Upload
14021292
View
83
Download
5
Embed Size (px)
Citation preview
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG________________
THẠC SĨ ĐỖ QUANG ÂN
79 CÂU HỎI VÀ GỢI Ý TRẢ LỜI
VỀ MÔN HỌC
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Hà Nội, ngày 19 tháng 5 năm 2010
LỜI NÓI ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là “vị anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn
hoá kiệt xuất của Việt Nam”, cuộc đời, sự nghiệp và di sản của Chủ tịch Hồ
Chí Minh không chỉ là của dân tộc Việt Nam, mà còn thuộc về nhân dân tiến
bộ trên toàn thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại... Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của
nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Vì vậy Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định
tổ chức việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh một cách có hệ thống, thường
xuyên, sâu sắc trong cán bộ, đảng viên, sinh viên các trường Đại học và Cao
đẳng. Để góp phần vào việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dịp kỉ niệm
lần thứ 120 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng tôi biên soạn cuốn 79 câu
hỏi và gợi ý trả lời về môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm đáp ứng nhu cầu
học tập của sinh viên các Trường Đại học và Cao đẳng đang học tập nghiên
cứu môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nội dung cuốn sách được trình bày một cách có hệ thống dưới dạng câu
hỏi và gợi ý trả lời những vấn đề cơ bản quan trọng trong quá trình hình
thành, phát triển thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả đã sắp xếp hệ
thống các câu hỏi theo chương trình môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh và phần
gợi ý trả lời, nêu lên những vấn đề cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh phù
hợp với đối tượng đào tạo.
Tác giả hi vọng cuốn sách này sẽ giúp ích cho sinh viên, góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh trong
các Trường Đại học và Cao đẳng. Trong quá trình biên soạn, Tác giả đã cố
gắng vận dụng những kết quả quá trình giảng dạy và nghiên cứu, song không
tránh khỏi thiếu sót, mong nhận được ý kiến đóng góp để lần tái bản được
hoàn thiện hơn.
Tác giả
2
MỤC LỤC
Câu 1: Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh?...............................................8
Câu 2: Trình bày hệ thống quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng Việt Nam?..............................................................................10
Câu 3: Trình bày nội dung cơ bản, cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh?.....11
Câu 4: Hãy nêu đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu môn học tư tưởng
Hồ Chí Minh?..................................................................................12
Câu 5: Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần nắm vững
những nguyên tắc phương pháp luận gì?.....................................13
Câu 6: Học tập nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải vận dụng
tuân theo những phương pháp cụ thể gì?.....................................16
Câu 7: Ý nghĩa của việc học tập nghiên cứu môn học tư tưởng Hồ Chí
Minh đối với sinh viên?..................................................................17
Câu 8: Trình bày điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX đã ảnh hưởng, tác động đến sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh?.......................................................................18
Câu 9: Thời đại Nguyễn Ái Quốc sống và hoạt động đã ảnh hưởng tác
động đến sự hình thành tư tưởng của Người như thế nào?........21
Câu 10: Hãy nêu những tiền đề tư tưởng lý luận là cơ sở khách quan
có ảnh hưởng tác động đến hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh?23
Câu 11: Hãy nêu nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của
Nguyễn Ái Quốc là cơ sở quan trọng đề hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh?........................................................................................27
Câu 12: Trình bày nhận thức, hoạt động của Nguyễn Sinh Cung -
Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) từ thời kỳ trước năm 1911 đã
hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước của
Người?..............................................................................................28
3
Câu 13: Những hoạt động chủ yếu của Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí
Minh) từ 1911 đến 1920, đã tìm thấy con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc?................................................................................30
Câu 14: Trình bày những hoạt động chủ yếu của Nguyễn Ái Quốc từ
năm 1921 đến 1930 đã tác động đến sự hình thành cơ bản tư
tưởng của Người về cách mạng Việt Nam?..................................32
Câu 15: Những hoạt động chủ yếu của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1930
đến 1945, thể hiện sự vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lập
trường cách mạng?.........................................................................35
Câu 17: Trình bày những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con
đường giải phóng và phát triển dân tộc?......................................39
Câu 18: Trình bày những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát
triển thế giới?...................................................................................42
Câu 19: Tổ chức UNESCO đánh giá về Hồ Chí Minh như thế nào?. . .45
Câu 20: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thực chất của vấn đề dân tộc
thuộc địa là gì?.................................................................................47
Câu 21: Trình bày sự lựa chọn con đường phát triển của dân tộc sau
khi cách mạng giải phóng dân tộc thành công theo tư tưởng Hồ
Chí Minh?........................................................................................49
Câu 22: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung cốt lõi của vấn đề dân
tộc thuộc địa là gì?..........................................................................50
Câu 23: Quan niệm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp?....................................................................53
Câu 24: Trình bày sự hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con
đường cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam?..................57
Câu 25: Hãy nêu tính chất và nhiệm vụ của cách mạng giải phóng dân
tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh?....................................................58
Câu 26: Trình bày mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc theo tư
tưởng Hồ Chí Minh?.......................................................................61
4
Câu 27: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc
muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản?.......62
Câu 28: theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Cách mạng giải phóng dân tộc
trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo?.................65
Câu 29: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Lực lượng của cách mạng giải
phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc?...........................................68
Câu 30: Trình bày luận điểm của Hồ Chí Minh: “Cách mạng giải
phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc?.....70
Câu 31: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Cách mạng giải phóng dân tộc
phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực?.........72
Câu 32: Quan niệm của Hồ Chí Minh về tính tất yếu của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam?...............................................................................75
Câu 33: Hãy nêu quan niệm của Hồ Chí Minh về những đặc trưng bản
chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?.........................................77
Câu 34: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu động lực
của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?.................................................80
Câu 35: Quan niệm của Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam?...............................................................83
Câu 36: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ qúa
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là gì?....................................84
Câu 37: Hãy nêu quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ?.......................85
Câu 38: Trình bày theo tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm, bước
đi, biện pháp tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?.....................................87
Câu 39: Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về sự cần thiết
phải có Đảng Cộng sản trong đấu tranh cách mạng ở Việt Nam?89
5
Câu 40: Hãy làm sáng tỏ luận điểm của Hồ Chí Minh “Chủ nghĩa Mác
- Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước đã dẫn tới thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu
năm 1930”?......................................................................................91
Câu 41: Giải thích luận điểm của Hồ Chí Minh: Đảng Cộng sản Việt
Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân
tộc Việt Nam, nhưng Đảng vẫn mang bản chất giai cấp công
nhân?................................................................................................94
Câu 42: Trình bày quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền?96
Câu 43: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam phải
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”?..........................................98
Câu 44: Trình bày những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của giai
cấp vô sản theo tư tưởng Hồ Chí Minh?.....................................100
Câu 45: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là
nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng Việt Nam đến
thắng lợi. Hãy làm sáng tỏ luận điểm trên?................................103
Câu 46: Trình bày những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết dân tộc?....................................................................105
Câu 47: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có
ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng?.....108
Câu 48: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu,
nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc?...............................110
Câu 49: Trình bày nội dung của đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ
Chí Minh?......................................................................................111
Câu 50: Trình bày hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc theo tư
tưởng Hồ Chí Minh?.....................................................................114
Câu 51: Nêu những nguyên tắc cơ bản xây dựng và hoạt động của Mặt
trận dân tộc thống nhất theo tư tưởng Hồ Chí Minh?..............116
6
Câu 52: Hiểu như thế nào về câu nói của Hồ Chí Minh “Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành
công”?.............................................................................................118
Câu 53: Vì sao Hồ Chí Minh nêu lên sự cần thiết xây dựng khối đại
đoàn kết quốc tế?...........................................................................120
Câu 54: Trình bày nội dung các lực lượng cần đoàn kết quốc tế trong
tư tưởng Hồ Chí Minh?................................................................123
Câu 55: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc
xây dựng đoàn kết quốc tế?..........................................................126
Câu 56: Trình bày nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại?...................................129
Câu 57: Hãy nêu quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước của dân, do dân, vì dân?.....................................................133
Câu 58: Trình bày quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ và thực
hành dân chủ?...............................................................................137
Câu 59: Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước thể hiện
quyền làm chủ của nhân dân?.....................................................140
Câu 60: Trình bày sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với
tính nhân dân và tính dân tộc của. Nhà nước theo tư tưởng Hồ
Chí Minh?......................................................................................143
Câu 61: Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước có hiệu
lực pháp lý mạnh mẽ?...................................................................144
Câu 62: Hãy nêu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong
sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả?..................................146
Câu 63: Trình bày khái niệm văn hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh?. 149
Câu 64: Những quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí vai trò của nền
văn hoá trong đời sống xã hội?....................................................149
Câu 65: Những quan niệm của Hồ Chí Minh về tính chất của nền văn
hoá..................................................................................................151
7
Câu 66: Trình bày chức năng của nền văn hoá mới theo tư tưởng Hồ
Chí Minh?......................................................................................153
Câu 67: Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hoá giáo dục?..............155
Câu 68: Hãy làm sáng tỏ quan điểm của Hồ Chí Minh về “Văn hoá -
văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ
khí”?...............................................................................................156
Câu 69: Trình bày quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về văn hoá đời
sống?...............................................................................................158
Câu 70: Hãy nêu nguồn gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh?............159
Câu 71: Trình bày nội dung cơ bản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh?160
Câu 72: Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức theo tư tưởng
Hồ Chí Minh?................................................................................162
Câu 73: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về phẩm chất đạo đức
trung với nước, hiếu với dân của con người Việt Nam trong thời
đại mới?..........................................................................................165
Câu 74: Hãy làm sáng tỏ quan điểm của Hồ Chí Minh về phẩm chất
đạo đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư của con người
Việt Nam trong thời đại mới?......................................................166
Câu 75: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về phẩm chất đạo đức:
Thương yêu con người, sống có tình nghĩa của con người Việt
Nam trong thời đại mới?..............................................................169
Câu 76: Hãy nêu quan điểm của Hồ Chí Minh về phẩm chất đạo đức
tinh thần quốc tế trong sáng của con người Việt Nam trong thời
đại mới?..........................................................................................170
Câu 77: Nêu những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới theo tư tưởng
Hồ Chí Minh?................................................................................172
Câu 78: Vì sao sinh viên phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh?................................................................................176
8
Câu 79: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và
chiến lược “trồng người”?...............................................................179
9
Câu 1: Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh?
Gợi ý trả lời:
Tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện quan hệ
của con người với thế giới xung quanh. Bất cứ tư tưởng nào cũng đều do chế
độ xã hội, điều kiện sinh hoạt vật chất của con người quyết định. Trong xã hội
có giai cấp, tư tưởng bao giờ cũng mang tính giai cấp.
Khái niệm “tư tưởng” liên quan trực tiếp đến khái niệm “nhà tư tưởng”.
Theo Lênin, “Một người xứng đáng là nhà tư tưởng, khi người đó biết giải
quyết trước người khác tất cả những vấn đề chính trị - sách lược, các vấn đề
về tổ chức, về những yếu tố vật chất của phong trào không phải một cách tự
phát”.
Trong thuật ngữ “tư tưởng Hồ Chí Minh”, khái niệm tư tưởng có ý
nghĩa ở tầm khái quát triết học. Khái niệm tư tưởng ở đây không phải dùng
với nghĩa tinh thần - tư tưởng, ý thức tư tưởng của một cá nhân, một cộng
đồng, mà với nghĩa là một hệ thống những quan điểm, quan niệm, luận điểm
được xây dựng trên một nền tảng triết học (thế giới quan và phương pháp
luận) nhất quán, đại biểu cho ý chí nguyện vọng của một giai cấp, một dân
tộc, được hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt
động thực tiễn, cải tạo hiện thực.
Tư tưởng Hồ Chí Minh gắn bó với toàn bộ tiến trình cách mạng nước ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng ta nhận thức về tư tưởng Hồ Chí Minh là quá trình đi từ thấp đến
cao, từ những vấn đề cụ thể đến hệ thống hoàn chỉnh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (tháng 2 - 1951) của Đảng, Đảng
ta chính thức khẳng định: Đường lối chính trị, nền nếp làm việc và đạo đức
cách mạng của Đảng ta hiện nay là đường lối, tác phong và đạo đức Hồ Chủ
tịch... Toàn Đảng hãy ra sức học tập đường lối chính trị, tác phong và đạo đức
cách mạng của Hồ Chủ tịch,. Sự học tập ấy là điều kiện tiên quyết làm cho
Đảng mạnh và làm cho cách mạng mau đi đến thắng lợi hoàn toàn.
10
Nhất là từ đổi mới tư duy do Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI (tháng
12 - 1986) của Đảng đến nay, Đảng ta đã liên tục khẳng định vai trò, ý nghĩa,
tác dụng của đường lối chính trị, tư tưởng đạo đức, phương pháp phong
cách... Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6-1991) của Đảng, đánh
dấu một cột mốc quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về tư tưởng Hồ Chí
Minh. Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội”, Đảng ta ghi rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ n cho hành động”.Văn kiện của
Đại hội đã nêu “tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả của sự vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta và trong thực tế,
tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thanh một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và
của cả dân tộc”.
- Kể từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, công tác
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh được tiến hành nghiêm túc và đạt được
những kết quả quan trọng. Những kết quả nghiên cứu đó đã cung cấp luận cứ
khoa học có sức thuyết phục để Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (tháng 4
-2001) của Đảng xác định khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại... Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân
dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.
Định nghĩa trên đã làm rõ được bản chất cách mạng, khoa học, nguồn
gốc tư tưởng lý luận, những nội dung cơ bản và ý nghĩa giá trị cuả tư tưởng
Hồ Chí Minh. Dựa trên định hướng cơ bản cuả văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX (tháng 4 -2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam, các nhà khoa
học đã đưa ra một định nghĩa: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan
11
điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam
từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là
kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào
điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ
thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người”.
Dù định nghĩa theo cách nào, tư tưởng Hồ Chí Minh đều được nhìn
nhận với tư cách là một hệ thống lý luận, có cấu trúc, logíc, chặt chẽ và có hạt
nhân cốt lõi, đó là tư tưởng về độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội,
độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhằm giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người.
Câu 2: Trình bày hệ thống quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng Việt Nam?
Gợi ý trả lời:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm bao gồm nhiều lĩnh
vực, là đối tượng nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học khác nhau.
Đại hội IX (tháng 4 - 2001) của Đảng đã nêu hệ thống quan điểm tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam: “Đó là tư tưởng về giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phòng con người; về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức
mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của
nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng
toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn
hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về
đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân...
12
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.
Câu 3: Trình bày nội dung cơ bản, cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh?
Gợi ý trả lời:
- Suốt đời mình Hồ Chí Minh đã kiên trì và nhất quán đi theo con
đường cách mạng đã lựa chọn. Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách
mạng Việt Nam đã vững bước tiến lên giành được những thắng lợi lịch sử có
tầm thời đại.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (tháng 4-2001) của Đảng một
lần nữa đã nhấn mạnh “Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh”1.
Thế giới hiện nay đã thay đổi rất nhiều, song cuộc đấu tranh cho độc
lập dân tộc và chủ nghía xã hội vẫn đang diễn ra phức tạp, đổi mới, mở cửa,
hội nhập... là một xu thế tất yếu, trong đó các đối tác và hợp tác, vừa cạnh
tranh với nhau một cách gay gắt. Trong điều kiện đó làm sao để mở cửa, hợp
tác, liên doanh... phát triển kinh tế mà vẫn giữ vững được độc lập, chủ quyền
dân tộc, không đi chệch mục tiêu, bản chất của chủ nghĩa xã hội. Muốn thế,
chúng ta phải tạo ra được những năng lực nội sinh làm nền tảng vững bền cho
sự phát triển của đất nước. Một trong những năng lực nội sinh đó, về mặt định
hướng giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”,
“Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân” phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội. Vì vậy,
nội dung cơ bản cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hộ đại biểu toàn quốc IX Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.83 - 84..
13
Câu 4: Hãy nêu đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu môn học tư tưởng
Hồ Chí Minh?
Gợi ý trả lời:
Để xác định đối tượng nghiên cứu của môn học với tư cách là một hệ
thống tri thức mang tính quy luật về đối tượng, cần căn cứ vào vai trò, chức
năng của môn học các chỉ dẫn trực tiếp của Hồ Chí Minh khi Người xác định
về nội dung các bài viết, bài nói, các tác phẩm, các quan điểm có tính định
hướng của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đối tượng nghiên cứu của môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm hệ
thống quan điểm, quan niệm, lý luận về cách mạng Việt Nam trong dòng chảy
của thời đại mới mà cốt lõi là tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Các quan điểm cơ bản của hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh
không chỉ được phản ánh trong các bài nói, bài viết mà còn được thể hiện qua
quá trình chỉ đạo thực tiễn cách mạng phong phú của Người, được Đảng Cộng
sản Việt Nam vận dụng phát triển sáng tạo qua các giai đoạn cách mạng.
Như vậy đối tượng của môn học tư tưởng Hồ Chí Minh là: Hệ thống
các quan điểm lý luận của Hồ Chí Minh; sự vận động tư tưởng Hồ Chí Minh
trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu, môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh có
nhiệm vụ đi sâu nghiên cứu làm rõ các nội dung sau:
- Cơ sở (khách quan và chủ quan) hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
nhằm khẳng định sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh là một tất yếu khách
quan nhằm giải đáp các vấn đề lịch sử dân tộc đặt ra.
- Các giai đoạn hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
- Nội dung, bản chất cách mạng khoa học đặc điểm của các quan điểm
trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của tư tưởng Hồ
Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam.
14
- Quá trình nhận thức vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh qua
các giai đoạn cách mạng của Đảng và Nhà nước ta.
- Các giá trị tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh đối với kho tàng tư
tưởng, lý luận cách mạng thế giới của thời đại.
Câu 5: Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần nắm vững
những nguyên tắc phương pháp luận gì?
Gợi ý trả lời:
- Muốn nghiên cứu, học tập có kết quả, vận dụng sáng tạo và phát triển
tư tưởng Hồ Chí Minh phải nắm vững phương pháp luận khoa học chủ nghĩa
Mác - Lênin và bản thân các quan điểm có giá trị phương pháp luận của Hồ
Chí Minh. Trong đó các nguyên lý triết học Mác - Lênin với tư cách là
phương pháp luận chung của các ngành khoa học cần phải được sử dụng như
một công cụ tư duy quan trọng.
Một số vấn đề cơ bản về nguyên tắc phương pháp luận trong nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh.
1. Bảo đảm sự thống nhất nguyên tắc tính Đảng và tính khoa học
- Tính đảng: khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải đứng trên lập
trường quan điểm, phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tính khoa học: Khách quan khi phân tích, lý giải và đánh giá tư tưởng
Hồ Chí Minh, tránh việc áp đặt, cường điệu hoá hoặc hiện đại hoá tư tưởng
của Người.
- Tính đảng và tính khoa học thống nhất với nhau trong sự phản ánh
trung thực, khách quan tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở lập trường, phương
pháp luận và định hướng chính trị.
2. Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc lý luận gắn liền với thực tiễn
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng thực tiễn là nguồn gốc là động lực của
nhận thức, là cơ sở và là tiêu chuẩn của chân lý. Trong cuộc đời hoạt động
15
cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn bám sát thực tiễn cách mạng dân tộc
và thế giới, coi trọng tổng kết thực tiễn, để xây dựng và phát triển tư tưởng
của mình. Quan điểm thực tiễn là biện pháp nâng cao lý luận, nâng cao năng
lực hoạt động. Vì vậy khi nghiên cứu học tập tư tưởng Hồ Chí Minh phải
quán triệt quan điểm thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới để
thấy giá trị thực tiễn hợp quy luật khách quan của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cùng với quan điểm thực tiễn thì Hồ Chí Minh cũng đặc biệt coi trọng
việc kết hợp lý luận với thực tiễn, lời nói đi đôi với việc làm. Hồ Chí Minh
khẳng định: Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù
quáng, dễ mắc bệnh chủ quan. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý
luận suông.
Vì vậy nghiên cứu học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải quán triệt
quan điểm lý luận gắn liền với thực tiễn học đi đôi với hành, phải biết vận
dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống, thực tiễn, phục vụ cho sự nghiệp
cách mạng của đất nước mình.
3. Quan điểm lịch sử - cụ thể
Trong nghiên cứu khoa học, theo V.I.Lênin, chúng ta không được quên
mối liên hệ lịch sử căn bản, nghĩa là phải xem xét một hiện tượng nhất định
đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai
đoạn phát triển chủ yếu nào và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để
xem xét hiện nay nó đã trở thành như thế nào?
Vì vậy cùng với chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta cần vận dụng
chủ nghĩa duy vật lịch sử vào việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nắm vững quan điểm này giúp chúng ta nhận thức được bản chất tư tưởng Hồ
Chí Minh.
4. Quan điểm toàn diện và hệ thống
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về cách mạng Việt Nam. Một yêu cầu về khoa học khi nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh trên bình diện tổng thể hay từng bộ phận là phải luôn luôn quán
16
triệt mối liên hệ qua lại của các yếu tố, các nội dung khác nhau trong hệ thống
tư tưởng đó và phải lấy hạt nhân cốt lõi là tư tưởng độc lập tự do, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội. V.L.Lênin đã từng viết: Muốn thực sự hiểu được sự vật cần
phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả mối liên hệ và “quan
hệ gián tiếp” của sự vật đó. Trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, cần
nắm vững và đầy đủ hệ thống các quan điểm của Người. Nếu tách rời một yếu
tố nào đó khỏi hệ thống sẽ hiểu sai tư tưởng Hồ Chí Minh. Chẳng hạn tách rời
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là xa rời tư tưởng Hồ Chí Minh.
5. Quan điểm kế thừa và phát triển
a. Hồ Chí Minh là một mẫu mực về sự vận dụng và phát triển sáng
tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Người
đã bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều lĩnh vực quan trọng
và hình thành nên một hệ thống quan điểm lý luận mới hết sức sáng tạo.
Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi không chỉ biết kế thừa,
vận dụng mà còn phải biết phát triển sáng tạo tư tưởng của Người trong điều
kiện lịch sử mới, trong bối cảnh cụ thể của đất nước và quốc tế.
b. Kết hợp nghiên cứu các tác phẩm với thực tiễn chỉ đạo cách
mạng của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh không chỉ là nhà tư tưởng, lý luận mà còn là nhà cách
mạng thực tiễn. Cho nên nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ căn cứ
vào các tác phẩm, bài viết, bài nói mà cần coi trọng hoạt động thực tiễn của
Người, thực tiễn cách mạng dưới sự tổ chức và lãnh đạo của Đảng do Người
đứng đầu, để thấy được sự sáng tạo cách mạng của Hồ Chí Minh trước hết là
sự sáng tạo về tư duy lý luận, về chiến lược, về đường lối cách mạng. Điều đó
giữ vai trò quyết định hàng đầu dẫn đến thắng lợi cách mạng. Tư tưởng lý
luận cách mạng Hồ Chí Minh đã góp phần làm phong phú thêm và phát triển
lý luận cách mạng của thời đại, trước hết là về cách mạng thuộc địa. Tư tưởng
Hồ Chí Minh đã toả sáng vượt ra ngoài biên giới quốc gia Việt Nam đến các
dân tộc và nhân dân lao động thế giới.
17
Câu 6: Học tập nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải vận
dụng tuân theo những phương pháp cụ thể gì?
Gợi ý trả lời:
Với ý nghĩa chung nhất, phương pháp được hiểu là cách thức đề cập tới
hiện thực, cách thức nghiên cứu các hiện tượng của tự nhiên và của xã hội.
Phương pháp là hệ thống các nguyên tắc điều chỉnh nhận thức và hoạt động
cải tạo thực tiễn xuất phát từ các quy luật vận động của khách thể được nhận
thức.
Giữa phương pháp nghiên cứu và nội dung nghiên cứu có mối liên hệ
mật thiết và chi phối lẫn nhau, phương pháp phải trên cơ sở vận động của bản
thân nội dung, nội dung nào phương pháp ấy. Vì vậy, ngoài các nguyên tắc
phương pháp luận chung với một nội dung cụ thể cần phải vận dụng một
phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp. Trong đó việc vận dụng phương
pháp lịch sử (nghiên cứu sự vật và hiện tượng theo quá trình phát sinh, tồn tại
phát triển) và phương pháp logíc (nghiên cứu một cách tổng quát nhằm tìm ra
được cái bản chất vốn có của sự vật, hiện tượng và khái quát thành lý luận) là
hết sức cần thiết trong nghiên cứu giảng dạy học tập tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vận dụng phương pháp liên ngành trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Là một nhà khoa học, nhà tư tưởng, Hồ Chí Minh đã thể hiện tư tưởng
của mình như một hệ thống bao quát nhiều lĩnh vực, tư tưởng triết học, tư
tưởng kinh tế, tư tưởng chính trị tư tưởng quân sự... trong mỗi lĩnh vực lại có
thể tìm thấy hệ thống nhỏ.Trước một đối tượng nghiên cứu đa dạng và phong
phú nhiều mặt như vậy, không một lĩnh vực nào có đủ năng lực bao quát hết
để đưa ra một bức tranh tổng thể về tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì thế, cần phải
áp dụng các phương pháp liên ngành khoa học xã hội - nhân văn, lý luận
chính trị để nghiên cứu hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như mỗi tác
phẩm lý luận riêng biệt của Người.
18
Trong nghiên cứu học tập tư tưởng Hồ Chí Minh; ngoài phương pháp
nêu trên, còn sử dụng các phương pháp cụ thể thường được áp dụng có hiệu
quả là: phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê trắc lượng, văn bản
học, phỏng vấn nhân chứng lịch sử...Mỗi phương pháp này khi vận dụng vào
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh có những đặc điểm và đặt ra các yêu cầu
khác nhau. Việc vận dụng các phương pháp và kết hợp các phương pháp cụ
thể phải căn cứ vào nội dung nghiên cứu.
Câu 7: Ý nghĩa của việc học tập nghiên cứu môn học tư tưởng Hồ
Chí Minh đối với sinh viên?
Gợi ý trả lời:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin ở Việt Nam.
Nội dụng cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ đổi
mới và sáng tạo.
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng và nhân dân Việt Nam trên
con đường thực hiện mục tiêu, dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ công
bằng, văn minh.
Đối với sinh viên học tập tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng thông qua học tập nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho sinh
viên nâng cao nhận thức về vai trò vị trí của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với
đời sống cách mạng Việt Nam, làm cho tư tưởng của Người, ngày càng giữ
vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của thế hệ trẻ nước ta; để bồi dưỡng
củng cố, lập trường, quan điểm cách mạng trên nền tảng chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, tích cực chủ động đấu tranh phê phán, những quan điểm sai
trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ
19
trương chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta, biết vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh vào giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống.
Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh để bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách
mạng và rèn luyện bản lĩnh chính trị.
Tư tưởng Hồ Chí Minh giáo dục đạo đức, tư cách, phẩm chất cách
mạng, cho cán bộ, đảng viên và toàn dân biết sống hợp đạo lý, yêu cái tốt, cái
thiện. ghét cái xấu, cái ác; nâng cao lòng tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh
kính yêu, về dân tộc, về Đảng Cộng sản Việt Nam, tự nguyện “Sống, chiến
đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”.
Trên cơ sở kiến thức đã được học, sinh viên vận dụng vào cuộc sống, tu
dưỡng, rèn luyện, bản thân, hoàn thành tốt chức trách của mình, đóng góp
thiết thực và hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng, theo con đường mà Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã lựa chọn. Đối cới sinh viên, giáo dục tư tưởng, văn hoá
đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh là giáo dục lý luận sống đạo làm người,
hoàn thiện nhân cách cá nhân, trang bị cho tuổi trẻ trí thức và phương pháp tư
duy biện chứng để trở thành những chiến sĩ đi tiên phong trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ một nước Việt Nam “đàng hoàng hơn to đẹp hơn” như mong
muốn khát vọng cuả Hồ Chí Minh.
Câu 8: Trình bày điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX đã ảnh hưởng, tác động đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Gợi ý trả lời:
Việt Nam cũng như nhiều dân tộc khác ở châu Á, châu Phi từ giữa thế
kỉ XIX đã trở thành đối tượng xâm lược của chủ nghĩa thực dân đế quốc.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, sau khi cơ bản kết thúc
giai đoạn vũ trang xâm lược, thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa. Để
bóc lột được lợi nhuận thuộc địa tối đa, thực dân Pháp duy trì phương thức
sản xuất phong kiến, thiết lập một cách hạn chế phương thức sản xuất tư bản
20
chủ nghĩa. Chúng thực hiện chính sách độc quyền kinh tế về các mặt: xuất
nhập khẩu, khai thác mỏ, lập ra hàng trăm thứ thuế vô lý và vô nhân đạo.
Chúng bóc lột nhân dân ta đến tận xương tuỷ, khiến cho dân ta càng nghèo
khổ, nước ta càng xơ xác tiêu điều. Chúng thực hành chính sách chuyên chế
về chính trị, làm cho dân ta không có một chút tự do dân chủ nào. Cùng với
độc quyền về kinh tế, chuyên chế về chính trị, về văn hoá thực dân Pháp thi
hành chính sách ngu dân, nhằm giam hãm dân tộc ta trong vòng nô lệ. Những
chính sách trên của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam thay đổi, từ
một xã hội phong kiến độc lập, Việt Nam trở thành một xã hội thuộc địa nửa
phong kiến.
- Ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân lên đất nước ta, với tinh thần yêu
nước nồng nàn, bất chấp chủ trương đầu hàng của triều đình phong kiến, nhân
dân cả nước đã vùng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Từ năm 1858 đến
cuối thế kỉ XIX, phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ bùng
lên, dâng cao và lan rộng ra cả nước, từ Trương Định, Nguyễn Trung Trực...
ở Nam Bộ, Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng...
ở miền Trung đến Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích... ở miền Bắc.
Các cuộc nổi dậy đều được thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước nhiệt thành và chí
căm thù giặc sục sôi, song trước sau đều lần lượt thất bại vì chưa có một
đường lối kháng chiến rõ ràng. Lãnh đạo họ là những sĩ phu văn thân mang ý
thức hệ phong kiến, còn nặng tư tưởng tôn quân chưa thật tin vào lực lượng
của nhân dân nên cũng chưa thật tin vào thắng lợi cuối cùng. Điều đó cho
thấy sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trước nhiệm vụ lịch sử.
- Bước sang đầu thế kỉ XX, phong trào yêu nước chống Pháp của nhân
dân ta chuyển sang xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất hiện của phong trào
như Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang phục hội...
Các sĩ phu Nho học có tư tưởng tiến bộ, thức thời, tiêu biểu như Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh đã có cố gắng tổ chức và vận động cuộc đấu tranh yêu
nước chống Pháp theo mục tiêu và phương pháp mới. Song chủ trương cầu
21
ngoại viện dùng bạo lực để khôi phục độc lập của Phan Bội Châu đã thất bại
Chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ”, khai thông dân trí, nâng cao dân khí trên cơ
sở đó mà lần lần tính chuyện giải phóng... của Phan Chu Trinh cũng không
thành công.
Nhưng tất cả các phong trào yêu nước này đều thất bại (thất bại không
phải vì các phong trào này thiếu các anh hùng hào kiệt mà nguyên nhân chính
là thiếu một đường lối cách mạng phù hợp với thời đại mới).
Dù thất bại, nhưng các phong trào yêu nước trên đây đã nối tiếp nhau
duy trì ngọn lửa đấu tranh giải phóng trong lòng dân tộc.
Yêu cầu của lịch sử lúc này đòi hỏi, là phải tìm ra con đường cứu nước
đúng đắn.
Trước những đòi hỏi của lịch sử, ngày 5-6-1911 Nguyễn Tất Thành ra
đi tìm đường cứu nước. Người tiếp thu được chủ nghĩa Mác - Lênin và nhận
thức được muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác là con đường cách mạng vô sản “đó là con đường độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt
Nam và thế giới trong điều kiện lịch sử mới, không phải là ý muốn chủ quan
hay một sự áp đặt nào.
Đúng như C.Mác đã rất tâm đắc câu nói của Henvêxiuýt (1715- 1771)
đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật và thần học Pháp hồi thế kỷ XVIII, và
đã nhắc lại trong tác phẩm của mình. “Mỗi một thời đại xã hội đều cần có
những anh hùng và vĩ nhân của nó và nếu không có những con người như thế
thì, thời đại sẽ sáng tạo ra những con người như thế”.
22
Câu 9: Thời đại Nguyễn Ái Quốc sống và hoạt động đã ảnh hưởng
tác động đến sự hình thành tư tưởng của Người như thế nào?
Gợi ý trả lời:
Trong khi con thuyền Việt Nam còn lênh đênh chưa rõ bờ bến phải đi
tới, việc cứu nước như trong đêm tối “không có đường ra” thì lịch sử thế giới
trong giai đoạn này cũng có nhiều chuyển biến quan trọng:
- Vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản đã từ giai đoạn
tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn tư bản độc quyền tức chủ nghĩa đế
quốc đã xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi toàn thế giới, phần
lớn các nước ở châu Á, châu Phi, khu vực Mĩ La tinh đều trở thành thuộc địa
hoặc phụ thuộc của chủ nghĩa đế quốc. Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù
chung của các dân tộc thuộc địa.
- Trên thế giới tồn tại những mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa giai
cấp vô sản với giai cấp tư sản, mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với chủ
nghĩa đế quốc và mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau.
- Đầu thế kỷ XX, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc càng trở nên gay
gắt, nhất là giữa các nước tư bản ra đời muộn với cả nước tư bản ra đời sớm
đã tranh cướp hầu hết thuộc địa.
Mâu thuẫn này đã dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914
- 1918) nhằm chia lại thị trường thế giới. Cuộc chiến tranh này đẩy chủ nghĩa
tư bản thế giới suy yếu, khủng hoảng trầm trọng thêm, tạo điều kiện cho
phong trào cách mạng của giai cấp công nhân phát triển.
- Ngày 7-11-1917, cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra thắng lợi
đã mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới.
Thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917) đã
tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc vào đầu thế kỉ
XX. Xu hướng đấu tranh giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô
sản ngày càng phát triển mạnh mẽ ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.
23
- Xuất phát từ lòng yêu nước và trên cơ sở rút kinh nghiệm của các thế
hệ cách mạng tiền bối, ngày 5-6-1911 Nguyễn Tất Thành đã đi ra nước ngoài
tìm đường cứu nước sau một hành trình dài ngày, đặt chân lên khoảng gần 30
nước. Người đã gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, chân lí lớn của thời đại.
Khoảng cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ nước Anh về nước Pháp,
đến sống và hoạt động tại Paris, thủ đô nước Pháp.
Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6
năm 1919 Nguyễn Ái Quốc nhân danh những người Việt Nam yêu nước gửi
tới Hội nghị hoà bình được triệu tập tại Vécxây bản Yêu sách của nhân dân
An Nam, đòi các quyền tự do, dân chủ tối thiểu cho Việt Nam. Những yêu
sách đó đã không được chấp nhận. Nguyễn Ái Quốc rút ra bài học: Muốn
được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản thân
mình.
Tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin.
Người tìm thấy ở đó có con đường cứu nước theo lập trường giai cấp
vô sản.
Tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội lần thứ 18 của
Đảng Xã hội Pháp. Người biểu quyết tán thành đứng về Quốc tế thứ ba, tham
gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, và trở thành người cộng sản đầu tiên của
giai cấp công nhân, dân tộc Việt Nam. Sự kiện đó đánh dấu bước chuyển biến
về chất trong tư tưởng của Người từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin,
từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người
cộng sản. Đây là bước ngoặt quyết định trong quá trình hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh.
24
Câu 10: Hãy nêu những tiền đề tư tưởng lý luận là cơ sở khách quan
có ảnh hưởng tác động đến hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh?
Gợi ý trả lời:
1. Giá trị truyền thống Việt Nam
Dân tộc Việt Nam trong hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước đã tạo lập cho mình một nền văn hoá riêng, phong phú và bền vững với
những truyền thống tốt đẹp và cao quý, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất
khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước tinh thần nhân nghĩa, truyền thống
đoàn kết tương thân tương ái, lòng nhân nghĩa, ý thức cố kết cộng đồng là ý
chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn thử thách, là trí thông minh, tài sáng tạo,
quý trọng hiền tài, khiêm tốn tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại để làm giàu
văn hoá dân tộc... Trong những giá trị truyền thống đó, chủ nghĩa yêu nước
truyền thống là tư tưởng tình cảm cao quý thiêng liêng nhất là cội nguồn của
trí tuệ và lòng dũng cảm của Người Việt Nam, cũng là chuẩn mực đạo đức cơ
bản của dân tộc. Từ thực tiễn đó. Hồ Chí Minh đã đúc kết thành chân lý:
“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quí báu của
ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi,
nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm, khó khăn nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”.
Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước đã thúc giục Nguyễn Tất
Thành quyết chí ra đi tìm đường cứu nước, tìm kiếm những gì hữu ích cho
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước trở thành động lực chi
phối rất lớn đến suy nghĩ và hành động của Người. Người đã lấy tên là
Nguyễn Ái Quốc để khẳng định ý chí cứu nước và cổ vũ đồng bào.
Chủ nghĩa yêu nước là cơ sở tư tưởng dẫn Hồ Chí Minh đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã khẳng định và nhấn mạnh: “Lúc đầu,
chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin
theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ Ba”
25
Chủ nghĩa yêu nước là cốt lõi là dòng chảy chính của tư tưởng, văn hoá
truyền thống Việt Nam, là động lực mạnh mẽ cho sự trường tồn và phát triển
của dân tộc, là tiền đề xuất phát hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh...
2. Tinh hoa văn hoá nhân loại
Văn hoá nhân loại, bao gồm cả văn hoá phương Đông và văn hoá
phương Tây. Từ nhỏ Hồ Chí Minh đã được tiếp thu văn hoá, phương Đông.
Lớn lên, Người bôn ba khắp thế giới, đặc biệt ở các nước phương Tây, với
khả năng tư duy độc lập tự chủ sáng tạo, ham học hỏi, nên ở Người đã kết hợp
các giá trị truyền thống của văn hoá phương Đông với các thành tựu hiện đại
của văn minh phương Tây, có vốn hiểu biết văn hoá Đông - Tây kim cổ uyên
bác - đó chính là nét đặc sắc trong quá trình hình thành nhân cách và văn hoá
Hồ Chí Minh.
Đối với văn hoá phương Đông, cùng với những hiểu biết uyên bác về
Hán học, Hồ Chí Minh biết chắt lọc lấy những gì tinh tuý nhất trong các học
thuyết triết học, hoặc trong tư tưởng của Lão Tử, Mạc Tử, Quản Tử.
Trong các tác phẩm của mình, Hồ Chí Minh sử dụng khá nhiều mệnh
đề của Nho giáo và đưa vào đó những nội dung và ý nghĩ mới. Trong Nho
giáo, Hồ Chí Minh phê phán những yếu tố tiêu cực và tiếp nhận có chọn lọc
những yếu tố tích cực của Nho giáo. Đó là các triết lý hành động, tư tưởng
nhập thể, hành đạo, giúp đời, đó là ước vọng về một xã hội bình trị, hoà mục,
hoà đồng, là triết lý nhân sinh, tu thân dưỡng tính, đề cao văn hoá lễ giáo tạo
ra truyền thống hiếu học.
Về Phật giáo: Phật giáo vào Việt Nam từ rất sớm. Trải qua hàng trăm
năm, Phật giáo đã ảnh hưởng vào văn hoá Việt Nam, từ tư tưởng, tình cảm,
tín ngưỡng, phong tục tập quán lối sống. Hồ Chí Minh tiếp thu và chịu ảnh
hưởng, sâu sắc các tư tưởng vị tha, từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương
người như thể thương thân... là nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị,
chăm lo làm việc thiện, là tinh thần bình đẳng, dân chủ chống phân biệt đẳng
cấp, là việc đề cao lao động, chống lười biếng; là chủ trương sống không xa
26
lánh việc đời mà gắn bó với dân, với nước, tích cực tham gia vào việc đấu
tranh của nhân dân chống kẻ thù dân tộc... Đến khi đã trở thành người mác-
xít, Người lại tiếp tục tìm hiểu chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, vì thấy
trong đó những điều thích hợp với điều kiện của nước ta.
Đối với văn hoá phương Tây: Hồ Chí Minh cũng chịu ảnh hưởng rất
sâu rộng của nền văn hoá dân chủ và cách mạng của phương Tây. Ngay từ khi
còn học ở Trường tiểu học Đông Ba rồi vào học trường Quốc học Huế,
Nguyễn Tất Thành đã làm quen với văn hoá Pháp.
Thời kỳ tìm đường cứu nước (1911-1920) trước khi đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin, Hồ Chí Minh sống chủ yếu ở châu Âu, Hồ Chí Minh đã dày
công nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản ở Mỹ, ở Pháp. Người trực tiếp
đọc và tiếp thu các tư tưởng về tự do, bình đẳng, qua các tác phẩm của các
nhà khai sáng như Vonte (Voltaire) Rutxô (Rousso), Môngtetxkiơ (Mon-
tesquieu), Người tiếp thu các giá trị của tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền
của Đại cách mạng Pháp, các giá trị về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu
cầu hạnh phúc của Tuyên ngôn độc lập ở Mỹ năm 1776.
Sống và hoạt động ở Pari, viết văn bản và làm báo để tuyên truyền cho
dân tộc và cách mạng, phải dùng ngôn ngữ Pháp, phải đáp ứng yêu cầu và
trình độ của công chúng Pháp, điều này đã thúc đẩy Nguyễn Ái Quốc, phải
nhanh chóng làm được chủ ngôn ngữ và văn hoá Pháp...
Tất cả những hiểu biết của Người về văn hoá phương Đông và văn hoá
phương Tây đã tự biết làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại,
Đông và Tây, vừa tiếp thu, vừa gạn lọc để từ tầm cao tri thức nhân loại mà
suy nghĩ lựa chọn, kế thừa và đổi mới; đã góp phần quan trọng vào sự hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Chủ nghĩa Mác - Lênin
- Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận
của tư tưởng Hồ Chí Minh.
27
Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) rời Cảng Nhà Rồng
(Sài Gòn) làm phụ bếp trên chiếc tàu “Đô đốc Latouche Tréville” và lấy tên là
Văn Ba đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước... Đó là việc làm mới mẻ, chưa
có tiền lệ, khác với hướng đi truyền thống sang phương Đông của các bậc tiền
bối.
- Qua hành trình đến nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc tư bản đế quốc ở
các nước thuộc địa châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ La tinh. Người đã xúc
động trước cảnh khổ cực bị áp bức của những người dân lao động, Người
nhận thấy ở đâu có dân tộc bị áp bức cũng có nỗi khổ cực như nhau, đều có kẻ
thù chung là chủ nghĩa thực dân đế quốc, ở đâu nhân dân cũng mong muốn
thoát khỏi ách áp bức bóc lột.
Với lòng yêu nước nồng nàn, Hồ Chí Minh kiên trì chịu đựng mọi khó
khăn gian khổ Người có ý xem xét tình hình các nước. Suy nghĩ về những
điều mắt thấy tai nghe, hăng hái học tập và tham gia các cuộc diễn thuyết của
nhiều nhà chính trị và triết học.
Năm 1917 Cách mạng Tháng Mười Nga thành công Người có cảm tình
sâu sắc với cuộc cách mạng Tháng Mười và lãnh tụ thiên tài V.I.Lênin.
Tháng 7-1920 Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin. Nguyễn Ái
Quốc “cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng... vui mừng đến phát khóc...”
vì đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc. Như vậy, chính luận cương của
Lênin đã nâng cao nhận thức Hồ Chí Minh về con đường giải phóng. Nó phù
hợp và đáp ứng những tình cảm, suy nghĩ, hoài bão được ấp ủ từ lâu, nay
đang trở thành hiện thực, Hồ Chí Minh viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu
nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, theo Quốc
tế thứ ba”.
Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin. Hồ Chí Minh đã tiến
dần tới những nhận thức “lý tính” trở lại nghiên cứu Mác sâu sắc hơn, để rồi
tiếp thu học thuyết của các ông một cách có chọn lọc, không rập khuôn máy
28
móc, không sao chép giáo điều. Người tiếp thu lý luận Mác - Lênin theo
phương pháp macxit, nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất. Người vận dụng lập
trường, quan điểm, phương pháp biện chứng của chủ Mác - Lênin để giải
quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam, chứ không đi tìm
những kết luận có sẵn trong sách vở.
Thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí Minh
tổng kết kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước.
Hồ Chí Minh nói: “trong cuộc đấu tranh vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin
vừa làm công tác thực tiễn, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới”... “Chính là do cố gắng vận dụng một cách sáng
tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam ngày nay, mà chúng tôi đã chiến đấu và
giành được thắng lợi to lớn”...
Câu 11: Hãy nêu nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của
Nguyễn Ái Quốc là cơ sở quan trọng đề hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh?
Gợi ý trả lời:
Vào những năm 20 của thế kỉ XX, ở Việt Nam cũng có nhiều người đi
tìm đường cứu nước nhưng chỉ có Hồ Chí Minh mới nhận thức được con
đường mới và phù hợp với yêu cầu nguyện vọng của dân tộc và xu thế phát
triển của thời đại. Ngoài những cơ sở khách quan, còn phải nói đến nhân tố
chủ quan thuộc về phẩm chất đạo đức cá nhân và năng lực hoạt động thực tiễn
của Hồ Chí Minh.
Trước hết, đó là tư duy độc lập, tự chủ sáng tạo, cộng với đầu óc phê
phán tinh tường sáng suốt trong việc nghiên cứu nhận xét, tìm hiểu những
tinh hoa tư tưởng, văn hoá nhân loại, thực tiễn phong trào đấu tranh của nhân
dân ta và các cuộc cách mạng lớn trên thế giới
29
Hai là, sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn trí thức phong phú
của thời đại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc,
phong trào công nhân quốc tế để có thể tiếp cận với chủ nghĩa Mác - Lênin,
khoa học về cách mạng của giai cấp vô sản quốc tế.
Ba là, có tâm hồn của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản có bản
lĩnh kiên định, nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước, luôn tin vào
nhân dân, thương dân, thương yêu những người cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng
những hy sinh cao nhất vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng
bào.
Những phẩm chất cá nhân hiếm có đó đã giúp Nguyễn Ái Quốc tiếp
nhận, chọn lọc chuyển hoá phát triển những tinh hoa dân tộc và thời đại, là cơ
sở quan trọng để hình thành tư tưởng của Người.
Câu 12: Trình bày nhận thức, hoạt động của Nguyễn Sinh Cung -
Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) từ thời kỳ trước năm 1911 đã hình
thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước của Người?
Gợi ý trả lời:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về cách mạng Việt Nam..., không thể hình thành ngay một lúc mà đã trải qua
một quá trình tìm tòi, xác lập, phát triển và hoàn thiện, gắn liền với quá trình
phát triển, lớn mạnh của Đảng ta và cách mạng Việt Nam.
Tiến trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh có thể chia ra nhiều thời
đoạn lịch sử. Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí
hướng cứu nước.
Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, sau đổi là Nguyễn Tất
Thành), quê ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, sinh ngày 19-
5-1890, trong một gia đình nhà nho yêu nước.
Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Người là một nhà nho cấp
tiến, có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với
quá trình hình thành nhân cách của Nguyễn Tất Thành. Sau này những kiến
30
thức học được từ người cha, bắt gặp tư tưởng mới của thời đại đã được Hồ
Chí Minh nâng lên thành tư tưởng cốt lõi trong đường lối chính trị của mình.
Cụ Hoàng Thị Loan, thân mẫu của Người cũng ảnh hưởng đến tư
tưởng, tình cảm của Nguyễn Sinh Cung về đức tính nhân hậu, đảm đang, sống
chan hoà với mọi người.
Về gia đình, còn phải nói tới mối quan hệ và tác động qua lại giữa ba
chị em Nguyễn Thị Thanh (Nguyễn Thị Bạch Liên), Nguyễn Sinh Khiêm
(Nguyễn Tất Đạt) và Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành) về lòng yêu
nước thương nòi.
Trên mảnh đất Kim Liên cũng đã thấm máu của bao anh hùng, liệt sĩ
chống Pháp như: Vương Thúc Mậu, Nguyễn Sinh Quyền v.v...
Nghệ Tĩnh là vùng đất giàu truyền thống văn hoá, lao động, đấu tranh
chống ngoại xâm... Nơi đây đã sản sinh ra biết bao anh hùng nổi tiếng lịch sử
Việt Nam như Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, các lãnh tụ yêu
nước thời cận đại như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu...
Từ nhỏ, Nguyễn Sinh Cung đã đau xót chứng kiến cuộc sống nghèo
khổ, bị đàn áp bóc lột của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê hương.
Những năm ở Huế, Người đã tận mắt nhìn thấy tội ác của bọn thực dân và
thái độ ươn hèn, bạc nhược của bọn quan lại Nam triều.
Những bài học thất bại của các nhà yêu nước tiền bối và đương thời;
với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra hạn chế
của những người đi trước. Người nhận ra rằng không thể cứu nước theo con
đường của Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... Người từ
chối Đông Du, không phải vì đã hiểu bản chất của đế quốc Nhật mà chỉ cảm
thấy rằng: không thể dựa vào nước ngoài để giải phóng Tổ quốc. Cùng với
việc phê phán hành động cầu viện Nhật Bản, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước
rước beo cửa sau”, tư tưởng “ỷ Pháp cầu tiến bộ” chẳng qua chỉ là việc cầu
xin Pháp rủ lòng thương....
31
Truyền thống dân tộc, gia đình, quê hương... tất cả đã thôi thúc Hồ Chí
Minh ra đi tìm một con đường mới để cứu dân, cứu nước. Nguyễn Ái Quốc đã
tự định ra cho mình một hướng đi mới: Phải tìm hiểu cho rõ bản chất của
những từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái của nước Cộng hoà Pháp, phải đi ra nước
ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, sẽ
trở về giúp đồng bào mình.
Câu 13: Những hoạt động chủ yếu của Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí
Minh) từ 1911 đến 1920, đã tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc?
Gợi ý trả lời:
Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) rời Cảng Nhà Rồng
(Sài Gòn) làm phụ bếp trên chiếc tàu “Đô đốc Latouche Tréville” và lấy tên là
Văn Ba đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước... Đó là việc làm mới mẻ, chưa
có tiền lệ, khác với hướng đi truyền thống sang phương Đông của các bậc tiền
bối.
- Nguyễn Tất Thành sang Pháp, đến cảng Mác-Xây ngày 6-7-1911,
thấy nhiều phụ nữ nghèo khổ, Nguyễn Tất Thành nói với người bạn: “Tại sao
người Pháp không “khai hoá” đồng bào của họ trước khi đi “khai hoá” chúng
ta?”.
- Làm thuê trên chiếc tàu đi vòng quanh châu Phi, tận mắt trông thấy
những cảnh khổ cực của người da đen dưới roi vọt của bọn thực dân, Nguyễn
Tất Thành nghĩ: “Đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa, da
vàng hay da đen cũng không đáng một xu”.
Giữa tháng 12-1912, Nguyễn Tất Thành tới nước Mỹ và Người dừng
lại ở Mỹ khoảng một năm, từ cuối 1912 đến cuối 1913. Ở nước Mỹ, Người
dành một phần thời gian để lao động kiếm sống, còn phần lớn thời gian dành
cho học tập, nghiên cứu Cách mạng Tư sản Mỹ năm 1776. Khi thăm pho
32
tượng Thần Tự do. Nguyễn Tất Thành không để ý đến ánh hào quang quanh
đầu tượng mà xúc động trước cảnh những nô lệ da đen dưới chân tượng.
- Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành từ Mỹ sang Anh, và sống tại Luân
- Đôn từ năm 1914 đến năm 1917, khoảng cuối năm 1917 trở lại Pháp... Ở tất
cả các nước thuộc địa châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ La tinh, Người nhận
thấy ở đâu các dân tộc bị áp bức cũng có nỗi khổ cực như nhau, đều có kẻ thù
chung là chủ nghĩa thực dân đế quốc.
- Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Người có cảm
tình sâu sắc với cuộc cách mạng Tháng Mười và lãnh tụ thiên tài V.I. Lênin.
- Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một
Đảng tiến bộ hồi bấy giờ.
- Tháng 6-1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp
Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị Vécxây bản Yêu sách của nhân dân An
Nam (gồm 8 điểm) để đòi Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do dân chủ
và bình đẳng của nhân dân Việt Nam. Bản Yêu sách đã vạch trần tội ác của
thực dân Pháp làm cho nhân dân thế giới và nhân dân Pháp phải chú ý đến
tình hình Việt Nam và Đông Dương. Bản Yêu sách đã không được bọn đế
quốc chấp nhận, từ đó Người rút ra bài học: “muốn được giải phóng các dân
tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”.
- Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lênin đăng trên
báo L’Humanité số ra ngày 16 và 17 tháng 7 năm 1920. Người sung sướng
vui mừng đến phát khóc lên: “Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ! Đây là cái
cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”.
Bởi vì Luận cương của Lênin đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc con
đường giành độc lập cho dân tộc và tự do cho đồng bào, đáp ứng những tình
cảm suy nghĩ, hoài bão được ấp ủ bấy lâu nay ở Người.
- Tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội lần thứ 18 của
Đảng Xã hội Pháp, Người biểu quyết tán thành đứng về Quốc tế thứ ba, từ bỏ
33
Đảng Xã hội và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người
cộng sản Việt Nam đầu tiên của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, đã
đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc: từ chủ
nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin; từ giác ngộ dân tộc đến với giác ngộ
giai cấp; từ người yêu nước thành người cộng sản.
Việc xác định con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc là công lao to
lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh, trong thực tế, Người “đã gắn phong trào cách
mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế đưa nhân dân ta đi theo con
đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác
- Lênin. Đó là con đường giải phóng duy nhất mà Cách mạng Tháng Mười
Nga đã mở ra cho nhân dân lao động và tất cả các dân tộc bị áp bức trên toàn
thế giới”
Câu 14: Trình bày những hoạt động chủ yếu của Nguyễn Ái Quốc từ
năm 1921 đến 1930 đã tác động đến sự hình thành cơ bản tư tưởng của
Người về cách mạng Việt Nam?
Gợi ý trả lời:
Trong giai đoạn từ năm 1921 đến 1930: Nguyễn Ái Quốc có những
hoạt động thực tiễn và hoạt động lí luận hết sức phong phú, sôi nổi trên địa
bàn nước Pháp, Liên Xô, Trung Quốc, Thái Lan, để tiến tới thành lập chính
Đảng cách mạng ở Việt Nam.
- Từ năm 1921 đến giữa năm 1923, trong thời gian này, ở Pháp, Người
hoạt động tích cực trong Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp
tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo “Le Paria” nhằm
tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào các nước thuộc địa. Người viết nhiều
bài báo tố cáo chủ nghĩa thực dân bóc lột tàn bạo các dân tộc thuộc địa.
Những bài báo ấy là cơ sở để Người hoàn thành biên soạn tác phẩm “Bản án
chế độ thực dân pháp” (1925). Tác phẩm này được các nhà nghiên cứu đánh
34
giá là: “... đã thực sự mở ra một giai đoạn mới trong những lý luận về vấn đề
dân tộc và thuộc địa” (1).
- Giữa năm 1923, Nguyễn Ái Quốc sang Mátxcơva dự Hội nghị Quốc
tế Nông dân và được bầu vào đoàn chủ tịch của Hội. Sau đó Người tiếp tục
tham gia Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V...
- Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) tổ
chức ra Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên (tháng 6-1925), ra báo Thanh
niên...
- Từ năm 1925 đến 1927, người mở lớp huấn luyện cán bộ cho những
người yêu nước Việt Nam. Tập đề cương bài giảng của Người được xuất bản
thành sách với nhan đề “Đường kách mệnh” vào năm 1927.
- Từ năm 1928 đến cuối năm 1929, hoạt động của Người là xây dựng
lực lượng cách mạng trong lực lượng Việt kiều yêu nước ở Xiêm. Đầu năm
1930 Hồ Chí Minh đã thống nhất các tổ chức cộng sản thành tổ chức cộng sản
duy nhất, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Những tác phẩm, bài viết của Nguyễn Ái Quốc thời kỳ này là sự phát
triển và tiếp tục hoàn thiện tư tưởng cách mạng về giải phóng dân tộc. Người
nêu ra bản chất của chủ nghĩa thực dân là “ăn cướp” và “giết người”. Vì vậy,
chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới.
- Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con
đường cách mạng vô sản và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.
- Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở
chính quốc có mối quan hệ khăng khít với nhau, nhưng không phụ thuộc vào
nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể bùng nổ và giành thắng lợi trước
cách mạng vô sản ở chính quốc.
- Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “dân tộc cách mệnh” đánh
đuổi bọn ngoại xâm, giành độc lập tự do.
35
- Cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành được thắng lợi cần phải
thu phục, lôi cuốn được nông dân đi theo, cần xây dựng khối công nông liên
minh làm động lực cho cách mạng. Đồng thời, cần phải thu hút, tập hợp rộng
rãi các giai cấp xã hội khác vào trận tuyến đấu tranh chung của dân tộc.
- Cách mạng muốn thành công trước hết cần có Đảng lãnh đạo. Đảng
phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân chứ không phải
việc của một vài người.
Những quan điểm, tư tưởng cách mạng trên đây của Nguyễn Ái Quốc
trong những năm 20 của thế kỷ XX được giới thiệu trong các tác phẩm của
Người, cùng các tài liệu mác-xít khác, theo những đường dây bí mật được
truyền về trong nước, đến với các tầng lớp nhân dân Việt Nam, đã thúc đẩy sự
phát triển của phong trào cách mạng, tạo những tiền đề chín muồi cho Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời.
- Tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ
chức cộng sản trong nước, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và trực tiếp
thảo ra các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt... của Đảng được
Hội nghị nhất trí thông qua.
Các văn kiện này cùng với hai tác phẩm của Người hoàn thành và xuất
bản trước đó là Bản án chế độ thực dân Pháp (năm 1925) và Đường kách
mệnh (năm 1927) và nhiều bài viết khác của Người trong giai đoạn này là sự
phát triển và tiếp tục hoàn thiện tư tưởng cách mạng về giải phóng dân tộc, đã
đánh dấu sự hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng của Việt
Nam.
36
Câu 15: Những hoạt động chủ yếu của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1930
đến 1945, thể hiện sự vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lập trường cách
mạng?
Gợi ý trả lời:
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối cách mạng vô sản
qua các văn kiện đầu tiên là Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt... là sự
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam
của Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, vào cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỷ XX,
Quốc tế Cộng sản bị chi phối nặng bởi khuynh hướng “tả”. Khuynh hướng
này đã trực tiếp tác động vào phong trào cách mạng Việt Nam. Biểu hiện rõ
nhất là những quyết định được đưa ra trong Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp
hành Trung ương lâm thời của Đảng, họp vào tháng 10-1930 tại Hương Cảng
(Trung Quốc) theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản. Hội nghị cho rằng, Hội
nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đầu năm 1930, vì chưa nhận thức đúng
nên đặt tên Đảng sai và quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông
Dương, chỉ trích và phê phán đường lối của Nguyễn Ái Quốc đưa ra trong
Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã phạm những sai lầm chính trị rất
“nguy hiểm”, vì “chỉ lo đến việc phản đế, mà quên mất lợi ích giai cấp tranh
đấu”. Do đó, Ban Chấp hành Trung ương đã ra nghị quyết “thủ tiêu Chánh
cương, Sách lược của Đảng”...
- Trên cơ sở xác định chính xác con đường cần phải đi của cách mạng
Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã kiên trì vượt qua thử thách giữ vững lập
trường cách mạng, bảo vệ quan điểm của mình về vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp, về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và cách mạng vô sản,
chống lại những biểu hiện “tả” khuynh và biệt phái trong Đảng.
Thực tiễn đã chứng minh quan điểm của Hồ Chí Minh là đúng.
Đại hội VII Quốc tế Cộng sản (tháng 7-1935) đã phê phán khuynh
hướng “tả” trong phong trào cộng sản quốc tế, chủ trương mở rộng Mặt trận
37
dân tộc thống nhất vì hoà bình, chống chủ nghĩa phát xít. Đối với các nước
thuộc địa và phụ thuộc, Đại hội VII bác bỏ luận điểm “tả khuynh” trước đây về
chủ trương làm “cách mạng công nông”, thành lập “chính phủ Xô viết”... Sự
chuyển hướng đấu tranh của Quốc tế Cộng sản đã chứng tỏ quan điểm của
Nguyễn Ái Quốc về cách mạng Việt Nam, về Mặt trận dân tộc thống nhất, về
việc tập trung mũi nhọn vào chống chủ nghĩa đế quốc là hoàn toàn đúng đắn.
Trên quan điểm đó, năm 1936, Đảng ta đã đề ra chính sách mới, phê phán
những biểu hiện “tả khuynh”, cô độc, biệt phái trước đây. Đó cũng là cơ sở để
Đảng ta chuyển hướng đấu tranh trong thời kỳ 1936 - 1939, thành lập Mặt trận
nhân dân phản đế Đông Dương (từ tháng 3-1938 đổi thành Mặt trận dân chủ
Đông Dương) và từ năm 1939 đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
- Tháng 6 - 1931, Nguyễn Ái Quốc bị thực dân Anh bắt giam ở Hồng
Kông. Do bản lĩnh vững vàng và hoạt động tích cực của Đảng, được sự giúp
đỡ của Quốc tế Cứu tế đỏ và Luật sư Lôdôbai, Nguyễn Ái Quốc được trắng án
và trở lại Liên Xô vào đầu năm 1934. Trong thời gian đó, Nguyễn Ái Quốc
kiên trì quan điểm của mình. Người học tập tại trường Đại học Quốc tế mang
tên Lênin và Nguyễn Ái Quốc vẫn luôn luôn theo dõi tình hình trong nước,
kịp thời có những chỉ đạo để cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển. Người
viết tám điểm xác định đường lối, chủ trương cho cách mạng Đông Dương
trong thời kỳ 1936 - 1939(1).
Khi tình hình thế giới có những biến động mới, Người đã chủ động đề
nghị Quốc tế Cộng sản cho về nước hoạt động.
Được Quốc tế Cộng sản chấp thuận, Nguyễn Ái Quốc từ Mátxcơva về
Trung Quốc (tháng 10-1938). Tại đây Người đã có những quan điểm chỉ đạo
sát hợp gửi cho các đồng chí lãnh đạo trong nước. Ngày 28 - 01-1941, sau 30
năm xa rời Tổ quốc, hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ
quốc. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tám (tháng 5 năm 1941), dưới sự chủ
trì của Nguyễn Ái Quốc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông
(1) Xem Hồ Chí Minh, Biên niên tiểư, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, thị trường, tr.91.
38
Dương đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chiến lược của cách mạng Việt
Nam, đặt nhiệm vụ chống đế quốc giải phóng dân tộc lên hàng đầu v.v...
Những tư tưởng, quan điểm, đường lối đúng đắn, sáng tạo theo tư
tưởng Hồ Chí Minh được đưa ra và thông qua trong Hội nghị Trung ương
Đảng lần thứ tám (tháng 5 năm 1941) có ý nghĩa quyết định chiều hướng phát
triển của cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta, dẫn đến thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 và ngày 02 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà.
Bản Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn, trong
đó độc lập, tự do gắn với phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội là tư
tưởng chính trị cốt lõi, vốn đã được Hồ Chí Minh phác thảo lần đầu tiên trong
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt năm 1930, nay trở thành hiện thực
cách mạng, trở thành chân lý của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây
dựng xã hội mới của dân tộc ta.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với sự ra đời của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin được vận
dụng, phát triển ngày càng sát đúng với hoàn cảnh Việt Nam, là thắng lợi của
tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh.
Câu 16: Hãy nêu những hoạt động chủ yếu của Nguyễn Ái Quốc -
Hồ Chí Minh từ năm 1945 đến 1969, thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp
tục phát triển, hoàn thiện.
Gợi ý trả lời:
Sau khi giành được chính quyền (tháng 8 năm 1945) nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà ra đời, đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn giặc đói
giặc dốt, nhất là đe doạ của giặc ngoài thù trong.
Đứng trước tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc” của dân tộc, trên cương vị
là người đứng đầu Đảng và Nhà nước trong điều kiện Đảng cầm quyền đã
39
chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh hiểm trở tới bờ
bến thắng lợi. Người chủ trương củng cố chính quyền non trẻ, cải thiện đời
sống nhân dân, khắc phục nạn tài chính thiếu hụt, đẩy lùi giặc đói, giặc dốt.
Về đối ngoại Người đưa ra tư tưởng “dĩ bất biến ứng vạn biến” vận
dụng sách lược khôn khéo, mềm dẻo thêm bạn bớt thù, tranh thủ thời gian để
chuẩn bị thế và lực cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Chính nhờ đó, ngày 19-12-1946 với tư thế sẵn sàng và lòng tin sắt đá
vào cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Hồ Chí
Minh đã phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp và
Người đã cùng Trung ương Đảng đề ra đường lối kháng chiến toàn dân, toàn
diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh.
Năm 1951, theo sáng kiến của Hồ Chí Minh Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ II (tháng 2 - 1951) của Đảng, đã thông qua Cương lĩnh, Điều lệ mới
đổi tên Đảng thành Đảng Lao động Việt Nam, đề ra chủ trương, đường lối
đứng đắn, giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, nhằm động
viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta kháng chiến chống thực dân Pháp và
can thiệp Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.
Sau hiệp định Giơne năm 1954, đất nước ta tạm thời bị chia làm hai
miền. Đứng trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, tư tưởng Hồ Chí
Minh tiếp tục phát triển, đáp ứng tính hình nhiệm vụ đó với việc hình thành
đường lối thực hiện đồng thời hai cuộc cách mạng, cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Hai cuộc cách
mạng ở hai miền có mối quan hệ khăng khít với nhau.
Xuất phát từ thực tiễn trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhiều vấn đề đã tiếp tục bổ sung, phát triển hợp thành
một hệ thống những quan điểm lý luận về cách mạng Việt Nam.
Đó là tư tưởng về chủ nghĩa xã hội, tư tưởng về Nhà nước của dân, do
dân, vì dân, tư tưởng và chiến lược về con người, tư tưởng về Đảng Cộng sản
v.v...
40
Năm 1969, trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp để lại cho
toàn Đảng, toàn dân ta bản Di chúc thiêng liêng chỉ rõ sự tất thắng của sự
nghiệp chống Mỹ của nước, tổng kết những bài học của cách mạng Việt Nam
và chỉ ra những phương hướng lớn để xây dựng đất nước sau chiến tranh
nhằm thực hiện cho được mục tiêu “Xây dựng một nước Việt Nam, hoà bình
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng cho sự
nghiệp cách mạng thế giới”
Thực hiện Di chúc của Người, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân tiến hành
cuộc cách mạng dân tộc chủ nhân dân ở miền Nam hoàn thành sự nghiệp
thống nhất Tổ quốc đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành và phát triển đáp ứng đòi hỏi của
lịch sử dân tộc và nhân loại trong thời đại mới. Nhận thức đúng đắn giá trị tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 - 1986)
của Đảng ta đã chỉ rõ: để giành thắng lợi đổi mới phải được thực hiện trên cơ
sở quán triệt chủ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đến Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 - 1991) của Đảng; Đảng ta khẳng
định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng kim chỉ nam cho hành động.
Tiến sĩ M.Ahmeđ đại diện đặc biệt của Tổng giám đốc UNESCO đã
cho rằng “Hồ Chí Minh sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng
cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã
mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh
không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng, khỏi trái đất này”.
Câu 17: Trình bày những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con
đường giải phóng và phát triển dân tộc?
Gợi ý trả lời:
a). Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt
Nam
41
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của dân tộc và thời đại, là tinh hoa
văn hoá của Việt Nam và của nhân loại, là tài sản vô giá của dân tộc ta, nó
trường tồn, bất diệt.
Sở dĩ như vậy vì tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu kế thừa,
phát triển sáng tạo những giá trị, tinh hoa văn hóa dân tộc và văn hoá nhân
loại, mà còn đáp ứng nhiều vấn đề của sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế
giới, Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng bổ sung và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam để vạch ra chiến lược,
sách lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Nét đặc sắc nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là những vấn đề xung
quanh việc giải phóng dân tộc và định hướng cho sự phát triển của dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn cách
mạng nước ta.
- Tính sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ: trung thành
với những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời khi
nghiên cứu, vận dụng những nguyên lý đó, Hồ Chí Minh đã mạnh dạn loại bỏ
những gì không thích hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, dám đề xuất
những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra và giải quyết một cách linh hoạt, khoa
học, hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường chỉ ra: “lý luận không phải là
một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo, lý luận luôn luôn cần được bổ
sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn, với
những hoạt động cách mạng của Người. Ngay từ ngày thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh xác
định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi đến xã hội cộng sản”. Tư tưởng
trên đây của Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh
42
mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải
phóng giai cấp và giải phóng con người.
Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng
dân tộc dân chủ đến cách mạng xã hội chủ nghĩa v.v... đang soi sáng cho
chúng ta.
b). Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động của chúng ta
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng ta và nhân dân ta trên con
đường thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn
minh.
Trong suốt chặng đường hơn một nửa thế kỷ, tư tưởng Hồ Chí Minh đã
trở thành ngọn cờ dẫn dắt cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 năm 1991) của Đảng
nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh và đã quyết định ghi vào Cương lĩnh và Điều
lệ của Đảng: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Điều đó bảo đảm cho sự
thắng lợi của cách mạng Việt Nam, bảo đảm cho tương lai, tiền đồ vẻ vang
của dân tộc Việt Nam.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh khi đi vào đời sống nhân dân sẽ biến thành
sức mạnh cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới. Trong tình hình thế giới
ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta nhận thức đúng những vấn đề
lớn có liên quan đến bảo vệ nền độc lập dân tộc, phát triển xã hội và bảo đảm
quyền con người...bởi vì Hồ Chí Minh đã suốt đời phấn đấu cho việc giải
phóng các dân tộc, đã đề ra lý luận về sự phát triển của các dân tộc giành độc
lập tiến lên chủ nghĩa xã hội và luôn quan tâm đến lợi ích con người.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng vững chắc để Đảng ta vạch ra
đường lối cách mạng đứng đắn.
43
- Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi sống với chúng ta, vì đã thấm sâu vào
quần chúng nhân dân, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ đối với
thời đại. Qua thực tiễn cách mạng tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng toả sáng
chiếm lĩnh trái tim, khối óc của hàng triệu con người.
Thấm nhuần giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại hội VI (tháng 12-1986)
mở ra sự nghiệp đổi mới, Đảng ta chỉ rõ: để giành thắng lợi, đổi mới phải
được thực hiện trên cơ sở quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, đến đại hội VII (tháng 6-1991) Đảng ta khẳng định: Đảng lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động.
Câu 18: Trình bày những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự
phát triển thế giới?
Gợi ý trả lời:
a). Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng thời đại
- C.Mác tâm đắc với luận điểm của nhà triết học duy vật Henvexiuýt và
đã nhắc lại trong tác phẩm của mình: “Mỗi một thời đại xã hội đều cần có
những anh hùng và vĩ nhân của nó, và nếu không có những con người như thế
thì như Henvêxiuýt đã nói, thời đại sẽ sáng tạo ra những con người như thế”
và C.Mác đã viết: “Mỗi thời đại xã hội đều cần có những con người vĩ đại của
nó, và nếu nó không tìm ra những người như thế..., nó sẽ nặn ra họ” 1
Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử vĩ đại, không chỉ là sản phẩm của dân
tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn là sản phẩm của thời đại. Nhân
vật lịch sử, nhà tư tưởng, vĩ nhân xuất hiện đều phải có tiền đề, nhu cầu bức
xúc của dân tộc đòi hỏi, để nhân vật lịch sử ra đời như một tất yếu. Hồ Chí
Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời là do nhu cầu bức thiết của xã hội Việt
Nam vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khi đó đòi hỏi là chống chủ nghĩa
thực dân, giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho dân tộc.
1 Henvexiuýt (1715 1771) - Đại biểu xuất sắc của CNDV và thần học pháp hồi thế kỷ XVIII
44
Nếu như C.Mác và Ph.Ăngghen bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa tư bản. V.I.Lênin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc,
thì Hồ Chí Minh tập trung bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực
dân và C.Mác, V.I.Lênin bàn nhiều về đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản
chủ nghĩa, thì Hồ Chí Minh bàn nhiều về đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc
địa.
Nếu như C.Mác và Ph.Ăngghen đáp ứng nhu cầu tư tưởng lý luận
chống chủ nghĩa tư bản thời kỳ tự do cạnh tranh. Lênin đáp ứng nhu cầu tư
tưởng lý luận chống chủ nghĩa tư bản thời kỳ độc quyền (chủ nghĩa đế quốc),
Hồ Chí Minh đáp ứng nhu cầu tư tưởng và lý luận đấu tranh chống chủ nghĩa
thực dân, giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho dân tộc.
Những cống hiến xuất sắc của Hồ Chí Minh là về lý luận cách mạng
giải phóng dân tộc thuộc địa dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin: Giành
độc lập dân tộc để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người cũng có những nhận thức
sâu sắc và độc đáo về mối quan hệ chặt chẽ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản; về
mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa với cách mạng vô
sản ở chính quốc và về khả năng cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa nổ
ra và thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh thể hiện xác định đúng đắn những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam trong đó có cả các vấn đề về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, về hoà bình, hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc... có giá trị to lớn về mặt
lý luận và đang trở thành hiện thực của nhiều vấn đề quốc tế ngày nay.
b). Tư tưởng Hồ Chí Minh tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng
loài người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ ra chiến lược sách lược, phương pháp
cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc địa, giải quyết đúng đắn vấn đề
“làm cách nào để giải phóng các dân tộc thuộc địa” Hồ Chí Minh đã xác định
chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù lớn nhất của các dân tộc bị áp bức và để chiến
45
thắng chủ nghĩa đế quốc cần phải thực hiện “đại đoàn kết”, “đại hoà hợp” đây
là một đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh.
- Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế giới còn thể hiện ở chỗ
Người đã nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại. Trên cơ sở nắm vững
đặc điểm thời đại. Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt mỏi để gắn cách
mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Người đặt cách mạng giải phóng dân
tộc thuộc địa vào phạm trù cách mạng vô sản. Người cương quyết bảo vệ và
phát triển quan điểm của V.I. Lênin về khả năng to lớn và vai trò chiến lược
của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa đối với cách mạng vô sản.
Từ việc nắm bắt xu thế phát triển của thời đại, Hồ Chí Minh đã đề ra
đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự
nghiệp cứu nước giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Rồi chính từ kinh nghiệm
của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tổng kết, khẳng định “trong thời
đại đế quốc chủ nghĩa, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp
vô sản và đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi trước hết là
nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yên nước trong mặt trận
thống nhất, với sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới,
trước hết là của phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, nhân dân nước đó nhất định
thắng lợi”...
Những tư tưởng trên đây của Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ mãi mãi là
chân lý sáng ngời, góp phần vào sự kiến tạo và phát triển của nhân loại.
c). Tư tưởng Hồ Chí Minh cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục
tiêu cao cả
Hồ Chí Minh là vị anh hùng dân tộc vĩ đại, người thầy thiên tài của
cách mạnh Việt Nam, một nhà mác xít - Lêninnít lối lạc, nhà hoạt động xuất
sắc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, một chiến sĩ kiên cường
của phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX.
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác, tư tưởng Hồ Chí Minh đã cổ vũ, chỉ đường cho các
46
dân tộc thuộc địa châu Á, châu Phi, đứng dậy đầu tranh giải phóng khỏi ách
áp bức bóc lột của đế quốc phong kiến giành độc lập tự do.
Trong lòng nhân dân thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh là bất diệt. Bạn bè
năm châu khâm phục và coi Hồ Chí Minh là “lãnh tụ của thế giới thứ ba”
Câu 19: Tổ chức UNESCO đánh giá về Hồ Chí Minh như thế nào?
Gợi ý trả lời:
- UNESCO là Tổ chức giáo dục khoa học và văn hoá Liên hợp quốc.
Tại khoá họp lần thứ 18, UNESCO đã thông qua Quyết định số 18c
4351 “Về việc tổ chức kỷ niệm những vĩ nhân và những sự kiện đã để lại dấu
ấn trong quá trình phát triển của nhân loại”. Về ý nghĩa của những hoạt động
này. Nghị quyết của UNESCO về kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết: “Xét thấy việc tổ chức kỷ niệm trên quy mô quốc tế những nhà
trí thức và danh nhân văn hoá sẽ góp phần vào việc thực hiện những mục tiêu
của UNESCO và vào sự hiểu biết trên thế giới”.
Những chủ trương và hoạt động của UNESCO theo phương hướng nêu
trên được nhân dân thế giới hưởng ứng, ủng hộ. Trung thành với lý tưởng của
mình, đến khoá họp lần thứ 24 ngày 16 tháng 4 năm 1987, 21 danh nhân văn
hoá thế giới đã được UNESCO suy tôn và thế giới tổ chức kỷ niệm.
Khi UNESCO bàn về kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí
Minh, thì tất cả từ Uỷ ban I. Uỷ ban về các vấn đề chính trị thuộc UNESCO,
đến phiên họp toàn thể của Đại hội đồng đã hoàn toàn nhất trí thông qua nghị
quyết với những nội dung chính:
1. Về đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giải phóng
dân tộc, hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nghị quyết viết: “Chủ tịch Hồ
Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã
cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt
Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”.
47
2. Những cống hiến tích cực, phong phú của Hồ Chí Minh trên lĩnh vực
văn hoá được Nghị quyết chỉ rõ: “Sự đóng góp quan trọng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong các lĩnh vực văn hoá giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của
truyền thống văn hoá ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng
của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng
định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn
nhau”.
3. Từ những cống hiến đặc biệt nổi bật nêu trên, khoá họp lần thứ 24
quyết định:
- Năm 1990 sẽ được đánh dấu bằng kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hoá kiệt
xuất.
- Khuyến nghị các quốc gia thành viên UNESCO kết hợp kỷ niệm lần
thứ 100 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng cách tổ chức những hoạt
động đa dạng để kỷ niệm Người, để làm cho mọi người hiểu được tầm vóc to
lớn những tư tưởng và sự nghiệp của Hồ Chí Minh đối với công cuộc giải
phóng dân tộc.
- Đề nghị Tổng giám đốc UNESCO tiến hành những bước phù hợp để
kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và giúp đỡ các hoạt
động tưởng niệm chung được tổ chức nhân dịp này, đặc biệt là diễn ra ở Việt
Nam.
Như vậy, thông qua UNESCO nhân loại đã ghi nhận Hồ Chí Minh vừa
là một anh hùng giải phóng dân tộc, vừa là nhà văn hoá kiệt xuất.
Tiến sĩ M. Amét - Tổng giám đốc UNESCO cho rằng: “Hồ Chí Minh
thành công trong việc liên kết nhiều sắc thái văn hoá vào một nền văn hoá
Việt Nam duy nhất. Người đã làm được việc này nhờ sự hiểu biết sắc thái và
tôn trọng những đặc điểm văn hoá khác nhau. Hồ Chí Minh được ghi nhớ
không phải chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân loại bị đô hộ, mà còn
là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho
48
những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất
bình đẳng khỏi trái đất này”.
Câu 20: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thực chất của vấn đề dân tộc
thuộc địa là gì?
Gợi ý trả lời:
- Dân tộc là một vấn để rộng lớn, bao gồm những quan hệ về chính trị,
kinh tế lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hoá giữa các dân tộc, các nhóm dân
tộc và bộ tộc.
- C.Mác, Ph.Ăngghen đã nêu ra các quan điểm cơ bản có tính chất
phương pháp luận để nhận thức và giải quyết những vấn đề về nguồn gốc bản
chất của vấn đề dân tộc, những quan hệ cơ bản của dân tộc, thái độ của giai
cấp công nhân và đảng của nó với vấn đề dân tộc.
- Trên cơ sở các quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen, Lênin đã phát
triển lên thành một hệ thống lý luận toàn diện, sâu sắc về vấn đề dân tộc, làm
cơ sở cho cương lĩnh, đường lối, chính sách của các Đảng Cộng sản kiểu mới
về vấn đề dân tộc.
- Theo quan điểm Mác - Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá trình phát
triển lâu dài của lịch sử. Trước dân tộc là những hình thức cộng đồng tiền dân
tộc như thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản dẫn
đến sự ra đời của các nhà nước dân tộc tư bản chủ nghĩa. Khi chủ nghĩa tư
bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,
các nước đế quốc thi hành chính sách vũ trang xâm lược cướp bóc, nô dịch
các dân tộc nhược tiểu, vấn đề dân tộc trở nên gay gắt, từ đó xuất hiện vấn đề
dân tộc thuộc địa.
Hồ Chí Minh tiếp cận tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề
dân tộc, nhưng vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh được đề cập ở đây
không phải là vấn đề dân tộc nói chung mà là vấn đề dân tộc thuộc địa. Thực
chất của vấn đề dân tộc ở thuộc địa là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực
49
dân, xoá bỏ ách thống trị, áp bức bóc lột của nước ngoài, giải phóng dân tộc
giành độc lập dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập Nhà nước
dân tộc độc lập.
Hồ Chí Minh viết nhiều tác phẩm như Tâm địa thực dân, Bình đẳng,
Vực thẳm thuộc địa, Công cuộc khai hoá giết người... tố cáo chủ nghĩa thực
dân, vạch trần cái gọi là “khai hoá văn minh” của chúng. Người viết: “Để che
đậy sự xấu xa của chế độ bóc lột giết người, chủ nghĩa tư bản thực dân luôn
luôn điểm trang cho cái huy chương mục nát của nó bằng những châm ngôn
lý tưởng: Bác ái, Bình đẳng”1.
Nếu như C.Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản,
V.I.Lênin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Hồ Chí
Minh tập trung bàn về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. C.Mác.
V.I.Lênin bàn nhiều về đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa, thì Hồ
Chí Minh bàn nhiều về đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
Để giải phóng dân tộc, cần xác định một con đường phát triển của dân
tộc, vì phương hướng phát triển dân tộc quy định những yêu cầu và nội dung
trước mắt của cuộc đấu tranh giành độc lập.
Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử nhân loại. Hồ
Chí Minh khẳng định phương hướng con đường phát triển của dân tộc trong
bối cảnh thời đại mới là tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ
Chí Minh viết: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản”. Con đường đó kết hợp trong đó cả nội dung dân tộc dân
chủ và chủ nghĩa xã hội, xét về thực chất chính là con đường độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Con đường đó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở thuộc địa. Đó
cũng là nét độc đáo, khác biệt với con đường phát triển của các dân tộc đã
phát triển lên chủ nghĩa tư bản ở phương Tây.
1 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1. tr 75
50
Câu 21: Trình bày sự lựa chọn con đường phát triển của dân tộc sau
khi cách mạng giải phóng dân tộc thành công theo tư tưởng Hồ Chí Minh?
Gợi ý trả lời:
- Để giải phóng dân tộc, cần xác định một con đường phát triển dân tộc,
vì phương hướng phát triển dân tộc quy định những yêu cầu và nội dung
trước mắt của cuộc đấu tranh giành độc lập. Mỗi phương hướng phát triển gắn
liền với một hệ tư tưởng và một giai cấp nhất định.
- Trong lịch sử tiến hoá của nhân loại, xã hội cộng sản nguyên thuỷ
được thay thế bằng xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội chiếm hữu nô lệ được thay
thế bằng xã hội phong kiến, xã hội phong kiến được thay thế bằng xã hội tư
bản. Cuối thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản đã chuyển nhanh sang giai đoạn tư
bản độc quyền (đế quốc chủ nghĩa). Năm 1917 Cách mạng Tháng Mười Nga
nổ ra thắng lợi, mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội.
Căn cứ vào thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử nhân
loại. Hồ Chí Minh khẳng định con đường phát triển của phong trào giải phóng
dân tộc là đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ. Chỉ ra con đường phát triển của dân tộc thuộc địa là một vấn đề hết sức
mới mẻ và sáng tạo, độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, từ một nước thuộc địa đi lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua nhiều
giai đoạn chiến lược khác nhau. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh viết: “làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Con đường đó kết hợp trong đó
cả nội dung dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, xét về thực chất chính là
con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. “Đi tới xã hội cộng
sản” là hướng phát triển lâu dài. Nó quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản đoàn kết mọi lực lượng dân tộc, tiến hành các cuộc cách mạng chống đế
quốc và chống phong kiến cho triệt để.
51
Hồ Chí Minh lựa chọn con đường phát triển của dân tộc tiến lên chủ
nghĩa xã hội cho nhân dân ta đi. Đó là con đường phù hợp với hoàn cảnh lịch
sử cụ thể ở thuộc địa. Đó là con đường khác với các nhà yêu nước đương thời
của ông cha ta đồng thời đó cũng là nét độc đáo khác biệt với con đường phát
triển của các dân tộc đã phát triển lên chủ nghĩa tư bản ở phương Tây.
Câu 22: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung cốt lõi của vấn đề dân
tộc thuộc địa là gì?
Gợi ý trả lời:
Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Tinh thần yêu nước luôn luôn đứng ở hàng đầu của bảng giá trị tinh
thần truyền thống Việt Nam.
Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước cho dân tộc với một khát vọng
lớn nhất của một người dân mất nước là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân
dân. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào
tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập... Trên đường tiếp cận chân lý cứu
nước, Hồ Chí Minh hết sức tôn trọng quyền con người. Hồ Chí Minh đã tìm
hiểu và tiếp nhận những nhân tố về quyền con người được nêu lên trong
Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có
quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc”.
Tiếp nhận bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng
Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải
luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Người khẳng định: “Đó là
những lẽ phải không ai chối cãi được”. Và từ quyền con người, Hồ Chí Minh
đã khái quát và nâng cao thành quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế
giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do”.
52
Mục tiêu đấu tranh Người đặt ra trước hết là phải giành lại độc lập tự
do. Độc lập tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa”.
Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết đã được các đồng
minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất long trọng thừa nhận, thay
mặt những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị Véc
xây Bản Yêu sách gồm tám điểm, đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân
Việt Nam. Bản Yêu sách đã không được bọn đế quốc chấp nhận, từ đó người
rút ra bài học: muốn được giải phóng các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực
lượng của bản thân mình.
Năm 1930 tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí
Minh chủ trì, trong văn kiện của Đảng do Người trực tiếp soạn thảo đã xác
định mục tiêu chính trị của Đảng: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi đến xã hội cộng sản”; trong cách mạng tư sản dân quyền
và thổ địa cách mạng, Đảng xác định: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và
bọn phong kiến làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”.
Năm 1941, Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ tám tháng
5 năm 1941, Hội nghị chủ trương nêu cao vấn đề giải phóng dân tộc: “Trong
lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được
độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc
còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận của giai cấp đến vạn
năm cũng không đòi được”. Người chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Nam độc
lập đồng minh, ra báo Việt Nam độc lập, thảo Mười chính sách của Việt Minh
trong đó mục tiêu đầu tiên là: “Cờ treo độc lập nền xây binh quyền”.
- Tháng 7 năm 1945, khi thời cơ khởi nghĩa đang đến gần, Hồ Chí
Minh nêu rõ quyết tâm: “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải
kiên quyết giành cho được độc lập”.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Người thay mặt Chính
phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, long trọng khẳng định trước toàn thế
giới quyền và quyết tâm bảo vệ độc lập tự do của nước Việt Nam Dân chủ
53
Cộng hoà. “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã
thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Sau khi tuyên bố nền độc lập của nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi
thư và điện văn tới tổ chức Liêp hiệp quốc và Chính phủ các nước trịnh trọng
tuyên bố: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà bình. Nhưng nhân
dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền
thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước ”.
- Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ. Thể hiện
quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc. Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi
vang dội núi sông: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
- Khi đế quốc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh, ồ ạt đổ quân viễn
chinh và phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam, đồng thời tiến hành
chiến tranh phá hoại miền Bắc với quy mô và cường độ ngày càng ác liệt.
Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày 17-7-
1966, Người nêu cao chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, không
có gì quý hơn độc lập tự do, không chỉ là tư tưởng, mà còn là lẽ sống, là học
thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh.
Không có gì quý hơn độc lập tự do; đó là lý do chiến đấu, là nguồn sức
mạnh làm nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của dân
tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, một tư tưởng lớn trong thời đại giải phóng dân
tộc. “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là khẩu hiệu hành động của dân tộc
Việt Nam đồng thời cũng là nguồn cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên toàn thế
giới đang đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Vì thế Hồ Chí Minh không chỉ
là Anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam mà còn là “Người khởi xướng
cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”.
54
Câu 23: Quan niệm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp?
Gợi ý trả lời:
- Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau.Hồ Chí Minh luôn luôn đứng trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin,
quan điểm của giai cấp công nhân để giải quyết vấn đề dân tộc.
Về vấn đề dân tộc, ở thời đại nào cũng được nhận thức và giải quyết
trên lập trường và theo quan điểm của một giai cấp nhất định. Các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh rằng: Chỉ đứng trên lập trường
của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải quyết được đúng đắn vấn đề
dân tộc.
Theo Mác - Ăngghen trong thời đại ngày nay, chỉ có giai cấp vô sản
mới thống nhất được lợi ích của giai cấp mình với lợi ích của nhân dân lao
động và của cả dân tộc. Có triệt để xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp bức giai
cấp mới có điều kiện xoá bỏ ách áp bức dân tộc, mới đem lại độc lập thật sự
cho dân tộc mình và cho các dân tộc khác.
Sống trong thời đại chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống thế
giới, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng
vô sản. Theo Lênin : cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ
không thể giành được thắng lợi nếu nó không biết liên minh với cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa.
Mác - Ăngghen, Lênin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về mối quan
hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, tạo cơ sở lý luận và
phương pháp luận cho việc xác định chiến lược, sách lược của các Đảng Cộng
sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu và mục tiêu của cách mạng vô sản ở
châu Âu, Mác, Ăngghen và Lênin vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai
cấp, vẫn “đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân
tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản”.
55
Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
xác định con đường giải phóng dân tộc mình theo cách mạng vô sản, thấy rõ
mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp... Nhưng xuất phát từ thực tiễn dân tộc
thuộc địa, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển những quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc. Quan điểm của Người thể hiện:
khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất
của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam, chủ trương đại đoàn
kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp
tri thức dưới sự lãnh đạo của Đảng v.v...
- Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết, độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh cho rằng, các dân tộc bị các nước thực dân xâm lược, áp
bức, bóc lột thì khát vọng lớn nhất là giành lại độc lập tự do - nghĩa là tiến
hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Đó là nhiệm vụ hàng đầu, là vấn đề
trên hết, trước hết, là cơ sở tiền đề giải quyết các vấn đề khác như giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, mở đường quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Khác với con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân tộc với chủ
nghĩa phong kiến (cuối thế kỷ XIX) hoặc chủ nghĩa tư bản (đầu thế kỷ XX)
con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.
Năm 1920, ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển
dân tộc theo con đường của cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn
bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
Ngày 17-10-1945, trong Thư gửi Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện
và làng, Hồ Chí Minh viết “Ngày nay chúng ta đã xây dựng nên nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Do đó, sau khi giành độc
56
lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh,
mọi người được sung sướng tự do.
Năm 1960, trong bài Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, Người
khẳng định lại rõ hơn: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ảnh quy luật khách quan của sự
nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ảnh mối
quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng
giai cấp và giải phóng con người... Hồ Chí Minh nói: nước độc lập mà dân
không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì? Do
đó, sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội làm cho
dân giàu, nước mạnh, mọi người được sung sướng tự do.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi
ngày một no ấm thêm; Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”.
- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải
phóng giai cấp - Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai
cấp, nhưng đồng thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân
tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai
cấp. Vì thế lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc.
Tháng 5-1941. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám
do Hồ Chí Minh chủ trì, Người cùng Trung ương Đảng chuyển hướng chiến
lược, nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu và khẳng
định: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự
sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải
quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn
thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa
57
trâu, mà quyền lợi của bộ phận của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại
được”.
- Giữ vững độc lập của dân tộc mình đồng thời tôn trọng độc lập của
các dân tộc khác.
Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh
cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân
tộc bị áp bức. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính, luôn luôn
thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ
thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh không
quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc trên thế giới.
- Năm 1914, khi chiến tranh thế giới thứ nhất vừa nổ ra trên đất nước
Anh, Người đã đem toàn bộ số tiền dành dụm từ đồng lương ít ỏi của mình
ủng hộ quỹ kháng chiến của người Anh và nói: “Chúng ta phải tranh đấu cho
tự do, độc lập của các dân tộc khác như là đấu tranh cho dân tộc ta vậy”
Những năm 30 đến những năm 50 của thế kỷ XX. Người tích cực ủng hộ
cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, các cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Lào
và Campuchia đề ra khẩu hiệu “giúp bạn là tự giúp mình” và chủ trương phải
bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi của cách
mạng thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang tính khoa học và cách
mạng sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp chủ
nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đúng như
Ph.Ăngghen từng nói: Những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào
công nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính.
58
Câu 24: Trình bày sự hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về
con đường cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam?
Gợi ý trả lời:
- Ngày 5-6-1911 Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) rời cảng Nhà Rồng
(Sài Gòn) lấy tên là Văn Ba đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước, làm phụ
bếp trên chiếc tàu “Đô đốc Latouche Tréville”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bỏ ra nhiều năm để tìm hiểu các cuộc cách
mạng lớn trên thế giới và khảo sát cuộc cách mạng lớn trên thế giới và khảo
sát cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức ở nhiều nước thuộc địa.
Năm 1917 Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã mở ra thời đại
mới trong lịch sử, Người có cảm tình sâu sắc với cuộc Cách mạng Tháng
Mười và lãnh tụ thiên tài V.I.Lênin.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lênin Người sung
sướng cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng, vui mừng thốt lên: “Hỡi đồng
bào bị đoạ đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường
giải phóng chúng ta”.
- Tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc, tham gia Đại hội lần thứ 18 của
Đảng Xã hội Pháp, Người biểu quyết tán thành đứng về Quốc tế thứ ba, từ bỏ
Đảng Xã hội và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện đó đánh dấu
bước chuyển biến về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh: từ chủ nghĩa yêu nước
đến chủ nghĩa Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu
nước thành người cộng sản.
Sau khi trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc tham gia hoạt động
lý luận và thực tiễn cực kỳ sôi nổi trong Đảng Cộng sản Pháp và trong Quốc
tế Cộng sản.
Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu (Trung Quốc) sáng
lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6-1925), xuất bản báo Thanh niên.
Từ năm 1925 đến 1927, mở các lớp huấn luyện chính trị đào tạo cán bộ, đưa
59
họ về nước hoạt động. Trong thời gian này, Người đã cho xuất bản các tác
phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) Đường kách mệnh (1927). Tháng
2 - 1930, tại Hội nghị hợp nhất của Đảng, Người trực tiếp thảo ra các văn
kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ
vắn tắt của Đảng. Những văn kiện này đã đánh dấu sự hình thành cơ bản của
tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc của Việt
Nam.
Câu 25: Hãy nêu tính chất và nhiệm vụ của cách mạng giải phóng
dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh?
Gợi ý trả lời:
Trong báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, gửi Quốc tế Cộng sản
năm 1924, bằng phương pháp lịch sử cụ thể, bám sát thực tiễn xã hội thuộc
địa, Hồ Chí Minh nhận thấy sự phân hoá giai cấp ở các nước thuộc địa
phương Đông không giống như ở các nước tư bản phương Tây. Các giai cấp ở
thuộc địa có sự khác nhau ít nhiều, nhưng đều chung một số phận mất nước,
giữa họ vẫn có sự tương đồng lớn, dù là địa chủ hay nông dân, họ đều chịu
chung số phận là người nô lệ mất nước.
Về mâu thuẫn của xã hội thuộc địa: Nếu như mâu thuẫn chủ yếu ở các
nước tư bản phương Tây là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản,
thì mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa phương Đông là mâu thuẫn giữa
dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực dân.
Dưới tác động của chính sách khai thác kinh tế, bóc lột tô thuế và cướp
đoạt ruộng đất, cùng với những chính sách cai trị của chủ nghĩa đế quốc, mỗi
giai cấp ở thuộc địa có địa vị kinh tế, thái độ chính trị khác nhau, thậm chí có
lợi ích phát triển ngược chiều nhau, hình thành nhiều mâu thuẫn đan xen
nhau, nhưng nổi lên mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc
bị áp bức với đế quốc xâm lược và tay sai của chúng. Do vậy, “Cuộc đấu
tranh giai cấp không diễn ra như ở phương Tây”.
60
Hồ Chí Minh phân tích xã hội Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc
xét “về mặt cấu trúc kinh tế không giống các xã hội phương Tây thời Trung
cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở
đây. Do mâu thuẫn chủ yếu khác nhau, tính chất cuộc đấu tranh cách mạng ở
các nước tư bản chủ nghĩa và các nước thuộc địa cũng khác nhau. Nếu như ở
các nước tư bản chủ nghĩa phải tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp, thì ở các
nước thuộc địa trước hết lại phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Đối tượng của cách mạng ở thuộc địa không phải là giai cấp tư bản bản
xứ, càng không phải là giai cấp địa chủ nói chung, mà là chủ nghĩa thực dân
và tay sai phản động.
Cách mạng xã hội là lật đổ nền thống trị hiện có và thiết lập một chế
độ xã hội mới. Cách mạng ở thuộc địa trước hết phải “lật đổ ách thống trị của
chủ nghĩa đế quốc” chứ chưa phải là cuộc cách mạng xoá bỏ sự tư hữu, sự
bóc lột nói chung.
Yêu cầu bức thiết của nhân dân các nước thuộc địa là độc lập dân tộc.
Trong phong trào cộng sản quốc tế, có quan điểm cho rằng “vấn đề cơ bản
của cách mạng thuộc địa là vấn đề nông dân”, và chủ chương nhấn mạnh vấn
đề ruộng đất, nhấn mạnh đấu tranh giai cấp.
Ở các nước thuộc địa, nông dân là lực lượng đông đảo nhất. Thực dân
Pháp thống trị và bóc lột nhân dân Việt Nam, thì chủ yếu là thống trị và bóc lột
nông dân. Nông dân là nạn nhân chính của các chính sách khai thác thuộc địa,
bóc lột tô thuế và cướp đoạt ruộng đất. Vì thế kẻ thù số một của nông dân là
bọn đế quốc thực dân. Nông dân có hai yêu cầu là độc lập dân tộc và ruộng đất,
nhưng họ luôn đặt yêu cầu độc lập dân tộc cao hơn so với yêu cầu ruộng đất.
Cùng với nông dân, tất cả các giai cấp và tầng lớp khác nhau đều có
nguyện vọng chung là “cứu giống nòi” ra khỏi cảnh “nước sôi lửa bỏng”.
Việc cứu nước là việc chung của cả dân tộc bị áp bức.
Mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa là mâu thuẫn dân tộc quy định tính chất
và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc.
61
Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc phân biệt ba loại
cách mạng: cách mạng tư sản, cách mạng vô sản, và cách mạng giải phóng
dân tộc, đồng thời, Người nhấn mạnh tính chất và nhiệm vụ của cách mạng
Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc. Người giải thích: Giai cấp nông
dân là bộ phận có số lượng lớn nhất trong dân tộc, nên giải phóng dân tộc chủ
yếu là giải phóng nông dân. Nông dân có yêu cầu về ruộng đất, nhưng nhiệm
vụ ruộng đất cần tiến hành từng bước thích hợp. Khi đánh đổ ách thống trị
của chủ nghĩa đế quốc, yêu cầu đó đã được đáp ứng một phần, vì ruộng đất
của bọn đế quốc và tay sai sẽ thuộc về nông dân. Đế quốc và tay sai là kẻ thù
số một của nông dân, lật đổ chế độ thuộc địa là nguyện vọng hàng đầu của
nông dân.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo
xác định những nhiệm vụ về chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, nhưng nổi lên
hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc. Trong tư duy
chính trị của Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải
phóng giai cấp và giải phóng con người.
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941) do Hồ
Chí Minh chủ trì kiên quyết giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, nhấn
mạnh đó là “nhiệm vụ bức thiết nhất”, chủ trương tạm gác khẩu hiệu “cách
mạng ruộng đất” và chỉ tiến hành nhiệm vụ đó ở một mức độ thích hợp nhằm
phục vụ cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Trong nhiều bài nói, bài viết thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống
Mỹ, Hồ Chí Minh tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Trong
kháng chiến chống thực dân Pháp. Người khẳng định: “Trường kỳ kháng
chiến nhất định thắng lợi, thống nhất, độc lập nhất định thành công”. Trong
kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Người nêu rõ “Tổ quốc ta nhất định sẽ thống
nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”
62
Câu 26: Trình bày mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc theo
tư tưởng Hồ Chí Minh?
Gợi ý trả lời:
Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ
nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân.
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước với ý chí quyết giải phóng gông
cùm nô lệ cho đồng bào. Người tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba, vì quốc tế
thứ ba có chủ trương giải phóng dân tộc bị áp bức.
Mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở thuộc địa chưa phải là giành quyền
lợi riêng biệt của mỗi giai cấp, mà là quyền lợi chung của toàn dân tộc. Đó là
những mục tiêu của chiến lược đấu tranh dân tộc, phù hợp với xu thế của thời
đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc, đáp ứng nguyện
vọng độc lập, tự do của quần chúng nhân dân.
Tuy nhiên, do những hạn chế trong nhận thức về thực tiễn của cách
mạng thuộc địa, lại chịu ảnh hưởng của tư tưởng giáo điều “tả khuynh”, nhấn
mạnh một chiều đấu tranh giai cấp. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (10-1930) đã phê phán những quan điểm của Nguyễn Ái
Quốc. Nhưng, với bản lĩnh cách mạng kiên cường, bám sát thực tiễn Việt
Nam, kiên quyết chống giáo điều, tháng 5-1941 Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội
nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng, chủ trương “thay đổi
chiến lược”, từ nhấn mạnh đấu tranh giai cấp sang nhấn mạnh cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc Hội nghị khẳng định dứt khoát: “cuộc cách mạng Đông
Dương hiện tại không phải là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc
cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc
cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”...
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 cũng như những thắng lợi
trong 30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam1945 - 1975 trước hết là thắng
lợi của đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và tư tưởng độc lập
tự do của Hồ Chí Minh.
63
Câu 27: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc
muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản?
Gợi ý trả lời:
Về nhận thức, bạn đọc phải thấy được con đường cách mạng vô sản là
con đường cứu nước mà Hồ Chí Minh lựa chọn cho cách mạng Việt Nam.
Trình bày câu này cần đề cập đến một số nội dung.
a. Rút ra bài học từ sự thất bại của các con đường cứu nước theo
khuynh hướng tư tưởng phong kiến, con đường cứu nước theo khuynh hướng
tư tưởng tư sản, sự khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam từ cuối
thế XIX đến đầu thế kỷ XX.
Việt Nam cũng nhiều dân tộc khác ở châu Á, châu Phi giữa thế kỷ XIX
đã trở thành đối tượng xâm lược của chủ nghĩa thực dân đế quốc.
Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, sau khi cơ bản kết thúc
giai đoạn vũ trang xâm lược, thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa, bóc
lột nhân dân ta...
Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp ngay từ khi
thực dân Pháp đặt chân lên đất nước ta với tinh thần yêu nước nồng nàn, bất
chấp chủ trương đầu hàng của triều đình phong kiến, nhân dân cả nước đã
vùng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Từ 1858 đến cuối thế kỷ XIX,
phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ bùng lên, dâng cao và lan
rộng ra cả nước, từ Trương Định, Nguyễn Trung Trực...ở Nam Bộ; Trần Tấn,
Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng... ở miền Trung đến
Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích... ở miền Bắc. Các cuộc nổi dậy
đều được thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước nhiệt thành và chí căm thù giặc sục
sôi...
Bước sang đầu thế kỷ XX phong trào yêu nước chống Pháp của nhân
dân ta chuyển sang xu hướng dân chủ tư sản, với sự xuất hiện của các phong
trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân...
64
Tất cả các phong trào cứu nước của ông cha, mặc dù đã diễn ra vô cùng
anh dũng, với tinh thần “người trước ngã, người sau đứng dậy”, nhưng rốt
cuộc đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Đất nước lâm vào “tình hình
đen tối tưởng như không có đường ra”. Đó là tình trạng khủng hoảng về
đường lối cứu nước ở Việt Nam đầu thế kỷ XX. Yêu cầu lịch sử lúc này đòi
hỏi là phải tìm ra con đường cứu nước mới.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã bị biến
thành thuộc địa, nhân dân phải chịu cảnh lầm thân, Người được chứng kiến
các phong trào cứu nước của ông cha. Hồ Chí Minh nhận thấy con đường cứu
nước của Phan Bội Châu chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa
sau”. Con đường cứu nước của Phan Chu Trinh cũng chẳng khác gì “xin giặc
rủ lòng thương”. Con đường cứu nước của Hoàng Hoa Thám tuy có phần thực
tế hơn, nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong kiến.
Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha,
nhưng Hồ Chí Minh không tán thành các con đường cứu nước của họ, mà
quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu nước mới. Ngày 5-6-1911, Người rời
đất nước đến nhiều quốc gia và châu lục trên thế giới để khảo nghiệm, tìm tòi
con đường cứu nước hữu hiệu hơn để về giúp đồng bào.
b. Cách mạng tư sản không triệt để
Những cuộc cách mạng tư sản là cách mạng không đến nơi, không triệt
để trong lịch sử, tiêu biểu là cách mạng tư sản Mỹ, cách mạng tư sản Pháp.
Trong khoảng 10 năm vượt qua các đại dương, đến với nhân loại cần
lao đang tranh đấu ở nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới, Nguyễn Ái
Quốc đã kết hợp tìm hiểu lý luận và khảo sát thực tiễn, nhất là ở ba nước tư
bản phát triển: Anh, Pháp, Mỹ.
Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, tìm hiểu thực tiễn cuộc
cách mạng tư sản Mỹ, đọc Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của cách
mạng Pháp, tìm hiểu cách mạng tư sản Pháp. Người nhận thấy: “Cách mệnh
Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không
65
đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công
nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Bởi lẽ đó, Người không đi theo con
đường cách mạng tư sản.
c. Con đường giải phóng dân tộc
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Hồ Chí Minh
thấy được Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là một cuộc cách mạng vô
sản mà còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Người, “hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba”, chính vì Lênin
và Quốc tế thứ ba đã “bênh vực cho các dân tộc bị áp bức”. Người thấy trong
lý luận của Lênin một phương hướng mới để giải phóng dân tộc: con đường
cách mạng vô sản.
Trong bài Cuộc kháng Pháp, Hồ Chí Minh viết: “chỉ có giải phóng giai
cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có
thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”6.
Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách
mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết
cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin và lựa chọn khuynh hướng chính trị vô
sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”, “...chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những lao
động trên thế giới khỏi ách nô lệ”, từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, và thế
giới Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Trong thời đại ngày nay cách mạng
giải phóng dân tộc muốn thành công phải đi theo con đường cách mạng vô
sản...
Con đường cách mạng vô sản - Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội là luận điểm trọng tâm, xuyên suốt toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây
cũng là quan điểm khác nhau cơ bản giữa con đường cứu nước của Hồ Chí
Minh với con đường cứu nước của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh.
6 Hồ Chí Minh, toàn tập. T1 tr 416
66
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam Đảng ta luôn gắn
mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay Đảng và nhân dân ta vẫn kiên định con đường cách mạng vô
sản - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
Câu 28: theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Cách mạng giải phóng dân tộc
trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo?
Gợi ý trả lời:
Giải đáp câu hỏi trên đòi hỏi bạn đọc phải nhận thức được vị trí, vai trò
của Đảng, của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đây là điều kiện quyết định đưa
cách mạng đến thắng lợi.
Trong phong trào cứu nước,giải phóng dân tộc trước khi Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời (năm 1930), các hội, đoàn thể, Đảng đã xuất hiện. Những
Đảng này do thiếu một đường lối chính trị đúng đắn, chưa có một cơ sở lý
luận dẫn đường, thiếu tổ chức chặt chẽ. Nên đã không thể lãnh đạo phong trào
giải phóng dân tộc thắng lợi được.
Từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), cuộc cách
mạng do Đảng Cộng sản (Bônsêvich) lãnh đạo. Hồ Chí Minh đã nhận thức
đứng đắn rằng cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi trước hết phải có
Đảng lãnh đạo.
Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc phân tích: Muốn
làm cách mạng thì phải bền gan, đồng chí, đồng lòng và quyết tâm. “lại phải
biết cách làm thì mới chóng”. Sửa cái xã hội cũ đã mấy ngàn năm làm xã hội
mới, ấy là rất khó. Nhưng biết cách làm, biết đồng tâm hiệp lực mà làm thì
chắc làm được, thế thì không khó. Khó dễ cùng tại mình, mình quyết chí làm
thì làm được”.
Nhưng muốn làm cách mệnh “trước phải làm cho dân giác ngộ... phải
giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu” “Cách mệnh phải hiểu phong
67
triều thế giới, phải bày sách lược cho dân... Vậy nên sức cách mệnh phải tập
trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh”. Đảng là điều kiện đầu tiên để
đảm bảo cho sự thắng lợi của của cách mạng. Hồ Chí Minh đặt vấn đề: “cách
mệnh trước hết phải có cái gì?”. Người đã khẳng định rằng: “Trước hết phải
có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh
mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy... Đảng
muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh
nhất là chủ nghĩa Lênin1.
Đảng cách mệnh mà Hồ Chí Minh đề cập, đó là Đảng Cộng sản - tiên
phong của giai cấp công nhân - lực lượng chủ lực của cách mạng vô sản.
Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng là: Xác định mục tiêu của cách mạng xây dựng
đường lối của cách mạng giải phóng dân tộc, thông qua cương lĩnh đường lối
của mình... Để đáp ứng được với những yêu cầu nhiệm vụ đó, Đảng Cộng sản
phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin, được vũ
trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất.
Đầu năm 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính
Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác Lênin
“làm cốt”, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh và mật thiết liên lạc với
quần chúng.
Theo Hồ Chí Minh, đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Kết hợp lý luận Mác - Lênin về Đảng Cộng sản với thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác Lênin trên một loạt vấn đề về cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng
nên một lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Lý luận đó không chỉ được
1 Hồ Chí Minh toàn tập T2 - tr 267 - 267 - 268
68
truyền bá trong phong trào công nhân, mà cả trong phong trào yêu nước, giải
quyết vấn đề đường lối cứu nước gắn liền với sự chuẩn bị những điều kiện về
tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự ra đời một chính đảng cách mạng Việt
Nam, sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản, Người
cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là “Đảng của giai cấp vô sản”, đồng thời
là “Đảng của dân tộc Việt Nam”. “Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và người lao động trí óc
kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ
quốc và nhân dân”.
Khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân
và dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nêu một luận điểm quan trọng, bổ sung
thêm cho lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về đảng cộng sản, định hướng
cho việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành một Đảng có sự gắn kết
chặt chẽ với giai cấp công nhân, và nhân dân lao động và cả dân tộc trong mọi
thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Mọi người Việt Nam yêu nước dù là đảng
viên hay không, đều thật sự cảm nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của
Bác Hồ, là Đảng của mình và đều gọi Đảng là “Đảng ta”.
Hồ Chí Minh đã xây dựng được một Đảng cách mạng tiên phong, phù
hợp với thực tiễn Việt Nam, gắn bó với nhân dân, với dân tộc, một lòng một
dạ phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, được dân tộc thừa nhận là đội tiên
phong của mình.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập đã quy tụ được
lực lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt
Nam. Đó là một đặc điểm và đồng thời là một ưu điểm của Đảng. Nhờ đó,
ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với cách
mạng Việt Nam và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi cuả
cách mạng.
69
Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chỉ có sự lãnh đạo của Đảng biết vận dụng một
cách sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì
mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi, cách mạng xã hội
chủ nghĩa đến thành công.
Câu 29: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Lực lượng của cách mạng giải
phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc?
Gợi ý trả lời:
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người làm ra lịch
sử. Cách mạng phải tiến hành bằng bạo lực cách mạng. Tiếp thu quan điểm
đó của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ năm 1924, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một
cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân. Người cho rằng: “Để có cơ thắng lợi, một
cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương: Phải có tính chất một cuộc khởi
nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải
được chuẩn bị trong quần chúng”.
Từ thực tiễn lịch sử phong trào cách mạng trong nước và trên thế giới.
Hồ Chí Minh đã nhìn thấy sức mạnh, lực lượng to lớn của nhân dân. Hồ Chí
Minh nghiêm khắc phê phán việc lấy ám sát cá nhân và bạo động non làm
phương thức hành động, “hoặc xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức,
hoặc làm cho dân quen ỷ lại, mà quên tính tự cường”. Người khẳng định cách
mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người.
Trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân
(22-12-1944). Nguyễn Ái Quốc viết: “Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng
chiến toàn dân, phải động viên, vũ trang nhân dân”.
Trong Cách mạng Tháng Tám 1945 cũng như hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh.
Hồ Chí Minh chủ trương phát động chiến tranh nhân dân... Người nói không
dùng toàn lực lượng của nhân dân về mọi mặt để ứng phó không thể nào
thắng lợi được. Quan điểm “lấy dân làm gốc” xuyên suốt quá trình chỉ đạo
chiến tranh của Người.
70
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dân trong
khởi nghĩa vũ trang. “Có dân là có tất cả”. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng
lực sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi. Người
khẳng định: “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không
chống lại nổi”.
Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam , theo Hồ Chí
Minh là lực lượng của toàn dân tộc. Dưới chế độ cai trị của chủ nghĩa tư bản
Pháp, từ một xã hội phong kiến độc lập, Việt Nam biến thành một xã hội
thuộc địa nửa phong kiến. Trong một xã hội thuộc địa bị thực dân Pháp thống
trị, không chỉ công nhân, nông dân mà cả tư sản dân tộc, tiểu tư sản, một bộ
phận địa chủ nhỏ và vừa đều là những người Việt Nam chịu nỗi nhục mất
nước. Họ đều có khả năng tham gia phong trào giải phóng dân tộc. Hồ Chí
Minh viết: “Dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công
thương đều nhất trí chống lại cường quyền. Trong Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng Người xác định lực lượng cách mạng bao gồm cả dân tộc:
Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, tập hợp đại bộ phận nông
dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng
ruộng đất, lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông... đi vào phe vô sản giai
cấp; đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ
phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng lập hiến) thì phải đánh đổ”.
Trong lực lượng toàn dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định: công nông “là
gốc cách mạng” đây là một vấn đề hết sức mới mẻ của Người so với nhận
thức của những nhà yêu nước trước đó.
Trong khi coi công, nông “là gốc cách mạng” là chủ lực quân cách
mạng, Hồ Chí Minh vẫn coi tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ phận giai cấp
địa chủ là bạn đồng minh của cách mạng. Người chỉ rõ... “học trò nhà buôn
nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông,
ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”.
71
Câu 30: Trình bày luận điểm của Hồ Chí Minh: “Cách mạng giải
phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc?
Gợi ý trả lời:
Đây là luận điểm mới và sáng tạo của Hồ Chí Minh, sinh viên cần nắm
vững nội dung sau:
Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn tư bản độc quyền (đế quốc
chủ nghĩa), nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về
thị trường. Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm
lược thuộc địa. Các nước thuộc địa trở thành một trong những nguồn sống của
chủ nghĩa đế quốc.
Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản đế
quốc đều lấy ở các xứ thuộc địa”... Người thẳng thắn phê bình một số đảng
cộng sản không thấy được vấn đề quan trọng đó.
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân,
cách mạng thuộc địa có tầm quan trọng đặc biệt. Nhân dân các dân tộc thuộc
địa có khả năng cách mạng to lớn. Người đánh giá rất cao sức mạnh của một
dân tộc vùng dậy chống đế quốc thực dân. Người chủ trương phát huy nỗ lực
chủ quan của dân tộc, tránh tư tưởng bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên
ngoài. Người chỉ rõ “muốn được giải phóng các dân tộc chỉ có thể trông cậy
vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân” Tháng 8 -1945 khi thời cơ
cách mạng xuất hiện, Người kêu gọi: “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem
sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Người nói: “Kháng chiến trường kỳ gian khổ đồng thời lại phải tự lực
cánh sinh. Trông vào sức mình... Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là
quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác.
Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì
không xứng đáng được độc lập.
72
Hồ Chí Minh đánh giá đúng vai trò, vị trí chiến lược cách mạng thuộc
địa, sức mạnh dân tộc và mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa với cách
mạng vô sản ở chính quốc.
Vào những năm 20 của thế kỷ XX, trong phong trào cộng sản quốc tế
đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc
vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Quan điểm này, vô hình
trung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của phong trào cách mạng ở thuộc
địa.
Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và
cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động
qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế
quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc, hoặc
quan hệ chính - phụ. Năm 1925, Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa tư bản là một
con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi
khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy,
người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì
cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp
tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”. Hồ Chí Minh còn chỉ ra “Ngày
mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ
sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình
thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều
kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ
những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn
toàn”.
Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và
sức mạnh dân tộc, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Quan điểm này thể hiện tính đúng đắn là nhận thức thuộc địa là một
khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, đánh giá đúng tinh thần dân
73
tộc đánh giá đúng khả năng tiềm tàng, sức mạnh đấu tranh của các dân tộc
thuộc địa; tính sáng tạo không chỉ dừng lại ở mối quan hệ cách mạng thuộc
địa với cách mạng chính quốc mà khẳng định cách mạng thuộc địa có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc và thúc đẩy cách mạng
chính quốc.
Luận điểm trên của Hồ Chí Minh được Đảng ta vận dụng trong quá
trình đấu tranh cách mạng 15 năm (1930-1945), nhờ vậy đã đưa đến thắng lợi
Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng
lợi đã chứng minh sự đúng đắn của luận điểm trên.
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn;
một cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng
dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn
đúng đắn.
Câu 31: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Cách mạng giải phóng dân tộc
phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực?
Gợi ý trả lời:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, bạo lực là bà đỡ của mọi
chính quyền cách mạng; vì giai cấp thống trị bóc lột không bao giờ tự giao
chính quyền cho lực lượng cách mạng.
Hồ Chí Minh nghiên cứu tập trung bàn về cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa thực dân, đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa, cũng chỉ ra trong
cuộc đấu tranh cách mạng này phải được tiến hành bằng con đường cách
mạng bạo lực là tất yếu.
Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc
địa, đàn áp dã man các phong trào yêu nước “Chế độ thực dân, tự bản thân nó,
đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”... Vì thế con
74
đường giải phóng của các dân tộc thuộc địa chỉ có thể là con đường cách
mạng bạo lực.
Hồ Chí Minh đánh giá đúng bản chất cực kỳ phản động của bọn đế
quốc và tay sai, Hồ Chí Minh chỉ rõ tính tất yếu của bạo lực cách mạng:
“Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần
dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính
quyền và bảo vệ chính quyền.
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin cho rằng sự nghiệp cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhân dân làm nên lịch sử Hồ
Chí Minh cho rằng bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng.
Trong thời kỳ vận động giải phóng dân tộc 1940 - 1945, Người cùng
với Trung ương Đảng chỉ đạo xây dựng cơ sở của bạo lực cách mạng bao
gồm hai lực lượng: lưu lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân
dân. Theo sáng kiến của Người, thành lập Mặt trận Việt Minh. Đó là nơi tập
hợp, giác ngộ và rèn luyện lực lượng chính trị quần chúng, một lực lượng cơ
bản và giữ vai trò quyết định trong tổng khởi nghĩa vũ trang:
Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu
tranh vũ trang, nhưng phải “Tuỳ tình hình cụ thể mà quyết định những hình
thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình
thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách
mạng”.
Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, bạo lực thể hiện bằng sử
dụng lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị đóng vai trò chủ yếu trong đấu
tranh giành chính quyền thắng lợi. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp từ
1946 đến 1954, bạo lực thể hiện, bằng lực lượng vũ trang, và đấu tranh vũ
trang đóng vai trò chủ yếu trong tiêu diệt sinh lực địch. Trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước từ 1954 đến 1975; giai đoạn từ 1954 đến 1960 bạo
lực cách mạng thể hiện bằng đấu tranh chính trị là hình thức chủ yếu để phá
tan chiến lược chiến tranh đơn phương và mọi thủ đoạn chính trị của kẻ thù.
75
Giai đoạn từ 1960 - 1975 sau khi cách mạng miền Nam chuyển thành chiến
tranh cách mạng thì bạo lực cách mạng thể hiện bằng đấu tranh vũ trang trở
thành hình thức chủ yếu, kết hợp với đấu tranh chính trị thực hiện 3 mũi giáp
công quân sự chính trị, binh vận tiến công địch, đánh bại từng chiến lược
chiến tranh của Mỹ - Nguỵ, tiến tới đánh bại chúng hoàn toàn.
Trong chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ
trang giữ vị trí quyết định trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch...
Nhưng đấu tranh vũ trang không tách biệt với đấu tranh chính trị. Theo Hồ
Chí Minh , các đoàn thể cách mạng càng phát triển, quần chúng đấu tranh
chính trị càng mạnh thì càng có cơ sở làm cho lực lượng vũ trang và đấu
tranh vũ trang phát triển.
b.Tư tưởng bạo lực cách mạng gắn bó hữu cơ với tư tưởng nhân đạo và
hoà bình.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng khác hẳn tư tưởng hiếu
chiến của các thế lực đế quốc xâm lược. Xuất phát từ tình yêu thương con
người, quý trọng sinh mạng con người. Người luôn luôn tranh thủ khả năng
giành và giữ chính quyền ít đổ máu. Người tìm mọi cách ngăn chặn xung đột
vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp hoà bình,
chủ động đàm phán, thương lượng, chấp nhận những nhượng bộ có nguyên
tắc.
Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ khi
không còn khả năng hoà hoãn, khi kẻ thù quyết tâm gây chiến tranh xâm lược
nước ta, cố bám giữ lập trường thực dân, chỉ muốn giành thắng lợi bằng quân
sự thì Hồ Chí Minh mới kiên quyết, phát động chiến tranh, dùng bạo lực cách
mạng để bảo vệ cách mạng, bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc.
c. Hình thái bạo lực cách mạng
Theo Hồ Chí Minh trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc “lực lượng
chính là ở dân”. Người chủ trương tiến hành khởi nghĩa toàn dân và chiến
76
tranh nhân dân. Hồ Chí Minh nói: “không dùng toàn lực của nhân dân về đủ
mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi được”.
Toàn dân khởi nghĩa, toàn dân nổi dậy là nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về hình thái của bạo lực cách mạng khi ứng dụng vào
khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm 1945.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược “quân
sự là việc chủ chốt”, nhưng đồng thời phải kết hợp chặt chẽ
với đấu tranh chính trị “thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi
chính trị, thắng lợi chính trị sẽ làm cho thắng lợi quân sự to
lớn hơn”.
Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có ý nghĩa
chiến lược, có tác dụng thêm bạn bớt thù, phân hoá và cô lập
kẻ thù, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ quốc tế, Hồ Chí Minh
chủ trương “vừa đánh vừa đàm”, “đánh là chủ yếu, đàm là hỗ
trợ”.
Để tạo sức mạnh tổng hợp, Hồ Chí Minh không chỉ thực
hiện chiến tranh nhân dân mà còn thực hiện chiến tranh toàn
diện, chiến tranh trên lĩnh vực kinh tế, văn hoá, tư tưởng...
Trước kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng
phương châm chiến lược đánh lâu dài.
Tự lực cánh sinh cũng là phương châm chiến lược rất
quan trọng, nhằm phát huy cao độ nguồn sức mạnh chủ quan,
tránh tư tưởng bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài.
Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ của quốc tế, nhưng Hồ Chí
Minh luôn đề cao sức mạnh bên trong đề cao tinh thần tự lực
cánh sinh, độc lập tự chủ. Đó là quan điểm trước sau như một trong tư tưởng
Hồ Chí Minh.
77
Câu 32: Quan niệm của Hồ Chí Minh về tính tất yếu của chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam?
Gợi ý trả lời:
Tổng kết lịch sử phương Tây, Mác - Ăngghen đã chỉ ra tính tất yếu của
sự ra đời của chủ nghĩa xã hội trong tiến trình lịch sử nhân loại. Lịch sử loài
người trải qua các hình thái kinh tế - xã hội, hình thái kinh tế - xã hội sau tiến
bộ hơn hình thái kinh tế - xã hội trước lỗi thời lạc hậu.
Mác bằng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã chứng minh rằng hình
thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ được thay thế bằng một hình
thái cao hơn, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu
của nó là chủ nghĩa xã hội.
Lênin phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội trong điều kiện chủ nghĩa
tư bản từ tự do cạnh tranh đã chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền, tức
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga
1917, chủ nghĩa xã hội đã từ lý luận trở thành hiện thực. Chủ nghĩa xã hội với
tư cách một chế độ xã hội, sau khi đã hoàn thiện sẽ là bước phát triển cao hơn
và tốt đẹp hơn so với chủ nghĩa tư bản.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận. Mác - Lênin về sự
phát triển tất yếu của xã hội loài người theo các hình thái kinh tế - xã hội.
Theo quan điểm của Người: Tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất
yếu ở Việt Nam sau khi nước nhà đã giành được độc lập theo con đường cách
mạng vô sản.
Mục tiêu giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản mà Hồ
Chí Minh đã lựa chọn cho dân tộc Việt Nam là nước nhà được độc lập, nhân
dân được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, tức là sau khi giành độc
lập dân tộc, nhân dân ta sẽ xây dựng một xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.
Bởi vì đất nước độc lập mà dân còn đói, rét thì độc lập cũng chẳng có nghĩa
gì?
78
Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, khi đã tin theo lý luận về
chủ nghĩa cộng sản khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã
khẳng định rằng: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho
mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác
ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người,
niềm vui, hoà bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hoà thế giới chân
chính, xoá bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những
vách tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu
thương nhau”.
“Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc. Cả
hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và
cách mạng thế giới”.
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Người soạn thảo, đã
nêu rõ: Đảng “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Năm 1960 trong bài Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí
Minh khẳng định rõ hơn: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nô lệ.
Cách mạng giải phóng dân tộc đem lại độc lập tự do, cách mạng xã hội
chủ nghĩa đem lại ấm no, hạnh phúc giải phóng con người một cách triệt để.
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam sau khi
nước nhà giành độc lập theo con đường cách mạng vô sản. Đó là ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế
hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
79
Câu 33: Hãy nêu quan niệm của Hồ Chí Minh về những đặc trưng
bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?
Gợi ý trả lời:
a. Bản chất của chủ nghĩa xã hội - với tư cách là một chế độ xã hội, giai
đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin luận giải qua một số đặc trưng cơ bản:
- Xoá bỏ từng bước chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ sở
hữu công cộng để giải phóng cho sức sản xuất xã hội phát triển.
- Có một nền đại cộng nghiệp cơ khí với trình độ khoa học và công
nghệ hiện đại có khả năng cải tạo nông nghiệp, tạo ra năng suất lao động cao
hơn chủ nghĩa tư bản.
- Thực hiện sản xuất có kế hoạch, tiến tới xoá bỏ sản xuất hàng hoá trao
đổi tiền tệ (quan niệm này về sau đã được điều chỉnh với Chính sách kinh tế
mới của Lênin).
- Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, thể hiện sự công bằng
và bình đẳng về lao động và hưởng thụ.
- Khắc phục dần sự khác biệt giữa các giai cấp, giữa nông thôn và
thành thị, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, tiến tới một xã hội tương
đối thuần nhất về giai cấp.
- Giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, nâng cao trình độ
tư tưởng và văn hoá cho nhân dân, tạo điều kiện cho con người tận lực phát
triển mọi khả năng sẵn có của mình.
b. Thống nhất với tư tưởng của các nhà kinh điển Mác - Lênin, nêu ra
những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản. Hồ
Chí Minh trong thực tiễn chỉ đạo công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên miền Bắc nước ta, ở những thời điểm khác nhau, đã nêu lên quan
niệm của mình về những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội. Điểm đặc
80
sắc ở Hồ Chí Minh là phát triển các nguyên lý lý luận, phức tạp, khoa học
bằng ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày.
Một số định nghĩa cơ bản về chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã tiếp
cận: Hồ Chí Minh có quan niệm tổng quát khi coi chủ nghĩa cộng sản, chủ
nghĩa xã hội như là một chế độ xã hội bao gồm các mặt rất phong phú, hoàn
chỉnh, trong đó con người được phát triển toàn diện tự do. Người viết: “Chỉ
có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân
biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết ấm no trên
quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hoà bình hạnh
phúc, nói tóm lại là nền cộng hoà thế giới chân chính, xoá bỏ những biên giới
tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những
người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau”.
Hồ Chí Minh diễn đạt quan niệm của mình về chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam bằng cách chỉ ra một mặt nào đó của nó, như về kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội... Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe lửa
ngân hàng v.v... làm của chung. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít,
ai không làm thì không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ
con”.
Khi nhấn mạnh mặt kinh tế, Hồ Chí Minh nêu chế độ sở hữu công cộng
của chủ nghĩa xã hội và phân phối theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin
là làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có phúc lợi xã hội.
Về chính trị, Người nhấn mạnh mặt bản chất nhất của chủ nghĩa xã hội,
đó là nhà nước dân chủ kiểu mới, nhà nước của dân do dân vì dân Người viết:
“Nhà nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân chỉ lo làm lợi cho nhân dân,
trước hết là nhân dân lao động, ngày càng được tiến bộ về vật chất và tinh
thần, làm cho trong xã hội không có người bóc lột người1
- Hồ Chí Minh quan niệm về chủ nghĩa xã hội ở nước ta bằng cách
nhấn mạnh mục tiêu vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân là làm sao cho dân
1 Sđd. T8 tr 276
81
giàu nước mạnh. Trong hơn 20 định nghĩa về chủ nghĩa xã hội thống kê thì
hơn 2/3 định nghĩa thuộc loại này, chẳng hạn, Hồ Chí Minh hỏi “Chủ nghĩa
xã hội là gì” và Người tự trả lời “là mọi người được ăn no mặc ấm, sung
sướng tự do”, Hồ Chí Minh nêu “chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống
vật chất và văn hoá của nhân dân và do dân tự xây dựng lấy”.
Nhấn mạnh động lực tinh thần và ý thức xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí
Minh coi: “chủ nghĩa xã hội không phải là cái gì cao xa, mà đó là cái gì rất cụ
thể như ý thức lao động tập thể, ý thức kỷ luật, tinh thần thi đua yêu nước
tăng sản xuất cho hợp tác xã, tăng thu nhập cho xã hội, tinh thần đoàn kết
tương trợ tinh thần, dám nghĩ, dám nói, dám làm, không sợ khó, ý thức cần
kiệm”.
Đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo Hồ Chí
Minh, cũng trên cơ sở của lý luận Mác - Lênin, nghĩa là trên những mặt về
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Còn về cụ thể, chúng ta thấy Hồ Chí Minh
nhấn mạnh chủ yếu trên những quan điểm sau đây:
+ Đó là một chế độ chính trị do nhân dân làm chủ.
+ Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao,
gắn liền với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật.
+ Chủ nghĩa xã hội là chế độ không còn người bóc lột người.
+ Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hoá, đạo đức.
Các đặc trưng nêu trên là một hình thức thể hiện một hệ thống giá trị
vừa kế thừa các di sản của quá khứ, vừa được sáng tạo mới trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một khi tất cả các giá trị đó đã đạt được thì loài
người sẽ vươn tới lý tưởng cao nhất chủ nghĩa xã hội, đó là “liên hợp tự do
của những người lao động” mà C.Mác, Ph.Ăngghen đã dự báo. Ở đó, cá tính
của con người được phát huy cao nhất, giá trị con người được thực hiện toàn
diện... Nhưng theo Hồ Chí Minh, đó là một quá trình phấn đấu khó khăn, gian
khổ, lâu dài, dần dần và không thể nôn nóng.
82
Câu 34: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu động lực
của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?
Gợi ý trả lời:
Bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí
Minh sau khi được nhận thức đều trở thành những mục tiêu cơ bản cần đạt tới
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ở Hồ Chí Minh mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn
đấu của Người là một, đó là độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân
dân, đó là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn
tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Hồ Chí Minh nêu ra mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội: “không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân
dân lao động”.
Hồ Chí Minh đã xác định các mục tiêu cụ thể của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Về mục tiêu chính trị: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, chế độ chính trị là nhân dân lao động làm chủ. Nhà nước
là của dân, do dân, vì dân. Người nói: Nhà nước của ta là nhà nước dân chủ
nhân dân dựa trên nền tảng liên minh, công, nông, do giai cấp công nhân lãnh
đạo.
Về mục tiêu kinh tế: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nền kinh tế mà chúng
ta xây dựng là “một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông
nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến” đời sống vật chất và văn hoá
của nhân ngày càng được cải thiện.
Về mục tiêu văn hoá xã hội: Theo Hồ Chí Minh, văn hoá là một mục
tiêu cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền văn hoá có nội
dung xã hội chủ nghĩa, có tính chất dân tộc, có khả năng thoả mãn nhu cầu
tinh thần ngày càng cao của nhân dân lao động.
83
Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ
nghĩa là đào tạo con người. Bởi lẽ mục tiêu cao nhất, động lực quyết định
nhất công cuộc xây dựng chính là con người.
Để hoàn thành được những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, điều quan
trọng theo Hồ Chí Minh là phải nhận thức, vận dụng và phát huy tất cả các
động lực của chủ nghĩa xã hội.
Động lực hiểu một cách tóm tắt là tất cả những nhân tố góp phần thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội thông qua hoạt động của con người.
Các động lực của chủ nghĩa xã hội, bao gồm động lực bên trong và
động lực bên ngoài, động lực vật chất và động lực tinh thần, các động lực cụ
thể, kinh tế, chính trị, văn hoá, trong đó động lực quan trọng và quyết định
nhất là con người, là nhân dân lao động, nòng cốt là công - nông - trí thức. Hồ
Chí Minh thường xuyên quan tâm đến lợi ích chính đáng, thiết thân của họ,
đồng thời chăm lo bồi dưỡng sức dân. Đó là lợi ích của nhân dân và từng cá
nhân.
Nói con người là động lực của chủ nghĩa xã hội, hơn nữa là động lực
quan trọng nhất. Hồ Chí Minh đã nhận thấy ở động lực này có sự kết hợp giữa
cá nhân (sức mạnh, cá thể) với xã hội (sức mạnh cộng đồng), sức lao động
sáng tạo của nhân dân đó là sức mạnh tổng hợp tạo nên động lực quan trọng
của chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất
kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người mọi nhà trở
nên giàu có, ích quốc lợi dân.
Cùng với động lực kinh tế, Hồ Chí Minh cũng quan tâm tới văn hoá,
khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần không thể thiếu của chủ nghĩa
xã hội.
Ngoài động lực bên trong (nội lực), theo Hồ Chí Minh phải kết hợp
được với sức mạnh thời đại (ngoại lực), tăng cường đoàn kết quốc tế. Chủ
84
nghĩa yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân,
phải sử dụng tốt những thành quả khoa học - kỹ thuật thế giới.
Nét độc đáo trong phong cách tư duy biện chứng Hồ Chí Minh là ở chỗ
bên cạnh việc chỉ ra các nguồn động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội,
Người còn lưu ý, cảnh báo và ngăn ngừa các yếu tố kìm hãm, làm cho chủ
nghĩa xã hội trở nên trì trệ, không có sức hấp dẫn, đó là tham ô, lãng phí, quan
liêu... mà Người gọi đó là “giặc nội xâm”.
Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định rất rõ nội lực là quyết
định nhất, ngoại lực là rất quan trọng. Chính vì thế, Người hay nêu cao tinh
thần độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh là chính, nhưng luôn luôn chú trọng
tranh thủ sự giúp đỡ hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
quốc tế tạo thành sức mạnh tổng hợp để xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội trên cơ sở bảo đảm các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, chung sống hoà bình và phát triển.
Câu 35: Quan niệm của Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam?
Gợi ý trả lời:
Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin khẳng định tính tất yếu khách
quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chỉ rõ vị trí lịch sử, nhiệm vụ
đặc thù của nó trong quá trình vận động, phát triển của hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin đã nêu ra hai con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Con đường quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội
từ những nước tư bản phát triển ở trình độ cao và con đường quá độ gián tiếp
lên chủ nghĩa xã hội ở những nước chủ nghĩa tư bản phát triển còn thấp. V.I
Lênin còn chỉ ra, đối với những nước có nền kinh tế lạc hậu, chưa trải qua
thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản, cũng có thể đi lên chủ nghĩa xã hội
được trong điều kiện cụ thể nào đó, nhất là trong điều kiện đảng kiểu mới của
85
giai cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo (trở thành đảng cầm quyền) và được một
hay nhiều nước tiên tiến giúp đỡ.
Vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác Lênin
về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và xuất phát từ đặc điểm tình hình thực
tế Việt Nam, Hồ Chí Minh quan niệm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam là một hình thái quá độ gián tiếp.
Người đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải
phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên
chủ nghĩa xã hội. Cụ thể là quá độ từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến,
nông nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa.
Chính ở nội dung cụ thể này, Hồ Chí Minh đã cụ thể và làm phong phú thêm
lý luận Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
nước ta có đặc điểm to lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên
chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Đặc điểm này chi phối các đặc điểm khác, thể hiện trong tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội và làm cơ sở nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Trong đó, Hồ Chí
Minh đặc biệt lưu ý đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó là mâu
thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực
trạng kinh tế - xã hội quá thấp kém của nước ta.
Câu 36: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ
qúa độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là gì?
Gợi ý trả lời:
- Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
bao gồm hai nội dung lớn.
Một là: xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội,
xây dựng các tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng cho chủ nghĩa xã
hội.
86
Hai là: Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây
dựng, trong đó lấy xây dựng làm trọng tâm, làm nội dung cốt yếu nhất, chủ
chốt, lâu dài.
Theo Hồ Chí Minh, do những đặc điểm và tính chất qui định quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một quá trình dần dần, khó khăn, phức tạp và
lâu dài, và được Người lý giải vấn đề đó trên các điểm sau:
Thứ nhất; đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời
sống và xã hội, cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng. Nó đặt ra và đòi hỏi đồng thời giải quyết hàng loạt mâu
thuẫn khác nhau. Mâu thuẫn của thời kỳ quá độ ở nước ta là mâu thuẫn giữa
yêu cầu phải tiến lên xây dựng một chế độ mới có kinh tế công nghiệp, nông
nghiệp hiện đại, có Văn hoá khoa học tiên tiến với trình độ lạc hậu, kém phát
triển, lại phải đối phó với bao thế lực cản trở, phá hoại mục tiêu của chúng ta.
Thứ hai, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta chưa có kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là công
việc hết sức mới mẻ đối với Đảng ta, nên phải vừa làm,vừa học và có thể có
vấp váp và thiếu sót. Người nói “cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một
cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất”, bởi vì “chúng ta phải xây dựng
một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta.
Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống thói quen ý nghĩ va thành kiến
có gốc rễ sâu xa hàng nghìn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ,
xoá bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới... phải dần dần biến
nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp.
Thứ ba, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta luôn luôn bị các
thế lực phản động trong và ngoài nước tìm cách chống phá.
Từ việc chỉ rõ tính chất của thời kỳ quá độ. Hồ Chí Minh luôn luôn
nhắc nhở cán bộ, đảng viên trong xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thận trọng
tránh nôn nóng chủ quan, đốt cháy giai đoạn.
87
Câu 37: Hãy nêu quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ?
Gợi ý trả lời:
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một sự nghiệp cách
mạng mang tính toàn diện. Hồ Chí Minh đã xác định rõ nhiệm vụ cụ thể cho
từng lĩnh vực.
Trong lĩnh vực chính trị, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và
phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng phải luôn luôn tự đổi mới và tự
chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, có hình thức tổ chức
phù hợp để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ mới. Bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền. Mối quan tâm lớn nhất
của Người về Đảng cầm quyền là làm sao cho Đảng không xa dân, quan liêu
thoái hoá, biến chất, làm mất lòng tin của dân...
Một nội dung chính trị quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên
minh công nhân, nông dân và trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo,củng cố và
tăng cường sức mạnh toàn bộ hệ thống chính trị cũng như từng thành tố của
nó.
- Nội dung kinh tế được Hồ Chí Minh đề cập trên các mặt lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế. Người nhấn mạnh đến việc
tăng năng xuất lao động trên cơ sở tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa. Đối với cơ cấu kinh tế, Hồ Chí Minh đề cập cơ cấu ngành và cơ cấu
các thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ.
Người quan niệm hết sức độc đáo về cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp,
lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống thương nghiệp làm
cầu nối tốt nhất giữa các ngành sản xuất xã hội, thoả mãn nhu cầu thiết yếu
của nhân dân.
Ở nước ta, Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
88
Người xác định rõ vị trí và xu hướng vận động của từng thành phần kinh tế.
Nước ta cần ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho
chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa.
+ Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
Nhà nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó phát triển.
+ Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà
nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, ra sức hướng dẫn và giúp họ
cải tiến cách làm ăn.
+ Đối với những nhà tư sản công thương, vì họ đã tham gia ủng hộ
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, có đóng góp nhất định trong khôi phục
kinh tế và sẵn sàng tiếp thu, cải tạo để góp phần xây dựng nước nhà, xây dựng
chủ nghĩa xã hội, nên Nhà nước không xoá bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản
xuất và của cải khác của họ, mà hướng dẫn họ hoạt động làm lợi cho quốc kế
dân sinh, phù hợp với kinh tế nhà nước, khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo
theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức tư bản nhà nước.
- Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân phối và quản lý kinh tế.
Người chủ trương và chỉ rõ các điều kiện thực hiện nguyên tắc phân phối theo
lao động; làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng.
Gắn liền với nguyên tắc phân phối theo lao động. Hồ Chí Minh bước đầu đề
cập vấn đề khoán trong sản xuất.
Trong lĩnh vực văn hoá - xã hội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề
xây dựng con người mới. Đặc biệt Hồ Chí Minh đề cao vai trò của văn hoá,
giáo dục và khoa học - kỹ thuật trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Người cho
rằng, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định phải có học thức, cần phải
học cả văn hóa, chính trị, kỹ thuật và chủ nghĩa xã hội cộng với khoá học
chắc chắn đưa loài người đến hạnh phúc vô tận.
89
Câu 38: Trình bày theo tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm,
bước đi, biện pháp tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?
Gợi ý trả lời:
Để xác định bước đi và tìm cách làm phù hợp với Việt Nam, Hồ Chí
Minh đề ra hai nguyên tắc có tính chất phương pháp luận:
Một là, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một hiện tượng phổ biến mang
tính quốc tế, cần quán triệt các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
về xây dựng chế độ mới, có thể tham khảo, học tập kinh nghiệm của các nước
anh em. Học tập những kinh nghiệm của các nước tiên tiến, nhưng không
được sao chép, máy móc giáo điều, vì Việt Nam có điều kiện cụ thể khác:
Hai là, xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ
yếu xuất phát từ điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng
thực tế của nhân dân. Hồ Chí Minh cho rằng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội
“làm trái với Liên Xô và Trung Quốc cũng là mác-xít” vì có điều kiện cụ thể
của các nước khác nhau.
Quán triệt hai nguyên tắc phương pháp luận này, Hồ Chí Minh xác định
phương châm thực hiện bước đi trong xây dựng chủ nghĩa xã hội dần dần,
thận trọng từng bước một từ thấp đến cao, không chủ quan nôn nóng và việc
xác định các bước đi phải luôn luôn căn cứ vào các điều kiện khách quan quy
định.
Hồ Chí Minh nhận thức về phương châm “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến
vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” không có nghĩa là làm bừa, làm ẩu “đốt cháy
giai đoạn”, mà phải làm vững chắc từng bước phù hợp với điều kiện thực tế.
Cùng với các bước đi, Hồ Chí Minh đã gợi ý nhiều phương thức, biện
pháp, biện pháp tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, Người đã
chỉ đạo một số cách làm cụ thể.
- Thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với
xây dựng lấy xây dựng làm chính.
90
- Kết hợp xây dựng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến
lược ở hai miền Nam - Bắc khác nhau trong phạm vi một quốc gia.
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp quyết tâm để
thực hiện thắng lợi kế hoạch.
- Trong điều kiện nước ta, biện pháp cơ bản, quyết định, lâu dài trong
xây dựng chủ nghĩa là đem của dân, tài dân, sức dân, làm lợi cho dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Câu 39: Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về sự cần thiết
phải có Đảng Cộng sản trong đấu tranh cách mạng ở Việt Nam?
Gợi ý trả lời:
- Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, ở Việt Nam đã
xuất hiện nhiều phong trào yêu nước, nhiều tổ chức chính trị đấu tranh chống
thực dân Pháp. Các phong trào Cần Vương, Nghĩa quân Yên thế, Đông Kinh
Nghĩa Thục, Việt Nam Quang phục hội, Tâm tâm xã, Việt Nam Quốc dân
Đảng. Các nhà yêu nước Việt Nam đã ý thức được tầm quan trọng và vai trò
của tổ chức cách mạng. Phan Chu Trinh cho rằng: ngày nay muốn độc lập tự
do phải có đoàn thể. Rất tiếc là ông chưa kịp thực hiện ý tưởng của mình.
Phan Bội Châu đã tổ chức ra Duy Tân hội 1904 và Việt Nam Quang phục hội
1912, dự định sẽ cải tổ thành Việt Nam Quốc dân Đảng theo kiểu Tôn Trung
Sơn chưa kịp thực hiện thì ông đã bị bắt giam lỏng tại Huế... Các phong trào,
các tổ chức đó đã viết nên những trang sử vẻ vang, có nhiều tấm gương oanh
liệt thôi thúc tinh thần đấu tranh của nhân dân cả nước. Bị hạn chế trong
khuôn khổ của ý thức hệ phong kiến hay tư sản mà thời đại đã vượt qua các
phong trào yêu nước này đã lần lượt thất bại. Những người lãnh đạo đã không
đưa ra được một số phân tích đứng đắn về kinh tế xã hội về giai cấp, đặc biệt
về việc xác định vai trò của giai cấp công nhân, về mối quan hệ cách mạng
Việt Nam với cách mạng thế giới. Do đó không đề ra được đường lối và
91
phương pháp cách mạng đúng đắn, làm cho cách mạng vẫn “dường như trong
đêm tối không có đường ra”.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, Hồ Chí Minh xuất hiện, nhận lãnh nhiệm
vụ lịch sử, ngày 5-6-1911. Người đã ra đi tìm đường cứu nước đứng đắn cho
dân tộc. Người tiếp thu được lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn lịch
sử Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi do Đảng Cộng sản lãnh
đạo...Người đã khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân.
Nhưng quần chúng nhân dân phải được giác ngộ, được tổ chức được lãnh đạo
theo một đường lối đứng đắn thì mới trở thành lực lượng to lớn, như nhiều
chiếc đũa bó thành bó chứ không phải “mỗi chiếc một nơi”, như con thuyền
phải có người cầm lái vững vàng theo một phương hướng đứng đắn thì thuyền
mới vượt qua được gió to sóng cả đi đến bờ đến bến. Cách mạng là việc
chung của cả dân chúng chứ không phải của riêng một hai người. Cách mạng
cần phải có tổ chức bền vững mới giúp được thắng lợi và sức cách mạng mới
tập trung, muốn tập trung phải có Đảng. Hồ Chí Minh khẳng định lực lượng
to lớn của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn là vô cùng
tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi, giai
cấp mà không có Đảng lãnh đạo thì không làm cách mạng được. Trong tác
phẩm Đường kách mệnh xuất bản năm 1927, Hồ Chí Minh viết “Cách mệnh
trước hết phải có cái gì?”. Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận
động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản
giai cấp mọi nơi, Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người
cầm lái có vững thuyền mới chạy. Hồ Chí Minh cho rằng “Muốn khỏi đi lạc
phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình,
đường lối và định phương châm cho đúng.
Cách mạng là cuộc đấu tranh rất gian khổ. Lực lượng kẻ địch rất mạnh.
Muốn thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức rất chặt chẽ, chí khí phải kiên
quyết. Vì vậy, phải có Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân thành một đội
92
quân thật mạnh, để đánh đổ kẻ địch, tranh lấy chính quyền. Cách mạnh thắng
lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo”.
Sự ra đời tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp
với quy luật phát triển của xã hội, vì Đảng không có mục đích tự thân, ngoài
lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, lợi ích của toàn dân tộc
Việt Nam, lợi ích nhân dân tiến bộ trên thế giới, Đảng không có lợi nào khác.
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tính quyết định hàng
đầu từ sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam đã được thực tế
lịch sử chứng minh, không có một tổ chức chính trị nào có thể thay thế được.
Hồ Chí Minh đã sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam và không ngừng rèn
luyện Đảng qua các thời kỳ cách mạng, xác lập quyền lãnh đạo của Đảng
cách mạng Việt Nam tiến lên giành nhiều thắng lợi
Câu 40: Hãy làm sáng tỏ luận điểm của Hồ Chí Minh “Chủ nghĩa
Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã
dẫn tới thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”?
Gợi ý trả lời:
- Theo quan điểm của Lênin: Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết
hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân: Đó là nguyên tắc có tính qui
luật. Song xuất phát từ điều kiện lịch sử của Việt Nam - một nước thuộc địa
nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu nhưng có truyền thống yêu nước
nồng nàn... Hồ Chí Minh nhận thấy rằng việc ra đời của Đảng Cộng sản ở
đây, nếu chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân thì
chưa đủ, vì giai cấp công nhân còn ít, phong trào công nhân còn nhỏ bé, non
yếu - Do đó phải kết hợp cả với phong trào yêu nước rộng lớn của các tầng
lớp nhân dân đấu tranh chống lại chủ nghĩa thực dân, phong trào này, đã diễn
ra liên tiếp từ rất lâu trước khi có giai cấp công nhân và phong trào công
nhân.
93
Trong bài Thưởng thức chính trị viết năm 1953, Hồ Chí Minh cho rằng,
Đảng kết hợp phong trào cách mạng Việt Nam với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Năm 1960, nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng, Hồ Chí Minh viết bài
Ba mười năm hoạt động của Đảng, trong đó nêu rõ: “Chủ nghĩa Mác - Lênin
kết hợp phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành
lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”.
Đây là sự bổ sung, phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh về qui luật ra
đời của một Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa, giai cấp công nhân còn
nhỏ bé, xã hội còn kém phát triển.
Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc xác định các nhân tố kết hợp
cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, thể hiện Hồ Chí Minh thấy rõ vải
trò to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với cách mạng Việt Nam và đối với
quá trình hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, Người cũng đánh
giá cao vị trí, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam trong sắp xếp
lực lượng cách mạng. Số lượng giai cấp công nhân Việt Nam tuy ít, nhưng
theo Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của lực lượng cách mạng không phải do
số lượng của lực lượng đó quyết định. Hồ Chí Minh chỉ rõ đặc điểm của giai
cấp công nhân Việt Nam là kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật,
có chủ nghĩa Mác - Lênin...
Nhưng Hồ Chí Minh còn bổ sung thêm yếu tố phong trào yêu nước, coi
nó là một trong ba yếu tố kết hợp dẫn đến việc hình thành Đảng Cộng sản
Việt Nam?
Một là, phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá
trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Phong trào yêu nước bào gồm phong
trào nông dân, trí thức, tiểu tư sản.... phong trào yêu nước có trước phong trào
công nhân, chỉ tính riêng trong 80 năm bị thực dân Pháp đô hộ, phong trào
yêu nước của nhân dân ta dâng lên mạnh mẽ như lớp sóng cồn nối tiếp nhau.
Phong trào yêu nước liên tục và bền bỉ trong hàng nghìn năm dựng nước và
giữ nước đã kết thành chủ nghĩa yêu nước và nó đã trở thành giá trị tinh thần
94
trường tồn trong lịch sử dân tộc Việt Nam và là nhân tố chủ đạo quyết định sự
nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc ta.
Hai là, phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước vì
hai phong trào đó đều có một mục tiêu chung, yêu cầu chung: giải phóng dân
tộc làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, xây dựng đất nước hùng
cường. Hơn nữa, chính bản thân phong trào công nhân xét về nghĩa nào đó,
lại mạng tính chất của phong trào yêu nước, vì phong trào đấu tranh của công
nhân không những chống lại ách áp bức giai cấp mà còn chống lại ách áp bức
dân tộc.
Ba là, phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân. Thực
chất phong trào yêu nước Việt Nam phải nói đến phong trào nông dân. Đầu
thế kỷ XX; nông dân Việt Nam chiếm tới khoảng hơn 90% dân số, còn công
nhân do điều kiện lịch sử chi phối, không có nhiều mà họ xuất thân trực tiếp
từ người nông dân nghèo. Do đó, phong trào công nhân và phong trào yêu
nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau giai cấp nông dân là bạn đồng minh tự
nhiên của giai cấp công nhân. Giai cấp nông dân và giai cấp công nhân hợp
thành quân chủ lực của cách mạng.
Bốn là, phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan
trọng thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đầu thế kỷ XX, trí thức Việt Nam, tuy số lượng không nhiều nhưng lại
là những “ngòi nổ” cho các phong trào yêu nước bùng lên chống thực dân
Pháp xâm lược và bọn tay sai cũng như thúc đẩy sự canh tân và chấn hưng đất
nước.
Trong lịch sử Việt Nam, đầu thế kỷ XX, một trong những néi nổi bật
nhất là sự bùng phát của các tổ chức yêu nước mà thành viên và những người
lãnh đạo tuyệt đại đa số là trí thức. Trí thức là những người có tri thức, với
một bầu nhiệt huyết, yêu nước thường nòi, căm giận bọn cướp nước và bọn
bán nước, họ rất nhạy cảm với thời cuộc, do vậy, họ chủ động và có cơ hội
95
đón nhận những “luồng gió mới” về tư tưởng của tất cả các trào lưu trên thế
giới vào Việt Nam.
Đây là luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về xây dựng một Đảng
kiểu mới của Lênin: vừa quán triệt nguyên lý Đảng kiểu mới của Lênin, vừa
vận dụng sáng tạo điều kiện lịch sử của Việt Nam.
Câu 41: Giải thích luận điểm của Hồ Chí Minh: Đảng Cộng sản Việt
Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt
Nam, nhưng Đảng vẫn mang bản chất giai cấp công nhân?
Gợi ý trả lời:
Năm 1930, trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Nguyễn Ái Quốc
khẳng định. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, Đảng mang bản chất
giai cấp công nhân. Những quan điểm trên đây của Hồ Chí Minh hoàn toàn
tuân thủ những quan điểm của V. Lênin về xây dựng Đảng kiểu mới của giai
cấp vô sản...
Hồ Chí Minh vừa kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vừa bổ
sung và phát triển: Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toản quốc lần
thứ II của Đảng (2-1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Trong giai đoạn
này, quyềng lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc
là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”...
Năm 1961, khi miền Bắc đã chuyển sang giai đoạn xây dựng chủ nghĩa
xã hội được một số năm. Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định “Đảng ta là Đảng
của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư thiện vị”. Khi nói
Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt
Nam thì điều này hoàn toàn không có nghĩa là không thấy rõ bản chất giai cấp
công nhân của Đảng.
Hồ Chí Minh khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta dựa
trên cơ sở thấy rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, tuy số
96
lượng ít so với dân số, nhưng có đầy đủ phẩm chất và năng lực lãnh đạo đất
nước thực hiện những mục tiêu của cách mạng. Còn các giai cấp tầng lớp
khác chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, trở thành đồng minh của giai
cấp công nhân. Nhưng nội dung qui định bản chất giai cấp công nhân không
phải chỉ là số lượng đảng viên xuất thân từ công nhân mà là ở nền tảng lý luận
và tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin; mục tiêu của Đảng cần đạt
tới là chủ nghĩa cộng sản; Đảng tuân thủ một cách nghiêm túc, chặt chẽ
những nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951) do
Hồ Chí Minh soạn thảo đã nêu:
Chúng ta phải có một Đảng công khai, tổ chức hợp với tình hình thế
giới và tình hình trong nước để lãnh đạo toàn dân tộc đấu tranh cho đến thắng
lợi Đảng đó lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.
Về thành phần: Đảng Lao động Việt Nam sẽ kết nạp những công nhân,
nông dân, lao động trí óc, thật hăng hái, thật giác ngộ cách mạng.
Về lý luận: Đảng Lao động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Về tổ chức: Đảng Lao động Việt Nam theo chế độ dân chủ tập trung.
Về kỷ luật: Đảng Lao động Việt Nam phải có kỷ luật sắt, đồng thời là
kỷ luật tự giác.
Về luật phát triển: Đảng Lao động Việt Nam dùng lối phê bình và tự
phê bình để giáo dục đảng viên, giáo dục quần chúng.
Về mục đích trước mắt: Đảng Lao động Việt Nam đoàn kết và lãnh đạo
toàn dân kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, giành lại thống nhất và độc
lập hoàn toàn, lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện
để tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
Đảng của giai cấp công nhân đồng thời là Đảng của nhân dân lao động
và của dân tộc Việt Nam có ý nghĩa lớn đối với cách mạng Việt Nam Đảng
đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc cho nên nhân dân Việt Nam coi Đảng
Cộng sản Việt Nam là Đảng của chính mình.
97
- Trong Đảng ngoài thành phần của giai cấp công nhân còn có nhiều
ngươi ưu tú trong giai cấp nông dân tri thức và các thành phần khác.
- Đảng ta cũng đã khẳng định rằng, để đảm bảo và tăng cường bản chất
giai cấp công nhân. Đảng luôn luôn gắn bó mật thiết với giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và toàn thể dân tộc trong tất cả các thời kỳ của cách mạng.
Hồ Chí Minh rèn luyện Đảng luôn luôn chú trọng tính thống nhất giữa
yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc.
Sức mạnh của Đảng không chỉ bắt nguồn từ giai cấp công nhân mà còn
bắt nguồn từ các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Câu 42: Trình bày quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền?
Gợi ý trả lời:
Đảng cầm quyền là khái niệm dùng trong khoa học chính trị, chỉ một
đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính
quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp
mình. Khái niệm “Đảng cầm quyền” đã từng được dùng phổ biến tại các nước
tư bản chủ nghĩa. Ở các nước này, nếu một chính đảng có đại biểu giành được
đa số phiếu tại các cuộc bầu cử trong quốc hội thì đảng đó trở thành đảng cầm
quyền.
Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn thể dân tộc tiến
hành tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành chính quyền
thắng lợi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Đảng lãnh đạo xã hội sau khi đã giành được chính quyền nhà nước. Đó
là thời điểm Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền.
Cụm từ “Đảng cầm quyền” được Hồ Chí Minh ghi trong bản Di chúc
của Người năm 1969. Theo Hồ Chí Minh, Đảng cầm quyền là Đảng tiếp tục
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong điều kiện Đảng đã lãnh đạo quần chúng
nhân dân giành được quyền lực nhà nước và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy
98
nhà nước đó để tiếp tục hoàn thành sự nghiệp độc lập dân tộc dân chủ và chủ
nghĩa xã hội.
Khi chưa có chính quyền, nhiệm vụ chính trong các cuộc đấu tranh của
dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng là lật đổ chính quyền bè lũ thực dân và
phong kiến, thiết lập chính quyền nhân dân. Phương thức lãnh đạo, công tác
chủ yếu của Đảng là giáo dục, thuyết phục, vận động tổ chức quần chúng, đưa
quần chúng vào đấu tranh giành chính quyền.
- Mục đích, lý tưởng của Đảng cầm quyền
Khi có chính quyền, Đảng lãnh đạo xã hội lãnh đạo Nhà nước, sử dụng
Nhà nước như một công cụ quyền lực để tổ chức xây dựng chủ nghĩa xã hội,
đem lại đời sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Cùng với phương thức lãnh
đạo của Đảng là giáo dục, vận động tổ chức quần chúng, khi có chính quyền,
Đảng còn có thêm phương thức lãnh đạo tổ chức quản lý xã hội bằng biện
pháp hành chính pháp luật thông qua bộ máy nhà nước để thực hiện mục đích
lý tưởng cao cả của Đảng không bao giờ thay đổi trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Những người cộng sản chúng
ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho
Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất
nước ta và trên toàn thế giới”.
Đảng cầm quyền, vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung
thành của nhân dân.
- Xác định Đảng là “người lãnh đạo” là xác định quyền lãnh đạo duy
nhất của Đảng đối với toàn bộ xã hội và khi có chính quyền, Đảng lãnh đạo
chính quyền nhà nước. Đối tượng lãnh đạo của Đảng là toàn thể quần chúng
nhân dân trong toàn dân tộc, nhằm đem lại độc lập cho dân tộc, tự do, ấm no
và hạnh phúc cho nhân dân, mà trước hết là quần chúng nhân dân lao động.
Nhưng Đảng muốn lãnh đạo được nhân dân lao động, trước hết Đảng phải có
tư cách, phẩm chất, năng lực cần thiết. Vì “quần chúng chỉ quý mến những
người có tư cách, đạo đức”.
99
Đảng là người lãnh đạo, theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo phải bằng giáo
dục thuyết phục, nghĩa là Đảng phải làm cho dân tin, dân phục để dân theo.
Đảng lãnh đạo, nhưng quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, cho nên Đảng
“Phải đi đường lối quần chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép
nhân dân” mà phải giáo dục, tuyên truyền, giác ngộ dân chúng để thức tỉnh
họ. Đồng thời, Đảng phải tổ chức, đoàn kết họ lại thành một khối thống
nhất,bày cách cho dân và hướng dẫn họ hành động.
- Đảng là người lãnh đạo, theo Hồ Chí Minh Đảng phải sâu sát, gắn bó
mật thiết với nhân dân lắng nghe ý kiến của dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân
và phải chịu sự kiểm soát của nhân dân.
- Để thực hiện đầy đủ chức năng của Đảng với tư cách người lãnh đạo.
Hồ Chí Minh còn đề cập đến việc Đảng phải thực hiện chế độ kiểm tra và
phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ đảng viên, cán bộ của Đảng.
- Với tư cách là người lãnh đạo, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng
cũng có nghĩa bao hàm cả trách nhiệm “là người đầy tớ” của dân. Song “đầy
tớ” ở đây không có nghĩa là “tôi tớ, tôi đòi hay theo đuôi quần chúng” mà là
tận tâm, tận lực phụng sự nhân dân nhằm đem lại các quyền và lợi ích cho
nhân dân.
- Đảng cầm quyền, dân là chủ - Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, Đảng
lãnh đạo cách mạng là để thiết lập và củng cố quyền làm chủ của nhân dân.
Dân muốn làm chủ thực sự thì phải theo Đảng. Mỗi người dân phải biết lợi
ích và bổn phận của mình tham gia vào xây dựng chính quyền.
Câu 43: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam phải
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”?
Gợi ý trả lời:
Trong tác phẩm Đường kách mệnh, xuất bản năm 1927 Nguyễn Ái
Quốc viết: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có Đảng cách
mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân
100
tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành
công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì
phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo
chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí
khôn, tàu không có bàn chỉ nam.
Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Nguyễn Ái Quốc còn chỉ ra: Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng
muốn cách mệnh thành công thì dân chúng (công nông) làm gốc, phải có
Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là
phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin.
Phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin, vì đây là học thuyết về sự giải phóng
giai cấp công nhân, nhân dân lao động các dân tộc bị áp bức và giải phóng
con người, là học thuyết về sự phát triển xã hội lên một hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội một hình
thái cao hơn, tốt đẹp hơn so với hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa,
một hình thái không những xoá bỏ tình trạng áp bức bóc lột, bất công giữa
con người với con người. Nhờ lý luận ấy, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con
đường cứu nước, đã xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam và trang bị cho Đảng
vũ khí tinh thần để Đảng làm tròn vai trò tiên phong, vai trò lãnh đạo cạch
mạng.
Viết về vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với Đảng ta, Hồ Chí
Minh đã khẳng định đó “là lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng
chúng tôi, làm cho Đảng chúng tôi có thể trở thành hình thức tổ chức cao nhất
của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân
tộc chúng tôi”.
Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt” không có nghĩa là giáo điều theo
từng câu, từng chữ của Mác, của Lênin, mà như Hồ Chí Minh nói, là nắm
vững tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững lập trường, quan điểm
101
và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời tiếp thu những tinh hoa
của văn hoá dân tộc và nhân loại, tham khảo những kinh nghiệm của các
nước, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam để định
ra đường lối, chính sách đúng đắn cho cách mạng. Với tinh thần độc lập, tự
chủ và sáng tạo. Hồ Chí Minh đã nêu lên một chuẩn mực cho mọi người cách
mạng về sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết thành
công những vấn đề mà cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng thế giới đặt
ra.
Người khuyên cán bộ đảng viên phải không ngừng học tập chủ nghĩa
Mác - Lênin vận dụng cho phù hợp với hoàn cảnh từng lúc, từng nơi, đó là
học tinh thần xử lí với người, với việc và xử lí với bản thân mình kiên quyết
đấu tranh chống các luận điệu phản động, cơ hội.
Câu 44: Trình bày những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của
giai cấp vô sản theo tư tưởng Hồ Chí Minh?
Gợi ý trả lời:
Những nguyên tắc cơ bản xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản,
được Hồ Chí Minh đề cập trong các nội dung sau:
+ Một là: Tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng Cộng sản thành một
tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi người, vừa phát
huy sức mạnh của tất cả những ai đã tự nguyện gắn bó với nhau trong một tổ
chức, nó không biến Đảng thành một câu lạc bộ để mọi người có thể ra vào
tuỳ tiện, hoặc vào Đảng nhưng chỉ nói mà không làm, hoặc mỗi người làm
một phách, rốt cuộc triệt tiêu sức mạnh của cả tổ chức và của mỗi người. Vì
vậy, Hồ Chí Minh gọi tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng.
Về tập trung, theo Hồ Chí Minh là phải thống nhất về tư tưởng, tổ
chức, hành động. Do đó thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp
trên, mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Từ đó
102
làm cho “Đảng ta tuy nhiều người nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một
người”.
Về dân chủ, như Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư
tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do
bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng
là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm
thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân
lý.
Dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn bó và thống nhất với
nhau trong một nguyên tắc, theo Hồ Chí Minh: Dân chủ để đi đến tập trung là
cơ sở của tập trung, chứ không phải là dân chủ theo kiểu phân tán tuỳ tiện vô
tổ chức. Tập trung là tập trung trên cơ sở dân chủ, chứ không phải tập trung
quan liêu theo kiểu độc đoán chuyên quyền.
Hai là: Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đây là nguyên tắc lãnh đạo
của Đảng.
Về tập thể lãnh đạo, Hồ Chí Minh chỉ ra “Vì sao cần phải có tập thể
lãnh đạo? Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm
đến đâu cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một
vấn đề, không chỉ trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề”.
Vì vậy cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm.
Người thì thấy rõ mặt này, người thì thấy rõ mặt khác của vấn đề đó.
Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được
thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được
giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm.
Về cá nhân phụ trách, theo Hồ Chí Minh “Việc gì đã được đông người
bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần giao cho một người
hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới
có chuyên trách, công việc mới chạy”.
103
Nếu không có cá nhân phụ trách thì sinh ra cái tệ người này uỷ cho
người kia, người kia uỷ cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế
thì việc gì cũng không xong.
Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với
nhau. Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến chỗ bao biện, độc đoán, chủ quan.
Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi,
lộn xộn vô Chính phủ. Kết quả là cũng hỏng việc.
Ba là: Tự phê bình và phê bình.
Đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là luật phát triển của Đảng.
Đảng là một thực thể của xã hội, Đảng bao gồm các tầng lớp xã hội, đội
ngũ của Đảng bao gồm những người ưu tú, nhưng trong Đảng cũng không
tránh khỏi những khuyết điểm không phải mọi người đều tốt, mọi việc đều
hay, mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Chính vì vậy, Hồ
Chí Minh cho rằng, thang thuốc tốt nhất là tự phê bình và phê bình.
Mục đích của tự phê bình và phê bình là để làm cho phần tốt trong mỗi
con người nảy nở như hoa mùa xuân, làm cho mỗi tổ chức tốt lên, phần xấu
mất dần đi, tức nói đến sự vươn tới chân, thiện, mỹ. Về thái độ, phương pháp
tự phê bình và phê bình, theo Hồ Chí Minh: phải tiến hành thường xuyên như
người ta rửa mặt hàng ngày, phải thẳng thắn, chân thành, trung thực, không nể
nang, không giấu giếm và cũng không thêm bớt khuyết điểm “phải có tình
thương yêu lẫn nhau”.
Bốn là: Kỷ luật nghiêm minh tự giác.
Đây cũng là một nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản đề
ra, để phân biệt với các Đảng kiểu cũ của Quốc tế II.
Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh và
tự giác trong Đảng đề tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng.
Sức mạnh của một tổ chức cộng sản và của mỗi đảng viên bắt nguồn từ
ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Tính nghiêm minh của kỷ luật
Đảng đòi hỏi tất cả mọi tổ chức Đảng, tất cả mọi đảng viên đều phải bình
104
đẳng trước Điều lệ Đảng, trước pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết định
của Đảng. Đồng thời, Đảng ta là một tổ chức bao gồm những người tự nguyện
phấn đấu cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa cho nên tự giác là một yêu cầu bắt
buộc đối với mọi tổ chức đảng và đảng viên. đảng viên phải gương mẫu trong
cuộc sống, trong công tác, sự gương mẫu của mỗi đảng viên là bảo vệ uy tín
của đảng trước nhân dân.
Năm là: Đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Đây là một nguyên tắc quan trọng của Đảng kiểu mới của Lênin. Hồ
Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng sự đoàn kết thống nhất
trong Đảng cũng như khối đại đoàn kết toàn dân. Hồ Chí Minh nói: “Đoàn kết
là một truyền thống cực kì quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ
Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như
giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Sự đoàn kết thống nhất của Đảng phải dựa trên cơ sở lý luận của Đảng
là chủ nghĩa Mác - Lênin, cương lĩnh, điều lệ Đảng, đường lối quan điểm của
Đảng... Muốn đoàn kết thống nhất trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng
rãi ở trong Đảng, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình,
thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và các
biểu hiện tiêu cực khác, phải “sống với nhau có tình, có nghĩa”. Có đoàn kết
tốt thì mới tạo ra cơ sở vững chắc để thống nhất ý chí và hành động làm cho
“Đảng ta tuy đông người nhưng khi tiến đánh chỉ như là một người”.
Câu 45: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là
nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
Hãy làm sáng tỏ luận điểm trên?
Gợi ý trả lời:
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 ở Việt Nam xuất
hiện nhiều phong trào yêu nước, nhiều tổ chức chính trị đấu tranh chống thực
dân Pháp... Các phong trào, các tổ chức đó đã viết nên những trang sử vẻ
105
vang, có nhiều tấm gương oanh liệt thôi thúc tinh thần đấu tranh của nhân dân
ta. Bị hạn chế trong khuôn khổ của ý thức hệ tư tưởng phong kiến hay tư sản
mà thời đại đã vượt qua, các phong trào yêu nước này đã lần lượt thất bại, các
phong trào yêu nước này đã thất bại vì thiếu đường lối và phương pháp cách
mạng đúng đắn, làm cho cách mạng vẫn “dường như trong đêm tối không có
đường ra”.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, Hồ Chí Minh xuất hiện, nhận lãnh nhiệm
vụ lịch sử. Người ra đi tìm đường cứu nước cho dân tộc. Người tiếp thu được
lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn lịch sử Cách mạng Tháng Mười
Nga năm 1917 thắng lợi, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Người đã khẳng định
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhưng quần chúng nhân
dân phải được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo theo một đường lối
đúng đắn thì mới trở thành lực lượng to lớn.
Sức mạnh to lớn của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt
Nam là rất to lớn, là vô cùng tận. Nhưng sức mạnh ấy chỉ phát huy khi được
tập hợp, đoàn kết và được lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng Cộng
sản Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định: “lực lượng của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng tận. Nhưng lực lượng ấy cần có
Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi”, giai cấp mà không có Đảng lãnh đạo
thì không làm cách mạng được. Trong tác phẩm Đường kách mệnh xuất bản
năm 1927, Hồ Chí Minh viết: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì?” Trước
hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng,
ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có
vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền
mới chạy.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến nay, Đảng là lực lượng duy
nhất có khả năng tổ chức, lãnh đạo và là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa
cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Vấn đề đó được thể
hiện trong những nội dung cơ bản là:
106
1) Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của vô sản giai cấp, có tổ
chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân của dân tộc Việt Nam, là
đội tham mưu sáng suốt, lực lượng lãnh đạo cách mạng.
2) Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động.
3) Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cách mạng, ngoài lợi ích của nhân
dân, Đảng không có lợi ích gì khác. Vì vậy mà Đảng ta được dân tin, dân
phục, dân yêu.
4) Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định với mục đích, đường lối cách
mạng đúng đắn: Đảng chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
5) Đảng có truyền thống đoàn kết thống nhất, kỷ luật nghiêm minh,
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình.
6) Đảng có mối liên hệ máu thịt với quần chúng.
7) Đảng kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng...
Câu 46: Trình bày những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết dân tộc?
Gợi ý trả lời:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình thành từ
những cơ sở tư tưởng - lý luận và thực tiễn sau đây.
Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc
Việt Nam.
Trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã
hình thành tinh thần yêu nước, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc, tạo
thành truyền thống tốt đẹp, bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm
hồn của mỗi con người Việt Nam. Tinh thần, ý thức ấy đã tạo nên sức mạnh
107
vô địch của cả một dân tộc để chiến thắng mọi thiên tai địch hoạ, làm cho đất
nước được trường tồn, bản sắc dân tộc, được giữ vững.
Đối với mỗi người Việt Nam, yêu nước - nhân nghĩa đoàn kết trở thành
một tình cảm tự nhiên;
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương.
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
Thành một triết lý nhân sinh:
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
Thành phép ứng xử và tư duy chính trị:
“Tình làng, nghĩa nước
Nước mất thì nhà tan
Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh”
Truyền thống ấy không chỉ được phản ánh trong kho tàng văn học dân
gian, mà còn được những anh hùng dân tộc ở các thời kỳ lịch sử khác nhau
như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung đúc kết nâng lên
thành phép đánh giặc, giữ nước, “Trên dưới đồng lòng, cả nước chung sức”,
“tướng sĩ một lòng phụ tử”, “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”, “chở
thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”...
Truyền thống ấy đã được tiếp nối trong tư tưởng tập hợp lực lượng dân
tộc của các nhà yêu nước chống Pháp đầu thế kỷ XX như Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh.
Hồ Chí Minh đã sớm hấp thụ được truyền thống yêu nước - nhân nghĩa
đoàn kết của dân tộc. Người đã khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn
yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi; nó kết thành một làn sóng vô
cùng mãnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự hiểm nguy, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”.
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin:
108
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, liên minh công - nông là cơ sở xây
dựng lực lượng to lớn của cách mạng, đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn
kết quốc tế. “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”, “Vô sản tất cả các nước và
các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”...
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin vì chủ nghĩa Mác - Lênin
đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng, đã chỉ ra sự cần
thiết và con đường tập hợp, đoàn kết các lực lượng cách mạnh trong phạm vi
từng nước và trên thế giới để giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc thực dân và tay sai của chúng. Hồ Chí Minh vừa
hoạt động thực tiễn, vừa nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa tìm hiểu về
Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), nên Người đã có cơ sở khoa học, để
đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong tư tưởng tập
hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và nhà cách mạng lớn
trên thế giới, từ đó hoàn chỉnh tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc.
- Tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, những
kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào yêu nước và cách
mạng ở Việt Nam và thế giới.
Từ thực tiễn phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX đã cho Người những nhận thức quan trọng về lực lượng cách mạng, trong
thời đại mới, nếu chỉ có tinh thần yêu nước không thôi thì chưa đủ mà cần
phải có một lực lượng lãnh đạo có khả năng đề ra đường lối cách mạng đứng
đắn, qui tụ được cả dân tộc vào cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến
tay sai, có như thế mới thắng lợi được. Hồ Chí Minh đã thấy được những hạn
chế trong việc tập hợp lực lượng của các nhà cách mạng tiền bối, vì vậy,
Người đã quyết định ra nước ngoài để xem các nước làm như thế nào rồi sẽ
trở về giúp đồng bào mình.
109
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu những bài học của Cách mạng Tháng
Mười Nga (1917), nhất là bài học về tập hợp lực lượng của công nhân, nông
dân để giành và giữ chính quyền xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa, từ đó rút ra những bài học cần thiết về đại đoàn kết dân tộc, đặc
biệt người chú ý đến Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước có thể đem lại cho
Việt Nam nhiều bài học rất bổ ích về tập hợp các lực lượng để tiến hành cách
mạng, đoàn kết các dân tộc, các giai cấp, tầng lớp các đảng phái... nhằm thực
hiện mục tiêu của từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng, như chủ trương
“Liên Nga, thân Cộng, ủng hộ công nông”, “hợp tác Quốc - Cộng” của Tôn
Trung Sơn.
Như vậy từ cơ sở tư tưởng - lí luận và thực tiễn nêu trên đã từng bước
hình thành và hoàn chỉnh tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Câu 47: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề
có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng?
Gợi ý trả lời:
- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời đại mới, để đánh bại các thế
lực đế quốc thực dân nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người, nếu chỉ có tinh thần yêu nước chưa đủ, mà còn phải tập hợp
được tất cả mọi lực lượng có thể tập hợp được, xây dựng được khối đại đoàn
kết dân tộc bền vững để có sức mạnh chiến thắng kẻ thù. Chính vì vậy, trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược,
quyết định thành công của cách mạng.
- Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, là tư tưởng cơ bản
nhất quán, lâu dài và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đó là chiến
lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, nhằm hình thành sức mạnh
to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù dân tộc, giai cấp.
110
- Để quy tụ được mọi lực lượng vào khối đại đoàn kết dân tộc, cần phải
có chính sách và phương pháp phù hợp với từng đối tượng. Trong từng thời
kỳ, từng giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau
chính sách và phương pháp tập hợp có thể và cần thiết phải điều chỉnh cho
phù hợp với từng đối tượng khác nhau, song đại đoàn kết dân tộc phải luôn
luôn được nhận thức là vấn đề sống còn, quyết định thành bại của cách mạng.
Thực tiễn cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX bị thất bại có nhiều nguyên nhân, trong đó theo tư tưởng Hồ Chí Minh
có một nguyên nhân sâu xa là cả nước không đoàn kết được thành một khối
thống nhất. Người thấy rằng, muốn đưa cách mạng đến thành công phải có
lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công
xã hội mới, muốn có lực lượng cách mạng phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ
mọi lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng ta dày công xây dựng thành công Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên
Việt, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là để thực hiện đoàn kết toàn dân, đưa cách
mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi to lớn. Hồ Chí Minh viết: “Đoàn
kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám
thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng
lợi, lập lại hoà bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc.
Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành được
thắng lợi trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.1
Từ thực tiễn như vậy, Hồ Chí Minh đã khái quát thành nhiều luận điểm,
có tính chân lý về vai trò của khối đại đoàn kết: “Đoàn kết làm ra sức mạnh”.
Hồ Chí Minh rất nhiều lần nhấn mạnh luận điểm này Người viết: “Đoàn kết là
sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ, thì chúng ta nhất định có thể khắc
1 Hồ Chí Minh toàn tập T1 tr 604.
111
phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm tròn nhiệm vụ nhân dân
giao phó”, “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó
khăn, giành thắng lợi”, “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”.
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công”.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần
quan điểm coi sức mạnh của cách mạng là sức mạnh của nhân dân: “Dễ trăm
lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”, đồng thời, Người
lưu ý rằng, nhân dân bao gồm nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp, nhiều tầng lớp,
giai cấp, nhiều dân tộc, tôn giáo, do đó phải đoàn kết nhân dân vào trong Mặt
trận dân tộc thống nhất. Để làm được việc đó, Người yêu cầu Đảng, Nhà nước
phải có chủ trương chính sách đúng đắn, phù hợp với các giai cấp tầng lớp,
trên cơ sở lấy lợi ích chung của Tổ quốc vì những quyền lợi cơ bản của nhân
dân lao động làm “mẫu số chung” cho sự đoàn kết.
Câu 48: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là mục
tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc?
Gợi ý trả lời:
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, chúng ta không
chi thấy rõ việc Người nhấn mạnh vai trò to lớn của dân, sức mạnh của đại
đoàn kết dân tộc mà còn coi đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu nhiệm vụ hàng
đầu của Đảng của dân tộc.
Do đó, đại đoàn kết dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu
của Đảng, phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ
trương chính sách, tới hoạt động thực tiễn của Đảng.
Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam ngày 3
tháng 3 năm 1951; Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể
dân tộc: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là:
“Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Để thực hiện mục tiêu này, Người
112
thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm quần
chúng, phải gần gũi quần chúng, lắng nghe quần chúng, vận động, tổ chức và
giáo dục quần chúng, coi sức mạnh của cách mạng là ở nơi quần chúng, phải
thấm nhuần lời dạy “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu
cũng xong”.
Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là
nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng. Nhấn mạnh vấn đề này là
nhấn mạnh tới vai trò của thực lực cách mạng. Bởi cách mạng muốn thành
công nếu chỉ có đường lối đúng chưa đủ mà trên cơ sở của đường lối đúng.
Đảng phải cụ thể hoá thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách
mạng, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo
thực lực cho cách mạng. Thực lực đó chính là khối đại đoàn kết dân tộc.
Năm 1963, khi nói chuyện với cán bộ tuyên truyền và huấn luyện miền
núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước Cách mạng
Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm cho đồng
bào các dân tộc hiểu được mấy việc: “Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng
hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích của
tuyên truyền, huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà.
Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục
tiêu của Đảng, mà còn là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng, phải do quần chúng, vì quần chúng. Từ trong
phong trào đấu tranh để tự giải phóng và xây dựng xã hội mới tốt đẹp, quần
chúng nảy sinh nhu cầu đoàn kết và sự hợp tác. Đảng Cộng sản phải có sứ
mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng, chuyển những nhu cầu,
những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự
giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh
tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc, tự do cho nhân dân và
hạnh phúc cho con người.
113
Câu 49: Trình bày nội dung của đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng
Hồ Chí Minh?
Gợi ý trả lời:
a. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân. Trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, các khái niệm DÂN, NHÂN DÂN có biên độ rất rộng lớn, Người
đã đề cập khái niệm này một cách rõ ràng, toàn diện, có sức thuyết phục, thu
phục lòng người. Hồ Chí Minh thường dùng khái niệm này để chỉ “mọi con
dân nước Việt”, “mỗi một người con Rồng cháu Tiên” không phân biệt dân
tộc thiểu số, hay đa số, người tín ngưỡng hay người không tin ngưỡng”,
“không phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo, qúi tiện”, Như vậy, dân, nhân
dân được hiểu với tư cách vừa là một tập hợp đông đảo quần chùng, vừa là
mỗi con người Việt Nam cụ thể, và cả hai đều là chủ thể của khối đại đoàn kết
dân tộc và đại đoàn kết dân tộc thực chất là đại đoàn kết toàn dân.
- Nói đến đại đoàn kết dân tộc, cũng có nghĩa là phải tập hợp được tất
cả mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Hồ Chí Minh đã
nhiều lần nêu rõ: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu
dài...Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Ta còn
phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phục
sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Từ “Ta” ở đây là chủ
thể, vừa là Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, vừa là mọi người dân Việt
Nam nói chung.
Trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải đứng vững
trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hoà mối quan hệ giai cấp -
dân tộc để tập hợp lực lượng, không được phép bỏ sót một lực lượng nào,
miễn là lực lượng đó có lòng trung - thành và sẵn sàng phục vụ Tổ quốc,
không phản bội lại quyền lợi của dân chúng là được. Với tính thần đoàn kết
rộng rãi như vậy, Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng
114
giải phóng dân tộc, tới cách mạng dân chủ nhân dân và từ cách mạng dân chủ
nhân dân tới cách mạng xã hội chủ nghĩa.
b.Thực hiện đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống yêu nước -
nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc; đồng thời phải có tấm lòng khoan dung độ
lượng, tin vào nhân dân, tin vào con người.
Muốn thực hiện được khối đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền
thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết dân tộc. Truyền thống này được hình
thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước hàng
ngàn năm của cả dân tộc, trở thành giá trị bền vững, thấm sâu vào tư tưởng
tình cảm tâm hồn của mỗi con người Việt Nam... Truyền thống đó là cội
nguồn sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai
địch hoạ, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.
Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người. Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong
mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu điểm, khuyết điểm,
mặt tốt mặt xấu... Cho nên, vì lợi ích của cách mạng, cần phải có lòng khoan
dung độ lượng, trân trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người mới có
thể tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. Người viết “Sông to, biển rộng thì
bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ,
cái đĩa cạn thì một chút nước đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ. Người mà tự
kiêu, tự mãn, cũng như cái chén, cái đĩa cạn”. Người đã lấy hình tượng năm
ngón tay có ngón ngắn, ngón dài, nhưng cả năm ngón đều thuộc về một bàn
tay, để nói lên sự cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết dân tộc.
Hồ Chí Minh cho rằng, “Trong mấy triệu người cũng có người thế này
người thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy
nên ta phải khoan hồng, đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng
thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm
đường, ta phải dùng tình thân ái mà cảm hoá họ. Có như thế mới thành đoàn
kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”.
115
Lòng khoan dung độ lượng ở Hồ Chí Minh không phải là một sách
lược nhất thời, một thủ đoạn chính trị mà là sự tiếp nối và phát triển truyền
thống nhân ái, bao dung của dân tộc, từ chính mục tiêu của cuộc cách mạng
mà Người suốt đời theo đuổi. Đó là một tư tưởng nhất quán, được thể hiện
trong đường lối chính sách của Đảng đối với những người làm việc dưới chế
độ cũ và những người nhất thời lầm đường lạc lối, nhưng đã biết hối cải,
chúng ta vẫn kéo họ về phía dân tộc, vẫn đoàn kết với họ, mà hoàn toàn
không định kiến khoét sâu cách biệt. Thậm chí đối với những người trước đây
đã chống chúng ta, nhưng nay không chống nữa, khối đại đoàn kết dân tộc
vẫn mở rộng cửa tiếp đón họ. Hồ Chí Minh đã nhiều lần tuyên bố “Bất kỳ ai
mà thật thà tán thành hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những
người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết
với họ...”. Người tha thiết kêu gọi tất cả những ai có lòng yêu nước, không
phân biệt tầng lớp , tín ngưỡng , chính kiến và trước đây đã từng đứng về phe
nào,... hãy cùng nhau đoàn kết vì nước vì dân. Để thực hiện được đoàn kết,
cần xoá bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật thà hợp tác và giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ để phục vụ nhân dân.
Để thực hiện đoàn kết rộng rãi, cần có niềm tin vào nhân dân. Với Hồ
Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của
nhân dân là nguyên tắc tối cao. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền
thống dân tộc “nước lấy dân làm gốc”, “chở thuyền và làm lật thuyền cũng là
dân” đồng thời là sự quán triệt sâu sắc nguyên lý macxít “cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng”.
- Theo Hồ Chí Minh, DÂN là chỗ dựa vững chắc của Đảng là nguồn
sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi của
cách mạng, là nền, gốc và chủ thể của Mặt trận. Trong bài “Nói chuyện tại
Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên Việt toàn quốc, tháng 01 năm 1955, Người
chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại
đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động
116
khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của
cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân
khác”.
Câu 50: Trình bày hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc theo
tư tưởng Hồ Chí Minh?
Gợi ý trả lời:
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết
dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất. Toàn dân chỉ trở thành lực lượng to
lớn, khi được tập hợp, tổ chức lại thành một khối vững chắc, được giác ngộ về
mục tiêu chiến đấu chung và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng
đắn. Nếu không được như vậy, thì quần chúng nhân dân dù có đông tới hàng
triệu, hằng trăm triệu con người cũng chỉ là một số đông, không có sức mạnh.
Thất bại của phong trào yêu nước và giải phóng dân tộc ở Việt Nam trước khi
Đảng ta ra đời đã chứng minh rất rõ điều này.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở
quan niệm, ở những lời kêu gọi, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng,
phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức. Tổ chức đó chính là Mặt trận
dân tộc thống nhất.
Chính vì vậy trong hoạt động, lãnh đạo cách mạng Hồ Chí Minh rất chú
ý đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng
giai cấp, từng ngành nghề, từng giới từng lứa tuổi, từng tôn giáo, phù hợp với
từng giai đoạn của cách mạng. Đó là hội ái hữu, hội tương trợ, công hội, nông
hội, hội phụ nữ, đoàn thanh niên, đội thiếu niên nhi đồng, hội phụ lão, hội
Phật giáo cửu quốc. Công giáo yêu nước hay những nghiệp đoàn... Trong đó
bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu
nước, nơi tập hợp mọi con dân nước Việt, không chỉ ở trong nước mà còn bao
trùm cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù ở ở bất cứ phương
117
trời nào, nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước, về Tổ quốc Việt
Nam, đều được coi là thành viên của Mặt trận.
Tuỳ theo từng thời kỳ, hoàn cảnh lịch sử, căn cứ vào yêu cầu và nhiệm
vụ cách mạng, cương lĩnh và điều lệ của Mặt trận dân tộc thống nhất có thể có
những nét khác nhau, tên gọi của Mặt trận dân tộc thống nhất theo đó cũng có
thể có những nét khác nhau: Hội phản đế đồng minh (1930), Mặt trận Dân
chủ (1936). Mặt trận nhân dân phản đế (1939), Mặt trận Việt Minh (1941),
Mặt trận Liên Việt (1951), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
(1960), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955 - 1976). Song thực chất chỉ là một,
đó là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của nhân dân Việt Nam, nơi quy tụ,
tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ
chức và các cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu
chung là độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, tự do và hạnh phúc của
nhân dân.
Câu 51: Nêu những nguyên tắc cơ bản xây dựng và hoạt động của
Mặt trận dân tộc thống nhất theo tư tưởng Hồ Chí Minh?
Gợi ý trả lời:
Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân
tộc thống nhất:
1) Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng
khối liên minh công - nông - tri thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi con dân nước Việt...
Song, đó không phải là một tập hợp lỏng lẻo, ngẫu nhiên, tự phát của quần
chúng nhân dân, mà là một khối đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nền tảng
khối liên minh công - nông - tri thức do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí
Minh, nó hoàn toàn khác với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các
nhà yêu nước Việt Nam trong lịch sử. Trên thực tế và theo Hồ Chí Minh, đại
118
đoàn kết không chỉ là tình cảm của “người chung một nước phải thương nhau
cùng” nữa, mà đã được xây dựng trên một cơ sở lý luận vững chắc.
Theo Hồ Chí Minh, lực lượng chủ yếu của khối đoàn kết dân tộc là
công nông, cho nên liên minh công - nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc
thống nhất. Lấy liên minh công - nông làm nền tảng. “Vì họ là người trực tiếp
sản xuất ra của cải vật chất cho đời sống xã hội. Nông dân và công nhân là
những giai cấp chiếm số đông dân số, lại bị áp bức bóc lột nặng nề hơn, cho
nên họ có tinh thần cách mạng”... “Chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền
bỉ hơn mọi tầng lớp khác”. Ngoài công - nông còn phải đoàn kết với trí thức,
vì tầng lớp trí thức rất quan trọng đối với cách mạng Việt Nam, theo Hồ Chí
Minh “trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa
, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang, và công, nông, trí cần
đoàn kết chặt chẽ thành một khối”. Trong Mặt trận dân tộc thống nhất, Hồ
Chí Minh giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp. Mặt
trận càng mở rộng, liên minh công - nông - tri thức càng được tăng cường sức
mạnh, ngược lại liên minh công - nông - tri thức càng được tăng cường thì
Mặt trận dân tộc thống nhất càng vững chắc, càng có sức mạnh mà không một
kẻ thù có thể phá nổi.
- Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là công việc của toàn dân
tộc, song nó chỉ có thể được củng cố và phát triển vững chắc, khi được Đảng
lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa là vấn đề mang tính
nguyên tắc, vừa là một tất yếu bảo đảm cho Mặt trận tồn tại, phát triển và có
hiệu lực trong thực tiễn. Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân
tộc thống nhất vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận. Đảng không có Mặt trận sẽ
không có lực lượng cách mạng. Mặt trận không có Đảng lãnh đạo sẽ không
hình thành và phát triển không có phương hướng hoạt động đứng đắn.
Đảng lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải có chính sách Mặt trận đúng đắn,
phù hợp với từng giai đoạn từng thời kỳ của cách mạng, phù hợp với quyền
lợi và nguyện vọng đại đa số nhân dân, trong quá trình lãnh đạo Mặt trận phải
119
đi đúng đường lối quần chúng không được quan liêu mệnh lệnh và gò ép các
thành viên trong Mặt trận, phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết
phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hoá, khơi gợi tinh thần
tự giác phải thành thật lắng nghe ý kiến của người ngoài Đảng.
2. Mặt trận dân tộc thống nhất, phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm
lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của tầng lớp nhân dân.
Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất là để thực hiện đại đoàn kết
toàn dân, song khối đại đoàn kết đó chỉ có thể thực hiện bền chặt và lâu dài
khi có sự thống nhất cao độ về mục tiêu và lợi ích.
Trong Mặt trận có nhiều mối quan hệ và các quan hệ đó chồng chéo với
nhau. Lợi ích quốc gia dân tộc, lợi ích tập thể và cá nhân, lợi ích xã hội và gia
đình, lợi ích giai cấp và dân tộc. Trong đó độc lập tự do, là mục đích chung, là
mẫu số chung, là nguyên tắc bất di bất dịch để quy tụ các giai cấp tầng, các
đảng phái... vào Mặt trận dân tộc thống nhất.
Trên cơ sở xác định lợi ích tối cao của dân tộc, những quyền lợi cơ bản
của các tầng lớp nhân dân cũng được Hồ Chí Minh kết tinh vào tiêu chí của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là độc lập, tự do, hạnh phúc. Các tiêu chí
này được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cụ thể hoá trong các lĩnh vực chính
trị kinh tế, văn hoá xã hội.... phù hợp với mọi tầng lớp, từng đối tượng trong
mỗi thời kỳ lịch sử.
3) Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc
hiệp thương dân chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi bền vững.
4) Mặt trận Dân tôc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài,
đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
120
Câu 52: Hiểu như thế nào về câu nói của Hồ Chí Minh “Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”?
Gợi ý trả lời:
- Theo Hồ Chí Minh, trong thời đại mới, để đánh bại các thế lực đế
quốc thực dân nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người nếu chỉ có tinh thần yêu nước chưa đủ; cách mạng muốn thành công và
thành công đến nơi, phải tập hợp được tất cả mọi lực lượng có thể tập hợp xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc bền vững, vì “đoàn kết là sức mạnh”, “đoàn
kết là thắng lợi”. Bởi vậy trong tư tưởng Hồ Chí Minh đại đoàn kết dân tộc là
vấn đề có ý nghĩa chiến lược, có ý nghĩa sống còn, nó quyết định thành bại
của cách mạng. Giương cao ngọn cờ hoà bình, độc lập, dân chủ, tiến bộ xã hội
và nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, Hồ Chí Minh chủ trương
đoàn kết rộng rãi với tất cả các lực lượng, các quốc gia trên thế giới, tôn trọng
và ủng hộ độc lập chủ quyền của Việt Nam. Trong khuôn khổ dân tộc. Hồ Chí
Minh chủ trương đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ và lâu dài toàn dân tộc thành một
khối. Với lực lượng đoàn kết của toàn dân thì không một sức mạnh nào có thể
chiến thắng nổi. Hồ Chí Minh khẳng định “Dân khi mạnh, thì quân lính nào,
súng ống nào cũng không chống lại nổi, “chúng ta tin chắc vào tinh thần và
lực lượng của quần chúng của dân tộc”.
- Trong thời đại mới, theo Hồ Chí Minh kẻ thù của cách mạng mang
tính quốc tế. Nếu cách mạng mỗi nước là một bộ phận hữu cơ của cách mạng
thế giới thì lực lượng cách mạng không thể chỉ bó hẹp là lực lượng của dân
tộc trong một nước: Thời đại mới cách mạng muốn thành công phải có lực
lượng cách mạng ở trong nước, đồng thời phải có lực lượng của cách mạng to
lớn của quốc tế đồng tình ủng hộ. Song cách mạng trước hết phải được diễn ra
ở phạm vi quốc gia dân tộc nhất định. Do vậy, Hồ Chí Minh chỉ ra xây dựng
lực lượng trong nước có ý nghĩa quyết định để “tự ta giải phóng cho ta” cũng
như trong xây dựng xã hội mới thì “sự giúp đỡ của các nước là quan trọng
nhưng ta phải tự lực cánh sinh là chính”.
121
- Để thực hiện đại đoàn kết, tạo ra lực lượng to lớn của cách mạng, một
điều rất căn bản phải làm được là biết phân biệt rõ bạn và thù. Hồ Chí Minh
đã từng nhắc nhở những người cách mạng: “Chủ nghĩa Mác - Lênin dạy
chúng ta rằng muốn làm cách mạng thắng lợi phải phân biệt rõ ai là bạn, ai là
thù, phải làm cho tăng bầu bạn, bớt kẻ thù”. Nghiên cứu và tổng kết thực tiễn
Hồ Chí Minh đi đến kết luận: thực dân Pháp và bọn tay sai là kẻ thù của nhân
dân lao động Pháp và nhân dân Việt Nam. Còn nhân dân Việt Nam cùng nhân
dân các thuộc địa và nhân dân lao động Pháp là anh em, giữa họ “sẽ là những
mối quan hệ đoàn kết và liên minh”. Với nhận thức đúng đắn đó, Hồ Chí
Minh đã xác định trong cộng đồng người Việt Nam chỉ có một số ít cố tình
phản bội lợi ích dân tộc, cam tâm làm tay sai cho giặc, cùng bọn phát xít
Nhật, bọn thực dân Pháp hiếu chiến, bọn đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam là
kẻ thù của nhân dân và cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh chỉ rõ tất cả
những người Việt Nam yêu nước, nhân dân Nhật, Pháp, Mỹ yêu hoà bình, tự
do, phản đối cuộc chiến của Chính phủ nước họ tiến hành ở Việt Nam là bạn
bè, là lực lượng cần đoàn kết liên minh. Đánh giá vai trò của đoàn kết quốc tế
với cách mạng Việt Nam, trong buổi nói chuyện với Đại sứ nước ta tại Liên
Xô năm 1961, Hồ Chí Minh nói: “Có sức mạnh cả nước một lòng... lại có sự
ủng hộ của nhân dân thế giới, chúng ta sẽ có một sức mạnh tổng hợp cộng với
phương pháp cách mạng thích hợp, nhất định cách mạng nước ta sẽ đi đến
đích cuối cùng. Đi theo tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Cách mạng Việt
Nam ngày càng được nhiều lực lượng trên thế giới đồng tình ủng hộ. Hồ Chí
Minh từng khẳng định, nhờ lực lượng đó, Cách mạng Tháng Tám đã thành
công, kháng chiến chống thực dân Pháp đã thắng lợi và đế quốc Mỹ cùng tay
sai nhất định sẽ thất bại, Tổ quốc Việt Nam nhất định sẽ hoà bình, độc lập,
thống nhất và giàu mạnh.
Mối quan hệ chặt chẽ giữa đại đoàn kết và thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng Việt Nam, được Hồ Chí Minh đã khái quát thành luận điểm có tính chất
122
chân lý về vai trò của khối đại đoàn kết: Đoàn kết làm ra sức mạnh”, “Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Câu 53: Vì sao Hồ Chí Minh nêu lên sự cần thiết xây dựng khối đại
đoàn kết quốc tế?
Gợi ý trả lời:
Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh quốc tế, tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ
thù.
Sức mạnh của dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất
và tinh thần. Đó là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý
chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do, ý thức tự lực tự cường.
Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng đề cao sức mạnh của truyền thống
dân tộc:
“Xét trong lịch sử Việt Nam,
Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hùng.
Nhiều phen đánh bắc, dẹp đông.
Oanh oanh liệt liệt con Rồng cháu Tiên”.
Người đặc biệt đề cao sức mạnh của lòng yêu nước. “Dân ta có một
lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến
nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành
một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Mặc dù đánh giá rất cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, nhưng một
câu hỏi lớn vẫn đặt ra trong tư duy chính trị Hồ Chí Minh tại sao các cuộc vận
động cứu nước, giải phóng dân tộc từ cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX
vẫn cứ lần lượt thất bại.
Chưa thể có ngay lời giải đáp cho một câu hỏi lớn nhưng Người cũng
đã thấy rõ không thể đánh thắng kẻ thù mới bằng con đường cũ trong một thế
123
giới đã có nhiều thay đổi. Người quyết định phải đi ra nước ngoài, xem nước
Pháp và các nước khác... Sau khi xem xét họ làm thế nào, sẽ trở về giúp đồng
bào mình.
- Ra đi tìm đường cứu nước trong tư cách người lao động, hoà mình
trong môi trường hoạt động của giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh luôn chú ý
tổng kết thực tiễn dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã từng
bước phát hiện ra sức mạnh vĩ đại tiềm ẩn trong cái trào lưu cách mạng thế
giới mà Việt Nam cần tranh thủ. Các trào lưu đó nếu được liên kết, tập hợp
trong khối đoàn kết quốc tế sẽ tạo nên sức mạnh to lớn.
Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam
chỉ có thể thành công và thành công đến nơi khi thực hiện đoàn kết chặt chẽ
với phong trào cách mạng thế giới.
- Cùng với quá trình phát triển thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong
quan hệ với tình hình quốc tế; tư tưởng đoàn kết quốc tế được Hồ Chí Minh
phát triển ngày càng đầy đủ, rõ ràng cụ thể thêm.
- Thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ
sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh của các
trào lưu cách mạng thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
chiến thắng kẻ thù.
Đối tượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn.
Đó là đoàn kết với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc và ở các
nước tư bản chủ nghĩa, đoàn kết với nước Nga Xôviết, với Liên Xô và sau
này mở rộng ra tất cả các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là đoàn kết với nhân
dân Lào và nhân dân Campuchia...
Thực hiện đoàn kết quốc tế, nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới
thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng.
124
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn
kết quốc tế, thực hiện đoàn kết quốc tế không phải chỉ vì thắng lợi của cách
mạng mỗi nước mà còn vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa quốc tế, và các thế lực phản động quốc tế vì các
mục tiêu cách mạng của thời đại. Thời đại Hồ Chí Minh sống và hoạt động
chính trị là thời đại đã chấm dứt thời kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở
ra các quan hệ quốc tế ngày càng sâu rộng cho các dân tộc, làm cho vận mệnh
của mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của cả loài người: Trong
quá trình hoạt động, lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã phấn đấu
không mệt mỏi đặt mối quan hệ giữa đại đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc
tế đấu tranh cho mục tiêu chung: hoà bình, độc lập dân tộc dân chủ và chủ
nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Tinh thần yêu nước là kiên quyết giữ gìn
quyền độc lập tự do và đất đai toàn vẹn của nước mình. Tinh thần quốc tế là
đoàn kết với các nước bạn và nhân dân các nước khác để giữ gìn hoà bình thế
giới, chống chính sách xâm lược và chính sách chiến tranh của đế quốc... giữ
gìn hòa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của nước ta... Đó là lập trường quốc
tế cách mạng.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong mấy thập kỷ qua là thắng lợi
của tư tưởng Hồ Chí Minh: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Nhờ giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đã
tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế, huy động được sức mạnh
của các trào lưu cách mạng thời đại, làm cho sức mạnh dân tộc được nhân lên
gấp bội, chiến thắng được những kẻ thù có sức mạnh to lớn hơn mình về
nhiều mặt.
125
Câu 54: Trình bày nội dung các lực lượng cần đoàn kết quốc tế trong
tư tưởng Hồ Chí Minh?
Gợi ý trả lời:
a. Lực lượng đoàn kết
Các lực lượng cần tập hợp, tranh thủ thực hiện đoàn kết quốc tế theo tư
tưởng Hồ Chí Minh là tập trung chủ yếu vào ba lực lượng đoàn kết với phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế; với phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc và phong trào hoà bình, dân chủ thế giới, trước hết là phong trào chống
chiến tranh của nhân dân các nước đang xâm lược Việt Nam.
- Đối với phong trào cộng sản công nhân quốc tế là lực lượng nòng cốt
của đoàn kết quốc tế. Hồ Chí Minh cho rằng sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản
quốc tế là một bảo đảm vững chắc cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản.
Phong trào cộng sản, công nhân quốc tế là lực lượng mạnh mẽ ủng hộ phong
trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Đó là phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế là Liên Xô, và sau này là các nước xã hội chủ nghĩa, là
Quốc tế thứ ba và Cục Thông tin quốc tế. Từ đó Người đã dành nhiều thời
gian và tâm lực phấn đấu không biết mệt mỏi cho việc xây dựng và củng cố
khối đoàn kết, thống nhất trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Chủ nghĩa tư bản là một lực lượng phản động quốc tế, giai cấp vô sản
muốn chiến thắng chủ nghĩa tư bản cũng phải đoàn kết thành một lực lượng
quốc tế. Chỉ có sức mạnh của sự đoàn kết, nhất trí, ủng hộ lẫn nhau của lao
động toàn thế giới theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em” mới có
thể chống lại được những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân Việt Nam
không thể tách rời sự đồng tình ủng hộ sự chi viện lớn của Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa khác của các đảng cộng sản và công nhân thế giới.
- Đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, từ rất sớm Hồ Chí
Minh đã phát hiện ra âm mưu chia rẽ dân tộc của các nước đế quốc tạo sự biệt
lập đối kháng và thù ghét dân tộc, chủng tộc... nhằm làm suy yếu phong trào
126
đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Chính vì vậy, Người đã
kiến nghị Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản về những biện pháp nhằm làm
cho các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau
hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai,
khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản:
- Đối với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hoà bình, dân
chủ tự do và công lý. Hồ Chí Minh cũng tìm mọi cách để thực hiện đoàn kết.
Trong xu thế mới của thời đại, sự thức tỉnh dân tộc gắn với sự thức tỉnh
giai cấp, Hồ Chí Minh đã gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục
tiêu bảo vệ hoà bình, tự do, công lý và bình đẳng để tập hợp và tranh thủ sự
ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, nước Việt Nam giành
được độc lập, thay mặt Chính phủ, Hồ Chí Minh đã nhiều lần tuyên bố:
“Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện
với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để gìn giữ hoà bình”. “Thái độ nước
Việt Nam với những nước Á châu là một thái độ anh em, đối với ngũ cường
là một thái độ bạn bè”. Bên cạnh chính sách ngoại giao mang tính nhà nước,
Hồ Chí Minh còn đẩy mạnh ngoại giao nhân dân, cho đại diện các tổ chức của
nhân dân Việt Nam, tiếp xúc, hợp tác với các tổ chức chính trị, xã hội, văn
hoá của nhân dân thế giới, của nhân dân Á, Phi... Xây dựng các quan hệ hữu
nghị đoàn kết với các lực lượng tiến bộ thế giới.
Kết quả của chính sách ngoại giao, hoà bình hữu nghị của Hồ Chí Minh
là cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam đã giành được sự ủng hộ rộng rãi và
lớn lao của các tổ chức quần chúng các nhân sĩ trí thức và từng con người trên
hành tinh. Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: Chính vì đã biết kết hợp
phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công
nhân và của các dân tộc bị áp bức, mà Đảng ta đã vượt qua được mọi khó
khăn, đưa giai cấp công nhân và nhân dân ta đến những thắng lợi vẻ vang như
ngày nay.
127
b. Hình thức đoàn kết quốc tế
Đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là vấn đề
sách lược, một thủ đoạn chính trị nhất thời mà là vấn đề có tính nguyên tắc,
một đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Ngay từ
năm 1924, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về thành lập “Mặt trận thống
nhất của nhân dân chính quốc và thuộc địa” chống chủ nghĩa đế quốc, đồng
thời kiến nghị Quốc tế Cộng sản cần có giải pháp cụ thể để đến Đại hội VI
Quốc tế Cộng sản năm 1928, quan điểm này mới trở thành sự thực.
Dựa trên cơ sở các quan hệ về địa lý - chính trị và tính chất chính trị -
xã hội trong khu vực và trên thế giới cũng như tình hình và nhiệm vụ cách
mạng trong mỗi thời kỳ. Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng và củng cố
khối đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các trào lưu cách
mạng thời đại, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam.
Trong quá trình hoạt động và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã định hướng cho việc hình thành bốn tầng mặt trận. Mặt trận đại đoàn
kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào; Mặt trận nhân dân Á Phi
đoàn kết với Việt Nam. Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam
chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự là sự phát triển rực rỡ nhất và thắng lợi
to lớn nhất của tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.
Câu 55: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc
xây dựng đoàn kết quốc tế?
Gợi ý trả lời:
a) Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích có lý, có tình
Muốn thực hiện được đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế; phải tìm ra được những
điểm tương đồng về mục liệu và lợi ích giữa các dân tộc, các lực lượng tiến
128
bộ và phong trào cách mạng thế giới. Đây là vấn đề cốt tử, có tính nguyên tắc
trong công tác tập hợp lực lượng.
- Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện
đoàn kết thống nhất trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa
quốc tế vô sản, có lý, có tình.
Hồ Chí Minh cho rằng, để thực hiện đoàn kết thống nhất trong phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế thì đoàn kết giữa các Đảng “là điều kiện
quan trọng nhất để đảm bảo cho phong trào cộng sản và công nhân toàn thắng
trong cuộc đấu tranh vĩ đại cho tương lai tươi sáng của toàn thể loài người:.
Để thực hiện sự đoàn kết đó, theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải đứng vững trên
lập trường giai cấp công nhân, quán triệt sâu sắc những nguyên tắc của chủ
nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình.
Có lý, trước hết là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin...
Có tình là tôn trọng lẫn nhau trên tình thần, tình cảm của những người
cùng chung lý tưởng cùng chung mục tiêu đấu tranh, phải khắc phục tư tưởng
sô vanh, “nước lớn”, “đảng lớn”, không “áp đặt”, “ức chế”, nói xấu, công
khai công kích nhau, hoặc dùng các giải pháp về chính trị, kinh tế... gây sức
ép với nhau.
“Có lý”, “có tình” vừa thể hiện tính nguyên tắc vừa là một nội dung của
chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh - chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nó có tác
dụng rất lớn không chỉ trong việc củng cố khối đoàn kết quốc tế của giai cấp
công nhân mà còn củng cố tình đoàn kết trong nhân dân lao động.
Đối với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc
lập tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
Độc lập tự do cho mỗi dân tộc là tư tưởng nhất quán, là nguyên tắc, là
chân lý, theo Hồ Chí Minh là “lẽ phải không ai chối cãi được”. Hồ Chí Minh
không chỉ suốt đời đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc mình, mà còn đấu
129
tranh cho độc lập tự do của các dân tộc khác. Trong quan hệ giữa Việt Nam
với các quốc gia dân tộc trên thế giới. Hồ Chí Minh thực hiện nhất quán quan
điểm có tính nguyên tắc: Dân tộc Việt Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết của tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới,
đồng thời mong muốn các quốc gia dân tộc trên thế giới quan hệ hợp tác, hữu
nghị với Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc đó.
Những quan điểm trên được Người thể chế hoá sau khi Việt Nam giành
được độc lập. Tháng 9 năm 1947, trả lời nhà báo Mỹ S.Êli Mâysi, Hồ Chí
Minh tuyên bố: Chính sách đối ngoại của nước Việt Nam là “làm bạn với tất
cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai...”
Đối với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao
ngọn cờ hoà bình trong công lý. Giương cao ngọn cờ hoà bình, chống chiến
tranh xâm lược là một trong những nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Tư tưởng đó bắt nguồn từ truyền thống hoà hiếu của dân tộc Việt
Nam kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản và những giá trị nhân văn nhân
loại. Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ hoà
bình, đấu tranh cho hoà bình một nền hoà bình thật sự cho tất cả các dân tộc
“hoà bình trong độc lập tự do”. “Một nền hoà bình chân chính xây trên công
bình và lý tưởng dân chủ”, chứ không phải một nền hòa bình trìu tượng... Đó
là quan điểm tư tưởng bất di bất dịch của Hồ Chí Minh.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong suốt hai cuộc kháng chiến, quan
điểm hoà bình trong sự tôn trọng độc lập và thống nhất đất nước của Hồ Chí
Minh và nhân dân Việt Nam đã làm rung động trái tim nhân loại, đã lôi kéo
được các lực lượng tiến bộ thế giới đứng về phía nhân dân Việt Nam đòi
chấm dứt chiến tranh vãn hồi hoà bình. Trên thực tế, đã hình thành một Mặt
trận nhân dân thế giới có cả nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ đoàn kết với Việt
Nam chống đế quốc xâm lược, góp phần kết thúc thắng lợi hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
130
Ca ngợi những cống hiến của Hồ Chí Minh trong công tác tập hợp lực
lượng cách mạng xây dựng khối đại đoàn kết, Rômét Chamdra, nguyên Chủ
tịch Hội đồng hoà bình thế giới đánh giá cho rằng: Bất cứ nơi nào chiến đấu
cho độc lập, tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao.
Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hoà bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và
ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế
giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”.
b. Đoàn kết trên cơ sở độc lập tự chủ, tự lực tự cường.
Đoàn kết quốc tế là tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ giúp đỡ của các lực
lượng quốc tế, nhằm tăng thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ cách mạng đặt ra.
Để đoàn kết tốt phải có nội lực tốt. Nội lực là nhân tố quyết định, còn
nguồn lực ngoại sinh chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội
sinh. Chính vì vậy, trong đấu tranh cách mạng Hồ Chí Minh luôn nêu cao
khẩu hiệu “Tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”, “Muốn người ta
giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”. Trong đấu tranh giành
chính quyền, Người chủ trương “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Trong
kháng chiến chống thực dân Pháp, Người chỉ rõ: “Một dân tộc không tự lực
cánh sinh mà cứ chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc
lập”. Trong quan hệ quốc tế, Người nhấn mạnh, phải có thực lực, thực lực là
cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn.
Muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải
có đường lối độc lập tự chủ và đứng đắn. Trả lời một phóng viên nước ngoài
Hồ Chí Minh nói: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc
của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”.
Trong quan hệ giữa các đảng thuộc phong trào cộng sản, công nhân
quốc tế. Người xác định: “Các đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập và bình đẳng
đồng thời đoàn kết nhất trí giúp đỡ lẫn nhau”.
131
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của đường lối đúng đắn
và sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Câu 56: Trình bày nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại?
Gợi ý trả lời:
1) Nắm bắt chính xác đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại, đặt
cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong sự gắn bó với cách mạng vô
sản thế giới.
a)V.I Lênin viết: “... chúng ta đang sống ở khoảng giao thời giữa hai
thời đại và chỉ có thể hiểu được những biến cố lịch sử có ý nghĩa lớn lao đang
diễn ra trước mắt chúng ta nếu trước hết chúng ta phân tích những điều kiện
khách quan của bước chuyển từ thời đại này sang thời đại kia...” Cũng theo
Lênin, sự phân tích ấy sẽ giúp chúng ta biết được giai cấp nào đang ở trung
tâm của thời đại này hay thời đại khác, giúp chúng ta xác định được nội dung
căn bản của thời đại, phương hướng phát triển chính, của thời đại, những đặc
điểm chủ yếu của bối cảnh lịch sử thời đại ấy.
Hồ Chí Minh bước vào hoạt động chính trị là thời đại diễn ra những
biến đổi cực kỳ to lớn trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó
nổi bật hai sự kiện quan trọng nhất làm thay đổi nội dung của thời đại. Một là
chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn
tư bản độc quyền.v.v... Hai là thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga
(1917) đã mở đầu cho thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Nguyễn Ái Quốc khi gặp được
Luận cương của Lênin, tán thành Quốc tế thứ ba. Người tìm thấy con đường
giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản. Người viết:
“Thời đại của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn cũng là thời đại một nhóm nước lớn
do bọn tư bản tài chính cầm đầu thống trị các nước phụ thuộc và nửa phụ
thuộc, bởi vậy công cuộc giải phóng các nước và các dân tộc bị áp bức là một
132
bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản. Do đó mà trước hết nảy ra khả
năng và sự cần thiết phải có liên minh chiến đấu chặt chẽ giữa các dân tộc
thuộc địa với giai cấp vô sản của các nước đế quốc thắng kẻ thù chung”.
b) Sau khi nắm được đặc điểm thời đại mới. Nguyễn Ái Quốc đã làm
tất cả để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Người viết: “Cách
mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách
mệnh trong thế giới đều là đồng chí của nhân dân An Nam cả”.
Người đã chỉ ra một trong những nguyên nhân “gây ra sự suy yếu của
các dân tộc phương Đông, đó là sự biệt lập... Họ hoàn toàn không biết đến
những việc xảy ra ở các nước láng giềng gần gũi nhất của họ, do đó họ thiếu
sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và sự cổ vũ lần nhau...”.
Tóm lại, nhờ nắm bắt được đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại
mà Nguyễn Ái Quốc đã xác định đường lối chiến lược, sách lược và phương
pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt
Nam theo con đường cách mạng vô sản.
2) Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản,
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
a) Muốn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, các Đảng
Cộng sản phải kiên trì đấu tranh chống mọi khuynh hướng sai lầm của chủ
nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sô vanh... những khuynh
hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất của các lực lượng cách
mạng thế giới. Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Người đã kêu gọi: “Vì nền
hòa bình thế giới, vì tự do và ấm no, những người bị bóc lột thuộc mọi chủng
tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức”. Lần đầu tiên đến Liên Xô, Người
rất phấn khởi nhìn thấy ở trường Đại học phương Đông hình ảnh đại đoàn kết
giữa các dân tộc đủ màu da:
“Rằng đây bốn biển một nhà.
Vàng đen trắng đỏ đều là anh em”
133
b) Sau khi giành được độc lập về chính trị, con đường tiến lên của các
dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết: “Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ
phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới; cách
mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa
thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”.
Tóm lại, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với
chủ nghĩa quốc tế vô sản, đòi hỏi phải chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa
dân tộc vị kỉ, chủ nghĩa sô vanh, chủ nghĩa cơ hội. Chúng ta không chỉ đấu
tranh vì độc lập, tự do của đất nước mình mà còn vì dân tộc, tự do của các
nước khác.
3) Giữ vững độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình là chính tranh thủ sự
giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng
thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình.
a) Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, bao
giờ Hồ Chí Minh cũng tận lực phát huy sức mạnh của dân tộc - coi nguồn lực
nội sinh giữ vai trò quyết định còn nguồn lực ngoại sinh chỉ được phát huy tác
dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Vì vậy, phải “tự lực cánh sinh, dưạ vào
sức mình là chính”, “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, “phải có đường lối
độc lập tự chủ đúng đắn mới tranh thủ được sức mạnh thời đại”.
b) Nêu cao chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế, tranh thủ
cao nhất sự ủng hộ và giúp đỡ của loài người tiến bộ, đồng thời tích cực thực
hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình, phải coi “giúp bạn tức là giúp mình”,
kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế.
4) Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng “làm bạn với tất
cả nước dân chủ”
a) Trong những năm bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã
từng sống, làm việc và hoạt động ở nhiều nước “chính quốc” và thuộc địa, do
134
đó có vinh dự là người đặt cơ sở đầu tiên cho tình hữu nghị giữa nhân dân
Việt Nam với nhân dân nhiều nước trên thế giới.
Sau khi nước ta giành lại được độc lập, Người tuyên bố: “Chính sách
ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các
nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hoà bình...” “ Việt Nam sẵn sàng cộng
tác thân thiện với nhân dân Pháp. Những người Pháp tư bản hay công nhân,
thương gia hay trí thức, nếu họ muốn thật thà cộng tác với Việt Nam, thì sẽ
được nhân dân Việt Nam hoan nghênh họ như anh em bầu bạn”
b) Trong quan hệ rộng mở đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành ưu tiên cho
mối quan hệ với các nước láng giềng “vừa là đồng chí, vừa là anh em”. Đồng
thời, hết sức coi trọng thiết lập quan hệ hữu nghị với các nước trong khu vực;
các nước trên thế giới có chế độ chính trị khác nhau, nhằm nâng cao địa vị
của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tóm lại, với trí tuệ thiên tài, với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đã vượt
qua mọi trở ngại, khó khăn. Từ trong các mối quan hệ phức tạp của thời đại,
Người đề ra được những đường lối, phương châm, phương pháp, đối sách,
ứng xử... đúng đắn, sáng tạo nên đã phát huy được tối đa sức mạnh dân tộc
kết hợp với sức mạnh thời đại để đưa cách mạng Việt Nam từng bước đi lên
thắng lợi như ngày nay.
Câu 57: Hãy nêu quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước của dân, do dân, vì dân?
Gợi ý trả lời:
1. Lịch sử dựng nước và giữ nước, kinh nghiệm xây dựng Nhà nước của
cha ông.
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, cha ông ta tích
luỹ được biết bao kinh nghiệm quý báu về xây dựng Nhà nước, được phản
ánh trong các bộ sử lớn của dân tộc như các tác phẩm: Đại việt sử ký toàn thư,
Lịch triều hiến chương loại chí... và những kinh nghiệm trị nước cũng được
135
ghi lại trong các bộ luật nổi tiếng như Hình thư (đời Lý), Quốc triều Hình luật
(đời Trần), Bộ luật Hồng Đức (đời Lê)..., mà giá trị của nó có thể sánh ngang
với các bộ luật nổi tiếng ở phương Đông.
Hồ Chí Minh kế thừa những yếu tố tích cực tư tưởng Nhà nước thân
dân thời kỳ phong kiến hưng thịnh trong lịch sử dân tộc cùng với hình ảnh lí
tưởng về Nhà nước “vua Nghiêu, Thuấn - dân Nghiêu, Thuấn”, “nước lấy dân
làm gốc” tiếp thu được ở Nho giáo... là những hành trang đầu tiên Hồ Chí
Minh mang theo trên con đường cứu nước và tìm kiếm một mô hình Nhà
nước tiến bộ cho đất nước khi giành được độc lập.
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng cuộc đấu tranh vì độc lập tự do
cho dân tộc mình và cho các dân tộc thuộc địa
Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng cuộc đấu tranh vì độc lập tự do cho
dân tộc mình và cho các dân tộc thuộc địa bằng việc vạch trần bản chất vô
nhân đạo của cái gọi là “công lý” mà thực dân, đế quốc thi hành ở các xứ
“bảo hộ”.
Năm 1919, nhân danh những người Việt Nam yêu nước tại Pháp,
Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vecxây Bản Yêu sách của nhân dân An
Nam đòi các quyền tự do tối thiểu cho dân tộc mình.
Trong lịch sử chính trị và pháp lí của nước ta, đây là văn kiện pháp lý
đầu tiên đặt vấn đề kết hợp khăng khít quyền tự quyết của các dân tộc với
quyền tự do, dân chủ của nhân dân - tức là kết hợp chặt chẽ quyền dân tộc và
quyền con người. Và tư tưởng này tiếp tục được phát triển trong những năm
tiếp theo, với những hoạt động thực tiễn của Người trong phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế; Người kiên trì đấu tranh vì độc lập, tự do cho dân tộc
mình, đồng thời cũng đấu tranh cho dân tộc khác.
3. Khảo sát các kiểu mô hình Nhà nước Mỹ, Pháp, Liên Xô - lựa chọn
nhà nước Liên bang Xô viết: nhà nước kiểu mới. Chỉ đạo thực hiện chuẩn bị
giành chính quyền
136
Trên hành trình cứu nước, Người đã khảo sát mô hình Nhà nước tư sản
Mỹ, Pháp, Người đã phát hiện ra đằng sau những lời hoa mỹ về “quyền bình
đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc” của Tuyên ngôn
độc lập Mỹ 1776 là sự bất bình đẳng, nghèo đói, nạn phân biệt chủng tộc và
biết bao sự tàn bạo, bất công khác, nhất là đối với người da đen. Người coi
các cuộc cách mạng tư sản Mỹ, Pháp là “những cuộc cách mạng không đến
nơi”, vì ở đó, chính quyền vẫn ở trong tay một số ít người, vì “Cách mệnh
thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo
tính cách mệnh lần thứ hai” 1.
Sau khi đến Liên Xô, Người đã tìm thấy một mô hình Nhà nước kiểu
mới “... phát đất ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền,... ra sức
tổ chức kinh tế mới. để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng”2. Mô hình nhà
nước đó đã gợi ý cho Người về một kiểu nhà nước sẽ được xây dựng ở Việt
Nam trong tương lai. Mô hình đó, lần đầu tiên được Người nêu ra trong
Chánh cương văn tắt của Đảng năm 1930: “Dựng ra Chính phủ công nông
binh”.
Năm 1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, chủ trì
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (5-1941), hoàn chỉnh sự
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược, đề ra Chương trình Việt Minh.
Về vấn đề chính quyền, Hội nghị chủ trương: “...không nên nói công nông
liên hiệp và lập chính quyền Xôviết mà phải nói toàn thể nhân dân liên hợp và
lập chính phủ dân chủ cộng hoà”. Chương trình Việt Minh cũng ghi rõ: “Sau
khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một chính phủ nhân dân
của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà... Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra”.
Khi thời cơ giải phóng dân tộc đã đến gần, trong Thư gửi đồng bào toàn
quốc (tháng 10-1944), Hồ Chí Minh cũng nói rõ: trước hết cần có một chính
phủ đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể
quốc dân, gồm tất cả các đảng phái cách mệnh, các đoàn thể ái quốc trong 1 Sđd tập 2 tr. 270 - 2802 Sđd
137
nước bầu cử ra. “Một cơ cấu như thế mới có đủ lực lượng và oai tín, trong thì
lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu
bang”.
Sang năm 1945, phong trào phát triển mạnh, căn cứ địa cách mạng
được mở rộng, trước tình hình đó, Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Khu giải
phóng, cử ra Uỷ ban chỉ huy lâm thời, thực hiện chức năng của chính quyền
cach mạng. Tại các địa phương trong Khu giải phóng, các Uỷ ban nhân dân
cách mạng cũng được thành lập, do nhân dân cử ra, để thi hành 10 chính sách
của Việt Minh. Khu giải phóng là hình ảnh “nước Việt Nam mới phôi thai”.
4. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng xây dựng nhà nước kiểu mới
trong lịch sử dân tộc: Nhà nước của dân, do dân, vì dân (1945 - 1969)
- Trong gần 1/4 thế kỉ, trên cương vị là Chủ tịch đầu tiên của nước Việt
Nam mới, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở châu Á. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã có công đầu trong việc đặt nền móng xây dựng một Nhà nước kiểu
mới trong lịch sử dân tộc: Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
- Ngay sau khi công bố Tuyên ngôn độc lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà ra đời, ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp đầu
tiên của Chính phủ lâm thời. Người đã nêu ra sáu việc cấp bách, trong đó vấn
đề thứ ba là “... sớm tổ chức tổng tuyển cử”, “chúng ta phải có một Hiến
pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc. Tổng
tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”.
- Chính quyền nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là Nhà nước dân
chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Hiến pháp năm 1946 đã ghi: “Nước
Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền hành trong nước là
của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai giàu
nghèo, giai cấp tôn giáo”. Xây dựng một nhà nước do nhân dân lao động làm
chủ là tư tưởng nhất quán trong cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm quản lí đất nước phải hợp pháp, hợp
hiến; Nhà nước phải được điều hành bằng pháp luật, ban hành các đạo luật,
138
văn bản quy phạm pháp luật, tăng cường pháp chế, kết hợp với giáo dục đạo
đức, nâng cao dân trí, trình độ giác ngộ cho nhân dân. Người trực tiếp chỉ đạo
xây dựng và thông qua Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, đồng thời
xây dựng hệ thống các đạo luật và hàng trăm các văn bản dưới luật khác. Hơn
nữa, Người rất coi trọng đưa pháp luật vào đời sống.
- Chỉ đạo các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, coi trọng xây dựng bộ máy nhà nước trong
sạch, vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả, phải có đội ngũ cán bộ, công chức có
đạo đức, gương mẫu chấp hành pháp luật. Từ năm 1948, Người kí Sắc lệnh
về “Lập một chế độ công chức mới”, tiếp đến là Sắc lệnh về “Quy chế công
chức Việt Nam”, “Việc thi tuyển công chức”...
Tất cả những nghiên cứu, khảo sát cùng thực tiễn tổ chức, hoạt động
của Hồ Chí Minh được nói đến ở trên là cơ sở góp phần hình thành nên tư
tưởng của Người về Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Câu 58: Trình bày quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ và thực
hành dân chủ?
Gợi ý trả lời:
Dân chủ là cái quí báu nhất của nhân dân. Dân chủ là khát vọng muôn
đời của con người. Dân chủ là cơ sở đảm bảo quyền làm chủ, các quyền cơ
bản của nhân dân lao động.
Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ có nghĩa là “dân là chủ” Khi xác định
như thế, có lúc Hồ Chí Minh đem quan niệm “dân chủ” đối lập với quan niệm
“quân chủ”. Trên thế giới trong lĩnh vực chính trị và nhà nước, có nhiều loại
thiết chế, quân chủ và dân chủ. Quân chủ là tất cả quyền lực nắm trong tay
một người là vua, là Hoàng đế. Đối lập với thiết chế quân chủ là thiết chế
cộng hoà dân chủ Hồ Chí Minh nói: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước
nhà do nhân dân làm chủ”, “chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm
chủ”, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ”.
139
Như vậy quan niệm dân chủ của Hồ Chí Minh được biểu đạt qua hai
mệnh đề ngắn gọn “Dân là chủ và dân làm chủ”, “Dân là chủ nói lên vị thế
của dân”, “dân làm chủ” nói lên năng lực, vai trò quyền lực và trách nhiệm
của dân. Dân là chủ và dân làm chủ luôn luôn đi đôi với nhau, thể hiện vị trí
vai trò quyền lực trách nhiệm của dân.
Quan niệm đó của Hồ Chí Minh phản ánh đúng nội dung bản chất về
dân chủ. Quyền hành và lực lượng đều thuộc về nhân dân. Xã hội nào bảo
đảm cho điều đó được thực thi đó là một xã hội thực sự dân chủ.
- Dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Dân chủ thể hiện ở
việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Dân chủ trong xã hội Việt
Nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị kinh tế, văn hoá xã hội...
Trong đó dân chủ thể hiện trên lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất, được
biểu hiện tập trung trong hoạt động của Nhà nước, bởi vì quyền lực của nhân
dân được thể hiện trong hoạt động của Nhà nước với tư cách nhân dân có
quyền lực tối cao. Nhân dân bầu cử ra bộ máy Nhà nước và toàn bộ hệ thống
chính trị. Năm 1953, trong tác phẩm “Thưởng thức chính trị”, Hồ Chí Minh
viết: “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ. Nhân dân
là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành
chính quyền ấy. Thế là dân chủ”.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ, còn biểu hiện ở phương thức
tổ chức xã hội. Hồ Chí Minh chỉ ra phương thức tổ chức hoạt động của xã hội
nước ta muốn khẳng định là một nước dân chủ thì phải có cấu tạo quyền lực
xã hội mà ở đó người dân, cả trực tiếp, cả gián tiếp qua dân chủ đại diện một
hệ thống chính trị do “dân cử ra” và “do dân tổ chức nên”.
Khi xác định quyền hành và lực lượng của xã hội. Hồ Chí Minh còn
vạch rõ nguồn gốc, lực lượng tạo ra quyền hành đó là nhân dân.
Quan niệm dân chủ của Hồ Chí Minh không chỉ có nghĩa là một giá trị
chung, là sản phẩm của văn minh nhân loại, xem nó như là lý tưởng phấn đấu
của các dân tộc, và nó không dừng lại với tư cách như là một thiết chế xã hội
140
của một quốc gia mà nó còn có cả ý nghĩa biểu thị mối quan hệ quốc tế, hoà
bình giữa các dân tộc. Đó là dân chủ, bình đẳng trong mọi tổ chức quốc tế, là
nguyên tắc ứng xử trong các quan hệ quốc tế.
- Thực hành dân chủ:
Xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ rộng rãi: Dân chủ được gắn
liền với đất nước độc lập, tự do hạnh phúc. Hồ Chí Minh thể hiện quan điểm
này ngay từ năm 1941 trong Chương trình của Mặt trận Việt Nam độc lập
đồng minh, Hồ Chí Minh đã “thiết kế” một chế độ dân chủ cộng hoà cho nước
ta sau khi cuộc cách mạng do nhân dân thực hiện thắng lợi. Đó là chương
trình thực hiện mục tiêu dân chủ, xác định rõ quyền và trách nhiệm của nhân
dân trước vận mệnh của nước nhà, gắn độc lập, tự do của Tổ quốc với quyền
lợi của từng người dân. Chương trình Việt minh đã khơi dậy sức mạnh vô
biên của nhân dân giành chính quyền về tay mình.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi ngày 2-9-1945, Hồ Chí
Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, trong đó Hồ Chí Minh nêu ra về chế độ dân chủ ở Việt Nam và các giá
trị về dân chủ được gắn liền với đất nước độc lập tự do hạnh phúc.
Dân chủ theo Hồ Chí Minh còn được thể hiện qua thể chế Hiến pháp và
các đạo luật để thực hiện các quyền cơ bản của nhân dân. Hiến pháp 1946 đặt
cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện quyền lực của nhân dân. Hiến pháp
năm 1959 Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định, phát triển cụ thể hoá thêm
quan điểm bảo đảm dân chủ trong việc xác lập quyền lực của nhân dân trong
Hiến pháp.
Điều đó thể hiện rõ các điều về quyền lực của nhân dân (điều 4); vấn đề
đại biểu của nhân dân trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân (điều 5) và đặc
biệt ở điều 6 ghi rõ: “Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân
liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân
dân. Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ
141
dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ
nhân dân”.
Hồ Chí Minh chú trọng bảo đảm quyền lực của các giai cấp, tầng lớp
các cộng đồng dân tộc trong thiết chế chính trị nước ta.
- Xây dựng các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
chính trị. xã hội vững mạnh để bảo đảm dân chủ trong xã hội.
Trong việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam, Hồ Chí Minh chú trọng
tới việc xây dựng Đảng vì Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền. Đảng lãnh
đạo Nhà nước và hệ thống chính trị. Chỉ có thể phát huy dân chủ trong Đảng
mới phát huy dân chủ trong toàn xã hội, vì Đảng là hạt nhân trong hệ thống
chính trị. Dân chủ trong Đảng là yếu tố quyết định dân chủ trong toàn xã hội.
- Xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân - nhà nước là công cụ
thực hiện ý chí dân chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với
sự phát triển của đất nước. Nhà nước thể chế hoá toàn bộ bản chất dân chủ
của chế độ.
Xây dựng các tổ chức Mặt trận và đoàn thể nhân dân thể hiện quyền
làm chủ và tham gia quản lý xã hội của tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã
hội.
Tất cả các tổ chức đó đều có một mục tiêu chung là đạt tới trình độ dân
chủ cao, dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là động lực cơ bản nhất để các
giai cấp tầng lớp trong xã hội Việt Nam phấn đấu trong sự nghiệp cách mạng.
Thực hành dân chủ rộng rãi, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là trên nền
tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nòng cốt là liên minh công - nông -
trí thức.
142
Câu 59: Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước thể hiện
quyền làm chủ của nhân dân?
Gợi ý trả lời:
Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh chú ý khảo cứu
lựa chọn ra một kiểu nhà nước mới cho Việt Nam để xây dựng sau khi cách
mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản thành công. Nhà
nước đó phải đại biểu quyền “cho một số đông người” và Hồ Chí Minh đã
tiến một bước cụ thể chủ trương xây dựng một nhà nước công nông binh thể
hiện trong Chánh cương vắn tắt của Đảng khi thành lập Đảng đầu năm 1930.
Trải qua thực tế các trào lưu cách mạng ở Việt Nam, về sau, Hồ Chí Minh chủ
trương xây dựng ở Việt Nam một nhà nước Dân chủ Cộng hoà một nhà nước
do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước của dân do dân vì dân. Trong bài báo
Dân vận năm 1949 Hồ Chí Minh viết: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu
lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới xây
dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc
của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra Đoàn thể
từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền lực và lực
lượng đều ở dân”.
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước không những kế
thừa còn phát triển học thuyết Mác - Lênin về Nhà nước cách mạng.
Hiểu một cách tổng quát nhất quan điểm về Nhà nước của dân, do dân,
vì dân, chúng ta trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh những nội dung sau đây:
a. Nhà nước của dân
Tất cả mọi quyền lực trong Nhà nước và trong xã hội, đều thuộc về nhân
dân. Trong 24 năm làm Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo soạn thảo các
bản Hiến pháp 1946 và Hiến pháp năm 1959. Quan điểm trên của Người được
thể hiện trong các bản Hiến pháp đó. Hiến pháp năm 1946 điều I đã ghi “tất cả
quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt
143
nòi giống gái trai giàu nghèo giai cấp tôn giáo”, điều thứ 32 ghi “những việc
quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn dân phúc quyết”.
- Nhà nước của dân, nhân dân lao động làm chủ nhà nước, đồng thời
nhân dân cũng có quyền kiểm soát Nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu uỷ
quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh,
đồng thời nhân dân cũng có quyền bãi miễn những đại biểu cử tri bầu ra, nếu
những đại biểu đó tỏ ra không xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân.
- Trong Nhà nước của dân, Hồ Chí Minh đã nêu lên quan điểm dân là
chủ và nhân dân làm chủ. Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân còn
dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền, nghĩa vụ của dân. Với ý nghĩa đó,
người dân được hưởng mọi quyền dân chủ. Bằng thiết chế dân chủ, Nhà nước
phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho nhân dân thực
thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực xã hội. Quyền lực của
nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng. Điều đó có ý nghĩa thực tế nhắc nhở
những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách và vị thế của mình. Không
phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân “quên rằng dân bầu mình ra là
để làm việc cho dân”. Một nhà nước như thế là một nhà nước tiến bộ trong
bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2-9-1945 chính là Nhà nước tiến bộ chưa
từng có trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam bởi vì. Nhà nước
đó là Nhà nước của dân, nhân dân có vai trò quyết định mọi công việc của đất
nước.
b. Nhà nước do dân
Nhà nước do dân là nhà nước do dân lập nên, do dân lựa chọn, bầu ra
những đại biểu của mình. Nhà nước do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà
nước chi tiêu hoạt động. Nhà nước đó do dân phê bình, xây dựng giúp đỡ, dân
làm chủ.
Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những
người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao
144
được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây
dựng Nhà nước của mình, mỗi người đều phải có trách nhiệm “ghé vai gánh
vác một phần”. Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm
nghĩa vụ.
c. Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân
làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân ngoài ra không có bất cứ một
lợi ích nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đặc
quyền lợi nào. Trên tinh thần đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: mọi đường lối,
chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân; việc gì có lợi cho dân dù
nhỏ cũng cố gắng làm,việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Hồ
Chí Minh luôn luôn tâm niệm: Phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có
mặc, phải làm cho dân có chỗ ở phải làm cho dân được học hành.
Một Nhà nước vì dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ Chủ tịch
nước đến công chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đầy tớ cho nhân
dân chứ không phải “làm quan cách mạng” để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân”.
Đối với chức vụ Chủ tịch nước của mình, Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do
dân uỷ thác cho, Hồ Chí Minh viết: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công
danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào uỷ
thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của
quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui thì tôi rất vui lòng
lui”.
Câu 60: Trình bày sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân
với tính nhân dân và tính dân tộc của. Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí
Minh?
Gợi ý trả lời:
Hồ Chí Minh là người giải quyết hết sức thành công vấn đề mối quan
hệ giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước.
145
Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại khi giai cấp
và đấu tranh giai cấp xuất hiện. Do đó nhà nước là sản phẩm tất yếu của một
xã hội có giai cấp, nó bao giờ cũng mang bản chất một giai cấp nhất định,
không có một nhà nước nào là phi giai cấp, không có nhà nước đứng trên giai
cấp... Nhà nước sinh ra để phục vụ cho một giai cấp, mang lại quyền lợi cho
giai cấp đó dù là chiếm số ít trong dân cư vẫn có thể thống trị áp bức bóc lột
được đại đa số dân cư. Cho nên nhà nước mang bản chất giai cấp.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
được coi là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, nhưng tuyệt nhiên nó không
phải là “Nhà nước toàn dân” hiểu theo nghĩa nhà nước phi giai cấp. Nhà nước
bao giờ và ở đâu cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định. Theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam mới là một Nhà nước mang bản
chất giai cấp công nhân. Vì:
Một là, Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Trong quan điểm cơ bản xây dựng một Nhà nước do nhân dân lao động
làm chủ, một Nhà nước thể hiện tính chất nhân dân rộng rãi. Hồ Chí Minh
vẫn nhấn mạnh nòng cốt của nhân dân là liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và tri thức do giai cấp công nhân mà đội tiên phong của
nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Lời nói đầu của bản Hiến pháp năm
1959 do Người trực tiếp chỉ đạo biên soạn đã khẳng định: “Nhà nước của ta là
nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai
cấp công nhân lãnh đạo”.
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm chủ trương để Nhà
nước thể chế hoá thành pháp luật, chính sách, kế hoạch; Đảng lãnh đạo Nhà
nước bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên của mình trong bộ
máy cơ quan Nhà nước; Đảng lãnh đạo nhà nước bằng công tác kiểm tra.
Hai là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở tính
định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển đất nước. Điều này đã được thể
146
hiện trong quan điểm của Hồ Chí Minh ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà mới ra đời.
Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở nguyên
tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ.
Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân
tộc của Nhà nước ta thể hiện rõ trong những quan điểm sau:
- Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của
rất nhiều thế hệ người Việt Nam.
- Tính thống nhất còn biểu hiện ở chỗ Nhà nước ta bảo đảm lợi ích của
nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm cơ bản.
- Trong thực tế, Nhà nước đã đứng ra làm nhiệm cụ của cả dân tộc giao
phó, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc
lập tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình thống nhhất
độc lập dân chủ, và giàu mạnh, góp phần phát triển tiến bộ của thế giới./.
Câu 61: Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước có hiệu
lực pháp lý mạnh mẽ?
Gợi ý trả lời:
Xây dựng Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ theo tư tưởng Hồ Chí
Minh có những nội dung sau:
Một là, Xây dựng một Nhà nước hợp pháp, hợp hiến. Chỉ sau một ngày
đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời
(3-9-1945) Hồ Chí Minh nêu ra 6 nhiệm vụ cấp bách, nhiệm vụ thứ ba là
“chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức
càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”: để
lập Quốc hội rồi từ đó lập ra Chính phủ và các cơ quan, bộ máy chính thức
khác của Nhà nước mới. Có được một Nhà nước hợp hiến thể hiện quyền lực
tối cao của nhân dân, như vậy thì nước ta mới có cơ sở pháp lý vững chắc để
làm việc với quân Đồng Minh, mới có một quan hệ quốc tế bình đẳng, mới
147
thiết lập được một cơ chế quyền lực hợp pháp theo đúng thông lệ của một
Nhà nước pháp quyền hiện đại.
Nhân dân ta đã tiến hành Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên ngày 6-
1-1946, với chế độ phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Ngày 2-3-
1946, Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã họp phiên đầu
tiên lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước. Hồ
Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp đầu tiên và làm Trưởng
ban dự thảo Hiến pháp (Hiến pháp được thông qua ngày 9-11-1946). Đây
chính là Chính phủ có đầy đủ tư cách pháp lý để giải quyết một cách có hiệu
quả những vấn đề đối nội và đối ngoại ở nước ta.
Hai là, Hoạt động quản lý nhà nước bằng Hiến pháp, pháp luật và chú
trọng đưa pháp luật vào cuộc sống. Quản lý nhà nước là quản lý bằng bộ máy
và bằng nhiều biện pháp khác nhưng quan trọng nhất là quản lý bằng hệ thống
luật, trong đó quan trọng bậc nhất là Hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà
nước. Từ 1920, trong bài Việt Nam yêu cầu ca, Hồ Chí Minh đã khẳng định
vai trò của pháp luật bằng câu: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.
Hồ Chí Minh là người có công lớn trong sự nghiệp lập hiến, lập pháp
Người trực tiếp chỉ đạo soạn thảo hai Hiến pháp (1946,1959), 16 đạo luật 613
sắc lệnh và văn bản dưới luật khác, Người đặc biệt quan tâm xây dựng hệ
thống pháp luật, bộ máy Nhà nước, mối quan hệ giữa các cơ quan lập pháp,
hành pháp, tư pháp, nguyên tắc tổ chức hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Có Hiến pháp và pháp luật rồi nhưng không đưa được vào trong cuộc
sống thì xã hội cũng sẽ bị rối loạn. Dân chủ đích thực bao giờ cũng đi liền với
kỷ cương, phép nước, tức là đi liền với thực thi Hiến pháp và pháp luật.
Hồ Chí Minh coi trọng đưa pháp luật vào đời sống, chăm lo tới nâng
cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào
các công việc Nhà nước phê bình, giám sát công việc của Chính phủ.
Nhà nước phải điều hành bằng pháp luật, kết hợp với giáo dục đạo đức,
nâng cao giác ngộ cách mạng cho nhân dân.
- Trong việc thực thi Hiến pháp và pháp luật, Hồ Chí Minh bao giờ
cũng chú ý bảo đảm tính nghiêm minh và hiệu lực của chúng...
148
Ba là, Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và đủ tài.
Để xây dựng một Nhà nước pháp quyền vững mạnh Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm đến xây dựng đội ngũ cán bộ công chức. Người coi cán bộ nói
chung “là cái gốc của mọi công việc” “muôn việc thành công hay thất bại đều
do cán bộ tốt hay kém”. Vì thế, Hồ Chí Minh đề ra tiêu chuẩn, yêu cầu về xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Theo Người, cán bộ, công chức phải: Tuyệt
đối trung thành với cách mạng; Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên
môn, nghiệp vụ; phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân; cán bộ công chức
phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm,
nhất là trong những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản”;
phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn luôn có ý thức và hành động
vì sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà nước.
Câu 62: Hãy nêu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước
trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả?
Gợi ý trả lời
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng một Nhà nước của dân, do dân,
vì dân không bao giờ tách rời với việc làm cho Nhà nước luôn trong sạch,
vững mạnh. Điều này luôn luôn thường trực trong tâm trí và hành động của
Hồ Chí Minh. Khi nước nhà giành được độc lập, chính quyền cách mạng còn
non trẻ cũng như lúc cách mạng chuyển giai đoạn. Hồ Chí Minh càng chú ý
đến việc bảo đảm cho sự trong sạch vững mạnh của các cấp chính quyền, bởi
vì thường những lúc đó, cách mạng đứng trước những thách thức rất gay gắt
và những tiêu cực rất dễ trở thành nguy cơ làm biến chất Nhà nước.
Chỉ một tháng sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ
Chí Minh đã gửi thư cho Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu rõ
phải chống đặc quyền, đặc lợi, bộ máy nhà nước không phải là bộ máy áp
bức, bóc lột nhân dân, cán bộ, công chức không phải là những “ông quan cách
mạng”. Hồ Chí Minh chỉ ra sáu căn bệnh cần đề phòng: trái phép, cậy thế, hủ
hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo.
149
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà. Hồ Chí Minh thường chỉ rõ những tiêu cực sau đây và nhắc nhở mọi
người đề phòng, khắc phục.
- Đặc quyền đặc lợi.
Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, đòi hỏi phải tẩy trừ những
thói cậy mình là người trong cơ quan chính quyền để cửa quyền, hách dịch
với dân, lạm quyền, đồng thời để vơ vét tiền của, lợi dụng chức quyền để làm
lợi cho cá nhân mình, làm như thế tức là sa vào chủ nghĩa cá nhân.
- Tham ô, lãng phí, quan liêu.
Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí, quan liêu là “giặc nội xâm”, “giặc ở
trong lòng”, thứ giặc nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Quan điểm của Hồ Chí
Minh là: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không cũng là bạn
đồng minh của thực dân và phong kiến... Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt
gian, mật thám”.
- Ngày 27-11-1946, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh ấn định hình phạt tội
đưa và nhận hối lộ với mức từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai và phải nộp gấp
đôi số tiền đã nhận hối lộ.
- Ngày 26-1-1946, Hồ Chí Minh ký lệnh nói rõ tội tham ô, trộm cắp của
công dân là tội tử hình.
Lãng phí là một căn bệnh mà Hồ Chí Minh lên án gay gắt. Theo Hồ Chí
Minh xác định lãng phí ở đây là lãng phí sức lao động, lãng phí thời giờ, lãng
phí tiền của. Chống lãng phí là biện pháp để tiết kiệm, một vấn đề quốc sách
của mọi quốc gia. Hồ Chí Minh luôn làm gương, tích cực thực hành chống
lãng phí trong cuộc sống và công việc hàng ngày. Người biết quý từng đồng
xu, bát gạo do dân đóng góp cho hoạt động của bộ máy nhà nước.
Quan liêu: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bệnh quan liêu là một căn bệnh
không những có ở cấp trung ương, ở cấp tỉnh, cấp huyện, mà còn ngay cả ở
cấp cơ sở.
Hồ Chí Minh phê bình những người và các cơ quan lãnh đạo từ cấp
trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán
bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà
150
không xem xét khắp mọi mặt, không đi sâu vào từng vấn đề. Bệnh quan liêu
làm cho chúng ta chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ
không kiểm tra đến nơi đến chốn... Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng,
che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, đây là bệnh gốc sinh ra các bệnh
tham ô, lãnh phí, muốn trừ sạch bệnh tham ô, lãnh phí, trước mắt phải tẩy
sạch bệnh quan liêu.
- “Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”.
Những hành động trên gây mất đoàn kết, gây rối cho công tác. Hồ Chí
Minh kịch liệt lên án tệ kéo bè, kéo cánh, tệ nạn bà con bạn hữu mình, không
tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng không
vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng việc nước là việc công, chứ không
phải là việc riêng gì dòng họ của ai... Ngoài bệnh cậy thế, có người còn kiêu
ngạo “tưởng mình ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi... Cử chỉ lúc
nào cũng vác mặt quan cách mạng”, làm mất uy tín của Chính phủ.
- Để xây dựng Nhà nước trong sạch vững mạnh theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, phải tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật, đi đôi với đẩy mạnh
giáo dục đạo đức cách mạng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, với cương vị là Chủ
tịch nước, Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa quản lý xã
hội bằng pháp luật với phát huy những truyền thống tốt đẹp trong đời sống
cộng đồng người Việt Nam được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử (kết
hợp nhuần nhuyễn cả “đức trị” và “pháp trị”).
Câu 63: Trình bày khái niệm văn hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh?
Gợi ý trả lời:
Tháng 8-1943, khi còn trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, trong tác
phẩm Nhật ký trong tù, lần đầu tiên Hồ Chí Minh đưa ra một định nghĩa về
văn hoá:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo
văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và
151
các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn
hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Như vậy theo tư tưởng Hồ Chí Minh khái niệm văn hoá được hiểu theo
cả ba nghĩa rộng, hẹp, và rất hẹp.
Theo nghĩa rộng: Hồ Chí Minh nêu văn hoá là toàn bộ những giá trị vật
chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra trong qúa trình lịch sử và sự tiến bộ
chung.
Theo nghĩa hẹp: Văn hoá là những giá trị tinh thần. Người viết: trong
công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là
quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá. Nhưng văn hoá là
một kiến trúc thượng tầng.
Theo nghĩa rất hẹp: Văn hoá đơn giản chỉ là trình độ học vấn của con
người được đánh giá bằng cấp học phổ thông thể hiện ở việc Hồ Chí Minh
yêu cầu mọi người “phải đi học văn hoá, xoá mù chữ...”
Câu 64: Những quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí vai trò của nền
văn hoá trong đời sống xã hội?
Gới ý trả lời
Theo Hồ Chí Minh, văn hoá có vị trí vai trò trong đời sống xã hội:
Một là, văn hoá là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng
tầng. Hồ Chí Minh đặt văn hoá ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo
thành bốn vấn đề chủ yếu trong đời sống xã hội và các vấn đề này có quan hệ
rất mật thiết với nhau.
Trong quan hệ với chính trị, xã hội, theo Hồ Chí Minh, chính trị, xã hội
có được giải phóng thì văn hoá mới được giải phóng... Người nói: “Xã hội thế
nào, văn nghệ thế ấy... Dưới chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân ta bị nô
lệ, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn, không thể phát triển được”. Để văn
152
hoá phát triển tự do phải làm cách mạng chính trị trước.Ở Việt Nam tiến hành
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thực chất là cuộc cách mạng chính trị, tiến
hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính quyền, giải phóng
chính trị, giải phóng xã hội từ đó giải phóng văn hoá, mở đường cho văn hoá
phát triển.
Trong quan hệ với kinh tế: theo tư tưởng Hồ Chí Minh kinh tế thuộc về
cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hoá, cho nên phải chú trọng
xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây dựng và phát
triển văn hoá. Người viết: Văn hoá là một kiến trúc thượng tầng, nhưng cơ sở
hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hoá mới kiến thiết được và có đủ điều
kiện phát triển được.
Như vậy kinh tế phải đi trước một bước. Hồ Chí Minh viết: “Muốn
tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hoá. Vì sao không
nói phát triển văn hoá và kinh tế. Tục ngữ ta có câu: có thực mới vực được
đạo vì thế kinh tế phải đi trước”.
Hai là, văn hoá không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính
trị, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Hồ Chí Minh không nhấn mạnh một chiều về sự phụ thuộc của văn hoá
vào kinh tế, chờ cho kinh tế phát triển xong rồi mới phát triển văn hoá. Người
cho rằng, văn hoá có tính tích cực, chủ động, đóng vai trò to lớn như một
động lực, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và chính trị. Người nói: “Trình độ
văn hoá của nhân dân nâng cao sẽ giúp cho chúng ta đẩy mạnh công cuộc
khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân
cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị, có nghĩa là văn hoá, phải
tham gia thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển
kinh tế.
153
Văn hoá phải ở trong kinh tế và chính trị, điều đó cũng có nghĩa là kinh
tế và chính trị cũng phải có tính văn hoá, điều mà chủ nghĩa xã hội đang đòi
hỏi.
Câu 65: Những quan niệm của Hồ Chí Minh về tính chất của nền
văn hoá.
Gợi ý trả lời:
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tính chất của nền văn hoá mới mà chúng
ta xây dựng, bao gồm ba tính chất: dân tộc, khoa học và đại chúng.
Tính dân tộc của nền văn hoá được Hồ Chí Minh biểu đạt bằng nhiều
khái niệm, như đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc, nhằm nhấn mạnh đến chiều
sâu bản chất rất đặc trưng của văn hoá dân tộc, giúp phân biệt, không nhầm
lẫn với văn hoá của các dân tộc khác. Người cho rằng, để được như vậy, phải
“trau rồi cho văn hoá, văn nghệ có tinh thần thuần tuý Việt Nam”, phải “lột tả
cho hết tinh thần dân tộc”, đó là chủ nghĩa yêu nước, đoàn kết, khát vọng độc
lập tự chủ, tự lực tự cường... của dân tộc. Người còn cho rằng “nếu dân tộc
hoá mà phát triển đến cực điểm thì tức là đến chỗ thế giới hoá nó, vì lúc bấy
giờ văn hoá thế giới sẽ phải chú ý đến văn hoá của mình và văn hoá của mình
sẽ chiếm được địa vị ngang với các nền văn hoá thế giới”. Tính dân tộc của
nền văn hoá không chỉ thể hiện ở chỗ biết giữ gìn, kế thừa, phát huy những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, mà còn phải phát triển những truyền thống
tốt đẹp ấy cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới của đất nước.
Tính khoa học của nền văn hoá mới thể hiện ở tính hiện đại, tiên tiến,
thuận với trào lưu tiến hoá của thời đại. Tính khoa học của văn hoá đòi hỏi
phải đấu tranh chống lại những gì trái với khoa học, phản tiến bộ, phải truyền
bá tư tưởng triết học mác-xít, đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm thần bí,
mê tín dị đoan, phải biết gạn đục, khơi trong, kế thừa truyền thống tốt đẹp của
dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
154
Tính đại chúng của nền văn hoá được thể hiện ở chỗ nền văn hoá ấy
phải phục vụ nhân dân và do nhân dân xây dựng nên. Hồ Chí Minh nói: “văn
hoá phục vụ ai? Cố nhiên, chúng ta phải nói là phục vụ công nông binh, tức là
phục vụ đại đa số nhân dân”...
Tính chất của nền văn hoá mới mà chúng ta xây dựng theo tư tưởng Hồ
Chí Minh cũng được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ cách
mạng, song bản chất, định hướng của nó không thay đổi.
Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II tháng 2-1951 của Đảng, Hồ
Chí Minh khẳng định: Xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính chất dân
tộc, khoa học đại chúng (đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc).
Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III tháng 9-1960 của Đảng,
tính chất nền văn hoá được điều chỉnh lại: “nền văn hoá mới là nền văn hoá
có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc”. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII (tháng 6-1991) của Đảng, xác định tính chất của nền văn hoá nước
ta là một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc (tính chất tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tiên tiến là khoa học, hiện
đại là xã hội chủ nghĩa, là biết tiếp thu văn hoá nhân loại. Đậm đà bản sắc dân
tộc là biết kế thừa, phát huy những truyền thống tốt đẹp ấy cho phù hợp với
điều kiện lịch sử của đất nước).
Năm 1992, Hiến pháp mới nêu rõ tính chẩt của nền văn hoá được xác
định là dân tộc, hiện đại, nhân văn.
Do tình hình, nhiệm vụ cụ thể của cách mạng nước ta ở mỗi giai đoạn
lịch sử, nên dù có diễn đạt khác nhau, song tính chất tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc của nền văn hoá mà chúng ta xây dựng vẫn bao hàm trong đó tính
chất dân tộc, tính khoa học, tính hiện đại, tính nhân văn, tính đại chúng.
155
Câu 66: Trình bày chức năng của nền văn hoá mới theo tư tưởng Hồ
Chí Minh?
Gợi ý trả lời
Chức năng của văn hoá mới rất phong phú, đa dạng, Hồ Chí Minh nêu
ra ba chức năng chủ yếu của nền văn hoá mới:
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và những tình cảm cao đẹp.
Tư tưởng có thể đúng đắn hoặc sai lầm, tình cảm có thể thấp hèn hoặc
cao đẹp.
Chức năng của văn hoá là phải bồi dưỡng tư tưởng đúng và tình cảm
cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ được những sai lầm và thấp hèn có thể có trong
tư tưởng tình cảm mỗi người.
Bồi dưỡng tư tưởng đứng đắn trước hết là lý tưởng cách mạng cao cả,
đó là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Chức năng hàng đầu của văn hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phải
làm thế nào cho ai cũng “có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung và
quên lợi ích riêng”.
Bồi dưỡng tình cảm cao đẹp, là lòng yêu nước thương dân, thương
nhân loại bị đau khổ áp bức, thương yêu con người, yêu tính trung thực, chân
thành, thuỷ chung, ghét những thói hư, tật xấu, sự sa đoạ...
Hai là, mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí
Nói đến văn hoá là phải nói đến dân trí. Đó là trình độ hiểu biết, là vốn
kiến thức của người dân. Khi đất nước đã được độc lập, Hồ Chí Minh nói:
“Một trong công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân
trí”. Nâng cao dân trí phải bắt đầu từ chỗ biết đọc, biết viết để có thể hiểu biết
các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, như kinh tế chính trị, lịch sử khoa học -
kỹ thuật, thực tiễn Việt Nam và thế giới.
Mục tiêu nâng cao dân trí của văn hoá trong từng giai đoạn cách mạng
có thể có những điểm chung và riêng. Song tất cả đều hướng vào mục tiêu
chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Khi miền Bắc quá độ lên chủ
156
nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh nêu ra “chúng ta phải biến một nước dốt nát cực
khổ thành một nước văn hoá cao và đời sống tươi vui hạnh phúc” Đó cũng là
mục tiêu “dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh” mà Đảng
ta đã vạch ra trong công cuộc đổi mới.
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp,
lành mạnh, hướng con người đến chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân.
Phẩm chất và phong cách được hình thành từ đạo đức lối sống, từ thói
quen của cá nhân và phong tục tập quán của cả cộng đồng.
- Phẩm chất và phong cách thường có mối quan hệ gắn bó với nhau.
Mỗi người thường có nhiều phẩm chất, trong đó có phẩm chất chung và
phẩm chất riêng, tuỳ theo nghề nghiệp, vị trí công tác. Các phẩm chất thường
được thể hiện qua phong cách, tức là lối sinh hoạt, làm việc, lối ứng xử trong
đời sống..
Những phẩm chất và phong cách tốt đẹp làm nên giá trị của con người.
Văn hoá giúp con người hình thành những phẩm chất, phong cách và lối sống
tốt đẹp, lành mạnh thông qua phân biệt cái đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư
hỏng, cái tiến bộ với cái lạc hậu bảo thủ. Từ đó giúp con người phấn đấu làm
cho cái tốt đẹp, lành mạnh ngày càng tăng, cái lạc hậu, bảo thủ ngày càng
giảm. vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ để hoàn thiện bản thân. Hồ Chí
Minh chỉ ra; Phải làm thế nào cho văn hoá thấm sâu vào tâm lý quốc dân,
nghĩa là văn hoá phải sửa đổi được những tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa
xỉ, văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi.
Câu 67: Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hoá giáo dục?
Gợi ý trả lời:
Theo Hồ Chí Minh, việc xây dựng một nền giáo dục của nước Việt
Nam mới phải được coi là nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến lược, cơ bản
và lâu dài. Nền giáo dục đó sẽ “làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc
157
dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt
Nam độc lập”.
Trong quá trình xây dựng nền văn hoá giáo dục ở Việt Nam, theo quan
điểm của Người:
- Mục tiêu của văn hoá giáo dục để thực hiện cả 3 chức năng của văn
hoá bằng giáo dục: Dạy và học để bồi dưỡng lý tưởng đứng đắn và tình cảm
cao đẹp cho con người. Giáo dục để đào tạo con người có ích cho xã hội. Học
để làm việc, làm người, làm cán bộ. Giáo dục nhằm đào tạo lớp người có đạo
đức, có tài, kế tục sự nghiệp cách mạng làm cho nước ta sánh vai cùng các
cường quốc năm châu.
- Cải cách giáo dục bao gồm xây dựng chương trình nội dung dạy và
học hợp lý, phù hợp với các giai đoạn cách mạng. Nội dung giáo dục phải
toàn diện: văn hoá, chính trị, khoa học - kỹ thuật chuyên môn nghiệp vụ, lao
động v.v...
Các nội dung đó có mối quan hệ mật thiết với nhau. Học chính trị là
học chủ nghĩa Mác - Lênin đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
Cách học phải sáng tạo, không giáo điều. Học để nắm các quan điểm có tính
nguyên tắc, phương pháp luận. Học khoa học kỹ thuật để đáp ứng đòi hỏi của
thời đại mới, thời đại của cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển
như vũ bão.
- Phương châm, phương pháp giáo dục:
Phương châm học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tế, học tập
kết hợp với lao động phối hợp nhà trường, gia đình - xã hội, thực hiện dân
chủ bình đẳng trong giáo dục, học suốt đời. Coi trọng việc tự học, tự đào tạo
và đào tạo lại. Học ở mọi lúc, mọi nơi, học mọi người.
Phương pháp giáo dục phải xuất phát và bám chắc vào mục tiêu giáo
dục.
- Quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên vì không có giáo viên thì không
có giáo dục. Phải xây dựng đội ngũ giáo viên có phẩm chất yêu nghề phải có
158
đạo đức cách mạng, phải yên tâm công tác, đoàn kết, phải giỏi về chuyên môn
thuần thục về phương pháp. Người đi giáo dục cũng phải được giáo dục, phải
học thêm mãi học không bao giờ đủ. Còn sống còn phải học.
Câu 68: Hãy làm sáng tỏ quan điểm của Hồ Chí Minh về “Văn hoá -
văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí”?
Gợi ý trả lời:
Văn nghệ là biểu hiện tập trung nhất của văn hoá Hồ Chí Minh đặc biệt
coi trọng đội ngũ những người làm công tác văn hoá - văn nghệ. Theo Người
văn hoá - văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ
khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người
mới.
Tư tưởng này đã được thể hiện từ những năm 20 của thế kỷ XX khi
Người đang bôn ba ở nước ngoài tìm đường cứu nước. Tư tưởng đó tiếp tục
được khẳng định trong quá trình Người về nước cùng với Đảng trực tiếp lãnh
đạo phong trào cách mạng Việt Nam.
Quan điểm coi văn hoá - văn nghệ như một mặt trận là quan điểm rất
độc đáo của Hồ Chí Minh, là sự nhất quán quan điểm khẳng định vai trò vị trí
của văn hoá - văn nghệ có tầm quan trọng như mặt trận chính trị, kinh tế,
quân sự, văn hoá phải ở trong kinh tế và chính trị, văn hoá phải phục vụ
nhiệm vụ chính trị...
Hồ Chí Minh coi mặt trận văn hoá như một cuộc chiến đấu khổng lồ
giữa chính và tà, giữa cách mạng và phản cách mạng. Cuộc chiến đấu đó rất
quyết liệt, lâu dài, song rất vẻ vang. Trong cuộc chiến đó, người nghệ sĩ là
chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí đấu tranh. Người nghệ sĩ cần phải có
những đức tính của người chiến sĩ, lập trường tư tưởng đúng, bền bì, kiên
cường dũng cảm, vừa biết sử dụng vũ khí của mình một cách sắc bén trong
cuộc kháng chiến chống ngoại xâm cũng như trong cuộc xây dựng phát triển
159
đất nước. “Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp
phò chính trừ tà”.
Chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ như các chiến sĩ khác “tức là phụng sự
kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân”. Trước khi giành được
chính quyền văn nghệ có nhiệm vụ thức tỉnh quần chúng, tập hợp lực lượng
cổ vũ cho thắng lợi tất yếu của cách mạng. Sau khi có chính quyền văn nghệ
phải tham gia vào công cuộc bảo vệ và xây dựng chế độ mới, xây dựng con
người mới. Mặt trận văn nghệ lúc này còn cam go hơn, quyết liệt hơn, bởi
thắng đế quốc thực dân đã khó thắng nghèo nàn, lạc hậu còn khó hơn nhiều.
Để hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang đó, người chiến sĩ trên mặt trận văn nghệ lại
phải có tài năng sáng tạo do chính yêu cầu của văn nghệ đặt ra. Văn nghệ sĩ
phải vừa nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, nghề nghiệp, vừa phải bồi
dưỡng phẩm chất và tài năng - những điều kiện cần thiết cho sáng tạo nghệ
thuật. Một tác phẩm văn nghệ nhất thiết phải do tài năng sáng tạo của cá nhân
văn nghệ sĩ quyết định. Tác phẩm văn nghệ phải phục vụ cách mạng, phục vụ
quần chúng nhân dân đông đảo, được quần chúng yêu thích, đem lại những
chuyển biến tích cực trong tư tưởng, tình cảm tâm hồn của mọi người. Hồ Chí
Minh yêu cầu “chiến sĩ nghệ thuật cần có lập trường vững tư tưởng đúng...
đặt lợi ích của kháng chiến của Tổ quốc của nhân dân lên trên hết, trước hết”.
Quan điểm trên đây không chỉ có ý nghĩa to lớn trong việc tập hợp
đông đảo văn nghệ sĩ vào một mặt trận, làm cho họ trở thành những chiến sĩ
chiến đấu trong kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc ta trước kia, mà
còn là một luận điểm khoa học có ý nghĩa lớn lao đối với hạnh phúc và nền
văn minh của nhân loại.
Câu 69: Trình bày quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về văn hoá
đời sống?
Gợi ý trả lời:
Văn hoá là bộ mặt tinh thần của xã hội, nhưng bộ mặt tinh thần ấy
không phải là cái gì cao siêu, trừu tượng, mà lại được thể hiện ra ngay trong
160
cuộc sống hàng ngày của mỗi người, rất dễ hiểu, dễ thấy. Đó chính là văn hoá
đời sống.
Văn hoá đời sống thực chất là đời sống mới, với ba nội dung: đạo đức
mới, lối sống mới và nếp sống mới.
Đạo đức mới: Để xây dựng đời sống mới trước hết phải xây dựng đạo
đức mới. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (ngày 3-9-
1945) Hồ Chí Minh đã đề nghị “mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần
nhân dân bằng cách thực hiện”, “cần, kiệm, liêm, chính”, nếu không giữ
đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân,
theo Hồ Chí Minh, nêu cao và thực hành “cần, kiệm, liêm, chính”, tức là nhen
lửa cho đời sống mới.
Lối sống mới: Lối sống mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh là lối sống có
lý tưởng, có đạo đức, lối sống văn minh, tiên tiến kết hợp hài hoà truyền
thống tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa văn hoá nhân loại. Con người muốn tồn
tại, phải làm sao cho có ăn, mặc, ở đi lại và làm việc. Phải làm sao cho mỗi
một hoạt động đó đều mang tính văn hoá. Chính vì vậy, để xây dựng lối sống
mới. Hồ Chí Minh yêu cầu phải sửa đổi “cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi
lại”. Theo ngôn ngữ hiện nay thì đây chính là phong cách sống (sinh hoạt ứng
xử và phong cách làm việc, gọi chung là lối sống mới).
Phong cách sống, theo Hồ Chí Minh là sống phải khiêm tốn, giản dị,
chừng mực, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, biết quý trọng thời gian, ít lòng
ham muốn về vật chất, về chức - quyền - danh - lợi. Trong quan hệ với nhân
dân, bạn bè đồng chí, anh em thì cởi mở, chân tình, ân cần, tế nhị giàu tình
yêu thương quý mến, trân trọng con người; với mình thì chặt chẽ, nghiêm
khắc, với người thì độ lượng, khoan dung.
Phong cách làm việc, theo Hồ Chí Minh là phải sửa đổi sao cho có tác
phong quần chúng, tác phong tập thể - dân chủ, tác phong khoa học. Sửa đổi
phong cách làm việc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cán bộ làm công
161
tác quản lý, lãnh đạo. Bởi vì, theo Hồ Chí Minh, đã là cán bộ cách mạng phải
có phong cách sống và phong cách làm việc tốt, để làm gương mẫu cho dân.
Nếp sống mới: Xây dựng nếp sống mới - nếp sống văn minh, là quá
trình làm cho lối sống mới dần dần thành thói quen, thành phong tục tập quán
tốt đẹp, kế thừa và phát triển những thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc.
Hồ Chí Minh chỉ ra: đời sống mới không phải cái gì cũng bỏ hết, không
phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ. Cái gì cũ mà không
xấu, nhưng phiền phức thì sửa đổi. Cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm. Cái gì
mới mà hay thì phải làm, phải bổ sung.
Xây dựng văn hoá đời sống mới, nhằm biến Việt Nam từ một quốc gia
nghèo nàn, lạc hậu trở thành một quốc gia văn minh và phú cường là một
công việc lâu dài và phải có phương pháp tốt. Công việc đó đòi hỏi sự quyết
tâm của cả cộng đồng dân tộc, song trước hết, phải được bắt đầu từ mỗi con
người, mỗi gia đình, với tư cách là một tế bào của xã hội.
Câu 70: Hãy nêu nguồn gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh?
Gợi ý trả lời:
- Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, một lãnh tụ cách
mạng thế giới đã bàn nhiều về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức. Tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh do đó rất sâu sắc, phong phú cả về lý luận và thực tiễn.
Hồ Chí Minh đã thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở
Việt Nam. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh truyền thống đạo đức
dân tộc và đạo đức nhân loại.
Trước hết tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống
đạo đức của dân tộc Việt Nam. Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và
giữ nước của dân tộc Việt Nam, một nền đạo đức truyền thống đã hình thành.
Tuy có biến đổi trong các thời kỳ, song nền đạo đức truyền thống vẫn luôn
giữ được cội rễ, tiếp tục phát triển, tạo nên sức mạnh để chiến thắng kẻ thù.
Truyền thống đạo đức của dân tộc đã được Hồ Chí Minh tiếp thu có chọn lọc.
162
Thứ hai tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh còn bắt nguồn từ đạo đức nhân
loại. Trên nền tảng đạo đức dân tộc, Người đã tiếp thu những hạt nhân hợp lý,
yếu tố tích cực của đạo đức Phật giáo, Nho giáo đạo đức tư sản. Người đã sử
dụng những khái niệm, những phạm trù của tư tưởng đạo đức đã có từ trước,
đưa vào đó những nội dung mới, đồng thời bổ sung khái niệm, những phạm
trù đạo đức của thời đại mới.
Thứ ba, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở thế
giới quan phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chủ nghĩa Mac - Lênin tạo ra một cuộc
cách mạng trong lĩnh vực đạo đức. Nhờ phương pháp biện chứng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã gạn đục, khơi trong những yếu tố đạo
đức dân tộc, nhân loại. Đồng thời với tư duy độc lập, sáng tạo, xuất phát từ
thực tiễn Việt Nam, Người đã xây dựng được nền đạo đức cách mạng phù
hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
Câu 71: Trình bày nội dung cơ bản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh?
Gợi ý trả lời
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng một lãnh tụ cách mạng
thế giới đã bàn nhiều về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức. Tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh do đó rất sâu sắc phong phú cả về lý luận và thực tiễn. Hồ
Chí Minh đã thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt
Nam. Tư tưởng đạo đức của Người được thể hiện qua những quan điểm sau
đây:
- Về vai trò và sức mạnh của đạo đức cách mạng, theo Người nền đạo
đức Việt Nam mới là đạo đức cách mạng mang bản chất của giai cấp công
nhân, kết hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa đạo đức của
nhân loại. Đạo đức là cái gốc của người cách mạng, người cách mạng phải có
đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng Người nói
“Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây
163
phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Đức là gốc, nhưng đức và tài, hồng và chuyên phải kết hợp không thể
thiếu mặt nào. Đạo đức là vũ khí mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh vì độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng, theo Hồ Chí
Minh những phẩm chất đạo đức chủ yếu, những chuẩn mực chung, cơ bản
nhất của nền đạo đức mới đạo đức cách mạng Việt Nam:
+ Trung với nước, hiếu với dân. Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao
trùm nhất.
+ Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đây là phẩm chất đạo đức
gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người.
+ Thương yêu con người, sống có tình nghĩa. Đây là một trong những
phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Có tinh thần quốc tế trong sáng. Đây là phẩm chất nhằm vào mối quan
hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gia, dân tộc.
- Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
+ Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức;
+ Xây đi đôi với chống;
+ Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Những quan điểm tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vẫn luôn soi sáng cho
Đảng và nhân dân ta trong quá trình xây dựng nền đạo đức Việt Nam ngang
tầm với những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.
164
Câu 72: Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức theo tư
tưởng Hồ Chí Minh?
Gợi ý trả lời:
Hồ Chí Minh luôn khẳng định vai trò quan trọng của đạo đức mới trong
sự nghiệp cách mạng. Trong phần đầu cuốn Đường kách mệnh (1927), Người
đã chỉ ra tư cách của người cách mạng. Sau khi giành được chính quyền,
Người đã quan tâm nhiều đến vấn đề đạo đức của cán bộ đảng viên. Trong Di
chúc, Người căn dặn Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn
viên, thanh niên... Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh do đó, rất sâu sắc, phong
phú, cả về lý luận và thực tiễn, đã trở thành một bộ phận vô giá của văn hoá
dân tộc và nhân loại, một sức mạnh to lớn làm nên mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Khi đánh giá vai trò của đạo đức trong đời sống, từ rất sớm
Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con
người, như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người nói: “Cũng như
sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có
gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có
đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.1 Người cho
rằng làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất
vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, “Sức có mạnh mới gánh
được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm
nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
Đạo đức là cái gốc là nền tảng của người cách mạng, nghĩa là đạo đức
là nhân tố quyết định đời hoạt động, xu hướng phát triển và khả năng lôi
cuốn, lãnh đạo nhân dân của người cách mạng.
Đạo đức là cái gốc là nền tảng của người cách mạng bởi vì trong giai
đoạn cách mạng Đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn xã hội, lãnh đạo Nhà nước,
nếu cán bộ đảng viên không tu dưỡng về đạo đức cách mạng thì mặt trái của
quyền lực có thể làm tha hoá con người. Vì vậy Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng
112 Hồ Chí Minh toàn tập lập 5 tr 252 - 253.
165
phải “là đạo đức là văn minh”. Người thường nhắc lại ý của V. I. Lênin: Đảng
Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời
đại. Chính vì vậy cùng với việc giáo dục nâng cao trình độ hiểu biết của cán
bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Hồ Chí Minh đã thường xuyên quan
tâm đến việc giáo dục đạo đức cho mọi người. Người nói, cán bộ, đảng viên
muốn cho dân tin, dân yêu thì không phải “viết lên trán chữ cộng sản là được
quần chúng yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo
đức”. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công
việc to tát mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản tự mình đã hủ
hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì? - Trong Di chúc, Người căn dặn: “Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần
kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
- Vai trò của đạo đức cách mạng còn thể hiện ở chỗ đó là thước đo lòng
cao thượng của con người. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, trong xã hội, mỗi
người có công việc tài năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm
việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng. Tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực tế
làm thước đo. Chính vì vậy Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức bên cạnh tài năng,
lời nói đi đôi với hành động và hiệu quả trên thực tế. Người nói “Phải lấy kết
quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý
chí cách mạng của mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô
trương, hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất”.
- Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, không phải một chiều phụ
thuộc vào tồn tại xã hội, vào những điều kiện vật chất kinh tế. Nó có khả năng
tác động tích cực trở lại, cải biến tồn tại xã hội. Giá trị đạo đức tinh thần một
khi được con người tiếp nhận sẽ biến thành một sức mạnh vật chất.
Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn gian khổ, thất bại cũng không
lùi bước, chán nản... khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ tinh thần
166
khiêm tốn “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, không kèn cựa về mặt hưởng
thụ, không công thần, quan liêu, không kiêu ngạo...
Đạo đức là cái gốc của người cách mạng, không có nghĩa là tuyệt đối
hoà mặt tài, mà phải nhận thức đức và tài có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Có đức phải có tài, nếu không sẽ không mang lại lợi íchh gì mà còn có hại
cho dân. Mặc khác, phải thấy trong đức có tài. Tài càng lớn thì đức phải càng
cao, vì đức - tài là nhằm phục vụ nhân dân và đưa cách mạng đến thắng lợi.
Người thực sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ
nâng cao năng lực, tài năng để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Khi đã
thấy sức không vươn lên được thì đối với ai có tài hơn mình, mình sẵn sàng
học tập, ủng hộ và nhường bước để họ vượt lên trước.
- Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội. Theo
Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý tưởng cao
xa, ở mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng, mà trước
hết là ở nhữg giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản
ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng
đó trở thành hiện thực.
Hồ Chí Minh cho rằng, phong trào cộng sản công nhân quốc tế trở
thành lực lượng quyết định vận mệnh của loài người không chỉ do chiến lược
và sách lược thiên tài của cách mạng vô sản, mà còn do những phẩm chất đạo
đức cao quý làm cho chủ nghĩa cộng sản trở thành một sức mạnh vô địch.
Tấm gương đạo đức trong sáng của một nhân cách vĩ đại, song cũng rất
đời thường của Hồ Chí Minh chẳng những có sức hấp dẫn lớn lao, mạnh mẽ
với nhân dân Việt Nam, mà còn cả với nhân dân thế giới. Tấm gương đó từ
lâu, là nguồn cổ vũ động viên tinh thần quan trọng đối với nhân dân ta và
nhân loại tiến bộ đoàn kết đấu tranh vì hoà, bình độc lập dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội.
167
Câu 73: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về phẩm chất đạo
đức trung với nước, hiếu với dân của con người Việt Nam trong thời đại
mới?
Gợi ý trả lời:
“Trung” và hiểu là những khái niệm cũ đã có trong tư tưởng đạo đức
truyền thống Việt Nam và phương Đông. Hồ Chí Minh đã sử dụng khái niệm
này và đưa vào nội dung mới.
Trước kia, “trung”, “hiếu”, được sử dụng với nghĩa phổ biến là trung
quân, là hiếu thảo. Trung quân là trung thành với Vua, cũng có nghĩa là trung
thành với nước, vì Vua với nước là một. Hiếu thảo là con cái phải hiếu thảo
với cha mẹ, chữ hiếu chỉ thu hẹp trong quan hệ gia đình.
Hồ Chí Minh đã kế thừa và vượt qua những hạn chế của quan niệm
truyền thống đó và đưa vào đó một nội dung mới: “Trung với nước, hiếu với
dân, tạo nên một cuộc cách mạng trong quan niệm về đạo đức” Người nói:
“Đạo đức cũ như đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như
người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”. (1)
Hồ Chí Minh cho rằng trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Vì
nước là nước của dân, còn dân lại là chủ nhân của nước; bao nhiêu quyền
hành và lực lượng đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, cán bộ là đầy
tớ của dân chứ không phải là “quan cách mạng”.
Nội dung Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng
nước và giữ nước, trung thành với con đường đi lên của đất nước, là suốt đời
phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng. Hiếu với dân thể hiện ở thương dân, tin
dân, phục vụ nhân dân hết lòng, “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “Đảng và
Chính phủ là đầy tớ của dân”. Để làm được như vậy phải gần dân, kính trọng
và học tập nhân dân phải dựa vào dân, “Bao nhiêu quyền hành và lực lượng
đều ở nơi dân và lấy dân làm gốc. Vì vậy đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí
Minh yêu cầu phải nắm vững “dân tình”, hiểu rõ “dân tâm” thường xuyên
1(1) Hồ Chí Minh. Toàn tập. T 6 trang 320 - 321
168
quan tâm cải thiện “dân sinh”, nâng cao “dân trí” để nhân dân hiểu và thực
hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình.
Theo Người, Trung với nước, Hiếu với dân là phẩm chất đạo đức, quan
trọng nhất, bao trùm nhất.
Câu 74: Hãy làm sáng tỏ quan điểm của Hồ Chí Minh về phẩm chất
đạo đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư của con người Việt Nam
trong thời đại mới?
Gợi ý trả lời:
Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi
người, là đại cương đạo đức Hồ Chí Minh.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những khái niệm cũ trong đạo
đức truyền thống dân tộc, được Hồ Chí Minh tiếp thu, lọc bỏ những nội dung
không phù hợp và đưa vào những nội dung mới đáp ứng yêu cầu của cách
mạng.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm,
liêm, chính, nhưng không bao giờ thực hiện mà lại bắt nhân dân tuân theo để
phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay, ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho
cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo là để đem lại hạnh phúc cho
nhân dân. Cần, kiệm,liêm, chính,chí công vô tư cũng là một biểu hiện cụ thể,
một nội dung của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”.
Theo Hồ Chí Minh thì:
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch sáng tạo,
có năng suất cao, lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng,
không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng,
là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta.
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của
dân của nước, của bản thân mình, phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều
169
cái nhỏ cộng lại thành cái to “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”,
không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân, “không
xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước của nhân dân”. Phải “trong
sạch không tham lam” “không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham
sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính
đại không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến
bộ”.
Người chỉ ra những hành vi trái với chữ liêm, như: “....cậy quyền thế
mà đục khoét dân, ăn đút, hoặc trộm của công làm của tư”. Dìm người giỏi,
để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là trộm) Người đã nhắc lại
một số ý hay của Khổng, Mạnh. Cụ Khổng Tử nói: “Người mà không Liêm,
không bằng súc vật”. Cụ Mạnh Tử nói: “Ai cũng tham lợi, thì nước sẽ nguy”.
Chính là thẳng thắn, đứng đắn. Người đưa ra một số yêu cầu: Đối với
mình: không được tự cao, tự đại, tự phụ, phải khiêm tốn học hỏi, phát triển cái
hay sửa chữa cái dở của mình.
Đối với người - không nịnh người trên, không khinh người dưới, thật
thà, không dối trá.
Đối với việc - phải để việc công lên trên, lên trước việc tư việc nhà ...
việc thiện nhỏ mấy cũng làm, việc ác nhỏ mấy cũng tránh...
Các đức tính cần, kiện, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau. Cần
mà không kiệm thì chẳng khác nào “gió vào nhà trống” “nước đổ vào chiếc
thùng không đáy”. Kiệm mà không cần thì sản xuất được ít, không đủ dùng,
không có tăng thêm, không có phát triển.
Cần, Kiệm, Liêm, Chính cần thiết đối với tất cả mọi người, Hồ Chí
Minh viết.
“Trời có bồn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
170
Thiếu một mùa, thì không thành trời
Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức, thì không thành người.
Vì vậy ai cũng phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải là người
thực hành trước để làm kiểu mẫu cho dân. Người cho rằng, những người
trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hạn. Nếu không giữ đúng cần,
kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân.
Đối với một quốc gia, cần kiệm, liêm, chính là thước đo sự giàu có về
vật chất, vững mạnh về tinh thần thể hiện sự văn minh tiến bộ. Cần, kiệm,
liêm chính là nền tảng của đời sống mới, của các phong trào thi đua yêu nước.
Chí công vô tư, là công bằng, công tâm, không thiên tư thiên vị, làm
việc gì cũng không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng vì dân tộc, “lo trước
thiên hạ vui sau thiên hạ”. Chí công vô tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, trừ bỏ
chủ nghĩa cá nhân.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là vết tích của xã hội cũ, đó là
lối sống ích kỷ, chỉ muốn “mọi người vì mình” mà không biết “mình vì mọi
người”. Nó là mộ thứ giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm.
Nó là bạn đồng minh của chủ nghĩa đế quốc và thói quen truyền thống lạc
hậu. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh
nguy hiểm, như quan liêu mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãnh phí xa
hoa tham danh lợi, thích địa vị, quyền hành tự cao tự đại, coi thường tập thể,
xem khinh quần chúng, độc đoán chuyên quyền... Chủ nghĩa cá nhân là nguy
hại cho cá nhân con người, cho một Đảng và cả dân tộc. Hồ Chí Minh viết:
“Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức
hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu
mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá
nhân”.
171
Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Vì vậy “thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của
cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”.
Câu 75: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về phẩm chất đạo
đức: Thương yêu con người, sống có tình nghĩa của con người Việt Nam
trong thời đại mới?
Gợi ý trả lời:
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa
nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ,
cùng với việc thể nghiệm của chính bản thân mình qua hoạt động cách mạng
thực tiễn. Hồ Chí Minh xác định tình yêu thương con người là một trong
những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người nói người cách mạng là người
giàu tình cảm cách mạng mới đi làm cách mạng. Vì yêu thương nhân dân yêu
thương con người mà chấp nhận mọi gian khổ hy sinh đem lại độc lập, tự do,
cơm no, áo ấm và hạnh phúc cho con người.
Thương yêu con người là tình cảm rộng lớn, nhưng không phải là tình
thương trìu tượng, chung chung, phi giai cấp. Trước hết đó là tình yêu thương
đối với những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột. Theo
Hồ Chí Minh, những người bị áp bức bóc lột, những người đi theo điều thiện
thì dù mầu da, tiếng nói có khác nhau vẫn có thể coi nhau như anh em, nếu
không có tình yêu thương như vậy thì không thể nói đến cách mạng càng
không thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Thương yêu con người, thương yêu nhân dân còn được thể hiện tới mọi
đối tượng cụ thể: Bộ đội, thanh niên xung phong, người già trẻ em phụ nữ
những người có hoàn cảnh đặc biệt những người ở tiền tuyến cũng như những
người ở hậu phương...
Thương yêu con người phải được xây dựng trên lập trường giai cấp
công nhân, thể hiện trong mối quan hệ bạn bè, đồng chí, với mọi người bình
thường trong quan hệ hàng ngày. Tình cảm đó đòi hỏi thái độ tôn trọng những
172
quyền của con người, nâng con người lên. Đối với mình phải luôn nghiêm
khắc, đối với người phải rộng rãi độ lượng Người dạy: Hiểu chủ nghĩa Mác -
Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà
sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được.
Trong Di chúc, Người căn dặn: Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
Tình thương yêu đó dựa trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình một cách
chân thành, nghiêm túc giữa những người cùng lý tưởng.
Tình thương yêu con người còn được thể hiện đối với những người có
sai lầm, khuyết điểm nhưng đã nhận rõ khuyết điểm sai lầm và cố gắng sửa
chữa, “phải giúp họ tiến bộ” phải làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy
nở như hoa mùa xuân, để đẩy lùi phần xấu đi.
Hồ Chí Minh đã đề cao tình thương yêu con người, sống có tình, có
nghĩa đồng thời Người cũng truyền cho mỗi người sức mạnh, tạo điều kiện
cho mỗi người phát huy trí tuệ, tài năng để hoàn thành nhiệm vụ.
Câu 76: Hãy nêu quan điểm của Hồ Chí Minh về phẩm chất đạo đức
tinh thần quốc tế trong sáng của con người Việt Nam trong thời đại mới?
Gợi ý trả lời:
Hồ Chí Minh đã từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin
và Người đã nêu cao tấm gương sáng ngời về sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước
với chủ nghĩa quốc tế.
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của
đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ bản chất giai cấp công nhân,
nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khỏi quốc gia dân tộc.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (9-1960) của Đảng, Hồ Chí
Minh đã nói:
“Quan sơn muôn dặm một nhà
Bốn phương vô sản đều là anh em”
173
Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân, đó là lẽ sống
mà Hồ Chí Minh không ngừng giáo dục nhân dân trong cuộc đấu tranh vì độc
lập dân tộc vì chủ nghĩa xã hội.
Nội dung chủ nghĩa quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và
sâu sắc. Đó là sự tôn trọng hiểu biết, thương yêu và đoàn kết với giai cấp vô
sản toàn thế giới, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những
người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hận thù bất bình đẳng và
phân biệt chủng tộc, chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, vô danh, biệt lập và
chủ nghĩa bành trướng, bá quyền... Hồ Chí Minh chủ trương giúp bạn là tự
giúp mình.
- Đoàn kết quốc tế là nhằm thực hiện những mục tiêu lớn của thời đại là
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác và hữu nghị
theo tinh thần: bốn phương vô sản đều là anh em.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã dày công
xây đắp tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới.
Đã tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay cho đối đầu, nhằm
kiến tạo một nền văn hoá hoà bình cho nhân loại.
Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất đạo đức, là yêu cầu đạo đức
nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gia dân tộc, “Trái
tim khối óc của Người dành cho dân tộc Việt Nam ta cũng hướng về giai cấp
cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới”. Không phải đối với
bất cứ ai, vào bất cứ lúc nào cũng thấy được tinh thần quốc tế có hay không,
trong sáng hay không trong sáng, nhưng việc giáo dục của Đảng và việc rèn
luyện của cá nhân mỗi người về tinh thần quốc tế lại không thể coi nhẹ”.
174
Câu 77: Nêu những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới theo tư tưởng
Hồ Chí Minh?
Gợi ý trả lời:
Nói tới tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức phải chú ý tới con đường và
phương pháp hình thành đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Đặc điểm và quy
luật hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho thấy một số nguyên tắc cơ
bản xây dựng đạo đức mới sau đây:
- Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức Hồ Chí Minh là một
tấm gương sáng tuyệt vời về nói đi đôi với làm. Người quan tâm đặc biệt, hàng
đầu tới vấn đề đạo đức không phải chỉ để lại những bài viết, bài nói về đạo đức
mà quan trọng hơn là Người thực hiện trước hết, nhiều nhất những tư tưởng ấy.
Hồ Chí Minh coi “nói đi đôi với làm” là nguyên tắc quan trọng bậc
nhất trong xây dựng một nền đạo đức mới. Điều này được Hồ Chí Minh
khẳng định từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX trong tác phẩm Đường kách
mệnh xuất bản năm 1927. Bàn về Tư cách một người cách mệnh, Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ; “nói thì phải làm”.
Nói đi đôi với làm là đặc trưng bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh - Đạo đức cách mạng là đạo đức luôn được nhận thức và giải quyết trên
lập trường của giai cấp công nhân, phục vụ lợi ích của cách mạng. Điều này
phân biệt một cách rạch ròi, đối lập hoàn toàn với thói đạo đức giả của giai
cấp bóc lột với những đặc trưng bản chất là nói nhiều làm ít, nói mà không
làm, nói một đằng làm một nẻo, đem lại lợi ích không phải cho quần chúng
nhân dân lao động, mà cho thiểu số những kẻ bóc lột.
- Nói đi đôi với làm còn nhằm chống thói đạo đức giả. Ngay sau Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu
hiện của thói đạo đức giả ở một số cán bộ “vác mặt làm quan cách mạng”, nói
mà không làm Người đã nhiều lần bàn đến việc tẩy sạch căn bệnh quan liêu,
coi thường quần chúng của một số cán bộ, đảng viên “miệng thì nói dân chủ,
nhưng làm việc thì họ làm theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần
175
chúng” nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái ngược với
phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ, làm tổn hại đến uy tín
của Đảng và Chính phủ trước nhân dân.
- Nói đi đôi với làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đức là một nét
đẹp của truyền thống văn hoá phương Đông. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nói
chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm và đối với họ một tấm
gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Với ý
nghĩa đó, Hồ Chí Minh đã đào tạo các thế hệ cán bộ cách mạng Việt Nam
không chỉ bằng lý luận cách mạng tiên phong, mà còn bằng chính tấm gương
đạo đức cao cả của mình.
Hồ Chí Minh cho rằng, trong việc xây dựng một nền đạo đức mới, đạo
đức cách mạng phải đặc biệt chú trọng “đạo làm gương”... Người nói: “Lấy
gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những
cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng xây dựng
con người mới, cuộc sống mới”...
Tấm gương của thế hệ trước với các thế hệ sau là đặc biệt quan trọng.
Đối với cán bộ đảng viên Người nêu luận điểm quan trọng: “Trước mặt quần
chúng không phải ta cứ viết lên trán chữ” “cộng sản” mà ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn
nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
- Xây đi đôi với chống. Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết
hợp chặt chẽ giữa xây và chống. Bởi vì trong Đảng và mỗi con người vì
những lý do khác nhau nên không phải “người người đều tốt, việc việc đều
hay”, “mỗi con người đều có cái thiện và cái ác trong lòng. Ta phải biết làm
cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị
mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”.
Chính vì vậy, việc xây và chống trong lĩnh vực đạo đức rõ ràng không
đơn giản. Xây phải đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục
đích xây.
176
Xây dựng đạo đức mới, trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo
dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới. Với giáo dục đạo đức
phải được tiến hành phù hợp với giai đoạn cách mạng, phù hợp với từng lứa
tuổi, ngành nghề, giai cấp, tầng lớp và trong từng môi trường khác nhau, phải
khơi dậy được ý thức đạo đức lành mạnh ở mỗi người.
Xây phải đi đôi với chống, với việc loại bỏ cái sai, cái xấu, cái vô đạo
đức trong cuộc sống hàng ngày. Hồ Chí Minh cho rằng con đường tiến lên
chủ nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, cuộc chiến đấu khổng lồ.
Trong cuộc chiến đấu đó, có nhiều kẻ địch nhưng thường có ba loại: Chủ
nghĩa tư bản và bọn đế quốc là kẻ địch rất nguy hiểm; thói quen và truyền
thống lạc hậu cũng là kẻ địch to, nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ;
loại địch thứ ba là chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong
mỗi người của chúng ta; nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại hoặc dịp thắng lợi để
ngóc đầu dậy nó là bạn đồng minh của hai kẻ địch kia.
Nhận thức như vậy, để thấy rằng đạo đức cách mạng là vô luận trong
hoàn cảnh nào cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn cảnh
giác, có như vậy mới thắng được địch và thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Để
giành được thắng lợi trong cuộc chiến đấu này, điều quan trọng là phải phát
hiện sớm, phải tuyên truyền vận động hình thành phong trào quần chúng rộng
rãi đấu tranh cho sự lành mạnh trong sạch về đạo đức. Đối với từng người, Hồ
Chí Minh yêu cầu “trước hết phải đánh thắng lòng tà là kẻ thù trong mình”,
“Không hiếu danh, không kiêu ngạo, ít lòng ham muốn về vật chất, vị công
vong tư”.
- Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ mỗi
người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng
ngày, đấy cũng là công việc phải làm kiên trì bền bỉ suốt đời, không người
nào có thể chủ quan tự mãn. Người nhắc lại luận điểm “chính tâm tu thân”
của Khổng Tử và chỉ rõ Chính tâm tu thân tức là cải tạo. Cải tạo cũng phải
trường kỳ gian khổ, vì đó là cuộc cách mạng trong bản thân của mỗi người.
177
Bồi dưỡng tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ, đoạn tuyệt với con người
cũ để trở thành con người mới không phải là công việc dễ dàng... Dù khó
khăn gian khổ nhưng muốn cải tạo thì nhất định thành công”.
Đạo đức cách mạng là đạo đức dấn thân, đạo đức trong hành động vì
độc lập tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ có trong hành động,
đạo đức cách mạng mới bộc lộ rõ những giá trị của mình. Do vậy, đạo đức
cách mạng đòi hỏi mỗi người phải tự giác rèn luyện thông qua hoạt động thực
tiễn trong công việc, phải nhìn thẳng vào mình thấy rõ cái hay cái tốt của
mình để phát huy, thấy rõ cái dở, cái xấu của mình để khắc phục, phải kiên trì
rèn luyện, tu dưỡng suốt đời như công việc rửa mặt hàng ngày. Hồ Chí Minh
đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa
xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài cáng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Cái ác luôn ẩn nấp trong mỗi con người, vì vậy không được sao nhãng
việc tu dưỡng, mà phải rèn luyện suốt đời. Đặc biệt trong thời kỳ hoà bình khi
con người có ít quyền hạn, nếu không ý thức sâu sắc điều này, dễ bị tha hoá
biến chất. Hồ Chí Minh so sánh: “tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví
như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ
dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện
gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi,
nảy nở rất dễ”. Nếu không chú ý đến điều này, sa vào chủ nghĩa cá nhân thì
có thể ngày hôm qua có công với cách mạng nhưng ngày hôm nay lại có tội
với nhân dân. Từ đó Người đi đến một kết luận khái quát: “một dân tộc, một
đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không
nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu
lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân.
178
Câu 78: Vì sao sinh viên phải học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh?
Gợi ý trả lời:
Đạo đức, hiểu một cách tổng quát là toàn bộ những chuẩn mực, những
quy tắc, những quan niệm về các giá trị thiện ác, lương tâm, trách nhiệm,
danh dự, hạnh phúc, công bằng v.v... được xã hội thừa nhận, quy định hành
vi, quan hệ giữa con người với sự nghiệp, giữa con người với nhau và giữa
con người với xã hội.
Đạo đức là yếu tố cơ bản của nhân cách tạo nên giá trị con người. Vì
vậy, con người luôn có khát vọng hướng đến chân, thiện mỹ, nhằm hoàn thiện
bản thân, trước hết con người phải tu dưỡng rèn luyện đạo đức theo tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, việc tu dưỡng đạo đức của mỗi cá nhân,
mỗi con người là cực kỳ quan trọng đối với thế hệ trẻ càng quan trọng, vì họ
là “chủ tương lai của nước nhà”, “người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh
niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”.
Vì thế Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc giáo dục đạo đức và chăm lo
cho việc rèn luyện đạo đức cho sinh viên. Người nói: “Thanh niên phải có
đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất
giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì có ích lợi
cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đạo đức mà không có tài ví
như ông Bụt không làm hại gì nhưng cũng không lợi gì cho loài người”.
- Hồ Chí Minh cho rằng việc rèn luyện đạo đức còn tạo nên sức mạnh
nội sinh, giúp người ta vượt qua mọi thử thách hiểm nghèo, theo Người: “Có
đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt,
rụt rè, lùi bước... khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ được tinh thần
gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, “lo hoàn
thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công
179
thần, không quan liêu, không kiêu ngạo không hủ hoá”. Ai giữ được đạo đức
là con người cao thượng, bất kể làm việc to, hay việc nhỏ...
Đối với thanh niên, sinh viên trí thức, Hồ Chí Minh đã sớm xác định
những phẩm chất đạo đức tốt cần thiết để họ có phương hướng phấn đấu. Đó
là những phẩm chất; Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội yêu
lao động, yêu khoa học và kỷ luật.
Để có được những phẩm chất như vậy, theo tư tưởng Hồ Chí Minh
thanh niên, sinh viên phải rèn luyện cho mình những đức tính như trung
thành, tận tuỵ, thật thà và chính trực. Phải xác định rõ nhiệm vụ của mình,
“Không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã
làm gì cho nước nhà”.
Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn. Mình đã vì lợi
ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào? Trong học tập, rèn luyện, phải
kết hợp lý luận với thực hành, học tập với lao động, phải chống mọi biểu hiện
của chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng háo danh, hám lợi. “Chống tâm lý ham
sung sướng và tránh khó nhọc; Chống thói xem khinh lao động, nhất là lao
động chân tay; Chống lười biếng xa xỉ; Chống cách sinh hoạt ủy mị; Chống
kiêu ngạo, giả dối khoe khoang”. Phải trả lời được câu hỏi: Học để làm gì?
Học để phục vụ ai? Phải xác định rõ, thế nào là tốt, thế nào là xấu? Ai là bạn
ai là thù”. Người chỉ rõ: Đối với người, ai làm gì lợi ích cho nhân dân, cho Tổ
quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc ta
tức là kẻ thù. Đối với mình, những tư tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ
quốc, cho đồng bào là bạn. Những tư tưởng và hành động có hại cho Tổ quốc
và đồng bào là kẻ thù....Điều gì phải, thì phải cố làm cho kỳ được, dù là việc
nhỏ, Điều gì trái, thì hết sức tránh dù là một điều trái nhỏ”.
- Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đạo đức Hồ
Chí Minh là đạo đức cách mạng, đạo đức dấn thân, đạo đức trong hành động,
nêu cao chủ nghĩa tập thể, tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân, lo trước thiên hạ vui
sau thiên hạ...
180
Trong thời kỳ ngày nay, chúng ta đang tiến hành công cuộc đổi mới cần
rất nhiều động lực để hoàn thành, đạo đức chính là động lực quan trọng của
công cuộc phát triển đất nước. Việc học tập đạo đức Hồ Chí Minh ngày càng
bức thiết, nhiều sinh viên đã phát huy truyền thống ông cha, rèn luyện đạo
đức, để đóng góp vào sự nghiệp đổi mới đất nước. Bên cạnh đó, do ảnh
hưởng của nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế, do sự bùng phát của lối
sống thực dụng chạy theo danh lợi, bất chấp đạo lý... đã dẫn đến những tiêu
cực trong đời sống xã hội ngày càng phổ biến. Đó là “Tình trạng suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ công chức diễn ra
nghiêm trọng”, đã tác động không nhỏ đến đời sống đạo đức công dân, ảnh
hưởng lớn đến tâm tư tình cảm ý chí phấn đấu của sinh viên, thanh niên tri
thức. Hậu quả là đã có một bộ phận sinh viên phai nhạt niềm tin, lý tưởng mất
phương hướng phấn đấu... Đây là những biểu hiện không thể coi thường.
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà đạo đức học lỗi lạc mà còn là một
tấm gương đạo đức vô song. Chính điều này đã đem lại cho tư tưởng và tấm
gương đạo đức của Người có một sức sống mãnh liệt và sự cổ vũ lớn lao
không chỉ với nhân dân Việt Nam mà còn cả với nhân dân thế giới trong cuộc
đấu tranh vì dân chủ và tiến bộ xã hội. Để trở thành người có ích cho xã hội,
người chủ tương lai của nước nhà. Thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và sinh
viên, thanh niên trí thức nói riêng, cần phải học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh. Một số nội dung cơ bản học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh:
Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng,
nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.
181
Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng
nhân dân và hết lòng, hết sức, phục vụ nhân dân, luôn nhân ái vị tha, khoan
dung và nhân hậu với con người.
Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn quyết tâm
vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống.
Câu 79: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con
người và chiến lược “trồng người”?
Gợi ý trả lời:
Theo tư tương Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết
định thành công của sự nghiệp cách mạng. Nhân dân là người sáng tạo ra mọi
giá trị vật chất và tinh thần, “vô luận điều gì đều do người làm ra và từ nhỏ
đến to, từ gần đến xa đều thế cả! Hồ Chí Minh nhấn mạnh “trong bầu trời
không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng
đoàn kết của nhân dân”, Người nhấn mạnh “việc dễ mấy không có nhân dân
cũng chịu, việc khó mấy có dân liệu cũng xong”. Người phân tích phẩm chất
tốt đẹp của dân từ lòng trung thành và tin tưởng vào cách mạng, vào Đảng
không sợ gian khổ, tù đầy hy sinh đến việc dân nhường cơm, xẻ áo, chở che
đùm bọc, bảo vệ nuôi nấng bộ đội và cán bộ cách mạng Hồ Chí Minh tổng kết
ngắn gọn: Dân ta tốt lắm.
Dân ta là tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết “giải quyết nhiều vấn đề
một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn
thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Đặc biệt họ có lòng sốt sắng, hăng hái để thực
hiện con đường cách mạng, Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc rằng với tinh
thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta, với lòng yêu nước và chí
kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng ta có thể thắng
lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi. “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân
dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”, chính vì vậy nhân
dân là nhân tố quyết định thành công của cách mạng.
182
Theo Hồ Chí Minh con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách
mạng, phải coi trọng, chăm sóc phát huy nhân tố con người.
Vì sống gần dân, với dân, giữa lòng dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân
ý, Hồ Chí Minh thấy rõ yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con người,
giải phóng lao động xã hội. Người xác định con người vừa là mục tiêu vừa là
động lực của cách mạng.
a. Con người là mục giải phóng của sự nghiệp cách mạng. Mục tiêu
cách mạng của Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng con người, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong điều
kiện cụ thể của từng giai đoạn cách mạng Người xác định mục tiêu của con
người: khi đất nước còn nô lệ, lầm than thì mục tiêu trước hết là giải phóng
dân tộc, giành độc lập dân tộc.
Sau khi chính quyền đã về tay nhân dân thì mục tiêu ăn, ở, mặc, đi lại
học hành chữa bệnh lại được ưu tiên hơn, bởi vì theo tư tưởng Hồ Chí Minh
“nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì”. Vì vậy chúng ta phải thực hiện ngay, làm cho dân có
ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành,
trong Di chúc Người viết: “đầu tiên là công việc đối với con người.
- Hồ Chí Minh có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại và năng lực
sáng tạo của quần chúng.
- Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh nhận rõ “muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”, “có
dân thì có tất cả”.
- Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhận thức từ mối quan hệ
giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nếu không có
nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng, nếu không có Chính phủ thì nhân
dân không có ai dẫn đường.
183
- Hồ Chí Minh tin ở dân còn xuất phát từ niềm tin vào tình người. Đã là
người cộng sản thì phải tin nhân dân và niềm tin quần chúng sẽ tạo nên sức
mạnh cho người cộng sản. Người nói dân tộc ta là một dân tộc anh hùng.
- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tin vào dân thì phải chống các bệnh xa
nhân dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân, không tin cậy nhân dân, không hiểu
biết nhân dân, không yêu thương nhân dân. Không yêu thương và tin tưởng
nhân dân là nguyên nhân của căn bệnh nguy hiểm: bệnh quan liêu, mệnh lệnh
bệnh này sẽ dẫn đến kết quả là “hỏng việc”.
- Con người là động lực của cách mạng.
Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả
nước, toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân.
Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là những
con người được thức tỉnh, giác ngộ, giáo dục, định hướng và tổ chức. Họ phải
có trí tuệ và bản lĩnh, văn hoá, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền
thống lịch sử và văn hoá hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam.
Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ
chức, có lãnh đạo.Vì vậy, vai trò của Đảng cách mạng lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin làm nền tảng tư tưởng là vô cùng quan trọng. Qua phong trào cách
mạng của quần chúng. Đảng sẽ nhân sức mạnh của con người lên gấp bội.
Trong khi nhận thức sâu sắc, đầy đủ vai trò động lực của con người thì
phải thấy mối quan hệ biện chứng giữa con người - mục tiêu và con người -
động lực. Càng chăm lo cho con người - mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ phát
huy con người là động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại tăng cường được sức
mạnh của con người là động lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách
mạng.
Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người
và tổ chức. Đó là chủ nghĩa cá nhân. Thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm
184
thứ bệnh thói quen, truyền thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thù, rụt
rè, không dám nói, không dám làm, không dám đề ra ý kiến, tóm lại không
dám đổi mới và sáng tạo.
b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”
“Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách vừa lâu dài của
cách mạng.
Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
cách mạng Hồ Chí Minh rất quan tâm tới sự nghiệp giáo dục, đào tạo rèn
luyện con người. Người nói đến “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ
nghĩa xã hội là những quan điểm mang tầm vóc chiến lược cơ bản lâu dài,
nhưng cũng rất cấp bách, Người khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” và muốn có con
người xã hội chủ nghĩa thì phải có chiến lược trồng người “vì lợi ích mười
năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Cho nên con người
phải được đặt ở vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa nằm trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong
chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp.
Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo
ra. Nhưng ở đây trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội thì “trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa”. Điều này cần được hiểu là ngay từ đầu
phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu
biểu cho con người mới xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Công
việc này là một quá trình lâu dài không ngừng hoàn thiện, nâng cao và thuộc
về trách nhiệm của Đảng Nhà nước, gia đình, cá nhân mỗi người.
Mỗi bước xây dựng những con người như vậy là một nấc thang xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “xây dựng chủ xã
hội” và “con người xã hội chủ nghĩa”. Con người xã hội chủ nghĩa theo tư
tưởng Hồ Chí Minh có hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là, kế thừa
những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống (Việt Nam và phương
185
Đông). Hai là, hình thành những phẩm chất mới như có tư tưởng xã hội chủ
nghĩa, có đạo đức xã hội chủ nghĩa, có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ (bản
thân, gia đình, xã hội, thiên nhiên) có tác phong xã hội chủ nghĩa, có lòng
nhân ái vị tha độ lượng.
- Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành
của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Để thực hiện chiến lược “trồng người” cần có nhiều biện pháp, nhưng
giáo dục - đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì giáo dục tốt sẽ tạo
ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại giáo dục
tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thanh niên.
- Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện cả đức, trí, thể, mỹ,
phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa
lên hàng đầu.
“Trồng người” là công việc trăm năm không thể nóng vội “một sớm
một chiều” mà phải bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người, trong suốt thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Vì vậy, không được coi nhẹ, sao nhãng sự
nghiệp giáo dục, theo tinh thần của V.I.Lênin: “Học, học nữa, học mãi” và
của Khổng Tử “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Hồ Chí Minh cho
rằng “Việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học”.
186