39
Chuyên đề 1 VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ÐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ CỦA ÐẢNG BỘ TỈNH ÐỒNG NAI TS. Huỳnh Văn Tới UVTV, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Báo cáo viên Trung ương I. VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ÐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 1. Tình cảnh Việt Nam trước khi có Đảng Tháng 9 - 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, từng bước thiết lập chế độ thống trị rất tàn bạo, hà khắc và phản động của chủ nghĩa thực dân. Việt Nam từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến; hai mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu trong xã hội ngày càng gay gắt. Đó là, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lược và giữa nhân dân ta chủ yếu là nông dân với bọn địa chủ, phong kiến tay sai, chỗ dựa của thực dân Pháp. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam đã liên tiếp nổi dậy chống ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân dưới ngọn cờ của những sĩ phu yêu nước theo nhiều khuynh hướng khác nhau; từ phong trào Cần Vương, các cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám đến phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, khởi nghĩa Yên Bái nhưng tất cả đều thất bại vì không có một đường lối cứu nước đúng đắn, không thể đoàn kết và phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc. Cách mạng Việt Nam đứng trước sự bế tắc và khủng hoảng về đường lối cứu nước. 1

CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

  • Upload
    lekhanh

  • View
    222

  • Download
    1

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

Chuyên đề 1VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ÐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAMVÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ CỦA ÐẢNG BỘ TỈNH ÐỒNG NAI

TS. Huỳnh Văn Tới UVTV, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

Báo cáo viên Trung ương

I. VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ÐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM1. Tình cảnh Việt Nam trước khi có Đảng

Tháng 9 - 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, từng bước thiết lập chế độ thống trị rất tàn bạo, hà khắc và phản động của chủ nghĩa thực dân. Việt Nam từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến; hai mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu trong xã hội ngày càng gay gắt. Đó là, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lược và giữa nhân dân ta chủ yếu là nông dân với bọn địa chủ, phong kiến tay sai, chỗ dựa của thực dân Pháp.

Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam đã liên tiếp nổi dậy chống ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân dưới ngọn cờ của những sĩ phu yêu nước theo nhiều khuynh hướng khác nhau; từ phong trào Cần Vương, các cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám đến phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, khởi nghĩa Yên Bái nhưng tất cả đều thất bại vì không có một đường lối cứu nước đúng đắn, không thể đoàn kết và phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc. Cách mạng Việt Nam đứng trước sự bế tắc và khủng hoảng về đường lối cứu nước.

Ngày 5/6/1911 người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (sau này là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu nước. Người đã đi qua nhiều nước của Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ và đã phát hiện ra chính chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân, đế quốc là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các thuộc địa.

Năm 1917, Người trở lại nước Pháp. Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6/1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước, với tên gọi là Nguyễn Ái Quốc, Người gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Versailles với nội dung yêu cầu chính phủ Pháp công nhận các quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Trong “Bản yêu sách của nhân dân An Nam”, Nguyễn Ái Quốc đã đòi “thay đổi chế độ sắc luật bằng chế độ luật…”. Và Người đã diễn dịch nội dung của Yêu sách của nhân dân An Nam thành một bài thơ lục bát với tựa đề “Việt Nam yêu cầu ca” để cổ vũ phong trào yêu nước trong giới kiều bào tại Pháp; điều thứ 7

1

Page 2: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

của “Việt Nam yêu cầu ca” trong yêu sách đó là “Bảy xin Hiến pháp ban hành/ Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”1.

Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc “Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và từ tư tưởng đó, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Đây là bước ngoặt quan trọng đối với cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và cũng là bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Người rút ra chân lý: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì trước hết phải có “Đảng cách mệnh” để “trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”.

Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập) và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam; đây là sự kiện đánh dấu bước chuyển quan trọng của con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.

Để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng; Nguyễn Ái Quốc đã từng bước chuẩn bị tiền đề về chính trị, tư tưởng, tổ chức.

Về chính trị, tư tưởng: Người xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam.

Năm 1921, Người sáng lập “Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa” để đoàn kết các dân tộc bị áp bức chống đế quốc. Năm 1922, Hội ra tờ báo “Người cùng khổ”. Người đã viết nhiều bài báo, nhiều tham luận tại các đại hội, hội nghị quốc tế, viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và tổ chức ra các tờ báo Thanh niên, Công nông, Lính kách mệnh, Tiền phong, nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.

Giữa năm 1923, Người rời nước Pháp sang Liên Xô để tiếp thu lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm hiểu kinh nghiệm của cách mạng Tháng Mười. Nhờ đó, nhận biết của Người về lý luận và thực tiễn nói chung, kinh nghiệm của cách mạng Tháng Mười nói riêng được sâu sắc hơn, giúp giải đáp đúng đắn vấn đề mà Người rất quan tâm, đó là con đường cứu nước của cách mạng Việt Nam, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác phẩm “Đường Kách mệnh” (tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 1, tr. 438 - 439.2

Page 3: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên). Đó là sự chuẩn bị về đường lối chính trị tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định, muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo, Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.

Về tổ chức và cán bộ: Người lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu, Trung Quốc và gửi đi học tại trường Đại học Phương Đông (ở Liên Xô cũ) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Nhờ hoạt động không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà những điều kiện thành lập Đảng ngày càng chín muồi.

2. Thành lập Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng Việt Nam

2.1. Các tổ chức Đảng ra đời

Ngày 17/6/1929, những đảng viên trong Chi bộ Cộng sản 5D Hàm Long tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Ngày 25/7/1929, tổ chức An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ. Tháng 9/1929, tổ chức Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ. Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam; tuy nhiên yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một Đảng thống nhất để tạo ra sức mạnh lãnh đạo cách mạng thành công.

Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc. Hội nghị bắt đầu họp ngày 6/1/1930 và từ ngày 3 đến 7/2/1930, Hội nghị đã quyết định hợp nhất 3 tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.  

Trong Cương lĩnh đầu tiên của mình, Đảng ta đã xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ của

3

Page 4: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

cách mạng Việt Nam là chống đế quốc, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng; là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; được lịch sử giao cho sứ mệnh nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của Đảng với hệ thống tổ chức chặt chẽ và cương lĩnh cách mạng đúng đắn đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối lãnh đạo cách mạng kéo dài mấy chục năm đầu thế kỷ XX. "Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”1. Đảng ra đời làm cho cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Từ đây giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam tham gia một cách tự giác vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới.

2.2. Đảng đã lãnh đạo đấu tranh và khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Với đường lối cứu nước đúng đắn; quan điểm đúng đắn “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp lực lượng quần chúng, mà nòng cốt là liên minh công - nông, Đảng ta đã quy tụ đoàn kết xung quanh mình tất cả các giai cấp và tầng lớp yêu nước không phân biệt dân tộc, tôn giáo; xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp trong cả nước đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và bọn phong kiến tay sai. Qua 15 năm (1930 - 1945) lãnh đạo cách mạng, trải qua đấu tranh gian khổ, mặc dù gặp phải những tổn thất to lớn nhưng Đảng vẫn giữ vững ý chí chiến đấu, kiên định cách mạng, trung thành với mục tiêu lý tưởng của mình. Nổi lên ba cao trào cách mạng lớn: phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931), phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936 - 1939), cao trào giải phóng dân tộc (1939 - 1945) là ba cuộc tổng diễn tập cách mạng chuẩn bị lực lượng, tạo cơ sở giành thắng lợi cho cuộc chiến đấu mới. Nắm chắc thời cơ lịch sử, với nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng ta chỉ có 5.000 đảng viên nhưng đã lãnh đạo 25 triệu đồng bào trong cả nước tiến hành Tổng khởi nghĩa thành công giành lại độc lập dân tộc từ tay phát xít Nhật và thực dân Pháp. Chỉ trong một thời gian ngắn, nhân dân Việt Nam đã vùng lên đập tan xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân, lật nhào chế độ phong kiến tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân.1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr. 8

4

Page 5: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đưa dân tộc ta bước sang một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do tiến lên CNXH. Đánh giá ý nghĩa lịch sử của thắng lợi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc".

2.3. Đảng lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), ý nghĩa lịch sử của thắng lợi

Cách mạng vừa thành công, chính quyền nhân dân vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bị các nước đế quốc, các thế lực phản động cấu kết với nhau chống phá rất quyết liệt hòng tiêu diệt chính quyền cách mạng còn non trẻ. Nhà nước ta lúc này hết sức khó khăn: Nền kinh tế nghèo nàn, nạn đói hoành hành, đất nước bị bao vây bốn phía; vận mệnh của Tổ quốc như "ngàn cân treo sợi tóc". Song, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra những chủ trương, quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng... Với đường lối sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng đã huy động được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức, củng cố giữ vững chính quyền cách mạng, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.

Bất chấp nguyện vọng yêu chuộng hòa bình của nhân dân ta, mặc dù chúng ta đã nhân nhượng, chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng muốn cướp nước ta một lần nữa. Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đáp lại lời kêu gọi đó, nhân dân cả nước đã nhất tề đứng lên với quyết tâm: "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Đảng ta đã tổ chức, lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược.

Chiến thắng Điện Biên Phủ (tháng 5/1954) đã đi vào lịch sử dân tộc ta như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa của thế kỷ XX, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi, đột phá thành trì của đế quốc, báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn không tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân cũ. Đánh giá ý nghĩa lịch sử của thắng lợi này, Hồ Chủ tịch viết: Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi có ý

5

Page 6: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

nghĩ lịch sử to lớn: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên thế giới”1. Thắng lợi đó đã làm sáng tỏ một chân lý: Trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc dù nhỏ yếu nhưng một khi đoàn kết đứng lên, kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chính Đảng Mác - Lênin để giành độc lập và dân chủ thì có đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.

2.4. Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược và đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1975) - ý nghĩa lịch sử

Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới với đặc điểm: Đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau. Miền Bắc đã có hòa bình, dưới sự lãnh đạo của Đảng đang bắt đầu xây dựng một xã hội mới. Miền Nam vẫn còn dưới ách đô hộ, áp bức của chủ nghĩa đế quốc. Con đường phát triển của cách mạng nước ta lúc này được Đảng ta xác định là phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:

Một là, tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa vững chắc của cả nước.

Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai, tiến tới giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Như vậy, đặc điểm lớn nhất, nét độc đáo của cách mạng Việt Nam thời kỳ này là một Đảng thống nhất lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược. Tuy mỗi miền thực hiện một nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó cách mạng miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Cách mạng miền Nam giữ vị trí quan trọng, tác động trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Hơn 20 năm cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, mặc dù gặp nhiều khó khăn trở ngại chồng chất, đặc biệt từ năm 1965 trở đi miền Bắc phải trực tiếp đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại rất ác liệt của đế quốc Mỹ, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đã kiên cường trong sản xuất và chiến đấu, giành được những thành tựu to lớn, đồng thời chi viện đắc lực cho miền Nam... Hàng triệu tấn lương thực và vũ khí, trang bị; hàng vạn thanh niên 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia. H. 1996, tr. 12

6

Page 7: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

nam nữ hăng hái lên đường vào miền Nam chiến đấu. Miền Bắc đã dốc sức vào chiến tranh cứu nước và giữ nước với toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, đã làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa của cách mạng cả nước, xứng đáng là pháo đài vững chắc của chủ nghĩa xã hội.

Ở miền Nam, đế quốc Mỹ đã dùng nhiều thủ đoạn, thực hiện nhiều chiến lược1, sử dụng các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Qui mô, tính chất cũng như mức độ ác liệt của cuộc chiến tranh mà nhân dân ta phải đương đầu chịu đựng chưa từng có trong lịch sử. Song, nhân dân miền Nam đã kiên cường chịu đựng gian khổ hy sinh, kiên quyết đánh thắng đế quốc Mỹ; xứng đáng với danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc", sát cánh cùng đồng bào miền Bắc đánh bại mọi âm mưu, chiến lược của đế quốc Mỹ, góp phần trực tiếp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Trải qua 21 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước đã chiến đấu kiên cường anh dũng với sự đồng tình ủng hộ của bạn bè quốc tế; bằng cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa xuân 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. "Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính chất thời đại sâu sắc”2.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ cả nước độc lập thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.

2.5. Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (1975 -1985). Ý nghĩa lịch sử

Sau năm 1975, đất nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, có những thuận lợi song cũng không ít khó khăn, thử thách. Xuất phát từ một nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, nghèo nàn; hậu quả chiến tranh để lại hết sức nặng nề, chủ nghĩa đế quốc, bọn phản động quốc tế và các thế lực thù địch câu kết với nhau bao vây, cấm vận, chống phá cách mạng Việt Nam rất quyết liệt. Dưới sự

1 Chiến lược chiến tranh đơn phương 1954 - 1960 (còn gọi la chiến tranh một phía); Chiến lược chiến tranh đặc biệt (1960 - 1965); Chiến lược chiến tranh cục bộ (1965 - cuối 1968); Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 - 1975) 2 Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự Thật, H. 1977, tr 6.

7

Page 8: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua những khó khăn, trở ngại; thu được nhiều thành tựu:

- Đã nhanh chóng hoàn thành việc thống nhất Nhà nước về mọi mặt; cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước (ngày 24/4/1976) đã đạt kết quả tốt đẹp. Các tổ chức đoàn thể cách mạng cũng nhanh chóng được thống nhất.

- Nhân dân cả nước hăng hái tham gia khôi phục kinh tế, khắc phục những hậu quả chiến tranh, ổn định sản xuất và đời sống.

- Thắng lợi của cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc, giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội.

Tuy vậy, những thành tựu về kinh tế - xã hội đạt được trong 10 năm xây dựng (1975 - 1985) còn thấp, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, gay gắt.

2.6. Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (từ năm 1986 đến nay). Những thành tựu

Vào cuối những năm bảy mươi của thế kỷ XX do những điều kiện khắc nghiệt của hoàn cảnh đất nước và cả do những khuyết điểm chủ quan trong lãnh đạo và quản lý mà đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã từng bước thử nghiệm tìm tòi con đường đổi mới để đưa đất nước phát triển. Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn về CNXH và về thời kỳ quá độ lên CNXH, dựa vào những kết quả bước đầu của sự đổi mới từng phần, lắng nghe, tổng kết sáng kiến, kinh nghiệm của nhân dân, của các địa phương và cơ sở. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội VI của Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm, chỉ ra những yếu kém trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Trong quá trình tổ chức thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991 - 2000, các Nghị quyết của Đại hội VII, Đại hội VIII và các Nghị quyết Trung ương sau đó đã cụ thể hóa hơn nữa đường lối đổi mới ở nước ta. Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go, cách mạng nước ta không những đứng vững mà còn vượt lên đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng còn một số mặt chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề

8

Page 9: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

cho công nghiệp hóa hoàn thành về cơ bản, cho phép chuyển sang thời kỳ phát triển mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.

Trong 5 năm (1996 - 2001), thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng:

Kinh tế tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hàng năm là 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm tăng 13,5%. Hệ thống kết cấu hạ tầng, các ngành dịch vụ, xuất nhập khẩu đều phát triển.

Văn hoá, xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ có chuyển biến tích cực. Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, công tác chăm sóc sức khoẻ và những chính sách xã hội khác đều được coi trọng, đạt những kết quả to lớn.

Tình hình chính trị - xã hội cơ bản được ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

Quan hệ đối ngoại ngày càng được mở rộng, hội nhập quốc tế được tiến hành chủ động và đạt được nhiều kết quả, vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.

Công tác xây dựng Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củng cố; quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy, một số chính sách và quy chế dân chủ của nhân dân trước hết là ở cơ sở, bước đầu được thực hiện.

Những thành tựu 5 năm (1996 - 2001) đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn những yếu kém, khuyết điểm: Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc. Một số vấn đề văn hóa - xã hội bức xúc chưa được giải quyết, tỷ lệ thất nghiệp còn cao, tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp và một số giá trị đạo đức xuống cấp,...Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một số bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng... Đây là những vấn đề phải nhanh chóng khắc phục.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4/2001) đã chỉ rõ: Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây

9

Page 10: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thế kỷ XX là thế kỷ đấu tranh oanh liệt và chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta. Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới.

Đại hội X của Đảng họp vào lúc toàn Đảng, toàn dân ta kết thúc 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và đã trải qua 20 năm đổi mới.

Đại hội có nhiệm vụ: kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010, nhìn lại 20 năm đổi mới; quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010; kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng; bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng; bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X.

Đại hội đã căn cứ vào thực tiễn tình hình cách mạng Việt Nam đề ra nhiệm vụ hết sức quan trọng: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI họp ngày 12/1/2011, Đại hội đã thảo luận, bổ sung và phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH; nghe Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X trình Đại hội XI; tổng kết việc thi hành Điều lệ Đảng và đề xuất bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng. Đại hội đánh giá, kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X đã khẳng định: đất nước Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, ''đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra, nhưng cũng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm cần được khắc phục…”

Về “Chiến lược phát triển”: Đại hội XI đã đưa ra các quan điểm phát triển đất nước trong thập niên tới, đó là phát triển nhanh, bền vững là yêu cầu xuyên suốt; đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; thực hành dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển…

10

Page 11: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

* Đặc biệt trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) có những nội dung mới về hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng:

Thứ nhất: Về dân chủ xã hội chủ nghĩa

So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển những nội sau:

- Khẳng định: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước.

- Xác định: nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.

Thứ hai: Về Nhà nước

So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển những nội dung sau:

- Khẳng định: Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

- Xác định: Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Thứ ba: Về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân

Cơ bản giữ như Cương lĩnh năm 1991, có bổ sung, phát triển làm rõ hơn vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên, thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước”.

Thứ tư: Về Đảng Cộng sản Việt Nam

Bổ sung vào Cương lĩnh cách diễn đạt bản chất của Đảng đã được Đại hội X thông qua: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng

11

Page 12: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”.

- Về nền tảng tư tưởng của Đảng: Tiếp tục khẳng định “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Bổ sung đoạn nói về tư tưởng Hồ Chí Minh để nhấn mạnh vai trò tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng nước ta: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”. Nội dung này đã được thống nhất từ Đại hội IX, thể hiện một bước phát triển về tư duy chính trị và lý luận của Đảng ta; đồng thời cũng thể hiện niềm tự hào của Đảng và nhân dân ta đối với lãnh tụ thiên tài và kính yêu của dân tộc.

- Bổ sung, hoàn chỉnh hơn phương thức lãnh đạo của Đảng:

+ Đảng lãnh đạo bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn.

+ Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.

+ Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị.

+ Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.

- Bổ sung một số ý về yêu cầu rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức của đảng viên.

Về lời hiệu triệu

Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) có thay một số từ cho chính xác hơn, có sức hiệu triệu hơn. “Cương lĩnh của Đảng (thay từ “này” bằng “của Đảng”) là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong những thập kỷ tới (bổ sung thêm cụm từ “Nhà nước và nhân dân ta”). Thực hiện thắng lợi Cương lĩnh này, nước nhà nhất định trở thành

12

Page 13: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh. Đảng kêu gọi tất cả đảng viên của Đảng (thay cho “Những người cộng sản”), toàn thể đồng bào Việt Nam (thêm từ Việt Nam) ở trong nước và nước ngoài mang hết tinh thần và nghị lực phấn đấu thực hiện thắng lợi Cương lĩnh, vững bước đi tới tương lai (thêm cụm từ “vững bước đi tới tương lai”).

Báo cáo chính trị nêu một số chỉ tiêu phát triển chủ yếu 5 năm 2011-2015, trong đó “tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 7 - 7,5% năm; GDP bình quân đầu người năm 2015 1à 2.000 USD, gấp 1,7 lần năm 2010. Cơ cấu GDP: nông nghiệp 17 - 18%; công nghiệp và xây dựng 41 - 42%; dịch vụ 41 - 42%; sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt 35% tăng GDP; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%”.

Báo cáo xác định 5 nhiệm vụ chủ yếu của nhiệm kỳ XI:

- Ổn định kinh tế vĩ mô;

- Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực; Phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức;

- Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, trật tự an toàn xã hội;

- Phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa;

- Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức…

Trong tình hình hiện nay, để phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng; thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, đã họp Hội Nghị lần thứ tư và ban hành Nghị quyết Trung ương 4 về: “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay.”

4 lý do Trung ương Đảng thấy cần thiết phải ban hành Nghị quyết:

Thứ nhất, công tác xây dựng Đảng luôn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, đây là bài học lớn, là kết luận sâu sắc, đúc rút qua quá trình hơn 80 năm hoạt động của Đảng. Càng đi vào đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, càng cần phải coi trọng công tác xây dựng Đảng; đây là nhân tố đảm bảo thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, yêu cầu nhiệm vụ chính trị của nước ta hiện nay rất to lớn, nặng nề, khó khăn, đòi hỏi Đảng phải nâng tầm lãnh đạo cao hơn nữa, nâng sức chiến đấu mạnh hơn nữa.

13

Page 14: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

Thứ ba, Đảng ta, bên cạnh mặt tích cực, phát huy bản chất và truyền thống tốt đẹp, đang đứng trước các yêu cầu, nhiệm vụ mới, phải khắc phục, đẩy lùi những yếu kém, tiêu cực, phức tạp gây băn khoăn, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Thứ tư, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá điên cuồng sự nghiệp đổi mới của đất nước ta nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh tình hình trên, Đảng ta luôn nhấn mạnh phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta, chế độ ta.

Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, phương thức lãnh đạo. Nghị quyết Trung ương 4 tập trung vào giải quyết 3 vấn đề cấp bách hiện nay:

Thứ nhất, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.

Thứ hai, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là ở cấp Trung ương nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Thứ ba, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị.

 Ba nội dung trên có quan hệ gắn bó, trong đó, nội dung thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt, mang tính cấp bách nhất.

Những thành tựu của thời kỳ đổi mới

Nhìn lại chặng đường hơn 27 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Ðảng đất nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử:

Có thể coi công cuộc đổi mới là cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc nhất trong thời kỳ mới. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, nền kinh tế Việt Nam đã có bước phát triển nhanh theo hướng thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu và tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đất nước không những đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội mà còn vượt qua được những tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực

14

Page 15: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

những năm 1997 - 1998 và cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay. Trong hoàn cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế trên quy mô thế giới, Việt Nam vẫn tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô, năm 2012 đạt thu nhập bình quân đầu người trên 1.600 đô-la, vượt qua ngưỡng một nước chậm phát triển, (Năm 2013, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận định kinh tế Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn, đang phục hồi tăng trưởng và hướng tới tốc độ tăng trưởng cao hơn. Với mức tăng GDP đạt 5,4% trong năm 2013 (trung bình 3 năm là 5,6%), quy mô kinh tế hiện tại của Việt Nam hiện đạt gần 176 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người khoảng 1.960 USD. Như vậy, so với mức thu nhập 1.600 USD được Thủ tướng thông báo tại Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG) 2012, thu nhập của người Việt Nam đã tăng gần 23% trong một năm và nhiều khả năng hoàn thành sớm mục tiêu đạt 2.000 USD vào năm 2015 mà Đại hội Đảng lần thứ XI đề ra).

GDP năm 2013 ước tính tăng 5,42% so với năm 2012. Trong đó, quý I tăng 4,76%; quý II tăng 5,00%; quý III tăng 5,54% và quý IV tăng 6,04%. Mức tăng trưởng này tuy thấp hơn mục tiêu 5,5% đề ra nhưng cao hơn mức tăng 5,25% của năm 2012 (theo giá cố định năm 2010) và có tín hiệu phục hồi. Trong mức tăng 5,42% của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,67%, xấp xỉ mức tăng năm trước, đóng góp 0,48 điểm phần trăm. Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,43%, thấp hơn mức tăng 5,75% của năm trước, đóng góp 2,09 điểm phần trăm. Trong khi đó, khu vực dịch vụ tăng 6,56%, cao hơn mức tăng 5,9% của năm 2012, đóng góp 2,85 điểm phần trăm.

Đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân được cải thiện đáng kể. Tỉ lệ các hộ nghèo đói giảm từ 58% năm 1993 đã giảm xuống còn 9,67% tính đến tháng 11/2013. Từ một nước thường xuyên thiếu lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng hàng đầu thế giới, năm  2012 xuất khẩu gạo đạt 7,7 triệu tấn, (năm 2013 đạt khoảng 6,61 triệu tấn). Tuổi thọ bình quân tăng, năm 2012 là 73 tuổi; tỷ lệ tăng dân số giảm và giữ ở mức ổi định 1,2% năm. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường, chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Đó là sự nỗ lực phi thường của toàn thể nhân dân, của Đảng, Nhà nước ta. Cần nhấn mạnh, từ thực tiễn phong phú và sáng tạo của công cuộc đổi mới, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.

15

Page 16: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

Chặng đường vẻ vang hơn tám thập kỷ qua của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định: Sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta còn có những yếu kém (?), có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm. Điều quan trọng là Đảng sớm phát hiện ra những sai lầm, khuyết điểm của mình, đề ra những biện pháp sửa chữa đúng đắn, kịp thời. Đảng công khai tự phê bình, nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng vẫn được nhân dân tin cậy, thừa nhận Đảng ta là đội tiên phong chính trị, người lãnh đạo chân chính duy nhất của cả dân tộc. Ở nước ta, ngoài Đảng Cộng sản không lực lượng nào có thể lãnh đạo cách mạng.

3. Hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Hiến pháp sửa đổi

 Điều 4 của Hiến pháp năm 2013 kế thừa Hiến pháp năm 1992, trong việc khẳng định tính lịch sử, tính tất yếu khách quan sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và đã bổ sung quy định về bản chất của Đảng. Điều 4 gồm những nội dung: 

- Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.

- Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.

- Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Chính do bản chất và nền tảng tư tưởng của Đảng như vậy nên nhân dân ta thừa nhận vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng. Tuy nhiên, Hiến pháp (năm 2013) đã bổ sung vào Điều 4 quy định về trách nhiệm của Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Bên cạnh đó, với quy định tại Điều 4, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định rõ vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó có mấy điểm lớn như sau:

16

Page 17: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

Một là, Hiến pháp lần này thể hiện rõ hơn bản chất của Đảng chúng ta, nói một cách công khai và đưa vào trong Hiến pháp rằng Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động, của cả dân tộc; đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đại biểu trung thành của nhân dân lao động, của cả dân tộc, để nói rằng Đảng là Đảng ta, của dân tộc ta.

Thứ hai, khẳng định vị trí lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Khoản 1, Điều 4 đã quy định rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Trước đây, trong Điều 4 không nói rõ trách nhiệm của Đảng, thì lần này sau khi sửa đổi chúng ta đã đưa vào và nhấn mạnh Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, đó chính là sức mạnh và cũng là sức sống của Đảng.

Thứ ba, Đảng phải phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Bởi Đảng lãnh đạo Nhà nước, xã hội thì phải chịu trách nhiệm về sự lãnh đạo đó, nhưng sự lãnh đạo cụ thể bằng những quyết định của mình. Nếu những quyết định đó không đúng, có thể ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, của nhân dân thì Đảng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước dân tộc. Cụ thể, tại Khoản 2, Điều 4 đã quy định rõ như sau: Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.

4. Những truyền thống quý báu và kinh nghiệm Trong lịch sử vẻ vang của Đảng đã để lại những truyền thống và những bài học

kinh nghiệm quý báu như:

Truyền thống Trong 84 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng

được tôi luyện, trưởng thành và đã xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng ta. Đó là:

- Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng.

- Tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo.

17

Page 18: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

- Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

- Trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, gắn bó mật thiết với nhân dân.

- Kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng.

- Giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế ...

Những truyền thống đó là sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân quốc tế trên một tầm cao mới của thời đại, là sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng. Đó là kết quả của quá trình vun trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hy sinh phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ đảng viên của Đảng góp phần tạo nên. Những truyền thống đó có ý nghĩa dân tộc và quốc tế sâu sắc, thể hiện tinh thần cách mạng triệt để, trình độ trí tuệ ngày càng được nâng cao của Đảng ta. Ngay từ khi vừa mới ra đời, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã nắm bắt đúng xu thế phát triển của thời đại, gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân thế giới, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp công nhân. Vì vậy, trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, nhất là trong những bước ngoặt lịch sử phải đương đầu với mọi thử thách dù hiểm nghèo tưởng không thể vượt qua, Đảng đã kịp thời có những quyết sách sáng suốt đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn, đưa con thuyền cách mạng vượt lên.

Cơ sở, nguồn gốc sức mạnh và truyền thống của Đảng là ở chỗ: Đảng đứng vững trên nền tảng tư tưởng tiên tiến của thời đại, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Lênin cho rằng: “Chỉ có đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò người chiến sĩ tiên phong”. Đảng ta không chỉ nắm bắt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin mà còn biết vận dụng sáng tạo và phát triển trong thực tiễn Việt Nam. Đồng thời, Đảng ta không ngừng phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tiếp thu những tinh hoa trí tuệ của nhân loại.

Kinh nghiệm

Thứ nhất: Đảng ta có đường lối cách mạng đúng đắn, xác định đúng mục tiêu và nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, cũng như mục tiêu, nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng cụ thể. Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định để Đảng ta nắm vững

18

Page 19: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

ngọn cờ lãnh đạo cách mạng, làm nên những thắng lợi lịch sử của cách mạng Việt Nam 84 năm qua.

Đề ra đường lối đúng đắn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và nguyện vọng của nhân dân, đem lại những thắng lợi lịch sử là cơ sở để Đảng ta luôn nắm vững vai trò lãnh đạo cách mạng, không một lực lượng nào có thể giành được. Để có đường lối đúng đắn, Đảng ta đã kiên định những nguyên lý cơ bản, đồng thời vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước trong từng thời kỳ lịch sử. Thực tiễn 84 năm qua cho thấy, khi nào Đảng bám sát tình hình đất nước, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì có đường lối đúng đắn, cách mạng thắng lợi. Ngược lại, khi nào giáo điều, chủ quan, rập khuôn kinh nghiệm, mô hình nước ngoài thì mắc sai lầm, dẫn tới tổn thất cho cách mạng.

Ngày nay, trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, để giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo cách mạng, Đảng ta phải tiếp tục kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để ngày càng làm sáng tỏ hơn đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; không ngừng bổ sung, phát triển hoàn thiện đường lối thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Thứ hai: Luôn coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trên tình đồng chí, gắn bó mật thiết với nhân dân. Phải dựa vào dân để xây dựng Đảng, để giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng.

Nhờ vậy, Đảng có một đội ngũ cán bộ, đảng viên tuyệt đối trung thành với lý tưởng của Đảng, sẵn sàng chấp nhận khó khăn, gian khổ, hy sinh tính mạng của mình vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đảng gắn bó máu thịt với nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Đảng ta đoàn kết thành một khối thống nhất, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao.

Ngày nay, trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, để giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, Đảng ta phải đào tạo, rèn luyện, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý

19

Page 20: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có phẩm chất và năng lực, gương mẫu, tận tụy, hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, được nhân dân tin cậy, yêu mến. Phải ngăn chặn, đẩy lùi được tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xa dân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đó là những căn bệnh có cơ hội nảy nở, phát sinh trong điều kiện Đảng cầm quyền, phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế.

Thứ ba: Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân, của đất nước. Đảng đã tuyên truyền, vận động, giác ngộ, tập hợp được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia vào các tổ chức do Đảng lãnh đạo, hình thành lực lượng to lớn, sức mạnh vô địch của cách mạng. Do đó, không một lực lượng nào có thể tranh giành ảnh hưởng và quyền lãnh đạo cách mạng với Đảng ta.

II. BÀI HỌC LỊCH SỬ CỦA ÐẢNG BỘ TỈNH ÐỒNG NAI 1. Vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai có lịch sử hơn 310 năm hình thành và phát

triển. Là khoảng thời gian ngắn trong lịch sử của “miền Đông gian lao mà anh dũng”, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Đảng bộ Đồng Nai, nhân dân Đồng Nai đã phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong đấu tranh vào công cuộc xây dựng đất nước. Với ý chí quyết tâm, tinh thần tự lực, tự cường, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân Đồng Nai đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Sau khi mới giải phóng, với biết bao khó khăn gian khổ do hai cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài để lại, sau đó đất nước ta lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh ở hai đầu biên giới: Tây - Nam và phía Bắc, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, Đồng Nai đã khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định tình hình, cuộc sống và khôi phục, phát triển sản xuất. Các cơ sở Đảng được củng cố, chính quyền được xây dựng ngày một vững mạnh đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ mới.

Trong thời gian đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, cán bộ, đảng viên, nhân dân Đồng Nai đã trăn trở, tìm tòi, thử nghiệm cách thức quản lý, điều hành để tìm ra hướng đi thích hợp cho địa phương mình. Trong điều kiện gặp muôn vàn khó khăn, nhưng Đảng bộ và nhân dân Đồng Nai vẫn sẵn sàng làm nghĩa vụ quốc tế cao cả. Lực lượng vũ trang Đồng Nai đã cùng quân tình nguyện Việt Nam giúp đỡ nhân dân Campuchia đánh đổ chính quyền Pôn Pốt – IêngXary, thoát khỏi họa diệt chủng. Sau ngày 7/1/1979, các đoàn chuyên gia của Đồng Nai đã sang giúp đỡ nhân dân tỉnh Kompongthom của Campuchia ổn định tình hình, xây dựng cuộc sống mới và bảo vệ chính quyền.

20

Page 21: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

Từ năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được Đảng bộ Đồng Nai vận dụng sáng tạo, linh hoạt vào điều kiện cụ thể của địa phương. Với những kết quả đạt được trong các lĩnh vực, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với sự nghiệp đổi mới được khôi phục. Đảng bộ Đồng Nai đã lãnh đạo nhân dân tạo được thế và lực thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài và bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng trong kháng chiến, trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đảng bộ Đồng Nai có thể rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu sau:

Trước hết, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng bộ Đồng Nai luôn đánh giá đúng những đặc điểm, tính chất, vị trí quan trọng trên các lĩnh vực, từ đó đề ra những nhiệm vụ chính trị sát hợp với yêu cầu của cách mạng. Trong hai cuộc kháng chiến, Đảng bộ đã phát động và tạo được thế trận chiến tranh nhân dân, phát huy sức mạnh toàn dân đánh bại kẻ thù xâm lược. Nhận thức và đánh giá đúng tính chất, vị trí chiến lược của chiến trường, Đảng bộ Đồng Nai trên cơ sở quán triệt đường lối cách mạng của Trung ương, Trung ương Cục, đã vận dụng, tổ chức thực hiện thắng lợi của cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện phát huy tinh thần tự lực tự cường để giành thắng lợi. Từ nhận thức đó, Đảng bộ Đồng Nai đã đề ra những chủ trương chỉ đạo xác hợp chiến trường như thực hiện phương châm bám trụ, phát huy tinh thần tự lực tự cường; kết hợp hai lực lượng bên trong, bên ngoài; kết hợp lực lượng tại chỗ với lực lượng cấp trên; kết hợp 3 mũi đấu tranh vũ trang, chính trị, binh vận; tổ chức đặc công, căn cứ, biệt động… đánh địch trên cả 3 vùng chiến lược giành thắng lợi.

Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước phải quan tâm phát triển đồng bộ giữa tăng trưởng kinh tế đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu quả và phát triển bền vững. Gắn việc tăng cường huy động nguồn lực trong nước và ngoài nước với sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn lực, nâng cao tính tự chủ kinh tế trong nước giảm thiểu tác động tiêu cực từ bên ngoài. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với bảo đảm an sinh xã hội và công tác bảo vệ môi trường. Chú trọng phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với xây dựng tỉnh thành khu vực phòng thủ vững chắc trong thế trận phòng thủ cả nước.

2. Thường xuyên củng cố, nâng cao sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, quyết định mọi thắng lợi

21

Page 22: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

Trong 21 năm lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, dù trong bất kì hoàn cảnh nào, Đảng bộ luôn xem trọng công tác xây dựng Đảng, đào tạo cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo phong trào quần chúng đấu tranh.Về hình thức tổ chức, luôn có hai loại chi bộ Đảng: chi bộ lộ (bên ngoài) và chi bộ mật (bên trong vùng địch) quan hệ kết hợp chặt chẽ với nhau trong lãnh đạo, chỉ đạo, trong việc phát hiện, xây dựng, đào tạo cốt cán, phát triển đảng viên mới để tăng cường cho đội ngũ Đảng.

Về chất lượng, đảng viên được học tập, quán triệt và nắm vững nhiệm vụ, vai trò của Đảng trong sự nghiệp cách mạng, luôn kiên định vững vàng trong chiến đấu. Các chi bộ không ngừng vươn lên trở thành những chi bộ tự động công tác, linh hoạt quyền biến trong lãnh đạo, chỉ đạo. Chất lượng và tính chiến đấu của Đảng bộ thể hiện bằng niềm tin tuyệt đối vào đường lối cách mạng của Trung ương Đảng, Trung ương Cục, bằng tư tưởng tiến công và bạo lực cách mạng trong lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh.

Trong tình hình hiện nay, Đảng bộ tập trung chăm lo công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; chú trọng kiện toàn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị; thực hiện tốt công tác cán bộ, nhất là phải xây dựng được đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp các ngành, đảm bảo thật sự có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trí tuệ, tâm huyết và trách nhiệm trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao. Đây là nhân tố quyết định nhất cho việc thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội của Đảng bộ.

Thực tiễn cho thấy nếu không củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ thì không thể quán triệt, vận dụng đúng đắn đường lối, chủ trương của Đảng và không thể đề ra được những giải pháp thích hợp ở từng ngành, từng cấp và lãnh đạo tổ chức đạt hiệu quả cao. Điều đó càng cần thiết trong điều kiện đất nước ta đang hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, quan hệ đa phương hóa, đa dạng hóa. Để nâng cao được năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, đòi hỏi phải tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng. Phải vì lý tưởng mà phấn đấu, vì nhân dân mà phục vụ. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự nghiệp cách mạng vĩ đại, đầy khó khăn, thử thách. Vì vậy, Đảng phải tiếp tục làm tốt nhiệm vụ đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới. Để đáp ứng yêu cầu đó, các cấp ủy Đảng cần tăng

22

Page 23: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao chất lượng các tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh.

Luôn quan tâm đổi mới trong việc triển khai và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng. Xây dựng kế hoạch thực hiện một cách cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm và xác định những lĩnh vực then chốt để tập trung lãnh đạo chỉ đạo với hiệu quả cao nhất. Đồng thời, phát huy cao độ tinh thần tích cực, chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo chỉ đạo của các cấp ủy đảng, công tác quản lý, điều hành của cơ quan nhà nước các cấp, đặc biệt là vai trò trách nhiệm của người đứng đầu. Nâng cao nhận thức trong tình hình mới, bám sát tình hình thực tiễn trên địa bàn tỉnh, diễn biến tình hình đất nước và trên thế giới, dự báo đúng những tình huống mới, kịp thời điều chỉnh những nhiệm vụ và hệ thống giải pháp để ứng phó hiệu quả, giảm thiểu những tác động tiêu cực từ bên ngoài, duy trì sự ổn định và phát triển. Chú trọng thực hiện tốt công tác thi đua, khen thưởng, xem đây là một trong những biện pháp hữu hiệu để vận động, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, động viên tinh thần, nâng cao ý chí phấn đấu của mỗi cá nhân, của từng đơn vị, không ngừng vươn lên, thực hiện tốt mục tiêu nhiệm vụ nghị quyết đề ra.

3. Không ngừng xây dựng, củng cố chính quyền, mặt trận và các đoàn thể để hệ thống chính trị hoạt động có hiệu quả trên mọi lĩnh vực

Trong kháng chiến, Đảng bộ tỉnh luôn quan tâm chỉ đạo xây dựng các cơ quan đảng, mặt trận và đoàn thể công nhân, nông dân, phụ nữ, thanh niên từ tỉnh xuống huyện, xã, đảm bảo lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành thắng lợi.

Trong điều kiện Đảng cầm quyền, thước đo kết quả nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng không chỉ ở kết quả nội bộ đoàn kết tốt, mà còn phải thể hiện ở sự vững mạnh của các cơ quan chính quyền, các tổ chức kinh tế - xã hội và các đoàn thể quần chúng do Đảng lãnh đạo, hoạt động theo đúng pháp luật và có hiệu quả cao. Tổ chức Đảng có trách nhiệm giáo dục, bồi dưỡng giới thiệu người tham gia vào các cơ quan chính quyền, đoàn thể; hướng dẫn, giúp đỡ, kiểm tra, giám sát và tạo điều kiện tốt nhất cho cán bộ chính quyền và đoàn thể hoàn thành nhiệm vụ. Luôn giữ vững vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng với chính quyền, đoàn thể nhân dân và toàn xã hội. Chú trọng phát triển tổ chức Đảng, đoàn thể trong các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

4. Mở rộng, tăng cường khối đoàn kết toàn dân, phát huy vai trò của nhân dân

Trong suốt 21 năm chống Mỹ cứu nước, Đảng bộ Đồng Nai luôn coi trọng công tác dân vận, vận động, tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ quần chúng, bởi giác

23

Page 24: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

ngộ cách mạng chính là động lực quan trọng để quần chúng tự nguyện tham gia kháng chiến và phục vụ kháng chiến, tạo nên sức mạnh toàn dân vũ trang, toàn dân tham gia đấu tranh chính trị, tấn công binh vận và xây dựng hậu cần đảm bảo cho kháng chiến lâu dài. Xây dựng cơ sở chính trị là gốc của việc tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang nói riêng, lực lượng cách mạng nói chung.

Trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Vì vậy, việc mở rộng, tăng cường khối đoàn kết toàn dân, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân có ý nghĩa rất quan trọng. Để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, cần xây dựng, thực hiện đồng bộ quy chế phối hợp giữa chính quyền, mặt trận và đoàn thể các cấp, thực hiện kết hợp các phong trào cách mạng của nhân dân với công tác quản lý nhà nước của chính quyền các cấp, bảo đảm cho quá trình thực hiện và tham gia xây dựng chính sách, pháp luật hợp lòng dân, đáp ứng lợi ích hợp pháp của nhân dân. Phát hiện kịp thời những vấn đề bức xúc trong nhân dân, tổ chức bàn bạc dân chủ với nhân dân, dựa vào dân, thực hiện phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.

Xác định công tác dân vận là một trong những nhiệm vụ cơ bản của Đảng bộ. Các cấp ủy đảng phải quan tâm lãnh đạo công tác dân vận để xây dựng, thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng; từ đó mở rộng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi.

5. Thường xuyên coi trọng tổng kết thực tiễn, vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng

Để vận dụng được sáng tạo chủ trương, đường lối chung của Đảng vào địa phương thì phải thường xuyên tổng kết thực tiễn. Từ đó, đúc rút ra những kinh nghiệm để áp dụng trong thời gian tiếp theo. Thực tiễn lịch sử Đảng ta cho thấy, từ những sáng tạo của quần chúng nhân dân đã được Đảng đánh giá, tổng kết và nâng lên thành chủ trương, chính sách. Vì vậy, không thể vận dụng sáng tạo, hoạt động năng động mà thiếu việc tổng kết thực tiễn.

Sau 38 năm, Đồng Nai đã đạt được những thành tựu đáng tự hào về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh và xây dựng Đảng. Với những thành tựu quan trọng đó, Đảng bộ và nhân dân Đồng Nai vững tin, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ mà Trung ương Đảng và mục tiêu Đại hội lần thứ IX Đảng bộ tỉnh đề ra: TIẾP TỤC NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ; PHÁT HUY DÂN CHỦ, TĂNG CƯỜNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN; HUY ĐỘNG CAO ĐỘ MỌI NGUỒN LỰC, XÂY DỰNG

24

Page 25: CD 1 VAI TRO CUA DANG CONG SAN VIET NAM.doc

ĐỒNG NAI THÀNH TỈNH CƠ BẢN CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA./.

25