Upload
nguyenkhue
View
213
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
1
NGUYỄN NGỌC HỖ
CON NGƯỜI Với
TIẾNG HÁT
Ca dao tỤC ngỮ VIỆT NAM
1960
2
3
M Ụ C L Ụ C
Thay lời tựa 5
Khái niệm 7
CHƯƠNG THỨ NHỨT
1/ Nuyên thủy 10
2/ Định nghĩa 13
3/ Kỷ thuật ghép chữ 14
4/ Nội dung 31
5/ Tục ngữ và phong dao 41
CHƯƠNG THỨ HAI
1/ Đặc tính ca dao 47
2/ Thiên nhiên 49
3/ Từ ngữ 58
4/ Con người với tiếng hát 67
a) Luân lý 68
b) Trữ tình 73
c) Bởn chữ 84
CHƯƠNG THỨ BA
1/ Gia đình 91
2/ Giáo dục 92
3/ Vai trò người đàn ông 93
4/ Vai trò người phụ nữ 97
5/ Mẹ dạy con 103
6/ Bổn phận làm con 115
7/ Vợ chồng kín kẻ dạy nhau 117
CHƯƠNG THỨ TƯ
1/ Nông nghiệp 123
2/ Ngày hội đồng quê 124
3/ Đời sống và kinh nghiệm 130
4
4/ Trên đồng cạn dưới đồng sâu 138
5/ Tình chung hai tiếng chung tình 150
CHƯƠNG THỨ NĂM
1/ Tình yêu 161
2/ Câu chuyện gặp gở 179
3/ Lá trầu duyên 191
4/ Tương tư 198
5/ Hoa nguyệt 209
6/ Khiêu khích 220
7/ Đạo vợ chồng 233
a) Lệ mua dâu gởi rể 235
b) Chồng một thì lấy 243
8/ Kết luận 256
--------------------------------------
Bộ thông tin VIỆT NAM CỘNG HÒA
Hội đồng kiểm duyệt ----------------------------------------
GIẤY PHÉP SỐ 920/XB
Ông Nguyễn văn Hỗ , ở tại 157-A Lê văn Duyệt Gia Định
Được phép xuất bản một cuốn sách nhan đề CON NGƯỜI VỚI
TIẾNG HÁT của Mặc vy Nhân.
Saigon, ngày 24 tháng 5 năm 1960.
Chủ tịch Hội Đồng Kiểm Duyệt
Ký tên và đóng dấu
HOÀNG NGUYÊN
5
Thay lời tựa.
Quê hương tôi có ca dao tục ngữ
Ông trăng tròn thường xuống mọi nhà chơi
Một dĩa muối cũng mặn tình chồng vợ
Một dây trầu cũng khắc chuyện lứa đôi.
Nguyễn Bính.(1918-1966)
(nhà thơ của làng quê VietNam)
Trong văn hóa cũ của ta, tôi thấy về phần văn hóa bình dân còn nhiều điều
khả thủ, mà trong văn hóa bình dân thì tục ngữ ca dao là phần trọng yếu, cho nên
tôi quí trọng tục ngữ và ca dao. Nếu ta nhận rằng muốn kiến thiết văn hóa mới ta
không thể không nghiên cứu văn hóa cũ thì sự nghiên cứu tục ngữ và ca dao ta
phải cho là cần thiết.
Đào duy Anh (1904-1988)
(Nền học quốc ngữ)
Ngày nay, ai là người đã lưu tâm đến quốc văn quốc túy mà không lo sợ
rằng những câu lý thú tối cỗ của ông cha để lại mà tức là cái kho vàng chung cho
cả nhân loại, nếu không chịu mau mau thu nhặt, giữ gìn lấy thì rồi tất mỗi ngày
một sai suyển sưu lạc đi, thực rất là đáng tiếc.
Ôn Như Nguyễn văn Ngọc (1890-1942)
(Tục ngữ phong dao 1928)
Ngày nay, mỗi lần chúng ta nhắc đến những câu tục ngữ, phong dao mà
chúng ta cho là hay thắm thía, là mỗi lần chúng ta lập đi lập lại nó không nhàm và
cứ nắc nỏm khen người xưa khéo đăt. Chúng ta khen hay nhưng không hiểu tại sao
mà hay. Ở đây tôi có dịp giải thích rằng một câu tục ngữ, một câu phong dao mà
hay là tại nó có hàm súc ít nhiều ý nghĩa về văn học chứ không có gì khác.
Phan Khôi 1887-1959.
(Tục ngữ phong dao và địa vị của nó
Trong văn học.Tao Đàn số 11,16-8-39)
Chúng ta cũng có thể căn cứ vào thơ ca bình dân của nước nhà, để đi tìm
những tâm lý chung đã mai một trong quá khứ hoặc những trạng thái sinh hoạt
6
không bao giờ sẽ trả lại nữa. Phong dao Việt Nam rất có thể là linh hồn của Việt
Nam xưa, xã hội Việt Nam xưa, nếu ta biết nghiên cứu nó một cách hợp lý và
thông minh. Nếu quả dân tộc Việt Nam có một đặc tính cách biệt hẳn với những
dân tộc khác, nhất là với dân Trung Hoa, thì đặc tính ấy, theo ý tôi ta có thể thấy
được bằng cách nghiên cứu những ca dao, cái tiếng nói trung thành nhất của dân
gian. Đọc hết những ca dao truyền tụng lại, ta sẽ thấy nỗi bậc lên cái tinh thần độc
lập của dân ta và các nỗ lực liên tiếp của tổ tiên ta đã thực hành trong bao nhiêu thế
kỷ để tránh nạn Trung quốc hóa. Nhờ sự nỗ lực phi thường này mà hiện giờ chúng
ta có thể tự hào rằng chúng ta vẫn giữ được trong cõi ý thức một tinh thần quốc túy
Việt Nam, cái tinh túy mà văn hóa Trung Hoa chỉ đã kết tinh lại mà không thể nào
thôn tính được.
Trương Tửu (1913-1999).
(Kinh thi Việt Nam, tái bản 1950)
Ca dao của ta tuy chưa hề chánh thức được suy tôn lên địa vị một bộ kinh
thánh, nhưng trong thực tế ca dao thường được dính liền với cuộc sống hằng ngày,
dầu là đời sống vật chất hay tinh thần của dân tộc, bằng cách hát lên cái tâm trạng
hồn nhiên phong phú, kích thích trong những hoàn cảnh lịch sử và kinh tế không
ngừng đổi thay.
Thuần Phong
(Ca dao giảng luận 10-5-1958)
Một bài ca dao bình dân thường là do người vô danh nào đó khẩu chiếm ra,
rồi lần lần qua miệng các người vô danh khác sửa chữa đi một cách rất ngẫu nhiên,
không riêng một ai in bản sắc của mình vào đó mà tất cả mọi người đều có dự phần
vào. Tác giả đích thị cùa bài ca chính là dân gian. Dân gian hát nó lên, truyền cho
nhau cứ thay đổi dần dần mãi đến bao giờ bài ca phản chiếu đúng hẳn tâm lý của
họ thì mới được nhận là hoàn toàn.
Paul Lafargue. (1842-1911)
7
KHÁI LUẬN.
Chúng ta có dịp về quê trong suốt tháng hè dài mệt mỏi. Về đây để tận
hưởng ngọn gió đồng mát rượi, tận hưởng những niềm hoan lạc hồn nhiên ngắm
giải ruộng đồng xanh mút tận chân trời, tận hưởng những thú vui đi thuyền trên
dòng sông nước đục màu phù sa, hai bên bờ dừa nước mọc chơm chiu, tận hưởng
những tiếng hót thanh tao của muôn chim từ rựng sáng đến hoàng hôn, tận hưởng
tiếng hát hò lơi lả từ những bài ca dân gian thắm đượm tình dân tộc… và còn
không biết bao nhiêu là cái vui mới lạ đang chờ chúng ta nơi ruộng đồng Việt
Nam.
Thật vậy, mưa cũng như nắng hầu như người dân đồng ruộng đều có công
việc làm, về quê mùa nào, chúng ta có cái vui riêng hưởng theo mùa đó.
Đất nước Việt Nam khá phong phú về tài nguyên thiên nhiên, là mảnh đất
rất màu mở mà nông nghiệp đã chiếm trên 80%, trên rừng đã có nhiều gổ quí, dưới
sông tôm cá dư thừa, ngoài biển đông vừa tìm ra mỏ Bạch hổ, mỏ dầu lửa khai thác
trăm năm chưa cạn. Tổ tiên ta từng nói “Nước Việt Nam có rừng vàng biển bạc”
mà. Thêm vào đó dòng máu chiến đấu anh hùng của dân tộc Việt Nam đã từng
đánh giặc Tàu chạy tan tác, bức phá xiềng xích một ngàn năm bắc thuộc, một trăm
năm nô lệ giặc Tây để đòi lại độc lập tự chủ dân tộc. Dù bản gốc người Việt Nam
có tư tưởng chất phác, tính tình hiền hậu, nhưng huyết thống bốn ngàn năm văn
hóa truyền từ đời vua Hùng Vương đến nay vẫn tỏ rỏ cho người ngoại quốc thấy
người Việt Nam có thừa bản lảnh giữ gìn đất tổ, có nghị lực dũng cảm kiên cường.
Tình gia đình, nghĩa xã hội, nợ quốc gia là ba nhiệm vụ thiêng liêng tối cần,
không riêng cho phái nam mà còn đến cả phái nữ. Cứ nhìn vào những câu ca dao
nói về luân lý thì ta thấy người xưa rất chú trọng đến sự giáo dục con cái trong nhà,
dạy cho biết mọi cách đối xử từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, dạy cách giao tế
ngoài xã hội, dạy phận làm con phải biết giữ đạo hiếu với cha me, ông bà, dạy
người phụ nữ phải giữ đạo vợ chồng trăm năm trọn kiếp, dạy tình nghĩa bè bạn
phải giữ chữ tín làm đầu, dạy cho mọi người phải biết giữ gìn cho cuộc sống được
dung hòa, bảo vệ nhân phẩm con người, được tự do trao đổi tư tưởng, mở rộng tình
cảm. Lời lẽ trong ca dao lúc thì cứng rắn kiên quyết, khi thì mềm mại dịu dàng, có
lúc cũng trơ trẽn bóng bẩy, cũng có khi sâu sắc kín đáo, thể hiện mọi cách bằng
chân thật, bằng biểu tượng, ngữ cảnh, vật cảnh thật dồi dào phong phú.
8
Khi nền khoa học xã hội chưa tràn vào đất nước ta, thì ca dao tục ngữ là nền
văn học bình dân được phát ra từ miệng người bình dân là tiếng kêu mạnh nhứt, có
ảnh hưởng nhứt trong mọi thời kỳ, mọi thế kỷ. Bởi nó là tiếng nói của con tim, của
những suy nghĩ tự đáy lòng.
Ca dao diễn tả đủ mọi loại hình, nhiều tình tiết, đầy bản năng, từ gia đình
đến xã hội, quốc gia, từ tình yêu cá nhân đến tình yêu đồng loại, từ tiếng kêu tách
biệt đến tiếng gọi hợp quần. Nói tóm lại, không một chi tiếc trong vạn thể vũ trụ
này mà ca dao lại không nhắc đến. Ca dao diễn tả một cuộc sống thực tế phát ra từ
miệng người bình dân, được lặp đi lặp lại cho tới một lúc nào đó nó thuộc hằn vào
câu hát chung của mọi người.
Cách phô diễn trong ca dao mỗi chữ, mỗi lời, mỗi câu đều có vịnh trước một
vật gì rồi mô phỏng theo vật đó mà nói đến cái ý chánh của mình. Ca dao ít khi
diễn ta trực tiếp (loại phú), dù là diễn tả một nếp sống, một tư tưởng, hoặc trữ tình,
hoặc nhạo báng, hoặc chống đối, hoặc khen chê, ca dao khởi điểm bằng một vật
thể hay một ngữ cảnh, nghĩa là phô diễn gián tiếp (loại tỉ hay loại hứng). Những
cảnh vật này là những thứ mắt thấy tai nghe hoặc sờ mó được ở chung quanh họ,
trong đời sống hằng ngày của họ. Khi thì họ nhận một cơn gió mà ta thán, khi thì
họ vịnh một làn mây để cầu xin, khi thì họ trông theo một con thuyền đang lênh
đênh giửa dòng sông để trút bớt nỗi sầu tê tái, khi thì ví một con chim mà tâm sự
những lúc nhớ thương khắc khoải.
Nhắc lại sự xuất hiện của ca dao, theo chứng cứ mà đoán về ngôn ngữ và xu
hướng tâm lý, sự chuyễn biến của vần điệu ca dao trong mỗi thời kỳ thì có thể
đoán rằng ca dao xuất hiện từ khi con người biết sống hợp quần, lập ra kế hoạch
trồng trọt, tổ chức cấy trồng theo từng mùa trong năm, dần dần xây dựng một xã
hội nhỏ, rồi lớn dần, phát triễn kinh tế từ nhỏ ra lớn, chính trong thời kỳ này ca dao
đóng vai trò quan trọng là khuyến nông, xây dựng bản làng, biểu lộ tình cảm con
người, nhất là tình duyên đôi lứa, giáo huấn ca, hát xẩm v.v…
Người xưa đã cố gắng tìm đến cái cội rễ của tinh thần dân tộc truyền thống
đang vươn mình lên vượt khỏi vòng lễ giáo của Hán tộc. Chỗ này ta thấy ca dao
biểu hiện một nếp sống không cầu kỳ, mặc dầu tất cả còn nằm trong thời kỳ ấu trỉ,
mà vì cái tinh thần quật khởi không lúc nào ngưng trệ nên khiến ai ai cũng đều say
sưa sáng tác, say sưa lăn mình vào cuộc sống đồng nội, say sưa buông lời tình cảm
theo câu hò tiếng hát. Những câu ca dao êm đềm làm sao quên được giọng ru con
của bà mẹ hiền trên võng vào những buổi trưa hè oi ả, làm sao quên được tiếng hát
của bạn điền gọi nhau ngoài đồng lúa, làm sao quên được những câu nói vần điệu
sau lũy tre xanh. Đó là những vần thơ mộc mạc đầy tính dân tộc từ thể ca truyền
9
khẩu của người Việt Nam trong xã hội bình dân làm ra. Ca dao là mối lên lạc tràn
ngập cảm thông, xúc tích và đầy hiệu nghiệm giữa con người và thiên nhiên.
Trong ca dao ta tìm thấy tiếng nói trái tim tha thiết của dân tộc ta, rất hảnh
diện để tự nhận rằng linh hồn của dân tộc ta là linh hồn bất di bất dịch, một linh
hồn làm sống lại hằng triệu linh hồn khác, còn lưu truyền mãi ở đời chúng ta, đời
con cháu chúng ta, đời chắt chít chúng ta một làn âm thanh êm diệu, một nền văn
minh hơn bốn ngàn năm tranh đấu để lại di tích cho muôn đời sau một nền văn học
bình dân, có lẽ đặc biệt nhất trên thế giới.
Viết quyển sách này tôi không có một tham vọng gì khác hơn là hiến cho quí
vị một cuộc du lịch vào trong nếp sống đồng nội của lớp người bình dân quanh
năm lăn lóc lam lũ với nghề nông tay lấm chân bùn, để thông cảm giữa họ với
thiên nhiên, để hiểu tâm lý của họ qua những câu ca dao truyền cảm về tư duy, về
lịch sử, về tâm lý, về giáo dục của một dân tộc, để tìm ra dấu vết tiếng hát, để hiểu
cuộc sống con người lúc bấy giờ.
Xét qua cái công trình khôi phục lại nền văn học truyền khẩu của cổ nhân,
đó không phải là sự nghiên cứu của một cá thể mà phải có hằng triệu triệu con
người có trách nhiệm tham gia vào.
Bồi dưỡng cái cũ, kiến trúc cái mới là bổn phận của những kẻ hậu thế đối
với tiền nhân.
Một bàn tay không thể xây dựng nên một tòa lâu đài mà cần nhiều bàn tay
họp lại, thật tâm kiến thiết, khôi phục những tinh túy trong cánh đồng hương hoa
bất tận, làm cho giang san thêm đẹp thêm xinh, làm cho đất nước càng giàu càng
mạnh, làm cho thơ ca truyền khẩu càng lúc càng dồi dào hơn mãi…
Ước vọng của tác giả là như thế.
10
CHƯƠNG THỨ NHỨT.
1. Nguyên thủy.
2. Định nghĩa.
3. Kỷ thuật ghép chữ.
4. Nội dung.
5. Ca dao tực ngữ.
1.- Nguyên thủy.
Ca dao là loại hình văn học truyền khẩu rất được thông dụng và lưu hành
trong khắp dân gian, vì vậy mà ta còn nghe có người gọi là dân dao.
Người bình dân dễ ham chuộng và hấp thụ mau lẹ ca dao, vì ca dao là những
câu thơ ngắn, dễ học thuộc lòng, dễ nhớ, nói lên được cái tâm trạng buồn, vui,
mừng, giận, thương, ghét, sợ hải của họ. Ca dao sinh ra ở nơi đồng chua nước mặn,
nơi ruộng lúa ao chuôm, trên bờ đê khóm trúc, dưới rặng dừa soi bóng hoàng hôn,
không những đã thuần một màu sắc dân tộc tính mà còn thuần ở điều kiện sáng tác:
ai cũng có thể sáng tác được.
Ca dao thường thì chỉ mười bốn chữ, câu sáu trên, câu tám dưới mà trong
thơ gọi là thể lục bát. Một bài ca dao dài lắm là mười sáu câu.
Ca dao có ba loại : Phú, Tỉ và Hứng, dùng ba loại này người bình dân đem
tâm tình mình ra diễn tả mọi chiều hướng, mọi phương cách, khi thì xác định, khi
thì gián tiếp, khi thì ví vỏm, khi thì kiêu sa.
Ví dụ loại phú, phô diễn trực tiếp, xác định rỏ tên, vật mình muốn nói :
- Giặc Tây đánh tới Cần Giờ
Biểu đừng thương nhớ đợi chờ uổng công.
- Chèo ghe sợ sấu cắn chưn
Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma.
- Biên hòa có bưởi thanh trà
Thủ đức nem nướng, điên bà Tây ninh.
11
- Thương chồng nấu cháo le le
Nấu canh thiên lý, nấu chè hạt sen.
- Ông già tôi chẳng lấy đâu
Ông đừng cạo mặt nhổ râu tốn tiền.
Ví dụ loại tỉ, phô diễn gián tiếp, lấy vật để thể hiện tình cảm dấu kín :
- Tò vò mà nuôi con nhện
Ngày sau nó lớn nó quến nhau đi
Tò vò mgồi khóc tỉ ti
Nhện ơi nhện hởi mầy đi đàng nào ?
- Uổng công xúc cá nuôi cò
Ngày sau cò lớn co giò lên cây.
- Lục bình bông tím
Điên điển bông vàng
Điên điển mọc ở đất làng
Lục bình trôi nổi như chàng hát rong.
- Đàn ông nằm với đàn ông
Như gốc như gác như chông như chà
Đàn ông nằm với đàn bà
Như lụa như lỉnh như hoa trên cành.
Ví dụ loại hứng, phô diễn gián tiếp, từ một sự vật bên ngoài có liên quan đến
sự cảm khích bên trong của con người, nhân mượn một vật để nói tới một việc, gọi
là sự cảm hứng tự nhiên bộc khởi, loại này rất được thông dụng trong ca dao :
- Trăng kia soi nửa vành cầu
Mà ai tím ấn công hầu thấy chưa.
- Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chìu ruột gan.
- Gươm vàng rớt xuống hồ tây
Công cha cũng nặng nghĩa thầy cũng cao.
12
- Không thương em hổng có cần
Trầm hương khó kiếm chứ đước bần thiếu chi.
- Trăng lu vì bởi đám mây
Đôi ta cách trở vì dây tơ hồng.
- Anh ngồi thuyền ngự cao cờ
Xin anh đoái thiếp đặng nhờ tấm thân.
- Công anh đốn trúc cặm nêu
Cha mẹ không gả anh kêu thấu trời.
- Ngó lên Châu đốc Vàm nao
Thấy thuyền anh chạy như dao cắt long.
- Trồng trầu thì phải khai mương
Làm trai hai vợ phải thương cho đều.
- Trời mưa bong bóng phập phòng
Mẹ đi lấy chồng con ở với ai
Có đói thì con ăn khoai
Đừng ở với dượng điếc tai la rầy.
Xét về nội dung, ca dao còn nói lên đủ mọi hình thức, mọi tình huống, hoặc
diễn tả lại một phong tục tập quán, hoặc đánh dấu một tình trạng kinh tế không
ngừng phát triễn, hoặc vẻ sơ sài một bức tranh quê hương kiều diễm, hoặc nhắc
nhở một lễ nghi tôn giáo cỗ truyền, mặt nào nó cũng giúp cho chúng ta tìm hiểu
mọi sinh hoạt xã hội trong các thời kỳ, trải qua hằng bao nhiêu sự biến cố của lịch
sử. Loại ca dao phú còn giúp cho chúng ta biết thêm về tinh thần đấu tranh dũng
cảm của tổ tiên truyền thống Việt tộc không bao giờ chấp nhận sự nô lệ giăc
phương bắc và luôn chứng tỏ tinh thần chống đối nho giáo và tập tục của người
hán tộc đang ăn sâu vào tâm hồn dân chúng. (Việt Nam đã bị bắc thuộc hơn ngàn
năm, từ 111 TCN đến 938 SCN). Trong thời kỳ ca dao còn ấu trỉ thi văn hóa Trung
quốc đã củng cố một địa vị khá vững vàng trên mọi ngôn đàn của dân tộc ta. Tuy
nhiên với tinh thần đấu tranh và không ngừng chống đối sẳn có, lại thêm điều kiện
kinh tế, lịch sử, vì lẽ đó mà văn hóa Trung quốc chỉ có thể xăm lăng trên khắp lảnh
thổ Việt Nam, nhưng không thể nào thôn tính được bản sắc dân tộc ta vào bản sắc
dân tộc Trung quốc.
13
Tất cả những điều kiện thuận lợi đó đã kết tinh lại thành một tinh thần chống
đối bằng một lối thơ bình dân do chính họ sáng tác với lòng tin tưởng nhiệt thành.
Màu sắc của phong dao tục ngữ là màu sắc của dân tộc. Tìm hiểu thấu đáo
nền văn học bình dân là chúng ta đã tìm đến cái cội rễ, cái linh hồn người Việt
Nam xưa. Giá trị của nó chúng ta đã thừa hiểu, văn chương của nó chúng ta cũng
từng biết, kho tàng này không những chỉ dành riêng cho người Việt Nam thưởng
thức, mà phải giới thiệu, phải quảng bá rộng rải cho người ngoại quốc khi họ muốn
tìm hiểu nguồn gốc dân tộc Việt.
Trải qua mọi biến cố của lịch sử, trước thời kỳ lập quốc, đang thời kỳ kiến
quốc, sau thời kỳ độc lập, ca dao vẫn giữ vững địa vị trong kho tàng văn học bình
dân, đó là những vần thơ đẹp khộng kém bộ kinh thi Trung quốc, đó là những câu
phong dao mà dân chúng Việt Nam rất ưa thích, bởi vì linh hồn họ, trí não ho, sinh
hoạt của họ đều ghi lại trong phong dao và tục ngữ. Họ hòa lòng mình vào trong vũ
trụ bao la, họ dễ dàng sáng tác một cách bộc trực. Thiên nhiên là mối liên quan mật
thiết trong đời sống tình cảm và kinh tế của họ. Họ nghỉ rối họ nói theo sự thu hút
của thiên nhiên, cho nên một câu hò, một lời ca tuy ngắn mà đầy đủ ý nghĩa, có
hiệu lực quyến rũ lòng người mau chóng. Xem đó chúng ta thấy rằng vai trò phong
dao tục ngữ có một địa vị khả quan trong nền văn học quốc ngũ nước ta.
Sau đây tôi xin định nghĩa danh từ và mạn phép trình bày một vài nhận xét.
2.- Định nghĩa.
Ca dao chia thành nhiều loại, gồm có phong dao, tục dao và đồng dao.
Ca dao là danh từ kép ở chữ Hán mà ra, ca có nghĩa là bài hát như ca xướng,
dao là câu hát ngắn không thành chương, không thành khúc. Như vậy ca dao là bài
hát ngắn không có chương khúc rỏ ràng, cảm hứng ra thế nào thì nói ra thế ấy và
lưu hành truyền khẩu trong dân gian.
Phong dao là bài hát ngắn tả cái phong tục tập quán của một vùng, một địa
phương, một dân tộc.
Tục dao là bài hát ngắn tả cái thói quen, cũng có nghĩa là tục trái với thanh,
thường những bài hát truyền khẩu của người bình dân giới trí thức cho là tục không
có chi đáng cho là thanh cao cả.
Đồng dao là bài hát ngắn ru em hoặc những bài hát dành riêng cho trẻ em.
14
3.- Kỷ thuật ghép chữ.
Thường thì kỷ thuật ghép chữ trong ca dao bằng thể thượng lục hạ bát, nghĩa
là câu trên sáu chữ, câu dưới tám chữ, chữ thứ sáu của câu dưới vần với chữ thứ
sáu của câu trên.
Trước khi ca dao biến thành thể lục bát hoàn toàn đã trải qua nhiều thời kỳ
chuyễn dịch trong kỷ thuật ghép chữ. Trước thì hơi giống như câu vè bốn chữ, sau
lại như thể thơ mới, rồi vần điệu hình như muốn thoát ra thể nói lối. Thử lấy ví dụ
bài hát này :
- Lạy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Cho đầy bát cơm.
- Nhay nháy đàng đông
Vừa trông vừa chạy.
Những chữ có gạch lằn dưới là những chữ đồng vận và đồng thanh với nhau.
Thể thơ này bốn chữ mà chúng ta quen gọi là thể vè. Ta hãy coi đây như là thủy tổ
thoát thai ra ca dao sau này vậy.
- Phú quí đa nhơn hội
Bần cùng thân thích ly
Bởi anh nghèo nên chịu chữ ngu si
Phải chi anh có của huống gì nơi thương.
Một câu nói xuôi mà khéo ngắt đoạn, thêm vào đó câu nói như có nhạc điệu,
có âm vận thì sẽ biến thành ra câu thơ. Khi mà những bài vè tương tợ như thế được
sinh ra và nảy nở đều đặn, dân gian mới nghĩ cách thêm chữ vào trong câu hát ấy
cho nó ngân dài nhạc điệu hơn, thế là những vần thơ lục bát dựa theo thể vè được
ra đời : (lưu ý chữ thứ tư câu dưới vần với chữ thứ sáu câu trên).
- Làm trai không đáng nên trai
Vót đủa cho dài ăn vụng cơm con.
- Đồn rằng quan tướng có danh
Cởi ngựa một mình chẳng phải vịnh ai.
15
- Con trai chưa vợ đã xong
Con gái chưa chồng buồn lắm em ơi.
- Cô kia má đỏ hồng hồng
Cô chưa có chồng còn đợi chờ ai.
Lâu dần rồi cũng hoàn thiện những câu như vầy :
- Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng bay vừa thì râm.
- Ở xa không biết nên lầm
Bây giờ rỏ lại vàng cầm cũng buông.
- Nước sông lửng đửng lờ đờ
Thương thì nói vậy đừng chờ uổng công.
- Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời về sau.
- Gió đưa cây cải về trời
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay.
Những câu hát này đã cho chúng ta thấy thể thơ trên sáu dưới tám rỏ ràng,
chứng tỏ sự cố gắng không ngừng để phát triễn nguồn thơ ca truyền khẩu bình dân
trong đại chúng. Từ một bài thơ mười sáu chữ trong bốn câu , bây giờ chỉ hai câu
có mười bốn chữ, nội dung ý từ không thay đổi, lại ngắn gọn hơn, thanh điệu dễ
nghe hơn. Tuy vần điệu và âm nhạc của thơ chưa làm chúng ta thỏa mãn lắm,
nhưng chúng ta cảm thấy sung sướng khi nhìn những bước đi chập chửng của vườn
thơ dân tộc lúc mới khai sinh. Sự sung sướng làm rung cảm tâm hồn cũng như sự
sung sướng của hai kẻ bắt đầu làm cha làm mẹ, nhìn đưa con đầu lòng kháu khỉnh
tập đứng chựng và đón nhận những lời nói đầu đời của đứa bé, thật tế nhị và ăn sâu
vào quả tim như muốn làm vở tung lồng ngực khi đưa bé thỏ thẻ gọi
“Paa…Paa…Maa…Maa…” ngọt ngào. Dù rằng giọng phát âm của đưa bé còn líu
lưỡi, ngượng nghịu, nhưng hai kẻ đó nghe chừng như sắp bừng lên một trời hạnh
phúc ấm cúng lạ lùng. Đặt cái ví dụ trên đây vào trường hợp của người xưa thì hỏi
sao lòng họ không lâng lâng một triều vui cởi mở. Dù thanh âm chưa suông điệu,
diễn đề còn lúng túng, rồi đây chúng ta sẽ thấy họ mượn những phương tiện ban
đầu ấy để làm một bàn đạp đạt tới một cứu cánh toàn diện, xây dựng một tinh thần
chống đối sau này. Thể thơ lục bát bắt đầu khai triễn từ đó.
16
Người ta vẫn chưa hiểu thế nào là bài ca truyền khẩu đúng với tính cách bình
dân của nó. Cái thể thơ ấy bổng thình lình chuyễn đổi sang nhiều hình thức phức
tạp khác, tuy âm điệu có xu hướng tiến lên thể lục bát, nhưng cũng không tránh
khỏi một số chữ thừa xếp trong câu chẳng có gì là thứ tự cả :
- Nhà máy Vĩnh Long chạy những trấu càng
Thân anh làm mướn bịt răng vàng mà chi
Em đừng nói vậy ngu si
Bịt chơi cho biết để họ khi bò rừng.
- Con chim khôn mắc phải lưới hồng
Cô kia là gái muộn chồng mà sớm con
Cô đừng khoe cô đẹp mấy cô dòn
Sao cô chẳng chịu phấn son bôi nhờn.
Trạng thái của chất thơ càng lúc càng bông lung, không có một quy tắc niêm
luật, đọc lên nghe như câu văn xuôi được phân đoạn bởi dấu phết :
- Anh ơi !
Đừng rơi nước mắt ớt
Đừng rớt nước mắt gừng
Nhân duyên ông trời định
Nửa chừng mà thôi.
- Mưa đàng đông vừa trông vừa chạy
Mưa đàng tây vừa làm vừa chơi.
Hình thức ghép chữ trong các bài ca dân gian trên vẫn chưa công nhận là
đúng, nói một cách khác chưa có âm điệu gì làm cho dân gian mê thích. Người ta
muốn giữ lại, không để cho hình thức thô thiển này có cơ hội bành trướng thêm
nữa, nên vì đó vần điệu càng gượng gạo, bị gò ép quá, âm nhạc càng trở thành
sống sượng.
- Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc
Dốc nào thấp bằng dốc Nam Vang
Một tiếng anh than
Hai hàng lụy nhỏ
Có chút mẹ già
Biết bỏ cho ai.
17
- Sơm mai chạy ra mất cái cuốc
Trưa lại mất cái nồi
Chiều lại mất ống bình vôi
Dậm chân ba tiếng kêu trời
Vợ con không có coi ngoài mất trong.
- Đêm nằm vò võ
Một xó giường không
Trời ơi, có cực hay không?
Người năm bảy vợ, người không vợ nào!
Đọc những bài hát ấy, hẳn chúng ta đang chứng kiến một nổ lực tiến đến thể
lục bát. Người bình dân rất có công chỉnh lại nền thơ ca truyền khẩu trong giai
đoạn này, giai đoạn mà hầu hết thơ ca đã và đang xuất hiện mãnh liệt vào đời sống
đại chúng một ý thức nghiêng về bản ngã và vận mệnh thật phong phú. Họ cố gắng
diễn đạt tư tưởng của họ vào trong những vần điệu tỉ hoặc hứng, ngắn gọn và thông
dụng ấy. Sự nổ lực chơn thành của họ đã đem lại thành công toàn hảo, từ hình thức
lẫn nội dung đều biểu hiện rỏ ràng ý chí của người bình dân. Ta nghe thấy được
tiếng lòng của họ qua những vần điệu trữ tình :
- Sông Thương nước chảy đôi dòng
Trai quên vợ, gái quên chồng thì lên.
- Ghe anh trở mũi trảng lườn
Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em.
- Rũ nhau xuống bể mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau.
Trở lại hình thức kỷ thuật ghép chữ. Như tôi đã nêu lên các giai đoạn biến
chuyễn về số chữ lúc thêm lúc bớt trong ca dao, chúng ta đều đồng ý rằng, sở dĩ
lúc mới thoát thai câu hát có đặc tính hồn nhiên là vì ý thức của dân gian chưa suy
xa hiểu rộng, một cảm hứng tự nhiên được phát ra bằng lời nhưng không ghi ra
bằng văn tự (có chữ Hán Nôm chứ chưa có chữ Việt ngữ). Vì không có văn tự để
ghi lời nói của mình vào trong đó, nên hình thức của bài hát dễ bị sai suyển. Tôi ví
dụ, khởi đầu khi họ phát âm ra câu nói :
18
- Gì là thương, gì là nhớ
Ai chưa vợ, ai chưa chồng
Lại đây trò chuyện cho mát lòng người ta.
Rồi sau đó bài hát được chỉnh lại :
- Gì là hương, gì là gió
Anh chưa vợ, em chưa chồng
Gặp đây chắc hẳn tơ hồng trời se.
Rồi sau đó nữa, khi bài hát được ghi thành văn tự, người ta lại sửa đi sửa lại
nhiều lần chính vì nguyên do đó mà chất thơ bị phóng túng, chữ ghép trong câu
chỗ thì thiếu chỗ thì thừa. Người ta không giữ được thể thơ như mới phát xuất ban
đầu nên dần dần biến thành ra thể nói, như một câu văn xuôi ngắt đoạn gảy gọn,
không khác gì thể thơ mới ngày nay vậy. Một lần nữa chúng ta phải công nhận sự
thành tâm cải tổ thể thơ cho hợp với ý thức quần chúng của mọi người trong giai
đoạn phục hưng này.
Dựa vào các biến hóa vần điệu trong ca dao, chúng ta thử đặt ra một bảng
thứ tự xuất hiện các thể thơ truyền khẩu đại cương như sau đây : (Kinh Thi Việt
Nam, tái bản 1950, trang 220 của Trương Tửu)
a) Tất cả những bài phong dao nào chưa phải là lục bát, vần điệu còn rộng
rải, tự do thì đều xuất hiện vào đầu lịch sử của dân tộc ta. (Khoản đầu
lịch sử của dân tộc ta tức là về đời Hồng Bàng (2897-258 trước tây lịch),
tục gọi là Văn Lang. Sau đời Hồng Bàng nước ta còn thay đổi nhiều quốc
hiệu khác như đời Thục An Dương Vương, gọi là Âu Lạc (257-207 trước
tây lịch).
b) Những bài nào tuy vần điệu còn hổn độn mà hình tượng thô thiển tiến lên
thể lục bát thì đều xuất hiện trong thời kỳ bắc thuộc, thời kỳ kết tinh ý
thức dân tộc. (Thời kỳ bắc thuộc (207 trước T/l -939), nói là thời kỳ kết
tinh ý thức dân tộc, nhưng theo tôi hiểu tất cả sự kết tinh ấy đều tiêm
nhiễm rất nhiều nền văn minh của Hán tộc, vì vậy không thoát ra cái
vòng bị lệ thuộc. Chính trong thời kỳ này ca dao truyền khẩu nổi lên tinh
thần chống đối mảnh liệt nhất).
19
c) Những bài nào theo thể lục bát hoàn chỉnh thì đều xuất hiện trong thời kỳ
độc lập của dân tộc (Thời kỳ tự chủ kể từ đời nhà Ngô (939) đến cuối đời
nhà Lê (1788).
Với những bằng chứng tổng quát của Trương Tửu Chắc chắn chưa ai công
nhận là đúng. Theo tôi nghĩ có thể người bình dân đã tìm ra niêm luật của
thể thơ lục bát rồi, người ta đua nhau truyền khẩu thể hát này trong dân gian,
nhưng đôi khi họ cũng thích làm theo cách nói lối, không quy tắc, không luật
định. Biết chừng đâu họ thích lập đi lập lại với một ý thức có chủ đích. Bởi
những bài hát ấy dù bị loại ra khỏi vòng, nhưng nếu chúng ta chịu khó suy
gẫm kỷ lại thì những bài hát ấy vẫn có cái duyên của nó trong cái thô thiển,
nghèn nghẹn trong cái tự do, phóng khoáng, đọc đi đọc lại vẫn thấy lý thú,
mới mẻ :
- Mâm đồng chùi sáng
Để dưới ván thấy hình
Cháo đậu xanh kia
Đường cát nọ
Nhớ mình quên ăn.
- Rau răm đất cứng
Dễ bứng khó trồng
Anh thương em từ thuở mẹ bồng trên tay.
Lẽ dĩ nhiên, đây không phải là sự sắp đặt vô ý, đọc lên ta nghe rỏ âm điệu
bình trắc của chất thơ, âm điệu nhạc trong thơ. Vậy thì, thời kỳ xuất phát ca dao
truyền khẩu trong đại chúng căn cứ vào ngôn ngữ và sự tổ chức hình thành xã hội
của người xưa mà đoán thì hãy dựa vào hai lý lẽ này : Ngôn ngữ và tâm lý của đại
đa số quần chúng. Lịch sử và sự phát triễn kinh tế.
Ở đây ta hãy nghiên cứu về lịch sử và sự phát triễn kinh tế. Dựa vào nội
dung bài ca truyền khẩu của người bình dân thì ta sẽ biết được ca dao sinh ra ở thời
kỳ nào. Ví dụ :
- Trời xuôi có trận mưa giông
Khiến con chim én vào trong đền vàng.
Câu hát này là ý nói vua Tự Đức trong lúc du thuyền chơi phá Tam Giang,
xảy gặp mưa to gió lớn nên khiến quân hầu cho thuyền rồng vào tạm ghé bến Vân
Trình, chợt vua ngó thấy trên bờ có một người thiếu nữ đẹp kiều diễm, thoáng
trông qua nhà vua đem lòng cảm mến nên truyền tuyển vào cung cho làm hầu
thiếp. Người thiếu nữ có tên là Yến, bất ngờ được tôn lên làm bậc Học phi, nghiễm
20
nhiên làm mẫu nghi thiên hạ, dân chúng nhớ câu chuyện ấy mới đặt ra câu ca dao
“Khiến con chim én vào trong đền vàng”
- Cha chài, mẹ lưới bên sông
Đứa con thi đậu làm ông trên bờ.
Đó là câu truyền khẩu của dân chài làng Quảng tế, huyện Hương trà, tỉnh
Thuận hóa (Thừa thiên) đặt ra để nhắc sự tích ông Huỳnh hửu Thường, con một
ngư phủ mà biết chăm lo việc học hành, sau thi đổ cử nhân rồi đổ luôn hoàng giáp,
làm quan đến Thượng thư. Vua Tự Đức rất mến tài ông, nhân thấy làng ông không
có đất đai chi cả, bèn hạ chỉ cắt ruộng đất giao cho làng Quảng tế để cho dân trở về
cư ngụ, trồng tỉa và xây cất đền chùa.
Thời Gia Long có câu hò đối đáp :
- Nghe anh làu thông lịch sử
Em xin hỏi thử đất nam trung
Hỏi ai Gia định tam hùng ?
Mà ai trọn nghĩa thủy chung một lòng ?
- Ông Tánh, ông Nhân, ông Tiếp
Ba ông hết sức phò nước một lòng
Nổi danh Gia định tam hùng
Trọng nghĩa thủy chung có ông Võ Tánh
Tài cao sức mạnh trọn nghĩa quyên sinh
Bước lên lầu Bát Giác thiêu mình như không.
Tam hùng đó là Đỗ thành Nhân (1781), ông Châu văn Tiếp (1784) va ông
Võ Tánh (1801), ba ông đã lập nhiều công lao lúc Nguyễn Vương còn yếu thế. Sau
vì thấy không giải vây được thành Bình định trước thế lực dũng mãnh của quân
Tây sơn do tướng Trần quang Diệu công thành, nên Võ Tánh sai quân lấy cỏ khô
chất đầy dưới lầu Bát Giác cho đánh lửa lên rồi thiêu mình mà thác. Về sau dân
chúng còn truyền tụng câu này nữa :
- Trông lên hòn tháp Cánh tiên
Cảm thương quan Hậu thủ thiềng ba năm.
Quan Hậu chính là hậu tướng quân Tả tiền dinh chưởng cơ chỉ phò mã Võ
Tánh, thủ thiềng là giữ thành, vì mộ của ông xây ở gần tháp Cánh tiên để truy ân
công trạng của Người.
21
- Chiều chiều én liệng truông mây
Cảm thương chú Lía bị vây trong thành.
Ám chỉ quận he Nguyễn hửu Cầu.
- Đồ bàn trống đã sang canh
Nhất vương nhị đế lừng danh một thời.
Nói về cuộc chiến thảm khốc xóa sổ triều đại Chiêm thành dưới thời vua Lê
thánh Tôn tại thành Đồ bàn.
- Lạy trời mau nổi gió nồm
Cho thuyền chúa Nguyễn thuận buồm chạy ra.
Câu hát trên cũng phát sinh vào thời vua Gia Long, cuối nhà Tây sơn mà dân
chúng xứ Nghệ an thường hay hát, vì không chịu được chánh sách hà khắc của
Nguyễn quang Toản nên mong vua Gia Long ra cứu vớt khỏi ách lầm than.
- Tháng chín có lệnh vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng
Có quần ra quán bán hàng
Không quần ra đứng đầu làng trông quan.
Theo Quốc Sử Di Biên vào thời vua Minh Mạng thứ 9 (1828) có một văn
bản liên quan đến việc bắt phụ nữ phải bỏ váy mặc quần, văn bản được ban ra vào
tháng 9, cho nên dân gian mới truyền khẩu bằng câu ca dao “Tháng chín có lệnh
vua ra”, chưa may kịp quần, phụ nữ đi chợ phải mượn quần chồng, bởi vậy có nơi
câu ca dao truyền khẩu viết :
- Tháng chín có lệnh vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng
Không đi thì chợ không đông
Mà đi thì mượn quần chồng sao đang.
Cũng vào thời vua Minh Mạng thứ 14 (1833), giặc cỏ Nùng văn Vân nổi lên
đánh phá Cao bằng, Lạng sơn kéo dài trên hai năm, vua sai Tổng đốc Hải an là
Nguyễn công Trứ đem quân dẹp loạn, thời ấy có câu ca dao truyền khẩu :
- Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
22
Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao bằng.
Những câu nói về lịch sử :
- Tây sang rồi tây lại về
Giặc đến Bồ đề rồi giắc lại tan.
Tây là nói về quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ, câu hát này ở cuối đời Vĩnh
Hưng vào đầu vua Chiêu Thống, ám chỉ anh em nhà Tây sơn kéo binh ra Thăng
long rồi bổng dưng quay trở về. Câu dưới nói về Tôn sĩ Nghị đem binh đóng ở bải
Bồ đề thì bị quân của Nguyễn Huệ đánh vở tan cấm đầu chạy thụt mạng.
- Tíêc thay cây quế giữa rừng
Để cho thằng Mán thằng Mườn nó leo.
Điển tích nói về công chúa Huyền Trân bị ép gã cho vua chàm Chế Mân.
- Một nhà sinh được ba vua
Vua còn vua mất vua thua chạy dài.
Một nhà sinh được ba vua là chỉ nhà Kiến thái Vương, vua còn là Đồng
Khánh, vua mất là Kiến Phúc, vua thua chạy dài là Hàm Nghi.
- Chu tri rành rành
Cái đanh nổ lửa
Con ngựa đứt cương
Ba vương tập đế
Cấp kế đi tìm
Hú tim òa ập.
Ý nói đến quân đội Pháp bắn phá vào cửa biển Đà Nẳng, đang lúc chiến
tranh thì bổng dưng vua Tự Đức băng hà (19-7-1883), không có người cai trị cho
nên triều đình sinh ra rối ben (con ngựa đứt cương). Kẻ nịnh thần nổi loạn, giết
chết những người trung trực với tiên vương.
Vua Dục Đức mất (6-10-1883), vua Hiệp Hòa kế tiếp mất theo(29-11-1883),
triều đình tấn phong Kiến Phúc lên nối ngôi, nhưng Kiến Phúc cũng thọ bệnh mà
chết (31-7-1884). Ba vua nối tiếp nhau chết nên mới có câu Ba vương tập đế.
Quyền hành lúc bấy giờ đều ở trong tay hai quan đại triều Tôn thất Thuyết và
23
Nguyễn văn Tường, hai ông này bèn lập Ưng Lịch, mươi hai tuổi, là em ruột của
vua Kiến Phúc lên ngai vàng, vua lấy niên hiệu là Hàm Nghi, việc nội trị đều do
hai ông Thuyết và Tường quyết định.
Bên ngoài cung đình thì quân Pháp dấy loạn, tướng De Courcy đem quân
bao vây thành Huế, kêu gọi vua Hàm Nghi phải thoái vị và buộc hai ông Tôn thất
Thuyết và Nguyễn văn Tường đến hầu, nhưng hai ông này quyết một trận mất còn
với quân đội Pháp vào đêm 4-7-1885, cuối cùng bị thua trận, quân Pháp khống chế
phải đưa vua Hàm Nghi trốn chạy vào Quảng Trị.
Thời kỳ này nổi lên phong trào cần vương dưới quyền lảnh đạo của vua
Hàm Nghi. Quân Pháp tiếp tục tấn công thành Mang Cá, một mặt cho người đi
lùng bắt vua Hàm Nghi, nên mới có câu Cấp kế đi tìm.
Sau những ngày bôn ba đào tẩu, tất cả vua quan binh lính đều mệt mỏi, thừa
dịp lúc vua Hàm Nghi đang an giấc thì có tên phản phúc Trương quang Ngọc đồng
lỏa với Nguyễn định Tình giết chết Tôn thất Thiệp (em Tôn thất Thuyết) và bắt vua
Hàm Nghi vào đêm 2-11-1888 đem nộp cho quân Pháp.(câu chót Hú tim òa ập)
- Trai Cầu Vồng, Yên Thế
Gái Nội Duệ, Cầu Lim.
Hai câu trên khen tụng trai thanh gái lịch ở tỉnh Bắc giang, nơi đó có cuộc
trường kỳ kháng chiến của nghĩa quân Yên Thế trong suốt ba mươi năm gian khổ
chống giặc Pháp.
Đó là về điều kiện lịch sử, còn về kinh tế ta nghe những câu hát nào mà có
nói đến danh từ của xứ ấy thì ta biết rằng câu ca dao sinh ra ở vùng dân bổn xứ đó,
thời kỳ đó. Sau đây nhiều câu ca dao phong phú về xứ Đồng tháp :
- Đồng tháp mười cò bay thẳng cánh
Nước tháp mười lấp lánh cá tôm.
- Ngó lên trời thấy căp chim đang đá
Ngó dưới nước thấp cặp cá đang đua
Chúng ta quyết chí cày bừa
Cả vùng đồng tháp đã mở mùa tái canh.
- Anh đi nước ngược, nước xuôi
Có về Đồng Tháp theo tôi thì về.
24
- Ai ơi! Về tới Tháp Mười,
Cá tôm sẵn bắt, lúa trời sắn ăn.
- Muốn ăn bông súng mắm kho
Thì về Đồng Tháp ăn cho đã thèm.
- Cần chi cá lóc, cá trê,
Thịt chuột, thịt rắn nhậu mê hơn nhiều.
- Xinh tươi con gái Tháp Mười,
Tay ôm bó lúa, miệng cười như hoa.
- Điên điển mà đem muối chua,
Ăn cặp cá nướng đến vua cũng thèm!
- Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
Về bưng ăn cá về đồng ăn cua
Bắt cua làm mắm cho chua
Gửi về quê nội khỏi mua tốn tiền!
- Xoài nào ngon bằng xoài Cao Lãnh
Vú sữa nào ngon bằng vú sữa Cần Thơ.
- Cửu long nước chảy đôi dòng
Sông Tiền, sông Hậu tưới đồng ruộng xanh.
- Em về Đồng tháp cùng anh
Mỹ an, Mộc hóa tái canh đất màu.
- Con sông Tiền liền con sông Hậu
Hai sông gom lại thành nước cửu long.
Dù cho nước đục hay trong
Xin đừng chia rẻ đau lòng chúng con.
Đồng tháp mười thời mới khai hoang có những tính chất đặc biệt khác như:
- Chèo ghe sợ sấu cắn chưn
Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma.
25
- Trời xanh kinh đỏ đất xanh
Đỉa bu, muổi cắn làm anh nhớ nàng.
- Ai vô Đồng Tháp em thương
Nước phèn, kinh cạn vấn vương tháng ngày.
- Muỗi kêu như sáo thổi,
- Đỉa lội tợ bánh canh,
- Cỏ mọc thành tinh,
- Rắn đồng biết gáy.
Có một câu chuyện về Đồng tháp mười thời mới khai hoang :
Bưng sấu hì.
Ngày xưa, lúc Đồng Tháp Mười còn hoang vu, có một gia đình nông dân
đến lập nghiệp. Họ cất chòi ở bìa rừng tràm, chồng phá rừng tràm khai hoang làm
ruộng, vợ chăn nuôi heo gà, lo cơm nước… như mọi người khai hoang lúc bấy giờ.
Hai vợ chồng có thằng con trai được 10 tuổi. Hàng ngày nó thường vào rừng bẫy
chim, bắt cá, ăn ong…
Năm nọ, đã qua tháng năm âm lịch mà trời vẫn chưa đổ mưa, nước trong
bưng, đìa, bàu… đều khô kiệt. Như mọi ngày, thằng nhỏ sáng quảy gùi đi lấy mật,
đến trưa hoặc xế chiều mới về. Nhưng một hôm, đến tối mịt mà nó vẫn chưa thấy
về. Hai vợ chồng trông đứng, trông ngồi và vô cùng lo sợ điều không may xảy ra,
nhưng không ai dám nói ra.
Đêm đến, cả hai đều không ngủ, ra sân ngóng về phía rừng mong con.
Người chồng dùng tay làm loa hú gọi con. Hú xong, họ lắng tai nghe; mong chờ có
tiếng đáp lại. Hú chừng vài hiệp, họ nghe văng vẳng, mơ hồ dường như có tiếng hì
đáp lại. Người chồng hú tiếp, rồi lắng nghe. Lần này họ nghe rõ ràng có tiếng hì
vẳng lên nho nhỏ từ xa. Họ phân vân, không biết có phải tiếng con mình trả lời hay
không. Người chồng không hú nữa, nhưng vẫn nghe tiếng hì. Hai vợ chồng vừa
ngạc nhiên vừa mừng, không biết làm gì hơn là đánh mõ kêu cứu.
Hàng xóm chạy đến, người mác vót, người chĩa ba, kẻ cầm đuốc, chạy vào
rừng hướng về phía phát ra tiếng hì. Một lúc khá lâu, sau khi vượt qua khỏi cụm
rừng tràm rậm rạp, một cái hà lãng thật lớn hiện ra trước mặt mọi người. Chính từ
nơi đó phát ra tiếng hì. Dưới ánh đuốc chập chờn, hà lãng loang loáng nước, hiện
ra những khúc tràm lớn đang ngo ngoe phì phò thở.
26
Đến sáng thiệt mặt, thì ra đây là cái bưng giữa cụm rừng tràm dày ít người lui tới,
nay nước đã kiệt, bùn đặc quánh lại, cá sấu tụ về và bị kẹt lại đây. Tiếng hì chính là
tiếng thở của chúng.
Họ tìm thấy cái gùi mật ong bên cạnh một gốc cây, như vậy là thằng nhỏ rớt
xuống hà lãng bị cá sấu ăn thịt rồi! Người vợ gào lên thảm thiết, người chồng im
lặng, nước mắt chảy quanh.
Sau một hồi trấn tĩnh, người chồng hướng dẫn hàng xóm dùng xuổng đào
một cái rãnh nhỏ ngược với hướng gió, rồi vào rừng tìm cây mốp xác đốt lên. Khói
cây mốp làm lũ cá sấu cay mắt, sặc sụa tìm đường bò lung tung, nhưng không sao
thoát ra khỏi hà lãng, vì chung quanh không có nước. Để tránh cay mắt và không bị
sặc, chúng bò lên hướng ngược gió và như vậy là từng con lần lượt nối đuôi nhau
bò vào cái rãnh vừa đào. Những người hàng xóm cứ việc đè bắt từng con, lấy mây
rừng xỏ mũi như xỏ vàm trâu và dùng mác vót cắt rút gân đuôi, nên chúng không
còn quẫy đạp làm gì được nữa. Đến gần trưa, đàn sấu bị bắt sạch và xỏ mũi dẫn về
xóm. Từ đó, cái bưng này có tên là Bưng Sấu Hì.
Lan Quyên (tổng hợp)
Một câu hát ở Bạc liêu :
- Bạc liêu nước chảy lờ đờ
Dười sông cá chốt, trên bờ Triều châu.
Câu hát ở xứ dừa Bến tre :
- Bến Tre nước ngọt lắm dừa
Ruộng vườn màu mỡ biển thừa cá tôm
Sầu Riêng, măng cụt Cái Mơn
Nghêu sò Cồn Lọi, thuốc ngon Mỏ Cày.
- Bến Tre giầu mía Mỏ Cày
Giầu nghêu Thanh Phú, giầu xoài Cái Mơn
Bến Tre biển cá sông tôm
Ba Tri muối mặn, Giồng Trôm lúa vàng.
- Kẹo Mỏ Cày vừa thanh vừa béo,
Gái Mỏ Cày vừa khéo, vừa ngoan.
Những câu hát về Biên hòa :
27
- Ăn bưởi thì hãy đến đây,
Vào mùa bưởi chín vàng cây trĩu cành
Ngọt hơn quýt mật, cam sành
Biên Hoà có bưởi trứ danh tiếng đồn.
- Biên hòa bưởi chẳng đắng the
Ăn vào ngọt lịm như chè đậu xanh.
- Sầu riêng măng cụt chôm chôm
Xoài ngon mít ngọt chuối thơm bạt ngàn.
Những câu hát về Cần thơ :
- Xoài nào ngon bằng xoài Cao Lãnh
Vú sữa nào ngon bằng vú sữa Cần Thơ.
- Cần Thơ có bến Ninh Kiều
Có dòng sông đẹp với nhiều giai nhân.
- Cần Thơ gạo trắng nước trong
Ai đi đến đó lòng không muốn về.
- Cần Thơ là tỉnh Cao Lãnh là quê
Anh đi lục tỉnh bốn bề,
Mải lo buôn bán không về thăm em.
- Đất Châu Thành anh ở
Xứ Cần Thơ nọ em về
Bấy lâu sông cận biển kề
Phân tay mai trúc dầm dề hột châu.
Những câu hát về Gia định Đồng nai :
- Nhà bè nước chảy chia hai
Ai về Gia định, Đồng nai thì về.
- Đèn nào cao bằng đèn Thủ Ngữ
Gió nào dữ bằng gió Ðồng Nai.
Những câu ở miền bắc :
28
- Ai lên làng Quỳnh hái chè
Hái dăm ba lá xuống khe ta ngồi.
Làng Quỳnh thuộc huyện Lục nam, tỉnh Bắc giang không những chỉ có chè
mà còn có cả gạo trắng, cá tươi nữa :
- Muốn ăn cơm trắng cá rô
Thì lên làng Quỳnh quấy bồ cho anh.
Làng Bát tràng thuộc huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc ninh, nổi tiếng có gạch nung
và đồ gốm :
- Hôm qua anh đến chơi nhà
Thấy mẹ nằm vỏng thấy cha nằm giường
Thấy em nằm đất anh thương
Anh về mua gạch bát tràng anh xây.
Hoặc là :
- Trên trời có đám mây xanh
Chính giữa mây trắng chung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch bát tràng về xây
Xây dọc rồi lại xây ngang
Xây hồ bán nguyện cho nàng rửa chân.
Làng Lạc Thổ có nghề làm vàng mã và nuôi gà, chim, bồ câu :
- Mến yêu lạc thổ thì về
Làng em làm mã có nghề chăn nuôi
Đất vui nhiều lợi thảnh thơi
Gà chăn chim thả chờ thời mỗi niên.
- Đồng đăng có phố Kỳ lừa
Có nàng Tô thị, có chùa Tam thanh.
- Sâu nhất là sông Bạch đằng
Ba lần giặc đến, ba lần giặc tan.
- Cao nhất là núi Ba vì
Thứ ba Tam đảo thứ nhì độc tôn.
29
- Yên thế lắm núi nhiều rừng
Vô vàn tre gổ anh đừng có quên
Anh về rồi anh lại lên
Tiền rừng bạc bể ai quên chốn này.
- Ai về đến huyện Đông anh
Ghé xem phong cảnh loa thành Thục vương
Cổ loa hình ốc khác thường
Trải qua năm tháng nẽo đường còn đây.
- Đường lên xứ Lạng bao xa
Cách một trái núi với ba quảng đồng
Ai ơi đứng lại mà trông
Kìa núi Thành lạng kìa sông Tam cờ.
Những câu ở miền trung :
- Đông ba, Gia hội hai cầu
Ngó lên Diệu đế bốn lầu hai chuông.
- Bình định có núi Vọng phu
Có đầm Thị nại có cù lao xanh
Em về Bình định cùng anh
Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa.
- Quảng nam có núi Ngũ hành
Có sông chợ củi có thành Đồng dương.
- Ai về Tuy phước ăn nem
Ghé qua Hưng thạnh mà xem tháp chàm.
- Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình định cầm roi đi quyền.
- Gò bồi có nước mắm cơm
Ai đi cũng nhớ cá tôm Gò bồi.
- Em về dưới chợ Kỳ sơn
Mua tôm mua cá đền ơn mẹ già.
30
- Mảng vui Hương thủy Ngự bình
Ai vô Bình định với mình thì vô
Chẳng sang chẳng lịch bằng đất kinh đô
Nhưng Bình định không đồng khô cỏ cháy
Ba dòng sông chảy, bảy dải non cao
Biển đông sóng vỗ dạt dào
Tháp xưa làm bút ghi tiếng anh hào vào mây xanh.
- Núi Ngự bình trước tròn sau méo
Sông An cựu nắng đụt mưa trong
Em đây vốn thật chưa chồng
Núi cao sông rộng biết gởi lòng cùng ai.
- Anh về Huế, cắt rễ tai bèo
Gởi vô em bán, đỡ nghèo đôi năm.
- Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu hồng đào chưa nhấm đà say
Bạn về nằm nghĩ gác tay
Hỏi nơi mô ơn trọng nghĩa dày bằng ta.
31
4. Nội dung.
Ca dao là phương tiện dùng để biểu lộ tình cảm, khuyến nông, luân lý, lịch
sử, kinh tế, phát triễn theo tiếng gọi cộng đồng của đa số người bình dân, trong mọi
chiều hướng sinh hoạt hằng ngày của con người, theo sự tiến hóa của thời gian và
không gian. Dân gian đã chấp nhận quy tắc truyền khẩu này, và đã dần dần coi nó
là một thể ca không thể thiếu được trong đời sống con người thuộc về nghề nông.
Ca dao là hồn thơ bất tận của của nhóm thi sĩ dân gian, là kho tàng văn chương in
đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. Ca dao sở dĩ phong phú là vì ai cũng nghĩ đó là bài
ca truyền khẩu do chính mình sáng tác, khi mình hát lên thì đó là bài hát của mình,
cho nên mọi người đều gìn giữ không để mai một.
Ca dao phong phú nhứt là loại tình cảm giữa đôi nam nữ, vì công việc hằng
ngày thường gặp gở nhau, quen biết nhau rồi thương nhớ nhau v.v…đặt ra những
bài ca tình ái lãng mạng, gút chiết, sâu sắc. Do đó ca dao in đậm nét truyền cảm
xúc tích, là tiếng nói sôi nổi của lòng, tiếng gọi thiết tha của tâm não, tiếng kêu đả
phá một chế độ thối nát. Ngoài sự biểu lộ tình cảm, tính cách luân lý và bản năng
chống đối, ca dao còn là một sự phát huy tư tưởng.
Sự hạn chế về hình thức càng dể dải bao nhiêu thì về nội dung lại được chú
ý nhiều bấy nhiêu. Mỗi một lời trong ca dao là mội một tư tưởng được trình bày rỏ
ràng và thích ứng. Chúng ta tự hỏi những thi sĩ vô danh của ca dao là những hạng
người nào trong xã hội, mà khi một lời, một chữ của họ phát ra gây một cảm giác
tế nhị và một nhận xét khá tinh vi, trong đó còn ngụ ý nhiều điển tích thích hợp:
- Chổi tiên quét sạch chùa vàng
Sửa sang ông Phật cho nàng đi tu.
Tương truyền rằng con gái vua Minh Mạng là công chúa Huyền Trân nhận
ra cuộc đời là giả tạm sắc không, không sắc vô thường,bèn bỏ nếp sống vương giả
trong cung trốn vua cha vào núi dương hỏa sơn đi tu. (Dương hoả sơn là một trong
ngủ hành sơn nổi tiếng ở Đà nẳng) Thật ra thời bấy giờ trong núi hỏa sơn không có
chùa vàng, chỉ có một cái am và một tượng Phật Thích Ca bằng đất sét nun. Vì nơi
mà công chúa đi tu cho nên dân gian mới dùng đến điển tích “chổi tiên” và “chùa
vàng” cho thích hợp địa vị xã hội của một công chúa.
- Nực cười châu chấu chống xe
Tưởng rằng chấu nát ai dè xe nghiêng.
32
- Ai ơi chớ lấy học trò
Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm.
- Ai cho sen muống một bồn
Ai cho chanh khế sánh cùng lựu le.
- Ai nhứt thì tôi thứ nhì
Ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba.
Nếu đem ra mà giải thích những từ ngữ châu chấu chống xe thì ta biết châu
chấu là điển ngữ chỉ giống người nhỏ bé, hoặc một nước nhỏ như dân tộc Việt
Nam, còn xe là ám chỉ một nước lớn mạnh hơn nước ta như Hán tộc, Pháp quốc.
Đọc qua hai câu này chúng ta thấy cái tinh thần quật khởi không chịu khuất phục
của tổ tiên chúng ta luôn luôn chiến đấu dành sự sống còn trước hiểm họa bành
trướng của nước mạnh. Nhờ tinh thần dũng cảm ấy mà nước nhỏ không bị tiêu
diệt, trái lại còn đánh lại cho bọn chúng nhiều lúc xấc bấc xang bang. Câu “Tưởng
rằng chấu nát ai dè xe nghiêng” nói lên rằng, xe đã nghiêng ám chỉ một nước ngoại
bang thất trận, chấu không nát nghĩa là dân tộc ta vẫn còn chiến đấu không mệt
mỏi.
Muốn đạt tới ý nguyện toàn hảo lẽ dĩ nhiên họ phải triệt hạ những kẻ ăn
không ngồi rồi, đã “dài lưng” mà còn thêm “tốn vải”. Dân chúng muốn nói đến cái
lớp sĩ phu tối ngày chỉ biết có việc mài dủa bút lông bên nghiên mực. Trong thời
buổi chiến tranh, đất nước loạn lạc, dân chúng cần những vị anh hùng mài kiếm
dưới trăng, đem tài năng ra giúp nước, giải phóng cho toàn dân thoát khỏi gọng
kiềm của quân xăm lượt, tàn bạo với đồng bào ta nên họ mới đả kích bọn sĩ phu
bằng câu “Ai ơi chớ lấy học trò, dài lưng tốn vải ăn no lại nằm”.
Chúng ta còn thấy trong tâm hồn họ một ung nhọt đáng ghét là còn phân
chia giai cấp nhân sinh trong xã hội, câu “Ai cho sen muống một bồn, ai cho chanh
khế sánh cùng lựu le” khiến chúng ta thương hại những kẻ nghèo luôn bị bạc đải.
Những kẻ ăn trên ngồi trước có bao giờ bố thí một chút cơm thừa cá lạt cho những
kẻ bịnh tật nghèo hèn mà còn sai biểu bọn gia nhân xua đuổi thậm tệ.
Tuy nhiên, nghèo mà có chí phấn đấu để vươn lên, để không bị thua thiệt để
cũng có một chút tên tuổi gì đó trong xã hội, thì “Ai nhứt thì tôi thứ nhì, ai mà hơn
nữa tôi thì thứ ba”. Quả là một sự ganh đua minh bạch, có thiện chí, chung qui đều
góp công xây dựng đất nước giàu đẹp.
33
Tâm hồn của họ là tâm hồn chung của tất cả chúng ta, tâm hồn dân tộc. Bởi
vì chúng ta nhìn thấy, chúng ta nghe thấy, chúng ta cảm thấy tất cả đều là sự thật,
nói về tính cách truyền thừa thế hệ trước sau :
- Con vua thì lại làm vua
Con sải ở chùa thì quét lá đa.
Dù là tư tưởng lãng mạng, họ cũng chơn thành phát biểu :
- Thương nhau cởi áo cho nhau
Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay.
Tư tưởng không bị gò ép, giả tạo, đã vượt hẳn ra vòng khuôn sáo, biết người
biết ta, không e dè, không ngượng nghịu, đi thẳng vào nơi mình muốn giải bày :
- Ruộng ai thì nấy đắp bờ
Duyên ai nấy gặp đừng chờ uổng công.
Hoặc là :
- Bướm bay giữa biển bướm rơi
Thấy em nhỏ tuổi (mà) nhiều nơi anh buồn.
Trình bày một tình cảm, diễn đạt một tư tưởng trong ca dao đã tài tình như
thế mà vẫn không bị mất những cung bậc âm thanh, không thiệt hại vần điệu thể
thơ, trong khi đó màu sắc phụ đã thấy trong ca dao rất dồi dào, rất linh động :
- Trèo lên cái núi Thiên thai
Gặp hai chim phượng ăn xoài trên cây
Đôi ta được gặp nhau đây
Khác gì chim phượng gặp cây ngô đồng.
- Anh ơi đừng bỏ giọng trầm
Đừng ham tiếng ngọt, mà cầm duyên em.
- Anh trông lên trời, ông sao xuống đất
Anh trông xuống đất, con đóm lên trời
Gặp em đây, anh dặn mấy lời
Ba sinh hương lửa, muôn đời chớ quên.
- Anh về thấy cảnh thêm buồn
Nhành mai ủ bột, vách tường nhện giăng.
34
- Bạc lộn thau như vàng lộn trấu
Anh chỉ thương thầm không thấu dạ em.
- Bần che bóng mát, cá thác lác quẫy đục ngầu
Anh hỏi em đã có nơi nào hay chưa?
- Bằng lăng chặt khúc bắt cầu
Đặng anh qua lại giải sầu cho em.
- Bẻ bông sen cắm lọ lục bình
Mùi thơm ai hưởng để cho mình chịu oan.
- Bóng trăng ngã lộn bóng tre
Chàng ơi, thức ngủ dậy nghe thiếp thề
Vườn đào thả lộn vườn lê
Con ong vò hút nhụy, con bướm xê ra ngoài
Chàng ơi, nghĩ lại mà coi
Tâm tình thiếp ở như gương soi không bằng.
- Bước chân xuống ruộng dưa gang
Lòng tưởng nhớ chàng gieo hạt hôm xưa
Đôi tay em nắm trái dưa
Nhớ khi tát nước giũa trưa chung gàu.
- Bước xuống ruộng sâu, sầu đầy tất dạ
Tay ôm bó mạ, nước mắt hai hàng
Ai làm trễ chuyến đò ngang
Cho sông cạn nước, đôi dòng biệt ly.
- Cát bay, vàng chẳng thấy vàng
Tiếc công anh lận đận với nàng bấy lâu.
- Con quạ đen lông kêu rằng ô thước
Thấy em có chồng vô phước, anh thương.
Con người chân quê chất phác, nên lời nói của họ dù mộc mạc vẫn không
mất cái vẻ linh động, vì cuộc sống của họ linh động mà, có lúc họ bộc trực cái lối
khôi hài trong đời sống sinh hoạt hằng ngày khiến người đọc ca dao truyền khẩu
cảm thấy chất liệu văn chương bình dân đạt đến đỉnh tuyệt vời, chen lẫn nụ cười
thắm thía, ý nghĩa mĩa mai, tục mà thanh :
35
Trai hỏi :
- Nhà em tội lỗi gì đâu
Mà em đi chổng phao câu lên trời ?
Gái đáp :
- Nhà em chẳng tội lỗi gì
Nếu không đi chổng lấy gì anh sơi.
Hoặc là :
- Lổ mũi em thì tám gánh lông
Chồng yêu chồng bảo tơ hồng trời cho
Đêm nằm thì ngáy o o
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà
Đi chợ thì hay ăn quà
Chồng yêu chồng bảo về nhà đở cơm
Trên đầu những rác cùng rơm
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu.
Hoặc là :
- Rầu rỉ râu ria ra rậm rạp
Rờ râu râu rụng, rờ rúng rúng rung rinh.
Nhờ đưa màu sắc thiên nhiên vào nguồn cảm hứng, nên lời lẽ phát ra thật
vững chải, không lệch lạc, đầy sinh khí :
- Rau răm đất cứng
Dễ bứng khó trồng
Anh thương em từ thuở mẹ bồng trên tay.
Bởi nhờ có màu sắc phụ thêm vào khiến cho tư tưởng sáng tỏ, ý tứ rỏ ràng
và tâm hồn của con người dễ cởi mở, quyến rũ được lòng người đưa đến tột đỉnh
siêu thoát :
- Thương người khác thể thương thân
Ghét người khác thể vun phân cho người.
- Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy là khác giống nhưng chung một giàn.
Tâm hồn có xao xuyến nhiều, có phức tạp nhiều, ý thơ mới được sáng tỏ
nhiều. Chúng ta quyết đoán mười phần về phương diện nội dung của ca dao cỏ đủ
lý lẽ vững chắc trong mỗi lời và mỗi ý, là vì tâm lý chung của người bình dân đều
phô diễn một cách chính xác, không mơ hồ, không ảo giác. Sự suy nghĩ phóng
khoáng, cho nên những điều mà họ nói, làm, tư tưởng, ước mong rồi họ trình bày
36
thẳng thắng, không đôi co, vậy mà những chữ ấy khi rớt ra từ miệng họ nó như
được sắp đặt, được phân loại một cách thứ tự, có lớp lang :
- Chừng này đứng bóng đã trưa
Bớ ông chủ ruộng sao chưa xuống đồng.
Nghĩ sao nói vậy, không trù liệu trước, vì vậy mà ý tứ trong thơ có nhiều
màu sắc linh động :
- Tay bưng dĩa muối chấm gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.
- Hởi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi !
Thật là đẹp về ý mà cũng thanh về lời. Nhận xét của họ nhẹ nhàng, tế nhị
đầy ấn tượng :
- Thức khuya mới biết đêm dài
Ở lâu mới biết ai người có nhân.
Hoặc là :
- Miếng ngon nhớ lâu
Miếng đau nhớ đời.
Nói tóm lại nội dung trong ca dao bố cục rất vững vàng, khi người ta đọc
qua một câu ca dao truyền khẩu thì người ta hiểu ngay ra họ muốn nói gì. Tuy
nhiên không ít có một vài bài trong số đó, có bài như vầy :
- Ngồi buồn đốt một nắm rơm
Khói lên nghi ngút chẳng thơm chút nào
Khói lên thấu đến Thiên tào
Ngọc hoàng phán hỏi đưa nào đốt rơm ?
Không biết người bình dân miêu tả cảnh một người ngồi buồn rồi đốt rơm,
trong đó họ muốn ngụ ý gì, khói rơm thì còn làm sao thơm được mà bảo rằng
chẳng thơm. Thì ra vì con người đã khắc phục được thiên nhiên, sống hòa mình
vào thiên nhiên, nên khiến cho một ý tưởng, một suy nghí vu vơ vẫn biểu lộ ra
được bằng lời đậm nét thiên nhiên thuần túy.
37
- Chiều chiều ngó ngọn cây bần
Thấy ba ông Địa ở trần nấu cơm
Ông kia xách dĩa lại đơm
Ông nọ ứ hự nồi cơm mới vần
Mới vần mặc kệ mới vần
Bây giờ đói bụng xúc lần ra ăn.
Một điểm khác nữa, dù nội dung trong ca dao người đọc hiểu nhiều nguồn
sáng tác từ trong dân gian, vì được truyền khẩu từ đời này sang đời khác, dần dần
cái thiên nhiên trong thơ đã biến hẳn ra cái cá nhân chánh hiệu, mỗi cá nhân này
đều coi ca dao truyền khẩu là do chính mình sáng tác, vì vậy mà nội dung của ca
dao càng được bồi dưỡng thêm mãi, cho đến khi nào có một lý lẽ vững chắc nhứt
định, hợp với đại chúng.
Nội dung ca dao thể hiện nhiều loại hình, mà trong đó thai đố cũng đóng góp
một phần không nhỏ cho thi ca bình dân.
Các câu thai đố về trái cây :
- Gìa mặc áo đỏ
Nhỏ mặc áo xanh (trái ớt).
- Chân chẳng đến đất
Cật chẳng đến trời
Lơ lửng giữa trời mà đeo bị sỏi (trái lựu).
- Có chồng mà lại lấy trai
Chết xuống âm phủ cưa hai nấu dấu (trái lý).
- Liên âm đối ẩm đòi phen
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già
Cho bỏ lúc sầu xa cách nhớ
Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình (trái mảng cầu).
- Một mình âm ỉ canh chầy
Dĩa dầu vơi, nước mắt đầy năm canh.
(Trái sầu riêng)
- Bằng cổ tay treo ngay đầu cột
Ăn cơm rồi, bắt lột áo ra.
(Trái chuối tráng miệng sau bữa cơm)
38
Các câu thai đố về cây :
- Cây suông đuồng đuột
Trong ruột bọng không (cây hành lá).
- Cây lèo tèo
Dễ trèo khó ăn (cây soan).
- Sừng sửng má đứng giữa nhà
Ai vào không hỏi ai ra không chào (cây cột nhà).
- Đầu rồng đuôi phụng le te
Mùa xuân ấp trứng, mùa hè nở con (cây cau và buồng cau).
- Ba thằng nó ở ba thôn
Đến khi nó chết nó dồn vào nhau (cây trầu,cây cau và bình vôi).
- Cây xanh lá đỏ hoa vàng
Hạt đen rể trắng đố chàng biết chi (rau sam).
- Càng già càng cứng càng tươi
Nhởn nhơ mà đứng giữa trời cao xanh (cây tre).
- Dưới trời trên nóc trên chùa
Trên đình trên miễu trên vua là gì (cây tầm vông).
- Thân em ở bụi ở bờ
Chồng con không có chỉ nhờ tiếng kêu (rau má).
Các câu thai đố về động vật :
- Hai gươm tám giáo
Mặc áo da bò
Thập thò cửa lổ (con cua).
- Không chưn, không tay, không mắt, không mũi
Lũi thũi mà đi
Cu li không đầu (con ốc).
- Đầu như khóm trúc
Lưng uốn khúc rồng
39
Sinh thì bạch
Tử thì hồng
Xuân hạ thu đông
Bốn mùa có cả. (Con tôm)
- Vừa bằng hạt đổ
Đi ăn giỗ cả làng (Con ruồi)
- Ngày thơ thẩn vườn hoa
Tối thơ thẩn má đào
Theo nàng tiên trong giấc ngủ chiêm bao
Ghẹo công tử đang mơ màng mộng điệp (con muỗi).
- Bốn ông đập đất, một ông phất cờ
Một ông vơ cỏ, một ông bỏ phân
(Con trâu: 4 chân, đuôi, mõm, lỗ đít)
- Ngồi cao hơn đứng (Con chó).
Các câu thai đố về vật :
- Con đánh bố, bố la làng
Làng chạy ra con chui bụng bố.
(Cái mỏ và dùi mỏ)
- Ngả lưng cho thế gian nhờ
Vừa êm vừa ấm lại ngờ bất trung.
(phản để nằm, như một tấm ván)
- Đêm đêm che gió cho người
Chẳng thương thì chớ lại cười rằng ngu.
(Cái dại che gió)
- Thân em má đỏ hồng hồng
Khi đi lấy chồng thì ở quê xa
Đền khi tuổi tác về già
Quê chồng em bỏ quê cha lại về (cái nồi đất).
- Có lòng mà chẳng có gan
Có hai con mắt soi đàng mà đi (chiếc ghe).
40
- Hai tay ôm lấy cột nhà
Ruột gan không có, có da bầy nhầy (cái vỏng).
- Cái gì như cái nia
Ba làng chia không hết (cái giếng).
- Tròn tròn như lá tía tô
Bước xuống ao hồ đầu ướt đuôi khô (cái gáo dừa múc nước).
- Trên bằng da dưới cũng bằng da
Mang vào thì ấm cởi ra lạnh lùng (giày bằng da).
- Thân tròn vành vạnh đít bảnh bao
Măn măn mó mó đút ngay vào
Thủy hỏa tương giao sôi sình sịch
Âm dương nhị khí sướng làm sao
(cái điếu thuốc lào và sự hút thuốc lào).
- Canh một thì trải chiếu ra
Canh hai xét vú, canh ba rà mồm
Canh tư khởi ép sự dồn
Canh năm cuốn chiếu, rửa trôn, việc rồi.
(động tác của người ngư dân làm nghề đóng đáy trên các cửa sông).
- Hai tay nắm lấy khư khư
Bụng thì bảo dạ, rằng, ư - đút vào
Đút vào nó sướng làm sao
Dập lên dập xuống nó trào nước ra.
(động tác ăn mía khúc, xước võ và cắn và nhai).
- Xưa kia em trắng như ngà
Bởi chưn ngủ lắm nên đà em thâm
Lúc bẩn cháng đánh chàng đâm
Đến khi sạch sẻ chàng nằm lên trên.
(chiếc chiếu và sự giặt chiếu).
- Một cây mà có năm cành
Nhún nước thì héo để dành thì tươi. (Bàn tay năm ngón)
41
- Không sơn mà đỏ (Mặt trời)
Không gỏ mà kêu (Sấm)
Không khều mà rụng (Mưa)
- Bằng cái dĩa, sỉa xuống ao
Đào không thấy, lấy không lên (Mặt trăng)
- Sông không đến
Bến không vào
Lơ lửng giữa trời làm sao có nước. (Trái dừa)
- Ăn đàng đít, ỉa đàng lưng
Động mó đến sừng thì vải cứt ra. (Cái bào cây)
Tới đây thì :
- Gió đưa cơn buồn ngủ lên bờ
Buồng ai có trống cho tôi ngủ nhờ một đêm.
Sở dĩ ca dao truyền khẩu thành công và đứng vững mãi trong đời sống dân
gian là nhờ sự vun bồi của đại chúng, ai ai cũng mong muốn cho nó có một địa vị
quan trọng trong xã hội và ai ai cũng muốn làm chủ nhân ông lấy nó, ca dao truyền
khẩu trường tồn cũng do lý lẽ đó.
5.-Tục ngữ và phong dao.
Tục ngữ khác phong dao về hình thức, giống nhau về nội dung, nhưng rất khác biệt
về tinh thần.
Tục ngữ là những câu nói ngắn, ý nghĩa hướng về một mục đích dạy người
qua những câu luân lý thông dụng. Cũng như phong dao, tục ngữ phát sinh ra do
các từng lớp trong xã hội làm ra mà tác giả không rỏ là ai.
Phong dao là những câu diễn tả phong tục tập quán của một vùng, một khu
vực, một địa phương. Phong dao có khác về hình thức với tục ngữ, vì tục ngữ là
câu nói ngắn, gọn gàng, ý tứ sâu sắc, răn dạy tư cách làm người, còn phong dao
thường thì như một bài hát hoa tình, hoặc châm biếm, hoặc khôi hài, hoặc khuyến
nông, hoặc chống đối, hoặc lịch sử v.v… Nói tóm lại, phong dao thường dựa vào
loại tỷ dụ hoặc cảm hứng, suy nghỉ như thế nào thường cảm tác bộc bạch ra thế ấy,
42
còn tục ngữ thường lựa chọn theo kinh nghiệm, tâm lý mà ý nghĩa của nó không
ngoài năm đức tính : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
- Ngọt mật chết ruồi.
- Ăn trái nhớ kẻ trồng cây.
- Uống nước nhớ người đào giếng.
- Ăn để mà sống, không phải sống để mà ăn.
- Ăn cây nào rào cây nấy.
- Chó cậy gần nhà, gà cậy gần vườn.
- Chơi dao có ngày đứt tay.
- Đi đêm có ngày gặp ma.
-
Những câu răn dạy ngắn gọn, dễ nhớ, thông dụng trong đời sống hằng ngày.
Tục ngữ chia ra làm hai loại, một là những câu do miêng người bình dân nói ra,
truyền khẩu lâu ngày trong dân gian gọi là bản lai tục ngữ, hai là những câu ca dao
biến thành ra tục ngữ, vì thông dụng trong dân gian cho nên khi nghe qua rất giống
như câu tục ngữ bản lai, gọi là tục ngữ hóa.
Những câu tục ngữ nói về lịch sử :
- Cỏng rắn cắn gà nhà.
- Dắt voi về dầy mả tổ.
Đó là câu mắng chửi Nguyễn hửu Chỉnh của đồng bào miền bắc lúc Chỉnh
từ bắc vào nam khuyên Nguyễn Huệ đem binh ra đánh lấy Bắc kỳ.
Hay cũng có câu nói về Nguyễn Nhạc đánh nhau với em ruột tại Qui Nhơn :
- Nồi da xáo thịt.
-
Nói về thơ biến thành ra tục ngữ, hoặc trong những áng thơ của Tố Như,
- Hoa trôi bèo dạt đã đành
Biết duyên mình biết phận mình thế thôi.
(Tục ngữ : Bèo dạt hoa trôi)
Hoặc trong những vần khóc mẹ của Nguyễn Đình Chiểu,
- Hởi ai lẳng lặng mà nghe
Dữ răn việc trước lành dè thân sau
43
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.
Lục vân Tiên.
Hoặc trong những bài dân dao của đại chúng, người ta trích mấy câu đó ravà
truyền tụng trong dân gian. Vì truyền tụng lâu ngày nên khi đọc qua tưởng chừng
như câu tục ngữ bản lai vậy. Trong tập Gia Huấn Ca của Út Trai Nguyễn Trải có
câu :
- Thương người như thể thương thân
Ghét người như thể vun phân cho người.
Nghe như là một câu phong dao, nhưng ta chỉ lấy có câu đầu thì nó hoàn
toàn là câu tục ngữ, hay là hai câu thơ trích trong truyện Quán Âm Thị Kính biến
thành phong dao :
- Dẫu xây chín đợt phù đồ
Không bằng làm phước cứu cho một người.
Dưới đây là những câu ca dao, những câu thơ biến ra tục ngữ :
- Trâu cột thì ghét trâu ăn
Quan võ thì ghét quan văn dài quần
(Tục ngữ : Trâu cột ghét trâu ăn).
- Mấy ai là kẻ không thầy
Thế gian thường nói đố mầy làm nên
(Tục ngữ : Không thầy đố mầy làm nên).
- Cá không ăn muối cá ươn
Con cải cha mẹ trăm đường con hư
(Tục ngữ : Cá không ăn muối cá ươn).
- Chó đâu chó sủa lổ không
Chẳng cha ăn trộm cũng ông ăn mày
(Tục ngữ : Chó đâu chó sủa lổ không).
- Tốt gổ hơn tốt nước sơn
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người
(Tục ngữ : Tốt gổ hơn tốt nước sơn).
44
- Ai ơi chớ chống chớ chầy
Có công mài sắt có ngày nên kim.
(Tục ngữ : Có công mài sắt có ngày nện kim).
- Buồn ngủ lại gặp chiếu manh
Hay ăn làm biếng gặp anh đứng đường
(Tục ngữ : Buồn ngủ lại gặp chiếu manh).
- Gối rơm theo phận gối rơm
Ở đâu dưới đất mà chồm lên cao
(Tục ngữ : Gối rơm theo phận gối rơm)
Đồ Chiểu : Lục vân Tiên.
- Bây giờ ván đã đóng thuyền
Đã đành phận bạc khôn đền tình chung
(Tục ngữ : Ván đã đóng thuyền)
Nguyễn Du : Kim Trọng đi tìm Kiều.
Phong dao cũng chia ra làm hai hạng : hạng thứ nhứt do những bài hát dân
gian, hạng thứ hai do những câu thơ có tính cách hướng về đời sống dân gian như
phong tình, lịch sử, tâm lý xã hội. Nguyễn Du có câu thơ tả cảnh sầu của Thúy
Kiều :
- Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Dân dao cũng có câu hát tương tự như vậy :
- Khi vui non nước cũng vui
Khi buồn sáo cặp kèn đôi cũng buồn.
Những câu giảng về luân lý :
- Làm trai chớ đọc Phan Trần
Làm gái chớ đọc Thúy Vân, Thúy Kiều.
Trong truyện Phan Trần cũng có câu :
- Trách người một, trách ta mười
Bởi ta sàm sở nên người dẩy dun.
45
Những câu trữ tình :
- Sáng trăng sáng cả vườn đào
Sáng ra vườn mận, sáng vào vườn dưa
Anh đà có vợ con chưa
Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào
Mẹ già anh ở nơi nao
Để em tìm vào hầu hạ thay anh.
Trong Đoạn trường tân thanh cũng có câu :
- Thương nhau sanh tử đã liều
Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình.
Ca dao thì phong phú hơn :
- Dao vàng cắt ruột máu rơi
Ruột đau chưa thấy bằng lời em than.
- Giả đò mua khế mua chanh
Giả đi đòi nợ thăm anh đở buồn.
- Cây cao bóng mát không ngồi
Anh ra giữa nắng trách trời không râm.
- Anh buồn có chốn thở than
Em buồn như ngọn nhan tàn thắp khuya.
- Vì ai cho thiếp vỏ vàng
Vì chàng tư lự hoa tàn nhụy rơi
Cực lòng thiếp lắm chàng ơi
Biết rằng lên ngược xuống xuôi đàng nào.
- Chàng ơi chẳng thấy chàng sang
Bây giờ chữ liễu nét ngang mất rồi
Con tằm bối rối vì tơ
Anh say sưa vì rượu, em ngẩn ngơ vì tình.
- Cây chanh lại nở hoa chanh
Để con bướm trắng bay quanh cả ngày.
46
- Chân mày vòng nguyệt có duyên
Tóc mây gợn sóng đẹp duyên tơ hồng.
- Cầm vàng ném xuống vực sâu
Mất vàng không tiếc, tiếc đôi mắt bồ câu hửu tình.
- Cầm vàng mà vượt qua sông
Vàng rơi không tiếc tiếc công đợi chờ.
- Bướm đeo dưới dạ cây bần
Làm sao kết nghĩa châu trần với nhau.
Những câu trích ra đây là những câu ca dao ân tình được thông dụng trong
đời sống dân chúng, thấm thía hồn dân tộc, vì truyền tụng lâu ngày nên mới nghe
qua tưởng chừng như chính mọi người là tác giả.
Tóm lại, những câu tục ngữ chỉ nói riêng về luân lý, lịch sử, những câu
phong dao thì diễn tả đủ loại. Tuy nhiên tục ngữ có tính cách lịch sử ít công dụng
bằng tục ngữ nói về luân lý, hiếu thảo với ông bà cha me, đạo vợ chồng, tình nghĩa
cốt nhục v.v…
47
CHƯƠNG THỨ HAI
1.- Đặc tính ca dao
2.- Thiên nhiên.
3.- Từ ngữ.
4.- Con người với tiếng hát.
1.- Đặc tính ca dao.
Chúng ta vừa xác nhận giá trị của ca dao qua các thời kỳ từ khi còn phôi thai
đến lúc hoàn thiện, cũng như địa vị của ca dao đối với nền quốc ngữ của dân tộc.
Sau đây tôi xin trở lại phần phân tích từng loại thể ca dao để hiểu thêm tính cách
đặc sắc của nó.
Diễn đạt tư tưởng vào trong thơ ca không phải việc dễ làm, không phải ai
cũng sáng tác một cách ngẩu nhiên mà được, cũng có thể lời nói ra của họ liên
quan đến rất nhiều hoàn cảnh vừa nội tiếp, vừa ngoại tiếp. Về nội tiếp là sự cảm
hứng tùy thích, cảm giác bị kích động và thể hiện ra thơ ca do ngoại tiếp như tình
trạng kinh tế, lịch sử, tình cảm, lục dục, thất tình. Vì vậy khi nói đến đặc tính ca
dao có nghĩa là chúng ta phải tìm hiểu thêm những khả năng lớn mạnh tiềm tàng
trong tâm hồn của người bình dân trong thời kỳ khai quang ruộng đất. Sự lớn mạnh
của tâm hồn được bay cao và lan đi khắp nơi, khắp chốn cũng không ngoài điều
48
kiện lịch sử và kinh tế. Tại sao ? Vì hai đặc tính ấy kiến tạo thành một hoàn cảnh
tiện lợi và thích hợp cho nền văn học bình dân truyền khẩu có cơ hội bộc phát,
trung thành với bản chất và nguyện vọng của đại chúng.
Một nét chánh của dân tộc là gì ? Nếu nét chánh ấy được thể hiện rỏ ràng và
giữ nguyên tính chất thống nhất đặc biệt thì không ai phủ nhận văn hóa là nét
chánh của dân tộc. Một dân tộc hân hạnh mang danh hơn bốn ngàn năm văn hiến,
từ ải Nam quan chí đến mũi Cà mau, quanh co theo đường cong chữ S nối liền ba
miền Bắc, Trung, Nam với ba giọng nói rất là đặc trưng, người bình dân vẫn giữ
được một đặc tính đơn giản, in bản sắc tư tưởng vào trong thơ ca một tính chất
thuần hậu, chất phác, giữ vững tinh thần dân tộc Việt. Những tính cách đặc biệt, tôi
nghĩ rằng các dân tộc trên hoàn vũ chắc chắn chưa theo kịp.
Tất cả những yếu tố căn bản ấy đã kết tinh lại thành một tâm hồn chung của
dân tộc mà tôi đã nói ở đoạn trước : một tâm hồn làm sống lại hằng triệu tâm
hồn khác.
Ca dao sở dĩ được sinh tồn bên cạnh đời sống dân quê là vì nó đã nói lên tất
cả những nguyên lý cao đẹp ấy.
Kẻ tầm thường thì coi nó như một người bạn trung thành với cá tánh của đại
chúng, người trí thức thì xem nó là một nền văn minh cổ kính của tư tưởng người
xưa. Tuy nhiên, là người dân quê mộc mạc họ không có kiến thức phê bình, trái lại
với người trí thức họ bảo nó là tiếng hát cụt mịch không đáng loại vào hàng luân
lý lương tri, người khác binh vực bảo ca dao phát sinh theo sự tăng trưởng của con
người, nên khi nghe qua một câu hát ru con hay tiếng bạn điền réo gọi nhau cùng
hò cấy thì lòng lại cảm thấy nao nao khó tả.
Để biện minh, tôi xin trích ra đây lời phê bình của hai nhân vật sống vào hai
thời kỳ, hai hoàn cảnh khác biệt nhau.
Nhà văn Phạm Quỳnh (1892-1945) khi hạ bút phê bình ca dao tục ngữ Việt
Nam, ông bảo rằng “Tục ngữ ca dao chỉ thuộc vào bực luân lý thường thức, thời hồ
cũng có khi chen chân lên bực luân lý chánh thức mà thôi, chớ không bao giờ mà
có thể lên đến bực luân lý lương tri đâu”.
Cùng một lời phê bình như ông Phạm Quỳnh, ông Thuần Phong trong quyển
Ca dao giảng luận (xuất bản 1958) trong đoạn kết luận ông viết :“Ca dao phát sinh
từ trong nội cho đến ruộng đồng, tăng trưởng theo trẻ con và sanh hoạt theo con
người. Ca dao là hình ảnh của con người, con người là hiện thân của ca dao. Mỗi
49
một giọng hát, mỗi một điệu hò là một nhịp lòng của con người, hoạt động trong
hoàn cảnh đất nước dưới áp lực của thiên nhiên và xã hội. Cho nên lòng nào cũng
nao nao khi nghe tiếng người mẹ ru con hay tiếng bạn điền ngoài đồng hò cấy”.
Chúng ta thấy hai điểm phê bình trên đây không giống nhau, hai tư tưởng
nhận xét phản nghịch nhau. Phạm Quỳnh cho ca dao không đạt lên tới bực luân lý
lương tri có thể vì ông quan niệm thể văn do người bình dân sáng tác quá tầm
thường, (Lúc bấy giờ ông Phạm Quỳnh làm Ngự tiền văn phòng vua Bảo Đại thời
kỳ 1932-1945) có thể vì ông nhìn bằng cặp mắt của một ông quan xuống hàng thứ
dân. Trong khi Thuần Phong coi ca dao là tiếng nói của lương tri, của bản năng,
của tình cảm xúc tác, có phải vì ông đã thông cảm được tư tưởng trong đám người
bình dân ít học.
Hiểu được nguyên lý vũ trụ còn dễ hơn là tìm đến bản gốc tư tưởng của con
người. Hiểu đời sống của người bình dân, thông cảm giữa họ và vạn vật là chúng ta
đã đạt đến nguyên lý của lương tri.
2.- Thiên nhiên.
Mắt ta nhìn thiên nhiên, ta thấy cái đẹp của thiên nhiên là cái đẹp của trời
mây, của trăng sao, cái đẹp của giang sơn cẩm tú, cái đẹp rực rở của phong cảnh
bình thì, này là sông, nọ là hào, kia là núi, kia nữa là thành, đổi màu thay sắc theo
phong thổ, biến hóa theo thời gian, một vẻ đẹp mà không có bút mực nào diễn tả
được. Khác với cái đẹp hào nháng của ánh đèn ban đêm, cái đẹp của một mô hình
giả tạo do con người làm ra. Thì đấy, người dân quê sống hòa mình vừa thể chất,
vừa linh hồn vào trong cuộc sống thiên nhiên, cho nên tư tưởng của họ đẹp từ ở
thiên nhiên mà ra.
Khi mà người ta đã thông cảm với nếp sống thiên nhiên, họ tự coi mình như
là một phần trong cái toàn thể đã siêu việt hóa họ và làm cho họ sinh tình giữa vật
hiện hửu và tâm tư của họ. Tình yêu thông cảm quê hương có rồi, chỉ một bước rất
gần rất nhỏ nữa thôi thì cái tình yêu dâng hiến cho quê hương không có gì khó
khăn cả.
Dân gian đã thể hiện tình yêu quê hương qua câu hát tha thiết dịu dàng :
- Ai về thăm lại đồng quê
Đôi lời nhắc gởi lời thề nước non
Núi còn trăng nước hãy còn
Tình quê vẫn cháy keo son trong lòng.
50
Một nhà bác học sau cuộc vòng quanh thế giới, khi về đến nước nhà, ông
được Nữ Hoàng Anh hỏi cảm tưởng của ông đối với vẻ đẹp của vũ trụ thì ông bèn
đáp rằng :“ Cái đẹp nhất là đấng tạo hóa chủ tể cán khôn”. Cùng một cảm nghĩ như
ông, nhà vật lý học Volta cũng bảo : “ Tôi đã thấy đấng tạo hóa khắp nơi khắp
chốn, có trước thời gian và khắp cùng không gian”.
Cảm tưởng của hai nhà bác học trên đây chứng minh rằng không có cái đẹp
nào qua được cái đẹp của vũ trụ, tức là thiên nhiên, là nguyên lý sinh tồn của loài
người và cũng là kho tàng phong phú của vạn thể.
Thi hào Tagore có câu nói : “Đất nước nào cũng có một mùa xuân, nếu
không biết tô điểm thì mùa xuân đó sẽ vô vị, tiêu tan”. Tô điểm tức nhiên phải vun
bồi, phải làm cho tăng trưởng.
Thiên nhiên bao la, lòng người dân quê cũng rộng rải, đậm đà tình yêu quê
hương, vì quê hương là một phần sáng tạo tinh túy, thuần thục sâu xa của tư tưởng,
của một tâm hồn được cởi mở rộng rải, của phương pháp mầu nhiệm sự nảy nở
chiến đấu không ngừng. Con người một khi đã thấm nhuần hoàn cảnh thiên nhiên
rồi, về vật chất ta thấy họ năng hoạt động, giỏi chịu phong sương, không màng
mưa nắng, về tánh tình ta cũng thấy họ rất hiền lành dễ dải, ham cười trước đau
đớn và thích vui trong mệt nhọc.
Học giả Nguyễn văn Vĩnh (1882-1936) khi nói đến đặc tính của dân tộc Việt
Nam, ông phê bình một câu như vầy : “ An nam ta có một thói lạ là thế nào cũng
cười. Hay cũng hì, mà dở cũng hì, quấy cũng hì, nhăn răng hì một tiếng, mọi việc
hết nghiêm trang.”
Cười không phải là một yếu tố kém quan trong, có vui người ta mới cười, có
sung sướng người ta mới cười, cái cười giúp chúng ta nhận xét về họ và đoán được
cảm giác của họ lúc bấy giờ. Tuy nhiên, cái cười cũng có nhiều ý nghĩa, có khi vì
xả giao bắt người ta phải hé môi cười, có khi vì phải muốn làm vui lòng người đối
diện mà bắt phải nở một nụ cười gượng ép, có khi cười nghiêng ngửa để quên phức
chuyện đời, có khi cười mĩa mai trước một con người bội bạc v.v… như thế cái
cười là một trong ba mươi sáu cách để đoán về tâm lý con người. Vậy cười là một
bản chất thiên nhiên.
Người bình dân dễ dải, thích cười chỉ tại thiên nhiên hấp thụ đời sống của
họ. Trên tám mươi phần trăm dân tộc ta sống bằng nghề nông, từ thuở sanh ra họ
đã quen ngửi cái mùi đất bùn tanh tanh, họ lớn lên giữa cánh đồng ruộng bao la
ngát gió, họ tắm giặt bên dòng sông phù sa màu đất sét, vì vậy tình cảm của họ
51
cũng đồng thời nảy nở trong khoảng trời đất mênh mông vô tận ấy. Thế cho nên,
chúng ta không lấy làm lạ khi thấy thơ tứ trong ca dao xuất hiện bất cứ một nơi nào
đều có ẩn, không ít thì nhiều một vài hình ảnh thiên nhiên xen vào đó, cái hình ảnh
quen thuộc nhứt trong đời sống dân gian.
- Bồng em đi dạo vườn cà
Cà non chấm mắm, cà già làm dưa
Làm dưa ba bửa chưa chua
Chị kia xách dĩa lại mua ba tiền
Ba tiền mắc lắm chị ơi
Cho thêm tiền nữa cho rồi bửa ăn.
- Bao giờ cho mỏ xa đình
Hạc xa hương án chúng mình mới xa.
- Bao giờ đá nổi vông chìm
Muối chua chanh mặn mới tìm đặng em.
- Thức chờ tim lụn dầu hao
Năm canh thơ thẩn ra vào những trông.
- Lựu lê bình bát mảng cầu
Bốn cây tứ quí anh sầu một cây.
Hình ảnh đó cũng thấy xuất hiện trong nhiều câu hát đồng dao :
- Má ơi con vịt chết chìm
Thò tay vớt nó con cá lìm kìm cắn tay con.
- Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng.
- Tu hú là chú bồ các
Bồ các là bác chim di
Chim di là dì sáo sậu
Sáo sậu là cậu sáo đen
Sáo đen là em tu hú
Tu hú là chú bồ các...
52
- Lúa ngô là cô đậu nành
Đậu nành là anh dưa chuột
Dưa chuột là ruột dưa gang
Dưa gang là nàng dưa hấu
Dưa hấu là cậu lúa ngô
Lúa ngô là cô đậu nành...
- Em tôi buồn ngủ buồn nghê
Buồn ăn cơm nếp, cháo khê, thịt gà
Buồn ăn bánh đúc, bánh đa
Củ từ, khoai nước, cùng là cháo kê.
- Thương con ba ba
Đội nhà đi trốn
Gặp con nước cuốn
Trôi tuột ra khơi
Gặp lúc êm trời
Đội nhà đi dạo.
- Cái bống mà đi chợ cầu
Cái tôm đi trước, củ hành đi sau
Con cua lạch đạch theo hầu
Cái chài rơi xuống vỡ đầu con cua.
- Dung dăng dung dẻ
Dắt trẻ đi chơi
Đến cổng nhà trời
Lạy cậu lạy mợ
Cho cháu về quê
Cho dê đi học
Cho cóc ở nhà
Cho gà bới bếp
Xì xà xì xụp
Ngồi thụp xuống đây.
- Nu na nu nống
Cái bống nằm trong
Con ong nằm ngoài
Củ khoai chấm mật
Phật ngồi phật khóc
53
Con cóc nhảy xa
Con gà ú ụ
Nhà mụ thổi xôi
Nhà tôi nấu chè
Tay xoè chân rụt.
- Nu na nu nống
Đánh trống phất cờ
Mở cuộc thi đua
Thi chân đẹp đẽ
Chân ai sạch sẽ
Gót đỏ hồng hào
Không bẩn tí nào
Được vào đánh trống.
- Đi cầu đi quán
Đi bán lợn con
Đi mua cái xoong
Đem về đun nấu
Mua quả dưa hấu
Về biếu ông bà
Mua một đàn gà
Về cho ăn thóc
Mua lược chải tóc
Mua cặp gài đầu
Đi mau về mau
Kẻo trời sắp tối.
- Gánh gánh gồng gồng
Gánh sông gánh núi
Gánh củi gánh cành
Ta chạy cho nhanh
Về xây nhà bếp
Nấu nồi cơm nếp
Chia ra năm phần
Một phần cho mẹ
Một phần cho cha
Một phần cho bà
Một phần cho chị
Một phần cho anh.
54
- Bà còng đi chợ trời mưa
Cái tôm cái tép đi đưa bà còng
Đưa bà đến quãng đường đông
Đưa bà vào tận ngõ trong nhà bà
Tiền bà trong túi rơi ra
Tép, tôm nhặt được trả bà mua rau.
- Cái bống là cái bống bang
Khéo sảy khéo sàng cho mẹ nấu cơm
Mẹ bống đi chợ đường trơn
Bống ra gánh đỡ chạy cơn mưa ròng.
Đó là những hình ảnh sống động trong bức tranh quê hương rực rở không
phải chỉ có non cao, có sông quanh co uốn khúc, mà linh động bởi những bóng
người lom khom cấy lúa, những đàn có bay về mái tổ ấm ệm, những túp lều tranh
sau rặng dừa xanh bốc lên làn khói lam trắng, những khúc hát véo von bay nhảy
theo muôn chim.
Ở điểm này, nên nhấn mạnh rằng không còn một điểm dị đồng nào khác hơn
nữa : Thiên nhiên, quê hương là nguồn sống của họ.
Tâm lý chung của loài người là yêu chuộng cái thiên nhiên vô tận. Đây là
một đặc tính quan trọng khi bàn đến ca dao. Đúng như vậy, con người đã sinh ra
và lớn lên chung quanh là bờ ao ruộng vườn, giữa thiên nhiên thì bẩm tính của họ
phải hoàn toàn nghiêng theo sự sống còn với thiên nhiên.
Hãy nghiền ngẫm những câu sau đây :
- Thằng Cuội ngồi gốc cây đa
Bỏ trâu ăn lúa gọi cha ời ời
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cởi ngựa đi mời quan viên
Quan thì cầm bút cầm nghiên
Quan thì cầm tiền đi chuộc lá đa.
Hoặc là châm biếm :
- Hòn đất mà biết nói năng
Thì thầy địa lý hàm răng không còn.
55
Hoặc là trải nghiệm trong cuộc sống :
- Mồng năm, mười bốn hăm ba
Đi chơi cũng lổ nửa là đi buôn.
Cảm giác đầu tiên của ta như thế nào ?, có nhận ngay là khác xa với :
- Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò.
Của Xuân Diệu không, có khác như lối tả cảnh :
- Cây chết đuối ở dòng sông vắng lặng
Thây trôi về xa tận cỏi vô biên.
Của Hàn mặc Tử không, hoặc như lối tả tình của Thế Lữ :
- Mà biết vô duyên vẫn cứ mong
Trăm năm ôm mãi mối tình không
Trọn đời làm kẻ đưa thuyền khách
Thuyền chạy chơ vơ đứng với trông.
Những vần thơ trên đây, cái đặc sắc của tác giả, cái hay của nguồn thơ là cái
đặc sắc chìm trong cỏi hoang mang, cái hay chìm trong sự lãng mạng của kiếp
sống. Ngụ ý trong thơ nói về mình, nói về bản ngã, thuộc về lớp người có chữ
nghĩa, lớp người trí thức, cho nên cái tuyệt diệu trong thơ dành cho giới trí thức
ngâm nga những vần điệu khóc gió than mây. Còn trong giới quần chúng quê mùa,
những vần thơ đó không phải là nhựa sống trong đời họ, khi mà ca dao của họ còn
vang truyền mãi trên khắp dãy đồng ruộng, diễn tả được muôn hình vạn trạng của
đất trời, lúc tả cảnh :
- Trên trời có đám mây xanh
Chính giữa mây trắng chung quanh mây vàng.
Khi miêu tả một sự ngập ngừng chọn lựa của người con gái :
- Em là con gái kẻ đằng
Bên Tề bên Sở biết rằng theo ai ?
Cũng thường nghe qua câu hò nhạo báng :
56
- Hởi em cắt cỏ đồng màu
Chăn trâu cho béo làm giàu cho cha
Giàu thì chia bảy chia ba
Phận em là gái được là bao nhiêu.
Hoặc một lời than tiếc nho nhỏ :
- Tiếc cây mía ngọt lại sâu
Tiếc con gái đẹp trọc đầu khó coi.
Hay mỉa mai một cô gái đem thân xuân đi lấy ông già :
- Mướp già thì mướp có sơ
Ông già lắm của gái tơ cũng liều mình.
Hay chê bai một kẻ lười biếng :
- Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa
Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày.
Hoặc khuyên bảo mọi người hãy ra sức làm việc tạo nên của cải :
- Có làm thì mới có ăn
Không dưng ai dễ mang phần tới cho.
Hay cười nhạo báng một cô gái trắc nết :
- Chim khôn chưa bắt đã bay,
Người khôn chưa nắm cổ tay , đã cười .
- Chồng chết còn chửa hết tang
Em đà ngấm ngáp như mang cá mè
Anh ơi! Anh đợi tôi cùng
Tôi còn đốt mã cho chồng tôi đây.
Hoặc người đàn bà không chồng mà lắm con :
- Nói ra sợ chị em cười
Thân tôi ở góa đã mười mặt con
57
Tưởng rằng yếm đỏ còn son
Ai hay yếm đỏ có con một bầy.
- Không chồng mà chửa mới ngoan
Có chồng mà chửa thế gian sự thường.
- Chính chuyên lấy được chín chồng
Vê viên bỏ lọ gánh gồng đi chơi
Ai ngờ quang đứt lọ rơi
Bò ra lổm ngổm chín nơi chín chồng
Chơi cho thủng trống long bồng,
Rồi ra ta sẽ lấy ông chồng lập nghiêm
Chơi cho thủng trống long chiêng
Rồi ra ta sẽ lập nghiêm lấy chồng.
- Chữ trinh đáng giá ngàn vàng
Từ anh chồng cũ đến chàng là năm
Còn như yêu vụng dấu thầm
Họp chợ trên bụng đến trăm con người
Có chồng càng dễ chơi ngang
Đẻ ra con thiếp con chàng con ai.
Và còn không biết bao nhiêu những câu thơ ngắn vừa đủ ý nghĩa, vừa thuận
vần xuôi giọng, vừa có nhạc điệu dịu dàng diễn tả theo hoàn cảnh sinh hoạt của
con người. Nếu đem họ xa cuộc sống thiên nhiên, nghĩa là những công việc nào
không phải là công việc tay lấm chân bùn, cày sâu cuốc bẩm, có lẽ sự sống của họ
sẽ mất đi một phần cảm hứng, ca dao sẽ kém dồi dào.
Trong kiếp sống trầm luân đầy cay đắng đã vướng vấp trên đường đời,
người ta mới tìm thấy cái tinh hoa sau cuộc chiến thắng khó nhọc. Nguời dân quê ở
đây cũng vậy, họ chiến đấu cho sự no ấm chung, cho sự trường tồn của bài ca
truyền khẩu không có thời gian và không gian, và ngày hôm nay khi chúng ta thảo
luận về những bài ca dao truyền khẩu này nó phải được kết tinh từ hằng trăm thế
kỷ.
Thời gian không có định nghĩa cũng như không gian không có bóng ngày
giờ. Không tìm ra nguyên lý thời gian và sự bắt nguồn giữa thời gian với tạo vật,
cho nên chúng ta chỉ biết thời gian bằng năm, tháng, ngày, giờ. Nhưng cách đây
hằng trăm thế kỷ, người nông dân đã biết tính thời gian bằng bóng mặt trời, họ suy
58
đoán được các tai hại của mưa lũ, bảo tố bằng cách nhìn những trạng thái biến
chuyển của thiên nhiên. Như thế thời gian không có đối với họ.
Vũ trụ bao la, trời đất vô tận, thiên nhiên thì bao quát cả trăm ngàn sự vật,
một khi muốn nói tới thiên nhiên, con người đã nghĩ ngay dùng tới lý tính mà diễn
dịch. Lý tính của con người linh hơn muôn vật, nên lý tính ấy đã châu tuần khắp cả
không gian, với họ vũ trụ không có giới hạn xa gần chi cả.
Đời sống thiên nhiên đã ảnh hưởng quá nhiều con người họ, cho nên khi nói
đến đặc tính ca dao mà chúng ta quên nhắc nhở thiên nhiên vào trong đó thì không
bao giờ chúng ta hiểu đến cái bề sâu kín nhứt của linh hồn họ, vì ca dao là nhịp cầu
thể hiện đời sống của họ.
“Vũ trụ vô biên, có ra khỏi nhà mới thấy được cảnh vật bên ngoài”. Lã duệ
Khanh đã bảo như thế, vậy thì phần đặc tính trong ca dao rất là quan trọng.
Có suy tưởng đến tác dụng sâu xa và tinh tế đó rồi, chúng ta biết rằng phong
trào làm sáng tỏ nguồn sinh trưởng của ca dao là bước đi của thời đại, nghĩa là mỗi
thời đại nào, ca dao cũng ứng dụng được trong đời sống người bình dân.
Đề xướng nền văn học quốc ngữ mà quên bàn đến ca dao là một việc làm
phản lại ý thức của quần chúng, khi nói đến ca dao lại không nhắc đến đặc tính
thiên nhiên vào thì nguồn gốc ca dao chẳng còn gì là tinh túy nữa.
Chúng ta rất lấy làm hảnh diện vì có kho tàng quí giá này. Không hảnh diện
sao được khi ca dao đa từng là chứng tích của mọi biến cố lịch sử, đã từng làm cho
cuộc sống của con người thêm thăng hoa, đã từng ấp ủ yêu thương qua những bài
ca phong tình truyền cảm, đã từng góp công xây dựng một nền quốc ngữ của dân
tộc.
3.- Từ ngữ.
Cách dung từ ngữ trong ca dao rất là phong phú và đặc sắc. Những từ ngữ
phong phú được phô diễn ra nhiều hình thức, mỗi hình thức đều có một ý nghĩa
riêng, tùy theo hoàn cảnh mà ta hiểu được tư tưởng của người ứng khẩu và quyết
đoán không sai về ý nghĩ của họ. Những từ ngữ nầy là những nét tế nhị trong văn
chương bình dân, có khi diễn tả một vật mơ hồ mà ngụ ý bóng bẩy, có khi vẻ sơ sài
một hình ảnh thực tế mà lời lẽ hàm chứa nỗi buồn xa xôi, có khi dùng một từ ngữ
tục mà câu văn cũng trở nên tình tứ dịu dàng, có khi mượn một thanh thể tươi sáng
để mai mĩa một hành vi vẩn đục.
59
Dân gian rất khéo léo trong việc miêu tả một sự kiện xảy ra làm xao động
tâm hồn họ. Lưu ý đến những từ ngữ có gạch dưới :
- Những phường con mắt lá răm
Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền.
- Những cô thắt giải lưng ong
Vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi con.
- Mang bầu đến quán diều hâu
Say sưa quên hết những câu ân tình.
- Đói lòng nằm gốc cây sung
Chồng một thì lấy chồng chung thì đừng.
- Ăn sung mà chẳng gần sung
Lấy anh thì lấy nằm chung không nằm.
Có những từ ngữ rất thanh, rất tao nhã mà người con gái lấy đó để ví đến
thân mình :
- Thân em khác thể trái chanh
Lắc lẽo trên cành nhiều kẻ ước ao.
- Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
- Trúc xinh trúc mọc bờ ao
Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh
Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.
Những từ ngữ nói lên cái nét đẹp của hình ảnh đồng làng có bụi tre khóm
trúc, có bờ ao đầu đình, không những dễ quyến rũ mà con làm cho người ta say mê
một cách thành kính nữa. Hay là khi một người con trai tự vấn một cô bạn bạc tình:
- Bậu nói với qua
Bậu không bẻ mận hái đào
Chớ mận đâu mà bậu bọc
Chớ đào nào bậu cầm tay !
60
Cách dùng từ ngữ đến như thế thật tuyệt vời, về văn chương rất tao nhả, diễn
đạt được nỗi ghen tức của người tình mà không làm cho người nghe cảm thấy
khiếm nhã. Chỉ có hai vật mận và đào lại có thể hàm xúc một câu nói trách móc,
vừa bực tức, vừa chua cay. Cũng một cách phô diễn đó thì hai vật mận và đào lại
đóng vai trai và gái trong câu chuyện hai người đã từng quen nhau, bây giờ muốn
tìm hiểu sâu hơn :
-Trai hỏi :
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có lối vào hay chưa ?
-Gái đáp :
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
Chúng ta tự hỏi, có phải những từ ngữ được cấu kết vào trong thơ ca bình
dân ít nhất cũng từ ở chốn lâu đài vọng nguyệt ngân ra hay nơi trướng phủ rèm
hồng của các bậc vương giả, hoặc những tâm hồn của nhóm thi sĩ tài ba sáng tác.
Không. Nó chẳng phải từ ở chỗ sang giàu hay ở nơi lầu tần cung vua phủ chúa hào
hoa, ngược lại nó phát sinh và nảy nở từ những bờ đê, ruộng lúa, ở sau khóm trúc,
rặng dừa. Chúng ta ngạc nhiên khi thấy họ mượn các món đồ nghề của anh thợ
mộc nào đục, nào cưa, nào khoang, nào dùi… để nói đến chuyện ân tình mà lời lẽ
không có gì thay đổi :
- Chàng đừng có lóng trong gạn đục
Thiếp giao tình bằng thẳng như cưa
Giữ cho trọn nghĩa sao xưa (hai loại gổ quí)
Cũng như anh thợ mộc liệu vừa rập khuôn.
Thay vì trước ngưỡng cửa tình ái, người ta phải chọn những từ ngữ trang
nhã, dịu dàng, khêu gợi để khích động tình lang dễ bị quyến rũ, thế mà người bình
dân vẫn tự nhiên ghép những chữ nghe thật là chướng tai. Cũng các món đồ nghề
đó còn khắc in lên bản sắc trữ tình khác :
- Em về ngoài Huế
Mướn một anh thợ mộc
Đủ đục, đủ khoang
Mần một cái thang
Ba mươi sáu nấc
Bắt từ dưới đất
61
Lên tới trên trời
Hỏi thăm duyên nợ đổi dời về đâu.
Hoặc dùng những từ ngữ đặc trưng trong các dụng cụ bắt cá :
- Quần lủng đáy đi đâu xớ rớ
Áo rách te nói chuyện bốc chài
Thế gian em thấy thường hoài
Hể ai được cá tính bài bỏ nôm.
Những chữ “quần lủng đáy”, “áo rách te”, “xớ rớ”, “bốc chài” có một hình
ảnh thô lỗ, cộc lốc làm sao ấy, không giống như hình tượng hiền diệu, quyến rũ sau
đây :
- Thân em như bông bưởi trắng ròng
Tuy mùi thơm nức mũi mà lòng sạch trong.
Khi nhắc tới mâm trầu hủ rượu là biết người ta sắp nói đến cuộc hôn nhơn,
hoặc là ớt nào mà ớt chẳng cay thì đó nói về sự ghen tuông của người đàn bà, hay
lẳng lơ, hoa nguyệt, đàng điếm, rượu chè là có ý bảo người con trai không lành đức
tánh, người con gái không tốt nết na.
Có lúc họ cũng tình tứ thố lộ tâm tình :
- Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau khô ăn với trầu vàng được không ?
Cau khô mà sánh với trầu vàng, nghĩa là cô gái ví mình thân phận lều tranh
vách đất, nay về bên chồng sống sung túc trong căn nhà gạch lợp ngói ba gian,
nàng khẻ hỏi chàng hạnh phúc có bao giờ kết hợp như vậy mà đúng luật tạo hóa
hay nghịch với đạo lý luân thường, chàng quả quyết đáp lại rằng :
- Đạo vợ chồng tôi nói mình nghe
Đôi ta gá ngởi ông tơ xe đã rồi.
Rồi nàng ân cần van vái ông tơ bà nguyệt để cầu mong sự sum hiệp này đến
răng long đầu bạc :
- Vái ông tơ một đĩa bánh bò bông
Cầu bà nguyệt lão gắng công xe giùm.
62
Cho đến ngày vu qui, người con gái hiếu thảo trân trọng rót rượu mời cha
mẹ đã khổ công nuôi dưỡng nên người :
- Rượu lưu ly chân quỳ tay rót
Cha mẹ uống rồi dời gót theo anh.
Hay quá là hay ! Sao mà họ khéo sử dụng từ ngữ đến thế nhỉ. Còn đây, như
ngập ngừng, như e lệ khi đôi tân lang dắt tay nhau vào loan phòng làm lễ hiệp cẩn
giao bôi :
- Đèn loan hiệp cẩn trong phòng
Trăm năm chí quyết bá tòng vầy duyên.
- Đêm qua nằm ngủ sập vàng
Trông xuống sập bạc thấy chàng nằm không.
Vội vàng cởi áo đắp chung
Tỉnh ra em vẫn nằm không một mình.
Mỗi từ ngữ là mỗi hình ảnh sống động, phát họa lên một bức tranh đầy thi
vị, tuyệt xảo gây ấn tượng trong lòng người vài phút đê mê, nhẹ nhàng, xao xuyến.
Thật giàu về màu sắc, thật phong phú về nguồn cảm hứng tự nhiên. Năm mười
năm sau khi trở về thăm cha mẹ thì :
- Khi đi trúc mọc le te
Khi về trúc đã cánh bè trôi sông.
Ý nói người con gái khi đã theo về nhà chồng, ít khi được về thăm cha mẹ,
khi đã con bầy con đống thì cũng năm mười năm sau, bên nhà chồng mới cho phép
nàng dâu dẫn con về thăm ông bà ngoại.
Về từ ngữ họ đã thành công, thế mà họ còn thành công hơn nữa trong thể
loại phản ngữ, nghĩa là nói trái lại, vốn khen mà chê, vốn dở mà hay, vốn tốt mà
xấu :
- Chị giàu quần lảnh hoa chanh
Chúng em khốn khổ quấn quanh lụa đào
Chị giàu chị đánh cá ao
Chúng em khốn khổ đi trao cá mè
Chị giàu chị lấy ông nghè
Chúng em khốn khổ trở về lấy vua.
Hoặc là :
- Ở đời Kiệt Trụ sướng sao
Có rừng nem béo có ao rượu đầy
63
Ỡ đời Nghêu Thuấn khổ thay
Giếng đào mà uống ruộng cày mà ăn.
Mới nghe qua tưởng chừng tất thảy lòng dân đều mến mộ nhà Kiệt Trụ và
oán ghét đời Nghêu Thuấn nhưng trái lại ngụ ý cho độc giả hiểu rằng cái khổ ấy
mới thật là cái sướng, còn cái sướng kia thực ra chỉ là sự khổ.. Một kỷ thuật thứ hai
nữa là cách dùng chữ đối xứng, nghĩa là dùng những chữ dị âm đồng nghĩa mà đối
chọi nhau để nảy sinh một ý ngộ nghỉnh như thương đối với ghét, gió đối với trăng
- Trăng bao nhiêu tuổi trăng già
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non.
- Đầu năm ăn quả thanh yên
Cuối năm ăn bưởi cho nên đèo bồng.
- Xấu tre uốn chẳng nên cần
Xấu mai nên chẳng được gần với em.
- Thông kinh sử là phần nam tử
Giữ nết na là phận nữ nhi.
Không những đổi chữ câu trên câu dưới mà luôn cả kỷ thuật đảo ngữ cũng
chẳng kém phần tài tình :
- Con mỏ kiến đậu trên miếng cỏ
Chim vàng lông đáp vựa vồng lan.
- Con cá đối nằm trên cối đá
Mèo đuôi cụt nằm mụt đuôi kèo.
- Thành Hóa quảng trở về Quảng hóa
Bạn hiền ta trở lại Hà tiên
Làm sao rỏ được căn duyên
Dầu sông dầu biển đi liền tới nơi.
Đó là lúc thời gian rảnh rổi nông nhàn, họ tụ năm tụ bảy lại bên chén trà ly
rượu, nặn óc tìm ra những từ ngữ ngộ nghỉnh, chanh chua, đanh đá rồi đấu võ mồm
với nhau, cách phô diễn tương phản này còn thấy nhiều trong các bài hát đồng dao,
từ đứa trẻ nhỏ cải nhau bên bụi tre đến các trai gái trong làng đối đáp nhau nơi
đồng ruộng. Dưới đây là một bài đồng dao :
64
- Mày tát chuôm tao
Tao tát chuôm mày
Mày đầy rổ cá
Tao đầy rổ tôm
Mày đi chợ Cầu nôm
Tao đi chợ Cầu rền
Mày bán cửa đền
Tao bán cửa vua
Mày làm mắm chua
Tao làm mắm thín
Mày con ông Chính
Tao con ông Xả
Mày là cái ả
Tao là thằng hai
Mày đội bồ đài
Tao đội nón méo
Mày cầm cái kéo
Tao cầm cái dao
Mày có làm sao
Tao thì làm vậy
Mày đi buôn cây
Tao đi buôn hồng
Mày đi lấy chồng
Tao đi lấy vợ
Mày lên kẻ chợ
Tao về nhà quê.
- Chặt cây dừa
Chừa cây mận
Cây bần thận
Cây bí đao
Cây nào cao
Cây nào thấp
Cây nào rập
Cây nào rà
Cây nào rách
Cây nào rời
Mồng tơi chín đỏ
Con thỏ nhảy qua
Bà già hứ hự
65
Bùm xùm bùm xoạ
Rút ra tay này.
Họ miêu tả bằng những vật có thể thấy được, sờ mó được ở chung quanh đời
sống dân gian, xét về kỷ thuật một lối đối xứng bằng chữ rất chỉnh mà ý nghĩa lại
chọi nhau khúc chiết khá tài tình, về tinh thần nó còn biểu lộ một tư tưởng ganh
đua quyết liêt, mày làm sao, tao làm vậy nhứt định không chịu thua.
- Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em đã có chồng anh tiếc lắm thay !
- Trời mưa nóng đất
Con cá lấc lên đồng
Thuở xuân xanh sao không gặp
Để lúc có chồng gặp gở làm chi !
Ngoài cách dùng từ ngữ thực tế, dân gian còn nghĩ đến một lối diễn đạt tư
tưởng của mình thêm dí dỏm và dè dặt bằng cách phối hợp màu sắc thiên nhiên
vào trong thơ nữa. Đọc lại những câu này :
- Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em đã có chồng anh tiếc lắm thay.
Ba câu trên là theo lối tỷ, không có liên quan gì đến câu chót “Em đã có
chồng anh tiếc lắm thay”. Nếu không đọc qua câu cuối thì ta chẳng biết họ muốn
nói gì, và khi ta đã biết rồi thì mới thấy tâm sự của anh chàng này hay quá. Đó là
những câu ví gợi cảnh trước rồi sinh tình sau, cảnh và tình đối với dân gian có liên
quan mật thiết như bóng với hình.
Chúng ta còn biết đến những câu hò đối đáp, một nhóm bên nam, một nhóm
bên nữ, thay phiên nhau hỏi đáp cho đến khi nào câu chuyện bị chựng lại mới chia
tay ra về :
-Con trai :
- Chờ em cho mãn kiếp chờ
Chờ cho rau muống lên bờ trổ bông.
66
-Con gái :
- Rau muống trổ bông lên bờ mới trổ
Ai biểu anh chờ mà anh kể công.
-Con trai :
- Đầu giồng có cây duối,
Cuối giồng có cây da,
Ngã ba đường cái có dây tơ hồng.
Con gái chưa chồng tấm lòng hực hỡ!
Con trai chưa vợ ruột thắt như tranh!
Ngó lên mây trắng trời xanh,
Ai ai cũng vậy ưng anh cho rồi!
-Con gái :
- Sông dài gió thoảng…
Em nghe mấy lời của anh than vãn,
Trong dạ em thương cảm bớ chàng!
Phải chi em có quyền sắp đặt giang san,
Thời nợ duyên duyên nợ…
Em cũng chẳng để cho chàng đợi trông!
-Con trai :
- Gió thổi hiu hiu chín chiều ruột thắt,
Nhìn sao bên bắc, nước mắt chảy bên đông!
Ai xui chi cho vợ vợ với chồng chồng,
Biết đây với đó mà ông tơ hồng có xe?
-Con gái :
- Giao ngôn chắc quá,
Em sợ má em rầy!
Câu tứ mã nan truy,
Em sợ dì em giận!
Để em về nhà thưa lại,
Chừng cha má có đành.
Thời loan phụng, em sẽ với bạn lành bắt tay!
Nghe qua những câu hò đối đáp này ta thấy lòng bâng khuâng khắc khoải,
nỗi nhớ thương quấn quít tâm hồn, nghĩ tới người xưa sao khéo dung từ ngữ :
67
- Ngó lên trời mây bay vần vũ
Ngó xuống âm phủ đủ mặt bá quan
Ngó lên Nam vang thấy cây trăm thước
Nhìn sông Hồng ngự sóng bủa lao xao
Anh thương em ruột thắt gan bào
Biết em có thương lại chút nào hay không !
Chính những điệu hát câu hò này mang đến âm điệu ngọt ngào trong cuộc
sống, giúp cho con người hòa mình vào thiên nhiên làm cho thiên nhiên thêm đẹp,
làm cho quê hương thân thương tương thích với những trái tim dạt dào tình cảm,
đầy tính lãng mạn, họ hẹn nhau đến đây, họ kết nối nhịp cầu tri âm, họ thề nguyền,
họ làm cho kho tàng thơ ca truyền khẩu càng ngày càng giàu hơn.
4.-Con người với tiếng hát.
Tư tưởng có phóng túng, un đúc nền lễ giáo cổ truyền, tư tưởng được xem
như rất thích hợp với hoàn cảnh trong cuộc sống. Một cá nhân có tư tưởng đó,
nhiều cá nhân có tư tưởng đó, tất cả những tư tưởng đó hợp lại xây dựng nên một
kho tàng văn hóa bình dân rực rở. Bởi dân tộc Việt Nam hấp thụ cùng một lúc ba
luồng tư tưởng triết lý đông phương, một tư tưởng Phật giáo coi cuộc đời là bể khổ
trầm luân, lấy đức từ bi chuyễn hóa chúng sanh, một tư tưởng Lão Trang tiêu cực,
dụng cái thời thế biến chuyễn của vạn vật để đổi lấy cái nhàn cho nội tâm, một tư
tưởng Không Mạnh hiện thực, có thể coi như rất cần thiết trong giáo dục con
người.
Ba tôn giáo Thích Lão Khổng là một căn bản tín ngưỡng hài hòa của dân tộc
trong đó đạo Thích và đạo Lão rất thích hợp trong sinh hoạt của dân gian, cho nên
nó lan tràn mạnh mẻ và hòa hợp trong các tập tục của dân gian. Đạo nho tuy đã
sớm ảnh hưởng và trưởng thành mau chống nhưng thường chỉ dành trong giới cầm
quyền, trong gia đình có tiền bạc, trong giới trí thức, vì vậy Phạm Quỳnh đã nói :
“ Cái tên nhà nho không phải để chỉ người biết chữ, học đạo thánh hiền trong nho
giáo, lại là chỉ một giai cấp trong xã hội, tức là hạng thượng lưu trí thức trong
nước.”
Xem đấy chúng ta thấy rằng đạo nho có một địa vị độc tôn mà những người
không phải là môn phái của giai cấp thượng lưu thì không thể nào theo học được.
Kể ra thì đạo nho cũng là một tín ngưỡng tôn giáo thuộc vào loại quí phái, đài các.
Để đi sâu vào chi tiết này, lần lượt bàn đến những mục sau đây:
68
a). Luân lý.
Dân tộc Việt Nam lấy đạo Khổng trong công việc giáo dục con người. Triết
học của Không phu tử lan truyền ra các nước đông nam châu á, chịu ảnh hưởng
nhiều nhứt là dân tộc Việt Nam, vì bị nô lệ một ngàn năm bắc thuộc, Người Việt
Nam rất chuộng lễ giáo, tôn trọng nền cổ học đông phương, cho nên trong các môn
giáo dục đều hướng về luân lý mà giảng dạy, vì luân lý dạy con người sống cho
phải đạo, sống biết thích hợp với hoàn cảnh, sống biết hòa đồng với quần chúng,
sống sao cho đẹp với chân thiện mỹ, sống dưới bầu trời tự do thái bình an lạc.
Luân lý giúp tạo nên một con người có cuộc sống lành mạnh về tinh thần
cũng như vật chất, từ trong gia đình ra ngoài xã hội, nhờ có luân lý mà đà tiến hóa
phát triển một cách trình tự được lưu truyền trên bốn ngàn năm văn hiến. Nhờ có
luân lý con người mới biết đến bổn phận của mình, và phải hoàn tất sứ mạng của
mình từ trong gia đình ra ngoài xã hội.
Ca dao cũng đã góp phần trong việc dạy dổ con người :
- Tu thân rồi mới tề gia
Lòng ngay nói thẳng gian tà mặc ai.
- Sông sâu còn còn có kẻ dò
Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng.
- Trăng mờ còn tỏ hơn sao
Dẫu rằng núi lở còn cao hơn đồi.
- Thương nhau bất luận giàu nghèo
Dù cho lên ải xuống đèo cũng cam.
- Dẫu xây chín đợt phù đồ
Không bằng làm phước giúp cho một người.
- Sinh ra trong cõi hồng trần
Làm người phải lấy chữ Nhân làm đầu.
- Ở hiền, thì lại gặp lành
Những người nhân đức, trời dành phần cho.
Câu tục ngữ “Cây có cội, nước có nguồn” cũng phát sinh từ đây :
69
- Con người có tổ có tông
Như cây có cội như sông có nguồn.
Nhớ đến công ơn cha mẹ :
- Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương.
- Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
- Ơn cha nặng lắm ai ơi
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang.
Nhớ đến ông bà tổ tiên :
- Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu.
Nhớ đến thầy dạy chữ :
- Gươm vàng rớt xuống Hồ Tây
Công cha cũng trọng, nghĩa thầy cũng sâu
- Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy
Nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao.
Đối với anh chị em trong nhà :
- Anh em như thể chân tay
Rách lành đùm bọc dở hay đở đần.
- Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy.
- Khôn ngoan đối đáp người ngoài
Gà cùng cha mẹ chớ hoài đá nhau.
- Anh em thuận hòa là nhà có phúc.
70
Đối với vợ chồng phải tôn trọng khuyên bảo nhau :
- Yêu nhau mọi việc chẳng nề
Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.
- Anh tỷ phận anh
Thà ở lều tranh
Như thầy Tăng, thầy Lộ
Chứ không ham mộ
Của Vương khải, Thạch sùng
Đạo người anh giữ vẹn, bần cùng sá chi.
Luân lý vẻ ra một con đường dài không ranh giới, nhưng trên con đường đi
đó phải có người trước kẻ sau, người mau kẻ chậm, mau thì theo với mau, chậm thì
theo với chậm cứ tiến tới trong trật tự, điều hòa.
- Hoa sen mọc bãi cát lầm
Tuy rằng lấm láp vẫn mầm hoa sen.
- Mật ngọt còn tổ chết ruồi
Những nơi cay đắng là nơi thật thà.
- Miếng ăn là miếng tồi tàn
Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu.
Người giao tế trong xã hội để làm gì, tức nhiên phải có một mục đích, muốn
đạt đến mục đích ấy cho được viên mãn, con người không quên năm đức tánh :
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Dùng năm đức tánh đó để giao tế trong xã hội, từ giới
thượng lưu đến giới bình dân, đều sử dụng năm đức tánh đó, khi thì kêu gọi lòng từ
thiện của mọi người :
- Thương người như thể thương thân
Ghét người như thể vun phân cho người.
Hoặc là :
- Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy là khác giống nhưng chung một giàn.
- Nhiểu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
71
Tiếng gọi tha thiết ấy lôi cuốn biết bao nhiêu người dân hiền lành nên sống
trong điều bác ái với tấm lòng thương người vô lượng vô biên. Thương cái bản
thân của mình, biết quí cái bản thân của mình thì phải nghĩ đến thương và quí cái
bản thân của người khác, như vậy mới gọi là bình đẳng và bác ái. Sửa mình trước
cho tốt đẹp rồi mới dám sửa lấy những cái xấu của người khác, đó là đặc tính của
luân lý, thuyết này do ở triết lý Phật giáo mà ra với câu “Tự giác giác tha”, giác
ngộ mình rồi mới giác ngộ tới kẻ khác. Biết bao nhiêu người cùng khổ :
- Người thì áo bảy áo ba
Người thì áo rách như là áo tơi.
- Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nẩy cây.
Sống và đoàn kết yêu thương, biết tương trợ lẫn nhau, giặc ngoại xăm nào
dám xóa sổ bản đồ Việt Nam, trong đây người ta tìm thấy một tinh thần dân tộc bất
khuất, một cuộc đấu tranh bền bỉ, kêu gọi sự đoàn kết để xây dựng một xã hội lành
mạnh, một quốc gia hùng cường :
- Cây cao chẳng quản nước lung
Đê cao chẳng sợ nước sông tràn vào.
- Một cây làm chẳng nên non
Ba cây dụm lại thành hòn núi cao.
Luân lý không dạy con người ta lấy sự vui sướng cho riêng mình mà để mặc
cho kẻ khác cam chịu sự đau khổ. Luân lý không bảo con người ta phải nhạo báng
kẻ khác để mua một sự vui sướng ích kỷ cho lòng mình. Luân lý dạy con người ta
biết trọng cái phẩm giá, quí cái nhân vị, không nên chạm vào tự ái cá nhân của kẻ
khác. Trong gia đình thì con thờ cha kính mẹ, nhớ tưởng đến ông bà, vợ kính yêu
chồng, chồng thương mến vợ, anh em hòa thuận, tin yêu, vui vẻ, bạn bè đối xử sao
cho có nghĩa có ân. Ngòai xã hội phải biết đạo xử thế, biết cách ăn cách ở để trở
thành một con người tốt đẹp. Nếu bề trên ở chẳng chính chắn thì tức nhiên sẽ bị kẻ
dưới chê cười :
- Làm trên ở chẳng chính ngôi
Cho nên kẻ dưới bầy tôi loạn thần.
- Làm trên ở chẳng kỷ cang
Cho nên kẻ dưới lăng loàng bề trên.
72
Chúng ta còn thấy về mặt luân lý cổ kính ấy có pha trộn một chút triết lý nhà
Phật :
- Lênh đênh qua cửa thần phù
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.
Ở hiền gặp lành, làm phước đặng phước, không gây thù hận ân oán với bất
cứ ai, dù có chống đối cũng giữ tinh thần bất bạo động :
- Oán tao mầy oán cho đời
Đất vua tao ở, cơm trời tao ăn.
Và luôn luôn giữ gìn một linh hồn dân tộc lành mạnh :
- Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Luân lý giáo dục con người không chỉ dành riêng cho trong gia đình có học
đạo thánh hiền mà còn truyền rộng trong mọi tầng lớp đại chúng dân gian.
Hầu hết những bực thâm nho ngày xưa đối với luân thường đạo lý, các cụ rất
là nghiêm khắc. Các cụ nghĩ rằng muốn trở thành một để tử trung thành của Khổng
tử, muốn làm vẻ vang cho thân tộc họ hàng thì phải lăn lóc chen chân trong vòng
thi cử, dùi mài tâm trí trong bộ ngủ kinh. Người bình dân thì khác, trên tám chục
phần trăm sống bằng nghề nông, cuôc sống của họ gần với thiên nhiên cho nên tư
tưởng của họ rất phóng khoáng, đã vượt ra ngoài bốn bức tường chật hẹp của lễ
giáo. Do đó luân lý của họ không phải học trong sách mà là họ học và thực hành
ngay lúc chung lưng đâu cật trong mọi sinh hoạt hằng ngày.
Sau đây là những câu luân lý trong giới bình dân :
- Tốt danh hơn lành áo.
- Tốt gổ hơn tốt nước sơn.
- Giấy rách phải giữ lấy lề.
- Gần mực thì đen, gần đèn thì sang.
- Thuận vợ thuận chồng, tát bể đông cũng cạn.
- Ăn trái nhớ kẻ trồng cây
Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng.
73
- Ai ơi bưng bát cơm đầy
Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng.
Chúng ta lấy làm mừng về những tinh hoa trong cổ học Trung quốc, nhưng
chúng ta phải lấy làm mừng hơn như những câu luân lý giáo dục như trên đã ảnh
hưởng đến đời sống dân gian không nhỏ. Nó như bông hoa được trổ trong mùa
xuân khí hậu ấm áp, những bông hoa khoe sắc lừng hương. Cho nên ca dao mới
sinh sản nhiều những câu nói về luân lý.
Nói tóm lại nội dung của những bài phong dao hay tục ngữ ấy, có một phần
nào tiêm nhiểm đạo lý của ba luồng tư tưởng Phật giáo, Lão giáo vả Khổng giáo.
Tuy có ảnh hưởng nhưng họ không bị ép buộc, cho nên tư tưởng của họ không gò
bó. Vì vậy nó mới có một giá trị cao trong nền văn học bình dân truyền khẩu, vì nó
là kim chỉ nam trong giới đại chúng ít học, vì nó không sâu sắc, không triết lý kín
đáo, tuy mộc mạc về hình thức nhưng nội dung của nó cũng đầy đủ ý nghĩa trong
đạo xử thế, mà nhạc điệu mới nhẹ nhàng làm sao !
b). Trữ tình.
Tình yêu thiên nhiên không phải là đặc tính của một cá nhân mà còn là
nguyên nhân nảy nở cho sự sinh tồn. Trong loại ca dao trử tình, có một số diễn tả
rất là lãng mạng, tuy nhiên sự lãng mạng trong thơ không có gì đáng trách đối với
một dân tộc đầy tính nhân ái, hiền hòa và dạt dào tình cảm. Ở đây chúng ta nên
thâu hẹp phạm vi lại để phê bình đời sống tình cảm của người dân quê có mối liên
quan mật thiết đến tình yêu thiên nhiên..
Màu sắc, cảnh trí bên ngoài kích thích lòng người nảy nở trong tình yêu tự
nhiên, vì vậy tình yêu của họ cởi mở bất cứ trong hoàn cảnh nào :
- Giải sông ngân mây rầu rầu chuyễn
Một bước đường trời biển chia hai
Nàng nàng ơi, nàng nàng ơi !
Anh dặn một lời xin em nhớ đừng quên.
Thật là cảm động khi nghe tiếng biệt ly trộn hòa trong nước mắt, phảng phất
giọng nghẹn ngào của hai kẻ sắp chia tay :
- Trống trên lầu vội đổ
Chuông ngoài huyện hồi quân
74
Mắt nhìn em nước mắt rưng rưng
Phải chi hồi đó ai đừng biết ai.
Và nỗi tê tái của chàng trai :
- Kể từ bước cẳng xuống thoàn
Bao nhiêu sóng dợn thương nàng bấy nhiêu.
Dù không viết ra được thành lời văn, không vẻ ra được thành nét họa, nhưng
sự rung cảm chơn thành đã bộc lộ hết cả trong hai câu thơ. Tình yêu tự nhiên của
họ không giống như những lối tả vẻ đẹp siêu thần của các thi nhân. Trong Hoa tiên
truyện của Nguyễn huy Tự (1743-1790) có câu diễn tả sắc đẹp của một cô gái đài
các trăm anh :
- Lối thơm khi nhẹ gót tìm
Mùi hoa như nước, tiếng chim ngở chào.
Thì người bình dân khi nói tới vẻ đẹp của một cô gái quê cũng không kém
màu sắc và nhạc điệu :
- Bông thơm thơm lạ thơm lùng
Thơm cây, thơm rể người trồng cũng thơm.
Bông thơm là hình tượng để nói về cô gái, ý chừng họ khen cái bông ấy
thơm thật nữa, chẳng những thơm bông mà thôi, mà còn thơm tới cây, thơm tới rể
và sau cùng họ để ý tới người trồng hoa cũng thơm. Lối tả cảnh này rất hay và rất
thông dụng trong hình ảnh diễm tình.
Trong truyện Kiều của Nguyễn Du (1766-1820), ông tả nét đẹp kiều diễm
thần sầu quỷ khóc của Thúy Kiều :
- Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh;
- Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Trong giới thi sĩ dân gian thì diễn tả nét đẹp của người con gái như vầy :
- Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ trước gió biết vào tay ai.
75
- Trúc xinh trúc mọc bờ ao
Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh.
còn vài câu khác nữa :
- Tóc em dài, em cài bông hoa lý
Miệng em cười có ý anh thương.
- Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em liếc như là dao cau
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.
Đôi khi đọc qua ca dao, chúng ta thấy ở họ cũng có lúc là một nhà văn dùng
từ ngữ rất tài tình, một nhà thi sĩ kết thành những vần điệu thơ ca đặc sắc, một nhà
họa sĩ biết cách phối cảnh và khéo léo trong việc chọn màu.
Chất nghệ sĩ tính trong dòng máu của họ không lúc nào ngừng hoạt động
trước cái trò đùa cợt ái tình, để rồi sau đó cái thảm trạng đắng cay ở đầu lưỡi phát
ra thành tiếng thở than nảo nùng :
- Xấu dao xắc chẳng mỏng gừng
Xấu người mai chước lở chừng đôi ta.
- Ai làm cho bướm lìa hoa
Cho chim xanh nở bay qua vườn hồng.
- Gươm vàng để đó em ơi
Chết thì chịu chết lìa đôi anh không lìa.
Sự thất vọng trong bước đầu đùa cợt ái tình cũng chỉ vì hai gia đình không
xứng môn đăng hộ đối :
- Chiếu manh theo phận chiếu manh
Chiếu manh đâu dám trương tranh giường lèo.
- Anh về bán ruộng cây đa
Bán cặp trâu già mới cưới đặng em.
76
- Ba trăng là mấy mươi hôm
Mai nam nắng trước, chiều nồm quạnh sau
Chàng ơi đừng phụ khó tham giàu
Khi lành tôn trượng khi đau phụ phàng.
- Bùn xa bèo, bùn khô bèo héo
Lựu xa đào lựu xéo đào xiên
Vàng cầm trên tay rớt xuống không phiền
Chỉ phiền một nỗi nợ duyên không tròn.
- Vắn tay với chẳng tới kèo
Cha mẹ anh nghèo cưới chẳng đặng em.
Gia đình đàng trai cảm thấy ngần ngại khi phải tới nhờ mối lái mai dong
chuyễn dùm thông tin hỏi vợ cho con trai, chưa biết bên gia đình đàng gái có đồng
ý hay không, nhưng chàng trai trong lòng hồi họp, bực dọc khôn lường, thời gian
chờ đợi không bao lâu thì tin bên nhà gái trả lời không chịu gả con. Chàng trai thở
than:
- Con chim nó kêu tề lao xáo xác
Con vượn nó cười, con công nó quạt
Đứng lại mà xem con khỉ nó trèo
Ta đi hỏi vợ ngặt nghèo không xong
Lựa là bạc đã thay lòng
Mĩa mai cho đạo vợ chồng trần ai.
Còn nàng trong lòng cũng bấn loạn xuyến xao :
- Bước xuống ruộng sâu em mãng sầu tấc dạ
Tay ôm bó mạ lụy ứa hai hàng
Ai làm lỡ chuyến đò ngang
Cho loan với phượng đôi hàng biệt ly !
Thật khổ cho chàng trai vấn vương tơ tình thao thức năm canh :
- Bước sang canh một anh thắp ngọc đèn vàng
Chờ con bạn ngọc thở than đôi lời
Canh hai vật đổi sao dời
Tính sao nàng tính trọn đời thủy chung
77
Canh ba cờ phất trống rung
Mặc ai ai thắng ai dùn mặc ai
Canh tư hạt đậu cành mai
Sương sa lác đác khói bay mịt mờ
Canh năm tơ tưởng tưởng tơ
Chiêm bao thấy bậu dậy rờ chiếu không.
Bởi việc vợ chồng là việc của cha mẹ quyết định, cha mẹ đặt đâu thì con
ngồi đó, đừng có léng phéng mà bị rầy la, nếu cha mẹ không bằng lòng cho đôi trẻ
nên duyên giai ngẩu, thì họ còn biết than thở với ai.
- Nước trong giếng đã hơi phèn
Coi em cũng lịch tại hèn mẹ cha.
Và khi chàng trai nghe tin người yêu đi lấy chồng :
- Gió nam non thổi luồn hang chuột
Nghe em có chồng anh đứt ruột đứt gan.
- Ai phụ tôi có đất trời chứng giám
Phận tôi nghèo tôi không dám phụ ai
Tưởng giếng sâu tôi nối sợi dây dài
Ai dè giếng cạn tiếc hoài sợi dây.
Hoặc người con gái nghe tin người yêu đi lấy vợ :
- Em đương dệt chiếu hồi văn
Nghe anh có vợ em quăng con chuồi
Em đương bắt nước sôi sôi
Nghe anh có vợ quăng nồi đá vung.
- Em đương xới nếp vun xôi
Nghe anh có vợ thúng trôi nếp chìm.
Nghệ thuật trong thơ như ta đã thấy, đó là cách dùng ngoại hình phối hợp
với tình cảm dấu kín, đó là cách sử dụng lối tỷ.
Đêm mênh mông trùm khắp vũ trụ, sự yên lặng trong không gian và cái nét
huyền ảo trong bóng tối mập mờ, đây là một trong trăm ngàn cảnh thật linh động
để khơi mở tiếng nói tình cảm, một phương tiện để trút nhẹ khối sầu. Chỉ cần một
78
cơn gió thoảng nhẹ qua thôi, một cơn gió làm mát lòng vũ trụ nhưng lại làm tê tái
tim người :
- Đêm khuya gió đập cành cau
Chồng ai xa vắng ai sầu thay ai
Đêm khuya gió hót ngoài tai
Gió kia có biết chồng ai nơi nào !
- Bóng trăng anh tưởng bóng đèn
Bóng cây anh tưởng bóng thuyền em sang.
- Buồn trông chênh chếch sao mai
Sao ơi sao hởi nhớ ai sao chờ
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi nhện hởi nhện chờ mối ai.
Nếu là đêm trăng thì cảnh ấy lại càng tình tứ hơn. Vì gió sẽ đi trong sương
bạc lờ mờ, trên dòng nước loang loáng gió lại lửng lờ đẩy trôi con thuyền trăng
phiêu bạt, để rồi trong cái phóng khoáng vô cùng đó, gió lại đi thẳng vào lòng
người mà phá phách cái mạch sầu ngào nghẹn.
- Gió thổi hiu hiu
Bắc liêu kia hởi
Đoạn sầu này biết gởi cùng ai.
- Ví dầu nước chảy đá mòn
Xa nhau nghìn dặm vẫn còn nhớ thương.
- Gió đưa cơn buồn ngủ lên bờ
Đừng cho nó xuống nó rờ mắt tôi..
Trăng và gió càng làm cho tình người say mê, càng dễ ru ngủ tâm hồn thế
nhân vào bể mộng vu vơ và đồng thời tình ái của họ cũng mơn trớn, lâng lâng.
- Trăng vàng đủng đỉnh trên mây
Gió đâu gió hãy xe dây tơ hồng.
Nhưng rồi, đêm dần dần tàn, trăng buồn xế bóng, gió đã biếng ru, lòng
người cũng uể oải và lời hẹn ước sau cùng:
79
- Đêm tàn nguyệt lẫn về tây
Đường tình kẻ đấy người đây còn dài.
Những hình ảnh linh động và tế nhị nhứt, có thể cho ta hiểu tư tưởng của họ
rất hiền dịu chớ không đến đổi phải lãng mạng.
- Tình sâu mong trả nghĩa đền
Đừng mơ chốn khác mà quên chốn này
Nước vơi rồi nước lại đầy
Tình kia chưa trả nghĩa này chớ quên.
- Chồng gì anh, vợ gì tôi
Chẳng qua là cái nợ đời chi đây.
Đọc qua những câu này, ta không thấy có câu nào trừu tượng, mà là tả một
vật thể điển hình rất thực tế. Ngay trong những đoạn tả cảnh tình yêu thiên nhiên
đến trong lòng họ nhẹ nhàng như cơn gió, êm dịu như ánh trăng :
- Chim uyên xuống suối kiếm mồi
Thấy anh lao khổ đứng ngồi không yên.
- Chiều chiều vịt lội ao sen
Tình cờ tôi gặp người quen tôi chào
Chào cô trước mũi tiên phuông
Chào cô sau lái mặt vuông chữ điền
Người nào là vợ Vân tiên ?
Nói cho tôi biết tôi chào liền chị dâu
Người nào người nghĩa tôi đâu ?
Nói cho tôi biết tôi gởi câu ân tình.
Và sau đó, tình yêu cũng tan biến nhanh như làn khói, như áng mây trôi, như
tiếng kêu khắc khoải của tâm hồn :
- Chiều chiều mây phủ Hải vân
Chim kêu gành đá gẩm thân lại buồn.
- Đi ngang cầu sắt
Hỏi gắt chung tình
Bướm xa ong tại nhụy, tôi xa mình tại ai ?
80
Lòng người cũng như cơn bảo tố, khi hết cơn bảo tố rồi thì trời trở lại trong
sáng, tình yêu cũng vậy, khi mà vết thương tình đã lành lặn, dấu yêu đương đã mờ
phai, tâm hồn của họ trở về với thế quân bình, khoan khoái :
- Năm năm, tháng tháng, ngày ngày
Lần lần, lửa lửa, rày rày, mai mai
Có ai ta cũng thế này
Không ai ta cũng như ngày có ai.
Hoặc nhứt quyết hơn :
- Có ai nước cũng đứng bờ
Không ai nước cũng đứng cơ bực này
Có ai thêm bận vì ai
Không ai giường rộng chiều dài dễ xoay.
Cái lý của họ dù có buông lơi theo tình cảm, nhưng vẫn thiên về cái bản chất
thực tế sinh tồn chớ không nghiêng hẳn về mặt diễm tình lãng mạng, cho ta thấy rỏ
hơn nữa, hình ảnh trong thơ là hình ảnh trong đời sống hằng ngày, ai cũng có thể
thấy được, ai cũng có thể sờ mó được, đó là hình ảnh tự nhiên, hình ảnh xu hướng
về màu sắc dân tộc tính. Hình ảnh ngọn cỏ, con nghé trong tình yêu lãng mạng :
- Em như ngọn cỏ phất phơ
Anh như con nghé nhởn nhơ giữa đồng.
- Cô em nho nhỏ
Cắt cỏ giữ trâu
Bước qua năm nữa anh bưng trầu cưới em.
- Thò tay ngắt ngọn rau ngâu
Thấy em còn nhỏ giữ trâu anh buồn.
Rồi đến hình ảnh con chim :
- Chim chuyền nhành ớt líu lo
Nhạn sầu con bạn ốm o gầy mòn.
- Chim uyên ăn trái nhản lồng
Thia thia quen chậu vợ chồng quen hơi.
81
- Ba đồng một mớ trầu cay ,
Sao anh không hỏi những ngày còn không ,
Bây giờ em đã có chồng
như chim vào lồng , như cá cắn câu
Cá căn câu biết đâu mà gở
Chim vào lồng , biêt thủơ nào ra . ...
- Ước gì có cánh như chim ,
Bay cao. lượn thấp, đi tìm người thương .
- Con chim nho nhỏ
Cái lông nó đỏ
Cái mỏ nó vàng
Nó kêu người ở trong làng
Đừng ham lảnh lụa phụ phàng vải bô.
- Chim uyên xuống đất ăn trùng
Anh hùng lở vận lên rừng đốt than.
Nói về sự chung tình của đôi trai gái :
- Nếu mà không lấy đặng em
Anh về đóng cửa cày rèm đi tu.
Người bạn gái cũng muốn theo chàng :
- Tu đâu cho em tu cùng
May ra thành Phật thờ chung một chùa.
Trước khi là bạn ân tình, người con gái cũng nhiều đêm thao thức mộng mơ:
- Chẳng tham ruộng cả ao liền
Chỉ tham cái bút cái nghiên anh đồ.
Thà làm vợ thư sinh có phẩm chất hiền hậu, chung tình chớ không chịu lấy
anh nông dân cụt mịch một chữ cắn làm hai cũng không thuộc :
- Một đêm quân tử nằm kề
Còn hơn thằng ngốc vỗ về quanh năm.
82
- Ba năm sống với người đần
Không bằng một phút sống gần người khôn.
Hoặc là :
- Một là em lấy chồng quan
Hai là chồng lính làng chàng cũng chồng dân
Nhưng em không lấy chồng đần
Về nhà mẹ mắng ra đường chị em khinh.
Hoặc là :
- Một ngày dựa mạn thuyền rồng
Còn hơn chin tháng nằm trong thuyền chài.
Hoặc là :
- Con vợ khôn lấy thằng chồng dại
Như bông hoa lài cắm bải cứt trâu.
Nói về tính lẳng lơ, mất nết của người đàn bà có chồng trong ca dao có khối
lượng nhiều vô kể :
- Lẳng lơ cũng chẳng có mòn
Chín chuyên cũng chẳng sơn son để thờ.
Tính lẳng lơ thay vì dấu kín, nhưng họ sẳn sàng trưng ra cho mọi người thấy
như một món hàng mời gọi, họ rao bán cái tính lẳng lơ cho bọn đàn ông khát tình:
- Em đây là gái năm con
Chồng em rộng lượng vẫn còn chơi xuân.
- Đêm qua để cửa chờ chồng
Đêm nay để cửa chờ ông láng giềng.
Tính lẳng lơ mà so sánh đến thế này thì tuyệt chiêu :
- Hai tay cầm hai quả hồng
Quả chát phần chồng, quả ngọt phần trai
Đêm nằm vuốt bụng thở dài
Thương chồng thì ít, thương trai thì nhiều.
Trong hoàn cảnh nếu lở gặp phải anh chồng đần thì giải quyết vụ này ra sao:
- Có chồng càng dễ đi ngang
Đẻ ra con thiếp, con chàng, con ai
Con tôi đi kiếm về đây
Có cho nó gọi bằng thầy thì cho.
83
- Mả chồng cỏ chửa ra xanh
Đã cùng người khác yến anh ân tình.
Trong khi có những người vợ trọn đời thương chồng thương con đến đổi
không nghĩ đến thân mình, những người vợ trung trinh này dù nghèo mà cũng còn
nhan sắc, có lắm kẻ đàn ông mất nết buông lời trêu chọc nhưng nàng vẫn mặc kệ
và có vẻ coi thường bọn chúng :
- Em đi làm mướn nuôi ai
Cho áo em rách cho vai em sờn.
- Tôi đi làm mướn nuôi con
Áo rách mặc áo, vai sờn mặc vai.
Hãy bắt chước tình cảm của đôi trai gái này :
- Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm lấy áo ta đề câu thơ
Câu thơ ba chữ đành rành
Chữ trung, chữ hiếu, chữ tình là ba
Chữ trung thì để phần cha
Chữ hiếu phần mẹ đôi ta chữ tình.
- Em về chẳng lẽ về không
Ngựa ô anh trước, ngựa hồng em sau
Ngựa ô đi tới quán cau
Ngựa hồng đủng đỉnh còn sau gò điều.
- Nho nhỏ như ai
Như em đây luôn chặt dạ bền lòng
Dẫu cho nước đồng nai có chảy cạn
Đá đồng nai có bị mòn, thì thủy chung như nhứt
Trước sau em vẫn giữ sắt son lời nguyền.
- Tay cắt tay bao nở, ruột cắt ruột sao đành
Chim kêu dưới suối. Vượn hú trên nhành
Qua không bỏ bậu mà sao bậu đành bỏ qua.
Đời sống bình dân biểu lộ qua bài hát trên đây rất thường thấy trong nếp
sống dân gian như không bao giờ chấm dứt tiếng hò hát tán dương ái tình trên dãy
84
đồng ruộng bao la. Ở bên trong sư du dương tha thiết và thầm kín đó còn ẩn rành
rành hai chữ trung và hiếu. Lời thơ đậm đà, ý thơ thanh nhả, chung qui đều muốn
nói lên cái đẹp dịu hiền của người phụ nữ Việt Nam biết quí câu tam tòng tứ đức
và vẻ lên được sự hùng tráng của người đàn ông biết thờ cha kính me, biết thờ chúa
trung cang, biết lễ nghĩa bạn bè thật đúng với câu tam cang ngũ thường .
- Ai ơi hãy ở cho lành
Kiếp này chẳng gặp để dành kiếp sau.
Sự phô diễn tư tưởng và cảm xúc thức thời trong đời sống dân gian dều xoay
quanh then chốt là bộc lộ tình cảm như các hành tinh xoay chung quanh mặt trời.
d) Bởn chữ.
Bởn chữ là một lối chơi tao nhả trong lúc nông nhàn, bởn chữ của người nhà
quê là một cách tạo cảm tình giữa người này với người nọ, giữa kẻ gái người trai,
giữa người chưa quen biết thành quen biết. Lối bởn chữ rất giản dị, không văn hoa
bóng bẩy, có khi trở thành lối chơi đối thanh, đối nghĩa, đối vần, đối vật.
Lối bởn chữ của họ có nghĩa là mượn một vật nào đó để ví von đến cái việc
mình muốn nói, đặc biết là, nếu người khởi đầu ví một con kiến thì người đối lại
cũng phải ví một con kiến, nếu người khởi đầu ví non cao, thì người đối đáp phải
ví nước thấp. Ví dụ có một chàng trai thương thầm một cô gái, chàng ước :
- Ước gì anh hóa được con kiến vàng
Bò lên cổ bậu dạo đàng lê viên.
Cô gái biết được ngụ ý của anh khùng này, cô phải nghĩ cách đuổi con kiến
vàng này đi chỗ khác, nàng suy nghĩ giây lâu rồi đối lại :
- Ước gì em hóa được con kiến hôi
Bò lên đái xuống cho trôi kiến vàng.
Thật là tuyệt vời, bởi vì mang tên là con kiến hôi, nhứt định nước đái phải
hôi, con kiến vàng làm sao chịu nỗi, thế là nàng đã đuổi được con kiến hôi, và đây
một câu hò đối xứng khác :
-Trai
Dưới mặt nước chói lòa yếm đỏ
Trên bầu trời rạng tỏ màu xanh
85
Từ ngày chia rẻ yến anh
Nước trời còn đó ai đành phụ ai.
-Gái Trên non thẳm mây ngàn giăng vũ
Dưới sông cầu cát ủ làm doi
Từ khi hai đưa sánh đôi
Núi sông còn đó sao trôi lời nguyền.
-Gái Trên đời mọi vật bẩn nhơ
Đều nhờ rửa nước trở nên trong lành
Đến khi nước phải nhơ tanh
Lấy gì mà rửa xin anh phân cùng.
-Trai Trải bao thế hệ oai hùng
Nước nhà lâm nạn anh hùng ra tay
Hy sinh bao quản thân dài
Máu đào từng rửa nước rày thành trong.
Cũng trong cách hò đối xứng đó, đây có vẻ vui nhộn hơn :
-Gái Ghe anh mỏng ván
Bóng láng nhẹ chèo
Xin anh bớt ngọn xả lèo chờ em.
-Trai Đây đã chèo lơi
Chờ người tri kỷ
Gặp mặt chuyện trò cho phỉ ước mơ.
-Gái Ba đồng một mớ đàn ông
Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha.
-Trai Ba đồng một lũ đàn bà
Mua về ta bỏ chuồng gà chuồng heo.
-Gái Ba trăm một mụ đàn bà
Đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi.
-Trai Nước mắm ngon dầm con cá bẹ
Anh biểu em rình lén mẹ qua đây.
86
-Gái Nước mắm ngon dầm con cá đối
Em biểu anh chờ để tối em qua.
Sự trào phúng qua lối bởn chữ trong giới bình dân còn được xuất hiện ở
nhiều hình thức khác, như thấy một vật nào trước mắt rồi nhân cách hóa vật đó ra
nhiều cách nói, khi thì nói quá sự thật :
- Con mèo mầy trèo cây cau
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà
Chú chuột đi chợ đàng xa
Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo.
Trong bốn câu này có ba từ đáng chú ý : chú chuột, con mèo, giỗ cha, hai
con vật bất đồng tương ngộ, thế mà có một hôm chú mèo ta trèo cây cau tìm chú
chuột, nếu không phải bắt chú chuột để ăn tươi nuốt sống thì chắc chắn là sẽ có
một chuyện gì không lành sắp xảy ra, nhưng mèo không thấy chuột, vậy chuột đi
đâu, à thì ra đi chợ để mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo. Dụng ý của nội dung
bốn câu thơ trên là nguyền rủa bọn quan lại hà hiếp dân lành, cũng như con mèo ỷ
sức dõng mưu cao lúc nào cũng tấn công được con chuột vậy.
Khi thì nói ngớ ngẩn mất cả luận cả lý, không hiểu ý họ muốn nói gì :
- Con kiến mầy ở trong nhà
Tao đóng cửa lại mày ra đàng nào
Con cá mầy ở dưới ao
Tao tát nước vào mầy sống được chăng.
Không biết họ định nói gì, bởi chính họ, họ cũng chẳng cần ý thức đến
những câu nói đó, cũng có thể là một ý nghĩ chống báng, cũng có thể là một lời
nói chế diểu, càng đọc lại càng khó hiểu như những câu sau đây :
- Con gà cục tác lá chanh
Con heo ủn ỉn mua hành cho tôi
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng giềng.
- Cóc chết để nhái mồ côi
Chẩu ngồi chẩu khóc chàng ơi là chàng
Ểnh ương đánh lệnh đã vang
Tiền đâu mà trả cho làng ngóe ơi.
87
- Con cò chết rũ trên cây
Cò con mở sách xem ngày làm ma
Cà cuống uống rượu la cà
Chim ri ríu rít bổ a lấy phần.
- Con kiến mà leo cành đa
Gặp phải cành cụt leo ra leo vào
Con kiến mà leo cành đào
Gặp phải cành cụt leo vào leo ra.
Như cách đùa giởn giữa hai mẹ con :
- Cái bóng là cái bóng bang
Con ơi lấy sàng cho mẹ đổ khoai
Con ăn một, mẹ ăn hai
Con đi bốc muối thì khoai chẳng còn
Con ngồi con khóc nỉ non
Mẹ giận mẹ đập con bon đầu hè
Có đánh thì đánh vọt tre
Đừng đánh vọt nứa nửa què chân con.
Khi thì chế diểu người cha dành ăn với con :
- Làm trai không đáng nên trai
Vót đủa cho dài ăn vụng cơm con.
Khi thì nhạo báng người chồng sợ vợ :
- Làm trai rửa chén quét nhà
Vợ gọi thì dạ thưa bà em đây.
Khi thì mỉa mai một người tàn tật :
- Trời ơi nở hại thằng cùi
Bốc nhằm dầu hắc nó chùi không ra.
Tất cả những câu hát trên đây nếu không nhằm mục đích để chế diểu một tục
lệ gì, một địa vị gì, một phẩm tước gì, một tâm lý gi thì cũng là một dụng ý nói cho
hả hê cái nỗi lòng ấm ức của người dân trong thời kỳ bị trị, nạn áp bức, hà hiếp
trong dân gian rất thường ngày.
88
Thể cách trào phúng của dân gian đã ăn sâu vào tâm trí của dân tộc Việt
Nam, cho nên mỗi khi không đủ sức chống đối trực tiếp một lực lương áp đảo bằng
dùi cui, dân gian đã nghĩ ngay cách phải dùng đến nó để mà nói xiêng, nói xỏ, nói
trắng ra đen, nói bạc ra vàng, nói lòng nhân ra phản phúc, nói chó thành trâu, nói
lợn cắn hùm, v.v…bởi vì nó là một lối chống đối gián tiếp có hiệu quả.
- Bao giờ rau riếp làm đình
Gỗ lim làm ghém thì mình lấy ta.
Bao giờ trạch đẻ ngọn đa
Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình.
- Bao giờ cho đến tháng ba,
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng.
Hùm nằm cho lợn liếm lông,
Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi.
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười;
Con gà, be rượu nuốt người lao đao.
Lươn nằm cho trúm bò vào;
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.
Lúa mạ nhảy lên ăn bò;
Cỏ năn, cỏ lác rình mò bắt trâu.
Gà con đuổi bắt diều hâu;
Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông.
- Bước sang tháng sáu giá chân,
Tháng một nằm trần bức đổ mồ hôi.
Con chuột kéo cầy lồi lồi,
Con trâu bốc gạo vào ngồi trong xoong.
Vườn rộng thì thả rau rong.
Ao sâu giữa đồng, vãi cải làm dưa.
Đàn bò đi tắm đến trưa,
Một đàn con vịt đi bừa ruộng nương.
Voi kia nằm ở gằm giường,
Cóc đi đánh giặc bốn phương nhọc nhằn.
Chuồn kia thấy cám liền ăn,
Lợn kia thấy cám nhọc nhằn bay qua.
Trời mưa cho mối bắt gà,
Thòng-đong cân-cấn đuổi cò lao xao.
Lươn nằm cho trúm bò vào,
89
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.
Thóc giống cắn chuột trong bồ,
Một trăm lá mạ đuổi vồ con trâu.
Chim chích cắn cổ diều hâu,
Gà con tha quạ biết đâu mà tìm.
- Bong bóng thì chìm, gỗ lim thì nổi.
Đào ao bằng chổi, quét nhà bằng mai.
Hòn đá giẻo dai, hòn xôi rắn chắc.
Gan lợn thì đắng, bồ hòn thì bùi.
Hương hoa thì hôi, nhất thơm thì cú.
Đàn ông to vú, đàn bà rậm râu.
Hay cắn thì trâu, hay cày thì chó.
- Gió đánh cành đa
Gió đập cành đa
Thầy tưởng rằng ma
Thầy ù té chạy
Ba thằng ba gậy
Đi đón thầy về
Bắt con lợn sề
Cho thầy chọc tiết
Bắt con cá diếc
Cho thầy bốc mang
Bắt con tôm càng
Cho thầy lột vỏ
Lấy đôi đủa đỏ
Cho thầy gảy lưng
Bắt đồng bánh chưng
Cho thầy chấm mật.
- Cóc chết nàng nhái mồ côi
Chàng hiu đi hỏi lắc đầu hỏng ưng
Con ếch ngồi ở gốc đưng
Nó kêu cái ẹo biểu ưng cho rồi.
Sở dĩ có thể ca trào phúng là nhờ tinh thần chống đối trong dân gian phát
triển mạnh mẻ, họ chê bọn đàn ông đa thê, họ chế nhạo người đàn bà không lành
nết, họ đả phá cái bọn ăn không ngồi rồi, chỉ biết lợi dụng sức lao động của người
dân để làm giàu, họ nhạo báng bọn nhân danh là kẻ sĩ mà hèn nhát trước giặc ngoại
90
xăm, họ chọc quê kẻ buôn thần bán thánh, họ dèm pha bọn trọc phú không hề ngó
ngàng đền kẻ nghèo hèn v.v…Hơn nữa, thể trào phúng đưa tinh thần chống đối lên
cao, vừa hửu hiệu, vừa xuyên tạc đối phương, vừa tự vệ lấy mình
91
CHƯƠNG THỨ BA
1.- GIA ĐÌNH.
2.- GIÁO DỤC.
3.-VAI TRÒ NGƯỜI ĐÀN ÔNG.
4.-VAI TRÒ NGƯỜI PHỤ NỮ.
5.-MẸ DẠY CON
6.-CHỒNG DẠY VƠ.
1.- Gia đình.
Giáo dục trong gia đình là một nếp sống văn minh của người dân quê thuở
xưa, ngoài gia đình là nông nghiệp, bên cạnh đời sống nông nghiệp hằng ngày nảy
sinh nhiều tình cảm. Trong ca dao truyền khẩu người ta thấy nổi bậc ba chí hướng
này : gia đình, nông nghiệp, tình cảm.
Gia đình và xã hội có mối dây liên quan mật thiết. Nếu muốn xây dựng một
quốc gia hùng cường trước hết họ phải biết tổ chức nếp sống trật tự trong gia đình,
họ biết cách giáo dục lẫn nhau hầu đem những điều học hạnh đó ra áp dụng thực tế
vào xã hội trong bất cứ mọi sinh hoạt nào để mưu cầu cho đất nước ngày thêm phát
triển.
Gia đình là nơi che chở, đùm bọc trong bầu không khí trìu mến, chan chứa
lửa ấm tình nồng. Trong gia đình cha mẹ là gia trưởng có nhiệm vụ dạy dỗ con cái
với các đức tính căn bản, ngoài xã hội cũng có thầy, có bạn tốt để học hỏi, cũng có
cô bác láng giềng hàng xóm dạy lẫn nhau những kinh nghiệm trường đời.
Muốn cho xã hội luôn luôn tăng trưởng, người công dân phải luôn trau dồi
đức trí, thể lực. Tuy nhiên nói đến tổ chức đời sống gia đình ngày xưa có hai chế
độ mẫu hệ và phụ quyền, chế độ mẫu hệ là người phụ nữ làm chủ gia đình, con cái
sinh ra đều lấy theo họ của mẹ, chế độ này thường thấy ở các miền vùng núi, vùng
cao nguyên, chế độ phụ quyền là người đàn ông làm gia trưởng, con cái sinh ra đều
lấy theo họ cha. Trong hai chế dộ này người con chỉ biết vâng dạ cúi đầu nghe lệnh
chứ không được cải, vì vậy mới có sự độc đoán, áo mặc không qua khỏi đầu là như
thế. Tiêu biểu thường thấy trong ca dao truyền khẩu là tình cảm dấu kín, sự day dứt
không nói hết nổi lòng, sự châm biếm trong lối sống, sự thóa mạ trong giao tế, sự
chống báng theo cách đối xử. Lại nữa trong xã hội thời bấy giờ người ta trọng nam
92
hơn nữ, nam tôn nữ ti mà, đối xử như vậy là để nâng cao cái phẩm giá tuyệt đối
của người đàn ông, sau này ta sẽ thấy ca dao truyền khẩu dẫn chứng “ trai năm thê
bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng”.
Trong một nước, vua là cha của nhân dân, chỉ có vua mới có quyền tế lễ trời
đất, vua ra lệnh dân phải cúi đầu tuân hành, dù lệnh ấy trái với điều mong ước của
lòng dân, nếu cải lệnh sẽ mang tội bất trung.
Trong gia đình, người cha là gia trưởng, người vợ, con dâu thì coi như người
đầy tớ, con trai thì được quí chuộng, con gái không được hưởng gia tài.
Mọi hoạt động trong xã hội người đàn ông có quyền quyết đoán, tuyệt nhiên
không có lời lẽ của người phụ nữ xen vào chuyện của cánh đàn ông.
Nền tảng gia đình là sự giáo dục về luân lý, giúp cho chế độ phụ quyền thêm
vững chắc, nếu phụ quyền có vững chắc thì chế độ quân quyền càng mạnh mẻ
thống trị dân lành, nếu chế độ phụ quyền bị lật đổ thì chế độ quân quyền không thể
tồn tại. Sở dĩ chế độ phụ quyền được tôn trọng là vì ảnh hưởng đến nền giáo dục
nho học. Người đàn ông rất hảnh diện vì phụ quyền làm cho họ trở nên có giá trị,
quyết đoán. Người đàn ông có vợ mà không sinh ra được một cậu con trai là mang
tội bất hiếu, nên thầy Mạnh tử mới nói : “ Con người có ba điều bất hiếu lớn mà
không có con trai kế tự là trọng tội hơn hết”.
Ca dao là tiếng nói phản chiếu tâm hồn dân gian, mục đích gây nên phong
trào chống đối chế độ phụ quyền mãnh liệt. Sau đây là đề mục phân tích.
2.- Giáo dục.
Phần lớn sự giáo dục trong dân gian đều có ảnh hưởng rất nhiều đến triết học
Khổng Mạnh. Giáo tổ của đạo này là Khổng phu tử, tên là Khâu, tự Trọng Ni, sinh
ở nước Lỗ (năm 551 trước tây lịch). Vốn giòng dõi quí tộc, thân phụ là Thúc lương
Ngột, thân mẩu là Nhân Thị. Năm 30 tuổi Ngài có rất nhiều học trò theo học, năm
51 tuổi vua nước Lỗ mời ngài ra làm quan. Ngài đi qua nhiều nước như Tề, Vệ,
Tần, Khuông, Tống, Thái, Diệp, Sở và đến năm 72 tuổi ngài mất tại nước Lỗ.(tỉnh
Sơn Đông ngày nay). Các môn đồ của ngài sau đó như Tử Hạ, Tử Du, Tử Dương
thay nhau truyền bá giáo lý. Đời sau có phái Tăng Sâm chép thành những bộ sách
Luận ngữ, Đại học, Trung dung, có thể nói phái này là chính truyền hơn hết. Cách
một trăm năm sau, kể từ ngày Khổng Tử mất có một đệ tử của ngài là Khổng Cấp,
93
tức cháu nội của Khổng Tử tên là Mạnh Tử, là người đầu tiên lảnh hội được những
triết lý cao siêu của ngài.
Khổng Tử vừa là một nhà chánh trị lỗi lạc, biết cách an dân trị nước, vừa là
một nhà giáo dục đại tài, biết tiến dẫn con người vào ngỏ thiện.
Nho giáo truyền vào nước ta vào khoảng giữa thế kỳ thứ hai, trước tây lịch,
tức là vào thời bắc thuộc lần thứ nhứt ( 111-39 ). Đến đời nhà Trần ( 1225-1400 )
tạm gọi là thời kỳ nho giáo có xu thế bành trướng. Nhà vua mở khoa thi để tuyển
chọn nho sĩ vào triều làm quan, cách lựa chọn này gọi là khoa cử. Vì lẽ ấy mà nước
ta trong các thời Ngô, Đinh, tiền Lê, Lý, Trần, hậu Lê và cho tới đời nhà Nguyễn,
chữ Hán được chuyễn thể thành chữ Nôm, coi như là chữ trong chính phủ dùng để
giáo dục, viết các văn bản, thi phú, bút đàm. Phần lớn các ngôn ngữ của Hán tộc
dần dần cũng được biến thể thành ngôn ngữ của Việt tộc.
3.- Vai trò người đàn ông.
Người được trong dụng trong xã hội Việt Nam thời bấy giờ phải kể phái
nam có địa vị trên hết. Trong gia đình họ là gia trưởng, ngoài xã hội họ có quyền
tham gia vào các tổ chức của chánh quyền, họ tự do lui tới những nơi công cộng và
giải quyết các vấn đề tranh tụng, kiện cáo, hòa giải các vấn đề phiền phức trong gia
đình. Bởi chưng chỉ vì họ là người đáng học đạo thánh hiền, dùi mài kinh sử để
chờ đợi khoa thi cử. Đó là một sự biệt đải người đàn ông mà trong chế độ trong
nam khinh nữ hồi ấy rất thịnh hành:
- Làm trai học đạo thánh hiền
Năm hằng chớ trể, ba giềng chớ quên. (*)
- Quân vi thấn cang
Phụ vi tử cang
Phu vi tam cang
Giả tam cang tối thiện.
Học đạo thánh hiền, không chỉ chờ đợi khoa thi cử, mà còn phải luôn trau
dồi bản thân cho đủ ba đức tánh tốt và năm hạnh lành, gọi là tam cang ngũ thường.
Ca dao truyền khẩu đã hoàn tất cái vai trò bắt từ nguồn gốc dạy người của đạo nho.
Đã được trọng đải, vai trò người đàn ông phải tự biết phận sự mình:
- Làm trai bốn bể danh vang
Học đạo thì phải tam cang ngũ thường.
94
Tam cang tức là ba giềng :
- Làm trai giữ trọn ba giềng
Thảo cha, ngay chúa, vợ hiền chớ vong.
Sách có chữ rằng “Cương cử mục trương” có nghĩa khi giềng lưới đã cất lên
thì các mắc lưới thảy đều trương ra, nghĩa bóng nói người đàn ông mà giữ trọn đạo
ba giềng thì tánh tốt được phát hiện ra cho người ta thấy rỏ ràng :
- Làm trai giữ trọn đạo ba
Mai sau có thác vẫn là thơm danh.
- Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thì canh điếm. tối dồn việc quan
Chém tre đẳng gổ trên ngàn
Có thân chịu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc măng mai
Những tre cùng nứa lấy ai bạn cùng.
Ngũ thường tức là năm hằng : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nhân là lòng thương
người, tình thương đại đồng chớ không lẩn quẩn trong vòng vị kỷ. Đời sống đẹp đẻ
không phải ở trong tiền kho của để, không phải trong đời sống hạnh phúc vợ đẹp
con ngoan, mà đẹp ở tấm lòng biết yêu thương muôn loài. Lòng nhân ở đây là một
bổn phận :
- Thương người như thể thương thân
Ghét người như thể vun phân cho người.
Người đàn ông học đạo thánh hiền, biết tam cang, ngũ thường, vai trò và
nghĩa vụ trong xã hội phải là :
- Làm trai cho đáng nên trai
Xuống đông tỉnh, lên đoài đoài tan.
(*) Năm hằng : 1-Nhân, 2-Nghĩa, 3-Lễ, 4-Trí, 5.-Tín.
Ba giềng : 1-Thờ cha kính mẹ, 2-Thờ chúa tận trung, 3-Vợ chồng hòa hợp
95
- Làm trai cho đáng nên trai
Phú xuân cũng trải, Đồng nai cũng từng.
- Làm trai quyết chí tang bồng
Sao cho tỏ mặt anh hùng mới cam.
Chí khí của người đàn ông là xông pha nam bắc, rày đó mai đây, vượt núi
trèo đèo, để khỏi hổ thẹn với trời đất non sông :
- Núi cao cũng có cách trèo
Đường dù hiểm nghèo cũng có lối đi.
Hoặc là :
- Đi cho biết đó biết đây
Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn.
Tiếng anh hùng mua lấy vào thân, đâu phải thế mà cho là quân tử :
- Ở đời muôn sự của chung
Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.
Muốn làm người anh hùng phải gian lao từng trải, đứng trong đời phải như
cây cổ thụ :
- Làm trai đứng ở trên đời
Sao cho xứng đáng giống nòi nhà ta
Ghé vai gánh đở san hà
Sao cho tỏ mặt mới là trượng phu.
- Đấng trượng phu đừng thù mới đáng
Đấng anh hùng đừng oán mới hay
Gừng già, gừng rụi, gừng cay
Anh hùng càng cực càng dày nghĩa nhân.
Đã là anh hùng thì ai đâu nuôi sự hiềm oán trong lòng. Nếu có oán thì hãy
oán nợ trần gian, nợ nghĩa vụ quốc gia, những nợ đó chưa làm xong thì người anh
hùng càng oán để mong sớm trả nợ :
- Như vầy mới gọi rằng trai
Trước lo nghĩa chúa sau mài thảo thân.
96
Tuy nhiên bên cạnh vai trò người đàn ông nói trên đáng được khen ngợi,
trọng dụng thì cũng có không ít một số đàn ông tập tểnh những thói hư tật xấu, như
là trai năm thê, bảy thiếp, cờ bạc, rượu chè :
- Sông bao nhiêu nước cũng vừa
Trai bao nhiêu vợ cũng chưa vừa lòng.
Cái thói hư tật xấu của người đàn ông là thích tìm của lạ :
- Trong nhà có sẳn yến ngâm
Lại còn muốn những nhung sâm nước ngoài.
Rồi sanh lòng bất chính :
- Ai xuôi ai khiến bất nhơn
Tôi thấy vợ bạn tôi thương hơn vợ nhà.
Hoặc là :
- Đàn ông năm bảy lá gan
Lá ở cùng vợ, lá toan cùng người.
Cái tính đàn ông nó là thế nầy đây :
- Thế gian ba sự không chừa
Rượu nồng, dê béo gái vừa đương tơ.
Đã thế lại thêm nạn cờ bạc, chè tàu :
- Làm trai tập đánh tổ tôm
Uống chè Phương thái xem nôm Thúy kiều.
- Chồng em nó chẳng ra gì
Tổ tôm xốc dĩa nó thì chơi hoang.
Có ông phải nhờ đến vợ dạy mới nên thân :
- Làm trai cờ bạc thì chừa
Rượu làng thì uống rượu mua thì đừng.
- Cờ bạc là bác thằng bần
Cửa nhà bán hết ra than ăn mày.
97
Trong xã hội thời phong kiến không thiếu hạng đàn ông này :
- Ra đường võng giá nghênh ngang
Về nhà hỏi vợ cám rang đâu mày ?
Vợ đáp : Cám rang tôi để cối xay
Chồng đanh đá : Hể chó ăn hết thì mày với ông.
Mong sao xã hội ngày nay có những trai thanh gái lịch như vầy :
- Đã sinh ra sống ở đời
Trai thì trung hiếu đôi vai cho tròn
Gái thì trinh tĩnh lòng son
Sớm hôm gìn giữ kẻo còn chút sai.
- Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ, ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ.
3.- Vai trò người phụ nữ.
Trước đây ta biết người đàn ông trong gia đình là gia trưởng theo chế độ phụ
quyền, nhưng thật ra người phụ nữ mới đáng được mang cái danh dự ấy. Phận sự
người đàn bà trong gia đình là giúp chồng nuôi dạy con cái, trông nôm nhà cửa từ
trong nhà ra đến đồng ruộng, coi sóc mọi việc trước sau, sắp xếp mọi việc trật tự,
ngăn nắp, đó mới chính là người nội trợ. Cái bổn phận ấy không phải do chồng sắp
đặt, không phải do cha mẹ dạy bảo, đó là cái phẩm chất tự nhiên mà trời đã phú
bẩm cho người đàn bà có chồng và làm mẹ, đó là bổn phận. Bản tính nhu mì, dịu
dàng, hiền hậu, nhẫn nại, chịu khó, chịu thương, chịu đựng gian khổ người đàn bà
đã đưa vai ra gánh vác hết tất cả mọi việc mà người đàn ông không thể làm được.
Hạnh phúc trong gia đình có tốt đẹp hay không đều do bàn tay người phụ nữ đảm
đang gây dựng nên.
Tuy nhiên, về phương diện hôn nhân, người đàn bà lại không có cái tự do
cho mình lựa chọn, cha mẹ đặt đâu thì con ngồi đó, luôn luôn nhớ câu “Áo mặc
không qua khỏi đầu”. Về kinh tế, người phụ nữ tham gia rất nhiều việc như làm
đồng, quay tơ, ươm tằm, dệt cửi, buôn gánh, bán bưng v.v…
98
Trước hết nói về mặt hôn nhân. Khi còn con gái thì sống theo cha mẹ, khi
cha mẹ gả lấy chồng thì theo sống cùng chồng, nếu chồng chết thì người góa phụ
về sống với con trai lớn. Đạo nho dạy người phụ nữ các đức hạnh :
- Tại gia tòng phụ
Xuất giá tòng phu
Phu tữ tòng tử.
Ca dao cũng có câu :
- Tam tòng tứ đức còn ghi
Bé nương cha me già thì theo con.
Trước khi gả lấy chồng, cô gái nề nếp phải trau dồi gương tứ đức, vì nó là
ánh đuốc soi suốt quảng đường dài, vì nó là mực thước tránh được sự mất nết, lẳng
lơ :
- Phận gái tứ đức vẹn toàn
Công, ngôn, dung, hạnh giữ gìn trao thân.
Nói về chữ công. Người phụ nữ trong chế độ phong kiến ít học, cho nên họ
phải lấy nhân lực ra mà phụng sự, nhờ vậy mà tính đảm đang gáng cho họ không
phải là vô lý, lúc nhỏ thì giúp đở mẹ cha, từ việc bếp nút trong nhà ra đến việc
đồng áng, tới khi khôn lớn lập gia đình thì lo công việc bên nhà chồng, biết bao
nhiêu là công việc cực nhọc, nào mua bán tầng tảo, nuôi dạy con cái. Người đàn bà
chịu khó chịu đựng nuôi chồng, nuôi con như một nhà thơ đã miêu tả :
- Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quảng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Trần tế Xương.(1870-1907)
Ca dao diễn tả thực người đàn bà chịu đựng gian khổ :
- Một ngày ba bận trèo đèo
Vì ai vú lép lưng teo hởi chàng.
Hãy nghe lời khuyên chồng của một người vợ đảm đang, một cách sắp xếp
công việc rất là khoa học, phải từng có kinh nghiệm mới được như vầy :
99
- Anh ơi phải lính thì đi
Cửa nhà đơn chiếc đã thì có tôi
Tháng chạp lá tiết trồng khoai
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà
Tháng ba cày vở ruộng ra
Tháng tư gieo mạ thuận hòa mọi nơi
Tháng năm gặt hái vừa rồi
Trời đổ mưa xuống nước trôi đầy đồng
Anh ơi giữ lấy việc công
Để em cày cấy mặc lòng em đây.
Đức tánh thừ hai dạy người phụ nữ hãy chú trọng vào lời nói :
- Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Lời nói phải sao cho nhẹ nhàng, êm ái như tiếng hót của chim muông :
- Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
Sự khôn khéo qua lời ăn tiếng nói cũng là phép lịch sự trong giao tế, lại cũng
được sự quí mến của mọi người chung quanh :
- Hoa thơm ai nở bỏ rơi
Người khôn ai nở nặng lời làm chi.
Có nói cũng vừa phải, không nói nhiều, nói nhảm :
- Rượu lạt uống lắm cũng say
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm.
Xét đoán người qua cách ăn nói thì sẽ biết rỏ người đó có được sự giáo dục
tốt trong gia đình hay không. Có bốn cách nói mà người đời ghét nhứt : một là nói
dối, hai là nói thêu dệt, ba là nói lưỡi hai chiều, bốn là nói lời dung tục, hung ác.
Phong tục xưa của những gia đình có giáo dục, khi người mẹ đẻ đứa con vừa
tròn đầy tháng thì có tục cúng đầy tháng, lễ tục này người ta nun đỏ một thỏi sắt rồi
bỏ vào một tô nước sạch, hơi nóng bốc lên, người mẹ nâng đứa bé trên tay hơ qua
hơ lại để rửa sạch ô uế cho đứa bé, kế tiếp lấy một cái bông vạn thọ nhún vào tô
100
nước xong rắc lên mình đứa bé và quét qua quét lại quanh miệng đứa bé, đoạn sau
đó người mẹ trẻ hát theo điệu vè :
- Mở miệng ra
Có bông có hoa
Mở miệng ra ăn trên ngồi trước
Mở miệng ra giàu sang lộc phước
Mở miệng ra làng xóm ôn hòa
Mở miệng ra
Xứng với người ta
Mở miệng ra quan dân đều chuộng
Mở miệng ra tới lui cửa thượng
Mở miệng ra đẹp cửa đẹp nhà
Mở miệng ra
Có bông có hoa.
Xem thế mới biết người mẹ chú ý đến sự nói năng của đứa con sau này, khi
mở miệng ra được nhiều người ưa chuộng, tuy nhiên cũng có không ít người khi
mở miệng ra thì bị thiên hạ chê cười :
- Người sao đẹp lạ đẹp lùng
Tiếc câu ăn nói lùng bùng khó nghe.
Có câu luận ngữ viết rằng : “Danh bất chánh tắc ngôn bất thuận, ngôn bất
thuận tắc sự bất thành.” Nghĩa là quan niệm không chính xác thì lời nói không theo
sát với ý nghĩa, lời nói không theo sát ý nghĩa thì việc làm không thành tựu.
- Lưỡi không xương nhiều điều lắc léo.
Câu cách ngôn đó chứng tỏ rằng nói là việc rất quan trọng, lời nói làm sao
nhiếp phục được lòng người :
- Một câu nhịn, chin sự lành
Lựa lời mà nói thanh danh cả đời.
Có người trau chuốt lời nói như giọng chuông ngân :
- Lời thanh nói tiếng cũng thanh
Chuông kêu sẻ đánh bên thành cũng nghe.
101
Vì vậy Khổng tử khuyên người nên nghe nhiều hơn nói, mà khi những điều
nghe có điểm khả nghi thì để đó đừng nói, cẫn thận trong lời nói thì ít lỗi.
Đức thứ ba là nói về chữ dung dạy cách ăn mặc đơn sơ mà kín đáo :
- Bận mặc đừng có xuênh xoang
Vải bô thay đổi thường thường thì thôi.
Phụ nữ á đông khác hẳn phụ nữ tây phương, cách phục sức do đó mà khác
nhau, trong thời kỳ pháp thuộc, có nhiều phụ nữ Việt Nam mặc đầm, nhìn chưa
quen trông cũng khó coi :
- Cá lên khỏi nước cá khô
Làm thân con gái lỏa lồ ai khen.
Người bình dân cho rằng sự ăn mặc hở hang tiêu biểu cho hạng người không
lành nết làm cho bia miệng dèm pha :
- Cô kia mặc áo ny long
Hãy về thay đổi kẻo chồng cô chê.
Đức thứ tư là nói về chữ hạnh, là hạnh kiểm, là nết na của người phụ nữ.
Một lời nói vô duyên, một cử chỉ khả ố, một hành động nghịch ngợm đều bị đánh
giá là người thiếu đức hạnh :
- Tốt gổ hơn tốt nước sơn
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người.
Có câu “Đói cho sạch, rách cho thơm” là để nhắc nhở người phụ nữ luôn giữ
đức hạnh. Kẻ giàu ăn sang mặc sướng, người nghèo dù rách áo đói cơm vẫn phải
giữ một lòng thanh bạch :
- Màn treo chiếu rách cũng treo
Hương xông bát ngát, củi rều cũng xông.
Đối nghịch cái đức hạnh là lẳng lơ:
- Lẳng lơ đeo nhẫn chẳng chừa
Nhẫn thì rơi mất lẳng lơ hãy còn.
102
Đó là bốn đức công, dung, ngôn, hạnh của người xưa, còn ngày nay con
người á đông đã nhiếp phục được nền văn minh của thế giới, âu á xích lại gần nhau
hơn, nên sự suy diễn bốn đức trên cũng khác với xưa nhiều, như :
Nói về chữ công, là không tự tâm, tự ý, bất cứ đối với ai phải giữ một lòng
công chính. Đối với gia đình phải có công tâm. Đối với xã hội, đối với quốc gia
phải có công bình, cầm cân xét đoán phải có công lý, đừng tây vị người này mà áp
bức người nọ. Nếu không công bình thì cái lưu tệ bức bách người còn mãi, rồi cả
xã hội, cả quốc gia như thế sẽ nguy vong, sụp đổ ngay.
Nói về chữ ngôn, là nói điều tốt, điều hay đối với xã hội. Cổ động, tuyên
truyền, thuyết phục xã hội. Hấp dẫn từng lớp quần chúng làm hậu thuẩn cho mình
được giỏi bước trên con đường quang minh chính đại.
Nói về chữ dung, là làm đẹp xã hội cả hình thức lẫn tinh thần. Về hình thức
phải xây dựng, cải tạo cho một xã hội tiên tiến, phải thay cũ đổi mới, chỗ ở cần
được tiện nghi và giản dị, phải tham gia vào mọi công ích xã hội, phải khích lệ
quần chúng có ý thức về vệ sinh gia đình và vệ sinh công cộng cho thích nghi với
trào lưu quốc tế, nâng cao trình độ văn hóa và nghệ thuật, truyền bá khoa học, phát
huy những tư tưởng mới.
Nói về chữ hạnh, là trung trinh đối với quốc gia dân tộc. Nếu là xã hội tồi
tàn thì tìm cách sửa đổi nâng đở nó lên cả vật chất lẫn tinh thần. Người trong xã
hội còn kém sút phải làm sao cho họ học hỏi để hiểu biết rộng rải, phải luôn lăn
lóc, lặn lội trong hẻm cùng, ngỏ cụt để giúp đở những người kém may mắn trong
cuộc sống, hãy làm đẹp xã hội tức là làm đẹp mình.
Theo bốn đức công, dung, ngôn, hạnh vừa trình bày trên thì đây là sự hòa
hợp với quốc tế trong việc giáo dục con người mới trong nền văn minh mới, không
phân biệt nam hay nữ, vì nó là bổn phận chung của mọi người.
Hai thời thế, hai tư tưởng tuy cùng một nghĩa mà sự giáo huấn đã thấy khác
xa nhau một trời một vực.
Nói tóm lại, Cái đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa là cái đẹp bị gò bó
trong nề nếp con nhà nho giáo, bởi câu tam tòng tứ đức, cũng như đối với cái đẹp
quân tử của người đàn ông là tam cang ngũ thường, thật ra cũng chỉ là những cái
gút buộc để kèm chế sự phóng túng, tha hóa đạo đức của con người trong cuộc
sống. Nếu bao nhiêu tư tưởng phóng túng tự do không được kiểm soát bằng gia
huấn ca truyền khẩu thì thử hỏi dân tộc Việt Nam này có được vinh hạnh mang
103
danh bốn ngàn năm văn hiến không, và nếp sống thuần phong mỹ tục có tiến theo
kịp đà văn minh của nhân loại không.
5.- Mẹ dạy con.
- Con ơi muốn nên thân người,
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.
Người mẹ có đủ tinh thần sáng suốt, có đủ sức khỏe dồi dào, giáo dục con
trẻ học nên những đức tánh tốt, luyện tập cho con trẻ biết xấu hãy chừa bỏ, biết tốt
hãy noi theo, dạy dỗ trẻ khôn ngoan, nuôi dưỡng trưởng thành, chăm nôm từng li
từng tí, đó chính thực là người hiền mẫu.
Sự dạy dỗ trong gia đình thường dành cho người mẹ, vì bản tính mềm mỏng,
dịu dàng khiến cho con trẻ cảm mến mà không sợ hải, nên con trẻ dễ hấp thụ được
những lời chỉ huấn của người mẹ.
Xét ra người cha vì trăm công ngàn việc, từ tờ mờ sáng vát cuốc dẫn trâu ra
đồng cày bừa, đến mãi chiều tối mới về nhà gần gủi vợ con, thì giờ không có để
nghĩ ngơi thì đâu có rảnh rang mà dạy con. nếu kể những người học thức ra làm
thầy thông ông ký, việc làng việc nước bề bộn, họ còn lo chưa xong, những lý do
đó làm cho con người họ trở nên gắt gỏng, khiến cho họ lúc nào cũng muốn nổi
nóng làm cho con trẻ sợ hải thì không thể nào giáo dục được chúng.
Ngày xưa sách vở rất xa lạ đối với đời sống người bình dân, nhứt là người
đàn bà lại không được may mắn đọc sách như người đàn ông, cho nên người mẹ
dạy con bằng những câu ca truyền khẩu, dễ thuộc, dễ nhớ, hay những câu luân lý
răn đời mà họ học lớm trong sách thánh hiền. Với phương pháp ấy, dù không đem
lại một kết quả như ý, nhưng đứa con rất dễ hấp thụ mau chóng, dần dần lớn lên,
chẳng ít thì nhiều con cái trong nhà cũng có nếp sống đạo lý hợp với lòng người và
thuận với lẽ trời. Nếu những lời mẹ dạy mà đưa con không chịu lấy đó làm mực
thước đo lường, người mẹ bèn hát lên cho con nghe :
- Cá không ăn muối cá ươn
Con cải cha mẹ trăm đường con hư.
Khi nghe xong đứa con sẽ không muốn mình là đứa con hư thân mất nết vì
cải lời cha mẹ. Cứ như thế những câu hát giáo dục con trẻ từ ở miệng người mẹ
104
phát ra như tiếng ru ngủ theo với tháng ngày thoi đưa không bao giờ dứt nơi miền
quê đồng ruộng :
- À…ơi…
Dí dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc lẽo gập ghềnh khó đi.
- À…ơi…bong bóng bòng bong
Lớn lên con phải gắng công học hảnh
Học là học đạo làm người
Con đừng lêu lỏng kẻ cười ngươi chê.
- À…ơi…
Ví dầu cá lóc nấu canh
Bỏ tiêu cho ngọt bỏ hành cho thơm.
- À…ơi…
Em tôi khát sữa bú tay
Ai cho bú thép ngày rày mang ơn.
- À…ơi…
Cháu ơi cháu ngủ cho lâu
Mẹ cháu đi cấy đồng sâu chưa về
Bắt được con trắm con trê
Tròng cổ mang về bà cháu mình ăn.
Sự ấm cúng trong gia đình luôn luôn được diễn ra về đêm, khi mà mọi công
việc trong ngày đã làm xong thì tình cảm gia đình được trổi dậy nồng nàn, người
mẹ bèn hát cho con nghe :
- Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời mẹ ghẻ mà thương con chồng.
Người mẹ có cái thiên chức dạy con bằng câu hát ru, hoặc bài vè, hoặc đọc
trước một câu rồi bắt con trẻ đọc lại, hoặc ví một vật gì làm cho con chú ý tới rồi
giảng giải cho con nghe, hoặc kể một câu chuyện lịch sử :
- Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận loài tham bạo thù chồng chẳng quên
Chị, em nặng một lời nguyền
105
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân
Ngàn Tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã tới gần Long Biên
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định dẹp yên kinh thành.
Đô kỳ đóng ở Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta.
-
Dạy con dẩu cực đến đâu, lòng mẹ cũng kiên định không bao giờ để lộ sự
cực nhọc và chỉ biết tự than thở với mình :
- Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chầy mẹ thức đủ vừa năm,
Người mẹ chỉ muốn có một ước mong sao con cái lớn lên biết chăm lo mọi
việc trong nhà, gái thì biết thêu thùa may vá nấu ăn, trai thì chăm lo học hành dùi
mài kinh sử :
- Con ơi muốn nên thân người
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha
Gái thì giữ việc trong nhà
Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa
Trai thì đọc sách ngâm thơ
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa
Nửa mai nối đặng nghiệp nhà
Trước là đẹp mặt sau là hiển thân.
Người con gái lớn lên cha mẹ ít lo việc học hành bằng con trai, nếu có thì
chỉ vài câu chữ an nam trích trong sách Khổng như :
- Tích cốc phòng cơ (để dành lúa gạo phòng khi đói)
- Tích y phòng hàn (trữ quần áo phòng khi rét lạnh)
- Bần nhi vô xiểm (nghèo mà không nịnh)
- Phú nhi vô kiêu (giàu mà không kiêu căng)
- Hàm huyết phún nhân, tiên ô ngã khẩu
(ngậm máu phun người, trước dơ miệng mình).
106
- Bé chẳng vin, cả gảy cành.
- Yêu cho roi cho vọt
Ghét cho ngọt cho bùi.
- Mẹ dạy thì con khéo
Bố dạy thì con khôn.
- Học ăn, học nói, học gói, học mở.
- Dốt đến đâu học lâu cũng biết.
Người mẹ dạy con gái nên trau dồi đức hạnh nhiều hơn đức trí, sự bất công
trong chế độ phụ quyền là vậy, nếu cải lệnh cha mẹ thì mang tội bất hiếu :
- Ví dù con phụng bay qua
Mẹ nói con gà con phải nói theo.
Thà chịu dốt chữ còn hơn mang tội bất hiếu, bởi trung hiếu là nguồn gốc
phát sinh ra trật tự từ trong gia đình ra ngoài xã hội.
- Làm con cho đáng nên con
Trong tròn hiếu đạo, ngoài tròn giá danh.
Người con hiếu phải biết tuân lệnh mẹ cha, hãy yêu kính và phụng dưỡng
mẹ cha :
- Đói lòng ăn đọt chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
- Dạy con con nhớ lấy lời
Trọng cha kính mẹ suốt đời chớ quên.
Thường xuyên cầu mong cho cha mẹ có sức khỏe, mạnh giỏi :
- Đêm đêm ra thắp đèn trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
- Liệu mà thờ mẹ kính cha
Đừng tiếng nặng nhẹ người ta chê cười.
Dù trai hay gái, người mẹ dạy con phải kính trọng hai chữ hiếu và để :
107
- Thờ cha mẹ ở hết lòng
Ấy là chữ hiếu dạy trong luân thường
Chữ để nghĩa là nhường
Nhường anh nhường chị lại nhường người trên
Ghi lòng tạc dạ chớ quên
Con em phải giữ lấy nền con em.
- Trách ai được cá quên nôm
Được chim bẻ ná quên ơn sanh thành.
Khi con cái trong nhà biết đối xử với nhau trên thuận dưới hòa, người mẹ bắt
qua dạy con cách đối xử với người trong thân tộc, sau đó mới ra đến người ngoài,
bạn bè, thầy trò v.v…
- Muốn sang thì bắt cầu kiều
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy.
- Nhỏ thì thơ dại biết gì
Lớn rồi đi học, học thì phải siêng
Theo đòi cũng thể bút nghiên
Thua em kém chị cũng nên hỗ mình.
- Bạn bè là nghĩa tương tri
Sao cho sau trước một bề mới nên.
- Chữ rằng chi tử vu quy
Làm thân con gái phải đi theo chồng.
Phận làm con trọn hạnh hiếu để là người có tính nết hiền hậu, sẳn tấm lòng
nhân, biết thương và cứu giúp người trong cơn hoạn nạn. Đối với kẻ nghèo :
- Nghiêng vai ngửa vái Phật Trời
Đương cơn hoạn nạn cứu người trầm luân.
Người mẹ thường xuyên cắt nghĩa cho con hiểu trồng cây lành thì ắt sẽ được
nhận quả ngọt, gieo hạt dữ thì sớm gặp trái chua, nếu mình biết việc thiện mà làm,
việc ác lánh xa thì sau này con cháu nhờ phúc đức đó mà an cư lạc nghiệp, gia đình
hạnh phúc, sum vầy :
108
- Tiền lành thì hậu mới hay
Đã vun cây đức ắt đầy lòng nhân.
- Có câu tích đức tu thân
Hoạn nạn tương cứu phú bần tương tri.
- Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là chơn tu.
- Thứ nhứt thì tu tại gia
Thứ nhì tu chợ thứ ba tu chùa.
Bài Gia huấn ca của Ức Trai Nguyễn Trãi (1380-1442) có từ thế kỷ thứ 15,
đã được phổ biến như ca dao :
- Thấy người hoạn nạn, thì thương,
Thấy người tàn tật, lại càng trông nom,
Thấy người già yếu, mỏi mòn,
Thuốc thang cứu giúp, cháo cơm đỡ đần
Trời nào phụ kẻ có nhân,
Người mà có đức, muôn phần vinh hoa.
Lấy điều ăn ở dạy con,
Dẫu mà gặp tiết nước non xoay vần.
Ở cho có đức, có nhân,
Mới mong đời tự, được ăn lộc trời.
Thương người, tất cả ngược xuôi,
Thương người, lỡ bước, thương người bơ vơ.
Thương người, ôm dắt trẻ thơ,
Thương người, tuổi tác, già nua bần hàn.
Thương người, cô quả, cô đơn,
Thương người, đói rách, lầm than kêu đường.
Thấy ai đói rách, thì thương,
Rách thời cho mặc, đói thời cho ăn.
Thương người, như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà,
Đồng tiền, bát gạo, mang ra,
Rằng đây cần kiệm, gọi là làm duyên.
May ta ở chốn bình yên,
Còn người tàn phá, chẳng nên cầm lòng.
Tiếng rằng ngày đói tháng đông,
Thương người, bớt miệng, bớt lòng mà cho.
109
Miếng khi đói, gói khi no,
Của tuy tơ tóc, nghĩa so nghìn trùng.
Ngay thẳng cũng là một đức tính tốt, ăn thật nói ngay là :
- Người sao mở miệng nên lời
Chưa xong mà việc đã rồi mới hay.
Không nói gian dối, khoát láo, hứa lèo :
- Người sao một hẹn thì nên
Người sao chín hẹn lại quên cả mười.
Đừng bao giờ khôn ngoan trong sự gian trá, chỉ đem lại lợi ích nhứt thời
nhưng sẽ di họa lâu dài, không những hại chính mình mà còn lây nhiểm cho kẻ
khác :
- Nói láo là sự phải chừa
Mình không ưa láo ai ưa láo mình.
- Tin nhau buôn bán cùng nhau
Thiệt hơn hơn thiệt trước sau như lời
Hay là lừa đảo kiếm lời
Một nhà ăn uống tội trời riêng mang
Theo chi những thói gian tham
Pha phôi thực giả tìm đường dối nhau
Của phi nghĩa có giàu đâu
Ở cho ngay thật giàu sau mới bền.
Tính cách đối xử với người chung quanh :
- Ở sao cho vừa lòng người
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.
Ở sao cho vừa lòng người mới thật là khó, lúc thì phải biết khôn dại, lúc thì
phải biết dại khôn, dù khôn hay dại miễn đừng lấn hiếp ai, không để cho người ta
lấn hiếp mình :
- Khôn ngoan giữa đám ba bề
Đừng cho ai lận chớ hề lận ai.
110
Khôn ngoan mà làm tay sai cho kẻ khác vậy thì khôn ngoan mà chi :
- Gáo vàng đem múc giếng tây
Khôn ngoan cho lắm tớ thầy người ta.
Phải như vầy mới gọi là khôn :
- Khôn cho người ta sợ
Dở cho người ta thương
Dở dở ương ương người ta ghét.
Đối với bạn bè phải thành thật, có thành thật thì tình ngĩa tương tri mới lâu
dài, trong giao dịch tiền bạc thì rộng lượng :
- Vay chín thì ta trả mười
Phòng khi túng thiếu có người cho vay.
- Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng.
Sự thành thật luôn gạt bỏ mọi phiền toái ra ngoài :
- Ơn ai một chút chớ quên
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng.
Mẹ dạy con cũng có lúc không hài lòng, mẹ giận, mẹ la, mẹ đánh, nhưng
thương xót làm sao khi đứa con nói như van xin :
- Mẹ ơi đừng đánh con hoài
Để con câu cá gọt xoài mẹ ăn.
- Má ơi đừng đánh con đau
Để con hát bộ làm đào má coi.
Nghĩ đến công ơn bằng trời bằng biển của cha mẹ, người con phải lấy chữ
hiếu làm đầu, có lúc người con ở xa bổng nhớ về quê nhà :
- Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột gan.
111
- Chiều chiều ra đứng ngỏ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Tình thương của cha mẹ sưỡi ấm lòng các con, đồng thời sự hiếu hạnh, lễ độ
của các con trả lại một phần nào công ơn dưỡng dục sinh thành của cha mẹ. Con
gái thì lo đường bán buôn để giúp đở gia đình, con trai thì chăm lo học hành để
tiếng thơm cho thân tộc :
- Làm thơ mà dán cây chanh
Trai bỏ học hành, gái bỏ bán buôn
Gái bỏ bán buôn gái còn lịch sự
Trai bỏ học hành một chữ năm roi.
Đi ra buôn bán là phải ganh đua với đời, tranh mối dành giựt bạn hàng, giữa
cái xã hội hổn độn đầy phức tạp đó, người con gái có lúc phải đánh mất cái đức
hạnh mà người mẹ trước đây đã dạy dổ :
- Con ơi mẹ bảo con này
Học buôn học bán cho tầy người ta
Con đừng học thói chua ngoa
Họ hàng ghét bỏ người ta chê cười
Dù no dù đói cho tươi
Khoan ăn, bớt ngủ liệu bề lo toan
Phòng khi đóng góp việc làng
Đồng tiền bát gạo phải thương cho chồng.
Buôn bán là một nghề dù không chuyên môn nhưng người con gái phải biết
qua phòng khi gặp cảnh gia đình túng khó có kế mà xoay sở, tảo tần :
- Nào nghề bánh trái những là
Đến khi kỵ lạp trong nhà càng hay
Bán buôn canh cửi kia thay
Sanh nhai phải giữ trong tay một nghề
Bây giờ chẳng liệu thì quê
Mai sau cùng túng không nghề làm ăn.
- Gái thì quét dọn trong nhà
Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa.
Và người mẹ dạy con biết kính trên nhường dưới :
112
- Con ơi ghi lấy lời này
Biết trên nhường nhịn, dưới thời thảo ngay.
Dạy con trai phải biết cẫn thận trong việc làm ăn bên ngoài :
- Con ơi ghi lấy lời cha
Gió to sông cả chớ qua sông rừng.
Còn nữa, dạy cả hai đứa con :
- Làm trai chớ đọc Phan Trần
Làm gái chớ đọc Thúy Vân Thúy Kiều.
Các cụ xưa thường răn: "Đàn ông chớ kể Phan Trần", vì trong truyện có
đoạn tả Phan sinh tương tư người yêu đến nỗi toan tự vận. Các cụ cho rằng một
người con trai không nên có những tình cảm quá nhu nhược và ủy mị như thế.
Truyện Thúy Kiều thì hồng nhan đa truân, bạc phận, cha mẹ không muốn con gái
mình như Thúy Kiều.
Hay Tục ngữ ta đã nói:
- Mẹ ngoảnh đi, con dại,
Mẹ ngoảnh lại, con khôn.
- Đẻ con chẳng dạy chẳng răn
Thà rằng nuôi lợn cho ăn lấy lòng.
Người mẹ dạy con lấy hiếu để làm gốc, rồi sau mới chỉ qua đạo đức làm
người, con gái thì công, ngôn, dung, hạnh, con trai thì nhân, nghĩa, lễ, trí, tín,
trong đó người mẹ cũng khéo lấy nhạc điệu làm phương tiện, lấy lễ nghi làm mực
thước cho con cái dễ hấp thụ bản sắc di truyền của tổ tiên.
Gia đình có con đông, phận làm cha mẹ là phải thương đồng, có lúc đứa con
út lại được thương nhiều, vì nghĩ nó sanh sau đẻ muộn, anh chị trước của nó đã
hưởng hết phước của cha mẹ rồi, nên phải thương nó nhiều hơn, nhưng rồi nghĩ lại:
- Bốn con ngồi bốn gốc giường
Mẹ ơi mẹ hởi mẹ thương con nào ?
Mẹ thương con út mẹ thay
Thương thì thương vậy chẳng tầy trưởng nam
113
Trưởng nam nào có gì đâu
Một trăm cái giỗ đổ đầu trưởng nam.
Khi con cái đã trưởng thành, cha mẹ còn phải lo việc dựng vợ gả chồng cho
chúng sau này :
- Kiếm nơi nước vận cặm sào
Cha mẹ quyết định nơi nào sẽ hay.
- Thiếp thà đòn gánh đôi ngang
Bán buôn nuôi mẹ chàng sang mặc chàng.
Cha mẹ có quyền định duyên nợ trăm năm cho con, phận làm con phải cúi
đầu nghe lệnh, không có quyền cải, không có quyền lựa chọn ý trung nhân. Nếu
hai bên lở thương nhau mà cha mẹ không bằng lòng cũng phải bức lìa nhau để giữ
trọn đạo hiếu. Tiếng than van “ép dầu ép mở ai nở ép duyên” dù có đến tai cha mẹ
cũng như gió thoảng bên tai, vì cha mẹ cho rằng nhân duyên vợ chồng là việc quan
trọng. Ngày xưa cha mẹ có tự yêu nhau rồi lấy nhau đâu, cũng do ông bà trên quyết
định, mà nay cha mẹ vẫn con cái đông vầy, hạnh phúc đến răng long đầu bạc. Thôi
thì hãy ví đời mình như :
- Con gái như hai bến sông
Bến đục thì chịu, bến trong thì nhờ.
Duyên phận người con, dù trai hay gái, may nhờ, rũi chịu. Cha mẹ mà kết
thông với bên sui gia có đạo đức, có phúc hậu thì thân phận người con gái sẽ nhờ
cậy tốt, trái lại chẳng may lọt vào gia đình bốc lột sức lao động tận xương thì người
con gái sẽ gánh chịu những sự hành hạ của bà mẹ chồng khắc nghiệt. Cho nên
người con gái đến tuổi cặp kê thường ao ước :
- Kiếm nơi cha thảo mẹ hiền
Gởi thân khuya sớm, bạc tiền không ham.
- Chim khôn lựa nhánh lựa cành
Người khôn lựa chốn trai lành gởi thân.
- Đêm nằm nghĩ lại mà coi
Lấy chồng hay chữ như soi gương vàng.
114
- Một ngày ở với người khôn
Cũng như con cá vượt môn hóa rồng.
- Chẳng tham nhà ngói ba tòa
Tham vì một nỗi mẹ cha hiền lành.
Còn phần con trai, cha mẹ phải mua sắm đủ thứ để đi hỏi vợ cho con. Cha
mẹ nào cũng muốn kiếm một con dâu hiền hậu dễ thương, không cần cái mả đẹp,
mà cần cái nết của con dâu, làm sao họ hàng làng xóm khen nhiều chê ít là được.
Cha mẹ nào cũng đắn đo, phân vân với câu “Mua heo chọn nái”. Cho nên dâu hiền
dẫu được nết, mà cha mẹ của cô ta bị tai tiếng thị phi thì cũng khó mà định duyên
cho con mình. Vì có câu “ Công không giống lông cũng giống cánh”.
Khi đã tìm được một cô gái hạp ý, cha mẹ bèn cậy nhờ mai mối tới dạm hỏi :
- Mâm trầu hủ rượu đàng hoàng
Cậy mai đến nói phụ mẫu nàng là xong.
Cậy mai dông là cái tục lệ ngàn năm, nó là gạch nối liền để giới thiệu hai
bên tường tận lai lịch với nhau, một lối giao tế theo nghi lễ hôn nhơn. Nếu tuổi hai
đàng trai gái hạp nhau :
- Khăn xanh mà gói đậu nành
Chạy về hỏi mẹ có đành hay không.
Tuổi tác không đối kỵ, bà mai mới vui mừng khuyến bảo :
- Một chén chun lớn sơn đỏ
Một bộ chén chun nhỏ sơn vàng
Rượu song chun rót đải đôi đàng
Đền ơn cha mẹ còn bạn vàng theo anh.
Còn nếu không hạp nhau, giọng người con trai não nùng :
- Tại phèn kỵ nước nước trong
Đôi ta kỵ tuổi chưa xong vợ chồng.
Hoặc là :
- Bói khoa năm bảy ông thầy
Tuổi tôi chẳng đặng sum vầy với anh.
115
- Trách lòng cha mẹ vụng toan
Bông búp chẳng bán để tàn ai mua.
6.- Bổn phận làm con.
Dựng vợ gả chồng cho con cái xong, cha mẹ đã hoàn tất công việc dạy con,
chỉ mong muốn cho con cái sau này được ấm no, vợ chồng hạnh phúc.
Bổn phận làm con phải có hiếu với cha mẹ lúc còn nhỏ, đến khi lập gia đình,
đến khi con đàng con đúm . Thường người con biết lo lắng cho cha mẹ, biết phụng
dưỡng sớm hôm, biết hai bửa quạt nồng ấm lạnh lại là người con út :
- Năm tiền một khứa cá buôi
Cũng mua cho được mà nuôi mẹ già.
- Tôm càng lột võ bỏ đuôi
Giả gạo cho trắng mà nuôi mẹ già.
Thành kính khi đi ngang phòng cha me :
- Đi ngang phòng má
Cái tay tôi xá
Cái cẳng tôi quỳ
Lòng thương cha mẹ sá gì thân con.
- Có cha có mẹ thì hơn
Không cha không mẹ như đờn đứt dây.
- Mẹ cha như nước như mây
Làm con phải ở cho tày lòng son.
- Dạy con con nhớ lấy lời
Trọng cha kính mẹ suốt đời chớ quên.
Người con út thường hay gần gủi với cha mẹ hơn, bởi anh chị lớn khi đã lập
gia đình thì đã ra ở riêng, đứa con út dẫu có vợ vẫn ở chung với cha mẹ.
Công cha nghĩa mẹ khác chi trời biển, phận làm con phải biết báo đền, dù
chưa có công danh :
116
- Công danh hai chữ tờ mờ
Lấy gì khuya sớm phụng thờ mẹ cha.
Nhưng phải hết lòng thờ cha kính mẹ :
- Mẹ cha trọng quá ngọc vàng
Đền bù sao xiết muôn ngàn công ơn.
Khi mình đã có con rồi, có nuôi con, mình mới biết công ơn khó nhọc của
cha mẹ đã nuôi mình :
- Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẩu từ.
Trả ơn cho cha mẹ biết sao mà lường, cha mẹ còn khuyên dạy con đem thân
mình phụng sự quốc gia cũng là một cách đền ơn trả hiếu :
- Công cha nghĩa mẹ chớ quên
Ơn vua lộc nước mong đền con ơi.
Cha mẹ hy sinh để mong cho đời con sau này có được tự do hạnh phúc :
- Xương ta ta bắc nên cầu
Để cho con cháu lên lầu tự do.
Phận làm con mà quên công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ đó là hành
động trái hẳn với luân thường đạo lý, trừ những kẻ không tin theo thiên mệnh mới
có cữ chỉ gượng gạo, miễn cưỡng, nghĩ công ơn cha mẹ là chuyện đương nhiên,
thương tình, đã sinh ra là phải nuôi dưỡng, làm gì có chuyện công lao trời biển, họ
nghĩ vậy, cho nên khị nuôi cha mẹ họ phải tính tháng, tính ngày để trừ nợ :
- Cha mẹ nuôi con như biển trời lai láng
Con nuôi cha mẹ lại tính tháng tính ngày.
Trách nhiệm phận làm con của họ để ở đâu, họ hất hủi cha mẹ, rồi con của
họ đối đải với ông bà cũng rất thậm tệ, họ dằn mâm, đập chén, họ nói những lời vu
họa cho người đã banh da xẻ thịt sinh ra họ.
Chỉ mong sao thành phần trên là số nhỏ nhứt so với hằng triệu triệu người
biết tới công ơn cha mẹ. Bởi vì :
117
- Có cha có mẹ thì hơn
Không cha không mẹ như đờn đứt dây.
- Ba vuông sánh với bảy tròn
Đời cha vinh hiển đời con sang giàu.
- Ơn cha bằng biển cha ơi
Nghĩa mẹ bằng trời chin tháng cưu mang.
- Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
- Con mẹ thương mẹ lắm thay
Chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau.
- Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm mớm lưỡi lừa cá xương.
- Vẳng nghe tiếng vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ chin chiều ruột đau.
- Ai về tôi gửi buồng cau
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy.
7.- Vợ chồng kín kẻ dạy nhau.
Sống trong một gia đình được sự giáo huấn của cha mẹ từ thuở vị thành niên
đến tuổi cặp kê, trai hay gái đều hiểu rỏ trách nhiệm làm vợ, làm chồng của mình,
để xây dựng hạnh phúc dài lâu, cả hai phải cần nhún nhường, nhịn nhục, nhứt là
phải hiểu nhau, kín đáo dạy bảo lẫn nhau mà không để cho ai chịu mặc cảm, tủi
hờn.
Người đàn ông khi đã có vợ rồi, việc đầu tiên là làm sao cho người vợ của
mình được lòng với gia đình nhà chồng, nhứt là với bà mẹ chồng và cô em chồng,
hai người là cái đinh đối với nàng dâu mới. Trong sách Minh đạo gia huấn có câu :
“Giáo phụ sơ lai, giáo tử anh hài” (dạy vợ lúc mới về, dạy con tuổi còn thơ) theo
đó ca dao sinh ra câu gia huấn :
118
- Dạy con dạy lúc còn thơ
Dạy vợ dạy thuở ban sơ mới về.
Nhận thức rất đúng, con còn thơ mà không dạy lớn lên nó cứng đầu ngỗ
nghịch, chỉ đi gây họa cho mọi người, ví như “Măng non không uồn để già thành
tre”. Cho nên người vợ khi mới bước vào ngưỡng cửa nhà chồng, nếu người chồng
không chỉ mọi cái khó khăn phải tránh, mọi kiêng kỵ không nên làm thì cô dâu
không chống thì chầy rất dễ bị vấp phải.
Trước hết khuyên bảo người vợ nên nhẫn nhục chịu đựng, không nên phiền
hà vì những lời rầy la của mẹ chồng, những câu nói xiêng xỏ của chị em chồng,
người chồng nói nhỏ với vợ :
- Dù ai nói ngã nói nghiêng
Ta đây vẫn vững như kiềng ba chân.
- Dù ai nói đông nói tây
Ta đây vẫn vững như cây trong rừng.
Người vợ biết thương chồng phải cắn răng nhịn nhục tất cả, giả đò như
người điếc, cấm đầu làm việc trối chết mà chẳng dám thốt một lời than, thỉnh
thoảng ấm ức quá cũng than vản chút đỉnh với chồng. Người chồng vừa là cái ao
cho vợ trút hết khổ đau, sầu não, vừa là cái bia cho cha me, anh chị em, họ hàng
thân tộc mĩa mai bởi những điều sai lầm của người vợ mà người chồng không chịu
dạy bảo để sửa đổi tánh nết của vợ.
Người đàn ông có vợ là người đứng giữa một thử thách tình cảm khó phân
xử, một bên là hiếu, một bên là tình, có bên nào kém thua bên nào đâu, nhưng nếu
đã coi là bằng nhau thì người đàn ông càng khổ thân :
- Một mình đứng giữa trung ương
Bên tình bên hiếu biết thương bên nào !
Bên nào là đáng thương, còn bên nào là không đáng thương. Nếu chọn chữ
hiếu thì đạo tào khang càng ngày càng lạnh nhạt, như thế thì làm sao sống trọn đời
bên nhau như lời ước nguyện, còn chọn chữ tình thì sao đang, khi bị miệng thế
gian gáng cho là người con bất hiếu. Bên thì tám lạng, bên vừa nửa cân, khó mà xử
thế cho đồng hai bên :
119
- Niềm kiêm thạch, nghĩa cù lao
Bên tình bên hiếu ở sao cho vừa.
Tuy nhiên đã tạo lập gia đình mà còn ở chung nhà cha mẹ, người đàn ông cố
gắng dàn xếp đến đâu hay đến đó, muốn có sự thuận hòa giữa mẹ chồng và nàng
dâu, người chồng chỉ còn việc răn dạy vợ mình :
- Làm dâu khó lắm em ơi
Vui chẳng dám cười buồn chẳng dám than.
Người vợ sẳn tính chìu chồng, nghe theo lời chồng tức là giữ được hạnh
phúc gia đình :
- Thương chồng phải lụy cùng chồng
Dẫu cho có thác chỉ hồng vẫn xe.
Người chồng thương vợ rất lo lắng cho vợ vì sợ vợ mình bị bên chồng dằn
vật, càng lo lắng người chồng càng thành thật chỉ vẻ, khuyên bảo vợ cần biết
những tánh tình khó khăn của cha mẹ cũng như của anh chị em trong nhà :
- Từ khi em về làm dâu
Anh thì dặn trước bảo sau mọi lời
Mẹ già dữ lắm em ơi
Nhịn ăn nhịn mặc nhịn lời mẹ cha
Nhịn cho nên cửa nên nhà
Nên kèo nên cột nên xà tầm vông
Nhịn cho nên vợ nên chồng
Thì em coi sóc lấy trong cửa nhà
Đi chợ thì chớ ăn quà
Đi chợ thì chớ rề rà ở trưa
Dù ai bảo đợi bảo chờ
Thì em nói dối con thơ em về.
Những lời chon thật của người chồng rót nhẹ vào tai người vợ một cách êm
đềm, đằm thắm và nghe réo rắc như tiếng cung đàn, thật tuyệt vời, thật linh động,
hỏi sao người vợ không hy sinh hết tất cả, quên hết mọi khó nhọc để giữ lấy tình
yêu của người chồng đáng kính kia.
- Mực lan ra giấy khó chùi
Vào niềm chồng vợ em sụt sùi không nên.
120
Học được đức tính nhẫn nhục việc khó nào cũng lướt qua, gian khổ nào cũng
không ngại, mà tình thương trong đạo vợ chồng càng đậm đà, khắn khít.
Khi người vợ đảm đang được mọi việc trong nhà, người chồng mới nghĩ đến
cách mua bán đường dài :
- Nhà anh chỉ có một gian
Nửa thì làm bếp nửa toan làm buồng
Anh cậy em coi sóc trăm đường
Để anh buôn bán trẩy trương thông hành
Còn chút mẹ già nuôi lấy thay anh
Để anh buôn bán thông hành đường xa
Liệu mà thờ kính mẹ cha
Đừng tiếng nặng nhẹ người ta chê cười
Dù no dù đói cho tươi
Khoan ăn bớt ngủ liệu bề lo toan
Cho anh đành dạ bán buôn.
Người vợ an ủi chồng an tâm buôn bán đường dài :
- Có con phải khổ vì con
Có chồng phải ngậm bồ hòn đắng cay.
Đã là vợ chồng, có lúc thương nhau cũng có lúc cắn đắng nhau, mỗi lần
tiếng to tiếng nhỏ dậy lên như sóng cuồn bảo lốc, nếu không dĩa bay thì cũng đổ vở
ly chén, nhưng cái đạo vợ chồng thật là rắc rối, thương nhau đó, nổi tam bành nhau
đó, rồi cũng trở lại tình thương ban đầu :
- Cây khô nghe sấm nức chồi
Đạo chồng nghĩa vợ giận rồi lại thương.
Hay là :
- Gió đông phong, gió hòa mưa thuận
Dốc một lòng có giận nhau chi
Kìa như phong phỉ rau kia
Hái rau sao có kể gì cuống rau
Tiếng tăm trong sạch trước sau
Sống cùng nhau, thác cùng nhau phỉ lòng.
Rau phong, rau phỉ ngọn và cuống đều ăn được cả, tuy nhiên cuống rau lúc
thì ngon lúc thì không ngon, như đạo vợ chồng khi thương khi giận, âm dương có
121
hòa thì mới có mưa thuận, vợ chồng có hòa thì mới nên cửa nên nhà, lở mà chồng
có lời nặng nhe với vợ, muốn thay đổi ý của chồng, người vợ phải khôn ngoan :
- Chồng giận thì vợ bớt lời
Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê.
- Mù u ẩn lá mù u
Vợ chồng cải lộn con cu giải hòa.
- Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cười hớn hở rằng anh giận gì ?
Thưa anh anh giận em chi
Muốn lấy vợ nhỏ em thì lấy cho.
Câu nói ấy vừa thành thật vừa có ý đùa, lở ông xả gật đầu thì toi mạng. Cái
quan niệm sai lầm của người đàn bà họ tưởng rằng chồng muốn lấy vợ lẻ thì giả bộ
đánh đập, chửi xéo. Nghĩ mình nay nhan sắc đã tàn tạ, tuổi già sức yếu cũng muốn
về một ý với chồng:
- Canh bầu nấu với cá trê
Anh ăn cho béo bỏ bê vợ nhà.
Anh chồng biện luận :
- Vợ nhà tuy chẳng có già
Nhưng có vợ bé để mà cậy trông.
Chén úp trong sóng còn động, huống hồ tình nghĩa vợ chồng lại chẳng có
lúc tiếng nhỏ tiếng to. Phận làm vợ thì phải luôn nghe lời chồng để cho tình nghĩa
thêm bền thêm chặt, cho đúng với câu xuất giá tòng phu :
- Con cuốc kêu khắc khoải mùa hè
Làm thân con gái phải nghe lời chồng
Sách có chữ phu xướng phụ tòng
Làm thân con gái lấy chồng xuất gia.
Người chồng mong muốn sao cho vợ mình trở thành ngoan hiền và là con
dâu hiếu thảo, bèn tỉ tê dạy vợ :
122
- Không chồng ăn bữa nồi năm
Ăn đói ăn khát mà cầm lấy hơi
Có chồng ăn bữa nồi mười
Ăn đói ăn khát mà nuôi lấy chồng.
- Trời mưa lác đác ruộng dâu
Cái nón đội đầu, cái thúng cắp tay
Bước chân xuống hái dâu này
Nuôi tằm cho lớn mong ngày ươm tơ.
Thương em chút phận ngây thơ
Lầm than đã trải nắng mưa đã từng.
Xa xôi ai có tỏ chừng ?
Gian nan tân khổ, ta đừng quên nhau.
- Rủ nhau lên núi đốt than
Anh đi Tam Ðiệp, em mang nón trình.
Củi than nhem nhuốc với tình
Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên.
- Rủ nhau xuống bể mò cua
Ðem về nấu quả mơ chua trên rừng.
Em ơi, chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau !
- Em là con gái kẻ ngâu
Em đi buôn chỉ dãi dầu sớm hôm
Cái khan vuông thắm nửa đội nửa cầm
Khăn đội rớt mất khăn thâm lập lờ
Anh ơi nhặt giúp em nhờ
Công anh nhặt giúp bao giờ cho quên
Anh quên em chẳng cho quên
Anh nhớ, em nhớ mới nên vợ chồng.
123
CHƯƠNG THỨ TƯ
NÔNG – LÂM – NGƯ - NGHIỆP.
1.- NÔNG NGHIỆP.
2.- NGÀY HỘI ĐỒNG QUÊ.
3.- ĐỜI SỐNG THIÊN NHIÊN.
4.- TRÊN ĐỒNG CẠN, DƯỚI ĐỒNG SÂU.
5.- LÒNG DÂN VUI HÁT ĐƯỢC MÙA.
1.- Nông nghiệp.
Việt Nam là xứ nông nghiệp. Trên 80% người dân sống bằng nghề nông.
Nghề nông truyền tử lưu tôn, ngoài nông nghiệp không còn nghề nào nổi trội. Việc
khai hoang phục hóa đất đai tạo ra công ăn việc làm cho mọi người. Các nghề khác
như sĩ, công , thương chỉ là con số nhỏ.
Kinh tế chính của Việt Nam là lúa nước, kế đến là nghề trồng rừng, đánh bắt
cá, chăn nuôi, dệt cửi v.v… cho nên khi nói đến nông nghiệp là nghĩ ngay đến
người bình dân, chính họ là tác giả làm ra kho tàng ca dao truyền khẩu. Trải qua
nhiều thời kỳ đen tối lầm than, lịch sử dân tộc Việt Nam chịu nhiều đau khổ, hết
một ngàn năm bắc thuộc, rồi qua các thời phong kiến Lý, Lê, Trần, Nguyễn, rồi
đến thời kỳ Pháp thuộc, người dân chịu không biết bao nhiêu là thống khổ đè trên
vai. Họ chấp nhận chịu khổ nhưng không chịu thua, họ truyền khẩu cho nhau
nhửng câu hát hò ngắn có tinh thần chống đối, có tính cách khuyến nông, đồng
thanh tương ứng, họ mạnh dạng cải tạo đất trồng trọt, từ đất hoang hóa trở thành
đất cày bừa, họ cật lực lao động rốt cuộc đem lại thành quả cây cối trổ mầm đơm
lộc.
Nghề nông quí hơn cả nghề sĩ :
- Nhất sĩ nhì nông
Hết gạo chạy rong
Nhất nông nhì sĩ.
Nghề nông hay nghề sĩ nghề nào cũng quí. Có câu nói “Nhất nghệ tinh, nhất
thân vinh” mà. Ở đây, nơi mà ca dao nẩy mầm bén rễ nhiều nhứt chỉ có nghề làm
124
ruộng, trồng rừng, bắt cá, vì hạp với phong thổ dân tộc, vì hạp với thiên nhiên qua
muôn vẻ đẹp rực rở, nên thơ, vì hạp với tính cần cù lao động của người bình dân
Việt Nam, một sắc tộc đa cảm và hiền hậu.
- Ai ơi chớ phụ nghề nông
Đồng cao ruộng thấp ra công cấy cày
Chân bùn tay lấm càng hay
Có công vất vả có ngày phong lưu.
- Anh ơi! Cố chí canh nông,
Chín phần ta cũng dự trong tám phần.
Hay gì để ruộng mà ngăn,
Làm ruộng cấy lúa, chăn tằm lấy tơ.
Tằm có lứa, ruộng có mùa.
Chăm làm trời cũng đền bù có khi.
- Hễ mà hoa quả được mùa,
Chắc là nước bể, nước mưa đầy trời.
Ai ơi nên nhớ lấy lời.
Trông cơ trời đất, liệu thời làm ăn.
- Nhờ trời mưa gió thuận hoà
Nào cầy nào cấy, trẻ già đua nhau
Chim, gà, cá, lợn, cành cau
Mùa nào thức nấy giữ màu nhà quê.
2.- Ngày hội đồng quê.
Hằng năm cứ mỗi lần mùa lúa chín vàng tràn ngập cánh đồng dài rộng bao
la, thôn đông lại tưng bừng nhộn nhịp vui ngày mở hội. Dân làng vui mừng ca hát
khen các cô gái thôn đông đa sắc đa tài cũng như tâng bốc các chàng trai vừa giỏi
giang nông nghiệp lại vừa đa cảm đa tình :
125
Hoa đồng nội
- Gái thôn đông trăm tiền một đứa
Hoa non bồng chọn lựa mười quan
Con trai ở cả mấy làng
Muốn mua cũng khó đâu nàng đã ưng.
Thôn nào có gái đẹp nhiều, thì được các chàng trai thường năng lui tới. Con
gái đẹp như hoa thơm ở cõi non bồng, hương bay khắp chốn, gieo rắc niềm vui
phấn khởi và sức mạnh trong lòng sinh vật loài người. Trong những ngày hội ở
đồng quê mà có con gái đẹp thì khác nào cá về với nước, chim bay trong không
gian, mùa hội kéo dài suốt hai đêm một ngày càng thêm ý nghĩa :
- Hoa tươi rộ nở khắp nơi
Gái xinh đẹp dáng là người thôn đông.
Thỉnh thoảng cũng có vài tiếng than van, thở dài của nhiều anh chàng cường
tráng mà thiếu tình yêu :
- Trời cho ruộng lúa mùa màng
Mà không cho chút tình nàng với ta.
Như thế gái thôn đông càng lúc càng có một địa vị vững vàng chinh phục
những chàng trai giàu lòng cảm xúc, lại còn chinh phục những cô gái ở các làng
lân cận đến tham gia ngày hội. Người ta tìm thấy một hy vọng tình yêu không thấp
126
kém và một sức sống đang lên cho ruộng cả ao liền. Ngày hội ở làng vui xiết kể,
tiếng trống đình đánh vang thôi thúc mọi người rũ nhau về trẩy hội :
- Làng ta mở hội vui mừng
Chuông kêu trống đánh vang lừng khắp nơi.
Nói đến ngày hội đồng quê thì không có cảnh vật nào tỉnh được, những cảnh
vật ấy như có tiếng nói rì rào trước kẻ lại người qua : một cành cây, một cọng cỏ,
một khúc sông, trong ao nước, trên bờ đê, bên những khóm trúc rặng dừa, sau hàng
cau hàng dậu, đâu đâu cũng thấy bóng người, đâu đâu cũng thấy mọi vật đều tưng
bừng xao động.
- Ôi vui sao quá là vui
Làng trên xóm dưới mọi người cùng vui.
Ngày hội ở đồng quê đó là lúc trúng mùa trong cảnh thái bình dân yên nước
thịnh, khi thì trúng mùa lúa, khi thì trúng mùa cá tôm.
Có một buổi sáng tinh sương người ta đã thấy môt dảy ghe thuyền bấp bênh
trên sông, họ đang chờ đợi, gương mặt họ vui vẻ mà rắn rỏi lạ lùng. Một chập sau
tiếng hò vang dậy, họ chẫm rải kéo lên những mắt lưới đen ngòm, đàn cá bạc vừa
lên khỏi mặt nước đa loi ngoi cọ quậy, các chị ngồi sẳn chờ gở cá trong các mắt
lưới bỏ vào khoang ghe, vừa đánh cá người ta vừa trò chuyện nói cười vui vẻ :
- Bạc liêu nước chảy lờ đờ
Dưới sông cá lội trên bờ triều châu.
Dân làm nghề này cũng thu nhập một nguồn kinh tế khá lớn cho gia đình và
cho xã hội. Đánh cá dân gian cũng đánh có mùa. Thông thường vào độ từ tháng
tám đến tháng mười âm lịch, thì nước cửu long từ biển hồ bên Cao Miên đổ về
đồng bằng sông tiền và sông hậu mang theo không biết bao nhiêu là cá tôm, nhất là
con cá linh, con nào to lắm cở bằng ngón chân cái dài độ 6 đến 7 phân, cầm bằng
dưới cở này thì ăn rất ngon. Cá linh thân trắng bạc, xương mềm, tự tiết ra chất dầu
nên rất béo, bửa cơm nào má có cá linh kho tộ với nước mía, một tô canh chua cá
linh bông sua đủa thì tuyệt cú mèo.
Cũng vào tháng mười âm lịch mực nước cao hơn lúc bình thường, có năm
nước cao vượt bờ ruộng mang theo phù sa vào nội đồng, dân gian gọi là mùa nước
lũ. Cho nên người dân trúng một năm hai vụ mùa : mùa cá tôm và mùa lúa.
127
Ở sông thì ăn cá, ở nội đồng thì ăn cua, ở rẩy thì ăn còng, ba thứ động vật
này sinh có mùa và rất phong phú, mùa nào có thức ăn đó :
- Gió đưa gió đẩy, về rẩy ăn còng
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua.
Người ta khuyến bảo nhau nếu ai muốn được nhiều cá tôm thì hãy về sống
gần sông cái :
- Ba phen quạ nói với diều
Đi về sông cái ăn nhiều cá tôm.
Hoặc là :
- Ruộng đồng mặt nước láng te
Một đàn cò trắng bay về kiếm ăn.
Dân gian còn đem con cá ra để giáo dục con trẻ :
- Cá không ăn muối cá ươn
Con cải cha mẹ trăm đường con hư.
Hay là ví con cá để tỏ lòng hiếu thảo của đứa con :
- Năm tiền một khứa cá buôi
Cũng mua cho được mà nuôi mẹ già.
Thi vị hơn nữa người ta còn nói đến con cá trong giữa cuộc tình duyên của
đôi trai gái, khi thì diễn tả nỗi sầu nhớ bâng khuâng :
- Con cá lý ngư sầu tư biến lội
Con chim trên cành sầu cội biến bay.
Khi thì mĩa mai một kẻ sắp bị mất chồng :
- Cá mục nấu với dưa hồng
Lơ mơ có kẻ mất chồng không hay.
Và cười chua chát trước nhân tình thế thái :
- Uổng công xúc cá nuôi cò
Cò ăn mau lớn co giò lên cây.
128
Đó là nói về sông, về rạch, có nhiếu cá lắm tôm, còn trên đất liền thì có
những gì, người ta làm những mảnh vườn nho nhỏ để trồng các loại rau, những
thiếu nữ khéo tay săn sóc vườu rau, vườn cải, các cô nàng canh chừng bắt sâu, hái
bỏ lá úa, năng tưới nước vun phân nên vườn rau xanh um trông mát mắt. Những
chàng trai kiêu hảnh, nét mặt thư thái điềm nhiên đem sức lao động vào việc ruộng
nương, trồng trọt, các nàng nhìn vào đó bắn lời khuyến khích :
- Công anh dọn đất trồng dưa
Sau mùa hái trái vẫn chưa hả lòng
Sang năm tiếp tục cấy trồng
Em đây sẽ chọn tấm chồng là anh.
Ngày hội ở đồng quê cũng là ngày kết thúc một năm dài mệt nhọc, khi mùa
gặt chót đã hết, họ chờ đợi đất trời mang đến một mùa xuân.
Ngày vui nhứt bắt đầu vào dịp tết nguyên đán, lúc thanh bình đất nước đâu
đâu cũng yên ổn, nhà nhà đầy ấp lúa gạo, người người quần áo mới toanh, mở
miệng ra là chúc mừng năm mới, xác pháo đỏ tung bay khắp nẽo đường, già trẻ bé
lớn họ cùng hân hoan chào mừng ngày nguyên đán. Hình như họ vui chơi thỏa
thích trong suốt ba tháng nghĩ xả hơi để rồi sau đó họ lại bắt tay vào công việc
đồng áng :
- Tháng giêng ăn tết ở nhà
Tháng hai cờ bạc tháng ba hội hè.
Những con thuyền đưa đón khách như con thoi từ các ngỏ làng hẻo lánh bên
cạnh, thôn trang đã vui lại càng thêm náo nhiệt. Ngày ấy cũng là ngày vui nhứt của
trai gái, ngày của họ chọn mặt gởi lòng, mới gặp nhau họ làm quen rồi trò chuyện
một cách thân mật :
- Chèo dài sông hẹp khó lùa
Thấy em ở ruộng quê mùa anh thương.
Bao giờ cũng vậy, người con trai thường buông lời trêu chọc người con gái
trước :
- Chỉ điều ai khéo vấn vương
Mỗi người một xứ mà thương nhau đời.
Có những anh chàng ít nói, cũng bị phái yếu mở lời :
129
- Hởi anh đi đường cái quan
Dừng chân đứng lại em than vài lời
Đi đâu vội thế anh ơi
Công việc đã có chị tôi ở nhà.
Da diết hơn khi nghe lời này, âm vang như tiếng mài dao trên đá :
- Gặp anh em cũng muốn chào
Sợ rằng chị cả dắt dao trong người.
Những cuộc tình duyên yêu trộm nhớ thầm là khi chia tay sau ngày hội,
thỉnh thoảng họ tìm tới nhau, lực cảng ở đây là trai đã có vợ, gái đã có chồng, họ
gặp nhau là để nói chuyện cho vui, như người con gái tỏ bày :
- Rau răm ngắt ngọn lại trồng
Em thương anh lắm sợ lòng chị ghen
Anh về bảo chị đừng ghen
Để em thấp thoáng ánh đèn cho vui.
Họ kêu gọi nhau đừng bỏ lở ngày hội đồng quê :
- Ai ơi chơi lấy kẻo già
Măng mọc có lúc người ta có thì
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già sòng sọc nó thì theo sau.
- Một năm là mấy tháng xuân
Một đời người được mấy lần vinh hoa.
Họ hò hát và bảo nhau :
- Ai có chồng nói chồng đừng sợ
Ai có vợ nói vợ đừng ghen
Tới nơi đây hò hát một đôi phen
Rạng ngày mai ai về nhà nấy
Lòng son đừng ai nghĩ quấy
Khá để ngọn đèn hai tiêm.
- Qua đây mà hát mấy câu
Được thua thua được cho đây bằng lòng.
130
Hội mùa xuân tàn rồi, dân quê trở lại với công việc hằng ngày của họ. người
buôn bán thì toan tính :
- Tháng giêng ăn tết ở nhà
Tháng hai cờ bạc tháng ba hội hè
Tháng tư đong đậu nấu chè
An tết đoạn ngọ trở về tháng năm
Tháng sáu buôn nhản bán trâm
Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân
Tháng tám chơi đèn kéo quân
Trở về tháng chin chung thân buôn hồng
Tháng mười buôn thóc bán bông
Tháng mười một tháng chạp nên công hoàn thành.
Còn công việc của người nông phu là :
- Tháng chạp là tháng trồng khoai
Tháng giêng trồng đậu tháng hai trồng cà
Tháng ba cày vở ruộng ra
Tháng tư làm mạ mưa sa đầy đồng
Ai ai cũng vợ cũng chồng
Chồng cày vợ cấy trong lòng vui thay.
Ngày hội đồng quê đã qua rồi như một đám rước rộn ràng vừa kết thúc,
nhưng âm ba và quang cảnh của tiếng nói cười nhộn nhịp nghe chừng như đang
còn cháy rộn trong tim.
3.- Đời sống và kinh nghiệm.
Thích hợp trong đời sống thiên nhiên dần dần họ rút tỉa nhiều kinh nghiệm
về thời tiết. Họ tính thời gian bằng mặt trời, mặt trăng, họ có thể đoán trước được
thời tiết sắp xảy ra bằng những hiện tượng trong thiên nhiên.
Khi họ dự đoán về trời có mưa hay không mưa để chăm lo vụ mùa :
- Mồng chín tháng chín không mưa
Mẹ con bán cả cày bừa mà ăn
Mồng chín tháng chín có mưa
Mẹ con đi sớm về trưa một mình.
131
Có bản chép :
- Mồng chín tháng chín có mưa,
Thì con sắm sửa cày bừa làm ăn.
Mồng chín tháng chín không mưa,
Thì con bán cả cày bừa đi buôn.
Khi họ thấy lúa trổ tháng hai :
- Đói thì ăn ngô ăn khoai
Đừng thấy lúa trổ tháng hai mà mừng.
Khi họ nhìn trăng mà đoán trước việc lợi hai cho vụ mùa :
- Trăng mờ tốt lúa nỏ
Trăng tỏ tốt lúa sâu.
Hoặc là :
- Trời nắng tốt dưa
Trời mưa tốt lúa.
Khi thì họ xem chìu hướng gió thổi :
- Gió đông là chồng lúa chiêm
Gió bắc là duyên lúa mùa.
- Lúa chiêm lấp ló đầu bờ,
Hễ nghe tiếng sấm, phất cờ mà lên.
Sở dĩ mà họ có thể đoán trước được việc sắp xảy ra mười lần không sai một,
là vì chính bởi kinh nghiệm nghề nông đã dạy cho họ những bài học quí giá đó :
- Mống đông vồng tây
Không mưa giây cũng gió giật.
- Nhiều sao thì nắng
Vắng sao thì mưa.
- Trăng quầng thì cạn
Trăng tán thì mưa.
132
- Thiếu tháng hai mất cà,
Thiếu tháng ba mất đỗ,
Thiếu tháng tám mất hoa ngư,
Thiếu tháng tư mất hoa cốc.
- Tỏ trăng mười bốn được tằm
Tỏ trăng hôm rằm thì được lúa chiêm.
Xem đấy ta mới thấy rằng người nông dân Việt Nam thực nghiệm lắm, lại
cũng có cái khiếu quan sát tế nhị nữa, đó là do những kết quả được trải nghiệm qua
đời sống nông nghiệp. Sau đây là bài đồng dao diễn tả hiện tượng trăng mọc mỗi
đêm :
- Mồng một lá trai
Mồng hai lá lúa
Mồng ba câu liêm
Mồng bốn lưỡi liềm
Mồng sáu thật trăng
Mười rằm trăng náo
Mười sáu trăng neo
Mười bảy sẩy giường chèo
Mười tám trăng lẹm
Mười chin dụn dịn
Hai mươi giấc tốt
Hăm mốt nửa đêm
Hăm hai bằng tai
Hăm ba bằng đầu
Hăm bốn ở đâu
Hăm lăm ở đấy
Hăm sáu đã vậy
Hăm bảy làm sao
Hăm tám thế nào
Hăm chín thế ấy
Ba mươi không trăng.
Bài đồng dao thứ hai nói lên một nét đơn sơ trong cuộc sống :
- Ông tiển ông tiên
Ông có đồng tiền
Ông giắt mái tai
Ông cài lưng khố
Ông ra hàng phố
133
Ông mua miếng trầu
Ông nhai tóp tép
Ông mua con chép
Ông về ăn cơm
Ông mua mớ rơm
Đem về để thổi
Ông mua cái chổi
Đem vế quét nhà
Ông mua con gà
Về cho ăn thóc
Ông mua con cóc
Về thả gầm giường
Ông mua nén hương
Về ông cúng cụ.
Chỉ có một đồng tiền mà khéo chi tiêu nên mua được đủ thứ, cuối cùng cũng
nhớ về tổ tiên bằng một nén hương hoài cổ. Thoạt tiên mới đọc lên nội dung có
tính cách khôi hài hơn là sự thật, nhưng trong cái khôi hài lém lỉnh ấy đã xây dựng
nên tính chất thật thà trong cuộc sồng sinh hoạt hằng ngày của dân gian, đời sống
mộc mạc, thực tế, nghèo nàn. Tìm trong nghĩa bóng ta thấy họ nói lên được tinh
thần tiết kiệm và cần cù. Kinh nghiệm khác :
- Tháng tư cơm gói ra hòn
Muốn ăn trứng nhạn thì lòn hang mai.
Đây nói về giống chim én tháng tư thì chúng đẻ trứng trong những kẹt đá,
hang núi, muốn thu lượm trứng người ta mất nhiều công lao và nguy hiểm.
Một kinh nghiệm khác :
- Ông tha mà bà chẳng tha
Bà cho trận bảo mồng ba tháng mười.
- Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng
Ngày tháng mười chưa cười đã tối.
Những ngày mồng ba, mười ba, hăm ba của tháng mười thế nào cũng có một
trận mưa giông bảo tố một trong ba ngày đó, cơn mưa bảo cuối mùa của năm.
134
Ngày nay chúng ta có đài khí tượng thủy văn để dự đoán mọi biến động về
thời tiết, ngày xưa thì khác, dân gian dự báo bằng kinh nghiệm qua thiên nhiên, dù
không chính xác trăm phần trăm, nhưng chúng ta không thể phủ nhận, vì những
thực nghiệm đó đến bây giờ vẫn còn được ứng dụng.
- Chuồn chuồn liệng (lượn) thì nắng
Chim én liệng thì mưa.
- Chuồn chuồn bay thấp thì mưa,
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm.
- Én bay thấp mưa ngập cầu ao
Én bay cao mưa rào lại tạnh.
- Ếch kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nước.
- Nhiều sao thì nắng, vắng sao thì mưa.
- Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão.
- Mây kéo xuống biển thì nắng chang chang,
Mây kéo lên ngàn thì mưa như trút.
- Mống dài thì lụt
Mống cụt thì mưa.
Chúng ta không nên phủ nhận những lời nói thực nghiệm của họ, những lời
nói có thể cho lá “bất thành văn” mà linh diệu một cách lạ lùng. Họ nói đâu là chắc
sẽ có đó. Những câu tiên đoán về thời tiết đó được truyền khẩu từ đời này sang đời
nọ, hể thấy hơi sai thì người sau lập tức sửa chửa ngay.
- Gió đông nhay nháy
Gà gáy thì mưa
Gió may liu riu
Diều kêu thì rét.
- Mưa chẳng qua ngọ
Gió chẳng qua mùi
Sáng ngày gió may
Tối quay gió nồm.
135
Đời sống chính của người dân là nông nghiệp, vì vậy mức quan trong là làm
sao dự đoán thời tiết cho chính xác để làm đúng mùa màng theo thời vụ, khi hạn
hán trồng cây gì, lúc mưa sa trồng cây gì, được miêu tả một cách tỉ mỉ, thận trọng :
- Muốn ăn lúa tháng năm
Trông trăng rằm tháng tám.
- Đầu năm sương muối, cuối năm gió nồm.
- Gió bấc hiu hiu, sếu kêu thì rét.
- Chớp đông nháy nháy, gà gáy thì mưa.
- Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa.
- Tháng bảy kiến đàn, đại ngàn hồng thủy.
- Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão.
Bản chất thiên nhiên quá rỏ ràng khiến chúng ta nghi ngờ đến sự mê tín vừa
mơ hồ, vừa thần bí trong nét sinh hoạt hằng ngày của họ. Tuy nhiên nhờ ca dao còn
lưu lại rất nhiều ở cuối thế kỷ hai mươi này để cho những người hậu thế như chúng
ta luận bàn về những nhận xét tế nhị của các bậc tiền bối, ta thấy họ văn minh
không cần máy móc hỗ trợ, mà chỉ nhìn vào trạng thái biến động của thiên nhiên
để liệu định chống lại thiên tai và phục vụ tốt đẹp cho mùa màng :
- Mồng sáu tháng tư không mưa
Bán cả cày bừa mà lấy lúa ăn.
- Bao giờ cho đến tháng mười
Lúa tốt bời bời nhà đủ người no.
- Mạ úa cấy lúa chóng xanh,
Gái dòng chóng đẻ sao anh hững hờ? - Buồn về một nỗi tháng giêng
Con chim cái cú nằm nghiêng thở dài
Buồn về một nỗi tháng hai
Đêm ngắn ngày dài, thua thiệt người ta
136
Buồn về một nỗi tháng ba
Mưa dầm, nắng lửa, người ta lừ đừ
Buồn về một nỗi tháng tư
Con mắt lừ đừ, cơm chẳng muốn ăn
Buồn về một nỗi tháng năm
Chửa đặt mình nằm, gà gáy chim kêu.
Luôn luôn tích tụ nhiều kinh nghiệm :
- Dưa gang một, chạp thì trồng
Chiêm cấy trước Tết thì lòng đở lo
Tháng hai đi tậu trâu bò
Cày cho đất ải mạ mùa ta lo.
- Lúa mùa thì cấy cho sâu
Lúa chiêm thì gẩy cành dâu mới vừa.
Kinh nghiệm trồng trọt của lão nông tri điền :
- Một lượt cỏ thêm giỏ thóc.
- Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống.
- Hòn đất nỏ bằng giỏ phân.
- Ruộng cao trồng mầu, ruộng sâu cấy chiêm.
- Trồng khoai đất lạ, gieo mạ đất quen.
- Bốc mả kiêng ngày trùng tang
Trồng khoai lang kiêng ngày gió bấc.
- Thiếu tháng hai mất cà, thiếu tháng ba mất đỗ.
- Thiếu tháng tám mất hoa ngư.
- Thiếu tháng tư mất hoa cốc.
- Mồng tám tháng tám không mưa
Bỏ cả cầy bừa mà nhổ lúa đi.
- Tháng chín mưa rươi, tháng mười mưa mạ.
137
- Gió đông là chồng lúa chiêm
- Gió bấc là duyên lúa mùa.
- Chiêm xấp tới, mùa đợi nhau.
- Lúa chiêm đứng nép đầu bờ
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên.
- Đói thì ăn ráy, ăn khoai
Chớ thấy lúa trỗ tháng hai mà mừng.
- Mạ chiêm ba tháng không già
Mạ mùa tháng rưỡi ắt là không non.
- Tỏ trăng mười bốn được tằm.
Tỏ trăng hôm rằm thì được lúa chiêm.
- Trăng mờ tốt lúa nỏ, trăng tỏ tốt lúa sâu.
- Én bay thấp mưa ngập cầu ao.
Én bay cao mưa rào lại tạnh.
- Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa.
Tóm lại, sau cái văn chương tối cỗ ấy, đầu tiên nó chỉ là kinh nghiệm đã
thành công về nông nghiệp, nhưng thét rồi nó lan ra khắp nơi, bay đi khắp chốn rồi
lần lần nó trở thành một nếp sống quen thuộc hằng ngày trong dân gian, mọi người
trong mọi tầng lớp xã hội đều giãn dị nó và coi nó như là một lời sấm truyền thông
dụng vậy. Nhứt là về sự luân chuyển của thời gian, do nhờ trải nghiệm truyền từ
đời ông tổ xuống đến con cháu cũng được miêu tả các sự việc xảy ra trong thiên
nhiên rất chính xác, sinh động.
4.- Trên đồng cạn dưới đồng sâu.
Những cánh đồng lúa bát ngát liên tiếp nối liền nhau thành một tấm thảm
xanh khổng lồ, được chia làm thành từng khuôn vuông, lệch có, hình thang có, tam
giác có phân cách bởi bờ đê ngang dọc.
Khi tiết thu vừa sang, trông lên vòm trời trong vắt, vào những buổi chiều,
đàn én đang bay lượn rồi tư từ đáp xuống cành lúa xanh mơn mởn. Những cọng lúa
138
cọ xác vào nhau nghe lào xào như nỉ non, như than thở, chao qua chao lại theo chìu
gió. Tiết thu hơi lành lạnh, trời thu xem nhàn nhả.
Một vài cô thôn nữ dụm năm dụm bảy ngồi trên bờ tre nhìn ra ngoài đồng
vui thích, lại cũng có mấy chàng trai làng theo ve vản nói cười. Xa xa hai con trâu
đang ăn cỏ, một chú nhỏ mục đồng ngồi vắt vẽo trên lưng nghé, miệng véo von mà
không thành một bài hát nào.
Gió ru nhè nhẹ đùa mái tóc mây của các nàng thôn nữ, thoang thoảng mùi
thơm dịu ngọt của màu lúa xanh, vang vang trong gió tiếng chuông thu không từng
tiếng ngân dài.
Trên dòng nước màu phù sa, hai bên bờ hàng dừa nước mọc xen lẫn với
những cây bần, một đàn có trắng vừa bay ngang qua những con thuyền trải dài trên
sông. Hình ảnh cây bần rất gần gủi với người bình dân, hạng gổ không có giá trị về
mặt kinh tế, nhưng lại có giá trị trong ca dao :
- Cây bần kia hởi cây bần
Lá xanh bông trắng lại gần không thơm.
Chữ bần vốn là hạng cây nghèo hèn nhưng dân gian thích mượn chỗ nghèo
để dùng làm phương tiện tình tứ :
- Chiều chiều xuống bến ba lần
Trông em không thấy thấy bần xơ rơ.
- Lẻ đôi em chịu lẻ đôi
Hoa tàn em cũng đợi, bần trôi em cũng chờ.
- Neo ghe vô dựa gốc bần
Em thương anh nói vậy chớ biết mình đặng gần hay không.
- Làm thơ anh dán đọt bần
Dán cho hai họ Nguyễn Trần gặp nhau.
- Thân em như trái bần trôi
Sóng dập gió dồi biết tắp vào đâu?
139
- Không thương em hổng có cần
Trầm hương khó kiếm chớ đước, bần thiếu chi.
- Bần gie, bần liệt, diệc đau chờ mồi
Anh với em duyên nợ hết rồi
Đi tìm chỗ khác đừng ngồi kế em.
- Mồ cha thằng đốn cây bần
Không cho ghe cá đậu gần ghe tôm.
- Bần gie đóm đậu sáng ngời
Lỡ duyên tại bậu trách trời sao nên.
Trái bần xanh, hơi chua, trong ruột thì chát, hơi dợm hồng là chin ăn không
ngon, món nhậu đặc trưng của người nam bộ là bần chua, mắm cá sặc, rượu đế :
- Muốn ăn mắm sặc bần chua
Chờ mùa nước nổi ăn cho đã thèm.
Biết bao nhiêu là cảnh tình, biết bao nhiêu là thơ mộng, một bức tranh quê
vào mỗi buổi chiều vàng nhạt. Buổi bình minh có bao nhiêu rộn rịp thì khi bóng tà
dương dần gác sau rặng dừa lại trầm lặng bấy nhiêu. Tuy nhiên, tâm hồn người
bình dân đều cảm thấy dao động trước cảnh vật nhiệm mầu và như muốn đem toàn
bộ sự linh động ấy hòa vào cảnh trời mây nước mênh mông, từ bao giờ cho đến
bây giờ, giữa trăm cảnh hửu tình dễ cảm :
- Quạ kêu nam đáo nữ phòng
Người dung khác họ đem lòng nhớ thương
Liệu bề đát được thì đương
Đừng gầy rồi bỏ thói thường cười chê.
- Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời, trông nước, trông mây
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm
Trông cho chưn cứng đá mềm
Trời yên biển lặng mới êm tấm lòng.
Vui công việc lao động hằng ngày, cho nên từ làng trên xóm dưới họ đều
quen mặt biết tên, dân gian có một nếp sống căn bản và rất có ý thức về bản sắc
140
văn hóa bình dân của họ, họ khuyến bảo nhau làm sao cho kinh tế gia đình ngày
một tăng lên, làm sao cho có cơm đủ ăn, vải đủ may mặc, có nhà để ở đó là mong
ước của mọi người :
- Rũ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.
Sống hợp quần là tiếng gọi chung cần thiết. Không riêng về nghề nông
người ta mới nghe được câu hát hợp quần mà còn nghe nói đến những nghề khác
như bắt cá câu tôm :
- Chồng cày, vợ lưới, con câu
Chàng rễ đi xúc, con dâu đi mò.
Người ta gọi nhau luôn, hò hát nhau mãi, làm nông là một cộng nghiệp
chung cho mọi người, dem mồ hôi nước mắt chan hòa vào lòng đất để đổi lấy lúa
gạo đổ vào bồ. Họ cũng bỏ cả sức lao động vào những mảnh vườn nho nhỏ để
trồng rau, dưa, cà, đậu… cho nên người ta ví một tấc đất là một tấc vàng. Đất nước
là tổ quốc chung của dân tộc, đất nước là ruột của người dân, một tấc đất bị bỏ
hoang là một khúc ruột bị nhức nhói :
- Ơn trời mưa nắng phải thì
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu
Khó công chẳng quảng bao lâu
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng
Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu.
Nếu phải bắt trai tráng trong làng đi nhập ngủ để bảo vệ tổ quốc Việt Nam,
để giữ trật tự yên lành cho thôn xóm, lẽ dĩ nhiên việc đồng áng người phụ nữ phải
ra thay thế, đây là lời của một người vợ đảm đang phân tách tỉ mỉ cùng chồng :
- Anh ơi phải lính thì đi
Cửa nhà đơn chiếc đã thì có tôi
Tháng chạp là tháng trồng khoai
Tháng giêng trồng đậu tháng hai trồng cà
Tháng ba cày vở ruộng ra
Tháng tư gieo mạ thuận hòa mọi nơi
141
Tháng năm cấy lúa vừa rồi
Trời đổ mưa xuống nước trôi đầy đồng
Anh ơi giữ lấy việc công
Để em cày cấy mặc lòng em đây.
Qua lớp vải bô tanh mùi bùn, khét mùi nắng, họ vẫn có tấm lòng cao đẹp và
nhu cầu sống hợp quần và giúp đở nhau :
- Nước còn quến cát làm doi
Huống chi ta chẳng tài bồi giúp nhau.
Cảnh chồng cày vợ cấy, hay là cảnh bên chàng đọc sách, bên nàng quay tơ là
tất cả cái đặc sắc và thi vị của đới sống bình dân Việt Nam, một đời sống trong
trắng đầy khí trời, tràn ngập ánh sáng trăng sao, một dân tộc có ý chí tranh đấu liệt
oanh không hỗ thẹn với tở tiên Hồng Lạc, trên bờ thì khai hoang phục hóa đất
ruộng, dưới nước thì đào kinh dẫn thủy nhập điền :
- Ruộng đồng mặc sức chim bay
Sông tiền sông hậu mặc bầy cá đua.
Có sức lực, có ý chí sẽ làm nên tất cả, tuy mệt về thể xác nhưng tinh thần họ
rất lạc quan, câu danh lợi họ để ngoài tai, vì bản chất của họ là nông dân, nên họ có
bao giờ nghĩ tới lợi danh, nhưng họ vẫn có ý thức nhận xét :
- Cái vòng danh lợi cong cong
Kẻ hòng ra khỏi người mong được mời
Sự đời nghĩ cũng nực cười
Một con cá lội mười người buông câu.
Hoặc là :
- Công danh theo đuổi mà chi
Sao bằng chăm chỉ giữ nghề canh nông
Sớm khuya có vợ có chồng
Cày sâu bửa kỷ mới mong được mùa.
Tiếng gọi khuyến nông vang dội khắp nơi, họ bảo nhau, dạy nhau hãy giữ
lấy nghề nông, từ bắc vô nam, từ đông sang đoài đều nghe thấy tiếng gọi ấy rất
nồng nàn và linh động :
- Nay mừng những kẻ nông phu
Cầu cho quà cốc phong thu bình thì
Vốn xưa nông ở bực nhì
142
Thuận hòa mưa gió nông thì lên trên
Quí hồ nhiều lúa như tiên
Rỏ ràng phú túc bình yên cả nhà
Bốn mùa xuân lại thu qua
Muốn cho tiền lúa đầy nhà bán sương
Bước sang hạ giá thu tàn
Thu thu tiển hoạch, giàu sang Thạch sùng
Quí nhân cũng kẻ anh hùng
Rắp toan muốn hỏi nhà nông ê chề
Thật thà chăm chỉ thú quê
Chuyên nghề nông nghiệp là nghề vinh quang.
Mỗi ngày mỗi nâng cao tay nghề, họ bảo nhau với mọi người đừng có hám
lợi tham danh mà bỏ quên đi một nghề nông đáng quí, đó là một tiếng gọi chơn
thành, khiến cho mọi người khi đã nghe qua đều bị lôi cuốn theo cái âm hưởng
nồng nàn và sôi cảm ấy. Không có gì đẹp bằng cái nghề đã nuôi sống mình, nhìn
đâu cũng đều là những cảnh vật quen thuộc với mình, những hình ảnh chung quanh
quyến luyến mình đã giúp mình thành công và thành nhân cho một xã hội tương lai
sang đẹp.
Người nông phu không quảng nắng mưa, không ngại sương gió, sức chịu
đựng gian khổ bền dai hợp với tính siêng năng, cần mẫn, cho nên mỗi khi ta cầm
chén cơm dẽo đang bốc khói khiến ta phải nghĩ đến họ :
- Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẽo ngon một hạt đắng cay muôn phần.
Nhắc đến muôn phần đắng cay của người nông dân thì nhớ một câu chuyện
về vua Lý thần Tông (1128-1138), có cô công chúa tên là Từ Hoa, công chúa nghĩ
rằng dưới thời cai trị của vua cha thời bàn dân thiên hạ ai ai cũng đều được như
công chúa. Một hôm vua có sáng kiến muốn cho công chúa thấy cái cảnh khổ cực
của người nông dân bèn cho xây cất một cung điện nhỏ bên một cánh đồng, để cho
công chúa và các cung nữ ở đó trong suốt mùa hè, hầu có dịp nhìn thấy rỏ cảnh
làm ruộng cực khổ của người nông dân mà nghĩ đến giá trị “Nhớ công hôm sớm
cấy cày cho chăng”. Cung điện nhỏ đó vua đặt tên là cung Từ Hoa.
143
Bên cạnh đời sống vất vả của người nông phu cũng có một sinh vật đồng
cam cộng khổ với họ, đó là con trâu, một hình ảnh không thể thiếu vắng trong
nông nghiệp.
- Lao xao gà gáy rạng ngày
Vai vác cái cày, tay dắt con trâu.
Bước chân xuống cánh đồng sâu
Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu đi cày.
Ai ơi! bưng bát cơm đầy
Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng.
Có trâu phải chăn giữ kỷ, hớ hênh kẻ trộm nó dẫn đi thì nghèo :
- Đêm qua kẻ trộm vào nhà
Làm thinh chợp mắt để mà mất trâu
Nằm đây chớ phải ngủ đâu
Thức mà giữ lấy con trâu con bò
Nằm đây nào phải ngủ cho
Thức mà giữ lấy con bò con trâu.
Không gì thú bằng được ngồi vắt vẻo trên mình trâu
Khi nói đến con trâu là phải nghĩ đến chú mục đồng với bài hát đồng dao :
- Nghé ơi là nghé
Nghé không theo mẹ
Nghé lại theo đàn
Nghé chớ ăn càn
Người ta đánh nghé.
144
Không phải chỉ có mục đồng mới chăn trâu, nam nhi phụ nữ ai có nuôi trâu
cũng thay phiên nhau chăn giữ, bởi vậy mới có câu ca dao so sánh :
- Ai nói chăn trâu là khổ
Tôi chăn nàng còn khổ hơn trâu.
Chăn trâu cũng phải biết ví thá thì trâu mới chịu đi theo hướng dẫn của
mình:
- Ví dầu ví dẩu ví dâu
Ví qua ví lại ví trâu vô chuồng.
Khi ngồi trên lưng trâu các em mục tử cũng giàu sức tưởng tượng mà nghĩ rằng :
- Ngày xưa Ninh Thích chăn trâu
Mà rồi đeo ấn phong hầu trâu ơi
Ngày nay lưng nghé ta ngồi
Mai sau ta có một thời hiển vinh.
Cái thú cởi trâu mà còn biết thổi sáo trúc thì còn gì bằng, tay thì phe phẩy
cành lau, miệng thì véo von hò hát :
- Cánh đồng ruộng bao la bát ngát
Gió đồng ru khúc nhạc dao ca
Chúng em vui với trâu nhà
I tờ em học vần ta em lào.
Đất khô, cỏ héo, cho nước vào ruộng làm mềm đất, con trâu dẫm lên thì đất
trở nên xốp, có bàn tay người nông dân rớ vào thì chẳng bao lâu biến thành một
dảy đồng xanh bát ngát, căn tràn nhựa sống. Bao nhiêu công lao đó do người nông
dân làm ra, thi thoảng ta nghe người nông dân an ủi con trâu :
- Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đâu trâu đấy ai mà quảng công
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Sau công việc thì tứ chi của người nông dân rả rụt, con trâu là thú tiêu khiển
giúp cho họ lấy lại sức khỏe dồi dào, đó là trò chọi trâu. Người ta bày ra cuộc chọi
145
trâu và say sưa coi trò chơi tiêu khiển ấy như phần đông thích coi đá gà nòi, hoặc
đá cá lia thia vậy. Khi tổ chức cuộc chọi trâu họ thông báo cho tất cả các làng có
trâu đực khỏe mạnh hãy đưa trâu đến một địa điểm mà họ đã chọn trước, người địa
phương rũ nhau đến xem đông như ngày lễ hội, xem hai con vật đáng mến kia húc
đầu vào nhau nghe huỳnh huỵch, giọng thở phì phò, cát bay đất vở, tiếng trống
đánh thùng thùng, dân làng vổ tay la ó cổ võ, có khi họ đánh cuộc con trâu nào
thắng mà kẻ thua phải trả tiền một chầu rượu đế. Trò tiêu khiển này được truyền đi
rộng rải khắp nơi và sau đó đã thành lệ. Vì thế mới có tiếng loa trên miệng mọi
người :
- Dù ai buôn đâu bán đâu
Mồng mười tháng tám chọi trâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Mồng mười tháng tám trở về chọi trâu.
Nhưng cũng tội nghiệp thay ! Con vật đáng thương đó khi sống thì giúp ích
con người, lúc chết rồi thì bị con người xẻ thịt chén chú chén ông, sừng nó thì làm
tù và, da nó dùng để bịt trống. Đời là thế !
- Con trâu có một hàm răng
Ăn cỏ đất bằng, uống nước bờ ao
Bây giờ mầy ở với tao
Đến khi mầy chết thì tao xẻ thịt mầy
Sừng mầy tao tiện con cờ
Cán dao, cán mác, lược dày, lượt thưa.
Và người ta đã phải nói thẳng ra :
- Trâu lành không ai mừng cả
Trâu ngã lắm kẻ cầm dao.
Dân gian có câu rằng “Làm ruộng không trâu như làm giàu không lúa”.
Muốn trúng mùa phải cày sâu bừa kỷ, công việc này chỉ có con trâu mới làm nỗi,
cho nên dân gian ví người đàn ông khỏe mạnh như sức con trâu :
- Đường về đêm tối canh thâu
Nhìn anh tôi tưởng con trâu đang cười.
- Của chua ai nấy cũng thèm
Em cho chị mượn chồng em vài ngày
146
Chồng em đâu phải trâu cày
Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm .
-
Trâu khỏe thường hay kén cỏ, người chuyên nuôi trâu phải chọn cỏ hợp với
khẩu vị để trâu ăn mới mập, bởi vì “Trâu thịt thì gầy, trâu cày thì mập”, cho nên
các nàng thiếu nữ thấy mấy anh trai làng khỏe khoắn mà kén vợ, người ta chọc
ghẹo :
- Trâu kia kén cỏ bờ ao
Anh kia không vợ đời nào có con .
- Người ta con trước, con sau
Thân anh không vợ như cau không buồng
Cau không buồng như tuồng cau đực
Trai không vợ cực lắm anh ơi
Người ta đi đón, về đôi
Thân anh đi lẻ, về loi một mình.
Nhiều câu ca dao có hình ảnh con trâu :
- Chẳng tham lắm ruộng nhiều trâu
Tham vì ông lão tốt râu mà hiền.
- Thiệt tình không phải ba hoa
Hôm qua tui thấy con gà đá trâu.
- Gà đá trâu bao lâu mới thắng
Trâu đá gà què cẳng con trâu.
- Trời mưa trời gió đùng đùng
Bố con ông Nùng đi gánh phân trâu
Gánh về trồng bí trồng bầu
Trồng ngô, trồng lúa, trồng rau, trồng cà.
- Ông trăng mà lấy bà sao,
Đến mai có cưới cho tao miếng trầu
Có cưới thì cưới con trâu,
Chớ cưới con nghé nàng dâu không về.
- Thương nhau vì nợ vì duyên
Trâu đôi chi đó, thổ điền chi đây.
147
- Mua trâu xem vó, mua chó xem chưn.
- Trâu năm sáu tuổi còn nhanh
Bò năm sáu tuổi đã tranh về già.
- Nước giữa dòng chê trong chê đục
Vũng trâu nằm hì hục khen ngon.
- Trâu chết để da, người chết để tiếng.
- Đàn đâu mà gảy tai trâu
Súng đâu bắn sẻ gươm đâu chém ruồi.
- Chẳng qua số phận long đong
Cột trâu trâu đứt, cột tròng tròng trôi.
- Thương nhau vì nợ vì duyên
Trâu đôi chi đó thổ điền chi đây.
- Dầu bông bưởi dầu bông lài
Xức vô tới tết còn hoài mùi trâu.
- Thứ nhất vợ dại trong nhà,
Thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa cùn.
Vợ dại thì đẻ con khôn,
Trâu chậm lắm thịt, rựa cùn chịu băm.
- Trâu anh con cưỡi con dòng,
Lại thêm con nghé cực lòng thằng chăn.
Việc cấy lúa đã xong, bây giờ người ta chỉ còn thấy trên đồng ruộng trải dài
một màu xanh ngút ngàn. Vài tháng sau cũng trên cánh đồng này đã biến hóa ra
màu vàng tươi ánh. Sự biến hóa kỳ diệu này mới liên tưởng đến bức phiếm họa của
họa sĩ danh tài người Tây ban nha Pablo Picasso (1881-1973). Trong lớp màu vàng
tươi ánh đó phảng phất mùi thơm dịu ngọt của lúa chín. Vụ mùa tốt đẹp lại đến. Họ
chuẩn bị cho mùa gặt hái, họ bước xuống ruộng với một tấm lòng hào hứng, với
những tiếng cười vui vẻ, đa số là phụ nữ, trên tay mọi người có một cái liềm sắc
bén.
148
Công việc làm ruộng vô cùng vất vả. Cấy cây lúa xuống chưa phải là có hạt
thóc, hạt gạo mà ăn. Còn biết bao chăm sóc, lo toan, nào lo có đủ nước cho cây lúa
chống lớn, nào lo phân để dinh dưỡng cây lúa, nào lo làm cỏ cho sạch, cho nên
người nông dân đã từng nói thật đúng “ công cấy là công bỏ, công làm cỏ là công
ăn”,phù hợp với câu nhật tụng của người nông dân “nhứt nước, nhì phân, tam cần,
tứ giống”.
- Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm
Trông cho chưn cứng đá mềm
Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng.
Bao nhiêu sự cực nhọc trông đợi đã qua, và hôm nay họ gặt hái được một
mùa lúa vàng trĩu hạt, còn niềm vui nào bằng. Vừa cắt lúa họ vừa trao đổi câu
chuyện, một người khởi chuyện, mười người góp chuyện, tiếng cười vang, réo gọi
từ ruộng này sang ruộng bên kia, âm ba như hồi chuông chiều đồng vọng.
Những vụ gặt lúa mùa rất là vất vả, vì đang giữa tiết mùa đông rét lạnh, đêm
dài ra còn ngày ngắn lại, mới vừa nghĩ trưa để ăn cơm thì trời bổng chốc ngả ra
màu tối sẩm :
- Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng
Ngày tháng mười chưa cười đã tối.
Mùa gặt đã xong, trong bồ đầy ấp lúa, ai thiếu nợ ai thì đong lúa trả nợ, ai
chịu sưu chịu thuế cho làng thì mau đem tới nộp đủ bằng không để qua sang năm
họ tới kèo co thì xui tận mạng. Sự lo lắng của một người nông dân tốt :
- Tháng mười gặt hái đã xong
Nhờ trời một mẩu năm nong thóc đầy
Năm nong thóc đầy em xay em giả
Trâu ủ phân cám bả nuôi heo
Sang năm lúa tốt tiền nhiều
Em đem đóng thuế đóng sưu cho chồng
Đói no có thiếp có chàng
Còn hơn chung đỉnh giàu sang một mình.
Khi gặp phải vụ mùa tươi tốt và đẹp như ý muốn của lòng người thì nợ nần
sẽ được trang trải xong, sửa sang nhà cửa, may mặc quần áo mới, chăn nuôi thêm
149
con gà, con heo, dư nữa thì tậu một con trâu, dư nữa thì nghĩ đến cưới vợ cho có
thêm sức lao động trong nhà :
- Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà
Trong ba điều đó thật là khó thay.
Có năm bị thất mùa, sưu làng thuế ruộng gia tăng, trong nhà thấy cái đói gần
kề, họ chỉ còn biết ngửa mặt lên trời xanh thăm thẳm thở than :
- Bây giờ gặp phải hội này
Khi thì hạn hán khi hay mưa dầm
Khi thì bảo gió ầm ầm
Đồng tiền thóc lúa mười phần còn ba
Lấy gì đặng nạp nữa mà
Lấy gì công việc nước nhà cho đang
Lấy gì sưu thuế phép thường
Lấy gì bổ chợ đong lường làm ăn
Trời làm khổ cực hại dân !
Người nông dân gặp năm thất mùa thì đổ lỗi tại người dân không hết lòng tế
lễ trời đất, không chăm sóc kỷ lưởng ngôi đình làng, cho nên trời mới gieo họa làm
khổ cực người dân, thật mê tín dị đoan.
Họ chỉ tin có trời, họ lập bàn thiên và cầu tài cầu lộc gì họ cũng van vái với
ông trời, nắng hạn làm cho cánh đồng đất nẻ, khô héo, mưa nhiều làm ngập úng hư
hại mùa màng họ đổ lỗi do ông trời giáng họa cho dân lành.
150
Ngoài thiên tai, đời sống người dân quê dưới thời Pháp thuộc rất là lầm than,
khổ sở, vất vả suốt ngày mà kiếm không ra một bửa ăn đạm bạc, dải dầu mưa nắng
thế mà chẳng có chút nào yên thân, lắm khi họ không còn một nơi nương tựa.
Nhiều người phải ăn khoai thay thế cơm, có vùng người dân đi dào củ chuối ăn
độn sống qua ngày. Thiếu cơm, thiếu áo quần, thiếu chỗ ngủ, vệ sinh không được
tốt, nên bịnh tật hoành hành khắp nơi.
- Trời còn khi nắng khi mưa
Ngày còn khi sớm khi trưa nữa người.
Lúc thịnh, lúc suy, số phận của người nông dân bấp bênh như cánh bèo trôi
dạt trên dòng nước, khi nước đứng thì cánh bèo ở yên một chỗ, khi nước lên hay
xuống thì cánh bèo cứ theo dòng nước xuống đã rồi lại lên. Lúc tao loạn thì sản
nghiệp đổ vở, đến khi thời bình họ nổ lực dựng lại.
Cần cù, kiên nhẫn, chăm chỉ, siêng năng đó là đức tính của người nông dân
nói riêng, và của dân tộc Việt Nam nói chung.
Ngoài cây lúa, người nông dân xăm canh trồng đủ các loại hoa màu khác,
thức ăn dồi dào, trên đồng cạn, dưới đồng sâu chỗ nào cũng có :
- Gió đưa gió đẩy về rẩy ăn còng
Về sông ăn cá về đồng ăn cua.
Nào là bông súng Đồng tháp mười, nào bông bí Hồng ngự :
- Muốn ăn bông súng mắm kho
Thì về Đồng tháp ăn cho đã thèm.
- Mẹ mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh.
5.- Tình chung hai tiếng chung tình.
- Cô kia cắt cỏ một mình,
Cho anh cắt với chung tình làm đôi.
Cô còn cắt nữa hay thôi,
Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng.
151
Bẩm sinh người dân quê gốc gác chất phác, hiền hậu, chăm chỉ làm ăn,
không thích đua đòi, không thích se sua, không thích chạy theo vật chất xa hoa bên
ngoài. Họ như hoa đồng nội, dễ nhìn, dễ mến, dễ thương.
Như một bửa trưa hè oi ả, như một nét vẻ vàng đậm cảnh lá rụng mùa thu,
như buổi sáng tinh sương mùa đông rét mướt, như mùa xuân về rộn rả tiếng chim
kêu, tính chất của người dân quê cũng như thế. Màu quen thuộc của họ là màu đất
xám, màu áo vải bô đen. Họ nhìn màu trắng như đàn cò bay ngang bầu trời vào
buổi chiều nhạt nắng, họ nhìn màu hồng như mặt trời rạng rở ánh bình minh, họ
nhìn màu xanh như đám mạ non mơn mởn mượt mà và khi họ nhìn màu vàng, tâm
trí họ liên tưởng đến kết quả của vụ mùa thắng lợi : lúa vàng.
Đất ở đây phì nhiêu, người ở đây đông đúc, ruộng đồng cò bay thẳng cánh,
bờ đê chó chạy cong đuôi, dưới sông cá lắm tôm nhiều. Phong cảnh đất nước đã có
sẳn màu mở lại bồi thêm những vẻ đẹp của thiên nhiên khiến cho giang sơn càng
trở nên cẩm tú. Đất nước thanh bình, lòng dân hân hoan sung sướng, người người
đều có đủ áo ấm cơm no. Đời sống của người dân quê đang hồi vươn lên cao và
vượt qua những khó khăn mà trước kia họ thường hay vấp phải. Câu hò tiếng hát
của họ đượm nét vui mừng khôn xiết, thoảng theo gió chiều đồng nội và bay lan đi
khắp nơi :
- Xem trên trăng bạc trời hồng
Dạo miền sơn thủy, bẻ bông thái bình.
Phong cảnh đẹp hửu tình trong cảnh thái bình thịnh trị :
- Làng ta phong cảnh hửu tình
Dân cư giang khúc như hình con long
Nhờ trời hạ kế sang đông
Làm nghề cày cấy vun trồng tốt tươi
Vụ năm cho đến vụ mười
Trong làng kẻ gái người trai vui nghề.
Mùa xuân thanh bình về với dân gian và cái Tết nguyên đán cũng đã qua rồi,
nhưng tiếng gió xuân nghe chừng như đang réo gọi trong tim của họ, cho nên trọn
“tháng giêng là tháng ăn chơi “. Tuy nhiên, họ không quên phân tích rành rẻ các
việc phải làm theo từng mùa, từng tháng của một năm :
- Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà
Tháng ba thì đậu đã già
152
Ta đi ta hái về nhà phơi khô
Tháng tư đi tậu trâu bò
Để ta sắp sửa làm mùa tháng năm
Sáng ngày đem lúa ra ngâm
Bao giờ mọc mầm ta sẽ vớt ra
Gánh đi ta ném ruộng ta
Đến khi lên mạ thì ta nhổ về
Lấy tiền mượn kẻ cấy thuê
Cấy xong rồi mới trở về nghĩ ngơi
Cỏ lúa dọn đã sạch rồi
Nước ruộng vơi mười còn độ một hai
Ruộng thấp đóng một gàu giai
Ruộng cao thì phải đóng hai gàu sòng
Chờ cho lúa có đòng đòng
Bây giờ ta sẽ trả cộng cho người
Bao giờ cho đến tháng mười
Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta
Gặt xong ta gánh về nhà
Phơi khô quạt sạch ấy là xong công.
Như vậy ngoài tháng giêng ăn chơi lả lướt và họ lại bắt tay vào công việc
bận rộn quanh năm. Bài ca dao trên đã cho ta thấy một kinh nghiệm lão nông tri
điền, cũng tương tợ như ý nghĩa bài trên, họ bổ sung thêm :
- Tháng chạp là tháng trồng khoai
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà
Tháng ba cày vở ruộng ra
Tháng tư làm mạ mưa sa đầy đồng
Ai ai cũng vợ cũng chồng
Chồng cày vợ cấy trong lòng vui thay.
Muốn cho ruộng không bị chai, nhà nông nghĩ cách gia tăng thêm sức đất,
họ thu gom rơm rạ đốt thành tro làm phân bón rồi rải trên ruộng. Năm nào có lũ
lụt, đất phù sa sông cửu long đổ về, năm đó người dân trúng mùa.
Bên cạnh nghề nông chủ lực dành cho phái nam, người phụ nữ cũng có vai
trò phụ hợ, nhưng chủ lực dành cho phái nữ là buôn gánh bán bưng, tính toán lổ lời
tròn năm trọn tháng :
- Mỗi năm có mười hai kỳ
Thiếp ngồi thiếp tính khó gì chẳng ra
153
Tháng giêng ăn Tết ở nhà
Tháng hai rổi rảnh quay ra nuôi tằm
Tháng ba đi bán vải thâm
Tháng tư đi gặt tháng năm trở về
Tháng sáu em đi buôn bè
Tháng bảy tháng tám trở về đong ngô
Chín, mười cắt giạ đong mùa
Một, chạp vớ được ông đồ dài lưng
Anh ăn rồi anh lại nằm
Làm cho thiếp phải quanh năm lo phiền
Chẳng thà lấy chú lực điền
Gạo bô thóc giống còn phiền nỗi chi.
Người đàn bà nhà quê đảm đang hết mọi công việc từ trong nhà ra tới ngoài
đồng áng một cách tài tình khéo léo. Nhưng cô thôn nữ kia vì vô tình hay cố ý đã
bộc lộ đời sống tình cảm riêng tư của cô ta tỏ vẻ chán nản những anh chồng “chữ
nghĩa một bồ mà dài lưng tốn vải”, tối ngày chỉ biết vui với đèn sách chứ chẳng
nhờ vả được gì, sao bằng các anh trai lực điền tay cày tay cuốc, ăn chắc mặc dầy,
gánh tất cả công việc nặng nhọc thay cho vợ. Hay cũng có thể đây là nghĩa đen
nhằm khuyến khích các cô thôn nữ :
- Ai ơi hãy lấy nhà nông
Được công được việc còn mong nỗi gì.
Hoặc có thể là một nghĩa bóng khuyến nông để mở rộng diện tích canh tác.
Dù nghĩa nào thì cũng tốt thôi, sống bằng nông nghiệp thì việc cày sâu bừa kỷ để
làm tăng sản lượng cây lúa thì chú lực điền là người được trọng dụng nhiều nhứt,
vì ở họ mọi người mới thấy có đời sống thực tế hơn so với những chàng nho gia
sống bằng trí óc và tinh thần. Có lẽ chỉ có một phần trăm người thích làm ông đồ
nho, nhưng thiểu số thư sinh mặt trắng ấy ít khi được đem ra ứng dụng trong đời
sống bình dân của mọi người, nếu có chăng đi nữa, thì họ ra tỉnh làm một thầy
thông hay thầy ký cho mấy ông quan Tàu, quan Tây, vì vậy mà trong ca dao ít nói
đến. Thường thấy những câu chăm biếm các anh chàng nho sinh :
- Ai ơi chớ lấy học trò
Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm.
Tuy nhiên không ít người hy vọng được làm nho sĩ, mặc dù ông cha họ từ cổ
chí kim vẫn sống bằng nghề nông, dẫu họ có làm thầy thông, thầy ký hay bậc hàn
sĩ đi nữa tâm lý của họ vẫn coi trọng nghề nông và khuyến nông không dừng bước.
154
- Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu.
Cái tâm lý trọng nông và khuyến nông ấy lan rộng trong dân gian nên mới
được kết tinh lại trong bài vè đẹp đẻ này :
- Con chim nho nhỏ
Cái long nó đỏ
Cái mỏ nó vàng
Nó kêu người ở trong làng
Đừng ham lảnh lụa phụ phàng vải bô.
Thấy cái kiếp hàn sĩ thư sinh của mình ít ai ngó ngàn đến, lại lục đục rớt lên
rớt xuống trong mấy kỳ thi cử, họ bổng nhiên chán kiếp sống bút nghiên, thích
quay về với cảnh đồng ruộng bao la, ngát gió :
- Văn chương phú lục chẳng hay
Trở về làng cũ học cày cho xong.
Hoặc là :
- Khi xưa vác bút theo thầy
Bây giờ em lại vác cày theo trâu.
Sau lũy tre xanh, vài ngôi nhà tranh đang kéo khói lên không gian một màu
trắng lờ mờ. Người dân quê không phải là văn sĩ hay thi sĩ, nhưng đôi lúc nghĩ
ngơi thư thái, tâm hồn họ bổng dưng lên nỗi niềm lâng lâng để rồi ước mơ bằng óc
tưởng tượng… Mỗi lần nhìn thấy nhà nhà đều có khói lam bốc lên, họ ví những làn
khói lờn vờn bay trong gió như là những mạch máu đang chảy điều hòa trong các
bộ thần kinh sinh tồn trong một con người.
Khi ánh nắng chiều còn vương sót trên ngọn cây, xa xa âm vang lại tiếng
chuông thu không buồn bả, da trời dần dần trở sang màu tím, không gian tối sầm
lại. Công việc của người nông dân đã mệt nhọc theo với hơi thở thoi thóp của thời
gian, nhưng họ sắp sửa vui vì trở về nhà ăn bửa cơm tối đông đủ mọi người thân
trong gia đình
Chẳng bao lâu, nơi mé trời đông lại hừng hửng sáng. Vài khóm mây trắng
lửng lờ che khuất ánh sáng nhiệm mầu của vũ trụ khi ánh trăng vừa nhú lên, người
ta thấy những đám mây đó bổng trở nên đẹp lộng lẩy trong năm màu hòa hợp.
155
Trăng lên, đồng quê im phăng phắt, gió đồng đong đưa phảng phất mùi thơm
của lúa, mùi ngây ngây của cỏ hòa trộn lại quến thành mùi hương đồng nội. Muôn
cảnh vật chìm lặng trong ánh trăng sáng chan hòa khắp mọi nơi như để ban thưởng
cho con người tận hưởng để quên nỗi nhọc nhằn cảnh nắng cháy ban trưa, cảnh
mưa dầm thúi đất. Trong cảnh đẹp thiên nhiên mê hồn đó bổng thình lình nhiều
khúc hát ân tình vọng vang :
- Một vũng nước trong
Một vùng nước đụt
Một trăm người tục
Một chục người thanh
Biết ai tâm sự gởi mình
Mua tơ thêu lấy tượng bình nguyên quân.
Lần tìm theo tiếng hò véo von đó, người ta thấy một bóng đen từ dưới mạn
thuyền bước lên bờ, có lẽ ai kia đã khéo sắp đặt sẳn sàng, nên chi tiếng hò của cô
gái vừa dứt thì bên sân lúa gần đấy đáp lại giọng hò của một chàng trai :
- Ai sang đò ấy bây giờ
Ta còn ở lại ta chờ bạn ta
Mưa nguồn, chớp bể, mưa sa
Ấy ai là bạn của ta ta chờ.
Bóng đen nọ bổng dưng dừng lại, quay mình một vòng, mắt nhìn dáo dác,
thấy sân lúa mồn một mà sao không thấy người, bóng đen vừa bước độ vài bước
thì bên sân lúa có giọng hò tiếp :
- Đi đâu bỏ chiếu ai nằm
Bỏ chăn ai đắp, bỏ trằm ai đeo.
Không một tiếng trả lời, chàng trai tiếp tục lấn tới :
- Đèn hết dầu đèn tắt
Nhan hết nhụy hết thơm
Anh bảo em đừng có lai vãng đêm hôm
Thế gian đồn tiếu vậy mà không hay.
Bóng đen nọ chính là cô gái quê, thấy nơi sân lúa tụm năm tụm bảy người
đàn ông đang cười đùa ngặt ngoẽo, cô gái tự chửa mình để thanh minh rằng nàng
đi đêm không phải vì say trăng say gió, say câu hò tâm tình, say tiếng hát lâm li,
156
nàng đi đêm chẳng qua vì việc nhà, việc hàng xóm. Dầu cho ai hỏi ai chào, người
ngay thẳng chỉ biết gật đầu rồi bước đi :
- Đi đêm ai hỏi ai chào
Thì em cứ vẫn đâm đầu mà đi.
- Chưa chồng đi tắt về ngang
Có chồng thì cứ một đàng mà đi.
- Chưa chồng chơi đám chơi đu
Chồng rồi chẳng dám ngao du chốn nào.
- Chim khôn chưa bắt đã bay
Người khôn ít nói ít hay trả lời.
- Ðố ai quét sạch lá rừng
Ðể anh khuyên gió, gió đừng rung cây.
Rung cây, rung cội, rung cành
Rung sao cho chuyển lòng anh với nàng !
Qua tiếng đáp lễ thanh minh đó, cô gái quê bèn tiếp qua một giọng thẹn
thùa:
- Tưởng rằng đường vắng hát chơi
Nào hay đường vắng có người vãng lai
Tưởng rằng em hát em hay
Nào dè câu hát lại bay đến chàng.
Nói xong cô gái quê vẫn bước đi mà không ngoái lại. Nhìn dáng cô thôn nữ
và giọng hò có khí khái vừa thoáng qua mắt các chàng trai, trong đó có một chàng
ra vẻ anh hùng bước theo sau cô gái tán gẩu :
- Bâng khuâng bát ngát
Nghe em hát hửu tình
Căn duyên tiền định
Khiến đôi lứa mình gặp nhau.
Non nước có thanh bình, lòng người mới tự do tỏ tình hoa nguyệt như câu
hát :
- Đời phải đời thạnh trị
Cuộc phải cuộc văn minh
Kìa là gió mát trăng thanh
157
Biết đâu nhân đạo bày tình cho vui.
Câu ca dao trên đã diễn tả đúng cái tâm lý chung của người dân quê mộc
mạc. Họ mong đợi một tình yêu không đi ngược vòng lễ giáo, họ ước muốn làm
sao có một thứ tình yêu nhân đạo, lấy cái nghĩa để mà sống đời chứ không màng
cái thinh sắc, cái lợi danh rồi sau đó nửa đường vở đạo tào khang.
Năm nào trúng mùa lòng dân rộ lên niềm vui sướng, nhà nhà đều ấm no, dân
gian sống trong cảnh thái bình, tìm thấy mối tình nhân đạo lại càng hạnh phúc hơn.
Cũng như muôn ngàn người con gái khác, muôn ngàn người con trai khác, khi đến
tuổi dậy thì hỏi sao lòng không rạo rực, lúc vui lúc buồn, lúc sầu lúc cảm, lúc nhớ
lúc thương :
- Gió đưa cây sậy nằm dài
Ai làm cho bậu buồn hoài không vui.
- Bướm ong bay lượn rộn ràng
Em nguyền giữ tấm lòng vàng với anh.
Người con gái mới lớn như búp hoa vừa hé nở, lắm kẻ hứng người nâng, nếu
để lở duyên thì còn ai đưa người đón :
- Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa một mình.
Ai đón lấy cái duyên đúng lúc là kẻ chiến thắng, ai thua cuộc là kẻ sầu hận.
Hình như đây là một định mệnh đối chiếu đeo sát vào trong tâm hồn con người,
một định mệnh khắc khe, trói buộc tình cảm vào một giới hạn nhứt định nào đó, và
vì sự đối chiếu của nó dĩ nhiên không bao giờ làm cho lòng người yên tỉnh được
một phút giây nào, vui liền theo sau là buồn, sướng liền theo sau là khổ. Bên công
việc nhà nông nặng nề họ cũng có một giấc mơ đẹp chập chờn trong trí não, nhưng
rồi họ bị định mệnh bắt phải quay về với cuộc sống thực tế, cho nên họ bị dằn vật,
khắc khoải và cái trống rổng bao la của cõi lòng :
- Đồng hồ liệt máy vì bởi sợi dây thiều
Anh xa em vì bởi sợi chỉ điều xe lơi.
- Tiền tài như phấn thổ
Nhân nghĩa tựa thiên kim
Bởi đứt dây nên gổ mới chìm
Tại ai ở bạc nên mới tìm nơi xa.
158
Hoàn cảnh này là do bởi hai bên gia đình không chấp nhận cuộc hôn nhơn,
cho nên sợi chỉ điều xe lơi mà không cột chặt lại :
- Sương sa lụy nhỏ dầm mình
Đến nay mới biết là tình anh thương.
- Đắng khổ qua, chua là chanh giấy
Dầu ngọt thế mấy cũng tiếng cam sành
Giặc lang sa đánh tới châu thành
Dù ai ngăn qua đón lại, dạ cũng không đành bỏ em.
- Chờ anh cho hết sức chờ
Chờ cho rau muống lên bờ trổ bông.
Có lẽ chờ đợi là một cứu cánh, là một phép lạ có thể xảy ra, hoặc không thể
xảy ra khi có tiếng vọng xa xa :
- Biết đâu trong đục mà chờ
Ngày xuân nước chảy hửng hờ qua sông.
Sự chờ đợi rồi cũng trôi qua, tia sáng tự khép kín tâm hồn mình cững tự biến
mất, chỉ còn tiếng than van lưu luyến trầm tích cho hy vọng tương lai :
- Đôi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc như đèn mới khêu.
- Còn trời, còn nước, còn non
Còn trăng, còn gió hãy còn đó đây.
- Đường mòn ơn nghĩa không mòn
Chanh chua chớ phụ ngọt bòn chớ ham.
Dư âm là một tiếng dội rên rỉ, ngân nga trong bể mênh mông vô tận của trời
đất, dù sao nó vẫn có chút linh nghiệm là một liều thuốc sưởi ấm lòng người,
nhưng liều thuốc đó chưa hẳn đã xoa dịu một vết thương tình :
- Lên non bẻ lá họa hình
Họa cho thấy mặt kẻo tình nhớ thương.
- Chuông già đồng điếu chuông kêu
Anh già lời nói em xiêu tấm lòng.
159
- Hôm qua dệt cửi thoi vàng
Sực nhớ đến chàng cửi lại dừng thoi
Cửi rầu cửi tủi chàng ơi
Ngọn đèn sáng tỏ bóng người đàng xa.
Đó chỉ nói ân tình của hai kẻ mới yêu nhau, còn khi gạo đã thành cơm rồi,
nói tới kẻ còn người mất biết đau thương như thế nào :
- Sông dài cá lội biệt tăm
Người thương đâu vắng chỗ nằm còn đây.
Sự đau khổ về thể xác và nỗi ray rức trong tâm hồn không làm tê liệt sức lao
động, ở đây họ cố gắng làm nhiều công việc để mau quên lãng cái nghĩa tình chung
hai tiếng chung tình kia, và họ cố gắng càng ngày càng làm ra nhiều của cải cho xã
hội.
Phân tích tình cảm của người dân quê chất phát, hiền lành không phải đơn
giản như vậy đâu, đây chỉ phát bút một nét vẻ đơn sơ, mộc mạc để minh họa cho ca
dao ân tình e ấp dịu dàng, nhẹ nhàng mà phấn khích, lúc thì dùng lối hứng để giải
bày tâm sự, tức cảnh sinh tình, lung linh ý nhạc, khi thì dùng lối tỷ để so sánh, đối
chiếu tình cảm giữa cảnh vật và con người :
- Thân em như cũ ấu gai
Ruột trong thì trắng võ ngoài thì đen.
Hoặc là :
- Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dài
Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa.
Hoặc là :
- Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm để chàng qua chơi.
- Lu ly nửa nước nửa dầu
Nửa thương cha mẹ, nửa sầu căn duyên.
- Đắng cay cũng thể ruột rà
Ngọt ngào cho lắm cũng là người dung.
160
- Đói thì thêm thịtt thêm xôi
Hể no cơm tẻ thì thôi mọi đường.
Dân gian coi tình yêu nhân đạo như một định mệnh khắc khe của ông trời,
muốn có được tình yêu đó phải do ông trời gắn bó căn duyên.
Những buổi chiều sắp tắt, những đêm trăng trở lại với dân quê, những buổi
ban mai hồng rực ánh bình minh, tiếng nói của tình cảm, tiếng gọi của bản năng,
tiếng thổn thức của tình chung hai tiếng chung tình nối tiếp nhau phát xuất mãi
theo nhịp thở của loài người giữa cảnh trời, mây, nước thái hòa an lạc, giữa những
thắng cảnh hùng vĩ của thiên nhiên, giữa lòng đất thân yêu đang hân hoan hát lên
lời ca no ấm.
- Một yêu cô cả lắm thay
Hai yêu cô cả khéo may yếm đào
Ba yêu cửa gió lọt vào
Bốn yêu cô cả miệng chào có duyên
Năm yêu má lúm đồng tiền
Sáu yêu cô cả tốt duyên chăng là
Bảy yêu khan thắm thêu hoa
Tám yêu cô cả nết na hiền tài
Chín yêu cô chửa có ai
Mười yêu anh kết làm hai vợ chồng.
161
C H Ư Ơ N G T H Ứ N Ă M
1.- TÌNH YÊU.
2.- CÂU CHUYỆN GẶP GỞ.
3.- LÁ TRẦU DUYÊN.
4.- TƯƠNG TƯ.
5.- HOA NGUYỆT.
6.- KHIÊU KHÍCH.
7.- ĐẠO VỢ CHỒNG.
1.- Tình yêu.
Trong các thể ca truyền khẩu, tình yêu của đôi trai gái được nhắc đi nhắc lại
nhiều lần, từ lúc mới gặp nhau, rồi ngỏ lời ướm hỏi nhau, đến lúc thề nguyền gắn
bó, chờ mong thương nhớ, dạm hỏi cưới xin, đoàn tụ biệt ly, nào là cảnh trái
duyên, nào là tình yêu bội ước, quá lứa, lở thì. Phần này là phần phong phú nhứt
trong ca dao, được coi như là phần văn chương dân gian lý thú nhứt, dồi dào nhứt.
Sống cùng thôn, cùng làng, chung đụng với nhau trong công việc đồng áng,
hòa mình trong hoàn cảnh thực tế, phối hợp tất cả màu sắc thiên nhiên, nên ca dao
là phương tiện trao đổi, nhắn gởi, ký thác tình cảm tự do giữa đôi trai gái. Cách gợi
tình của họ là lời ví nọ, ví kia, là tiếng nói trái tim chất phác, lời lẽ thật đẹp, ý
nghĩa thanh tao, còn nhận thấy sự ngụ ý của họ lúc thì mừng vui, khi thì chua chát,
lúc lại cởi mở, khi thì buồn sầu. Cái tình yêu trong sạch như gió ngàn trăng mộng,
nồng nàn như giọt sương ấp ủ đóa hoa trinh.
- Trời xanh bải biển cũng xanh
Để coi bông cúc ngả nhành về đâu
Bông ngâu rụng xuống gốc ngâu
Lòng thương người nghĩa đâu đâu cũng tìm
Ngó lên trăng xéo lưỡi liềm
Bởi vì người nghĩa lỗi niềm mẹ cha.
- Trai còn tân vợ con chưa có
Gái thanh nhàn chờ đợi lấy nhau
Đôi ta cầm đôi dao cau
Chỉ trời vạch đất lấy nhau phen này
Chẳng tin đi hỏi ông thầy.
162
Khi nói đến tình yêu nó không thể xuôi êm như dòng nước chảy. Lòng người
sâu thăm thẳm, khó mà dọ dẫm thì tình yêu cũng lắm chông gai như đoạn đường
nhiều sỏi đá, càng đau thương, càng trắc trở ca dao càng sinh sôi nảy nở đủ hình,
đủ dạng, biến hóa khôn lường thì ca dao càng được truyền tụng sâu rộng trong dân
gian.
Dân tộc Việt Nam, vốn được tiếng là đa cảm, cho nên trong nhóm người
bình dân ít học, ít chữ nghĩa cũng có khối người có dòng máu nghệ sĩ, biết chọn cái
đẹp, biết thưởng thức cái hay, biết phẩm bình cái dở, hòa hợp mọi vật giữa thiên
nhiên và người với người, để cho tiếng nói tình yêu của trái tim tự do rung động
theo tiếng gọi của bản năng. Trọn cuộc đời đã được ký thác vào ruộng đồng bao la
bát ngát, mưa gió dạn dài, bên trăng ngàn thơ mộng, cảnh sống đấy khí trờ vô tận
ấy đã khiến cho người dân quê vung trồng không biết bao nhiêu là tình cảm dịu
dàng, tha thiết.
- Ông thầy dở sách xem ngay
Chàng thì tuổi ngọ em nay tuổi mùi
Em thì mười tám đôi mươi
Chàng nay hăm mốt tốt đôi chăng là
Chàng về hỏi mẹ cùng cha
Có cho anh lấy vợ xa hay đừng
- Tay em cầm gói muối gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
Quên nhau em chẳng cho quên
Có nhớ thì nhớ mới nên vợ chồng.
- Thấy em gò má hồng hồng
Phải chi em đừng mắc cở anh bồng anh hôn.
Những buổi ban mai khi sương đêm còn nước đọng trên cành, cánh phụ nữ
đã rủ nhau ra đồng làm cỏ, hoặc qua những buổi trưa hè gay gắt nắng, bác nông
phu ngồi phe phẩy tay quạt dưới gốc cây bàng, hay những đêm trăng về gió mát
hiu hiu, đàn em nhỏ chơi trò oảnh tù tì vui nhộn. Bao nhiêu cảnh nên thơ vật chất
bên ngoài đã vẻ lên cái đẹp chơn thành trong tâm hồn của người dân quê hiền hậu,
khiến họ cảm thấy đời đáng yêu thay, họ khao khát một vài lời dịu ngọt, vài tiếng
thỏ thẻ ân tình. Vì vậy mà trai gái tự do trao đổi quan điểm cá tính của mình,
dường như không có một mệnh lệnh nào ngăn cấm họ được.
163
- Tay em nắm lấy tay anh,
Dù ai nói quẩn nói quanh mặc lòng.
Tay ấy đáng vợ, đáng chồng,
Duyên trời đã định tơ hồng đã xe.
Họ mơ tưởng đến chuyện trúc mai trùng phùng trong giấc ngủ :
- Đêm qua nằm ngủ sạp vàng
Trông xuống sạp bạc thấy chàng nằm không.
Vội vàng cởi áo đắp chung
Tỉnh ra em vẫn nằm không một mình.
Mặc dù cha mẹ ngăn cấm, mặc dù lễ giáo ràng buộc, họ vẫn yêu mê mang,
yêu đắm đuối, nhớ thương khắc khoải :
- Nhớ chàng như bút nhớ nghiêng
Như mực nhớ giấy như thuyền nhớ sông
Nhớ chàng như vợ nhớ chồng
Như chim nhớ tổ như rồng nhớ mây
Nhớ chàng ra ngẩn vào ngây
Sư ông nhớ bụt mỏ rày nhớ chuông
Nhớ chàng vì nợ vì duyên
Vì ông tơ nguyệt đã khuyên lấy chàng.
- Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền !
Không những nhớ đêm không ngủ, nhớ ngày quên ăn, mà sao lạ, đứng đâu
cũng nhớ, ngồi đâu cũng nhớ, nằm đâu cũng nhớ :
- Nước non một gánh chung tình
Nhớ ai ai có nhớ mình hay chăng.
- Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng dống lửa như ngồi dống than.
- Nhớ ai đứng tủi, ngồi sầu
Mình ve sương tuyết bao lâu mà mòn.
164
- Đêm nằm gốc thị mơ màng
Thị thơm mặc thị, nhớ chàng quên ăn.
- Có đêm thơ thẩn một mình
Ở đây thức cả năm canh rõ ràng
Có đêm tạc đá ghi vàng
Ngày nào em chả nhớ chàng, chàng ơi.
Con người không phải là thần hay thánh, con người không phải như loài sắt
đá cỏ cây, vì con người là một con vật tổng hợp, có lý trí, biết suy nghĩ, biết cho
con tim rung cảm chơn thành trước vạn thể cho nên con vật đó bị xao xuyến và bị
kích động. Vì sự xao xuyến quá mạnh nên đã làm tê liệt thể xác. Người dân quê ở
đây dù thể xác có bị tê liệt, nhưng tinh thần không tê liệt, lý trí không tê liệt vì họ
sống gần gủi với thiên nhiên. Có tình yêu như thêm vị ngọt vào đời sống. Biết yêu
là khổ, là nhớ thương dằn vật, là khổ đau day dưa nhưng họ vẫn cứ đòi yêu và
muốn được yêu :
- Yêu nhau để khổ cho nhau
Biết là biết vậy mà nào hết yêu.
Tình yêu là gì ? Là một cảm giác dầy xéo những trái tim dậy thì hoặc những
lòng già còn dào dạt tình xuân ? Nói như thế có nghĩa là tình yêu không có một
chút hương vị gì nồng nàn, cay đắng hay ngọt ngào ? Thật là một điều nghịch lý.
Trong khi có người lên án tình yêu là thứ tình cảm không chơn chính, trong khi lại
có lắm kẻ lúc nào cũng nghĩ và cũng muốn đắm vùi chạy theo tiếng gọi ấy.
Nhà văn Lê văn Siêu (1911-1995) có câu nói “Yêu mà không sáng suốt thì
cũng như kẻ mù quáng, phó thân cho dục vọng. Sáng suốt mà không yêu thì sẽ tàn
nhẫn, gian ác, ích kỷ và gieo tai gieo họa cho mọi người.”
- Anh đi đường ấy xa xa
Để em ôm bóng trăng tà năm canh.
- Chàng về để áo lại đây
Phòng khi em nhớ cầm tay đở buồn.
- Bắc thang lên hái hoa vàng
Vì ai cho thiếp biết chàng từ đây.
165
- Châu sa nước mắt ròng ròng
Thấu thiên thấu địa thấu lòng em chăng.
- Ai làm cho dạ em buồn
Cho con bướm lụy, chuồn chuồn lụy theo.
Mãnh lực của tình yêu khác gì cánh hoa khép mình dưới cây gai, dù có cẫn
thận đến đâu cũng bị gai đâm ngón tay rỉ máu. Tình yêu cũng có thể là tấn hài kịch
làm cho người ta cười, cũng có thể là tấn thảm kịch làm cho người ta khóc, vậy ai
trong họ người nào chịu khóc, người nào chịu cười.
- Anh về, em chẳng dám cầm
Dang tay đưa bạn, ruột bầm như dưa.
- Cực vì hai đứa hai nơi
Muốn qua thăm bậu sợ lời thế gian.
- Vì ai thiếp mới xa chàng
Tại con chim cú vào làng kêu đêm.
- Nước mắt nhỏ sa, khăn mùi soa thấm ướt
Trời hởi trời có biết hay không
Nghĩa nhân thương quá vợ chồng
Vắng nhau một buổi ngồi trông sửng sờ
Ai làm lửng lửng lờ lờ
Em trông em biết, anh chờ anh hay
Ai làm cho đó xa đây
Ai bảo thiếp cách ai bày chàng xa.
Tình yêu và sự sống là như thế đó. Dân gian coi tình yêu là sự sinh tồn, vì có
tình yêu mới nên vợ nên chồng, nhận xét này nếu đứng về mặt chủ quan chắc chắn
sẽ không tránh được điều lầm lẫn, nhưng đứng về mặt khách quan thì sự tinh tế của
tình yêu cũng có vạn nẽo vào và vạn nẽo ra. Tình yêu là cuộc sống cho tâm hồn,
bởi vì yêu nhau tức là tha thứ cho nhau, vì có tha thứ mới yêu nồng nàn, yêu chơn
thành, yêu để xây dựng đời sống hạnh phúc, yêu nhau không phải người này đứng
nhìn người kia, yêu nhau là hai người cùng nhìn chung về một hướng, tức là kết
hợp vật chất và tâm hồn xít lại gần nhau.
Nếu chàng quyết tâm :
166
- Dao phay kề cổ, máu đổ không màng
Chết thời chịu chết, buông nàng anh không buông.
- Cha anh có đánh quằn đánh quại,
Bắt anh ra treo tại nhành dương.
Biểu từ ai, anh từ đặng,
Chớ biểu anh từ người thương, anh không từ.
Và nàng cũng không kém chàng :
- Lên non thiếp cũng lên theo
Tay vịn chân trèo, hái trái nuôi nhau.
- Ví dầu cha đánh mẹ treo
Đứt dây té xuống, em theo đến cùng.
- Ở đây lắm kẻ dèm pha
Nói vào thì ít nói ra thì nhiều
Thương anh thương đủ mọi điều
Gió quanh em sẽ liệu chiều em che
Ai nói chi chàng chớ có nghe
Ông tơ bà nguyệt đã xe ta rồi
Dù ai khuyên đứng dỗ ngồi
Thì chàng cũng cứ đải bôi qua lần.
Trong cuộc sống không thể thiếu vắng tình yêu, dù họ đã biết tình yêu ngọt
hơn cả mật ong, đắng hơn trái bòn hòn, chua hơn dấm thanh, cay hơn ớt hiểm, mà
thiếu thì không được, trong khi chàng trai nghe bên tai giọng nói dịu dàng của một
cô gái :
- Chim liễu nó biểu chim hoàng
Biểu to biểu nhỏ biểu chàng yêu em.
Tuổi tác cô gái còn nhỏ quá, nên chàng trai tần ngần hẹn ước :
- Ỏi o nho nhỏ
Cắt cỏ hái dâu
Bước qua năm nữa tôi bưng trầu cưới o.
167
- Thò tay ngắt ngọn rau ngò
Thấy em còn nhỏ, giữ bò anh thương.
Cho nên khi nói đến tình yêu là phải nói đến cuộc sống, hai thứ này kết hợp
lại mới đạt đến điểm hạnh phúc, bởi vì hạnh phúc không thể nào tồn tại giữa hai
tâm hồn cách biệt nhau. Hơn nữa tình yêu muốn có hạnh phúc không thể mua bằng
tiền, không thể ép bằng vũ lực.
Tình yêu không có hạnh phúc là do lệ tảo hôn :
- Lấy chồng từ thuở mười lăm
Chồng chê tôi bé chẳng nằm cùng tôi
Đến năm mười tám, đôi mươi
Tôi nằm dưới đất, chồng lôi lên giường
Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn chân giường gãy một còn ba
Ai về nhắn mẹ cùng cha
Chồng tôi nay đã giao hòa với tôi.
- Em tham giàu, em lấy thằng bé tỉ ti,
Làng trên xóm dưới thiếu gì trai tơ.
Em đem thân cho thằng bé nó dày vò,
Mùa đông tháng giá nó nằm co trong lòng.
Cũng đã mang là gái có chồng,
Chín đêm trực tiết nằm không cả mười!
Nói ra sợ chị em cười,
Má hồng bỏ quá một thời xuân xanh……..
- Bồng bồng cõng chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng
Chị em cho mượn cái gàu sòng
Đi đến chỗ lội múc chồng tôi lên.
- Quả cau nho nhỏ
Cái vỏ vân vân
Nay anh học gần
Mai anh học xa
Có chồng từ thở mười ba
168
Đến nay mười tám em đà năm con.
Ra đường thiếp hay còn son
Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.
Gia cảnh làm vợ bé :
- Lấy chồng làm lẽ khổ thay
Đi cấy, đi cày chị chẳng kể công.
Đến tối chị giữ lấy chồng
Chị cho manh chiếu nằm không nhà ngoài.
Gia cảnh chồng già vợ trẻ :
- Chồng già vợ trẻ là tiên
Vợ già chồng trẻ nợ duyên ba đời.
- Gà tơ xào với mướp già
Vợ hai mươi mốt chồng đà sáu mươi
Ra đường chị diễu em cười
Rằng hai ông cháu kết đôi vợ chồng
Đêm nằm tưởng cái gối bông
Giựt mình gối phải râu chồng nằm bên
Sụt sùi tủi phận hờn duyên
Oán cha trách mẹ tham tiền bán con.
- Có duyên lấy được chồng già
Ăn xôi bỏ cháy, ăn gà bỏ xương.
Cuối cùng rồi cũng có ngày tan vở :
- Ví dầu tình bậu muốn thôi
Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra.
Nếu chung thủy là một lời thề, thì một chữ, một câu hát trong ca dao của
người bình dân là một lời hẹn hò, một lời đính ước:
- Chiếc thuyền kia nói có,
Chiếc ghe nọ nói không.
Phải chi miễu ở gần sông
Em thề một tiếng kẻo lòng anh nghi.
169
- Cao ly sắc với ngưu hoàng,
Uống không mát dạ bằng thiếp với chàng gặp nhau.
- Con tằm bối rối vì tơ,
Anh say sưa vì rượu, em ngẩn ngơ vì tình.
Hết sầu tương tư rồi họ cũng trở lại vui vẻ đối đáp giữa nam và nữ, ví dụ
như những câu đối đáp dưới đây :
- (Gái) Nào khi gánh nặng anh chờ,
Qua truông anh đợi bây giờ nghe ai?
- (Trai) Qua truông anh đạp lấy gai,
Anh ngồi anh lể nào ai mượn chờ.
- (Gái) Thiếp than thân thiếp còn thơ,
Lấy chồng xa xứ bơ vơ một mình.
- (Trai) Bây giờ năn nỉ ai binh,
Lá lay vì bởi tại mình thuở xưa.
- (Gái) Ghe lui thì bạn nhổ sào,
Anh còn bịn rịn nước nào anh lui.
- (Trai) Nước ngược anh bỏ sào xuôi,
Khúc sông quạnh vắng có người sầu riêng.
- (Gái) Mặc tình ai dễ ép ai,
Muốn ăn trứng nhạn hang mai phải lòn.
- (Trai) Hang mai anh cũng muốn lòn,
Sợ e trứng nhạn hãy còn vỏ không.
- (Trai) Bậu với qua như thủy hồi đông bể,
Nguyệt lặn tây cù bất dĩ kiến lai.
- (Gái) Bậu với qua như thủy hồi đông bể,
Chuột gậm tay cùi, kiến cắn lỗ tai.
170
- (Gái) Rèn lòng vàng đá tri tri,
Dầu ai thay bạc đổi chì mặc ai.
- (Trai) Trăm trăm ai chớ bỏ ai,
Chỉ thêu nên phụng, sắt mài nên kim.
- (Trai) Trắng da vì bởi phấn giồi,
Đen da vì bởi em ngồi chợ trưa.
- (Gái) Trắng da là đĩ anh ôi!
Đen da thật vợ ở đời với anh.
- (Trai) Cam sành dã dượi bờ ao,
Tưởng không anh hái có rào thì thôi.
- (Gái) Cam sành chê đắng chê hôi,
Hồng rim chê lạt, cháo bồi khen ngon.
- (Trai) Đất láng quyên tự nhiên cỏ mọc,
Anh mảng lo nghèo bạn ngọc có đôi.
- (Gái) Biết thuở nào cho vầy bạn ngọc,
Kẻo đêm nằm trằn trọc gối loan.
- (Trai) Tóc em dài sao em không bới,
Để bao hoài bối rối dạ anh.
- (Gái) Tóc dài thì tốn tiền chanh,
Nào ai bán tóc nuôi anh bao giờ.
- Thân em như thể xuyến vàng,
Thân anh như manh chiếu rách, bạn hàng bỏ quên.
Nhờ trời cho gió thổi lên,
Cho manh chiếu rách nằm trên xuyến vàng.
- Áo vá vai vợ ai không biết,
Áo vá quàng chí quyết vợ anh.
- Áo vá quàng còn đàng chỉ lược,
Anh thương nàng sao được mà thương.
171
- Cớ sao anh có một mình,
Hỏi thăm quân tử gia đình gần xa.
Từ đây đến đó không xa,
Chớ thi sum hiệp nhứt gia phỉ tình
- Tấm lòng nhơn thế khó dò,
Sợ anh có vợ hẹn hò uổng công.
- Ai mà dối trá giả lời ,
Anh đây chí quyết ở đời cùng em.
- Đứng hòn Chồng trông sang hòn Yến
Lên Tháp bà về viếng sinh trung
Giang sơn cẩm tú chập chùng
Đôi ta gắn bó thủy chung một lòng.
- Trái bòn hòn trong tròn ngoài méo
Trái thầu dầu trong héo ngoài tươi
Em thương anh ít nói ít cười
Ôm duyên ngồi đợi chín mười con trăng.
- Thương anh chẳng biết để đâu
Để trong tay áo lâu lâu lại dòm.
- Thương em chẳng biết để đâu
Để trong quyển vở để đầu cuốn thơ.
- Trách ai tham đó, bỏ đăng
Thấy lê quên lựu, thấy trăng quên đèn.
- Trách mình chẳng trách ai đâu
Trách con sào ngắn sông sâu khó dò.
Tình yêu khởi đầu bộc lộ qua người con gái , hỏi thăm làm quen rồi mơn
trớn mời mọc :
- Thiên duyên kỳ ngộ gặp chàng
Khác gì như thể phượng hoàng gặp nhau
Tiện đây ăn một miếng trầu
172
Hỏi thăm quê quán ở đâu chăng là
Xin chàng quá bước về nhà
Trước là trò chuyện sau là nghĩ chân.
Nếu chàng không trả lời thì tấn công tới tấp :
- Anh đà có vợ con chưa
Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào
Mẹ già anh ở nơi nao
Để em tìm vào hầu hạ thay anh.
- Chẳng tham nhà ngói rung rinh
Tham gì một nỗi anh xinh miệng cười
Nụ cười anh đáng mấy mươi
Chân đi đáng nén nụ cười đáng trăm.
Lúc đầu cô gái còn giữ được vẻ đoan trang kín đáo, nhưng nỗi niềm rạo rực
ngày càng sôi nổi không kèm chế được :
- Anh đi đường ấy xa xa
Để em ôm bóng trăng tà năm canh.
- Đi đâu cho thiếp theo cùng
Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam.
Khi hai người có gặp nhau chẳng mấy lúc tới nỗi buồn đưa tiển :
- Mình về em chẳng dám đưa
Hai hàng nước mắt như mưa tháng mười.
- Cá sầu, cá trở đầu đuôi,
Người sầu lên ngược, xuống xuôi vẫn sầu.
Cô gái đang đùa cợt với ái tình, cô ta quên rằng tình yêu là con dao hai lưởi
sắc bén, là một trò chơi nguy hiểm, khi để trái tim xung đột với chữ tình thì bệnh
tương tư bộc phát :
- Cùng nhau kết tóc xe tơ
Trăm năm thiếp cũng đợi chờ mà thôi.
173
- Năm con ngựa bạch sang sông
Năm gian nhà ngói đèn trong đèn ngoài.
Đèn yêu ai mà đèn chẳng tắt?
Ta yêu mình nước mắt nhỏ ra.
- Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà mẹ hỏi, qua cầu gió bay.
- Yêu nhau chẳng quản đường xa
Đá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều.
- Yêu nhau vạn sự chẳng nề
Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.
- Yêu nhau ruột héo, xương mòn
Yêu nhau đến thác vẫn còn yêu nhau.
- Yêu nhau, cau sáu bổ ba
Ghét nhau, cau sáu bổ ra làm mười.
- Yêu nhau chẳng lấy được nhau,
Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già
Bao giờ sum họp một nhà
Con lợn lại béo, cau già lại non.
Trước sự khiêu khích của người con gái, bây giờ đến phiên người con trai, dĩ
nhiên là anh chàng chẳng chịu nhường nhịn một lời lẽ nào :
- Em xinh như đóa hoa sen
Phận anh bèo bọt chẳng chen được vào.
Bao giờ gió cả, mưa rào
Cho sen chìm xuống, bèo trèo lên trên.
- Chẳng chè, chẳng chén sao say
Chẳng thương chẳng nhớ sao hay đi tìm?
- Gọi đò chẳng thấy đò sang
Phải chăng người cũ phụ phàng khách xưa?
174
- Sông sâu sóng bủa láng cò
Thương em vì bởi câu hò có duyên.
- Sông sâu, sào ngắn khó dò
Muốn qua thăm bậu ngặt đò không đưa.
- Trách trời sao vội mưa dông,
Trách em sao vội lấy chồng bỏ anh.
- Thò tay mà ngắt ngọn ngò
Thương em đứt ruột, giả đò ngó lơ.
Người con gái yêu người con trai vì nhơn, vì nghĩa, vì tánh cần cù làm việc,
vì bản chất hiền lành, còn người con trai yêu người con gái phải có điều kiện :
- Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
Hoặc phong độ bề ngoài phải ưa nhìn, đó là duyên khởi đầu cho người trai
buông lời trêu ghẹo :
- Một đôi cò trắng bay tung
Chim oanh nó nhảy nó cùng bay qua
Con nhà ai mà đẹp mặn mà
Để cho anh mê mẩn vào ra liếc thầm
Ước gì kết chữ đồng tâm
Đôi ta cùng được Tấn Tần họp nhau.
Chẳng lẽ người con trai chỉ yêu cái sắc đẹp mà quên rằng người con gái còn
có bốn nết tốt là công, dung, ngôn, hạnh :
- Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má núng đồng tiền
Bốn thương răng lánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ áo đeo bùa
Sáu thương nón thượng quay tua dịu dàng
Bảy thương nết ở khôn ngoan
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh
Chín thương cô ở một mình
175
Mười thương con mắt hửu tình với ai.
Cách ngỏ tình bằng khen những vẻ đẹp đơn sơ mà duyên dáng ở người con
gái, sau đó người con trai đã khéo léo thương ở câu số chin “Chín thương cô ở một
mình”. Vì cô ta ở một mình tức vườn hồng chưa có chủ, nên chàng hỏi :
- Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa ?
Nàng thản nhiên đáp rằng :
- Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
Để xem Mười thương của Tú Mở so sánh dân dao như thế nào :
- Một thương tóc lệch đường ngôi
Hai thương quần trắng áo nùi khăn san
Ba thương hôm sớm điểm trang
Bốn thương răng ngọc hai hàng trắng phao
Năm thương lược quế cài đầu
Sáu thương ô lụa ngả màu thanh thiên
Bảy thương lắm bạc nhiều tiền
Tám thương dọc tỉ nữ huyền nở ra
Chín thương cô vẫn ở nhà
Mười thương thôi để mình ta thương mình.
Mười thương xong rồi, xin giới thiệu tiếp bài Mười yêu :
- Một yêu mặt trắng má tròn
Hai yêu môi mỏng thoa son điểm hồng
Ba yêu mắt sáng mày cong
Bốn yêu mái tóc nực nồng nước hoa
Năm yêu mảnh áo ngắn tà
Sáu yêu quần trắng là đà gót sen
Bảy yêu vóc liễu dịu dàng
Tám yêu giọng nói vừa hiền vừa vui
Chín yêu học thức hơn người
Mười yêu yêu cả đức tài hình dung.
176
Có nhiều từ yêu nét đẹp quí phái của cô gái đài cát trăm anh, bài mười yêu
này chỉ có những công tử nhà giàu mới dám nghĩ tới, còn nông dân chân lấm tay
bùn chỉ mơ thôi cũng khó huống chi là ước mong nhìn thấy. Tuy nhiên chàng trai
cũng có thể tưởng tượng ra một nghĩa bóng “Nàng có gương mặt trắng như dồi
phấn, đôi môi đỏ như thoa son, mái tóc thơm như mùi nước hoa, nào là đà gót sen,
nào vóc liễu dịu dàng…” đích thị là một cô gái đài chương, chung quanh là trướng
phủ màn che, quanh năm suốt tháng có ra nắng đâu mà có làn da ngâm đen, so với
cô gái nông thôn :
- Dầu bông bưởi, dầu bông lài
Xức vô tới tết còn hoài mùi trâu.
Trong khi mấy anh chàng chân đất thì khoái như vầy :
- Trắng như bông lòng anh không chuộng
Đen như cục than hầm làm ruộng dễ thương.
- Yêu nhau quá đỗi nên mê
Tỉnh ra mới biết kẻ chê người cười.
Vợ ta dù có quê mùa
Thì ta vẫn cứ sớm trưa vui cùng.
- Vợ ta áo rách ta thương
Vợ người áo gấm xông hương mặc người .
Thủy chung của nàng cũng đâu thua :
- Chồng người xe ngựa người yêu
Chồng em khố đũi em chiều em nuông.
Cô thôn nữ này có nước da màu bánh ít chứng tỏ rằng cô rất siêng năng
trong mọi công việc, từ việc trong nhà ra đến việc đồng áng cô đều đảm đang số
một, dù nắng mưa có làm cho nước da đổi màu, dù sương gió có làm cho tóc thiếu
chút nồng hương, nhưng phảng phất trong cái mùi khen khét nắng, ngây ngây cái
mùi rêu mốc, đó mới là tình yêu chân thật, trai gái yêu nhau chỉ vì cùng chung lao
động cực khổ chứ không vì thinh sắc.
- Trắng da vì bởi má cưng
Đen da vì bởi lội bưng, tát bàu.
-
177
Chàng trai cả quyết :
- Một trăm con gái thủ
Một lũ con gái chợ
Anh không vợ không màng
Cảm thương con gái ruộng cơ hàn nắng mưa.
Rồi cô gái đảm đang kêu gọi các bạn :
- Củi tre dễ nấu
Chồng xấu dễ xài
Đừng ham bóng sắc nó hành hài tấm thân.
Lời kêu gọi ấy thế mà đúng mới hay. Họ bảo nhau chồng đẹp, chồng giàu là
chồng thiên hạ, vợ đẹp, vợ sang là vợ của người ta, đàn ông giàu gái xinh tới như
ruồi, con gái lịch đàn ông vây quanh như ong bướm.
Tóm lại, không cần đẹp lắm, mà cũng đừng xấu lắm, bình bình bực trung :
- Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu chưa thanh lịch cũng người tràng an.
Như vầy cũng còn cao :
- Nhất cao là núi Ba vì
Nhất lịch, nhất sắc kinh kỳ thăng long.
Nhìn tướng đoán người :
- Người mà con mắt lá răm
Chân mày lá liễu đáng trăm quan tiền.
- Người mà thắt đáy lưng ong
Vừa khéo chiều chồng vừa khéo nuôi con.
- Người khôn con mắt đen sì
Người dại con mắt nửa chì nửa thau.
- Môi dầy ăn vụng đã xong
Môi mỏng hay hớt môi cong hay hờn
178
Như vầy là quá tệ :
- Chẳng thà chịu lạnh nằm không
Còn hơn có vợ lẹm cằm răng hô.
Hoặc là :
- Người mà phinh phỉnh mặt mo
Chân đi chữ bát có cho chẳng thèm.
Đàn ông bị đàn bà chê :
- Thấy anh như thấy mặt trời
Chói chang khó ngó trao lời khó trao.
Đẹp, xấu khó chọn, cao, lùn khó phân, bây giờ đem phép so sánh :
- Mặt má miếng bầu nhìn lâu muốn chửi
Mặt chữ điền tiền rưởi cũng mua.
- Những người béo trục béo tròn
Ăn vụng như chớp cấu con cả ngày.
Tuy nhiên trong cái nhóm người đó, có kẻ chỉ thích đòi hỏi sự giải phóng
xác thịt, đó là cái hạng người không thích nói đến tình yêu, họ mua bán như một
món hàng, họ thay đổi như cởi bỏ một chiếc áo, mà những kẻ đó có thể gọi họ là
kẻ cấp tiến trong xã hội. Trước trào lưu mới, họ sống theo phong lưu mới, và họ
thường gặp cái tình cảnh như vầy :
- Một vợ thì nằm giường lèo
Hai vợ bỏ xó chèo queo chuồng bò
Ba vợ thì nằm co ro
Bốn vợ gà gáy ó o hết đời.
- Bờ bụi tối tăm
Anh quơ nhầm cái tô bể
Lấy vợ có chửa về thổi lửa queo râu.
179
2.- Câu chuyện gặp gở.
Công việc của nhà nông suốt tháng quanh năm là làm đất, cày bừa, gieo mạ,
cấy lúa, làm cỏ, gặt hái, một năm làm hai mùa lúa nhờ thế mà trai gái trong làng có
dịp gặp gở nhau, trước lạ sau quen rồi kết bạn, rồi nhớ thương, rồi trao duyên…….
Vẻ lên thành một bức tranh sống động mà chàng họa sĩ đại tài ở đây chính là ông
Trời.
Họ gặp nhau trong công việc, nhiều lần thành quen nhau. Lúc đầu giả vờ
làm mặt lạ, người này tìm cớ trêu chọc người kia :
- Tới đây không hát thì hò
Không phải như cò ngóng cổ ngồi nghe.
Bên cánh đàn ông thường hay tỏ ra sổ sàng nên buông lời thách thức :
- Ai đi đâu đấy hỡi ai ?
Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm.
Tìm em như thể tìm chim,
Chim bay biển Bắc, đi tìm biển Đông.
- Nhớ lời nguyện ước ba sinh,
Xa xôi ai có biết tình chăng ai ?
Khi về hỏi liễu Chương đài
Cành xuân đã bẻ cho ai một cành,
- Đường xa thì thật là xa,
Mượn mình làm mối cho ta một người
Một người mười chín đôi mươi,
Một người vừa đẹp vừa tươi như mình.
- Đôi ta như con một nhà
Như áo một mắc, như hoa một chùm.
Đôi ta như nước một chum
Nước cạn mặc nước ta đùm lấy nhau
- Anh còn son em cũng còn son
Ước gì ta được làm con một nhà!
180
- Đêm nằm tàu chuối có đôi
Hơn nằm chiếu tốt lẻ loi một mình.
Trai gái vừa mới gặp nhau thì đã quen nhau trong câu hò tiếng hát, họ không
e dè hay chống đối trước một lời chọc ghẹo quá sổ sàng, vì với họ , sự thành thật
trong cách ngõ tình không kém phần thân ái mà họ ngỡ rằng chỉ có như thế mới
khai thác được sự ấm lạnh của nhân tình. Phép xả giao của họ khởi đầu bằng câu
hò :
- Hò chơi trai gái cùng làng
Nghĩ sao nói vậy đừng ngở ngàng mất vui.
Cái vui thú nhứt là người ở địa phương này rũ hò với người ở địa phương
khác. Ví như người ở Rạch Giá đến Cần Thơ, người ở Sóc Trăng qua Bạc Liêu, họ
theo sông nước đi từ tiền giang xuống miệt hậu giang, với làn điệu nhẹ nhàng,
luyến lái điệu hò đầy âm sắc :
- Hò…ơi…ới…ơ…Con sông tiền liền con sông hậu
Hai sông đâu lại thành nước cửu long
Dù cho nước đục hay trong
Xin đừng chia rẻ ơ…hò…ơi…ới…ơi…ơ…đau lòng nước non.
Nước non chia rẻ nước non còn buồn, huống gì người với người lại nở nào
tách biệt nhau trong cuộc sống hay sao, người dân quê biết như vậy nên chẳng bao
giờ chủ trương một chính sách hận thù, trái lại họ còn tìm cách thân thảo nhau,
giúp đở nhau :
- Đàng xa xin chớ ngại ngùng
Trèo non xuống suối ta cùng đở nhau.
Nếu họ không phải là người cùng địa phương, nghĩa là không người cùng ở
chung một làng với nhau, khi mà muốn trao đổi qua câu hò người con trai phải
thanh minh trước, kẻo phải thất bại bởi giọng hò đối phương đàn áp :
- Hò chơi hai gái hai trai
Thưa cùng cô bác đừng ai nghi ngờ.
Phương tiện đi lại thông thường bằng ghe thuyền, nên lúc còn lênh đênh trên
dòng sông xuôi ngược, họ đã khởi sự hát hò :
- Lênh đênh giữa cảnh nước trời
Thuyền ta trôi dạt tìm người tri âm.
181
Giọng hò của chàng trai có duyên đáo để, lảnh lót vang xa, nghe như giọng
hò lạ, chắc chắn không phải người cùng địa phương, người con gái bèn vào đề
ngay bằng lời khiêu khích :
- Nước sâu sóng bổ láng cò
Thương anh vì bởi câu hò có duyên.
Khi con nước đã lên cao, thuyền trước thuyền sau của đôi trai gái đuổi nhau
và cất tiếng hò đối đáp như đã quen nhau từ lâu :
- Bớ chiếc thuyền loan
Khoan khoan chậm lại
Chờ anh tỏ một vài lời phải trái nghe chơi.
Được lời như mở tấc lòng, nàng ra sức chèo nhanh hơn, chàng trai ra hết sức
chèo nhanh hơn nữa nhưng vẫn không đuổi theo kịp :
- Thuyền em đã nhẹ
Chèo lẹ khôn theo
Khuyên em bớt mái khoan lèo chờ anh.
Đã không bớt mái khoan lèo chờ “người nghĩa”, nàng còn ngoảnh mặt lại
cười dòn dả như kẻ chiến thắng và cất tiếng hò :
- Bớ chiếc ghe sau
Chèo mau em đợi
Kẻo khúc sông này bờ bụi tối tăm.
Theo khúc sông dài, hai bên mọc đầy dừa nước chơm chiu, hai chiếc thuyền
sau trước bất ngờ đã gặp nhau qua câu trao đổi những điệu hò địa phương. Ngay ở
những đêm trăng họ cũng gặp gở nhau và quay quần chung quanh sân đập lúa.
Việc làm gây cho họ có cảm hứng để hò, để hát, chung vui bên những câu chuyện
đầy hứng thú, từ đó nảy nở âm thầm mối tình mới chớm lên của đôi trai gái, càng
hò hát nhiều họ càng say mê công việc đến khi nào trăng nằm ngang tầm mắt.
Nhưng, trước khi mạnh ai người nấy trở về nhà, sự lưu luyến cuối cùng của giây
phút sắp rời nhau thật là cắt ruột :
- Gió thổi hiu hiu
Chín chiều ruột thắc
Nhìn sao bên bắc
182
Nước mắt chảy bên đông
Ai xuôi chi vợ vợ chồng chồng
Biết đây với đó dây tơ hồng có se ?
Gặp nhau đâu phải chỉ một lần rồi hết, trăng mọc đâu phải chỉ có một đêm
rồi tàn, vì vậy, qua đêm hôm sau dù bận công việc nhà, nhưng họ vẫn đến sân lúa
xem các cô gái chẻ lạt, hoặc quay tơ, sàng thóc, mỗi mỗi công việc chàng trai nào
cũng hăng hái tham gia giúp đở. Cái tâm lý thường tình là để có dịp gần nhau, nói
chuyện với nhau :
- Đêm hè gió mát trăng thanh
Em ngồi chẻ lạt cho anh chấp thừng
Lạt chẳng mỏng sao thừng được tốt
Duyên đôi ta đã trot cùng nhau
Trăm năm thề những bạc đầu
Chớ tham phú quí đi cầu trăng hoa.
Đó là mối tình đầu chơn chất của đôi trai gái nhà quê, chỉ mới khởi động mà
nghe đến sâu sắc tận tâm hồn, hay là :
- Sáng trăng trải chiếu hai hàng
Cho anh đọc sách cho nàng quay tơ
Quay tơ thì giữ mối tơ
Dẫu năm bảy mối cũng chờ mối yêu.
Đêm trăng là đêm thơ mộng nhứt của đôi trai, họ gặp nhau dưới trăng như cá
về với nước, như hổ về với rừng, chim về với đồng ruộng. Trăng đã đẹp, gió lại
mát, người say mê công việc. Mọi vật trong đêm trăng đều im lặng, cảnh vật bên
ngoài đã làm xao động vào tim non, dù cho bên đàng trai có những lời ngỏ tình táo
bạo, bên đàng gái nếu chưa tìm ra lời đối đáp thì đành im lặng chờ qua câu hỏi
khác, chớ không cải vả để mất ân tình :
- Trên trăng dưới nước
Anh giao ước một lời
Dẫu trăng lờ nước cạn mấy đời anh phụ em.
Trăng tạo ra không biết bao nhiêu cảnh đẹp, trăng sinh ra không biết bao ân
tình, trăng là phương tiện để đôi trai gái mở lời ước hẹn, vì vậy họ mới tán tụng
những cuộc gặp gở dưới trăng :
183
- Lửng lờ vừng quế soi thềm
Hương đưa bát ngát càng thêm bận lòng
Dao vàng bỏ dẩy cẩm nhung
Biết rằng quân tử có dùng cho chăng
Đêm tà thấp thoáng bóng trăng
Ai đem người ngọc thung thăng bạn cùng.
Hoặc là :
- Sáng trăng vằng vặc đêm rằm
Nửa đêm về sáng trăng nằm ngọn tre
Em trót yêu anh cho trọn một bề
Để anh thấp thoáng ngồi kề bóng trăng
Sự tình này ai thấu cho chăng
Để anh ngồi tựa bóng trăng chịu sầu.
Trăng với gió cũng như gái với trai, gió làm cho trăng thêm đẹp thì trăng
cũng làm cho gió được ngợi khen. Chàng đã làm rung động trái tim của người trinh
nữ đang tuổi xuân thì, nàng cũng đáp lại cho chàng bằng một tình yêu trong trắng,
đẹp như gió và trăng :
- Đêm qua trời sáng trăng rằm
Anh đi qua cửa em nằm không yên
Mẹ em chẳng phải mê tiền
Thấy anh lịch sự có duyên dịu dàng
Thấy anh em những mơ màng
Tưởng rằng đây đó phượng hoàng kết đôi
Thấy anh chưa kịp ngỏ lời
184
Ai dè anh đã vội rời gót loan
Thiếp tôi mê mẩn canh tàn
Chiêm bao như thấy có chàng ngồi bên
Tỉnh ra lẳng lặng yên nhiên
Tương tư bệnh phát liên miên cả ngày
Cũng là duyên nợ chi đây
Xin chàng hãy lại chơi đây chút nào.
Chàng đã bước qua cửa rồi như gió không còn thổi nữa, trăng hết đẹp lòng
nàng cũng héo sầu :
- Gió đưa trăng thì trăng đưa gió
Trăng lặn rồi gió biết đưa ai.
Đêm đã tàn, canh đã lụn, trăng gió không còn tình tứ nữa, con người dường
như cũng uể oải vì sắp sửa phải chào nhau tạm biệt. Chàng dầu có thức đến sáng
cũng không sao, chỉ ngại cho nàng phận đào tơ liễu yếu, còn cha mẹ thì hãy còn
cổng nghiêm đường, nên nàng vội ngỏ lời chia tay :
- Đêm lụn canh tàn
Giả chàng ở lại
Ra về quằn quại
Luống những đau thương
Chào nhau cách mặt đôi đường
Dứt câu hò hát đoạn trường ai hay.
Lời tạm biệt thật có duyên, nó như bài hát ru bên tai mà người nghe thật sự
bị rung động, trái tim bị đánh thức, chân vẫn bước đi nhưng có sức mạnh vô hình
nào đó trì kéo lại :
- Ai làm cho bướm lìa hoa,
Cho chim xanh nở bay qua vườn hồng.
Ai đi muôn dặm non sông,
Để ai chất chứa sầu đong vơi đầy?
Và cô gái buộc phải lên tiếng :
- Chiều chiều mang giỏ hái dâu
Hái dâu chả hái, nhớ câu ân tình.
185
Sự hát hò của đôi trai gái, dù có ngở ngàng trong bước đầu gặp gở, cô gái
không lấy làm e thẹn khi bị người trai chọc ghẹo :
- Bến em có gốc dừa tơ,
Đêm trăng em đứng em chờ đợi ai.
Cô gái :
- Ai về ai ở mặc ai,
Thiếp như sầu đượm thắp hoài năm canh.
- Bắc thang lên hái hoa vàng
Vì ai cho thiếp biết chàng từ đây.
Làm sao có thể cảm nhận và hát hò hay bằng một người là trai, một người là
gái qua những bài hát về cây đa, xóm cũ,đình làng, bến đò, thuyền mơ , đêm trăng,
hoàng hôn, làng quê,con đê, bờ giậu,ruộng đồng v.v ... mà người hát và người nghe
cả hai đều rung cảm trong lòng qua một thứ tình cảm đặc biệt của tuổi vừa mới lớn
làm gợi lên một nỗi buồn, một nỗi nhớ hay một niềm vui ...
- Nước non non nước khơi chừng,
Ái ân đôi chữ xin đừng xa nhau.
- Cũng liều cắn ớt nhai gừng
Chua cay mặn ngọt, ta đừng quên nhau.
Hoặc đứng trên bờ nhìn cô thôn nữ đang cắt cỏ cũng có lời để ghẹo :
- Hởi cô cắt cỏ một mình
Cho tôi cắt với chung tình làm đôi.
- Cô còn cắt cỏ nữa thôi
Cho tôi cắt với thành đôi vợ chồng.
- Cô kia bới tóc đuôi gà
Nắm đuôi cô lại hỏi nhà cô đâu?
Nhà em ở dưới đám dâu
Ở bên đám dậu đầu cầu ngó qua
Ngó qua dám bắp trổ cờ
Đám dưa trổ nụ đám cà trổ bông.
186
Lời chọc ghẹo của chàng trai có vè thô bạo quá đáng, chưa gặp nhau bao giờ
mà dám nói nào là thương, nào là nên đôi vợ chồng, tuy vậy chớ trong lòng cô thôn
nữ cảm thấy nôn nao làm sao ấy. Con gái nhà quê còn tiết trong giá sạch họ không
dám trả lời văng tục với người con trai, bởi vì nàng biết rằng :
- Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa một mình
Còn duyên kén cá chọn canh
Hết duyên củ rái dưa hành cũng chơi.
Còn duyên nón gụ quay tơ
Hết duyên nón xoáy quay dừa cũng xong
Còn duyên đóng cửa kén chồng
Hết duyên bán quán ngồi trông bộ hành.
Hết duyên thì chẳng ai ngó ngàng tới, bởi vì :
- Đèn hết dầu đèn tắt, nhang hết nhụy hết thơm.
Biết như vậy nên người con gái không dám tự cao, làm phách, nếu không
bằng lòng thì ngậm miệng mà đi, hoặc có thấy thích thì vài câu trả lời :
- Cây đa cũ, bến đò xưa
Bộ hành có nghĩa, nắng mưa cũng chờ.
- Nấu chè van vái Nguyệt bà
Khiến cho sum hiệp một nhà phụng loan.
- Thương nhau tạc một chữ tình
Trăm năm thề quyết bạn mình có nhau.
- Anh một lời, em một lời
Ngược xuôi xuôi ngược ta thời có nhau.
Người con trai ve vản càng nhiều, người con gái lựa lời trách khéo, nếu thoát
được thì đường ai nấy về, nhà ai nấy ở, lở chẳng may vương mắc lưới tình thì câu
chuyện hò hát hãy còn lăn nhăn chưa biết bao giờ mới dứt.
Người trai :
- Hởi cô cấy mạ bên đồng
Thấy cô lanh lẹ (mà) chưa chồng anh thương.
187
Cô gái :
- Tiếng anh ăn học tây phương
Vậy anh có biết chữ thương là gì ?
Người trai :
- Chữ thương là vật vô duy
Không thay không đổi tánh thì chữ thương.
Cô gái :
- Chữ thương anh quá sổ sàng
Thương rồi chớ để lở đàng nghiệp khoa.
Chàng vô tình bị nàng chẻn lối, nhưng khi người ta muốn đi tới đích thì còn
sợ gì không tìm ra lối thoát :
- Chừng nào cho sóng bỏ gành
Cù lao bỏ biển, anh đành bỏ em.
- Bao giờ cạn lạch Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền.
- Chừng nào muối ngọt chanh thanh
Em đây mới dám bỏ anh lấy chồng.
- Đồng tiền Vạn-lịch thích bốn chữ vàng,
Anh tiếc công anh gắn bó với cô nàng bấy lâu.
Bây giờ cô lấy chồng đâu ?
Để anh giúp đỡ trăm cau nghìn vàng :
Năm trăm anh đốt cho nàng,
Còn năm trăm nữa giải oan lời thề.
Xưa kia nói nói, thề thề,
Bây giờ bẻ khóa, trao chìa cho ai ?
Bây giờ nàng đã nghe ai,
Gặp anh ghé nón, chạm vai, chẳng chào ?
-
Và cô gái đầy bản lảnh bèn đáp lại rằng :
- Chim khôn đậu nóc nhà quan
Trai khôn tìm vợ gái ngoan tìm chồng
Xưa nay những bạn má hồng
Thà hầu quân tử hơn chồng tiểu nhơn.
188
Thình lình bị phang một cái quá đau, chàng phải tự bụng suy nghĩ mình là
quân tử hay tiểu nhân đây, đi chọc ghẹo gái sao gọi là quân tử, còn đang phân vân
thì cô gái phang tiếp :
- Trai không có vợ
Như chợ không có đình
Nghe mưa dông một rộ không biết dựa mình vô mô.
À à, nàng đã mở lối cho chàng thoát ra :
- Trai mô trai không có vợ
Chợ mô chợ không có đình
Anh đây giả lơ lơ hòa dụ để kết nghĩa chung tình với em.
Đàn ông gì lạ, người ta đã mở lối cho đi còn quay lại đập người ta. Ở đời là
thế, lấy ân trả oán, lấy nghĩa trả thù, nhưng ở đây trong hoàn cảnh này ân nghĩa và
thù oán nó dịu dàng như vóc liễu, iểu điệu như con công, ngon ngọt như cam sành
vì cái trò đùa của chàng trai không làm cho trái tim cô gái trống rổng và hoang
lạnh, trái lại nó như một ma lực nhiệm mầu sai khiến cô gái tự thú :
- Thử lòng quân tử mà chơi
Thử lòng quân tử xem vơi hay đầy.
Hoặc là :
- Đường trường cách trở núi sông
Mẹ già đầu bạc thiếp còn xuân xanh
Giang san thiếp gánh một mình
Có hay chăng tá tâm tình thiếp chăng
Trời ơi có thấu tình chăng
Một ngày đăng đẳng xem bằng ba thu
Ruột tằm bối rối vò tơ
Gan vàng sao khéo thờ ơ đá vàng.
Xúc động trước lời cô gái, chàng trai đáp lời bằng nghĩa keo son :
- Đêm đêm tưởng dạng Ngân-hà,
Bóng sao tinh đẩu đã ba năm tròn,
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,
Tào-khê nước chảy lòng còn trơ trơ.
189
Mặc dù chưa thề nguyền gắn bó, nhưng hai bên cũng tỏ ra có lời hẹn ước,
trái tim cô thôn nữ đã rung động trước chàng trai làng, đây có phải là duyên tiền
định cho buổi gặp gở của hai người phút chốc trở thành tri âm :
- Hửu duyên thiên lý năng tương ngộ
Vô duyên đối diện bất tương phùng
Thuyền quyên sánh với anh hùng
Nhân duyên tiền định xe trùng đôi ta.
- Trăm năm lòng gắn dạ ghi
Dầu ai đem bạc đổi chì mặc ai.
- Trăm năm ai chớ bỏ ai
Chỉ thêu nên gấm, sắt mài nên kim.
Đến đây cô gái mở lời dọ dẫm xem chàng trai có vợ hay chưa :
- Người ta chồng trước vợ sau
Anh kia không vợ như cau không buồng
Cau không buồng ra tuồng cau đực
Trai không vợ cực lắm anh ơi.
Đến lúc nàng lên tiếng “buộc” chàng phải cưới vợ, vì theo nàng trai có vợ
rồi đở cực nhọc, vì những việc lặt vặt trong nhà đã có người làm thay. Thật trớ trêu
thay cho tình cảm con người, chàng “đuổi” thì nàng chạy, nàng “rượt” thì chàng
chạy đâu đây :
- Bậu không biết nghĩ
Bậu tỉ như vậy
Chim uyên ương còn biết kết bầy
Cá bỉ mục còn vầy đôi bạn
Chẳng qua vận hạn
Anh mới lở làng
Chớ anh đâu có muốn loan hoàng lẻ loi.
Hai bên đã tỏ tâm tình với nhau, tuy vậy tình trong đã mở lời nhưng mặt
ngoài còn e thẹn, gặp nhau nhiều lần dần dần như người chung một nhà, thương
nhớ thế nào cứ bày tỏ thật lòng thế ấy :
190
- Thương nhau cắt tóc mà thề
Khó nghèo cũng chịu chớ hề bỏ nhau.
- Thương nhau tạc một chữ tình
Trăm năm thề quyết, bạn mình có nhau.
Đó là lời nhắn nhủ của đôi lứa yêu nhau :
- Một thuyền, một bến, một dây
Ngọt bùi ta hưởng, đắng cay chịu cùng.
- Chim buồn chim bay về núi,
Cá buồn cá chúi xuống sông.
Người buồn ra ngõ đứng trông,
Ngõ thì thấy ngõ, người không thấy người.
- Thò tay bẻ nhánh mai tàn
Bỗng nhìn thấy bạn hai hàng lệ sa.
Ban đầu họ chỉ biết rằng gặp nhau để được làm bạn với nhau, nhưng rồi sự
gặp gở hằng ngày họ đã tìm thấy hai tâm hồn cùng hòa hợp nhau, khiến cho tư
tưởng của họ, nguyện vọng của họ càng trở nên gần gủi nhau hơn, vì vậy xa nhau
thì nhớ thương khắc khoải, thế là họ phải nghĩ đến chuyện xây dựng lâu dài.
- Ai ơi đã quyết thì hành,
Đã đẵn, thì vác cả cành lẫn cây.
- Buổi chợ đông, con cá hồng, chê lạt,
Buổi chợ tàn, con tép bạc cũng phải mua !
- Chim đa đa đậu nhánh đa đa
Chồng gần không lấy đi lấy chồng xa
Một mai cha yếu mẹ gìa
Chén cơm đôi đũa tách trà ai dâng.
191
3.- Lá trầu duyên.
Một miếng trầu say đón ngỏ đàng
Tiển người con gái bước sang ngang
Pháo hồng nổ rộn se lòng khách
Hoa nở tưng bừng một tiếng than !
(Mặc vy Nhân)
Miếng trầu trao cho nhau là sự thỏa thuận đầu tiên giữa đôi trai gái, là một
cách khêu gợi câu chuyện khéo léo và cũng là mối dây liên hoàn mật thiết giữa
người mời trầu và người nhận trầu.
Trong đời sống văn hóa của người Việt Nam nói chung và của người bình
dân nói riêng, hình ảnh miếng trầu rất gần gủi, rất thân quen nhứt là trong nghi
thức lễ hỏi, giỗ hoải, hội hè, đình đám.
Trong nét văn hóa bình dân, trầu cau là tượng trưng cho tình yêu chung thủy,
hạnh phúc lứa đôi :
- Anh về cuốc đất trồng rau
Cho em vun ké dây trầu một bên
Chừng nào trầu nọ bén lên
Cau kia bén trái lập nên cửa nhà.
- Vợ chồng ăn miếng trầu cay
Phải đâu khách lạ mà kiếm khay xà cừ.
-
Từ nơi vương giả cho đến chốn cùng dân, không một nơi nào mà lá trầu
không tới, ai ai cũng thích ăn trầu. Ngày giỗ, ngày tết dân gian dùng trầu cau cúng
quải ông bà, người miền bắc dung trầu cúng Phật, cúng Trời. Tục lệ cưới hỏi của
dân tộc Việt Nam ngoài năm mâm trái cây trà rượu trình sính lễ, phải có riêng một
mâm trầu cau.
Thật vinh diệu thay cho lá trầu buồng cau ! Không vinh diệu làm sao được
khi miếng trầu đã từng xe không biết bao nhiêu cuộc tình duyên, đã từng tham dự
vào các cuộc trò chuyện thân mật trong họ hàng quyến tộc, đã từng liên hệ cột chặt
tình cảm láng giềng hàng xóm, đã từng gở rối không biết bao nhiêu cảnh tình trắc
ẩn buồn phiền. Mâm trầu đón ngỏ trong một đám cưới, tạ khách trong một đám ma
và cho anh chị em bạn điền gây cảm tình trong đời sống.
192
- Ra vườn hái quả cau xanh
Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu.
Miếng trầu đã dính liền giữa người và vật như vậy nên miếng trầu được coi
là vật sính lễ rất quí, rất trang trọng :
- Vào vườn hái quả cau non
Anh thấy em giòn muốn kết nhân duyên.
Và chuyện ân tình cứ thế mà diễn ra thuận gió xuôi buồm :
- Miếng trầu ai bóc ai têm
Miếng cau ai bổ mà nên vợ chồng
Trầu này bọc khăn tơ hồng
Trầu này kết nghĩa loan phòng từ đây.
- Miếng trầu anh têm vừa rồi
Miếng cau anh bửa vừa đôi vợ chồng.
-
Nhìn thấy hình ảnh cô gái tươi như hoa, đẹp như mộng mà miệng thì bỏm
bẻm miếng trầu của người con trai đưa mời, thỉnh thoảng cô ta lại tủm tỉm môi
cười tưởng chừng thích thú lắm và đôi má lại ửng hồng e lệ. Còn hai hàm răng
trắng đã tẩm đỏ chất nước của bả trầu, đôi môi lại càng mộng đỏ hơn, hỏi lòng trai
nào không cảm, không mê cho được :
- Trầu này trầu nghĩa trầu tình
Ăn vào cho đỏ môi mình môi ta.
Hoặc là :
- Trầu say vương vấn vân mòng
Nhìn môi em đỏ khiến lòng anh say. .
- Có trầu mà chẳng có cau
Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm.
Miếng trầu đã lở ăn vào thì chất nồng của nó tiết ra làm cho người ta say.
Lúc bây giờ làm sao mà biết được người ta say vì trầu hay say vì mối cảm tình
đang trổi dậy :
- Ăn trầu thì ngỏ trầu ra
Một là thuốc độc hai là mặn vôi.
193
Cô gái lở ăn miếng trầu rồi lấy gì trả nợ đây :
- Miếng trầu thật nặng như chì
Ăn rồi em biết lấy gì trả ơn.
Hoặc là :
- Lở khi ăn miếng trầu anh
Đêm nằm lo sợ mặt xanh như chàm.
Cô gái phân bua :
- Thưa rằng bác mẹ em răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người.
Chàng trai lễ phép sấn tới như là bè bạn đã quen nhau lâu rồi :
- Trầu say là bởi vôi nồng
Yêu em là bởi má hồng có duyên.
- Miếng trầu thật tay em têm
Trầu phú, trầu quí, trầu nên vợ chồng
Trầu này khấn nguyện tơ hồng
Trầu này kết nghĩa loan phòng từ đây.
Lá trầu đã góp phần thú vị như thế nên khi thấy nhà nào có con gái người
hàng xóm hay lén lúc cười hỏi “Bao giờ cho chúng tôi ăn trầu đây?” Cũng như
nhà nào có con trai lớn người ta lại hỏi khác “Bao giờ cho chúng tôi uống rượu
đây?” Ngụ ý nói nhà có cô cậu lớn cả rồi, khi nào hỏi cưới nhớ báo cho chúng tôi
uống rượu ăn trầu đấy nhé.
Hầu hết trai gái đều biết ý nghĩa sâu sắc của lá trầu nên sự mời ăn trầu là
chuyện nghiêm trang, đứng đắn, không phải là chuyện đùa vui bởn cợt, nhứt là
giữa hai bên là trai gái đang tuổi trưởng thành. Họ coi miếng trầu như là :
- Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh không hỏi những ngày còn không.
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu, biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thuở nào ra?
194
Khi người con trai mời trầu là để bày tỏ tấm lòng :
- Gặp nhau ăn một miếng trầu
Gọi rằng nghĩa cũ về sau mà chào
Miếng trầu đã nặng là bao
Muốn cho đông liễu tây đào là hơn
Miếng trầu kể hết nguồn cơn
Muốn xem đây đấy thiệt hơn thế nào
Miếng trầu là nghĩa tương giao
Muốn cho đây đấy duyên vào hợp duyên.
Và người con gái phải khéo léo từ chối miếng trầu của người con trai trao
cho, đó là sự từ chối duyên tình một cách lịch sự :
- Sáng ngày em đi hái dâu
Gặp ngay anh ấy ngồi câu Thạch Bàn
Anh liền đứng dậy hỏi han
Hỏi rằng : Cô ấy vội vàng đi đâu ?
Thưa rằng : Em đi hái dâu
Anh liền mở ví lấy trầu ra ăn
Thưa rằng : Bác mẹ em rằng
Làm thân con gái chớ ăn trầu người.
Nếu đã nhận miếng trầu tức là bằng lòng hứa duyên cùng người ấy :
- Trầu bọc khăn trắng cau tươi
Trầu bọc khăn trắng đải người xinh xinh
Ăn cho nó thỏa tâm tình
Ăn cho nó thỏa sự mình sự ta.
Và người con gái cũng giới thiệu miếng trầu của mình :
- Trầu này trầu túi, trầu khăn
Cùng trầu dải yếm, anh ăn trầu nào?
Người con trai :
- Trầu anh têm những hôm qua
Cau anh mới bổ nó ra con rồng.
195
Người con gái :
- Trầu anh têm đã có công
Trầu mặn, trầu nồng, ăn chẳng có chê.
Người con trai :
- Miếng trầu xanh rõ như mây
Hạt cau đỏ ối như dây tơ hồng
Miếng trầu như trúc như thông
Như hoa mới nở như rồng mới thêu.
Bổ cau têm trầu là nhiệm vụ của con gái cũng như cày ruộng khiển trâu là
nhiệm vụ của con trai :
- Trai thì cày ruộng khiển trâu
Gái thì phải biết bổ cau têm trầu
Trăm năm còn có gì đâu
Miếng trầu liền với con trâu một vần
Sau đây là nỗi tương tư của người con gái khi đã lở ăn miếng trầu của người
con trai :
- Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn môi đỏ dạ sầu đăm chiêu
Biết rằng thuốc dấu hay là bùa yêu
Làm cho ăn phải nhiều điều xót xa
Làm cho quên cửa quên nhà
Làm cho quên cả đường ra lối vào
Làm cho quên cá dưới ao
Quên sông tắm mát quên sao trên trời
Đất bụt mà ném chim trời
Ông tơ bà nguyệt xe vời ra đâu
Cho nên cá chẳng bén câu
Lược chẳng bén đầu chỉ chẳng bén kim
Thương nhau nên phải đi tìm
Nhớ nhau có lúc như chim lạc đàn.
Bây giờ thì họ nhớ nhau da diết, mỗi khi nhìn đến cơi trầu là họ nhớ đến
người tình của buổi hôm nào trong cuộc gặp gở lần đầu tiên. Nghĩa ân tình đã nặng
196
như thế và linh nghiệm như thế, nên miếng trầu được coi là lễ vật quí nhứt của tình
yêu. Cũng có lúc dùng miếng trầu để khiêu khích :
Cô gái :
- Trầu vàng còn để trong cơi
Anh kia dưa móc chớ tròi mâm son.
Chàng trai :
- Trầu vàng dầu ở mãi trong cơi
Sợ mai trầu héo trầu ơi là trầu.
Hoặc là :
- Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau khô ăn với trầu vàng xứng không.
Hoặc là :
- Mua cau chọn những buồng sai Mua trầu chọn những trăm hai lá vàng
Cau tiện ngang trầu vàng ngắt ngọn
Thời buổi này kén chọn làm chi
Sao em chẳng lấy chồng đi.
Tục lệ mời trầu đã thành thói quen cho những cặp trai gái trong làng, bởi
ngày ngày gặp nhau, họ hiểu rằng miếng trầu là khởi điểm của câu chuyện và có
thể dẫn đến sự hôn nhơn sau này. Tuy mẹ cha chưa biết mối tình của họ đi tới đâu
mà thấy hai đứa nó cùng nhau ăn trầu nói chuyện âu yếm coi như đó là mức đến
cuối cùng sắp thành chồng vợ :
- Vào vườn hái quả cau xanh
Bửa ra làm sáu mời anh sơi trầu
Trầu này têm những vôi tàu
Giữa đệm cát cánh hai đầu quế cay
Trầu này ăn thật là say
Dù mặn dù lạt dù cay dù nồng
Dù chẳng nên đạo vợ chồng
Xơi năm ba miếng kẻo lòng nhớ thương.
Cầm lược thì nhớ tới gương
Cầm trầu nhớ túi nằm giường nhớ nhau.
Trong bài ca dao này ta thấy nhiều từ ngữ rất tình tứ như “giữa đệm cát
cánh” “hai đầu quế cay”. Cát cánh là loại cây nhỏ, lá hình bầu dục có răng cưa, vị
ngọt, mùi thơm nồng hơn lá quế, rể làm thuốc. Như vậy miếng trầu này ngon tuyệt,
đủ thứ vị cay, mặn, lạt, nồng, ăn miếng trầu này rồi mà không nên đạo vợ chồng thì
bỏ phí thời gian theo đuổi :
197
- Trầu này trầu quế trầu hồi
Trầu loan trầu phượng trầu tôi lấy mình
Trầu này trầu tính trầu tình
Trầu nhân trầu nghĩa trầu mình lấy ta
Trầu này têm tối hôm qua
Giấu cha giấu mẹ đem ra cho chàng
Trầu này không phải trầu hàng
Không bùa không thuốc sao chàng không ăn
Hay là chê khó chê khăn
Xin chàng đứng lại mà ăn miếng trầu.
Trầu nhân trầu nghĩa, trầu phượng trầu loan tức là trầu tình, trầu không phải
mua ở hàng quán, không phải lặt hái trên cây, ý nghĩa người con gái thầm bảo đó là
trầu lòng, miếng trầu chỉ có ở trong quả tim.
Trong truyện cổ tích Tấm Cám, ông vua còn phải chết mê chết mệt vì miếng
trầu têm kiểu cánh phượng của cô Tấm, huống chi chàng trai mới vừa bước đến
cánh cửa ái tình :
- Têm trầu bỏ đẩy kim nhung
Đôi ta ước được chào chung mẹ thầy.
Đã lở ăn rồi thì phải lở vì miếng trầu mà thương nhau, để cùng dệt mộng
ước chào chung mẹ thầy, nếu chẳng may duyên còn trắc trở nhân duyên thì hai
đàng cũng phải ngậm cay nuốt đắng mà xa lìa nhau. Rồi từ đó nào nhớ nhung, nào
chờ đợi, nào buồn, nào thảm, nào bệnh tương tư tái phát liên miên để cho dân gian
có cơ hội sáng tác nhiều tập văn thơ trử tình kiệt tác.
- Yêu nhau thì ném miếng trầu,
Ghét nhau ném đá vỡ đầu nhau ra.
Yêu nhau cau bổ làm ba,
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.
Ca dao nói về tình yêu chan chứa trong lá trầu xanh miếng cau đỏ, từ cuộc
gặp gở bên đường đến những câu hò véo von trên những cánh đồng ruộng bao la
hay trên những khúc sông quanh co uốn lượn cho tới cái tục mời trầu của đôi trai
gái đã đem lại cho ca dao một nguồn sinh khí dồi dào về tình cảm. Những cuộc hội
ngộ bất ngờ là những cuộc thi tài, đấu trí rất sôi nổi, kẻ thắng không kiêu, kẻ thua
không thẹn, rốt cuộc cả hai bên đều thắng, nếu miếng trầu nên dâu nhà người, hoặc
cả hai bên đều thua vì ông tơ bà nguyệt xe đứt mối tơ.
198
4.- Tương tư.
- Thôn đoài ngồi nhớ thôn đông
Một người chin nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
(Nguyễn Bính 1918-1966)
Bệnh tương tư là bệnh chung của mọi người. Không một lứa tuổi dậy thì nào
lớn lên mà chẳng trải qua một lần nhớ, mười lần thương người bạn của mình ưa
thích, sự nhớ thương đó là bước đầu của bệnh tương tư :
- Đêm nằm gốc thị mơ màng
Thị thơm mặc thị, nhớ chàng quên ăn.
- Ngày ngày ra đứng bờ sông
Trông xa, xa tít cho lòng em đau.
Nhớ ai đứng tủi, ngồi sầu
Mình ve sương tuyết bao lâu mà mòn.
Dân tộc Việt Nam tự hào và vinh dự vì có một kho tàng văn chương bìnhdân
phong phú, biểu lộ trong đó nỗi niềm trắc ẩn của lòng người, tình cảm thiết tha
chơn chất, đầy éo le, gút mắc, nghẹn ngào, lời thơ khúc chiếc, âm nhạc thì khi
bổng khi trầm, ý nghĩa có lúc thanh, lúc trọc.
- Tay em nắm lấy tay anh
Dù ai nói quẩn nói quanh mặc lòng
Tay ấy đáng vợ, đáng chồng
Duyên trời đã định tơ hồng đã xe.
Đời sống tự do quanh năm bên ruộng đồng, trai và gái gặp nhau không còn
là cái duyên tình cờ nữa. Những câu chuyện về tình cảm, những ước hẹn thề
nguyền luôn gắn bó hai người gần lại với nhau chỉ cốt mong sao đi tới hôn nhơn
nên đạo vợ chồng :
- Còn đang chọn đá thử vàng
Ngọc lành ai quẩy ra đàng bán rao
Quan quan bốn tiếng thư cưu
Mong người quân tử hảo cầu kết duyên
Phấn son cho phỉ tấm nguyền
199
Anh hùng sánh với thuyền quyên mới tình
Phạt kha thơ ấy rành rành
Phỉ môi bất đắc xin anh liệu lường.
Nhơn duyên nào phải bạ đâu bám đó hay tưởng muốn là được theo như ý
mình. Nhơn duyên tỉ như cánh con chuồn chuồn, khi vui nó đậu khi buồn nó lại
bay, khi gió lặng rồi thì hương không còn thoáng bay nữa. cho nên khi đã thương
yêu nhau rồi không gặp mặt nhau một ngày thì nhớ thương da diết, không gặp nhau
nhiều ngày thì sanh bịnh tương tư, cái bịnh nó dằn vật khổ đau, dày vò tinh thần
lẫn đến thể xác, nhờ vậy ca dao tình cảm rất giàu chất lượng miêu tả, có sức quyến
rũ trong các chi tiết phô diễn trừu tượng, vì bịnh tương tư là bịnh của tư tưởng,
bịnh của con tim.
- Má hồng không thuốc mà say
Nước kia muốn đổ thành này muốn long.
(Cung oán ngâm khúc của Nguyễn gia Thiều 1741-1798)
Trên đây là hai câu thơ diễn tả nỗi nhớ thương của nhà vua đối với người
cung nữ thinh sắc vẹn toàn. So với câu ca dao tình cảm diễn tả nỗi nhớ thương của
đôi trai gái :
- Sông thương nước chảy đôi dòng
Chia ly đôi ngả cho lòng quặn đau.
Như vầy mới thành thật hơn :
- Một là thương, hai là nhớ
Ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín nữa là chờ
Anh yêu em luống cả mơ hồ suốt cả đêm thâu
Sông Ngân hà kìa con ô thước khéo bắc cầu
Để đôi ta thỏa nguyện gần nhau trong lúc đợi chờ
Có điều chi mà em hãy còn ngờ
Dẫu trăm chiều ngang ngửa
Quyết thề nguyền sống thác cùng nhau.
Buồn tình là cái buồn thành thật nhứt trong những cái buồn khác của nhân
sinh, vì nó phát xuất từ chỗ tình cảm thiêng liêng của con người :
- Chim chuyền nhành ớt líu lo
Mảng sầu con bạn ốm o gầy mòn.
200
Còn sầu nào hơn sầu bởi duyên tình hờ hệch, sầu cho định mệnh khắc khe,
sầu vì ai đã quên lời thệ ước hôm nào, sầu vì kẻ đã ham giàu mà hửng hờ nhơn
nghĩa. Tại cái sầu tình bắt nguồn từ ở đây :
- Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.
Nhớ mãi buổi ban sơ gặp mặt mà sao mối tình cứ lưu luyến mãi trong tâm
hồn, cảnh tình lúc ẩn lúc hiện, còn người trông mãi trông hoài mà sao chẳng thấy
hình dung. Ái tình càng đi sâu vào chi tiết, nỗi khổ càng khó bọc bạch ra với
người. Có nói ra thì ai hiểu cho đây mà cứ ấm ức mãi trong lòng thì đoạn trường
này biết đến bao giờ mới dịu vợi :
- Gặp nhau một buổi ban mai
Xa nhau chốc lát ai hoài gặp chi
Gặp nhau không biết nói gì
Xa nhau sao lại nghĩ nghì tới nhau.
Rồi than thân trách phận mong manh như cánh con chuồn chuồn :
- Đôi duyên ta như loan với phượng
Nở lòng nào để phương lìa cây
Muốn cho có đó có đây
Ai làm nên nỗi nước này chàng ơi !
Đồng chung bịnh tương tư, sự nhớ niềm thương của hai người như nhau :
(Con gái) - Thương anh chẳng biết để đâu
Để trong tay áo lâu lâu lại dòm.
(Con trai) - Thương em chẳng biết để đâu
Để trong quyển vở để đầu cuốn thơ.
(Con gái) - Qua cầu ngả nón trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp dạ em sầu bấy nhiêu.
(Con trai) - Tay cầm quyển sách bìa vàng
Sách bao nhiêu chữ dạ anh thương nàng bấy nhiêu.
201
(Con gái) - Ai đi đàng ấy hởi ai
Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm.
(Con trai) - Tìm em như thể tìm chim
Chim ăn bể bắc anh tìm bể đông.
(Con gái) - Quay tơ phải giữ mối tơ
Nhớ chàng nên phải ngẩn ngơ bên lòng.
(Con trai) - Bút lông cắn gảy làm đôi
Nhớ em nên phải ngồi chờ bên trăng.
(Con gái) - Chàng về cho chóng mà ra
Kẻo em chờ đợi sương sa lạnh lùng.
Xem thế niềm thương nỗi nhớ nào ai kém chi ai.
Tình yêu được trừu tượng hóa khi thì anh như bướm em như hoa, khi thì anh
như mận và em như đào, khi anh là sách còn em là học trò, khi anh là Chữ đồng tử
còn em là nàng tiên, khi anh là cá em là sóng thủy triều, khi anh là thơ em là người
say mộng, khi anh là phím còn em là cung đàn, khi anh là gió còn em là mây, khi
thì ví như chén rượu nồng say men.
- Chén tình là chén say sưa
Nón tình em đội nắng mưa trên đầu
Lược tình em chảy trên đầu
Gương tàu soi mặt làu làu sáng trong
Ngồi buồn nghĩ đến hình dong
Con dao lá liễu cắt lòng đôi ta
Duyên đôi ta thề nguyền từ trước
Biết bao giờ ta được gần nhau
Tương tư mắc phải mối sầu
Đây em hãy giữ lấy màu đơi anh.
Ái tình không phải là nàng tiên, nó là đóa hoa hồng trong gai nhọn, nó là vị
thuốc đắng :
- Con cá lý ngư sầu tư biếng lội
Con chim trên cành sầu cội biếng bay
Nhớ ai chẳng biết nhớ ai
Nhớ nàng yếm thắm tóc cài cành hoa.
202
Hay là :
- Yêu em khó để trong lòng
Để lòng e sợ em không thấu tình
Yêu em từ mái tóc xanh
Đến hàm răng trắng đến manh áo mầu
Anh yêu em biết là bao
Sông dài biển rộng trời cao dễ bằng.
Biết bọn con trai chỉ thích cái đẹp về phục sức điểm trang, nên trước khi trao
duyên người con gái dợm hỏi :
- Yêu ai yêu một nhịp cầu
Yêu hoa yêu được một màu điểm trang
Rồi khi nhạt phấn phai sương
Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng ?
Sự thương nhớ của người con gái lá gánh sầu não quấn quit bên lòng không
phút nào nguôi. Giấc mộng yêu mà nàng âm thầm xây đắp luôn luôn có những biến
đổi bất thường như mừng, vui, giận, ghét, khi ghen tuông, khi ấm ức :
- Thà rằng chẳng biết thì thôi
Biết chi gối chiếc lẻ loi thêm phiền.
Có những đêm khuya vắng, nghe bên ngoài giọt mưa rả rít, nỗi thương nhớ
càng lúc càng ngập tràn trong tim lạnh, lòng người thiếu nữ thêm chan chứa một
nỗi niềm lắng đợi sầu mong :
- Đèn khơi một lúc một mờ
Nhớ chàng em phải ngồi chờ suốt canh
Ngẩn ngơ một bóng một hình
Cơn mưa rả rít mà tình không nguôi.
Dường như cái duyên tình đã hội ngộ đâu từ bao kiếp trước, cho đến phút
này mới phát hiện qua nỗi cảm nhớ triền miên, nghĩa là từ bao giờ cho đến bây giờ,
giữa cái khoảng không tiêu điều trong vũ trụ bao la mờ mịt không khác nào cái
bóng tối om đang nặng trĩu tâm hồn :
- Anh về, em nắm cổ tay,
Em dặn câu này, anh chớ có quên.
203
Đôi ta đã trót lời nguyền,
Chớ xa xôi mặt mà quên mảng lòng.
Hay là giữa đêm về sáng, khi ánh trăng vàng loáng ướt ngọn cau xanh,
người thiếu nữ vẫn mỏi hơi chờ mãi bên ngọn đèn mà bóng chàng quân tử dường
như không bao giờ trở lại. Ánh trăng đã xế tà sau chân núi, tiếng gà eo óc đang gáy
đổi canh, riêng nỗi tương tư một lúc một thêm nhiều, nàng chỉ biết buồn dần theo
bóng lụn :
- Đêm đêm khêu ngọn đèn loan
Nhớ chàng quân tử thở than mấy lời
Mong chàng chẳng thấy chàng ơi
Thiếp tôi trằn trọc vội rời chân ra
Nhác trông trăng đã xế tà
Đêm hôm khuya khoắc con gà đã gáy sang canh
Mong anh mà chẳng thấy anh
Thiếp tôi buồn bả khêu quanh ngọn đèn.
Bởi vì nàng thảo chịu nghe lời ngọt, thích sự săn đón của người con trai, nên
nàng đã yêu trước khi được ngỏ tình, vì vậy sự thương nhớ của nàng mới sôi nổi
nhiều, tình yêu của nàng cũng đắm đuối hơn :
- Nhớ ai em những khóc thầm
Hai hàng nước mắt dầm dầm như mưa
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đóng lửa như ngồi đóng rơm.
Đã trót yêu nhau mà gặp sự ngăn trở của cha mẹ thì chỉ còn một cách là lìa
nhau cho trọn chữ hiếu, nhưng chữ tình nàng biết giải oan làm sao đây :
- Đêm hôm ngồi tựa bóng đèn
Than thân với bóng giải phiền với hoa.
- Bể đông sóng dợn tư mùa
Ai cho em uống thuốc bùa mê anh.
204
- Sông thương nước chảy đôi dòng
Bên trong bên đục đau lòng hay chưa.
- Cù lao xanh thương anh ở đảo
Sông hà giao dạo khúc tâm tình
Mong sao hai đứa tụi mình
Như mây với nắng bóng hình có nhau.
Lời than van của nàng chỉ có chiếc bóng in lên vách lá được nghe mà thôi.
Buồn thay cho cuộc đời tình cảm khác nào đóa hoa cầm trên tay nay đã lạt màu,
đôi lúc băn khoăn cân nhắc :
- Vì ai cho thiếp vỏ vàng
Vì chàng tư lự hoa tàn nhụy rơi
Cực lòng thiếp lắm chàng ơi
Biết rằng lên ngược xuống xuôi đàng nào.
Bịnh tương tư lúc đầu còn nhẹ tưởng như đùa giởn :
- Chim lạc bầy thương cây nhớ cội
Người xa người tội lắm ngươi ơi
Chẳng thà đừng biết nhau thôi
Biết nhau rồi mỗi đứa một nơi cũng buồn.
Nhưng sau đó tình yêu càng khắn khít nhiều, bịnh tương tư càng trầm trọng
hơn :
- Một duyên hai nợ ba tình
Chiêm bao lẩn quất bên mình năm canh
Nằm một mình nghĩ một mình
Ngọn đèn khêu tỏ bóng huỳnh bay cao
Trông ra nào thấy đâu nào
Đám mây vơ vẩn ngôi sao mập mờ
Mong người lòng ngẩn ngơ ngơ.
Khi mà bịnh tương tư đã chinh phục thể xác lẫn tinh thần, dầu cho liềm hái
tử thần có bén tới cổ họ cũng không hề sợ. Nỗi nhớ thương của chàng trai :
- Nhớ ai nhớ mãi thế này
Nhớ đêm quên ngủ nhớ ngày quên ăn
205
Nhớ ai con mắt lim dim
Chân đi thất thểu như chim tha mồi
Nhớ ai ngơ ngẩn ngẩn ngơ
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai
Nhớ ai như nhớ thuốc lào
Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên.
- Em về anh mượn khăn tay
Gói câu tình nghĩa lâu ngày sợ quên.
- Cây đa rụng lá đầy đình
Bao nhiêu lá rụng thương mình bấy nhiêu
Có yêu thì nói rằng yêu
Chẳng yêu thì nói một điều cho xong
Làm chi dở đục dở trong
Lờ đờ nước hến cho lòng tương tư.
Nỗi nhớ thương của cô gái :
- Ngày ngày em đứng em trông
Trông non non ngất trông sông sông dài
Trông mây mây chẳng in trời
Trông trăng trăng khuyết trông người người xa.
- Núi cao chi lắm núi ơi
Núi che mặt trời chẳng thấy người yêu.
- Ước gì sông hẹp một gang
Bắc cầu trải yếm cho chàng qua chơi.
Năm canh thắc thỏm tương tư của chàng :
- Canh một thơ thẩn vào ra,
Chờ trăng trăng lặn, chờ hoa hoa tàn,
Canh hai thắp ngọn đèn loan,
Chờ người quân tử thở than vài lời.
Canh ba đương nói đương cười,
Còn hai canh nữa một người một phương.
Canh tư cất bút thề nguyền,
Khứ lai miệng bạch cho tuyền thủy chung.
206
Canh năm cờ phất trống rung,
Anh gá tiếng cùng bậu chớ nghe ai.
Họ thất vọng khi chạm trán thực tế nhưng họ tìm lại nguồn an ủi qua những
đêm dài mơ tưởng bòng tình nhân :
- Đêm hôm bên ngọn đèn dầu
Một mình một bóng rầu rầu ngó nhau
Bóng kia nào khác ai đâu
Anh mơ anh tưởng em vào với anh
Cái duyên hai nợ ba tình
Thương nhau như thế thôi đành phụ nhau.
Nhớ quá quên cả học hành :
- Anh dở sách ra
Lụy sa ướt sách
Quên chữ đầu bài vì bởi nhớ em.
Một đêm, hai đêm, ba đêm đến mười đêm, không dằn lòng được để rồi họ
kêu gào trong sự ray rức của tâm hồn. Sách dở ra không đọc thành nét chữ, chỉ xỏ
hoài mà chẳng lọt qua kim, vào ra quên lối, sớm tối quên cả bác mẹ già :
- Bớ thảm ơi !
Bớ thiết ơi !
Bớ bạn tình nhân ơi !
Thân em như cái quả xoài trên cây
Gió đông, gió tây, gió nam, gió bắc
Nó đánh lúc la lúc lắc trên cành
Một mai vô tình rụng xuống biết vào tay ai
Kìa khóm trúc, nọ cành mai
Ông tơ bà nguyệt xe hoài chẳng thương
Một lần chờ, hai lần đợi
Chín lần nhớ, mười lần thương
Anh thương em nhưng bác mẹ họ hàng chẳng thương.
Trở lực lớn của cha mẹ họ hàng là đầu dây mối nhợ của cuộc chia ly, tuy có
xa nhau nhưng lòng họ vẫn hướng về nhau. Ai khóc cuộc phân kỳ, ai than duyên
bạc phận, bịnh tương tư làm cho họ cảm thấy người yêu lờn vờn trước mắt như làn
khói hương ẩn hiện trong hư không :
207
- Sông tương ai gọi rằng sâu
Chẳng bằng phân nửa mạch sầu của ta
Sông tuy sâu hãy còn có đáy
Bịnh tương tư không bải không bờ
Đầu sông chàng đợi chàng chờ
Nào hay thiếp đợi hửng hờ cuối sông.
Dù nàng bên tận thôn đoài, mà vẫn nhìn thông qua núi tìm chàng ở mãi tận
thôn đông, dù nàng ở cuối sông tương, chàng vẫn ở bên này đầu sông vẫn đợi vẫn
chờ, rồi họ oán trách nhân duyên :
- Có cưới mà chẳng có cheo
Nhân duyên trắc trở như kèo không đanh.
- Chim chuyền nhành ớt líu lo,
Sầu ai nên nỗi ốm o gầy mòn.
- Đã mang lấy cái thân tằm,
Không vương tơ nữa cũng nằm trong tơ.
Đêm nằm tơ tưởng tưởng tơ,
Chiêm bao thấy bậu, dậy sờ chiếu không.
- Ai làm cho bướm lìa hoa,
Cho chim xanh nở bay qua vườn hồng.
Ai đi muôn dặm non sông,
Để ai chất chứa sầu đong vơi đầy?
Cái lý lẽ thường tình là không thể cùng một lúc vừa si tình, vừa sáng suốt
được, có trắc trở tình yêu mới thâm đậm hơn :
- Lơ thơ tơ liễu buông mành
Con chim học nói trên cành mĩa mai
Nói khăn khăn kia còn cửa đóng then gài
Nhớ chàng nên phải ra ngoài ngóng trông.
Cảnh phòng không gối chiếc khiến cho nàng lo sợ phập phồng :
- Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai.
208
- Phòng không gối chiếc lạnh lùng
Như con thuyền nhỏ trên dòng lênh đênh.
Bâng khuâng so sánh mình với người khác :
- Hồng nhan ai kém ai đâu
Kẻ xâu chỉ thắm người xâu hạt vàng.
Nghĩ vơ vẩn rồi buồn vẩn vơ :
- Gió thổi hiu hiu
Bạc liêu kia hởi
Đoạn sầu này biết gởi cùng ai.
- Người ta ai cũng có đôi
Nghĩ mình thân phận mồ côi rất buồn .
- Đầu xanh có tội tình gì
Má hồng đến quá nửa thì chửa thôi.
- Thiếp nhớ chàng tấm phên hư lạt đứt
Chàng nhớ thiếp khi đắng nước nghẹn cơm.
- Gíó sao gió mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này.
- Người dưng có ngãi thì đãi người dưng
Anh em không ngãi thì đừng anh em.
Đấng cao xanh sao chẳng thương giùm những mái đầu xanh hy vọng, lại còn
dùi dập họ trong bể tình ái bao la. Đã biết yêu nhau là khổ nhưng trai gái trong làng
vẫn tìm cách gặp gở nhau rồi yêu nhau, họ tự an ủi đời sống mà thiếu men vị tình
yêu cũng như ban ngày thiếu ánh mặt trời, ban đêm thiếu ánh trăng, vì thế mối
tương tư cứ kéo dài, kéo dài mãi :
- Đêm hôm tưởng dảy ngân hà
Chuôi sao tinh đẩu đã ba năm tròn
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào khê nước chảy hãy còn trơ trơ.
209
4.- HOA NGUYỆT.
Là những mối tình thơ dại của trai gái mới lớn. Tình yêu trai gái nhà quê
khác xa với tình yêu trai gái thị thành, ở thị thành có đèn xanh đèn đỏ, con người ở
thị thánh khác chi những con đom đóm thiêu thân, vung tiền mua vui không tiếc,
còn con người ở nhà quê vẫn giữ nếp sống chân đất thật thà, mối tình cảm trung
hậu hiền hòa. Hai cảnh sống là hai đối tượng :
- Dưới thôn quê
Người ta không có sắn mà ăn
Không có khoai mà nướng
Ở chốn thị thành
Người ta sướng như tiên
Ngày đêm hát xướng liên miên
Không nghe một tiếng than phiền nước non.
Càng vui với anh đèn xanh đèn đỏ, con người thị thành càng nhiều dục vọng
- Chơi hoa cho biết mùi hoa
Khi tươi thì hái khi già thì quăng.
Hoặc là :
- Ra đường thấy cánh hoa rơi
Hai chân đạp nát chẳng chơi hoa thừa.
Hoặc là :
- Trách người quân tử bạc tình
Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao.
Đàn bà chẳng kém chi ai :
- Ăn sung nằm gốc cây sung
Lấy anh thì lấy nằm chung không nằm.
- Áo người mặc đoạn, cởi ra
Chồng người ta mượn canh ba lại hoàn.
Sự giao thiệp rộng rải của người đàn bà luôn luôn để lại cho họ một sự đau
khổ ê chề :
- Không chồng mà chữa mới ngoan
Có chồng mà chữa thế gian sự thường.
210
Nếp sống thành thị hổn tạp, người đàn bà đua đòi vật chất nhiều, thích bình
đẳng ngang hàng với đàn ông, người ta thấy đàn bà hút thuốc uống rượu như cánh
đàn ông, đàn ông điếm đàng, đàn bà cũng trăng hoa, đàn ông cưới vợ ba đàn bà
cũng muốn có ba chồng, vì vậy mới có câu hát :
- Chồng đánh bạc, vợ đánh bài
Chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng.
Với sự khôn khéo của người con trai, người con gái vì mềm lòng yếu dạ, cho
nên chỉ trong một giây phút lá gió cành chim nàng đã để cho cuộc đời tốt đẹp rơi
ầm xuống hố sâu tội lỗi, đến khi chợt giấc đam mê thì ô hô gã sở khanh đã ruổi
dong biền biệt :
- Đàn ông rào trước đón sau
Gái non yếu dạ biết đâu mà ngờ.
Không một ai phủ nhận các sự kiện xảy ra ấy, nó là một bắng chứng cụ thể
được thấy nhản tiền qua mọi sinh hoạt hằng ngày. Những tác phẩm văn chương
thời bấy giờ nếu không nêu điển hình một vài nhân vật quyền uy hà hiếp các góa
phụ thì cũng nhắc nhở khéo léo một sự mua bán những cô gái đào tơ mơn mởn
giữa chợ đời.
Tình dục là một phần trong đời sống, nó cũng đòi hỏi cấp thiết như ăn uống,
do vậy người ta không thể nào chịu đựng một cách ôn hòa trước sự khiêu khích có
chủ ý, họ thản nhiên để cho bản năng tự do cho hoàn cảnh lôi cuốn :
- Em là con gái đồng trinh
Em đi bán rượu qua dinh ông nghè
Ông nghè sai lính ra đe
Trăm lạy ông nghè em đã có con
Có con thì mặc có con
Thắt lưng cho tròn mà lấy chồng quan.
Những lời lẽ trên đây đã phản lại nền luân lý cổ truyền. Bởi không kèm hảm
trước sự cợt đùa của ái tình, nên gái cũng như trai đều buông lỏng cương mả mặc
cho nó trôi theo cái tính dục vọng :
- Ngày nào em nói em thương
Như trầm mà để trong rương chắc rồi
211
Bây giờ khóa rớt, chìa rơi
Rương long, nắp lỏng bay hơi mùi trầm.
Tàng tích của thời vua chúa phong kiến lạc loài trong cái xã hội Việt Nam
dưới thời Pháp thuộc, những hôn quân vô đạo, những quan lại dã man gây ra
phong trào khởi động bản năng, nó làm đảo ngược cán cân công lý, từ những lão
quan thầy có máu mặt, đến hạng làm bếp, làm bồi, quét đường đều có thái độ
suồng sả đối với đàn bà con gái :
- Cậu cai buông áo em ra
Để em đi bán kẻo mà chợ trưa
Chợ trưa nó héo rau đi
Lấy gì nuôi mẹ lấy gì nuôi con.
- Khoan khoan buông áo em ra
Để em đi bán kẻo hoa em tàn.
Tiếng than van của người con gái lúc bấy giờ chỉ là tiếng kêu cứu thất vọng,
trong một trăm người chưa chắc gì còn đủ nguyên vẹn trước lũ sói đang giăng bẩy
rào hoa đón liễu :
- Trời ơi có thấu tình chăng
Có người nhân ngải phú la căng mất rồi.
Những người ngoài cuộc chỉ còn biết đứng nhìn và than trời trách đất :
- Văn minh gặp buổi lang sa
Tri âm thì ít trăng hoa thì nhiều.
Hoàn cảnh của chế độ phong kiến đã tạo cho người đàn bà thì trắc nết, đàn
ông thì hoa nguyệt. Vì thế trong dân gian mới có phong trào thức tỉnh quần chúng
bằng những bài ca truyền khẩu mĩa mai hạng người chạy theo nhục dục để trở lại
bản tính thiện sẳn có của con người :
- Cô kia đội nón chờ ai
Chớ lấy chú chệt mà hoài nhơ thân.
Thật thà chỉ bảo :
212
- Đèn nhà lầu hết dầu đèn tắt
Lúa nhà máy hết chạy thành than
Em hai ơi,
Lấy chồng lựa chỗ cho sang
Lấy chi thằng điếm dọn bàn tây ăn.
Lời ngọt mà mĩa mai :
- Gió đưa bông lách bông lau
Gió đưa em bậu xuống tàu ăng lê.
Lời hay mà xỉa sói tâm cang :
- Ong vua bên tàu sắm tô sắm tộ
Ong quan bên tây sắm đường lục lộ
Thợ mộc sắm bộ kỷ trà
Anh đứng làm trai nam nhi chi chí
Em đứng làm gái em chẳng biết suy
Lấy tây lấy chệt làm gì
So bề nhân ngải sao bì an nam.
Quả là một trái bom tinh thần bùng nổ, vậy những lời nói ấy có kết quả gì
không ?
- Chị Hạnh nguyên thủ tiết
Ai có biết chăng là
Sống nhơ đâu muốn chẳng thà thác thơm.
Những câu chửi bóng gió trên có thể làm cho họ dần dần tỉnh ngộ để thoát ra
cảnh sống gởi ăn nhờ, người con gái lành nết cũng chưa hẳn lành tánh, người con
trai giỏi chữ nghĩa cũng chưa hẳng lành lương tri, mà nếu tánh nết dù có tốt cả hai,
chữ nghĩa lương tri dù có tròn đầy đặn, họ cũng không chắc chắn người mà họ sắp
gởi thân có tánh tình tốt như họ :
- Thân em như miếng cau khô
Kẻ thanh tham mỏng kẻ thô tham dầy.
- Thân em như giếng giữa đàng
Người tiên rửa mặt người phàm rửa chưn.
213
- Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ trước gió biết vào tay ai.
Ngồi cành trúc, tựa cành mai
Đông đào tây liễu biết ai bạn cùng.
- Thân em như đóa hoa rơi
Phải chăng chàng thật là người yêu hoa ?
Những người như thế rất hiếm trong cái xã hội thời bấy giờ. Còn đây là gái
lẳng lơ :
- Muốn cho sông cạn đất liền
Kẻo anh qua lại tốn tiền đò ngang.
- Bắc cầu cho kiến leo qua
Cho con chú xã qua nhà tôi chơi.
Táo bạo từ ở hành vi cũng như trong ngôn ngữ, nhưng họ không biết làm sao
tự kiềm hảm khi mà dục vọng như chiếc xe không thắng đang đổ dốc :
- Trời nắng thì trời lại mưa
Tính tôi hoa nguyệt chẳng chừa được đâu.
Lệ làng làng bắt mấy trâu
Tính tôi hoa nguyệt chừa đâu mà chừa.
Phong tục xưa nếu con gái không chồng mà chửa hoang đã bị đóng bè thả
trôi sông hoặc đem ra trước nhà làng tra khảo. Nhưng ở đây, người đàn bà hoa
nguyệt họ đã xem thường cái phong tục đó :
- Anh đánh thì em chịu đòn
Tính em hoa nguyệt chin mười con em cũng đành.
- Phận em là gái năm con
Chồng em rộng lượng em còn chơi xuân.
- Cau già khéo bổ thì ngon
Nạ dòng trang điểm lại giòn hơn xưa.
- Mình nói dối ta mình hãy còn son,
Ta đi qua ngõ, thấy con mình bò.
214
Con mình những trấu cùng tro,
Ta đi xách nước rửa cho con mình.
Người đàn bà hoa nguyệt thường bị xã hội khinh chê, họ chẳng cần :
- Má ơi con muốn lấy chồng
Con ơi má cũng một lòng như con.
Một đứa con không lành nết so sánh với mẹ :
- Xưa kia ai cấm duyên bà
Bây giờ bà già bà cấm duyên tôi.
Bởi thế mới có câu :
- Chỉ đâu mà buộc ngang trời
Thuốc đâu mà chửa những người lẳng lơ.
Cái mà thiên hạ cho rằng không có thuốc chửa ấy chỉ là một nhu cầu sinh lý
rất tầm thường của con người :
- Của chua ai thấy cũng thèm
Em cho chị mượn chồng em vài ngày
Chồng em nào phải trâu cày
Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm.
- Ai ơi chớ lấy chồng chung
Chồng chung hai vợ một mùng
Day qua con vợ nọ chồng khùng con vợ kia.
Vì nhu cầu tình dục khiến người đàn bà hoa nguyệt đi xem bói :
- Sáng ngày đi chợ cầu đông
Xem một quẻ bói lộn chồng được chăng
Thầy bói gieo quẻ nói rằng
Lộn thì có lộn nhưng năng phải đòn
Mồ cha đứa có sợ đòn
Miễn rằng lấy được chồng tròn thì thôi.
215
Rồi đến một người đàn bà bị cảnh chồng chung than thở :
- Đêm qua anh ngủ nhà ngoài
Để em thở vắn than dài nhà trong
Ước gì anh được vô phòng
Loan ôm lấy phượng, phượng bồng lấy loan.
Và nỗi bực dọc của một cô gái lở thì :
- Đêm đêm tôi nằm tôi vuốt bụng tôi gọi trời
Gào rằng đất hởi trời ơi
Xin ông thí bỏ cho tôi chút chồng
Tôi về làm lễ tế ông
Một con bò béo, ông cho tôi một tấm chồng thật to
Bỏ công tôi mượn chú lái đi mổ bò.
Nó đã sai khiến cô gái muộn màng có hành vi liều lỉnh :
- Bắc thang lên đến tận trời
Bắc ông nguyệt lão đánh mười cẳng tay
Đánh thôi lại trói vào cây
Hỏi ông nguyệt lão đâu dây tơ hồng.
- Sông mơ sông mận sông đào
Ba ngọn sông ấy chảy vào tuần ty
Tôi trót yêu anh bụng đã phát phì
Thuốc thang đâu chửa anh thì bảo tôi
Trót yêu anh dễ đứng khó ngồi.
Trót yêu anh vì anh ăn nói có duyên:
- Anh đà có vợ hay chưa
Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào
Mẹ già anh ở nơi nao
Để em tìm vào hầu hạ thay anh.
Nếu không bị gia đình rầy la quở mắng, cũng chẳng tránh được tiếng thị phi
của lối xóm bạn bè, nghĩ phận mình đã lở một lần hoa nguyệt, người con gái chỉ
còn biết bỏ nhà trốn đi để khỏi bị mang tiếng dèm pha :
216
- Phềnh phềnh lớn giữa lớn ra
Mẹ ơi con chẳng ở nhà được đâu
Ở nhà làng bắt mất trâu
Cho nên con phải cấm đầu ra đi.
Phần nhiều những câu ca dao như thế ngụ ý bài xích, chống bang kẻ tham
dục vọng quên hết cả lễ nghĩa thánh hiền. Vì thế khi nói đến nhục thể , nhà nho cho
ngôn từ đó là tục, nếu không họ cũng biểu môi mà thốt ra câu khinh miệt “bẩn
thĩu”, họ sợ cả những danh từ nói về việc ấy. Thế mà trong số đó cũng có người
không tránh khỏi cái luật lệ sinh tồn của tạo hóa :
- Văn chương chữ nghĩa bề bề
Thần l…ám ảnh cũng mê mẩn người.
Không ai thù ghét nhục dục cho bằng nhà tu hành, ấy thế mà vẫn có :
- Sư đang tụng niệm nam mô
Thấy cô xách giỏ mò cua bên chùa
Lòng sư luống những ngẩn ngơ
Bỏ kinh bỏ kệ tìm cô hỏi chào
Ai ngờ cô đi đàng nào
Tay cầm tràng hạt ra vào băn khoăn.
Mỉa mai hơn :
- Vợ sư sắm sửa cho sư
Áo đen tràng hạt mũ lư tầy rành.
Bởi có những nhà tu hành không chính chắn nên mới có nhiều lời bêu rêu
ngỏ chợ đầu làng :
- Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư về sư ốm tương tư
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu
Ai làm cho dạ sư sầu
Ruột gan sư héo như bầu đứt dây.
Hoặc là :
217
- Con chim ăn quả bồ nu
Ai làm nên nỗi thầy tu đeo xiềng
- Thầy tu ăn nói cà riềng
Em thưa quan cả đóng xiềng thầy tu.
Hoặc là :
- Hởi ơi chú tiểu trên chùa
Chú tu sao chú bỏ bùa cho tôi
Sư tôi đây là sư mô
Tuy miệng niệm Phật mà bụng chứa một bồ dao găm.
Nhà sư không giữ giới mà còn tham dục thì đâu còn là nhà sư, là con người
không ai tránh khỏi cảnh lục dục thất tình sai khiến, nhưng ở đây sở dĩ đưa hình
ảnh nhà tu hành vào chuyện trêu hoa bởn nguyệt là ngụ ý nói rằng tính dục là căn
bản trong đời sống, nếu theo chiều đạo lý thì tốt, còn nghịch chiều đạo lý là không
tốt. Như vầy là không tốt :
- Bước lên xe kiếng đi viếng mả chồng
Mả chưa cỏ mọc trong lòng đậu thai.
- Bà già đã tám mươi tư
Ngồi trong cửa sổ gởi thư kén chồng.
- Ăn sao cho được mà mời
Thương sao cho được vợ người mà thương.
- Anh đâu phải mê bông quế
Mà bỏ phế cái bông lài
Quế thơm ban ngày, lài ngát ban đêm.
- Bươm bướm mà đậu cành bông
Đã dê con chị lại bồng con em.
- Đêm khuya gà gáy o o
Kiếm mùng em vợ lén bò chun vô.
- Đàn ông năm bảy lá gan
Lá ở cùng vợ lá toan cùng người.
218
Người ta bảo đàn bà là nguồn gốc của tội lỗi, cho nên người ta nói hết ra cái
xấu của người đàn bà để làm mẩu mực hầu phòng ngừa những cái xấu khác phát
sinh, người ta gọi nhau :
- Ai ơi chơi lấy kẻo già
Măng mọc có lúc người ta có thì
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già sòng sọc nó thì theo sau.
Rồi có người hốt hoảng kêu đàn con lại căn dặn :
- Hởi thằng cu lớn, hởi thằng cu bé
Cu tí, cu tị, cu tỉ, cu tì ơi
Con dại, con ăn, con ở với bà
Để mẹ đi kiếm một vài con thêm
Bố con mất đi trong bụng mẹ hãy còn thèm
Mẹ xem quẻ bói vẫn còn đàn em trong bụng này
Con ra gọi chú vào đây
Để mẹ giao cả cái cơ nghiệp này mẹ bước đi.
Nấm mộ chồng cỏ chửa ra xanh, vợ xếp khăn tang cất vào ngăn tủ, thêm một
lần nữa cất bước sang ngang :
- Giàu thì thịt cá cơm canh
Khó thì lưng rau dĩa muối cúng anh tôi đi lấy chồng
Hởi anh chồng cũ tôi ơi
Anh có linh thiêng anh trổi dậy ăn xôi nghe kèn
Thôi đã về nghiệp ấy anh đừng ghen
Để cho người khác cầm quyền thê nhi
Miệng em khóc tay em bê cái ông thần vi
Tay gạt nước mắt tay thì thắp nén nhang
Bởi vì đâu mà nên xót nỗi gan vàng.
Người ta phĩ bang, người ta chống đối mãnh liệt nạn nhục thể từ trong gia
đình ra ngoài xã hội, từ quán chè bên đường đồn rùm ben đến kẻ chợ :
- Bên sông có bụi dành dành
Dượng mà lấy cháu sao đành dượng ơi.
219
- Đi lên đi xuống bờ dừa
Lấy ai có chữa đổ thừa cho tôi.
- Thôi thôi cuốn sách ra về
Học làm chi nữa chúng chê bạn cười
Bạn cười thì mặc bạn cười
Tháng năm đi cưới tháng mười có con.
- Hởi cô mặc yếm hoa tằm
Chồng cô đi lính cô nằm với ai
Cô đẻ thằng bé con trai
Chồng về chồng hỏi con ai thế này ?
Con tôi đi kiếm về đây
Có cho nó gọi bằng thầy thì cho.
Cái nhục dục bị khinh bỉ, bị chê bai, bị sua đuổi, đó là tàng tích của một xã
hội phong kiến, thực dân thời bấy giờ làm cho lớp tuổi trẻ bị băng hoại tinh thần,
để có cớ mà nô lệ người dân thuộc địa. Quan thầy cai trị thì bày ra đủ thứ trò chơi
lôi cuốn thanh niên thiếu nữ vào đường ăn chơi xả láng, đề cao nhục dục, triệt tiêu
tinh thần tranh đấu dành lại quê hương tự do cho dân tộc. Kẻ cầm quyền chủ
trương làm đảo lộn xã hội, khuyến khích các hành vi tồi tệ, như là :
- Con đĩ lại hóa ra bà
Trẻ con đắc thế bà già sợ kinh.
Bao nhiêu bằng chứng hiếu dâm đó, bởi trai như gái, họ đều muốn vượt ra
ngoài vòng lễ giáo, sống thực theo bản năng, lại không đúng theo phong tục tập
quán của người Việt Nam.
Theo lý thuyết của nhà bác học Freud thì cho rằng tính hiếu dâm là tâm lý
của con người, nếu phát triễn nó thì con người được sung sướng, yên ổn, bằng đè
ép thì nó sẽ gây nên những chứng bệnh thần kinh hãi hùng, những mộng mị quái
đản, rốt cuộc sẽ đưa con người vào cõi sống vô ý thức, không trật tự, có thể làm
cho con người trở thành hung hăng như con vật là khác.
Trong khi đạo lý của dân tộc Việt Nam hấp thụ cùng một lúc ba dòng tư
tưởng Thích, Lão, Khổng. Nếu có một số người xu hướng theo lý thuyết của Freud
thì lỗi do ở hoàn cảnh tác tạo thành, quyến rũ họ chạy theo thú vui nhục thể, chừng
đó, như một chiếc xe chở nặng đổ dốc, những người cố níu chiếc xe cũng bị lôi
cuốn theo.
220
Người Việt Nam từ ngàn xưa, vẫn luôn luôn đứng đầu là một dân tộc nhiệt
thành tín ngưỡng tôn giáo, lấy luân lý làm gốc tu thân và cũng để răn đời, để bảo
vệ một nếp sống lành mạnh thuần túy đông phương. Nếu luân lý bị cưỡng bách
đem ra áp dụng thì họ có luật pháp trừng trị thẳng tay. Những kẻ chủ trương tính
hiếu dâm. Điển hình trong các tác phẩm văn chương, hoặc trong muôn ngàn câu
hát truyền khẩu của dân gian cũng có thể vì họ thiếu nền giáo dục đạo đức. Hơn
nữa hoàn cảnh đất nước ta thời bấy giờ bị ngoại bang cai trị, kẻ cầm quyền luôn
luôn có một chính sách ngu dân, họ muốn biến dân tộc ta phải làm nô lệ suốt đời
cho họ, cho nên họ phải tạo một cuộc sống cuồng loạn, mê hoặc tinh thần, bày các
cuộc vui chơi để thu hút thanh thiếu niên, biến lớp tuổi trẻ này thành những con
bông vụ quay tít để dễ bề sai khiến, lâu dần quên hết tinh thần tranh đấu đòi quyền
tự do, đòi độc lập dân tộc.
6.- Khiêu khích.
- Sống bên doi bỏ vòi bên vịnh
Hai đưa mình trời định đã lâu.
Người ở bên xóm này thương nhớ người ở bên xóm kia, trao đổi qua những
câu hát hò tình tứ, ngân nga mãi không bao giờ dứt.
Niềm vui lúc nào cũng lâng lâng, lúc nào cũng rạo rực trong lòng các chàng
thanh niên, các cô gái làng như những con chim chiều nhẹ cánh trên nền trời biên
biếc. Đó là những đường tơ gợi màu lưu luyến và cũng là mạch sống rạt rào đang
tràn ngập dãy đồng xanh, có dịp may trao đổi tâm tình, cho nên người ta rất lấy
làm thích thú mà chọn sự khiêu khích qua lời ca tiếng hát.
- Rượu ngon bất luận be sành
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may.
- Đôi ta cùng bạn chăn trâu
Cùng mặc áo vá nhuộm nâu một hàng
Bao giờ cho gạo bén sàng
Cho trăng bén gió cho nàng bén anh.
Ở đây không phải là “thanh nghiêm kín cổng cao tường”, mà ở đây là đồng
ruộng, là ao chuôm, là ruộng lúa, là mặt đê, là đêm trăng, là mạch nước, nói tóm lại
là những gì thiên nhiên đã ban cho. Ở đây sự làm việc đã tạo cơ hội cho trai gái
221
gặp nhau và trò chuyện với nhau, tâm tình với nhau, câu hò tiếng hát là phương
tiện duy nhứt không làm cho hai đàng bở ngở mỗi khi đụng mặt nhau :
- Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen
Em được cho chúng anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà
Áo anh sức chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Áo anh sức chỉ đã lâu
Ước gì cô ấy lại khâu cho cùng
Khâu rồi anh sẽ trả công
Ít nữa có chồng anh sẽ giúp cho
Giúp cho một thúng xôi vò
Một con lợn béo một vò rượu tăm
Giúp cho đôi chiếu em nằm
Đôi chăn em đắp đôi trằm em đeo
Giúp cho quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.
Cái vô tình mà người con gái ngở chàng trai quên áo thật ra đây là sự cố ý và
khéo léo sắp đặt những tặng vật để hỏi cưới cô nàng. Tuyệt hay là ở chỗ sự giúp đở
của chàng trai rất trực ngôn mà không có tình ý suồng sả, vừa thanh lại vừa đẹp :
- Đôi ta là nợ là tình
Là duyên là kiếp đôi mình kết giao
Em như hoa mận hoa đào
Cái gì là ngải tương giao hởi chàng.
Bướm chẳng hiểu tình hoa mà đòi nay cận mai kề :
- Cô kia mà lấy anh này
Thì không đi cấy đi cày nữa đâu
Ngồi trong cửa sổ têm trầu
Có hai thằng nhỏ đứng hầu hai bên.
Có những câu hát thế này lúc nào cũng theo trói buộc tình hoa bướm, hỏi sao
lòng không sôi nổi, dạ chẳng nhớ nhung :
222
- Ai về ai ở mặc ai
Thiếp như sầu đượm thắp hoài năm canh.
Lời trần tình mộc mạc tưởng không còn gì bằng nỗi sầu đượm năm canh, nó
tha thiết và ý nhị vô cùng :
- Anh về để áo lại đây
Để khuya em đắp gió tây lạnh lùng.
- Hởi anh đi đường cái quan
Dừng chân đứng lại em than vài lời.
Nàng biết rằng mình đã quyến luyến một chuyện tơ tình mà chàng trai làng
đã khéo gieo vào tâm hồn tuổi mới lớn của ngươi trinh nữ, nàng như con thuyền
lênh đênh trên sóng nước gặp phải tay sành điệu bẻ lái vào bờ :
- Cô kia mặc áo cổ xây
Lại đây tôi hỏi cô hay một lời
Người ta sống ở trên đời
Không chồng có biết đứng ngồi với ai.
Cô nàng đỏng đảnh trả lời :
- Gái có chồng như gông đeo cổ
- Trai có vợ như nhợ buộc chân.
Những lời dịu ngọt ấy, êm như tiếng đàn, lảnh lót như tiếng sáo cứ vang dội
vào lòng cô gái mãi, làm sao mà cô có thể chờ đợi xa xôi chi nữa, rồi anh chàng
tiếp tục tấn công bằng cách khen nàng đẹp :
- Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em liếc như là dao câu
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.
Không còn gì khéo léo bằng và tuyệt tác bằng cách so sánh cổ tay trắng như
ngà, mắt liếc như dao câu, miệng cười như hoa ngâu, khăn đội đầu như hoa sen.
Chữ “như là” hay “như thế” để so sánh cái này với cái kia, người con trai có ý
muốn nói cái vẻ đẹp hiền hậu vừa mỹ miều của cô gái thích hợp với tất cả mọi
hoàn cảnh:
223
- Trúc xinh trúc mọc bờ ao
Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh
Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.
Đem trúc ra mà so sánh nét đẹp của người con gái thì cái đẹp ấy thanh tú
thật, cái đẹp được hòa hợp với thiên nhiên. Trúc xinh lắm, lòng trúc cũng không
rổng, ý nói rằng cô gái làng có hương sắc lộng lẩy kia quyến rũ đối tính bằng một
nét đẹp dịu dàng, không má phấn, chẳng môi son. Trúc ví như người anh hùng,
tượng trưng sự ngay thẳng, quyết đoán, can đảm, một bực trượng phu quân tử, còn
đối với hạng nữ lưu so sánh nét đẹp ví như trúc để biểu lộ sự thanh cao, tiết sạch.
- Cô kia bới tóc đuôi gà
Nắm đuôi cô lại hỏi nhà cô đâu?
Nhà em ở dưới đám dâu
Ở bên đám dậu đầu cầu ngó qua
Ngó qua dám bắp trổ cờ
Đám dưa trổ nụ đám cà trổ bông.
- Cô kia má phấn môi son
Nắng dầu mưa dãi càng dòn càng ưa.
- Tóc em dài em cài bông hoa lý
Miệng em cười có ý anh thương.
Những câu khen ngợi úp úp mở mở khiến cô gái càng thêm bâng khuâng
trước lời ve vản của chàng trai :
- Cổ tay em trắng lại tròn
Đầu tóc em don don
Môi son má phấn
Cổ tay em hân hấn
Tợ như bông cúc nở xây
Vái trời dứt gió còn mây
Ngởi xây xây lại hội này cho vui.
Đàn ông thì họ rào trước đón sau khác nào như thể bướm ong ngăn hoa chận
liễu, cô gái chưa chồng đang lúc tuổi đời lên hương bao giờ cũng ước mơ một mối
tình đầu trong trắng, thơ ngây và chơn thật. Bất chợt nghe những lời trêu ghẹo của
chàng trai buộc nàng phải cất lên tiếng nói :
224
- Thuyền dời bến, nào bến có dời
Khăn khăn quân tử một lời nhất ngôn.
- Nói lời phải giữ lấy lời
Đừng như con bướm đậu rồi lai bay.
Phân trần sự thật :
- Núi Ngự bình trước tròn sau méo
Sông An cựu nắng đục mưa trong
Em đây vốn thật chưa chồng
Núi cao sông rộng biết gởi lòng cùng ai.
Một đóa hoa đang thời khoe sắc, đàn bướm ong đão lượn hàng ngày, cô gái
phải lo ngại và phân vân khi muốn kén chọn một tấm chồng lành :
- Em như cây quế giữa rừng
Thơm cho ai biết, ngát lừng ai hay.
- Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào vườn cấm hạt ra ngoài đồng.
Hạt vào vườn cấm là có ý nói còn ở trong vòng gia nghiêm của cha mẹ, hạt
ra ngoài đồng là ngầm hiểu sự chọn lựa khách tài duyên nàng cần bình tỉnh lúc
gieo phao cầu. Đôi khi nàng phải lãnh đạm với bốn chữ vàng “đắn đo chọn bạn” :
- Con chim trên cành cắn cây ngậm lá
Con cá dưới biển ẩn sĩ ngậm sao
Gặp nhau không hỏi không chào
Phận em là gái biết hầu mấy nơi.
Nàng muốn nói rằng sự chọn lựa khách tài duyên nàng không chê ai, nàng
chỉ sợ lắm bọn con trai chỉ biết có tài ong bướm hoa nguyệt :
- Đi qua nhà nhỏ
Thấy đôi liển đỏ
Có bốn chữ vàng
Thạnh suy anh chưa biết chớ thấy nàng anh vội thương.
225
Vừa buồn cho riêng mình tuổi càng lúc càng già mà chưa tìm được nơi trao
thân gởi phận, vừa nghĩ thương cho các chàng trai chỉ giỏi tài tán tỉnh mà không
dám cậy mai mối đi thẳng tới song đường :
- Đầu làng có cây chuối
Cuối làng có cây đa
Ngả ba có cây đại hồng
Con gái chưa chồng trong lòng hớn hở
Con trai chưa vợ ruột tợ trái chanh
Ngó lên mây trắng trời xanh
Thương ai cũng vậy thương anh cho rồi.
Khi đã chọn mặt rồi, trong lòng vẫn còn e dè :
- Vóc bồ liễu e dè gió bụi
Đóa anh đào sợ hãi nắng sương
Em biết đâu là khách đài chương
Ngởi nhân giữ được mực thường vậy chăng.
Chàng có hiểu được cái “mực thường” mà nàng mới hỏi đó là gì không?
Hàm ý cô nàng dọ dẫm xem ngởi nhân có chắc giữ bền mãi một lời thủy chung thệ
ước hay không. Hai tiếng mực thường xem ra giản dị lắm, nhưng mà không dễ đâu,
đắn đo suy nghĩ chàng ta vội đáp :
- Đêm khuya trăng tỏ gió thanh
Tứ bề vắng lặng cùng anh dựa kề
Cùng nhau cất một tiếng thề
Sơn cùng thủy tận chớ hề sa tâm
Nguyện cùng nhau hai chữ sắc cầm.
Nàng làm thinh, chàng lấn bước tới :
- Thân anh như con én
Léo lén trên cành
Muốn gần trái hạnh chẳng đành bay xa.
Lời lẽ có vẻ khiêu khích, một cuộc thách đố sắp xảy ra :
- Lại đây tôi biểu
Chút xiểu bớ nàng
226
Tôi biểu điều hơn lẽ thiệt
Chớ tôi không biểu nàng từ biệt ngởi nhân
Ngởi nhân mỏng dánh tợ như cánh con chuồn chuồn
Khi vui nó đậu khi buồn nó bay.
Ngởi nhân là cái gì và tại sao gọi nó lá mỏng dánh, cô gái không biết chàng
trai định nói chi, nhưng nàng chẳng cần tìm hiểu xa xôi, nhanh chóng đáp lời,
giọng chua cay, cố ý cho người khách lạ biết rằng vườn đào đã có chủ giữ canh,
hãy khôn tránh trước thì hơn, đừng có léo hánh bước tới mà hụt chân thêm hỗ thẹn:
- Vườn có chủ giữ gìn cây cỏ chạ
Hoa có rào ngăn đón bướm ong vô
Hởi ai chớ khá ơ hờ
Đừng có quen đường cũ bước trờ gảy chân.
Chàng trai nào kém chi ai bèn khích bác lại :
- Vườn có chủ nhưng vườn hay vắng chủ
Hoa có rào ong bướm muốn vô chơi
Bướm hoa cái kiếp muôn đời
Sợ gì đường cũ mà không dám bước trờ đến giữ ai.
Cô gái hết đường thối thoát, những lời khôn khéo của nàng dù giỏi đến đâu
cũng đều bị bọn con trai áp đảo, thôi thì nàng đành liều một bước chót liền thốt ra
một câu khôi hài :
- Đàn ông năm bảy đàn ông
Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha.
Bọn con trai không bao giờ chấp những lời lẽ bởn cợt có vẻ khiêu khích của
nàng, đó là trò vui thú vị nhứt, bọn chúng bảo cho cô gái biết rằng, một người đàn
ông đã chắc gì đem bỏ được vào lồng mà hòng bắt đến một lúc năm bảy đàn ông :
- Nói chi năm bảy đàn ông
Muốn đem tôi bỏ vào lồng thì đem.
Cô gái thẹn thùa đỏ mặt làm thinh, bọn con trai khi đã chinh phục được tình
cảm rồi, họ còn muốn đem vàng ra thử lửa một lần nữa :
227
- Hột thủy tinh đây nhìn sáng rỏ
Để dành chờ làm nhẫn đeo tay
Dù ai năn nỉ hỏi nài
Anh đợi người biết đạo, của này anh sẽ trao.
Cô gái trả đủa lại :
- Buổi chợ đông, con cá hồng anh chê lạt
Tan chợ rồi, con tép bạc anh khen ngon.
-
Chàng trai chửa thẹn bằng một câu đanh thép :
- Anh quyết lên non tìm con chim lạ
Chớ chốn thị thành chim chạ thiếu chi.
Thấy cô gái phân vân trước câu hát ví của mình, người con trai lấy làm
thương hại, muốn làm cho nàng vui hơn là buồn, vì nếu nàng buồn thì chàng trai
cũng chẳng được vui. Bây giờ họ chuyễn sang giọng điệu nhã nhặn :
- Cây đa cũ, con én rũ, cây đa tàn
Bao nhiêu lá rụng thương nàng bấy nhiêu.
Lời nói lúc thì dịu dàng như đẩy đưa, lúc thì dí dỏm như mời gọi :
- Nghĩ xa rồi lại nghĩ gần
Làm thân con nhện mấy lần vương tơ
Về đâu trong đục mà chờ
Hoa thơm mất tuyết , nương nhờ vào đâu
Số giàu, lấy khó cũng giàu
Số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo
Phải duyên phải kiếp thì theo
Giàu ăn khó chịu, lo gì mà lo.
- Anh đừng ham nơi nhà sàn, ngõ ngói
Trông thì vòi vọi, vỏ có ruột không
Nghèo như em đây biết ơn nghĩa vợ chồng
Đổ mồ hôi em quạt, ngọn gió lồng em che.
Thỉnh thoảng cũng gặp sự đối kháng mãnh liệt, khiêu khích tột cùng :
228
- Anh về xẻ ván cho dầy
Bắc cầu sông cái cho thầy mẹ sang
Thầy mẹ sang em cũng theo sang
Đò dọc quan cấm đò ngang không chèo.
Hoặc chua chát trong lời ướm :
- Bao giờ cho chuối có cành
Cho sung có nụ cho hành có hoa
Bao giờ chạch đẻ ngọn đa
Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình
Bao giờ cây cải làm đình
Gổ lim thái ghém thì mình lấy ta.
Hoặc là :
- Anh về bán đất cây đa
Bán cặp trâu già mới cưới đặng em.
Chàng trai liền đáp :
- Mình rằng mình chỉ lấy ta
Để ta bán cửa bán nhà ta theo
Còn một cái cối đâm bèo
Để ta bán nốt, ta theo mình về.
Nếu cần bán hết mọi thứ trên thế gian này chàng trai cũng bán để vừa lòng
cô gái :
- Một rằng mình quyết lấy ta
Ta về bán cửa bán nhà mà đi
Ta về bán núi Ba Vì
Bán chùa Hương Tích, Phật đi làu làu
Ta về bán hết ngựa trâu
Bán hột thầu dầu, bán trứng gà ung
Bán ba mươi sáu Thổ công
Bán ông Hành Khiển, vợ chồng Táo Quân
Bán từ giờ Ngọ giờ Dần
Giờ Tí giờ Sửu giờ Thân giờ Mùi
Ta về bán cả que cời
229
Bán tro đun bếp bán trăm khêu đèn
Ta về bán trống bán kèn
Có gì bán hết, lấy tiền cưới em.
Im lặng nhẫn nại đợi chờ, chàng trai bổng dưng cụt hứng, nghĩ mình đã bán
đủ mọi thứ trên đời này để được cưới nàng mà sao nàng vẫn làm thinh, nàng chỉ
nhoẻn miệng, lát sau anh chàng cất tiếng, lời nói mát mẻ, chơn thành :
- Một đàn cò trắng bay quanh
Cho loan nhớ phượng, cho mình nhớ ta
Mình nhớ ta như cà nhớ muối
Ta nhớ mình như cuội nhớ trăng
Mình về mình nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.
Hoặc gợi ra cái vẻ đẹp thanh xuân mà cô gái hờ hửng bỏ trôi qua :
- Hởi cô thắt giải lưng xanh
Ngày ngày tháng tháng bên mành trông ai
Trước đường xe ngựa bời bời
Bụi hồng mờ mịt ai người mắt xanh ?
Nếu cô gái không có một cảm nghĩ gì về tình ái, cô gái khẳng định :
- Rừng hoang sóc nhảy tưng bừng
Hoa chưa nở nhụy bướm đừng lao xao.
Trong nếp sống bồng bột và ước mơ của tuổi trẻ, ca dao tình cảm còn nói lên
được rất nhiều cái hay, cái lạ qua những cuộc hẹn hò đối đáp thường xuyên trên
dãy đồng xanh bát ngát. Có như thế mới dẫn chứng cho chúng ta hiểu thêm rằng tư
tưởng của dân gian rất là sắc bén, nhận xét khá sâu xa, từ lời thách đố trên ngôn từ
đến việc làm lúc nào cũng có tiếng kêu hợp quần, khuyến khích, lời lẽ tuy có lố
lăng, nhưng ý tứ không thấy vẩn đục, ví dụ như bài cây quạt này :
- Cây quạt mười tám cái nang
Ở giữa phết giấy hai nang hai đầu
Quạt này anh để che đầu
Đêm đêm đi ngủ chung nhau quạt này
Ước gì chung mẹ chung thầy
Để em giữ cái quạt này làm thân
230
Rồi ta chung gối chung chăn
Chung quần chung áo chung khăn đội đầu
Nằm thời chung cái giường tàu
Dậy thời chung cái hộp trầu ống vôi
Cơm ăn chung cả một nồi
Gội đầu chung cả dầu hồi nước hoa
Chải đầu chung cái lược ngà
Soi gương chung cả bông hoa giắt đầu.
Trong cảnh sống thiên nhiên, những câu nói diễn đạt tình ý bằng những cảnh
vật rất thường thấy, rất thân quen như cành tre, ngọn trúc, con chim, chiếc thuyền,
dòng nước, bờ đê, đám mây, con cò… toàn là những cảnh vật thân yêu chung
quanh đời sống người dân quê. Vì vậy những lời khiêu khích có lời lẽ trữ tình hoàn
toàn không xen lẫn một chút xíu màu sắc ngoại lai nào, khi thì ví đám mây :
- Trên trời có đám mây xanh
Chính giữa mây trắng chung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch bát tràng về xây
Xây dọc anh lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.
Khi thì ví con chim :
- Nhạn về biển bắc nhạn ơi
Bao thuở nhạn hồi kẻo én đợi trông.
Khi thì ví con cò :
- Con cò bay lả bay la
Bay qua ruộng lúa bay về đồng đăng
Đồng đăng có phố kỳ lừa
Có nàng tô thị có chùa tam thanh
Ai lên xứ lạng cùng anh
Bỏ công bác mẹ sinh thành ra em
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mảng vui quên hết lời em dặn dò.
Khi thì ví bông sen :
231
- Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Khi thì ví cành tre, cành bàng, cành hồng, hay nhứt là lối điệp ngữ :
- Gió đánh cành tre, gió đập cành tre
Chiếc thuyền anh vẫn te te đợi nàng
Gió đánh cành bàng, gió đập cành bàng
Dừng chèo anh hát cô nàng hãy nghe
Gió đánh đò đưa, gió đập đò đưa
Sao cô mình lơ lửng mãi chưa lấy chồng
Gió đánh cành hồng, gió đập cành hồng
Hởi cô mình đã muốn lấy chồng hay chưa.
Trong nếp sống thô sơ, mộc mạc, diễn tả lối chọc ghẹo của chàng với nàng
thôn nữ thật là bình dị, dân giả, cũng có lúc phân tách rành rẻ như một nhà tâm lý
học :
- Quế càng già càng tốt
Mía càng đốt càng ngon
Anh thương em mong đặng nghĩa vuông tròn
Mấy sông cũng lội, mấy hòn cũng leo.
Hỏi thăm lão nguyệt :
- Ai về Bà điểm Hốc Môn
Hỏi thăm người ấy có còn hay không
Để tôi kiếm sợi chỉ hồng
Nhờ ông Tơ bà Nguyệt kết vợ chồng đôi ta.
- Thẩn thơ dưới gốc mai già
Hỏi thăm ông nguyệt có nhà hay không.
Hỏi lão nguyệt trước rồi mới dám thề thốt với người thương :
- Bao giờ cạn lạch đồng nai
Nát chùa thiên mụ mới phai lời nguyền.
232
Lời nguyền đây là lời thề chung thủy, để vẹn lời thề chung thủy họ mong
mỏi ông nguyệt xe tơ cho họ kết nghĩa vợ chồng :
- Trời vầng vũ mây giăng tứ phía
Đất biển đông sóng dợn tư mùa
Làm sao cho nên nghĩa phu thê
Đó chồng đây vợ đi về có đôi.
Tình yêu cho cặp trai gái bắt đầu xây mộng :
- Đầu hè gió mát trăng thanh
Em ngồi chẻ lạt cho anh chắp thừng
Lạt chẳng mỏng sao thừng được tốt
Duyên đôi ta đã trót cùng nhau
Trăm năm thề những bạc đầu
Chớ tham phú quí đi cầu trăng hoa.
Đọc hết những câu ca dao trữ tình trên kia, ta có thể hình dung được một lối
sống chất phác bằng tình cảm của họ, một công việc làm mẫn cán và một tình yêu
dịu dàng lúc nào cũng cháy âm ỉ trong lòng họ. Ta phải khen những tác giả vô
danh làm ra những câu hát phú, tỷ, hứng này đều có đủ mặt trong từng lớp quần
chúng dân gian. Vật cảnh và ngởi nhân bên ngoài là trọng tâm kích thích sự sáng
tác bằng ca dao truyền khẩu thông dụng đó, như bài hẹn cưới dưới đây :
- Mình rằng mình quyết lấy ta
Ðể ta hẹn cưới hăm ba tháng này
Hăm ba nay đã đến ngày
Ta hẹn mình rày cho đến tháng giêng
Tháng giêng năm mới chưa nên
Ta hẹn mình liền cho đến tháng hai
Tháng hai có đỗ có khoai
Ta lại vật nài cho đến tháng tư
Tháng tư ngày chẳn tháng dư
Ta lại chần chừ cho đến tháng năm
Tháng năm là tháng trâu đầm
Ta hẹn mình rằng tháng sáu mình lên
Tháng sáu lo chửa kịp tiền
Bước sang tháng bảy lại liền mưa ngâu
Tháng bảy là tháng mưa ngâu
Bước sang tháng tám lại đầu trăng thu
233
Tháng tám là tháng trăng thu
Bước sang tháng chín mù mù mưa rươi
Tháng chín là tháng mưa rươi
Bước sang tháng mười đã đãi mưa đông
Quanh đi quẩn lại em đã có chồng
Như chim trong lồng, như cá cắn câu
Họ không hỗ thẹn với những câu hát mà họ đã đặt ra, họ rất hảnh diện vì
sống giữa thiên nhiên, họ khéo léo sắp đặt từ ngữ cảnh đến vật cảnh trộn hòa vào
màu sắc thiên nhiên, làm giàu cho tư tưởng phóng khoáng, nảy nở ý chí kiêu hảnh
và tự do sinh hoạt như con chim muốn đáp xuống nơi nào cũng được. Nhờ màu sắc
thiên nhiên phong phú đó đã phối hợp vào lòng họ làm tăng trưởng sự phát sinh
những tình ý tận cái bề sâu kín nhứt trong tâm hồn.
7.- Đạo vợ chồng.
Trong đời người sự tạo lập gia đình là điều rất hệ trọng, cha mẹ là người
đứng ra gánh trọn một phần lớn trong việc hôn nhơn của con cái, tổ chức nghi lễ,
mời thân bằng quyến thuộc nội ngoại hai bên, bạn bè hàng xóm đến dự tiệc rượu.
Cha mẹ rất chu đáo việc chọn vợ gả chồng cho con cái. Trước nhứt họ xem
coi có môn đăng hộ đối không. Vậy môn đăng hộ đối là gì ? Là tương xứng về nhà
cửa và tài sản, bên trai nhà ba gian mái ngói đỏ au, bên gái cũng phải nhà ba gian
mái ngói đỏ au, bên này đôi trâu ba ngựa, bên đó cũng phải có ngựa có trâu. Sau đó
là cội rể gốc gác bên đàng gái có tai tiếng xấu gì không, họ nhớ câu
“Mua heo chọn nái, mua gái lựa giòng”. Tục lệ này nó phát xuất từ trong chế độ
phong kiến và có thể còn kéo dài ra cho đến ngày nay.
- Con người có tổ có tông
Như cây có cội như sông có nguồn.
- Lấy vợ chọn tông.
- Lấy chồng chọn giống.
- Mua cá thì phải xem mang
Người khôn xem lấy hai hàng tóc mai.
234
Xét lý lịch xong, cả hai bên đàng trai và đàng gái bằng lòng thuận ưng cho
hai trẻ nên duyên cấm sắt, hai bên tổ chức nghi lễ đàng hoàng, cậy mối mai làm
ông tơ bà nguyệt, bên đàng trai tổ chức buổi lễ coi mắt vợ tương lai cho hai trẻ biết
mặt nhau :
- Có chồng chưa biết mặt chồng
Đêm hôm cứ nghĩ là ông láng giềng.
Nếu hai bên đồng ý sẽ hẹn ngày tổ chức lễ hỏi, đám này bên đàng trai cống
hiến lễ vật ngũ quả và trà rượu kèm theo phong bì có một số tiền :
- Ào ào gió thổ về đông
Có cheo có cưới vợ chồng mới nên.
- Một lời đã hứa với nhau
Anh cậy mai đến nói em nào sai ngôn.
Nếu hai trẻ coi mắt nhau mà thấy không thích hạp nhau thì bà mai phải có
nhiệm vụ cáo lỗi :
- Vợ chồng là đạo tào khang
Trách bà nguyệt lão vấn vương không thành.
Trường hợp này mong sao ít xảy ra, bởi vì :
- Việc lương duyên ngàn vàng khó đổi
Đạo vợ chồng tính vội không nên.
- Ngày nào nên ngải vợ chồng
Đôi ta như cá hóa rồng lên mây.
Sau lễ hỏi là chọn ngày cưới, lúc bấy giờ mới nên đạo vợ chồng, cả hai cùng
có nghĩa vụ tạo lập một gia đình mới. xan xẻ ngọt bùi, ấm lạnh, buồn vui có nhau
và thề nguyền sống đến bách niên giai lão :
- Vợ chồng đồng tịch đồng sàng
Đồng sinh đồng tử cưu mang đồng lần.
- Vợ chồng hàng xáo chúng ta
Bách niên giai lão được và trống canh.
235
- Vợ chồng là nghĩa phu thê
Tay ấp má kề sanh tử có nhau.
- Vợ chồng là nghĩa ở đời
Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn.
- Vợ chồng may rủi hòa duyên
Đẹp đôi hòa thuận là tiên trên đời.
- Vợ chồng nghĩa nặng tình sâu
Thương cho đến thuở bạc đầu vẫn thương.
a.- Lệ mua dâu gởi rể.
Mua dâu là bên đàng trai bỏ tiền ra cưới một nàng dâu lớn tuổi (hàng chục
tuổi) cho cậu ấm nhà mình, lệ này gọi là tảo hôn.
Gởi rể là bên đàng gái giàu có bỏ tiền ra cưới một chàng rể khỏe mạnh về
cho cô công chúa và ở luôn bên nhà vợ, lệ này gọi là ở rể .
Hủ tục tảo hôn của người xưa thì nay không còn. Còn việc chàng rể về sống
hẳn bên nhà vợ thì điều đó lợi cả hai đàng. Người ta đã lợi dụng tình thế này để
bốc lột sức lao động của con người. Mẹ chồng muốn có con dâu đảm đang mọi
công việc bên nhà chồng để quán xuyến từ trong ra ngoài. Mẹ vợ muốn có một
thằng rể khỏe mạnh để chăm lo việc đồng áng.
Lệ gởi rể chỉ có một lễ hỏi đơn sơ để ra mắt bà con quyến thuộc và láng
giềng gần gủi, chàng trai phải qua ở hẳn bên nhà vợ tương lai để làm đủ mọi việc
nặng nhọc.
Gởi rể cũng có nhiều cách :
Hoặc là nghèo, cha mẹ chết hết, chưa có tiền cưới vợ, giỏi giắng, siêng năng,
lễ phép, dáng người chắc nịt dễ coi, được bên vợ chấp nhận là rể tương lai, hiện tại
phải phụng sự bên nhà vợ một thời gian vài ba năm rồi cho cưới. (không được
phép gần gủi người vợ sắp cưới).
Hoặc gia đình nghèo, anh chị em đông, con trai có thương ai thì cho nó về
bên vợ ở rể, đây mới đúng là gởi rể.
236
Hoặc bên gia đình nhà gái giàu có, không có con trai.
Hoặc gia đình nhà gái chỉ có duy nhứt một đứa con gái.
Hoặc hai trẻ đã lở thương nhau :
- Em về hỏi mẹ cùng thầy
Có cho làm rể bên này được không ?
Thời gian ở rể cũng chưa chắc cô gái đó là vợ của mình sau này, có khi bà
mẹ vợ được một chỗ nào đó giới thiệu một chàng trai khác, con nhà giàu học giỏi
dễ thương, thì lúc đó anh chàng ở rể mới sực tỉnh :
- Tiếc công đan giỏ bỏ cà
Giỏ thưa cà lọt công đà uổng công
Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng.
- Phú quý đa nhơn hội,
Bần cùng thân thích ly.
Bởi anh nghèo nên chịu chữ ngu si,
Phải chi anh có của hiếm gì nơi thương.
- Thà rằng chịu đói no rau cháo
Lấy chồng nghèo giã gạo nấu cơm
Chẳng hơn thịt cá đầy mâm
Mà đem thân thế ra thân thế này…
Lúc bấy giờ chàng rể thiếu may mắn có thể được trả cho vài chục giạ lúa, sự
lo ngại ấy qua lời than thở :
- Tay anh đốn ráng thả đìa
Một may con cá cựu biết dìa tay ai !
Trường hợp này chắc có xảy ra thường và biết đâu chừng họ đã từng mắt
thấy tai nghe những mẩu chuyện đổi chác tác tệ đó. Mang thân phận ở rể mà lòng
thì luôn phập phồng lo lắng :
- Bấy lâu lên ngọn sông tàn
Muốn tìm cá nước phải lần trời mưa
Tiếc công anh đấp đập coi bờ
Để ai quẩy đó mang lờ đến nôm.
237
Rồi phân vân tự trách :
- Chẳng dậm thời thuyền chẳng đi
Dậm ra ván nát thuyền thì long đanh
Anh tiếc công anh lên thác xuống gành
Lên thác đã vậy xuống gành làm sao
Anh tiếc công anh đứng mũi chịu sào.
Và không tiếc lời mai mĩa :
- Công anh làm rể có tài
Một mình ăn hết mười hai vại cà
Giếng đâu thì dắt anh ra
Kẻo mà anh chết theo cà nhà em.
- Trời mưa cho ướt lá khoai
Thân anh làm rể đã hai năm ròng
Nhà em lắm ruộng đầy đồng
Bắt anh tát nước cực lòng anh thay
Tháng chín mưa bụi gió mai
Cất lấy gàu nước chân tay rụng rời.
Tủi thân ở rể đâu dám đèo bồng, mỗi ngày nhìn cô vợ tương lai như một bà
chủ của mình, nói chuyện còn không dám nữa là nắm tay, cho nên lời than thở
càng bóng gió, uất ức :
- Đạo cang thường không phải như cá tôm
Đương mua mớ nọ lại chờm mớ kia.
Ý chàng rể muốn trách móc cha mẹ vợ sao coi đạo vợ chồng như hàng cá
tôm ngoài chợ, nghĩ đi nghĩ lại, chàng đã ở rể gần hai năm trời rồi mà cha mẹ vợ
cứ kéo dài thời gian ngăn cách, không chịu tác họp sớm cho hai con nhờ :
- Mưa xuân lác đác vườn đào
Công anh đấp đất ngăn rào vườn hoa
Ai làm gió táp mưa sa
Cho cây anh đổ cho hoa em tàn !
Thói thường bên nhà gái muốn kéo dài thời gian lao động của con rể, thứ
nhứt để thử sức bền của chàng rể trong công việc đồng áng, thứ nhì xem tánh tình
238
có thực sự tốt hay không, thứ ba xem nó có dám trăng hoa hổn với vợ chưa cưới
hay không và còn nhiều lý do khác, họ quên rằng già được hưởng lợi nhỏ mà hai
trẻ lại lao đao :
- Đôi ta làm bạn thong dong
Như đôi đủa ngọc nằm trong mâm vàng
Bởi chưng cha mẹ nói ngang
Để cho đủa ngọc mâm vàng cách xa.
Đó còn là lời than van, đây lại nhiễm thêm mùi đạo lý :
- Công anh đắp đất trồng chanh
Chẳng được ăn quả vịn cành cho cam
Xin đừng ra dạ bắc nam
Nhất nhất bất kiến như tam thu hề
Hương tam thu như bất kiến hề
Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu
Chắc rằng đâu đã hơn đâu
Cầu tre đâu dễ hơn cầu thế gia
Đã yêu nhau, em ơi giá thú bất luận tài.
Lệ gởi rể vô tình làm hạ uy tín và danh dự của người đàn ông, bây giờ nói
đến lệ mua dâu lại càng làm mất phẩm giá của người phụ nữ, hai sự kiện trên đã
làm hoen ố ít nhiều trong cái ý nghĩa cao cả của đạo vợ chồng. hãy nghe lời thách
cưới của gia đình nhà gái :
- Em là con gái nhà giàu
Mẹ cha thách cưới ra màu xinh xao
Cưới em trăm tấm lụa đào
Một trăm hòn ngọc hai mươi tám ông sao trên trời
Tháp tròn dấn đủ trăm đôi
Ống thuốc bằng bạc ống vôi bằng vàng
Sắm xe tư mã đem sang
Để quan viên họ nhà nàng đưa dâu
Ba trăm nón nghệ đội đầu
Mỗi người hai cái quạt tàu thật xinh
Anh về sắm nhiễu nghi đình
May chăn cho rộng ta mình đắp chung
Cưới em chín chỉnh mật ong
Mười cót xôi trắng mười nong xôi vò
239
Cưới em tám vạn trâu bò
Bảy vạn dê lợn chin vò rượu tăm
Lá đa mặt nguyệt hôm rằm
Răng nanh thằng cuội râu cằm thiên lôi
Gan ruồi mở muỗi cho tươi
Xin chàng chin chục con dơi góa chồng
Thách thế mới thỏa trong lòng
Chàng mà theo được thiếp cùng theo chân.
Đàng gái cố ý thách như vậy để chọc quê những chàng trai con nhà bá hộ,
nhưng nếu có ga đình bá hộ muốn cưới người con gái đó về làm dâu, thì sau này cô
dâu ấy cam chịu mọi sự vất vả bên nhà chồng cho xứng đáng với số tiền họ đã bỏ
ra làm đám cưới. Tuy giọng thơ có đượm màu trào phúng, nhưng ngụ ý theo thắt
nhiều đắng cay, mai mĩa, người ta muốn lợi dụng cái tình thế đó để mà phân chia
gia tài bên nhà gái :
- Cầm chài mà vải vô nia
Cưới con bá hộ đặng chia gia tài.
Chia gia tài đâu chưa thấy, chỉ thấy người phụ nữ phải lâm vào cảnh khổ :
- Xưa kia ở cùng mẹ cha
Mẹ cha yêu dấu như hoa trên cành.
Từ ngày tôi về cùng anh
Anh đánh, anh chửi, anh tình phụ tôi...
Đã thách thì phải có sự lợi dụng, đưa đến việc lấy chồng tảo hôn, nhà bá hộ
có con trai mới sáu, bảy tuổi, cưới vợ cho nó lớn hơn chin, mười tuổi để có người
giúp việc trong nhà :
- Mẹ tôi tham thúng xôi dền
Tham con lợn béo tham tiền Cảnh hưng
Mẹ tôi tham thúng bánh chưng
Tham con lợn đẻ em lưng chịu đòn.
Đã bỏ tiền ra mua vợ cho con trai, bà mẹ chồng bắt nàng dâu phải làm việc
cực khổ như một con đầy tớ không khác, đáng thương và tội nghiệp thay !
- Mẹ tôi tham thúng xôi dền
Tham con lợn béo tham tiền Cảnh hưng
240
Tôi đã bảo mẹ rằng đừng
Mẹ hấm, mẹ hứ mẹ bưng ngay vào
Bây giờ chồng thấp vợ cao
Như đôi đủa lệch so sao cho vừa.
- Bí lên ba lá
Trách ba với má
Không ngắt ngọn làm giàu
Để bí bò ngang
Trách hường nhan
Vô duyên bạc phận
Duyên nợ ở gần không đặng xứng đôi.
Bởi có câu “Áo mặc không qua khỏi đầu” thì phận làm con đâu dám cải lời
cha mẹ. Cha mẹ có quyền định đoạt duyên con, nhưng lại không xây dựng được
hạnh phúc cho con, cho nên những lời ta than của người con gái thật là não nuột,
thống thiết, mang tiếng lấy chồng mà thằng chồng chỉ mới năm sáu tuổi thì có làm
nên cơm cháo gì :
- Tham giàu em lấy thằng bé tỉ ti
Làng trên xóm dưới thiếu gì trai tơ
Em đem thân cho thằng bé dày vò
Mùa đông tháng giá nó nằm co trong lòng
Đã mang là gái có chồng
Chín đêm trực tiết nằm không cả mười
Nói ra sợ chị em cười
Má hồng bỏ quá thiệt đời xuân xanh
Em cũng liều mình về thằng bé trẻ ranh
Đêm nằm sờ mó quấn quanh cho đở buồn
Buồn tình lại bế nó lên
Nó còn bé mọn đã nên cơm cháo gì
Nó ngủ nó ngáy tì ti
Một giấc đến sáng còn gì là xuân
Cha mẹ ơi hoa nở mấy lần !
Hãy nhìn vào cảnh vợ chồng tảo hôn đi chơi :
- Bồng bồng cõng chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội em đánh rơi mất chồng.
241
Chị em cho mượn cái gàu sòng
Đi đến chỗ lội múc chồng tôi lên.
- Chồng em thì thấp một gang
Vắt mũi chưa sạch, ra đàng đánh nhau.
Nghĩ mình càng tủi càng đau
Trách cha trách mẹ tham giàu khổ em.
Năm bảy năm sau, người chồng bổng dưng hỏi vợ :
- Tôi đi lên cũng gặp chị
Tôi đi xuống cũng gặp chị
Thiên hạ đồn mộng đồn mị
Rằng tôi với chị là hai vợ chồng
Xưa rày chị bắc tôi đông
Hôm nay gặp chị, hỏi thật lòng chị tính sao?
Vì tham giàu mà cha mẹ phải gả con cho một thằng cu tí chưa biết gì về
quan hệ vợ chồng, cũng có hoàn cảnh người phụ nữ gặp phải ông già sáu bảy mươi
tuổi :
- Có duyên lấy được chồng già
Ăn xôi bỏ cháy, ăn gà bỏ xương.
Vậy mà họ vẫn khen mấy ông già :
- Càng già càng dẻo càng dai
Càng long chân chõng, càng lay chân giường.
Bao nhiêu lời diềm pha, xỉa xối vào cô gái :
- Áo dài chẳng nệ quần thưa
Bảy mươi có của cũng vừa mười lăm.
- Tiếc thay con gái mười ba
Liều thân mà lấy ông già sao đang.
Người đời thấy vậy bèn nhạo báng, cười chê, nào có thấu hiểu được hoàn
cảnh của cô gái :
242
- Lấy chồng từ thuở mười lăm
Chồng chê tôi nhỏ không nằm cùng tôi
Đến năm mười tám đôi mươi
Tôi nằm dưới đất chồng lôi lên giường
Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn chân giường gảy một còn ba
Ai về nhắn với mẹ cha
Chồng tôi nay đã giao hòa cùng tôi.
Không chịu đựng nỗi sự tủi nhục vì đạo vợ chồng quá chênh lệch về tuổi tác,
người con gái ấm ức buông ra những lời biện bạch :
- Vô duyên vô phúc mắc phải anh chồng già
Ra đường người hỏi rằng cha hay chồng
Nói ra đau đớn trong lòng
Ấy cái nợ nần truyền kiếp có phải chồng em đâu.
Cô gái khóc thầm cho cái kiếp sống không may của họ :
- Mưa sa xuống sậy mưa buồn
Đố ai có biết tôi buồn chuyện chi
Tôi buồn nhiều chuyện vân vi
Bạc lộn với chì đôi chẳng xứng đôi.
- Đêm qua chớp bể mưa nguồn
Hỏi người tri kỷ có buồn hay chăng ?
Cá buồn cá lội tung tăng
Em buồn em biết đãi đằng cùng ai ?
Nhưng đa số thì không bao giờ tán thành sự hôn nhơn miễn cưởng đó vì
chênh lệch tuổi tác, chung qui chỉ vì tiền. Cha mẹ cũng muốn cho hai trẻ đồng
trang lứa với nhau để việc xưng hô tiện lợi, không ngượng nghiệu.
Xem đấy, tục mua dâu gởi rể là một hủ tục cần phải loại bỏ, ngay cã những
ông già tiền bạc rủng rỉnh mà lấy người vợ đáng con, đáng cháu của mình thì quả
thật coi thường đạo lý, ví dụ trường hợp này xem có được không :
- Bà già tuổi bảy mươi tư
Ngồi trong cửa sổ viết thư kén chồng.
243
Ngoài việc vợ chồng do cha mẹ quyết định, cũng có thứ gái tham giàu, trai
tham sắc liền bội ước lời thề, bỏ người đã cùng thệ nguyện gắn bó với mình, trong
trường hợp này người con trai bị tình phụ thường lắm lời mai mĩa, hậm hực, thù
ghét kẻ tham giàu quên nghĩa :
- Đồng tiền vạn lịch
Thít bốn chữ vàng
Tiếc công gắn bó với nàng bấy lâu
Bây giờ nàng lấy chồng đâu
Để anh đi phúng trăm cau nghìn vàng
Trăm cau anh để cùng nàng
Nghìn vàng anh đốt giải oan lời thề
Xưa kia nói nói thề thề
Bây giờ mở khóa trao chìa cho ai ?
b.- Chồng một thì lấy.
Đàn ông có một tính xấu không thể tha thứ được mà cũng không thể diệt trừ
cái bịnh ấy được, tật xấu đó là “sang đổi vợ”. Lúc nghèo hai vợ chồng chia nhau
miếng cơm manh áo, lúc giàu thì người chồng kèo nèo muốn cái nọ xọ cái kia. Cái
mà đàn ông cho là món lạ thật thì không lạ chút nào, đó là lấy vợ bé, hể vợ hiền thì
công khai, nếu có vợ dữ thì lén lút, có khi hai bà, có khi ba bà, có ruộng cò bay
thẳng cánh, chó chạy cong đuôi thì năm bảy bà. Các bà vợ biết được tánh xấu của
người chồng, nên quả quyết rằng :
- Sông bao nhiêu nước cho vừa
Trai bao nhiêu vợ cũng chưa hả lòng.
Đàn ông có tiền, có quyền thế thì lắm chuyện, họ lấy vợ bé có nhiều lý do, lý
luận với vợ cả thế nào mà bà ấy không bắt bẻ được, nào là ăn ở với bà hai ba năm
nay mà chưa có con cái, nào là tuổi hai vợ chồng có khắc kỵ nên cần một người
đàn bà xen giữa để hóa giải, nào là việc nhà bề bộn cần có thêm một bà để chia sẻ,
nào là gia đình đã mở một cửa hàng ăn mới, phải cần người quán xuyến v.v… đàn
bà vì yếu dạ đành làm thinh nghe lời phỉnh gạt ấy, thì :
- Người khôn ăn nói nửa chừng
Để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo.
244
- Trời còn khi nắng khi mưa
Ngày còn khi sớm khi trưa nữa người.
Tội một nỗi cô gái đã bước vào ngưỡng cửa chấp nhận làm vợ bé đâu có vui
sướng gì :
- Thân em làm lẽ chẳng hề
Có như chính thức mà lê giữa đường
Tối tối chị giữ mất buồng
Cho em mảnh chiếu nằm suông chuồng bò
Mong chồng chồng chẳng xuống cho
Đến khi chồng xuống gà ó o gáy dồn
Con gà kia sao mầy khéo gáy ồn
Làm tao mất vía kinh hồn về nỗi chồng con.
Cưới vợ bé cũng là một cớ cho người chồng bội ước :
- Canh bầu nấu với cá trê
Anh ăn cho béo bỏ bê vợ nhà
Vợ nhà tuy chẳng phải già
Nhưng có vợ nhỏ việc nhà đở cho em.
- Con cò mà mổ con trai
U ơi u lấy vợ hai cho thầy.
- Nào khi anh bủng anh beo
Tay nhấc chén thuốc tay đèo múi chanh
Bây giờ anh khỏi anh lành
Anh mê nhan sắc anh tình phụ tôi.
- Chàng ơi phụ thiếp làm chi
Thiếp là cơm nguội mỗi khi đói lòng.
Người vợ khéo dùng từ cơm nguội rất tuyệt hay, ý nói rằng khi no không ai
ăn tới cơm nguội, vì cơm nguội để qua đêm sẽ có mùi thiu. Người đàn ông lúc
sang thì đổi vợ, đến lúc hết tiền quay trở về vợ cũ, đó là lúc họ đói, dĩ nhiên lúc đói
mà có cơm nguội để ăn thì còn gì bằng :
- Có trăng tình phụ lồng đèn
Ba mươi mồng một đi tìm lấy trăng.
245
Người vợ lẻ dù có được chung chạ với chồng cũng chỉ hưởng cái phần thừa
thải của bà vợ lớn, nhưng lại gánh nặng nhiều việc trong nhà. Đây là chủ ý của bà
lớn, công việc ngày càng thêm nhiều, quanh đi quẩn lại muốn đứt hơi còn thì giờ
đâu nghĩ đến chuyện quan hệ, cho nên nếu có dịp thì quyết định không bỏ lở :
- Đang khi lửa đỏ cơm sôi
Lợn kêu con khóc lại đòi tòm tem
Bây giờ cơm chín lửa tàn
Lợn no con ngủ tòm tem thì tòm.
Vợ chồng như trường hợp này không khác gì cách đối xử thô bạo của ông
chủ đối với đầy tớ gái, bà vợ lẻ thường xuyên đón nhận những cái nguýt, cái hấy
của bà lớn, những trận chửi mắng thậm tệ của bà lớn toàn là những lời mĩa mai :
- Thiếu chi rau mà ăn rau é
Thiếu chi chồng làm bé chồng tau !
Thật cay đắng đem thân đi làm vợ lẻ còn tệ hơn một người đầy tớ, đứa đầy
tớ có việc thì làm, hết việc còn ngồi hoặc nằm nghĩ, làm lẻ ở chung nhà với bà lớn,
đi ra đi vào chẳng khác nào cái gai nhọn làm xốn con mắt bà chị cả, nếu không
chửi bóng chửi gió họ cũng dạy cho con học hát :
- Con cóc ăn trầu đỏ môi
Ai muốn lấy lẻ bố tôi thì về
Mẹ tôi chẳng đánh chẳng chê
Mài dao cho bén mổ mề xem gan.
Nghe mà kinh hồn ! Đợi đến mổ mề xem gan thì còn chi là con người nữa,
như thế mới thấy cái ghen của người vợ lớn thật là ác hiểm. Phần nhiều phụ nữ
chịu làm vợ lẻ cho người ta cũng vì kinh tế gia đình, cuộc sống thiếu thốn :
- Tối tối chị giữ mất chồng
Chị cho manh chiếu nằm suông nhà ngoài
Sáng sáng chị gọi ớ Hai
Mau mau trở dậy thái khoai đâm bèo
Vì chưng bác mẹ tôi nghèo
Cho nên tôi phải đâm bèo thái khoai.
- Thiếp than cha mẹ thiếp nghèo
Thiếp than phận thiếp như bèo trôi sông.
246
Sự lấy lẻ gián tiếp đã nâng giá trị của người đàn ông lên địa vị cao hơn, vì
nhiều người mà chỉ tranh dành có một người, dĩ nhiên người đàn ông trở nên kiêu
hảnh :
- Đêm năm canh năm vợ ngồi hầu
Vợ cả pha nước têm trầu chàng sơi
Vợ hai trải chiếu chia bài
Vợ ba coi sóc nhà ngoài nhà trong
Vợ tư trải chiếu giăng mùng
Vợ năm thức dậy trong lòng xót xa
Chè thang cháo đậu bưng ra
Chàng sơi một bát kẻo mà thiệt thân.
Như một luật định về cuộc đời của người đàn bà rất rỏ rang, và kết luận “đàn
bà chỉ là vật sở hử của đàn ông”. Nhưng cũng có chuyện khôi hài với anh chàng
bảy vợ :
- Trên trời có vẩy tê tê
Có anh bảy vợ chẳng chê vợ nào
Một vợ tát nước bờ ao
Phải trận mưa rào đứng nấp bụi tre
Một vợ thì đi buôn bè
Cơn gió, cơn song nó đè xuống sông
Một vợ thì đi buôn bông
Chẳng may cơn táp nó going lên trời
Một vợ thì đi buôn vôi
Khi vôi phải nước nó sôi ầm ầm
Một vợ thì đi buôn mâm
Không may mâm thủng lại nằm ăn chơi
Một vợ thì đi buôn nồi
Không may nồi méo một nồi hai vung
Một vợ thì đi buôn hồng
Không may hồng bẹp một đồng ba đôi
Than rằng đất hởi trời ơi
Trời cho bảy vợ như tôi làm gì !
Đàn ông nhiều vợ chỉ là cái nợ tiền kiếp phải trả chứ có sướng vui gì, tiền
bạc đem về bà cả kiểm soát hết, thiếu một đồng là bị sĩa sói nhét túi cho bà nhỏ :
247
- Mồ cha đứa lấy chồng bà
Tới tháng lảnh bạc việc nhà bỏ bê.
Và bà vợ lớn lên lớp dạy chồng :
- Có chuối anh tình phụ tôi
Có cam phụ quit có người phụ ta
Có quán tình phụ cây đa
Ba năm quán đổ cây đa hãy còn
Có mực anh tình phụ son
Có kẻ đẹp tròn anh phụ nhân duyên
Có bạc anh tình phụ tiền
Có nhân nghĩa mới anh quên em rồi.
Chế độ đa thê dung dưỡng tính lười biếng của kẻ tốt phúc làm vợ lớn và trút
vào đầu cô vở bé biết bao nhiêu là nỗi bất công. Lấy lẽ không phải là một cái tội,
gia cảnh thường là nghèo, hoặc quá tuổi mà còn chút nhan sắc, hoặc nghe lời ton
hót dịu dàng của người đàn ông, hoặc tham giàu dù biết người ta đã có vợ :
- Đôi ta là nợ là tình
Là duyên là kiếp đôi mình kết giao
Em như hoa mận hoa đào
Cái gì là nghĩa tương giao hỡi chàng.
- Tham giàu đã thấy giàu chưa
Vừa ăn vừa khóc như mưa tháng mười.
Gặp tay đàn ông lưỡi dài, đón trước rào sau, con mồi khó mong chạy thoát :
- Tiếc thay hoa nở bên rừng
Thơm cây ai biết, ngọt lừng ai hay?
- Chân mày vòng nguyệt có duyên
Tóc mai gợn sóng đẹp duyên tơ hồng.
- Trên đầu em đội khăn vuông
Trông xuống dưới ngực cau buồng còn non
Cổ tay em vừa trắng vừa tròn
Mặt mũi vuông vắn chồng con thế nào ?
248
Lẽ dĩ nhiên không ai tán đồng chế độ đa thê, phần đông phụ nữ đều chống
đối mãnh liệt, trong số đó có nhà nữ thi sĩ Hồ xuân Hương (1772-1822) sống vào
cuối thế kỷ 18, cái thời mà chế độ phụ quyền phát triễn tràn lan cả nước, đã coi
người phụ nữ như một thứ nô lệ tình dục, một cái máy đẻ lắm con càng tốt, cho
nên nhà nữ thi sĩ ấy bắn tiếng bằng một lời chua chát :
Nhắn nhũ ai về thương lấy với
Thịt da đâu cũng thế mà thôi.
Một lời van xin thật não nề, thốt ra tận đáy lòng uất ức, ngậm đắng nuốt cay,
nhắn nhũ với bọn đàn ông rằng hãy thương lấy những vóc thân đào tơ liễu yếu, thịt
da của đàn bà ai cũng như nấy, có gí khác lạ đâu. Thân phận phe phụ nữ mang
tiếng làm vợ bé hãy đọc bài thơ của nữ sĩ Hồ xuân Hương để tỉnh thức :
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm khi mười họa may chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công
Vì biết sự tình ra thế ấy
Thì trước âu đành ở vậy xong !
(Lấy chồng chung)
Kia còn là trào phúng, đây mới là phẩn uất, là nguyền rủa, là đớn đau, là hối
hận. Trong tám câu thơ, nữ sĩ đã phô diễn được hết các nỗi thống khổ bị vợ lớn áp
chế, đến nỗi một tháng hai lần gần gủi chồng mà khi có khi không. Và sau đây, thi
sĩ Trần tế Xương (1870-1907) là cánh đàn ông cũng cám cảnh thân phận làm lẻ :
Cha kiếp sanh ra phận má hồng
Khéo thay một nỗi lấy chồng chung
Mười đêm chị giữ mười đêm cả
Suốt tháng em nằm suốt tháng không
Hầu hạ đã cam phần cát lũy
Nhặt khoan còn nổi tiếng hà đông
Ai về nhắn bảo đàn em nhỏ
Có ế thì tu chớ chớ chung.
(Lấy lẻ)
249
Trên kia người ta quan niệm hôn nhơn là một cuộc mua bán trong xã hội
phong kiến, người ta công khai ra giữa chợ đời để làm vừa lòng cho kẻ quyền thế,
người có nhiều tiền, vô tình quên chữ nhân và chữ nghĩa trong đạo vợ chồng. Từ
địa vị một người hợp tác với chồng, người đàn bà đem thân làm lẻ đã tự hạ mình
làm kẻ ti tiện, một con hầu tranh hơn, tranh kém chút ơn thừa của đàn ông, chịu
biết bao hậu quả đắng cay, vì thế khi một người đã mắc phải lỗi lầm, họ khuyên
bảo những đàn em đi sau họ một lời chơn thật :
- Đói lòng nằm gốc cây sung
Chồng một thì lấy chồng chung thì đừng.
Đạo vợ chồng là nền móng xây dựng hạnh phúc gia đình, gia đình có hạnh
phúc thì xã hội mới phát triễn, quốc gia mới hùng cường. Đạo vợ chồng là đầu bạc
răng long, đông con nhiều cháu, đạo vợ chồng là lưng còng gối mõi, trăm tuổi một
lòng :
- Lấy chồng cho đáng tấm chồng
Bỏ công trang điểm má hồng răng đen.
- Con cá nục gai bằng hai con cá nục vọng
Vợ chồng nghĩa trọng, nhân ngãi tình thâm
Xa nhau muôn dặm cũng tầm
Gặp nhau hớn hở tay cầm lời trao.
Đạo vợ chồng không phải như “Con ong đã tỏ đường đi lối về” :
- Trách ai ăn giấy bỏ bìa
Khi thương thương vội khi lìa lìa xa.
Mà phải luôn luôn gắn bó keo sơn :
- Yêu nhau lên thác xuống ghềnh
Quyết liều sống chết với tình cho cam.
Mãi mãi chung thủy :
- Anh đi em ở lại nhà
Hai vai gánh vác mẹ già con thơ.
- Thương nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.
250
Người chồng tốt đối với vợ :
- Yêu nhau quá đỗi nên mê
Tỉnh ra mới biết kẻ chê người cười
Vợ ta dù có quê mùa
Thì ta vẫn cứ sớm trưa vui cùng.
Người vợ tốt đối với chồng :
- Anh về hái đậu trẩy cà
Để em đi chợ kẻo mà lỡ phiên
Chợ lỡ phiên tốn công thiệt của
Miệng tiếng người cười rỡ sao nên
Lấy chồng phải gánh giang sơn
Chợ phiên còn lỡ, giang sơn còn gì ?
- Chồng giận thì vợ bớt lời
Cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê
Đang khi chồng giận mình đi
Hết khi nóng giận đến khi vui vầy
Ngãi nhơn như bát nước đầy
Bưng đi mà đổ hốt rày đặng đâu.
- Chồng em áo vải em thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người.
- Trăm năm trăm tuổi
May rủi một chồng
Dù ai thêu phụng vẻ rồng mặc ai.
Hiếu và tình, đạo vợ chồng cũng suy nghĩ đắn đo, một bên là cha mẹ, một
bên là chồng (vợ) khó mà giữ cho cán cân thăng bằng, hoặc một bên đầy, hoặc một
bên vơi :
- Tay mang khăn gói sang sông
Mẹ gọi mặc mẹ theo chồng cứ theo
Thuyền bồng trở lái về đông
Con gái theo chồng để mẹ cho ai ?
Mẹ tôi đã có con trai
Tôi là phận gái dám sai chữ tòng.
251
- Chỉ thề nước biếc non xanh
Theo nhau cho trọn tuổi xanh cũng đành
Trời cao bể rộng mông mênh
Ở sao cho trọn tâm tình phu thê
Trót đà ngọc ước vàng thề
Dẫu rằng cách trở sơn khê cũng liều.
- Gái thương chồng đang đông buổi chợ
Trai thương vợ nắng quái chiều hôm.
Mẹ cha bú mớm nâng niu
Tội trời đành chịu không yêu bằng chồng.
Đôi khi người con gái cũng tự trách mình :
- Chim đa đa đậu nhánh đa đa
Chồng gần không lấy đi lấy chồng xa
Một mai cha yếu mẹ gìa
Chén cơm đôi đũa tách trà ai dâng.
- Bông bần rụng trắng ngoài sân
Lấy chồng xa xứ khó mong ngày về
Xa xưa con ở dựa kề
Bên ba, bên má vỗ về ca dao.
Người vợ tảo tần nuôi chồng ăn học :
- Khuyên chàng đọc sách ngâm thơ
Dầu hao thiếp chịu đèn lờ thiếp khiêu.
- Khuyên chàng học lấy chữ nho
Chín trăng em đợi mười thu em chờ.
- Chẳng tham bồ lúa cho đầy
Tham ba hàng chữ cho tầy thế gian.
Sự săn sóc và khuyến khích chồng ăn học, người vợ không phải có ước vọng
cao sang là sau này được hưởng ân lộc của vua, thật ra người vợ chỉ mong mỏi làm
sao chồng mình là người hay chữ trong làng, được mọi người kính trọng, vì đó là
một danh dự cho chồng mà người vợ cũng có một phần nào hảnh diện :
252
- Đôi bên bác mẹ cùng già
Lấy anh hay chữ để mà cậy trông
Mùa hè cho chí mùa đông
Mùa nào thức nấy cho chồng ra thi
Hết gạo thiếp lại gánh đi
Hỏi thăm chàng học ở thì nơi nao
Hỏi thăm đến ngỏ thì vào
Tay đặt gánh xuống miệng chào thưa anh.
Đã thấy hết sự hy sinh của người vợ :
- Canh một dọn cửa dọn nhà
Canh hai dệt cửi canh ba đi nằm
Canh tư bước sang canh năm
Trình anh dậy học chớ nằm làm chi
Một mai chúa mở khoa thi
Bảng vàng chói lọi kìa đề tên anh.
- Xin chàng kinh sử học hành
Để em cày cấy cửi canh kịp người
Một mai chiếm bảng xuân vi
Ấy là để dịp kinh kỳ từ đây
Ai ơi nghe thiếp lời này.
- Em là con gái Phụng thiên
Bán rau bán cãi mua nghiên cho chồng
Nửa mai chàng chiếm bảng rồng
Bỏ công tầm tưới vun trồng cho rau.
- Việc nhà em liệu lo toan
Khuyên chàng học tập cho ngoan kẻo mà.
- Nửa đêm ân ái cùng chồng
Nửa đêm về sáng gánh gồng ra đi.
Tình yêu trong hoàn cảnh cơ hàn mà đạo vợ chồng cố gắng vượt qua được
thì sẽ được vô vàng hạnh phúc :
- Chồng khôn vợ đặng đi giày
Vợ khôn chồng đặng có ngày làm quan.
253
- Vợ chồng là nghĩa tào khang
Chồng hòa vợ thuận nhà thường yên vui.
- Dạo chơi quán cũng như nhà
Lều tranh có nghĩa hơn nhà ngói tô.
- Nước lên ngập bổi nổi rều
Đôi ta nằm trại ngủ lều cũng xong.
- Non non nước nước khơi chừng
Ái ân đôi chữ xin đừng có quên
Tình sâu mong trả nghĩa đền
Đừng vui chốn khác mà quên chốn này
Nước vơi rồi nước lại đầy
Tình kia chưa trả nghĩa này chớ quên.
Vô phước gặp chồng cờ bạc, rượu chè :
- Anh ham xóc đĩa cò quay
Máu mê cờ bạc, lại hay rượu chè.
Eo sèo công nợ tứ bề
Kẻ lôi người kéo, ê chề lắm thay.
Nợ nần em trả, chàng vay
Kiếp em là kiếp kéo cày đứt hơi.
- Trời sinh ra ông tướng tài
Cờ bạc sóc dĩa dong dài cả đêm
Canh trước tướng hãy còn tiền
Canh sau cố áo ngồi bên lọ hồ
Cái ngảnh đi tay thò móc lọ
Cái ngảnh lại phì phò chén say
Còn tiền đánh cái cũng hay
Hết tiền đi ngủ lại hay giật mình
Tưởng sự tình bạc đầy hai xấp
Chẳng ai ngờ nó lại xấp ba
Bây giờ khoa tướng thua ra
Áo quần cố hết trở ra về trần
Về giữa sân vạch quần bắt rận
Vợ ở nhà giận chẳng nấu cơm
Bây giờ tướng chúi ổ rơm
254
Chẳng dám hạch nước, hạch cơm, hạch trầu
Vợ thương chồng ra màu rét mướt
Đem tiền đi chuộc lấy áo về
Từ rày tướng quyết xin thề
Còn đi đánh bạc chẳng về chi đây.
- Bây giờ tiền hết, gạo không
Anh ơi trở lại mà trông lấy hòm.
Bao giờ tiền có, gạo còn
Bấy giờ tôi lại giữ hòm cho anh.
Vô phước gặp vợ hư :
- Anh đánh thì tôi chịu đòn
Tính tôi hoa nguyệt mười con chẳng chừa.
- Chồng đi thì có chồng nhà
Hơi đâu mà đợi chồng xa trở về.
- Trăm năm trăm tuổi trăm chồng
Hể ai có bạc thì bồng lên tay.
- Anh có thương em thì cho em một đồng
Để em mua gan công mật cốc thuốc chồng em theo anh.
Phận làm vợ phải đoan chính, tiết sạch giá trong như vầy :
- Chẳng thà giục mã về không
Không thèm cướp vợ, tranh chồng người ta.
- Thay quần, đổi áo thì xinh
Thay chồng đổi vợ, kẻ khinh người cười.
- Vợ chồng là ruột là rà
Anh em có cửa có nhà anh em
Sao cho trong ấm ngoài êm
Như thuyền có bến như chim có bầy.
Hạnh phúc tràn đầy khi nghĩ tới hai chữ trăm năm :
255
- Đạo cang thường khá dễ đổi thay
Dù nên võng giá hoặc rủi ăn mày cũng theo.
- Đi đâu thiếp cũng theo cùng
Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam.
- Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.
- Con cá làm ra con mắm
Vợ chồng già thương lắm mình ơi.
Vợ chồng già thương như thế này, thỉnh thoảng hai ông bà nhớ lại chuyện
ngày xưa :
- Hôm qua anh đến chơi nhà
Thấy mẹ nằm võng, thấy cha nằm giường
Thấy em nằm đất anh thương
Anh đi mua gỗ đóng giường tám thang
Bốn góc thì anh bịt vàng
Bốn chân bịt bạc, tám thang chạm rồng.
Được dịp cha mẹ em thương, anh cứ tới nhà hoài :
- Tưởng là anh đến anh chơi
Ai dè anh đến kết đôi vợ chồng.
Nhớ lại lúc tiển chồng đi lính :
- Tàu súp lê một còn trông còn đợi
Tàu súp lê hai còn đợi còn chờ
Tàu súp lê ba, tàu ra biển Bắc...
Hai tay tôi vịn song sắt, nước mắt chảy ròng ròng
Miệng kêu bớ chú tài công…^
Khoan khoan, chậm chậm
Vợ chồng tôi thôi đành ngàn dặm cách phân…
Nhớ lại lúc còn nghèo vợ chồng khuyên bảo nhau :
256
- Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây.
- Trăm năm lòng gắn dạ ghi
Dù ai đem bạc đổi chì cũng không
Trăm năm quyết chí một chồng
Dầu ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai
Dầu cho đá nát vàng phai
Trăm năm duyên nợ chẳng phai chút nào.
KẾT LUẬN
Đọc ca dao tục ngữ Việt Nam đối với chúng ta vẫn còn là một nhu cầu cần
thiết và một lạc thú mà không có thứ văn chương ngoại quốc nào cho ta được.
Đã trải qua nhiều thập kỷ, ca dao tục ngữ đã thể hiện được tâm hồn, tư tưởng
của dân tộc Việt, liên quan đến lịch sử và sự phát triễn kinh tế không ngừng đổi
thay, khiến ta suy nghĩ ngàn năm đã có ca dao, đất nước còn thì ca dao còn. Những
hình ảnh trong ca dao lung linh, chuyễn động một cách tài tình trong nếp sinh hoạt
đồng quê, hòa điệu chung nhịp sống giữa thiên nhiên và con người, biểu lộ bóng
dáng đẹp dịu dàng và phẩm chất của người bình dân sao mà trang trọng và kiêu
hùng quá ! Những ý thơ bóng bẩy, những tư tưởng bay bướm. Cứ xem qua mấy lời
đồng dao êm như tiếng hót của chim muông, những bài phong dao trữ tình nghe
thánh thót như hạt mưa rơi trong đêm thu buồn dã dượi.
Chân thành mà nói, chúng ta đã rung động trước sự ngây thơ của một cô gái
bị đón đường chọc ghẹo, trước sự mộc mạc thật thà của người nhà quê khi đứng
hầu chuyện với một kẻ có quyền thế bề trên, trước sự hỏi han bở ngở của hai trẻ
đang tuổi dậy thì trên quảng đường làng thưa khách. Chúng ta thấy rằng tình cảm
của họ tuy phôi thai mà dồi dào kiến thức, trí tuệ chưa khai thông nhưng tâm hồn
đã cởi mở bội phần, thoát được cái nề nếp luân lý nho giáo phức tạp, trọng điểm
đáng nói là nhờ ở các sự kiện này nên văn hóa Hán tộc không thể thôn tính bản sắc
của dân tộc Việt vào khuôn phép của người Tàu.
Ca dao xuất hiện ở giữa lòng đất xám, trong vùng nước lợ, đồng chua, trải
dài suốt sông Hồng và sông Cửu long,, mọc ven bờ đê, nảy nở theo hoa cỏ, ruộng
vườn, làm cho dân gian tin tưởng vào tiếng hát của nó, vào lý tính rạt rào của nó, vì
257
như vậy là chúng ta đã hiểu rỏ ý thức của người bình dân như nhìn vào một cái
gương soi không bám bụi.
Con người nhà nông vui nhờ ở nó, vì ca dao bắt rể trong đời sống hằng ngày
của dân gian.
Xem như thế, chúng ta phải có bổn phận bảo quản nền văn học truyền khẩu
này, một công trình nghệ thuật tuyệt mỹ mà tổ tiên ta đã đi qua hằng ngàn năm mới
sáng tạo được. Nhưng phải bảo quản bằng cách nào ? Theo ý tôi thì phải sưu tầm
Ca dao Tục ngữ Việt Nam suốt ba miền Nam, Trung, Bắc bằng một quyển khảo
cứu duy nhất, như là một cuốn tự điển thơ ca truyền khẩu của dân tộc Việt. Phải
giới thiệu cho người ngoại quốc một khi họ muốn tìm hiểu về đời sống nông
nghiệp của dân tộc ta từ bao thế kỷ trước. Phải coi ca dao như là tiếng mẹ đẻ trung
thành của dân tộc.
Nếu thực hiện được như vậy, tôi nghĩ không một sức mạnh nào có thể phân
chia được non nước quê hương ta.
Ngày nay được dịp để chút lòng hoài cỗ về nếp sinh hoạt cộng đồng của tổ
tiên ta xa xưa, hỏi sao lòng không dao động một ít tình cố tri khi hồi tưởng lại một
làn hương tàn quá khứ.
Thời gian và thời gian ! Biến chuyễn hay không biến chuyễn, ca dao vẫn giữ
một giá trị tuyệt đối, vẫn còn là hương hoa quí báu trong kho tàng văn hóa cận cỗ
chí kim. Ca dao là sinh khí trong hơi thở điều hòa của chúng ta, là trụ cốt tồn duy
của dân tộc.
Viết xong vào đầu xuân Canh Tý 1960.
NGUYỄN NGỌC HỖ.
Bút danh MẶC VY NHÂN.
258
259
Gác chuông có tuổi cũng ngót 600 năm. Chân Gác chuông có lẽ đã nhiều lần tu bổ
những vẫn hiện rõ nét thời gian.