửa đổi Hiến pháp này.

4.2.2 Chế độ chính trị (Chương I)

Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định mô hình thể chế (cộng hòa XHCN) trong Hiến pháp 1992,

song sửa đổi, bổ sung một số quy định, tiêu biểu là:

Bổ sung từ kiểm soát vào nguyên tắc: "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân

công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập

pháp, hành pháp, tư pháp" (Điều 2). Việc này cho thấy Đảng cộng sản tiếp tục vận dụng

các thuộc tính của nguyên tắc tam quyền phân lập nhưng vẫn chưa chính thức thừa nhận

nguyên tắc này. Nó cũng cho thấy nỗ lực của các nhà lập hiến Việt Nam trong việc tạo lập

một cơ chế khả dĩ để phòng, chống lạm dụng quyền lực trong bộ máy nhà nước – điều

mà rất xa lạ trong hệ thống chính trị của các nước XHCN.

http://www.isee.org.vn/Content/Home/Library/civil-society/kien-nghi-cua-cac-to-chuc-xa-hoi-dan-su-viet-

nam-ve-du-thao-sua-doi-hien-phap-1992.pdf); Kiến nghị và Khảo sát ý kiến (trên mạng) của Nhóm

Cùng viết Hiến pháp về việc sửa đổi Hiến pháp 1992 (xem toàn văn các bản tiếng Việt tại

http://hienphap.net/y-kien/, http://hienphap.net/ket-qua-khao-sat/).

20 Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, Báo cáo số 287/BC-UBDTSĐHP ngày 17/5/2013 về việc giải

trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở ý kiến nhân dân

21 Xem, Nhân dân cơ bản đồng tình với dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tại

http://www.sggp.org.vn/chinhtri/2013/3/312529/

17

Bổ sung cụm từ “Ðảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát

của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”, đồng thời

khẳng định không chỉ các tổ chức của Ðảng mà cả các đảng viên cũng phải hoạt động

trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật (Ðiều 4). Những bổ sung này được cho là để làm

rõ hơn bản chất, vai trò và trách nhiệm của Ðảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo Nhà

nước và xã hội.22

Tuy nhiên, theo một số nhà bình luận, ngoài quy định về việc các đảng

viên cũng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, cụm từ còn lại mang

nặng tính trừu tượng, khó có thể kiểm định, đánh giá việc thực thi.

Bổ sung quy định “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng hình thức dân chủ trực

tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của

Nhà nước” (Ðiều 6). Điều này đã làm rõ và mở rộng hơn các phương thức thực hiện các

quyền dân chủ của nhân dân, đặc biệt là tạo cơ sở để thúc đẩy các hình thức dân chủ

trực tiếp (Hiến pháp 1992 chỉ quy định “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông

qua Quốc hội và HĐND” – tức chỉ thông qua hình thức dân chủ đại diện).

Bổ sung quy định “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật,

quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”

(Điều 8). Quy định này cũng cho thấy sự “giằng xé” trong tư duy của các nhà lập hiến Việt

Nam, thể hiện ở việc trong khi cố gắng củng cố các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền

(nhà nước tổ chức, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật), họ vẫn chưa thể (hoặc không

thể) thoát hẳn khỏi những nguyên lý của mô hình nhà nước XHCN (nguyên tắc tập trung

dân chủ).

Bổ sung quy định về giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam (Ðiều 9) nhằm thể

chế tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, trong đó khẳng định vai trò giám sát

và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam. Mặc dù vậy, quy định này mới chỉ mang tính

nguyên tắc; quy chế cụ thể về thực hiện giám sát, phản biện xã hội vẫn phải chờ luật định.

4.2.3 Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Chương II)

Chế định về quyền con người, quyền công dân chứa đựng nhiều điểm mới nhất trong Hiến

pháp 2013, thể hiện ở những khía cạnh sau:23

Đổi tên chương (từ “Quyền và nghĩa vụ của công dân” thành “Quyền con người, quyền và

nghĩa vụ của công dân”) và chuyển lên vị trí thứ 2 (so với vị trí thứ 5 trong Hiến pháp

1992).

Không còn đồng nhất quyền con người và quyền công dân (như ở Điều 50 Hiến pháp

1992), mà đã sử dụng khá hợp lý hai thuật ngữ này cho các quyền/tự do hiến định trong

chương II.

Thay đổi (tuy chưa triệt để) cách hiến định quyền từ mô thức nhà nước “quyết định”, ‘trao’

quyền cho người dân sang mô thức các quyền của con người là tự nhiên, vốn có, nhà

nước phải ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm thực hiện.

22

Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992,

ngày 25/01/2013.

23 Xem thêm Vũ Công Giao, ‘Những tiến bộ và hạn chế trong chế định quyền con người, quyền công

dân của Dự thảo 3 Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013’, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội –

Chuyên san Luật học, số 3/2013.

18

Ghi nhận cả ba nghĩa vụ của nhà nước về tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người

(trong các Điều 3 và 14) (Hiến pháp 1992 mới chỉ ghi nhận nghĩa vụ tôn trọng ở Điều 50).

Quy định nguyên tắc mới về giới hạn quyền (Khoản 2 Điều 14).

Ghi nhận một số quyền mới, bao gồm: Quyền sống (Điều 21); Các quyền về văn hóa

(Điều 41); Quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao

tiếp (Điều 42); Quyền sống trong môi trường trong lành (Điều 43); Quyền của công dân

không bị trục xuất, giao nộp cho nước khác (Điều 17 khoản 2).

Củng cố hầu hết các quyền đã được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 (quy định rõ hơn

hoặc tách thành điều riêng), bao gồm: Bình đẳng trước pháp luật (Điều 16); Cấm tra tấn,

đối xử tàn bạo, vô nhân đạo và hạ nhục (Điều 20 khoản 1); Bảo vệ đời tư (Điều 21, 22);

Tiếp cận thông tin (Điều 25); Tham gia quản lý nhà nước và xã hội (Điều 28); Bình đẳng

giới (Điều 26); Bỏ phiếu trong trưng cầu dân ý (Điều 29); Xét xử công bằng (Điều 31); Tư

hữu tài sản (Điều 32); An sinh xã hội (Điều 34); Việc làm (Điều 35).

Những thay đổi trên cho thấy các nhà lập hiến Việt Nam đã nhận thức rõ hơn về tầm quan

trọng của chế định quyền con người, quyền công dân trong hiến pháp, và về tính chất, phạm

vi điều chỉnh của chế định này. Nó khiến cho chế định này của Hiến pháp 2013 phù hợp hơn

với nội dung của các điều ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên. Mặc dù

vậy, vẫn còn một số hạn chế quan trọng như sau: 24

Theo luật nhân quyền quốc tế, yếu tố bảo vệ an ninh quốc gia chỉ có thể được coi là mục

đích cho việc giới hạn ba quyền tự do biểu đạt, hội họp hòa bình và lập hội (khi thực sự

cần thiết theo các tiêu chuẩn của một xã hội dân chủ); tuy nhiên, trong Hiến pháp 2013,

nó lại được coi một nguyên tắc chung về giới hạn mọi quyền (khoản 2 Điều 14). Điều này

tạo ra nguy cơ các cơ quan nhà nước lạm dụng lý do bảo vệ an ninh quốc gia để tùy tiện

tước bỏ hay hạn chế các quyền con người, quyền công dân.

Tương tự, quy định mới trong khoản 4 Điều 15 về: “Không được lợi dụng quyền con

người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp

của người khác” quá rộng và mơ hồ, tiềm ẩn nguy cơ bị các cơ quan nhà nước lạm dụng

để vi phạm các quyền hiến định.25

Vẫn còn một số quyền và tự do áp dụng với tất cả mọi người nhưng vẫn chỉ được dành

cho công dân, bao gồm: Tự do đi lại, cư trú (Điều 23); Tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận

thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình (Điều 25); Quyền học tập (Điều 39); Quyền được

quyết định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ (Điều 42)…Đây có thể coi là sự phân biệt

đối xử với người nước ngoài sinh sống hợp pháp ở Việt Nam.26

24

Xem thêm Vũ Công Giao, tài liệu đã dẫn.

25 Xem bình luận và khuyến nghị của tổ chức ARTICLE 19 trong đó cho rằng quy định này trái với luật

nhân quyền quốc tế, tại http://www.article19.org/resources.php/resource/3680/en/vietnam:-proposed-

constitutional-amendments-go-against-international-law.

26 Ví dụ, xét về quyền tự do đi lại, cư trú, Điều 12(1) Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trj

(ICCPR) quy định rằng, “Bất cứ ai cư trú hợp pháp trên lãnh thổ của một quốc gia đều có quyền tự do

đi lại và tự do lựa chọn nơi cư trú trong phạm vi lãnh thổ quốc gia đó”. Như vậy, việc chỉ quy định “công

dân có quyền tự do đi lại, tự do cư trú..” rõ ràng không phù hợp với Điều 12 ICCPR. Tương tự, khi quy

định về các tự do biểu đạt, lập hội, hội họp, biểu tình, quyền của các nhóm thiểu số được giữ gìn bản

sắc của mình (các Điều 19,21,22,27 ICCPR), quyền có mức sống thích đáng (bao gồm nơi ở); quyền

19

Vẫn chưa ghi nhận một số quyền và tự do quan trọng trong Công ước về các quyền dân

sự, chính trị (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa

(ICESCR) mà Việt Nam đã tham gia, bao gồm: Quyền không bị bắt làm nô lệ và nô dịch

(ICCPR: Điều 8); Quyền không bị bỏ tù vì không hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng

(ICCPR: Điều 11); Quyền được thừa nhận là thể nhân trước pháp luật ở mọi nơi (ICCPR:

Điều 16); Quyền đình công (ICECSR: Điều 8.1); Quyền thành lập, gia nhập công đoàn

(ICCPR: Điều 22, ICESCR: Điều 8.1); Tự do tư tưởng (ICCPR: Điều 18.1); Quyền được

giữ quan điểm riêng mà không bị can thiệp (ICCPR: Điều 19.1).

Không quy định các quyền hiến định có hiệu lực tức thời, vì thế nhiều quyền và tự do sẽ

chưa thể thực hiện cho đến khi có luật và nghị định cụ thể hóa, tạo ra nghịch lý là các

quyền hiến định do nhân dân xác lập để ràng buộc nhà nước thì lại phải chờ đợi và phụ

thuộc vào nhà nước để có thể hưởng thụ.

4.2.4 Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường (Chương III)

Về chế độ kinh tế, Hiến pháp 2013 vẫn khẳng định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; các

thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật (Ðiều 51), tuy nhiên

không còn nêu tên từng thành phần kinh tế cụ thể mà để luật định. Điểm mới là Hiến pháp

2013 lần đầu tiên xác định vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng và hoàn thiện thể

chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường; thực hiện

phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước; thúc đẩy liên kết kinh tế vùng,

bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân (Ðiều 52).

Có hai vấn đề quan trọng gây tranh cãi trong chế định về kinh tế đó là: Thứ nhất, Hiến

pháp 2013 vẫn xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo (Điều 51) mặc dù khu vực

kinh tế nhà nước có hiệu quả rất thấp. Khu vực kinh tế này sử dụng một lượng tài sản rất

lớn của quốc gia, được ưu đãi đặc biệt về cơ chế, chính sách, song quản lý yếu kém và

tham nhũng nghiêm trọng. Nhiều tập đoàn kinh tế quốc doanh từng được coi là “quả đấm

thép” của nền kinh tế quốc dân như Vinashin, Vinalines thua lỗ nặng nề, bị phá sản, để lại

gánh nặng lớn cho ngân sách nhà nước. Thứ hai, Hiến pháp 2013 vẫn quy định đất đai

thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý (Điều 53), mặc dù chính quy định

này gây ra tình trạng thu hồi đất tùy tiện, tràn lan là nguyên nhân của những xung đột gay

gắt giữa người dân và nhà nước từ Đổi mới đến nay (hơn 70% khiếu nại, tố cáo ở Việt

Nam liên quan đến đất đai, trong đó hơn 70% liên quan đến việc nhà nước thu hồi đất).

Về xã hội, văn hóa, Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định trách nhiệm của Nhà nước và xã

hội trong lĩnh vực lao động, việc làm, an sinh xã hội, y tế, bảo tồn và phát huy các giá trị

văn hóa, phát triển con người.. (các Điều từ 57-60); đồng thời bổ sung quy định về trách

nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động,

người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và

ổn định (Điều 61).

Về giáo dục và khoa học, công nghệ, Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định phát triển giáo

dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, đồng thời xác định những

được giáo dục (các Điều 11,13 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa - ICESCR), các

Công ước này đều sử dụng đại từ nhân xưng “mọi người” để chỉ chủ thể quyền, hoặc sử dụng cách

diễn đạt để hàm ý rằng những quyền này không chỉ áp dụng với công dân ở một quốc gia.

20

mục tiêu và định hướng chính trong việc phát triển giáo dục và khoa học, công nghệ (các

Điều 61,62).

Về môi trường, Hiến pháp 2013 bổ sung một điều mới về bảo vệ môi trường (Điều 63),

trong đó nêu rõ nhà nước có chính sách để bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu

quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học;

chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Điều này cũng khuyến

khích mọi hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng

tái tạo, đồng thời quy định tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài

nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm

khắc phục, bồi thường thiệt hại.

4.2.5 Bảo vệ Tổ quốc (Chương IV)

Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh quốc gia là sự nghiệp

của toàn dân, trong đó các lực lượng vũ trang nhân dân (quân đội, công an, dân quân tự vệ)

giữ vai trò nòng cốt (Điều 64), đồng thời xác định những mục tiêu và định hướng lớn trong

việc xây dựng các lực lượng vũ trang (các Điều 66,67) và tổ chức, thực hiện chính sách quốc

phòng, an ninh của đất nước (Điều 68).

Một điểm mới nữa đó là trong khi vẫn quy định lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành

với Tổ quốc và nhân dân, Hiến pháp 2013 đã mở rộng yêu cầu trung thành tới Đảng cộng sản

và Nhà nước (Điều 65). Đây là một trong những quy định gây nhiều tranh cãi nhất trong Hiến

pháp mới. Một số nhà phân tích lo ngại rằng quy định này sẽ tạo cơ sở hiến định cho Đảng

cộng sản huy động lực lượng vũ trang nhân dân vào việc đàn áp chính nhân dân khi Đảng

thấy cần duy trì quyền lực độc tôn của mình bằng mọi giá.

Ngoài ra, Điều 65 Hiến pháp 2013 lần đầu tiên đề cập đến một nhiệm vụ mới của các lực

lượng vũ trang là thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Quy định mới này nhằm mở đường cho Việt

Nam gửi quân tham gia các lực lượng giữ gìn hòa bình của Liên hợp quốc – một chủ trương

mới của Đảng cộng sản.

4.2.6 Về bộ máy nhà nước nói chung

Xét tổng quát, Hiến pháp 2013 tiếp tục kế thừa các quy định về bản chất và mô hình tổng thể

của bộ máy nhà nước trong Hiến pháp 1992 nhưng làm rõ hơn nguyên tắc phân công, phối

hợp, kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; đồng thời xác định rõ hơn

chức năng, điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này. Một điểm mới

quan trọng khác là Hiến pháp 2013 bổ sung quy định về một số thiết chế hiến định độc lập,

bao gồm Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước. Đáng tiếc là Hội đồng Hiến pháp

– thiết chế được kỳ vọng và cổ vũ mạnh mẽ bởi các chuyên gia luật học vì cho rằng đó là một

sự bổ sung rất cần thiết cho cơ chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước hiện có quá

nhiều lỗ hổng của Việt Nam – đã không được Đảng cộng sản chấp thuận. Có ý kiến cho rằng

điều này là bởi, ngoài một số lý do khác, Đảng cộng sản lo ngại thiết chế mới này sẽ “xung

đột, vượt quyền Bộ Chính trị”, thậm chí “tạo cơ sở thúc đẩy diễn biến hòa bình” để thay đổi

chế độ.

4.2.7 Về Quốc hội (Chương V)

Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Quốc hội, các cơ quan của Quốc

hội trong Hiến pháp 2013 cơ bản giữ như quy định của Hiến pháp 1992, tuy nhiên có sửa đổi,

bổ sung một số điều như sau:

21

Quy định Quốc hội có quyền quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản

phát triển kinh tế - xã hội của đất nước (khoản 3 Ðiều 70) nhằm xác định rõ hơn vai trò,

trách nhiệm và mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ.

Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm,

cách chức Thẩm phán TANDTC (khoản 7 Ðiều 70) để phù hợp với yêu cầu đổi mới mô

hình TAND và làm rõ hơn vai trò của Quốc hội với hệ thống cơ quan tư pháp, đồng thời

nâng cao vị thế của thẩm phán theo tinh thần cải cách tư pháp.

Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc giám sát, quy định tổ chức và hoạt động,

quyết định nhân sự đối với Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và các cơ

quan khác do Quốc hội thành lập (các khoản 2, 6, 7 và 9 Ðiều 70).

Tiếp tục quy định việc bỏ phiếu tín nhiệm và bổ sung quy định về lấy phiếu tín nhiệm27

đối

với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn (khoản 8 Ðiều 70).

Quy định rõ các điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê chuẩn hoặc bãi bỏ của Quốc hội

(gồm các điều ước liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, quyền con

người, quyền công dân, tư cách thành viên của Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu

vực..) (khoản 14 Ðiều 70).

Hiến định thẩm quyền của Quốc hội trong việc thành lập Ủy ban lâm thời để nghiên cứu,

thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định (Ðiều 78).

Quy định thẩm quyền mới của UBTVQH là quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều

chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (khoản 8 Ðiều

74).

Bổ sung quy định về quyền của đại biểu Quốc hội được tham gia làm thành viên của

Hội đồng Dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội (Ðiều 82).

4.2.8 Về Chủ tịch nước (Chương VI)

Hiến pháp 2013 tiếp tục quy định Chủ tịch nước là người đứng đầu, thay mặt nhà nước về đối

nội và đối ngoại, đồng thời sửa đổi một số quy định như sau:

Trong mối quan hệ với Quốc hội: Giữ quy định về thẩm quyền công bố Hiến pháp, luật,

pháp lệnh và đề nghị UBTVQH xem xét lại pháp lệnh như Hiến pháp 1992, song nêu rõ

Chủ tịch Nước có quyền đề nghị UBTVQH xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười

ngày, kể từ ngày pháp lệnh được thông qua; nếu pháp lệnh đó vẫn được UBTVQH biểu

quyết tán thành thì Chủ tịch nước có quyền trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất

(khoản 1 Ðiều 88).

27

Lấy phiếu tín nhiệm được hiểu là việc làm định kỳ hằng năm nhằm đánh giá sự tín nhiệm của đại biểu

Quốc hội, HĐND đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, HĐND bầu hoặc phê chuẩn, làm cơ sở cho

việc thực hiện công tác cán bộ; còn bỏ phiếu tín nhiệm là việc đại biểu Quốc hội, HĐND thể hiện thái

độ tín nhiệm hoặc không tín nhiệm đối với người giữa chức vụ do mình bầu ra hoặc phê chuẩn trong

những trường hợp do luật quy định. Cả hai hoạt động lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm đều

nhằm mục đích tăng cường hiệu quả giám sát, nâng cao trách nhiệm của những người do Quốc hội,

HĐND bầu hoặc phê chuẩn trước cử tri. Phiếu lấy tín nhiệm hiện gồm 4 mức: tín nhiệm cao, tín nhiệm

trung bình, tín nhiệm thấp và chưa có ý kiến; Bỏ phiếu tín nhiệm có hai mức: tín nhiệm và không tín

nhiệm. Việc lấy phiếu và bỏ phiếu tín nhiệm đều được thực hiện bằng cách bỏ phiếu kín.

22

Trong mối quan hệ với Chính phủ: Giữ quy định về thẩm quyền đề nghị Quốc hội bầu,

miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội để bổ

nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của

Chính phủ (khoản 2 Ðiều 88). Ngoài ra, Hiến pháp 2013 còn quy định rõ hơn (khẳng định)

thẩm quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ, đồng thời bổ sung quyền yêu cầu

Chính phủ bàn về vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước khi cần thiết

(Ðiều 90).

Trong mối quan hệ với TAND, VKSND: Giữ quy định về thẩm quyền đề nghị Quốc hội

bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC (khoản 3 Ðiều

93); đồng thời bổ sung thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa

án khác để phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp (khoản 3 Ðiều 88).

4.2.9 Về Chính phủ (Chương VII)

Tiếp tục khẳng định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của đất nước và là

cơ quan chấp hành của Quốc hội, song bổ sung quy định Chính phủ là cơ quan thực hiện

quyền hành pháp (Ðiều 94) nhằm phù hợp với nguyên tắc tổ chức quyền lực có sự phân

công, phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Sắp xếp, cơ cấu lại nhiệm vụ, quyền hạn cho phù hợp với vị trí, chức năng của Chính phủ

là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, cơ quan chấp

hành của Quốc hội (Ðiều 96); chuyển thẩm quyền điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính

dưới cấp tỉnh sang thẩm quyền của UBTVQH để phù hợp với tính chất và tầm quan trọng

của việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính lãnh thổ.

Sắp xếp, cơ cấu lại nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ để bảo đảm tương

thích với nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; bổ sung qua định về thẩm quyền quyết

định và chỉ đạo việc đàm phán, ký, gia nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn

của Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (khoản 5

Ðiều 98).

Để nâng cao trách nhiệm giải trình của Chính phủ, Hiến pháp 2013 bổ sung quy định Thủ

tướng Chính phủ phải thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân về những vấn đề quan

trọng thuộc trách nhiệm quản lý (Điều 99). Thêm vào đó, Hiến pháp 2013 đã gộp các quy

định về thẩm quyền ban hành và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ,

Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ vào một điều (Điều 100)

và bỏ quy định nêu rõ các loại văn bản quy phạm pháp luật mà từng chủ thể này có thẩm

quyền ban hành mà để vấn đề đó cho luật định, theo tinh thần làm tăng tính ổn định, lâu

dài trong các quy định của Hiến pháp.

4.2.10 TAND, VKSND (Chương VIII)

Về TAND:

Hiến pháp 2013 vẫn xác định TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt

Nam, song bổ sung quy định tòa án thực hiện quyền tư pháp (khoản 1 Ðiều 102) để phù

hợp với quan điểm và nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước có sự phân công, phối

hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Ðể phù hợp với định hướng về cải cách tư pháp của Đảng cộng sản trong đó xác định

sẽ thành lập các tòa án không theo đơn vị hành chính mà theo chức năng xét xử, Hiến

pháp 2013 quy định TAND gồm TANDTC và các tòa án khác (trong Hiến pháp 1992

dùng thuật ngữ “TAND địa phương) do luật định (khoản 2 Ðiều 102).

23

Cũng để phù hợp với định hướng về cải cách tư pháp, Hiến pháp 2013 đã sửa đổi, bổ sung

và nhấn mạnh một số nguyên tắc trong tổ chức, hoạt động của TAND, bao gồm nguyên tắc

tranh tụng tại phiên tòa và nguyên tắc xét xử sơ thẩm và phúc thẩm (khoản 5,6 Ðiều 103).

Như vậy, Hiến pháp vẫn khẳng định chế độ xét xử 2 cấp nhưng đồng thời quy định tòa án có

thể thực hiện xét xử theo thủ tục rút gọn (khoản 1 Điều 103).

Ngoài việc tiếp tục khẳng định nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích

hợp pháp của tổ chức, cá nhân như Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 bổ sung một

nhiệm vụ quan trọng của TAND là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công

dân (khoản 2 Ðiều 102). Quy định bổ sung này cho thấy ý tưởng của các nhà lập hiến

Việt Nam là thúc đẩy quá trình cải tổ hệ thống tòa án từ vị trí là một công cụ tư pháp bảo

vệ chế độ sang vị trí là một thiết chế bảo vệ công lý trong nhà nước pháp quyền.

Về VKSND:

Hiến pháp 2013 tiếp tục xác định chức năng của VKSND là thực hành quyền công tố và

kiểm sát hoạt động tư pháp (khoản 1 Ðiều 107), song ngoài nhiệm vụ "góp phần bảo

đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất" như quy định trong

Hiến pháp 1992, VKSND còn được bổ sung nhiệm vụ "bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền

con người, quyền công dân; bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân" (khoản 3 Ðiều 107). Ðây là một quy định mới phù hợp với thực tế vì

khác với cơ quan công tố ở các quốc gia khác, VKSND ở Việt Nam không chỉ có vai trò,

trách nhiệm là một bên buộc tội mà còn có trách nhiệm kiểm sát hoạt động tư pháp, tức

là chống làm oan người vô tội, phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm trong hoạt động

tư pháp.

Để phù hợp với mô hình tổ chức mới của TAND (theo thẩm quyền xét xử chứ không

theo đơn vị hành chính), Hiến pháp 2013 quy định VKSND gồm VKSNDTC và các Viện

kiểm sát khác do luật định (khoản 2 Ðiều 107).

Hiến pháp 2013 bỏ quy định về Ủy ban kiểm sát của VKSND trong Hiến pháp 1992, để

vấn đề này cho Luật Tổ chức VKSND quy định cho phù hợp với yêu cầu trong từng giai

đoạn cụ thể.

4.2.11 Về chính quyền địa phương (Chương IX)

Hiến pháp 2013 kế thừa các quy định của Chương IX của Hiến pháp 1992 về phân chia đơn

vị hành chính lãnh thổ, địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ của HĐND, UBND. Tuy nhiên, để

tạo cơ sở hiến định cho việc đổi mới tổ chức, Hiến pháp 2013 không nêu cụ thể về mỗi cấp

chính quyền như Hiến pháp 1992 mà quy định, cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND,

UBND được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính -

kinh tế đặc biệt do luật định (Điều 111).

4.2.12 Về Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước (Chương X)

Hiến pháp 2013 bổ sung thiết chế Hội đồng bầu cử quốc gia (Ðiều 117) nhằm thực hiện

Kết luận của Hội nghị Trung ương 5 (5/2012) về việc "tăng cường hình thức dân chủ

trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế độ bầu cử". Tuy nhiên, quy định về cơ quan này

trong Hiến pháp rất khái quát. Cụ thể, theo Điều 117, Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ

quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và

hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu HĐND các cấp. Hội đồng gồm Chủ tịch, các Phó

Chủ tịch và các Ủy viên. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng bầu cử

quốc gia và số lượng thành viên Hội đồng bầu cử quốc gia do luật định.

24

Hiến pháp 2013 đồng thời bổ sung thiết chế Kiểm toán Nhà nước (Điều 118) với mục

đích thúc đẩy hiệu lực, hiệu quả và tính minh bạch trong việc sử dụng ngân sách nhà

nước. Tuy nhiên, tương tự như Hội đồng bầu cử quốc gia, quy định về Kiểm toán nhà

nước cũng rất sơ lược. Cụ thể, theo Điều 118, Kiểm toán Nhà nước là cơ quan do Quốc

hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc

quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Cơ quan này do Tổng Kiểm toán Nhà nước do

Quốc hội bầu ra đứng đầu, chịu trách nhiệm và báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo

công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp chịu trách nhiệm và báo

cáo trước UBTVQH. Các vấn đề như nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán Nhà nước, tổ chức,

nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của Kiểm toán Nhà nước để cho luật định.

4.2.13 Hiệu lực và việc sửa đổi Hiến pháp (Chương XI)

Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định Hiến pháp là luật cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp

lý cao nhất, mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp; đồng thời bổ sung một

quy định nêu rõ mọi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý (khoản 1 Ðiều 119). Đặc biệt, lần đầu tiên

Hiến pháp 2013 nhắc đến cụm từ “cơ chế bảo vệ hiến pháp” và xác định một phạm vi rộng

các chủ thể có trách nhiệm bảo vệ hiến pháp, bao gồm Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội,

Chủ tịch nước, Chính phủ, TAND, VKSND, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể

Nhân dân (khoản 2 Ðiều 119). Có thể thấy những quy định về cơ chế bảo hiến trong Hiến

pháp 2013 tuy mới nhưng còn ở mức nguyên tắc, vì việc thiết lập cơ quan nòng cốt của cơ

chế bảo hiến là Hội đồng Hiến pháp đã bị Đảng cộng sản loại bỏ vào phút cuối khi chuẩn bị

đưa dự thảo Hiến pháp sửa đổi ra bỏ phiếu trước Quốc hội.

Hiến pháp 2013 cũng cụ thể hóa các quy định về thẩm quyền đề nghị sửa đổi, thủ tục soạn

thảo, quy trình thông qua Hiến pháp (Ðiều 120), theo đó, Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính phủ

hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi

Hiến pháp. Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần

ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Để xây dựng, sửa đổi Hiến pháp, Quốc hội

sẽ thành lập một Ủy ban dự thảo; Ủy ban này phải tổ chức lấy ý kiến Nhân dân và trình Quốc

hội bản dự thảo. Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc

hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định. Quy

trình lập hiến như vậy rõ ràng hơn nhiều so với quy định trong Hiến pháp 1992, tuy nhiên nó

vẫn còn để ngỏ một số vấn đề cho luật quy định, trong đó có các quy trình, thủ tục, hiệu lực

của việc lấy ý kiến nhân dân và trưng cầu ý dân về dự thảo Hiến pháp.

V NHỮNG TRIỂN VỌNG THAY ĐỔI VÀ THÁCH THỨC TRONG VIỆC THỰC THI HIẾN

PHÁP 2013

5.1 Những triển vọng thay đổi từ Hiến pháp 2013

Như đã đề cập ở mục 4.2, Hiến pháp 2013 có rất nhiều điểm mới so với Hiến pháp 1992.

Những điểm mới này tạo ra những triển vọng thay đổi cho Việt Nam, mà tiêu biểu như sau:

Thứ nhất, mở rộng dân chủ

Dân chủ gắn liền với quan niệm về chủ quyền của nhân dân (với việc quản lý nhà nước nói

chung và việc xây dựng, thông qua hiến pháp nói riêng). Đây là vấn đề quan trọng đã được

khẳng định trong Hiến pháp 1946, song do bị chi phối bởi lý thuyết về chuyên chính vô sản

25

của chủ nghĩa Mác Lê nin nên đã bị bỏ qua hoặc biến dạng trong các Hiến pháp

1959,1980,1992 của Việt Nam.

Hiến pháp 2013 đã tái khẳng định chủ quyền nhân dân, thông qua một loạt quy định trong Lời

nói đầu (khẳng định chủ thể xây dựng, thi hành và bảo vệ hiến pháp là nhân dân); Điều 2

(khẳng định nhân dân là chủ nhân của đất nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân

dân); Điều 4 (xác định Đảng Cộng sản nằm dưới sự giám sát của nhân dân và phải chịu trách

nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình); Điều 6 (xác định cách thức nhân dân

thực hiện quyền lực nhà nước là bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện); Điều 70 (bỏ quy

định Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến); Điều 120 (quy định việc trưng cầu ý

dân về hiến pháp)... Những điểm mới này, cùng với việc viết hoa từ “Nhân dân”, cho thấy sự

thay đổi quan niệm về vị trí, vai trò của bản hiến pháp như là một đạo luật gốc đơn thuần do

nhà nước xây dựng sang một bản khế ước xã hội, trong đó người dân là chủ thể xác lập, trao

quyền và đề ra những cơ chế để kiểm soát hoạt động của chính quyền do mình lập ra.28

Sự

thay đổi này hứa hẹn sẽ thúc đẩy quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam trong những năm tới.

Thứ hai, thúc đẩy nhà nước pháp quyền

Mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN đã được xác định trong lần sửa đổi thứ nhất

(năm 2001) của Hiến pháp 1992, nhưng tiếp tục được cụ thể hóa trong Hiến pháp 2013,

thông qua một loạt quy định như Điều 2 (Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước pháp

quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; Quyền lực nhà nước là thống nhất,

có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các

quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp); Điều 6 (Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng

Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật); Điều 8 (Nhà nước

được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và

pháp luật); Điều 94,96 (Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, có nhiệm vụ bảo vệ quyền con

người, quyền công dân); Điều 102 (TAND thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công

lý, bảo vệ quyền con người); Điều 107 (VKSND có nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền

công dân)… Mặc dù còn ở mức khái quát, những quy định đã nêu cho cho thấy xu hướng

thay đổi cấu trúc thể chế của Việt Nam theo những nguyên lý của nhà nước pháp quyền.

Thứ ba, cải cách khuôn khổ về quản trị quốc gia

Một loạt quy định mới bổ sung hoặc được sửa đổi trong Hiến pháp 2013 cho thấy cố gắng

của các nhà lập hiến trong việc tạo lập một khuôn khổ mới cho việc quản trị quốc gia, cụ thể

như quy định ở Điều 2 (bổ sung vấn đề kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và

tư pháp); Điều 55 và Điều 112 (bổ sung vấn đề phân quyền giữa trung ương và địa phương

theo mô hình phát triển, cho phép chính quyền địa phương có ngân sách riêng); Điều 117,118

(thiết lập hai cơ quan hiến định độc lập là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước);

Điều 9 (làm rõ hơn vai trò phản biện, giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên

của Mặt trận)…Mục tiêu của việc cải cách là xây dựng một nền quản trị quốc gia minh bạch,

hiệu quả và có trách nhiệm giải trình, đáp ứng được những yêu cầu phát sinh từ quá trình

dân chủ hóa, hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Thứ tư, bảo đảm tốt hơn các quyền con người, quyền công dân

Như đã đề cập ở mục 4.2, chế định quyền con người, quyền công dân được sửa đổi, bổ sung

nhiều nhất trong Hiến pháp 2013. Những sửa đổi, bổ sung này thể hiện cách tiếp cận hoàn

28

Xem thêm TS Nguyễn Sĩ Dũng (Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc Hội: Hiến pháp mới, hy vọng mới,

tham luận tại Tọa đàm “Hiến pháp và vấn đề cải cách thể chế” do Mạng lưới học giả Việt Nam tổ chức

tại Hà Nội ngày 23/01/2013.

26

toàn mới, gắn với nhận thức chung của nhân loại và các tiêu chuẩn của luật quốc tế về quyền

con người. Điều đó trước hết thể hiện ở việc Điều 14 Hiến pháp 2013 thừa nhận quyền con

người là những giá trị tự nhiên, vốn có mà nhà nước phải ghi nhận và bảo đảm, chứ không

phải do nhà nước ban phát cho công dân như được biểu lộ qua cách hiến định về quyền

trong các Hiến pháp 1959,1980,1992. Điểm thứ hai là quy định quyền con người, quyền công

dân chỉ có thể bị hạn chế theo luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh

quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng (Điều 14). Ngoài ra,

việc sửa đổi tên và đưa vị trí của chế định này từ thứ 5 (trong Hiến pháp 1992) lên thứ 2 như

hiện nay, cũng như việc sửa đổi, bổ sung một loạt quyền cụ thể cũng cho thấy nỗ lực của các

nhà lập hiến trong việc hoàn thiện khuôn khổ hiến định để bảo đảm tốt hơn các quyền con

người, quyền công dân ở Việt Nam.

5.2 Những thách thức với việc thực thi Hiến pháp 2013

Mặc dù Hiến pháp 2013 hàm chứa những triển vọng thay đổi, song để hiện thực hóa những

thay đổi đó, Việt Nam đang đối mặt với một loạt thách thức, tiêu biểu như sau:

Thách thức với việc mở rộng dân chủ

Vấn đề mở rộng dân chủ ở Việt Nam không chỉ được đề cập trong hiến pháp, mà còn trong

nhiều văn kiện của Đảng cộng sản. Tuy nhiên, Việt Nam chưa có khuôn khổ pháp lý rõ ràng

và hiệu quả để thực hiện tư tưởng này, thể hiện ở việc còn thiếu một loạt các luật nền tảng

cho chế độ dân chủ, bao gồm Luật về đảng chính trị, Luật về hội, Luật biểu tình, Luật trưng

cầu dân ý, Luật tiếp cận thông tin…Khuôn khổ pháp lý về dân chủ đại diện (các Luật bầu cử

đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu HĐND) tuy đã có nhưng chứa đựng nhiều quy định

gây tranh cãi (ví dụ như các quy định về ứng cử, đề cử, hiệp thương giới thiệu người ứng

cử..). Dân chủ trực tiếp,29 mặc dù được Hiến pháp 2013 nhấn mạnh để thúc đẩy, nhưng hầu

như chưa có đạo luật nào quy định cụ thể, và bản thân khái niệm này vẫn chưa được làm rõ

ở Việt Nam.

Tuy nhiên, theo một số nhà phân tích, thách thức lớn nhất chính là ý thức hệ tư tưởng. Nhận

định chung của nhiều chuyên gia trong và ngoài nước cho rằng, cho đến nay, mặc dù phải đối

mặt với những áp lực dân chủ hóa ngày càng lớn cả ở trong và ngoài nước, vẫn chưa có dấu

hiệu nào cho thấy Đảng cộng sản Việt Nam đoạn tuyệt với chủ nghĩa Mác Lê nin để chấp

thuận từ bỏ vị trí độc tôn quyền lực. Việc tiếp tục giữ Điều 4 trong Hiến pháp 2013 là một

minh chứng rõ ràng cho việc này.

Cũng theo một số nhà phân tích, một khi vẫn còn duy trì mô hình chính trị độc đảng, những

cải cách dân chủ xuất phát từ những quy định mới trong Hiến pháp 2013 trong thời gian tới sẽ

không thể mang đến một chế độ dân chủ hoàn chỉnh, đích thực ở Việt Nam.

Kinh nghiệm từ những nước trong khối XHCN Liên Xô – Đông Âu cũ cũng như từ phong trào

“Mùa xuân Ả-rập” ở Trung Đông cho thấy, chuyển đổi dân chủ tất yếu sẽ diễn ra ở các nhà

nước độc tài, toàn trị (và có thể xảy ra một cách rất bất ngờ, nhanh chóng), nhưng sau đó các

quốc gia này sẽ phải đối mặt với những khó khăn trong việc xây dựng một nền dân chủ thực

sự, bền vững. Việt Nam không nằm ngoài những quy luật ấy. Ở đây, rất khó dự đoán thời

29

Thể hiện ở bốn hình thức cơ bản đó là: Trưng cầu dân ý (referendums); Sáng kiến của công dân

(Citizens’ initiatives); Sáng kiến chương trình nghị sự (Agenda initiatives); và Bãi miễn (Recall). Xem

IDEA,

Direct Democracy: The International IDEA Handbook, 2008, tr. 12, tại

http://www.idea.int/publications/direct_democracy/.

27

điểm diễn ra sự chuyển đổi dân chủ ở Việt Nam, nhưng có thể chắc chắn rằng Việt Nam sẽ

còn gặp những khó khăn, thậm chí lớn hơn so với nhiều nước khác, trong việc xây dựng nền

dân chủ sau chuyển đổi. Đó là bởi Việt Nam có rất ít kinh nghiệm về mô hình dân chủ đa

nguyên, đa đảng; văn hóa và dân trí về chính trị, dân chủ vì thế còn nghèo nàn; trong khi đó,

do hậu quả của nhiều thập kỷ chiến tranh và vị trí địa chính trị đặc biệt trên bản đồ thế giới, xã

hội Việt Nam hiện đang bị chia rẽ nặng nề bởi các xu hướng tư tưởng, lợi ích, đồng thời bị

trói buộc trong vòng ảnh hưởng của cường quốc láng giềng toàn trị là Trung Quốc. Tất cả

những điều này khiến một nền dân chủ đích thực khó thoát thai và nhanh chóng lớn mạnh ở

Việt Nam.

Thách thức với việc thúc đẩy nhà nước pháp quyền

Khái niệm nhà nước pháp quyền (hay pháp quyền - rule of law) theo Liên hợp quốc bao gồm

các yếu tố sự thượng tôn pháp luật (mọi chủ thể trong xã hội, bao gồm nhà nước, đều phải

tuân thủ pháp luật); bảo vệ nhân quyền; phân quyền (giữa các nhánh quyền lực nhà nước) và

bình đẳng trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.30

Ở Việt Nam, khái niệm nhà

nước pháp quyền XHCN được hiểu bao gồm các yếu tố như: quyền làm chủ của nhân dân;

thượng tôn hiến pháp và pháp luật; tôn trọng, bảo vệ nhân quyền; quyền lực nhà nước là

thống nhất, có sự phân công và phối hợp kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc

thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; nhà nước và xã hội do một đảng duy

nhất lãnh đạo.31

Như vậy, có sự khác biệt giữa quan niệm về nhà nước pháp quyền của Đảng cộng sản Việt

Nam với nhận thức chung trên thế giới, thể hiện ở hai yếu tố quan trọng: tập quyền trong tổ

chức quyền lực nhà nước và chế độ độc đảng. Xét bản chất, ngay trong quan niệm về nhà

nước pháp quyền XHCN của Đảng cộng sản Việt Nam cũng chứa đựng những khía cạnh

mâu thuẫn (chế độ độc đảng >< thượng tôn hiến pháp, pháp luật; tôn trọng, bảo vệ nhân

quyền và quyền làm chủ của nhân dân).

Do đó, thách thức đầu tiên và quan trọng nhất với việc thúc đẩy nhà nước pháp quyền ở Việt

Nam chính là nhận thức về bản chất và những thuộc tính của nó. Ở đây, tương tự như vấn đề

dân chủ hóa, một khi chưa đoạn tuyệt với mô hình chính trị độc đảng, những cải cách được

thực hiện theo những quy định mới về thể chế trong Hiến pháp 2013, dù mạnh mẽ và triệt để

đến mức độ nào, cũng không thể tạo lập được một nhà nước pháp quyền đích thực.

Những thách thức cụ thể hơn liên quan đến thực hiện sự phân công, phối hợp, kiểm soát

giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp trong bối cảnh quyền lực nhà nước được coi

là thống nhất và tập trung vào Quốc hội, cũng như việc bảo đảm Đảng cộng sản – mà theo

Hiến pháp là chủ thể duy nhất có quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội – phải chịu trách nhiệm

trước nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Đây cũng là những vấn đề mà về mặt lý

thuyết đang chứa đựng những yếu tố mâu thuẫn, còn về mặt thực tế thì chưa từng được thực

hiện và làm rõ trong pháp luật của Việt Nam.

30

Report of the UN Secretary-General, “The rule of law and transitional justice in conflict and post-

conflict societies”, 2004.

31 Nông Đức Mạnh (nguyên Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, nguyên Chủ tịch Quốc Hội nước

CHXHCN Việt Nam): Diễn văn tại phiên khai mạc kỳ họp đầu tiên của Quốc Hội khóa XII, ngày

19/7/2007.

28

Thách thức với việc cải cách khuôn khổ về quản trị quốc gia

Ngoại trừ vấn đề phản biện, giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên Mặt trận

là đã được đề cập (trong Quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các

đoàn thể chính trị-xã hội, ban hành kèm theo Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của

Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam), các vấn đề khác có ý nghĩa cải cách khuôn khổ quản

trị quốc gia mà mới được bổ sung vào Hiến pháp 2013, bao gồm cơ chế kiểm soát lẫn nhau

giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; phân quyền giữa trung ương và địa

phương theo mô hình phát triển; tổ chức và hoạt động của hai cơ quan hiến định độc lập là

Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước đều chưa từng được quy định cụ thể ở

Việt Nam.

Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất ở đây không phải là về phương diện lập pháp (các nhà lập pháp

và chuyên gia pháp lý của Việt Nam đủ trình độ và hiểu biết để xây dựng một khuôn khổ pháp

lý về quản trị quốc gia minh bạch, hiệu quả và có trách nhiệm giải trình) mà là sự nghi ngại

của Đảng cộng sản với việc thành lập và hoạt động của các thiết chế kiếm soát, giám sát

quyền lực. Một trong những dẫn chứng cho sự nghi ngại đó là quy định về Hội đồng Hiến

pháp – thiết chế hiến định độc lập có vai trò và hiệu lực giám sát quyền lực mạnh, toàn diện

và trực tiếp nhất – bị bỏ ra khỏi dự thảo Hiến pháp sửa đổi vào phút chót. Ngoài ra, việc xây

dựng Luật về phản biện, giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt

trận (để luật hóa Quy chế nêu trên của Bộ chính trị) vẫn đang bị trì hoãn,32

mặc dù đã được

đề xuất từ lâu bởi Mặt trận. Nói tóm lại, tính chất mới mẻ, phức tạp của các thiết chế kiếm

soát, giám sát quyền lực cùng với xung đột tiềm năng của chúng với phương thức hoạt động

còn mang nặng tính chất tập quyền, khép kín của thể chế chính trị hiện nay cho thấy việc cải

cách khuôn khổ về quản trị quốc gia theo Hiến pháp 2013 của Việt Nam sẽ không hề nhanh

chóng, dễ dàng.

Thách thức với việc bảo đảm các quyền con người, quyền công dân

Trở ngại đầu tiên trong vấn đề này là Hiến pháp 2013 vẫn không quy định hiệu lực trực tiếp

của các quyền hiến định. Điều này khiến cho nhiều quyền quan trọng, đặc biệt là các quyền

dân sự, chính trị như tự do lập hội, hội họp, biểu tình, quyền bỏ phiếu trong các cuộc trưng

cầu dân ý…sẽ phải đợi Quốc hội ban hành luật để cụ thể hóa, và có thể phải đợi cả Chính

phủ ban hành Nghị định để hướng dẫn thi hành, thì mới có thể thực hiện được.

Trở ngại thứ hai là chưa có cơ chế pháp lý rõ ràng và hiệu quả cho việc bảo vệ các quyền

hiến định. Việc Đảng cộng sản không chấp nhận thành lập Hội đồng Hiến pháp đã triệt tiêu

khả năng ngăn ngừa, xử lý những văn bản và quyết định vi phạm các quyền hiến định (vi

hiến) của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tương tự, việc đề xuất cơ quan nhân

quyền quốc gia bị bỏ qua đã triệt tiêu cơ hội của người dân được một cơ quan hiến định độc

lập chuyên trách về nhân quyền bênh vực, bảo vệ. Hiện tại, với cơ chế giải quyết khiếu nại, tố

cáo được thiết kế theo kiểu “vừa đá bóng, vừa thổi còi” (khiếu nại, tố cáo do chính cơ quan bị

khiếu nại, tố cáo, hoặc cơ quan cấp trên của cơ quan đó, giải quyết) và hệ thống tư pháp

không độc lập, khả năng những người bị vi phạm nhân quyền, đặc biệt là các quyền chính trị,

được xử lý khách quan, công bằng và được bồi thường thích đáng, là rất khó khăn.

Trở ngại thứ ba liên quan đến quy định bất hợp lý về việc vận dụng yếu tố bảo vệ an ninh

quốc gia để hạn chế quyền (Điều 14) và quy định cấm quá rộng, mơ hồ về lợi dụng quyền con

32

Luật này không có trong Danh mục các dự án luật, pháp lệnh dự kiến trình Quốc Họi, UBTVQH xem

xét, thông qua (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 718/NQ-UBTVQH13 ngày 2/01/2014 về Kế hoạch

triển khai thi hành Hiến pháp 2013).

29

người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của

người khác (Điều 15). Những quy định này trong thực tế đã, đang và chắc chắn sẽ còn bị các

cơ quan nhà nước lạm dụng để vi phạm các quyền hiến định. Trong bối cảnh bộ máy tuyên

truyền của Đảng cộng sản vẫn chưa bỏ hẳn quan niệm cho rằng nhân quyền là “công cụ của

các thế lực phản động, thù địch để chống phá chế độ XHCN”, hệ thống tư pháp vẫn mang

nặng tính chất là công cụ bảo vệ chế độ chứ chưa phải là thiết chế bảo vệ công lý, lại thiếu

vắng các thiết chế nhân quyền độc lập là Hội đồng Hiến pháp và cơ quan nhân quyền quốc

gia, thì khả năng ngăn chặn những hành động lạm dụng đã nêu là rất khó khăn.

VI TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1. Dung, Nguyễn Đăng (1998), “Chính thể Hiến pháp năm 1946 – Sự sáng tạo tài tình

của Chủ Tịch Hồ Chí Minh”, trong Hiến pháp năm 1946: Sự kế thừa và phát triển, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

2. Dũng, Nguyễn Sĩ (2010), Hiến pháp 1946 với tư tưởng pháp quyền, tại

http://www.tuanvietnam.net/2010-05-07-hien-phap-1946-voi-tu-tuong-phap-quyen;

3. Dũng, Nguyễn Sĩ (2013), Hiến pháp mới, hy vọng mới, tham luận tại Tọa đàm “Hiến

pháp và vấn đề cải cách thể chế” do Mạng lưới học giả Việt Nam tổ chức tại Hà Nội

ngày 23/01/2013.

4. Đảng cộng sản Việt Nam (1963), Văn kiện Đảng từ 1939 – 2.9.1945, NXb Sự thật, Hà

Nội.

5. Điềm, Phạm Trọng – Phiệt, Tôn Quang (1957), Phan Bội Châu niên biểu, Nxb. Văn,

Sử, Địa, Hà Nội.

6. Giao, Vũ Công (2013), ‘Những tiến bộ và hạn chế trong chế định quyền con người,

quyền công dân của Dự thảo 3 Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013’, Tạp chí Khoa học

Đại học Quốc gia Hà Nội – Chuyên san Luật học, số 3/2013.

7. Hội đồng Giám mục Việt Nam (2013), Thư của Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi Ủy

ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nhận định và góp ý sửa đổi Hiến pháp

1992, tại http://www.hdgmvietnam.org/thu-cua-hoi-dong-giam-muc-viet-nam-nhan-

dinh-va-gop-y-sua-doi-hien-phap/4750.116.3.aspx

8. IDEA (2008), Direct Democracy: The International IDEA Handbook, tại

http://www.idea.int/publications/direct_democracy/.

9. Khoa Luật ĐHQG Hà Nội (2013), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội.

10. Kim, Trần Trọng (1920), Việt Nam sử lược, tại

http://qhvn.org/software/Vietnamsuluoc_TranTrongKim.pdf

11. Kiến nghị của các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam về việc sửa đổi Hiến pháp 1992 tại

http://www.isee.org.vn/Content/Home/Library/civil-society/kien-nghi-cua-cac-to-chuc-

xa-hoi-dan-su-viet-nam-ve-du-thao-sua-doi-hien-phap-1992.pdf;

12. Kiến nghị và Khảo sát ý kiến (trên mạng) của Nhóm Cùng viết Hiến pháp về việc sửa

đổi Hiến pháp 1992, tại http://hienphap.net/y-kien/, http://hienphap.net/ket-qua-khao-

sat/.

30

13. Lời tuyên bố của nhóm Công dân mạng Tự do, tại

http://diendancuachungta.com/cong-cuoc-dau-tranh-cho-tu-do-dan-chu/loi-tuyen-bo-

cua-cac-cong-dan-tu-do/Mạnh, Nông Đức (2007), Diễn văn tại phiên khai mạc kỳ họp

đầu tiên của Quốc Hội khóa XII, ngày 19/7/2007.

14. Nhóm Boxit Việt Nam (2013), Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992, tại

http://boxitvn.blogspot.com/2013/01/kien-nghi-ve-sua-oi-hien-phap-1992.html.

15. Nhóm “Cùng viết Hiến pháp” (2013), Đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định của

Dự thảo Hiến pháp sửa đổi năm 2013, tại http://hienphap.net/de-xuat/

16. Nghĩa, Phạm Duy (2005), Vang vọng tiếng dân, tại http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-

hoi/96260/vang-vong-tieng-dan.html;

17. Nghĩa, Lê Hữu (2011), Những đặc trưng thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội

mà nhân dân ta đang xây dựng, tham luận tại phiên họp sáng 14/1 tại Đại hội XI của

Đảng Cộng sản Việt Nam.

18. Sơn, Phan Anh (2013), NGOs with Vietnam Development Strategy and Regional

Integration, tham luận tại Strategic Partner Meeting of Rosa Luxemburg Stiftung, Đà

Nẵng, 24-25/2/2013.

19. Thanh, Phan Đăng (2006), Tư tưởng lập hiến Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb.Tư

pháp, 2006.

20. Thanh, Phan Đăng – Hòa, Trương Thị (2013), Lược sử lập hiến Việt Nam, NXB Tổng

hợp TP.HCM.

21. Thắng, Thái Vĩnh (2011), “Tư tưởng lập hiến ở Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám

năm 1945”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11/2011.

22. Trinh, Phan Chu (1925): “Bài diễn thuyết về quân trị và dân trị chủ nghĩa”, Tạp chí

Nghiên cứu lịch sử số 67, tháng 10-1964.

23. Trường, Phan Văn (1926), Pháp luật lược luận, Nxb. Xưa – Nay, Sài Gòn.

24. Tuấn, Nguyễn Minh (2011), Hiến pháp 1946: Thể hiện cơ chế phân công và kiểm soát

quyền lực, tại

http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=4720

25. Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp (2012), Tờ trình số 194/TTr-UBDTSĐHP ngày

19/10/2012.

26. Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp (2013), Báo cáo số 287/BC-UBDTSĐHP ngày

17/5/2013 về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992

trên cơ sở ý kiến nhân dân

27. Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp (2013), Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi

Hiến pháp năm 1992, ngày 25/01/2013.

28. UN, Report of the UN Secretary-General, “The rule of law and transitional justice in

conflict and post-conflict societies”, 2004.

31

VII Lưu ý chung

Rosa-Luxemburg-Stiftung hỗ trợ cho nghiên cứu này. Tuy nhiên, nội dung bài viết phản ánh

quan điểm cá nhân của tác giả. Những quan điểm này không nhất thiết phản ánh quan điểm

của Viện Rosa-Luxemburg. Viện Rosa-Luxemburg- không chịu trách nhiệm về tính hợp pháp

cũng như tính chính xác của các thông tin, quan điểm được trình bày trong nghiên cứu này.