14
Suy nghĩ về chính tả, đọc “Quy tắc đặt dấu thanh trong tiếng Việt” của Vũ Xuân Lương Hồng Đức Trên trang web của Trung Tâm Từ Điển Học Việt Nam 1 thì tác giả của cái qui tắc này là Vũ Xuân Lƣơng nhƣng trong bài “Vấn đề đánh dấu thanh tiếng Việt” của tác giả Dũng Vũ 2 thì Vũ Xuân Lƣơng và Hoàng Phê là đồng tác giả của qui tắc. (Có lẽ vì DV thấy đăng chính thức trong vietlex.com mà Hoàng Phê là “chủ tịch vĩnh viễn” chăng?) Tác giả Dũng Vũ đã có những nhận xét và phê bình cái qui tắc này một cách khoa học và x ác đáng cũng nhƣ có phê bình thêm về qui tắc bỏ dấu của một tác giả khác nữa là Đoàn Xuân Kiên 3 sau khi đã nêu ra các đặc điểm ngữ âm của tiếng và chữ Việt. Bài viết này không nhằm mục đích đánh giá lại cái qui tắc của Vũ Xuân Lƣơng bằng các phƣơng pháp khoa học nhƣ Dũng Vũ đã làm mà chỉ có ý đƣa ra vài suy nghĩ về văn hóa và ngƣời làm văn hóa Việt Nam. Cần biết rằng vietlex.com là trang web chính thức của Trung Tâm Từ Điển Học, 4 một trung tâm của nhà nƣớc và đảng CSVN, nên những bài viết, những qui luật mà trung tâm này phổ biến sẽ có ảnh hƣởng rất sâu rộng trong tầng lớp sinh viên học sinh và giáo viên cũng nhƣ giới trí thức trong nƣớc. Chắc 1 http://vietlex.com/lib/compuLinguistics/quytacbodau.htm 2 tìm thấy trên trang web Mạng Giáo Dục của Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo Việt Nam (http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/276086.aspx) nhƣng khởi thủy là đăng trên trang web của Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7657&rb=06 3 bài “Bàn về chuyện "đánh dấu thanh" trong tiếng Việt” cũng tại Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=94&rb=07 4 địa chỉ: Số 2 Ngõ Hàng Bún, Hà Nội

Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Tiếng Việt Mến Yêu

Citation preview

Page 1: Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt

Suy nghĩ về chính tả, đọc “Quy tắc đặt dấu thanh trong tiếng Việt” của Vũ Xuân Lương

Hồng Đức

Trên trang web của Trung Tâm Từ Điển Học Việt Nam1 thì tác

giả của cái qui tắc này là Vũ Xuân Lƣơng nhƣng trong bài

“Vấn đề đánh dấu thanh tiếng Việt” của tác giả Dũng Vũ2 thì

Vũ Xuân Lƣơng và Hoàng Phê là đồng tác giả của qui tắc. (Có

lẽ vì DV thấy đăng chính thức trong vietlex.com mà Hoàng Phê

là “chủ tịch vĩnh viễn” chăng?) Tác giả Dũng Vũ đã có những

nhận xét và phê bình cái qui tắc này một cách khoa học và xác

đáng cũng nhƣ có phê bình thêm về qui tắc bỏ dấu của một tác

giả khác nữa là Đoàn Xuân Kiên3 sau khi đã nêu ra các đặc

điểm ngữ âm của tiếng và chữ Việt.

Bài viết này không nhằm mục đích đánh giá lại cái qui tắc của

Vũ Xuân Lƣơng bằng các phƣơng pháp khoa học nhƣ Dũng Vũ

đã làm mà chỉ có ý đƣa ra vài suy nghĩ về văn hóa và ngƣời

làm văn hóa Việt Nam.

Cần biết rằng vietlex.com là trang web chính thức của Trung

Tâm Từ Điển Học,4 một trung tâm của nhà nƣớc và đảng

CSVN, nên những bài viết, những qui luật mà trung tâm này

phổ biến sẽ có ảnh hƣởng rất sâu rộng trong tầng lớp sinh viên

học sinh và giáo viên cũng nhƣ giới trí thức trong nƣớc. Chắc

1 http://vietlex.com/lib/compuLinguistics/quytacbodau.htm

2 tìm thấy trên trang web Mạng Giáo Dục của Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo Việt Nam

(http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/276086.aspx) nhƣng khởi thủy là đăng trên trang web của Talawas:

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7657&rb=06 3 bài “Bàn về chuyện "đánh dấu thanh" trong tiếng Việt” cũng tại Talawas:

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=94&rb=07 4 địa chỉ: Số 2 Ngõ Hàng Bún, Hà Nội

Page 2: Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt

chắn rằng cái qui tắc này đã trở thành qui luật ở những tòa soạn

báo chí, ở những nhà xuất bản, ở những cơ sở đang làm công

việc chuyển văn bản thành dữ liệu điện toán và đang dần biến

thành thói quen của mọi tầng lớp dân chúng khi phải “đánh

máy”.

Một số trí thức trẻ hải ngoại cũng bị thuyết phục hoặc bị mê

hoặc bởi cái qui tắc này sau khi họ thắc mắc về cách đánh dấu

tiếng Việt, truy tìm bài viết về vấn đề này trên Internet và chỉ

thấy bài của Vũ Xuân Lƣơng là đơn giản, là có vẻ có qui luật

và dễ nhớ nên áp dụng theo. Còn bài viết của Dũng Vũ thì quá

phức tạp, chứng minh dài dòng, lại có mấy cái biểu đồ cái nào

cũng giống cái nào, chả biết đƣa ra để làm gì, bèn không đọc

kĩ, hoặc có đọc cũng chả hiểu bèn bỏ qua, hoặc cho rằng tác giả

(DV) là một ngƣời khoe mẽ, ra cái điều hiện đại có máy móc

ghi biểu đồ tần số âm thanh, bèn có ác cảm với tác giả và

không quan tâm chứ đừng nói tới áp dụng các đề nghị của tác

giả.

Rồi lại có bài của Cao Xuân Hạo đánh giá rất cao bài viết của

Dũng Vũ cũng tại trang web Mạng Giáo Dục nói trên. Nhƣng

đây cũng lại là một bài viết dài dòng văn tự, chủ yếu để trình

bày các phát kiến của ông (CXH) trong lãnh vực gọi là “âm vị

học” của tiếng Việt (và cũng phần nào muốn tỏ ra rằng học

sinh ngày trƣớc ở miền Bắc đã đƣợc học một thứ tiếng Việt

hiện đại hơn miền Nam, do công của ông).

Và điều quan trọng nhất là chƣa một vị học giả có tên tuổi nào

đứng ra kêu gọi hay đề xuất một qui tắc bỏ dấu đơn giản cho xã

hội sử dụng ngoài “giáo sƣ” Hoàng Phê và “chuyên viên” Vũ

Xuân Lƣơng. (Các dấu ngoặc kép ở đây có lý do của nó, xin

đƣợc trình bày sau.)

Page 3: Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt

Kể cũng đúng thôi, vấn đề đánh dấu giọng này mà các vị trí

thức lão thành thƣờng cho là khỏi phải bàn -- vì xƣa nay đã ổn

rồi -- nên không cụ nào lên tiếng. Các cụ không thể nào tƣởng

tƣợng là ngày nay lại có kẻ dám sửa lại những điều cha ông đã

làm thành thói quen, thành qui luật từ bao lâu nay, nên khi có ai

đó giúp các cụ “đánh máy”, in ra thấy kì kì thì các cụ cũng chỉ

lắc đầu bảo tụi trẻ bây giờ đánh máy kém quá, lỗi tùm lum,

hoặc các cụ cho là máy điện toán không dễ dùng nhƣ máy đánh

chữ, rồi các cụ đành chịu vì có yêu cần sửa lại cũng rất khó

khăn, thôi thì có chữ đọc là đƣợc rồi, không nhằm nhò gì ba cái

dấu chỗ này chỗ kia.

Thế mà không đơn giản nhƣ các cụ tƣởng, sau lƣng các cụ

ngƣời ta đang tìm mọi cách để chứng minh là những gì -- tất cả

những gì -- mà các cụ và cha anh các cụ đã làm đều sai, đều dở,

đều tệ hại và cần phải đƣợc sửa lại.

Với cái tựa đề “Quy tắc đánh dấu...” cứ y nhƣ là “qui tắc giao

thông” vậy, nó có vẻ khẳng định đây là những qui tắc đã đƣợc

đề ra bởi cơ quan chức năng sau những nghiên cứu, dùng thử

và đánh giá nghiêm túc. Nhƣng không phải vậy.

Đƣợc đăng trên một trang web nhƣ thế, nó sẽ làm ngƣời đọc

tƣởng đây là quyết định hay nghị định gì gì đó mới ra của “Hàn

Lâm Viện Ngôn Ngữ Việt Nam”, một cơ quan mà sau hơn 30

năm xây dựng “một quê hƣơng giàu đẹp”, một đất nƣớc “độc

lập tự do hạnh phúc” ắt là phải có mặt và hoạt động để hƣớng

dẫn ngƣời dân sử dụng ngôn ngữ tự do trong vòng tiến bộ để

ngôn ngữ ngày càng đẹp hơn hầu đem lại nhiều hạnh phúc hơn

cho nhân dân trên cái quê hƣơng đó. Nhƣng hình nhƣ cái cơ

quan đó chƣa hề tồn tại hoặc có tồn tại mà chƣa hề hoạt động.

Page 4: Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt

Và qua các mâu thuẫn trong lập luận, áp đặt trong kết luận, cái

“quy tắc” này đã nói lên một cái gì khác ngoài vấn đề chữ

nghĩa.

Những “quy tắc” tưởng chừng “mới”.

Bản qui tắc của Vũ Xuân Lƣơng có vẻ rất đơn giản chỉ với 4

trang giấy in mà gồm đủ các qui tắc và phần giải thích lý do

phải áp dụng, chƣa kể phần mào đầu và phần định nghĩa các

thuật ngữ trong lãnh vực ngữ âm học. Sự đơn giản này hấp dẫn

giới trẻ vốn thích những gì thực tế.

Bản qui tắc này gồm 5 qui tắc, xin tóm lƣợc nhƣ sau:

1. , “thì dấu thanh đƣợc đặt vào nguyên âm đó. Vd: á à, ì ạch, ọ ẹ, ủ rũ, ọp ẹp, ục ịch, hà, lán, giá, giục, quả, quỹ, quỵt... (u và i trong gi và qu không đƣợc kể là nguyên âm mà hợp với g và q thành các tổ hợp phụ âm.)” (trích nguyên văn)

2 (gọi là “dấu âm” thì đúng hơn – HĐ chú) nhƣ Ă, Â, Ê, Ô, Ơ, Ƣ “thì dấu thanh đặt ở nguyên âm mang dấu phụ đó (riêng ƢƠ, dấu đặt ở Ơ). Vd: ế ẩm, ồ ề, ở rể, ứ ừ,

...” 3.

. Vd: choàng, hoạch, loét, quẹt, suýt, thoát, xoèn xoẹt...”

4. oa, oe, uy. Vd:

, thuỷ...” 5. y ba nguyên âm oa, oe, uy

. Vd: ...”

Ngoài qui tắc số 4 thì 4 qui tắc kia đƣa đến kết quả giống hệt

với cách bỏ dấu xƣa nay của cha anh chúng ta trƣớc khi những

“ngƣời con ƣu tú” bắt đầu “chỉ đạo văn hóa” của dân tộc. Tất

Page 5: Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt

cả những ai đã từng quen với chiếc máy đánh chữ hoặc đọc

nhiều sách báo cũ đều thấy rằng sách báo hiện tại dƣới sự chỉ

đạo của “đỉnh cao trí tuệ” của Đảng có cách xếp chữ chẳng

khác gì ngày trƣớc. Vì sự xuất hiện của các vần oa, oe, uy rất

hiếm nên thƣờng không ai thấy có sự khác biệt.

Vậy nên mới nói “mới mà không mới”.

Áp đặt võ đoán

Theo cách xếp chữ cũ (từ nay xin gọi là cách bỏ dấu truyền

thống), thì dấu giọng sẽ bỏ trên mẫu-tự-nguyên-âm áp chót nếu

vần kết thúc bằng 2 mẫu tự nguyên âm trở lên. Nói “mẫu tự

nguyên âm” là để kể cả “y” vào trong trƣờng hợp này. Thế nên

cách truyền thống viết “hóa, xòe, súy” chứ không phải cải cách

thành “hoá, xoè, suý” nhƣ qui tắc 4 của VXL.

Lý giải cho sự “cải cách” này, tác giả VXL đã phải áp đặt qui

luật dấu thanh phải được đặt trên nguyên âm mà không giải

thích tại sao lại cần phải nhƣ vậy. (Mặc dù chƣa bao giờ có ai

đặt dấu trên phụ âm tiếng Việt ngoại trừ khi viết tắt: “Ngã” hay

“ngø” thay cho “Nguyễn, ngƣời” chẳng hạn. Hoặc có ngƣời

khi viết tắt lại bỏ dấu vào khoảng không: Ng ã hay ng ø

chẳng hạn.) Tuy không minh thị xác định rằng mình đang áp

dụng qui luật này, nhƣng một khi tác giả chỉ dựa vào tính năng

của mẫu tự nguyên âm (âm nguyên, âm bán-nguyên...) để phân

tích và lý luận, ngƣời đọc ắt nhận ra cái qui luật trên là chủ đạo

cho lập luận của tác giả.

Trong thực tế phát âm, khi gặp một từ (hay còn gọi là “tiếng”,

hay “âm tiết” nhƣ VXL dùng) có phụ âm cuối thì thanh điệu

(biểu thị bằng dấu thanh) bao trùm cả phần phụ âm này, tức là

thanh điệu bao trùm toàn thể một vần. Có thể thẩm định điều

Page 6: Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt

này bằng cách đọc to vài từ sau: “uống, bình, ủng, liễn, đoạn”.

Vậy dấu thanh vẫn có thể đặt vào phụ âm cuối chứ. Dấu-thanh-

phải-đặt-trên-nguyên-âm chẳng qua chỉ là một qui ước xƣa nay

chứ chưa bao giờ là qui luật tự nhiên cả. (Chính Cao Xuân

Hạo cũng đã nói nhƣ vậy trong bài viết của mình.) Và rõ nhất

là khi ráp vần để tập đọc, chúng ta luôn dạy học trò bỏ dấu sau

cùng: “Lờ ƣ lƣ ơ lƣa ngờ Lƣơng huyền Lƣờng”, chứ đâu có ai

ráp “Lờ ƣ lƣ ơ lƣa huyền lừa ngờ Lƣờng” đâu.

Nhƣng vì “dấu phải đƣợc đặt trên nguyên âm” nên xuất hiện

vấn đề khi gặp từ có hai nguyên âm trở lên thì đánh dấu ở đâu.

Để giải quyết, tác giả phải vận dụng tới khái niệm “bán nguyên

âm” là khái niệm khá quen thuộc đối với những ngƣời đã từng

học ngoại ngữ. Do có vẻ quen thuộc nên họ dễ chấp nhận.

Nhƣng đây cũng là một khái niệm mơ hồ đối với họ vì mấy ai

khi học ngoại ngữ lại định nghĩa đƣợc rõ ràng “bán nguyên

âm” là gì. Rồi lại xuất hiện thuật ngữ “bán phụ âm”. Quả thực

nghe cũng có vẻ quen thuộc vì đã có bán nguyên âm thì phải có

bán phụ âm chứ. Và một khi gặp đám hỏa mù thuật ngữ nhƣ

vậy, những “kẻ ngoại đạo” đối với lãnh vực ngữ âm đành có

cảm giác bị khuất phục.

Các nhận định về ngữ âm chỉ dựa trên mặt chữ.

Tính năng của 2 mẫu tự đồng âm “i” và “y” khi đi sau nguyên

âm đƣợc tác giả của qui tắc giải thích:

“Với con chữ I, cũng tƣơng tự, nó vừa dùng để viết nguyên

âm i (im ỉm, in ít...), vừa dùng để viết bán phụ âm i đóng vai

trò là âm cuối trong các trƣờng hợp nhƣ: tai tái, cày cấy,

táy máy...”

Page 7: Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt

Rõ ràng vì tác giả không muốn đặt dấu trên mẫu tự “i” hay “y”

ở cuối nên phải đặt cho chúng cái chức năng làm “bán phụ âm”

bất chấp những mẫu tự này vang lên rõ thế nào khi đƣợc phát

âm. Nếu tác giả chịu khó ngồi phát âm các từ trong ví dụ của

chính mình thì chắc tác giả cũng thấy âm [i] của mẫu tự “y”

trong từ “táy máy” ngân vang rất rõ ràng sau một âm [a] cụt

lủn. Nếu tác giả gọi chữ “a” trong trƣờng hợp này là “bán

nguyên âm” thì may ra còn chấp nhận đƣợc. Nhƣng gọi “y” là

“bán phụ âm” thì đúng là tác giả chƣa hề nghe ai nói hay đọc 2

từ “táy máy”.

Trƣờng hợp “tai tái” thì mặc dù âm [i] phát ra không rõ ràng

nhƣ âm [a] đi trƣớc nó nhƣng [i] này cũng không đến nỗi cụt

mà gọi nó là bán âm này kia. Thực ra cặp “ai” là một nguyên

âm ghép (còn gọi là “nhị trùng âm”). Một âm nguyên đƣợc

phát ra rõ ràng mà lại gọi là “bán phụ âm” thì rõ ràng tác giả

chỉ nhìn mặt chữ mà xác định tính năng của từng mẫu tự mà

thôi.

Tƣơng tự là sự lầm lẫn về chữ “o” hay “u” cuối từ. Tác giả nói:

“Khi dùng O và U để viết w đóng vai trò là âm cuối trong các

trƣờng hợp nhƣ đào hào, báo cáo, táo, đau, rau câu... thì gọi là

bán phụ âm.”

Câu của tác giả hơi tối nghĩa, xin mạn phép “dịch” lại nhƣ sau:

“Khi mẫu tự “o” hoặc “u” đƣợc dùng để viết âm [w] ở cuối âm

tiết nhƣ trong các trƣờng hợp “đào hào, báo cáo, đau, rau

câu...” thì đƣợc gọi là các bán phụ âm.”

Điều đáng khen là tác giả đã nhận ra rằng tuy “o” và “u” đƣợc

viết 2 kiểu khác nhau nhƣng lại đƣợc phát âm giống nhau là

[w] tuy điều này chƣa đúng hẳn. Nhƣng vẫn không thể bảo

Page 8: Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt

rằng tác giả đã nghe kĩ những tiếng trong ví dụ của mình: Vì

chúng chỉ khá giống nhau thôi. Âm cuối của “đào” quả thực

nửa [o] nửa [u] nên có thể tạm chấp nhận là “bán nguyên âm” -

- vì ở cuối nên tác giả gọi là “bán phụ âm”? -- nhƣng mẫu tự

“u” của “đau” thì vang rõ ràng âm [u], chỉ có âm [a] phía trƣớc

là cụt lủn giống trƣờng hợp a cụt của “táy máy” ở trên. Gọi “u”

này là bán phụ âm thì cũng sai nhƣ trƣờng hợp “y” cuối của

“táy máy”.

Nói thêm cho rõ

Nếu để ý ai cũng thấy ngay “ă” chẳng qua chỉ là [a] ngắn, “â”

chẳng qua chỉ là [ơ] ngắn. Trong ký âm ngôn ngữ, không có

một ký hiệu riêng và cụ thể để diễn tả âm ngắn,5 thế nên những

ngƣời tặng dân tộc ta chữ quốc ngữ đã phải dùng tới dấu trăng

(cho chữ ă) để chỉ âm ngắn của [a]; và đặt dấu mũ trên đầu “a”

thành “â” làm âm ngắn của [ơ], không lẽ đặt dấu trăng lên đầu

“ơ” để tạo thành một “cục dấu” nhƣ vầy: “ôê”.

Nếu để ý tiếp thì cũng thấy ngay rằng “i” và “y” đều mang âm

nguyên [i]; và rằng “y” làm nguyên âm trƣớc nó ngắn lại, còn

“i” thì không. Thế nên “táy máy” chẳng qua chỉ là “tắi mắi” mà

thôi. Đã gọi “ă” là nguyên âm thì phải gọi “ăi” là nguyên âm

đôi, và âm [i] cuối là nguyên âm, không có bán phụ âm, bán

nguyên âm gì ở đây hết.

Trƣờng hợp của “uy” cũng thế. Vì “u” bị “y” làm ngắn lại nên

đọc giống bán nguyên âm [w]. Nếu dùng dấu trăng để làm ngắn

một âm, có thể viết “tuy” thành “tuêi”. Và “y” cuối vẫn vẫn

ngân vang rõ ràng do đó nó phải là âm nguyên [i].

5 Nhà xuất bản Webster đã có cách phiên-âm âm-ngắn bằng một ký tự nhỏ hơn, và nằm cao hơn các ký tự thƣờng

khác. Ví dụ chữ “but” đƣợc phiên là [bEt], đọc khác với [bEs] của “bus”. Nhƣng một ký tự nhỏ xíu nhƣ thế thì

không phù hợp để dùng trong chữ viết.

Page 9: Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt

“U” đi sau cũng làm “a” ngắn lại. Nếu không vậy, “đau” sẽ

đƣợc phát âm rất giống “đao”. Vậy “đau” đƣợc phát âm là

“đău”, và “u” ở đây vẫn là nguyên âm vì vang rất rõ ràng.

Riêng “tây” thì đúng ra chỉ cần viết “tâi” là đƣợc, vẫn đủ phân

biệt với “tơi” mà không cần đến “y”. Thế nhƣng “thói quen là

chủ nhân ông của ngôn ngữ” -- lời giáo sƣ Lê Ngọc Trụ trong

“Việt Nam Chính Tả Tự Vị” in năm 1957 --, không cần phải

sửa “tây” thành “tơy” hoặc thành “tâi” làm gì để rồi lại phải rắc

rối với những cuốn sách in trƣớc “cải cách hiện đại” này. Và

cũng không cần tới khái niệm “bán phụ âm” ở đây. “Y” trong

trƣờng hợp này vẫn là âm nguyên [i].

Nói đến “cải cách hiện đại”, cần rút kinh nghiệm ngƣời Trung

Hoa: dân chúng đã không tỉnh táo khi Mao cho sửa lại chữ viết

của họ, bảo là để giản tiện hơn khi viết6. Thoạt đầu thì “đại

thành công” vì con nít học kiểu chữ mới rất nhanh, tƣởng rằng

xóa mù chữ cả nƣớc đến nơi. Nhƣng cho đến khoảng những

năm 90 thì có chuyện cƣời ra nƣớc mắt:

Số là có một giáo sƣ Hán học ngƣời Việt nọ đƣợc đi du lịch

Trung Quốc. Vì là du lịch rẻ tiền nên ông đƣợc đƣa đi thăm thú

ở làng quê Trung Hoa nhiều hơn là ở thành thị. Thế là ông giáo

sƣ này gặp may. Sau gần nửa thế kỷ dùng chữ mới, những

ngƣời đọc đƣợc chữ cũ càng ngày càng ít đi, ở thôn quê lại

càng thậm tệ vì các nông dân vốn đã mù chữ từ trƣớc, chỉ còn

đám trẻ đƣợc đi học nhƣng lại học chữ mới. Cha hỏi con rồi

con hỏi cha mỗi khi họ giở các cuốn gia phả hoặc giấy tờ kinh

sách cũ của các đình chùa miếu mạo ra xem mà chả hiểu gì

mấy. Thấy ông giáo sƣ ngƣời Việt ung dung đứng trƣớc cổng

một ngôi chùa, thƣởng thức ngâm nga các câu đối, các bài thơ 6 và đặt tên kiểu ký tự mới này là “giản thể” đối lại với kiểu cũ gọi là “phồn thể”.

Page 10: Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt

khắc trên tƣờng trên cột đã rêu phong mốc thếch, họ nhƣ bắt

đƣợc vàng nghĩ ngay đến chuyện nhờ ông ta giải thích hộ

những chữ quái gở trong gia phả hay ngay trong nhà họ. Thế là

tranh nhau, những ngƣời Trung Hoa ấy mời ông Việt Nam về

nhà, về chùa, đãi đằng đủ thứ, dọn chỗ cho ở, cung cấp ngƣời

hầu hạ, để ông ngoại quốc này thoải mái đọc giùm họ chữ của

họ và ghi lại bằng thứ chữ “cải cách” để họ giữ gìn. Chả hiểu

ông giáo sƣ nọ ở lại ngôi làng đó bao lâu và giúp đƣợc bao

nhiêu ngƣời có gia phả ở thôn đó. Chỉ biết là một khi văn hóa

bị “lãnh đạo” thì hậu quả của nó không xảy ra ngay đâu, nhƣng

đã xảy ra rồi thì tai hại khôn lƣờng. Còn những kẻ lãnh đạo

Trung Hoa hiện nay thì không tội gì vạch áo cho ngƣời xem

lƣng, thế giới sẽ chẳng bao giờ biết văn hóa và văn minh xứ

này đã đi lạc đến đâu.

Sai lầm khi gọi “o, u” trong “oa, oe, uy” là bán nguyên âm

Ai có biết về hệ thống phiên âm quốc tế đều thấy đúng là “hoa”

đƣợc phát âm là [hwa]. Và một học sinh lớp 6 cũng nhận ra

ngay trong trƣờng hợp này “o” = [w]. Vũ Xuân Lƣơng cũng

nhận ra điều này và mau mắn đem áp dụng thành qui tắc.

Nhƣng tất cả mọi ngƣời Việt Nam (trừ 2 ông tổ ngữ âm Vũ

Xuân Lƣơng và Hoàng Phê) đều biết “oa” không hề đƣợc phát

âm là [wa] mà vẫn cứ phải là [Ca]7: âm [C] đƣợc phát rất cứng

trong từ này. Cũng không ai nói “ủy ban” là [wỉ ban]. Nếu

không thì ngƣời Nam Bộ đã viết thành “quỉ ban” rồi. Thế nên

một ngƣời Việt Nam dù giỏi tiếng Anh đến đâu đi nữa thì cũng

không bao giờ tƣởng tƣợng đƣợc “Uyn-xơn” lại là tên một vị

tổng thống Mỹ (Wilson), “phố Uôn” lại là Wall-Street. Khi đọc

báo thấy những chữ “thủ đô Oa-sinh-tơn” thì ai cũng cƣời tủm;

7 ký hiệu C ngƣợc dùng để phiên âm o.

Page 11: Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt

và khi xƣớng ngôn viên đài truyền hình VTV1 đọc rất rõ “Oa-

xinh-tơn” (âm [C] của cô rất cứng và âm [s] thì trong vắt đến

độ phải viết là “x”) thì nhiều ngƣời đã phải bụm miệng chửi

thề. Còn dân mê bóng đá thì phải tập làm quen với chữ “Uôn

cắp” nhan nhản trên mặt báo và ra rả trên ti vi mỗi 4 năm một

lần, rồi dĩ nhiên sẽ rất nhiều ngƣời (nhƣ Vũ Xuân Lƣơng) sẽ

suy ngƣợc ra rằng “U” và “O” chính là “W”!!!

Theo VXL, không đƣợc đánh dấu thanh trên con chữ “o” trong

“oa” vì nó không phải là nguyên âm. Bây giờ đã rõ nó là

nguyên âm thì dấu huyền trong chữ “òa” sẽ đƣợc đặt ở đâu?

Vì cố gắng đƣa ra qui tắc đặt dấu thanh dựa trên các nguyên tắc

ngữ âm và muốn các qui tắc của mình mang tính nhất quán để

lý giải mọi trƣờng hợp nên VXL đã có những lúng túng và

nhận định sai lạc trên. Thực ra chữ Việt là một hệ thống ký

hiệu phiên âm. Các con chữ, dấu âm và dấu giọng cũng làm

nhiệm vụ giống với các ký hiệu trong ký âm pháp âm nhạc:

hình dáng thế nào, đặt ở đâu, để ghi hiệu quả gì là hoàn toàn do

qui ước cả. Mà đã là qui ƣớc thì điều quan trọng nhất là sự

phân biệt không gây lẫn lộn và kế tiếp là cần phải đơn giản

và/hoặc mang tính trực quan để dễ sử dụng, ngoài ra đôi khi

phải chấp nhận một vài ngoại lệ hoặc vô lý. Lấy thí dụ, xét về

mặt nhạc lý, khoảng cách cao độ từ Rê lên Mi là một cung, viết

trên dòng kẻ nhạc thì nốt Mi nằm trên nốt Rê một nấc. Nhƣng

Fa cao hơn Mi chỉ có nửa cung thôi mà tại sao lại viết nốt Fa

nằm trên nốt Mi cũng một nấc chứ không phải nửa nấc? Hóa ra

nếu áp dụng nhạc lý vào ký âm pháp thì đôi khi không đúng.

Tƣơng tự, áp dụng cứng nhắc nguyên tắc ngữ âm vào chữ viết

thì cũng có khi không đƣợc. Ngữ âm học là một khoa học tự

nhiên liên quan tới cơ chế phát âm nhƣng chính tả lại thuộc

Page 12: Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt

lãnh vực xã hội và chỉ là các qui ƣớc, phần nhiều dựa trên thói

quen của ngƣời sử dụng. Nhƣng vì chính tả lại ảnh hƣởng

ngƣợc đến cách phát âm của ngƣời dùng nó nên các qui ƣớc

đƣa ra phải chặt chẽ và hợp lý trong chừng mực nào đó để mọi

ngƣời có thể chấp nhận. Vì thế cho đến nay mặc dầu tuyệt đại

đa số ngƣời Hà Nội nói “Em giất xung xƣởng đƣợc chân chọng

mời bác vào nhà xơi chẻn giệu” cũng không thể cứ thế mà viết

ra để rồi hợp thức hóa luôn cái giọng nhà quê đó làm giọng

chuẩn của “thủ đô ngàn năm văn vật”.

Những nhƣợc điểm trong nhận định của VXL lồ lộ ra đấy mà

Hoàng Phê không thấy thì hai chữ “giáo sƣ” ở phần tƣớc hiệu

của ông nên đƣợc để vào trong ngoặc kép là vì vậy.

Điều lạ lùng là kết quả việc suy luận của tác giả VXL lại là 4

qui tắc giống y hệt với chính tả truyền thống. Nhƣng may mắn

này lại không xảy ra với qui tắc còn lại cho trƣờng hợp “oa, oe,

uy”. Và để tạm kết thúc, thiết tƣởng các qui tắc chính tả truyền

thống về cách đặt dấu giọng nên đƣợc ghi lại nhằm chứng minh

tính đơn giản và rõ ràng của cha ông ta.

Ưu tiên 1: dấu âm (dấu trăng: ă, dấu mũ: â, ê, ô, và râu: ơ, ƣ)

và dấu giọng luôn đi chung: thuở, trời, đất, nổi, nhiều, thửa,

thấy, thuốc, gửi, oằn, tuổi, tội, tuyết; Nếu có 2 mẫu tự mang

dấu âm (ƣơ) thì dấu giọng đi với mẫu tự sau (ơ): ngƣời, lƣợt,

cƣỡi, tƣởng...

Ưu tiên 2: vần có phụ âm cuối thì dấu đi với nguyên âm cuối:

oán, loét, cát...

Ưu tiên 3: vần là nguyên âm ghép đôi hay ghép ba thì mang

dấu giọng ở nguyên âm áp chót: ngoèo, hỏi, hóa, của, khuỷu,

hoài, ngoáy, cái, áo, kéo, đỉa, xỉu, xòe, chúa, núi, tủy...

Page 13: Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt

Chú ý: đƣơng nhiên phụ-âm-ghép “qu” và “gi” không mang

dấu (vì chúng là... phụ âm), dấu đặt bình thƣờng theo các ƣu

tiên trên:

- quả, què, quì, quý, quẹo, quái, quào, quở, quới, quyệt...

- giả, gié, gió, giặt giũ.

Nhƣng khi “g” đi trƣớc “i” nguyên âm hoặc trƣớc nguyên-âm-

ghép với “i” (khi này “g” có cùng cách phát âm với “gi”) thì

theo các ƣu tiên trên: gì, gỉ sét, giết (không đọc là dết), giặt gịa

khác với giạ lúa, không cần sửa thành “giặt dịa”, cũng nhƣ

không cần sửa “giấu giếm” thành “giấu diếm”.8

Qui tắc đặt dấu giọng của tiền nhân không hề lấy yếu tố thẩm

mỹ làm nguyên tắc chủ đạo (nhƣ những ngƣời làm tin học vẫn

tƣởng và áp đặt cái tên “kiểu thẩm mỹ” cho nó) mà chỉ cốt làm

sao cho thật đơn giản và dễ nhớ. Quả thật nó rất thống nhất nên

không cần phải động não nhiều mỗi khi đánh máy, không phải

phân vân xem dấu nên đặt ở đâu. Thế nhƣng nay thì phải phân

vân rồi, không những phân vân, còn phải tranh luận xem nó

phải đƣợc đặt ở đâu nữa.

Các vấn đề “cải cách” về dấu, về hình dáng con chữ9, của

những ngƣời làm văn hóa ở Việt Nam ngày càng chứng tỏ họ

chỉ là những kẻ duy ý chí mà lại cứ hay đƣa ra các lý luận có vẻ

khoa học, có vẻ “lô-rích” để biện giải cho sự phá hoại của

mình. Họ thay đổi không chỉ vì họ muốn thay đổi, nguyên nhân

sâu xa của cái ý muốn thay đổi mọi thứ của họ chẳng qua chỉ là

8 Nhƣng để ghi chữ có âm là [zết] trong [túi zết], cần phụ âm đầu là “gi” và viết “giết” thì lại đọc là [ziết] mất, đành

phải ghi là “dết”, hỏng mất phụ âm đầu. Đây là một nhƣợc điểm thƣờng có trong bất kỳ bộ môn xã hội nào.

(revised on Nov 6th ’07) 9 Cuộc cải cách về hình dạng chữ viết tay đã từng là một “thành công, thành công, đại thành... gà bới” ở VN, ai đã

từng làm nghề giáo trong nƣớc vào thập niên 80 đều có thể làm chứng điều này. Chỉ tội nghiệp, đa số thanh niên độ tuổi 30 bây giờ không dám viết thƣ tay gửi ngƣời yêu.

Page 14: Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt

sự kiêu ngạo, muốn đƣợc xã hội vinh danh là những ngƣời có

những cải tạo lớn lao cho văn hóa nƣớc nhà.

30/10/07

Hồng Đức