Upload
ga-coi
View
1.991
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 1/66
BẢN QUYỀN
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂNKHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
LỚP TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 45 C
www.TCDN45C.net.tf www.TCDN45C.vze.com
[email protected]@gmail.com
Tài liệu chỉ được sử dụng vì mục đích nghiên cứu khoa học.Nghiêm cấm sử dụng với mục đích thương mại.
Xin liên hệ trực tiếp tác giả để biết thêm chi tiết.
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 2/66
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂNKHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Đề tài : Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM Việt Nam
Giáo viên hướng dẫn : Th.S Trần Thị Thanh TúSinh viên thực hiện : Phạm Quang Hải
Lớp : Tài Chính Doanh Nghiệp 45C
Hà Nội - 2006
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 3/66
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1.................................................................................................................................................. 4CƠ SỞ LÝ LUẬN.....................................................................................................................................4
1. Khái quát chung về nguồn tiền gửi trong NHTM............................................................................ 41.1. Khái niệm và đặc điểm tiền gửi trong các NHTM................................................................... 41.2. Vai trò của tiền gửi trong NHTM.............................................................................................8
2. Phân loại tiền gửi trong các NHTM................................................................................................. 92.1. Tiền gửi không kỳ hạn..............................................................................................................92.2. Tiền gửi có kỳ hạn..................................................................................................................132.3. Tiền gửi tiết kiệm................................................................................................................... 16
3. Chi phí đối với các loại tiền gửi..................................................................................................... 173.1. Chi phí huy động tiền gửi.......................................................................................................173.2. Các phương pháp định giá tiền gửi.........................................................................................18
4. Cơ cấu tiền gửi trong một NHTM..................................................................................................254.1. Các yếu tố quyết định cơ cấu tiền gửi trong một NHTM.......................................................254.2. Cơ cấu tiền gửi trong NHTM................................................................................................. 25
5. Quản lý nguồn tiền gửi...................................................................................................................295.1. Quản lý lãi suất:......................................................................................................................305.2. Quản lý quy mô và cơ cấu......................................................................................................355.3. Quản lý kỳ hạn .......................................................................................................................365.4. Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn.............................................................................40
CHƯƠNG 2................................................................................................................................................ 49LIÊN HỆ THỰC TIỄN........................................................................................................................... 49
1. Tình hình huy động và quản lý tiền gửi tại các NHTM Việt Nam.................................................491.1. Thực trạng huy động tiền gửi tại các NHTM Việt Nam........................................................ 50
1.2. Thực trạng quản lý tiền gửi tại các NHTM Việt Nam............................................................562. Khả năng ứng dụng các mô hình quản lý tiền gửi tại NHTM Việt Nam....................................... 56
2.1. Quản lý lãi suất ......................................................................................................................572.2. Quản lý quy mô và cơ cấu......................................................................................................582.3. Quản lý kỳ hạn .......................................................................................................................602.4. Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn ............................................................................60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................63
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 4/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
LỜI MỞ ĐẦU
Bước sang thế kỷ XXI, nền kinh tế nước ta dần được cải thiện, Luật
Doanh nghiệp đã có hiệu lực, cùng với đó là các chính sách của Nhà nước
về khuyến khích phát triển kinh tế trong nước và không ngừng cải thiện
môi trường đầu tư nên ngày càng nhiều doanh nghiệp được thành lập và
mở rộng kinh doanh, nhu cầu về vốn cho nền kinh tế đã tăng lên. Hiện nay
ở nước ta, thị trường tài chính chưa phải là kênh phân bổ vốn một cách có
hiệu quả, do đó vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh
tế vẫn phải dựa vào nguồn vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng. Với vai
trò là một trung gian tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế, các Ngân
hàng thương mại (NHTM) đã trở thành kênh cung ứng vốn hữu hiệu cho
nền kinh tế. Sự thịnh vượng và phát triển của một NHTM căn cứ vào đâu?
Cũng như để hoàn thành tốt vai trò là cầu nối, là “người” cung cấp vốn cho
các doanh nghiệp, cho nền kinh tế, các NHTM phải dựa trên cơ sở nào.
Câu trả lời đó chính là Tiền gửi. Tiền gửi là cơ sở chính của các khoản cho
vay và do đó, nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của
Ngân hàng (NH).
Xuất phát từ vai trò quan trọng của Tiền gửi đối với mỗi NH nói riêng,
cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung, nên em chọn đề tài “Lý
luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM Việt Nam” để có điều kiện
củng cố lại những kiến thức đã học và tiếp xúc với thực tế để biết thêm về
hoạt động của các NHTM hiện nay.
Trên cơ sở kiến thức đã học ở trường, các tài liệu tham khảo, một số
kiến thức có được từ thực tế và qua sách báo em đã thực hiện đề án này.
Kết cấu của đề án gồm hai phần chính:
SVTH: Phạm Quang Hải 2
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 5/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Chương 1: Cơ sở lý luận về tiên gửi và quản lý nguồn tiền gửi
Chương 2: Liên hệ thực tiễn hoạt động huy động và quản lý tiền gửi tại
các NHTM Việt Nam.
Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ của NH là rất đa dạng và
phong phú. Nhưng vì thời gian và khả năng tiếp cận của bản thân có hạn, vì
thế em chưa thể phân tích một cách sâu sắc các hoạt động của NH, nên
phạm vi đề tài của em chỉ tập trung nghiên cứu quá trình huy động và quản
lý tiền gửi của NH. Và cũng do còn thiếu kinh nghiệm nghiên cứu nên đề
án của em vẫn còn những thiếu sót. Em rất mong sẽ nhận được sự đánh giá,
góp ý và sửa chữa của cô.
Em xin chân thành cảm ơn cô.
SVTH: Phạm Quang Hải 3
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 6/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái quát chung về nguồn tiền gửi trong NHTM.
1.1. Khái niệm và đặc điểm tiền gửi trong các NHTM
1.1.1. Khái niệm
Lịch sử phát triển hoạt động ngân hàng cho thấy rằng, hình thức ban đầu
của nghiệp vụ tiền gửi là việc nhờ bảo quản những đồng tiền vàng. Người
chủ bảo quản phải đảm bảo trả lại chính những đồng tiền mà họ được
chuyển giao để bảo quản. Tất nhiên trong những điều kiện như vậy, người
bảo quản không thể tiến hành các nghiệp vụ cho vay những đồng tiền nhân
bảo quản đó, và không thể thu lợi nhuận để có thể trả lợi tức cho người gửi
tiền. Dần dần xã hội phát triển đã tạo điều kiện mà người gửi tiền không
yêu cầu phải trả lại chính những đồng tiền mà họ gửi, mà chỉ yêu cầu trả lại
tổng số tiền mà họ gửi. Thời hạn bảo quản cũng kéo dài thêm. Chỉ khi đó
mới xuất hiện khả năng sử dụng số tiền vay mượn đó để cấp tín dụng thu
lợi tức và trả lãi cho người gửi tiền. Nếu như trước đó việc cấp tín dụng
dựa vào vốn tự có, thì bây giờ còn có thể sử dụng vốn vay mượn, đồng thời
phải chú ý tới những điều kiện gửi tiền.
Thông thường người ta xem tiền gửi là các số tiền do khách hàng gửi
vào và để lại trong tài khoản của họ tại ngân hàng. Hiểu như thế chưa trọn
nghĩa
+ Đối với người gửi tiền, ý nghĩa của tiền gửi phụ thuộc vào mục đích
sử dụng của người gửi tiền, có thể tập hợp vào hai trường hợp: (1) Khách
SVTH: Phạm Quang Hải 4
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 7/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
hàng gửi tiền xin mở tài khoản để hưởng các lợi ích của các phương tiện
mà ngân hàng cung cấp cho họ. Tiền gửi ở đây là số tiền được gửi vào để
sử dụng cho các nghiệp vụ trong tương lai hoặc do các nghiệp vụ phát sinh
từ trước còn lại. (2) Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để lấy lãi suất như
các số tiền gửi vào sổ tiết kiệm hay các tài khoản định kỳ. Khi đó khách
hàng không còn quyền sử dụng các dịch vụ của ngân hàng như dùng séc để
thanh toán chẳng hạn.
+ Đối với Ngân hàng, các loại tiền gửi tạo thành nguồn vốn cung cấp
cho các nghiệp vụ sinh lợi trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Đối với NHTM, có nhiều loại tiền gửi khác nhau, nhưng nó chú trọng
nhiều hơn đến hai nguồn chủ yếu: Tiền gửi của doanh nhân & Tiền gửi của
dân cư.
Qua những điều trình bày ở trên, người ta nhận thấy có khó khăn trong
việc định nghĩa “tiền gửi”. ở các nước phát triển, người ta định nghĩa “tiền
gửi” trong một bản luật: “Được coi là tiền gửi, tiền mà ngân hàng nhận
được của khách hàng bất luận dưới danh từ nào, dù phải trả lãi hay không
trả lãi, với quyền sử dụng tiền đó cho hoạt động kinh doanh của mình và
với bổn phận làm nghiệp vụ ngân quỹ cho người ký gửi, nhất là phải trả
trong giới hạn số tiền nhận được, tất cả những lệnh phải trả tiền của người
tiền gửi bằng séc, lệnh chuyển khoản, thư tín dụng… hay bất cứ bằng cách
nào khác; cũng thâu nhập vào khoản tiền tiền gửi mọi số tiền mà ngân hàng
thu hộ cho người gửi”.
“Tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình
thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các
hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không hưởng lãi và phải
được hoàn trả cho người gửi tiền”1. Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài
nguyên quan trọng nhất của NHTM, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn
tiền của NH.
1 Luật các TCTD 1997: điều 20, khoản 9.SVTH: Phạm Quang Hải 5
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 8/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Như vậy, về phương diện pháp lý, người gửi tiền có quyền lựa chọn các
loại tiền gửi theo yêu cầu và được hưởng các dịch vụ ngân quỹ do ngân
hàng cung ứng hoặc được hưởng lãi suất, đồng thời có nghĩa vụ để ngân
hàng tuỳ nghi sử dụng các số tiền gửi cho hoạt động kinh doanh của ngân
hàng với cam kết thực hiện việc hoàn trả vào thời điểm mà người gửi yêu
cầu (đối với loại tiền gửi không kỳ hạn) hoặc vào ngày đáo hạn đối với loại
tiền gửi có kỳ hạn. Các khái niệm về tiền gửi theo quy định pháp lý nêu
trên có mối liên quan mật thiết với tài khoản của khách hàng tại ngân hàng.
Ngày nay người gửi có nhiều hình thức gửi tiền và có thể làm cho tài sản
bằng tiền sản sinh ra lãi theo các dự đoán của mình.
1.1.2. Đặc điểm
Tiền gửi phải được thanh toán khi có sự yêu cầu của khách hàng, ngay
cả khi đó là tiền gửi có kì hạn chưa đến hạn. Hoạt động nhận tiền gửi được
nhìn nhận như là một nghiệp vụ kinh doanh của NHTM, với nội dung chủ
yếu là nhận tiền gửi của khách hàng thông qua mở cho khách hàng một tài
khoản như tài khoản gửi định kì (tiền gửi có kỳ hạn), tài khoản tiền gửi
hoạt kỳ (tiền gửi không kỳ hạn) và tài khoản tiền gửi tiết kiệm. Giao dịch
nhận tiền gửi của NH được hiểu là cam kết song phương giữa NHTM với
khách hàng gửi tiền, thông qua việc giao kết hợp đồng tài khoản tiền gửi.
Giai đoạn đầu, nó chỉ đơn thuần là một hợp đồng dịch vụ gửi giữ tài sản,
theo đó NH đóng vai trò là bên nhận gửi giữ để được nhận thù lao. Về sau,
do nhu cầu khách quan của hoạt động kinh tế, giữa NH và khách hàng có
thêm thoả thuận NH có thể sử dụng chính số tiền này để đầu tư nhằm mục
đích sinh lợi, với điều kiện là phải hoàn trả cho người sử dụng tòan bộ số
vốn đã sử dụng kèm theo một khoản tiền lãi nhất định tuỳ thuộc vào thời
gian mà NH giữ khoản tiền đó. Giao dÞch nhËn tiÒn göi ®· ®îc nh×n nhËn lµ
hµnh vi vay tiÒn tõ c«ng chóng víi cam kÕt ®¶m b¶o an toµn cho sè tiÒn göi
®ã cïng víi nghÜa vô hoµn tr¶ c¶ gèc lÉn l·i. Việc NH giữ các khoản tiềngửi này cho khách hàng không đơn thuần là một nghiệp vụ giữ hộ tài sảnSVTH: Phạm Quang Hải 6
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 9/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
hay quản lý tài sản cho khách hàng để nhận thù lao (như giai đoạn khởi
thuỷ) mà quan trọng hơn nó là nghiệp vụ huy động vốn - nghiệp vụ đi vay
của NHTM từ nền kinh tế. Do đó khi người gửi tiền yêu cầu thanh toán thì
NH buộc phải thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết trong hợp đồng.
Quy mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường
chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của
ngân hàng. “Tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của
Ngân hàng. Đây là khoản mục duy nhất trên Bảng cân đối kế toán giúp
phân biệt Ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác. Tiền gửi là cơ sở
chính của các khoản cho vay và do đó, nó là nguồn gốc sâu xa của lợi
nhuận và sự phát triển trong ngân hàng”2.
Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc nên chi phí tiền gửi cao hơn
trả lãi cho tiền gửi. Khi huy động tiền gửi, ngân hàng phải duy trì dự trữ
bắt buộc và sau khi trừ đi các khoản dự trữ để đảm bảo khả năng thanh
toán, ngân hàng có thể cho vay phần tiền gửi còn lại. Hiện nay, hầu hết các
nhà quản lý ngân hàng đang phải đối mặt với tình trạng tiến thoái lưỡng
nan trong việc định giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi - nguồn vốn quan
trọng nhất của ngân hàng. Một mặt, ngân hàng phải trả một mức lãi suất đủ
lớn để có thể thu hút và duy trì sự ổn định trong lượng tiền gửi của khách
hàng. Mặt khác, ngân hàng phải cố gắng hạn chế việc trả lãi suất quá cao
bởi vì điều này sẽ làm giảm mức thu nhập tiềm năng của ngân hàng. Hiện
nay, sự cạnh tranh gay gắt trong thị trường cung cấp các dịch vụ tài chính
càng làm cho vấn đề nêu trên trở nên phức tạp hơn bởi vì cạnh tranh có xu
hướng làm tăng chi phí trả lãi tiền gửi trong khi làm giảm thu nhập dự kiến
từ hoạt động đầu tư và cho vay.
ở nhiều nước ngân hàng phải mua bảo hiểm tiền gửi. NH là một tổ chức
có quan hệ mật thiết với các lĩnh vực, ngành kinh tế khác rất chặt chẽ, hơn
nữa các NHTM cũng có mối quan hệ với nhau rất mật thiết. Do đặc tính
2 Peter S.Rore, 2004, Quản trị Ngân hàng thương mại, trang 459, NXB Tài chính.SVTH: Phạm Quang Hải 7
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 10/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
phải thanh toán khi có yêu cầu của khách hàng nên các NHTM luôn luôn
phải đảm bảo khả năng thanh toán của mình. Khi một NHTM có nguy cơ
sụp đổ rất có thể sẽ dẫn đến hiệu ứng Đôminô đối với các NHTM khác. Vì
vậy một số nước yêu cầu NHTM phải mua bảo hiểm tiền gửi, là để tránh
rủi ro cho khách hàng gửi tiền, tạo tâm lý an toàn hơn cho khách hàng. Như
vậy sẽ đảm bảo an toàn cho cả hệ thống NHTM của quốc gia đó.
1.2. Vai trò của tiền gửi trong NHTM
Các khách hàng doanh nhân thông qua việc mở tài khoản để được ngân
hàng cung ứng các dịch vụ về ngân quỹ, thu chi tài vụ một cách nhanh
chóng và an toàn. Những nghiệp vụ này nếu tự khách hàng đứng ra đảm
trách sẽ tốn rất nhiều công sức và thời gian. Về phía ngân hàng, qua nghiệp
vụ này, cũng thu hút được một số lượng tiền gửi của khách hàng trên tài
khoản và một lệ phí nhất định.
Đối với khách hàng thuộc tầng lớp dân cư, việc mở tài khoản và ký gửi
tiền tại ngân hàng, ngoài việc được ngân hàng cung cấp một số séc để
thuận tiện chi trả, còn được ngân hàng cung ứng một loạt dịch vụ đa dạng
về tài chính có sinh lời. Trong nền kinh tế thị trường, một công dân muốn
tích luỹ vốn trước hết có hai khả năng lựa chọn: hoặc giữ đồng tiền tích luỹ
được của mình trong két sắt, hoặc mua cổ phần (của các công ty cổ phần)
hay mua trái phiếu (của nhà nước và của công ty). Cả hai khả năng này đều
có rủi ro hoặc ít khả năng thanh toán. Do đó, họ phải có cách lựa chọn thứ
ba: gửi tiền vào ngân hàng để vừa gữ được vốn tích lũy của mình tương đối
an toàn, vừa thu được một khoản lợi tức nhất định.
Đối với các NHTM, tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát
triển của Ngân hàng, là khoản mục duy nhất trên Bảng cân đối kế toán giúp
phân biệt Ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác. Tiền gửi là cơ sở
chính cho các khoản cho vay của NHTM, là nguồn gốc xâu xa của lợi
nhuận và sự phát triển của Ngân hàng. Khi huy động tiền gửi, ngân hàng
SVTH: Phạm Quang Hải 8
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 11/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
phải duy trì sự trữ bắt buộc và sau khi trừ đi các khoản dự trữ để đảm bảo
khả năng thanh toán, ngân hàng có thể cho vay phần tiền gửi còn lại. Khả
năng huy động tiền gửi với mức lãi suất hợp lý còn là những chỉ số quan
trọng đánh giá tính hiệu quả trong quản lý ngân hàng. Ngoài ra Ngân hàng
còn thu được một khoản lệ phí nhất định.
2. Phân loại tiền gửi trong các NHTM.
2.1. Tiền gửi không kỳ hạn.
Là các loại tiền gửi hoàn toàn theo quy tắc khả dụng, nghĩa là người gửi
có quyền rút tiền vào bất cứ lúc nào họ muốn. Ngân hàng sẽ sắp xếp loại
tiền gửi này vào nhóm tiền gửi không kỳ hạn, nghĩa là các khoản gửi với
thời gian không xác định. Người vừa mới gửi tiền vào sáng nay, nếu cần
anh ta có thể rút ra ngay vào buổi chiều cùng ngày. Nếu không có nhu cầu
sử dụng, anh ta có thể một thời gian sau mới rút ra. Tính bất định về thời
gian gửi, cùng với địa điểm có thể rút ra bất cư lúc nào đã làm cho loại tiền
gửi này có tên gọi theo tiếng Anh là tiền gửi theo yêu cầu.
Tiền gửi không kỳ hạn vào mỗi thời điểm trong các tài khoản không kỳ
hạn của các NHTM tạo khả năng có thể viết séc để chi tiền hoặc chuyển
nhượng khi cần. Vì vậy, tiền gửi không kỳ hạn còn được gọi là tiền trong
tài khoản séc (checking accounts). Khách hàng không có ý định để dành và
cũng không chú trọng đến tiền lãi. Khách hàng chỉ muốn đổi hình thức tiền
tệ này bằng một hình thức tiền tệ khác và thích thanh toán bằng séc hơn là
bằng tiền mặt. Khả năng tiện lợi của tiền gửi không kỳ hạn trong thanh toán
phụ thuộc vào tổ chức và hoạt động của NHTM đã phát hành ra nó. Nếu
gửi tiền vào tài khoản này ở một NHTM có chi nhánh ở khắp nơi trên lãnh
thổ kể cả những vùng xa xôi hẻo lánh nhất, thì séc do chủ tài khoản viết ra
có hiệu lực thanh toán và được chấp nhận nhanh chẳng kém gì tiền mặt. Đó
là lý do để tiền gửi không kỳ hạn được xem là loại hình gần tiền mặt nhấtSVTH: Phạm Quang Hải 9
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 12/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
trong tất cả các loại tiền của NHTM. Khả năng chuyển đổi từ nó sang tiền
mặt là nhanh nhất vào bất cứ lúc nào và vì thế ở các nước phát triển, người
ta xem nó như là một loại tiền mạnh. Tuy nhiên, nếu ngân hàng mà chúng
ta gửi tiền vào có quá ít chi nhánh hoặc không quan hệ tốt với các ngân
hàng khác, séc của nó do chúng ta viết ra được chấp nhận trong thanh toán
ở vùng này, nhưng chưa chắc đã được chấp nhận ở các vùng khác. Có lẽ vì
lý do này mà ở các nước mới phát triển, tiền séc vẫn chưa được xem là tiền
mạnh.
Tiền gửi loại này có thể phát xuất từ khách hàng là một thương nhân
hay từ một công dân bình thường. Việc phân biệt giữa các tài khoản vãng
lai (current account) mở cho thương nhân và các tài khoản sec (checking
account) mở cho công dân rất cần thiết cho ngân hàng không những về mặt
pháp lý mà cả về mặt kỹ thuật. Khoản tiền khách hàng gửi vào thực chất là
một khoản khách hàng cho ngân hàng vay. Ngân hàng sẽ phải trả lãi cho
khách hàng hàng tháng mặc dù rất thấp. Do đó, đối với ngân hàng nó là
một khoản nợ, khoản nợ này sẽ được trả theo nhu cầu của người gửi.
Xã hội càng phát triển càng có tính đa dạng. Và vì thế, ở các nước phát
triển, sự tồn tại nhiều loại tiền gửi không kỳ hạn để thỏa mãn tất cả những
nhu cầu đa dạng của xã hội, của cá nhân là điều tất nhiên. ở các nước này,
tiền gửi không kỳ hạn bao gồm:
a) Tiền gửi dùng séc (đã được trình bày ở trên) (checking deposits).
b) Tiền gửi rút tiền tự động hay tiền gửi thông dụng (ordinary deposits)
thực hiện qua máy rút tiền (canh dispensers) máy nhận rút và chuyển tiền
tự động (automated teller machine... máy ATM).
c) Tài khoản ATS (automatic transfer service account) tài khoản phối
hợp tài khoản tiết kiệm và tài khoản séc ở Mỹ.
d) Tiền gửi có thông tri (deposits at notice), tiền gửi hẹn rút (deposits atcall) hay tiền gửi có báo trước (dépôts à préavis): là loại tiền gửi không cóSVTH: Phạm Quang Hải 10
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 13/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
qui định một kỳ hạn nào, nhưng các bên có thỏa thuận việc thông báo trước
(từ 8 đến 5 ngày). Xuất hiện câu hỏi là việc thông báo trước, có làm biến
mất tính chất khả dụng, nghĩa là làm cho khoản tiền gửi mất tính chất pháp
lý cơ bản của nó chăng ?
- Xét về khía cạnh kinh tế, thông tri báo trước một vài ngày nhằm mục
đích giúp cho ngân hàng có thời gian gom đủ số tiền cần thiết cho việc
thanh toán, thì tiền gửi có báo trước đúng là một loại tiền gửi.
- Xét về phương diện pháp lý, tiền gửi có báo trước không cho phép
khách hàng sử dụng sec để rút tiền trong các tài khoản có báo trước. Do đó
tiền gửi có báo trước phụ thuộc quy tắc cho vay. Những loại tiền gửi có báo
trước thường cũng được trả lãi; nhưng thấp hơn so với các tiền gửi có kỳ
hạn.
Có nhiều ngân hàng đã dung hợp hai lối tiền gửi có kỳ hạn và báo trước.
Khách hàng lúc gửi tiền ấn định một kỳ hạn, nhưng gặp khi cần tiền có thể
rút tiền trước kỳ hạn miễn là báo trước mấy ngày hoặc một tuần, tùy theo
số tiền lớn hay nhỏ.
đ) Tài khoản NOW: Ra đời ở Anh trong thập kỷ 70 của thế kỷ 20, sự kết
hợp giữa tiền gửi giao dịch không hường lãi và tiền gửi tiết kiệm đã xuất
hiện dưới hình thức tài khoản NOW - negotiable order of withdrawal - tài
khoản lệnh rút tiền có thể thương lượng. NOW là tài khoản giao dịch được
hưởng lãi, do đó nó cho phép Ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải thông báo trước về việc rút tiền. Do đòi hỏi này ít khi được thực hiện nên NOW
được sừ dụng như là một tài khoản phát séc để chi trả cho việc mua hàng
hoá và dịch vụ. Từ năm 1981, NOW được chấp nhận rộng rãi trên toàn
nước Mỹ theo Luật về Phi quản lý hoá. Các tổ chức nhận tiền gửi
(Depository Institutions Deregulation Act of 1980). Tuy nhiên loại tài
khoản này chỉ có thể được nắm giữ bởi cá nhân và các tổ chức phi lợi
nhuận (nonprofit institutions). Khi NOW được chấp nhận trên toàn nước
SVTH: Phạm Quang Hải 11
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 14/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Mỹ, chính phủ Mỹ cho phép ngân hàng thực hiện nghiệp vụ chuyển vốn tự
động, trong đó khách hàng uỷ quyền trước (preauthorize) cho ngân hàng
trong việc chuyển vốn từ tài khoản tiết kiệm sang tài khoản séc đền bù đắp
thấu chi (overdraft). Kết quả cuối cùng là khách hàng hưởng lãi trên tài
khoản giao dịch tương đương với lãi thu được từ tài khoản tiền tiết kiệm.
e) Tài khoản MMDA: “Với việc thông qua Đạo luật về các tổ chức nhận
tiền gửi Garn-st Germain năm 1982, hai loại hình tài khoản giao dịch
hưởng lãi quan trọng được hình thành. Ngân hàng và các tổ chức tiết kiệm
phi Ngân hàng có thể đưa ra một loại hình tiền gửi mới để cạnh tranh với
tài khoản đầu tư chứng khoán có lãi suất cao hơn, được cung cấp bởi các
quỹ trên thị trường tiền tệ và được bảo đảm bằng không danh mục đầu tư
chứng khoán có chất lượng cao. Kết quả là đưa tới sự ra đời của tài khoản
tiền gửi trên thị trường tiền tệ (MMDA) và tài khoản Super NOW ”3. Hai
loại tài khoản này trả lãi theo lãi suất trên thị trường tiền tệ và khách hàng
có thể thực hiện thanh toán cho các giao dịch mua hàng hoá và dịch vụ
thông qua việc phát séc hay hối phiếu uỷ quyền trước (preauthorised draft).
MMDA là tài khoản tiền gửi thời hạn ngắn, có thể là vài ngày, vài tuần
hay vài tháng và Ngân hàng có thể trả lãi suất ở mức đủ lớn để thu hút và
nắm giữ tiền gửi của khách hàng. Có tới sáu hối phiếu uỷ quyền trước được
phép thực hiện trong một tháng nhưng số lượng séc phát hành chỉ được
giới hạn là 3 lần. Đối với lệnh rút tiền cá nhân thì không có hạn chế (mặc
dù ngân hàng có quyền đặt mức tối đa cho quy mô tiền rút và cho số lượng
lệnh rút tiền cá nhân). Không như NOW, MMDA có thể được nắm giữ bởi
cả doanh nghiệp và cá nhân.
g) Tài khoản Super NOW (SNOW) ra đời gần như cùng thời gian với
MMDA. nhưng tài khoản này chỉ có thể được nắm giữ bởi cá nhân và các
tổ chức phi lợi nhuận. Không có quy định nào hạn chế số lượng séc người
gửi tiền có thể phát hành. Tuy nhiên, Ngân hàng áp dụng một mức lãi đối
3 Peter S.Rore, 2004, Quản trị Ngân hàng thương mại, trang 461, NXB Tài chính.SVTH: Phạm Quang Hải 12
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 15/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
với SNOW thấp hơn cả với MMDA bởi vì SNOW có thể được phát séc
thường xuyên hơn. Do dó, các nhà quản lý trung ương xếp MMDA vào
nhóm tiền gửi tiết kiệm. Tuy vậy, chúng ta xếp lài khoản loại này vào phần
tài khoản giao dịch vì chúng có đặc quyền phát séc.
đ) Tiền gửi đặc biệt.
Nhằm phát triển tiền gửi, một số ngân hàng áp dụng loại tiền gửi đặc
biệt với các nội dung sau:
- Các bên có thể thỏa thuận về số tiền gửi sẽ được phong tỏa. Thông
thường thì các vụ rút tiền được quì định trong phạm vì một phần số tiềngửi, người gửi cam kết không sử dụng vào phần tối thiểu qui định. Đối với
các số tiền phong tỏa, người ta sẽ áp dụng lãi suất cao hơn. Nếu khách hàng
rút tiền ra trước ngày đã dự định, thì hoặc không được hưởng lãi suất hoặc
hưởng một lãi suất thấp.
- Có khi khách hàng ký gửi một số tiền vào ngân hàng để chuẩn bị cho
một doanh vụ đã có dự định trước. Cũng có khi dùng loại tiền gửi này đểtạo một bảo đảm cho chính ngân hàng hay một bên thứ ba, hoặc tiền gửi
được dùng để tạo một khoản dự phòng để trả lãi công trái, hoặc là các
khoản tiền đã được gửi nhằm dể mua các chứng khoán, để dự đính vào vốn
của một công ty dang thành lập hoặc tăng vốn hay là để thanh toán một hối
phiếu.
Qua các giả thuyết trên đây chỉ kể ra một số mà thôi..., có thể thấy tiềngửi ngân hàng phụ thuộc cho một nghiệp vụ pháp lý khác.
2.2. Tiền gửi có kỳ hạn.
Là loại tiền gửi được ủy thác vào ngân hàng mà có sự thỏa thuận về thời
gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Như vậy, về nguyên tắc, khách
hàng gửi tiền chỉ được rút tiền ra, khi đến hạn đã thỏa thuận.
SVTH: Phạm Quang Hải 13
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 16/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Thực ra, các loại tiền gửi định kỳ này không phải là những tiền gửi theo
nghĩa của pháp lý, mà nó có dạng như một khoản tiền vay của ngân hàng
nhưng không thể hiện bằng một phiếu khoán. Nó là một ngoại lệ của quy
tắc khả dụng, bởi vì ngân hàng chỉ phải hoàn lại số tiền tiền gửi vào ngày
đáo hạn ghi trên hợp đồng. Tiền gửi có kỳ hạn có những đặc điểm sau:
+ Tên gọi "có kỳ hạn" có nghĩa là khoản tiền được gửi sẽ có thời gian
gửi tối thiểu theo thỏa thuận giữa ngân hàng và thân chủ, và không được
rút ra trước hạn kỳ đã định nói trên. Nếu vì lý do đặc biệt phải rút tiền ra
trước hạn kỳ, NHTM có một trong ba cách xử lý: 1) Từ chối. Họ đã từng
có quyền làm như vậy trước đây, bởi vì việc gửi tiền của khách hàng là một
hợp đồng cho vay với thời hạn đã thống nhất. Khi khách hàng đòi lại trước
thời hạn, điều đó sẽ gây thiệt hại cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Tuy nhiên, thông thường ngân hàng áp dụng hai cách mềm dẻo hơn, là 2)
yêu cầu khách hàng phải báo trước, ít nhất một khoảng thời gian nào đó về
ý định rút tiền và 3) với những yêu cầu rút tiền đột xuất như vậy, khoản lãi
suất mà ngân hàng trả cho tiền gửi của khách hàng sẽ rất thấp, do khách
hàng phải chịu lãi suất phạt vì đã lâm ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh
của ngân hàng. Tuy nhiên, thực tế hiện nay do áp lực của cạnh tranh, ngân
hàng thường cho phép khách hàng rút ra trước hạn với điều kiện hàng lãi
suất tiền gửi không kỳ hạn, hoặc ngân hàng có thể cho vay bằng cách mở
một tài khoản đặc biệt cho việc này trong giới hạn số dư tài khoản tiền gửi
định kỳ của khách hàng.
+ Xuất phát từ loại hình tiền gửi có kỳ hạn, một khái niệm được hình
thành đó là "thời gian đáo hạn" hay "đến hạn (maturity) thanh toán" của các
loại chứng thư tiền gửi. Khi khách hàng gửi tiền vào một ngân hàng tại tài
khoản có kỳ hạn 3 tháng rồi nhận một cuốn passbook (quyển sổ) do ngân
hàng cấp, hoặc dùng tiền, mua một trái phiếu tiết kiệm (savings bong) cũng
của chính ngân hàng đó phát ra với thời hạn thanh toán sau ba tháng. Haiviệc làm này tính chất không khác nhau, ngoại trừ một điểm là trái phiếuSVTH: Phạm Quang Hải 14
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 17/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
không được đổi lại thành tiền mặt nửa chừng như passbook: Vấn đề cơ bản
ở đây là cả hai loại chứng thư này đều có thời hạn thanh toán tiền mặt về
nguyên tắc là đến ngày cuối cùng của tháng thứ ba. Đúng hơn, khách hàng
chỉ có thể và chỉ có quyền (theo hợp đồng) dùng các loại chứng thư nói trên
để đổi trở lại thành tiền mặt vào ngày cuối cùng của tháng thứ ba. Ngày nói
trên là ngày đáo hạn. Khoảng thời gian hay kỳ hạn ba tháng của chứng thư
được gọi là "thời gian đến hạn" kể từ ngày chứng thư được phát ra. Thời
gian đến hạn của các khoản gửi có kỳ hạn như tiền tiết kiệm passbook và
các loại trái phiếu khác là tiêu chuẩn hay cơ sở để đánh giá khả năng thanh
tiêu của các loại tài sản nói trên. Khả năng thanh tiêu là khả năng chuyểnđổi trở lại thành tiền mặt của các loại tài sản mà chúng ta sở hữu. Với cách
xác định như thế, một khoản gửi có kỳ hạn hoặc một trái phiếu tiết kiệm ba
tháng có khả năng thanh tiêu cao hơn rất nhiều lần so với một khoản gửi
hoặc một trái phiếu cố thời gian đến hạn 10 năm.
+ Tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cố định. Tuy nhiên, giữa các
loại tiền gửi có kỳ hạn khác nhau lãi suất được trả sẽ khác nhau. Tiền gửi
có kỳ hạn với thời gian càng lâu, lãi suất sẽ càng lớn bởi vì ngân hàng hoàn
toàn có thể dùng tiền gửi này đem đầu tư vào những dịch vụ hoặc sản xuất
có tính lâu dài hơn, lợi tức cao và ổn định hơn; Lãi suất mà ngân hàng trả
cho tiền gửi có kỳ hạn thường là cao hơn nhiều so với tiền gửi không kỳ
hạn. Lý do ở đây là, ngân hàng hoàn toàn yên tâm sử dụng tiền gửi của
khách hàng để cho vay với thời hạn ổn định và sẽ kiếm được nhiều lợinhuận hơn. Vì thế tiền thù lao nó trả cho khách hàng cũng phải cao hơn để
kích thích sự gửi tiền nhiều nữa.
Khác với tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán), tiền gửi định kỳ là
tiền tạm thời chưa sử dụng hoặc là tiền để dành của cá nhân, vì vậy mục
đích gửi tiền vào ngân hàng là nhằm tìm kiếm lợi tức. Tiền gửi có kỳ hạn
thường phụ thuộc vào ba thông số chính: 1) Lãi suất do các NHTM trả caohay thấp, 2) lãi suất của các loại hình đầu tư khác như trái phiếu, cổ phiếu...SVTH: Phạm Quang Hải 15
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 18/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
và 3) thu nhập của nhân dân. Thông số đầu tiên là quan trọng nhất. Vì thế
việc đưa ra chiến lược lãi suất như thể nào để thu hút được vốn nhiều và
kinh doanh có lãi là điều quan trọng hàng đầu, phản ánh khả năng kỹ trị của
các NHTM.
Tiền gửi có kỳ hạn thường dưới các dạng:
a) các chứng chỉ tiền gửi (Certificate of depoits – CD).
b) Chứng thư tiết kiệm (savings certificates).
c)Trái phiếu tiết kiệm.
2.3. Tiền gửi tiết kiệm.
Tiền gửi tiết kiệm (savings deposits) hay tài khoản dùng sổ (passbook
account). Một khoản ký thác dưới hình thức tiết kiệm rất đa dạng và phổ
biến trong nền kinh tế được NHTM huy động là các khoản tiền tiết kiệm
trong xã hội, Loại ký thác này có dặc điểm: người gửi tham gia gửi tiền vào
ngân hàng rất dông, nhưng số tiền gửi từng lần thường ít, về số lượng tuyệt
đối lại rất lớn, chiếm tỷ trọng rất quan trọng trong cơ cấu vốn ký thác huy
động được. Thông thường có hai loại tiền gửi tiết kiệm sau:
a) Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
b) Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Nguồn vốn từ loại tiết kiệm không kỳ hạn có lãi suất thấp, làm cho lãi
suất đầu vào của ngân hàng rất thấp và rất có lợi khi cho vay.
Việc điều hành các tài khoản này, tại phần lớn các nước được qui định
như sau: Các sổ tiết kiệm chỉ được mở cho các thể nhân và chỉ mở một sổ
cho mỗi người. Người gửi tiền, khi mở sổ tiết kiệm, phải cam đoan chưa
mở một tài khoản tiết kiệm nào ở một ngân hàng khác.
- Số dư tối đa của sổ tiết kiệm cũng được qui định cụ thể cho từng thời
kỳ.
SVTH: Phạm Quang Hải 16
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 19/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Các nghiệp vụ cho phép thực hiện được hạn chế tối đa: chỉ có thể gửi
tiền mặt và chỉ có chủ tài khoản mới được rút tiền, không cấp tập sec.
- Các nghiệp vụ thực hiện phải chẵn số, nghĩa là phải là bội số của l00đ
hay l000đ chẳng hạn.
3. Chi phí đối với các loại tiền gửi.
3.1. Chi phí huy động tiền gửi.
Mỗi loại tiền gửi mà chúng ta đã nghiên cứu đều mang một mức lãi suất
khác nhau. Lãi suất sẽ quyết định chi phí, và chi phí cho các nguồn tiền gửi
khác nhau có sự khác nhau. Giả định rằng các yếu tố khác không đổi, ngân
hàng sẽ huy động vốn bằng cách cung cấp các loại hình gửi tiền có chi phí
thấp nhất, hay thu nhập ròng tạo ra từ việc sử dụng các nguồn vốn tiền gửi
này là lớn nhất sau khi đã trừ đi mọi chi phí. Nếu một ngân hàng có thể huy
động toàn bộ tiền gửi từ các nguồn có chi phí thấp nhất và đầu tư vào các
tài sản có mức lãi suất cao nhất, ngân hàng sẽ tối đa hoá mức chênh lệch lãi
suất, và có thể tối đa hoá thu nhập ròng của cổ đông. Nhưng đâu là nguồn
tiền gửi có chi phí tháp nhất? Và loại tiền gửi nào tạo ra thu nhập ròng cao
nhất? Khoản chi phí lớn nhất cho đến nay là lãi tiền gửi có kỳ hạn và tiết
kiệm. Khoản chi phí này năm 1986 chiếm hơn 50% tổng chi phí của các
NHTM năm đó
Nói chung, theo lý thuyết giá trị của tiền theo thời gian và theo mối
quan hệ tỷ lệ thuận trong đường cong thu nhập thì tiền gửi có kỳ hạn thanh
toán càng dài sẽ tạo ra mức lãi càng cao cho người gửi tiền. Ví dụ. tài
khoản NOW và tài khoản tiết kiệm đều có thể được rút tiền ngay lập tức, và
do đó khách hàng được hưởng mức lãi thấp nhất trong số tất cả các loại
tiền. Ngược lại ngân hàng trả lãi suất tiền gửi cao nhất cho chứng chỉ tiền
gửi có thể chuyển nhượng với kỳ hạn một năm hoặc dài hơn.
SVTH: Phạm Quang Hải 17
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 20/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Quy mô và mức độ rủi ro trong hoạt động của ngân hàng cũng đóng một
vai trò quan trọng trong việc hình thành lãi suất tiền gửi. Ví dụ các ngân
hàng ở New York, Lon don hay Tokyo nhờ vào quy mô lớn và sức mạnh
tài chính nên có thể thu hút tiền gửi ở mức lãi suất bình quân thấp nhất,
trong khi lãi suất được thông báo tại các ngân hàng khác thường cao hơn.
Những yếu tố quan trọng là triết lý về Marketing và mục tiêu của việc cung
cấp các dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng nào quyết định chọn mục tiêu là
cạnh tranh giành tiền gửi sẽ luôn luôn đặt ra mức lãi suất cao hơn để kéo
khách hàng khỏi các đối thủ cạnh tranh. Ngược lại khi ngân hàng muốn hạn
chế quy mô của một loại hình tiền gửi nào đó, ngân hàng sẽ hạ lãi suấtcông bố thấp hơn mức lãi suất của các đối thủ cạnh tranh đưa ra.
3.2. Các phương pháp định giá tiền gửi.
3.2.1. Định giá tiền gửi theo phương pháp tổng hợp chi phí - thu nhập
Trong hoạt động ngân hàng ngày nay, các nhà quản lý nhìn chung
không chấp nhận quan điểm cho rằng khách hàng là người phải chịu toàn
bộ chi phí dịch vụ liên quan đến tiền gửi. Cho đến vài năm gần đây, luận
điểm "khách hàng nên được sử dụng miễn phí các dịch vụ về tiền gửi"
được xem như một đường lối khôn ngoan nhằm đối phó với sự cạnh tranh
ngày càng gay gắt phía các trung gian tài chính khác trên thị trường truyền
thống của ngân hàng. Tuy nhiên, rất nhiều ngân hàng đã sớm nghi ngờ tính
hiệu quả của chiến lược Marketing mới này bởi vì nó làm gia tăng số lượng
các tài khoản có số dư nhỏ với mức độ nhạy cảm cao và do đó buộc ngân
hàng phải đối mặt với tình trạng bùng nổ trong chi phí hoạt động.
Sự phát triển của tiền gửi thanh toán hưởng lãi, đặc biệt là tiền gửi trong
tài khoản NOW đã tạo cơ hội cho các ngân hàng xem xét lại phương pháp
định giá đối với các dịch vụ về tiền gửi. Thật không may, nhiều ngân hàng
mới tham gia thị trường đã liều lĩnh chấp nhận định giá dưới mức chi phí
nhằm mở rộng nguồn vốn tiền gửi. Khách hàng chỉ phải trả một khoản lệ
SVTH: Phạm Quang Hải 18
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 21/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
phí nhỏ, thấp hơn chi phí hoạt động và chi phí quản lý chung cho việc cung
cấp các khoản tiền gửi giao dịch và các khoản tiền gửi khác. Kết quả là tỷ
lệ thu nhập khách hàng được hưởng tăng lên đáng kể, người ta gọi đây là
lãi suất ẩn – chênh lệch giữa chi phí cho việc cung cấp dịch vụ tiền gửi và
số tiền thực tế khách hàng phải thanh toán.
“Ở Mỹ, việc thay đổi lãi suất ẩn là phương pháp cạnh tranh chủ yếu mà
hầu hết các ngân hàng thực hiện nhằm tăng cường khả năng huy động tiền
gửi tiền gửi suốt 50 năm từ sau Đại khủng hoảng kinh tế tới những năm
đầu thập kỷ 80. Sự ra đời của đạo luật Glass Steagal năm 1933 quy định về
lãi suất trần áp dụng cho tiền gửi chính là nguyên nhân khiến cho phương
pháp cạnh tranh này trở nên phổ biến. Thông qua luật này, chính phủ muốn
bảo vệ hệ thống ngân hàng tránh khỏi một mức lãi suất quá cao, điều đó có
thể đẩy ngân hàng tới chỗ phá sản. Tuy nhiên, các ngân hàng Mỹ lại
chuyển từ cạnh tranh về lãi suất danh nghĩa sang cạnh tranh về thu nhập
tiềm ẩn thông qua các dịch vụ như ngân hàng cam kết trả phí cả đi lẫn về
cho các dịch vụ của mình hay thiết lập các hệ thống chi nhánh nhằm đáp
ứng tốt các yêu cầu của khách hàng. Không may, phương pháp cạnh tranh
phi giá cả (nonprice competition) như vậy đã bóp méo sự phân bổ nguồn
lực khan hiếm trong lĩnh vực ngân hàng. Cuối cùng, đến năm 1980 Quốc
hội đã phải thông qua Đạo luật phi quản lý hoá các tổ chức nhận tiền gửi
(Depository Institutions Deregulation) nhằm đối phó với tình trạng này.
Đạo luật mới thông qua ung hộ việc từng bước xoá bỏ lãi suất trần. Ngàynay, ở Mỹ và ở cả các quốc gia công nghiệp hàng đầu khác, việc định giá
tiền gửi không còn là trách nhiệm của nhà chức trách nữa mà nó đã được
chuyển sang cho khu vực tư nhân - ngân hàng và khách hàng của họ” 4.
Việc định giá dịch vụ diễn ra linh hoạt hơn sau khi những quy định về
lãi suất trần được xoá bỏ. Do cạnh tranh ngày càng gay gắt cùng với sự
tăng lên của lệ phí bảo hiểm, chi phí trung bình của ngân hàng cho một
4 Peter S.Rore, 2004, Quản trị Ngân hàng thương mại, trang 492, NXB Tài chính.SVTH: Phạm Quang Hải 19
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 22/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
khoản tiền gửi đã tăng lên. Điều này có nghĩa là ngân hàng tiến hành định
giá tiền gửi độc lập, tách biệt khỏi các khoản cho vay và các dịch vụ khác.
Đồng thời, mỗi dịch vụ liên quan tới tiền gửi thường được định giá sao cho
khoản thu đủ bù đắp tất cả hoặc phần lớn chi phi cho việc cung cấp dịch vụ
đó. Giá của các dịch vụ này được xác định theo công thức tổng hợp chi phí
- thu nhập như sau:
Giá kháchhàng phải trảcho 1 đơn vịdịch vụ tiền gửi
=
Chi phíhoạt động cho1 đơn vị dịchvụ tiền gửi
+
Chi phí quản lýcung dự tính phân
bổ cho bộ phậnnhận tiền gửi
+
Địnhmức lợinhuận từ 1đơn vị dịchvụ tiền gửi
Phương pháp định giá theo chi phí như công thức trên khuyến khích các
ngân hàng đặt giá sát hơn với chi phí và loại bỏ nhiều dịch vụ trước đây
miễn phí. Ví dụ, ngày càng nhiều ngân hàng Mỹ áp đặt phí cho dịch vụ
chấp nhận thấu chi, tăng lệ phí đối với các tờ séc bị máy rút tiền tự động
ATM, tính phí hàng tháng cho việc duy trì tài khoản kể cả đối với tài khoản
tiết kiệm nhỏ, đồng thời nâng cao mức quy định về số dư tiền gửi tối thiểu.
Trong hầu hết các trường hợp, những khoản phí dịch vụ này dường như
tăng nhanh hơn tỷ lệ lạm phát. Kết quả của những xu hướng này nói chung
có lợi cho ngân hàng, thu nhập từ phí dịch vụ vượt trội tổn thất do những
khách hàng khó tính đóng tài khoản của họ tại ngân hàng.
3.2.2. Sử dụng chi phí cận biên để xác định lãi suất tiền gửi
Nhiều nhà phân tích tài chính cho rằng nếu như điều kiện cho phép, các
ngân hàng không nên dùng chỉ tiêu chi phí bình quân mà nên sử dụng chi
tiêu chi phí cận biên – chi phí tăng thêm cho một đồng vốn mới - trong việc
định giá các khoản tiền gửi và các nguồn vốn khác của ngân hàng. Lý do ở
đây là sự thay đổi liên tục của lãi suất sẽ làm cho chi phí trung bình trở
thành một tiêu chuẩn không trung thực và phi thực tế trong việc định giá
tiền gửi. Ví dụ, nếu lãi suất đang giảm, chi phí tăng thêm (chi phí cận biên
biên) để huy dộng một nguồn vốn mới có thể giảm đáng kể, xuống dưới
SVTH: Phạm Quang Hải 20
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 23/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
mức chi phí nguồn vốn bình quân của ngân hàng. Một số khoản tín dụng và
đầu tư có thể được coi là không sinh lợi khi đánh giá theo chi phí nguồn
vốn trung bình nhưng lại có thể là sinh lợi nếu đánh giá theo chỉ tiêu chi
phí lãi cận biên bởi vì hiện tại ngân hàng đang huy dộng vốn với lãi suất
thấp hơn để thực hiện các khoản tín dụng và đầu tư này. Trái lại khi lãi suất
đang tăng, chi phí cận biên của các khoản vốn mới có thể lớn hơn chi phí
nguồn vốn trung bình đáng kể. Nếu việc xét duyệt những khoản cho vay
mới được thực hiện trên cơ sở chi phí trung bình thì khả năng sinh lời của
các khoản cho vay này có thể sẽ rất hạn chế khi đánh giá theo chi phí huy
động vốn cận biên - một chỉ tiêu đã tăng rất nhanh trong những năm gầnđây.
Thật vậy, “nguyên nhân của một trong những vụ phá sản được biết tới
nhiều nhất trong lịch sử - Vụ sụp đổ của Franklin National Banh of New
York năm 1974 - cũng một phần bắt nguồn từ chiến lược quản lý mà theo
dó nhà quản lý so sánh tỷ lệ thu nhập dự tính của các khoản tín dụng mới
với chi phí nguồn vốn trung bình. Nếu thu nhập dự tính của khoản tín dụng
lớn hơn chi phí nguồn vốn trung bình từ 1 % trở lên, cán bộ tín dụng của
Franklin được phép cho vay. Không may. khi lãi suất huy dộng vốn tăng
lên đáng kể thì 0,5% lợi nhuận biên của Franklin so với chi phí trung bình
trở lên quá nhỏ bé. Thu nhập thực tế từ một lượng lớn các khoản tín dụng
và đầu tư khổng lồ không đủ bù đắp chi phí nguồn vốn hiện tại. Điều này
đã làm suy giảm vốn tự có của Franklin”5.
“Nhà kinh tế học James E. Mc Nulty đã khuyên các ngân hàng nên sử
dụng phương pháp chi phí cận biên để xác định lãi suất cho các tài khoản
tiền gửi mới. Để hiểu rõ phương pháp xác định giá theo chi phí cận biên do
Mc Nulty đề xướng hãy giả định rằng một ngân hàng dự lính sẽ huy động
dược 25 triệu USD tiền gửi khi đặt lãi suất ở mức 7%. Nhà quản lý dự đoán
rằng nếu ngân hàng nâng lãi suất lên 7,5%, 8%, 8,5% và 9% thì lượng tiền
5 Peter S.Rore, 2004, Quản trị Ngân hàng thương mại, trang 499, NXB Tài chính.SVTH: Phạm Quang Hải 21
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 24/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
gửi sẽ tăng lên tương ứng là 50 triệu USD, 75 triệu USD, 100 triệu USD và
125 triệu USD. Lượng tiền này bao gồm các khoản tiền gửi mới và các
khoản tiền gửi hiện có ở ngân hàng được khách hàng giữ lại để hưởng lãi
suất cao hơn. Giả định là nhà quản lý tin rằng việc đầu tư bằng các khoản
tiền gửi mới sẽ mang lại tỷ lệ thu nhập là 10%, đây chính là thu nhập cận
biên - thu nhập gia tăng từ việc cho vay hay đầu tư bằng nguồn vốn mới
huy dộng. Với giả định này, ngân hàng nên đặt lãi suất tiền gửi ở mức
nào?”6
3.2.3. Phương pháp định giá xâm nhập thị trường.
Xâm nhập thị trường là một phương pháp định giá không nhấn mạnh tới
vấn đề lợi nhuận, ít nhất là ngắn hạn. Ý tưởng ở đây là nâng cao lãi suất,
thường là cao hơn hẳn mặt bằng lãi suất thị trường hoặc thu phí dịch vụ
thấp hơn mức phí thị trường để có thể thu hút được số lượng khách hàng tối
đa. Nhà quản lý hy vọng rằng sự gia tăng nhanh chóng của quy mô tiền gửi
và của những khoản tín dụng sẽ bù đắp một phần sự giảm sút trong lợi
nhuận cận biên. Với chiến lược này, ngân hàng muốn tối đa hóa thị phần
tron một thị trường đang tăng trưởng nhanh chóng.
Đối với khách hàng, chọn ra được một ngân hàng có đủ uy tín để gửi
tiền là một công việc rất tốn kém. Do vậy, khách hàng thường tập trung
mua dịch vụ của một ngân hàng. Một tài khoản tiền gửi có thể là điều kiện
nền tảng cho các khoản vay, dịch vụ ủy thác và các dịch vụ khác. Việc cắt
đứt quan hệ thường gây ra những thiệt hại lớn nên khách hàng có xu hướng
trung thành với ngân hàng họ đã lựa chọn. Bởi vậy, tiền gửi có thể được
xem là một yếu tố ổn định tiền gửi hoạt động ngân hàng. Tiền gửi thường
kém nhạy cảm hơn các nguồn tiền khác trước những thay đổi trong lệ phí,
lãi suất và chính sách huy động vốn của ngân hàng đối thủ. Nếu ngân hàng
có thể đưa ra lãi suất cao hơn mức bình quân thị trường trong một thời gian
đủ dài để tạo ra sự trung thành của khách hàng thì trong tương lai, khách
6 Peter S.Rore, 2004, Quản trị Ngân hàng thương mại, trang 499, NXB Tài chính.SVTH: Phạm Quang Hải 22
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 25/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
hàng vẫn sẽ gửi tiền vào ngân hàng dù rằng lãi suất mà ngân hàng đưa ra
không còn cao như trước. Chi phí không nhỏ cho việc lựa chọn và thay đổi
ngân hàng là nguyên nhân giải thích cho hành vi nêu trên của khách hàng.
Trên thực tế, sự thất bại của các ngân hàng trong chiến lược thu hút
thêm tiền gửi bằng cách giảm lệ phí hoặc nâng cao lãi suất bắt nguồn từ
tính ổn định tương đối của tiền gửi: khách hàng thường không thay đổi
ngân hàng ngay lập tức bởi vì chi phí và rủi ro cho sự thay đổi này là không
nhỏ. Các công ty và các hộ gia đình trước khi quyết định gửi tiền vào một
ngân hàng nào đều xem xét đến rất nhiều yếu tố, không chỉ có lãi suất.
3.2.4. Phương pháp Bảng tỷ lệ phí tiền gửi.
Khách hàng sẽ phải trả một khoản lệ phí rất nhỏ thậm chí là không phải
trả lệ phí nếu số dư tiền gửi bình quân của họ cao hơn một mức nhất định
hoặc khách hàng sẽ phải trả lệ phí cao hơn nếu số dư tài khoản trung bình
thấp hơn mức giới hạn. Do đó, mức giá dịch vụ mà khách hàng phải trả phụ
thuộc vào việc anh ta sử dụng tiền gửi như thế nào
Giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi thay đổi trên cơ sở một hoặc một
số những yếu tố sau:
+ Số lần giao dịch thực hiện qua tài khoản (số séc được viết, số tiền gửi
vào, số lần chuyển tiền, số lệnh ngừng trả hay số lần thấu chi).
+ Số dư tài khoản trung bình trong một thời kỳ nhất định (thường là một
tháng).
+ Kỳ hạn của tiền gửi theo ngày, tuần, hoặc tháng.
Khách hàng phải lựa chọn ngân hàng và xây dựng kế hoạch tiền gửi sao
cho mức lệ phí là thấp nhất và (hoặc) nhận được thu nhập cao nhất trên cơ
sở dự kiến về số séc viết, số tiền gửi vào và rút ra cũng như số dư trung
bình của tài khoản. Đương nhiên khách hàng cũng phải xem xét tới các
khía cạnh khác như mức độ an toàn và sự sẵn có của các dịch vụ.
SVTH: Phạm Quang Hải 23
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 26/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
3.2.5. Định giá mục tiêu trọng điểm.
Một số ngân hàng, nhất là những ngân hàng ở các thành phố lớn, có
nhiều tài khoản tiền gửi với số dư lớn, ổn định, thường mạnh dạn sử dụng
phương pháp định giá mục tiêu trọng điểm. Các chương trình quảng cáo
công phu ở họ thường hướng những người có địa vị trong xã hội và các gia
đình khá giả tới những dịch vụ của ngân hàng. Đối với những tài khoản
khác, đặc biệt là các tài khoản có số dư thấp, ít ổn định, việc định giá có thể
nhằm vào mức hòa vốn hoặc ngân hàng có thể hạn chế các tài khoản này
bằng việc định giá cao hơn. Chiến lược này thường được kết hợp với
chương trình nhà ngân hàng cá nhán (personal banker), theo đó mỗi khách
hàng lớn được một cán bộ ngân hàng chịu trách nhiệm đáp ứng tất cả các
nhu cầu về dịch vụ ngân hàng.
“Điều tra ở New England do Crane và Reilly Murphy và Mandell thực
hiện cho thấy một số khách hàng - đặc biệt là khách hàng lớn - có phản ứng
rất nhanh đối với sự thay đổi về giá cả tiền gửi.” 7 Ngày nay, trên các thị
trường tiền gửi, sức cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng cùng với việc
ngày càng nhiều ngân hàng sử dụng phương pháp định giá mục tiêu trọng
điểm đã khiến cho khách hàng được thông tin tốt hơn và nhạy cảm hơn với
giá tìm được cho mình những điều khoản có lợi nhất.
3.2.6. Định giá tiền gửi trên cơ sở mối quan hệ tổng thể với khách hàng.
Với ý tưởng nhằm tranh thủ những khách hàng tốt nhất, ngân hàng đãtiến hành định giá tiền gửi theo số lượng dịch vụ mà khách hàng sử dụng.
Những khách hàng sử dụng từ hai dịch vụ trở lên có thể phải chịu lệ phí ở
mức thấp, thậm chí không phải trả lệ phí, còn những khách hàng chỉ có
quan hệ hạn chế với các ngân hàng sẽ phải trả lệ phí cao. Nhà quản lý cho
rằng việc sử dụng một số lượng lớn các dịch vụ sẽ làm tăng sự phụ thuộc
của khách hàng vào ngân hàng và điều này sẽ khiến cho khách hàng gặp
7 Peter S.Rore, 2004, Quản trị Ngân hàng thương mại, trang 512, NXB Tài chính.SVTH: Phạm Quang Hải 24
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 27/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
nhiều khó khăn hơn khi muốn tìm kiếm một ngân hàng khác. Bởi vậy, ít
nhất là trên lý thuyết, chính sách định giá trên cơ sở quan hệ sẽ tạo sự trung
thành của khách hàng và làm cho họ kém nhạy cảm hơn với lãi suất tiền
gửi cũng như phí dịch vụ của đối thủ cạnh tranh.
3.2.7. Định giá tiền gửi để đạt mục tiêu của ngân hàng.
Chính sách định giá tiền gửi nên được sử dụng với mục đích bảo vệ và
tăng cường khả năng sinh lời cho ngân hàng. Với công cụ này, ngân hàng
không nên chỉ hướng vào mục tiêu đơn thuần là thu hút khách hàng hay
chiếm đoạt thêm thị phần từ các đối thủ cạnh tranh. Thật vây, khi ngân
hàng đưa ra một công cụ tiền gửi mới, cơ hội cho sự thành công nằm trong
tay các khách hàng hiện tại của ngân hàng. Các khách hàng này sẽ không
tự động trả giá cao hơn cho các dịch vụ tiền gửi. Họ sẽ không trả cho ngân
hàng nhiều hơn những gì họ nhận được từ tài khoản tiền gửi. Chắc chắn
rằng khách hàng sẽ tìm tới những ngân hàng khác khi lợi ích mà họ nhận
được giảm xuống thấp hơn giá cả của dịch vụ tiền gửi.
4. Cơ cấu tiền gửi trong một NHTM.
4.1. Các yếu tố quyết định cơ cấu tiền gửi trong một NHTM.
Nhu cầu của công chúng đối với các loại hình dịch vụ nhận và tiền gửilà yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định cấu trúc (cơ cấu) nguồn vốn tiền
gửi của một ngân hàng. Yếu tố quan trọng thứ hai là chính sách huy động
vốn (fund raising policy), bao gồm việc thu phí dịch vụ tương quan lãi suất
giữa các loại tiền gửi khác nhau, sự tích cực trong hoạt động quảng cáo thời
gian và quy mô vốn đầu tư vào việc thu hút và duy trì các khách hàng gửi
tiền.
4.2. Cơ cấu tiền gửi trong NHTM.
SVTH: Phạm Quang Hải 25
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 28/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Bảng 1.1 Sự thay đổi trong cơ cấu tiền gửi ở Mỹ (đơn vị %)
Khoản mục tiền gửi 1983 1985 1987 1989 1991 1993 1996
Tiền gửi không hưởng
lãi
37,9 22,3 20,5 19,9 17,9 20,8 19,8
Tiền gửi hưởng lãi 62,1 77,7 79,5 81,0 82,1 79,2 80,2
Tổng tiền gửi 100 100 100 100 100 100 100
Tiền gửi giao dịch 31,9 32,5 32,3 29,9 29,7 33,4 29,3
Tiền gửi phi giao dịch 68,1 67,5 67,7 70,1 70,3 66,6 70,7
Tổng tiền gửi 100 100 100 100 100 100 100
Tiền gửi giao dịch 24,5 25,1 22,9 20,6 19,1 20,2 22,1
Tiền gửi tiết kiệm* 30,2 32,8 36,2 33,5 38,3 41,2 39,8
Tiền gửi kỳ hạn 44,4 42,1 40,9 45,9 42,6 38,6 38,1
Tổng tiền gửi 100 100 100 100 100 100 100
* Tiền gửi tiết kiệm bao gồm cả tiền gửi trong tài khoản trên thị trường tiền tệ
(MMDA)
Nguồn: Bảo hiểm tiền gửi liên bang, thống kê ngân hàng
_ Trong những năm gần đây, loại hình tiền gửi mà ngân hàng sẵn sàngcung cấp nhất là tiền gửi kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm. Như bảng trên thể
hiện, tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi kỳ hạn chiếm xấp xỉ 4/5 toàn bộ tiền gửi
trong nước tại các ngân hàng tài khoản được bảo hiểm ở Mỹ (US - Insured
Commericial Banks) vào cuối nam 1993. Thật không có gì đáng ngạc nhiên
khi mà tiền gửi liệt kiệm và tiền gửi kỳ hạn chiếm phần lớn trong nguồn
vốn tiền gửi tại mọi ngân hàng. Ngược lại, tiền gửi không hưởng lãi đãgiảm dáng kể và chỉ chiếm khoảng 1/5 tổng lượng tiền gửi ở Mỹ.
Nhìn chung, nếu được phép tự quyết định cho bản thân mình về cơ cấu
tiền gửi tối ưu, các ngân hàng sẽ hướng về một tỷ trọng cao đối với tiền gửi
giao dịch, tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi kỳ hạn lãi suất thấp. Các tài khoản
này thuộc những nguồn vốn có chi phí thấp nhất của ngân hàng và thường
chiếm một tỷ lệ lớn trong lượng tiền gửi cơ sở (core deposits). Đây là cơ sở vốn tiền gửi ổn định ít nhạy cảm với những biến động của lãi suất trên thị
SVTH: Phạm Quang Hải 26
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 29/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
trường và thường được duy trì tại ngân hàng. Mặc dù, phần lớn tiền gửi cơ
sở (như tiền gửi tiết kiệm) có thể bị rút ngay lập tức nhưng kỳ hạ thực tế
của các tài khoản này thường kéo dài nhiều năm. Thực tế là ngân hàng nhỏ
có thể nắm giữ một khối lượng lớn tiền gửi cơ sở và điều này góp phần giải
thích tại sao trong những năm gần đây ngân hàng lớn và các Công ty sở
hữu ngân hàng đều nỗ lực vào việc giành quyền sở hữu các ngân hàng nhỏ
nhằm tiếp cận tới những cơ sở tiền gửi ổn định hơn với chi phí thấp hơn.
Tuy nhiên tác động tổng thể của lạm phát, của việc giảm bới các quy định
quản lý, của tình trạng cạnh tranh gay gắt và trình độ nhận thức cao hơn
của khách hàng đã tạo ra nhiều thay đổi lớn đối với cấu trúc nguồn tiền gửicủa ngân hàng.
Chi phí cho hoạt động phục vụ các tài khoản gửi tiền đã tăng mạnh
trong những năm gần đây. “Ví dụ, chi phí trả lãi tiền gửi của tất cả các
ngân hàng thương mại được bảo hiểm ở Mỹ đạt mức 10,5 tỷ USD năm
1970 tương đương 38% tổng chi phí hoạt động, nhưng chi phí này đã tăng
lên hơn 100 tỷ USD, chiếm khoảng 50% tổng chi phí hoạt động của ngân
hàng vào những năm 90”8. Đồng thời, sự phát triển của các loại hình tiền
gửi mới mang lãi suất cao hơn và nhạy cảm hơn với những thay đổi của lãi
suất đã buộc ngân hàng phải nâng mức lãi suất cho các khoản tiền gửi mà
nó huy động. Những ngân hàng không theo kịp mặt bằng lãi suất thị trường
sẽ phải tăng cường dự trữ để đối phó với sự tăng lên trong nhu cầu thanh
khoản - tiền gửi bị rút ra và những biến động trong lượng tiền gửi vào. Đốiđầu với một áp lực lớn về chi phí trả lãi, ngân hàng buộc phải tìm mọi cách
nhằm cắt giảm các chi phí khác, nâng cao hiệu quả hoạt động.
Bảng 1.2 Thay đổi trong cơ cấu sở hữu tiền gửi của các ngân hàng Mỹ
( Đơn vị %)
Nhóm sở hữu 1983 1985 1987 1989 1991 1993 1996
8 Peter S.Rore, 2004, Quản trị Ngân hàng thương mại, trang 465, NXB Tài chính.SVTH: Phạm Quang Hải 27
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 30/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
tiền gửi
Cá nhân và công ty 73,5 75,2 77,0 80,3 82,2 89,2 88,5
Chính phủ Mỹ 0,2 0,2 0,3 0,2 0,3 0,3 0,3
Chính quyền bang vàcác tổ chức chính trị
4,5 4,8 4,5 4,3 3,7 3,5 3,7
Tiền gửi của các cơ
quan nước ngoài16,7 15,2 14,6 12,2 11,3 4,1 4,5
Các khoản tiền gửi
khác5,1 4,6 3,6 3,0 2,5 2,9 3,0
Tổng tiền gửi 100 100 100 100 100 100 100
Như bảng 1.2 đã trình bày, tiền gửi tại các ngân hàng trong nước Mỹ
chủ yếu thuộc khu vực tư nhân (bao gồm cá nhân, công ty), chiếm tới 4/5
tổng lượng tiền gửi của hệ thống ngân hàng. Lượng tiền gửi lớn thứ hai
thuộc về Chính quyền Liên bang và chính quyền địa phương (dưới 5%
tổng tiền gửi), đây là những quỹ do chính quyền các thành phố, và các cơ
quan chính quyền địa phương tích luỹ. Các khoản tiền gửi này biến độngthất thường với biên độ lớn, tăng mạnh trong kỳ từ thuế hay khi trái phiếu
được phát hành, giảm nhanh khi chính phủ phải trả lương hay khi các công
trình công cộng bắt đầu được xây dựng. Mặc dù không mang lại mức lợi
nhuận cao nhưng các ngân hàng thường chấp nhận tiền gửi của chính phủ
Trung ương và chính quyền địa phương như hình thức dịch vụ cho cộng
đồng nơi ngân hàng hoạt động.
Ngân hàng thương mại cũng nắm giữ một số lượng nhỏ tiền gửi của
chính phủ MỸ. Trên thực tế, Kho bạc Mỹ gửi phần lớn vốn hoạt động tại
các ngân hàng trong nước trên tài khoản "Thuế và nợ của Kho bạc"
(Treasury Tax and Loan Account - TT&L). Khi thu thuế hay khi bán các
chứng khoán Kho bạc, Chính phủ trung ương luôn gửi thẳng tiền vào tài
khoản TT & L, nhằm mục đích giảm thiểu tác động của những hoạt độngnày đối với hệ thống ngân hàng. Kho bạc sau đó sẽ rút tiền định kỳ (chuyển
SVTH: Phạm Quang Hải 28
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 31/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
tiền vào tài khoản tại Ngân hàng dự trữ liên bang) khi có nhu cầu chi tiêu.
Hiện nay Kho bạc trả phí quản tiền gửi và hưởng lãi trên số dư tiền gửi tại
các ngân hàng.
Một khoản mục tiền gửi quy mô lớn khác là tiền gửi của chính phủ,
doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài. Phần lớn lượng tiền gửi này được huy
động thông qua các chi nhánh của ngân hàng tại nước ngoài. Tiền gửi của
các tổ chức nước ngoài tăng mạnh trong suốt thập kỷ 60 - 70, lên tới 1/5
tổng lượng tiền gửi tại các ngân hàng Mỹ trong năm 1980. Con số này thể
hiện sự tăng trưởng chóng mặt trong quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế
của các công ty Mỹ. Tuy nhiên, tỷ trọng của tiền gửi nước ngoài trong
nguồn vốn của ngân hàng đã giảm bởi vì lãi suất nội địa trong những năm
gần đây đã giảm đáng kể. Hơn nửa cuộc khủng hoảng nợ trên thế giới và
việc nền kinh tế trong nước tăng trưởng nhanh hơn đã khiến các ngân hàng
Mỹ giảm quy mô của kế hoạch bành trướng ra nước ngoài.
Khoản mục tiền gửi quan trọng cuối cùng là Tiền gửi của các ngân
hàng khác, bao gồm tiền gửi của ngân hàng đại lý - đây là tiền gửi mà các
ngân hàng nắm giữ của nhau thanh toán cho các dịch vụ đại lý. Ví dụ một
ngân hàng tại khu trung tâm cung cấp dịch vụ xử lý dữ liệu, vi tính hoá
hoạt động ghi sổ, tư vấn các vấn đề thuế và đầu tư, tham gia cho vay, thanh
toán bù trừ và thu séc cho các tổ chức nhận tiền gửi nhỏ ở nông thôn và ở
những khu xa trung tâm. Khi nhận tiền gửi từ các ngân hàng khác, ngân
hàng sẽ ghi vào tài khoản tiền gửi của ngân hàng khác (deposits due to
banks) thuộc bên nguồn vốn trên bảng cân đối kế toán. Ngân hàng sở hữu
khoản tiền gửi đó sẽ ghi vào bên tài sản tại tài khoản Tiền gửi tại ngân
hàng khác (deposits due from banks)
5. Quản lý nguồn tiền gửi.Có 4 nội dung quản lý:
SVTH: Phạm Quang Hải 29
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 32/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
5.1. Quản lý lãi suất:
Giá trong kinh doanh NH chủ yếu bao gồm phí và lãi suất, tạo nên thu
nhập và chi phí của NH khi thực hiện việc cung cấp các sản phẩm tiền gửi
và cho vay để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Các sản phẩm NH thực
hiện rất phong phú và đa dạng. Việc định giá cho các sản phẩm này là một
vấn đề phức tạp và khó khăn, vì một mặt NH phải đảm bảo duy trì được lợi
nhuận, mặt khác phải đảm bảo giá của sản phẩm đủ sức cạnh tranh.
Có thể nói, yếu tố cấu thành giá của sản phẩm tiền gửi của khách hàng
và cho vay khách hàng là lãi suất. Nói cách khác, lãi suất là yếu tố cơ bản
để huy động vốn và cho vay ngân hàng.
5.1.1. Định nghĩa:
Quản lý lãi suất của các khoản nợ là xác định các loại và cơ cấu lãi suất
trả cho các nguồn tiền khác nhau nhằm đảm bảo duy trì quy mô và kết cấu
nguồn phù hợ với yêu cầu sinh lợi của NH.
5.1.2. Nguyên nhân phải quản lý lãi suất:
Hiện nay, hầu hết các NH ở Việt Nam cũng như trên thế giới đang phải
đối mặt với sự cạnh tranh thu hút khách hàng về phía mình trong việc định
giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi, một loại nguồn vốn chủ yếu của NH.
Một mặt, NH phải trả một mức lãi suất đủ lớn để thu hút và phải cố gắng
hạn chế việc trả lãi suất quá cao bởi điều này sẽ làm giảm mức thu nhập
tiềm năng của NH. NH thường phải lựa chọn giữa 2 mục tiêu tăng trưởng
và khả năng sinh lời. Trả lãi quá cao cho các khoản tiền gửi và các nguồn
vốn khác giúp cho NH tăng trưởng nhanh, nhưng chiến lược cạnh tranh này
khiến cho lợi nhuận của NH suy giảm nghiêm trọng. Do đó phải quản lý lãi
suất và đưa ra được mức lãi suất phù hợp.
NH không thể tự xác định mức lãi suất hoặc dự đoán chắc chắn về xu
hướng vận động của lãi suất. Nói cách khác, NH không thể là người “tạo
SVTH: Phạm Quang Hải 30
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 33/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
giá” mà chỉ là người “chấp nhận giá”, chấp nhận và lập kế hoạch hoạt động
trên cơ sở mức độ hiện tại và khuynh hướng vận động của lãi suất. Quá
trình chuyển hoá tài sản bao gồm việc sử dụng vốn và huy động vốn
thường không cân xứng nhau về kỳ hạn và độ thanh khoản, làm NH phải
chịu rủi ro nhiều về lãi suất hoặc có thể nâng cao được lợi nhuận. Lãi suất
thực sự là giá cả của tiền tệ được hình thành chủ yếu do quan hệ cung cầu
vốn trên thị trường. Đây là điều kiện để các NHTM nâng cao tính tự chủ
trong định giá các sản phẩm NH, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
của mình, thích nghi với cơ chế lãi suất thị trường. Giá cả (lãi suất) chính là
công cụ mà mỗi NH có thể chọn để nâng cao khả năng sinh lợi và các mụctiêu khác, dù rằng mỗi NH không thể tự quyết định giá mà là do thị trường
dẫn dắt.
Một lãi suất hợp lý (cao hoặc thấp) đều có ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt
động của DN. Khi lãi suất quá cao, các DN sẽ không dám vay vốn của NH,
nhiều dự án có hiệu quả cao sẽ không được thực thi, nhiều cơ hội kinh
doanh của DN sẽ bị mai một mất. Khi đó nguồn vốn NH sẽ ứ đọng, dẫn
đến giảm sút lợi nhuận, thậm chí là thua lỗ.
Ngược lại, nếu lãi suất quy định quá thấp, các DN sẽ dễ dàng vay được
vốn, thậm chí vay vốn không sử dụng đúng mục đích, dẫn đến sử dụng vốn
lãng phí, không hiệu quả. Sự rủi ro của DN sẽ kéo theo sự rủi ro của NH và
ảnh hưởng không ít đến cả sự phát triển chung của nền kinh tế. Do đó, NH
cần phải có sự quản lý lãi suất. Với một lãi suất hợp lý cho phép các DN
tính toán được lợi nhuận thu về từ các dự án khả thi vì vậy sẽ chiếm lĩnh
được cơ hội kinh doanh. Đồng thời với một lãi suất hợp lý, DN sẽ có lợi
nhuận sau khi trừ chi phí lãi tiền vay, kích thích các DN mở rộng danh mục
đầu tư, thực hiện tái sản xuất, đẩy mạnh các hoạt động của DN.
5.1.3. Mục tiêu quản lý:
SVTH: Phạm Quang Hải 31
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 34/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Mục tiêu quản lý lãi suất là nhằm hạn chế tối đa tổn thất về thu nhập do
sự thay đổi của lãi suất thị trường, hay nói cách khác khi lãi suất thị trường
thay đổi sẽ không ảnh hưởng đến mức chênh lệch giữa thu nhập lãi và chi
phí lãi và giá trị vốn chủ sở hữu.
Các nhà quản lý thường sử dụng hệ số chênh lệch lãi ròng để đo lường
và so sánh sự thay đổi của thu nhập khi có biến động của lãi suất thị
trường. Nhiệm vụ của quản lý rủi ro lãi suất là kiểm soát quy mô của hệ số
thu nhập lãi ròng bằng cách tác động đến cấu trúc của danh mục tài sản nợ
và nợ nhạy cảm lãi suất của ngân hàng.
5.1.4. Nội dung của quản lý lãi suất:
* Thực hiện đa dạng hoá lãi suất:
Do các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách lãi suất của mỗi hệ thống NH
là khác nhau nên quan điểm điều hành lãi suất của mỗi nhà quản lý ngân
hàng cũng khác nhau. Vì vậy, lãi suất ở các hệ thống ngân hàng cũng
không dập khuôn, tạo cho khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọn ngân hàngđể gửi tiền và vay tiền. Để có thể huy động được vốn, lãi suất của mỗi loại
tiền gửi cũng phải khác nhau. Cụ thể như sau:
- Lãi suất tiền gửi giao dịch (tiền gửi thanh toán).
Lãi suất tiền gửi thanh toán dùng trong các doanh nghiệp không được
hưởng lãi trực tiếp mà người gửi chỉ hưởng lãi gián tiếp thông qua các dịch
vụ thanh toán miễn phí của NH. Tài khoản tiền gửi thanh toán dùng cho cá
nhân được NH trả lãi, nhưng lãi suất cho loại tiền gửi này thường thấp hơn
lãi suất tiền gửi định kỳ.
- Lãi suất tiền gửi phi giao dịch ( tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết
kiệm)
SVTH: Phạm Quang Hải 32
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 35/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Khác với tiền gửi thanh toán, tiền gửi định kỳ là tiền tạm thời chưa sử
dụng hoặc tiền để dành của cá nhân. Vì vậy, mục đích gửi tiền vào NH là
nhằm tìm kiếm lãi.
Đối với NH, tiền gửi định kỳ là nguồn vốn ổn định trong kinh doanh.
Do đó, NH thường trả lãi suất cho tiền gửi có kỳ hạn cao hơn lãi suất chi
trả cho tiền gửi thanh toán của cá nhân. Hình thức áp dụng tiền gửi có kỳ
hạn tại các NH rất đa dạng, có loại kỳ hạn 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1
năm… Thời hạn càng dài, lãi suất càng cao. Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn có
thể tính theo phương pháp lãi suất đơn hoặc lãi suất tích hợp và áp dụng lãi
suất cố định hoặc lãi suất thả nổi. Nếu áp dụng lãi suất thả nổi thì thường
lấy lãi suất thị trường liên NH làm cơ sở cho việc xác định lãi suất.
NH còn trả lãi cho các loại tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết
kiệm có kỳ hạn. Riêng đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, ngoài lãi suất
được hưởng, người gửi còn có thể được thưởng dưới hình thức bằng tiền
hoặc hiện vật, thông qua xổ số theo định kỳ. Ngoài ra, NH còn phát hành
các giấy nợ dưới hình thức kỳ phiếu (hoặc trái phiếu). Lãi suất đối với
những khoản tiền có quy mô lớn sẽ được áp dụng khác với lãi suất những
khoản tiền có quy mô nhỏ.
Nhìn chung, tiện ích mà NH cung cấp cho người gửi tiền và người cho
vay càng cao thì lãi suất càng thấp. Một số nguồn tiền lãi suất NH trả bằng
0 và người gửi phải trả phí để được hưởng tiện ích của NH. Một NH có thể
đưa ra lãi suất danh nghĩa cao hơn các NH khác, tức là đã tạo ra lãi suất
cạnh tranh bằng các phương pháp khác nhau như trả lãi làm nhiều lần trong
kỳ hoặc trả lãi trước.
Khi trả lãi nhiều lần trong kỳ, lãi suất tương đương (A) sẽ lớn hơn lãi
suất danh nghĩa mà ngân hàng cam kết trả.
A (NEC) = (1 + i/n)n
– 1 i: lãi suất danh nghĩa trong kỳn: số lần trả lãi
SVTH: Phạm Quang Hải 33
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 36/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Khi trả lãi trước: B = 1/ (1 – i) i : lãi suất trả trước
NH thường dùng phương pháp trên trong điều kiện bị khống chế về lãi
suất tối đa, hoặc để thay đổi tạm thời quy mô của các khoản mục chi phí trả
lãi trong kỳ.
=> Tiền gửi là nguồn vốn lớn nhất của các NHTM. Việc duy trì và mở
rộng tiền gửi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc mở rộng kinh doanh
và gia tăng lợi nhuận của NH. Do vậy, quản lý lãi suất tiền gửi và các chính
sách có liên quan phù hợp sẽ tạo điều kiện cho NH tập trung mọi nguồn
vốn nhàn rỗi trong xã hội với chi phí thấp nhất.
Lãi suất NH luôn đổi mới theo hướng đa dạng hoá, linh hoạt nhằm thoả
mãn nhu cầu của khách hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng tối thiểu hoá chi
phí đầu vào, hạ thấp chi phí đầu ra, góp phần tối đa hoá lợi nhuận. Không
nên có bảng lãi suất cố định cho tất cả mọi khách hàng. Điều đó sẽ không
thu hút được các khách hàng làm ăn tốt vì thông thường, khách hàng làm
ăn tốt sẽ mang lại nhiều khoản lợi tức ngoài lợi tức cho vay.
5.1.5. Các cách quản lý lãi suất:
* Cố định lãi suất
Đây là cách làm cổ điển nhất. NH đưa ra thang lãi suất đã lập sẵn để
thông báo cho các khách hàng có nhu cầu vay vốn từ NH hoặc gửi tiền cho
NH.
- Ưu điểm:
+ Ngân hàng ước tính được khá chính xác lợi nhuận từ mỗi khoản cho
vay
+ Chủ động tính được lãi suất cần đưa ra để huy động tiền gửi và các
loại tài sản nợ khác
- Nhược điểm:
SVTH: Phạm Quang Hải 34
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 37/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
+ Việc làm này, ngân hàng đã tự hạn chế mình về khả năng cho vay và
đầu tư -> xảy ra tình trạng thừa vốn mà không thể hoặc không dám đầu tư.
+ Làm mất khả năng thương lượng vốn giữa người vay và người muốn
cho vay (NH)
+ Ngân hàng phải chạy theo khách hàng
+ Khả năng rủi ro trong cho vay lớn hơn
+ Khó đầu tư vào chứng khoán vì lãi suất chứng khoán do cung cầu
quyết định
* Thả nổi lãi suất:
Khi NH thực hiện thả nổi lãi suất, NH quản lý được tài sản và lợi nhuận
theo hướng thương lượng giữa NH và khách hàng. Sẽ có nhiều khách hàng
tìm đến với NH hơn và NH sẽ có nhiều cơ hội tạo lợi nhuận hơn.
* Kết hợp cả 2 phương pháp quản lý trên
5.2. Quản lý quy mô và cơ cấuQuản lý quy mô và cơ cấu nhằm đưa ra và thực hiện các biện pháp để
gia tăng quy mô và thay đổi cơ cấu một cách có hiệu quả nhất. Gia tăng
nguồn theo chuẩn mực nào đó là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt
động của NH, là điều kiện để NH mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao
tính thanh khoản và tính ổn định của nguồn vốn. Cơ cấu nợ ảnh hưởng tới
cơ cấu tài sản và quyết định chi phí của NH.
5.2.1. Nội dung quản lý:
* Thống kê đầy đủ, kịp thời các thay đổi về các loại nguồn, tốc độ quay
vòng của mỗi loại.
Công tác thống kê nguồn sẽ cho các nhà quản lý nghiên cứu mối liên hệ
giữa số lượng, cấu trúc nguồn với các nhân tố ảnh hưởng cũng như thấy
được đặc tính của thị trường nguồn của NH.
SVTH: Phạm Quang Hải 35
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 38/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Trong điều kiện cụ thể, các nguồn của NH có thể có tốc độ và quy mô
thay đổi khác nhau. Các NH lớn có quy mô nguồn lớn và tốc độ tăng
trưởng nguồn có thể không cao như các NH nhỏ. Những NH ở trung tâm
tiền tệ có cơ cấu nguồn khác với NH ở xa.
* Phân tích kỹ các nhân tố gắn liền với thay đổi đó (các nhân tố ảnh
hưởng và bị ảnh hưởng).
Những nhân tố ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi quy mô và kết cấu của
nguồn tiền thường xuyên thay đổi và cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng.
Đây là cơ sở để NH đưa ra quyết định phù hợp để thay đổi quy mô và kết
cấu nguồn tiền.
Vào gần dịp Tết, quy mô của tiền gửi tiết kiệm có thể giảm xuống tương
đối, hoặc nếu NH phục vụ chủ yếu cho các DN xây dựng, tiền gửi của họ
tăng giảm nhiều phụ thuộc vào mùa xây dựng. Từ thực tế đó, các nhà quản
lý NH cần chia các loại khách hàng gắn với quy mô và tốc độ gia tăng của
mỗi nguồn. Các khách hàng, hoặc nhóm khách hàng có tiền gửi lớn được
đặc biệt chú ý, các nhóm khách hàng truyền thống, các nhóm khách hàng
nhạy cảm với những thay đổi về công nghệ, lãi suất và chất lượng phục vụ
kèm theo cần phải được nghiên cứu cụ thể. Các nhà quản lý cũng cần xem
xét thị phần nguồn tiền của các NH khác trên địa bàn và khả năng cạnh
tranh của họ.
* Lập kế hoạch nguồn cho từng giai đoạn phù hợp với yêu cầu sử dụng.Kế hoạch nguồn cần được xây dựng cho từng giai đoạn, bao gồm kế
hoạch gia tăng quy mô của mỗi nguồn, nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu
tư hoặc nhu cầu chi trả cho các DN và dân chúng, khả năng thay đổi cơ cấu
nguồn hoặc tìm kiếm nguồn mới. Kế hoạch nguồn được đặt trong kế hoạch
sử dụng và lợi nhuận kỳ vọng, bao gồm kế hoạch về lãi suất, mở chi nhánh
hoặc điểm huy động, loại nguồn, tiếp thị…5.3. Quản lý kỳ hạnSVTH: Phạm Quang Hải 36
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 39/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
5.3.1. Định nghĩa:
Quản lý kỳ hạn là xác định kỳ hạn của nguồn phù hợp với yêu cầu về kỳ
hạn của sử dụng, đồng thời tạo sự ổn định của nguồn.
5.3.2. Nội dung quản lý: Bao gồm 3 nội dung.
* Xác định kỳ hạn danh nghĩa của nguồn và các nhân tố ảnh hưởng
- Định nghĩa: Nguồn huy động thường gắn với kỳ hạn nhất định, được
ngân hàng tuyên bố, đó là kỳ hạn danh nghĩa của nguồn.
- Ví dụ: Trong tiền gửi tiết kiệm có: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi kỳ
hạn 3 tháng, tiền gửi kỳ hạn 6 tháng.
Các kỳ hạn danh nghĩa thường gắn với một mức lãi suất nhất định, theo
xu hướng, nguồn có kỳ hạn danh nghĩa càng dài, lãi suất càng cao. Trong
trường hợp bình thường (tức không có khủng hoảng xảy ra) cũng có một số
người gửi rút tiền ra trước hạn, song nhìn chung mọi người gửi đều cố gắng
duy trì kỳ hạn danh nghĩa để được hưởng lãi suất ở mức cao nhất. Do vậy,
kỳ hạn danh nghĩa là một chỉ tiêu phản ánh tính ổn định của nguồn vốn.
- Ý nghĩa của việc xác định kỳ hạn danh nghĩa
Xác định kỳ hạn danh nghĩa có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động
của NH. Kỳ hạn liên quan tới tính ổn định và vì vậy, liên quan đến kỳ hạn
của sử dụng. Để cho vay và đầu tư dài hạn, NH cần có khả năng duy trì tính
ổn định của nguồn tiền. Mặt khác, kỳ hạn liên quan tới chi phí, đó là cácnguồn có tính ổn định cao thường phải có chi phí cao.
=> Quản lý kỳ hạn vì vậy là một nội dung đảm bảo an toàn và sinh lợi
cho NH
- Các nhân tố ảnh hưởng:
Thu nhập: mức thu nhập của dân chúng là một yếu tố quan trọng bởi các
khoản tiền gửi và vay với kỳ hạn dài (trên một năm) thường là của dân cư.
SVTH: Phạm Quang Hải 37
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 40/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Do vậy, khi thu nhập của dân cư thấp, mức tiết kiệm thấp -> hạn chế khả
năng cho vay và gửi ngân hàng với kỳ hạn dài -> ảnh hưởng đến NH
Ổn định vĩ mô: nếu không có sự ổn định kinh tế về vĩ mô, lạm phát cao,
tỷ giá biến động theo hướng không có lợi cho người gửi nội tệ… sẽ làm
hạn chế việc kéo dài kỳ hạn danh nghĩa -> ảnh hưởng đến hoạt động NH
Khả năng chuyển đổi của giấy nợ: việc này liên quan đến hoạt động của
thị trường tài chính trong nước. Nếu thị trường tài chính hoạt động kém ->
tính thanh khoản của các giấy nợ thấp Việc phát hành giấy nợ dài hạn
(trên 1 năm) rất khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động NH
Kỳ hạn cho vay và đầu tư…
* Xác định kỳ hạn thực của nguồn và các nhân tố ảnh hưởng
- Định nghĩa: Kỳ hạn thực tế của khoản tiền gửi là thời gian mà khoản
tiền tồn tại liên tục tại một đơn vị ngân hàng
- Ví dụ: Nhiều người gửi tiết kiệm tại một NH với kỳ hạn danh nghĩa 6
tháng, song khoản tiền gửi có thể được duy trì nhiều lần 6 tháng (các kỳ
hạn 6 tháng nối tiếp nhau, người gửi không rút tiền ra khỏi NH) và trên
thực tế trở thành khoản tiền gửi trung và dài hạn.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến kỳ hạn danh nghĩa đều tác động đến kỳ
hạn thực tế.
Ngoài ra, nhu cầu chi tiêu đột xuất và lãi suất cạnh tranh giữa các NH,lãi suất giữa các nguồn tiền khác nhau cũng ảnh hưởng tới kỳ hạn thực tế.
Cụ thể: sự thay đổi lãi suất sẽ gây ra sự dịch chuyển tiền gửi từ NH này
sang NH khác, từ kỳ hạn này sang kỳ hạn khác, từ loại tiền này sang loại
tiền khác, làm giảm kỳ hạn thực tế của khoản tiền gửi
Ví dụ: Ngân hàng A ở Hà Nội tăng lãi suất tiền gửi loại 12 tháng từ
0,55%/tháng lên 0,6%/tháng có thể sẽ gây ra 2 loại “hiệu ứng”
SVTH: Phạm Quang Hải 38
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 41/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Tiền gửi từ các NH khác, hoặc tiền trong dân cư sẽ chảy về NH A. Điều
này phụ thuộc vào sự hấp dẫn của lãi suất gia tăng và các chi phí dịch
chuyển. Các món tiền nhỏ bé thường ít bị hấp dẫn khi lãi suất tăng ít. Một
món tiền gửi tại NH Cà Mau không dễ chuyển ra Hà Nội trong điều kiện
công nghệ NH và chi phí chuyển tiền hiện nay. Các món tiền gửi đã gần
đến hạn có thể ít bị dịch chuyển: người gửi cố gắng chờ đến hạn để được
lãi suất đầy đủ.
Sự dịch chuyển giữa các loại tiền gửi trong nội bộ NH A. Loại hiệu ứng
này không làm thay đổi (gia tăng) quy mô của nguồn mà chỉ làm thay đổi
kết cấu cảu nguồn, tác động tới tính ổn định của các nguồn khác kém hấp
dẫn hơn về lãi suất.
* Xem xét khả năng chuyển hoán kỳ hạn của nguồn.
Một nguồn tiền nào đó trong NH được tạo ra bởi sự tiếp nối liên tục của
các khoản huy động và đi vay. Một nguồn với kỳ hạn danh nghĩa là ngắn
hạn, có thể tồn tại liên tục trong nhiều năm, tức là thành nguồn có kỳ hạn
thực tế là trung và dài hạn. Phân tích và đo lường kỳ hạn thực tế của nguồn
tiền là cơ sở để NH quản lý thanh khoản, chuyển hoán kỳ hạn của nguồn,
sử dụng các nguồn có kỳ hạn ngắn để cho vay với kỳ hạn dài hơn.
Phương pháp cơ bản để phân tích kỳ hạn thực tế là dựa trên số liệu
thống kê để thấy sự biến động số dư của mỗi nguồn vốn, của nhóm nguồn,
tìm số dư thấp nhất trong quý, trong năm, trong nhiều năm và các nhân tốảnh hưởng đến sự thay đổi, từ đó người quản lý đo được kỳ hạn thực gắn
liền với các số dư.
=> Quản lý kỳ hạn luôn gắn liền với quản lý lãi suất. Một sự gia tăng
trong lãi suất nguồn đều liên quan tới không chỉ tăng quy mô của nguồn mà
còn tới tính ổn định của nguồn giữa các NH, tính ổn định trong từng NH.
Lựa chọn cơ cấu lãi suất sao cho vừa đảm bảo gia tăng tổng nguồn, tiết
SVTH: Phạm Quang Hải 39
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 42/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
kiệm, chi phí, vừa lại tăng tính ổn định của nguồn là nội dung quản lý
nguồn vốn của NH.
5.4. Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn
Thực hiện chức năng trung gian tài chính, trung gian thanh toán, NH
thường xuyên phải duy trì khả năng thanh toán, tức duy trì thanh khoản của
NH. Sự ổn định của hệ thống NH liên quan chặt chẽ tới khả năng cung cấp
thanh khoản của nó. Do giới hạn nghiên cứu sẽ tập trung vào tính thanh
khoản của nguồn vốn.
5.4.1. Khái niệm:Khả năng huy động tạo khả năng thanh toán của NH, phản ánh tính
thanh khoản của nguồn vốn. Tính thanh khoản của nguồn được đo bằng
thời gian và chi phí để mở rộng nguồn khi cần thiết. Thời gian và chi phí
càng thấp, tính thanh khoản của nguồn càng cao.
5.4.2. Tính thanh khoản của nguồn vốn:
* Nhu cầu thanh khoản từ phía nguồn vốn
- Nhu cầu rút tiền của người gửi: các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân
có tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi khác…
- Các khoản tiền vay đến hạn trả
- Lãi cho các khoản tiền gửi.
* Cung thanh khoản từ phía nguồn vốn:
Khả năng huy động mới nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách
hàng
* Các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu thanh khoản:
- Nhóm nhân tố tạo ra hoảng loạn trong khách hàng gửi tiền: bất ổn
chính trị, tham nhũng trong hệ thống tài chính.
SVTH: Phạm Quang Hải 40
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 43/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
- Nhóm nhân tố liên quan đến thu nhập và nhu cầu chi tiêu của khách
hàng: tính thời vụ trong sản xuất và tiêu dùng.
- Nhóm nhân tố cạnh tranh trên địa bàn giữa các trung gian tài chính
như chính sách lãi suất huy động…
- Nhóm nhân tố tạo nên sức mạnh và uy tín của bản thân NH: cán bộ,
công nghệ, thị phần…
* Rủi ro thanh khoản là tổn thất xảy ra cho NH khi nhu cầu thanh khoản
thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến. Trong điều kiện bình
thường, các NH vẫn có thể gặp phải một số vấn đề về thanh khoản trongquá trình đáp ứng các nhu cầu rút tiền của người gửi.
Tuy nhiên, những khó khăn lớn về thanh khoản thường xuất hiện khi
nhu cầu chi trả tiền gửi có biến động lớn so với mức bình thường mà ngân
hàng không thể dự đoán trước được. Bất kì một sự tăng lên đột ngột nào
của làn sóng rút tiền gửi của khách hàng, đều có thể làm tăng thêm những
khó khăn về thanh khoản cho NH. Kết quả cuối cùng có thể đẩy NH vàotình trạng mất khả năng thanh toán.
Hiện tượng rút tiền gửi ra khỏi NH một cách ồ ạt, bất ngờ và không dự
đoán trước là thuộc tính cơ bản và riêng có của các hợp đồng tiền gửi
không kì hạn vì nó được NH tiếp nhận trước tiên, đồng thời được chi trả
đầu tiên. Nhưng cụ thể, họ có thể được trả đầy đủ hoặc không được trả một
đồng nào.
Ví dụ: Động cơ của việc rút tiền ồ ạt ra khỏi ngân hàng
TS có TS nợ
$90 TG: $100
(100 x $1/người)
SVTH: Phạm Quang Hải 41
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 44/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Giả thiết rằng NH có 100 khách hàng gửi tiền. Mỗi người gửi 1$ vào
NH. Giả sử mỗi người có một lý do để tin rằng giá trị tài sản có trên bảng
cân đối của NH chỉ có $90 (chính xác hoặc không chính xác).
Kết quả, mọi người gửi tiền đều có cùng một động cơ để nhanh chóng
đến NH rút ngay số tiền gửi $1. Nếu NH chỉ có số tài sản có trị giá 90$ thì
chỉ có 90 người gửi tiền đến trước được thanh toán. Mười người đến chậm
sẽ không được gì.
=> Với đặc điểm của tiền gửi không kỳ hạn đã làm cho các NH gặp phải
những trở ngại trong hoạt động quản trị thanh khoản.
* Biện pháp đáp ứng nhu cầu thanh khoản từ phía bên nguồn phụ thuộc
rất nhiều vào chi phí và thời gian huy động. Khi chuyển hoán kì hạn (huy
động vốn từ các món vay nhỏ, ngắn hạn để thực hiện cho vay lớn, trung và
dài hạn), NH có thể gánh chịu rủi ro lãi suất và rủi ro thanh khoản. Do sự
không phù hợp về kì hạn giữa nguồn và tài sản, NH phải cân nhắc về việc
sử dụng dòng tiền vào để đáp ứng đầu tư và đồng thời duy trì thanh khoản
ở mức cần thiết.
Lựa chọn cung thanh khoản từ phía bên nguồn:
- Vay NHTW: Thường được ưu tiên sử dụng để đáp ứng nhu cầu thanh
khoản. Vài thời kỳ NHTW áp dụng chính sách tiền tệ mở rộng, việc vay
mượn có thể dễ dàng hơn, lãi suất thường rất thấp, thấp nhất trong khung
lãi suất cho vay -> NHTM có thể sử dụng nguồn này để đáp ứng nhu cầuthanh khoản.
- Vay từ ngân hàng khác trên thị trường liên ngân hàng: Cùng với sự
phát triển của công nghệ thông tin, các NHTM được nối mạng với nhau,
tạo điều kiện để các ngân hàng cho nhau vay số tiền tạm thời chưa sử dụng.
Lãi suất thường cao hơn lãi suất của NHTW nhưng thủ tục vay mượn đơn
giản.
SVTH: Phạm Quang Hải 42
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 45/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
- Vay bằng cách phát hành các giấy nợ ngắn hạn như chứng chỉ tiền gửi
(CD).
Lãi suất của các giấy nợ này thường cao hơn tiền gửi tiết kiệm cùng kì
hạn nhưng ngân hàng chủ động huy động một lượng tiền lớn đúng như yêu
cầu trong khoảng thời gian xác định, có thể mua bán lại ở thị trường cấp 2
khiến chúng hấp dẫn hơn.
- NH có thể tăng lãi suất tiền gửi để cạnh tranh với các NH khác nhằm
huy động được nhiều hơn. Biện pháp này thường áp dụng khi cần vốn để
cho vay vì chi phí thường cao.
- Mở rộng và đa dạng hoá khách hàng gửi tiền (mở nhiều chi nhánh ở
các vùng, quốc gia, cung cấp nhiều loại hình gửi … để hạn chế nhu cầu
thanh khoản thời vụ lớn hơn hoặc bằng chu kỳ.
Ví dụ: Giả sử bảng cân đối tài sản của một ngân hàng khi thiếu hụt.
TS có TS nợ
$ 100 Tiền gửi: $ 65
Tiền vay: $10
Tài sản nợ khác: $20
$100 $ 95
Có nhiều cách để đáp ứng sự thiếu hụt này nhưng ta sẽ nghiên cứu cách
quản lý tài sản nợ. NH sẽ tiếp cận với thị trường tiền tệ để vay tiền: thị
trường chính thức; thị trường liên NH và thị trường các hoạt động mua lại.
Các thị trường này cung cấp các khoản tín dụng trong ngắn hạn. Ngoài ra,
NH có thể phát hành bổ sung các chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn với lãi suất
cố định hoặc có thể chuyển nhượng được…
Khi tổng số tiền mặt đủ 5 $, NH có thể bù đắp hoàn toàn chênh lệch tiền
gửi ròng phải trả.
SVTH: Phạm Quang Hải 43
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 46/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
TS có TS nợ
$ 100 Tiền gửi: $ 75
Tiền vay: $10
Tài sản nợ khác: $20
$100 $ 100
Áp dụng phương pháp này sẽ gia tăng chi phí của NH vì NH phải đi vay
với điều kiện không thuận lợi, chịu lãi suất cao -> phương pháp này trở nên
kém hấp dẫn. Nhưng nó cho phép NH duy trì quy mô bảng cân đối, không
làm ảnh hưởng đến quy mô và kết cấu tài sản có của bảng cân đối tài sản vì
tất cả những điều chỉnh đều xảy ra bên phía tài sản nợ của bảng cân đối,
không ảnh hưởng tới bên tài sản có khi giải quyết nhu cầu thanh khoản về
chi trả tiền gửi. Đó chính là lý do phát triển nhanh chóng của kĩ thuật quản
lý tài sản nợ trong NH kết hợp với thị trường tiền tệ.
5.4.3. Quản lý rủi ro thanh khoản nguồn vốn.
Một NH dựa quá nhiều vào các nguồn quỹ vay mượn trên thị trường đểgiải quyết các nhu cầu thanh khoản có thể phải đối mặt với những rủi ro
thanh khoản rất lớn. Hoạt động quản lý tài sản nợ của mỗi NH còn phải dựa
vào danh tiếng của NH trên thị trường, chất lượng thị trường tiền tệ và
trạng thái thanh khoản chung của hệ thống tài chính để quản lý thanh
khoản. Điều đó đòi hỏi các nhà quản lý NH phải kết hợp lựa chọn thích hợp
giữa phương pháp sử dụng các tài sản có lỏng dự trữ để đáp ứng nhu cầuthanh khoản với giải pháp tìm kiếm các nguồn thanh khoản trên thị trường.
Có nhiều loại chiến lược mà các nhà quản lý NH thực hiện để quản lý
danh mục tài sản nợ của họ. Mỗi chiến lược đều phải cân đối giữa mức độ
rủi ro với thu nhập. Mục tiêu chung của những chiến lược này là tăng thu
nhập, giảm chi phí, đảm bảo khả năng thanh toán trong mọi điều kiện của
thị trường.
SVTH: Phạm Quang Hải 44
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 47/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
* Chiến lược phát triển một cơ sở nguồn vốn vững chắc từ các thị
trường bán lẻ.
Một chiến lược cơ bản thường được sử dụng trong hầu hết các NH là
mở rộng và khai thác các nguồn vốn cá nhân (bán lẻ). Tiền gửi cá nhân là
một trong những nguồn vốn chủ yếu nhất của chiến lược huy động vốn của
các NH, bởi vì đặc điểm ổn định của nguồn vốn này cũng như chi phí
tương đối thấp so với nguồn vốn khác trên thị trường. Về mặt thời hạn, các
nguồn vốn bán lẻ này được xem như những nguồn tài chính ngắn hạn và có
thể rút ra lập tức bất cứ lúc nào.
Để có được nguồn vốn này, NH phải đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng với
chi phí khá cao. Đồng thời, để giành được khách hàng, các NH phải có sự
chuẩn bị để đầu tư nâng cấp hệ thống mạng lưới chi nhánh, mở ra các kênh
phân phối bằng điện tử, giúp họ thu hút thêm những người gửi tiền cá nhân.
Các NH cũng phải chuẩn bị các điều kiện cần thiết để nâng cao khả năng
cạnh tranh về lãi suất trong huy động tiền gửi.
Mặt khác, những người đầu tư ngày càng hiểu biết tốt hơn về các công
nghệ tài chính mới nên ngày càng có phạm vi rộng lớn hơn các cơ hội chọn
lựa các phương thức đầu tư. Vì vậy, để không ngừng mở rộng và duy trì
được nguồn vốn quan trọng này, các NH phải chuẩn bị đầy đủ các điều
kiện cần thiết cho việc tạo ra các dịch vụ và sản phẩm dịch vụ mới.
Trong tiến trình khai thác và duy trì vững chắc nguồn vốn tiền gửi cánhân, một vấn đề cần quan tâm đó là kết hợp giữa mạng lưới chi nhánh bán
lẻ với các kênh phân phối bằng điện tử như: máy rút tiền tự động ATM hay
các ngân hàng bằng điện thoại. Tuy chi phí dịch vụ của các chi nhánh khá
cao nhưng nó vẫn cần được tiếp tục duy trì để phát triển chiến lược quản lý
tài sản nợ. Nguồn vốn này chủ yếu được các NH thu hút thông qua các tài
khoản tiền gửi thanh toán, tài khoản tiết kiệm và các tài khoản tiền gửi có
kỳ hạn. Nhưng các tài khoản tiền gửi thanh toán, tài khoản tiền gửi tiết
SVTH: Phạm Quang Hải 45
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 48/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
kiệm chứa đựng mức độ rủi ro rút vốn lớn nhất. Tuy nhiên, mức độ rủi ro
thanh khoản cao được bù đắp khi mà các NH chỉ phải trả mức lãi suất
tương đối thấp. Trái lại, tài khoản tiền gửi có kỳ hạn áp dụng lãi suất cố
định có mức rủi ro rút vốn rất thấp so với 2 loại tiền tiền gửi này, ngoại trừ
trường hợp người gửi có nhu cầu rút vốn ra trước thời hạn.
Trong quản lý tài sản nợ, các NH cần phải nhận thức rõ và giám sát toàn
diện các khoản chi phí huy động vốn từ các khu vực cá thể trong mọi điều
kiện của thị trường. Trong trường hợp lãi suất thị trường cao, các tài khoản
tiền gửi thanh toán được trả lãi suất thấp tương xứng với giá trị cơ hội mà
NH thu được. Khi lãi suất thị trường thấp thì các NH có thể phải chịu
những chi phí cơ hội cao đối với các nguồn vốn này, bao gồm các chi phí
mở tài khoản tiền gửi khách hàng kèm theo các khoản mục chi phí liên
quan: cấp sổ séc, gửi thông báo cho khách hàng.
* Chiến lược đa dạng hoá các nguồn vốn
Đa dạng hoá các nguồn vốn để giảm thấp mức độ ảnh hưởng của thị
trường. Tuy nhiên, khi đa dạng hoá các nguồn vốn huy động, NH sẽ mở
rộng nguồn vốn đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của nó, đồng thời cũng làm
tăng thêm chi phí huy động vốn dưới các điều kiện của thị trường. Một vài
thị trường sẽ trở nên đắt đỏ hơn các thị trường khác, điều này phụ thuộc
vào đặc tính của từng công cụ huy động vốn, vào uy tín của từng NH, hay
vào điều kiện kinh tế cụ thể của từng khu vực địa lý. Cuối cùng là nhằm
nâng cao uy tín cho NH trước những nhà đầu tư, đảm bảo khả năng thanh
toán và hạ thấp chi phí phát hành các công cụ nợ của họ, một số NH đã tìm
kiếm thêm các nguồn vốn ở các thị trường khác để tài trợ cho các nhu cầu
thương mại.
Do đa dạng hoá các nguồn vốn đã làm cho các NH ngày càng phải dựa
vào các tổ chức tài chính chuyên nghiệp nhiều hơn để mở rộng quy mô
hoạt động của mình. Hơn nữa, cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính đã thúc
SVTH: Phạm Quang Hải 46
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 49/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
đẩy sự ra đời của hàng loạt các sản phẩm tiền gửi mới so với các loại tiền
gửi NH truyền thống trước đây và được cung cấp bởi nhiều tổ chức tài
chính phi NH. Như vậy, các NH đã mất đi đáng kể các nguồn vốn rẻ nhất
của họ. Sự thay đổi này làm tăng lên đáng kể chi phí huy động vốn của NH.
* Chiến lược tăng cường nguồn vốn dài hạn, lãi suất cố định
Danh mục tài sản nợ của hầu hết các NH có xu hướng nghiêng về các
nguồn vốn dài hạn với lãi suất cố định. Đó là kết quả đương nhiên của quá
trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư của bộ phận các nhà đầu tư sang các nguồn
vốn dài hạn, dẫn đến một hiện tượng phổ biến là các NH sử dụng các
nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho các tài sản có dài hạn. Điều này đã tạo ra
rủi ro thanh khoản và làm tăng thêm các khó khăn cho ngân hàng khi thay
thế các nguồn vốn đã đến hạn thanh toán.
Nhận rõ sự mất cân đối về khả năng thanh toán và rủi ro lãi suất do thời
lượng giữa tài sản có và tài sản nợ không cân xứng với nhau, các NH đã
tích cực chủ động tìm cách kéo dài thời lượng của danh mục tài sản nợ. Với
một nguồn vốn dài hạn hơn, có thể giúp NH tránh được những biến động
về giá cả khi quay vòng các tài sản nợ ngắn hạn. Nó còn cho các NH biết
trước mức chi phí huy động vốn sẽ phải trả, từ đó giúp họ chủ động đáp
ứng các nhu cầu của thị trường với lãi suất phù hợp, tránh được dự trữ quá
cao về thanh khoản cũng như tránh được rủi ro về lãi suất.
Trên thị trường tài chính chuyên nghiệp, mỗi NH còn có thể tăng cácnguồn vốn dài hạn với lãi suất cố định bằng cách phát hành thêm các loại
trái phiếu hoặc các loại chứng chỉ tiền gửi. Tuy các công cụ nợ này có mức
chi phí huy động khác cao, nhưng lại cung cấp cho NH một nguồn vốn dài
hạn và ổn định. Ngoài ra có thể chuyển nhượng, mua bán trên thị trường
thứ cấp nên hầu như không có rủi ro rút vốn đối với công cụ này. Nó đảm
bảo cho NH một nguồn vốn ổn định đến tận khi các công cụ nợ đến hạn.
SVTH: Phạm Quang Hải 47
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 50/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Để tăng vốn bằng cách sử dụng các công cụ đó, mỗi NH cần phải có uy
tín, có mối quan hệ quen biết rộng tãi trên các thị trường. Ngoài ra, để đi
đến quyết định chọn lựa các công cụ tăng vốn dài hạn nào, mỗi nhà quản lý
NH phải xem xét phối hợp thời gian tăng quỹ sao cho phù hợp, đồng thời
phải tính toán và so sánh giữa tổng số chi phí cần thiết để dự trữ thanh
khoản với tổng số tăng thêm vì chi phí trả lãi suất cao nếu như cần thiết
phải tăng thêm nguồn vốn.
Như vậy, vấn đề quản lý thanh khoản và quản lý tài sản nợ trong mỗi
NH có quan hệ mật thiết với nhau. Nếu một NH áp dụng mô hình quản lý
tài sản nợ nhằm tác động tới toàn bộ rủi ro rút vốn trong danh mục nguồn
vốn thì phải có đủ tài sản dự trữ để đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu rút tiền
gửi của khách hàng. Tuy nhiên, để khắc phục vấn đề rủi ro rút vốn bao giờ
cũng làm tăng thêm chi phí của ngân hàng. Bởi vì khi sử dụng những
nguồn tài sản nợ mà có thể dễ dàng giúp cho các nhà quản lý kiểm soát kịp
thời những rủi ro thanh khoản trong tương lai thường có mức chi phí khá
cao. Do vậy, trong 3 chiến lược cơ bản thường áp dụng để quản lý tài sản
nợ, mỗi ngân hàng phải nghiên cứu để lựa chọn cho mình một chiến lược
quản lý phù hợp, có hiệu quả nhất.
SVTH: Phạm Quang Hải 48
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 51/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
CHƯƠNG 2
LIÊN HỆ THỰC TIỄN
1. Tình hình huy động và quản lý tiền gửi tại các NHTM
Việt Nam.
Lãi suất là một trong những công cụ tài chính quan trọng nhất của các
ngân hàng. Lãi suất huy động tiền gửi, còn gọi là lãi suất huy động vốn hay
tiết kiệm, và lãi suất cho vay là hai công cụ chính các ngân hàng dùng đểnâng cao thế mạnh tài chính của họ và giúp đóng góp vào việc ổn định và
phát triển nền kinh tế quốc dân. Công cụ tài chính này thường được các
Ngân hàng Trung ương của các quốc gia thường xuyên sử dụng để ổn định
nền kinh tế trong nước. Khi nền kinh tế của họ có dấu hiệu chậm lại, các
Ngân hàng Quốc gia thường đưa ra một lãi suất cho các ngân hàng tư nhân
vay rất thấp để khuyến khích việc họ vay và cho vay lại để tiêu dùng hayđầu tư phát triển giúp hâm nóng nền kinh tế trở lại. Khi tốc độ phát triển
của nền kinh tế tăng quá mau dẫn đến tình trạng lạm phát, giá cả leo thang
thì các Ngân hàng Quốc gia này sẽ đưa ra lãi suất cao để giảm thiểu số
lượng tiền vay của các ngân hàng tư nhân và qua đó giảm nhu cầu tiêu
dùng của người dân.
Ở Việt Nam, đa số các ngân hàng thương mại lớn đều thuộc quyền sở hữu của Nhà nước và chịu sự chi phối của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).
Một cách nào đó, việc tăng hay giảm lãi suất tiết kiệm hay cho vay đều
phản ảnh chính sách của NHNN, chiến lược riêng của từng ngân hàng và
có sự tác động của nền kinh tế thị trường.
Mỗi ngân hàng đều có chiến lược hay lý do riêng khi quyết định tăng lãi
suất tiền gửi. Điểm mấu chốt là khi tăng lãi suất này, các ngân hàng đềunhằm vào việc thu hút thêm lượng tiền hiện đang luân chuyển trong thị
SVTH: Phạm Quang Hải 49
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 52/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
trường để phục vụ một mục đích tài chính nào đó. Tùy vào nhu cầu tiền
mặt của ngân hàng, của chính phủ hay các khách hàng lớn cần vay để mua
bán, đầu tư vào dự án trọng điểm, các ngân hàng sẽ đưa ra mức lãi suất
thấp hay cao để thu hút dân chúng bỏ tiền vào các tài khoản hoặc quỹ tiết
kiệm. Với các nền kinh tế phát triển mạnh, nhu cầu sử dụng tiền mặt hay
đầu tư vào các dự án tăng cao, ngân hàng thường không đủ tiền để cho vay
nên phải tìm cách huy động tiền gửi sau đó cho vay lại với một lãi suất cao
hơn.
Việc tăng hay giảm lãi suất tiền gửi hoặc cho vay là những sinh hoạt
thường xuyên của các ngân hàng, và giúp chúng ta thấy được sức mạnh của
ngành ngân hàng cũng như của nền kinh tế. Không có lý do gì để chúng ta
lo ngại mỗi lần ngân hàng thay đổi lãi suất, nhất là khi mức tăng hay giảm
vừa phải theo thị trường hay được Ngân hàng Nhà nước giám sát và cho
phép.
Có những lý do khách quan do thị trường tác động và có những lý do
riêng biệt khác mang tính chất hay nhu cầu nội bộ của việc tăng lãi suất
tiền gửi. Nhiều ngân hàng vì cần số lượng tiền cho vay lớn và để gấp rút
đáp ứng nhu cầu phát triển của chính phủ hay doanh nghiệp (đầu tư, nhập
khẩu, v.v.) nên phải huy động tiền gửi qua việc tăng lãi suất tiết kiệm ngắn
hay dài hạn. Các ngân hàng khác, vì vị thế và nhu cầu cạnh tranh không
muốn mất khách hàng, tuy không có nhu cầu tiền mặt lớn, thường vẫn phải
tăng lãi suất để cùng đứng chung với các ngân hàng khác. Việc các ngân
hàng theo nhau tăng hay giảm lãi suất cũng là việc bình thường.
1.1. Thực trạng huy động tiền gửi tại các NHTM Việt Nam.
1.1.1. “Chạy đua lãi suất” giữa các NHTM.
Trong 6 tháng đầu năm (2006), lãi suất huy động và cho vay của các
ngân hàng thương mại (NHTM) tăng nhẹ so với đầu năm. Điều đáng longại là lãi suất tăng trong khi nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng
SVTH: Phạm Quang Hải 50
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 53/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
vẫn dư thừa, cung - cầu vốn ở mức bình thường, lãi suất VND chênh lệch
dương so với lạm phát (cao hơn lạm phát) khoảng 2%/năm. Theo NHNN
Việt Nam, trong 6 tháng, lãi suất huy động và lãi suất cho vay của các tổ
chức tín dụng vẫn tăng nhẹ, đối với lãi suất VND tăng khoảng 0,12% -
0,24%/năm, còn lãi suất đồng USD tăng khoảng 0,1% - 0,3%/năm.
Đầu tháng 7-2006, sau khi Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) điều chỉnh
lãi suất cơ bản đồng USD từ mức 5% lên 5,25%/năm, nhiều ngân hàng
trong nước không thể “kìm” được áp lực, tiếp tục tăng lãi suất huy động.
Đầu tiên là Eximbank điều chỉnh lãi suất huy động USD, với mức tăng
0,2% - 0,6%/năm, tùy theo các kỳ hạn. Ngân hàng Thương mại cổ phần Á
Châu (ACB) cũng tăng lãi suất tiền gửi VND cho tất cả kỳ hạn, mức tăng
có biên độ từ 0,24% đến 0,60%/năm.
Mới đây, lại đến Ngân hàng Công thương Việt Nam điều chỉnh biểu lãi
suất huy động USD. Còn Ngân hàng Thương mại cổ phần Các doanh
nghiệp Ngoài quốc doanh (VPBank) tăng lãi suất USD và VND ở tất cả kỳ
hạn.
Hiện tại, một số NHTM, trước hết là các NHTM cổ phần đã điều chỉnh
tăng lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm. Có một thực tế, do đặc điểm
chung của các NHTM nước ta chủ yếu vẫn sử dụng công cụ lãi suất để
cạnh tranh với nhau. Trong khi đó các NHTM cổ phần, nói chung mạng
lưới và khả năng tiếp cận khách hàng có hạn chế hơn so với NHTM quốcdoanh. Ðể bù đắp, thông thường các ngân hàng này thường áp dụng mức
lãi suất có nhỉnh hơn so với các NHTM quốc doanh.
Những ngày cuối tháng 7, đầu tháng 8 (2006), người ta chứng kiến tình
hình nhiều ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh tăng lãi
suất huy động cả VND và USD.
Các ngân hàng thương mại Nhà nước và các công ty tài chính tuy khôngtuyên bố tăng lãi suất, nhưng cũng chào mời các loại chứng từ có giá vớiSVTH: Phạm Quang Hải 51
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 54/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
mức lãi suất cao hơn mức lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn và khuyến mãi
kèm các giải thưởng.
Chúng ta hãy xem xét từ thực tiễn ở Hà Nội và Tp. HCM (hai địa bàn
chiếm đến 70% tổng vốn huy động và hơn 50% dư nợ cho vay của toàn hệ
thống ngân hàng). Đến cuối tháng 7/2006, số dư vốn huy động từ các tổ
chức kinh tế-xã hội và dân cư của các tổ chức tín dụng Hà Nội đạt trên
175.000 tỷ đồng nhưng dư nợ cho vay chỉ gần 92.000 tỷ đồng.
Còn tại Tp.HCM, liên tục trong 7 tháng đầu năm hoạt động tăng trưởng
tín dụng trên địa bàn có tốc độ tăng trưởng chậm hơn so với các năm trước
đây trong khi huy động vốn tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng cao. Tỷ lệ sử
dụng vốn cho vay trực tiếp nền kinh tế trên vốn huy động của các ngân
hàng thương mại tại Tp. HCM hiện chỉ trên 80% (trước đây có lúc lên trên
90%).
Nhìn vào hiện tượng trên thì có vẻ đúng là lãi suất tăng không phải do
sức ép cung-cầu vốn, nhưng tại sao không cần vốn mà các ngân hàng vẫn
tăng lãi suất huy động.
Ta có thể xem xét lãi suất huy động tiền gửi dân cư của VCB và VP
Bank làm ví dụ
Bảng 2.1
LÃI SUẤT HUY ĐỘNG TIỀN GƯI DÂN CƯ CỦA VCB - 08/11/2006
Đơn vị: % / năm
1 tháng 2 tháng 3 tháng 6 tháng 9 tháng 12 tháng Không kỳ hạn
VND 6.24 6.84 7.44 7.8 8.04 8.4 2.4
USD 3.7 3.8 4.2 4.4 4.55 4.85 1.25
EUR 1.2 1.4 1.6 1.8 1.8 1.9 0.5
SVTH: Phạm Quang Hải 52
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 55/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Bảng 2.2BIỂU LÃI SUẤT HUY ĐỘNG VỐN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
CHI NHÁNH HÀ NỘI & CHI NHÁNH THĂNG LONG CỦA VP-B (Áp dụng từ ngày 10/07/2006)
LOẠI KỲ HẠN LÃI SUẤT VNĐ(Áp dụng với cả tiền gửi và tiết kiệm)
Dưới 100 trđ 100-> dưới 500 trđ Từ 500 trđ trở lên
% tháng % năm % tháng % năm % tháng % năm
Không kỳ hạn 0.25 3.00 0.26 3.12 0.27 3.24
Kỳ hạn 01 tháng 0.60 7.20 0.61 7.32 0.62 7.44
Kỳ hạn 02 tháng 0.65 7.80 0.66 7.92 0.67 8.04
Kỳ hạn 03 tháng (lãi cuối kỳ) 0.71 8.52 0.72 8.64 0.73 8.76
- Trả lãi hàng tháng 0.70 8.40 0.71 8.52 0.72 8.64Kỳ hạn 06 tháng (lãi cuối kỳ) 0.73 8.76 0.74 8.88 0.75 9.00
- Trả lãi hàng tháng 0.72 8.64 0.73 8.76 0.74 8.88
Kỳ hạn 09 tháng (lãi cuối kỳ) 0.75 9.00 0.76 9.12 0.77 9.24
- Trả lãi hàng tháng 0.73 8.76 0.74 8.88 0.75 9.00
Kỳ hạn 12 tháng (lãi cuối kỳ) 0.77 9.24 0.78 9.36 0.79 9.48
- Trả lãi hàng tháng 0.74 8.88 0.75 9.00 0.76 9.12
Kỳ hạn 13 tháng (lãi cuối kỳ) 0.78 9.36 0.79 9.48 0.80 9.60
- Trả lãi hàn g tháng 0.75 9.00 0.76 9.12 0.77 9.24
Kỳ hạn 24 tháng (lãi cuối kỳ) 0.80 9.60 0.81 9.72 0.82 9.84
- Trả lãi hàng tháng 0.75 9.00 0.76 9.12 0.77 9.24
Kỳ hạn 36 tháng (lãi cuối kỳ) 0.82 9.84 0.83 9.96 0.84 10.08
- Trả lãi hàng tháng 0.75 9.00 0.76 9.12 0.77 9.24
1.1.2. Nguyên nhân của tình trạng này là gì?
Có thể đưa ra một số lý giải sau.
-Cơ cấu tiền gửi của các ngân hàng thương mại chưa vững chắc
- Phần lớn vốn sử dụng để cho vay của các ngân hàng là từ nguồn tiền
gửi của các tổ chức và tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Tiền gửi tiết kiệm tuy
phải trả lãi suất cao hơn nhưng đặc điểm của nguồn này có tính ổn định,
vững chắc.
SVTH: Phạm Quang Hải 53
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 56/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Hiện nay, 55,4% vốn huy động của các ngân hàng thương mại ở Hà Nội
là của các tổ chức kinh tế-xã hội và các định chế tài chính (không phải các
tổ chức tín dụng). Tỷ lệ này ở Tp.HCM là 51%.
- Bên cạnh đó, tiền gửi của các doanh nghiệp, đặc biệt là các tổng công
ty lớn (từ hàng chục đến hàng ngàn tỷ đồng) cũng đều là nguồn vốn không
kỳ hạn hoặc ngắn hạn, bất cứ lúc nào cũng bị rút đột ngột.
Một chi nhánh Ngân hàng Công thương trên địa bàn Hà Nội có hơn
3.000 tỷ vốn huy động, trong đó 1.000 tỷ là tiền gửi ngắn hạn của một tổng
công ty Nhà nước. Ngân hàng này luôn nơm nớp lo nếu vì lý do nào đó
tổng công ty này rút số tiền trên thì ngay lập tức nguồn vốn huy động của
chi nhánh này giảm 1/3 và hậu quả của nó đối với việc cân đối vốn thì ai
cũng rõ.
- Tác động từ việc tăng lãi suất của FED
Đến ngày 29/6/2006 FED tăng lãi suất cơ bản lên mức 5,25%/năm, đây
là lần tăng thứ 17 trong vòng 2 năm qua kể từ tháng 6/2004. Lãi suất củathị trường tài chính của các nước luôn tác động lẫn nhau. Lãi suất huy động
ngoại tệ trong nước lần lượt tăng theo các lần điều chỉnh của FED. Hiện lãi
suất huy động USD kỳ hạn 12 tháng cao nhất của ngân hàng thương mại đã
đến mức 5,1%/năm.
Bên cạnh đó, lãi suất ngoại tệ tăng gây sức ép lên lãi suất nội tệ. Nhiều
ngân hàng lo ngại người dân sẽ chuyển từ gửi nội tệ sang ngoại tệ khiếnngân hàng thiếu hụt vốn nội tệ nên cũng phải tăng lãi suất nội tệ lên ở mức
tương đối có lợi cho người gửi tiền để duy trì nguồn vốn này.
- Sức ép cạnh tranh và mở rộng kinh doanh
Chúng ta đều biết tiền gửi là đầu vào sống còn trong hoạt động của ngân
hàng. Trong giới ngân hàng có câu: "Ai có nguồn vốn lớn, người ấy chiếm
lĩnh thị trường".
SVTH: Phạm Quang Hải 54
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 57/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Sức ép cạnh tranh để giữ và phát triển nguồn vốn là rất gay gắt. Một số
ngân hàng thương mại cổ phần Hà Nội cho biết tại thời điểm này tuy không
thiếu vốn nhưng họ vẫn phải tăng lãi suất huy động vì sợ khách hàng rút
tiền sang các ngân hàng khác có lãi suất cao hơn.
Phó tổng giám đốc một ngân hàng thương mại cổ phần nói: "Qua theo
dõi tình hình hiện nay, tôi thấy cứ chi nhánh nào có nguồn tiền gửi từ tổ
chức kinh tế- xã hội và dân cư lớn thì chi nhánh đó lỗ vì lãi suất huy động
cao, cho vay lại khó khăn, vốn thừa vẫn phải trả lãi cho tiền gửi. Nhưng
tính chung cả hệ thống thì chúng tôi vẫn phải tăng lãi suất vì sụt giảm tiền
gửi không những hoạt động tín dụng trở nên bấp bênh mà còn mất khách
hàng với những nhu cầu sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng".
- Bù đắp cho rủi ro trong hoạt động tín dụng
Trong bối cảnh nền kinh tế đang trong chặng đầu của tiến trình hội
nhập, rủi ro tín dụng ngày càng tăng. Tỷ lệ nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 thể
hiện trên bản cân đối của các ngân hàng thương mại hiện phần lớn ở mức
dưới 5%/tổng dư nợ, nhưng các khoản nợ nhóm 2 (các khoản nợ quá hạn
dưới 90 ngày và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời
hạn nợ đã cơ cấu lại...) đang có xu hướng tăng. Một vài ngân hàng thương
mại Nhà nước tỷ lệ nợ nhóm 2 đến nhóm 5 đã trên mức 20%/tổng dư nợ
cho vay.
Theo phản ánh của một số ngân hàng, các khoản cho vay đối với doanhnghiệp Nhà nước đang có dấu hiệu tiếp tục tăng do khối xây dựng, giao
thông đã hết thời hạn cơ cấu lại nợ nhưng vẫn không thanh toán được nợ.
Nợ xấu cũng xuất hiện một số doanh nghiệp xuất khẩu nhạy cảm với những
biến động của thị trường. Bên cạnh đó nợ đọng trong cho vay lĩnh vực bất
động sản cũng không phải là ít...
SVTH: Phạm Quang Hải 55
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 58/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Tình hình này có thể cũng là một trong những nguyên nhân khiến các
ngân hàng tiếp tục tăng cường thu hút tiền gửi để bù đắp phần vốn đang nợ
đọng và đảm bảo khả năng thanh khoản của mình.
1.2. Thực trạng quản lý tiền gửi tại các NHTM Việt Nam
Chắc chắn rằng không phải người gửi tiền nào cũng hành xử giống hệt
nhau. Một số người chọn gửi tiền vào những ngân hàng có lãi suất huy
động cao, nhưng bù lại thì họ sẽ phải lo lắng nhiều hơn về những thông tin
thất thiệt hay nguy cơ đổ bể thật sự của ngân hàng mình chọn. Ngược lại,
có những người muốn ít phải lo lắng hơn về những vấn đề trên thì lại chọn
những ngân hàng có uy tín cao hơn để gửi tiền. Hiện nay, gửi tiền tại các
ngân hàng là vẫn là phương thức được ưa thích nhất của đại đa số nhân
dân. Việc lựa chọn ngân hàng tùy thuộc vào thái độ của mỗi người đối với
hai yếu tố rủi ro và lãi suất. Hai yếu tố này phụ thuộc nhiều vào mô hình
quản lý tiền gửi của NHTM.
Trong việc quản lý tiền gửi, chi phí và quy mô là hai vấn đề mà các nhà
quản lý ngân hàng luôn phải tìm cách giải quyết. Đúng ra việc quản lý này
về cơ bản phải theo những quy luật của cung-cầu vốn và chiến lược kinh
doanh của ngân hàng. Nhưng hiện nay một số ngân hàng Việt Nam lại đang
phải quản lý tiền gửi theo sức ép của sự cạnh tranh và đảm bảo khả năng
thanh khoản.
Hậu quả của tình hình này là lợi nhuận ngân hàng sẽ giảm, thậm chí cóngân hàng sẽ lỗ hoặc các ngân hàng phải tăng mạnh lãi suất cho vay để bù
đắp chi phí tiền gửi quá lớn.
Cả hai điều này đều bất lợi cho bản thân các ngân hàng và nền kinh tế.
2. Khả năng ứng dụng các mô hình quản lý tiền gửi tại
NHTM Việt Nam.
SVTH: Phạm Quang Hải 56
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 59/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
2.1. Quản lý lãi suất
Trước đây, ở Việt Nam trong cơ chế quản lý theo kế hoạch tập trung lãi
suất tiền gửi và cho vay và NHNN ấn định vả được ổn định trong một thời
gian dài, vì vậy không xuất hiện rủi ro lãi suất hoặc rủi ro không đáng kể.
Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, tính ổn định của lãi suất dần
dần bị phá vỡ. Cuối những năm 1990, lãi suất quy định của NHNN đã thay
đổi thường xuyên hơn 4,5 lần 1 năm. Ngày 1/6/2002 là mốc đáng chú ý khi
Thống đốc Lê Đức Thuý công bố thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận với
các tổ chức tín dụng. Đây được coi là bước điều chỉnh căn bản trong việc
quản lý lãi suất. Với cơ chế mới, các ngân hàng thương mại sẽ buộc phải
cạnh tranh gay gắt hơn, quyết liệt hơn, và phải lao vào một cuộc chạy đua
tăng lãi suất huy động. Cũng theo cơ chế này, rủi ro lãi suất sẽ bộc lộ rõ
nét, đòi hỏi các NH phải quan tâm và có những giải pháp thích hợp nhằm
hạn chế tổn thất. Đây được coi là một bước điều chỉnh căn bản trong việc
quản lý lãi suất, một bước tiến dài trong việc điều hành chính sách tiền tệ
của nước ta.
Việc áp dụng cơ chế tự do hóa lãi suất đã tạo điều kiện tốt cho sự phát
triển của hệ thống ngân hàng và là bước tiến quan trọng của quá trình tự do
hóa tài chính ở VN. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi tích cực thì việc
thực hiện tự do hóa lãi suất trong thời gian qua cũng nảy sinh một số vấn đề
bất cập trong quản lý lãi suất và khó khăn cho hệ thống ngân hàng VN như
việc NHNN công bố lãi suất cơ bản nhằm định hướng lãi suất thị trường
trong thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, các NHTM cổ phần tiềm lực
về tài chính còn hạn chế phải đối mặt khi tiến hành tự do hóa lãi suất.
Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa được chú ý đúng mức ở các
NHTM, trong một số ngân hàng, bộ phận kiểm soát nội bộ tồn tại mang
tính hình thức, không phát hiện được những sai sót của bộ phận điều hành
hoặc nếu có phát hiện ra thì cũng không xử lý được. Đây là vấn đề mà hệ
SVTH: Phạm Quang Hải 57
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 60/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
thống ngân hàng VN cần có biện pháp khắc phục vì nó liên quan mật thiết
đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, nhất là trong vấn đề quản lý lãi
suất của hoạt động tín dụng.
Hiện nay ở Việt Nam vẫn đang áp dụng mô hình quản lý lãi suất theo
phương pháp lãi suất thả nổi có sự quản lý của nhà nước. Việc áp dụng mô
hình đó là đúng đắn trong hoàn cảnh hệ thống Ngân hàng – tài chính của
nước ta vẫn còn mới mẻ, rủi ro vẫn còn cao, pháp luật liên quan đến các
hoạt động tiền tệ vẫn còn chưa thực sự ổn định.
2.2. Quản lý quy mô và cơ cấu
Mỗi Ngân hàng đều có quy mô và cơ cấu nguồn vốn riêng. Những
NHTM lớn có quy mô vốn lớn sẽ có quy mô và tốc độ tăng trưởng khác với
các NHTM nhỏ tiềm lức yếu hơn. Từ đó mỗi NHTM sẽ có mục tiêu phát
triển khác nhau
Xét hai bảng cơ cấu vốn năm 2005 của Ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng thương mại cổ phần Á châu ACB.
Bảng 2.3
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ( BIDV)
Đơn vị : triệu đồng
Nguån vèn 31/12/2005% so víi Σ
vèn vay
% so víi Σ
NV
Vèn vay
TiÒn göi thanh to¸n cña Kho b¹c NN & tæ chøc
tÝn dông kh¸c
TiÒn göi cã kú h¹n vµ tiÒn vay tõ Bé Tµi chÝnh vµ
NHNN VN
TiÒn göi cã kú h¹n vµ tiÒn vay tõ c¸c tæ chøc tÝn
dông kh¸c
C¸c nguån vèn vay kh¸c
TiÒn göi kh¸ch hµng vµ c¸c kho¶n ph¶i tr¶ kh¸ch
hµng
6.225.054
8.752.256
1.759.969
8.142.448
87.025.709
5,56
7,82
1,57
7.28
77.77
5,26
7,39
1,49
6,87
73,48
SVTH: Phạm Quang Hải 58
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 61/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Tr¸i phiÕu ®ang ®îc chµo b¸nTæng vèn vay 111.905.436 100 94,49
% so víi Σ
vèn chñ
% so víi Σ
NV
Vèn chñ së h÷u
Vèn ®iÒu lÖ
Vèn kh¸c
Quü chªnh lÖch tû gi¸ do chuyÓn ®æi b¸o c¸o tµi
chÝnh
C¸c quü dù tr÷
Lîi nhuËn ®Ó l¹i
3.970.997
741.985
50.859
1.652.057
114.963
60,80
11,36
0,78
25,3
1,76
3,35
0,63
0,04
1,39
0,10
Tæng vèn chñ së h÷u 6.530.861 100 5,51Tæng céng 118.436.297 100
Trong tổng vốn của BIDV, vốn nợ chiếm tới 94,49%, vốn chủ sở hữu chỉ
chiếm 5,51%. Tiền gửi của khách hàng và các khoản phải trả khách hàng
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu vốn của BIDV ( 77,77% tổng vốn vay
và 73,48% trong tổng vốn). Các khoản tiền vay từ các nguồn chiếm khoảng
15% tổng vốn. Còn tỷ trọng các nguồn khác là không đáng kể.
Bảng 2.4
Ngân hàng thương mại cổ phần Á châu ACB:
Đơn vị: triệu đồng
Nguån vèn% so víi Σ
vèn vay
% so víi Σ
NV
TiÒn vay tõ Ng©n hµng Nhµ níc ViÖt Nam
TiÒn göi vµ tiÒn vay tõ c¸c tæ chøc tÝn dông trong
níc
Vèn nhËn tõ ChÝnh phñ, c¸c tæ chøc quèc tÕ vµ tæ
chøc kh¸c
TiÒn göi cña kh¸ch hµng
Nî kh¸c
ThuÕ thu nhËp doanh nghiÖp ph¶i nép
967.312
1.123.576
265.428
19.984.920
630.026
18.396
4,21
4,89
1,15
86,93
2,74
0,08
3,985
4,628
1,093
82,334
2,595
0,076Tæng nî 22.989.658 100 94,71
Vèn vµ c¸c quü% so víi Σ
vèn chñ
% so víi Σ
NV
Vèn ®iÒu lÖC¸c quü dù tr÷
948.316138.973
73,910,83
3,910,57
SVTH: Phạm Quang Hải 59
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 62/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Lîi nhuËn cha ph©n phèi 195.917 15,27 0,81Tæng vèn vµ c¸c quü 1.283.206 100 5,29Tæng céng nguån vèn 24.272.864 100
Cơ cấu vốn của ngân hàng ACB cũng tương tự như của BIDV, với tỷ lệ
vốn nợ là chủ yếu (94,71% trong tổng vốn), trong đó tiền gửi của khách
hàng còn chiếm tới 82,33%, cao hơn BIDV là gần 10%. Tiền vay từ NHNN
cũng như các tổ chức tín dụng khác là 8% (thấp hơn BIDV khoảng 7%).
Các NHTM sẽ xây dựng những chiến lược phát triển riêng cho mình
trong từng giai đoạn để quản lý một cách có hiệu quả nhất và tránh tổn thất.
2.3. Quản lý kỳ hạn
Hiện nay hệ thống NHTM Việt Nam thực hiện khá tốt hoạt động này.
Cụ thể trong tiền gửi tiết kiệm có: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi kỳ hạn 3
tháng, tiền gửi kỳ hạn 6 tháng (ví dụ: trong bảng 2.1 và 2.2), đó là kỳ hạn
danh nghĩa. Nhiều người gửi tiết kiệm tại một NH với kỳ hạn danh nghĩa 6
tháng, song khoản tiền gửi có thể được duy trì nhiều lần 6 tháng (các kỳ
hạn 6 tháng nối tiếp nhau, người gửi không rút tiền ra khỏi NH) và trên
thực tế trở thành khoản tiền gửi trung và dài hạn, đó là kỳ hạn thực. Nhìn
chung các NHTM rất linh hoạt trong quản lý kỳ hạn, nhằm tạo cho những
người gửi tiền có được tiện ích phù hợp nhất với mục đích của họ và cũng
để tăng khả năng huy động vốn, đặc biệt là tiền gửi trong xã hội.
2.4. Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn
Các NHTM hiện này đặc biệt chú trọng tới nguồn tiền gửi khi phân tíchtính thanh khoản của nguồn vốn. Các NHTM luôn luôn phải xác định cung
và cầu thanh khoản cũng như những nhân tố tác động tới cung - cầu thanh
khoản. Ta đã biết nếu một NH dựa quá nhiều vào các nguồn quỹ vay mượn
trên thị trường để giải quyết các nhu cầu thanh khoản có thể phải đối mặt
với những rủi ro thanh khoản rất lớn. Hoạt động quản lý tài sản nợ của mỗi
NH còn phải dựa vào danh tiếng của NH trên thị trường, chất lượng thịtrường tiền tệ và trạng thái thanh khoản chung của hệ thống tài chính để
SVTH: Phạm Quang Hải 60
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 63/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
quản lý thanh khoản. Điều đó đòi hỏi các nhà quản lý NH phải kết hợp lựa
chọn thích hợp giữa phương pháp sử dụng các tài sản có lỏng dự trữ để đáp
ứng nhu cầu thanh khoản với giải pháp tìm kiếm các nguồn thanh khoản
trên thị trường. Ta có thể xem xét cơ cấu vốn vay và vốn chủ của BIDV và
ACB trong bảng 2.3 và 2.4 ở trên. Hiện nay các NH rất tập trung mở rộng
và khai thác thị trường cá nhân (thị trường bán lẻ), trong đó tiền gửi cá
nhân là một trong những nguồn vốn chủ yếu chiến lược của các NHTM.
Tuy nhiên trong xu hướng hiện nay các NH cũng thực hiện đa dạng hóa
nguồn vốn cũng nhằm tăng khả năng thanh khoản cho mỗi NH
Trước diễn biến trên thị trường tiền tệ hết sức phức tạp như chúng ta đã
phân tích ở trên, đặc biệt trong thời gian gần đây, thị trường tiền tệ đang có
dấu hiệu nóng lên, trước sức ép về lạm phát leo thang, cùng với đó là
những điều chỉnh gia tăng về lãi suất huy động vốn, cạnh tranh thu hút tiền
gửi và các chiến dịch khuyến mại, mở rộng màng lưới, phát triển dịch vụ
ngân hàng. Đó là một sức ép không nhỏ lên hệ thống NHTM Việt Nam
cũng như toàn bộ nên kinh tế. Nguồn tiền gửi có quan hệ mật thiết tới hoạt
động của các NHTM, là nguồn quan trọng nhất của mỗi NHTM. Do đó các
NH luôn luôn phải có những chiến lược nhằm huy động nguồn vốn này
một cách triệt để nhất, tránh gây lãng phí cho toàn bộ nền kinh tế, cũng như
phải thực hiện quản lý nguồn vốn quan trọng này sao cho thật hiệu quả. Đó
vẫn là một câu hỏi lớn cho hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay.
SVTH: Phạm Quang Hải 61
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 64/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
KẾT LUẬN
Cùng với sự lớn mạnh của đất nước, hệ thống Ngân hàng nước ta cũngđã ngày càng phát triển và tự khẳng định vai trò quan trọng của mình trong
nền kinh tế. Thực tế vài năm qua cho thấy hệ thống NHTM Việt Nam đã
thực hiện khá tốt chức năng trung gian tài chính của mình. Điều này có
được là nhờ hoạt động tương đối hiệu quả của hệ thống NHTM trong việc
thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi để đưa vào nền kinh tế, phục vụ cho hoạt
động sản xuất kinh doanh, từ đó đã thay đổi đáng kể bộ mặt kinh tế nước
nhà.
Với việc nghiên cứu đề tài này, em đã có điều kiện tiếp cận sâu hơn đối
với hoạt động huy động vốn của một NH, mà trong phạm vi đề án đó là huy
động tiền gửi và các mô hình quản lý tiền gửi trong các NHTM. Qua tìm
hiểu lý luận chung cũng như liên hệ với thực tiễn em đã có được cái nhìn
tổng quát hơn về bức tranh kinh tế Việt Nam, đặc biệt là trong hệ thống NHTM Việt Nam. Tuy nhiên cùng với những thành công có được như đã
nêu trên, hệ thống NHTM Việt Nam vẫn còn nhiều điểm bất cập trong khâu
huy động và quản lý tiền gửi. Trước thềm hội nhập kinh tế thế giới, để có
thể cạnh tranh được với các NH nước ngoài, đưa nền kinh tế nước nhà
bước lên một tầm cao mới thì hệ thống NHTM Việt Nam cần phải thực sự
chuyển mình, phải nỗ lực hơn nữa, hoạt động hiệu quả cao hơn nữa mới có
thể đáp ứng những đòi hỏi của thời đại.
Do phạm vi nghiên cứu còn hạn chế, cũng như kiến thức bản thân có
hạn, nên em cũng chưa thể có được những nhận xét sâu sắc, những đánh
giá thực sự sắc sảo về bức tranh hệ thống NHTM.
Em xin chân thành cảm ơn cô đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này, em
cũng rất mong sẽ tiếp tục nhận được sự giúp đỡ của cô trong những đề ántiếp theo.
SVTH: Phạm Quang Hải 62
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 65/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đoàn Thanh Hà - Lý Hoàng Ánh, 2006, Ngân Hàng Thương Mại, NXBThống Kê.
2. Edward W.Reed & Edward K.Gill, Biên dịch Lê Văn Tề - Hồ Diệu,
2004, Ngân Hàng Thương Mại, NXB Thống Kê.
3. Kỷ yếu hội thảo khoa học, 2005, Một số vấn đề cơ bản của Việt Nam
giai đoạn 2006-2010, NXB Thống kê.
4. Lê Văn Tề - Nguyễn Thị Xuân Liễu, 1999, Quản trị Ngân hàng thương
mại, NXB Thống Kê.
5. Lê Văn Tư, 2005 , Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài Chính.
6. Luật các tổ chức tín dụng ( 1997).
7. Minskin, 2001, Tiền tệ - Ngân hàng và thị trường tài chính, NXB
Thành phố Hồ Chí Minh.
8. TS. Nguyễn Hữu Tài (Chủ biên), 2002, Giáo trình Lý thuyết Tài chính
– Tiền tệ, NXB Thống Kê.
9. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 1997, Ngân hàng với chiến lược huy
động vốn phục vụ cho CNH-HĐH đất nước.
10. Nguyễn Thị Mùi, 2006, Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài
Chính.
11. Nguyễn Thị Mùi (Chủ biên), Trần Thị Thu Hiền - Đặng Thị Ái, 2004,
Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê.
12. Niên giám Tài chính tiền tệ - Việt Nam, 2005, NXB Tài chính.
13. Phan Thị Thu Hà (Chủ biên) - Nguyễn Thị Thu Thảo, 2006, Ngân
hàng thương mại, NXB Thống kê.
SVTH: Phạm Quang Hải 63
5/14/2018 Dean Phamquanghai 1067 - slidepdf.com
http://slidepdf.com/reader/full/dean-phamquanghai-1067 66/66
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
14. Peter S.Rose, 2004, Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài Chính.
15. Phạm Xuân Lập, 2001, “Huy động vốn của NHTM - Những vấn đề đặt
ra cần giải quyết”, Tạp chí Ngân hàng , số 8-9, trang 18-19.
16. Hệ thống báo và tạp chí ngành Ngân hàng.
SVTH: Phạm Quang Hải 64