302
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG ________ ________ THẠC SĨ ĐỖ QUANG ÂN 79 CÂU HỎI VÀ GỢI Ý TRẢ LỜI VỀ MÔN HỌC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG________________

THẠC SĨ ĐỖ QUANG ÂN

79 CÂU HỎI VÀ GỢI Ý TRẢ LỜI

VỀ MÔN HỌC

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Hà Nội, ngày 19 tháng 5 năm 2010

Page 2: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

LỜI NÓI ĐẦU

Chủ tịch Hồ Chí Minh là “vị anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn

hoá kiệt xuất của Việt Nam”, cuộc đời, sự nghiệp và di sản của Chủ tịch Hồ

Chí Minh không chỉ là của dân tộc Việt Nam, mà còn thuộc về nhân dân tiến

bộ trên toàn thế giới.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về

những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và

phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế

thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa

văn hoá nhân loại... Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của

nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.

Vì vậy Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định

tổ chức việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh một cách có hệ thống, thường

xuyên, sâu sắc trong cán bộ, đảng viên, sinh viên các trường Đại học và Cao

đẳng. Để góp phần vào việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dịp kỉ niệm

lần thứ 120 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng tôi biên soạn cuốn 79 câu

hỏi và gợi ý trả lời về môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm đáp ứng nhu cầu

học tập của sinh viên các Trường Đại học và Cao đẳng đang học tập nghiên

cứu môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Nội dung cuốn sách được trình bày một cách có hệ thống dưới dạng câu

hỏi và gợi ý trả lời những vấn đề cơ bản quan trọng trong quá trình hình

thành, phát triển thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả đã sắp xếp hệ

thống các câu hỏi theo chương trình môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh và phần

gợi ý trả lời, nêu lên những vấn đề cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh phù

hợp với đối tượng đào tạo.

Tác giả hi vọng cuốn sách này sẽ giúp ích cho sinh viên, góp phần nâng

cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh trong

các Trường Đại học và Cao đẳng. Trong quá trình biên soạn, Tác giả đã cố

gắng vận dụng những kết quả quá trình giảng dạy và nghiên cứu, song không

tránh khỏi thiếu sót, mong nhận được ý kiến đóng góp để lần tái bản được

hoàn thiện hơn.

Tác giả

2

Page 3: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

MỤC LỤC

Câu 1: Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh?...............................................8

Câu 2: Trình bày hệ thống quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về cách

mạng Việt Nam?..............................................................................10

Câu 3: Trình bày nội dung cơ bản, cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh?.....11

Câu 4: Hãy nêu đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu môn học tư tưởng

Hồ Chí Minh?..................................................................................12

Câu 5: Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần nắm vững

những nguyên tắc phương pháp luận gì?.....................................13

Câu 6: Học tập nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải vận dụng

tuân theo những phương pháp cụ thể gì?.....................................16

Câu 7: Ý nghĩa của việc học tập nghiên cứu môn học tư tưởng Hồ Chí

Minh đối với sinh viên?..................................................................17

Câu 8: Trình bày điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX

đầu thế kỉ XX đã ảnh hưởng, tác động đến sự hình thành tư

tưởng Hồ Chí Minh?.......................................................................18

Câu 9: Thời đại Nguyễn Ái Quốc sống và hoạt động đã ảnh hưởng tác

động đến sự hình thành tư tưởng của Người như thế nào?........21

Câu 10: Hãy nêu những tiền đề tư tưởng lý luận là cơ sở khách quan

có ảnh hưởng tác động đến hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh?23

Câu 11: Hãy nêu nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của

Nguyễn Ái Quốc là cơ sở quan trọng đề hình thành tư tưởng Hồ

Chí Minh?........................................................................................27

Câu 12: Trình bày nhận thức, hoạt động của Nguyễn Sinh Cung -

Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) từ thời kỳ trước năm 1911 đã

hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước của

Người?..............................................................................................28

3

Page 4: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 13: Những hoạt động chủ yếu của Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí

Minh) từ 1911 đến 1920, đã tìm thấy con đường cứu nước, giải

phóng dân tộc?................................................................................30

Câu 14: Trình bày những hoạt động chủ yếu của Nguyễn Ái Quốc từ

năm 1921 đến 1930 đã tác động đến sự hình thành cơ bản tư

tưởng của Người về cách mạng Việt Nam?..................................32

Câu 15: Những hoạt động chủ yếu của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1930

đến 1945, thể hiện sự vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lập

trường cách mạng?.........................................................................35

Câu 17: Trình bày những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con

đường giải phóng và phát triển dân tộc?......................................39

Câu 18: Trình bày những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát

triển thế giới?...................................................................................42

Câu 19: Tổ chức UNESCO đánh giá về Hồ Chí Minh như thế nào?. . .45

Câu 20: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thực chất của vấn đề dân tộc

thuộc địa là gì?.................................................................................47

Câu 21: Trình bày sự lựa chọn con đường phát triển của dân tộc sau

khi cách mạng giải phóng dân tộc thành công theo tư tưởng Hồ

Chí Minh?........................................................................................49

Câu 22: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung cốt lõi của vấn đề dân

tộc thuộc địa là gì?..........................................................................50

Câu 23: Quan niệm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân

tộc và vấn đề giai cấp?....................................................................53

Câu 24: Trình bày sự hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con

đường cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam?..................57

Câu 25: Hãy nêu tính chất và nhiệm vụ của cách mạng giải phóng dân

tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh?....................................................58

Câu 26: Trình bày mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc theo tư

tưởng Hồ Chí Minh?.......................................................................61

4

Page 5: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 27: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc

muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản?.......62

Câu 28: theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Cách mạng giải phóng dân tộc

trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo?.................65

Câu 29: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Lực lượng của cách mạng giải

phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc?...........................................68

Câu 30: Trình bày luận điểm của Hồ Chí Minh: “Cách mạng giải

phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả

năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc?.....70

Câu 31: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Cách mạng giải phóng dân tộc

phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực?.........72

Câu 32: Quan niệm của Hồ Chí Minh về tính tất yếu của chủ nghĩa xã

hội ở Việt Nam?...............................................................................75

Câu 33: Hãy nêu quan niệm của Hồ Chí Minh về những đặc trưng bản

chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?.........................................77

Câu 34: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu động lực

của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?.................................................80

Câu 35: Quan niệm của Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam?...............................................................83

Câu 36: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ qúa

độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là gì?....................................84

Câu 37: Hãy nêu quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng

chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ?.......................85

Câu 38: Trình bày theo tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm, bước

đi, biện pháp tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?.....................................87

Câu 39: Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về sự cần thiết

phải có Đảng Cộng sản trong đấu tranh cách mạng ở Việt Nam?89

5

Page 6: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 40: Hãy làm sáng tỏ luận điểm của Hồ Chí Minh “Chủ nghĩa Mác

- Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu

nước đã dẫn tới thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu

năm 1930”?......................................................................................91

Câu 41: Giải thích luận điểm của Hồ Chí Minh: Đảng Cộng sản Việt

Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân

tộc Việt Nam, nhưng Đảng vẫn mang bản chất giai cấp công

nhân?................................................................................................94

Câu 42: Trình bày quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền?96

Câu 43: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam phải

lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”?..........................................98

Câu 44: Trình bày những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của giai

cấp vô sản theo tư tưởng Hồ Chí Minh?.....................................100

Câu 45: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là

nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng Việt Nam đến

thắng lợi. Hãy làm sáng tỏ luận điểm trên?................................103

Câu 46: Trình bày những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về

đại đoàn kết dân tộc?....................................................................105

Câu 47: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có

ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng?.....108

Câu 48: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu,

nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc?...............................110

Câu 49: Trình bày nội dung của đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ

Chí Minh?......................................................................................111

Câu 50: Trình bày hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc theo tư

tưởng Hồ Chí Minh?.....................................................................114

Câu 51: Nêu những nguyên tắc cơ bản xây dựng và hoạt động của Mặt

trận dân tộc thống nhất theo tư tưởng Hồ Chí Minh?..............116

6

Page 7: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 52: Hiểu như thế nào về câu nói của Hồ Chí Minh “Đoàn kết,

đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành

công”?.............................................................................................118

Câu 53: Vì sao Hồ Chí Minh nêu lên sự cần thiết xây dựng khối đại

đoàn kết quốc tế?...........................................................................120

Câu 54: Trình bày nội dung các lực lượng cần đoàn kết quốc tế trong

tư tưởng Hồ Chí Minh?................................................................123

Câu 55: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc

xây dựng đoàn kết quốc tế?..........................................................126

Câu 56: Trình bày nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp

sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại?...................................129

Câu 57: Hãy nêu quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà

nước của dân, do dân, vì dân?.....................................................133

Câu 58: Trình bày quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ và thực

hành dân chủ?...............................................................................137

Câu 59: Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước thể hiện

quyền làm chủ của nhân dân?.....................................................140

Câu 60: Trình bày sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với

tính nhân dân và tính dân tộc của. Nhà nước theo tư tưởng Hồ

Chí Minh?......................................................................................143

Câu 61: Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước có hiệu

lực pháp lý mạnh mẽ?...................................................................144

Câu 62: Hãy nêu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong

sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả?..................................146

Câu 63: Trình bày khái niệm văn hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh?. 149

Câu 64: Những quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí vai trò của nền

văn hoá trong đời sống xã hội?....................................................149

Câu 65: Những quan niệm của Hồ Chí Minh về tính chất của nền văn

hoá..................................................................................................151

7

Page 8: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 66: Trình bày chức năng của nền văn hoá mới theo tư tưởng Hồ

Chí Minh?......................................................................................153

Câu 67: Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hoá giáo dục?..............155

Câu 68: Hãy làm sáng tỏ quan điểm của Hồ Chí Minh về “Văn hoá -

văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ

khí”?...............................................................................................156

Câu 69: Trình bày quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về văn hoá đời

sống?...............................................................................................158

Câu 70: Hãy nêu nguồn gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh?............159

Câu 71: Trình bày nội dung cơ bản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh?160

Câu 72: Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức theo tư tưởng

Hồ Chí Minh?................................................................................162

Câu 73: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về phẩm chất đạo đức

trung với nước, hiếu với dân của con người Việt Nam trong thời

đại mới?..........................................................................................165

Câu 74: Hãy làm sáng tỏ quan điểm của Hồ Chí Minh về phẩm chất

đạo đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư của con người

Việt Nam trong thời đại mới?......................................................166

Câu 75: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về phẩm chất đạo đức:

Thương yêu con người, sống có tình nghĩa của con người Việt

Nam trong thời đại mới?..............................................................169

Câu 76: Hãy nêu quan điểm của Hồ Chí Minh về phẩm chất đạo đức

tinh thần quốc tế trong sáng của con người Việt Nam trong thời

đại mới?..........................................................................................170

Câu 77: Nêu những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới theo tư tưởng

Hồ Chí Minh?................................................................................172

Câu 78: Vì sao sinh viên phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh?................................................................................176

8

Page 9: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 79: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và

chiến lược “trồng người”?...............................................................179

9

Page 10: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 1: Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh?

Gợi ý trả lời:

Tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện quan hệ

của con người với thế giới xung quanh. Bất cứ tư tưởng nào cũng đều do chế

độ xã hội, điều kiện sinh hoạt vật chất của con người quyết định. Trong xã hội

có giai cấp, tư tưởng bao giờ cũng mang tính giai cấp.

Khái niệm “tư tưởng” liên quan trực tiếp đến khái niệm “nhà tư tưởng”.

Theo Lênin, “Một người xứng đáng là nhà tư tưởng, khi người đó biết giải

quyết trước người khác tất cả những vấn đề chính trị - sách lược, các vấn đề

về tổ chức, về những yếu tố vật chất của phong trào không phải một cách tự

phát”.

Trong thuật ngữ “tư tưởng Hồ Chí Minh”, khái niệm tư tưởng có ý

nghĩa ở tầm khái quát triết học. Khái niệm tư tưởng ở đây không phải dùng

với nghĩa tinh thần - tư tưởng, ý thức tư tưởng của một cá nhân, một cộng

đồng, mà với nghĩa là một hệ thống những quan điểm, quan niệm, luận điểm

được xây dựng trên một nền tảng triết học (thế giới quan và phương pháp

luận) nhất quán, đại biểu cho ý chí nguyện vọng của một giai cấp, một dân

tộc, được hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt

động thực tiễn, cải tạo hiện thực.

Tư tưởng Hồ Chí Minh gắn bó với toàn bộ tiến trình cách mạng nước ta

dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đảng ta nhận thức về tư tưởng Hồ Chí Minh là quá trình đi từ thấp đến

cao, từ những vấn đề cụ thể đến hệ thống hoàn chỉnh.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (tháng 2 - 1951) của Đảng, Đảng

ta chính thức khẳng định: Đường lối chính trị, nền nếp làm việc và đạo đức

cách mạng của Đảng ta hiện nay là đường lối, tác phong và đạo đức Hồ Chủ

tịch... Toàn Đảng hãy ra sức học tập đường lối chính trị, tác phong và đạo đức

cách mạng của Hồ Chủ tịch,. Sự học tập ấy là điều kiện tiên quyết làm cho

Đảng mạnh và làm cho cách mạng mau đi đến thắng lợi hoàn toàn.

10

Page 11: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Nhất là từ đổi mới tư duy do Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI (tháng

12 - 1986) của Đảng đến nay, Đảng ta đã liên tục khẳng định vai trò, ý nghĩa,

tác dụng của đường lối chính trị, tư tưởng đạo đức, phương pháp phong

cách... Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6-1991) của Đảng, đánh

dấu một cột mốc quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về tư tưởng Hồ Chí

Minh. Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội”, Đảng ta ghi rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng

Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ n cho hành động”.Văn kiện của

Đại hội đã nêu “tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả của sự vận dụng sáng

tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta và trong thực tế,

tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thanh một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và

của cả dân tộc”.

- Kể từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, công tác

nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh được tiến hành nghiêm túc và đạt được

những kết quả quan trọng. Những kết quả nghiên cứu đó đã cung cấp luận cứ

khoa học có sức thuyết phục để Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (tháng 4

-2001) của Đảng xác định khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh: “Tư tưởng Hồ

Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ

bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng

tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát

triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá

nhân loại... Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân

dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.

Định nghĩa trên đã làm rõ được bản chất cách mạng, khoa học, nguồn

gốc tư tưởng lý luận, những nội dung cơ bản và ý nghĩa giá trị cuả tư tưởng

Hồ Chí Minh. Dựa trên định hướng cơ bản cuả văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ IX (tháng 4 -2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam, các nhà khoa

học đã đưa ra một định nghĩa: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan

11

Page 12: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam

từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là

kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào

điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ

thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con

người”.

Dù định nghĩa theo cách nào, tư tưởng Hồ Chí Minh đều được nhìn

nhận với tư cách là một hệ thống lý luận, có cấu trúc, logíc, chặt chẽ và có hạt

nhân cốt lõi, đó là tư tưởng về độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội,

độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhằm giải phóng dân tộc, giải

phóng giai cấp, giải phóng con người.

Câu 2: Trình bày hệ thống quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về cách

mạng Việt Nam?

Gợi ý trả lời:

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm bao gồm nhiều lĩnh

vực, là đối tượng nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học khác nhau.

Đại hội IX (tháng 4 - 2001) của Đảng đã nêu hệ thống quan điểm tư

tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam: “Đó là tư tưởng về giải phóng

dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phòng con người; về độc lập dân tộc gắn liền

với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức

mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của

nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng

toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn

hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về

đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi

dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững

mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung

thành của nhân dân...

12

Page 13: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta

giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.

Câu 3: Trình bày nội dung cơ bản, cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh?

Gợi ý trả lời:

- Suốt đời mình Hồ Chí Minh đã kiên trì và nhất quán đi theo con

đường cách mạng đã lựa chọn. Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách

mạng Việt Nam đã vững bước tiến lên giành được những thắng lợi lịch sử có

tầm thời đại.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt

Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (tháng 4-2001) của Đảng một

lần nữa đã nhấn mạnh “Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập

dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng

Hồ Chí Minh”1.

Thế giới hiện nay đã thay đổi rất nhiều, song cuộc đấu tranh cho độc

lập dân tộc và chủ nghía xã hội vẫn đang diễn ra phức tạp, đổi mới, mở cửa,

hội nhập... là một xu thế tất yếu, trong đó các đối tác và hợp tác, vừa cạnh

tranh với nhau một cách gay gắt. Trong điều kiện đó làm sao để mở cửa, hợp

tác, liên doanh... phát triển kinh tế mà vẫn giữ vững được độc lập, chủ quyền

dân tộc, không đi chệch mục tiêu, bản chất của chủ nghĩa xã hội. Muốn thế,

chúng ta phải tạo ra được những năng lực nội sinh làm nền tảng vững bền cho

sự phát triển của đất nước. Một trong những năng lực nội sinh đó, về mặt định

hướng giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”,

“Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân” phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội. Vì vậy,

nội dung cơ bản cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền

với chủ nghĩa xã hội.

1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hộ đại biểu toàn quốc IX Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.83 - 84..

13

Page 14: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 4: Hãy nêu đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu môn học tư tưởng

Hồ Chí Minh?

Gợi ý trả lời:

Để xác định đối tượng nghiên cứu của môn học với tư cách là một hệ

thống tri thức mang tính quy luật về đối tượng, cần căn cứ vào vai trò, chức

năng của môn học các chỉ dẫn trực tiếp của Hồ Chí Minh khi Người xác định

về nội dung các bài viết, bài nói, các tác phẩm, các quan điểm có tính định

hướng của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đối tượng nghiên cứu của môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm hệ

thống quan điểm, quan niệm, lý luận về cách mạng Việt Nam trong dòng chảy

của thời đại mới mà cốt lõi là tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ

nghĩa xã hội. Các quan điểm cơ bản của hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh

không chỉ được phản ánh trong các bài nói, bài viết mà còn được thể hiện qua

quá trình chỉ đạo thực tiễn cách mạng phong phú của Người, được Đảng Cộng

sản Việt Nam vận dụng phát triển sáng tạo qua các giai đoạn cách mạng.

Như vậy đối tượng của môn học tư tưởng Hồ Chí Minh là: Hệ thống

các quan điểm lý luận của Hồ Chí Minh; sự vận động tư tưởng Hồ Chí Minh

trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu, môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh có

nhiệm vụ đi sâu nghiên cứu làm rõ các nội dung sau:

- Cơ sở (khách quan và chủ quan) hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh

nhằm khẳng định sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh là một tất yếu khách

quan nhằm giải đáp các vấn đề lịch sử dân tộc đặt ra.

- Các giai đoạn hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh

- Nội dung, bản chất cách mạng khoa học đặc điểm của các quan điểm

trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.

- Vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của tư tưởng Hồ

Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam.

14

Page 15: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

- Quá trình nhận thức vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh qua

các giai đoạn cách mạng của Đảng và Nhà nước ta.

- Các giá trị tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh đối với kho tàng tư

tưởng, lý luận cách mạng thế giới của thời đại.

Câu 5: Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần nắm vững

những nguyên tắc phương pháp luận gì?

Gợi ý trả lời:

- Muốn nghiên cứu, học tập có kết quả, vận dụng sáng tạo và phát triển

tư tưởng Hồ Chí Minh phải nắm vững phương pháp luận khoa học chủ nghĩa

Mác - Lênin và bản thân các quan điểm có giá trị phương pháp luận của Hồ

Chí Minh. Trong đó các nguyên lý triết học Mác - Lênin với tư cách là

phương pháp luận chung của các ngành khoa học cần phải được sử dụng như

một công cụ tư duy quan trọng.

Một số vấn đề cơ bản về nguyên tắc phương pháp luận trong nghiên

cứu tư tưởng Hồ Chí Minh.

1. Bảo đảm sự thống nhất nguyên tắc tính Đảng và tính khoa học

- Tính đảng: khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải đứng trên lập

trường quan điểm, phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm

đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tính khoa học: Khách quan khi phân tích, lý giải và đánh giá tư tưởng

Hồ Chí Minh, tránh việc áp đặt, cường điệu hoá hoặc hiện đại hoá tư tưởng

của Người.

- Tính đảng và tính khoa học thống nhất với nhau trong sự phản ánh

trung thực, khách quan tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở lập trường, phương

pháp luận và định hướng chính trị.

2. Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc lý luận gắn liền với thực tiễn

Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng thực tiễn là nguồn gốc là động lực của

nhận thức, là cơ sở và là tiêu chuẩn của chân lý. Trong cuộc đời hoạt động

15

Page 16: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn bám sát thực tiễn cách mạng dân tộc

và thế giới, coi trọng tổng kết thực tiễn, để xây dựng và phát triển tư tưởng

của mình. Quan điểm thực tiễn là biện pháp nâng cao lý luận, nâng cao năng

lực hoạt động. Vì vậy khi nghiên cứu học tập tư tưởng Hồ Chí Minh phải

quán triệt quan điểm thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới để

thấy giá trị thực tiễn hợp quy luật khách quan của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Cùng với quan điểm thực tiễn thì Hồ Chí Minh cũng đặc biệt coi trọng

việc kết hợp lý luận với thực tiễn, lời nói đi đôi với việc làm. Hồ Chí Minh

khẳng định: Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù

quáng, dễ mắc bệnh chủ quan. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý

luận suông.

Vì vậy nghiên cứu học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải quán triệt

quan điểm lý luận gắn liền với thực tiễn học đi đôi với hành, phải biết vận

dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống, thực tiễn, phục vụ cho sự nghiệp

cách mạng của đất nước mình.

3. Quan điểm lịch sử - cụ thể

Trong nghiên cứu khoa học, theo V.I.Lênin, chúng ta không được quên

mối liên hệ lịch sử căn bản, nghĩa là phải xem xét một hiện tượng nhất định

đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai

đoạn phát triển chủ yếu nào và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để

xem xét hiện nay nó đã trở thành như thế nào?

Vì vậy cùng với chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta cần vận dụng

chủ nghĩa duy vật lịch sử vào việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh.

Nắm vững quan điểm này giúp chúng ta nhận thức được bản chất tư tưởng Hồ

Chí Minh.

4. Quan điểm toàn diện và hệ thống

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc

về cách mạng Việt Nam. Một yêu cầu về khoa học khi nghiên cứu tư tưởng

Hồ Chí Minh trên bình diện tổng thể hay từng bộ phận là phải luôn luôn quán

16

Page 17: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

triệt mối liên hệ qua lại của các yếu tố, các nội dung khác nhau trong hệ thống

tư tưởng đó và phải lấy hạt nhân cốt lõi là tư tưởng độc lập tự do, dân chủ và

chủ nghĩa xã hội. V.L.Lênin đã từng viết: Muốn thực sự hiểu được sự vật cần

phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả mối liên hệ và “quan

hệ gián tiếp” của sự vật đó. Trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, cần

nắm vững và đầy đủ hệ thống các quan điểm của Người. Nếu tách rời một yếu

tố nào đó khỏi hệ thống sẽ hiểu sai tư tưởng Hồ Chí Minh. Chẳng hạn tách rời

độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là xa rời tư tưởng Hồ Chí Minh.

5. Quan điểm kế thừa và phát triển

a. Hồ Chí Minh là một mẫu mực về sự vận dụng và phát triển sáng

tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Người

đã bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều lĩnh vực quan trọng

và hình thành nên một hệ thống quan điểm lý luận mới hết sức sáng tạo.

Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi không chỉ biết kế thừa,

vận dụng mà còn phải biết phát triển sáng tạo tư tưởng của Người trong điều

kiện lịch sử mới, trong bối cảnh cụ thể của đất nước và quốc tế.

b. Kết hợp nghiên cứu các tác phẩm với thực tiễn chỉ đạo cách

mạng của Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh không chỉ là nhà tư tưởng, lý luận mà còn là nhà cách

mạng thực tiễn. Cho nên nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ căn cứ

vào các tác phẩm, bài viết, bài nói mà cần coi trọng hoạt động thực tiễn của

Người, thực tiễn cách mạng dưới sự tổ chức và lãnh đạo của Đảng do Người

đứng đầu, để thấy được sự sáng tạo cách mạng của Hồ Chí Minh trước hết là

sự sáng tạo về tư duy lý luận, về chiến lược, về đường lối cách mạng. Điều đó

giữ vai trò quyết định hàng đầu dẫn đến thắng lợi cách mạng. Tư tưởng lý

luận cách mạng Hồ Chí Minh đã góp phần làm phong phú thêm và phát triển

lý luận cách mạng của thời đại, trước hết là về cách mạng thuộc địa. Tư tưởng

Hồ Chí Minh đã toả sáng vượt ra ngoài biên giới quốc gia Việt Nam đến các

dân tộc và nhân dân lao động thế giới.

17

Page 18: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 6: Học tập nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải vận

dụng tuân theo những phương pháp cụ thể gì?

Gợi ý trả lời:

Với ý nghĩa chung nhất, phương pháp được hiểu là cách thức đề cập tới

hiện thực, cách thức nghiên cứu các hiện tượng của tự nhiên và của xã hội.

Phương pháp là hệ thống các nguyên tắc điều chỉnh nhận thức và hoạt động

cải tạo thực tiễn xuất phát từ các quy luật vận động của khách thể được nhận

thức.

Giữa phương pháp nghiên cứu và nội dung nghiên cứu có mối liên hệ

mật thiết và chi phối lẫn nhau, phương pháp phải trên cơ sở vận động của bản

thân nội dung, nội dung nào phương pháp ấy. Vì vậy, ngoài các nguyên tắc

phương pháp luận chung với một nội dung cụ thể cần phải vận dụng một

phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp. Trong đó việc vận dụng phương

pháp lịch sử (nghiên cứu sự vật và hiện tượng theo quá trình phát sinh, tồn tại

phát triển) và phương pháp logíc (nghiên cứu một cách tổng quát nhằm tìm ra

được cái bản chất vốn có của sự vật, hiện tượng và khái quát thành lý luận) là

hết sức cần thiết trong nghiên cứu giảng dạy học tập tư tưởng Hồ Chí Minh.

Vận dụng phương pháp liên ngành trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí

Minh.

Là một nhà khoa học, nhà tư tưởng, Hồ Chí Minh đã thể hiện tư tưởng

của mình như một hệ thống bao quát nhiều lĩnh vực, tư tưởng triết học, tư

tưởng kinh tế, tư tưởng chính trị tư tưởng quân sự... trong mỗi lĩnh vực lại có

thể tìm thấy hệ thống nhỏ.Trước một đối tượng nghiên cứu đa dạng và phong

phú nhiều mặt như vậy, không một lĩnh vực nào có đủ năng lực bao quát hết

để đưa ra một bức tranh tổng thể về tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì thế, cần phải

áp dụng các phương pháp liên ngành khoa học xã hội - nhân văn, lý luận

chính trị để nghiên cứu hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như mỗi tác

phẩm lý luận riêng biệt của Người.

18

Page 19: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Trong nghiên cứu học tập tư tưởng Hồ Chí Minh; ngoài phương pháp

nêu trên, còn sử dụng các phương pháp cụ thể thường được áp dụng có hiệu

quả là: phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê trắc lượng, văn bản

học, phỏng vấn nhân chứng lịch sử...Mỗi phương pháp này khi vận dụng vào

nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh có những đặc điểm và đặt ra các yêu cầu

khác nhau. Việc vận dụng các phương pháp và kết hợp các phương pháp cụ

thể phải căn cứ vào nội dung nghiên cứu.

Câu 7: Ý nghĩa của việc học tập nghiên cứu môn học tư tưởng Hồ

Chí Minh đối với sinh viên?

Gợi ý trả lời:

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa

Mác - Lênin ở Việt Nam.

Nội dụng cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền

với chủ nghĩa xã hội.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ đổi

mới và sáng tạo.

Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng và nhân dân Việt Nam trên

con đường thực hiện mục tiêu, dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ công

bằng, văn minh.

Đối với sinh viên học tập tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt

quan trọng thông qua học tập nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho sinh

viên nâng cao nhận thức về vai trò vị trí của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với

đời sống cách mạng Việt Nam, làm cho tư tưởng của Người, ngày càng giữ

vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của thế hệ trẻ nước ta; để bồi dưỡng

củng cố, lập trường, quan điểm cách mạng trên nền tảng chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với

chủ nghĩa xã hội, tích cực chủ động đấu tranh phê phán, những quan điểm sai

trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ

19

Page 20: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

trương chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta, biết vận dụng tư

tưởng Hồ Chí Minh vào giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống.

Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh để bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách

mạng và rèn luyện bản lĩnh chính trị.

Tư tưởng Hồ Chí Minh giáo dục đạo đức, tư cách, phẩm chất cách

mạng, cho cán bộ, đảng viên và toàn dân biết sống hợp đạo lý, yêu cái tốt, cái

thiện. ghét cái xấu, cái ác; nâng cao lòng tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh

kính yêu, về dân tộc, về Đảng Cộng sản Việt Nam, tự nguyện “Sống, chiến

đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”.

Trên cơ sở kiến thức đã được học, sinh viên vận dụng vào cuộc sống, tu

dưỡng, rèn luyện, bản thân, hoàn thành tốt chức trách của mình, đóng góp

thiết thực và hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng, theo con đường mà Hồ Chí

Minh và Đảng ta đã lựa chọn. Đối cới sinh viên, giáo dục tư tưởng, văn hoá

đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh là giáo dục lý luận sống đạo làm người,

hoàn thiện nhân cách cá nhân, trang bị cho tuổi trẻ trí thức và phương pháp tư

duy biện chứng để trở thành những chiến sĩ đi tiên phong trong sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ một nước Việt Nam “đàng hoàng hơn to đẹp hơn” như mong

muốn khát vọng cuả Hồ Chí Minh.

Câu 8: Trình bày điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX

đầu thế kỉ XX đã ảnh hưởng, tác động đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí

Minh.

Gợi ý trả lời:

Việt Nam cũng như nhiều dân tộc khác ở châu Á, châu Phi từ giữa thế

kỉ XIX đã trở thành đối tượng xâm lược của chủ nghĩa thực dân đế quốc.

Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, sau khi cơ bản kết thúc

giai đoạn vũ trang xâm lược, thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa. Để

bóc lột được lợi nhuận thuộc địa tối đa, thực dân Pháp duy trì phương thức

sản xuất phong kiến, thiết lập một cách hạn chế phương thức sản xuất tư bản

20

Page 21: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

chủ nghĩa. Chúng thực hiện chính sách độc quyền kinh tế về các mặt: xuất

nhập khẩu, khai thác mỏ, lập ra hàng trăm thứ thuế vô lý và vô nhân đạo.

Chúng bóc lột nhân dân ta đến tận xương tuỷ, khiến cho dân ta càng nghèo

khổ, nước ta càng xơ xác tiêu điều. Chúng thực hành chính sách chuyên chế

về chính trị, làm cho dân ta không có một chút tự do dân chủ nào. Cùng với

độc quyền về kinh tế, chuyên chế về chính trị, về văn hoá thực dân Pháp thi

hành chính sách ngu dân, nhằm giam hãm dân tộc ta trong vòng nô lệ. Những

chính sách trên của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam thay đổi, từ

một xã hội phong kiến độc lập, Việt Nam trở thành một xã hội thuộc địa nửa

phong kiến.

- Ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân lên đất nước ta, với tinh thần yêu

nước nồng nàn, bất chấp chủ trương đầu hàng của triều đình phong kiến, nhân

dân cả nước đã vùng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Từ năm 1858 đến

cuối thế kỉ XIX, phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ bùng

lên, dâng cao và lan rộng ra cả nước, từ Trương Định, Nguyễn Trung Trực...

ở Nam Bộ, Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng...

ở miền Trung đến Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích... ở miền Bắc.

Các cuộc nổi dậy đều được thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước nhiệt thành và chí

căm thù giặc sục sôi, song trước sau đều lần lượt thất bại vì chưa có một

đường lối kháng chiến rõ ràng. Lãnh đạo họ là những sĩ phu văn thân mang ý

thức hệ phong kiến, còn nặng tư tưởng tôn quân chưa thật tin vào lực lượng

của nhân dân nên cũng chưa thật tin vào thắng lợi cuối cùng. Điều đó cho

thấy sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trước nhiệm vụ lịch sử.

- Bước sang đầu thế kỉ XX, phong trào yêu nước chống Pháp của nhân

dân ta chuyển sang xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất hiện của phong trào

như Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang phục hội...

Các sĩ phu Nho học có tư tưởng tiến bộ, thức thời, tiêu biểu như Phan Bội

Châu, Phan Chu Trinh đã có cố gắng tổ chức và vận động cuộc đấu tranh yêu

nước chống Pháp theo mục tiêu và phương pháp mới. Song chủ trương cầu

21

Page 22: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

ngoại viện dùng bạo lực để khôi phục độc lập của Phan Bội Châu đã thất bại

Chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ”, khai thông dân trí, nâng cao dân khí trên cơ

sở đó mà lần lần tính chuyện giải phóng... của Phan Chu Trinh cũng không

thành công.

Nhưng tất cả các phong trào yêu nước này đều thất bại (thất bại không

phải vì các phong trào này thiếu các anh hùng hào kiệt mà nguyên nhân chính

là thiếu một đường lối cách mạng phù hợp với thời đại mới).

Dù thất bại, nhưng các phong trào yêu nước trên đây đã nối tiếp nhau

duy trì ngọn lửa đấu tranh giải phóng trong lòng dân tộc.

Yêu cầu của lịch sử lúc này đòi hỏi, là phải tìm ra con đường cứu nước

đúng đắn.

Trước những đòi hỏi của lịch sử, ngày 5-6-1911 Nguyễn Tất Thành ra

đi tìm đường cứu nước. Người tiếp thu được chủ nghĩa Mác - Lênin và nhận

thức được muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào

khác là con đường cách mạng vô sản “đó là con đường độc lập dân tộc gắn

liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt

Nam và thế giới trong điều kiện lịch sử mới, không phải là ý muốn chủ quan

hay một sự áp đặt nào.

Đúng như C.Mác đã rất tâm đắc câu nói của Henvêxiuýt (1715- 1771)

đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật và thần học Pháp hồi thế kỷ XVIII, và

đã nhắc lại trong tác phẩm của mình. “Mỗi một thời đại xã hội đều cần có

những anh hùng và vĩ nhân của nó và nếu không có những con người như thế

thì, thời đại sẽ sáng tạo ra những con người như thế”.

22

Page 23: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 9: Thời đại Nguyễn Ái Quốc sống và hoạt động đã ảnh hưởng

tác động đến sự hình thành tư tưởng của Người như thế nào?

Gợi ý trả lời:

Trong khi con thuyền Việt Nam còn lênh đênh chưa rõ bờ bến phải đi

tới, việc cứu nước như trong đêm tối “không có đường ra” thì lịch sử thế giới

trong giai đoạn này cũng có nhiều chuyển biến quan trọng:

- Vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản đã từ giai đoạn

tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn tư bản độc quyền tức chủ nghĩa đế

quốc đã xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi toàn thế giới, phần

lớn các nước ở châu Á, châu Phi, khu vực Mĩ La tinh đều trở thành thuộc địa

hoặc phụ thuộc của chủ nghĩa đế quốc. Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù

chung của các dân tộc thuộc địa.

- Trên thế giới tồn tại những mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa giai

cấp vô sản với giai cấp tư sản, mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với chủ

nghĩa đế quốc và mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau.

- Đầu thế kỷ XX, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc càng trở nên gay

gắt, nhất là giữa các nước tư bản ra đời muộn với cả nước tư bản ra đời sớm

đã tranh cướp hầu hết thuộc địa.

Mâu thuẫn này đã dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914

- 1918) nhằm chia lại thị trường thế giới. Cuộc chiến tranh này đẩy chủ nghĩa

tư bản thế giới suy yếu, khủng hoảng trầm trọng thêm, tạo điều kiện cho

phong trào cách mạng của giai cấp công nhân phát triển.

- Ngày 7-11-1917, cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra thắng lợi

đã mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã

hội trên phạm vi toàn thế giới.

Thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917) đã

tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc vào đầu thế kỉ

XX. Xu hướng đấu tranh giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô

sản ngày càng phát triển mạnh mẽ ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.

23

Page 24: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

- Xuất phát từ lòng yêu nước và trên cơ sở rút kinh nghiệm của các thế

hệ cách mạng tiền bối, ngày 5-6-1911 Nguyễn Tất Thành đã đi ra nước ngoài

tìm đường cứu nước sau một hành trình dài ngày, đặt chân lên khoảng gần 30

nước. Người đã gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, chân lí lớn của thời đại.

Khoảng cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ nước Anh về nước Pháp,

đến sống và hoạt động tại Paris, thủ đô nước Pháp.

Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6

năm 1919 Nguyễn Ái Quốc nhân danh những người Việt Nam yêu nước gửi

tới Hội nghị hoà bình được triệu tập tại Vécxây bản Yêu sách của nhân dân

An Nam, đòi các quyền tự do, dân chủ tối thiểu cho Việt Nam. Những yêu

sách đó đã không được chấp nhận. Nguyễn Ái Quốc rút ra bài học: Muốn

được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản thân

mình.

Tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất những

luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin.

Người tìm thấy ở đó có con đường cứu nước theo lập trường giai cấp

vô sản.

Tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội lần thứ 18 của

Đảng Xã hội Pháp. Người biểu quyết tán thành đứng về Quốc tế thứ ba, tham

gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, và trở thành người cộng sản đầu tiên của

giai cấp công nhân, dân tộc Việt Nam. Sự kiện đó đánh dấu bước chuyển biến

về chất trong tư tưởng của Người từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin,

từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người

cộng sản. Đây là bước ngoặt quyết định trong quá trình hình thành tư tưởng

Hồ Chí Minh.

24

Page 25: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 10: Hãy nêu những tiền đề tư tưởng lý luận là cơ sở khách quan

có ảnh hưởng tác động đến hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh?

Gợi ý trả lời:

1. Giá trị truyền thống Việt Nam

Dân tộc Việt Nam trong hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ

nước đã tạo lập cho mình một nền văn hoá riêng, phong phú và bền vững với

những truyền thống tốt đẹp và cao quý, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất

khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước tinh thần nhân nghĩa, truyền thống

đoàn kết tương thân tương ái, lòng nhân nghĩa, ý thức cố kết cộng đồng là ý

chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn thử thách, là trí thông minh, tài sáng tạo,

quý trọng hiền tài, khiêm tốn tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại để làm giàu

văn hoá dân tộc... Trong những giá trị truyền thống đó, chủ nghĩa yêu nước

truyền thống là tư tưởng tình cảm cao quý thiêng liêng nhất là cội nguồn của

trí tuệ và lòng dũng cảm của Người Việt Nam, cũng là chuẩn mực đạo đức cơ

bản của dân tộc. Từ thực tiễn đó. Hồ Chí Minh đã đúc kết thành chân lý:

“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quí báu của

ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi,

nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy

hiểm, khó khăn nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”.

Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước đã thúc giục Nguyễn Tất

Thành quyết chí ra đi tìm đường cứu nước, tìm kiếm những gì hữu ích cho

cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước trở thành động lực chi

phối rất lớn đến suy nghĩ và hành động của Người. Người đã lấy tên là

Nguyễn Ái Quốc để khẳng định ý chí cứu nước và cổ vũ đồng bào.

Chủ nghĩa yêu nước là cơ sở tư tưởng dẫn Hồ Chí Minh đến với chủ

nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã khẳng định và nhấn mạnh: “Lúc đầu,

chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin

theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ Ba”

25

Page 26: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Chủ nghĩa yêu nước là cốt lõi là dòng chảy chính của tư tưởng, văn hoá

truyền thống Việt Nam, là động lực mạnh mẽ cho sự trường tồn và phát triển

của dân tộc, là tiền đề xuất phát hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh...

2. Tinh hoa văn hoá nhân loại

Văn hoá nhân loại, bao gồm cả văn hoá phương Đông và văn hoá

phương Tây. Từ nhỏ Hồ Chí Minh đã được tiếp thu văn hoá, phương Đông.

Lớn lên, Người bôn ba khắp thế giới, đặc biệt ở các nước phương Tây, với

khả năng tư duy độc lập tự chủ sáng tạo, ham học hỏi, nên ở Người đã kết hợp

các giá trị truyền thống của văn hoá phương Đông với các thành tựu hiện đại

của văn minh phương Tây, có vốn hiểu biết văn hoá Đông - Tây kim cổ uyên

bác - đó chính là nét đặc sắc trong quá trình hình thành nhân cách và văn hoá

Hồ Chí Minh.

Đối với văn hoá phương Đông, cùng với những hiểu biết uyên bác về

Hán học, Hồ Chí Minh biết chắt lọc lấy những gì tinh tuý nhất trong các học

thuyết triết học, hoặc trong tư tưởng của Lão Tử, Mạc Tử, Quản Tử.

Trong các tác phẩm của mình, Hồ Chí Minh sử dụng khá nhiều mệnh

đề của Nho giáo và đưa vào đó những nội dung và ý nghĩ mới. Trong Nho

giáo, Hồ Chí Minh phê phán những yếu tố tiêu cực và tiếp nhận có chọn lọc

những yếu tố tích cực của Nho giáo. Đó là các triết lý hành động, tư tưởng

nhập thể, hành đạo, giúp đời, đó là ước vọng về một xã hội bình trị, hoà mục,

hoà đồng, là triết lý nhân sinh, tu thân dưỡng tính, đề cao văn hoá lễ giáo tạo

ra truyền thống hiếu học.

Về Phật giáo: Phật giáo vào Việt Nam từ rất sớm. Trải qua hàng trăm

năm, Phật giáo đã ảnh hưởng vào văn hoá Việt Nam, từ tư tưởng, tình cảm,

tín ngưỡng, phong tục tập quán lối sống. Hồ Chí Minh tiếp thu và chịu ảnh

hưởng, sâu sắc các tư tưởng vị tha, từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương

người như thể thương thân... là nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị,

chăm lo làm việc thiện, là tinh thần bình đẳng, dân chủ chống phân biệt đẳng

cấp, là việc đề cao lao động, chống lười biếng; là chủ trương sống không xa

26

Page 27: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

lánh việc đời mà gắn bó với dân, với nước, tích cực tham gia vào việc đấu

tranh của nhân dân chống kẻ thù dân tộc... Đến khi đã trở thành người mác-

xít, Người lại tiếp tục tìm hiểu chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, vì thấy

trong đó những điều thích hợp với điều kiện của nước ta.

Đối với văn hoá phương Tây: Hồ Chí Minh cũng chịu ảnh hưởng rất

sâu rộng của nền văn hoá dân chủ và cách mạng của phương Tây. Ngay từ khi

còn học ở Trường tiểu học Đông Ba rồi vào học trường Quốc học Huế,

Nguyễn Tất Thành đã làm quen với văn hoá Pháp.

Thời kỳ tìm đường cứu nước (1911-1920) trước khi đến với chủ nghĩa

Mác - Lênin, Hồ Chí Minh sống chủ yếu ở châu Âu, Hồ Chí Minh đã dày

công nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản ở Mỹ, ở Pháp. Người trực tiếp

đọc và tiếp thu các tư tưởng về tự do, bình đẳng, qua các tác phẩm của các

nhà khai sáng như Vonte (Voltaire) Rutxô (Rousso), Môngtetxkiơ (Mon-

tesquieu), Người tiếp thu các giá trị của tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền

của Đại cách mạng Pháp, các giá trị về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu

cầu hạnh phúc của Tuyên ngôn độc lập ở Mỹ năm 1776.

Sống và hoạt động ở Pari, viết văn bản và làm báo để tuyên truyền cho

dân tộc và cách mạng, phải dùng ngôn ngữ Pháp, phải đáp ứng yêu cầu và

trình độ của công chúng Pháp, điều này đã thúc đẩy Nguyễn Ái Quốc, phải

nhanh chóng làm được chủ ngôn ngữ và văn hoá Pháp...

Tất cả những hiểu biết của Người về văn hoá phương Đông và văn hoá

phương Tây đã tự biết làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại,

Đông và Tây, vừa tiếp thu, vừa gạn lọc để từ tầm cao tri thức nhân loại mà

suy nghĩ lựa chọn, kế thừa và đổi mới; đã góp phần quan trọng vào sự hình

thành tư tưởng Hồ Chí Minh.

3. Chủ nghĩa Mác - Lênin

- Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận

của tư tưởng Hồ Chí Minh.

27

Page 28: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) rời Cảng Nhà Rồng

(Sài Gòn) làm phụ bếp trên chiếc tàu “Đô đốc Latouche Tréville” và lấy tên là

Văn Ba đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước... Đó là việc làm mới mẻ, chưa

có tiền lệ, khác với hướng đi truyền thống sang phương Đông của các bậc tiền

bối.

- Qua hành trình đến nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc tư bản đế quốc ở

các nước thuộc địa châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ La tinh. Người đã xúc

động trước cảnh khổ cực bị áp bức của những người dân lao động, Người

nhận thấy ở đâu có dân tộc bị áp bức cũng có nỗi khổ cực như nhau, đều có kẻ

thù chung là chủ nghĩa thực dân đế quốc, ở đâu nhân dân cũng mong muốn

thoát khỏi ách áp bức bóc lột.

Với lòng yêu nước nồng nàn, Hồ Chí Minh kiên trì chịu đựng mọi khó

khăn gian khổ Người có ý xem xét tình hình các nước. Suy nghĩ về những

điều mắt thấy tai nghe, hăng hái học tập và tham gia các cuộc diễn thuyết của

nhiều nhà chính trị và triết học.

Năm 1917 Cách mạng Tháng Mười Nga thành công Người có cảm tình

sâu sắc với cuộc cách mạng Tháng Mười và lãnh tụ thiên tài V.I.Lênin.

Tháng 7-1920 Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những

luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin. Nguyễn Ái

Quốc “cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng... vui mừng đến phát khóc...”

vì đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc. Như vậy, chính luận cương của

Lênin đã nâng cao nhận thức Hồ Chí Minh về con đường giải phóng. Nó phù

hợp và đáp ứng những tình cảm, suy nghĩ, hoài bão được ấp ủ từ lâu, nay

đang trở thành hiện thực, Hồ Chí Minh viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu

nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, theo Quốc

tế thứ ba”.

Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin. Hồ Chí Minh đã tiến

dần tới những nhận thức “lý tính” trở lại nghiên cứu Mác sâu sắc hơn, để rồi

tiếp thu học thuyết của các ông một cách có chọn lọc, không rập khuôn máy

28

Page 29: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

móc, không sao chép giáo điều. Người tiếp thu lý luận Mác - Lênin theo

phương pháp macxit, nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất. Người vận dụng lập

trường, quan điểm, phương pháp biện chứng của chủ Mác - Lênin để giải

quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam, chứ không đi tìm

những kết luận có sẵn trong sách vở.

Thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí Minh

tổng kết kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước.

Hồ Chí Minh nói: “trong cuộc đấu tranh vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin

vừa làm công tác thực tiễn, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã

hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những

người lao động trên thế giới”... “Chính là do cố gắng vận dụng một cách sáng

tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam ngày nay, mà chúng tôi đã chiến đấu và

giành được thắng lợi to lớn”...

Câu 11: Hãy nêu nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của

Nguyễn Ái Quốc là cơ sở quan trọng đề hình thành tư tưởng Hồ Chí

Minh?

Gợi ý trả lời:

Vào những năm 20 của thế kỉ XX, ở Việt Nam cũng có nhiều người đi

tìm đường cứu nước nhưng chỉ có Hồ Chí Minh mới nhận thức được con

đường mới và phù hợp với yêu cầu nguyện vọng của dân tộc và xu thế phát

triển của thời đại. Ngoài những cơ sở khách quan, còn phải nói đến nhân tố

chủ quan thuộc về phẩm chất đạo đức cá nhân và năng lực hoạt động thực tiễn

của Hồ Chí Minh.

Trước hết, đó là tư duy độc lập, tự chủ sáng tạo, cộng với đầu óc phê

phán tinh tường sáng suốt trong việc nghiên cứu nhận xét, tìm hiểu những

tinh hoa tư tưởng, văn hoá nhân loại, thực tiễn phong trào đấu tranh của nhân

dân ta và các cuộc cách mạng lớn trên thế giới

29

Page 30: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Hai là, sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn trí thức phong phú

của thời đại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc,

phong trào công nhân quốc tế để có thể tiếp cận với chủ nghĩa Mác - Lênin,

khoa học về cách mạng của giai cấp vô sản quốc tế.

Ba là, có tâm hồn của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản có bản

lĩnh kiên định, nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước, luôn tin vào

nhân dân, thương dân, thương yêu những người cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng

những hy sinh cao nhất vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng

bào.

Những phẩm chất cá nhân hiếm có đó đã giúp Nguyễn Ái Quốc tiếp

nhận, chọn lọc chuyển hoá phát triển những tinh hoa dân tộc và thời đại, là cơ

sở quan trọng để hình thành tư tưởng của Người.

Câu 12: Trình bày nhận thức, hoạt động của Nguyễn Sinh Cung -

Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) từ thời kỳ trước năm 1911 đã hình

thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước của Người?

Gợi ý trả lời:

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc

về cách mạng Việt Nam..., không thể hình thành ngay một lúc mà đã trải qua

một quá trình tìm tòi, xác lập, phát triển và hoàn thiện, gắn liền với quá trình

phát triển, lớn mạnh của Đảng ta và cách mạng Việt Nam.

Tiến trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh có thể chia ra nhiều thời

đoạn lịch sử. Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí

hướng cứu nước.

Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, sau đổi là Nguyễn Tất

Thành), quê ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, sinh ngày 19-

5-1890, trong một gia đình nhà nho yêu nước.

Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Người là một nhà nho cấp

tiến, có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với

quá trình hình thành nhân cách của Nguyễn Tất Thành. Sau này những kiến

30

Page 31: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

thức học được từ người cha, bắt gặp tư tưởng mới của thời đại đã được Hồ

Chí Minh nâng lên thành tư tưởng cốt lõi trong đường lối chính trị của mình.

Cụ Hoàng Thị Loan, thân mẫu của Người cũng ảnh hưởng đến tư

tưởng, tình cảm của Nguyễn Sinh Cung về đức tính nhân hậu, đảm đang, sống

chan hoà với mọi người.

Về gia đình, còn phải nói tới mối quan hệ và tác động qua lại giữa ba

chị em Nguyễn Thị Thanh (Nguyễn Thị Bạch Liên), Nguyễn Sinh Khiêm

(Nguyễn Tất Đạt) và Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành) về lòng yêu

nước thương nòi.

Trên mảnh đất Kim Liên cũng đã thấm máu của bao anh hùng, liệt sĩ

chống Pháp như: Vương Thúc Mậu, Nguyễn Sinh Quyền v.v...

Nghệ Tĩnh là vùng đất giàu truyền thống văn hoá, lao động, đấu tranh

chống ngoại xâm... Nơi đây đã sản sinh ra biết bao anh hùng nổi tiếng lịch sử

Việt Nam như Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, các lãnh tụ yêu

nước thời cận đại như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu...

Từ nhỏ, Nguyễn Sinh Cung đã đau xót chứng kiến cuộc sống nghèo

khổ, bị đàn áp bóc lột của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê hương.

Những năm ở Huế, Người đã tận mắt nhìn thấy tội ác của bọn thực dân và

thái độ ươn hèn, bạc nhược của bọn quan lại Nam triều.

Những bài học thất bại của các nhà yêu nước tiền bối và đương thời;

với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra hạn chế

của những người đi trước. Người nhận ra rằng không thể cứu nước theo con

đường của Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... Người từ

chối Đông Du, không phải vì đã hiểu bản chất của đế quốc Nhật mà chỉ cảm

thấy rằng: không thể dựa vào nước ngoài để giải phóng Tổ quốc. Cùng với

việc phê phán hành động cầu viện Nhật Bản, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước

rước beo cửa sau”, tư tưởng “ỷ Pháp cầu tiến bộ” chẳng qua chỉ là việc cầu

xin Pháp rủ lòng thương....

31

Page 32: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Truyền thống dân tộc, gia đình, quê hương... tất cả đã thôi thúc Hồ Chí

Minh ra đi tìm một con đường mới để cứu dân, cứu nước. Nguyễn Ái Quốc đã

tự định ra cho mình một hướng đi mới: Phải tìm hiểu cho rõ bản chất của

những từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái của nước Cộng hoà Pháp, phải đi ra nước

ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, sẽ

trở về giúp đồng bào mình.

Câu 13: Những hoạt động chủ yếu của Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí

Minh) từ 1911 đến 1920, đã tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân

tộc?

Gợi ý trả lời:

Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) rời Cảng Nhà Rồng

(Sài Gòn) làm phụ bếp trên chiếc tàu “Đô đốc Latouche Tréville” và lấy tên là

Văn Ba đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước... Đó là việc làm mới mẻ, chưa

có tiền lệ, khác với hướng đi truyền thống sang phương Đông của các bậc tiền

bối.

- Nguyễn Tất Thành sang Pháp, đến cảng Mác-Xây ngày 6-7-1911,

thấy nhiều phụ nữ nghèo khổ, Nguyễn Tất Thành nói với người bạn: “Tại sao

người Pháp không “khai hoá” đồng bào của họ trước khi đi “khai hoá” chúng

ta?”.

- Làm thuê trên chiếc tàu đi vòng quanh châu Phi, tận mắt trông thấy

những cảnh khổ cực của người da đen dưới roi vọt của bọn thực dân, Nguyễn

Tất Thành nghĩ: “Đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa, da

vàng hay da đen cũng không đáng một xu”.

Giữa tháng 12-1912, Nguyễn Tất Thành tới nước Mỹ và Người dừng

lại ở Mỹ khoảng một năm, từ cuối 1912 đến cuối 1913. Ở nước Mỹ, Người

dành một phần thời gian để lao động kiếm sống, còn phần lớn thời gian dành

cho học tập, nghiên cứu Cách mạng Tư sản Mỹ năm 1776. Khi thăm pho

32

Page 33: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

tượng Thần Tự do. Nguyễn Tất Thành không để ý đến ánh hào quang quanh

đầu tượng mà xúc động trước cảnh những nô lệ da đen dưới chân tượng.

- Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành từ Mỹ sang Anh, và sống tại Luân

- Đôn từ năm 1914 đến năm 1917, khoảng cuối năm 1917 trở lại Pháp... Ở tất

cả các nước thuộc địa châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ La tinh, Người nhận

thấy ở đâu các dân tộc bị áp bức cũng có nỗi khổ cực như nhau, đều có kẻ thù

chung là chủ nghĩa thực dân đế quốc.

- Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Người có cảm

tình sâu sắc với cuộc cách mạng Tháng Mười và lãnh tụ thiên tài V.I. Lênin.

- Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một

Đảng tiến bộ hồi bấy giờ.

- Tháng 6-1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp

Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị Vécxây bản Yêu sách của nhân dân An

Nam (gồm 8 điểm) để đòi Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do dân chủ

và bình đẳng của nhân dân Việt Nam. Bản Yêu sách đã vạch trần tội ác của

thực dân Pháp làm cho nhân dân thế giới và nhân dân Pháp phải chú ý đến

tình hình Việt Nam và Đông Dương. Bản Yêu sách đã không được bọn đế

quốc chấp nhận, từ đó Người rút ra bài học: “muốn được giải phóng các dân

tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”.

- Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những

luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lênin đăng trên

báo L’Humanité số ra ngày 16 và 17 tháng 7 năm 1920. Người sung sướng

vui mừng đến phát khóc lên: “Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ! Đây là cái

cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”.

Bởi vì Luận cương của Lênin đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc con

đường giành độc lập cho dân tộc và tự do cho đồng bào, đáp ứng những tình

cảm suy nghĩ, hoài bão được ấp ủ bấy lâu nay ở Người.

- Tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội lần thứ 18 của

Đảng Xã hội Pháp, Người biểu quyết tán thành đứng về Quốc tế thứ ba, từ bỏ

33

Page 34: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Đảng Xã hội và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người

cộng sản Việt Nam đầu tiên của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, đã

đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc: từ chủ

nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin; từ giác ngộ dân tộc đến với giác ngộ

giai cấp; từ người yêu nước thành người cộng sản.

Việc xác định con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc là công lao to

lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh, trong thực tế, Người “đã gắn phong trào cách

mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế đưa nhân dân ta đi theo con

đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác

- Lênin. Đó là con đường giải phóng duy nhất mà Cách mạng Tháng Mười

Nga đã mở ra cho nhân dân lao động và tất cả các dân tộc bị áp bức trên toàn

thế giới”

Câu 14: Trình bày những hoạt động chủ yếu của Nguyễn Ái Quốc từ

năm 1921 đến 1930 đã tác động đến sự hình thành cơ bản tư tưởng của

Người về cách mạng Việt Nam?

Gợi ý trả lời:

Trong giai đoạn từ năm 1921 đến 1930: Nguyễn Ái Quốc có những

hoạt động thực tiễn và hoạt động lí luận hết sức phong phú, sôi nổi trên địa

bàn nước Pháp, Liên Xô, Trung Quốc, Thái Lan, để tiến tới thành lập chính

Đảng cách mạng ở Việt Nam.

- Từ năm 1921 đến giữa năm 1923, trong thời gian này, ở Pháp, Người

hoạt động tích cực trong Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp

tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo “Le Paria” nhằm

tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào các nước thuộc địa. Người viết nhiều

bài báo tố cáo chủ nghĩa thực dân bóc lột tàn bạo các dân tộc thuộc địa.

Những bài báo ấy là cơ sở để Người hoàn thành biên soạn tác phẩm “Bản án

chế độ thực dân pháp” (1925). Tác phẩm này được các nhà nghiên cứu đánh

34

Page 35: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

giá là: “... đã thực sự mở ra một giai đoạn mới trong những lý luận về vấn đề

dân tộc và thuộc địa” (1).

- Giữa năm 1923, Nguyễn Ái Quốc sang Mátxcơva dự Hội nghị Quốc

tế Nông dân và được bầu vào đoàn chủ tịch của Hội. Sau đó Người tiếp tục

tham gia Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V...

- Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) tổ

chức ra Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên (tháng 6-1925), ra báo Thanh

niên...

- Từ năm 1925 đến 1927, người mở lớp huấn luyện cán bộ cho những

người yêu nước Việt Nam. Tập đề cương bài giảng của Người được xuất bản

thành sách với nhan đề “Đường kách mệnh” vào năm 1927.

- Từ năm 1928 đến cuối năm 1929, hoạt động của Người là xây dựng

lực lượng cách mạng trong lực lượng Việt kiều yêu nước ở Xiêm. Đầu năm

1930 Hồ Chí Minh đã thống nhất các tổ chức cộng sản thành tổ chức cộng sản

duy nhất, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Những tác phẩm, bài viết của Nguyễn Ái Quốc thời kỳ này là sự phát

triển và tiếp tục hoàn thiện tư tưởng cách mạng về giải phóng dân tộc. Người

nêu ra bản chất của chủ nghĩa thực dân là “ăn cướp” và “giết người”. Vì vậy,

chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp

công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới.

- Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con

đường cách mạng vô sản và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.

- Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở

chính quốc có mối quan hệ khăng khít với nhau, nhưng không phụ thuộc vào

nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể bùng nổ và giành thắng lợi trước

cách mạng vô sản ở chính quốc.

- Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “dân tộc cách mệnh” đánh

đuổi bọn ngoại xâm, giành độc lập tự do.

35

Page 36: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

- Cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành được thắng lợi cần phải

thu phục, lôi cuốn được nông dân đi theo, cần xây dựng khối công nông liên

minh làm động lực cho cách mạng. Đồng thời, cần phải thu hút, tập hợp rộng

rãi các giai cấp xã hội khác vào trận tuyến đấu tranh chung của dân tộc.

- Cách mạng muốn thành công trước hết cần có Đảng lãnh đạo. Đảng

phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin.

- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân chứ không phải

việc của một vài người.

Những quan điểm, tư tưởng cách mạng trên đây của Nguyễn Ái Quốc

trong những năm 20 của thế kỷ XX được giới thiệu trong các tác phẩm của

Người, cùng các tài liệu mác-xít khác, theo những đường dây bí mật được

truyền về trong nước, đến với các tầng lớp nhân dân Việt Nam, đã thúc đẩy sự

phát triển của phong trào cách mạng, tạo những tiền đề chín muồi cho Đảng

Cộng sản Việt Nam ra đời.

- Tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ

chức cộng sản trong nước, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và trực tiếp

thảo ra các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt... của Đảng được

Hội nghị nhất trí thông qua.

Các văn kiện này cùng với hai tác phẩm của Người hoàn thành và xuất

bản trước đó là Bản án chế độ thực dân Pháp (năm 1925) và Đường kách

mệnh (năm 1927) và nhiều bài viết khác của Người trong giai đoạn này là sự

phát triển và tiếp tục hoàn thiện tư tưởng cách mạng về giải phóng dân tộc, đã

đánh dấu sự hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng của Việt

Nam.

36

Page 37: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 15: Những hoạt động chủ yếu của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1930

đến 1945, thể hiện sự vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lập trường cách

mạng?

Gợi ý trả lời:

Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối cách mạng vô sản

qua các văn kiện đầu tiên là Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt... là sự

vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam

của Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên, vào cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỷ XX,

Quốc tế Cộng sản bị chi phối nặng bởi khuynh hướng “tả”. Khuynh hướng

này đã trực tiếp tác động vào phong trào cách mạng Việt Nam. Biểu hiện rõ

nhất là những quyết định được đưa ra trong Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp

hành Trung ương lâm thời của Đảng, họp vào tháng 10-1930 tại Hương Cảng

(Trung Quốc) theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản. Hội nghị cho rằng, Hội

nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đầu năm 1930, vì chưa nhận thức đúng

nên đặt tên Đảng sai và quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông

Dương, chỉ trích và phê phán đường lối của Nguyễn Ái Quốc đưa ra trong

Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã phạm những sai lầm chính trị rất

“nguy hiểm”, vì “chỉ lo đến việc phản đế, mà quên mất lợi ích giai cấp tranh

đấu”. Do đó, Ban Chấp hành Trung ương đã ra nghị quyết “thủ tiêu Chánh

cương, Sách lược của Đảng”...

- Trên cơ sở xác định chính xác con đường cần phải đi của cách mạng

Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã kiên trì vượt qua thử thách giữ vững lập

trường cách mạng, bảo vệ quan điểm của mình về vấn đề dân tộc và vấn đề

giai cấp, về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và cách mạng vô sản,

chống lại những biểu hiện “tả” khuynh và biệt phái trong Đảng.

Thực tiễn đã chứng minh quan điểm của Hồ Chí Minh là đúng.

Đại hội VII Quốc tế Cộng sản (tháng 7-1935) đã phê phán khuynh

hướng “tả” trong phong trào cộng sản quốc tế, chủ trương mở rộng Mặt trận

37

Page 38: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

dân tộc thống nhất vì hoà bình, chống chủ nghĩa phát xít. Đối với các nước

thuộc địa và phụ thuộc, Đại hội VII bác bỏ luận điểm “tả khuynh” trước đây về

chủ trương làm “cách mạng công nông”, thành lập “chính phủ Xô viết”... Sự

chuyển hướng đấu tranh của Quốc tế Cộng sản đã chứng tỏ quan điểm của

Nguyễn Ái Quốc về cách mạng Việt Nam, về Mặt trận dân tộc thống nhất, về

việc tập trung mũi nhọn vào chống chủ nghĩa đế quốc là hoàn toàn đúng đắn.

Trên quan điểm đó, năm 1936, Đảng ta đã đề ra chính sách mới, phê phán

những biểu hiện “tả khuynh”, cô độc, biệt phái trước đây. Đó cũng là cơ sở để

Đảng ta chuyển hướng đấu tranh trong thời kỳ 1936 - 1939, thành lập Mặt trận

nhân dân phản đế Đông Dương (từ tháng 3-1938 đổi thành Mặt trận dân chủ

Đông Dương) và từ năm 1939 đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu.

- Tháng 6 - 1931, Nguyễn Ái Quốc bị thực dân Anh bắt giam ở Hồng

Kông. Do bản lĩnh vững vàng và hoạt động tích cực của Đảng, được sự giúp

đỡ của Quốc tế Cứu tế đỏ và Luật sư Lôdôbai, Nguyễn Ái Quốc được trắng án

và trở lại Liên Xô vào đầu năm 1934. Trong thời gian đó, Nguyễn Ái Quốc

kiên trì quan điểm của mình. Người học tập tại trường Đại học Quốc tế mang

tên Lênin và Nguyễn Ái Quốc vẫn luôn luôn theo dõi tình hình trong nước,

kịp thời có những chỉ đạo để cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển. Người

viết tám điểm xác định đường lối, chủ trương cho cách mạng Đông Dương

trong thời kỳ 1936 - 1939(1).

Khi tình hình thế giới có những biến động mới, Người đã chủ động đề

nghị Quốc tế Cộng sản cho về nước hoạt động.

Được Quốc tế Cộng sản chấp thuận, Nguyễn Ái Quốc từ Mátxcơva về

Trung Quốc (tháng 10-1938). Tại đây Người đã có những quan điểm chỉ đạo

sát hợp gửi cho các đồng chí lãnh đạo trong nước. Ngày 28 - 01-1941, sau 30

năm xa rời Tổ quốc, hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ

quốc. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tám (tháng 5 năm 1941), dưới sự chủ

trì của Nguyễn Ái Quốc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông

(1) Xem Hồ Chí Minh, Biên niên tiểư, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, thị trường, tr.91.

38

Page 39: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Dương đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chiến lược của cách mạng Việt

Nam, đặt nhiệm vụ chống đế quốc giải phóng dân tộc lên hàng đầu v.v...

Những tư tưởng, quan điểm, đường lối đúng đắn, sáng tạo theo tư

tưởng Hồ Chí Minh được đưa ra và thông qua trong Hội nghị Trung ương

Đảng lần thứ tám (tháng 5 năm 1941) có ý nghĩa quyết định chiều hướng phát

triển của cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta, dẫn đến thắng lợi của Cách

mạng Tháng Tám năm 1945 và ngày 02 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hoà.

Bản Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn, trong

đó độc lập, tự do gắn với phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội là tư

tưởng chính trị cốt lõi, vốn đã được Hồ Chí Minh phác thảo lần đầu tiên trong

Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt năm 1930, nay trở thành hiện thực

cách mạng, trở thành chân lý của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây

dựng xã hội mới của dân tộc ta.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với sự ra đời của nước

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin được vận

dụng, phát triển ngày càng sát đúng với hoàn cảnh Việt Nam, là thắng lợi của

tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh.

Câu 16: Hãy nêu những hoạt động chủ yếu của Nguyễn Ái Quốc -

Hồ Chí Minh từ năm 1945 đến 1969, thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp

tục phát triển, hoàn thiện.

Gợi ý trả lời:

Sau khi giành được chính quyền (tháng 8 năm 1945) nước Việt Nam

Dân chủ Cộng hoà ra đời, đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn giặc đói

giặc dốt, nhất là đe doạ của giặc ngoài thù trong.

Đứng trước tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc” của dân tộc, trên cương vị

là người đứng đầu Đảng và Nhà nước trong điều kiện Đảng cầm quyền đã

39

Page 40: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh hiểm trở tới bờ

bến thắng lợi. Người chủ trương củng cố chính quyền non trẻ, cải thiện đời

sống nhân dân, khắc phục nạn tài chính thiếu hụt, đẩy lùi giặc đói, giặc dốt.

Về đối ngoại Người đưa ra tư tưởng “dĩ bất biến ứng vạn biến” vận

dụng sách lược khôn khéo, mềm dẻo thêm bạn bớt thù, tranh thủ thời gian để

chuẩn bị thế và lực cho cuộc kháng chiến lâu dài.

Chính nhờ đó, ngày 19-12-1946 với tư thế sẵn sàng và lòng tin sắt đá

vào cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Hồ Chí

Minh đã phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp và

Người đã cùng Trung ương Đảng đề ra đường lối kháng chiến toàn dân, toàn

diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh.

Năm 1951, theo sáng kiến của Hồ Chí Minh Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ II (tháng 2 - 1951) của Đảng, đã thông qua Cương lĩnh, Điều lệ mới

đổi tên Đảng thành Đảng Lao động Việt Nam, đề ra chủ trương, đường lối

đứng đắn, giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, nhằm động

viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta kháng chiến chống thực dân Pháp và

can thiệp Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.

Sau hiệp định Giơne năm 1954, đất nước ta tạm thời bị chia làm hai

miền. Đứng trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, tư tưởng Hồ Chí

Minh tiếp tục phát triển, đáp ứng tính hình nhiệm vụ đó với việc hình thành

đường lối thực hiện đồng thời hai cuộc cách mạng, cách mạng xã hội chủ

nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Hai cuộc cách

mạng ở hai miền có mối quan hệ khăng khít với nhau.

Xuất phát từ thực tiễn trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, tư

tưởng Hồ Chí Minh về nhiều vấn đề đã tiếp tục bổ sung, phát triển hợp thành

một hệ thống những quan điểm lý luận về cách mạng Việt Nam.

Đó là tư tưởng về chủ nghĩa xã hội, tư tưởng về Nhà nước của dân, do

dân, vì dân, tư tưởng và chiến lược về con người, tư tưởng về Đảng Cộng sản

v.v...

40

Page 41: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Năm 1969, trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp để lại cho

toàn Đảng, toàn dân ta bản Di chúc thiêng liêng chỉ rõ sự tất thắng của sự

nghiệp chống Mỹ của nước, tổng kết những bài học của cách mạng Việt Nam

và chỉ ra những phương hướng lớn để xây dựng đất nước sau chiến tranh

nhằm thực hiện cho được mục tiêu “Xây dựng một nước Việt Nam, hoà bình

thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng cho sự

nghiệp cách mạng thế giới”

Thực hiện Di chúc của Người, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân tiến hành

cuộc cách mạng dân tộc chủ nhân dân ở miền Nam hoàn thành sự nghiệp

thống nhất Tổ quốc đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành và phát triển đáp ứng đòi hỏi của

lịch sử dân tộc và nhân loại trong thời đại mới. Nhận thức đúng đắn giá trị tư

tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 - 1986)

của Đảng ta đã chỉ rõ: để giành thắng lợi đổi mới phải được thực hiện trên cơ

sở quán triệt chủ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đến Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 - 1991) của Đảng; Đảng ta khẳng

định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng

tư tưởng kim chỉ nam cho hành động.

Tiến sĩ M.Ahmeđ đại diện đặc biệt của Tổng giám đốc UNESCO đã

cho rằng “Hồ Chí Minh sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng

cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã

mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh

không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng, khỏi trái đất này”.

Câu 17: Trình bày những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con

đường giải phóng và phát triển dân tộc?

Gợi ý trả lời:

a). Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt

Nam

41

Page 42: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của dân tộc và thời đại, là tinh hoa

văn hoá của Việt Nam và của nhân loại, là tài sản vô giá của dân tộc ta, nó

trường tồn, bất diệt.

Sở dĩ như vậy vì tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu kế thừa,

phát triển sáng tạo những giá trị, tinh hoa văn hóa dân tộc và văn hoá nhân

loại, mà còn đáp ứng nhiều vấn đề của sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế

giới, Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng bổ sung và phát triển sáng tạo

chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam để vạch ra chiến lược,

sách lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa

Việt Nam.

Nét đặc sắc nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là những vấn đề xung

quanh việc giải phóng dân tộc và định hướng cho sự phát triển của dân tộc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn cách

mạng nước ta.

- Tính sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ: trung thành

với những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời khi

nghiên cứu, vận dụng những nguyên lý đó, Hồ Chí Minh đã mạnh dạn loại bỏ

những gì không thích hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, dám đề xuất

những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra và giải quyết một cách linh hoạt, khoa

học, hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường chỉ ra: “lý luận không phải là

một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo, lý luận luôn luôn cần được bổ

sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn, với

những hoạt động cách mạng của Người. Ngay từ ngày thành lập Đảng Cộng

sản Việt Nam trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh xác

định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “làm tư sản dân

quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi đến xã hội cộng sản”. Tư tưởng

trên đây của Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp

đấu tranh giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh

42

Page 43: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải

phóng giai cấp và giải phóng con người.

Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện

và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng

dân tộc dân chủ đến cách mạng xã hội chủ nghĩa v.v... đang soi sáng cho

chúng ta.

b). Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho

hành động của chúng ta

Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng ta và nhân dân ta trên con

đường thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn

minh.

Trong suốt chặng đường hơn một nửa thế kỷ, tư tưởng Hồ Chí Minh đã

trở thành ngọn cờ dẫn dắt cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi

khác.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 năm 1991) của Đảng

nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh và đã quyết định ghi vào Cương lĩnh và Điều

lệ của Đảng: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm

nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Điều đó bảo đảm cho sự

thắng lợi của cách mạng Việt Nam, bảo đảm cho tương lai, tiền đồ vẻ vang

của dân tộc Việt Nam.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh khi đi vào đời sống nhân dân sẽ biến thành

sức mạnh cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới. Trong tình hình thế giới

ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta nhận thức đúng những vấn đề

lớn có liên quan đến bảo vệ nền độc lập dân tộc, phát triển xã hội và bảo đảm

quyền con người...bởi vì Hồ Chí Minh đã suốt đời phấn đấu cho việc giải

phóng các dân tộc, đã đề ra lý luận về sự phát triển của các dân tộc giành độc

lập tiến lên chủ nghĩa xã hội và luôn quan tâm đến lợi ích con người.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng vững chắc để Đảng ta vạch ra

đường lối cách mạng đứng đắn.

43

Page 44: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

- Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi sống với chúng ta, vì đã thấm sâu vào

quần chúng nhân dân, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ đối với

thời đại. Qua thực tiễn cách mạng tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng toả sáng

chiếm lĩnh trái tim, khối óc của hàng triệu con người.

Thấm nhuần giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại hội VI (tháng 12-1986)

mở ra sự nghiệp đổi mới, Đảng ta chỉ rõ: để giành thắng lợi, đổi mới phải

được thực hiện trên cơ sở quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ

Chí Minh, đến đại hội VII (tháng 6-1991) Đảng ta khẳng định: Đảng lấy chủ

nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim

chỉ nam cho hành động.

Câu 18: Trình bày những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự

phát triển thế giới?

Gợi ý trả lời:

a). Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng thời đại

- C.Mác tâm đắc với luận điểm của nhà triết học duy vật Henvexiuýt và

đã nhắc lại trong tác phẩm của mình: “Mỗi một thời đại xã hội đều cần có

những anh hùng và vĩ nhân của nó, và nếu không có những con người như thế

thì như Henvêxiuýt đã nói, thời đại sẽ sáng tạo ra những con người như thế”

và C.Mác đã viết: “Mỗi thời đại xã hội đều cần có những con người vĩ đại của

nó, và nếu nó không tìm ra những người như thế..., nó sẽ nặn ra họ” 1

Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử vĩ đại, không chỉ là sản phẩm của dân

tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn là sản phẩm của thời đại. Nhân

vật lịch sử, nhà tư tưởng, vĩ nhân xuất hiện đều phải có tiền đề, nhu cầu bức

xúc của dân tộc đòi hỏi, để nhân vật lịch sử ra đời như một tất yếu. Hồ Chí

Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời là do nhu cầu bức thiết của xã hội Việt

Nam vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khi đó đòi hỏi là chống chủ nghĩa

thực dân, giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho dân tộc.

1 Henvexiuýt (1715 1771) - Đại biểu xuất sắc của CNDV và thần học pháp hồi thế kỷ XVIII

44

Page 45: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Nếu như C.Mác và Ph.Ăngghen bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ

nghĩa tư bản. V.I.Lênin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc,

thì Hồ Chí Minh tập trung bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực

dân và C.Mác, V.I.Lênin bàn nhiều về đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản

chủ nghĩa, thì Hồ Chí Minh bàn nhiều về đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc

địa.

Nếu như C.Mác và Ph.Ăngghen đáp ứng nhu cầu tư tưởng lý luận

chống chủ nghĩa tư bản thời kỳ tự do cạnh tranh. Lênin đáp ứng nhu cầu tư

tưởng lý luận chống chủ nghĩa tư bản thời kỳ độc quyền (chủ nghĩa đế quốc),

Hồ Chí Minh đáp ứng nhu cầu tư tưởng và lý luận đấu tranh chống chủ nghĩa

thực dân, giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho dân tộc.

Những cống hiến xuất sắc của Hồ Chí Minh là về lý luận cách mạng

giải phóng dân tộc thuộc địa dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin: Giành

độc lập dân tộc để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người cũng có những nhận thức

sâu sắc và độc đáo về mối quan hệ chặt chẽ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai

cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản; về

mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa với cách mạng vô

sản ở chính quốc và về khả năng cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa nổ

ra và thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Trong tư tưởng Hồ Chí

Minh thể hiện xác định đúng đắn những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt

Nam trong đó có cả các vấn đề về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã

hội, về hoà bình, hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc... có giá trị to lớn về mặt

lý luận và đang trở thành hiện thực của nhiều vấn đề quốc tế ngày nay.

b). Tư tưởng Hồ Chí Minh tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng

loài người.

Tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ ra chiến lược sách lược, phương pháp

cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc địa, giải quyết đúng đắn vấn đề

“làm cách nào để giải phóng các dân tộc thuộc địa” Hồ Chí Minh đã xác định

chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù lớn nhất của các dân tộc bị áp bức và để chiến

45

Page 46: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

thắng chủ nghĩa đế quốc cần phải thực hiện “đại đoàn kết”, “đại hoà hợp” đây

là một đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh.

- Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế giới còn thể hiện ở chỗ

Người đã nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại. Trên cơ sở nắm vững

đặc điểm thời đại. Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt mỏi để gắn cách

mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Người đặt cách mạng giải phóng dân

tộc thuộc địa vào phạm trù cách mạng vô sản. Người cương quyết bảo vệ và

phát triển quan điểm của V.I. Lênin về khả năng to lớn và vai trò chiến lược

của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa đối với cách mạng vô sản.

Từ việc nắm bắt xu thế phát triển của thời đại, Hồ Chí Minh đã đề ra

đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự

nghiệp cứu nước giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Rồi chính từ kinh nghiệm

của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tổng kết, khẳng định “trong thời

đại đế quốc chủ nghĩa, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp

vô sản và đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi trước hết là

nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yên nước trong mặt trận

thống nhất, với sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới,

trước hết là của phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, nhân dân nước đó nhất định

thắng lợi”...

Những tư tưởng trên đây của Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ mãi mãi là

chân lý sáng ngời, góp phần vào sự kiến tạo và phát triển của nhân loại.

c). Tư tưởng Hồ Chí Minh cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục

tiêu cao cả

Hồ Chí Minh là vị anh hùng dân tộc vĩ đại, người thầy thiên tài của

cách mạnh Việt Nam, một nhà mác xít - Lêninnít lối lạc, nhà hoạt động xuất

sắc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, một chiến sĩ kiên cường

của phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX.

Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng

lợi này đến thắng lợi khác, tư tưởng Hồ Chí Minh đã cổ vũ, chỉ đường cho các

46

Page 47: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

dân tộc thuộc địa châu Á, châu Phi, đứng dậy đầu tranh giải phóng khỏi ách

áp bức bóc lột của đế quốc phong kiến giành độc lập tự do.

Trong lòng nhân dân thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh là bất diệt. Bạn bè

năm châu khâm phục và coi Hồ Chí Minh là “lãnh tụ của thế giới thứ ba”

Câu 19: Tổ chức UNESCO đánh giá về Hồ Chí Minh như thế nào?

Gợi ý trả lời:

- UNESCO là Tổ chức giáo dục khoa học và văn hoá Liên hợp quốc.

Tại khoá họp lần thứ 18, UNESCO đã thông qua Quyết định số 18c

4351 “Về việc tổ chức kỷ niệm những vĩ nhân và những sự kiện đã để lại dấu

ấn trong quá trình phát triển của nhân loại”. Về ý nghĩa của những hoạt động

này. Nghị quyết của UNESCO về kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ

Chí Minh viết: “Xét thấy việc tổ chức kỷ niệm trên quy mô quốc tế những nhà

trí thức và danh nhân văn hoá sẽ góp phần vào việc thực hiện những mục tiêu

của UNESCO và vào sự hiểu biết trên thế giới”.

Những chủ trương và hoạt động của UNESCO theo phương hướng nêu

trên được nhân dân thế giới hưởng ứng, ủng hộ. Trung thành với lý tưởng của

mình, đến khoá họp lần thứ 24 ngày 16 tháng 4 năm 1987, 21 danh nhân văn

hoá thế giới đã được UNESCO suy tôn và thế giới tổ chức kỷ niệm.

Khi UNESCO bàn về kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí

Minh, thì tất cả từ Uỷ ban I. Uỷ ban về các vấn đề chính trị thuộc UNESCO,

đến phiên họp toàn thể của Đại hội đồng đã hoàn toàn nhất trí thông qua nghị

quyết với những nội dung chính:

1. Về đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giải phóng

dân tộc, hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nghị quyết viết: “Chủ tịch Hồ

Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã

cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt

Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hoà bình, độc lập

dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”.

47

Page 48: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

2. Những cống hiến tích cực, phong phú của Hồ Chí Minh trên lĩnh vực

văn hoá được Nghị quyết chỉ rõ: “Sự đóng góp quan trọng của Chủ tịch Hồ

Chí Minh trong các lĩnh vực văn hoá giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của

truyền thống văn hoá ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng

của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng

định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn

nhau”.

3. Từ những cống hiến đặc biệt nổi bật nêu trên, khoá họp lần thứ 24

quyết định:

- Năm 1990 sẽ được đánh dấu bằng kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của

Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hoá kiệt

xuất.

- Khuyến nghị các quốc gia thành viên UNESCO kết hợp kỷ niệm lần

thứ 100 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng cách tổ chức những hoạt

động đa dạng để kỷ niệm Người, để làm cho mọi người hiểu được tầm vóc to

lớn những tư tưởng và sự nghiệp của Hồ Chí Minh đối với công cuộc giải

phóng dân tộc.

- Đề nghị Tổng giám đốc UNESCO tiến hành những bước phù hợp để

kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và giúp đỡ các hoạt

động tưởng niệm chung được tổ chức nhân dịp này, đặc biệt là diễn ra ở Việt

Nam.

Như vậy, thông qua UNESCO nhân loại đã ghi nhận Hồ Chí Minh vừa

là một anh hùng giải phóng dân tộc, vừa là nhà văn hoá kiệt xuất.

Tiến sĩ M. Amét - Tổng giám đốc UNESCO cho rằng: “Hồ Chí Minh

thành công trong việc liên kết nhiều sắc thái văn hoá vào một nền văn hoá

Việt Nam duy nhất. Người đã làm được việc này nhờ sự hiểu biết sắc thái và

tôn trọng những đặc điểm văn hoá khác nhau. Hồ Chí Minh được ghi nhớ

không phải chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân loại bị đô hộ, mà còn

là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho

48

Page 49: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất

bình đẳng khỏi trái đất này”.

Câu 20: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thực chất của vấn đề dân tộc

thuộc địa là gì?

Gợi ý trả lời:

- Dân tộc là một vấn để rộng lớn, bao gồm những quan hệ về chính trị,

kinh tế lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hoá giữa các dân tộc, các nhóm dân

tộc và bộ tộc.

- C.Mác, Ph.Ăngghen đã nêu ra các quan điểm cơ bản có tính chất

phương pháp luận để nhận thức và giải quyết những vấn đề về nguồn gốc bản

chất của vấn đề dân tộc, những quan hệ cơ bản của dân tộc, thái độ của giai

cấp công nhân và đảng của nó với vấn đề dân tộc.

- Trên cơ sở các quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen, Lênin đã phát

triển lên thành một hệ thống lý luận toàn diện, sâu sắc về vấn đề dân tộc, làm

cơ sở cho cương lĩnh, đường lối, chính sách của các Đảng Cộng sản kiểu mới

về vấn đề dân tộc.

- Theo quan điểm Mác - Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá trình phát

triển lâu dài của lịch sử. Trước dân tộc là những hình thức cộng đồng tiền dân

tộc như thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản dẫn

đến sự ra đời của các nhà nước dân tộc tư bản chủ nghĩa. Khi chủ nghĩa tư

bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,

các nước đế quốc thi hành chính sách vũ trang xâm lược cướp bóc, nô dịch

các dân tộc nhược tiểu, vấn đề dân tộc trở nên gay gắt, từ đó xuất hiện vấn đề

dân tộc thuộc địa.

Hồ Chí Minh tiếp cận tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề

dân tộc, nhưng vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh được đề cập ở đây

không phải là vấn đề dân tộc nói chung mà là vấn đề dân tộc thuộc địa. Thực

chất của vấn đề dân tộc ở thuộc địa là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực

49

Page 50: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

dân, xoá bỏ ách thống trị, áp bức bóc lột của nước ngoài, giải phóng dân tộc

giành độc lập dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập Nhà nước

dân tộc độc lập.

Hồ Chí Minh viết nhiều tác phẩm như Tâm địa thực dân, Bình đẳng,

Vực thẳm thuộc địa, Công cuộc khai hoá giết người... tố cáo chủ nghĩa thực

dân, vạch trần cái gọi là “khai hoá văn minh” của chúng. Người viết: “Để che

đậy sự xấu xa của chế độ bóc lột giết người, chủ nghĩa tư bản thực dân luôn

luôn điểm trang cho cái huy chương mục nát của nó bằng những châm ngôn

lý tưởng: Bác ái, Bình đẳng”1.

Nếu như C.Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản,

V.I.Lênin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Hồ Chí

Minh tập trung bàn về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. C.Mác.

V.I.Lênin bàn nhiều về đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa, thì Hồ

Chí Minh bàn nhiều về đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa.

Để giải phóng dân tộc, cần xác định một con đường phát triển của dân

tộc, vì phương hướng phát triển dân tộc quy định những yêu cầu và nội dung

trước mắt của cuộc đấu tranh giành độc lập.

Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử nhân loại. Hồ

Chí Minh khẳng định phương hướng con đường phát triển của dân tộc trong

bối cảnh thời đại mới là tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ

Chí Minh viết: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi

tới xã hội cộng sản”. Con đường đó kết hợp trong đó cả nội dung dân tộc dân

chủ và chủ nghĩa xã hội, xét về thực chất chính là con đường độc lập dân tộc

gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Con đường đó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở thuộc địa. Đó

cũng là nét độc đáo, khác biệt với con đường phát triển của các dân tộc đã

phát triển lên chủ nghĩa tư bản ở phương Tây.

1 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1. tr 75

50

Page 51: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 21: Trình bày sự lựa chọn con đường phát triển của dân tộc sau

khi cách mạng giải phóng dân tộc thành công theo tư tưởng Hồ Chí Minh?

Gợi ý trả lời:

- Để giải phóng dân tộc, cần xác định một con đường phát triển dân tộc,

vì phương hướng phát triển dân tộc quy định những yêu cầu và nội dung

trước mắt của cuộc đấu tranh giành độc lập. Mỗi phương hướng phát triển gắn

liền với một hệ tư tưởng và một giai cấp nhất định.

- Trong lịch sử tiến hoá của nhân loại, xã hội cộng sản nguyên thuỷ

được thay thế bằng xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội chiếm hữu nô lệ được thay

thế bằng xã hội phong kiến, xã hội phong kiến được thay thế bằng xã hội tư

bản. Cuối thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản đã chuyển nhanh sang giai đoạn tư

bản độc quyền (đế quốc chủ nghĩa). Năm 1917 Cách mạng Tháng Mười Nga

nổ ra thắng lợi, mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên

chủ nghĩa xã hội.

Căn cứ vào thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử nhân

loại. Hồ Chí Minh khẳng định con đường phát triển của phong trào giải phóng

dân tộc là đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân

chủ. Chỉ ra con đường phát triển của dân tộc thuộc địa là một vấn đề hết sức

mới mẻ và sáng tạo, độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo tư tưởng Hồ

Chí Minh, từ một nước thuộc địa đi lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua nhiều

giai đoạn chiến lược khác nhau. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh viết: “làm tư sản dân quyền cách mạng và

thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Con đường đó kết hợp trong đó

cả nội dung dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, xét về thực chất chính là

con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. “Đi tới xã hội cộng

sản” là hướng phát triển lâu dài. Nó quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng

sản đoàn kết mọi lực lượng dân tộc, tiến hành các cuộc cách mạng chống đế

quốc và chống phong kiến cho triệt để.

51

Page 52: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Hồ Chí Minh lựa chọn con đường phát triển của dân tộc tiến lên chủ

nghĩa xã hội cho nhân dân ta đi. Đó là con đường phù hợp với hoàn cảnh lịch

sử cụ thể ở thuộc địa. Đó là con đường khác với các nhà yêu nước đương thời

của ông cha ta đồng thời đó cũng là nét độc đáo khác biệt với con đường phát

triển của các dân tộc đã phát triển lên chủ nghĩa tư bản ở phương Tây.

Câu 22: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung cốt lõi của vấn đề dân

tộc thuộc địa là gì?

Gợi ý trả lời:

Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh dựng nước và giữ

nước. Tinh thần yêu nước luôn luôn đứng ở hàng đầu của bảng giá trị tinh

thần truyền thống Việt Nam.

Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước cho dân tộc với một khát vọng

lớn nhất của một người dân mất nước là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân

dân. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào

tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập... Trên đường tiếp cận chân lý cứu

nước, Hồ Chí Minh hết sức tôn trọng quyền con người. Hồ Chí Minh đã tìm

hiểu và tiếp nhận những nhân tố về quyền con người được nêu lên trong

Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có

quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm

được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu

cầu hạnh phúc”.

Tiếp nhận bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng

Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải

luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Người khẳng định: “Đó là

những lẽ phải không ai chối cãi được”. Và từ quyền con người, Hồ Chí Minh

đã khái quát và nâng cao thành quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế

giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung

sướng và quyền tự do”.

52

Page 53: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Mục tiêu đấu tranh Người đặt ra trước hết là phải giành lại độc lập tự

do. Độc lập tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa”.

Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết đã được các đồng

minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất long trọng thừa nhận, thay

mặt những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị Véc

xây Bản Yêu sách gồm tám điểm, đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân

Việt Nam. Bản Yêu sách đã không được bọn đế quốc chấp nhận, từ đó người

rút ra bài học: muốn được giải phóng các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực

lượng của bản thân mình.

Năm 1930 tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí

Minh chủ trì, trong văn kiện của Đảng do Người trực tiếp soạn thảo đã xác

định mục tiêu chính trị của Đảng: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ

địa cách mạng để đi đến xã hội cộng sản”; trong cách mạng tư sản dân quyền

và thổ địa cách mạng, Đảng xác định: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và

bọn phong kiến làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”.

Năm 1941, Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ tám tháng

5 năm 1941, Hội nghị chủ trương nêu cao vấn đề giải phóng dân tộc: “Trong

lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được

độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc

còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận của giai cấp đến vạn

năm cũng không đòi được”. Người chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Nam độc

lập đồng minh, ra báo Việt Nam độc lập, thảo Mười chính sách của Việt Minh

trong đó mục tiêu đầu tiên là: “Cờ treo độc lập nền xây binh quyền”.

- Tháng 7 năm 1945, khi thời cơ khởi nghĩa đang đến gần, Hồ Chí

Minh nêu rõ quyết tâm: “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải

kiên quyết giành cho được độc lập”.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Người thay mặt Chính

phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, long trọng khẳng định trước toàn thế

giới quyền và quyết tâm bảo vệ độc lập tự do của nước Việt Nam Dân chủ

53

Page 54: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Cộng hoà. “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã

thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh

thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Sau khi tuyên bố nền độc lập của nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi

thư và điện văn tới tổ chức Liêp hiệp quốc và Chính phủ các nước trịnh trọng

tuyên bố: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà bình. Nhưng nhân

dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền

thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước ”.

- Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ. Thể hiện

quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc. Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi

vang dội núi sông: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không

chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

- Khi đế quốc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh, ồ ạt đổ quân viễn

chinh và phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam, đồng thời tiến hành

chiến tranh phá hoại miền Bắc với quy mô và cường độ ngày càng ác liệt.

Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày 17-7-

1966, Người nêu cao chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, không

có gì quý hơn độc lập tự do, không chỉ là tư tưởng, mà còn là lẽ sống, là học

thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh.

Không có gì quý hơn độc lập tự do; đó là lý do chiến đấu, là nguồn sức

mạnh làm nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của dân

tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, một tư tưởng lớn trong thời đại giải phóng dân

tộc. “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là khẩu hiệu hành động của dân tộc

Việt Nam đồng thời cũng là nguồn cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên toàn thế

giới đang đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Vì thế Hồ Chí Minh không chỉ

là Anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam mà còn là “Người khởi xướng

cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”.

54

Page 55: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 23: Quan niệm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề

dân tộc và vấn đề giai cấp?

Gợi ý trả lời:

- Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau.Hồ Chí Minh luôn luôn đứng trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin,

quan điểm của giai cấp công nhân để giải quyết vấn đề dân tộc.

Về vấn đề dân tộc, ở thời đại nào cũng được nhận thức và giải quyết

trên lập trường và theo quan điểm của một giai cấp nhất định. Các nhà kinh

điển của chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh rằng: Chỉ đứng trên lập trường

của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải quyết được đúng đắn vấn đề

dân tộc.

Theo Mác - Ăngghen trong thời đại ngày nay, chỉ có giai cấp vô sản

mới thống nhất được lợi ích của giai cấp mình với lợi ích của nhân dân lao

động và của cả dân tộc. Có triệt để xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp bức giai

cấp mới có điều kiện xoá bỏ ách áp bức dân tộc, mới đem lại độc lập thật sự

cho dân tộc mình và cho các dân tộc khác.

Sống trong thời đại chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống thế

giới, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng

vô sản. Theo Lênin : cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ

không thể giành được thắng lợi nếu nó không biết liên minh với cuộc đấu

tranh chống chủ nghĩa đế quốc của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa.

Mác - Ăngghen, Lênin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về mối quan

hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, tạo cơ sở lý luận và

phương pháp luận cho việc xác định chiến lược, sách lược của các Đảng Cộng

sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa.

Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu và mục tiêu của cách mạng vô sản ở

châu Âu, Mác, Ăngghen và Lênin vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai

cấp, vẫn “đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân

tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản”.

55

Page 56: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,

xác định con đường giải phóng dân tộc mình theo cách mạng vô sản, thấy rõ

mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp... Nhưng xuất phát từ thực tiễn dân tộc

thuộc địa, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển những quan điểm

của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc. Quan điểm của Người thể hiện:

khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất

của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam, chủ trương đại đoàn

kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp

tri thức dưới sự lãnh đạo của Đảng v.v...

- Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết, độc lập dân tộc gắn

liền với chủ nghĩa xã hội

Hồ Chí Minh cho rằng, các dân tộc bị các nước thực dân xâm lược, áp

bức, bóc lột thì khát vọng lớn nhất là giành lại độc lập tự do - nghĩa là tiến

hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Đó là nhiệm vụ hàng đầu, là vấn đề

trên hết, trước hết, là cơ sở tiền đề giải quyết các vấn đề khác như giải phóng

giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, mở đường quá độ đi lên

chủ nghĩa xã hội.

Khác với con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân tộc với chủ

nghĩa phong kiến (cuối thế kỷ XIX) hoặc chủ nghĩa tư bản (đầu thế kỷ XX)

con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ

nghĩa xã hội.

Năm 1920, ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển

dân tộc theo con đường của cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn

bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và

chủ nghĩa xã hội.

Ngày 17-10-1945, trong Thư gửi Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện

và làng, Hồ Chí Minh viết “Ngày nay chúng ta đã xây dựng nên nước Việt

Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh

phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Do đó, sau khi giành độc

56

Page 57: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh,

mọi người được sung sướng tự do.

Năm 1960, trong bài Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, Người

khẳng định lại rõ hơn: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải

phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi

ách nô lệ”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ảnh quy luật khách quan của sự

nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ảnh mối

quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng

giai cấp và giải phóng con người... Hồ Chí Minh nói: nước độc lập mà dân

không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì? Do

đó, sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội làm cho

dân giàu, nước mạnh, mọi người được sung sướng tự do.

Hồ Chí Minh khẳng định: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền

với chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi

ngày một no ấm thêm; Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”.

- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải

phóng giai cấp - Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai

cấp, nhưng đồng thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân

tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai

cấp. Vì thế lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc.

Tháng 5-1941. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám

do Hồ Chí Minh chủ trì, Người cùng Trung ương Đảng chuyển hướng chiến

lược, nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu và khẳng

định: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự

sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải

quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn

thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa

57

Page 58: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

trâu, mà quyền lợi của bộ phận của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại

được”.

- Giữ vững độc lập của dân tộc mình đồng thời tôn trọng độc lập của

các dân tộc khác.

Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh

cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân

tộc bị áp bức. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính, luôn luôn

thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ

thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh không

quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân

tộc trên thế giới.

- Năm 1914, khi chiến tranh thế giới thứ nhất vừa nổ ra trên đất nước

Anh, Người đã đem toàn bộ số tiền dành dụm từ đồng lương ít ỏi của mình

ủng hộ quỹ kháng chiến của người Anh và nói: “Chúng ta phải tranh đấu cho

tự do, độc lập của các dân tộc khác như là đấu tranh cho dân tộc ta vậy”

Những năm 30 đến những năm 50 của thế kỷ XX. Người tích cực ủng hộ

cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, các cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Lào

và Campuchia đề ra khẩu hiệu “giúp bạn là tự giúp mình” và chủ trương phải

bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi của cách

mạng thế giới.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang tính khoa học và cách

mạng sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp chủ

nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đúng như

Ph.Ăngghen từng nói: Những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào

công nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính.

58

Page 59: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 24: Trình bày sự hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về

con đường cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam?

Gợi ý trả lời:

- Ngày 5-6-1911 Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) rời cảng Nhà Rồng

(Sài Gòn) lấy tên là Văn Ba đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước, làm phụ

bếp trên chiếc tàu “Đô đốc Latouche Tréville”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bỏ ra nhiều năm để tìm hiểu các cuộc cách

mạng lớn trên thế giới và khảo sát cuộc cách mạng lớn trên thế giới và khảo

sát cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức ở nhiều nước thuộc địa.

Năm 1917 Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã mở ra thời đại

mới trong lịch sử, Người có cảm tình sâu sắc với cuộc Cách mạng Tháng

Mười và lãnh tụ thiên tài V.I.Lênin.

Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những

luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lênin Người sung

sướng cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng, vui mừng thốt lên: “Hỡi đồng

bào bị đoạ đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường

giải phóng chúng ta”.

- Tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc, tham gia Đại hội lần thứ 18 của

Đảng Xã hội Pháp, Người biểu quyết tán thành đứng về Quốc tế thứ ba, từ bỏ

Đảng Xã hội và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện đó đánh dấu

bước chuyển biến về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh: từ chủ nghĩa yêu nước

đến chủ nghĩa Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu

nước thành người cộng sản.

Sau khi trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc tham gia hoạt động

lý luận và thực tiễn cực kỳ sôi nổi trong Đảng Cộng sản Pháp và trong Quốc

tế Cộng sản.

Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu (Trung Quốc) sáng

lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6-1925), xuất bản báo Thanh niên.

Từ năm 1925 đến 1927, mở các lớp huấn luyện chính trị đào tạo cán bộ, đưa

59

Page 60: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

họ về nước hoạt động. Trong thời gian này, Người đã cho xuất bản các tác

phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) Đường kách mệnh (1927). Tháng

2 - 1930, tại Hội nghị hợp nhất của Đảng, Người trực tiếp thảo ra các văn

kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ

vắn tắt của Đảng. Những văn kiện này đã đánh dấu sự hình thành cơ bản của

tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc của Việt

Nam.

Câu 25: Hãy nêu tính chất và nhiệm vụ của cách mạng giải phóng

dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh?

Gợi ý trả lời:

Trong báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, gửi Quốc tế Cộng sản

năm 1924, bằng phương pháp lịch sử cụ thể, bám sát thực tiễn xã hội thuộc

địa, Hồ Chí Minh nhận thấy sự phân hoá giai cấp ở các nước thuộc địa

phương Đông không giống như ở các nước tư bản phương Tây. Các giai cấp ở

thuộc địa có sự khác nhau ít nhiều, nhưng đều chung một số phận mất nước,

giữa họ vẫn có sự tương đồng lớn, dù là địa chủ hay nông dân, họ đều chịu

chung số phận là người nô lệ mất nước.

Về mâu thuẫn của xã hội thuộc địa: Nếu như mâu thuẫn chủ yếu ở các

nước tư bản phương Tây là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản,

thì mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa phương Đông là mâu thuẫn giữa

dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực dân.

Dưới tác động của chính sách khai thác kinh tế, bóc lột tô thuế và cướp

đoạt ruộng đất, cùng với những chính sách cai trị của chủ nghĩa đế quốc, mỗi

giai cấp ở thuộc địa có địa vị kinh tế, thái độ chính trị khác nhau, thậm chí có

lợi ích phát triển ngược chiều nhau, hình thành nhiều mâu thuẫn đan xen

nhau, nhưng nổi lên mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc

bị áp bức với đế quốc xâm lược và tay sai của chúng. Do vậy, “Cuộc đấu

tranh giai cấp không diễn ra như ở phương Tây”.

60

Page 61: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Hồ Chí Minh phân tích xã hội Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc

xét “về mặt cấu trúc kinh tế không giống các xã hội phương Tây thời Trung

cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở

đây. Do mâu thuẫn chủ yếu khác nhau, tính chất cuộc đấu tranh cách mạng ở

các nước tư bản chủ nghĩa và các nước thuộc địa cũng khác nhau. Nếu như ở

các nước tư bản chủ nghĩa phải tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp, thì ở các

nước thuộc địa trước hết lại phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Đối tượng của cách mạng ở thuộc địa không phải là giai cấp tư bản bản

xứ, càng không phải là giai cấp địa chủ nói chung, mà là chủ nghĩa thực dân

và tay sai phản động.

Cách mạng xã hội là lật đổ nền thống trị hiện có và thiết lập một chế

độ xã hội mới. Cách mạng ở thuộc địa trước hết phải “lật đổ ách thống trị của

chủ nghĩa đế quốc” chứ chưa phải là cuộc cách mạng xoá bỏ sự tư hữu, sự

bóc lột nói chung.

Yêu cầu bức thiết của nhân dân các nước thuộc địa là độc lập dân tộc.

Trong phong trào cộng sản quốc tế, có quan điểm cho rằng “vấn đề cơ bản

của cách mạng thuộc địa là vấn đề nông dân”, và chủ chương nhấn mạnh vấn

đề ruộng đất, nhấn mạnh đấu tranh giai cấp.

Ở các nước thuộc địa, nông dân là lực lượng đông đảo nhất. Thực dân

Pháp thống trị và bóc lột nhân dân Việt Nam, thì chủ yếu là thống trị và bóc lột

nông dân. Nông dân là nạn nhân chính của các chính sách khai thác thuộc địa,

bóc lột tô thuế và cướp đoạt ruộng đất. Vì thế kẻ thù số một của nông dân là

bọn đế quốc thực dân. Nông dân có hai yêu cầu là độc lập dân tộc và ruộng đất,

nhưng họ luôn đặt yêu cầu độc lập dân tộc cao hơn so với yêu cầu ruộng đất.

Cùng với nông dân, tất cả các giai cấp và tầng lớp khác nhau đều có

nguyện vọng chung là “cứu giống nòi” ra khỏi cảnh “nước sôi lửa bỏng”.

Việc cứu nước là việc chung của cả dân tộc bị áp bức.

Mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa là mâu thuẫn dân tộc quy định tính chất

và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc.

61

Page 62: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc phân biệt ba loại

cách mạng: cách mạng tư sản, cách mạng vô sản, và cách mạng giải phóng

dân tộc, đồng thời, Người nhấn mạnh tính chất và nhiệm vụ của cách mạng

Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc. Người giải thích: Giai cấp nông

dân là bộ phận có số lượng lớn nhất trong dân tộc, nên giải phóng dân tộc chủ

yếu là giải phóng nông dân. Nông dân có yêu cầu về ruộng đất, nhưng nhiệm

vụ ruộng đất cần tiến hành từng bước thích hợp. Khi đánh đổ ách thống trị

của chủ nghĩa đế quốc, yêu cầu đó đã được đáp ứng một phần, vì ruộng đất

của bọn đế quốc và tay sai sẽ thuộc về nông dân. Đế quốc và tay sai là kẻ thù

số một của nông dân, lật đổ chế độ thuộc địa là nguyện vọng hàng đầu của

nông dân.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo

xác định những nhiệm vụ về chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, nhưng nổi lên

hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc. Trong tư duy

chính trị của Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải

phóng giai cấp và giải phóng con người.

Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941) do Hồ

Chí Minh chủ trì kiên quyết giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, nhấn

mạnh đó là “nhiệm vụ bức thiết nhất”, chủ trương tạm gác khẩu hiệu “cách

mạng ruộng đất” và chỉ tiến hành nhiệm vụ đó ở một mức độ thích hợp nhằm

phục vụ cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc.

Trong nhiều bài nói, bài viết thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống

Mỹ, Hồ Chí Minh tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Trong

kháng chiến chống thực dân Pháp. Người khẳng định: “Trường kỳ kháng

chiến nhất định thắng lợi, thống nhất, độc lập nhất định thành công”. Trong

kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Người nêu rõ “Tổ quốc ta nhất định sẽ thống

nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”

62

Page 63: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 26: Trình bày mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc theo

tư tưởng Hồ Chí Minh?

Gợi ý trả lời:

Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ

nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân.

Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước với ý chí quyết giải phóng gông

cùm nô lệ cho đồng bào. Người tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba, vì quốc tế

thứ ba có chủ trương giải phóng dân tộc bị áp bức.

Mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở thuộc địa chưa phải là giành quyền

lợi riêng biệt của mỗi giai cấp, mà là quyền lợi chung của toàn dân tộc. Đó là

những mục tiêu của chiến lược đấu tranh dân tộc, phù hợp với xu thế của thời

đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc, đáp ứng nguyện

vọng độc lập, tự do của quần chúng nhân dân.

Tuy nhiên, do những hạn chế trong nhận thức về thực tiễn của cách

mạng thuộc địa, lại chịu ảnh hưởng của tư tưởng giáo điều “tả khuynh”, nhấn

mạnh một chiều đấu tranh giai cấp. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành

Trung ương Đảng (10-1930) đã phê phán những quan điểm của Nguyễn Ái

Quốc. Nhưng, với bản lĩnh cách mạng kiên cường, bám sát thực tiễn Việt

Nam, kiên quyết chống giáo điều, tháng 5-1941 Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội

nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng, chủ trương “thay đổi

chiến lược”, từ nhấn mạnh đấu tranh giai cấp sang nhấn mạnh cuộc đấu tranh

giải phóng dân tộc Hội nghị khẳng định dứt khoát: “cuộc cách mạng Đông

Dương hiện tại không phải là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc

cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc

cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”...

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 cũng như những thắng lợi

trong 30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam1945 - 1975 trước hết là thắng

lợi của đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và tư tưởng độc lập

tự do của Hồ Chí Minh.

63

Page 64: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 27: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc

muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản?

Gợi ý trả lời:

Về nhận thức, bạn đọc phải thấy được con đường cách mạng vô sản là

con đường cứu nước mà Hồ Chí Minh lựa chọn cho cách mạng Việt Nam.

Trình bày câu này cần đề cập đến một số nội dung.

a. Rút ra bài học từ sự thất bại của các con đường cứu nước theo

khuynh hướng tư tưởng phong kiến, con đường cứu nước theo khuynh hướng

tư tưởng tư sản, sự khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam từ cuối

thế XIX đến đầu thế kỷ XX.

Việt Nam cũng nhiều dân tộc khác ở châu Á, châu Phi giữa thế kỷ XIX

đã trở thành đối tượng xâm lược của chủ nghĩa thực dân đế quốc.

Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, sau khi cơ bản kết thúc

giai đoạn vũ trang xâm lược, thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa, bóc

lột nhân dân ta...

Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp ngay từ khi

thực dân Pháp đặt chân lên đất nước ta với tinh thần yêu nước nồng nàn, bất

chấp chủ trương đầu hàng của triều đình phong kiến, nhân dân cả nước đã

vùng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Từ 1858 đến cuối thế kỷ XIX,

phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ bùng lên, dâng cao và lan

rộng ra cả nước, từ Trương Định, Nguyễn Trung Trực...ở Nam Bộ; Trần Tấn,

Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng... ở miền Trung đến

Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích... ở miền Bắc. Các cuộc nổi dậy

đều được thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước nhiệt thành và chí căm thù giặc sục

sôi...

Bước sang đầu thế kỷ XX phong trào yêu nước chống Pháp của nhân

dân ta chuyển sang xu hướng dân chủ tư sản, với sự xuất hiện của các phong

trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân...

64

Page 65: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Tất cả các phong trào cứu nước của ông cha, mặc dù đã diễn ra vô cùng

anh dũng, với tinh thần “người trước ngã, người sau đứng dậy”, nhưng rốt

cuộc đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Đất nước lâm vào “tình hình

đen tối tưởng như không có đường ra”. Đó là tình trạng khủng hoảng về

đường lối cứu nước ở Việt Nam đầu thế kỷ XX. Yêu cầu lịch sử lúc này đòi

hỏi là phải tìm ra con đường cứu nước mới.

Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã bị biến

thành thuộc địa, nhân dân phải chịu cảnh lầm thân, Người được chứng kiến

các phong trào cứu nước của ông cha. Hồ Chí Minh nhận thấy con đường cứu

nước của Phan Bội Châu chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa

sau”. Con đường cứu nước của Phan Chu Trinh cũng chẳng khác gì “xin giặc

rủ lòng thương”. Con đường cứu nước của Hoàng Hoa Thám tuy có phần thực

tế hơn, nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong kiến.

Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha,

nhưng Hồ Chí Minh không tán thành các con đường cứu nước của họ, mà

quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu nước mới. Ngày 5-6-1911, Người rời

đất nước đến nhiều quốc gia và châu lục trên thế giới để khảo nghiệm, tìm tòi

con đường cứu nước hữu hiệu hơn để về giúp đồng bào.

b. Cách mạng tư sản không triệt để

Những cuộc cách mạng tư sản là cách mạng không đến nơi, không triệt

để trong lịch sử, tiêu biểu là cách mạng tư sản Mỹ, cách mạng tư sản Pháp.

Trong khoảng 10 năm vượt qua các đại dương, đến với nhân loại cần

lao đang tranh đấu ở nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới, Nguyễn Ái

Quốc đã kết hợp tìm hiểu lý luận và khảo sát thực tiễn, nhất là ở ba nước tư

bản phát triển: Anh, Pháp, Mỹ.

Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, tìm hiểu thực tiễn cuộc

cách mạng tư sản Mỹ, đọc Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của cách

mạng Pháp, tìm hiểu cách mạng tư sản Pháp. Người nhận thấy: “Cách mệnh

Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không

65

Page 66: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công

nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Bởi lẽ đó, Người không đi theo con

đường cách mạng tư sản.

c. Con đường giải phóng dân tộc

Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Hồ Chí Minh

thấy được Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là một cuộc cách mạng vô

sản mà còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.

Người, “hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba”, chính vì Lênin

và Quốc tế thứ ba đã “bênh vực cho các dân tộc bị áp bức”. Người thấy trong

lý luận của Lênin một phương hướng mới để giải phóng dân tộc: con đường

cách mạng vô sản.

Trong bài Cuộc kháng Pháp, Hồ Chí Minh viết: “chỉ có giải phóng giai

cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có

thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”6.

Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách

mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết

cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin và lựa chọn khuynh hướng chính trị vô

sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con

đường nào khác con đường cách mạng vô sản”, “...chỉ có chủ nghĩa xã hội,

chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những lao

động trên thế giới khỏi ách nô lệ”, từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, và thế

giới Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Trong thời đại ngày nay cách mạng

giải phóng dân tộc muốn thành công phải đi theo con đường cách mạng vô

sản...

Con đường cách mạng vô sản - Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa

xã hội là luận điểm trọng tâm, xuyên suốt toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây

cũng là quan điểm khác nhau cơ bản giữa con đường cứu nước của Hồ Chí

Minh với con đường cứu nước của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh.

6 Hồ Chí Minh, toàn tập. T1 tr 416

66

Page 67: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam Đảng ta luôn gắn

mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

Ngày nay Đảng và nhân dân ta vẫn kiên định con đường cách mạng vô

sản - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn.

Câu 28: theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Cách mạng giải phóng dân tộc

trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo?

Gợi ý trả lời:

Giải đáp câu hỏi trên đòi hỏi bạn đọc phải nhận thức được vị trí, vai trò

của Đảng, của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đây là điều kiện quyết định đưa

cách mạng đến thắng lợi.

Trong phong trào cứu nước,giải phóng dân tộc trước khi Đảng Cộng

sản Việt Nam ra đời (năm 1930), các hội, đoàn thể, Đảng đã xuất hiện. Những

Đảng này do thiếu một đường lối chính trị đúng đắn, chưa có một cơ sở lý

luận dẫn đường, thiếu tổ chức chặt chẽ. Nên đã không thể lãnh đạo phong trào

giải phóng dân tộc thắng lợi được.

Từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), cuộc cách

mạng do Đảng Cộng sản (Bônsêvich) lãnh đạo. Hồ Chí Minh đã nhận thức

đứng đắn rằng cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi trước hết phải có

Đảng lãnh đạo.

Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc phân tích: Muốn

làm cách mạng thì phải bền gan, đồng chí, đồng lòng và quyết tâm. “lại phải

biết cách làm thì mới chóng”. Sửa cái xã hội cũ đã mấy ngàn năm làm xã hội

mới, ấy là rất khó. Nhưng biết cách làm, biết đồng tâm hiệp lực mà làm thì

chắc làm được, thế thì không khó. Khó dễ cùng tại mình, mình quyết chí làm

thì làm được”.

Nhưng muốn làm cách mệnh “trước phải làm cho dân giác ngộ... phải

giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu” “Cách mệnh phải hiểu phong

67

Page 68: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

triều thế giới, phải bày sách lược cho dân... Vậy nên sức cách mệnh phải tập

trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh”. Đảng là điều kiện đầu tiên để

đảm bảo cho sự thắng lợi của của cách mạng. Hồ Chí Minh đặt vấn đề: “cách

mệnh trước hết phải có cái gì?”. Người đã khẳng định rằng: “Trước hết phải

có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên

lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh

mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy... Đảng

muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết nhiều, chủ

nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh

nhất là chủ nghĩa Lênin1.

Đảng cách mệnh mà Hồ Chí Minh đề cập, đó là Đảng Cộng sản - tiên

phong của giai cấp công nhân - lực lượng chủ lực của cách mạng vô sản.

Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng là: Xác định mục tiêu của cách mạng xây dựng

đường lối của cách mạng giải phóng dân tộc, thông qua cương lĩnh đường lối

của mình... Để đáp ứng được với những yêu cầu nhiệm vụ đó, Đảng Cộng sản

phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin, được vũ

trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất.

Đầu năm 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính

Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác Lênin

“làm cốt”, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh và mật thiết liên lạc với

quần chúng.

Theo Hồ Chí Minh, đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp

công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.

Kết hợp lý luận Mác - Lênin về Đảng Cộng sản với thực tiễn cách

mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa

Mác Lênin trên một loạt vấn đề về cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng

nên một lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Lý luận đó không chỉ được

1 Hồ Chí Minh toàn tập T2 - tr 267 - 267 - 268

68

Page 69: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

truyền bá trong phong trào công nhân, mà cả trong phong trào yêu nước, giải

quyết vấn đề đường lối cứu nước gắn liền với sự chuẩn bị những điều kiện về

tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự ra đời một chính đảng cách mạng Việt

Nam, sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam.

Phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản, Người

cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là “Đảng của giai cấp vô sản”, đồng thời

là “Đảng của dân tộc Việt Nam”. “Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân

lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và người lao động trí óc

kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ

quốc và nhân dân”.

Khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân

và dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nêu một luận điểm quan trọng, bổ sung

thêm cho lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về đảng cộng sản, định hướng

cho việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành một Đảng có sự gắn kết

chặt chẽ với giai cấp công nhân, và nhân dân lao động và cả dân tộc trong mọi

thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Mọi người Việt Nam yêu nước dù là đảng

viên hay không, đều thật sự cảm nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của

Bác Hồ, là Đảng của mình và đều gọi Đảng là “Đảng ta”.

Hồ Chí Minh đã xây dựng được một Đảng cách mạng tiên phong, phù

hợp với thực tiễn Việt Nam, gắn bó với nhân dân, với dân tộc, một lòng một

dạ phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, được dân tộc thừa nhận là đội tiên

phong của mình.

Ngay từ khi mới ra đời, Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập đã quy tụ được

lực lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt

Nam. Đó là một đặc điểm và đồng thời là một ưu điểm của Đảng. Nhờ đó,

ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với cách

mạng Việt Nam và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi cuả

cách mạng.

69

Page 70: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chỉ có sự lãnh đạo của Đảng biết vận dụng một

cách sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì

mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi, cách mạng xã hội

chủ nghĩa đến thành công.

Câu 29: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Lực lượng của cách mạng giải

phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc?

Gợi ý trả lời:

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người làm ra lịch

sử. Cách mạng phải tiến hành bằng bạo lực cách mạng. Tiếp thu quan điểm

đó của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ năm 1924, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một

cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân. Người cho rằng: “Để có cơ thắng lợi, một

cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương: Phải có tính chất một cuộc khởi

nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải

được chuẩn bị trong quần chúng”.

Từ thực tiễn lịch sử phong trào cách mạng trong nước và trên thế giới.

Hồ Chí Minh đã nhìn thấy sức mạnh, lực lượng to lớn của nhân dân. Hồ Chí

Minh nghiêm khắc phê phán việc lấy ám sát cá nhân và bạo động non làm

phương thức hành động, “hoặc xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức,

hoặc làm cho dân quen ỷ lại, mà quên tính tự cường”. Người khẳng định cách

mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người.

Trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân

(22-12-1944). Nguyễn Ái Quốc viết: “Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng

chiến toàn dân, phải động viên, vũ trang nhân dân”.

Trong Cách mạng Tháng Tám 1945 cũng như hai cuộc kháng chiến

chống Pháp và chống Mỹ, Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh.

Hồ Chí Minh chủ trương phát động chiến tranh nhân dân... Người nói không

dùng toàn lực lượng của nhân dân về mọi mặt để ứng phó không thể nào

thắng lợi được. Quan điểm “lấy dân làm gốc” xuyên suốt quá trình chỉ đạo

chiến tranh của Người.

70

Page 71: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dân trong

khởi nghĩa vũ trang. “Có dân là có tất cả”. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng

lực sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi. Người

khẳng định: “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không

chống lại nổi”.

Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam , theo Hồ Chí

Minh là lực lượng của toàn dân tộc. Dưới chế độ cai trị của chủ nghĩa tư bản

Pháp, từ một xã hội phong kiến độc lập, Việt Nam biến thành một xã hội

thuộc địa nửa phong kiến. Trong một xã hội thuộc địa bị thực dân Pháp thống

trị, không chỉ công nhân, nông dân mà cả tư sản dân tộc, tiểu tư sản, một bộ

phận địa chủ nhỏ và vừa đều là những người Việt Nam chịu nỗi nhục mất

nước. Họ đều có khả năng tham gia phong trào giải phóng dân tộc. Hồ Chí

Minh viết: “Dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công

thương đều nhất trí chống lại cường quyền. Trong Cương lĩnh chính trị đầu

tiên của Đảng Người xác định lực lượng cách mạng bao gồm cả dân tộc:

Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, tập hợp đại bộ phận nông

dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng

ruộng đất, lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông... đi vào phe vô sản giai

cấp; đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt

phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ

phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng lập hiến) thì phải đánh đổ”.

Trong lực lượng toàn dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định: công nông “là

gốc cách mạng” đây là một vấn đề hết sức mới mẻ của Người so với nhận

thức của những nhà yêu nước trước đó.

Trong khi coi công, nông “là gốc cách mạng” là chủ lực quân cách

mạng, Hồ Chí Minh vẫn coi tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ phận giai cấp

địa chủ là bạn đồng minh của cách mạng. Người chỉ rõ... “học trò nhà buôn

nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông,

ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”.

71

Page 72: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 30: Trình bày luận điểm của Hồ Chí Minh: “Cách mạng giải

phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng

giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc?

Gợi ý trả lời:

Đây là luận điểm mới và sáng tạo của Hồ Chí Minh, sinh viên cần nắm

vững nội dung sau:

Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn tư bản độc quyền (đế quốc

chủ nghĩa), nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về

thị trường. Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm

lược thuộc địa. Các nước thuộc địa trở thành một trong những nguồn sống của

chủ nghĩa đế quốc.

Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản đế

quốc đều lấy ở các xứ thuộc địa”... Người thẳng thắn phê bình một số đảng

cộng sản không thấy được vấn đề quan trọng đó.

Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân,

cách mạng thuộc địa có tầm quan trọng đặc biệt. Nhân dân các dân tộc thuộc

địa có khả năng cách mạng to lớn. Người đánh giá rất cao sức mạnh của một

dân tộc vùng dậy chống đế quốc thực dân. Người chủ trương phát huy nỗ lực

chủ quan của dân tộc, tránh tư tưởng bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên

ngoài. Người chỉ rõ “muốn được giải phóng các dân tộc chỉ có thể trông cậy

vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân” Tháng 8 -1945 khi thời cơ

cách mạng xuất hiện, Người kêu gọi: “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem

sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Người nói: “Kháng chiến trường kỳ gian khổ đồng thời lại phải tự lực

cánh sinh. Trông vào sức mình... Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là

quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác.

Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì

không xứng đáng được độc lập.

72

Page 73: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Hồ Chí Minh đánh giá đúng vai trò, vị trí chiến lược cách mạng thuộc

địa, sức mạnh dân tộc và mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa với cách

mạng vô sản ở chính quốc.

Vào những năm 20 của thế kỷ XX, trong phong trào cộng sản quốc tế

đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc

vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Quan điểm này, vô hình

trung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của phong trào cách mạng ở thuộc

địa.

Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và

cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động

qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế

quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc, hoặc

quan hệ chính - phụ. Năm 1925, Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa tư bản là một

con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi

khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy,

người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì

cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp

tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”. Hồ Chí Minh còn chỉ ra “Ngày

mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ

sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình

thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều

kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ

những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn

toàn”.

Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và

sức mạnh dân tộc, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở

thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.

Quan điểm này thể hiện tính đúng đắn là nhận thức thuộc địa là một

khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, đánh giá đúng tinh thần dân

73

Page 74: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

tộc đánh giá đúng khả năng tiềm tàng, sức mạnh đấu tranh của các dân tộc

thuộc địa; tính sáng tạo không chỉ dừng lại ở mối quan hệ cách mạng thuộc

địa với cách mạng chính quốc mà khẳng định cách mạng thuộc địa có khả

năng giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc và thúc đẩy cách mạng

chính quốc.

Luận điểm trên của Hồ Chí Minh được Đảng ta vận dụng trong quá

trình đấu tranh cách mạng 15 năm (1930-1945), nhờ vậy đã đưa đến thắng lợi

Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng

lợi đã chứng minh sự đúng đắn của luận điểm trên.

Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn;

một cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ

nghĩa Mác - Lênin, đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng

dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn

đúng đắn.

Câu 31: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Cách mạng giải phóng dân tộc

phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực?

Gợi ý trả lời:

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, bạo lực là bà đỡ của mọi

chính quyền cách mạng; vì giai cấp thống trị bóc lột không bao giờ tự giao

chính quyền cho lực lượng cách mạng.

Hồ Chí Minh nghiên cứu tập trung bàn về cuộc đấu tranh chống chủ

nghĩa thực dân, đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa, cũng chỉ ra trong

cuộc đấu tranh cách mạng này phải được tiến hành bằng con đường cách

mạng bạo lực là tất yếu.

Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc

địa, đàn áp dã man các phong trào yêu nước “Chế độ thực dân, tự bản thân nó,

đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”... Vì thế con

74

Page 75: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

đường giải phóng của các dân tộc thuộc địa chỉ có thể là con đường cách

mạng bạo lực.

Hồ Chí Minh đánh giá đúng bản chất cực kỳ phản động của bọn đế

quốc và tay sai, Hồ Chí Minh chỉ rõ tính tất yếu của bạo lực cách mạng:

“Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần

dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính

quyền và bảo vệ chính quyền.

Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin cho rằng sự nghiệp cách

mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhân dân làm nên lịch sử Hồ

Chí Minh cho rằng bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng.

Trong thời kỳ vận động giải phóng dân tộc 1940 - 1945, Người cùng

với Trung ương Đảng chỉ đạo xây dựng cơ sở của bạo lực cách mạng bao

gồm hai lực lượng: lưu lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân

dân. Theo sáng kiến của Người, thành lập Mặt trận Việt Minh. Đó là nơi tập

hợp, giác ngộ và rèn luyện lực lượng chính trị quần chúng, một lực lượng cơ

bản và giữ vai trò quyết định trong tổng khởi nghĩa vũ trang:

Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu

tranh vũ trang, nhưng phải “Tuỳ tình hình cụ thể mà quyết định những hình

thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình

thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách

mạng”.

Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, bạo lực thể hiện bằng sử

dụng lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị đóng vai trò chủ yếu trong đấu

tranh giành chính quyền thắng lợi. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp từ

1946 đến 1954, bạo lực thể hiện, bằng lực lượng vũ trang, và đấu tranh vũ

trang đóng vai trò chủ yếu trong tiêu diệt sinh lực địch. Trong cuộc kháng

chiến chống Mỹ cứu nước từ 1954 đến 1975; giai đoạn từ 1954 đến 1960 bạo

lực cách mạng thể hiện bằng đấu tranh chính trị là hình thức chủ yếu để phá

tan chiến lược chiến tranh đơn phương và mọi thủ đoạn chính trị của kẻ thù.

75

Page 76: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Giai đoạn từ 1960 - 1975 sau khi cách mạng miền Nam chuyển thành chiến

tranh cách mạng thì bạo lực cách mạng thể hiện bằng đấu tranh vũ trang trở

thành hình thức chủ yếu, kết hợp với đấu tranh chính trị thực hiện 3 mũi giáp

công quân sự chính trị, binh vận tiến công địch, đánh bại từng chiến lược

chiến tranh của Mỹ - Nguỵ, tiến tới đánh bại chúng hoàn toàn.

Trong chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ

trang giữ vị trí quyết định trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch...

Nhưng đấu tranh vũ trang không tách biệt với đấu tranh chính trị. Theo Hồ

Chí Minh , các đoàn thể cách mạng càng phát triển, quần chúng đấu tranh

chính trị càng mạnh thì càng có cơ sở làm cho lực lượng vũ trang và đấu

tranh vũ trang phát triển.

b.Tư tưởng bạo lực cách mạng gắn bó hữu cơ với tư tưởng nhân đạo và

hoà bình.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng khác hẳn tư tưởng hiếu

chiến của các thế lực đế quốc xâm lược. Xuất phát từ tình yêu thương con

người, quý trọng sinh mạng con người. Người luôn luôn tranh thủ khả năng

giành và giữ chính quyền ít đổ máu. Người tìm mọi cách ngăn chặn xung đột

vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp hoà bình,

chủ động đàm phán, thương lượng, chấp nhận những nhượng bộ có nguyên

tắc.

Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ khi

không còn khả năng hoà hoãn, khi kẻ thù quyết tâm gây chiến tranh xâm lược

nước ta, cố bám giữ lập trường thực dân, chỉ muốn giành thắng lợi bằng quân

sự thì Hồ Chí Minh mới kiên quyết, phát động chiến tranh, dùng bạo lực cách

mạng để bảo vệ cách mạng, bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc.

c. Hình thái bạo lực cách mạng

Theo Hồ Chí Minh trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc “lực lượng

chính là ở dân”. Người chủ trương tiến hành khởi nghĩa toàn dân và chiến

76

Page 77: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

tranh nhân dân. Hồ Chí Minh nói: “không dùng toàn lực của nhân dân về đủ

mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi được”.

Toàn dân khởi nghĩa, toàn dân nổi dậy là nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ

Chí Minh về hình thái của bạo lực cách mạng khi ứng dụng vào

khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm 1945.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược “quân

sự là việc chủ chốt”, nhưng đồng thời phải kết hợp chặt chẽ

với đấu tranh chính trị “thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi

chính trị, thắng lợi chính trị sẽ làm cho thắng lợi quân sự to

lớn hơn”.

Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có ý nghĩa

chiến lược, có tác dụng thêm bạn bớt thù, phân hoá và cô lập

kẻ thù, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ quốc tế, Hồ Chí Minh

chủ trương “vừa đánh vừa đàm”, “đánh là chủ yếu, đàm là hỗ

trợ”.

Để tạo sức mạnh tổng hợp, Hồ Chí Minh không chỉ thực

hiện chiến tranh nhân dân mà còn thực hiện chiến tranh toàn

diện, chiến tranh trên lĩnh vực kinh tế, văn hoá, tư tưởng...

Trước kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng

phương châm chiến lược đánh lâu dài.

Tự lực cánh sinh cũng là phương châm chiến lược rất

quan trọng, nhằm phát huy cao độ nguồn sức mạnh chủ quan,

tránh tư tưởng bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài.

Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ của quốc tế, nhưng Hồ Chí

Minh luôn đề cao sức mạnh bên trong đề cao tinh thần tự lực

cánh sinh, độc lập tự chủ. Đó là quan điểm trước sau như một trong tư tưởng

Hồ Chí Minh.

77

Page 78: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 32: Quan niệm của Hồ Chí Minh về tính tất yếu của chủ nghĩa

xã hội ở Việt Nam?

Gợi ý trả lời:

Tổng kết lịch sử phương Tây, Mác - Ăngghen đã chỉ ra tính tất yếu của

sự ra đời của chủ nghĩa xã hội trong tiến trình lịch sử nhân loại. Lịch sử loài

người trải qua các hình thái kinh tế - xã hội, hình thái kinh tế - xã hội sau tiến

bộ hơn hình thái kinh tế - xã hội trước lỗi thời lạc hậu.

Mác bằng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã chứng minh rằng hình

thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ được thay thế bằng một hình

thái cao hơn, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu

của nó là chủ nghĩa xã hội.

Lênin phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội trong điều kiện chủ nghĩa

tư bản từ tự do cạnh tranh đã chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền, tức

giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga

1917, chủ nghĩa xã hội đã từ lý luận trở thành hiện thực. Chủ nghĩa xã hội với

tư cách một chế độ xã hội, sau khi đã hoàn thiện sẽ là bước phát triển cao hơn

và tốt đẹp hơn so với chủ nghĩa tư bản.

Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận. Mác - Lênin về sự

phát triển tất yếu của xã hội loài người theo các hình thái kinh tế - xã hội.

Theo quan điểm của Người: Tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất

yếu ở Việt Nam sau khi nước nhà đã giành được độc lập theo con đường cách

mạng vô sản.

Mục tiêu giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản mà Hồ

Chí Minh đã lựa chọn cho dân tộc Việt Nam là nước nhà được độc lập, nhân

dân được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, tức là sau khi giành độc

lập dân tộc, nhân dân ta sẽ xây dựng một xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.

Bởi vì đất nước độc lập mà dân còn đói, rét thì độc lập cũng chẳng có nghĩa

gì?

78

Page 79: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, khi đã tin theo lý luận về

chủ nghĩa cộng sản khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã

khẳng định rằng: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho

mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác

ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người,

niềm vui, hoà bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hoà thế giới chân

chính, xoá bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những

vách tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu

thương nhau”.

“Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc. Cả

hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và

cách mạng thế giới”.

Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Người soạn thảo, đã

nêu rõ: Đảng “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách

mạng để đi tới xã hội cộng sản.

Năm 1960 trong bài Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí

Minh khẳng định rõ hơn: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới

giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới

khỏi ách nô lệ.

Cách mạng giải phóng dân tộc đem lại độc lập tự do, cách mạng xã hội

chủ nghĩa đem lại ấm no, hạnh phúc giải phóng con người một cách triệt để.

Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và

chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.

Tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam sau khi

nước nhà giành độc lập theo con đường cách mạng vô sản. Đó là ngọn cờ độc

lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế

hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.

79

Page 80: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 33: Hãy nêu quan niệm của Hồ Chí Minh về những đặc trưng

bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?

Gợi ý trả lời:

a. Bản chất của chủ nghĩa xã hội - với tư cách là một chế độ xã hội, giai

đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa

Mác - Lênin luận giải qua một số đặc trưng cơ bản:

- Xoá bỏ từng bước chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ sở

hữu công cộng để giải phóng cho sức sản xuất xã hội phát triển.

- Có một nền đại cộng nghiệp cơ khí với trình độ khoa học và công

nghệ hiện đại có khả năng cải tạo nông nghiệp, tạo ra năng suất lao động cao

hơn chủ nghĩa tư bản.

- Thực hiện sản xuất có kế hoạch, tiến tới xoá bỏ sản xuất hàng hoá trao

đổi tiền tệ (quan niệm này về sau đã được điều chỉnh với Chính sách kinh tế

mới của Lênin).

- Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, thể hiện sự công bằng

và bình đẳng về lao động và hưởng thụ.

- Khắc phục dần sự khác biệt giữa các giai cấp, giữa nông thôn và

thành thị, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, tiến tới một xã hội tương

đối thuần nhất về giai cấp.

- Giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, nâng cao trình độ

tư tưởng và văn hoá cho nhân dân, tạo điều kiện cho con người tận lực phát

triển mọi khả năng sẵn có của mình.

b. Thống nhất với tư tưởng của các nhà kinh điển Mác - Lênin, nêu ra

những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản. Hồ

Chí Minh trong thực tiễn chỉ đạo công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã

hội trên miền Bắc nước ta, ở những thời điểm khác nhau, đã nêu lên quan

niệm của mình về những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội. Điểm đặc

80

Page 81: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

sắc ở Hồ Chí Minh là phát triển các nguyên lý lý luận, phức tạp, khoa học

bằng ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày.

Một số định nghĩa cơ bản về chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã tiếp

cận: Hồ Chí Minh có quan niệm tổng quát khi coi chủ nghĩa cộng sản, chủ

nghĩa xã hội như là một chế độ xã hội bao gồm các mặt rất phong phú, hoàn

chỉnh, trong đó con người được phát triển toàn diện tự do. Người viết: “Chỉ

có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân

biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết ấm no trên

quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hoà bình hạnh

phúc, nói tóm lại là nền cộng hoà thế giới chân chính, xoá bỏ những biên giới

tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những

người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau”.

Hồ Chí Minh diễn đạt quan niệm của mình về chủ nghĩa xã hội ở Việt

Nam bằng cách chỉ ra một mặt nào đó của nó, như về kinh tế, chính trị, văn

hoá, xã hội... Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe lửa

ngân hàng v.v... làm của chung. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít,

ai không làm thì không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ

con”.

Khi nhấn mạnh mặt kinh tế, Hồ Chí Minh nêu chế độ sở hữu công cộng

của chủ nghĩa xã hội và phân phối theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin

là làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có phúc lợi xã hội.

Về chính trị, Người nhấn mạnh mặt bản chất nhất của chủ nghĩa xã hội,

đó là nhà nước dân chủ kiểu mới, nhà nước của dân do dân vì dân Người viết:

“Nhà nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân chỉ lo làm lợi cho nhân dân,

trước hết là nhân dân lao động, ngày càng được tiến bộ về vật chất và tinh

thần, làm cho trong xã hội không có người bóc lột người1

- Hồ Chí Minh quan niệm về chủ nghĩa xã hội ở nước ta bằng cách

nhấn mạnh mục tiêu vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân là làm sao cho dân

1 Sđd. T8 tr 276

81

Page 82: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

giàu nước mạnh. Trong hơn 20 định nghĩa về chủ nghĩa xã hội thống kê thì

hơn 2/3 định nghĩa thuộc loại này, chẳng hạn, Hồ Chí Minh hỏi “Chủ nghĩa

xã hội là gì” và Người tự trả lời “là mọi người được ăn no mặc ấm, sung

sướng tự do”, Hồ Chí Minh nêu “chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống

vật chất và văn hoá của nhân dân và do dân tự xây dựng lấy”.

Nhấn mạnh động lực tinh thần và ý thức xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí

Minh coi: “chủ nghĩa xã hội không phải là cái gì cao xa, mà đó là cái gì rất cụ

thể như ý thức lao động tập thể, ý thức kỷ luật, tinh thần thi đua yêu nước

tăng sản xuất cho hợp tác xã, tăng thu nhập cho xã hội, tinh thần đoàn kết

tương trợ tinh thần, dám nghĩ, dám nói, dám làm, không sợ khó, ý thức cần

kiệm”.

Đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo Hồ Chí

Minh, cũng trên cơ sở của lý luận Mác - Lênin, nghĩa là trên những mặt về

chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Còn về cụ thể, chúng ta thấy Hồ Chí Minh

nhấn mạnh chủ yếu trên những quan điểm sau đây:

+ Đó là một chế độ chính trị do nhân dân làm chủ.

+ Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao,

gắn liền với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật.

+ Chủ nghĩa xã hội là chế độ không còn người bóc lột người.

+ Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hoá, đạo đức.

Các đặc trưng nêu trên là một hình thức thể hiện một hệ thống giá trị

vừa kế thừa các di sản của quá khứ, vừa được sáng tạo mới trong quá trình

xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một khi tất cả các giá trị đó đã đạt được thì loài

người sẽ vươn tới lý tưởng cao nhất chủ nghĩa xã hội, đó là “liên hợp tự do

của những người lao động” mà C.Mác, Ph.Ăngghen đã dự báo. Ở đó, cá tính

của con người được phát huy cao nhất, giá trị con người được thực hiện toàn

diện... Nhưng theo Hồ Chí Minh, đó là một quá trình phấn đấu khó khăn, gian

khổ, lâu dài, dần dần và không thể nôn nóng.

82

Page 83: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 34: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu động lực

của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?

Gợi ý trả lời:

Bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội có quan hệ chặt chẽ với

nhau. Những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí

Minh sau khi được nhận thức đều trở thành những mục tiêu cơ bản cần đạt tới

trong quá trình xây dựng và hoàn thiện chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Ở Hồ Chí Minh mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn

đấu của Người là một, đó là độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân

dân, đó là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn

tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.

Hồ Chí Minh nêu ra mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội: “không

ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân

dân lao động”.

Hồ Chí Minh đã xác định các mục tiêu cụ thể của thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Về mục tiêu chính trị: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ quá độ

lên chủ nghĩa xã hội, chế độ chính trị là nhân dân lao động làm chủ. Nhà nước

là của dân, do dân, vì dân. Người nói: Nhà nước của ta là nhà nước dân chủ

nhân dân dựa trên nền tảng liên minh, công, nông, do giai cấp công nhân lãnh

đạo.

Về mục tiêu kinh tế: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nền kinh tế mà chúng

ta xây dựng là “một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông

nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến” đời sống vật chất và văn hoá

của nhân ngày càng được cải thiện.

Về mục tiêu văn hoá xã hội: Theo Hồ Chí Minh, văn hoá là một mục

tiêu cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền văn hoá có nội

dung xã hội chủ nghĩa, có tính chất dân tộc, có khả năng thoả mãn nhu cầu

tinh thần ngày càng cao của nhân dân lao động.

83

Page 84: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ

nghĩa là đào tạo con người. Bởi lẽ mục tiêu cao nhất, động lực quyết định

nhất công cuộc xây dựng chính là con người.

Để hoàn thành được những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, điều quan

trọng theo Hồ Chí Minh là phải nhận thức, vận dụng và phát huy tất cả các

động lực của chủ nghĩa xã hội.

Động lực hiểu một cách tóm tắt là tất cả những nhân tố góp phần thúc

đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội thông qua hoạt động của con người.

Các động lực của chủ nghĩa xã hội, bao gồm động lực bên trong và

động lực bên ngoài, động lực vật chất và động lực tinh thần, các động lực cụ

thể, kinh tế, chính trị, văn hoá, trong đó động lực quan trọng và quyết định

nhất là con người, là nhân dân lao động, nòng cốt là công - nông - trí thức. Hồ

Chí Minh thường xuyên quan tâm đến lợi ích chính đáng, thiết thân của họ,

đồng thời chăm lo bồi dưỡng sức dân. Đó là lợi ích của nhân dân và từng cá

nhân.

Nói con người là động lực của chủ nghĩa xã hội, hơn nữa là động lực

quan trọng nhất. Hồ Chí Minh đã nhận thấy ở động lực này có sự kết hợp giữa

cá nhân (sức mạnh, cá thể) với xã hội (sức mạnh cộng đồng), sức lao động

sáng tạo của nhân dân đó là sức mạnh tổng hợp tạo nên động lực quan trọng

của chủ nghĩa xã hội.

Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất

kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người mọi nhà trở

nên giàu có, ích quốc lợi dân.

Cùng với động lực kinh tế, Hồ Chí Minh cũng quan tâm tới văn hoá,

khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần không thể thiếu của chủ nghĩa

xã hội.

Ngoài động lực bên trong (nội lực), theo Hồ Chí Minh phải kết hợp

được với sức mạnh thời đại (ngoại lực), tăng cường đoàn kết quốc tế. Chủ

84

Page 85: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

nghĩa yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân,

phải sử dụng tốt những thành quả khoa học - kỹ thuật thế giới.

Nét độc đáo trong phong cách tư duy biện chứng Hồ Chí Minh là ở chỗ

bên cạnh việc chỉ ra các nguồn động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội,

Người còn lưu ý, cảnh báo và ngăn ngừa các yếu tố kìm hãm, làm cho chủ

nghĩa xã hội trở nên trì trệ, không có sức hấp dẫn, đó là tham ô, lãng phí, quan

liêu... mà Người gọi đó là “giặc nội xâm”.

Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định rất rõ nội lực là quyết

định nhất, ngoại lực là rất quan trọng. Chính vì thế, Người hay nêu cao tinh

thần độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh là chính, nhưng luôn luôn chú trọng

tranh thủ sự giúp đỡ hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh

quốc tế tạo thành sức mạnh tổng hợp để xây dựng thành công chủ nghĩa xã

hội trên cơ sở bảo đảm các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, không can

thiệp vào công việc nội bộ của nhau, chung sống hoà bình và phát triển.

Câu 35: Quan niệm của Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam?

Gợi ý trả lời:

Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin khẳng định tính tất yếu khách

quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chỉ rõ vị trí lịch sử, nhiệm vụ

đặc thù của nó trong quá trình vận động, phát triển của hình thái kinh tế - xã

hội cộng sản chủ nghĩa.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin đã nêu ra hai con đường

quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Con đường quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội

từ những nước tư bản phát triển ở trình độ cao và con đường quá độ gián tiếp

lên chủ nghĩa xã hội ở những nước chủ nghĩa tư bản phát triển còn thấp. V.I

Lênin còn chỉ ra, đối với những nước có nền kinh tế lạc hậu, chưa trải qua

thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản, cũng có thể đi lên chủ nghĩa xã hội

được trong điều kiện cụ thể nào đó, nhất là trong điều kiện đảng kiểu mới của

85

Page 86: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

giai cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo (trở thành đảng cầm quyền) và được một

hay nhiều nước tiên tiến giúp đỡ.

Vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác Lênin

về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và xuất phát từ đặc điểm tình hình thực

tế Việt Nam, Hồ Chí Minh quan niệm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

ở Việt Nam là một hình thái quá độ gián tiếp.

Người đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải

phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên

chủ nghĩa xã hội. Cụ thể là quá độ từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến,

nông nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa.

Chính ở nội dung cụ thể này, Hồ Chí Minh đã cụ thể và làm phong phú thêm

lý luận Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,

nước ta có đặc điểm to lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên

chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.

Đặc điểm này chi phối các đặc điểm khác, thể hiện trong tất cả các lĩnh vực

của đời sống xã hội và làm cơ sở nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Trong đó, Hồ Chí

Minh đặc biệt lưu ý đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó là mâu

thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực

trạng kinh tế - xã hội quá thấp kém của nước ta.

Câu 36: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ

qúa độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là gì?

Gợi ý trả lời:

- Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

bao gồm hai nội dung lớn.

Một là: xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội,

xây dựng các tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng cho chủ nghĩa xã

hội.

86

Page 87: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Hai là: Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây

dựng, trong đó lấy xây dựng làm trọng tâm, làm nội dung cốt yếu nhất, chủ

chốt, lâu dài.

Theo Hồ Chí Minh, do những đặc điểm và tính chất qui định quá độ lên

chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một quá trình dần dần, khó khăn, phức tạp và

lâu dài, và được Người lý giải vấn đề đó trên các điểm sau:

Thứ nhất; đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời

sống và xã hội, cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và

kiến trúc thượng tầng. Nó đặt ra và đòi hỏi đồng thời giải quyết hàng loạt mâu

thuẫn khác nhau. Mâu thuẫn của thời kỳ quá độ ở nước ta là mâu thuẫn giữa

yêu cầu phải tiến lên xây dựng một chế độ mới có kinh tế công nghiệp, nông

nghiệp hiện đại, có Văn hoá khoa học tiên tiến với trình độ lạc hậu, kém phát

triển, lại phải đối phó với bao thế lực cản trở, phá hoại mục tiêu của chúng ta.

Thứ hai, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước

và nhân dân ta chưa có kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là công

việc hết sức mới mẻ đối với Đảng ta, nên phải vừa làm,vừa học và có thể có

vấp váp và thiếu sót. Người nói “cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một

cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất”, bởi vì “chúng ta phải xây dựng

một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta.

Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống thói quen ý nghĩ va thành kiến

có gốc rễ sâu xa hàng nghìn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ,

xoá bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới... phải dần dần biến

nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp.

Thứ ba, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta luôn luôn bị các

thế lực phản động trong và ngoài nước tìm cách chống phá.

Từ việc chỉ rõ tính chất của thời kỳ quá độ. Hồ Chí Minh luôn luôn

nhắc nhở cán bộ, đảng viên trong xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thận trọng

tránh nôn nóng chủ quan, đốt cháy giai đoạn.

87

Page 88: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 37: Hãy nêu quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng

chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ?

Gợi ý trả lời:

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một sự nghiệp cách

mạng mang tính toàn diện. Hồ Chí Minh đã xác định rõ nhiệm vụ cụ thể cho

từng lĩnh vực.

Trong lĩnh vực chính trị, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và

phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng phải luôn luôn tự đổi mới và tự

chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, có hình thức tổ chức

phù hợp để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ mới. Bước vào thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội. Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền. Mối quan tâm lớn nhất

của Người về Đảng cầm quyền là làm sao cho Đảng không xa dân, quan liêu

thoái hoá, biến chất, làm mất lòng tin của dân...

Một nội dung chính trị quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa

xã hội là củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên

minh công nhân, nông dân và trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo,củng cố và

tăng cường sức mạnh toàn bộ hệ thống chính trị cũng như từng thành tố của

nó.

- Nội dung kinh tế được Hồ Chí Minh đề cập trên các mặt lực lượng

sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế. Người nhấn mạnh đến việc

tăng năng xuất lao động trên cơ sở tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ

nghĩa. Đối với cơ cấu kinh tế, Hồ Chí Minh đề cập cơ cấu ngành và cơ cấu

các thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ.

Người quan niệm hết sức độc đáo về cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp,

lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống thương nghiệp làm

cầu nối tốt nhất giữa các ngành sản xuất xã hội, thoả mãn nhu cầu thiết yếu

của nhân dân.

Ở nước ta, Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu

kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

88

Page 89: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Người xác định rõ vị trí và xu hướng vận động của từng thành phần kinh tế.

Nước ta cần ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho

chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa.

+ Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động.

Nhà nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó phát triển.

+ Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà

nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, ra sức hướng dẫn và giúp họ

cải tiến cách làm ăn.

+ Đối với những nhà tư sản công thương, vì họ đã tham gia ủng hộ

cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, có đóng góp nhất định trong khôi phục

kinh tế và sẵn sàng tiếp thu, cải tạo để góp phần xây dựng nước nhà, xây dựng

chủ nghĩa xã hội, nên Nhà nước không xoá bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản

xuất và của cải khác của họ, mà hướng dẫn họ hoạt động làm lợi cho quốc kế

dân sinh, phù hợp với kinh tế nhà nước, khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo

theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức tư bản nhà nước.

- Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân phối và quản lý kinh tế.

Người chủ trương và chỉ rõ các điều kiện thực hiện nguyên tắc phân phối theo

lao động; làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng.

Gắn liền với nguyên tắc phân phối theo lao động. Hồ Chí Minh bước đầu đề

cập vấn đề khoán trong sản xuất.

Trong lĩnh vực văn hoá - xã hội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề

xây dựng con người mới. Đặc biệt Hồ Chí Minh đề cao vai trò của văn hoá,

giáo dục và khoa học - kỹ thuật trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Người cho

rằng, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định phải có học thức, cần phải

học cả văn hóa, chính trị, kỹ thuật và chủ nghĩa xã hội cộng với khoá học

chắc chắn đưa loài người đến hạnh phúc vô tận.

89

Page 90: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 38: Trình bày theo tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm,

bước đi, biện pháp tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá

độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?

Gợi ý trả lời:

Để xác định bước đi và tìm cách làm phù hợp với Việt Nam, Hồ Chí

Minh đề ra hai nguyên tắc có tính chất phương pháp luận:

Một là, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một hiện tượng phổ biến mang

tính quốc tế, cần quán triệt các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

về xây dựng chế độ mới, có thể tham khảo, học tập kinh nghiệm của các nước

anh em. Học tập những kinh nghiệm của các nước tiên tiến, nhưng không

được sao chép, máy móc giáo điều, vì Việt Nam có điều kiện cụ thể khác:

Hai là, xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ

yếu xuất phát từ điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng

thực tế của nhân dân. Hồ Chí Minh cho rằng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội

“làm trái với Liên Xô và Trung Quốc cũng là mác-xít” vì có điều kiện cụ thể

của các nước khác nhau.

Quán triệt hai nguyên tắc phương pháp luận này, Hồ Chí Minh xác định

phương châm thực hiện bước đi trong xây dựng chủ nghĩa xã hội dần dần,

thận trọng từng bước một từ thấp đến cao, không chủ quan nôn nóng và việc

xác định các bước đi phải luôn luôn căn cứ vào các điều kiện khách quan quy

định.

Hồ Chí Minh nhận thức về phương châm “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến

vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” không có nghĩa là làm bừa, làm ẩu “đốt cháy

giai đoạn”, mà phải làm vững chắc từng bước phù hợp với điều kiện thực tế.

Cùng với các bước đi, Hồ Chí Minh đã gợi ý nhiều phương thức, biện

pháp, biện pháp tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, Người đã

chỉ đạo một số cách làm cụ thể.

- Thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với

xây dựng lấy xây dựng làm chính.

90

Page 91: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

- Kết hợp xây dựng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến

lược ở hai miền Nam - Bắc khác nhau trong phạm vi một quốc gia.

- Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp quyết tâm để

thực hiện thắng lợi kế hoạch.

- Trong điều kiện nước ta, biện pháp cơ bản, quyết định, lâu dài trong

xây dựng chủ nghĩa là đem của dân, tài dân, sức dân, làm lợi cho dân dưới sự

lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Câu 39: Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về sự cần thiết

phải có Đảng Cộng sản trong đấu tranh cách mạng ở Việt Nam?

Gợi ý trả lời:

- Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, ở Việt Nam đã

xuất hiện nhiều phong trào yêu nước, nhiều tổ chức chính trị đấu tranh chống

thực dân Pháp. Các phong trào Cần Vương, Nghĩa quân Yên thế, Đông Kinh

Nghĩa Thục, Việt Nam Quang phục hội, Tâm tâm xã, Việt Nam Quốc dân

Đảng. Các nhà yêu nước Việt Nam đã ý thức được tầm quan trọng và vai trò

của tổ chức cách mạng. Phan Chu Trinh cho rằng: ngày nay muốn độc lập tự

do phải có đoàn thể. Rất tiếc là ông chưa kịp thực hiện ý tưởng của mình.

Phan Bội Châu đã tổ chức ra Duy Tân hội 1904 và Việt Nam Quang phục hội

1912, dự định sẽ cải tổ thành Việt Nam Quốc dân Đảng theo kiểu Tôn Trung

Sơn chưa kịp thực hiện thì ông đã bị bắt giam lỏng tại Huế... Các phong trào,

các tổ chức đó đã viết nên những trang sử vẻ vang, có nhiều tấm gương oanh

liệt thôi thúc tinh thần đấu tranh của nhân dân cả nước. Bị hạn chế trong

khuôn khổ của ý thức hệ phong kiến hay tư sản mà thời đại đã vượt qua các

phong trào yêu nước này đã lần lượt thất bại. Những người lãnh đạo đã không

đưa ra được một số phân tích đứng đắn về kinh tế xã hội về giai cấp, đặc biệt

về việc xác định vai trò của giai cấp công nhân, về mối quan hệ cách mạng

Việt Nam với cách mạng thế giới. Do đó không đề ra được đường lối và

91

Page 92: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

phương pháp cách mạng đúng đắn, làm cho cách mạng vẫn “dường như trong

đêm tối không có đường ra”.

Trong hoàn cảnh lịch sử đó, Hồ Chí Minh xuất hiện, nhận lãnh nhiệm

vụ lịch sử, ngày 5-6-1911. Người đã ra đi tìm đường cứu nước đứng đắn cho

dân tộc. Người tiếp thu được lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn lịch

sử Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi do Đảng Cộng sản lãnh

đạo...Người đã khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân.

Nhưng quần chúng nhân dân phải được giác ngộ, được tổ chức được lãnh đạo

theo một đường lối đứng đắn thì mới trở thành lực lượng to lớn, như nhiều

chiếc đũa bó thành bó chứ không phải “mỗi chiếc một nơi”, như con thuyền

phải có người cầm lái vững vàng theo một phương hướng đứng đắn thì thuyền

mới vượt qua được gió to sóng cả đi đến bờ đến bến. Cách mạng là việc

chung của cả dân chúng chứ không phải của riêng một hai người. Cách mạng

cần phải có tổ chức bền vững mới giúp được thắng lợi và sức cách mạng mới

tập trung, muốn tập trung phải có Đảng. Hồ Chí Minh khẳng định lực lượng

to lớn của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn là vô cùng

tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi, giai

cấp mà không có Đảng lãnh đạo thì không làm cách mạng được. Trong tác

phẩm Đường kách mệnh xuất bản năm 1927, Hồ Chí Minh viết “Cách mệnh

trước hết phải có cái gì?”. Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận

động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản

giai cấp mọi nơi, Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người

cầm lái có vững thuyền mới chạy. Hồ Chí Minh cho rằng “Muốn khỏi đi lạc

phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình,

đường lối và định phương châm cho đúng.

Cách mạng là cuộc đấu tranh rất gian khổ. Lực lượng kẻ địch rất mạnh.

Muốn thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức rất chặt chẽ, chí khí phải kiên

quyết. Vì vậy, phải có Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân thành một đội

92

Page 93: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

quân thật mạnh, để đánh đổ kẻ địch, tranh lấy chính quyền. Cách mạnh thắng

lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo”.

Sự ra đời tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp

với quy luật phát triển của xã hội, vì Đảng không có mục đích tự thân, ngoài

lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, lợi ích của toàn dân tộc

Việt Nam, lợi ích nhân dân tiến bộ trên thế giới, Đảng không có lợi nào khác.

Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tính quyết định hàng

đầu từ sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam đã được thực tế

lịch sử chứng minh, không có một tổ chức chính trị nào có thể thay thế được.

Hồ Chí Minh đã sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam và không ngừng rèn

luyện Đảng qua các thời kỳ cách mạng, xác lập quyền lãnh đạo của Đảng

cách mạng Việt Nam tiến lên giành nhiều thắng lợi

Câu 40: Hãy làm sáng tỏ luận điểm của Hồ Chí Minh “Chủ nghĩa

Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã

dẫn tới thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”?

Gợi ý trả lời:

- Theo quan điểm của Lênin: Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết

hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân: Đó là nguyên tắc có tính qui

luật. Song xuất phát từ điều kiện lịch sử của Việt Nam - một nước thuộc địa

nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu nhưng có truyền thống yêu nước

nồng nàn... Hồ Chí Minh nhận thấy rằng việc ra đời của Đảng Cộng sản ở

đây, nếu chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân thì

chưa đủ, vì giai cấp công nhân còn ít, phong trào công nhân còn nhỏ bé, non

yếu - Do đó phải kết hợp cả với phong trào yêu nước rộng lớn của các tầng

lớp nhân dân đấu tranh chống lại chủ nghĩa thực dân, phong trào này, đã diễn

ra liên tiếp từ rất lâu trước khi có giai cấp công nhân và phong trào công

nhân.

93

Page 94: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Trong bài Thưởng thức chính trị viết năm 1953, Hồ Chí Minh cho rằng,

Đảng kết hợp phong trào cách mạng Việt Nam với chủ nghĩa Mác - Lênin.

Năm 1960, nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng, Hồ Chí Minh viết bài

Ba mười năm hoạt động của Đảng, trong đó nêu rõ: “Chủ nghĩa Mác - Lênin

kết hợp phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành

lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”.

Đây là sự bổ sung, phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh về qui luật ra

đời của một Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa, giai cấp công nhân còn

nhỏ bé, xã hội còn kém phát triển.

Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc xác định các nhân tố kết hợp

cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, thể hiện Hồ Chí Minh thấy rõ vải

trò to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với cách mạng Việt Nam và đối với

quá trình hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, Người cũng đánh

giá cao vị trí, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam trong sắp xếp

lực lượng cách mạng. Số lượng giai cấp công nhân Việt Nam tuy ít, nhưng

theo Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của lực lượng cách mạng không phải do

số lượng của lực lượng đó quyết định. Hồ Chí Minh chỉ rõ đặc điểm của giai

cấp công nhân Việt Nam là kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật,

có chủ nghĩa Mác - Lênin...

Nhưng Hồ Chí Minh còn bổ sung thêm yếu tố phong trào yêu nước, coi

nó là một trong ba yếu tố kết hợp dẫn đến việc hình thành Đảng Cộng sản

Việt Nam?

Một là, phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá

trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Phong trào yêu nước bào gồm phong

trào nông dân, trí thức, tiểu tư sản.... phong trào yêu nước có trước phong trào

công nhân, chỉ tính riêng trong 80 năm bị thực dân Pháp đô hộ, phong trào

yêu nước của nhân dân ta dâng lên mạnh mẽ như lớp sóng cồn nối tiếp nhau.

Phong trào yêu nước liên tục và bền bỉ trong hàng nghìn năm dựng nước và

giữ nước đã kết thành chủ nghĩa yêu nước và nó đã trở thành giá trị tinh thần

94

Page 95: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

trường tồn trong lịch sử dân tộc Việt Nam và là nhân tố chủ đạo quyết định sự

nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc ta.

Hai là, phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước vì

hai phong trào đó đều có một mục tiêu chung, yêu cầu chung: giải phóng dân

tộc làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, xây dựng đất nước hùng

cường. Hơn nữa, chính bản thân phong trào công nhân xét về nghĩa nào đó,

lại mạng tính chất của phong trào yêu nước, vì phong trào đấu tranh của công

nhân không những chống lại ách áp bức giai cấp mà còn chống lại ách áp bức

dân tộc.

Ba là, phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân. Thực

chất phong trào yêu nước Việt Nam phải nói đến phong trào nông dân. Đầu

thế kỷ XX; nông dân Việt Nam chiếm tới khoảng hơn 90% dân số, còn công

nhân do điều kiện lịch sử chi phối, không có nhiều mà họ xuất thân trực tiếp

từ người nông dân nghèo. Do đó, phong trào công nhân và phong trào yêu

nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau giai cấp nông dân là bạn đồng minh tự

nhiên của giai cấp công nhân. Giai cấp nông dân và giai cấp công nhân hợp

thành quân chủ lực của cách mạng.

Bốn là, phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan

trọng thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt

Nam. Đầu thế kỷ XX, trí thức Việt Nam, tuy số lượng không nhiều nhưng lại

là những “ngòi nổ” cho các phong trào yêu nước bùng lên chống thực dân

Pháp xâm lược và bọn tay sai cũng như thúc đẩy sự canh tân và chấn hưng đất

nước.

Trong lịch sử Việt Nam, đầu thế kỷ XX, một trong những néi nổi bật

nhất là sự bùng phát của các tổ chức yêu nước mà thành viên và những người

lãnh đạo tuyệt đại đa số là trí thức. Trí thức là những người có tri thức, với

một bầu nhiệt huyết, yêu nước thường nòi, căm giận bọn cướp nước và bọn

bán nước, họ rất nhạy cảm với thời cuộc, do vậy, họ chủ động và có cơ hội

95

Page 96: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

đón nhận những “luồng gió mới” về tư tưởng của tất cả các trào lưu trên thế

giới vào Việt Nam.

Đây là luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về xây dựng một Đảng

kiểu mới của Lênin: vừa quán triệt nguyên lý Đảng kiểu mới của Lênin, vừa

vận dụng sáng tạo điều kiện lịch sử của Việt Nam.

Câu 41: Giải thích luận điểm của Hồ Chí Minh: Đảng Cộng sản Việt

Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt

Nam, nhưng Đảng vẫn mang bản chất giai cấp công nhân?

Gợi ý trả lời:

Năm 1930, trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Nguyễn Ái Quốc

khẳng định. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, Đảng mang bản chất

giai cấp công nhân. Những quan điểm trên đây của Hồ Chí Minh hoàn toàn

tuân thủ những quan điểm của V. Lênin về xây dựng Đảng kiểu mới của giai

cấp vô sản...

Hồ Chí Minh vừa kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vừa bổ

sung và phát triển: Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toản quốc lần

thứ II của Đảng (2-1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Trong giai đoạn

này, quyềng lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc

là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và

nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”...

Năm 1961, khi miền Bắc đã chuyển sang giai đoạn xây dựng chủ nghĩa

xã hội được một số năm. Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định “Đảng ta là Đảng

của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư thiện vị”. Khi nói

Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt

Nam thì điều này hoàn toàn không có nghĩa là không thấy rõ bản chất giai cấp

công nhân của Đảng.

Hồ Chí Minh khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta dựa

trên cơ sở thấy rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, tuy số

96

Page 97: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

lượng ít so với dân số, nhưng có đầy đủ phẩm chất và năng lực lãnh đạo đất

nước thực hiện những mục tiêu của cách mạng. Còn các giai cấp tầng lớp

khác chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, trở thành đồng minh của giai

cấp công nhân. Nhưng nội dung qui định bản chất giai cấp công nhân không

phải chỉ là số lượng đảng viên xuất thân từ công nhân mà là ở nền tảng lý luận

và tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin; mục tiêu của Đảng cần đạt

tới là chủ nghĩa cộng sản; Đảng tuân thủ một cách nghiêm túc, chặt chẽ

những nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951) do

Hồ Chí Minh soạn thảo đã nêu:

Chúng ta phải có một Đảng công khai, tổ chức hợp với tình hình thế

giới và tình hình trong nước để lãnh đạo toàn dân tộc đấu tranh cho đến thắng

lợi Đảng đó lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.

Về thành phần: Đảng Lao động Việt Nam sẽ kết nạp những công nhân,

nông dân, lao động trí óc, thật hăng hái, thật giác ngộ cách mạng.

Về lý luận: Đảng Lao động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác - Lênin.

Về tổ chức: Đảng Lao động Việt Nam theo chế độ dân chủ tập trung.

Về kỷ luật: Đảng Lao động Việt Nam phải có kỷ luật sắt, đồng thời là

kỷ luật tự giác.

Về luật phát triển: Đảng Lao động Việt Nam dùng lối phê bình và tự

phê bình để giáo dục đảng viên, giáo dục quần chúng.

Về mục đích trước mắt: Đảng Lao động Việt Nam đoàn kết và lãnh đạo

toàn dân kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, giành lại thống nhất và độc

lập hoàn toàn, lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện

để tiến lên chủ nghĩa xã hội”.

Đảng của giai cấp công nhân đồng thời là Đảng của nhân dân lao động

và của dân tộc Việt Nam có ý nghĩa lớn đối với cách mạng Việt Nam Đảng

đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc cho nên nhân dân Việt Nam coi Đảng

Cộng sản Việt Nam là Đảng của chính mình.

97

Page 98: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

- Trong Đảng ngoài thành phần của giai cấp công nhân còn có nhiều

ngươi ưu tú trong giai cấp nông dân tri thức và các thành phần khác.

- Đảng ta cũng đã khẳng định rằng, để đảm bảo và tăng cường bản chất

giai cấp công nhân. Đảng luôn luôn gắn bó mật thiết với giai cấp công nhân,

nhân dân lao động và toàn thể dân tộc trong tất cả các thời kỳ của cách mạng.

Hồ Chí Minh rèn luyện Đảng luôn luôn chú trọng tính thống nhất giữa

yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc.

Sức mạnh của Đảng không chỉ bắt nguồn từ giai cấp công nhân mà còn

bắt nguồn từ các tầng lớp nhân dân lao động khác.

Câu 42: Trình bày quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền?

Gợi ý trả lời:

Đảng cầm quyền là khái niệm dùng trong khoa học chính trị, chỉ một

đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính

quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp

mình. Khái niệm “Đảng cầm quyền” đã từng được dùng phổ biến tại các nước

tư bản chủ nghĩa. Ở các nước này, nếu một chính đảng có đại biểu giành được

đa số phiếu tại các cuộc bầu cử trong quốc hội thì đảng đó trở thành đảng cầm

quyền.

Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn thể dân tộc tiến

hành tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành chính quyền

thắng lợi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Đảng lãnh đạo xã hội sau khi đã giành được chính quyền nhà nước. Đó

là thời điểm Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền.

Cụm từ “Đảng cầm quyền” được Hồ Chí Minh ghi trong bản Di chúc

của Người năm 1969. Theo Hồ Chí Minh, Đảng cầm quyền là Đảng tiếp tục

lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong điều kiện Đảng đã lãnh đạo quần chúng

nhân dân giành được quyền lực nhà nước và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy

98

Page 99: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

nhà nước đó để tiếp tục hoàn thành sự nghiệp độc lập dân tộc dân chủ và chủ

nghĩa xã hội.

Khi chưa có chính quyền, nhiệm vụ chính trong các cuộc đấu tranh của

dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng là lật đổ chính quyền bè lũ thực dân và

phong kiến, thiết lập chính quyền nhân dân. Phương thức lãnh đạo, công tác

chủ yếu của Đảng là giáo dục, thuyết phục, vận động tổ chức quần chúng, đưa

quần chúng vào đấu tranh giành chính quyền.

- Mục đích, lý tưởng của Đảng cầm quyền

Khi có chính quyền, Đảng lãnh đạo xã hội lãnh đạo Nhà nước, sử dụng

Nhà nước như một công cụ quyền lực để tổ chức xây dựng chủ nghĩa xã hội,

đem lại đời sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Cùng với phương thức lãnh

đạo của Đảng là giáo dục, vận động tổ chức quần chúng, khi có chính quyền,

Đảng còn có thêm phương thức lãnh đạo tổ chức quản lý xã hội bằng biện

pháp hành chính pháp luật thông qua bộ máy nhà nước để thực hiện mục đích

lý tưởng cao cả của Đảng không bao giờ thay đổi trong suốt quá trình lãnh

đạo cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Những người cộng sản chúng

ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho

Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất

nước ta và trên toàn thế giới”.

Đảng cầm quyền, vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung

thành của nhân dân.

- Xác định Đảng là “người lãnh đạo” là xác định quyền lãnh đạo duy

nhất của Đảng đối với toàn bộ xã hội và khi có chính quyền, Đảng lãnh đạo

chính quyền nhà nước. Đối tượng lãnh đạo của Đảng là toàn thể quần chúng

nhân dân trong toàn dân tộc, nhằm đem lại độc lập cho dân tộc, tự do, ấm no

và hạnh phúc cho nhân dân, mà trước hết là quần chúng nhân dân lao động.

Nhưng Đảng muốn lãnh đạo được nhân dân lao động, trước hết Đảng phải có

tư cách, phẩm chất, năng lực cần thiết. Vì “quần chúng chỉ quý mến những

người có tư cách, đạo đức”.

99

Page 100: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Đảng là người lãnh đạo, theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo phải bằng giáo

dục thuyết phục, nghĩa là Đảng phải làm cho dân tin, dân phục để dân theo.

Đảng lãnh đạo, nhưng quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, cho nên Đảng

“Phải đi đường lối quần chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép

nhân dân” mà phải giáo dục, tuyên truyền, giác ngộ dân chúng để thức tỉnh

họ. Đồng thời, Đảng phải tổ chức, đoàn kết họ lại thành một khối thống

nhất,bày cách cho dân và hướng dẫn họ hành động.

- Đảng là người lãnh đạo, theo Hồ Chí Minh Đảng phải sâu sát, gắn bó

mật thiết với nhân dân lắng nghe ý kiến của dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân

và phải chịu sự kiểm soát của nhân dân.

- Để thực hiện đầy đủ chức năng của Đảng với tư cách người lãnh đạo.

Hồ Chí Minh còn đề cập đến việc Đảng phải thực hiện chế độ kiểm tra và

phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ đảng viên, cán bộ của Đảng.

- Với tư cách là người lãnh đạo, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng

cũng có nghĩa bao hàm cả trách nhiệm “là người đầy tớ” của dân. Song “đầy

tớ” ở đây không có nghĩa là “tôi tớ, tôi đòi hay theo đuôi quần chúng” mà là

tận tâm, tận lực phụng sự nhân dân nhằm đem lại các quyền và lợi ích cho

nhân dân.

- Đảng cầm quyền, dân là chủ - Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, Đảng

lãnh đạo cách mạng là để thiết lập và củng cố quyền làm chủ của nhân dân.

Dân muốn làm chủ thực sự thì phải theo Đảng. Mỗi người dân phải biết lợi

ích và bổn phận của mình tham gia vào xây dựng chính quyền.

Câu 43: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam phải

lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”?

Gợi ý trả lời:

Trong tác phẩm Đường kách mệnh, xuất bản năm 1927 Nguyễn Ái

Quốc viết: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có Đảng cách

mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân

100

Page 101: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành

công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì

phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo

chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí

khôn, tàu không có bàn chỉ nam.

Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân

chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.

Nguyễn Ái Quốc còn chỉ ra: Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng

muốn cách mệnh thành công thì dân chúng (công nông) làm gốc, phải có

Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là

phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin.

Phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin, vì đây là học thuyết về sự giải phóng

giai cấp công nhân, nhân dân lao động các dân tộc bị áp bức và giải phóng

con người, là học thuyết về sự phát triển xã hội lên một hình thái kinh tế - xã

hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội một hình

thái cao hơn, tốt đẹp hơn so với hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa,

một hình thái không những xoá bỏ tình trạng áp bức bóc lột, bất công giữa

con người với con người. Nhờ lý luận ấy, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con

đường cứu nước, đã xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam và trang bị cho Đảng

vũ khí tinh thần để Đảng làm tròn vai trò tiên phong, vai trò lãnh đạo cạch

mạng.

Viết về vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với Đảng ta, Hồ Chí

Minh đã khẳng định đó “là lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng

chúng tôi, làm cho Đảng chúng tôi có thể trở thành hình thức tổ chức cao nhất

của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân

tộc chúng tôi”.

Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt” không có nghĩa là giáo điều theo

từng câu, từng chữ của Mác, của Lênin, mà như Hồ Chí Minh nói, là nắm

vững tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững lập trường, quan điểm

101

Page 102: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời tiếp thu những tinh hoa

của văn hoá dân tộc và nhân loại, tham khảo những kinh nghiệm của các

nước, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam để định

ra đường lối, chính sách đúng đắn cho cách mạng. Với tinh thần độc lập, tự

chủ và sáng tạo. Hồ Chí Minh đã nêu lên một chuẩn mực cho mọi người cách

mạng về sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết thành

công những vấn đề mà cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng thế giới đặt

ra.

Người khuyên cán bộ đảng viên phải không ngừng học tập chủ nghĩa

Mác - Lênin vận dụng cho phù hợp với hoàn cảnh từng lúc, từng nơi, đó là

học tinh thần xử lí với người, với việc và xử lí với bản thân mình kiên quyết

đấu tranh chống các luận điệu phản động, cơ hội.

Câu 44: Trình bày những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của

giai cấp vô sản theo tư tưởng Hồ Chí Minh?

Gợi ý trả lời:

Những nguyên tắc cơ bản xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản,

được Hồ Chí Minh đề cập trong các nội dung sau:

+ Một là: Tập trung dân chủ

Đây là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng Cộng sản thành một

tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi người, vừa phát

huy sức mạnh của tất cả những ai đã tự nguyện gắn bó với nhau trong một tổ

chức, nó không biến Đảng thành một câu lạc bộ để mọi người có thể ra vào

tuỳ tiện, hoặc vào Đảng nhưng chỉ nói mà không làm, hoặc mỗi người làm

một phách, rốt cuộc triệt tiêu sức mạnh của cả tổ chức và của mỗi người. Vì

vậy, Hồ Chí Minh gọi tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng.

Về tập trung, theo Hồ Chí Minh là phải thống nhất về tư tưởng, tổ

chức, hành động. Do đó thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp

trên, mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Từ đó

102

Page 103: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

làm cho “Đảng ta tuy nhiều người nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một

người”.

Về dân chủ, như Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư

tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do

bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng

là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm

thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân

lý.

Dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn bó và thống nhất với

nhau trong một nguyên tắc, theo Hồ Chí Minh: Dân chủ để đi đến tập trung là

cơ sở của tập trung, chứ không phải là dân chủ theo kiểu phân tán tuỳ tiện vô

tổ chức. Tập trung là tập trung trên cơ sở dân chủ, chứ không phải tập trung

quan liêu theo kiểu độc đoán chuyên quyền.

Hai là: Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đây là nguyên tắc lãnh đạo

của Đảng.

Về tập thể lãnh đạo, Hồ Chí Minh chỉ ra “Vì sao cần phải có tập thể

lãnh đạo? Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm

đến đâu cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một

vấn đề, không chỉ trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề”.

Vì vậy cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm.

Người thì thấy rõ mặt này, người thì thấy rõ mặt khác của vấn đề đó.

Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được

thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được

giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm.

Về cá nhân phụ trách, theo Hồ Chí Minh “Việc gì đã được đông người

bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần giao cho một người

hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới

có chuyên trách, công việc mới chạy”.

103

Page 104: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Nếu không có cá nhân phụ trách thì sinh ra cái tệ người này uỷ cho

người kia, người kia uỷ cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế

thì việc gì cũng không xong.

Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với

nhau. Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến chỗ bao biện, độc đoán, chủ quan.

Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi,

lộn xộn vô Chính phủ. Kết quả là cũng hỏng việc.

Ba là: Tự phê bình và phê bình.

Đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là luật phát triển của Đảng.

Đảng là một thực thể của xã hội, Đảng bao gồm các tầng lớp xã hội, đội

ngũ của Đảng bao gồm những người ưu tú, nhưng trong Đảng cũng không

tránh khỏi những khuyết điểm không phải mọi người đều tốt, mọi việc đều

hay, mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Chính vì vậy, Hồ

Chí Minh cho rằng, thang thuốc tốt nhất là tự phê bình và phê bình.

Mục đích của tự phê bình và phê bình là để làm cho phần tốt trong mỗi

con người nảy nở như hoa mùa xuân, làm cho mỗi tổ chức tốt lên, phần xấu

mất dần đi, tức nói đến sự vươn tới chân, thiện, mỹ. Về thái độ, phương pháp

tự phê bình và phê bình, theo Hồ Chí Minh: phải tiến hành thường xuyên như

người ta rửa mặt hàng ngày, phải thẳng thắn, chân thành, trung thực, không nể

nang, không giấu giếm và cũng không thêm bớt khuyết điểm “phải có tình

thương yêu lẫn nhau”.

Bốn là: Kỷ luật nghiêm minh tự giác.

Đây cũng là một nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản đề

ra, để phân biệt với các Đảng kiểu cũ của Quốc tế II.

Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh và

tự giác trong Đảng đề tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng.

Sức mạnh của một tổ chức cộng sản và của mỗi đảng viên bắt nguồn từ

ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Tính nghiêm minh của kỷ luật

Đảng đòi hỏi tất cả mọi tổ chức Đảng, tất cả mọi đảng viên đều phải bình

104

Page 105: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

đẳng trước Điều lệ Đảng, trước pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết định

của Đảng. Đồng thời, Đảng ta là một tổ chức bao gồm những người tự nguyện

phấn đấu cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa cho nên tự giác là một yêu cầu bắt

buộc đối với mọi tổ chức đảng và đảng viên. đảng viên phải gương mẫu trong

cuộc sống, trong công tác, sự gương mẫu của mỗi đảng viên là bảo vệ uy tín

của đảng trước nhân dân.

Năm là: Đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Đây là một nguyên tắc quan trọng của Đảng kiểu mới của Lênin. Hồ

Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng sự đoàn kết thống nhất

trong Đảng cũng như khối đại đoàn kết toàn dân. Hồ Chí Minh nói: “Đoàn kết

là một truyền thống cực kì quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ

Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như

giữ gìn con ngươi của mắt mình”.

Sự đoàn kết thống nhất của Đảng phải dựa trên cơ sở lý luận của Đảng

là chủ nghĩa Mác - Lênin, cương lĩnh, điều lệ Đảng, đường lối quan điểm của

Đảng... Muốn đoàn kết thống nhất trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng

rãi ở trong Đảng, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình,

thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và các

biểu hiện tiêu cực khác, phải “sống với nhau có tình, có nghĩa”. Có đoàn kết

tốt thì mới tạo ra cơ sở vững chắc để thống nhất ý chí và hành động làm cho

“Đảng ta tuy đông người nhưng khi tiến đánh chỉ như là một người”.

Câu 45: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là

nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.

Hãy làm sáng tỏ luận điểm trên?

Gợi ý trả lời:

Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 ở Việt Nam xuất

hiện nhiều phong trào yêu nước, nhiều tổ chức chính trị đấu tranh chống thực

dân Pháp... Các phong trào, các tổ chức đó đã viết nên những trang sử vẻ

105

Page 106: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

vang, có nhiều tấm gương oanh liệt thôi thúc tinh thần đấu tranh của nhân dân

ta. Bị hạn chế trong khuôn khổ của ý thức hệ tư tưởng phong kiến hay tư sản

mà thời đại đã vượt qua, các phong trào yêu nước này đã lần lượt thất bại, các

phong trào yêu nước này đã thất bại vì thiếu đường lối và phương pháp cách

mạng đúng đắn, làm cho cách mạng vẫn “dường như trong đêm tối không có

đường ra”.

Trong hoàn cảnh lịch sử đó, Hồ Chí Minh xuất hiện, nhận lãnh nhiệm

vụ lịch sử. Người ra đi tìm đường cứu nước cho dân tộc. Người tiếp thu được

lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn lịch sử Cách mạng Tháng Mười

Nga năm 1917 thắng lợi, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Người đã khẳng định

cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhưng quần chúng nhân

dân phải được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo theo một đường lối

đúng đắn thì mới trở thành lực lượng to lớn.

Sức mạnh to lớn của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt

Nam là rất to lớn, là vô cùng tận. Nhưng sức mạnh ấy chỉ phát huy khi được

tập hợp, đoàn kết và được lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng Cộng

sản Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định: “lực lượng của giai cấp công nhân

và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng tận. Nhưng lực lượng ấy cần có

Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi”, giai cấp mà không có Đảng lãnh đạo

thì không làm cách mạng được. Trong tác phẩm Đường kách mệnh xuất bản

năm 1927, Hồ Chí Minh viết: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì?” Trước

hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng,

ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có

vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền

mới chạy.

Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến nay, Đảng là lực lượng duy

nhất có khả năng tổ chức, lãnh đạo và là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa

cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Vấn đề đó được thể

hiện trong những nội dung cơ bản là:

106

Page 107: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

1) Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của vô sản giai cấp, có tổ

chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân của dân tộc Việt Nam, là

đội tham mưu sáng suốt, lực lượng lãnh đạo cách mạng.

2) Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư

tưởng và kim chỉ nam cho hành động.

3) Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cách mạng, ngoài lợi ích của nhân

dân, Đảng không có lợi ích gì khác. Vì vậy mà Đảng ta được dân tin, dân

phục, dân yêu.

4) Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định với mục đích, đường lối cách

mạng đúng đắn: Đảng chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa

cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.

5) Đảng có truyền thống đoàn kết thống nhất, kỷ luật nghiêm minh,

thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình.

6) Đảng có mối liên hệ máu thịt với quần chúng.

7) Đảng kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa

quốc tế trong sáng...

Câu 46: Trình bày những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về

đại đoàn kết dân tộc?

Gợi ý trả lời:

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình thành từ

những cơ sở tư tưởng - lý luận và thực tiễn sau đây.

Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc

Việt Nam.

Trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã

hình thành tinh thần yêu nước, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc, tạo

thành truyền thống tốt đẹp, bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm

hồn của mỗi con người Việt Nam. Tinh thần, ý thức ấy đã tạo nên sức mạnh

107

Page 108: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

vô địch của cả một dân tộc để chiến thắng mọi thiên tai địch hoạ, làm cho đất

nước được trường tồn, bản sắc dân tộc, được giữ vững.

Đối với mỗi người Việt Nam, yêu nước - nhân nghĩa đoàn kết trở thành

một tình cảm tự nhiên;

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương.

Người trong một nước phải thương nhau cùng”

Thành một triết lý nhân sinh:

“Một cây làm chẳng nên non

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”

Thành phép ứng xử và tư duy chính trị:

“Tình làng, nghĩa nước

Nước mất thì nhà tan

Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh”

Truyền thống ấy không chỉ được phản ánh trong kho tàng văn học dân

gian, mà còn được những anh hùng dân tộc ở các thời kỳ lịch sử khác nhau

như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung đúc kết nâng lên

thành phép đánh giặc, giữ nước, “Trên dưới đồng lòng, cả nước chung sức”,

“tướng sĩ một lòng phụ tử”, “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”, “chở

thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”...

Truyền thống ấy đã được tiếp nối trong tư tưởng tập hợp lực lượng dân

tộc của các nhà yêu nước chống Pháp đầu thế kỷ XX như Phan Bội Châu,

Phan Chu Trinh.

Hồ Chí Minh đã sớm hấp thụ được truyền thống yêu nước - nhân nghĩa

đoàn kết của dân tộc. Người đã khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn

yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi Tổ

quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi; nó kết thành một làn sóng vô

cùng mãnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự hiểm nguy, khó khăn, nó nhấn

chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”.

- Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin:

108

Page 109: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Theo chủ nghĩa Mác - Lênin: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,

nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, liên minh công - nông là cơ sở xây

dựng lực lượng to lớn của cách mạng, đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn

kết quốc tế. “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”, “Vô sản tất cả các nước và

các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”...

Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin vì chủ nghĩa Mác - Lênin

đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng, đã chỉ ra sự cần

thiết và con đường tập hợp, đoàn kết các lực lượng cách mạnh trong phạm vi

từng nước và trên thế giới để giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc đấu tranh

chống chủ nghĩa đế quốc thực dân và tay sai của chúng. Hồ Chí Minh vừa

hoạt động thực tiễn, vừa nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa tìm hiểu về

Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), nên Người đã có cơ sở khoa học, để

đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong tư tưởng tập

hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và nhà cách mạng lớn

trên thế giới, từ đó hoàn chỉnh tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc.

- Tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, những

kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào yêu nước và cách

mạng ở Việt Nam và thế giới.

Từ thực tiễn phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ

XX đã cho Người những nhận thức quan trọng về lực lượng cách mạng, trong

thời đại mới, nếu chỉ có tinh thần yêu nước không thôi thì chưa đủ mà cần

phải có một lực lượng lãnh đạo có khả năng đề ra đường lối cách mạng đứng

đắn, qui tụ được cả dân tộc vào cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến

tay sai, có như thế mới thắng lợi được. Hồ Chí Minh đã thấy được những hạn

chế trong việc tập hợp lực lượng của các nhà cách mạng tiền bối, vì vậy,

Người đã quyết định ra nước ngoài để xem các nước làm như thế nào rồi sẽ

trở về giúp đồng bào mình.

109

Page 110: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Hồ Chí Minh đã nghiên cứu những bài học của Cách mạng Tháng

Mười Nga (1917), nhất là bài học về tập hợp lực lượng của công nhân, nông

dân để giành và giữ chính quyền xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa.

Hồ Chí Minh đã nghiên cứu phong trào giải phóng dân tộc ở các nước

thuộc địa, từ đó rút ra những bài học cần thiết về đại đoàn kết dân tộc, đặc

biệt người chú ý đến Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước có thể đem lại cho

Việt Nam nhiều bài học rất bổ ích về tập hợp các lực lượng để tiến hành cách

mạng, đoàn kết các dân tộc, các giai cấp, tầng lớp các đảng phái... nhằm thực

hiện mục tiêu của từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng, như chủ trương

“Liên Nga, thân Cộng, ủng hộ công nông”, “hợp tác Quốc - Cộng” của Tôn

Trung Sơn.

Như vậy từ cơ sở tư tưởng - lí luận và thực tiễn nêu trên đã từng bước

hình thành và hoàn chỉnh tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

Câu 47: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề

có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng?

Gợi ý trả lời:

- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời đại mới, để đánh bại các thế

lực đế quốc thực dân nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải

phóng con người, nếu chỉ có tinh thần yêu nước chưa đủ, mà còn phải tập hợp

được tất cả mọi lực lượng có thể tập hợp được, xây dựng được khối đại đoàn

kết dân tộc bền vững để có sức mạnh chiến thắng kẻ thù. Chính vì vậy, trong

tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược,

quyết định thành công của cách mạng.

- Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, là tư tưởng cơ bản

nhất quán, lâu dài và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đó là chiến

lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, nhằm hình thành sức mạnh

to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù dân tộc, giai cấp.

110

Page 111: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

- Để quy tụ được mọi lực lượng vào khối đại đoàn kết dân tộc, cần phải

có chính sách và phương pháp phù hợp với từng đối tượng. Trong từng thời

kỳ, từng giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau

chính sách và phương pháp tập hợp có thể và cần thiết phải điều chỉnh cho

phù hợp với từng đối tượng khác nhau, song đại đoàn kết dân tộc phải luôn

luôn được nhận thức là vấn đề sống còn, quyết định thành bại của cách mạng.

Thực tiễn cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế

kỷ XX bị thất bại có nhiều nguyên nhân, trong đó theo tư tưởng Hồ Chí Minh

có một nguyên nhân sâu xa là cả nước không đoàn kết được thành một khối

thống nhất. Người thấy rằng, muốn đưa cách mạng đến thành công phải có

lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công

xã hội mới, muốn có lực lượng cách mạng phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ

mọi lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh

và Đảng ta dày công xây dựng thành công Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên

Việt, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là để thực hiện đoàn kết toàn dân, đưa cách

mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi to lớn. Hồ Chí Minh viết: “Đoàn

kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám

thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng

lợi, lập lại hoà bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc.

Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành được

thắng lợi trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong

sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.1

Từ thực tiễn như vậy, Hồ Chí Minh đã khái quát thành nhiều luận điểm,

có tính chân lý về vai trò của khối đại đoàn kết: “Đoàn kết làm ra sức mạnh”.

Hồ Chí Minh rất nhiều lần nhấn mạnh luận điểm này Người viết: “Đoàn kết là

sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ, thì chúng ta nhất định có thể khắc

1 Hồ Chí Minh toàn tập T1 tr 604.

111

Page 112: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm tròn nhiệm vụ nhân dân

giao phó”, “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó

khăn, giành thắng lợi”, “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”.

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,

Thành công, thành công, đại thành công”.

Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần

quan điểm coi sức mạnh của cách mạng là sức mạnh của nhân dân: “Dễ trăm

lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”, đồng thời, Người

lưu ý rằng, nhân dân bao gồm nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp, nhiều tầng lớp,

giai cấp, nhiều dân tộc, tôn giáo, do đó phải đoàn kết nhân dân vào trong Mặt

trận dân tộc thống nhất. Để làm được việc đó, Người yêu cầu Đảng, Nhà nước

phải có chủ trương chính sách đúng đắn, phù hợp với các giai cấp tầng lớp,

trên cơ sở lấy lợi ích chung của Tổ quốc vì những quyền lợi cơ bản của nhân

dân lao động làm “mẫu số chung” cho sự đoàn kết.

Câu 48: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là mục

tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc?

Gợi ý trả lời:

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, chúng ta không

chi thấy rõ việc Người nhấn mạnh vai trò to lớn của dân, sức mạnh của đại

đoàn kết dân tộc mà còn coi đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu nhiệm vụ hàng

đầu của Đảng của dân tộc.

Do đó, đại đoàn kết dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu

của Đảng, phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ

trương chính sách, tới hoạt động thực tiễn của Đảng.

Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam ngày 3

tháng 3 năm 1951; Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể

dân tộc: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là:

“Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Để thực hiện mục tiêu này, Người

112

Page 113: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm quần

chúng, phải gần gũi quần chúng, lắng nghe quần chúng, vận động, tổ chức và

giáo dục quần chúng, coi sức mạnh của cách mạng là ở nơi quần chúng, phải

thấm nhuần lời dạy “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu

cũng xong”.

Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là

nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng. Nhấn mạnh vấn đề này là

nhấn mạnh tới vai trò của thực lực cách mạng. Bởi cách mạng muốn thành

công nếu chỉ có đường lối đúng chưa đủ mà trên cơ sở của đường lối đúng.

Đảng phải cụ thể hoá thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách

mạng, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo

thực lực cho cách mạng. Thực lực đó chính là khối đại đoàn kết dân tộc.

Năm 1963, khi nói chuyện với cán bộ tuyên truyền và huấn luyện miền

núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước Cách mạng

Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm cho đồng

bào các dân tộc hiểu được mấy việc: “Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng

hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích của

tuyên truyền, huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã

hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà.

Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục

tiêu của Đảng, mà còn là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì cách mạng

là sự nghiệp của quần chúng, phải do quần chúng, vì quần chúng. Từ trong

phong trào đấu tranh để tự giải phóng và xây dựng xã hội mới tốt đẹp, quần

chúng nảy sinh nhu cầu đoàn kết và sự hợp tác. Đảng Cộng sản phải có sứ

mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng, chuyển những nhu cầu,

những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự

giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh

tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc, tự do cho nhân dân và

hạnh phúc cho con người.

113

Page 114: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 49: Trình bày nội dung của đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng

Hồ Chí Minh?

Gợi ý trả lời:

a. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân. Trong tư tưởng Hồ

Chí Minh, các khái niệm DÂN, NHÂN DÂN có biên độ rất rộng lớn, Người

đã đề cập khái niệm này một cách rõ ràng, toàn diện, có sức thuyết phục, thu

phục lòng người. Hồ Chí Minh thường dùng khái niệm này để chỉ “mọi con

dân nước Việt”, “mỗi một người con Rồng cháu Tiên” không phân biệt dân

tộc thiểu số, hay đa số, người tín ngưỡng hay người không tin ngưỡng”,

“không phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo, qúi tiện”, Như vậy, dân, nhân

dân được hiểu với tư cách vừa là một tập hợp đông đảo quần chùng, vừa là

mỗi con người Việt Nam cụ thể, và cả hai đều là chủ thể của khối đại đoàn kết

dân tộc và đại đoàn kết dân tộc thực chất là đại đoàn kết toàn dân.

- Nói đến đại đoàn kết dân tộc, cũng có nghĩa là phải tập hợp được tất

cả mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Hồ Chí Minh đã

nhiều lần nêu rõ: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu

dài...Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Ta còn

phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phục

sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Từ “Ta” ở đây là chủ

thể, vừa là Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, vừa là mọi người dân Việt

Nam nói chung.

Trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải đứng vững

trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hoà mối quan hệ giai cấp -

dân tộc để tập hợp lực lượng, không được phép bỏ sót một lực lượng nào,

miễn là lực lượng đó có lòng trung - thành và sẵn sàng phục vụ Tổ quốc,

không phản bội lại quyền lợi của dân chúng là được. Với tính thần đoàn kết

rộng rãi như vậy, Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc xây dựng khối đại

đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng

114

Page 115: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

giải phóng dân tộc, tới cách mạng dân chủ nhân dân và từ cách mạng dân chủ

nhân dân tới cách mạng xã hội chủ nghĩa.

b.Thực hiện đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống yêu nước -

nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc; đồng thời phải có tấm lòng khoan dung độ

lượng, tin vào nhân dân, tin vào con người.

Muốn thực hiện được khối đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền

thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết dân tộc. Truyền thống này được hình

thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước hàng

ngàn năm của cả dân tộc, trở thành giá trị bền vững, thấm sâu vào tư tưởng

tình cảm tâm hồn của mỗi con người Việt Nam... Truyền thống đó là cội

nguồn sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai

địch hoạ, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.

Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người. Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong

mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu điểm, khuyết điểm,

mặt tốt mặt xấu... Cho nên, vì lợi ích của cách mạng, cần phải có lòng khoan

dung độ lượng, trân trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người mới có

thể tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. Người viết “Sông to, biển rộng thì

bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ,

cái đĩa cạn thì một chút nước đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ. Người mà tự

kiêu, tự mãn, cũng như cái chén, cái đĩa cạn”. Người đã lấy hình tượng năm

ngón tay có ngón ngắn, ngón dài, nhưng cả năm ngón đều thuộc về một bàn

tay, để nói lên sự cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết dân tộc.

Hồ Chí Minh cho rằng, “Trong mấy triệu người cũng có người thế này

người thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy

nên ta phải khoan hồng, đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng

thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm

đường, ta phải dùng tình thân ái mà cảm hoá họ. Có như thế mới thành đoàn

kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”.

115

Page 116: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Lòng khoan dung độ lượng ở Hồ Chí Minh không phải là một sách

lược nhất thời, một thủ đoạn chính trị mà là sự tiếp nối và phát triển truyền

thống nhân ái, bao dung của dân tộc, từ chính mục tiêu của cuộc cách mạng

mà Người suốt đời theo đuổi. Đó là một tư tưởng nhất quán, được thể hiện

trong đường lối chính sách của Đảng đối với những người làm việc dưới chế

độ cũ và những người nhất thời lầm đường lạc lối, nhưng đã biết hối cải,

chúng ta vẫn kéo họ về phía dân tộc, vẫn đoàn kết với họ, mà hoàn toàn

không định kiến khoét sâu cách biệt. Thậm chí đối với những người trước đây

đã chống chúng ta, nhưng nay không chống nữa, khối đại đoàn kết dân tộc

vẫn mở rộng cửa tiếp đón họ. Hồ Chí Minh đã nhiều lần tuyên bố “Bất kỳ ai

mà thật thà tán thành hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những

người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết

với họ...”. Người tha thiết kêu gọi tất cả những ai có lòng yêu nước, không

phân biệt tầng lớp , tín ngưỡng , chính kiến và trước đây đã từng đứng về phe

nào,... hãy cùng nhau đoàn kết vì nước vì dân. Để thực hiện được đoàn kết,

cần xoá bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật thà hợp tác và giúp đỡ nhau cùng

tiến bộ để phục vụ nhân dân.

Để thực hiện đoàn kết rộng rãi, cần có niềm tin vào nhân dân. Với Hồ

Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của

nhân dân là nguyên tắc tối cao. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền

thống dân tộc “nước lấy dân làm gốc”, “chở thuyền và làm lật thuyền cũng là

dân” đồng thời là sự quán triệt sâu sắc nguyên lý macxít “cách mạng là sự

nghiệp của quần chúng”.

- Theo Hồ Chí Minh, DÂN là chỗ dựa vững chắc của Đảng là nguồn

sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi của

cách mạng, là nền, gốc và chủ thể của Mặt trận. Trong bài “Nói chuyện tại

Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên Việt toàn quốc, tháng 01 năm 1955, Người

chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại

đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động

116

Page 117: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của

cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân

khác”.

Câu 50: Trình bày hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc theo

tư tưởng Hồ Chí Minh?

Gợi ý trả lời:

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết

dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất. Toàn dân chỉ trở thành lực lượng to

lớn, khi được tập hợp, tổ chức lại thành một khối vững chắc, được giác ngộ về

mục tiêu chiến đấu chung và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng

đắn. Nếu không được như vậy, thì quần chúng nhân dân dù có đông tới hàng

triệu, hằng trăm triệu con người cũng chỉ là một số đông, không có sức mạnh.

Thất bại của phong trào yêu nước và giải phóng dân tộc ở Việt Nam trước khi

Đảng ta ra đời đã chứng minh rất rõ điều này.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở

quan niệm, ở những lời kêu gọi, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng,

phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức. Tổ chức đó chính là Mặt trận

dân tộc thống nhất.

Chính vì vậy trong hoạt động, lãnh đạo cách mạng Hồ Chí Minh rất chú

ý đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng

giai cấp, từng ngành nghề, từng giới từng lứa tuổi, từng tôn giáo, phù hợp với

từng giai đoạn của cách mạng. Đó là hội ái hữu, hội tương trợ, công hội, nông

hội, hội phụ nữ, đoàn thanh niên, đội thiếu niên nhi đồng, hội phụ lão, hội

Phật giáo cửu quốc. Công giáo yêu nước hay những nghiệp đoàn... Trong đó

bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất.

Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu

nước, nơi tập hợp mọi con dân nước Việt, không chỉ ở trong nước mà còn bao

trùm cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù ở ở bất cứ phương

117

Page 118: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

trời nào, nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước, về Tổ quốc Việt

Nam, đều được coi là thành viên của Mặt trận.

Tuỳ theo từng thời kỳ, hoàn cảnh lịch sử, căn cứ vào yêu cầu và nhiệm

vụ cách mạng, cương lĩnh và điều lệ của Mặt trận dân tộc thống nhất có thể có

những nét khác nhau, tên gọi của Mặt trận dân tộc thống nhất theo đó cũng có

thể có những nét khác nhau: Hội phản đế đồng minh (1930), Mặt trận Dân

chủ (1936). Mặt trận nhân dân phản đế (1939), Mặt trận Việt Minh (1941),

Mặt trận Liên Việt (1951), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam

(1960), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955 - 1976). Song thực chất chỉ là một,

đó là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của nhân dân Việt Nam, nơi quy tụ,

tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ

chức và các cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu

chung là độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, tự do và hạnh phúc của

nhân dân.

Câu 51: Nêu những nguyên tắc cơ bản xây dựng và hoạt động của

Mặt trận dân tộc thống nhất theo tư tưởng Hồ Chí Minh?

Gợi ý trả lời:

Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân

tộc thống nhất:

1) Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng

khối liên minh công - nông - tri thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi con dân nước Việt...

Song, đó không phải là một tập hợp lỏng lẻo, ngẫu nhiên, tự phát của quần

chúng nhân dân, mà là một khối đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nền tảng

khối liên minh công - nông - tri thức do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí

Minh, nó hoàn toàn khác với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các

nhà yêu nước Việt Nam trong lịch sử. Trên thực tế và theo Hồ Chí Minh, đại

118

Page 119: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

đoàn kết không chỉ là tình cảm của “người chung một nước phải thương nhau

cùng” nữa, mà đã được xây dựng trên một cơ sở lý luận vững chắc.

Theo Hồ Chí Minh, lực lượng chủ yếu của khối đoàn kết dân tộc là

công nông, cho nên liên minh công - nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc

thống nhất. Lấy liên minh công - nông làm nền tảng. “Vì họ là người trực tiếp

sản xuất ra của cải vật chất cho đời sống xã hội. Nông dân và công nhân là

những giai cấp chiếm số đông dân số, lại bị áp bức bóc lột nặng nề hơn, cho

nên họ có tinh thần cách mạng”... “Chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền

bỉ hơn mọi tầng lớp khác”. Ngoài công - nông còn phải đoàn kết với trí thức,

vì tầng lớp trí thức rất quan trọng đối với cách mạng Việt Nam, theo Hồ Chí

Minh “trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa

, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang, và công, nông, trí cần

đoàn kết chặt chẽ thành một khối”. Trong Mặt trận dân tộc thống nhất, Hồ

Chí Minh giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp. Mặt

trận càng mở rộng, liên minh công - nông - tri thức càng được tăng cường sức

mạnh, ngược lại liên minh công - nông - tri thức càng được tăng cường thì

Mặt trận dân tộc thống nhất càng vững chắc, càng có sức mạnh mà không một

kẻ thù có thể phá nổi.

- Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là công việc của toàn dân

tộc, song nó chỉ có thể được củng cố và phát triển vững chắc, khi được Đảng

lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa là vấn đề mang tính

nguyên tắc, vừa là một tất yếu bảo đảm cho Mặt trận tồn tại, phát triển và có

hiệu lực trong thực tiễn. Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân

tộc thống nhất vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận. Đảng không có Mặt trận sẽ

không có lực lượng cách mạng. Mặt trận không có Đảng lãnh đạo sẽ không

hình thành và phát triển không có phương hướng hoạt động đứng đắn.

Đảng lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải có chính sách Mặt trận đúng đắn,

phù hợp với từng giai đoạn từng thời kỳ của cách mạng, phù hợp với quyền

lợi và nguyện vọng đại đa số nhân dân, trong quá trình lãnh đạo Mặt trận phải

119

Page 120: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

đi đúng đường lối quần chúng không được quan liêu mệnh lệnh và gò ép các

thành viên trong Mặt trận, phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết

phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hoá, khơi gợi tinh thần

tự giác phải thành thật lắng nghe ý kiến của người ngoài Đảng.

2. Mặt trận dân tộc thống nhất, phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm

lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của tầng lớp nhân dân.

Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất là để thực hiện đại đoàn kết

toàn dân, song khối đại đoàn kết đó chỉ có thể thực hiện bền chặt và lâu dài

khi có sự thống nhất cao độ về mục tiêu và lợi ích.

Trong Mặt trận có nhiều mối quan hệ và các quan hệ đó chồng chéo với

nhau. Lợi ích quốc gia dân tộc, lợi ích tập thể và cá nhân, lợi ích xã hội và gia

đình, lợi ích giai cấp và dân tộc. Trong đó độc lập tự do, là mục đích chung, là

mẫu số chung, là nguyên tắc bất di bất dịch để quy tụ các giai cấp tầng, các

đảng phái... vào Mặt trận dân tộc thống nhất.

Trên cơ sở xác định lợi ích tối cao của dân tộc, những quyền lợi cơ bản

của các tầng lớp nhân dân cũng được Hồ Chí Minh kết tinh vào tiêu chí của

nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là độc lập, tự do, hạnh phúc. Các tiêu chí

này được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cụ thể hoá trong các lĩnh vực chính

trị kinh tế, văn hoá xã hội.... phù hợp với mọi tầng lớp, từng đối tượng trong

mỗi thời kỳ lịch sử.

3) Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc

hiệp thương dân chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi bền vững.

4) Mặt trận Dân tôc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài,

đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

120

Page 121: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 52: Hiểu như thế nào về câu nói của Hồ Chí Minh “Đoàn kết,

đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”?

Gợi ý trả lời:

- Theo Hồ Chí Minh, trong thời đại mới, để đánh bại các thế lực đế

quốc thực dân nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con

người nếu chỉ có tinh thần yêu nước chưa đủ; cách mạng muốn thành công và

thành công đến nơi, phải tập hợp được tất cả mọi lực lượng có thể tập hợp xây

dựng khối đại đoàn kết dân tộc bền vững, vì “đoàn kết là sức mạnh”, “đoàn

kết là thắng lợi”. Bởi vậy trong tư tưởng Hồ Chí Minh đại đoàn kết dân tộc là

vấn đề có ý nghĩa chiến lược, có ý nghĩa sống còn, nó quyết định thành bại

của cách mạng. Giương cao ngọn cờ hoà bình, độc lập, dân chủ, tiến bộ xã hội

và nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, Hồ Chí Minh chủ trương

đoàn kết rộng rãi với tất cả các lực lượng, các quốc gia trên thế giới, tôn trọng

và ủng hộ độc lập chủ quyền của Việt Nam. Trong khuôn khổ dân tộc. Hồ Chí

Minh chủ trương đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ và lâu dài toàn dân tộc thành một

khối. Với lực lượng đoàn kết của toàn dân thì không một sức mạnh nào có thể

chiến thắng nổi. Hồ Chí Minh khẳng định “Dân khi mạnh, thì quân lính nào,

súng ống nào cũng không chống lại nổi, “chúng ta tin chắc vào tinh thần và

lực lượng của quần chúng của dân tộc”.

- Trong thời đại mới, theo Hồ Chí Minh kẻ thù của cách mạng mang

tính quốc tế. Nếu cách mạng mỗi nước là một bộ phận hữu cơ của cách mạng

thế giới thì lực lượng cách mạng không thể chỉ bó hẹp là lực lượng của dân

tộc trong một nước: Thời đại mới cách mạng muốn thành công phải có lực

lượng cách mạng ở trong nước, đồng thời phải có lực lượng của cách mạng to

lớn của quốc tế đồng tình ủng hộ. Song cách mạng trước hết phải được diễn ra

ở phạm vi quốc gia dân tộc nhất định. Do vậy, Hồ Chí Minh chỉ ra xây dựng

lực lượng trong nước có ý nghĩa quyết định để “tự ta giải phóng cho ta” cũng

như trong xây dựng xã hội mới thì “sự giúp đỡ của các nước là quan trọng

nhưng ta phải tự lực cánh sinh là chính”.

121

Page 122: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

- Để thực hiện đại đoàn kết, tạo ra lực lượng to lớn của cách mạng, một

điều rất căn bản phải làm được là biết phân biệt rõ bạn và thù. Hồ Chí Minh

đã từng nhắc nhở những người cách mạng: “Chủ nghĩa Mác - Lênin dạy

chúng ta rằng muốn làm cách mạng thắng lợi phải phân biệt rõ ai là bạn, ai là

thù, phải làm cho tăng bầu bạn, bớt kẻ thù”. Nghiên cứu và tổng kết thực tiễn

Hồ Chí Minh đi đến kết luận: thực dân Pháp và bọn tay sai là kẻ thù của nhân

dân lao động Pháp và nhân dân Việt Nam. Còn nhân dân Việt Nam cùng nhân

dân các thuộc địa và nhân dân lao động Pháp là anh em, giữa họ “sẽ là những

mối quan hệ đoàn kết và liên minh”. Với nhận thức đúng đắn đó, Hồ Chí

Minh đã xác định trong cộng đồng người Việt Nam chỉ có một số ít cố tình

phản bội lợi ích dân tộc, cam tâm làm tay sai cho giặc, cùng bọn phát xít

Nhật, bọn thực dân Pháp hiếu chiến, bọn đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam là

kẻ thù của nhân dân và cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh chỉ rõ tất cả

những người Việt Nam yêu nước, nhân dân Nhật, Pháp, Mỹ yêu hoà bình, tự

do, phản đối cuộc chiến của Chính phủ nước họ tiến hành ở Việt Nam là bạn

bè, là lực lượng cần đoàn kết liên minh. Đánh giá vai trò của đoàn kết quốc tế

với cách mạng Việt Nam, trong buổi nói chuyện với Đại sứ nước ta tại Liên

Xô năm 1961, Hồ Chí Minh nói: “Có sức mạnh cả nước một lòng... lại có sự

ủng hộ của nhân dân thế giới, chúng ta sẽ có một sức mạnh tổng hợp cộng với

phương pháp cách mạng thích hợp, nhất định cách mạng nước ta sẽ đi đến

đích cuối cùng. Đi theo tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Cách mạng Việt

Nam ngày càng được nhiều lực lượng trên thế giới đồng tình ủng hộ. Hồ Chí

Minh từng khẳng định, nhờ lực lượng đó, Cách mạng Tháng Tám đã thành

công, kháng chiến chống thực dân Pháp đã thắng lợi và đế quốc Mỹ cùng tay

sai nhất định sẽ thất bại, Tổ quốc Việt Nam nhất định sẽ hoà bình, độc lập,

thống nhất và giàu mạnh.

Mối quan hệ chặt chẽ giữa đại đoàn kết và thắng lợi của sự nghiệp cách

mạng Việt Nam, được Hồ Chí Minh đã khái quát thành luận điểm có tính chất

122

Page 123: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

chân lý về vai trò của khối đại đoàn kết: Đoàn kết làm ra sức mạnh”, “Đoàn

kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.

Câu 53: Vì sao Hồ Chí Minh nêu lên sự cần thiết xây dựng khối đại

đoàn kết quốc tế?

Gợi ý trả lời:

Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức

mạnh quốc tế, tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ

thù.

Sức mạnh của dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất

và tinh thần. Đó là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý

chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do, ý thức tự lực tự cường.

Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng đề cao sức mạnh của truyền thống

dân tộc:

“Xét trong lịch sử Việt Nam,

Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hùng.

Nhiều phen đánh bắc, dẹp đông.

Oanh oanh liệt liệt con Rồng cháu Tiên”.

Người đặc biệt đề cao sức mạnh của lòng yêu nước. “Dân ta có một

lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến

nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành

một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó

khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.

Mặc dù đánh giá rất cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, nhưng một

câu hỏi lớn vẫn đặt ra trong tư duy chính trị Hồ Chí Minh tại sao các cuộc vận

động cứu nước, giải phóng dân tộc từ cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX

vẫn cứ lần lượt thất bại.

Chưa thể có ngay lời giải đáp cho một câu hỏi lớn nhưng Người cũng

đã thấy rõ không thể đánh thắng kẻ thù mới bằng con đường cũ trong một thế

123

Page 124: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

giới đã có nhiều thay đổi. Người quyết định phải đi ra nước ngoài, xem nước

Pháp và các nước khác... Sau khi xem xét họ làm thế nào, sẽ trở về giúp đồng

bào mình.

- Ra đi tìm đường cứu nước trong tư cách người lao động, hoà mình

trong môi trường hoạt động của giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh luôn chú ý

tổng kết thực tiễn dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã từng

bước phát hiện ra sức mạnh vĩ đại tiềm ẩn trong cái trào lưu cách mạng thế

giới mà Việt Nam cần tranh thủ. Các trào lưu đó nếu được liên kết, tập hợp

trong khối đoàn kết quốc tế sẽ tạo nên sức mạnh to lớn.

Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách

mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam

chỉ có thể thành công và thành công đến nơi khi thực hiện đoàn kết chặt chẽ

với phong trào cách mạng thế giới.

- Cùng với quá trình phát triển thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong

quan hệ với tình hình quốc tế; tư tưởng đoàn kết quốc tế được Hồ Chí Minh

phát triển ngày càng đầy đủ, rõ ràng cụ thể thêm.

- Thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ

sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh của các

trào lưu cách mạng thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng

chiến thắng kẻ thù.

Đối tượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn.

Đó là đoàn kết với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào cách

mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc và ở các

nước tư bản chủ nghĩa, đoàn kết với nước Nga Xôviết, với Liên Xô và sau

này mở rộng ra tất cả các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là đoàn kết với nhân

dân Lào và nhân dân Campuchia...

Thực hiện đoàn kết quốc tế, nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới

thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng.

124

Page 125: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn

kết quốc tế, thực hiện đoàn kết quốc tế không phải chỉ vì thắng lợi của cách

mạng mỗi nước mà còn vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc

đấu tranh chống chủ nghĩa quốc tế, và các thế lực phản động quốc tế vì các

mục tiêu cách mạng của thời đại. Thời đại Hồ Chí Minh sống và hoạt động

chính trị là thời đại đã chấm dứt thời kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở

ra các quan hệ quốc tế ngày càng sâu rộng cho các dân tộc, làm cho vận mệnh

của mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của cả loài người: Trong

quá trình hoạt động, lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã phấn đấu

không mệt mỏi đặt mối quan hệ giữa đại đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc

tế đấu tranh cho mục tiêu chung: hoà bình, độc lập dân tộc dân chủ và chủ

nghĩa xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Tinh thần yêu nước là kiên quyết giữ gìn

quyền độc lập tự do và đất đai toàn vẹn của nước mình. Tinh thần quốc tế là

đoàn kết với các nước bạn và nhân dân các nước khác để giữ gìn hoà bình thế

giới, chống chính sách xâm lược và chính sách chiến tranh của đế quốc... giữ

gìn hòa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của nước ta... Đó là lập trường quốc

tế cách mạng.

Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong mấy thập kỷ qua là thắng lợi

của tư tưởng Hồ Chí Minh: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Nhờ giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đã

tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế, huy động được sức mạnh

của các trào lưu cách mạng thời đại, làm cho sức mạnh dân tộc được nhân lên

gấp bội, chiến thắng được những kẻ thù có sức mạnh to lớn hơn mình về

nhiều mặt.

125

Page 126: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 54: Trình bày nội dung các lực lượng cần đoàn kết quốc tế trong

tư tưởng Hồ Chí Minh?

Gợi ý trả lời:

a. Lực lượng đoàn kết

Các lực lượng cần tập hợp, tranh thủ thực hiện đoàn kết quốc tế theo tư

tưởng Hồ Chí Minh là tập trung chủ yếu vào ba lực lượng đoàn kết với phong

trào cộng sản và công nhân quốc tế; với phong trào đấu tranh giải phóng dân

tộc và phong trào hoà bình, dân chủ thế giới, trước hết là phong trào chống

chiến tranh của nhân dân các nước đang xâm lược Việt Nam.

- Đối với phong trào cộng sản công nhân quốc tế là lực lượng nòng cốt

của đoàn kết quốc tế. Hồ Chí Minh cho rằng sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản

quốc tế là một bảo đảm vững chắc cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản.

Phong trào cộng sản, công nhân quốc tế là lực lượng mạnh mẽ ủng hộ phong

trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Đó là phong trào cộng sản và

công nhân quốc tế là Liên Xô, và sau này là các nước xã hội chủ nghĩa, là

Quốc tế thứ ba và Cục Thông tin quốc tế. Từ đó Người đã dành nhiều thời

gian và tâm lực phấn đấu không biết mệt mỏi cho việc xây dựng và củng cố

khối đoàn kết, thống nhất trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Chủ nghĩa tư bản là một lực lượng phản động quốc tế, giai cấp vô sản

muốn chiến thắng chủ nghĩa tư bản cũng phải đoàn kết thành một lực lượng

quốc tế. Chỉ có sức mạnh của sự đoàn kết, nhất trí, ủng hộ lẫn nhau của lao

động toàn thế giới theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em” mới có

thể chống lại được những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc thực dân.

Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân Việt Nam

không thể tách rời sự đồng tình ủng hộ sự chi viện lớn của Liên Xô và các

nước xã hội chủ nghĩa khác của các đảng cộng sản và công nhân thế giới.

- Đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, từ rất sớm Hồ Chí

Minh đã phát hiện ra âm mưu chia rẽ dân tộc của các nước đế quốc tạo sự biệt

lập đối kháng và thù ghét dân tộc, chủng tộc... nhằm làm suy yếu phong trào

126

Page 127: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Chính vì vậy, Người đã

kiến nghị Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản về những biện pháp nhằm làm

cho các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau

hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai,

khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản:

- Đối với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hoà bình, dân

chủ tự do và công lý. Hồ Chí Minh cũng tìm mọi cách để thực hiện đoàn kết.

Trong xu thế mới của thời đại, sự thức tỉnh dân tộc gắn với sự thức tỉnh

giai cấp, Hồ Chí Minh đã gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục

tiêu bảo vệ hoà bình, tự do, công lý và bình đẳng để tập hợp và tranh thủ sự

ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, nước Việt Nam giành

được độc lập, thay mặt Chính phủ, Hồ Chí Minh đã nhiều lần tuyên bố:

“Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện

với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để gìn giữ hoà bình”. “Thái độ nước

Việt Nam với những nước Á châu là một thái độ anh em, đối với ngũ cường

là một thái độ bạn bè”. Bên cạnh chính sách ngoại giao mang tính nhà nước,

Hồ Chí Minh còn đẩy mạnh ngoại giao nhân dân, cho đại diện các tổ chức của

nhân dân Việt Nam, tiếp xúc, hợp tác với các tổ chức chính trị, xã hội, văn

hoá của nhân dân thế giới, của nhân dân Á, Phi... Xây dựng các quan hệ hữu

nghị đoàn kết với các lực lượng tiến bộ thế giới.

Kết quả của chính sách ngoại giao, hoà bình hữu nghị của Hồ Chí Minh

là cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam đã giành được sự ủng hộ rộng rãi và

lớn lao của các tổ chức quần chúng các nhân sĩ trí thức và từng con người trên

hành tinh. Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: Chính vì đã biết kết hợp

phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công

nhân và của các dân tộc bị áp bức, mà Đảng ta đã vượt qua được mọi khó

khăn, đưa giai cấp công nhân và nhân dân ta đến những thắng lợi vẻ vang như

ngày nay.

127

Page 128: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

b. Hình thức đoàn kết quốc tế

Đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là vấn đề

sách lược, một thủ đoạn chính trị nhất thời mà là vấn đề có tính nguyên tắc,

một đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Ngay từ

năm 1924, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về thành lập “Mặt trận thống

nhất của nhân dân chính quốc và thuộc địa” chống chủ nghĩa đế quốc, đồng

thời kiến nghị Quốc tế Cộng sản cần có giải pháp cụ thể để đến Đại hội VI

Quốc tế Cộng sản năm 1928, quan điểm này mới trở thành sự thực.

Dựa trên cơ sở các quan hệ về địa lý - chính trị và tính chất chính trị -

xã hội trong khu vực và trên thế giới cũng như tình hình và nhiệm vụ cách

mạng trong mỗi thời kỳ. Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng và củng cố

khối đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các trào lưu cách

mạng thời đại, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt

Nam.

Trong quá trình hoạt động và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí

Minh đã định hướng cho việc hình thành bốn tầng mặt trận. Mặt trận đại đoàn

kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào; Mặt trận nhân dân Á Phi

đoàn kết với Việt Nam. Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam

chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự là sự phát triển rực rỡ nhất và thắng lợi

to lớn nhất của tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.

Câu 55: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc

xây dựng đoàn kết quốc tế?

Gợi ý trả lời:

a) Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích có lý, có tình

Muốn thực hiện được đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chống chủ

nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế; phải tìm ra được những

điểm tương đồng về mục liệu và lợi ích giữa các dân tộc, các lực lượng tiến

128

Page 129: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

bộ và phong trào cách mạng thế giới. Đây là vấn đề cốt tử, có tính nguyên tắc

trong công tác tập hợp lực lượng.

- Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh

giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện

đoàn kết thống nhất trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa

quốc tế vô sản, có lý, có tình.

Hồ Chí Minh cho rằng, để thực hiện đoàn kết thống nhất trong phong

trào cộng sản và công nhân quốc tế thì đoàn kết giữa các Đảng “là điều kiện

quan trọng nhất để đảm bảo cho phong trào cộng sản và công nhân toàn thắng

trong cuộc đấu tranh vĩ đại cho tương lai tươi sáng của toàn thể loài người:.

Để thực hiện sự đoàn kết đó, theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải đứng vững trên

lập trường giai cấp công nhân, quán triệt sâu sắc những nguyên tắc của chủ

nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình.

Có lý, trước hết là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ

nghĩa Mác - Lênin...

Có tình là tôn trọng lẫn nhau trên tình thần, tình cảm của những người

cùng chung lý tưởng cùng chung mục tiêu đấu tranh, phải khắc phục tư tưởng

sô vanh, “nước lớn”, “đảng lớn”, không “áp đặt”, “ức chế”, nói xấu, công

khai công kích nhau, hoặc dùng các giải pháp về chính trị, kinh tế... gây sức

ép với nhau.

“Có lý”, “có tình” vừa thể hiện tính nguyên tắc vừa là một nội dung của

chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh - chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nó có tác

dụng rất lớn không chỉ trong việc củng cố khối đoàn kết quốc tế của giai cấp

công nhân mà còn củng cố tình đoàn kết trong nhân dân lao động.

Đối với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc

lập tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc.

Độc lập tự do cho mỗi dân tộc là tư tưởng nhất quán, là nguyên tắc, là

chân lý, theo Hồ Chí Minh là “lẽ phải không ai chối cãi được”. Hồ Chí Minh

không chỉ suốt đời đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc mình, mà còn đấu

129

Page 130: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

tranh cho độc lập tự do của các dân tộc khác. Trong quan hệ giữa Việt Nam

với các quốc gia dân tộc trên thế giới. Hồ Chí Minh thực hiện nhất quán quan

điểm có tính nguyên tắc: Dân tộc Việt Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn

vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết của tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới,

đồng thời mong muốn các quốc gia dân tộc trên thế giới quan hệ hợp tác, hữu

nghị với Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc đó.

Những quan điểm trên được Người thể chế hoá sau khi Việt Nam giành

được độc lập. Tháng 9 năm 1947, trả lời nhà báo Mỹ S.Êli Mâysi, Hồ Chí

Minh tuyên bố: Chính sách đối ngoại của nước Việt Nam là “làm bạn với tất

cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai...”

Đối với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao

ngọn cờ hoà bình trong công lý. Giương cao ngọn cờ hoà bình, chống chiến

tranh xâm lược là một trong những nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ

Chí Minh. Tư tưởng đó bắt nguồn từ truyền thống hoà hiếu của dân tộc Việt

Nam kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản và những giá trị nhân văn nhân

loại. Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ hoà

bình, đấu tranh cho hoà bình một nền hoà bình thật sự cho tất cả các dân tộc

“hoà bình trong độc lập tự do”. “Một nền hoà bình chân chính xây trên công

bình và lý tưởng dân chủ”, chứ không phải một nền hòa bình trìu tượng... Đó

là quan điểm tư tưởng bất di bất dịch của Hồ Chí Minh.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong suốt hai cuộc kháng chiến, quan

điểm hoà bình trong sự tôn trọng độc lập và thống nhất đất nước của Hồ Chí

Minh và nhân dân Việt Nam đã làm rung động trái tim nhân loại, đã lôi kéo

được các lực lượng tiến bộ thế giới đứng về phía nhân dân Việt Nam đòi

chấm dứt chiến tranh vãn hồi hoà bình. Trên thực tế, đã hình thành một Mặt

trận nhân dân thế giới có cả nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ đoàn kết với Việt

Nam chống đế quốc xâm lược, góp phần kết thúc thắng lợi hai cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

130

Page 131: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Ca ngợi những cống hiến của Hồ Chí Minh trong công tác tập hợp lực

lượng cách mạng xây dựng khối đại đoàn kết, Rômét Chamdra, nguyên Chủ

tịch Hội đồng hoà bình thế giới đánh giá cho rằng: Bất cứ nơi nào chiến đấu

cho độc lập, tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao.

Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hoà bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và

ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế

giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”.

b. Đoàn kết trên cơ sở độc lập tự chủ, tự lực tự cường.

Đoàn kết quốc tế là tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ giúp đỡ của các lực

lượng quốc tế, nhằm tăng thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các

nhiệm vụ cách mạng đặt ra.

Để đoàn kết tốt phải có nội lực tốt. Nội lực là nhân tố quyết định, còn

nguồn lực ngoại sinh chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội

sinh. Chính vì vậy, trong đấu tranh cách mạng Hồ Chí Minh luôn nêu cao

khẩu hiệu “Tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”, “Muốn người ta

giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”. Trong đấu tranh giành

chính quyền, Người chủ trương “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Trong

kháng chiến chống thực dân Pháp, Người chỉ rõ: “Một dân tộc không tự lực

cánh sinh mà cứ chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc

lập”. Trong quan hệ quốc tế, Người nhấn mạnh, phải có thực lực, thực lực là

cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn.

Muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải

có đường lối độc lập tự chủ và đứng đắn. Trả lời một phóng viên nước ngoài

Hồ Chí Minh nói: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc

của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”.

Trong quan hệ giữa các đảng thuộc phong trào cộng sản, công nhân

quốc tế. Người xác định: “Các đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập và bình đẳng

đồng thời đoàn kết nhất trí giúp đỡ lẫn nhau”.

131

Page 132: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của đường lối đúng đắn

và sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Câu 56: Trình bày nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp

sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại?

Gợi ý trả lời:

1) Nắm bắt chính xác đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại, đặt

cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong sự gắn bó với cách mạng vô

sản thế giới.

a)V.I Lênin viết: “... chúng ta đang sống ở khoảng giao thời giữa hai

thời đại và chỉ có thể hiểu được những biến cố lịch sử có ý nghĩa lớn lao đang

diễn ra trước mắt chúng ta nếu trước hết chúng ta phân tích những điều kiện

khách quan của bước chuyển từ thời đại này sang thời đại kia...” Cũng theo

Lênin, sự phân tích ấy sẽ giúp chúng ta biết được giai cấp nào đang ở trung

tâm của thời đại này hay thời đại khác, giúp chúng ta xác định được nội dung

căn bản của thời đại, phương hướng phát triển chính, của thời đại, những đặc

điểm chủ yếu của bối cảnh lịch sử thời đại ấy.

Hồ Chí Minh bước vào hoạt động chính trị là thời đại diễn ra những

biến đổi cực kỳ to lớn trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó

nổi bật hai sự kiện quan trọng nhất làm thay đổi nội dung của thời đại. Một là

chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn

tư bản độc quyền.v.v... Hai là thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga

(1917) đã mở đầu cho thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên

chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Nguyễn Ái Quốc khi gặp được

Luận cương của Lênin, tán thành Quốc tế thứ ba. Người tìm thấy con đường

giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản. Người viết:

“Thời đại của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn cũng là thời đại một nhóm nước lớn

do bọn tư bản tài chính cầm đầu thống trị các nước phụ thuộc và nửa phụ

thuộc, bởi vậy công cuộc giải phóng các nước và các dân tộc bị áp bức là một

132

Page 133: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản. Do đó mà trước hết nảy ra khả

năng và sự cần thiết phải có liên minh chiến đấu chặt chẽ giữa các dân tộc

thuộc địa với giai cấp vô sản của các nước đế quốc thắng kẻ thù chung”.

b) Sau khi nắm được đặc điểm thời đại mới. Nguyễn Ái Quốc đã làm

tất cả để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Người viết: “Cách

mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách

mệnh trong thế giới đều là đồng chí của nhân dân An Nam cả”.

Người đã chỉ ra một trong những nguyên nhân “gây ra sự suy yếu của

các dân tộc phương Đông, đó là sự biệt lập... Họ hoàn toàn không biết đến

những việc xảy ra ở các nước láng giềng gần gũi nhất của họ, do đó họ thiếu

sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và sự cổ vũ lần nhau...”.

Tóm lại, nhờ nắm bắt được đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại

mà Nguyễn Ái Quốc đã xác định đường lối chiến lược, sách lược và phương

pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt

Nam theo con đường cách mạng vô sản.

2) Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản,

độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

a) Muốn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, các Đảng

Cộng sản phải kiên trì đấu tranh chống mọi khuynh hướng sai lầm của chủ

nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sô vanh... những khuynh

hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất của các lực lượng cách

mạng thế giới. Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Người đã kêu gọi: “Vì nền

hòa bình thế giới, vì tự do và ấm no, những người bị bóc lột thuộc mọi chủng

tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức”. Lần đầu tiên đến Liên Xô, Người

rất phấn khởi nhìn thấy ở trường Đại học phương Đông hình ảnh đại đoàn kết

giữa các dân tộc đủ màu da:

“Rằng đây bốn biển một nhà.

Vàng đen trắng đỏ đều là anh em”

133

Page 134: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

b) Sau khi giành được độc lập về chính trị, con đường tiến lên của các

dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí

Minh viết: “Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ

phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới; cách

mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa

thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”.

Tóm lại, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với

chủ nghĩa quốc tế vô sản, đòi hỏi phải chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa

dân tộc vị kỉ, chủ nghĩa sô vanh, chủ nghĩa cơ hội. Chúng ta không chỉ đấu

tranh vì độc lập, tự do của đất nước mình mà còn vì dân tộc, tự do của các

nước khác.

3) Giữ vững độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình là chính tranh thủ sự

giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng

thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình.

a) Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, bao

giờ Hồ Chí Minh cũng tận lực phát huy sức mạnh của dân tộc - coi nguồn lực

nội sinh giữ vai trò quyết định còn nguồn lực ngoại sinh chỉ được phát huy tác

dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Vì vậy, phải “tự lực cánh sinh, dưạ vào

sức mình là chính”, “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, “phải có đường lối

độc lập tự chủ đúng đắn mới tranh thủ được sức mạnh thời đại”.

b) Nêu cao chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế, tranh thủ

cao nhất sự ủng hộ và giúp đỡ của loài người tiến bộ, đồng thời tích cực thực

hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình, phải coi “giúp bạn tức là giúp mình”,

kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế.

4) Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng “làm bạn với tất

cả nước dân chủ”

a) Trong những năm bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã

từng sống, làm việc và hoạt động ở nhiều nước “chính quốc” và thuộc địa, do

134

Page 135: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

đó có vinh dự là người đặt cơ sở đầu tiên cho tình hữu nghị giữa nhân dân

Việt Nam với nhân dân nhiều nước trên thế giới.

Sau khi nước ta giành lại được độc lập, Người tuyên bố: “Chính sách

ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các

nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hoà bình...” “ Việt Nam sẵn sàng cộng

tác thân thiện với nhân dân Pháp. Những người Pháp tư bản hay công nhân,

thương gia hay trí thức, nếu họ muốn thật thà cộng tác với Việt Nam, thì sẽ

được nhân dân Việt Nam hoan nghênh họ như anh em bầu bạn”

b) Trong quan hệ rộng mở đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành ưu tiên cho

mối quan hệ với các nước láng giềng “vừa là đồng chí, vừa là anh em”. Đồng

thời, hết sức coi trọng thiết lập quan hệ hữu nghị với các nước trong khu vực;

các nước trên thế giới có chế độ chính trị khác nhau, nhằm nâng cao địa vị

của Việt Nam trên trường quốc tế.

Tóm lại, với trí tuệ thiên tài, với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đã vượt

qua mọi trở ngại, khó khăn. Từ trong các mối quan hệ phức tạp của thời đại,

Người đề ra được những đường lối, phương châm, phương pháp, đối sách,

ứng xử... đúng đắn, sáng tạo nên đã phát huy được tối đa sức mạnh dân tộc

kết hợp với sức mạnh thời đại để đưa cách mạng Việt Nam từng bước đi lên

thắng lợi như ngày nay.

Câu 57: Hãy nêu quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về

Nhà nước của dân, do dân, vì dân?

Gợi ý trả lời:

1. Lịch sử dựng nước và giữ nước, kinh nghiệm xây dựng Nhà nước của

cha ông.

Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, cha ông ta tích

luỹ được biết bao kinh nghiệm quý báu về xây dựng Nhà nước, được phản

ánh trong các bộ sử lớn của dân tộc như các tác phẩm: Đại việt sử ký toàn thư,

Lịch triều hiến chương loại chí... và những kinh nghiệm trị nước cũng được

135

Page 136: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

ghi lại trong các bộ luật nổi tiếng như Hình thư (đời Lý), Quốc triều Hình luật

(đời Trần), Bộ luật Hồng Đức (đời Lê)..., mà giá trị của nó có thể sánh ngang

với các bộ luật nổi tiếng ở phương Đông.

Hồ Chí Minh kế thừa những yếu tố tích cực tư tưởng Nhà nước thân

dân thời kỳ phong kiến hưng thịnh trong lịch sử dân tộc cùng với hình ảnh lí

tưởng về Nhà nước “vua Nghiêu, Thuấn - dân Nghiêu, Thuấn”, “nước lấy dân

làm gốc” tiếp thu được ở Nho giáo... là những hành trang đầu tiên Hồ Chí

Minh mang theo trên con đường cứu nước và tìm kiếm một mô hình Nhà

nước tiến bộ cho đất nước khi giành được độc lập.

2. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng cuộc đấu tranh vì độc lập tự do

cho dân tộc mình và cho các dân tộc thuộc địa

Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng cuộc đấu tranh vì độc lập tự do cho

dân tộc mình và cho các dân tộc thuộc địa bằng việc vạch trần bản chất vô

nhân đạo của cái gọi là “công lý” mà thực dân, đế quốc thi hành ở các xứ

“bảo hộ”.

Năm 1919, nhân danh những người Việt Nam yêu nước tại Pháp,

Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vecxây Bản Yêu sách của nhân dân An

Nam đòi các quyền tự do tối thiểu cho dân tộc mình.

Trong lịch sử chính trị và pháp lí của nước ta, đây là văn kiện pháp lý

đầu tiên đặt vấn đề kết hợp khăng khít quyền tự quyết của các dân tộc với

quyền tự do, dân chủ của nhân dân - tức là kết hợp chặt chẽ quyền dân tộc và

quyền con người. Và tư tưởng này tiếp tục được phát triển trong những năm

tiếp theo, với những hoạt động thực tiễn của Người trong phong trào cộng sản

và công nhân quốc tế; Người kiên trì đấu tranh vì độc lập, tự do cho dân tộc

mình, đồng thời cũng đấu tranh cho dân tộc khác.

3. Khảo sát các kiểu mô hình Nhà nước Mỹ, Pháp, Liên Xô - lựa chọn

nhà nước Liên bang Xô viết: nhà nước kiểu mới. Chỉ đạo thực hiện chuẩn bị

giành chính quyền

136

Page 137: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Trên hành trình cứu nước, Người đã khảo sát mô hình Nhà nước tư sản

Mỹ, Pháp, Người đã phát hiện ra đằng sau những lời hoa mỹ về “quyền bình

đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc” của Tuyên ngôn

độc lập Mỹ 1776 là sự bất bình đẳng, nghèo đói, nạn phân biệt chủng tộc và

biết bao sự tàn bạo, bất công khác, nhất là đối với người da đen. Người coi

các cuộc cách mạng tư sản Mỹ, Pháp là “những cuộc cách mạng không đến

nơi”, vì ở đó, chính quyền vẫn ở trong tay một số ít người, vì “Cách mệnh

thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo

tính cách mệnh lần thứ hai” 1.

Sau khi đến Liên Xô, Người đã tìm thấy một mô hình Nhà nước kiểu

mới “... phát đất ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền,... ra sức

tổ chức kinh tế mới. để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng”2. Mô hình nhà

nước đó đã gợi ý cho Người về một kiểu nhà nước sẽ được xây dựng ở Việt

Nam trong tương lai. Mô hình đó, lần đầu tiên được Người nêu ra trong

Chánh cương văn tắt của Đảng năm 1930: “Dựng ra Chính phủ công nông

binh”.

Năm 1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, chủ trì

Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (5-1941), hoàn chỉnh sự

chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược, đề ra Chương trình Việt Minh.

Về vấn đề chính quyền, Hội nghị chủ trương: “...không nên nói công nông

liên hiệp và lập chính quyền Xôviết mà phải nói toàn thể nhân dân liên hợp và

lập chính phủ dân chủ cộng hoà”. Chương trình Việt Minh cũng ghi rõ: “Sau

khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một chính phủ nhân dân

của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà... Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra”.

Khi thời cơ giải phóng dân tộc đã đến gần, trong Thư gửi đồng bào toàn

quốc (tháng 10-1944), Hồ Chí Minh cũng nói rõ: trước hết cần có một chính

phủ đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể

quốc dân, gồm tất cả các đảng phái cách mệnh, các đoàn thể ái quốc trong 1 Sđd tập 2 tr. 270 - 2802 Sđd

137

Page 138: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

nước bầu cử ra. “Một cơ cấu như thế mới có đủ lực lượng và oai tín, trong thì

lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu

bang”.

Sang năm 1945, phong trào phát triển mạnh, căn cứ địa cách mạng

được mở rộng, trước tình hình đó, Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Khu giải

phóng, cử ra Uỷ ban chỉ huy lâm thời, thực hiện chức năng của chính quyền

cach mạng. Tại các địa phương trong Khu giải phóng, các Uỷ ban nhân dân

cách mạng cũng được thành lập, do nhân dân cử ra, để thi hành 10 chính sách

của Việt Minh. Khu giải phóng là hình ảnh “nước Việt Nam mới phôi thai”.

4. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng xây dựng nhà nước kiểu mới

trong lịch sử dân tộc: Nhà nước của dân, do dân, vì dân (1945 - 1969)

- Trong gần 1/4 thế kỉ, trên cương vị là Chủ tịch đầu tiên của nước Việt

Nam mới, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở châu Á. Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã có công đầu trong việc đặt nền móng xây dựng một Nhà nước kiểu

mới trong lịch sử dân tộc: Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

- Ngay sau khi công bố Tuyên ngôn độc lập nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hoà ra đời, ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp đầu

tiên của Chính phủ lâm thời. Người đã nêu ra sáu việc cấp bách, trong đó vấn

đề thứ ba là “... sớm tổ chức tổng tuyển cử”, “chúng ta phải có một Hiến

pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc. Tổng

tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”.

- Chính quyền nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là Nhà nước dân

chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Hiến pháp năm 1946 đã ghi: “Nước

Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền hành trong nước là

của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai giàu

nghèo, giai cấp tôn giáo”. Xây dựng một nhà nước do nhân dân lao động làm

chủ là tư tưởng nhất quán trong cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm quản lí đất nước phải hợp pháp, hợp

hiến; Nhà nước phải được điều hành bằng pháp luật, ban hành các đạo luật,

138

Page 139: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

văn bản quy phạm pháp luật, tăng cường pháp chế, kết hợp với giáo dục đạo

đức, nâng cao dân trí, trình độ giác ngộ cho nhân dân. Người trực tiếp chỉ đạo

xây dựng và thông qua Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, đồng thời

xây dựng hệ thống các đạo luật và hàng trăm các văn bản dưới luật khác. Hơn

nữa, Người rất coi trọng đưa pháp luật vào đời sống.

- Chỉ đạo các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa, coi trọng xây dựng bộ máy nhà nước trong

sạch, vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả, phải có đội ngũ cán bộ, công chức có

đạo đức, gương mẫu chấp hành pháp luật. Từ năm 1948, Người kí Sắc lệnh

về “Lập một chế độ công chức mới”, tiếp đến là Sắc lệnh về “Quy chế công

chức Việt Nam”, “Việc thi tuyển công chức”...

Tất cả những nghiên cứu, khảo sát cùng thực tiễn tổ chức, hoạt động

của Hồ Chí Minh được nói đến ở trên là cơ sở góp phần hình thành nên tư

tưởng của Người về Nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Câu 58: Trình bày quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ và thực

hành dân chủ?

Gợi ý trả lời:

Dân chủ là cái quí báu nhất của nhân dân. Dân chủ là khát vọng muôn

đời của con người. Dân chủ là cơ sở đảm bảo quyền làm chủ, các quyền cơ

bản của nhân dân lao động.

Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ có nghĩa là “dân là chủ” Khi xác định

như thế, có lúc Hồ Chí Minh đem quan niệm “dân chủ” đối lập với quan niệm

“quân chủ”. Trên thế giới trong lĩnh vực chính trị và nhà nước, có nhiều loại

thiết chế, quân chủ và dân chủ. Quân chủ là tất cả quyền lực nắm trong tay

một người là vua, là Hoàng đế. Đối lập với thiết chế quân chủ là thiết chế

cộng hoà dân chủ Hồ Chí Minh nói: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước

nhà do nhân dân làm chủ”, “chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm

chủ”, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ”.

139

Page 140: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Như vậy quan niệm dân chủ của Hồ Chí Minh được biểu đạt qua hai

mệnh đề ngắn gọn “Dân là chủ và dân làm chủ”, “Dân là chủ nói lên vị thế

của dân”, “dân làm chủ” nói lên năng lực, vai trò quyền lực và trách nhiệm

của dân. Dân là chủ và dân làm chủ luôn luôn đi đôi với nhau, thể hiện vị trí

vai trò quyền lực trách nhiệm của dân.

Quan niệm đó của Hồ Chí Minh phản ánh đúng nội dung bản chất về

dân chủ. Quyền hành và lực lượng đều thuộc về nhân dân. Xã hội nào bảo

đảm cho điều đó được thực thi đó là một xã hội thực sự dân chủ.

- Dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Dân chủ thể hiện ở

việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Dân chủ trong xã hội Việt

Nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị kinh tế, văn hoá xã hội...

Trong đó dân chủ thể hiện trên lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất, được

biểu hiện tập trung trong hoạt động của Nhà nước, bởi vì quyền lực của nhân

dân được thể hiện trong hoạt động của Nhà nước với tư cách nhân dân có

quyền lực tối cao. Nhân dân bầu cử ra bộ máy Nhà nước và toàn bộ hệ thống

chính trị. Năm 1953, trong tác phẩm “Thưởng thức chính trị”, Hồ Chí Minh

viết: “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ. Nhân dân

là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành

chính quyền ấy. Thế là dân chủ”.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ, còn biểu hiện ở phương thức

tổ chức xã hội. Hồ Chí Minh chỉ ra phương thức tổ chức hoạt động của xã hội

nước ta muốn khẳng định là một nước dân chủ thì phải có cấu tạo quyền lực

xã hội mà ở đó người dân, cả trực tiếp, cả gián tiếp qua dân chủ đại diện một

hệ thống chính trị do “dân cử ra” và “do dân tổ chức nên”.

Khi xác định quyền hành và lực lượng của xã hội. Hồ Chí Minh còn

vạch rõ nguồn gốc, lực lượng tạo ra quyền hành đó là nhân dân.

Quan niệm dân chủ của Hồ Chí Minh không chỉ có nghĩa là một giá trị

chung, là sản phẩm của văn minh nhân loại, xem nó như là lý tưởng phấn đấu

của các dân tộc, và nó không dừng lại với tư cách như là một thiết chế xã hội

140

Page 141: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

của một quốc gia mà nó còn có cả ý nghĩa biểu thị mối quan hệ quốc tế, hoà

bình giữa các dân tộc. Đó là dân chủ, bình đẳng trong mọi tổ chức quốc tế, là

nguyên tắc ứng xử trong các quan hệ quốc tế.

- Thực hành dân chủ:

Xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ rộng rãi: Dân chủ được gắn

liền với đất nước độc lập, tự do hạnh phúc. Hồ Chí Minh thể hiện quan điểm

này ngay từ năm 1941 trong Chương trình của Mặt trận Việt Nam độc lập

đồng minh, Hồ Chí Minh đã “thiết kế” một chế độ dân chủ cộng hoà cho nước

ta sau khi cuộc cách mạng do nhân dân thực hiện thắng lợi. Đó là chương

trình thực hiện mục tiêu dân chủ, xác định rõ quyền và trách nhiệm của nhân

dân trước vận mệnh của nước nhà, gắn độc lập, tự do của Tổ quốc với quyền

lợi của từng người dân. Chương trình Việt minh đã khơi dậy sức mạnh vô

biên của nhân dân giành chính quyền về tay mình.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi ngày 2-9-1945, Hồ Chí

Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng

hoà, trong đó Hồ Chí Minh nêu ra về chế độ dân chủ ở Việt Nam và các giá

trị về dân chủ được gắn liền với đất nước độc lập tự do hạnh phúc.

Dân chủ theo Hồ Chí Minh còn được thể hiện qua thể chế Hiến pháp và

các đạo luật để thực hiện các quyền cơ bản của nhân dân. Hiến pháp 1946 đặt

cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện quyền lực của nhân dân. Hiến pháp

năm 1959 Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định, phát triển cụ thể hoá thêm

quan điểm bảo đảm dân chủ trong việc xác lập quyền lực của nhân dân trong

Hiến pháp.

Điều đó thể hiện rõ các điều về quyền lực của nhân dân (điều 4); vấn đề

đại biểu của nhân dân trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân (điều 5) và đặc

biệt ở điều 6 ghi rõ: “Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân

liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân

dân. Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ

141

Page 142: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ

nhân dân”.

Hồ Chí Minh chú trọng bảo đảm quyền lực của các giai cấp, tầng lớp

các cộng đồng dân tộc trong thiết chế chính trị nước ta.

- Xây dựng các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể

chính trị. xã hội vững mạnh để bảo đảm dân chủ trong xã hội.

Trong việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam, Hồ Chí Minh chú trọng

tới việc xây dựng Đảng vì Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền. Đảng lãnh

đạo Nhà nước và hệ thống chính trị. Chỉ có thể phát huy dân chủ trong Đảng

mới phát huy dân chủ trong toàn xã hội, vì Đảng là hạt nhân trong hệ thống

chính trị. Dân chủ trong Đảng là yếu tố quyết định dân chủ trong toàn xã hội.

- Xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân - nhà nước là công cụ

thực hiện ý chí dân chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với

sự phát triển của đất nước. Nhà nước thể chế hoá toàn bộ bản chất dân chủ

của chế độ.

Xây dựng các tổ chức Mặt trận và đoàn thể nhân dân thể hiện quyền

làm chủ và tham gia quản lý xã hội của tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã

hội.

Tất cả các tổ chức đó đều có một mục tiêu chung là đạt tới trình độ dân

chủ cao, dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là động lực cơ bản nhất để các

giai cấp tầng lớp trong xã hội Việt Nam phấn đấu trong sự nghiệp cách mạng.

Thực hành dân chủ rộng rãi, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là trên nền

tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nòng cốt là liên minh công - nông -

trí thức.

142

Page 143: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 59: Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước thể hiện

quyền làm chủ của nhân dân?

Gợi ý trả lời:

Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh chú ý khảo cứu

lựa chọn ra một kiểu nhà nước mới cho Việt Nam để xây dựng sau khi cách

mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản thành công. Nhà

nước đó phải đại biểu quyền “cho một số đông người” và Hồ Chí Minh đã

tiến một bước cụ thể chủ trương xây dựng một nhà nước công nông binh thể

hiện trong Chánh cương vắn tắt của Đảng khi thành lập Đảng đầu năm 1930.

Trải qua thực tế các trào lưu cách mạng ở Việt Nam, về sau, Hồ Chí Minh chủ

trương xây dựng ở Việt Nam một nhà nước Dân chủ Cộng hoà một nhà nước

do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước của dân do dân vì dân. Trong bài báo

Dân vận năm 1949 Hồ Chí Minh viết: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu

lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới xây

dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc

của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra Đoàn thể

từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền lực và lực

lượng đều ở dân”.

- Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước không những kế

thừa còn phát triển học thuyết Mác - Lênin về Nhà nước cách mạng.

Hiểu một cách tổng quát nhất quan điểm về Nhà nước của dân, do dân,

vì dân, chúng ta trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh những nội dung sau đây:

a. Nhà nước của dân

Tất cả mọi quyền lực trong Nhà nước và trong xã hội, đều thuộc về nhân

dân. Trong 24 năm làm Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo soạn thảo các

bản Hiến pháp 1946 và Hiến pháp năm 1959. Quan điểm trên của Người được

thể hiện trong các bản Hiến pháp đó. Hiến pháp năm 1946 điều I đã ghi “tất cả

quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt

143

Page 144: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

nòi giống gái trai giàu nghèo giai cấp tôn giáo”, điều thứ 32 ghi “những việc

quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn dân phúc quyết”.

- Nhà nước của dân, nhân dân lao động làm chủ nhà nước, đồng thời

nhân dân cũng có quyền kiểm soát Nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu uỷ

quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh,

đồng thời nhân dân cũng có quyền bãi miễn những đại biểu cử tri bầu ra, nếu

những đại biểu đó tỏ ra không xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân.

- Trong Nhà nước của dân, Hồ Chí Minh đã nêu lên quan điểm dân là

chủ và nhân dân làm chủ. Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân còn

dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền, nghĩa vụ của dân. Với ý nghĩa đó,

người dân được hưởng mọi quyền dân chủ. Bằng thiết chế dân chủ, Nhà nước

phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho nhân dân thực

thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực xã hội. Quyền lực của

nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng. Điều đó có ý nghĩa thực tế nhắc nhở

những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách và vị thế của mình. Không

phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân “quên rằng dân bầu mình ra là

để làm việc cho dân”. Một nhà nước như thế là một nhà nước tiến bộ trong

bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà

do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2-9-1945 chính là Nhà nước tiến bộ chưa

từng có trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam bởi vì. Nhà nước

đó là Nhà nước của dân, nhân dân có vai trò quyết định mọi công việc của đất

nước.

b. Nhà nước do dân

Nhà nước do dân là nhà nước do dân lập nên, do dân lựa chọn, bầu ra

những đại biểu của mình. Nhà nước do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà

nước chi tiêu hoạt động. Nhà nước đó do dân phê bình, xây dựng giúp đỡ, dân

làm chủ.

Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những

người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao

144

Page 145: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây

dựng Nhà nước của mình, mỗi người đều phải có trách nhiệm “ghé vai gánh

vác một phần”. Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm

nghĩa vụ.

c. Nhà nước vì dân

Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân

làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân ngoài ra không có bất cứ một

lợi ích nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đặc

quyền lợi nào. Trên tinh thần đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: mọi đường lối,

chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân; việc gì có lợi cho dân dù

nhỏ cũng cố gắng làm,việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Hồ

Chí Minh luôn luôn tâm niệm: Phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có

mặc, phải làm cho dân có chỗ ở phải làm cho dân được học hành.

Một Nhà nước vì dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ Chủ tịch

nước đến công chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đầy tớ cho nhân

dân chứ không phải “làm quan cách mạng” để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân”.

Đối với chức vụ Chủ tịch nước của mình, Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do

dân uỷ thác cho, Hồ Chí Minh viết: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công

danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào uỷ

thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của

quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui thì tôi rất vui lòng

lui”.

Câu 60: Trình bày sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân

với tính nhân dân và tính dân tộc của. Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí

Minh?

Gợi ý trả lời:

Hồ Chí Minh là người giải quyết hết sức thành công vấn đề mối quan

hệ giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước.

145

Page 146: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại khi giai cấp

và đấu tranh giai cấp xuất hiện. Do đó nhà nước là sản phẩm tất yếu của một

xã hội có giai cấp, nó bao giờ cũng mang bản chất một giai cấp nhất định,

không có một nhà nước nào là phi giai cấp, không có nhà nước đứng trên giai

cấp... Nhà nước sinh ra để phục vụ cho một giai cấp, mang lại quyền lợi cho

giai cấp đó dù là chiếm số ít trong dân cư vẫn có thể thống trị áp bức bóc lột

được đại đa số dân cư. Cho nên nhà nước mang bản chất giai cấp.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà

được coi là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, nhưng tuyệt nhiên nó không

phải là “Nhà nước toàn dân” hiểu theo nghĩa nhà nước phi giai cấp. Nhà nước

bao giờ và ở đâu cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định. Theo tư

tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam mới là một Nhà nước mang bản

chất giai cấp công nhân. Vì:

Một là, Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Trong quan điểm cơ bản xây dựng một Nhà nước do nhân dân lao động

làm chủ, một Nhà nước thể hiện tính chất nhân dân rộng rãi. Hồ Chí Minh

vẫn nhấn mạnh nòng cốt của nhân dân là liên minh giữa giai cấp công nhân

với giai cấp nông dân và tri thức do giai cấp công nhân mà đội tiên phong của

nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Lời nói đầu của bản Hiến pháp năm

1959 do Người trực tiếp chỉ đạo biên soạn đã khẳng định: “Nhà nước của ta là

nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai

cấp công nhân lãnh đạo”.

Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm chủ trương để Nhà

nước thể chế hoá thành pháp luật, chính sách, kế hoạch; Đảng lãnh đạo Nhà

nước bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên của mình trong bộ

máy cơ quan Nhà nước; Đảng lãnh đạo nhà nước bằng công tác kiểm tra.

Hai là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở tính

định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển đất nước. Điều này đã được thể

146

Page 147: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

hiện trong quan điểm của Hồ Chí Minh ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hoà mới ra đời.

Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở nguyên

tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ.

Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân

tộc của Nhà nước ta thể hiện rõ trong những quan điểm sau:

- Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của

rất nhiều thế hệ người Việt Nam.

- Tính thống nhất còn biểu hiện ở chỗ Nhà nước ta bảo đảm lợi ích của

nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm cơ bản.

- Trong thực tế, Nhà nước đã đứng ra làm nhiệm cụ của cả dân tộc giao

phó, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc

lập tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình thống nhhất

độc lập dân chủ, và giàu mạnh, góp phần phát triển tiến bộ của thế giới./.

Câu 61: Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước có hiệu

lực pháp lý mạnh mẽ?

Gợi ý trả lời:

Xây dựng Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ theo tư tưởng Hồ Chí

Minh có những nội dung sau:

Một là, Xây dựng một Nhà nước hợp pháp, hợp hiến. Chỉ sau một ngày

đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời

(3-9-1945) Hồ Chí Minh nêu ra 6 nhiệm vụ cấp bách, nhiệm vụ thứ ba là

“chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức

càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”: để

lập Quốc hội rồi từ đó lập ra Chính phủ và các cơ quan, bộ máy chính thức

khác của Nhà nước mới. Có được một Nhà nước hợp hiến thể hiện quyền lực

tối cao của nhân dân, như vậy thì nước ta mới có cơ sở pháp lý vững chắc để

làm việc với quân Đồng Minh, mới có một quan hệ quốc tế bình đẳng, mới

147

Page 148: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

thiết lập được một cơ chế quyền lực hợp pháp theo đúng thông lệ của một

Nhà nước pháp quyền hiện đại.

Nhân dân ta đã tiến hành Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên ngày 6-

1-1946, với chế độ phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Ngày 2-3-

1946, Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã họp phiên đầu

tiên lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước. Hồ

Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp đầu tiên và làm Trưởng

ban dự thảo Hiến pháp (Hiến pháp được thông qua ngày 9-11-1946). Đây

chính là Chính phủ có đầy đủ tư cách pháp lý để giải quyết một cách có hiệu

quả những vấn đề đối nội và đối ngoại ở nước ta.

Hai là, Hoạt động quản lý nhà nước bằng Hiến pháp, pháp luật và chú

trọng đưa pháp luật vào cuộc sống. Quản lý nhà nước là quản lý bằng bộ máy

và bằng nhiều biện pháp khác nhưng quan trọng nhất là quản lý bằng hệ thống

luật, trong đó quan trọng bậc nhất là Hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà

nước. Từ 1920, trong bài Việt Nam yêu cầu ca, Hồ Chí Minh đã khẳng định

vai trò của pháp luật bằng câu: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.

Hồ Chí Minh là người có công lớn trong sự nghiệp lập hiến, lập pháp

Người trực tiếp chỉ đạo soạn thảo hai Hiến pháp (1946,1959), 16 đạo luật 613

sắc lệnh và văn bản dưới luật khác, Người đặc biệt quan tâm xây dựng hệ

thống pháp luật, bộ máy Nhà nước, mối quan hệ giữa các cơ quan lập pháp,

hành pháp, tư pháp, nguyên tắc tổ chức hoạt động của bộ máy Nhà nước.

Có Hiến pháp và pháp luật rồi nhưng không đưa được vào trong cuộc

sống thì xã hội cũng sẽ bị rối loạn. Dân chủ đích thực bao giờ cũng đi liền với

kỷ cương, phép nước, tức là đi liền với thực thi Hiến pháp và pháp luật.

Hồ Chí Minh coi trọng đưa pháp luật vào đời sống, chăm lo tới nâng

cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào

các công việc Nhà nước phê bình, giám sát công việc của Chính phủ.

Nhà nước phải điều hành bằng pháp luật, kết hợp với giáo dục đạo đức,

nâng cao giác ngộ cách mạng cho nhân dân.

- Trong việc thực thi Hiến pháp và pháp luật, Hồ Chí Minh bao giờ

cũng chú ý bảo đảm tính nghiêm minh và hiệu lực của chúng...

148

Page 149: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Ba là, Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và đủ tài.

Để xây dựng một Nhà nước pháp quyền vững mạnh Hồ Chí Minh đặc

biệt quan tâm đến xây dựng đội ngũ cán bộ công chức. Người coi cán bộ nói

chung “là cái gốc của mọi công việc” “muôn việc thành công hay thất bại đều

do cán bộ tốt hay kém”. Vì thế, Hồ Chí Minh đề ra tiêu chuẩn, yêu cầu về xây

dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Theo Người, cán bộ, công chức phải: Tuyệt

đối trung thành với cách mạng; Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên

môn, nghiệp vụ; phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân; cán bộ công chức

phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm,

nhất là trong những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản”;

phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn luôn có ý thức và hành động

vì sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà nước.

Câu 62: Hãy nêu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước

trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả?

Gợi ý trả lời

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng một Nhà nước của dân, do dân,

vì dân không bao giờ tách rời với việc làm cho Nhà nước luôn trong sạch,

vững mạnh. Điều này luôn luôn thường trực trong tâm trí và hành động của

Hồ Chí Minh. Khi nước nhà giành được độc lập, chính quyền cách mạng còn

non trẻ cũng như lúc cách mạng chuyển giai đoạn. Hồ Chí Minh càng chú ý

đến việc bảo đảm cho sự trong sạch vững mạnh của các cấp chính quyền, bởi

vì thường những lúc đó, cách mạng đứng trước những thách thức rất gay gắt

và những tiêu cực rất dễ trở thành nguy cơ làm biến chất Nhà nước.

Chỉ một tháng sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ

Chí Minh đã gửi thư cho Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu rõ

phải chống đặc quyền, đặc lợi, bộ máy nhà nước không phải là bộ máy áp

bức, bóc lột nhân dân, cán bộ, công chức không phải là những “ông quan cách

mạng”. Hồ Chí Minh chỉ ra sáu căn bệnh cần đề phòng: trái phép, cậy thế, hủ

hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo.

149

Page 150: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Trong quá trình lãnh đạo xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng

hoà. Hồ Chí Minh thường chỉ rõ những tiêu cực sau đây và nhắc nhở mọi

người đề phòng, khắc phục.

- Đặc quyền đặc lợi.

Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, đòi hỏi phải tẩy trừ những

thói cậy mình là người trong cơ quan chính quyền để cửa quyền, hách dịch

với dân, lạm quyền, đồng thời để vơ vét tiền của, lợi dụng chức quyền để làm

lợi cho cá nhân mình, làm như thế tức là sa vào chủ nghĩa cá nhân.

- Tham ô, lãng phí, quan liêu.

Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí, quan liêu là “giặc nội xâm”, “giặc ở

trong lòng”, thứ giặc nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Quan điểm của Hồ Chí

Minh là: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không cũng là bạn

đồng minh của thực dân và phong kiến... Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt

gian, mật thám”.

- Ngày 27-11-1946, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh ấn định hình phạt tội

đưa và nhận hối lộ với mức từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai và phải nộp gấp

đôi số tiền đã nhận hối lộ.

- Ngày 26-1-1946, Hồ Chí Minh ký lệnh nói rõ tội tham ô, trộm cắp của

công dân là tội tử hình.

Lãng phí là một căn bệnh mà Hồ Chí Minh lên án gay gắt. Theo Hồ Chí

Minh xác định lãng phí ở đây là lãng phí sức lao động, lãng phí thời giờ, lãng

phí tiền của. Chống lãng phí là biện pháp để tiết kiệm, một vấn đề quốc sách

của mọi quốc gia. Hồ Chí Minh luôn làm gương, tích cực thực hành chống

lãng phí trong cuộc sống và công việc hàng ngày. Người biết quý từng đồng

xu, bát gạo do dân đóng góp cho hoạt động của bộ máy nhà nước.

Quan liêu: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bệnh quan liêu là một căn bệnh

không những có ở cấp trung ương, ở cấp tỉnh, cấp huyện, mà còn ngay cả ở

cấp cơ sở.

Hồ Chí Minh phê bình những người và các cơ quan lãnh đạo từ cấp

trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán

bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà

150

Page 151: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

không xem xét khắp mọi mặt, không đi sâu vào từng vấn đề. Bệnh quan liêu

làm cho chúng ta chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ

không kiểm tra đến nơi đến chốn... Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng,

che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, đây là bệnh gốc sinh ra các bệnh

tham ô, lãnh phí, muốn trừ sạch bệnh tham ô, lãnh phí, trước mắt phải tẩy

sạch bệnh quan liêu.

- “Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”.

Những hành động trên gây mất đoàn kết, gây rối cho công tác. Hồ Chí

Minh kịch liệt lên án tệ kéo bè, kéo cánh, tệ nạn bà con bạn hữu mình, không

tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng không

vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng việc nước là việc công, chứ không

phải là việc riêng gì dòng họ của ai... Ngoài bệnh cậy thế, có người còn kiêu

ngạo “tưởng mình ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi... Cử chỉ lúc

nào cũng vác mặt quan cách mạng”, làm mất uy tín của Chính phủ.

- Để xây dựng Nhà nước trong sạch vững mạnh theo tư tưởng Hồ Chí

Minh, phải tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật, đi đôi với đẩy mạnh

giáo dục đạo đức cách mạng.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, với cương vị là Chủ

tịch nước, Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa quản lý xã

hội bằng pháp luật với phát huy những truyền thống tốt đẹp trong đời sống

cộng đồng người Việt Nam được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử (kết

hợp nhuần nhuyễn cả “đức trị” và “pháp trị”).

Câu 63: Trình bày khái niệm văn hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh?

Gợi ý trả lời:

Tháng 8-1943, khi còn trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, trong tác

phẩm Nhật ký trong tù, lần đầu tiên Hồ Chí Minh đưa ra một định nghĩa về

văn hoá:

“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng

tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo

văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và

151

Page 152: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn

hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu

hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời

sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.

Như vậy theo tư tưởng Hồ Chí Minh khái niệm văn hoá được hiểu theo

cả ba nghĩa rộng, hẹp, và rất hẹp.

Theo nghĩa rộng: Hồ Chí Minh nêu văn hoá là toàn bộ những giá trị vật

chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra trong qúa trình lịch sử và sự tiến bộ

chung.

Theo nghĩa hẹp: Văn hoá là những giá trị tinh thần. Người viết: trong

công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là

quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá. Nhưng văn hoá là

một kiến trúc thượng tầng.

Theo nghĩa rất hẹp: Văn hoá đơn giản chỉ là trình độ học vấn của con

người được đánh giá bằng cấp học phổ thông thể hiện ở việc Hồ Chí Minh

yêu cầu mọi người “phải đi học văn hoá, xoá mù chữ...”

Câu 64: Những quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí vai trò của nền

văn hoá trong đời sống xã hội?

Gới ý trả lời

Theo Hồ Chí Minh, văn hoá có vị trí vai trò trong đời sống xã hội:

Một là, văn hoá là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng

tầng. Hồ Chí Minh đặt văn hoá ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo

thành bốn vấn đề chủ yếu trong đời sống xã hội và các vấn đề này có quan hệ

rất mật thiết với nhau.

Trong quan hệ với chính trị, xã hội, theo Hồ Chí Minh, chính trị, xã hội

có được giải phóng thì văn hoá mới được giải phóng... Người nói: “Xã hội thế

nào, văn nghệ thế ấy... Dưới chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân ta bị nô

lệ, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn, không thể phát triển được”. Để văn

152

Page 153: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

hoá phát triển tự do phải làm cách mạng chính trị trước.Ở Việt Nam tiến hành

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thực chất là cuộc cách mạng chính trị, tiến

hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính quyền, giải phóng

chính trị, giải phóng xã hội từ đó giải phóng văn hoá, mở đường cho văn hoá

phát triển.

Trong quan hệ với kinh tế: theo tư tưởng Hồ Chí Minh kinh tế thuộc về

cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hoá, cho nên phải chú trọng

xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây dựng và phát

triển văn hoá. Người viết: Văn hoá là một kiến trúc thượng tầng, nhưng cơ sở

hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hoá mới kiến thiết được và có đủ điều

kiện phát triển được.

Như vậy kinh tế phải đi trước một bước. Hồ Chí Minh viết: “Muốn

tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hoá. Vì sao không

nói phát triển văn hoá và kinh tế. Tục ngữ ta có câu: có thực mới vực được

đạo vì thế kinh tế phải đi trước”.

Hai là, văn hoá không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính

trị, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.

Hồ Chí Minh không nhấn mạnh một chiều về sự phụ thuộc của văn hoá

vào kinh tế, chờ cho kinh tế phát triển xong rồi mới phát triển văn hoá. Người

cho rằng, văn hoá có tính tích cực, chủ động, đóng vai trò to lớn như một

động lực, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và chính trị. Người nói: “Trình độ

văn hoá của nhân dân nâng cao sẽ giúp cho chúng ta đẩy mạnh công cuộc

khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân

cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình,

thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.

Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị, có nghĩa là văn hoá, phải

tham gia thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển

kinh tế.

153

Page 154: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Văn hoá phải ở trong kinh tế và chính trị, điều đó cũng có nghĩa là kinh

tế và chính trị cũng phải có tính văn hoá, điều mà chủ nghĩa xã hội đang đòi

hỏi.

Câu 65: Những quan niệm của Hồ Chí Minh về tính chất của nền

văn hoá.

Gợi ý trả lời:

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tính chất của nền văn hoá mới mà chúng

ta xây dựng, bao gồm ba tính chất: dân tộc, khoa học và đại chúng.

Tính dân tộc của nền văn hoá được Hồ Chí Minh biểu đạt bằng nhiều

khái niệm, như đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc, nhằm nhấn mạnh đến chiều

sâu bản chất rất đặc trưng của văn hoá dân tộc, giúp phân biệt, không nhầm

lẫn với văn hoá của các dân tộc khác. Người cho rằng, để được như vậy, phải

“trau rồi cho văn hoá, văn nghệ có tinh thần thuần tuý Việt Nam”, phải “lột tả

cho hết tinh thần dân tộc”, đó là chủ nghĩa yêu nước, đoàn kết, khát vọng độc

lập tự chủ, tự lực tự cường... của dân tộc. Người còn cho rằng “nếu dân tộc

hoá mà phát triển đến cực điểm thì tức là đến chỗ thế giới hoá nó, vì lúc bấy

giờ văn hoá thế giới sẽ phải chú ý đến văn hoá của mình và văn hoá của mình

sẽ chiếm được địa vị ngang với các nền văn hoá thế giới”. Tính dân tộc của

nền văn hoá không chỉ thể hiện ở chỗ biết giữ gìn, kế thừa, phát huy những

truyền thống tốt đẹp của dân tộc, mà còn phải phát triển những truyền thống

tốt đẹp ấy cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới của đất nước.

Tính khoa học của nền văn hoá mới thể hiện ở tính hiện đại, tiên tiến,

thuận với trào lưu tiến hoá của thời đại. Tính khoa học của văn hoá đòi hỏi

phải đấu tranh chống lại những gì trái với khoa học, phản tiến bộ, phải truyền

bá tư tưởng triết học mác-xít, đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm thần bí,

mê tín dị đoan, phải biết gạn đục, khơi trong, kế thừa truyền thống tốt đẹp của

dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.

154

Page 155: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Tính đại chúng của nền văn hoá được thể hiện ở chỗ nền văn hoá ấy

phải phục vụ nhân dân và do nhân dân xây dựng nên. Hồ Chí Minh nói: “văn

hoá phục vụ ai? Cố nhiên, chúng ta phải nói là phục vụ công nông binh, tức là

phục vụ đại đa số nhân dân”...

Tính chất của nền văn hoá mới mà chúng ta xây dựng theo tư tưởng Hồ

Chí Minh cũng được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ cách

mạng, song bản chất, định hướng của nó không thay đổi.

Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II tháng 2-1951 của Đảng, Hồ

Chí Minh khẳng định: Xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính chất dân

tộc, khoa học đại chúng (đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc).

Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III tháng 9-1960 của Đảng,

tính chất nền văn hoá được điều chỉnh lại: “nền văn hoá mới là nền văn hoá

có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc”. Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII (tháng 6-1991) của Đảng, xác định tính chất của nền văn hoá nước

ta là một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc (tính chất tiên tiến đậm

đà bản sắc dân tộc có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tiên tiến là khoa học, hiện

đại là xã hội chủ nghĩa, là biết tiếp thu văn hoá nhân loại. Đậm đà bản sắc dân

tộc là biết kế thừa, phát huy những truyền thống tốt đẹp ấy cho phù hợp với

điều kiện lịch sử của đất nước).

Năm 1992, Hiến pháp mới nêu rõ tính chẩt của nền văn hoá được xác

định là dân tộc, hiện đại, nhân văn.

Do tình hình, nhiệm vụ cụ thể của cách mạng nước ta ở mỗi giai đoạn

lịch sử, nên dù có diễn đạt khác nhau, song tính chất tiên tiến, đậm đà bản sắc

dân tộc của nền văn hoá mà chúng ta xây dựng vẫn bao hàm trong đó tính

chất dân tộc, tính khoa học, tính hiện đại, tính nhân văn, tính đại chúng.

155

Page 156: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 66: Trình bày chức năng của nền văn hoá mới theo tư tưởng Hồ

Chí Minh?

Gợi ý trả lời

Chức năng của văn hoá mới rất phong phú, đa dạng, Hồ Chí Minh nêu

ra ba chức năng chủ yếu của nền văn hoá mới:

Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và những tình cảm cao đẹp.

Tư tưởng có thể đúng đắn hoặc sai lầm, tình cảm có thể thấp hèn hoặc

cao đẹp.

Chức năng của văn hoá là phải bồi dưỡng tư tưởng đúng và tình cảm

cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ được những sai lầm và thấp hèn có thể có trong

tư tưởng tình cảm mỗi người.

Bồi dưỡng tư tưởng đứng đắn trước hết là lý tưởng cách mạng cao cả,

đó là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Chức năng hàng đầu của văn hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phải

làm thế nào cho ai cũng “có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung và

quên lợi ích riêng”.

Bồi dưỡng tình cảm cao đẹp, là lòng yêu nước thương dân, thương

nhân loại bị đau khổ áp bức, thương yêu con người, yêu tính trung thực, chân

thành, thuỷ chung, ghét những thói hư, tật xấu, sự sa đoạ...

Hai là, mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí

Nói đến văn hoá là phải nói đến dân trí. Đó là trình độ hiểu biết, là vốn

kiến thức của người dân. Khi đất nước đã được độc lập, Hồ Chí Minh nói:

“Một trong công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân

trí”. Nâng cao dân trí phải bắt đầu từ chỗ biết đọc, biết viết để có thể hiểu biết

các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, như kinh tế chính trị, lịch sử khoa học -

kỹ thuật, thực tiễn Việt Nam và thế giới.

Mục tiêu nâng cao dân trí của văn hoá trong từng giai đoạn cách mạng

có thể có những điểm chung và riêng. Song tất cả đều hướng vào mục tiêu

chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Khi miền Bắc quá độ lên chủ

156

Page 157: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh nêu ra “chúng ta phải biến một nước dốt nát cực

khổ thành một nước văn hoá cao và đời sống tươi vui hạnh phúc” Đó cũng là

mục tiêu “dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh” mà Đảng

ta đã vạch ra trong công cuộc đổi mới.

Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp,

lành mạnh, hướng con người đến chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân.

Phẩm chất và phong cách được hình thành từ đạo đức lối sống, từ thói

quen của cá nhân và phong tục tập quán của cả cộng đồng.

- Phẩm chất và phong cách thường có mối quan hệ gắn bó với nhau.

Mỗi người thường có nhiều phẩm chất, trong đó có phẩm chất chung và

phẩm chất riêng, tuỳ theo nghề nghiệp, vị trí công tác. Các phẩm chất thường

được thể hiện qua phong cách, tức là lối sinh hoạt, làm việc, lối ứng xử trong

đời sống..

Những phẩm chất và phong cách tốt đẹp làm nên giá trị của con người.

Văn hoá giúp con người hình thành những phẩm chất, phong cách và lối sống

tốt đẹp, lành mạnh thông qua phân biệt cái đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư

hỏng, cái tiến bộ với cái lạc hậu bảo thủ. Từ đó giúp con người phấn đấu làm

cho cái tốt đẹp, lành mạnh ngày càng tăng, cái lạc hậu, bảo thủ ngày càng

giảm. vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ để hoàn thiện bản thân. Hồ Chí

Minh chỉ ra; Phải làm thế nào cho văn hoá thấm sâu vào tâm lý quốc dân,

nghĩa là văn hoá phải sửa đổi được những tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa

xỉ, văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi.

Câu 67: Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hoá giáo dục?

Gợi ý trả lời:

Theo Hồ Chí Minh, việc xây dựng một nền giáo dục của nước Việt

Nam mới phải được coi là nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến lược, cơ bản

và lâu dài. Nền giáo dục đó sẽ “làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc

157

Page 158: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt

Nam độc lập”.

Trong quá trình xây dựng nền văn hoá giáo dục ở Việt Nam, theo quan

điểm của Người:

- Mục tiêu của văn hoá giáo dục để thực hiện cả 3 chức năng của văn

hoá bằng giáo dục: Dạy và học để bồi dưỡng lý tưởng đứng đắn và tình cảm

cao đẹp cho con người. Giáo dục để đào tạo con người có ích cho xã hội. Học

để làm việc, làm người, làm cán bộ. Giáo dục nhằm đào tạo lớp người có đạo

đức, có tài, kế tục sự nghiệp cách mạng làm cho nước ta sánh vai cùng các

cường quốc năm châu.

- Cải cách giáo dục bao gồm xây dựng chương trình nội dung dạy và

học hợp lý, phù hợp với các giai đoạn cách mạng. Nội dung giáo dục phải

toàn diện: văn hoá, chính trị, khoa học - kỹ thuật chuyên môn nghiệp vụ, lao

động v.v...

Các nội dung đó có mối quan hệ mật thiết với nhau. Học chính trị là

học chủ nghĩa Mác - Lênin đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.

Cách học phải sáng tạo, không giáo điều. Học để nắm các quan điểm có tính

nguyên tắc, phương pháp luận. Học khoa học kỹ thuật để đáp ứng đòi hỏi của

thời đại mới, thời đại của cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển

như vũ bão.

- Phương châm, phương pháp giáo dục:

Phương châm học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tế, học tập

kết hợp với lao động phối hợp nhà trường, gia đình - xã hội, thực hiện dân

chủ bình đẳng trong giáo dục, học suốt đời. Coi trọng việc tự học, tự đào tạo

và đào tạo lại. Học ở mọi lúc, mọi nơi, học mọi người.

Phương pháp giáo dục phải xuất phát và bám chắc vào mục tiêu giáo

dục.

- Quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên vì không có giáo viên thì không

có giáo dục. Phải xây dựng đội ngũ giáo viên có phẩm chất yêu nghề phải có

158

Page 159: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

đạo đức cách mạng, phải yên tâm công tác, đoàn kết, phải giỏi về chuyên môn

thuần thục về phương pháp. Người đi giáo dục cũng phải được giáo dục, phải

học thêm mãi học không bao giờ đủ. Còn sống còn phải học.

Câu 68: Hãy làm sáng tỏ quan điểm của Hồ Chí Minh về “Văn hoá -

văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí”?

Gợi ý trả lời:

Văn nghệ là biểu hiện tập trung nhất của văn hoá Hồ Chí Minh đặc biệt

coi trọng đội ngũ những người làm công tác văn hoá - văn nghệ. Theo Người

văn hoá - văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ

khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người

mới.

Tư tưởng này đã được thể hiện từ những năm 20 của thế kỷ XX khi

Người đang bôn ba ở nước ngoài tìm đường cứu nước. Tư tưởng đó tiếp tục

được khẳng định trong quá trình Người về nước cùng với Đảng trực tiếp lãnh

đạo phong trào cách mạng Việt Nam.

Quan điểm coi văn hoá - văn nghệ như một mặt trận là quan điểm rất

độc đáo của Hồ Chí Minh, là sự nhất quán quan điểm khẳng định vai trò vị trí

của văn hoá - văn nghệ có tầm quan trọng như mặt trận chính trị, kinh tế,

quân sự, văn hoá phải ở trong kinh tế và chính trị, văn hoá phải phục vụ

nhiệm vụ chính trị...

Hồ Chí Minh coi mặt trận văn hoá như một cuộc chiến đấu khổng lồ

giữa chính và tà, giữa cách mạng và phản cách mạng. Cuộc chiến đấu đó rất

quyết liệt, lâu dài, song rất vẻ vang. Trong cuộc chiến đó, người nghệ sĩ là

chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí đấu tranh. Người nghệ sĩ cần phải có

những đức tính của người chiến sĩ, lập trường tư tưởng đúng, bền bì, kiên

cường dũng cảm, vừa biết sử dụng vũ khí của mình một cách sắc bén trong

cuộc kháng chiến chống ngoại xâm cũng như trong cuộc xây dựng phát triển

159

Page 160: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

đất nước. “Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp

phò chính trừ tà”.

Chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ như các chiến sĩ khác “tức là phụng sự

kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân”. Trước khi giành được

chính quyền văn nghệ có nhiệm vụ thức tỉnh quần chúng, tập hợp lực lượng

cổ vũ cho thắng lợi tất yếu của cách mạng. Sau khi có chính quyền văn nghệ

phải tham gia vào công cuộc bảo vệ và xây dựng chế độ mới, xây dựng con

người mới. Mặt trận văn nghệ lúc này còn cam go hơn, quyết liệt hơn, bởi

thắng đế quốc thực dân đã khó thắng nghèo nàn, lạc hậu còn khó hơn nhiều.

Để hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang đó, người chiến sĩ trên mặt trận văn nghệ lại

phải có tài năng sáng tạo do chính yêu cầu của văn nghệ đặt ra. Văn nghệ sĩ

phải vừa nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, nghề nghiệp, vừa phải bồi

dưỡng phẩm chất và tài năng - những điều kiện cần thiết cho sáng tạo nghệ

thuật. Một tác phẩm văn nghệ nhất thiết phải do tài năng sáng tạo của cá nhân

văn nghệ sĩ quyết định. Tác phẩm văn nghệ phải phục vụ cách mạng, phục vụ

quần chúng nhân dân đông đảo, được quần chúng yêu thích, đem lại những

chuyển biến tích cực trong tư tưởng, tình cảm tâm hồn của mọi người. Hồ Chí

Minh yêu cầu “chiến sĩ nghệ thuật cần có lập trường vững tư tưởng đúng...

đặt lợi ích của kháng chiến của Tổ quốc của nhân dân lên trên hết, trước hết”.

Quan điểm trên đây không chỉ có ý nghĩa to lớn trong việc tập hợp

đông đảo văn nghệ sĩ vào một mặt trận, làm cho họ trở thành những chiến sĩ

chiến đấu trong kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc ta trước kia, mà

còn là một luận điểm khoa học có ý nghĩa lớn lao đối với hạnh phúc và nền

văn minh của nhân loại.

Câu 69: Trình bày quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về văn hoá

đời sống?

Gợi ý trả lời:

Văn hoá là bộ mặt tinh thần của xã hội, nhưng bộ mặt tinh thần ấy

không phải là cái gì cao siêu, trừu tượng, mà lại được thể hiện ra ngay trong

160

Page 161: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

cuộc sống hàng ngày của mỗi người, rất dễ hiểu, dễ thấy. Đó chính là văn hoá

đời sống.

Văn hoá đời sống thực chất là đời sống mới, với ba nội dung: đạo đức

mới, lối sống mới và nếp sống mới.

Đạo đức mới: Để xây dựng đời sống mới trước hết phải xây dựng đạo

đức mới. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (ngày 3-9-

1945) Hồ Chí Minh đã đề nghị “mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần

nhân dân bằng cách thực hiện”, “cần, kiệm, liêm, chính”, nếu không giữ

đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân,

theo Hồ Chí Minh, nêu cao và thực hành “cần, kiệm, liêm, chính”, tức là nhen

lửa cho đời sống mới.

Lối sống mới: Lối sống mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh là lối sống có

lý tưởng, có đạo đức, lối sống văn minh, tiên tiến kết hợp hài hoà truyền

thống tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa văn hoá nhân loại. Con người muốn tồn

tại, phải làm sao cho có ăn, mặc, ở đi lại và làm việc. Phải làm sao cho mỗi

một hoạt động đó đều mang tính văn hoá. Chính vì vậy, để xây dựng lối sống

mới. Hồ Chí Minh yêu cầu phải sửa đổi “cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi

lại”. Theo ngôn ngữ hiện nay thì đây chính là phong cách sống (sinh hoạt ứng

xử và phong cách làm việc, gọi chung là lối sống mới).

Phong cách sống, theo Hồ Chí Minh là sống phải khiêm tốn, giản dị,

chừng mực, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, biết quý trọng thời gian, ít lòng

ham muốn về vật chất, về chức - quyền - danh - lợi. Trong quan hệ với nhân

dân, bạn bè đồng chí, anh em thì cởi mở, chân tình, ân cần, tế nhị giàu tình

yêu thương quý mến, trân trọng con người; với mình thì chặt chẽ, nghiêm

khắc, với người thì độ lượng, khoan dung.

Phong cách làm việc, theo Hồ Chí Minh là phải sửa đổi sao cho có tác

phong quần chúng, tác phong tập thể - dân chủ, tác phong khoa học. Sửa đổi

phong cách làm việc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cán bộ làm công

161

Page 162: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

tác quản lý, lãnh đạo. Bởi vì, theo Hồ Chí Minh, đã là cán bộ cách mạng phải

có phong cách sống và phong cách làm việc tốt, để làm gương mẫu cho dân.

Nếp sống mới: Xây dựng nếp sống mới - nếp sống văn minh, là quá

trình làm cho lối sống mới dần dần thành thói quen, thành phong tục tập quán

tốt đẹp, kế thừa và phát triển những thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc.

Hồ Chí Minh chỉ ra: đời sống mới không phải cái gì cũng bỏ hết, không

phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ. Cái gì cũ mà không

xấu, nhưng phiền phức thì sửa đổi. Cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm. Cái gì

mới mà hay thì phải làm, phải bổ sung.

Xây dựng văn hoá đời sống mới, nhằm biến Việt Nam từ một quốc gia

nghèo nàn, lạc hậu trở thành một quốc gia văn minh và phú cường là một

công việc lâu dài và phải có phương pháp tốt. Công việc đó đòi hỏi sự quyết

tâm của cả cộng đồng dân tộc, song trước hết, phải được bắt đầu từ mỗi con

người, mỗi gia đình, với tư cách là một tế bào của xã hội.

Câu 70: Hãy nêu nguồn gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh?

Gợi ý trả lời:

- Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, một lãnh tụ cách

mạng thế giới đã bàn nhiều về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức. Tư tưởng

đạo đức Hồ Chí Minh do đó rất sâu sắc, phong phú cả về lý luận và thực tiễn.

Hồ Chí Minh đã thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở

Việt Nam. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh truyền thống đạo đức

dân tộc và đạo đức nhân loại.

Trước hết tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống

đạo đức của dân tộc Việt Nam. Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và

giữ nước của dân tộc Việt Nam, một nền đạo đức truyền thống đã hình thành.

Tuy có biến đổi trong các thời kỳ, song nền đạo đức truyền thống vẫn luôn

giữ được cội rễ, tiếp tục phát triển, tạo nên sức mạnh để chiến thắng kẻ thù.

Truyền thống đạo đức của dân tộc đã được Hồ Chí Minh tiếp thu có chọn lọc.

162

Page 163: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Thứ hai tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh còn bắt nguồn từ đạo đức nhân

loại. Trên nền tảng đạo đức dân tộc, Người đã tiếp thu những hạt nhân hợp lý,

yếu tố tích cực của đạo đức Phật giáo, Nho giáo đạo đức tư sản. Người đã sử

dụng những khái niệm, những phạm trù của tư tưởng đạo đức đã có từ trước,

đưa vào đó những nội dung mới, đồng thời bổ sung khái niệm, những phạm

trù đạo đức của thời đại mới.

Thứ ba, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở thế

giới quan phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

duy vật và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chủ nghĩa Mac - Lênin tạo ra một cuộc

cách mạng trong lĩnh vực đạo đức. Nhờ phương pháp biện chứng của chủ

nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã gạn đục, khơi trong những yếu tố đạo

đức dân tộc, nhân loại. Đồng thời với tư duy độc lập, sáng tạo, xuất phát từ

thực tiễn Việt Nam, Người đã xây dựng được nền đạo đức cách mạng phù

hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.

Câu 71: Trình bày nội dung cơ bản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh?

Gợi ý trả lời

Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng một lãnh tụ cách mạng

thế giới đã bàn nhiều về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức. Tư tưởng đạo

đức Hồ Chí Minh do đó rất sâu sắc phong phú cả về lý luận và thực tiễn. Hồ

Chí Minh đã thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt

Nam. Tư tưởng đạo đức của Người được thể hiện qua những quan điểm sau

đây:

- Về vai trò và sức mạnh của đạo đức cách mạng, theo Người nền đạo

đức Việt Nam mới là đạo đức cách mạng mang bản chất của giai cấp công

nhân, kết hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa đạo đức của

nhân loại. Đạo đức là cái gốc của người cách mạng, người cách mạng phải có

đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng Người nói

“Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây

163

Page 164: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,

không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.

Đức là gốc, nhưng đức và tài, hồng và chuyên phải kết hợp không thể

thiếu mặt nào. Đạo đức là vũ khí mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh vì độc lập

dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

- Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng, theo Hồ Chí

Minh những phẩm chất đạo đức chủ yếu, những chuẩn mực chung, cơ bản

nhất của nền đạo đức mới đạo đức cách mạng Việt Nam:

+ Trung với nước, hiếu với dân. Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao

trùm nhất.

+ Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đây là phẩm chất đạo đức

gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người.

+ Thương yêu con người, sống có tình nghĩa. Đây là một trong những

phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.

Có tinh thần quốc tế trong sáng. Đây là phẩm chất nhằm vào mối quan

hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gia, dân tộc.

- Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới

+ Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức;

+ Xây đi đôi với chống;

+ Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.

Những quan điểm tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vẫn luôn soi sáng cho

Đảng và nhân dân ta trong quá trình xây dựng nền đạo đức Việt Nam ngang

tầm với những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, thực hiện

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.

164

Page 165: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 72: Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức theo tư

tưởng Hồ Chí Minh?

Gợi ý trả lời:

Hồ Chí Minh luôn khẳng định vai trò quan trọng của đạo đức mới trong

sự nghiệp cách mạng. Trong phần đầu cuốn Đường kách mệnh (1927), Người

đã chỉ ra tư cách của người cách mạng. Sau khi giành được chính quyền,

Người đã quan tâm nhiều đến vấn đề đạo đức của cán bộ đảng viên. Trong Di

chúc, Người căn dặn Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn

viên, thanh niên... Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh do đó, rất sâu sắc, phong

phú, cả về lý luận và thực tiễn, đã trở thành một bộ phận vô giá của văn hoá

dân tộc và nhân loại, một sức mạnh to lớn làm nên mọi thắng lợi của cách

mạng Việt Nam. Khi đánh giá vai trò của đạo đức trong đời sống, từ rất sớm

Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con

người, như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người nói: “Cũng như

sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có

gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có

đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.1 Người cho

rằng làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất

vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, “Sức có mạnh mới gánh

được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm

nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.

Đạo đức là cái gốc là nền tảng của người cách mạng, nghĩa là đạo đức

là nhân tố quyết định đời hoạt động, xu hướng phát triển và khả năng lôi

cuốn, lãnh đạo nhân dân của người cách mạng.

Đạo đức là cái gốc là nền tảng của người cách mạng bởi vì trong giai

đoạn cách mạng Đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn xã hội, lãnh đạo Nhà nước,

nếu cán bộ đảng viên không tu dưỡng về đạo đức cách mạng thì mặt trái của

quyền lực có thể làm tha hoá con người. Vì vậy Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng

112 Hồ Chí Minh toàn tập lập 5 tr 252 - 253.

165

Page 166: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

phải “là đạo đức là văn minh”. Người thường nhắc lại ý của V. I. Lênin: Đảng

Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời

đại. Chính vì vậy cùng với việc giáo dục nâng cao trình độ hiểu biết của cán

bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Hồ Chí Minh đã thường xuyên quan

tâm đến việc giáo dục đạo đức cho mọi người. Người nói, cán bộ, đảng viên

muốn cho dân tin, dân yêu thì không phải “viết lên trán chữ cộng sản là được

quần chúng yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo

đức”. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công

việc to tát mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản tự mình đã hủ

hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì? - Trong Di chúc, Người căn dặn: “Mỗi

đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần

kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải

xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.

- Vai trò của đạo đức cách mạng còn thể hiện ở chỗ đó là thước đo lòng

cao thượng của con người. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, trong xã hội, mỗi

người có công việc tài năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm

việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng. Tư

tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực tế

làm thước đo. Chính vì vậy Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức bên cạnh tài năng,

lời nói đi đôi với hành động và hiệu quả trên thực tế. Người nói “Phải lấy kết

quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý

chí cách mạng của mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô

trương, hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất”.

- Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, không phải một chiều phụ

thuộc vào tồn tại xã hội, vào những điều kiện vật chất kinh tế. Nó có khả năng

tác động tích cực trở lại, cải biến tồn tại xã hội. Giá trị đạo đức tinh thần một

khi được con người tiếp nhận sẽ biến thành một sức mạnh vật chất.

Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn gian khổ, thất bại cũng không

lùi bước, chán nản... khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ tinh thần

166

Page 167: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

khiêm tốn “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, không kèn cựa về mặt hưởng

thụ, không công thần, quan liêu, không kiêu ngạo...

Đạo đức là cái gốc của người cách mạng, không có nghĩa là tuyệt đối

hoà mặt tài, mà phải nhận thức đức và tài có mối quan hệ mật thiết với nhau.

Có đức phải có tài, nếu không sẽ không mang lại lợi íchh gì mà còn có hại

cho dân. Mặc khác, phải thấy trong đức có tài. Tài càng lớn thì đức phải càng

cao, vì đức - tài là nhằm phục vụ nhân dân và đưa cách mạng đến thắng lợi.

Người thực sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ

nâng cao năng lực, tài năng để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Khi đã

thấy sức không vươn lên được thì đối với ai có tài hơn mình, mình sẵn sàng

học tập, ủng hộ và nhường bước để họ vượt lên trước.

- Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội. Theo

Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý tưởng cao

xa, ở mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng, mà trước

hết là ở nhữg giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản

ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng

đó trở thành hiện thực.

Hồ Chí Minh cho rằng, phong trào cộng sản công nhân quốc tế trở

thành lực lượng quyết định vận mệnh của loài người không chỉ do chiến lược

và sách lược thiên tài của cách mạng vô sản, mà còn do những phẩm chất đạo

đức cao quý làm cho chủ nghĩa cộng sản trở thành một sức mạnh vô địch.

Tấm gương đạo đức trong sáng của một nhân cách vĩ đại, song cũng rất

đời thường của Hồ Chí Minh chẳng những có sức hấp dẫn lớn lao, mạnh mẽ

với nhân dân Việt Nam, mà còn cả với nhân dân thế giới. Tấm gương đó từ

lâu, là nguồn cổ vũ động viên tinh thần quan trọng đối với nhân dân ta và

nhân loại tiến bộ đoàn kết đấu tranh vì hoà, bình độc lập dân tộc, dân chủ và

chủ nghĩa xã hội.

167

Page 168: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 73: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về phẩm chất đạo

đức trung với nước, hiếu với dân của con người Việt Nam trong thời đại

mới?

Gợi ý trả lời:

“Trung” và hiểu là những khái niệm cũ đã có trong tư tưởng đạo đức

truyền thống Việt Nam và phương Đông. Hồ Chí Minh đã sử dụng khái niệm

này và đưa vào nội dung mới.

Trước kia, “trung”, “hiếu”, được sử dụng với nghĩa phổ biến là trung

quân, là hiếu thảo. Trung quân là trung thành với Vua, cũng có nghĩa là trung

thành với nước, vì Vua với nước là một. Hiếu thảo là con cái phải hiếu thảo

với cha mẹ, chữ hiếu chỉ thu hẹp trong quan hệ gia đình.

Hồ Chí Minh đã kế thừa và vượt qua những hạn chế của quan niệm

truyền thống đó và đưa vào đó một nội dung mới: “Trung với nước, hiếu với

dân, tạo nên một cuộc cách mạng trong quan niệm về đạo đức” Người nói:

“Đạo đức cũ như đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như

người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”. (1)

Hồ Chí Minh cho rằng trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Vì

nước là nước của dân, còn dân lại là chủ nhân của nước; bao nhiêu quyền

hành và lực lượng đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, cán bộ là đầy

tớ của dân chứ không phải là “quan cách mạng”.

Nội dung Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng

nước và giữ nước, trung thành với con đường đi lên của đất nước, là suốt đời

phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng. Hiếu với dân thể hiện ở thương dân, tin

dân, phục vụ nhân dân hết lòng, “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “Đảng và

Chính phủ là đầy tớ của dân”. Để làm được như vậy phải gần dân, kính trọng

và học tập nhân dân phải dựa vào dân, “Bao nhiêu quyền hành và lực lượng

đều ở nơi dân và lấy dân làm gốc. Vì vậy đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí

Minh yêu cầu phải nắm vững “dân tình”, hiểu rõ “dân tâm” thường xuyên

1(1) Hồ Chí Minh. Toàn tập. T 6 trang 320 - 321

168

Page 169: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

quan tâm cải thiện “dân sinh”, nâng cao “dân trí” để nhân dân hiểu và thực

hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình.

Theo Người, Trung với nước, Hiếu với dân là phẩm chất đạo đức, quan

trọng nhất, bao trùm nhất.

Câu 74: Hãy làm sáng tỏ quan điểm của Hồ Chí Minh về phẩm chất

đạo đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư của con người Việt Nam

trong thời đại mới?

Gợi ý trả lời:

Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi

người, là đại cương đạo đức Hồ Chí Minh.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những khái niệm cũ trong đạo

đức truyền thống dân tộc, được Hồ Chí Minh tiếp thu, lọc bỏ những nội dung

không phù hợp và đưa vào những nội dung mới đáp ứng yêu cầu của cách

mạng.

Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm,

liêm, chính, nhưng không bao giờ thực hiện mà lại bắt nhân dân tuân theo để

phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay, ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho

cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo là để đem lại hạnh phúc cho

nhân dân. Cần, kiệm,liêm, chính,chí công vô tư cũng là một biểu hiện cụ thể,

một nội dung của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”.

Theo Hồ Chí Minh thì:

Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch sáng tạo,

có năng suất cao, lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng,

không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng,

là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta.

Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của

dân của nước, của bản thân mình, phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều

169

Page 170: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

cái nhỏ cộng lại thành cái to “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”,

không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.

Liêm tức là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân, “không

xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước của nhân dân”. Phải “trong

sạch không tham lam” “không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham

sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính

đại không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến

bộ”.

Người chỉ ra những hành vi trái với chữ liêm, như: “....cậy quyền thế

mà đục khoét dân, ăn đút, hoặc trộm của công làm của tư”. Dìm người giỏi,

để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là trộm) Người đã nhắc lại

một số ý hay của Khổng, Mạnh. Cụ Khổng Tử nói: “Người mà không Liêm,

không bằng súc vật”. Cụ Mạnh Tử nói: “Ai cũng tham lợi, thì nước sẽ nguy”.

Chính là thẳng thắn, đứng đắn. Người đưa ra một số yêu cầu: Đối với

mình: không được tự cao, tự đại, tự phụ, phải khiêm tốn học hỏi, phát triển cái

hay sửa chữa cái dở của mình.

Đối với người - không nịnh người trên, không khinh người dưới, thật

thà, không dối trá.

Đối với việc - phải để việc công lên trên, lên trước việc tư việc nhà ...

việc thiện nhỏ mấy cũng làm, việc ác nhỏ mấy cũng tránh...

Các đức tính cần, kiện, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau. Cần

mà không kiệm thì chẳng khác nào “gió vào nhà trống” “nước đổ vào chiếc

thùng không đáy”. Kiệm mà không cần thì sản xuất được ít, không đủ dùng,

không có tăng thêm, không có phát triển.

Cần, Kiệm, Liêm, Chính cần thiết đối với tất cả mọi người, Hồ Chí

Minh viết.

“Trời có bồn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông

Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc

Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính

170

Page 171: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Thiếu một mùa, thì không thành trời

Thiếu một phương, thì không thành đất

Thiếu một đức, thì không thành người.

Vì vậy ai cũng phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải là người

thực hành trước để làm kiểu mẫu cho dân. Người cho rằng, những người

trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hạn. Nếu không giữ đúng cần,

kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân.

Đối với một quốc gia, cần kiệm, liêm, chính là thước đo sự giàu có về

vật chất, vững mạnh về tinh thần thể hiện sự văn minh tiến bộ. Cần, kiệm,

liêm chính là nền tảng của đời sống mới, của các phong trào thi đua yêu nước.

Chí công vô tư, là công bằng, công tâm, không thiên tư thiên vị, làm

việc gì cũng không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng vì dân tộc, “lo trước

thiên hạ vui sau thiên hạ”. Chí công vô tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, trừ bỏ

chủ nghĩa cá nhân.

Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là vết tích của xã hội cũ, đó là

lối sống ích kỷ, chỉ muốn “mọi người vì mình” mà không biết “mình vì mọi

người”. Nó là mộ thứ giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm.

Nó là bạn đồng minh của chủ nghĩa đế quốc và thói quen truyền thống lạc

hậu. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh

nguy hiểm, như quan liêu mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãnh phí xa

hoa tham danh lợi, thích địa vị, quyền hành tự cao tự đại, coi thường tập thể,

xem khinh quần chúng, độc đoán chuyên quyền... Chủ nghĩa cá nhân là nguy

hại cho cá nhân con người, cho một Đảng và cả dân tộc. Hồ Chí Minh viết:

“Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức

hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu

mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá

nhân”.

171

Page 172: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã

hội. Vì vậy “thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của

cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”.

Câu 75: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về phẩm chất đạo

đức: Thương yêu con người, sống có tình nghĩa của con người Việt Nam

trong thời đại mới?

Gợi ý trả lời:

Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa

nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ,

cùng với việc thể nghiệm của chính bản thân mình qua hoạt động cách mạng

thực tiễn. Hồ Chí Minh xác định tình yêu thương con người là một trong

những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người nói người cách mạng là người

giàu tình cảm cách mạng mới đi làm cách mạng. Vì yêu thương nhân dân yêu

thương con người mà chấp nhận mọi gian khổ hy sinh đem lại độc lập, tự do,

cơm no, áo ấm và hạnh phúc cho con người.

Thương yêu con người là tình cảm rộng lớn, nhưng không phải là tình

thương trìu tượng, chung chung, phi giai cấp. Trước hết đó là tình yêu thương

đối với những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột. Theo

Hồ Chí Minh, những người bị áp bức bóc lột, những người đi theo điều thiện

thì dù mầu da, tiếng nói có khác nhau vẫn có thể coi nhau như anh em, nếu

không có tình yêu thương như vậy thì không thể nói đến cách mạng càng

không thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Thương yêu con người, thương yêu nhân dân còn được thể hiện tới mọi

đối tượng cụ thể: Bộ đội, thanh niên xung phong, người già trẻ em phụ nữ

những người có hoàn cảnh đặc biệt những người ở tiền tuyến cũng như những

người ở hậu phương...

Thương yêu con người phải được xây dựng trên lập trường giai cấp

công nhân, thể hiện trong mối quan hệ bạn bè, đồng chí, với mọi người bình

thường trong quan hệ hàng ngày. Tình cảm đó đòi hỏi thái độ tôn trọng những

172

Page 173: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

quyền của con người, nâng con người lên. Đối với mình phải luôn nghiêm

khắc, đối với người phải rộng rãi độ lượng Người dạy: Hiểu chủ nghĩa Mác -

Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà

sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được.

Trong Di chúc, Người căn dặn: Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.

Tình thương yêu đó dựa trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình một cách

chân thành, nghiêm túc giữa những người cùng lý tưởng.

Tình thương yêu con người còn được thể hiện đối với những người có

sai lầm, khuyết điểm nhưng đã nhận rõ khuyết điểm sai lầm và cố gắng sửa

chữa, “phải giúp họ tiến bộ” phải làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy

nở như hoa mùa xuân, để đẩy lùi phần xấu đi.

Hồ Chí Minh đã đề cao tình thương yêu con người, sống có tình, có

nghĩa đồng thời Người cũng truyền cho mỗi người sức mạnh, tạo điều kiện

cho mỗi người phát huy trí tuệ, tài năng để hoàn thành nhiệm vụ.

Câu 76: Hãy nêu quan điểm của Hồ Chí Minh về phẩm chất đạo đức

tinh thần quốc tế trong sáng của con người Việt Nam trong thời đại mới?

Gợi ý trả lời:

Hồ Chí Minh đã từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin

và Người đã nêu cao tấm gương sáng ngời về sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước

với chủ nghĩa quốc tế.

Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của

đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ bản chất giai cấp công nhân,

nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khỏi quốc gia dân tộc.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (9-1960) của Đảng, Hồ Chí

Minh đã nói:

“Quan sơn muôn dặm một nhà

Bốn phương vô sản đều là anh em”

173

Page 174: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân, đó là lẽ sống

mà Hồ Chí Minh không ngừng giáo dục nhân dân trong cuộc đấu tranh vì độc

lập dân tộc vì chủ nghĩa xã hội.

Nội dung chủ nghĩa quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và

sâu sắc. Đó là sự tôn trọng hiểu biết, thương yêu và đoàn kết với giai cấp vô

sản toàn thế giới, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những

người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hận thù bất bình đẳng và

phân biệt chủng tộc, chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, vô danh, biệt lập và

chủ nghĩa bành trướng, bá quyền... Hồ Chí Minh chủ trương giúp bạn là tự

giúp mình.

- Đoàn kết quốc tế là nhằm thực hiện những mục tiêu lớn của thời đại là

hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác và hữu nghị

theo tinh thần: bốn phương vô sản đều là anh em.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã dày công

xây đắp tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới.

Đã tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay cho đối đầu, nhằm

kiến tạo một nền văn hoá hoà bình cho nhân loại.

Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất đạo đức, là yêu cầu đạo đức

nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gia dân tộc, “Trái

tim khối óc của Người dành cho dân tộc Việt Nam ta cũng hướng về giai cấp

cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới”. Không phải đối với

bất cứ ai, vào bất cứ lúc nào cũng thấy được tinh thần quốc tế có hay không,

trong sáng hay không trong sáng, nhưng việc giáo dục của Đảng và việc rèn

luyện của cá nhân mỗi người về tinh thần quốc tế lại không thể coi nhẹ”.

174

Page 175: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 77: Nêu những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới theo tư tưởng

Hồ Chí Minh?

Gợi ý trả lời:

Nói tới tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức phải chú ý tới con đường và

phương pháp hình thành đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Đặc điểm và quy

luật hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho thấy một số nguyên tắc cơ

bản xây dựng đạo đức mới sau đây:

- Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức Hồ Chí Minh là một

tấm gương sáng tuyệt vời về nói đi đôi với làm. Người quan tâm đặc biệt, hàng

đầu tới vấn đề đạo đức không phải chỉ để lại những bài viết, bài nói về đạo đức

mà quan trọng hơn là Người thực hiện trước hết, nhiều nhất những tư tưởng ấy.

Hồ Chí Minh coi “nói đi đôi với làm” là nguyên tắc quan trọng bậc

nhất trong xây dựng một nền đạo đức mới. Điều này được Hồ Chí Minh

khẳng định từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX trong tác phẩm Đường kách

mệnh xuất bản năm 1927. Bàn về Tư cách một người cách mệnh, Hồ Chí

Minh đã chỉ rõ; “nói thì phải làm”.

Nói đi đôi với làm là đặc trưng bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí

Minh - Đạo đức cách mạng là đạo đức luôn được nhận thức và giải quyết trên

lập trường của giai cấp công nhân, phục vụ lợi ích của cách mạng. Điều này

phân biệt một cách rạch ròi, đối lập hoàn toàn với thói đạo đức giả của giai

cấp bóc lột với những đặc trưng bản chất là nói nhiều làm ít, nói mà không

làm, nói một đằng làm một nẻo, đem lại lợi ích không phải cho quần chúng

nhân dân lao động, mà cho thiểu số những kẻ bóc lột.

- Nói đi đôi với làm còn nhằm chống thói đạo đức giả. Ngay sau Cách

mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu

hiện của thói đạo đức giả ở một số cán bộ “vác mặt làm quan cách mạng”, nói

mà không làm Người đã nhiều lần bàn đến việc tẩy sạch căn bệnh quan liêu,

coi thường quần chúng của một số cán bộ, đảng viên “miệng thì nói dân chủ,

nhưng làm việc thì họ làm theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần

175

Page 176: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

chúng” nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái ngược với

phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ, làm tổn hại đến uy tín

của Đảng và Chính phủ trước nhân dân.

- Nói đi đôi với làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đức là một nét

đẹp của truyền thống văn hoá phương Đông. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nói

chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm và đối với họ một tấm

gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Với ý

nghĩa đó, Hồ Chí Minh đã đào tạo các thế hệ cán bộ cách mạng Việt Nam

không chỉ bằng lý luận cách mạng tiên phong, mà còn bằng chính tấm gương

đạo đức cao cả của mình.

Hồ Chí Minh cho rằng, trong việc xây dựng một nền đạo đức mới, đạo

đức cách mạng phải đặc biệt chú trọng “đạo làm gương”... Người nói: “Lấy

gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những

cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng xây dựng

con người mới, cuộc sống mới”...

Tấm gương của thế hệ trước với các thế hệ sau là đặc biệt quan trọng.

Đối với cán bộ đảng viên Người nêu luận điểm quan trọng: “Trước mặt quần

chúng không phải ta cứ viết lên trán chữ” “cộng sản” mà ta được họ yêu mến.

Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn

nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

- Xây đi đôi với chống. Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết

hợp chặt chẽ giữa xây và chống. Bởi vì trong Đảng và mỗi con người vì

những lý do khác nhau nên không phải “người người đều tốt, việc việc đều

hay”, “mỗi con người đều có cái thiện và cái ác trong lòng. Ta phải biết làm

cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị

mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”.

Chính vì vậy, việc xây và chống trong lĩnh vực đạo đức rõ ràng không

đơn giản. Xây phải đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục

đích xây.

176

Page 177: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Xây dựng đạo đức mới, trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo

dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới. Với giáo dục đạo đức

phải được tiến hành phù hợp với giai đoạn cách mạng, phù hợp với từng lứa

tuổi, ngành nghề, giai cấp, tầng lớp và trong từng môi trường khác nhau, phải

khơi dậy được ý thức đạo đức lành mạnh ở mỗi người.

Xây phải đi đôi với chống, với việc loại bỏ cái sai, cái xấu, cái vô đạo

đức trong cuộc sống hàng ngày. Hồ Chí Minh cho rằng con đường tiến lên

chủ nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, cuộc chiến đấu khổng lồ.

Trong cuộc chiến đấu đó, có nhiều kẻ địch nhưng thường có ba loại: Chủ

nghĩa tư bản và bọn đế quốc là kẻ địch rất nguy hiểm; thói quen và truyền

thống lạc hậu cũng là kẻ địch to, nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ;

loại địch thứ ba là chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong

mỗi người của chúng ta; nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại hoặc dịp thắng lợi để

ngóc đầu dậy nó là bạn đồng minh của hai kẻ địch kia.

Nhận thức như vậy, để thấy rằng đạo đức cách mạng là vô luận trong

hoàn cảnh nào cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn cảnh

giác, có như vậy mới thắng được địch và thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Để

giành được thắng lợi trong cuộc chiến đấu này, điều quan trọng là phải phát

hiện sớm, phải tuyên truyền vận động hình thành phong trào quần chúng rộng

rãi đấu tranh cho sự lành mạnh trong sạch về đạo đức. Đối với từng người, Hồ

Chí Minh yêu cầu “trước hết phải đánh thắng lòng tà là kẻ thù trong mình”,

“Không hiếu danh, không kiêu ngạo, ít lòng ham muốn về vật chất, vị công

vong tư”.

- Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ mỗi

người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng

ngày, đấy cũng là công việc phải làm kiên trì bền bỉ suốt đời, không người

nào có thể chủ quan tự mãn. Người nhắc lại luận điểm “chính tâm tu thân”

của Khổng Tử và chỉ rõ Chính tâm tu thân tức là cải tạo. Cải tạo cũng phải

trường kỳ gian khổ, vì đó là cuộc cách mạng trong bản thân của mỗi người.

177

Page 178: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Bồi dưỡng tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ, đoạn tuyệt với con người

cũ để trở thành con người mới không phải là công việc dễ dàng... Dù khó

khăn gian khổ nhưng muốn cải tạo thì nhất định thành công”.

Đạo đức cách mạng là đạo đức dấn thân, đạo đức trong hành động vì

độc lập tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ có trong hành động,

đạo đức cách mạng mới bộc lộ rõ những giá trị của mình. Do vậy, đạo đức

cách mạng đòi hỏi mỗi người phải tự giác rèn luyện thông qua hoạt động thực

tiễn trong công việc, phải nhìn thẳng vào mình thấy rõ cái hay cái tốt của

mình để phát huy, thấy rõ cái dở, cái xấu của mình để khắc phục, phải kiên trì

rèn luyện, tu dưỡng suốt đời như công việc rửa mặt hàng ngày. Hồ Chí Minh

đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa

xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố.

Cũng như ngọc càng mài cáng sáng, vàng càng luyện càng trong”.

Cái ác luôn ẩn nấp trong mỗi con người, vì vậy không được sao nhãng

việc tu dưỡng, mà phải rèn luyện suốt đời. Đặc biệt trong thời kỳ hoà bình khi

con người có ít quyền hạn, nếu không ý thức sâu sắc điều này, dễ bị tha hoá

biến chất. Hồ Chí Minh so sánh: “tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví

như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ

dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện

gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi,

nảy nở rất dễ”. Nếu không chú ý đến điều này, sa vào chủ nghĩa cá nhân thì

có thể ngày hôm qua có công với cách mạng nhưng ngày hôm nay lại có tội

với nhân dân. Từ đó Người đi đến một kết luận khái quát: “một dân tộc, một

đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không

nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu

lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân.

178

Page 179: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Câu 78: Vì sao sinh viên phải học tập và làm theo tấm gương đạo

đức Hồ Chí Minh?

Gợi ý trả lời:

Đạo đức, hiểu một cách tổng quát là toàn bộ những chuẩn mực, những

quy tắc, những quan niệm về các giá trị thiện ác, lương tâm, trách nhiệm,

danh dự, hạnh phúc, công bằng v.v... được xã hội thừa nhận, quy định hành

vi, quan hệ giữa con người với sự nghiệp, giữa con người với nhau và giữa

con người với xã hội.

Đạo đức là yếu tố cơ bản của nhân cách tạo nên giá trị con người. Vì

vậy, con người luôn có khát vọng hướng đến chân, thiện mỹ, nhằm hoàn thiện

bản thân, trước hết con người phải tu dưỡng rèn luyện đạo đức theo tư tưởng

Hồ Chí Minh.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, việc tu dưỡng đạo đức của mỗi cá nhân,

mỗi con người là cực kỳ quan trọng đối với thế hệ trẻ càng quan trọng, vì họ

là “chủ tương lai của nước nhà”, “người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh

niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”.

Vì thế Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc giáo dục đạo đức và chăm lo

cho việc rèn luyện đạo đức cho sinh viên. Người nói: “Thanh niên phải có

đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất

giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì có ích lợi

cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đạo đức mà không có tài ví

như ông Bụt không làm hại gì nhưng cũng không lợi gì cho loài người”.

- Hồ Chí Minh cho rằng việc rèn luyện đạo đức còn tạo nên sức mạnh

nội sinh, giúp người ta vượt qua mọi thử thách hiểm nghèo, theo Người: “Có

đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt,

rụt rè, lùi bước... khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ được tinh thần

gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, “lo hoàn

thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công

179

Page 180: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

thần, không quan liêu, không kiêu ngạo không hủ hoá”. Ai giữ được đạo đức

là con người cao thượng, bất kể làm việc to, hay việc nhỏ...

Đối với thanh niên, sinh viên trí thức, Hồ Chí Minh đã sớm xác định

những phẩm chất đạo đức tốt cần thiết để họ có phương hướng phấn đấu. Đó

là những phẩm chất; Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội yêu

lao động, yêu khoa học và kỷ luật.

Để có được những phẩm chất như vậy, theo tư tưởng Hồ Chí Minh

thanh niên, sinh viên phải rèn luyện cho mình những đức tính như trung

thành, tận tuỵ, thật thà và chính trực. Phải xác định rõ nhiệm vụ của mình,

“Không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã

làm gì cho nước nhà”.

Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn. Mình đã vì lợi

ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào? Trong học tập, rèn luyện, phải

kết hợp lý luận với thực hành, học tập với lao động, phải chống mọi biểu hiện

của chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng háo danh, hám lợi. “Chống tâm lý ham

sung sướng và tránh khó nhọc; Chống thói xem khinh lao động, nhất là lao

động chân tay; Chống lười biếng xa xỉ; Chống cách sinh hoạt ủy mị; Chống

kiêu ngạo, giả dối khoe khoang”. Phải trả lời được câu hỏi: Học để làm gì?

Học để phục vụ ai? Phải xác định rõ, thế nào là tốt, thế nào là xấu? Ai là bạn

ai là thù”. Người chỉ rõ: Đối với người, ai làm gì lợi ích cho nhân dân, cho Tổ

quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc ta

tức là kẻ thù. Đối với mình, những tư tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ

quốc, cho đồng bào là bạn. Những tư tưởng và hành động có hại cho Tổ quốc

và đồng bào là kẻ thù....Điều gì phải, thì phải cố làm cho kỳ được, dù là việc

nhỏ, Điều gì trái, thì hết sức tránh dù là một điều trái nhỏ”.

- Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đạo đức Hồ

Chí Minh là đạo đức cách mạng, đạo đức dấn thân, đạo đức trong hành động,

nêu cao chủ nghĩa tập thể, tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân, lo trước thiên hạ vui

sau thiên hạ...

180

Page 181: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Trong thời kỳ ngày nay, chúng ta đang tiến hành công cuộc đổi mới cần

rất nhiều động lực để hoàn thành, đạo đức chính là động lực quan trọng của

công cuộc phát triển đất nước. Việc học tập đạo đức Hồ Chí Minh ngày càng

bức thiết, nhiều sinh viên đã phát huy truyền thống ông cha, rèn luyện đạo

đức, để đóng góp vào sự nghiệp đổi mới đất nước. Bên cạnh đó, do ảnh

hưởng của nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế, do sự bùng phát của lối

sống thực dụng chạy theo danh lợi, bất chấp đạo lý... đã dẫn đến những tiêu

cực trong đời sống xã hội ngày càng phổ biến. Đó là “Tình trạng suy thoái về

tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ

quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ công chức diễn ra

nghiêm trọng”, đã tác động không nhỏ đến đời sống đạo đức công dân, ảnh

hưởng lớn đến tâm tư tình cảm ý chí phấn đấu của sinh viên, thanh niên tri

thức. Hậu quả là đã có một bộ phận sinh viên phai nhạt niềm tin, lý tưởng mất

phương hướng phấn đấu... Đây là những biểu hiện không thể coi thường.

Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà đạo đức học lỗi lạc mà còn là một

tấm gương đạo đức vô song. Chính điều này đã đem lại cho tư tưởng và tấm

gương đạo đức của Người có một sức sống mãnh liệt và sự cổ vũ lớn lao

không chỉ với nhân dân Việt Nam mà còn cả với nhân dân thế giới trong cuộc

đấu tranh vì dân chủ và tiến bộ xã hội. Để trở thành người có ích cho xã hội,

người chủ tương lai của nước nhà. Thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và sinh

viên, thanh niên trí thức nói riêng, cần phải học tập và làm theo tấm gương

đạo đức Hồ Chí Minh. Một số nội dung cơ bản học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh:

Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự

nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng,

nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.

181

Page 182: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng

nhân dân và hết lòng, hết sức, phục vụ nhân dân, luôn nhân ái vị tha, khoan

dung và nhân hậu với con người.

Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn quyết tâm

vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống.

Câu 79: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con

người và chiến lược “trồng người”?

Gợi ý trả lời:

Theo tư tương Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết

định thành công của sự nghiệp cách mạng. Nhân dân là người sáng tạo ra mọi

giá trị vật chất và tinh thần, “vô luận điều gì đều do người làm ra và từ nhỏ

đến to, từ gần đến xa đều thế cả! Hồ Chí Minh nhấn mạnh “trong bầu trời

không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng

đoàn kết của nhân dân”, Người nhấn mạnh “việc dễ mấy không có nhân dân

cũng chịu, việc khó mấy có dân liệu cũng xong”. Người phân tích phẩm chất

tốt đẹp của dân từ lòng trung thành và tin tưởng vào cách mạng, vào Đảng

không sợ gian khổ, tù đầy hy sinh đến việc dân nhường cơm, xẻ áo, chở che

đùm bọc, bảo vệ nuôi nấng bộ đội và cán bộ cách mạng Hồ Chí Minh tổng kết

ngắn gọn: Dân ta tốt lắm.

Dân ta là tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết “giải quyết nhiều vấn đề

một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn

thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Đặc biệt họ có lòng sốt sắng, hăng hái để thực

hiện con đường cách mạng, Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc rằng với tinh

thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta, với lòng yêu nước và chí

kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng ta có thể thắng

lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi. “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân

dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”, chính vì vậy nhân

dân là nhân tố quyết định thành công của cách mạng.

182

Page 183: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Theo Hồ Chí Minh con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách

mạng, phải coi trọng, chăm sóc phát huy nhân tố con người.

Vì sống gần dân, với dân, giữa lòng dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân

ý, Hồ Chí Minh thấy rõ yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con người,

giải phóng lao động xã hội. Người xác định con người vừa là mục tiêu vừa là

động lực của cách mạng.

a. Con người là mục giải phóng của sự nghiệp cách mạng. Mục tiêu

cách mạng của Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải

phóng con người, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong điều

kiện cụ thể của từng giai đoạn cách mạng Người xác định mục tiêu của con

người: khi đất nước còn nô lệ, lầm than thì mục tiêu trước hết là giải phóng

dân tộc, giành độc lập dân tộc.

Sau khi chính quyền đã về tay nhân dân thì mục tiêu ăn, ở, mặc, đi lại

học hành chữa bệnh lại được ưu tiên hơn, bởi vì theo tư tưởng Hồ Chí Minh

“nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng

chẳng có nghĩa lý gì”. Vì vậy chúng ta phải thực hiện ngay, làm cho dân có

ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành,

trong Di chúc Người viết: “đầu tiên là công việc đối với con người.

- Hồ Chí Minh có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại và năng lực

sáng tạo của quần chúng.

- Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh nhận rõ “muốn xây

dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”, “có

dân thì có tất cả”.

- Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhận thức từ mối quan hệ

giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nếu không có

nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng, nếu không có Chính phủ thì nhân

dân không có ai dẫn đường.

183

Page 184: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

- Hồ Chí Minh tin ở dân còn xuất phát từ niềm tin vào tình người. Đã là

người cộng sản thì phải tin nhân dân và niềm tin quần chúng sẽ tạo nên sức

mạnh cho người cộng sản. Người nói dân tộc ta là một dân tộc anh hùng.

- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tin vào dân thì phải chống các bệnh xa

nhân dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân, không tin cậy nhân dân, không hiểu

biết nhân dân, không yêu thương nhân dân. Không yêu thương và tin tưởng

nhân dân là nguyên nhân của căn bệnh nguy hiểm: bệnh quan liêu, mệnh lệnh

bệnh này sẽ dẫn đến kết quả là “hỏng việc”.

- Con người là động lực của cách mạng.

Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả

nước, toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân.

Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng

chủ nghĩa xã hội.

Không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là những

con người được thức tỉnh, giác ngộ, giáo dục, định hướng và tổ chức. Họ phải

có trí tuệ và bản lĩnh, văn hoá, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền

thống lịch sử và văn hoá hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam.

Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ

chức, có lãnh đạo.Vì vậy, vai trò của Đảng cách mạng lấy chủ nghĩa Mác -

Lênin làm nền tảng tư tưởng là vô cùng quan trọng. Qua phong trào cách

mạng của quần chúng. Đảng sẽ nhân sức mạnh của con người lên gấp bội.

Trong khi nhận thức sâu sắc, đầy đủ vai trò động lực của con người thì

phải thấy mối quan hệ biện chứng giữa con người - mục tiêu và con người -

động lực. Càng chăm lo cho con người - mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ phát

huy con người là động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại tăng cường được sức

mạnh của con người là động lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách

mạng.

Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người

và tổ chức. Đó là chủ nghĩa cá nhân. Thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm

184

Page 185: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

thứ bệnh thói quen, truyền thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thù, rụt

rè, không dám nói, không dám làm, không dám đề ra ý kiến, tóm lại không

dám đổi mới và sáng tạo.

b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”

“Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách vừa lâu dài của

cách mạng.

Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của

cách mạng Hồ Chí Minh rất quan tâm tới sự nghiệp giáo dục, đào tạo rèn

luyện con người. Người nói đến “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ

nghĩa xã hội là những quan điểm mang tầm vóc chiến lược cơ bản lâu dài,

nhưng cũng rất cấp bách, Người khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã

hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” và muốn có con

người xã hội chủ nghĩa thì phải có chiến lược trồng người “vì lợi ích mười

năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Cho nên con người

phải được đặt ở vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa nằm trong chiến

lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong

chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp.

Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo

ra. Nhưng ở đây trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội thì “trước hết cần có

những con người xã hội chủ nghĩa”. Điều này cần được hiểu là ngay từ đầu

phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu

biểu cho con người mới xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Công

việc này là một quá trình lâu dài không ngừng hoàn thiện, nâng cao và thuộc

về trách nhiệm của Đảng Nhà nước, gia đình, cá nhân mỗi người.

Mỗi bước xây dựng những con người như vậy là một nấc thang xây

dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “xây dựng chủ xã

hội” và “con người xã hội chủ nghĩa”. Con người xã hội chủ nghĩa theo tư

tưởng Hồ Chí Minh có hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là, kế thừa

những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống (Việt Nam và phương

185

Page 186: Doko.vn 115130 79 Cau Hoi Va Goi y Tra Loi Ve Mon Hoc T (1)

Đông). Hai là, hình thành những phẩm chất mới như có tư tưởng xã hội chủ

nghĩa, có đạo đức xã hội chủ nghĩa, có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ (bản

thân, gia đình, xã hội, thiên nhiên) có tác phong xã hội chủ nghĩa, có lòng

nhân ái vị tha độ lượng.

- Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành

của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.

Để thực hiện chiến lược “trồng người” cần có nhiều biện pháp, nhưng

giáo dục - đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì giáo dục tốt sẽ tạo

ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại giáo dục

tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thanh niên.

- Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện cả đức, trí, thể, mỹ,

phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa

lên hàng đầu.

“Trồng người” là công việc trăm năm không thể nóng vội “một sớm

một chiều” mà phải bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người, trong suốt thời

kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Vì vậy, không được coi nhẹ, sao nhãng sự

nghiệp giáo dục, theo tinh thần của V.I.Lênin: “Học, học nữa, học mãi” và

của Khổng Tử “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Hồ Chí Minh cho

rằng “Việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học”.

186