241
GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC - TẬP 2 GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC - TẬP 2 (Dành cho sinh viên Đại học sư phạm) Trần Thị Tuyết Oanh (Chủ biên) Phần 3: LÝ LUẬN GIÁO DỤC Lí luận giáo dục là hệ thống lí luận về tổ chức quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp) hướng chủ yếu vào việc hình thành cho người được giáo dục những quan điểm, niềm tin, giá trị, động cơ thái độ, hành vi, thói quen phù hợp với những chuẩn mực của xã hội, góp phần phát triển toàn diện nhân cách theo mục đích giáo dục. Hệ thống lí luận này bao gồm những vấn đề cơ bản về bản chất, đặc điểm, quy luật của quá trình giáo dục; về nguyên tắc, phương pháp và nội dung giáo dục, sự thống nhất các môi trường giáo dục, đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt hiệu quả. Chương 12: QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC I. KHÁI NIỆM QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC 1. Quá trình giáo dục là gì? Quá trình giáo dục ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp, là bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể. Quá.trình giáo dục theo nghĩa hẹp và quá trình dạy học và đều hướng vào

Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC - TẬP 2GIÁO TRÌNH

GIÁO DỤC HỌC - TẬP 2

(Dành cho sinh viên Đại học sư phạm)

Trần Thị Tuyết Oanh (Chủ biên)

Phần 3: LÝ LUẬN GIÁO DỤC Lí luận giáo dục là hệ thống lí luận về tổ chức quá trình giáo dục (theo

nghĩa hẹp) hướng chủ yếu vào việc hình thành cho người được giáo dục

những quan điểm, niềm tin, giá trị, động cơ thái độ, hành vi, thói quen phù

hợp với những chuẩn mực của xã hội, góp phần phát triển toàn diện nhân

cách theo mục đích giáo dục. Hệ thống lí luận này bao gồm những vấn đề cơ

bản về bản chất, đặc điểm, quy luật của quá trình giáo dục; về nguyên tắc,

phương pháp và nội dung giáo dục, sự thống nhất các môi trường giáo dục,

đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt hiệu quả.

Chương 12: QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC

I. KHÁI NIỆM QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC1. Quá trình giáo dục là gì?

Quá trình giáo dục ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp, là bộ phận của quá

trình giáo dục tổng thể. Quá.trình giáo dục theo nghĩa hẹp và quá trình dạy

học và đều hướng vào hình thành nhân cách toàn diện theo mục tiêu giáo dục

đã xác định. Trong đó quá trình giáo dục với chức năng trội là làm cho học

sinh có nhận thức đúng đắn về các yêu cầu, chuẩn mực xã hội và có hành vi,

thói quen hành động tương ứng, nó là một trong những kết quả, mục đích

quan trọng nhất của hoạt động dạy học trong nhà trường. Quá trình dạy học

có nhiệm vụ là truyền thụ cho học sinh tri thức và rèn luyện các kĩ năng, kĩ

xảo tương ứng, phát triển trí tuệ, trên cơ sở đó hình thành cho họ những giá

trị đạo đức phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội. Như vậy dạy học với

Page 2: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

chức năng trội là truyền thụ tri thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo tương ứng cho

học sinh sẽ phải dẫn đến quá trình giáo dục, nó được xem là một con đường,

phương tiện hữu hiệu nhất để thực hiện quá trình giáo dục.

Như vậy quá trình giáo dục là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ

chức của giáo viên và học sinh, hình thành những quan điểm, mềm tin, giá trị,

động cơ, thái độ, hành vi, thói quen phù hợp với những chuẩn mực chính trị,

đạo đức, pháp luật, thẩm mĩ, văn hoá, làm phát triển nhân cách học sinh theo

mục đích giáo dục của nhà trường và xã hội.

2. Cấu trúc của quá trình giáo dục

Theo cách tiếp cận hệ thống, quá trình giáo dục là một hệ thống bao

gồm trong nó các thành tố cấu trúc như: mục đích và nhiệm vụ giáo dục; nội

dung giáo dục; phương pháp giáo dục; nhà giáo dục; người được giáo dục;

kết quả giáo dục. Mỗi thành tố có chức năng riêng và có mối quan hệ biện

chứng với nhau.

Mục đích giáo dục là một mô hình dự kiến về nhân cách học sinh đáp

ứng được các yêu cầu khách quan của xã hội, của đất nước trong một giai

đoạn lịch sử nhất định. Để thực hiện được mục đích đó, nhiệm vụ giáo dục

của nhà trường phải hình thành và phát triển các mặt tư tưởng, chính trị, tình

cảm, thái độ, hành vi đạo đức, pháp luật, trí tuệ, thể chất, lao động - kĩ thuật -

nghề... góp phần phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Mục đích giáo dục

là thành tố hàng đầu, có vai trò định hướng cho sự vận động, phát triển của

các thành tố khác của quá trình giáo dục (nội dung, phương pháp, phương

thức giáo dục...) và định hướng cho toàn bộ quá trình giáo dục. Mục đích giáo

dục được ví là "đơn đặt hàng của xã hội".

Nhà giáo dục là chủ thể của quá trình giáo dục giữ vai trò chủ đạo, nhà

giáo dục cần quán triệt mục đích, nhiệm vụ giáo dục và chuyển tải nó tới học

sinh (đối tượng giáo dục). Đồng thời, nhà giáo dục lựa chọn nội dung,

phương pháp, các hình thức tổ chức giáo dục và tổ chức quá trình giáo dục

học sinh. Nhà giáo dục ở nhà trường là các thầy cô giáo, tập thể sư phạm, ở

gia đình là các bậc cha mẹ, ông bà, người lớn và các mối quan hệ khác.

Page 3: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Vai trò của giáo viên trong quá trình giáo dục thể hiện ở những mặt

sau:

- Định hướng sự phát triển nhân cách học sinh theo mục đích giáo dục

của Đảng, Nhà nước và mục tiêu giáo dục cụ thể của nhà trường.

- Có kế hoạch, phương pháp tổ chức hợp lí, khoa học, hệ thống các

hoạt động giáo dục ở trong và ngoài nhà trường.

- Phát huy được ý thức tự giáo dục của học sinh.

- Phối hợp giữa tác động sư phạm của giáo viên với tác động giáo dục

đồng bộ, thống nhất của Hội đồng giáo dục trong nhà trường và các lực

lượng, tổ chức giáo dục khác.

Học sinh với tư cách là khách thể của quá trình giáo dục nhận sự tác

động có định hướng, có kế hoạch, có phương pháp, có tổ chức và có hệ

thống của giáo viên, nhà giáo dục. Quá trình giáo dục luôn có sự tác động

qua lại, thống nhất giữa chủ thể giáo dục (nhà giáo dục) và khách thể giáo

dục (người được giáo dục). Tuy nghiên, học sinh trong quá trình giáo dục tiếp

nhận có chọn lọc các tác động giáo dục và tự vận động để biến các tác động,

các yêu cầu giáo dục từ bên ngoài thành nhu cầu được giáo dục bên trong

của bản thân. Trong quá trình giáo dục, học sinh luôn nhận các tác động giáo

dục từ phía nhà giáo dục và các lực lượng giáo dục, khi đó, học sinh là khách

thể của quá trình giáo dục. Khi tiếp nhận các tác động giáo dục đó, người học

không thụ động mà là một thực thể xã hội có ý thức, người học ý thức được

mục đích, ý nghĩa, các yêu cầu giáo dục đối với mình, rồi diễn ra quá trình

đấu tranh động cơ trong khi lựa chọn và định hướng giá trị. Tức là khi đứng

trước những tác động giáo dục dưới nhiều hình thức khác nhau, người được

giáo dục tiếp nhận nó theo nhu cầu và ý thức của mình, nên mọi tác động

giáo dục bị khúc xạ theo lăng kính chủ quan của họ, khi đó học sinh được

xem là chủ thể của quá trình giáo dục. Hiệu quả của quá trình giáo dục phụ

thuộc rất lớn vào tính chủ thể này, với tư cách là chủ thể, học sinh sẽ tự giáo

dục, tự tu dưỡng và rèn luyện để phát triển và hoàn thiện nhân cách.

Page 4: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Nội dung giáo dục là hệ thống những tri thức, những chuẩn mực đạo

đức cần giáo dục cho học sinh, những tình cảm, thái độ, hành vi - thói quen

trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nội dung giáo dục chịu sự quy định,

chi phối, định hướng của mục đích giáo dục và là cơ sở để xác định các

phương pháp giáo dục.

Phương pháp giáo dục là những cách thức, biện pháp hoạt động phối

hợp thống nhất giữa nhà giáo dục và người được giáo dục để giúp cho người

được giáo dục chuyển hoá các yêu cầu, các chuẩn mực xã hội thành hành vi

và thói quen ứng xử, tức là hình thành và phát triển ở các em những phẩm

chất và hành vi, thói quen đạo đức phù hợp với các chuẩn mực đã được xã

hội quy định.

Kết quả giáo dục là thành tố biểu hiện tập trung kết quả vận động và

phát triển của quá trình giáo dục nói chung và kết quả làm hình thành thói

quen hành vi, thái độ nói riêng ở học sinh theo mục đích, nhiệm vụ, mục tiêu

giáo dục của nhà trường. Nếu mục đích giáo dục là dự kiến mô hình giáo dục

- đào tạo mong muốn thì kết quả giáo dục là đích cần đạt được, là mục tiêu

thực tế của quá trình giáo dục. Giữa mục đích giáo dục (M) và kết quả giáo

dục (Kq) sẽ có các mối tương quan sau:

Kq -> M; Kq ~ M; Kq < M; Kq trái (lệch hoặc ngược) với M.

Các thành tố của quá trình giáo dục nêu trên liên quan mật thiết, thống

nhất biện chứng và tác động qua lại, tương hỗ lẫn nhau. Mặt khác chúng lại

có quan hệ và bị chi phối bởi môi trường kinh tế - văn hoá - KHKT và các

quan hệ sản xuất. Sản phẩm của quá trình giáo dục là nhân cách học sinh

được phát triển. Sản phẩm đó phải thoả mãn được hai tiêu chí cơ bản:

- Một là phù hợp với các chuẩn mực đã được xã hội quy định mang tính

bền vững, phổ biến.

- Hai là phải đáp ứng, phục vụ được các yêu cầu tồn tại, phát triển

không ngừng của xã hội, tạo ra sự thích ứng cao giữa cá nhân và sự biến đổi

của môi trường kinh tế - xã hội. Từ sự phân tích các mối quan hệ biện chứng

Page 5: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

giữa các thành tố của quá trình giáo dục, ta có thể thiết lập sơ đồ về mối quan

hệ đó như sau:

M: Mục đích giáo dục

C: Chủ thể giáo dục (giáo viên)

N: Nội dung, nhiệm vụ giáo dục

P: Phương pháp giáo dục

Pt: Phương tiện giáo dục

HTTC: Hình thức tổ chức giáo dục

Kq: Kết quả giáo dục

K: Khách thể giáo dục (học sinh)

II. BẢN CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC1. Bản chất của quá trình giáo dục

Bản chất quá trình giáo dục được xác định căn cứ vào những cơ sở

sau:

Thứ nhất, quá trình giáo dục là quá trình hình thành một kiểu nhân cách

trong xã hội. Sự phát triển cá nhân con người được quy định bởi tác động

qua lại của các nhân tố xã hội và nhân tố học sinh, trong đó sự ưu tiên hàng

đầu thuộc về các nhân tố xã hội. Cá nhân được phát triển dưới ảnh hưởng

của chương trình. Quá trình xã hội hoá cá nhân là quá trình biến cá nhân

thành một thành viên của xã hội (ứng với các giai đoạn phát triển lịch sử cụ

thể của xã hội); có đầy đủ các giá trị xã hội để tham gia vào những hoạt động

của xã hội. Do đó muốn xác định được bản chất của quá trình giáo dục phải

xuất phát từ cơ chế có tính xã hội của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội những

kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ trước trong các lĩnh vực hoạt động

của đời sống xã hội. Nhờ đó cá nhân chiếm lĩnh được các giá trị văn hoá của

loài người.

Page 6: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Thứ hai, trong quá trình giáo dục luôn có mối quan hệ giữa nhà giáo

dục và người được giáo dục (cá nhân hoặc tập thể), đó là quan hệ sư phạm -

một loại quan hệ xã hội đặc thù. Quan hệ sư phạm này luôn luôn chịu sự chi

phối của các quan hệ chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội, kinh tế, khoa học -

kĩ thuật..., đặc biệt là những quan hệ chính trị - xã hội. Quan hệ sư phạm là

cơ sở để xác định bản chất của quá trình giáo dục, đó là sự thống nhất giữa

sự tác động giáo dục của nhà giáo dục và sự tiếp nhận, tự điều chỉnh của

người được giáo dục trong quá trình giáo dục.

Bản chất của quá trình giáo dục là gì?

Quá trình giáo dục - một quá trình xã hội nhằm hình thành và phát triển

cá nhân trở thành những thành viên xã hội, những thành viên đó phải thoả

mãn được hai mặt: vừa phù hợp (thích ứng) với các yêu cầu của xã hội ở mỗi

giai đoạn phát triển, vừa có khả năng tác động cải tạo, xây dựng xã hội, làm

cho nó tồn tại và phát triển. Những nét bản chất của cá nhân là do các mối

quan hệ xã hội hợp thành. Quá trình giáo dục là quá trình làm cho người

được giáo dục (học sinh) ý thức được các quan hệ xã hội và các giá trị của nó

(các quan hệ chính trị - tư tưởng, kinh tế, pháp luật, đạo đức) để rồi biết vận

dụng vào các lĩnh vực: kinh tế, văn hoá - xã hội, đạo đức, tôn giáo, pháp luật,

gia đình...

Quá trình vận dụng, trải nghiệm các quan hệ xã hội đó sẽ giúp học sinh

(người được giáo dục) tích luỹ được kinh nghiệm xã hội (thực tiễn) tốt và có

nhu cầu, hành vi, thói quen, biết thể hiện đúng đắn các quan hệ xã hội. Chính

trong quá trình tham gia vào các quan hệ xã hội như vậy sẽ giúp cho học sinh

khẳng định những quan hệ mới, tích cực trong mọi lĩnh vực của cuộc sống và

biết loại bỏ khỏi bản thân những quan niệm, những biểu hiện tiêu cực, tàn dư

cũ, lạc hậu không còn phù hợp với xã hội ngày nay.

Quá trình giáo dục là quá trình hình thành bản chất người - xã hội trong

mỗi cá nhân một cách có ý thức, là quá trình tổ chức để mỗi cá nhân chiếm

lĩnh được các lực lượng bản chất xã hội của con người, được biểu hiện ở

toàn bộ các quan hệ xã hội của họ. Triết học mác xít đã khẳng định: Bản chất

Page 7: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

xã hội của con người chỉ có được khi nó tham gia vào đời sống xã hội đích

thực thông qua hoạt động và giao lưu ở một môi trường văn hoá (văn hoá vật

chất và tinh thần). Do đó việc tiếp cận bản chất quá trình giáo dục buộc chúng

ta phải xem xét quá trình tổ chức đời sống, hoạt động và giao lưu của đối

tượng giáo dục.

Mỗi con người đều sống trong một môi trường lịch sử xã hội cụ thể.

Quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống cho mỗi cá nhân hoặc

nhóm, tầng lớp xã hội theo các chuẩn mực các yêu cầu của sự phát triển xã

hội, làm cho cá nhân biết sống phù hợp với các quan hệ xã hội.

Hoạt động và giao lưu là hai mặt cơ bản, thống nhất trong cuộc sống

của con người và cũng là điều kiện tất yếu của sự hình thành và phát triển

nhân cách của cá nhân. Các lí thuyết về hoạt động đã chứng tỏ là con người

muốn tồn tại và phát triển phải có hoạt động và giao lưu. Nếu các hoạt động

và giao lưu của cá nhân (hoặc nhóm người) được tổ chức một cách khoa học

với các điều kiện, phương tiện hoạt động tiên tiến, phong phú, đa dạng; cá

nhân được tham gia vào các hoạt động và giao lưu đó thì sẽ có nhiều cơ hội

tốt cho sự phát triển. Vì bất kì một hoạt động nào của con người cũng đều

phải đặt vào (có quan hệ) những mối quan hệ xã hội và những hình thái giao

lưu nhất định. Chính vì vậy quá trình giáo dục vừa mang bản chất của hoạt

động vừa mang bản chất của giao lưu. Giáo dục là một quá trình tác động

qua lại mang tính xã hội giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, giữa

những người được giáo dục (học sinh) với nhau và với các lực lượng, các

quan hệ xã hội trong và ngoài nhà trường.

Như vậy bản chất của quá trình giáo dục là quá trình tổ chức các hoạt

động và giao lưu trong cuộc sống nhằm giúp cho người được giáo dục tự

giác, tích cực, độc lập chuyển hoá những yêu cầu và những chuẩn mực của

xã hội thành hành vi và thói quen tương ứng.

2. Đặc điểm quá trình giáo dục

a. Giáo dục là một quá trình có mục đích xuất phát tư yêu cầu của xã hội và diễn ra lâu dài

Page 8: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Quá trình giáo dục nhằm hình thành những phẩm chất, những nét tính

cách của cá nhân nên nó đòi hỏi một thời gian lâu dài mới đạt được kết quả.

Tính chất lâu dài của quá trình giáo dục được xem xét ở các góc độ sau:

- Quá trình giáo dục được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của cuộc

đời con người, từ lúc sinh ra cho đến khi không còn sống nữa.

- Việc hình thành và trở nên bền vững, ổn định của một hành vi, thói

quen của cá nhân đòi hỏi một thời gian lâu dài không thể một sớm, một chiều

mà có ngay được. Những phẩm chất mới của nhân cách (niềm tin, động cơ

đúng, tình cảm mới...) chỉ có được và trở nên vừng chắc khi người được giáo

dục tiếp nhận và trải qua một thời gian tập luyện, thể nghiệm, đấu tranh bản

thân (đấu tranh động cơ) trong cuộc sống thực để trở thành kinh nghiệm sống

của chính mình càng đòi hỏi một thời gian lâu dài.

- Kết quả tác động giáo dục, nhất là các tác động nhằm hình thành

nhận thức mới, niềm tin... thường khó nhận thấy ngay (khó đánh giá, lượng

hoá một cách cụ thể) và có khi kết quả đó lại bị biến đổi hoặc mất đi. Do đó

công tác giáo dục phải được tiến hành bền bỉ, liên tục theo một kế hoạch ổn

định, lâu dài, đồng thời trong quá trình giáo dục lại phải phát huy được cao độ

tính tự giác, nỗ lực tự giáo dục kéo dài, liên tục của người được giáo dục thì

mới đạt được hiệu quả giáo dục, kinh nghiệm thực tiễn giáo dục đã chứng tỏ

điều đó.

- Việc sửa chữa, thay đổi những nếp nghĩ; thói quen cũ, lạc hậu, không

đúng, nhất là những thói quen - hành vi xấu thường diễn ra dai dẳng, trở đi

trở lại mãi trong ý thức, hành vi của mỗi người nên việc khắc phục chúng rất

khó khăn và lâu dài.

b. Quá trình giáo dục diễn ra với sự tác động của rất nhiều nhân tố

Quá trình giáo dục là quá trình tổ chức các hoạt động phong phú, các

dạng giao lưu đa dạng để hình thành những phẩm chất nhân cách bền vững

cho người được giáo dục, có rất nhiều nhân tố tác động đến quá trình này

như: Các sự kiện, quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng - văn hoá, phong

Page 9: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

tục, tập quán; các hoạt động giáo dục ở trong và ngoài nhà trường; các nội

dung thông tin - văn hoá - nghệ thuật tuyên truyền qua các phương tiện và

các kênh thông tin khác nhau; các thành tố của quá trình giáo dục (mục đích,

nội dung, phương pháp, phương tiện) cách tổ chức được chủ thể và khách

thể quá trình giáo dục tác động để nó vận hành và phát triển nhằm đem lại

hiệu quả giáo dục; các yếu tố tâm lí, trình độ được giáo dục, điều kiện, hoàn

cảnh riêng tư... của người được giáo dục; các mối quan hệ sư phạm được

tạo ra trong quá trình tác động qua lại giữa học sinh với giáo viên, giữa học

sinh với các lực lượng giáo dục khác.

Các yếu tố tác động từ nhiều phía đan kết, xen kẽ, bổ sung cho nhau

tạo thành một thể thống nhất hướng tới việc hoàn thiện nhân cách. Tuy nhiên,

các yếu tố tác động đến quá trình giáo dục với nhiều mức độ khác nhau,

chúng có thể thống nhất hỗ trợ cho nhau trong quá trình giáo dục, cũng có thể

có mâu thuẫn làm hạn chế, suy giảm, thậm chí làm vô hiệu hoá kết quả của

quá trình giáo dục. Điều này đòi hỏi nhà giáo dục cần chủ động phối hợp

thống nhất các tác động giáo dục, đồng thời phải linh hoạt vận dụng các

nguyên tắc, phương pháp giáo dục để hạn chế tới mức tối đa những tác động

tiêu cực, tự phát, và phát huy những tác động tích cực đối với quá trình giáo

dục.

c. Quá trình giáo dục mang tính cụ thể

Quá trình giáo dục được thực hiện trong cuộc sống, hoạt động và giao

lưu của mỗi cá nhân. Với tư cách là người được giáo dục, cá nhân tiếp nhận

các tác động giáo dục theo những quy luật chung, đồng thời lại phải chú ý

đến những điểm riêng biệt cụ thể thì mới có hiệu quả và tránh được những

tác động giáo dục một cách cứng nhắc, công thức, giáo điều. Tính cụ thế của

quá trình giáo dục được thể hiện như sau:

- Tác động giáo dục theo từng cá nhân người được giáo dục với những

tình huống giáo dục cụ thể, riêng biệt. Quá trình giáo dục luôn phải giải quyết

các mâu thuẫn xung đột cụ thể giữa yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục với phẩm

chất, năng lực, tâm lí chủ quan của người được giáo dục.

Page 10: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

- Quá trình giáo dục phải tính đến những đặc điểm của từng loại đối

tượng cụ thể. Mỗi học sinh đều là một cá nhân có tính độc lập tương đối của

nó về trình độ được giáo dục, về kinh nghiệm sống, về thái độ, tình cảm, thói

quen.. đặc điểm tâm lí lứa tuổi, điều kiện hoàn cảnh sống, những diễn biến

phức tạp, éo le của từng tình huống cụ thể. Nhà giáo dục cần phải nhìn thấy

hoặc dự đoán được những nguyên nhân (sâu xa và trước mắt) của các biểu

hiện (tốt, xấu) của thái độ, hành vi, thói quen... từ đó mới có biện pháp tác

động phù hợp.

Quá trình giáo dục được diễn ra trong thời gian, thời điểm, không gian

với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Kết quả giáo dục cũng mang tính cụ

thể đối với từng loại đối tượng giáo dục. Quá trình giáo dục phải đặc biệt chú

ý rèn luyện, luyện tập phương thức, thao tác, kĩ năng thể hiện các yêu cầu,

nội dung, chuẩn mực xã hội về nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, biến những yêu cầu

đó từ bên ngoài thành nét tính cách riêng, độc đáo của mỗi con người.

Tóm lại quá trình giáo dục luôn diễn ra cụ thể trong những tình huống

giáo dục, điều kiện giáo dục và với những con người (đối tượng giáo dục) cụ

thể.

d. Quá trình giáo dục thống nhất biện chứng với quá trình dạy học

Giáo dục và dạy học là hai quá trình có cùng mục đích là hình thành và

phát triển nhân cách, tuy nhiên chúng không đồng nhất. Dạy học nhằm tổ

chức, điều khiển để người học chiếm lĩnh có chất lượng và hiệu quả nội dung

học vấn; giáo dục hình thành những phẩm chất đạo đức, hành vi, thói quen...

hai hoạt động này không tách biệt mà có quan hệ biện chứng với nhau. Trên

cơ sở thực hiện các nhiệm vụ dạy học thì thế giới quan và các phẩm chất đạo

đức của học sinh được hình thành và phát triển, ngược lại, giáo dục tốt các

phẩm chất sẽ thúc đẩy hoạt động đạt kết quả cao, dạy học là quá trình điều

khiển được, còn quá trình giáo dục là quá trình phức tạp khó kiểm soát.

Page 11: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

III. ĐỘNG LỰC VÀ CÁC KHÂU CỦA QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC1. Động lực của quá trình giáo dục

Theo quan điểm triết học biện chứng, các sự vật, hiện tượng, quá trình

luôn vận động và phát triển, động lực của sự phát triển được hình thành trong

quá trình giải quyết có hiệu quả các mâu thuẫn cơ bản, nội tại của chúng.

Trong cuộc sống, con người luôn chịu những tác động khách quan từ

môi trường, chúng có thể tác động ngẫu nhiên, tự phát hoặc tác động có mục

đích. Mỗi cá nhân cần tiếp thu những tác động để chuyển hoá nó thành ý

thức, hành vi phù hợp với các chuẩn mực được xã hội chấp nhận.

Trong quá trình đó tồn tại rất nhiều mâu thuẫn phải được giải quyết,

giữa cái tốt và cái xấu, cái tích cực và cái tiêu cực, giữa cái mới có tính tích

cực với thói quen cũ lạc hậu. Chính sự đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn sẽ

thúc đẩy sự hoàn thiện nhân cách.

Quá trình giáo dục có nhiều mâu thuẫn, trong đó mâu thuẫn cơ bản của

bản thân quá trình giáo dục, trở thành động lực chủ yếu của quá trình giáo

dục. Động lực của quá trình giáo dục chính là kết quả giải quyết tốt mâu thuẫn

giữa một bên là các yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục mới đang đặt ra cho người

được giáo dục với một bên là trình độ được giáo dục và phát triển hiện có của

người được giáo dục. Các nhiệm vụ giáo dục luôn được đặt ra trước những

nhu cầu, động cơ muốn vươn lên hoàn thiện nhân cách, đòi hỏi người được

giáo dục tự giác, tính cực tìm các cách thức, phương tiện khác nhau để thực

hiện các nhiệm vụ giáo dục, trình độ được giáo dục được nâng cao. Tiếp tục

là những yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục mới khác cao hơn, phức tạp hơn được

đặt ra lại mâu thuẫn với trình độ được giáo dục đang có, học sinh lại có nhu

cầu muốn giải quyết nhiệm vụ giáo dục mới đó. Cứ như vậy, quá trình giáo

dục vận động và phát triển không ngừng, ngày một đi lên.

2. Các khâu của quá trình giáo dục

Quá trình giáo dục mang tính toàn vẹn. Để hình thành và phát triển bất

kì một phẩm chất nhân cách nào đều phải tác động vào tất cả các mặt của

Page 12: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

đời sống tâm lí cá nhân: nhận thức, ý chí, niềm tin, tình cảm, kĩ năng hành

động... Từ lí luận và thực tiễn giáo dục ta có thể nêu ra các khâu của quá

trình giáo dục như sau:

a. Bồi dưỡng, nâng cao nhận thức làm cơ sở cho hành động

Quá trình giáo dục trước hết phải làm cho học sinh nhận thức đúng, đủ,

chính xác các nội dung khái niệm về tư tưởng, chính trị, đạo đức, văn hoá,

thẩm mĩ, quyền lợi, nghĩa vụ, bơn phận, các quy định, chuẩn mực hành vi

trong các quan hệ xã hội... Từ nhận thức đúng đắn, học sinh mới có thể biết

và hành động như thế nào trong các tình huống của đời sống xã hội. Nhận

thức làm kim chỉ nam cho hành động. Nếu có nhận thức đúng sẽ có cơ hội để

dẫn đến hành động đúng. Quá trình giáo dục là quá trình giúp học sinh phát

triển về mặt nhận thức từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ biết

những điều đơn giản đến phức tạp hơn, cao hơn... để rồi biết vận dụng vào

đời sống xã hội.

Chính quá trình vận dụng, trải nghiệm những điều đã thu nhận được

trong quá trình giáo dục lại củng cố nhận thức, xây dựng được ý thức niềm tin

cho cá nhân.

b. Bồi dưỡng những tình cảm đúng đắn, lành mạnh phù hợp với các quan niệm, chuẩn mực đạo đức, quan hệ - ứng xử xã hội

Quá trình giáo dục, trên cơ sở làm cho cá nhân có nhận thức đúng đắn

sẽ hình thành thái độ, niềm tin và tình cảm đúng. Thái độ, tình cảm là sự biểu

hiện cụ thể của quan điểm sống với những giá trị, chuẩn mực xã hội và của

bản thân. Từ nhận thức đến hành động phải có sự thúc đẩy của tình cảm.

Tình cảm - sức mạnh tinh thần to lớn để chuyển hoá nhận thức thành hành

động. Với vai trò là động cơ thúc đẩy hành động nên trong quá trình giáo dục

cần phải bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp đúng đắn cho học sinh. Thực tiễn

đời sống đã cho thấy: Có nhận thức đúng nhưng do tình cảm sai lệch thì

chưa chắc đã dẫn đến hành động đúng, có khi còn làm sai lệch, xuyên tạc,

bóp méo sự thật. Ví như "yêu nên tốt, ghét nên xấu", "yêu nhau củ ấu cũng

tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng vuông...". Để bồi dưỡng, hình thành được

Page 13: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

những tình cảm tốt đẹp cho học sinh phải dựa vào cơ chế hình thành của tình

cảm: tạo nhiều cơ hội nảy sinh các xúc cảm đồng loại và được tổng hợp lại.

Muốn vậy, các quan hệ giáo dục (quan hệ sư phạm) thầy - trò phải tốt đẹp,

tạo được nhiều ấn tượng tình cảm ở học sinh. Quá trình giáo dục cũng cần

chú ý uốn nắn, sửa chữa, khắc phục những xúc cảm, tình cảm sai lệch, thiếu

trong sáng ở học sinh..

c. Rèn luyện hình thành hành vi thói quen

Quá trình giáo dục không dừng lại ở chỗ nhận thức như thế nào, mà

phải dẫn đến đích là con người phải biết thể hiện nhận thức bằng hành động.

Hành vi đạo đức là bộ mặt đạo đức của cá nhân. Trong thực tiễn nhiều khi

không có sự thống nhất giữa nhận thức và hành vi đạo đức, như "nói hay,

làm dở", "chỉ nói mà không làm", hành động trái với nhận thức "nghĩ một

đằng, làm một nẻo". Qua đây ta thấy: hình thành hành vi thói quen, tức là

hành vi của cá nhân đã vững chắc trong mọi trường hợp, là kết quả của quá

trình giáo dục, và cũng chính là kết quả của việc thực hiện tốt hai khâu bồi

dưỡng nhận thức và tình cảm trong quá trình giáo dục.

Trong thực tiễn giáo dục, cần căn cứ vào nội dung và yêu cầu giáo dục

cụ thể, vào đối tượng giáo dục cụ thể mà vận dụng các khâu của quá trình

giáo dục theo trình tự và mức độ khác nhau. Ví dụ, để giáo dục cho học sinh ý

thức tổ chức, kỉ luật, trật tự, vệ sinh thì chú ý tác động thường xuyên vào

khâu rèn luyện thói quen. Hoặc để nâng cao tình yêu quê hương, đất nước thì

vừa bồi dưỡng về nhận thức vừa đặc biệt gây nhiều ấn tượng tốt về quê

hương, đất nước. Như vậy, trong quá trình giáo dục phải tác động đầy đủ vào

cả ba khâu (nhận thức, tình cảm, hành vi). Tuy nhiên do tính không đồng đều

của sự hình thành, phát triển nhân cách của mỗi cá nhân về nhận thức, tình

cảm, hành vi thói quen, nên có khi phải tập trung nhiều hơn vào một nhiệm vụ

trong một thời gian nhất định để giải quyết dứt điểm nhiệm vụ đó. Mặt khác

khi tác động vào khâu này, đồng thời lại có tác động đến khâu khác trong quá

trình giáo dục. Ví dụ, khi ta giảng giải về một yêu cầu, một chuẩn mực đạo

Page 14: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

đức, làm cho học sinh nhận thức được nó thì đồng thời cũng tác động đến

việc hình thành tình cảm đạo đức và có phương hướng trong hành vi.

Tóm lại: Ba khâu nhận thức, tình cảm, hành vi thói quen trong quá trình

giáo dục không tách biệt nhau mà có quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể

thiếu được khâu nào bởi vì giáo dục là một quá trình toàn vẹn. Khi vận dụng

các khâu của quá trình giáo dục đòi hỏi nhà giáo dục phải tuỳ theo đối tượng,

yêu cầu, nhiệm vụ giáo đục cụ thể, đối tượng và hoàn cảnh cụ thể để lựa

chọn và vận dụng linh hoạt, sáng tạo các khâu cho phù hợp.

IV. TỰ GIÁO DỤC VÀ GIÁO DỤC LẠI1. Tự giáo dục

Tự giáo dục là một bộ phận của quá trình giáo dục. Tự giáo dục là hoạt

động có ý thức, có mục đích của mỗi cá nhân để tự hoàn thiện những phẩm

chất nhân cách của bản thân theo những định hướng giá trị nhất định. Ví dụ,

tự mình nỗ lực khắc phục khó khăn vươn lên trong học tập đạt đến một trình

độ học vấn cao hơn. Tự học hỏi những điều hay, điều tốt đẹp trong quan hệ

ứng xử...

Nhu cầu tự giáo dục nảy sinh theo từng giai đoạn phát triển của cá

nhân. Trẻ em thường bắt chước những gì ở người lớn mà chúng yêu thích,

hấp dẫn bởi những biểu hiện bề ngoài. Học sinh trung học có nhu cầu tự giáo

dục mạnh mẽ, đã tự ý thức, khao khát những giá trị mà các em cho là hữu ích

với cuộc sống. Ví dụ như, tự tìm cách tập luyện thể dục, thể thao, rèn luyện

thể lực để có cơ thể cường tráng, khoẻ mạnh. Tự tu dưỡng theo các mẫu

hình nhân cách trong các tác phẩm văn học - nghệ thuật, tự đề ra kế hoạch

cho mình những thói quen tốt, những phẩm chất ý chí của nhân cách. Tuổi

thanh niên - các lớp cuối phổ thông trung học luôn tự ý thức về nghề nghiệp,

lập nghiệp trong tương lai, tự phấn đấu, nỗ lực học tập để thực hiện được

ước mơ hoài bão của mình.

Quá trình tự giáo dục bao gồm những yếu tố cơ bản sau:

Page 15: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

- Năng lực tự ý thức của học sinh về sự phát triển nhân cách của bản

thân, về một phẩm chất hay năng lực nào đó cần được phát triển hơn, hoặc

cần phải thay đổi, sửa chữa cho phù hợp, đáp ứng được yêu cầu mới cao

hơn. Năng lực tự ý thức này được thôi thúc bởi ước nguyện lí tưởng của cá

nhân muốn vươn tới, đạt được những mục đích tốt đẹp trong cuộc sống, đòi

hỏi người được giáo dục phải có khả năng phân tích và tự đánh giá những

phẩm chất và hành động, thói quen của bản thân. Trình độ được giáo dục của

cá nhân phải được phát triển đến một mức độ nhất định mới có khả năng tự

đánh giá đúng đắn những phẩm chất và năng lực của bản thân, từ sự tự đánh

giá này, học sinh thấy cần phải hướng đích đến những giá trị mong muốn.

- Năng lực tổ chức tự giáo dục như: l) lập kế hoạch, đòi hỏi người được

giáo dục tự nêu cho mình yêu cầu, nội dung, mức độ cần và sẽ thực hiện

nhằm đạt được một vấn đề, một hoạt động hay một công việc nhất định, dự

định thời gian thực hiện, hoàn thành kế hoạch. Bước lập kế hoạch trong tự

giáo dục tiến hành tốt được xem là tự cam kết phấn đấu, rèn luyện bản thân.

2) lựa chọn các phương pháp, phương tiện để thực hiện các cam kết dobản

thân đề ra.

- Sự nỗ lực của bản thân để vượt qua được những khó khăn, trở ngại

gặp phải trong quá trình thực hiện kế hoạch tự giáo dục. Tính tự giáo dục tích

cực cao giúp cho người được giáo dục vượt lên chính bản thân mình, hình

thành được các phẩm chất ý chí.

- Tự kiểm tra xem đã đạt được những kết quả tự giáo dục như thế nào,

cần phải phấn đấu tiếp như thế nào để hoàn thiện những điều đã dự kiến

trong kế hoạch tự giáo dục. Tự đánh giá và tự rút ra những bài học kinh

nghiệm cho bản thân.

2. Giáo dục lại

Do ảnh hưởng của môi trường xã hội, gia đình, nhà trường và do

những thiếu sót, sai lầm trong phương pháp, điều kiện giáo dục, một số, một

bộ phận thanh thiếu niên học sinh đã hình thành những ý nghĩ tình cảm, thái

độ, hành vi, thói quen xấu, trái ngược với những quy định có tính chuẩn mực

Page 16: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

trong các lĩnh vực, trong các mối quan hệ xã hội và đời sống... Chẳng hạn

thanh thiếu niên chơi bời lêu lổng, sống tuỳ tiện, buông thả, liều lĩnh... Những

biểu hiện như thế (hành vi lệch chuẩn) cần được giáo dục, uốn nắn để trở

thành người tốt. Quá trình giáo dục đó gọi là giáo dục lại.

Giáo dục lại là hoạt động tổ chức giáo dục nhằm uốn nắn, sửa chữa,

điều chỉnh làm thay đổi những quan điểm, tình cảm, thái độ, lối sống... đặc

biệt là những thói quen, hành vi không đúng, không tốt đã hình thành ở học

sinh trong quá trình sống. Giáo dục lại được xem là một quá trình giáo dục đối

với những cá nhân có những biểu hiện lệch chuẩn để họ trở thành những con

người có ích cho xã hội, biết sống theo những yêu cầu, chuẩn mực của xã

hội.

Giáo dục lại là một quá trình khó khăn, phức tạp hơn quá trình giáo dục

bình thường rất nhiều. Vì khi những sai lệch, những tật xấu của hành vi đã trở

thành thói quen mà muốn thay đổi được là rất khó, rất lâu dài. Đối với những

cá nhân đã bị nhiễm những tư tưởng, quan điểm sai lầm, đạo đức suy thoái,

có những hành vi xâm hại đến xã hội và người khác thì phải được giáo dục

trong các tổ chức giáo dục lại đặc biệt (giáo dục - cải tạo). Những tổ chức

giáo dục lại đó có những điều kiện, phương tiện và lực lượng cán bộ chuyên

làm công tác giáo dục lại như: các trung tâm giáo dục cải tạo trẻ em hư, lang

thang - phạm pháp, nghiện ngập.... Khi tiến hành quá trình giáo dục lại cần

chú ý một số yêu cầu sau:

- Xác định đúng, cụ thể hệ thống các nguyên nhân gây ra những sai

lệch trong quá trình phát triển nhân cách. Chú ý những nguyên nhân sâu xa

được xem như là sự "tiềm ẩn" để dẫn đến những hành vi lệch chuẩn, đồng

thời phải xác định được những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hành vi sai

lệch. Chỉ khi nào xác định đúng, đầy đủ nguyên nhân gây ra sai lệch hoặc hư

hỏng, suy thoái nhân cách của mỗi cá nhân thì biện pháp giáo dục lại mới có

hiệu quả.

- Có phương pháp tổ chức, tác động giáo dục khoa học, phù hợp với

đối tượng giáo dục lại. Các trường giáo dưỡng ở nước ta đã vận dụng lí luận

Page 17: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

giáo dục và tiến hành giáo dục lại thành công, đã tích luỹ được hệ thống kinh

nghiệm về giáo dục lại.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN1. Quá trình giáo dục là gì? Nêu các chức năng trội của quá trình giáo

dục, dạy học.

2. Phân tích các thành tố của quá trình giáo dục và mối quan hệ biện

chứng của chúng.

3. Phân tích bản chất quá trình giáo dục.

4. Phân tích các đặc điểm của quá trình giáo dục và rút ra những kết

luận sư phạm cần thiết trong quá trình giáo dục học sinh.

5. Trình bày động lực của quá trình giáo dục, lấy các ví dụ trong thực

tiễn để minh hoạ cho các mâu thuẫn của quá trình giáo dục.

6. Phân tích các khâu của quá trình giáo dục và mối quan hệ biện

chứng của chúng.

7. Thế nào là tự giáo dục?

8. Thế nào là giáo dục lại, quá trình tiến hành giáo dục lại cần đặc biệt

chú ý đến những yêu cầu nào? Tại sao?

BÀI TẬP

1. Đọc các tài liệu về giáo dục lại. Viết thu hoạch về các nguyên nhân

của trẻ em hư, lang thang - phạm pháp.

2. Đi thực tế ở trường giáo dưỡng, nghiên cứu một học sinh của trường

để viết bài tập về các hiện tượng phạm pháp vị thành niên, nguyên nhân và

những biện pháp giáo dục lại của nhà trường đó.

Page 18: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Chương 13: NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC

I. KHÁI NIỆM NGUYÊN TẮC GIÁO DỤCQuá trình giáo dục là quá trình vận động và phát triển có quy luật, là

hoạt động có tính khoa học và tính nghệ thuật cao. Hoạt động giáo dục muốn

đạt kết quả mong muốn đòi hỏi nhà giáo dục không phải chỉ nắm được các

quy luật mà còn phải biết vận dụng những quy luật đó một cách linh hoạt sáng

tạo. Các quy luật của giáo dục được phản ánh trong những luận điểm chung

cơ bản, mang tính chất chỉ đạo toàn bộ tiến trình giáo dục đó là các nguyên

tắc giáo dục.

Nguyên tắc giáo dục được hiểu là những luận điểm cơ bản có tính quy

luật của lí luận giáo dục, có tác dụng chỉ đạo việc lựa chọn và vận dụng nội

dung, phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục nhằm thực hiện tối ưu

mục đích và nhiệm vụ giáo dục.

Nguyên tắc giáo dục là kết quả nhận thức của con người về các quy

luật giáo dục, do đó nguyên tắc giáo dục có cơ sở khách quan, nó phản ánh

những quy luật của quá trình giáo dục. Nguyên tắc giáo dục là những tri thức,

kinh nghiệm được tổng kết từ thực tiễn giáo dục của nhà trường, các cơ sở

giáo dục và của các nhà giáo dục tiên tiến trên thế giới và trong nước đã đạt

được thành công trong quá trình giáo dục, từ đó rút ra những phương hướng

chỉ đạo hoạt động giáo dục trong thực tiễn. Ví dụ như giáo dục trong lao động

tập thể, tôn trọng nhân cách học sinh được nhà giáo dục Nga là Macarencô

đúc rút từ thực tiễn giáo dục sinh động mà ông đã thực hiện.

Như vậy nguyên tắc giáo dục trở thành cơ sở cho mọi hoạt động giáo

dục, giúp cho những người làm công tác giáo dục nói chung và giáo viên nói

riêng vận dụng, làm chỗ dựa để tiến hành các quá trình giáo dục đúng

phương hướng và đạt hiệu quả. Tuy nhiên nguyên tắc giáo dục không phải là

những "đơn thuốc", những cẩm nang có sẵn ứng với các hoạt động giáo dục

thực tiễn. Nó chỉ cung cấp cho nhà giáo dục hệ thống những cơ sở lí luận,

làm chỗ dựa để giải quyết các nhiệm vụ giáo dục đa dạng và sinh động.

Page 19: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Nắm được các nguyên tắc giáo dục sẽ giúp cho nhà giáo dục biết kết

hợp những kinh nghiệm thực tiễn với lí luận giáo dục để vận dụng chúng một

cách sáng tạo trong quá trình giáo dục, đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt

hiệu quả cao.

II. HỆ THỐNG CÁC NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC 1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích trong hoạt động giáo dục

Hoạt động của con người bao giờ cũng hướng tới mục đích nhất định.

Giáo dục là hoạt động có mục đích, do đó nội dung, phương pháp, hình thức

tổ chức quá trình giáo dục đều phải căn cứ vào mục đích và phải đạt được

mục đích giáo dục đó. Mục đích của hoạt động giáo dục phải được cụ thể hoá

bằng các mục tiêu giáo dục.

Toàn bộ hoạt động giáo dục ở trong và ngoài nhà trường đều phải hướng vào

mục đích xây dựng phẩm chất nhân cách cho con người. Trong thời kì công

nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta cần hướng vào mục đích xây dựng nhân

cách phát triển toàn diện, đó là mẫu người lí tưởng mà hoạt động giáo dục

phải đạt tới. Giáo dục phải làm cho học sinh thấm nhuần đường lối quan điểm

của Đảng và Nhà nước; sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật; tiếp

thu tinh hoa văn hoá nhân loại, bảo vệ và phát triển những giá trị vật chất và

tinh thần của dân tộc; xây dựng nếp sống văn hoá mới, xoá bỏ tàn dư của

nếp sống cũ lạc hậu...

Giáo dục thực chất là tổ chức tổ chức các hoạt động và giáo lưu cho

người được giáo dục. Vì vậy, quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục đều

phải đặt ra những mục tiêu cụ thể và đạt được chúng, tức là khi tổ chức các

quá trình giáo dục cụ thể phải chú ý dự kiến kết quả sẽ đạt được theo mục

đích giáo dục, ví dụ việc tổ chức lao động sản xuất cho học sinh phải đạt

được hai mục đích: giáo dục phẩm chất đạo đức và hiệu quả kinh tế. Giáo

dục lao động - hướng nghiệp trong nhà trường phải đạt được mục đích là

hình thành và nâng cao ý thức, tinh thần, thái độ lao động mới, có tri thức, kĩ

Page 20: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

năng lao động - nghề nghiệp để học sinh có thể hướng nghiệp và định hướng

nghề nghiệp đúng, có hiệu quả. Như vậy, thông qua tổ chức hoạt động có thể

giúp học sinh nhận thức một khái niệm mới, hình thành xúc cảm, tình cảm

tích cực hay những thói quen hành vi đúng đắn... Mục đích giáo dục bao gồm

những mục đích trước mắt, mục đích tương lai gần và mục đích chiến lược,

giáo dục cần xác định và đạt được các mục đích đó.

2. Giáo dục gắn với đời sống xã hội

Quá trình giáo dục học sinh là quá trình làm hình thành ở các em

những phẩm chất, năng lực, thái độ, quan hệ của cá nhân đối với xã hội và

với người khác. Tất cả những phẩm chất và năng lực đó của cá nhân phải

phù hợp với các quan hệ xã hội. Vì vậy quá trình giáo dục phải gắn với đời

sống xã hội về hai phương diện cơ bản.

Thứ nhất là sự chuyển hoá các quan hệ xã hội thành ý nghĩa, giá trị đối

với các cá nhân và được thể hiện trong các hành động tương ứng trong các

lĩnh vực đời sống. Bởi vậy, không thể chỉ cung cấp cho học sinh những giáo lí

chết cứng, khép kín trong sách vở mà phải gắn tri thức lí luận với đời sống xã

hội đang phát triển sinh động.

Thứ hai, quá trình giáo dục là quá trình đào tạo những con người phục

vụ cho một xã hội nhất định nên phải tạo điều kiện cho họ có khả năng thích

ứng cao với đời sống xã hội và những biến động không ngừng của nó. Quá

trình giáo dục thế hệ trẻ phải phát huy, tận dụng những ảnh hưởng, tác động

giáo dục của các quan hệ xã hội (kinh tế, chính trị, đạo đức, lối sống, văn hoá

- thẩm mĩ, pháp luật...) làm cho học sinh không bị xa rời, thoát li thực tế xã

hội.

Phương hướng thực hiện nguyên tắc giáo dục gắn với đời sống xã hội

để xây dựng những phẩm chất nhân cách cho học sinh là:

- Tạo mối liên hệ gắn bó giữa việc giảng dạy, học tập, giáo dục trong

nhà trường với đời sống xã hội bên ngoài. Để tạo sự gắn bó này đòi hỏi một

mặt phải đưa vào trong chương trình, nội dung giáo dục những sự kiện, hiện

Page 21: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

tượng sinh động trong đời sống xã hội, các quan hệ xã hội phong phú, mặt

khác cần chỉ ra phương hướng, cách vận dụng những điều đã học vào thực

tiễn cuộc sống, thực tiễn lao động sản xuất, đấu tranh của xã hội; rèn luyện

cho học sinh những thói quen hành vi phù hợp với chuẩn mực của xã hội

- Làm cho thanh thiếu niên học sinh luôn có ý thức quan tâm đến các

sự kiện trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội của đất nước; làm

cho học sinh từ khi còn học trong nhà trường và sau này là một công dân

chân chính phải biết được những khó khăn, thuận lợi và những vấn đề gì của

xã hội cần phải giải quyết trong thực tiễn, từ đó nảy nở những tình cảm, thái

độ, suy nghĩ đúng đắn của học sinh đối với Tổ quốc.

- Tổ chức cho học sinh được tham gia thường xuyên vào công cuộc lao

động xây dựng đất nước, xây dựng cuộc sống mới trong cộng đồng dân cư

(làng, xóm, xã, khối phố...) và quá trình đấu tranh cải tạo xã hội cũ, thiết lập kỉ

cương, trật tự xã hội mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, của các tổ chức chính

quyền, đoàn thể.

- Phê phán, khắc phục những biểu hiện của phương thức giáo dục của

nhà trường kiểu cũ. Tách rời giáo dục với đời sống, không rèn luyện học sinh

trong thực tế cuộc sống. Mặt khác cũng cần khắc phục hiện tượng giáo dục là

chỉ chú trọng học kiến thức văn hoá - khoa học -kĩ thuật, chạy theo văn bằng

mà không (hoặc ít) chú trọng việc giáo dục lí tưởng, đạo đức, lối sống, lẽ sống

cho thanh thiếu niên. Hậu quả là một số bộ phận thanh niên học sinh bị xa rời

cuộc sống, sai lệch trong lối sống, khó thích ứng với sự biến động của xã hội.

3. Nguyên tắc thống nhất giữa ý thức và hành vi trong giáo dục

Quá trình giáo dục diễn ra từ khâu nhận thức - hình thành ý thức cá

nhân đến việc chuyển hoá ý thức thành hành vi Quá trình đó lại làm nảy nở

những xúc cảm, tình cảm, ý chí cho cá nhân, giúp cho sự chuyển hoá ý thức

thành hành vi mạnh mẽ hơn, có nhu cầu thể hiện hành vi theo ý thức (nhận

thức) đã có của bản thân. Sự thống nhất giữa ý thức và hành vi trong quá

trình giáo dục học sinh được thể hiện như sau: - Hiểu được những khái niệm,

quy tắc, chuẩn mực về tư tưởng, chính trị, đạo đức, pháp luật... Đối với mỗi

Page 22: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

chuẩn mực đó, yêu cầu học sinh trước hết phải hiểu đúng, đủ, cao hơn là

hiểu đúng, chính xác các góc độ, khía cạnh khác nhau, trong các trường hợp,

tình huống khác nhau. Ví dụ biết phân biệt thế nào là sự khéo léo, tế nhị với

sự giả tạo trong quan hệ, giao tiếp...

- Trên cơ sở nắm vững các chuẩn mực (nội dung, ý nghĩa, cách thể

hiện) chuyển hoá thành niềm tin.

- Quá trình rèn luyện, tập luyện, thể hiện các chuẩn mực về đạo đức,

chính trị, lối sống... trong các điều kiện, tình huống sẽ chuyển hoá ý thức

thành hành vi - thói quen. Quá trình giáo dục phải hình thành và củng cố

những hành vi - thói quen tương ứng với ý thức, niềm tin về những chuẩn

mực hành vi được xã hội quy định. Đây là bước quan trọng của quá trình giáo

đục, vì chỉ có hành vi - thói quen mới xác định bộ mặt của nhân cách.

Ý thức và hành vi trong quá trình giáo dục có mối quan hệ biện chứng

với nhau. ý thức là cơ sở cho hành vi. ý thức đúng là tiền đề quan trọng cho

hành vi đúng, nó được coi là kim chỉ nam cho hành động, xây dựng niềm tin

vững chắc. Hành vi thói quen được hình thành lại củng cố ý thức, niềm tin

làm cho cá nhân có nhu cầu thực hiện, thể hiện các hành vi đạo đức đã ý

thức được.

Để vận dụng có hiệu quả nguyên tắc thống nhất giữa ý thức và hành vi

trong quá trình giáo dục, cần thực hiện một số yêu cầu như:

- Giúp cho học sinh (tuỳ theo lứa tuổi và trình độ được giáo dục) có

hiểu biết đúng, rõ ràng về các khái niệm, các chuẩn mực đạo đức, chính trị,

pháp luật, các quan hệ xã hội, lối sống... Từ những hiểu biết về lí thuyết cần

làm cho học sinh thấy được ý nghĩa, giá trị của những chuẩn mực đó trong

thực tiễn đời sống, có sức thuyết phục, biến thành niềm tin thúc đẩy hình

thành hành vi.

- Cần đề phòng và ra sức khắc phục tình trạng tách rời, không ăn khớp

giữa ý thức và hành vi của học sinh. Ví dụ như "nói hay, làm dở". Có những

trường hợp học sinh không biết thể hiện những chuẩn mực của hành vi là do

Page 23: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

chưa hiểu nó là gì và phải làm như thế nào trong các tình huống cụ thể khác

nhau, điều đó cũng dẫn đến sự tách rời giữa ý thức và hành vi.

- Tổ chức rèn luyện - giáo dục học sinh trong các loại hình hoạt động

phong phú, đa dạng như hoạt động học tập, lao động, vui chơi, hoạt động xã

hội, lao động công ích, sinh hoạt tập thể, hoạt động văn hoá - nghệ thuật, thể

dục - thể thao... Trong quá trình tham gia trực tiếp vào các loại hình hoạt

động, học sinh sẽ thể nghiệm những điều được giáo dục, tích luỹ được kinh

nghiệm xã hội cho bản thân và có kĩ năng vận dụng những kinh nghiệm đó

vào thực tiễn cuộc sống.

- Tổ chức cho học sinh tự rèn luyện, tự giáo dục thường xuyên, liên tục

trong các môi trường giáo dục khác nhau để hình thành các thói quen hành vi

tốt, đúng, đồng thời biết tự uốn nắn, sửa chữa, điều chỉnh những thói quen

hành vi xấu, không đúng, không phù hợp với các quy định, chuẩn mực của xã

hội.

4. Nguyên tắc giáo dục trong lao động và bằng lao động

Giáo dục trong lao động là tổ chức một cách khoa học các loại hình

hoạt động lao động để thông qua đó giáo dục học sinh, nhằm hình thành ở

các em những phẩm chất nhân cách cần thiết của người lao động kiểu mới.

Giáo dục bằng lao động là dùng lao động như là một phương tiện để giáo dục

học sinh, tạo cơ hội và điều kiện cho học sinh vận dụng kiến thức đã học vào

cuộc sống và rèn luyện những đức tính, phẩm chất tốt đẹp.

Yêu cầu để thực hiện nguyên tắc giáo dục trong lao động và bằng lao

động là cần tổ chức đưa học sinh trực tiếp tham gia vào các loại hình lao

động để các em có điều kiện được thực sự rèn luyện trong lao động. Khi tổ

chức lao động cho học sinh cần bảo đảm các yêu cầu:

Rèn luyện tính tự giác, tích cực tham gia lao động của học sinh. Muốn

vậy hình thức lao động phải phong phú, hấp dẫn. Sự chỉ đạo, lãnh đạo lao

động phải chặt chẽ, nghiêm túc, tránh hình thức chủ nghĩa, vì thành tích.

- Kích thích tính sáng tạo trong lao động của học sinh.

Page 24: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

- Cần giúp cho giáo viên và học sinh có nhận thức đúng đắn là đưa

giáo dục lao động vào nhà trường để giáo dục học sinh là yêu cầu mới, có

tính nguyên tắc của giáo dục. Do đó cần khắc phục những biểu hiện, khuynh

hướng không đúng khi thực hiện nguyên tắc này như không tổ chức giáo dục,

rèn luyện học sinh trong và bằng lao động; đơn giản hoá, hình thức chủ nghĩa

hoặc thực dụng trong việc tổ chức lao động cho học sinh; không gắn lao động

của học sinh với tri thức khoa học - kĩ thuật - công nghệ, không chú ý rèn

luyện những phẩm chất nhân cách cho học sinh trong lao động nội ngoại

khoá của nhà trường.

5. Nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng tập thể

Giáo dục trong tập thể là xem tập thể học sinh (trường lớp các đoàn thể

học sinh) là một môi trường giáo dục, bởi vì:

- Tập thể học sinh là một tập hợp có tổ chức chặt chẽ, có hoạt động

chung với mục đích thống nhất - mục đích giáo dục - xã hội.

- Tập thể học sinh có bộ máy tự quản, xây dựng và thực hiện một hệ

thống các mối quan hệ trong tập thể: trách nhiệm giữa các thành viên trong

tập thể với nhau và với tập thể, quan hệ chỉ huy, quyết định - thi hành, quan

hệ hợp tác, nhân ái...

- Tập thể học sinh luôn duy trì các dư luận xã hội lành mạnh, phê phán,

điều chỉnh những thái độ, hành vi trái với các chuẩn mực xã hội của mỗi cá

nhân - thành viên của tập thể.

- Sống trong tập thể, học sinh luôn ý thức về tập thể do bầu không khí

thân ái, đoàn kết, gắn bó giữa các thành viên; làm hình thành tinh thần ý thức

tập thể ở học sinh - yêu cầu quan trọng của giáo dục trong nhà trường.

Giáo dục bằng tập thể là xem tập thể như một lực lượng, một phương

tiện giáo dục có tác dụng hình thành, phát triển nhân cách học sinh. Các yêu

cầu giáo dục của nhà trường, của giáo viên thông qua tập thể tác động đến

các thành viên trong tập thể, các thành viên lại tác động giáo dục lẫn nhau

(tác động giáo dục liên nhân cách). Các hoạt động chung của tập thể có tính

Page 25: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

chất tự quản là điều kiện cho các thành viên trong tập thể tự rèn luyện, tự

giáo dục, tự điều chỉnh hành vi thói quen cho phù hợp với yêu cầu giáo dục

xã hội. Nó còn đánh giá và buộc cá nhân phải biết tự đánh giá kết quả tự giáo

dục, rèn luyện của mình so với các quy định, quy chế của tập thể.

Những yêu cầu khi thực hiện nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng

tập thể:

- Thực hiện các tác động giáo dục song song, đòi hỏi công tác giáo dục

của nhà trường, của giáo viên phải tác động đến tập thể học sinh; làm cho nó

trở thành một môi trường, một phương tiện giáo dục đối với từng học sinh -

thành viên của tập thể. Đồng thời, giáo viên tác động giáo dục đến từng học

sinh song không thiên về "giáo dục tay đôi" giữa giáo viên và một học sinh.

Có thể diễn tả quá trình tác động giáo dục song song đó theo sơ đồ

sau:

GV: giáo viên tác động đến tập thể

TT: tập thể tác động đến mỗi thành viên (học sinh)

HS - HS: các thành viên của tập thể là học sinh lại tác động giáo dục

lẫn nhau

GV - HS: tác động giáo dục từng học sinh

- Xây dựng tập thể học sinh phát triển vững mạnh là đảm bảo cho nó

thực sự là một môi trường, một lực lượng giáo dục hữu hiệu. Cần khắc phục

hiện tượng tập thể thiếu tổ chức chặt chẽ, không có tác dụng giáo dục nhân

cách cho các thành viên.

6. Nguyên tắc tôn trọng nhân cách học sinh kết hợp với yêu cầu hợp lí trong quá trình giáo dục

Tôn trọng nhân cách học sinh trong quá trình giáo dục đòi hỏi phải tôn

trọng phẩm giá, danh dự, thân thể học sinh và kích thích lòng tự trọng của các

em. Khi học sinh có những hành vi, lời nói trái với chuẩn mực hành vi, giáo

viên phải biết tự kiềm chế, bình tĩnh, nghiêm khắc, chân tình giúp đỡ các em

Page 26: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

nhận ra lỗi lầm, không mạt sát sỉ nhục, đánh đập, thể hiện sự thiếu tôn trọng

các em. Tôn trọng nhân cách học sinh cần phải lạc quan tin tưởng đối với sự

tiến bộ của học sinh. Tuyệt đối không thành kiến với học sinh, ngay cả đối với

những học sinh mắc phải những lỗi lầm lớn. Vì nếu có ác cảm, định kiến với

học sinh thì sẽ làm cho các em mất tự tin mặc cảm và xa lánh nhà giáo dục,

bạn bè và tập thể nên càng mất cơ hội được giáo dục.

Giáo dục cần phát huy mặt tốt, ưu điểm của học sinh là chính, phải nhìn

thấy mặt tốt của con người để động viên phát triển nó lên. Đồng thời khi các

em mắc lỗi, mắc sai lầm thì cũng phải có phương pháp giáo dục, không được

hắt hủi, sỉ nhục. Nhà giáo dục cần xác định những yêu cầu hợp lí cho học

sinh, tức là trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục luôn nêu ra những đòi hỏi

sư phạm - những yêu cầu để học sinh phấn đấu rèn luyện theo, tính hợp lí

của yêu cầu đó thể hiện ở các mặt sau đây: - Học sinh phải nỗ lực ở mức độ

nhất định mới thực hiện được. Điều đó có nghĩa là yêu cầu không quá cao để

học sinh không thể thực hiện được mà cũng không quá dễ để học sinh không

cần có sự cố gắng nào cũng làm được ngay.

Yêu cầu đề ra ngày một cao hơn để học sinh luôn phải cố gắng tích

cực hơn mới thực hiện được.

- Yêu cầu phải có tính khả thi, đáp ứng được nguyện vọng muốn hoàn

thành tốt các nhiệm vụ giáo dục của giáo viên giao cho. Những yêu cầu của

nhà giáo dục phải rõ ràng, cụ thể, phù hợp với trình độ đã được giáo dục của

học sinh và có tính chất dẫn dắt, khuyến khích các em vươn lên cao hơn nữa.

Hai mặt tôn trọng nhân cách và yêu cầu cao trong giáo dục không mâu

thuẫn mà thống nhất với nhau vì:

- Tôn trọng nhân cách học sinh cần phải luôn đề ra các yêu cầu giúp

cho các em vươn lên, phát triển nhân cách tốt hơn.

- Đòi hỏi học sinh khi thực hiện các nhiệm vụ giáo dục cũng như trong

quan hệ ứng xử sư phạm phải thể hiện sự tôn trọng, yêu thương, dìu dắt các

em tiến bộ.

Page 27: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Trong thực tiễn giáo dục cần tránh hiện tượng thiếu tôn trọng nhân

cách học sinh (coi thường học sinh, đối xử thô bạo) hoặc ngược lại quá dễ

dãi, nuông chiều, thoả mãn mọi yêu cầu của học sinh một cách vô điều kiện,

không đòi hỏi học sinh thực hiện nghiêm túc những yêu cầu giáo dục đã nêu

ra. Tất cả những hiện tượng đó đều làm giảm hoặc không đem lại hiệu quả

giáo dục. ở một số trường hợp còn dẫn đến hậu quả là làm cho học sinh hư

do có sự buông thả, nuông chiều, tự do quá mức, điều này hay xảy ra trong

giáo dục gia đình.

7. Nguyên tắc thống nhất giữa sự tổ chức lãnh đạo sư phạm của giáo viên với việc phát huy tính tự giác tích cực độc lập tự giáo dục của học sinh

Trong quá trình giáo dục, giáo viên - nhà giáo dục giữ vai trò chủ đạo,

tổ chức lãnh đạo quá trình hình thành, phát triển những phẩm chất, hành vi

thói quen ở học sinh, thể hiện:

- Nâng cao ý thức trách nhiệm, vai trò lãnh đạo sư phạm của giáo viên

trong việc theo dõi, kiểm tra, đánh giá quá trình và kết quả hoạt động của tập

thể học sinh và của từng học sinh.

- Thuyết phục học sinh biết định hướng và quyết tâm phấn đấu đạt

những mục đích đã đề ra.

- Lựa chọn các phương pháp, phương tiện để thực hiện các nhiệm vụ

giáo dục cho phù hợp.

Để phát huy vai trò tự giác tích cực, độc lập, tự rèn luyện, tự giáo dục

của học sinh, đòi hỏi nhà giáo dục cần phải: - Tôn trọng sáng kiến và sự độc

lập của học sinh.

- Động viên kịp thời ý chí quyết tâm vươn lên của học sinh.

- Biến yêu cầu giáo dục của nhà trường thành yêu cầu tự giáo dục của

tập thể và trách nhiệm của từng cá nhân học sinh.

Page 28: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

- Lựa chọn các biện pháp và hình thức tổ chức giáo dục, giúp học sinh

tự định hướng rèn luyện, hoạt động.

Trong quá trình giáo dục, tính tự giác, tích cực chủ động, sáng tạo của

học sinh giữ vai trò quyết định trực tiếp đến việc hình thành và phát triển nhân

cách.

8. Nguyên tắc bảo đảm tính hệ thống kế tiếp liên tục trong công tác giáo dục

Nguyên tắc này yêu cầu phải tiến hành một cách lâu dài, có hệ thống

các tác động giáo dục nhằm hình thành dần dần, từng bước các phẩm chất

nhân cách. Quá trình giáo dục bao gồm hệ thống các nhiệm vụ, nội dung,

phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục. Giáo viên phải xem xét các

tác động và hiệu quả giáo dục trong toàn bộ hệ thống đó. Tính hệ thống và kế

tiếp có liên quan tới nhau. Hệ thống kế tiếp từ thấp đến cao, đơn giản đến

phức tạp dần lên, từ dễ đến khó... trong việc hình thành các tri thức chuẩn

mực, hành vi thói quen cho học sinh. Những phẩm chất mới phải được hình

thành dựa trên cơ sở trình độ đã được giáo dục trước đó.

Trong quá trình giáo dục phải chú ý củng cố tập luyện liên tục, kéo dài

để nâng cao dần các kết quả giáo dục ở học sinh, làm cho nhận thức, thái độ,

tình cảm, hành vi đã được hình thành trở nên ổn định vững chắc.

Giáo dục bất kì một phẩm chất nào của nhân cách, đặc biệt là việc hình

thành một thói quen, nếp sống, lối sống cần phải được tiến hành liên tục,

thường xuyên. Các yêu cầu giáo dục phải được học sinh thực hiện ở mọi nơi,

mọi lúc.

Thực tiễn giáo dục đã chứng tỏ là ở nơi nào (nhà trường, gia đình, tập

thể...) công tác giáo dục được ý thức đầy đủ, được tiến hành có hệ thống, liên

tục, thường xuyên thì sẽ đạt được hiệu quả cao. Trong quá trình giáo dục lại,

cải tạo những thói quen xấu đã tiêm nhiễm lâu trong mỗi cá nhân thì càng đòi

hỏi tính kiên trì, tác động giáo dục thường xuyên, liên tục và có hệ thống.

Page 29: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

9. Nguyên tắc thống nhất giữa giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và giáo dục của cộng đồng xã hội

Quá trình giáo dục con người diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc. Học sinh luôn

sống, hoạt động trong các môi trường gia đình, trường học và cộng đồng xã

hội (làng xóm, khu phố...) và luôn nhận được các tác động giáo dục từ nhiều

phía, nhiều lực lượng. Để nâng cao hiệu quả giáo dục, hạn chế những mặt

tiêu cực làm giảm kết quả giáo đục cần phải có sự thống nhất giữa giáo dục

nhà trường, gia đình và xã hội.

Mỗi lực lượng giáo dục (gia đình, nhà trường, xã hội) có vị trí nhất định

trong giáo dục học sinh.

- Giáo dục gia đình: Đặt cơ sở nền móng đầu tiên cho sự hình thành và

phát triển nhân cách của trẻ. Có thể nói "Người mẹ là người thầy giáo đầu

tiên của đứa trẻ", gia đình là cái nôi nuôi dưỡng và làm nảy nở những tâm

hồn tốt đẹp cho trẻ. Hoàn cảnh, điều kiện sống, bầu không khí văn hoá, tâm lí

và các quan hệ trong gia đình thường xuyên tác động, ảnh hưởng đến nhân

cách của trẻ trong gia đình.

- Giáo dục xã hội có vai trò rất quan trọng. Các quan hệ xã hội (kinh tế,

văn hoá, khoa học, kĩ thuật, tư tưởng, chính trị...) thường xuyên tác động trực

tiếp hoặc gián tiếp qua nhiều kênh đến các cá nhân. Các ảnh hưởng, tác

động của xã hội đến cá nhân theo cả hai hướng: tích cực, có mục đích tốt và

tự phát tiêu cực. Những tác động tiêu cực của xã hội có khi làm giảm sút hoặc

trái ngược với giáo dục của nhà trường.

- Giáo dục nhà trường giữ vai trò chủ đạo: bao hàm những tác động,

nội dung giáo dục có mục đích, có kế hoạch và tổ chức chặt chẽ. Giáo dục

nhà trường khai thác có lựa chọn những tác động giáo dục tích cực của gia

đình và của xã hội, góp phần điều chỉnh những tác động tiêu cực từ gia đình,

xã hội.

Giáo dục nhà trường được tiến hành một cách khoa học (có hệ thống,

có phương pháp, kế hoạch, tổ chức chặt chẽ) do những nhà giáo dục có năng

Page 30: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

lực sư phạm thực hiện nên đã đạt được hiệu quả cao trong việc hình thành

phát triển nhân cách học sinh.

Trong thực tiễn giáo dục vẫn còn có sự thiếu thống nhất, còn khoảng

cách giữa giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội. Ví dụ, nhà trường giáo dục

những giá trị, tình cảm, thái độ tích cực theo các chuẩn mực xã hội, nhưng

nếu ở gia đình lại có những tác động khác, có khi trái ngược với tác động

giáo dục của nhà trường thì những tác động ngược chiều như vậy sẽ ảnh

hưởng đến hiệu quả giáo dục.

10. Nguyên tắc chú ý đến đặc điểm của đối tượng giáo dục

Nguyên tắc này yêu cầu những người làm công tác giáo dục phải nắm

được các đặc điểm của đối tượng giáo dục. Căn cứ vào đặc điểm trình độ

được giáo dục đã trưởng thành về mặt xã hội đến mức độ nào để làm căn cứ

nhằm đề ra kế hoạch giáo dục cho sát hợp.

Đối tượng giáo dục có nhiều đặc điểm khác nhau như: đặc điểm quá

trình tâm lí cá nhân (nhận thức, xúc cảm, tình cảm, lí trí, xu hướng, tính cách,

nhu cầu, động cơ...); những đặc điểm riêng của đời sống cá nhân (gia đình,

bố mẹ, sự phát triển trí tuệ, đạo đức); đặc điểm tâm lí lứa tuổi; đặc điểm của

các điều kiện môi trường, vùng, miền có những sự phát triển kinh tế văn hoá,

phong tục tập quán khác nhau. Nhà giáo dục phải căn cứ vào các đặc điểm

đó để lựa chọn nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức giáo dục phù hợp,

có hiệu quả cao.

Các nguyên tắc giáo dục là một hệ thống toàn diện, chúng không tồn tại

tách biệt mà có quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, bổ sung, hỗ trợ cho

nhau. Người giáo viên cần biết vận dụng và phối hợp các nguyên tắc giáo dục

một cách linh hoạt, sáng tạo để có được những kết quả mong muốn.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN1. Trình bày khái niệm nguyên tắc giáo dục. Cơ sở lí luận và thực tiễn

của các nguyên tắc giáo dục.

Page 31: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

2. So sánh và đánh giá hệ thống các nguyên tắc giáo dục trong một số

giáo trình giáo dục học hiện nay.

3. Phân tích nội dung, phương hướng thực hiện nguyên tắc bảo đảm

tính mục đích trong giáo dục.

4. Phân tích nội dung, yêu cầu thực hiện nguyên tắc giáo dục gắn với

đời sống xã hội.

5. Hiểu như thế nào là giáo dục trong lao động và bằng lao động trong

quá trình giáo dục?

6. Phương hướng thực hiện nguyên tắc giáo dục trong lao động và

bằng lao động. Nêu thực trạng thực hiện nguyên tắc này ở trường phổ thông

mà anh chị biết.

7. Nội dung, phương hướng thực hiện nguyên tắc giáo dục trong tập

thể và bằng tập thể.

8. Nội dung của nguyên tắc giáo dục thống nhất tôn trọng nhân cách và

yêu cầu hợp lí trong giáo dục là gì? Nêu các yêu cầu khi thực hiện nguyên tắc

giáo dục này.

9. Tại sao trong giáo dục lại phải thực hiện nguyên tắc kết hợp thống

nhất sự lãnh đạo của giáo viên và phát huy tính tự giác, tích cực chủ động

của học sinh?

10. Bảo đảm tính hệ thống, kế tiếp liên tục có ý nghĩa như thế nào trong

quá trình giáo dục? Lấy dẫn chứng thực tiễn để minh họa.

BÀI TẬP

Điều tra 20 học sinh của một lớp (ở trường Tiểu học, Trung học cơ sở

hoặc Trung học phổ thông) để thấy được các đặc điểm về tinh thần, thái độ

đối với tập thể lớp của các em. Nêu những mặt mạnh, mặt yếu và phân tích

nguyên nhân.

Page 32: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Chương 14: NỘI DUNG GIÁO DỤC

Giáo dục là quá trình tổ chức các loại hình hoạt động phong phú, đa

dạng nhằm hình thành và phát triển các phẩm chất và năng lực của con

người, đáp ứng được các yêu cầu của xã hội, thời đại. Để thực hiện mục tiêu

giáo dục - đào tạo, nhà trường phải chuyển tải các nội dung giáo dục tương

ứng đến học sinh, giúp cho các em chiếm lĩnh được các nội dung giáo dục đó

để hình thành nhân cách.

I. NHỮNG NỘI DUNG GIÁO DỤC CƠ BẢN TRONG NHÀ TRƯỜNG1. Giáo dục đạo đức và ý thức công dân

a. Giáo dục đạo đức

Ý nghĩa của giáo dục đạo đức

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống các quan niệm về

cái thiện, cái ác trong các mối quan hệ của con người với con người. Đạo đức

về bản chất là những quy tắc, những chuẩn mực trong quan hệ xã hội, được

hình thành và phát triển trong cuộc sống, được cả xã hội thừa nhận. Đạo đức

là quy tắc sống, nó có vị trí to lớn trong đời sống nhân loại, đạo đức định

hướng giá trị cho cuộc sống của mỗi cá nhân, điều chỉnh hành vi cho phù hợp

với chuẩn mực của xã hội. Những giá trị phổ biến của đạo đức thể hiện trong

các khái niệm: thiện, ác, lẽ phải, công bằng, văn minh, lương tâm, trách

nhiệm... thang giá trị của đạo đức diễn biến theo lịch sử và mang tính dân tộc

Giáo dục đạo đức là hoạt động của nhà giáo dục dựa theo yêu cầu xã

hội, tác động có hệ thống lên người được giáo dục một cách có mục đích và

có kế hoạch để bồi dưỡng những phẩm chất tư tưởng mà nhà giáo dục kì

vọng, chuyển hóa những quan điểm, yêu cầu và ý thức xã hội có liên quan

thành phẩm chất đạo đức, tư tưởng của mỗi cá nhân.

Page 33: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Trong công cuộc xây dựng đất nước, giáo dục đạo đức có ý nghĩa rất

quan trọng đối với sự nghiệp giáo dục - đào tạo và đối với toàn xã hội.

- Giáo dục đạo đức có vai trò thúc đẩy sự ổn định lâu dài của xã hội, xã

hội ổn định là tiền đề, là cơ sở để phát triển, giáo dục đạo đức chính là bảo

đảm cho sự ổn định lâu dài của xã hội. Lí tưởng, niềm tin, đạo đức được hình

thành qua công tác giáo dục đạo đức ở trong và ngoài nhà trường.

- Giáo dục đạo đức có vị trí hàng đầu và chủ đạo trong giáo dục nhà

trường, giáo dục đạo đức với tư tưởng chính trị rõ ràng có vai trò định hướng

cho các nội dung giáo dục khác. Nhà trường thông qua thực hiện công tác

giáo dục có thể nâng cao hiệu quả giáo dục, thúc đẩy hoàn thành các nhiệm

vụ giáo dục khác.

- Đối với sự phát triển của thanh thiếu niên, giáo dục đạo đức hình

thành cho họ hệ thống lập trường chính trị, quan điểm, thế giới quan mácxít

và phẩm chất đạo đức phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội. Trước xu

thế hội nhập của thế giới hiện đại, giáo dục đạo đức trong nhà trường giữ vai

trò rất quan trọng trong định hướng cuộc sống và lựa chọn giá trị của thế hệ

trẻ.

Nhiệm vụ giáo dục đạo đức trong nhà trường có thể khái quát như sau:

- Hình thành cho học sinh thế giới quan khoa học, nắm được những

quy luật cơ bản của sự phát triển xã hội, có ý thức thực hiện nghĩa vụ của

người công dân, từng bước trang bị cho học sinh định hướng chính trị kiên

định, rõ ràng.

- Giúp cho học sinh hiểu và nắm vững những vấn đề cơ bản trong

đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, có ý thức học tập,

làm việc tuân thủ theo hiến pháp và pháp luật.

- Bồi dưỡng cho học sinh năng lực phán đoán, đánh giá đạo đức, hình

thành niềm tin đạo đức, yêu cầu học sinh phải thấm nhuần các nguyên tắc và

chuẩn mực đạo đức do xã hội quy định, biết tiếp thu văn minh nhân loại kết

hợp với đạo đức truyền thống của dân tộc.

Page 34: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

- Dẫn dắt học sinh biết rèn luyện để hình thành hành vi, thói quen đạo

đức, có ý thức tích cực tham gia các hoạt động chính trị, xã hội, có ý thức đấu

tranh chống những biểu hiện tiêu cực, lạc hậu.

Những nội dung chủ yếu để giáo dục đạo đức cho học sinh:

- Giáo dục lí luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh;

- Giáo dục chủ nghĩa yêu nước;

- Giáo dục lí tưởng của chủ nghĩa cộng sản;

- Giáo dục chủ nghĩa tập thể;

- Giáo dục lòng nhiệt tình, hăng say lao động, có ý thức bảo vệ tài sản

XHCN;

- Giáo dục dân chủ và pháp chế XHCN;

- Giáo dục hành vi văn minh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội,

giáo dục ý thức công dân và các nội dung đạo đức mới XHCN.

Nội dung chủ yếu của giáo dục đạo đức phải phù hợp với yêu cầu của

công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, thực hiện ý nguyện của Đảng:

Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

Các bước của quá trình giáo dục đạo đức bao gồm:

- Quá trình tác động nâng cao nhận thức về tư tưởng, chính trị, đạo

đức làm cơ sở cho sự hình thành, phát triển và thể hiện các hành vi đạo đức.

- Bồi dưỡng những tình cảm đúng đắn, trong sáng, phù hợp với các

quan niệm, chuẩn mực đạo đức, quan hệ, ứng xử của xã hội.

- Rèn luyện hành vi, thói quen đạo đức.

Các con đường giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông là: Giảng dạy

môn Giáo dục công dân và các môn học khác qua hoạt động ngoại khóa, lao

động sản xuất, hoạt động của Đoàn thanh niên và Đội thiếu niên, công tác

chủ nhiệm lớp. Hoạt động ngoại khóa và các hoạt động ngoài nhà trường là

Page 35: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

con đường quan trọng thực hiện giáo dục đạo đức cho học sinh một cách

sinh động, hấp dẫn.

b. Giáo dục ý thức công dân

Toàn bộ các hoạt động giáo dục trong nhà trường đều hướng vào mục

tiêu đào tạo một thế hệ công dân mới, có ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Học sinh hôm nay là công dân trong tương lai, họ sẽ là chủ nhân xây dựng và

bảo vệ đất nước, họ cần được giáo dục ý thức công dân, để trở thành những

công dân có ích nhất đối với Tổ quốc.

Ý thức công dân là một phạm trù xã hội học, nó phản ánh trình độ nhận

thức về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với Nhà nước

với tư cách là những công dân chân chính của xã hội và của cộng đồng.

Nhiệm vụ giáo dục ý thức công dân trong nhà trường như sau:

Giáo dục chính trị - tư tưởng cho học sinh: giáo dục cho học sinh lòng

yêu nước; giáo dục cho học sinh hiểu rõ chiến lược phát triển kinh tế, văn hoá

xã hội, mục tiêu là tiến tới xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; làm

cho học sinh quan tâm đến những vấn đề chính trị, xã hội đang diễn ra trong

nước và trên thế giới; rèn luyện cho học sinh thói quen và kĩ năng tham gia

các hoạt động xã hội, tham gia vào các phong trào chính trị, văn hoá được tổ

chức ở địa phương và nhà trường.

Giáo dục cho học sinh ý thức và hành vi pháp luật: giúp cho học sinh

hiểu biết về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân để biết sống và hành động

theo pháp luật, có ý thức đấu tranh với những biểu hiện vi phạm pháp luật, có

ý thức tuyên truyền, giúp đỡ mọi người xung quanh thực hiện đúng pháp luật.

Nội dung giáo dục pháp luật cho học sinh trong nhà trường bao gồm các

quyền và nghĩa vụ của trẻ em trong quan hệ với gia đình, nhà trường và

ngoài xã hội như: quyền được nuôi dưỡng, giáo dục; được pháp luật bảo hộ

về tính mạng, sức khoẻ và danh dự; quyền được học tập, vui chơi, lao động,

được tham gia vào các hoạt động đoàn thể, xã hội; nghĩa vụ vâng lời dạy bảo

của cha mẹ, thầy cô giáo và kính trọng người lớn; nghĩa vụ học tập và phấn

Page 36: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

đấu vươn lên để trở thành người công dân có ích cho Tổ quốc; nghĩa vụ tuân

theo các quy định của pháp luật (Luật An toàn giao thông, Luật Bảo vệ môi

trường, Luật Bảo vệ di sản văn hoá...).

2. Giáo dục thẩm mĩ

Ý nghĩa của giáo dục thẩm mĩ

Thẩm mĩ là giá trị khách quan vốn có của các đối tượng có trong tự

nhiên, xã hội và con người, được con người nhận thức, đánh giá, thưởng

thức và sáng tạo.

Giáo dục thẩm mĩ là vận dụng cái đẹp của nghệ thuật, của tự nhiên và

nét đẹp của cuộc sống xã hội để bồi dưỡng quan điểm thẩm mĩ và năng lực

cảm thụ, thưởng thức, sáng tạo cái đẹp đúng đắn cho học sinh. Giáo dục

thẩm mĩ là bộ phận cấu thành cần thiết của mục tiêu giáo dục phát triển toàn

diện.

Con người là chủ thể của đời sống xã hội, vừa có nhu cầu về đời sống

vật chất vừa có nhu cầu về đời sống tinh thần, trong đó có nhu cầu thẩm mĩ.

Bồi dưỡng và hun đúc cái đẹp có hiệu quả nhất bắt đầu từ khi trẻ còn nhỏ.

Làm tốt công tác giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường sẽ nâng cao tố chất văn

minh tinh thần cho thế hệ trẻ và toàn dân tộc.

Giáo dục thẩm mĩ có thể mở rộng tầm nhìn cho học sinh, phát triển trí

lực và tinh thần sáng tạo của học sinh. Con người có thể nhận thức thế giới

bằng nhiều con đường, trong đó có nghệ thuật. Nghệ thuật tái hiện đời sống

hiện thực thông qua hình tượng nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật là một

phương thức phản ánh thế giới một cách sinh động, mới mẻ.

Giáo dục thẩm mĩ có thể thúc đẩy trí lực của học sinh phát triển. Khi

học sinh cảm nhận và thể nghiệm tình cảm trước cái đẹp của tự nhiên, xã hội

và nghệ thuật sẽ thúc đẩy năng lực tư duy và năng lực sáng tạo phát triển.

- Giáo dục thẩm mĩ có vai trò làm cho tâm hồn của học sinh trở nên

trong sáng hơn, rèn luyện cảm xúc, hoàn thiện phẩm chất đạo đức cho các

em.

Page 37: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Sự thống nhất giữa cái đẹp và cái thiện đã được đề cập đến từ lâu,

ngày nay với mục tiêu giáo dục nhân cách toàn diện, vấn đề này lại càng

được nhấn mạnh. Giáo dục thẩm mĩ có ảnh hưởng to lớn tới giáo dục đạo

đức, thông qua hình tượng đẹp chúng ta có thể giáo dục, nâng cao năng lực,

phân biệt xấu, đẹp, thiện, ác, đồng thời tạo ảnh hưởng sâu sắc tới tình cảm,

tư tưởng của học sinh, gợi lên tiếng gọi từ nội tâm, hình thành phẩm chất đạo

đức và tình cảm cao thượng của học sinh.

- Giáo dục thẩm mĩ thúc đẩy học sinh vươn tới cái đẹp, biết thể hiện cái

đẹp trong mọi lĩnh vực của đời sống, tức là biết xây dựng cuộc sống theo quy

luật của cái đẹp.

Giáo dục thẩm mĩ và các nội dung giáo dục khác là điều kiện cho nhau,

tương hỗ lẫn nhau cùng thúc đẩy sự phát triển toàn diện của học sinh. Vì vậy,

tăng cường giáo dục thẩm mĩ cho các cấp học, các ngành học là xu thế tất

yếu hiện nay.

Nhiệm vụ của giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường là:

- Giúp học sinh hình thành quan điểm thẩm mĩ đúng đắn, nâng cao

năng lực thẩm mĩ. Quan điểm thẩm mĩ là thái độ và cách nhìn của con người

trong hoạt động thẩm mĩ. Mỗi thời đại có tiêu chuẩn thẩm mĩ riêng biệt. Trong

xã hội có giai cấp giáo dục thẩm mĩ mang tính giai cấp. Vì thế, nhiệm vụ của

giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường trước hết là giáo dục học sinh xây dựng

quan điểm thẩm mĩ đúng đắn, nắm vững tiêu chuẩn, phân biệt và đánh giá cái

đẹp, đồng thời phải bồi dưỡng cho học sinh tình cảm thẩm mĩ cao thượng.

Muốn nâng cao năng lực cảm thụ, hiểu biết và thưởng thức cái đẹp của học

sinh thì phải tăng cường bồi dưỡng, truyền thụ tri thức nghệ thuật cơ bản, cần

thiết cho các em, bao gồm: tri thức mĩ học, văn học, âm nhạc, mĩ thuật... hiểu

biết tri thức nghệ thuật, cảm thụ cái đẹp trong tự nhiên, phân tích nét đẹp đời

sống xã hội, nâng cao năng lực thẩm mĩ.

- Bồi dưỡng tình cảm thẩm mĩ lành mạnh, kích thích học sinh yêu thích

và vươn tới cái đẹp chân chính. Con người thưởng thức cái đẹp theo sắc thái

tình cảm. Hướng dẫn học sinh thưởng thức các hình thái của cái đẹp, kích

Page 38: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

thích các em có tình cảm vui thích, yêu mến cái đẹp, hình thành tình cảm

thẩm mĩ lành mạnh, cao thượng và tinh thần sáng tạo phấn đấu vươn lên để

thực hiện ý tưởng tốt đẹp.

- Giúp cho học sinh phát triển năng lực biểu hiện và sáng tạo cái đẹp.

Con người ai cũng yêu thích cái đẹp. Điều này không chỉ biểu hiện ở hứng

thú, sở thích đối với sự vật đẹp, tác phẩm nghệ thuật mà còn mong muốn

biểu hiện và sáng tạo cái đẹp trong thực tiễn xã hội, phát triển nét đẹp ở mọi

nơi mọi lúc trong đời sống xã hội, trong cuộc sống hàng ngày (chú ý làm đẹp

môi trường, có hành vi cử chỉ văn minh, phục trang hợp lí; đối nhân xử thế

khiêm nhường, lịch sự...).

Các nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ có mối liên hệ với nhau, trong đó bồi

dưỡng quan điểm thẩm mĩ đúng đắn là nhiệm vụ hạt nhân. Có quan điểm

đúng đắn mới có thể hình thành tình cảm thẩm mĩ lành mạnh và quan điểm

thẩm mĩ được thể nghiệm trong hoạt động thẩm mĩ, sáng tạo thẩm mĩ.

Giáo dục thẩm mĩ thông qua các con đường sau đây:

- Giáo dục nghệ thuật: Giáo dục nghệ thuật chiếm vị trí chủ yếu trong

nội dung giáo dục thẩm mĩ. Nghệ thuật bắt đầu từ cuộc sống và cao hơn cuộc

sống. Nghệ thuật phản ánh vẻ đẹp của tự nhiên và xã hội một cách tập trung,

điển hình và mang tính tiêu biểu nên nó có sức truyền cảm và có tác dụng

giáo dục to lớn. Hình thức nghệ thuật có: văn học, mĩ thuật, âm nhạc, vũ đạo

(múa), kịch, điện ảnh, truyền hình với nội dung phong phú, hình thức đa dạng.

Tác phẩm nghệ thuật ở hình thức nào cũng có đặc điểm và vai trò riêng, độc

đáo. Giáo viên cần dựa vào nội dung và đặc điểm cụ thể của chúng để giáo

dục thẩm mĩ cho học sinh. Con đường giáo dục nghệ thuật trong nhà trường

bao gồm: 1. Giáo dục nghệ thuật trên lớp, bao gồm việc dạy các môn học

trong đó văn học, mĩ thuật, âm nhạc chiếm vị trí và vai trò quan trọng. 2. Hoạt

động văn học nghệ thuật ngoại khóa.

- Giáo dục thẩm mĩ thông qua dạy và học các bộ môn khoa học, đặc

biệt là khoa học xã hội và nhân văn. Mỗi môn học đều chứa đựng những tiềm

năng trong việc giáo dục cái đẹp, những tiềm năng này không giống nhau,

Page 39: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

giáo viên cần căn cứ vào tiềm năng của từng môn học để khai thác chúng,

biết tìm ra cái đẹp ngay trong hệ thống kiến thức mà học sinh lĩnh hội. Ngày

nay, quá trình dạy học có sự hỗ trợ của phương tiện kĩ thuật hiện đại nên giáo

viên có điều kiện để làm sáng tỏ các góc độ của đối tượng thẩm mĩ.

- Thông qua xây dưng môi trường văn hoá lành mạnh trong gia đình,

nhà trường và xã hội. Nét đẹp trong cuộc sống gia đình được biểu hiện thông

qua quan hệ trực tiếp thường xuyên của ông bà, cha mẹ, anh chị em, những

người thân yêu ruột thịt. Sự thương yêu đùm bọc, chăm sóc của gia đình là

cơ sở để học sinh thể hiện những nét đẹp đó trong các mối quan hệ. Do đó

nhà trường cần phối hợp với gia đình, cung cấp cho họ những kiến thức,

phương pháp, hình thức giáo dục thẩm mĩ, giúp cho họ thấy được lợi ích của

những giá trị thẩm mĩ trong quan hệ gia đình. Xã hội đẹp là cội nguồn quan

trọng của giáo dục thẩm mĩ, nhà trường cần phối hợp với chính quyền, với

các cơ quan văn hoá - nghệ thuật ở địa phương xây dựng nên môi trường

văn hoá trong sạch. ở nhà trường, cảnh quan môi trường sư phạm, các mối

quan hệ giao lưu trong trường, phong cách, cử chỉ, trang phục, ngôn ngữ, nét

mặt... được coi là phương tiện quan trọng để giáo dục thẩm mĩ cho học sinh.

Giáo viên cần vận dụng thực tiễn sinh động để giáo dục thẩm mĩ cho học

sinh, đồng thời tích cực gợi mở, hướng dẫn học sinh thể nghiệm, cảm thụ để

phát huy tác dụng thẩm mĩ của chúng. –

Giáo dục cái đẹp trong tự nhiên:

Cái đẹp tồn tại trong tự nhiên như phong cảnh đất nước, quê hương,

danh lam thắng cảnh... chính là nguồn tư liệu sống không bao giờ cạn kiệt

của giáo dục thẩm mĩ, cần tạo điều kiện để học sinh tiếp xúc với cảnh quan

thiên nhiên.

3. Giáo dục lao động và hướng nghiệp

a. Giáo dục lao động

Lao động là phạm trù xã hội, nó vừa là điều kiện vừa là kết quả cho sự

tồn tại của xã hội loài người cũng như sự phát triển của mỗi cá nhân.

Page 40: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Nhờ có lao động mà con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh

thần. Lao động trở thành thuộc tính bản chất của con người, thể hiện sự khác

biệt giữa con người và loài vật. Trong quá trình lao động, các mối quan hệ xã

hội giữa con người với con người được hình thành, qua đó thiết lập bộ mặt

nhân cách riêng cho mỗi con người.

Lao động không chỉ với mục đích chuẩn bị cho học sinh tham gia hoạt

động thực tiễn mà còn là phương tiện hình thành nhân cách, phát triển về mặt

thể lực, tác động đến sự phát triển trí tuệ của học sinh.

Mục đích của giáo dục lao động trong nhà trường phổ thông là hình

thành cho học sinh quan điểm đúng đắn về lao động, hình thành thái độ tích

cực đối với lao động, nhu cầu và thói quen đối với lao động.

Nhiệm vụ của giáo dục lao động

- Giáo dục cho học sinh thái độ đúng đắn đối với lao động: Có tinh thần

trách nhiệm cao đối với công việc, nghề nghiệp, có thói quen lao động cần cù,

bền bỉ, có ý thức tổ chức, kỉ luật, lao động sáng tạo, có năng suất cao, lao

động với lương tâm nghề nghiệp, có bổn phận và nghĩa vụ vì lợi ích của bản

thân, gia đình, tập thể và xã hội. Giáo dục ý thức đúng đắn đối với lao động,

lao động trung thực có năng suất cao vì phúc lợi xã hội và cá nhân.

- Cung cấp cho học sinh học vấn kĩ thuật tổng hợp, phát triển tư duy kĩ

thuật hiện đại. Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ,

đặc biệt là sự phát triển của công nghệ thông tin đòi hỏi học sinh phải có học

vấn cần thiết để đáp ứng với sự phát triển kinh tế xã hội hiện đại.

- Chuẩn bị cho học sinh có những kĩ năng lao động kĩ thuật nghề

nghiệp ở một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định trong các khu vực kinh tế của

đất nước, của địa phương.

- Hình thành cho học sinh thói quen lao động có văn hóa: làm việc có

kế hoạch, khoa học, biết tiết kiệm, quý trọng của cải và sức lao động, thực

hiện công việc được giao chuẩn xác, đúng thời hạn, biết lao động, nghỉ ngơi

hợp lí, khoa học v.v....

Page 41: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

- Tổ chức các hoạt động để làm cho học sinh có những hiểu biết cơ

bản về các ngành, nghề và thị trường lao động trước mắt và sự phát triển lâu

dài của kinh tế, sản xuất để có khả năng lựa chọn ngành nghề phù hợp với

năng lực, nguyện vọng của bản thân và yêu cầu của xã hội.

Tổ chức cho học sinh trực tiếp tham gia lao động sản xuất và các loại

hình lao động khác để góp phần sáng tạo những giá trị vật chất và tinh thần

cho bản thân và xã hội.

Một số loại hình lao động

Lao động học tập: Là dạng lao động cơ bản, chiếm thời gian nhiều nhất

trong các hoạt động của học sinh trong nhà trường, mục đích chủ yếu là cung

cấp cho học sinh hệ thống kiến thức khoa học. Hoạt động học tập chỉ thực sự

là một dạng lao động mang tính giáo dục đối với học sinh khi có sự tham gia

gia tích cực của trí tuệ và được tổ chức một cách khoa học, hợp lí.

- Lao động sản xuất của học sinh trong nhà trường: Là dạng lao động

có ý nghĩa to lớn, đó là sự tham gia trực tiếp của học sinh vào một lĩnh vực

nghề nghiệp nào đó, đem lại những sản phẩm cụ thể, thông qua đó hình

thành những phẩm chất quý báu của người lao động và có điều kiện để thử

sức mình ở những nghề nghiệp nhất định. Lao động sản xuất của học sinh

thường được tiến hành ở cơ sở sản xuất ngoài xã hội hay trong vườn trường,

xưởng trường.

- Lao động công ích xã hội: Lao động công ích của học sinh rất phong

phú như tu sửa trường lớp, sân chơi, thư viện, vệ sinh đường phố, đường

làng, trồng cây gây rừng, bảo vệ môi trường sinh thái... Lao động công ích

thường là lao động không có thù lao, nó rất có ưu thế trong việc giáo dục ý

thức trách nhiệm, hình thành tình cảm, tinh thần đoàn kết trong tập thể

- Lao động tự phục vụ: Được học sinh tiến hành ở gia đình (vệ sinh nhà

cửa, sửa chữa đồ dùng sinh hoạt, chăm sóc cây, vật nuôi trong gia đình...)

tiến hành ở nhà trường (vệ sinh trường lớp, sửa chữa đồ dùng học tập, chăm

sóc vườn trường....).

Page 42: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Nội dung, chương trình giáo dục lao động cho học sinh trong nhà

trường phổ thông thể hiện trong chương trình môn Kĩ thuật được Bộ Giáo dục

và Đào tạo ban hành và áp dụng trong tất cả các trường phổ thông. Trong đó

có những phần bắt buộc (phần chung) nhằm trang bị cho học sinh tri thức, kĩ

năng cần thiết đối với hoạt động kĩ thuật. Học phần riêng (do nhà trường tự

chọn) sẽ giúp học sinh hiểu được kĩ thuật công, nông nghiệp, nghề địa

phương đang phát triển. Nhờ đó học sinh được định hướng cụ thể trước hệ

thống nghề của địa phương và các vùng lân cận, giúp cho việc sử dụng học

sinh ra trường được hợp lí.

Một số yêu cầu để tổ chức lao động cho học sinh có hiệu quả:

- Tổ chức cho học sinh tham quan các cơ sở sản xuất theo kế hoạch,

phân bố nội dung của giáo dục lao động theo trình tự giáo dục.

- Lựa chọn các dạng lao động để học sinh có thể làm quen với một

phạm vi rộng các dạng lao động xã hội.

- Lựa chọn các hình thức lao động theo hướng phức tạp dần và đảm

bảo phù hợp với trình độ, lứa tuổi, giới tính của học sinh.

- Cần tổ chức lao động phù hợp với đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội

của địa phương để khai thác kinh nghiệm của học sinh và thu hút các em đi

vào lĩnh vực nghề nghiệp mà địa phương đang yêu cầu.

- Những người hướng dẫn lao động cần phải có kiến thức có kĩ năng

về lĩnh vực lao động để đảm bảo lao động mang lại hiệu quả.

b. Giáo dục hướng nghiệp

Hướng nghiệp là một hoạt động của tập thể sư phạm nhằm giúp học

sinh chọn nghề một cách hợp lí, phù hợp với hứng thú, nguyện vọng, năng

lực của cá nhân và yêu cầu của xã hội.

Hướng nghiệp được coi là một bộ phận cấu thành trong toàn bộ công

tác giáo dục. Việc chọn nghề của học sinh không thể để diễn ra một cách

ngẫu nhiên, tự phát mà phải là một quá trình giáo dục. Dưới sự hướng dẫn,

Page 43: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

ảnh hưởng của thầy giáo, cha mẹ, bạn bè, thông tin dư luận xã hội v.v... làm

cho quá trình chọn nghề của học sinh từ chỗ "định hướng ban đầu" đến chỗ

"tự quyết định con đường đi vào nghề nghiệp tương lai" được đúng đắn.

Nhiệm vụ của giáo dục hướng nghiệp

Thứ nhất, định hướng nghề nghiệp: Công việc chủ yếu của định hướng

nghề nghiệp là thông tin về sự phát triển của các nghề trong xã hội, nhất là

những nghề đang cần nhiều nhân lực kể cả những nghề trong khu vực kinh tế

Nhà nước và các thành phần kinh tế khác trong cả nước nói chung và ở địa

phương nói riêng. Những thông tin này bao gồm:

- Yêu cầu tâm - sinh lí của nghề

- Tình hình phân công lao động, yêu cầu tuyển chọn; - Điều kiện lao

động và triển vọng của nghề;

- Những quan niệm (thường biểu hiện dưới dạng dư luận xã hội) đúng

hoặc sai lệch về một số nghề trong xã hội hiện tại.

- Yêu cầu phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ trong những giai đoạn

trước mắt và lâu dài của đất nước và địa phương liên quan đến sự phát triển

của các ngành nghề.

- Hệ thống các trường dạy nghề.

- Các tổng công ti, công ti, nhà máy, xí nghiệp, công - nông trường,

hầm mỏ, hợp tác xã v.v... Các cơ sở sản xuất (địa điểm, cơ cấu hoạt động,

sản phẩm...) để có hướng chọn cho mình một chỗ đứng sau này.

Đối tượng tác động để định hướng nghề nghiệp là học sinh, đặc biệt là

những học sinh lớp cuối cấp (lớp 9 trường PTCS và lớp 12 trường PTTH).

Biện pháp và phương tiện thông tin nghề nghiệp cho học sinh là:

- Giới thiệu, tuyên truyền về nghề qua buổi sinh hoạt hướng nghiệp.

Công việc này có thể do giáo viên làm, có thể mời người sử dụng lao động,

người đã từng lao động ở các cơ sở đến báo cáo, nói chuyện, trao đổi với

học sinh về nghề.

Page 44: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

- Tạo điều kiện cho học sinh được làm quen với một số nghề hiện có

trong xã hội. Ví dụ như: Tổ chức cho các em tham quan sản xuất, tham gia

lao động ở một số cơ sở sản xuất nếu có điều kiện (nhận gia công một số chi

tiết hoặc một số mặt hàng theo hợp đồng cho nhà máy, xí nghiệp, hợp tác

xã); tổ chức lao động sản xuất ở trường.

- Tăng cường và mở rộng các phương tiện thông tin đại chúng (phát

thanh tuyên truyền, báo chí, phim ảnh, quảng cáo...) để giới thiệu về nghề.

Quá trình thông tin nghề nghiệp trong xã hội cho học sinh cần bảo đảm

một số yêu cầu như: giúp học sinh định hướng vào những nghề đang có nhu

cầu nhân lực lớn, cần thiết cho nền kinh tế quốc dân, những nghề đòi hỏi

năng khiếu đặc biệt để gây hứng thú nghề nghiệp cho học sinh.

Thứ hai, tư vấn nghề nghiệp: Tư vấn nghề nghiệp là hoạt động giúp các

cá nhân, đặc biệt là thanh thiếu niên trong quá trình định hướng, tìm chọn

cũng như thay đổi nghề. Để tư vấn nghề nghiệp các nước thường thành lập

những ban tư vấn nghề nghiệp trong trường học. ở Việt Nam, trong các

trường phổ thông hiện nay, công tác hướng nghiệp được coi là một nội dung

giáo dục của nhà trường, giáo viên chủ nhiệm lớp thường là người tư vấn

nghề nghiệp cho học sinh. Cũng có thể thành lập những trung tâm tư vấn

nghề nghiệp ở ngoài nhà trường. Người làm công tác tư vấn qua quá trình

tiếp xúc với học sinh, với cha mẹ học sinh, với các giáo viên bộ môn... nắm

được đặc điểm nhân cách của học sinh, hoặc dựa vào sự khảo sát, điều tra,

đánh giá các môn văn hóa, môn kĩ thuật và lao động sản xuất, nghiên cứu các

sản phẩm hoặc kết quả hoạt động... người làm công tác tư vấn lập sổ hướng

nghiệp cho từng học sinh, ghi lại những gì cần thiết; cuối cùng trên cơ sở đó

cho học sinh những lời khuyên trong việc chọn nghề.

Thứ ba là tuyển chọn nghề (Thích hợp nghề)

Ngoài ra, người làm công tác tư vấn nghề nghiệp phải xây dựng một

phác đồ nghề nghiệp để giới thiệu cho học sinh, chỉ ra cho học sinh thấy

được mức độ phù hợp hay không phù hợp giữa nhận thức, khả năng của cá

Page 45: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

nhân với yêu cầu thực tế khách quan của nghề, tức là mối quan hệ giữa nghề

với cá nhân. Từ đó học sinh sẽ quyết định chọn nghề gì.

Trường phổ thông căn cứ vào nhu cầu nhân lực của mỗi nghề cụ thể

trong kế hoạch phát triển kinh tế để định hướng, tư vấn nghề nghiệp cho học

sinh. Nghiên cứu, tham khảo sổ hướng nghiệp của học sinh, các trường dạy

nghề, trường trung học chuyên nghiệp, đại học, cao đẳng, nhà máy, xí

nghiệp, hợp tác xã sẽ có những cứ liệu quan trọng để tuyển chọn người phù

hợp, làm rõ được mối quan hệ nghề - cá nhân trong việc sắp xếp, bố trí nghề.

Ba nhiệm vụ của công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông có mối

quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, có thể biểu diễn mối quan hệ đó bằng sơ

đồ tam giác hướng nghiệp.

Trong trường phổ thông, hướng nghiệp được thực hiện bằng các con

đường sau:

- Hướng nghiệp qua dạy học các môn khoa học cơ bản, trước hết nó

cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản và có hệ thống về khoa học tự

nhiên, khoa học xã hội và tư duy. Đó là những khái niệm, quy luật, lí thuyết cơ

bản có liên quan đến kĩ thuật và sản xuất. Những môn học này cung cấp

những cơ sở khoa học cho việc thực hiện giáo dục kĩ thuật tổng hợp, giúp

cho việc xây dựng và phát triển những năng lực phong phú, đa dạng của học

sinh; chuẩn bị cho các em đi vào lao động nghề nghiệp.

- Hướng nghiệp qua hoạt động dạy học môn Kĩ thuật và lao động sản

xuất trong trường học.

- Tổ chức cho học sinh tham gia sản xuất ở các nhà máy, xí nghiệp,

công nông trường, hợp tác xã, cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp... nhằm

giúp học sinh có biểu tượng rõ hơn về những nghề đang cần tìm hiểu.

- Hướng nghiệp qua sinh hoạt hướng nghiệp: Thông tư số 31/TT của

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu: "Để giúp học sinh hiểu rõ các ngành nghề,

các trường tạm thời sử dụng mỗi tháng một buổi lao động để giới thiệu, tuyên

truyền, giải thích về ngành nghề". Sinh hoạt hướng nghiệp nhằm giúp học

Page 46: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

sinh có được bước chuẩn bị, sẵn sàng về tâm lí để đi vào lao động sản xuất

xã hội. Các hình thức và nội dung sinh hoạt hướng nghiệp bao gồm:

- Giới thiệu những nghề đang cần nhiều nhân lực, nghề địa phương,

những yêu cầu về sự phù hợp giữa người và nghề.

- Giới thiệu hệ thống các trường đào tạo nghề (Trung ương và địa

phương).

Thông tư số 31 - TT của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu lên những

hình thức ngoại khóa chính như sau:

- Xây dựng các tổ ngoại khóa;

- Xây dựng phòng hướng nghiệp;

- Tổ chức cho học sinh tham quan, nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm và

yêu cầu của các ngành nghề đang phát triển;

- Giới thiệu, tuyên truyền nghề nghiệp với cha mẹ học sinh;

- Phát huy vai trò của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Đội

Thiếu niên Tiền phong trong công tác hướng nghiệp;

- Tổ chức hội thi khéo tay kĩ thuật trong học sinh.

Mỗi hình thức hướng nghiệp có vai trò, vị trí nhất định của nó. Khi áp

dụng, tùy theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi trường cần kết hợp chúng

một cách linh hoạt nhằm nâng cao hiệu quả công tác hướng nghiệp trong nhà

trường phổ thông hiện nay.

4. Giáo dục thể chất

Ý nghĩa của giáo dục thể chất

Giáo dục thể chất (thể dục) là bộ phận cấu thành quan trọng của nền

giáo dục phát triển toàn diện; thể dục là biện pháp quan trọng nâng cao sức

khoẻ người dân, tăng cường thể chất, làm phong phú đời sống văn hoá xã

hội, nâng cao sức sản xuất xã hội. Giáo dục thể chất theo nghĩa rộng bao

gồm giáo dục rèn luyện thân thể và giáo dục vệ sinh giữ gìn sức khỏe; rèn

Page 47: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

luyện thân thể nghiêng về bồi dưỡng cơ thể, còn giáo dục vệ sinh giữ gìn sức

khỏe lại nghiêng về bảo vệ sức khỏe. Giáo dục thể chất theo nghĩa hẹp, chủ

yếu chỉ rèn luyện thân thể hoặc giáo dục vận động thể dục thể thao.

Hiện nay giáo dục thể chất trong nhà trường phải chú ý làm tốt hai việc:

thể dục và vệ sinh sức khỏe. Giáo dục thể chất trong nhà trường có ý nghĩa

quan trọng, được biểu hiện như sau:

- Giáo dục thể chất có thể thúc đẩy học sinh phát triển thân thể khỏe

mạnh, tăng cường thể chất cho học sinh.

- Giáo dục thể chất là bộ phận không thể thiếu để thúc đẩy sự phát triển

toàn diện của học sinh, là bộ phận hợp thành quan trọng của nền giáo dục

phát triển toàn diện. Thân thể khoẻ mạnh là cơ sở vật chất để thực hiện các

nhiệm vụ giáo dục khác. Giáo dục thể chất liên hệ mật thiết với giáo dục đạo

đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mĩ và lao động.

- Giáo dục thể chất không những có thể bồi dưỡng phẩm chất đạo đức

cho học sinh mà còn làm cho tinh thần con người mạnh khỏe, cuộc sống văn

minh vui vẻ, có ý nghĩa, tạo nên hành vi và thói quen văn minh như tôn trọng

kỉ luật, trách nhiệm với tập thể, tôn trọng, tuân theo trật tự công cộng, giữ gìn

môi trường sạch đẹp, giữ gìn vệ sinh.

Nhiệm vụ và nội dung của giáo dục thể chất trong nhà trường

- Tăng cường thể chất, sức khỏe cho học sinh. Tổ chức cho học sinh

rèn luyện thân thể, thúc đẩy cơ thể học sinh phát triển bình thường, tăng

cường thể chất và sức khỏe cho học sinh, phát triển toàn diện năng lực hoạt

động cơ bản của cơ thể cũng như tố chất của cơ thể như: tốc độ, độ nhạy

cảm, sức mạnh, độ dẻo dai, nhanh nhạy... hay các vận động cơ bản như

chạy, nhảy, nâng, trèo... nâng cao vận động thích ứng với môi trường tự

nhiên cho học sinh.

Giúp học sinh dần dần nắm vững tri thức cơ bản và kĩ năng kĩ xảo của

vận động thể dục thể thao, tạo nên thói quen tự giác rèn luyện thân thể một

cách khoa học.

Page 48: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

- Truyền thụ tri thức vệ sinh cần thiết cho học sinh, bồi dưỡng thói quen

vệ sinh tốt, hướng dẫn học sinh phòng ngừa bệnh tật, bảo vệ và tăng cường

sức khỏe tâm sinh lí.

- Thông qua thể dục, tiến hành giáo dục phẩm chất đạo đức cho học

sinh, tạo nên phong cách đạo đức tốt đẹp, cao thượng. Nội dung giáo dục thể

chất trong nhà trường:

- Vận động thể dục thể thao: Đây là nội dung chủ yếu của thể dục nhà

trường, là phương pháp chủ yếu bảo đảm sự phát triển khỏe mạnh của tâm lí

học sinh, bao gồm vận động điền kinh, thể thao, các loại bóng, bơi lội, trò

chơi, võ thuật... và hoạt động thể dục trong giáo dục quốc phòng, tận dụng

điều kiện tự nhiên rèn luyện thân thể.

Vệ sinh nhà trường, yêu cầu nhà trường cần xây dựng chế độ học tập,

sinh hoạt hợp lí, kiểm soát, khống chế chặt chẽ hoạt động của học sinh trong

nhà trường, bảo đảm thời gian nghỉ ngơi hợp lí, tạo nên thói quen sinh hoạt

tốt, có kỉ luật. Thiết bị sinh hoạt trong nhà trường như bàn ghế, cửa sổ, cửa ra

vào to nhỏ, thấp cao; hướng ánh sáng, độ phản quang của bảng, đèn chiếu

sáng.... đều đòi hỏi phải phù hợp với mức độ học tập và tình trạng phát triển

cơ thể của học sinh.

Cần làm cho học sinh hiểu rõ tri thức vệ sinh học tập, tạo nên thói quen

học tập tốt, tạo tư thế ngồi, đi đứng, viết... đúng tư thế, đảm bảo cho học sinh

phát triển bình thường. Bảo vệ thị lực cho học sinh đang là vấn đề nổi cộm

hiện nay, phải kiên trì bảo vệ sức khỏe đôi mắt, giúp học sinh hiểu về vệ sinh

mắt. Khi sắp xếp chỗ ngồi phải chú ý điều tiết thị lực học sinh. Cũng cần làm

cho học sinh hiểu về vệ sinh vận động, luyện tập theo khoa học.

Thiết bị thể dục và sân bãi cần phù hợp với yêu cầu về sự an toàn,

phòng tránh xảy ra sự cố. Cần tiến hành kiểm tra sức khỏe định kì cho học

sinh, làm tốt công tác phòng và trị bệnh để đảm bảo cho học sinh phát triển

tốt

Page 49: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

II. NHỮNG NỘI DUNG GIÁO DỤC MỚIXã hội loài người đang bước vào thời kì khoa học và công nghệ phát

triển như vũ bão. Với xu thế mở cửa, hội nhập của thế giới, đời sống xã hội,

giáo dục đang phải giải quyết những vấn đề có tính bức thiết và đầy thách

thức. Để giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ thành những con người mới có khả

năng và bản lĩnh thích ứng cao với những biến động của xã hội hiện đại, giáo

dục trong nhà trường hiện nay đã được bổ sung những nội dung giáo dục cho

phù hợp

1. Giáo dục môi trường

a. Khái niệm

Môi trường là vùng vật lí và sinh học xung quanh con người, môi

trường là sinh quyển bao gồm không khí, đất đai và hệ sinh thái có ảnh

hưởng đến cuộc sống của con người. Hệ sinh thái là khái niệm chỉ mối quan

hệ tương hỗ với nhau giữa quần xã sinh vật và môi trường. Hệ sinh thái là

đơn vị tự nhiên của các vật hữu sinh và vô sinh ở trong thế cân bằng.

Mô hình hệ sinh thái:

Quần xã sinh vật - Môi trường xung quanh - Năng lượng mặt trời - Hệ sinh

thái

Tóm lại môi trường là tất cả các nhân tố vô sinh và hữu sinh bao quanh

Trái Đất, có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống và sự phát triển

của mọi lĩnh vực sống.

Ô nhiễm môi trường: Là môi trường bị nhiễm các chất độc hại, nhiễm

bẩn hoặc tiếng ồn quá giới hạn cho phép, hoặc do sự khai thác của con

người làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, phá vỡ sự cân bằng sinh

thái

Ô nhiễm môi trường là kết quả của ba yếu tố. quy mô dân số, mức tiêu

thụ tính theo đầu người, tác động của môi trường.

Quy mô dân số x Mức tiêu thụ/người x Tác động của môi trường (đơn vị sx) =

Độ ô nhiễm

Page 50: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Các loại môi trường bị ô nhiễm: môi trường đất, môi trường nước,

không khí, môi trường bị ô nhiễm bởi tiếng ồn.

b. Nội dung giáo dục môi trường

* Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường

Bảo vệ nơi sinh sống và phát triển của quần xã sinh vật và tôn trọng sự

cân bằng của hệ sinh thái.

- Có ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, đấu tranh chống lại

những hành vi ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí, không khai thác bừa

bãi tài nguyên, tàn phá thiên nhiên.

- Có ý thức giữ gìn sự trong lành của môi trường sống hàng ngày của

con người ở mọi nơi, mọi chỗ.

* Bồi dưỡng kiên thức về môi trường, bảo vệ và chống ô nhiễm môi

trường

- Tìm hiểu về môi trường, hệ sinh thái;

- Các tác nhân gây ô nhiễm môi trường và tác hại của nó (ô nhiễm đất,

bầu khí quyển, "hiệu ứng nhà kính", ô nhiễm nguồn nước, hoá chất, thuốc trừ

sâu...);

- Rèn luyện và hình thành thói quen giữ gìn vệ sinh, bảo đảm sự trong

lành của môi trường sống xung quanh con người, tham gia tích cực vào các

hoạt động giữ gìn và làm sạch môi trường.

c. Các con đường giáo dục môi trường cho học sinh

- Thông qua giảng dạy các bộ môn khoa học tự nhiên và xã hội, đặc

biệt là các môn học có nội dung tri thức có thể khai thác bằng cách lồng ghép,

tích hợp hoặc theo môđun để giáo dục môi trường có hiệu quả như môn Sinh

học, Địa lí, Đạo đức, Giáo dục công dân...

- Tổ chức trao đổi, tọa đàm, tranh luận qua các buổi sinh hoạt về môi

trường và bảo vệ môi trường cũng như các hoạt động cụ thể.

Page 51: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Tổ chức cho học sinh tham gia vào việc bảo vệ môi trường: tuyên

truyền, cổ động, trồng cây, chăm sóc hoa, chim, cây cảnh, dọn vệ sinh, diệt

ruồi, muỗi, bọ gậy...

- Tham quan, du lịch môi trường sinh thái, danh lam thắng cảnh, rừng

nguyên sinh, các môi trường tự nhiên và thiên nhiên nhân tạo.

2. Giáo dục dân số

a. Khái niệm

Giáo dục dân số (population education) là thuật ngữ UNESCO dùng để

chỉ một chương trình giáo dục nhằm giúp người học hiểu được mối quan hệ

qua lại giữa động lực dân số và các nhân tố khác của chất lượng cuộc sống,

từ đó hình thành ý thức trách nhiệm của từng cá nhân trước những quyết

định về lĩnh vực dân số nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho bản thân,

gia đình và xã hội.

Giáo dục dân số có ý nghĩa rất quan trọng, nó là một quá trình giúp cho

người học có những hiểu biết về các vấn đề dân số, trên cơ sở đó có nhãn

quan đúng đắn về phát triển dân số, quy mô gia đình, kế hoạch hóa gia đình,

phát triển và cải thiện chất lượng cuộc sống. Giáo dục dân số (GDDS) trở

thành một nội dung giáo dục không thể thiếu được cho học sinh trong nhà

trường hiện nay để thế hệ trẻ nâng cao hiểu biết, có ý thức trách nhiệm để

chuẩn bị làm cha mẹ sau này.

Chính sách dân số như hình thức điều khiển sự phát triển dân số, nó

tác động đến tái sản xuất dân cư, đến các điều kiện sống của mọi tầng lớp

nhân dân và nó hoàn thiện các điều kiện lao động, hệ thống tiền lương và các

nguồn gốc thu nhập khác, điều chỉnh việc chuyển cư và cơ cấu lãnh thổ dân

cư.

Tuổi kết hôn: Là độ tuổi được phép xây dựng gia đình theo pháp luật

(tuổi tối thiểu của nữ đủ 18, nam đủ 20). - Quy mô gia đình

- Kế hoạch hoá gia đình (KHHGĐ): Điều chỉnh số con sinh ra một cách

có ý thức, chủ động trong nội bộ một gia đình, thông qua sự tự nguyện của

Page 52: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

hai vợ chồng. KHHGĐ là tổng hợp các biện pháp nhằm chủ động và hạn chế

việc sinh đẻ và sinh đẻ có kế hoạch.

b. Mục tiêu của giáo dục dân số

- Cung cấp những tri thức cơ bản về Dân số học, tình hình dân số trên

thế giới, trong nước và địa phương; các chính sách về dân số và KHHGĐ.

- Nâng cao nhận thức về khả năng điều chỉnh hoạt động sinh đẻ của

con người để tạo ra sự cân đối giữa dân số và sản xuất, chất lượng cuộc

sống.

- Định hướng những giá trị đạo đức mới, khắc phục những quan niệm

cũ không còn phù hợp về hôn nhân, gia đình và hạnh phúc gia đình.

- Giáo dục thái độ, hành vi đúng đắn trước những vấn đề dân số đất

nước, phát triển dân số hợp lí, phân bố dân cư và lao động.

- Bồi dưỡng tri thức và kĩ năng thực hiện KHHGĐ, nâng cao chất lượng

cuộc sống.

- Biết làm công tác, tuyên truyền về GDDS và KHHGĐ.

c. Nội dung và con đường giáo dục dân số

* Nội dung giáo dục dân số

Về mặt lí thuyết và làm cho học sinh hiểu rõ mối quan hệ giữa dân số,

môi trường và chất lượng cuộc sống.

Dân số <-> Môi trường <-> Chất lượng cuộc sống <-> Dân số

Chất lượng cuộc sống

Mục tiêu GDDS:

- Bồi dưỡng nhận thức

- Thái độ đúng

- Có hành vi thích hợp

Page 53: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

=> Quy mô gia đình hợp lí; Phát triển dân số hợp lí; Phân bố dân cư

hợp lí

- Nắm vững ba khái niệm cơ bản: Dân số, chất lượng cuộc sống và môi

trường.

- Nắm vững hai mối quan hệ cơ bản: Quan hệ dân số và chất lượng

cuộc sống, quan hệ dân số - môi trường và chất lượng cuộc sống.

Về mặt thực tiễn, vận dụng năm chủ điểm GDDS trong khu vực vào

thực tiễn nước ta.

- Quy mô gia đình và chất lượng cuộc sống: Chấp nhận gia đình quy

mô nhỏ, mỗi cặp vợ chồng chỉ có 1 hoặc 2 con, sinh cách nhau 5 năm (QĐ

162 HĐBT).

- Tuổi kết hôn hợp lí: Nữ đủ 18 tuổi, nam đủ 20 tuổi, vận động kết hôn

muộn khi nữ đủ 22 tuổi, nam đủ 24 - 25.

- Tư cách và trách nhiệm làm cha mẹ: Được trang bị những kiến thức

tối thiểu về sinh đẻ có kế hoạch, chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ thai nghén và

sinh sản, nuôi con, thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm làm cha mẹ.

- Nắm được mối quan hệ dân số - môi trường và chất lượng cuộc sống,

từ đó làm nổi bật tính cấp bách của kế hoạch hoá dân số và sinh đẻ - KHHGĐ

trong hiện tại và tương lai. Xác định và lựa chọn những giá trị xã hội có liên

quan đến dân số (như số con, con trai, con gái, hạnh phúc gia đình...)

* Các con đường giáo dục dân số

- Thông qua phương pháp lồng ghép - tích hợp nội dung GDDS vào

các môn học tự nhiên, xã hội.

- Thông qua các hoạt động ngoại khoá: nói chuyện về dân số, sinh hoạt

câu lạc bộ tìm hiểu về dân số, KHHGĐ, hoạt động nghệ thuật, tuyên truyền về

dân số.

- Tổ chức cho học sinh tham gia cuộc tuyên truyền về GDDS, tư vấn về

GDDS.

Page 54: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

- Phổ biến, giới thiệu cho học sinh nắm được các chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước về dân số (chính sách dân sô), các chiến lược

phát triển dân số và xây dựng, nâng cao chất lượng cuộc sống.

3. Giáo dục giới tính

a. Khái niệm và ý nghĩa

Giới tính là những đặc điểm riêng biệt về giải phẫu sinh lí cơ thể và

những đặc trưng về tâm lí (hứng thú, tình cảm, xúc cảm, tính cách, năng lực,

nhận thức...) tạo nên sự khác biệt giữa giới nam và nữ.

Giáo dục giới tính (GDGT) là "giáo dục về chức năng làm một con

người có giới tính, điều quan trọng là đề cập vấn đề giới tính một cách công

khai và đầy đủ ở lớp từ nhà trẻ đến đại học, giúp cho học sinh cảm thấy an

toàn và tự do trong việc biểu lộ cảm xúc liên quan tới đời sống giới tính" (theo

Từ điển bách khoa về giáo dục). Ta có thể hiểu GDGT là một quá trình tác

động sư phạm hướng vào việc vạch ra những nét, những phẩm chất, những

đặc trưng và những khuynh hướng phát triển của nhân cách nhằm xác định

thái độ xã hội cần thiết của cá nhân đối với các vấn đề giới tính.

GDGT có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển tâm lí của thanh thiếu niên

học sinh. Xã hội hiện đại đã có những yếu tố và điều kiện dẫn đến sự phát

triển sớm về giới ở trẻ em. Chất lượng cuộc sống ngày càng cao, sự bùng nổ

thông tin với nhiều phương tiện nghe nhìn, phim ảnh về cuộc sống gia đình,

tình yêu, quan hệ nam nữ ảnh hưởng rất nhiều và nhanh nhậy với thế hệ trẻ.

Xã hội hiện đại cần phải rất quan tâm đến vấn đề GDGT.

- GDGT ảnh hưởng trực tiếp đến giáo dục dân số. GDGT cung cấp

những kiến thức khoa học về dân số kế hoạch hoá gia đình, sức khoẻ sinh

sản, về hạnh phúc gia đình... giúp cho học sinh có hiểu biết và ý thức làm chủ

trong các quan hệ tình bạn, tình yêu và hôn nhân sau này; thực hiện được

mục tiêu và nội dung của giáo dục dân số trong thế hệ trẻ - một bộ phận rất

quan trọng trong dân cư.

Page 55: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

- GDGT là con đường hữu hiệu ngăn ngừa các bệnh lây nhiễm qua con

đường tình dục, đặc biệt là HIV - AIDS.

- GDGT sẽ giúp cho thanh thiếu niên học sinh hình thành thái độ, hành

vi đúng đắn trong các mối quan hệ bạn bè khác giới, biết làm chủ trong việc

giải quyết các vấn đề có liên quan đến tình yêu, hôn nhân, gia đình, xây dựng

cuộc sống lành mạnh, có văn hoá, hướng tới cuộc sống hạnh phúc.

b. Nội dung và các con đường giáo dục giới tính

* Nội dung giáo dục giới tính bao gồm những kiến thức về sự phát triển

của giới nam và nữ.

- Về giải phẫu sinh lí.

- Cấu tạo, chức năng của các cơ quan sinh dục nam - nữ.

- Tuổi dậy thì và những biểu hiện, cách nhận biết và giải quyết những

"bí ẩn" ở tuổi dậy thì.

- Sinh sản và sức khoẻ sinh sản vị thành niên.

- Các kiến thức, hiểu biết về sức khoẻ của giới, phòng tránh thai, phòng

tránh các bệnh lây lan qua đường tình dục.

Giáo dục về các mối quan hệ xã hội theo giới của cá nhân mỗi người:

- Quan hệ hôn nhân, gia đình.

- Quan hệ, bổn phận của mỗi người nam, nữ khi trở thành cha mẹ, con

cái (trai, gái, dâu, rể), ông bà, anh chị, em...

- Quan hệ bạn bè và bạn khác giới.

- Tình yêu nam - nữ

Giáo dục, hình thành kĩ năng xác định các giá trị xã hội; lí tưởng, lẽ

sống, hạnh phúc gia đình, dân tộc, con cái (trai, gái, tình yêu, cuộc sống, tình

yêu, cuộc sống, tình bạn...).

Page 56: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

* Các con đường giáo dục giới tính trong nhà trường phổ thông - Thông

qua giảng dạy, học tập các môn khoa học tự nhiên, khoa học xã hội bằng

phương pháp lồng ghép hoặc tích hợp.

- Thông qua các chương trình, hoạt động ngoại khoá như: + Diễn đàn

trao đổi về các chuyên đề tình bạn, tình yêu, hôn nhân, gia đình.

+ Tìm hiểu các tài liệu, sách báo, phim, ảnh về cấu tạo, chức năng, vệ

sinh thường thức, phòng tránh các bệnh của các bộ phận sinh dục, sinh sản

của nam - nữ.

+ Triển lãm về phòng tránh thai (phương thức, phương tiện, dụng cụ...).

- Qua tư vấn (tình yêu, hôn nhân, gia đình, các bệnh của mỗi giới, tâm

lí và bệnh tâm lí...).

Qua các buổi sinh hoạt tập thể, hoạt động văn hoá, văn nghệ với các

đề tài về giới, về hôn nhân, hạnh phúc gia đình...

- Qua các hoạt động vui chơi, văn nghệ, thể dục thể thao.

- Qua các môn học tự chọn (nấu ăn, nữ công, du lịch, cắm tỉa hoa,

nhạc, họa, kĩ thuật...).

4. Giáo dục phòng chống ma túy

a. Khái niệm

Ma túy là những chất như thuốc phiện, hêrôin, côcain, moocphin... khi

vào cơ thể người sẽ gây nghiện và huỷ hoại, làm thay đổi các chức năng sinh

lí, tâm lí của con người. Ma túy có thể được đưa vào cơ thể người qua các

con đường:

- Hút thuốc phiện, cần sa.

- Ngửi, hít hêrôin, côcain bằng cách đốt cháy trực tiếp rồi ngửi, hít khói

của chúng vào miệng, mũi.

- Nhai, nuốt, uống các thuốc kích thích thần kinh.

Page 57: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

- Tiêm, chích dưới da, tĩnh mạch các chất như moocphin, đôlacgan,

hêrôin dưới dạng lỏng.

Nghiện ma túy: Theo nghĩa khoa học thì nghiện ma túy là trạng thái

nhiễm độc cơ thể theo chu kì hay mãn tính khi đã sử dụng chất ma tuý thành

thói quen.

Những biểu hiện có thể nhận biết người nghiện ma túy:

- Ở thể nhẹ (mới mắc nghiện một thời gian ngắn): ngáp vặt, chảy nước

mắt, nước mũi, hay ho vặt, vã mồ hôi, khi đói thuốc thì mắt lờ đờ, chân tay đờ

đẫn, không muốn làm gì ngoài việc đi tìm thuốc để thoả mãn cơn nghiện.

- Ở thể nặng thì nôn mửa, xuất huyết đường tiêu hoá, đau buốt xương,

cơ, khớp, nhức đầu, sút cân, cơ thể suy sụp. Khi đói thuốc mà không được

đáp ứng thì người nghiện ủ rũ, co giật, sùi bọt mép, đau buốt, mỏi mệt toàn

thân. Người nghiện thường lên cơn nghiện vào một thời điểm nhất định trong

ngày và hầu như không thể cưỡng lại được nếu như không có một ý chí kiên

cường, chịu đựng, vượt qua cơn đau, đòi hỏi của cơ thể.

Hiện nay người ta có thể dùng phép thử nước tiểu của người nghiện

bằng que chỉ thị màu sẽ biết chính xác tình trạng nghiện ma tuý của người

nghiện một cách nhanh chóng.

Những người rơi vào nghiện ma túy không tránh khỏi những tai hoạ

sau:

- Sức khoẻ, trí tuệ bị huỷ hoại, không có sức đề kháng với bệnh tật,

luôn uể oải, không còn khả năng lao động.

- Người nghiện ma tuý làm cho hạnh phúc gia đình tan vỡ, tài sản

khánh kiệt, trở thành gánh nặng cho gia đình.

- Ma túy là nguyên nhân trực tiếp thúc đẩy các tệ nạn xã hội khác, là

bạn đồng hành của tội ác và tội phạm.

- Ma túy là con đường ngắn nhất dẫn tới lây nhiễm HIV/AIDS.

b. Mục đích giáo dục phòng chống ma túy học đường

Page 58: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

- Nâng cao nhận thức cho thế hệ trẻ, học sinh về tính chất và tác hại

của ma tuý, một hiểm hoạ của xã hội loài người, quốc gia, dân tộc, thời đại.

Mọi người, đặc biệt là thanh thiếu niên học sinh phải cảnh giác với kẻ thù

nguy hiểm này.

- Tuyên truyền, giáo dục cho học sinh biết cách phòng chống ma tuý

cho bản thân, cho gia đình và xã hội.

- Làm cho học sinh biết tổ chức, xây dựng lối sống lành mạnh, lạc

quan, yêu đời, không mắc vào các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, nghiện hút làm

cho nhân cách, phẩm chất bị đồi bại, thân thể tàn phế.

Giáo dục phòng chống ma tuý còn có mục đích làm cho học sinh biết tỏ

thái độ kiên quyết chống lại việc sản xuất, buôn bán, tàng trữ và sử dụng trái

phép ma tuý và những người tiếp tay cho tệ nạn ma tuý này.

c. Các hình thức giáo dục phòng chống tệ nạn ma tuý trong trường học

- Thông qua dạy học các môn Chính trị, Đạo đức, Giáo dục công dân..

- Qua các buổi sinh hoạt tập thể (sinh hoạt lớp, Đoàn, Đội, chào cờ,

ngoại khoá, diễn đàn).

- Tổ chức cho học sinh tham gia tuyên truyền, phổ biến các

chủ trương của nhà nước, của chính quyền về phòng chống ma túy.

Tham gia các phong trào tuyên truyền, vận động bài trừ các tệ nạn xã hội ở

địa phương.

Tổ chức các hoạt động, sáng tác thơ ca, họa, các tiểu phẩm nghệ thuật

và tổ chức diễn đàn vàn nghệ của thầy và trò với những nội dung tuyên

truyền, vận động, giáo dục thiết thực, cụ thể, hấp dẫn về phòng chống ma tuý.

Cho học sinh (nhất là học sinh các lớp lớn tuổi) trực tiếp được nghe,

hoặc trao đổi với những thanh niên bị rơi vào con đường ma túy nay đã cai

nghiện được nói về nỗi đau khổ vì nghiện ngập để học sinh hãy tránh xa ma

túy. Cũng có thể cho học sinh trực tiếp tiếp xúc với cha, mẹ, người thân của

một số người mắc nghiện ma tuý để họ được chứng kiến nỗi cực nhục của

Page 59: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

các gia đình có người nghiện như thế nào. Đó chính là bài học để các em

không bao giờ mắc vào các tệ nạn xã hội này.

- Tổ chức cho học sinh xem các bộ phim, vở diễn nói về tác hại của

nghiện ma túy; tổ chức tọa đàm, trao đổi cụ thể qua các hình tượng nghệ

thuật; viết thu hoạch về tác hại của nghiện ma túy mà tự giác xa lánh nó.

- Tổ chức các hội nghị giữa chính quyền địa phương, cha mẹ học sinh

và học sinh của lớp, trường về phòng chống ma túy ở trường và địa phương.

Sau đó thực hiện kí cam kết đối với từng gia đình và từng học sinh không

mắc vào các tệ nạn xã hội, không nghiện hút, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển

chất ma tuý.

5. Giáo dục giá trị

a. Những Khái niệm cơ bản

Giá trị là phẩm chất tốt hay xấu, tác dụng lớn hay nhỏ của sự vật hay

của một con người, là cái làm cho vật được thừa nhận là có ích lợi, đáng quý,

là tính ý nghĩa tích cực hay tiêu cực của khách thể đối với con người, giai

cấp, nhóm xã hội; nói chung là các giá trị vật chất và giá trí vật chất tinh thần

có ý nghĩa đối với cuộc sống.

Hệ giá trị hay còn gọi là hệ thống giá trị, đó là một tổ hợp giá trị khác

nhau được sắp xếp, hệ thống lại theo những nguyên tắc nhất định thành một

tập hợp mang tính toàn vẹn, hệ thống, thực hiện các chức năng đặc thù trong

việc đánh giá con người theo những phương thức vận hành nhất định của giá

trị. Cá nhân con người luôn tiếp cận với hệ thống giá trị.

Thang giá trị đó là một tổ hợp giá trị, một hệ thống giá trị được sắp xếp

theo một trật tự ưu tiên nhất định. Thang giá trị còn gọi là thước đo giá trị.

Chuẩn mực giá trị trong hệ thống giá trị được sắp xếp theo một trật tự

nhất định, một thứ tự ưu tiên. Có những giá trị giữ vị trí cốt lõi, chuẩn mực

chung cho nhiều người, chiếm vị trí ở bậc cao hoặc then chốt, được coi là giá

trị chuẩn.

Page 60: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Định hướng giá trị: Theo Từ điển Bách khoa Xô viết, định hướng giá trị

là: l) Cơ sở tư tưởng, chính trị, đạo đức, thẩm mĩ giúp chủ thể đánh giá thực

tại chung quanh và định hướng trong thực tại đó. 2) Phương pháp phân loại

các khách thể của cá nhân theo giá trị của chúng. Định hướng giá trị hình

thành thông qua sự chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội và thể hiện trong các mục

đích tư tưởng, chính kiến ham muốn... của nhân cách.

Giáo dục giá trị có thể hiểu là một quá trình tổ chức, hướng dẫn, kích

thích hoạt động tích cực của người được giáo dục để họ lĩnh hội được các giá

trị xã hội, hình thành nên hệ thống giá trị của cá nhân, phù hợp với mong đợi

của xã hội.

b. Mục đích, nhiệm vụ của giáo dục giá trị

Mục đích, nhiệm vụ của giáo dục giá trị:

- Nhận thức được kiến thức văn hoá, khoa học, kĩ năng nghề nghiệp

mà họ đang học trong trường là hết sức cần thiết, có ý nghĩa thiết thực với họ

trong sự phát triển tiếp tục cũng như ứng dụng trong đời sống...

- Có thái độ trân trọng, yêu quý, cố gắng lĩnh hội và thực hiện được các

giá trị nêu trên, đồng thời không tán thành, không chấp nhận những giá trị

phản lại các giá trị đó, dám đấu tranh bảo vệ những giá trị chân chính đích

thực của xã hội chúng ta.

- Có hành động thực tiễn thể hiện ở việc học tập, nghiên cứu, chiếm

lĩnh bằng được kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo văn hoá, khoa học, nghề nghiệp...

thể hiện ở sự quan tâm gắn bó với công việc, sự nghiệp của cá nhân và trách

nhiệm với xã hội...

Mục đích và nhiệm vụ của giáo dục giá trị đòi hỏi phải làm cho hệ thống

giá trị xã hội mong đợi chuyển vào thành hệ giá trị trong mỗi công dân, nhất là

đối với học sinh, sinh viên, làm cho nhân cách của họ có giá trị cao trước xã

hội, đáp ứng yêu cầu mà xã hội đòi hỏi trong hiện tại và tương lai.

c Nội dung giá dục giá trị

Page 61: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Nội dung những giá trị chung, cơ bản cần phải giáo dục cho thế hệ trẻ

bao gồm:

- Hoà bình ổn định và an ninh của đất nước.

- Độc lập và thống nhất Tổ quốc.

- Tự do và dân chủ.

- Lòng nhân đạo, sống có tình nghĩa.

- Sức khoẻ của bản thân và cộng đồng.

- Truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, trọng hiền tài, trọng học vấn.

- Giá trị nghề nghiệp.

- Tình bạn, tình yêu và cuộc sống gia đình.

- Nếp sống văn minh.

- Những giá trị về giới.

Có rất nhiều giá trị phải giáo dục, song cần phải lựa chọn những giá trị

cơ bản, tối thiểu, vừa đáp ứng yêu cầu xã hội vừa phù hợp với đối tượng giáo

dục, lựa chọn các giá trị đó cần quan tâm đến những phương hướng cơ bản

sau:

- Phải quán triệt sâu sắc mục đích giáo dục.

- Coi trọng cả những giá trị truyền thống tốt đẹp lẫn giá trị hiện đại.

- Phải chú ý tính đặc thù về đối tượng, về lứa tuổi, về nghề nghiệp, về

giới.

- Phải xem xét những giá trị đó trong một tổng thể có hệ thống, cân đối,

hài hoà.

d. Các con đường giáo dục giá trị

- Giáo dục hình thành các giá trị ở con người trước hết từ gia đình. Trẻ

thấm nhuần các giá trị cũng như cách trẻ học nói, học cảm nhận, học biểu lộ

thái độ và học hành vi của người lớn ở xung quanh trẻ. Toàn bộ bầu không

Page 62: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

khí tâm lí - xã hội, toàn bộ cuộc sống của gia đình được biểu hiện ở những

người gần gũi, thân thiết nhất đều có tác động hình thành giá trị cho trẻ.

- Thông qua việc cá nhân học tập, rèn luyện. Giá trị cũng được tiếp thu

từ con đường dạy học như các tri thức khác, nó cũng cần người học nắm

được khái niệm, tri thức, có trình độ để phân tích, nhìn thấy bản chất, tính quy

luật, sự phát triển và biểu hiện của giá trị mà mình lĩnh hội. Trong đó, con

đường rất quan trọng để lĩnh hội các giá trị là tự học, tự nghiên cứu, tự suy

nghĩ, phân tích, thể nghiệm để tự rút ra kinh nghiệm, kết luận để hình thành

nên những giá trị cho mình.

Môi trường sư phạm: Tác động của môi trường sư phạm có ý nghĩa hết

sức to lớn đối với việc hình thành giá trị cho học sinh, sinh viên. Các yếu tố

của môi trường giáo dục ở các bậc học từ trường mẫu giáo, trung học phổ

thông đến các đại học, chuyên nghiệp trước hết là:

- Môi trường văn hoá vật chất. Từ trường, lớp, thư viện, nhà ăn, xưởng

thực tập, phòng thí nghiệm đến vườn hoa, cây cảnh, nhà vệ sinh, phòng ở, tất

cả đều tác động đến nhận thức, thái độ, hành vi của mỗi con người sống

trong đó.

- Môi trường tâm lí - xã hội. Trước hết là nội quy, quy chế, cách thức

quản lí điều hành, cách xử lí các mối quan hệ giữa người và người trong đời

sống ở nhà trường. Không khí tâm lí, dư luận của nhóm, tập thể lớp, phòng

ở... đều có tác động mạnh đến sự lây lan tâm lí trong định hướng, đánh giá...

các giá trị.

- Quan hệ thầy trò. Tác động của giáo viên đến người học là một nhân

tố hết sức đặc biệt trong việc hình thành các giá trị ở người học. Người giáo

viên không chỉ là người giúp cho người học lĩnh hội kiến thức, hình thành kĩ

năng, kĩ xảo cho người học mà còn mang trong mình những giá trị quý báu để

tác động đến người học bằng toàn bộ nhân cách của mình.

Môi trường văn hoá - xã hội: Ngoài.việc tiếp thu giá trị trong quá trình

lĩnh hội kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo qua học tập ở nhà trường, việc hình thành

Page 63: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

các giá trị còn chịu ảnh hưởng sâu đậm của nguồn gốc, nền tảng, bản sắc

văn hoá, đạo đức của cộng đồng, xã hội.

- Văn hoá, tôn giáo, phong tục, tập quán, nếp sống của mỗi cộng đồng,

dân tộc, nhóm xã hội có ảnh hưởng sâu xa đến sự hình thành những giá trị

của mỗi thành viên trong cộng đồng đó.

- Các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng hiện đại, phong phú,

có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó tác động đến con người ở mọi nơi, mọi lúc,

thấm dần vào con người những quan điểm, cảm xúc, nhu cầu, khát vọng,

những phương hướng hoạt động về các mặt tư tưởng, chính trị, đạo đức,

thẩm mĩ, khoa học công nghệ mà thực chất đó là hình thành sự định hướng

giá trị ở con người một cách rất tự nhiên.

- Các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Những chủ trương chính sách về giáo dục, về việc làm, về khuyến khích tài

năng... có ý nghĩa lớn đến định hướng giá trị của học sinh, sinh viên.

Việc nêu lên những con đường giáo dục giá trị như trên mới chỉ nhằm

định hướng cho việc lựa chọn những biện pháp, hình thức giáo dục giá trị phù

hợp với mỗi loại đối tượng trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.

6. Giáo dục quốc tế

a. Ý nghĩa của giáo dục quốc tế

Khuyến nghị của Đại hội đồng UNESCO năm 1974 đã nêu: Giáo dục

quốc tế là quá trình sinh hoạt xã hội, nhờ đó mà cá nhân và nhóm xã hội học

tập để phát triển toàn bộ năng lực, quan điểm, khuynh hướng và tri thức của

cá nhân về những nguyên tắc quan hệ hữu nghị giữa nhân dân và các quốc

gia có hệ thống xã hội và chính trị khác nhau, dựa trên sự tôn trọng quyền

con người và các quyền tự do cơ bản.

Ở nước ta, ngoài ý nghĩa chung của giáo dục quốc tế đã nêu trên còn

có ý nghĩa riêng của mình. Cụ thể là từ khi bước sang giai đoạn đổi mới đến

nay chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng cùng có lợi với tất cả các nước,

không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc

Page 64: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

cùng tồn tại hoà bình. Hơn nữa Việt Nam là một thành viên của ASEAN, đã

thiết lập quan hệ ngoại giao nhiều nước trên thế giới. Do đó, việc nâng cao

hiểu biết quốc tế cho mọi công dân, đặc biệt là thế hệ trẻ là cấp bách để có

thể hội nhập với các nước một cách tự tin, sáng suốt và có trách nhiệm trong

hoàn cảnh toàn cầu hoá hiện nay.

Giáo dục quốc tế cũng góp phần giáo dục cho thế hệ trẻ yêu hoà bình,

ghét chiến tranh phi nghĩa, ý thức bảo vệ và xây dựng đất nước, trách nhiệm

bảo vệ môi trường, bảo vệ di sản văn hoá của các dân tộc, của nhân loại, có

những hiểu biết về phát triển hài hoà giữa kinh tế và xã hội, dân số, có thái độ

trách nhiệm đối với sự tồn tại và phát triển của cộng đồng.

b. Mục tiêu giáo dục quốc tế

Về kiến thức: Có những hiểu biết hệ thống về các nội dung cơ bản của

giáo dục quốc tế.

Về thái độ: Thừa nhận và xây dựng cho bản thân những giá trị đúng

đắn, có thái độ tích cực tham gia vào việc tuyên truyền, vận động thực hiện

nội dung của giáo dục quốc tế, có thái độ tích cực trước việc giải quyết những

vấn đề của bản thân, của cộng đồng, của quốc gia và thế giới.

Về kĩ năng: Có kĩ năng suy nghĩ, phê phán, kĩ năng tìm kiếm giải pháp

phát triển và giải quyết vấn đề. Kĩ năng hành động thể hiện ở năng lực trao

đổi, thảo luận, năng lực hợp tác giải quyết vấn đề.

Giáo dục quốc tế cũng như các nội dung giáo dục khác phải được tiến

hành trong nhà trường, lấy học sinh và sinh viên làm đối tượng giáo dục. Đối

với ngoài nhà trường, đối tượng giáo dục là những người không còn ngồi trên

ghế nhà trường.

c. Nhiệm vụ và nội dung giáo dục của giáo dục quốc tế

Nhiệm vụ giáo dục quốc tế bao gồm:

- Làm cho mọi người quan tâm và hiểu biết đầy đủ về những vấn đề

chung có tính toàn cầu cũng như ở từng khu vực trên thế giới, những vấn đề

Page 65: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

đó hiện đang đặt cho nhân loại những trách nhiệm, những đòi hỏi cùng tham

gia và cùng giải quyết để hướng tới một tương lai tốt đẹp.

- Giúp mỗi người trong cộng đồng nhân loại hiểu rõ những tác động tích

cực và tiêu cực của sự phát triển và tiến bộ, nhất là trong cách mạng khoa

học công nghệ, ảnh hưởng của nó đối với mọi vấn đề trong cuộc sống (môi

trường, sự khác biệt về trình độ phát triển, thảm hoạ chung của toàn nhân

loại...) và có cách giải quyết thích hợp.

- Trong xu thế hòa nhập đòi hỏi con người phải tôn trọng tính đa dạng

về chính trị - xã hội, đạo đức, văn hoá, thẩm mĩ, về lối sống. Từ đó tạo nên sự

phối hợp hài hoà của nhân loại (chung sống hòa bình, khoan dung, chấp nhận

đa chủng tộc, đa dạng về văn hoá), tạo nên sự hòa nhập, sự liên kết có định

hướng. Tất cả những điều đó trở thành nguyên tắc tổng quát trong đời sống

nhân loại, trong cộng đồng thế giới, trong bối cảnh chung của thế giới hiện

đại.

Nội dung giáo dục quốc tế được tập trung vào những vấn đề sau:

- Quyền bình đẳng giữa các dân tộc.

- Hoà bình và hợp tác quốc tế.

- Quyền con người, quyền trẻ em.

- Dân số, nhu cầu phát triển bền vững cuộc sống.

- Môi trường.

- Di sản văn hoá nhân loại.

- Hệ thống tổ chức Liên hợp quốc.

d. Các con đường và các điều kiện giáo dục quốc tế trong nhà trường

Giáo dục quốc tế tiến hành trong nhà trường cũng như các nội dung

giáo dục khác đều được thực hiện thông qua hoạt động nội khóa và hoạt

động ngoại khóa.

Page 66: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Hoạt động nội khóa có hai phương án: phương án thứ nhất là tách giáo

dục quốc tế thành môn học riêng, phương án này chỉ thích hợp với các

trường đại học và cao đẳng; phương án thứ hai là chuyển nội dung giáo dục

quốc tế vào tất cả các môn học. Những môn học có ưu thế hơn trong việc

đưa nội dung giáo dục quốc tế vào đó là môn Giáo dục công dân, Đạo đức,

Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, Tiếng nước ngoài, Sinh học, Hoá học.

Hoạt động ngoại khóa giáo dục quốc tế có thể tiến hành dưới nhiều

hình thức phong phú sinh động như: nói chuyện ngoại khoá, thi viết, vẽ, hát,

tổ chức những triển lãm nhỏ, tiến hành sưu tập, trao đổi thư từ, kết bạn, tham

quan các nhà bảo tàng, các cuộc triển lãm, các nhà hát, xem phim, tham gia

các loại câu lạc bộ, đi tham dự các lễ hội truyền thống... Cần tận dụng nhiều

lực lượng tham gia vào việc giáo dục quốc tế, tận dụng mọi phương tiện giáo

dục, đặc biệt là các phương tiện thông tin đại chúng. Để thực hiện giáo dục

quốc tế cần phải có những điều kiện sau:

- Có chương trình, tài liệu giáo dục quốc tế cho học sinh cũng như tài

liệu hướng dẫn giảng dạy cho giáo viên.

- Thiết kế chương trình, biên soạn tài liệu cho học sinh và tài liệu

hướng dẫn giảng dạy cho giáo viên, in ấn, phát hành rộng rãi những tài liệu

đó.

- Đội ngũ giáo viên có năng lực, được đào tạo bài bản.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN1. Phân tích khái niệm, ý nghĩa và nhiệm vụ của giáo dục đạo đức trong

nhà trường phổ thông.

2. Phân tích các nội dung của giáo dục đạo đức. Theo anh (chị) thì các

nội dung giáo dục đạo đức cần phải được thực hiện như thế nào để đáp ứng

được yêu cầu của thực tiễn giáo dục hiện nay?

3. Hiểu thế nào là giáo dục trí tuệ, phân tích ý nghĩa, nhiệm vụ và nội

dung cơ bản của giáo dục trí tuệ.

Page 67: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

4. Phân tích các nhiệm vụ và nội dung của giáo dục thể chất.

5. Những nội dung cơ bản của giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường phổ

thông hiện nay là gì? Có thể thực hiện các nội dung thẩm mĩ bằng những con

đường nào?

6. Phân tích nhiệm vụ, nội dung của giáo dục lao động - kĩ thuật cho

học sinh trong nhà trường phổ thông.

7. Phân tích khái niệm và ý nghĩa của giáo dục hướng nghiệp cho học

sinh trong nhà trường phổ thông.

8. Phân tích các nhiệm vụ của công tác hướng nghiệp trong nhà trường

phổ thông và phương hướng thực hiện các nhiệm vụ đó.

9. Nêu và phân tích các hình thức hướng nghiệp ở trường phổ thông

hiện nay ở nước ta.

10. Phân tích những nội dung và con đường giáo dục môi trường cho

học sinh trong nhà trường phổ thông.

11. Nêu khái niệm và những mục tiêu của giáo dục dân số, các nội

dung cơ bản của giáo dục dân số.

12. Phân tích nội dung và các con đường giáo dục giới tính cho học

sinh trong nhà trường phổ thông.

13. Vì sao phải giáo dục phòng chống ma túy cho học sinh trong nhà

trường hiện nay?

14. Phân tích các tác hại của tệ nạn ma túy và các hình thức giáo dục

phòng chống ma túy học đường hiện nay.

15. Hãy trình bày những khái niệm cơ bản sau: giá trị, hệ giá trị, thang

giá trị và chuẩn giá trị, định hướng giá trị và giáo dục giá trị.

16. Hãy trình bày nội dung và các con đường giáo dục giá trị.

17. Hãy trình bày những nhiệm vụ và nội dung của giáo dục quốc tế

Page 68: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Chương 15: PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC

I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC1. Phương pháp giáo dục là gì?

Phương pháp giáo dục là thành tố quan trọng trong cấu trúc của quá

trình giáo dục, có quan hệ mật thiết với các thành tố khác của quá trình này;

đặc biệt là với mục đích, nội dung, nhà giáo dục, người được giáo dục,

phương tiện giáo dục, với các điều kiện thực hiện quá trình này.

Trong mối quan hệ với mục đích, phương pháp trả lời câu hỏi làm thế

nào, bằng cách nào để đạt mục đích đã đề ra? Nghiên cứu phương pháp giáo

dục nhằm tìm ra quy luật vận động của đối tượng để tác động và điều khiển

chúng đạt được mục đích.

Phương pháp chịu sự quy định của nội dung và là hình thức của sự vận

động bên trong nội dung, mỗi nội dung giáo dục có những phương pháp

tương ứng phù hợp với nó.

Phương pháp giáo dục phản ánh cách thức tổ chức quá trình giáo dục,

các loại hình hoạt động phong phú đa dạng của giáo viên và học sinh nhằm

chuyển hóa những yêu cầu, chuẩn mực về đạo đức, lối sống, văn hóa, thẩm

mĩ do xã hội quy định thành phẩm chất, nhân cách, hành vi, thói quen và nếp

sống văn minh của học sinh. Phương pháp giáo dục được xem là cách thức

tác động qua lại giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, trong đó nhà giáo

dục giữ vai trò chủ đạo nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục đã đề ra.

2. Đặc điểm của phương pháp giáo dục

Phương pháp giáo dục được tiến hành trên cơ sở hoạt động phối hợp

giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, trong đó những tác động của nhà

giáo dục giữ vai trò chủ đạo, còn người được giáo dục hoạt động tích cực, tự

giác, tự giáo dục, tự vận động và phát triển nhằm hướng tới mục tiêu phát

triển nhân cách đã định. Chủ thể của những tác động giáo dục đến người

được giáo dục có thể là nhà giáo dục, cũng có thể là tập thể sư phạm, tập thể

học sinh, các các tổ chức xã hội hay sự phối hợp giữa các chủ thể đó. Những

Page 69: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

tác động này có thể trực tiếp, cũng có thể gián tiếp thông qua các mối quan

hệ xã hội đa dạng, các hoạt động, các phương tiện thông tin đại chúng...

Những tác động giáo dục thường phối hợp, thống nhất với nhau cùng ảnh

hưởng đến người được giáo dục (là cá nhân, tập thể học sinh) giúp cho cho

người được giáo dục biến những yêu cầu, những tác động giáo dục thành

phẩm chất và năng lực của mình thông qua hoạt động của bản thân.

Phương pháp giáo dục có mối quan hệ mật thiết với các biện pháp giáo

dục, cả biện pháp và phương pháp đều được quy định bởi các hành động

phối hợp giữa nhà giáo dục và người được giáo dục. Song biện pháp mang

tính cụ thể, phương pháp mang tính khái quát, nó bao gồm một số hành động

của nhà giáo dục và người được giáo dục, các hành động này thống nhất với

nhau nhằm thực hiện mục đích chung là hình thành những phẩm chất nhân

cách của người được giáo dục.

Phương pháp giáo dục có quan hệ mật thiết với các phương tiện giáo

dục. Phương tiện giáo dục bao gồm các sản phẩm văn hóa được sử dụng

trong quá trình giáo dục và trong các loại hình hoạt động văn hóa xã hội, thể

dục thể thao, lao động sản xuất. Nhờ có phương tiện giáo dục mà đảm bảo

được sự tác động qua lại giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, đảm

bảo cho hoạt động giáo dục đạt được hiệu quả cao.

II. HỆ THỐNG CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC 1. Phân loại phương pháp giáo dục

Trong lí luận giáo dục hiện còn nhiều cách phân loại phương pháp giáo

dục khác nhau. Mỗi cách phân loại đều dựa trên những cơ sở nhất định,

những cơ sở này làm nguyên tắc để sắp xếp các phương pháp vào hệ thống

các tên gọi khác nhau. Mỗi hệ thống phương pháp đều có thể sử dụng có

hiệu quả trong những hoàn cảnh giáo dục nhất định, tùy theo mục đích giáo

dục đã đặt ra.

Page 70: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Nếu căn cứ vào lực lượng và môi trường nơi diễn ra các hoạt động

giáo dục ta có các phương pháp giáo dục gia đình, các phương pháp giáo

dục nhà trường, các phương pháp giáo dục xã hội; phương pháp giáo dục

trên lớp, phương pháp giáo dục ngoài lớp. Căn cứ vào đối tượng giáo dục ta

có các phương pháp giáo dục trẻ mẫu giáo, giáo dục trẻ vị thành niên;

phương pháp giáo dục trẻ khuyết tật, phương pháp giáo dục cá biệt.... Căn

cứ vào nội dung giáo dục có các phương pháp giáo dục thể chất, phương

pháp giáo dục đạo đức, phương pháp giáo dục môi trường, phương pháp

giáo dục thẩm mĩ.... Căn cứ vào sự tác động tới các khâu của quá trình giáo

dục có các phương pháp tác động đến nhận thức, phương pháp tác động đến

tình cảm, phương pháp hình thành hành vi thói quen

Do tính chất phức tạp và đa dạng của phương pháp nên có nhiều cách

gọi tên và phân loại khác nhau. Phương pháp giáo dục thường được phân

loại và trình bày theo ba nhóm cơ bản sau:

1.1. Nhóm các phương pháp thuyết phục

Nhóm phương pháp thuyết phục là nhóm phương pháp giáo dục tác

động lên nhận thức và tình cảm của người được giáo dục nhằm hình thành

những khái niệm, biểu tượng và niềm tin đúng đắn về đạo đức, thẩm mĩ, tạo

điều kiện cho người được giáo dục có tư tưởng đúng, có tình cảm đẹp, làm

cơ sở cho việc hình thành những hành vi thói quen tốt: Trong công tác giáo

dục, thuyết phục là phương pháp cơ bản vì nó là con đường quan trọng để

biến ý thức xã hội thành ý thức của cá nhân, biến những yêu cầu của xã hội

thành nhu cầu của bản thân, động viên, thúc đẩy cá nhân hành động đáp ứng

những yêu cầu, chuẩn mực của xã hội.

Mục tiêu cơ bản của thuyết phục là nhà giáo dục đưa lí luận (lí luận đạo

đức, lí luận thẩm mĩ, pháp luật...) vào ý thức của học sinh, giúp các em khái

quát những kinh nghiệm của bản thân thành những biểu tượng, khái niệm và

niềm tin về đạo đức, thẩm mĩ; cụ thể hóa các khái niệm, chuẩn mực đã thu

được trong cuộc sống; có động cơ và thái độ đúng đắn với các chuẩn mực và

hành vi phù hợp với nhận thức và tình cảm của bản thân. Muốn vậy, nhà giáo

Page 71: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

dục phải hình thành ở học sinh những hiểu biết về các quy tắc xã hội của

hành vi, giúp các em có niềm tin và mong muốn thực hiện hành vi, biến hành

vi thành thói quen.

Phương tiện dùng trong nhóm phương pháp này rất phong phú và đa dạng

như ngôn ngữ, sách báo, khẩu hiệu, các phương tiện trực quan (tranh, ảnh,

mô hình, sơ đồ), các phương tiện kĩ thuật hiện đại, băng hình, phim đèn

chiếu, phát thanh, truyền hình, mạng internet... Căn cứ vào phương tiện, cách

sử dụng phương tiện để tác động đến nhận thức, tình cảm, niềm tin của

người được giáo dục, có các phương pháp thuyết phục khác nhau. Chẳng

hạn, sử dụng ngôn ngữ trong tiếp xúc cá nhân có các phương pháp đàm

thoại, tư vấn; tiếp cận nhóm có các phương pháp thuyết trình, thảo luận; tiếp

cận đại chúng thông qua các phương tiện (truyền thanh, truyền hình) có các

phương pháp phát thanh, truyền hình... Nhóm phương pháp thuyết phục bao

gồm:

a. Phương pháp đàm thoại

Đàm thoại là phương pháp giáo dục được thực hiện chủ yếu bằng cách

trao đổi ý kiến và quan điểm giữa nhà giáo dục với học sinh và giữa học sinh

với nhau về một chủ đề nào đó thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và

đời sống hàng ngày. Đàm thoại có thể được tiến hành giữa nhà giáo dục với

đối tượng giáo dục, giữa nhà giáo dục với các thành viên trong nhóm, trong

tập thể học sinh. Ưu điểm đặc biệt của phương pháp đàm thoại là thông qua

đàm thoại nhà giáo dục có thể kịp thời nắm bắt những tâm tư, tình cảm, vốn

kinh nghiệm của từng học sinh để trên cơ sở đó có những tác động giáo dục

thích hợp và cần thiết đối với các em.

* Đàm thoại có thể diễn ra theo hai cách: đàm thoại tự nhiên và đàm

thoại theo chủ đề

Đàm thoại tự nhiên: Là cuộc đàm thoại được dẫn đến một cách tự

nhiên, không tập trung vào một chủ đề nhất định. Trong cuộc đàm thoại này

các ý kiến thường được bộc lộ trong những bối cảnh không được chuẩn bị

Page 72: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

trước, diễn ra trong các tình huống của cuộc sống hàng ngày, qua các cuộc

tiếp xúc trực tiếp giữa giáo viên và học sinh trong và ngoài giờ học.

Đàm thoại theo chủ đề. Là loại đàm thoại mà những câu hỏi của chúng

được xoay quanh một chủ đề nhất định. Muốn đàm thoại có hiệu quả nhà

giáo dục cần quan tâm đến nội dung chủ đề cần trao đổi với học sinh, cần

phải chuẩn bị kĩ các câu hỏi, các vấn đề, sự kiện để thông báo cho học sinh.

Chủ đề đàm thoại cần thông báo trước để học sinh có thời gian chuẩn bị ý

kiến và quan điểm của mình. Chủ đề đàm thoại thường là những sự kiện

mang nội dung chính trị, đạo đức thẩm mĩ, thể hiện các mặt khác nhau của

đời sống xã hội, gắn liền với cuộc sống và hoạt động của học sinh. Đề tài

chọn thảo luận phải mang tính thiết thực, tập trung vào các vấn đề bức xúc

trong cuộc sống, lao động, học tập, trong quan hệ với thầy, với bạn, với cha

mẹ và những người xung quanh.

Khi tiến hành đàm thoại, nhà giáo dục cần phát huy tính tích cực của

học sinh vào việc phân tích và đánh giá các sự kiện, các hành vi trong đời

sống xã hội, giúp các em tự rút ra những kết luận phù hợp. Mở đầu buổi đàm

thoại, nhà giáo dục cần cung cấp cho người được giáo dục những tài liệu và

đặt ra các câu hỏi cho các em suy nghĩ và tự trả lời. Nhà giáo dục cần tạo ra

không khí thân mật, cởi mở, tự nhiên giữa người nói và người nghe, làm cho

mọi người không chỉ có nghe mà còn phát biểu ý kiến, đặt ra các câu hỏi và

trả lời chúng. Học sinh cũng có thể đặt ra các câu hỏi, vấn đề để giáo viên và

các bạn trả lời. Trong đàm thoại, thái độ của những người tham gia rất quan

trọng, nó có thể thúc đẩy người khác phản ứng tích cực, mạnh dạn bày tỏ

chính kiến của mình hoặc làm cho không khí nặng nề, mọi người không muốn

tham gia hoặc tham gia một cách hình thức. Muốn thảo luận thành công, nhà

giáo dục cần biết cách bộc lộ quan điểm và tình cảm của mình trong quá trình

đàm thoại, khéo léo khêu gợi người được giáo dục để họ tự rút ra những

quan điểm phù hợp với các giá trị đạo đức, thẩm mĩ. * Đàm thoại có thể diễn

ra dưới hình thức cá nhân có thể diễn ra dưới hình thức tập thể

Page 73: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Dưới hình thức cá nhân: Nhà giáo dục đàm thoại riêng với từng học

sinh. Hình thức này giúp nhà giáo dục hiểu biết sâu sắc về hoàn cảnh và cá

tính của học sinh, về những vấn đề cụ thể chưa được giải quyết trong nhận

thức, tư tưởng và tình cảm của các em, nhất là những vấn đề thầm kín, khó

nói trước tập thể. Đàm thoại riêng chỉ có hiệu quả khi giữa người được giáo

dục và nhà giáo dục có quan hệ tốt đẹp, khi họ tin tưởng vào nhà giáo dục và

mong muốn nhà giáo dục chia sẻ và tháo gỡ những băn khoăn thắc mắc cho

họ.

Đàm thoại cá nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với những học

sinh "chậm tiến về đạo đức", những học sinh này thường có những định kiến

sai lệch về người khác, về các chuẩn mực xã hội, có thái độ thiếu tin cậy đối

với tập thể. Muốn đàm thoại thành công đối với những học sinh này, nhà giáo

dục cần hết sức thận trọng, tế nhị trong cách nhận định và đánh giá học sinh,

thật sự thương yêu tôn trọng các em, các lí lẽ đưa ra cần có lí có tình, tránh

khuôn sáo dập khuôn, công thức.

Một phương pháp đàm thoại cá nhân ngày nay được đề cập tới nhiều

là hoạt động tư vấn giáo dục. Đây là phương pháp giáo dục trong đó có sự

tương tác giữa nhà tư vấn và người được tư vấn trên cơ sở nhà tư vấn cung

cấp những thông tin khách quan, chia sẻ về mặt tình cảm nhằm giúp cho

người được tư vấn khắc phục những khó khăn về nhận thức và tình cảm của

mình, từ đó đi đến một quyết định hành động phù hợp. Muốn tư vấn có hiệu

quả, cần cung cấp cho đối tượng những thông tin khách quan, đầy đủ, tạo

điều kiện để họ thay đổi những quan niệm lệch lạc; hỗ trợ và giúp đỡ về mặt

hiểu biết, tâm lí và tình cảm, làm yên lòng người được tư vấn; hỗ trợ và giúp

đỡ họ tìm ra giải pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề.

Đàm thoại tập thể được phát triển thành hai mức độ thảo luận và tranh

luận. Thảo luận là hình thức đặc biệt của đàm thoại trong đó nhà giáo dục tổ

chức sự trao đổi giữa học sinh với nhau, tạo điều kiện cho mỗi thành viên

trong tập thể đóng góp ý kiến và tìm ra cách giải quyết về một vấn đề nào đó.

Thông qua thảo luận, học sinh có thể giúp nhau đi sâu phân tích những khía

Page 74: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

cạnh khác nhau của vấn đề, từ đó các em có được nhận thức, thái độ, niềm

tin đúng đắn. Mức độ cao của thảo luận là tranh luận. Tranh luận dựa trên sự

va chạm các ý kiến, các quan điểm khác nhau, có khi đối lập nhau. Nhờ đó

các em nâng cao được tính khái quát, tính vững vàng và mềm dẻo của các

quan điểm, kiến thức về các chuẩn mực đã tiếp thu. Tranh luận là phương

pháp giáo dục phù hợp với lứa tuổi học sinh trung học, lứa tuổi say mê tìm

hiểu ý nghĩa của cuộc đời, lứa tuổi muốn có sự cọ sát về quan điểm, về chính

kiến để tìm ra chân lí. Vì thế, trong tranh luận, học sinh không chỉ phát biểu

quan điểm của mình, mà còn phát hiện ra những điểm mạnh và điểm yếu

trong quan niệm và cách bảo vệ quan niệm, đưa ra các luận chứng để bác bỏ

sai lầm và khẳng định chân lí.

Giáo viên có thể tham gia vào cuộc thảo luận và tranh luận của học sinh với

tư cách là người dẫn dắt, gợi ý và định hướng cho học sinh những vấn đề

cần tranh luận và giải quyết, nhưng tuyệt đối không được vội vã phê phán, tán

dương hoặc phủ nhận những quan điểm sai lầm của học sinh, buộc học sinh

phải chấp nhận những quan điểm của mình. Những nhà giáo dục có kinh

nghiệm thường biết chờ đợi, nhiệt tình và chân thành, tạo điều kiện cho học

sinh trình bày quan điểm của mình để trên cơ sở đó đưa ra cách lí giải phù

hợp, làm cho các em chấp nhận nội dung của chuẩn mực không phải bằng uy

quyền mà bằng chính những hiểu biết và niềm tin của bản thân.

Kết thúc đàm thoại nhà giáo dục cần tạo điều kiện cho học sinh nêu bật

những nội dung chính, những kết luận quan trọng về những vấn đề được trao

đổi thảo luận, hướng dẫn các em đề ra được các chương trình cụ thể để thực

hiện chuẩn mực hành vi đã được thống nhất.

b. Phương pháp giảng giải

Giảng giải là phương pháp giáo dục trong đó nhà giáo dục dùng lời nói

để thông báo, phân tích, giải thích, chứng minh tính đúng đắn của các chuẩn

mực đã được xã hội quy định. Trọng tâm của giảng giải là cung cấp thông tin

về sự kiện và chuẩn mực hành vi giúp người được giáo dục nắm vững ý

nghĩa, nội dung và cách thực hiện những nguyên tắc và chuẩn mực về văn

Page 75: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

hóa, đạo đức và lối sống, hình thành niềm tin và mong muốn thực hiện chúng.

Giảng giải thường tiến hành trong trường hợp người được giáo dục không

nhận thức được những điều cần phải làm và những việc cần phải tránh. Nói

như Xukhômlinxki là giúp người được giáo dục nhận ra điều "cần phải" và ý

thức về chúng.

Hiệu quả của phương pháp giảng giải phụ thuộc vào việc chuẩn bị nội

dung và các biện pháp tiến hành phương pháp này của nhà giáo dục. Chuẩn

bị tốt nội dung vấn đề cần giảng giải có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong

phương pháp này. Nội dung giảng giải là những nguyên tắc, những chuẩn

mực, những giá trị về đạo đức thẩm mĩ cần phải hình thành cho học sinh, làm

cho các em hiểu được ý nghĩa của chuẩn mực và cách thức thực hiện chúng.

Nội dung chuẩn mực phải hấp dẫn, lôi cuốn được sự chú ý của người nghe,

gắn liền với thực tiễn đất nước, với cuộc sống và hoạt động của học sinh, gắn

với kinh nghiệm sống của các em. Nội dung giảng giải cần tập trung giải thích

và làm rõ ba vấn đề: Chuẩn mực đó là gì? Tại sao phải thực hiện chúng? và

thực hiện chúng như thế nào? Tuy nhiên, trong thực tiễn tùy theo nội dung

chuẩn mực, đặc điểm lứa tuổi và sự hiểu biết của đối tượng, nhà giáo dục

cần xác định các nội dung giảng giải cho phù hợp.

Nội dung của phương pháp giảng giải được chứa đựng trong các môn

học chính khóa của nhà trường. Các môn học thuộc lĩnh vực xã hội nhân văn

là nguồn tư liệu phong phú cho nội dung giảng giải, đó là những tư tưởng,

quan điểm có tác dụng to lớn trong việc hình thành nhân cách cho học sinh.

Vì thế, người giáo viên cần tích hợp các nội dung về giáo dục đạo đức công

dân, giáo dục văn hóa, thẩm mĩ và giáo dục thể chất vào nội dung dạy học,

tạo điều kiện cho các em nắm vững được các nội dung của chuẩn mực hành

vi, các giá trị văn hóa trong quá trình dạy các môn học ở nhà trường.

Nhà giáo dục có thể vận dụng các phương pháp thuyết trình, giảng giải

trong dạy học vào việc hình thành các khái niệm về đạo đức, văn hóa thẩm mĩ

cho học sinh. Tuy nhiên, khi tiến hành giảng giải các nội dung giáo dục cần

Page 76: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

đảm bảo tính thuyết phục của các luận chứng, tính hệ thống chặt chẽ của cấu

trúc nội dung.

Thái độ của người giảng phải chân thực, tránh cách nói khuôn sáo, khoa

trương, dài dòng. Hiệu quả của giảng giải không những phụ thuộc vào tri

thức, kinh nghiệm sống, trình độ tư tưởng, đạo đức của nhà giáo dục mà còn

phụ thuộc vào uy tín, thái độ của nhà giáo dục đối với học sinh cũng như phụ

thuộc vào tình cảm, nghệ thuật diễn đạt, tính rõ ràng và ngôn ngữ của nhà

giáo dục. Người được giáo dục chỉ chấp nhận và hưởng ứng các chuẩn mực

hành vi khi họ biết rằng chính nhà giáo dục cũng đồng cảm, xúc động và tin

tưởng vào vấn đề đang được trình bày.

Kết thúc giảng giải, giáo viên cần đưa ra các kết luận gắn gọn, súc tích

về các chuẩn mực để học sinh dễ nhớ, dễ hiểu, dễ hình dung và vận dụng

trong thực tiễn. Người giáo viên cũng có thể khuyến khích học sinh trình bày

tóm tắt và đưa chuẩn mực mới học được vào hệ thống các chuẩn mực đã có.

c Phương pháp nêu gương

Phương pháp thuyết phục có thể được thực hiện bằng sự mẫu mực

của bản thân nhà giáo dục, của những người lớn, bạn bè, những người được

học sinh ngưỡng mộ và mong muốn noi theo, làm theo. Trong công tác giáo

dục, việc sử dụng tấm gương tốt làm phương tiện để giáo dục sẽ làm cho các

chuẩn mực và hành vi xã hội trở nên cụ thể, trực quan và có tính thuyết phục

hơn. Giáo dục bằng lời sẽ giảm giá trị nếu nó không được thuyết phục và

chứng minh bằng những tấm gương người thật, việc thật cụ thể, sinh động.

Nêu gương là phương pháp giáo dục trong đó nhà giáo dục dùng

những tấm gương sáng của cá nhân hoặc tập thể hoặc bằng hành động của

chính bản thân mình như là một mẫu mực để kích thích người được giáo dục

cảm phục, noi theo và làm theo những gương đó nhằm đạt được mục đích

giáo dục đã đề ra.

Cơ sở của phương pháp nêu gương là dựa vào tính hay bắt chước của

trẻ em. Trẻ em thường bắt chước những người xung quanh, nhất là những

Page 77: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

người gần gũi thân thuộc như cha mẹ, thầy cô giáo. Sự bắt chước phụ thuộc

vào độ tuổi, vốn kinh nghiệm và trình độ phát triển trí tuệ, đạo đức ở các em.

Khi còn nhỏ, trẻ có thể bắt chước một cách máy móc tất cả những hành vi

của người lớn (kể cả những hành vi tích cực và tiêu cực); khi lớn lên, cùng

với sự tích lũy của kinh nghiệm và sự phát triển của trí tuệ, sự bắt chước

mang tính lựa chọn và tổng hợp hơn. Bắt chước ở tuổi thiếu niên đã mang

tính lựa chọn, sang lứa tuổi thanh niên, bắt chước mang tính khái quát và

tổng hợp, những hành vi bắt chước đã được biến đổi phù hợp với những điều

kiện và tình huống nảy sinh trong cuộc sống của họ.

Điều quan trọng trong phương pháp nêu gương đối với nhà giáo dục là

sự lựa chọn và sử dụng tấm gương để giáo dục học sinh. Nhà giáo dục cần

căn cứ vào mục tiêu và nội dung giáo dục mà lựa chọn tấm gương điển hình

để giáo dục các em. Việc nêu những tấm gương tốt như của các anh hùng,

chiến sỹ thi đua, những gương tốt trong lao động, sản xuất, trong đấu tranh

với các thói hư tật xấu, những tấm gương của học sinh nghèo vượt khó là

điều rất quan trọng. Đó là những hành vi nghĩa cử của các nhân vật mà các

em đã có ấn tượng tốt đẹp, được các em ngưỡng mộ và mong muốn có được

hành vi cử chỉ đó. Tuy nhiên, cũng có thể sử dụng cái phản diện để ngăn

ngừa và loại bỏ những thói hư tật xấu trong xã hội. Có thể kể lại và chỉ cho

học sinh thấy số phận của một người nghiện, của một kẻ hư hỏng, kẻ lang

thang bụi đời... để các em có thể rút ra bài học về cách ứng xử với bản thân

và cuộc đời, có thái độ tránh xa những thói xấu và tệ nạn xã hội. Nên sử dụng

những gương tốt là chủ yếu, lạm dụng gương phản diện có thể phản tác dụng

giáo dục.

Khi sử dụng phương pháp nêu gương, điều quan trọng là phải giúp học

sinh có cách cư xử và thái độ đúng đắn với mọi hành vi cử chỉ của những

người xung quanh; tiếp thu và học tập cái tốt lên án và phê phán cái xấu. Vì

thế, phương pháp này sẽ có hiệu quả hơn nếu người giáo viên biết phối hợp

giữa nêu gương với giải thích đàm thoại về các chuẩn mực và hành vi xã hội.

Page 78: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Tấm gương của chính bản thân nhà giáo dục là yếu tố có vị trí đặc biệt

trong giáo dục bằng nêu gương. Nếu như việc làm và lối sống của nhà giáo

dục không đi đôi với lời nói, hoặc lời nói cũng sai trái thì đó là nguyên nhân

dẫn đến sự bất lực và không có hiệu quả trong công tác giáo dục. Vì thế,

người thầy giáo không chỉ "nêu gương" của những người khác, mà bản thân

mình phải "làm gương" sáng cho học sinh noi theo. Tấm gương sống của

giáo viên có sức mạnh thuyết phục hơn mọi lời giải thích và động viên của họ

đối với học sinh.

1.2. Nhóm phương pháp tổ chức hoạt động và hình thành kinh nghiệm ứng xử xã hội

Quá trình giáo dục không chỉ nhằm hình thành cho học sinh những

nhận thức, niềm tin về các chuẩn mực xã hội, điều quan trọng hơn là nó phải

được thể hiện bằng hành vi, thói quen cụ thể. Để làm được việc này giáo dục

không chỉ tác động lên ý thức mà còn tác động đến hành vi. Giáo dục là sự

thống nhất giữa ý thức và hành vi, là quá trình biến những yếu tố nhận thức,

tình cảm thành hành vi, biến những hành vi, những kinh nghiệm ứng xử xã

hội thành thói quen văn hóa cho học sinh.

Mục đích chủ yếu của nhóm phương pháp này là hình thành ở người

được giáo dục những hành vi phù hợp với các chuẩn mực của đời sống xã

hội, hình thành những phẩm chất nhân cách và hành vi thói quen.

Việc hình thành các hành vi thói quen phù hợp với các chuẩn mực xã

hội trong phương pháp này không phải bằng nghe, bằng nhìn mà chủ yếu

bằng cách tham gia vào các hoạt động, các quan hệ phong phú đa dạng (hoạt

động lao động sản xuất, hoạt động xã hội, sinh hoạt tập thể, hoạt động văn

hóa văn nghệ thể thao, vui chơi giải trí… Thông qua việc tiến hành các hoạt

động và tham gia vào các mối quan hệ xã hội mà người được giáo dục sẽ

hình thành những hành vi mới, điều chỉnh những hành vi đã có cho phù hợp

với các chuẩn mực xã hội, hình thành niềm tin và thói quen phù hợp với

những quy định của xã hội. Nhóm phương pháp này bao gồm: Phương pháp

đòi hỏi sư phạm, phương pháp tập thói quen và phương pháp rèn luyện.

Page 79: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

a. Phương pháp đòi hỏi sư phạm

Đòi hỏi sư phạm là một phương pháp giáo dục trong đó nhà giáo dục

nêu lên những yêu cầu, những đòi hỏi đối với tập thể và cá nhân học sinh, tổ

chức và giám sát việc thực hiện các yêu cầu đó ở học sinh nhằm đạt được

các mục tiêu giáo dục đã đề ra. Phương pháp đòi hỏi sư phạm bao gồm nhiều

hoạt động phối hợp giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, trong đó nhà

giáo dục nêu lên những yêu cầu về mặt giáo dục; biến những yêu cầu đó

thành yêu cầu của chính bản thân người được giáo dục; tổ chức, giám sát,

điều chỉnh người được giáo dục thực hiện các yêu cầu đó một cách tự giác,

độc lập, sáng tạo.

Những yêu cầu của nhà giáo dục thực chất là hệ thống các quy định và

các chuẩn mực xã hội đòi hỏi người được giáo dục phải tuân theo trong khi

tham gia các hoạt động và các mối quan hệ hàng ngày. Hệ thống các chuẩn

mực đó thường được cụ thể hóa dưới dạng:

- Các quy tắc, quy định về hoạt động của học sinh (những quy định

trong học tập, trong lao động, hoạt động thể thao, vui chơi giải trí...).

- Các quy tắc ứng xử của học sinh trong quan hệ với những người

được tiếp xúc hàng ngày (ông, bà, cha, mẹ, thầy cô giáo, cán bộ công nhân

viên trong nhà trường...).

- Những quy định về hành vi đối với tập thể, với các tổ chức xã hội, cơ

quan... Xác định những yêu cầu và biến nó thành những đòi hỏi đối với học

sinh là công việc đầu tiên trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục cho các

em. A. X. Macarenko đã nhấn mạnh: Nếu không nêu lên những đòi hỏi chân

thành, công khai, thuyết phục, nồng nhiệt, cương quyết thì không thể bắt đầu

tiến hành việc giáo dục tập thể được.

Việc đầu tiên khi thực hiện phương. pháp này là xác định nội dung của

những đòi hỏi sư phạm. Nội dung đòi hỏi cần xuất phát từ nhiệm vụ giáo dục,

từ tình hình thực tiễn của nhà trường có tính đến đặc điểm và trình độ phát

triển của người được giáo dục. Chúng phải mang tính cụ thể, rõ ràng, được

Page 80: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

cụ thể hóa thành các yêu cầu cụ thể và tỉ mỉ hơn để học sinh có thể nhận

thức và hành động phù hợp với các yêu cầu đã đề ra. Những yêu cầu sư

phạm phải chỉ rõ những việc cần phải làm, những việc nên làm, những việc

cần phải tránh. Cũng không nên đặt ra các yêu cầu cao quá mức, ngược lại

cũng không nên đưa ra những yêu cầu mà người học thực hiện quá dễ dàng,

không đòi hỏi họ cố gắng vươn lên về mặt ý chí. Trọng tâm của đòi hỏi sư

phạm là xây dựng được những bản nội quy, những quy định về nền nếp sinh

hoạt, lao động, học tập, rèn luyện, tu dưỡng của học sinh.

Khi đã đề ra được yêu cầu, cần thiết phải tổ chức thực hiện các biện pháp

nhằm biến yêu cầu thành đòi hỏi sư phạm đối với học sinh, làm cho học sinh

biến các yêu cầu giáo dục của nhà sư phạm thành chính những yêu cầu của

bản thân mình và quyết tâm thực hiện chúng. Công việc này đòi hỏi người

giáo viên ngay từ đầu năm học phổ biến đến từng học sinh, tạo điều kiện cho

các em và tập thể có thời gian học tập thảo luận kĩ về các quy chế, quy định,

nội quy của nhà trường. Khuyến khích và hướng dẫn học sinh viết bản cam

kết thi đua nghiêm túc thực hiện các quy chế, quy định và nội quy đó. Nhà

giáo dục có thể giải thích và hướng dẫn những điều các em còn chưa rõ, giúp

đỡ tập thể ra nghị quyết khẳng định sự quyết tâm trong việc thực hiện.

Không nên đưa ra quá nhiều yêu cầu hoặc yêu cầu quá cao so với khả

năng thực hiện của học sinh. Nhà trường cần tạo điều kiện về thời gian, về cơ

sở vật chất để các em thực hiện các đòi hỏi sư phạm. Chẳng hạn, học sinh

thực hiện yêu cầu không vứt rác bừa bãi sẽ tốt hơn nếu nhà trường bố trí chỗ

đổ rác ở nơi thuận lợi cho các em. Việc thực hiện yêu cầu lớp học ngăn nắp,

vệ sinh sẽ tốt hơn nếu có chỗ để nón, mũ, áo đi mưa, có ngăn bàn để cặp

sách và đồ dùng học tập. Đòi hỏi sư phạm sẽ được thực hiện tốt hơn nếu nhà

giáo dục phát huy được tính tích cực độc lập sáng tạo của tập thể và mỗi học

sinh trong quá trình thực hiện những yêu cầu. Dư luận tập thể tích cực sẽ tạo

nên áp lực thúc đẩy hoạt động của các thành viên. Nên đề cao vai trò tự quản

của học sinh kết hợp với việc tăng cường các biện pháp kiểm tra đánh giá, kịp

thời để phát hiện và uốn nắn các lệch lạc có thể xảy ra.

Page 81: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

b. Phương pháp lập thói quen

Thói quen là những cử chỉ và hành động ổn định trở thành nhu cầu của

con người, mà nếu nhu cầu đó không được thỏa mãn, con người cảm thấy

khó chịu, bứt rứt, không yên. Thói quen là bản tính thứ hai của con người, nó

làm cho hành động của cá nhân mang tính tự nhiên, ổn định, bền vững và

đặc trưng cho mỗi cá nhân. Nhờ có kĩ xảo và thói quen mà hành vi của cá

nhân mang tính tự nhiên, hành động mang tính dứt khoát, quả quyết. Có thói

quen tốt phù hợp và những thói quen xấu không phù hợp với các chuẩn mực

xã hội. Cần xóa bỏ thói quen không phù hợp, hình thành những thói quen,

hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội thể hiện trong mối quan hệ giữa

học sinh với những người thân trong gia đình, với bạn bè, thầy cô giáo, thể

hiện trong cuộc sống, lao động, học tập và vui chơi.

Muốn có được thói quen, người được giáo dục không phải chỉ hình

dung rõ nét các hành vi mang tính chuẩn mực dưới dạng khái quát, mà quan

trọng hơn là phải trải qua một quá trình luyện tập hành vi đó theo những cách

nhất định. Vì thế phương pháp tập thói quen là phương pháp giáo dục trong

đó nhà giáo dục tổ chức cho học sinh lặp đi lặp lại có tổ chức, thường xuyên

những hành động cử chỉ dưới dạng khác nhau trong các tình huống tương tự,

làm cho hành động đó trở thành nhu cầu và thói quen tốt của học sinh.

Để thực hiện phương pháp này nhà giáo dục cần thực hiện tốt các nội

dung sau:

- Xác định những thói quen cần phải cho học sinh, bởi vì trong thực tiễn

giáo dục, học sinh tham gia vào nhiều hoạt động với các mối quan hệ khác

nhau, nếu những hành động được tiến hành thường xuyên liên tục trong

những điều kiện nhất định sẽ trở thành các thói quen. Thói quen cần hình

thành cho học sinh phải là những hành vi có tính phổ biến, được cá nhân sử

dụng thường xuyên hàng ngày trong hoạt động cũng như trong ứng xử với

những người xung quanh. Những hình thái ứng xử mang tính khái quát, mềm

dẻo, ổn định trong các tình huống ít thay đổi (ăn ở hợp vệ sinh, những ứng xử

Page 82: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

trong giao tiếp, trong học tập, lao động vui chơi...) nếu được luyện tập thường

xuyên sẽ trở nên ổn định, vững chắc, đặc trưng cho cá nhân.

- Cần làm cho học sinh nắm vững mẫu hành vi cần được hình thành.

Nhà giáo dục cần giới thiệu cho các em những quy tắc hành vi ngắn gọn, rõ

ràng dễ hiểu, trên cơ sở đó phân tích và làm rõ mẫu hành vi thói quen này.

Chỉ cho học sinh thấy rõ những hành động và thao tác nào các em đã thực

hiện được tốt, hoặc thực hiện còn khó khăn. Khi giải thích và hướng dẫn học

sinh, nhà giáo dục có thể sử dụng tranh vẽ, băng hình, đưa ra các ví dụ cụ

thể hoặc giáo viên làm mẫu cho học sinh quan sát và thực hiện theo mẫu.

- Khi đã nắm được mẫu của hành vi, cần cho học sinh tiến hành luyện

tập đều đặn và thường xuyên bằng cách đặt ra cho các các em những nhiệm

vụ, những yêu cầu có ý nghĩa thực tiễn, gắn liền với việc giải quyết các nhiệm

vụ cụ thể. Tuy nhiên, công việc này cần được duy trì thường xuyên, đòi hỏi

việc thực hiện sinh hoạt phải theo chế độ và nền nếp nhất định.

c. Phương pháp rèn luyện

Phương pháp tập thói quen và phương pháp rèn luyện có điểm giống

nhau là đều hình thành những hành vi thói quen của người được giáo dục

thông qua hoạt động và bằng hoạt động nên giữa chúng chỉ có sự phân biệt

tương đối. Phương pháp tập thói quen chú ý đến việc hình thành các hành vi

thói quen còn phương pháp rèn luyện lại quan tâm nhiều đến các phẩm chất

nhân cách và ý chí của người được giáo dục, quan tâm đến việc tổ chức cho

người được giáo dục thể hiện ý thức, tình cảm của mình về các chuẩn mực

xã hội trong các tình huống đa dạng của cuộc sống. Vì vậy, phương pháp tập

thói quen thường được sử dụng trong những điều kiện ít thay đổi, còn

phương pháp rèn luyện thường được sử dụng trong các tình huống ít nhiều

có sự biến đổi khác nhau, làm cho người được giáo dục bộc lộ những phẩm

chất, đòi hỏi ở họ có sự cố gắng mới thực hiện được.Chẳng hạn, muốn hình

thành và củng cố tính kiên trì ở học sinh, cần thiết phải đặt các em vào những

hoàn cảnh có vấn đề để các em phải khắc phục nhằm hoàn thành nhiệm vụ.

Thực hiện hành vi ứng xử nhiều lần trong các điều kiện giống nhau nhằm

Page 83: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

hình thành thói quen, còn thực hiện hành động trong nhiều tình huống khác

nhau với mức độ thuận lợi và khó khăn khác nhau nhằm hình thành ý chí

khắc phục khó khăn là đặc điểm cơ bản của rèn luyện.

Cũng như tập thói quen, phương pháp rèn luyện cũng phải yêu cầu

người được giáo dục thực hiện nhiều lần những hành động phù hợp với các

khuôn mẫu ứng xử. Các hành vi này không thực hiện một cách máy móc mà

nó gắn liền với tình cảm, ý chí, nhu cầu và động cơ hoạt động của cá nhân

trong những tình huống khác nhau của đời sống. Muốn thực hiện phương

pháp này cần thực hiện tốt yêu cầu sau:

Tổ chức các tình huống, các điều kiện để học sinh tham gia giải quyết

chúng bằng các hành động tích cực, phù hợp với các chuẩn mực và đạo đức

xã hội. Tình huống mà giáo viên lựa chọn có thể là các hoạt động gắn liền với

thực tiễn cuộc sống như tham gia an toàn giao thông, giữ gìn vệ sinh môi

trường, công tác đền ơn đáp nghĩa... Tùy theo phẩm chất cần giáo dục cho

học sinh mà nhà giáo dục có thể lựa chọn các tình huống và hoạt động cho

phù hợp. Chẳng hạn, muốn giáo dục tính kiên trì cần đưa người được giáo

dục vào trong các hoạt động đòi hỏi phải có tính kiên trì.

- Rèn luyện sẽ phát huy được hiệu quả khi người được giáo dục ý thức

được nhiệm vụ của mình, tự mình đề ra các hoạt động, có kế hoạch và quyết

tâm thực hiện chúng. Người giáo viên cần hướng dẫn học sinh và tập thể học

sinh, đề ra những kế hoạch phù hợp, động viên khuyến khích các em quyết

tâm thực hiện những kế hoạch đã vạch ra.

1 3. Nhóm các phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi ứng xử của người được giáo dục

Nhóm phương pháp này có khả năng to lớn trong việc động viên học

sinh phát huy mọi sức lực và tinh thần, thể chất, tình cảm và trí tuệ để đạt

hiệu quả cao nhất trong học tập và rèn luyện. Đặc điểm cơ bản của nhóm

phương pháp này là dựa trên kết quả hành vi mà đối tượng giáo dục đã thực

hiện trước đây để phát huy tính tích cực của học sinh vào các hoạt động thực

tiễn.Khuyến khích, động viên, lôi cuốn lòng nhiệt tình tham gia vào hoạt động

Page 84: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

mà học sinh đã đạt được những thành quả nhất định. Khắc phục, ngăn ngừa,

uốn nắn hay trách phạt đối với những biểu hiện tiêu cực không được xã hội

thừa nhận.

Chức năng của nhóm phương pháp này là khuyến khích, củng cố, điều

chỉnh hành vi của học sinh, tạo ra những tiền đề tâm lí thuận lợi cho việc thực

hiện nhiệm vụ mới trên cơ sở những hoạt động trước đây ở các em. Những

phương pháp có hiệu lực để khuyến khích, điều chỉnh và sửa chữa hành vi

của học sinh là khen và chê, khuyến khích và trừng phạt. Khuyến khích, khen

và thưởng là phương pháp để củng cố và kích thích những động cơ và hình

thức hành vi đúng đắn. Trách phạt là phương pháp nhằm ức chế, kìm hãm và

điều chỉnh hành vi không phù hợp với các chuẩn mực xã hội.

a. Phương pháp khen thưởng

Trong công tác giáo dục, khen thưởng có tác dụng củng cố và phát huy

những phẩm chất tích cực trong nhân cách của học sinh cũng như những

truyền thống tốt đẹp trong tập thể, giúp cho cá nhân và tập thể khẳng định

được mình, phấn khởi vươn lên trong tu dưỡng và phấn đấu. Khen thưởng

không những có tác dụng động viên người được khen mà còn thúc đẩy

những học sinh khác noi theo và phấn đấu vươn lên. Khen thưởng góp phần

quan trọng tạo nên động cơ thúc đẩy quá trình giáo dục đạt hiệu quả mong

muốn vì nó đem lại cho cá nhân và tập thể sự an hoan, vui sướng, tự hào, tự

tin; làm nảy sinh ý muốn và quyết tâm phấn đấu tốt hơn nữa.

Tác dụng kích thích của khen thưởng là ở chỗ nó thể hiện sự công

nhận của nhà giáo dục, của tập thể và xã hội đối với kiểu hành vi mà học sinh

đã lựa chọn và thực hiện. Vì thế, khen thưởng cần có sự đồng tình, tán

thưởng của dư luận tập thể mới có tác dụng tích cực đối với tập thể và cá

nhân người được khen. Khen thưởng cần sử dụng đúng chỗ, công bằng,

khách quan. Nếu khen thưởng không đúng (thiếu khách quan, quá dễ dãi..)

thì khen thưởng sẽ biến thành mặt đối lập, gây ra thói kiêu ngạo, tự mãn, ích

kỉ ở người được khen.

Page 85: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Có nhiều hình thức và biện pháp khen thưởng, tùy theo đối tượng giáo

dục mà có các hình thức và mức độ khen thưởng khác nhau. Có khi chỉ cần

một cái nhìn đặc biệt, một cái gật đầu đồng tình, một nụ cười tán thưởng của

nhà giáo dục trước một lời nói, một hành động đáng khen của học sinh cũng

làm cho các em vui thích về những hành động đã thực hiện, kích thích lòng

mong muốn được hành động như vậy. Nếu thành tích, ưu điểm của học sinh

do có sự cố gắng thường xuyên và khắc phục nhiều khó khăn mới đạt được

thì cần phải có những hình thức và biện pháp khen thưởng xứng đáng hơn.

Việc khen thưởng trong trường hợp này không chỉ thể hiện ở sự đồng tình

của giáo viên mà còn cần có sự đồng thuận của tập thể, sự công nhận của

các cấp có thẩm quyền. Điều quan trọng là khen thưởng phải có tác dụng cổ

vũ, động viên những thành viên trong tập thể mong muốn noi theo.

b. Phương pháp trách phạt

Trách phạt là phương pháp giáo dục thể hiện thái độ nghiêm khắc của

nhà giáo dục đối với những hành vi sai trái của người được giáo dục, tạo cơ

hội cho người được giáo dục nhận thấy lỗi lầm về hành vi sai trái của mình,

hối hận và quyết tâm không tái phạm nữa. Tác dụng của trách phạt, của kỉ

luật là làm nảy sinh ở học sinh tâm trạng xấu hổ, sự ân hận trước tập thể và

nhà giáo dục về hành vi của mình. Để có tác dụng đó, trách phạt cần có sư

đồng tình của tập thể. Sự trách phạt và thi hành kí luật phải gắn liền với việc

làm cho học sinh tự ý thức được tác hại của những hành vi xấu. Chừng nào

học sinh chưa hiểu, chưa nhận rõ sự sai trái của mình thì trách phạt cũng

chưa phát huy được hết tác dụng đối với học sinh đó. Thái độ nghiêm khắc

của nhà giáo dục và tập thể có vị trí đặc biệt quan trọng đối với phương pháp

trách phạt. Sự không tán thành, phủ nhận, chê trách, lên án hay trừng phạt

đối với những thái độ, hành vi trái với chuẩn mực xã hồi sẽ làm cho người

mắc lỗi nhận ra khuyết điểm của mình, nhờ đó giúp họ thêm ý chí, nghị lực

chống lại sự cám dỗ, ức chế những hành vi tương tự.

Trách phạt cần mang tính giáo dục, đảm bảo sự công bằng, công khai

và tôn trọng nhân cách của người được giáo dục. Khi trách phạt cần phải biết

Page 86: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

rõ tình huống phạm lỗi của học sinh, nhất là phải biết được động cơ phạm lỗi

để từ đó lựa chọn nội dung và hình thức trách phạt cho phù hợp.

Trong thực tiễn giáo dục, phương pháp trách phạt thường được thực

hiện ở nhiều hình thức nhau tùy theo mức độ sai phạm về phẩm chất đạo

đức, lối sống, hành vi ứng xử,… nhà giáo dục có thể đưa ra các hình thức từ

nhẹ đến nặng như: nhắc nhở, phê bình, cảnh cáo, các hình thức kỉ luật như

khắc phục những thiệt hại do hành vi sai trái gây ra, buộc thôi học... Tuy

nhiên, việc lựa chọn những hình thức và mức độ trách phạt cần dựa trên các

nguyên tắc giáo dục, đặc biệt là nguyên tắc tôn trọng và yêu cầu cao đối với

người mắc khuyết điểm. Nguyên tắc này đòi hỏi tuyệt đối không đánh đập hay

xúc phạm đến lòng tự trọng và nhân phẩm của người mắc lỗi, giữ được quan

hệ thầy - trò, quan hệ cá nhân - tập thể tốt đẹp ngay cả trong trường hợp học

sinh mắc sai lầm, khuyết điểm và bị thi hành kỉ luật. Sự trách phạt của tập thể

và nhà giáo dục phải nghiêm khắc nhưng với thái độ chân thành, mong muốn

giúp đỡ, giáo dục để học sinh sửa chữa những sai lầm, đồng thời trách phạt

cũng cần phải khách quan, công bằng tạo được sự đồng tình của dư luận tập

thể học sinh.

III. LỰA CHỌN CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC Lựa chọn và sử dụng phương pháp giáo dục có hiệu quả vừa là khoa

học, vừa là nghệ thuật của nhà giáo dục, khi lựa chọn phương pháp giáo dục

cần căn cứ vào những yếu tố sau:

Khi lựa chọn một phương pháp giáo dục cần tính đến các mối quan hệ

của nó với tất cả các phương pháp và biện pháp khác được sử dụng trước và

sau đó, tính đến những phương tiện và các điều kiện tiến hành các hoạt động

giáo dục bởi vì các phương pháp giáo dục có mối quan hệ mật thiết với nhau,

tạo thành một tổng thể thống nhất hướng vào việc hình thành những phẩm

chất nhân cách toàn diện cho học sinh. Sử dụng một phương pháp giáo dục

sẽ làm cho quá trình giáo dục không toàn diện và ảnh hưởng đến chất lượng

và hiệu quả của quá trình này. Thực hiện tốt một phương pháp này là điều

Page 87: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

kiện để thực hiện tốt một phương pháp tiếp theo và ngược lại. Không có một

phương pháp nào lại được coi là tốt khi nó tách rời khỏi hệ thống các phương

pháp giáo dục. Mỗi nhóm phương pháp và mỗi phương pháp giáo dục đều có

chức năng và những ưu điểm, hạn chế nhất định trong việc tác động đến việc

hình thành nhân cách. Không có phương pháp giáo dục nào được coi là tối

ưu trong mọi trường hợp. Nhà giáo dục cần tính đến những điều kiện thực

tiễn để lựa chọn và sử dụng phối hợp tất cả các phương pháp giáo dục một

cách hợp lí.

Phương pháp chịu sự quy định của mục tiêu và là phương tiện để thực

hiện mục tiêu, do đó khi lựa chọn và sử dụng phương pháp cần căn cứ vào

mục tiêu, nội dung giáo dục cụ thể. Chẳng hạn, nếu giáo dục ý thức nhân

cách nên tập trung vào các phương pháp thuyết phục, giáo dục thói quen

hành vi tập trung vào các phương pháp tổ chức hoạt động thực tiễn. Nội dung

giáo dục cũng góp phần quy định phương pháp giáo dục. Việc giáo dục đạo

đức khác với việc giáo dục thể dục vệ sinh và khác với giáo dục lao động

hướng nghiệp... Vì thế, người giáo viên cần dựa vào các nội dung giáo dục

mà xác định phương pháp giáo dục cho thích hợp.

Việc lựa chọn và sử dụng phương pháp phụ thuộc chủ yếu vào nhà

giáo dục, bởi lẽ họ là người quyết định sử dụng phương pháp giáo dục nào

trong những tình huống cụ thể. Tuy nhiên, muốn sử dụng phương pháp có

hiệu quả, nhà giáo dục cần căn cứ vào trình độ và khả năng thực hiện của

nhà giáo dục và người được giáo dục.

Muốn thành công trong lựa chọn và sử đụng phương pháp giáo đục,

nhà giáo dục cần tính đến tất cả các yếu tố trên.

CÂU HỎI ÔN TẬP, THẢO LUẬN1. Định nghĩa phương pháp giáo dục. Mối quan hệ giữa phương pháp

giáo dục với các thành tố khác của quá trình giáo dục?

Page 88: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

2. Nêu những đặc điểm chính của phương pháp giáo dục trong nhà

trường?

3. Phân tích những cơ sở của việc phân loại các phương pháp giáo

dục?

4. Nêu những điểm chủ yếu của nhóm phương pháp thuyết phục?

5. Nêu những điểm chủ yếu của nhóm phương pháp tổ chức hoạt động

thực tiễn hình thành hành vi thói quen?

6. Nêu những điểm chủ yếu của nhóm phương pháp kích thích hoạt

động và điều chỉnh hành vi ứng xử của người được giáo dục.

7. Hãy phân tích những yêu cầu khi thực hiện khen thưởng và trách

phạt đối với học sinh.

8. Phân tích những cơ sở khoa học của việc lựa chọn và sử dụng

những phương pháp giáo dục?

9. Tại sao trong quá trình giáo dục lại phải sử dụng phối hợp các

phương pháp giáo dục?

BÀI TẬP

1. Hãy xây dựng dàn ý nội dung cuộc đàm thoại với học sinh của bạn

về một chủ đề giáo dục cụ thể (Chẳng hạn, vấn đề vệ sinh môi trường; đi học

đúng giờ; giúp đỡ những người nghèo, người cô đơn, tàn tật. v.v...).

2. Hãy xây dựng dàn ý nội dung bài thuyết trình với học sinh lớp mình

chủ nhiệm về chủ đề: vệ sinh môi trường.

Chương 16: MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤCCon người vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một thực thể xã hội.

Cuộc sống của con người chịu sự chi phối bởi môi trường tự nhiên và xã hội

mà con người sống trong đó. Gia đình, nhà trường, xã hội là ba môi trường

Page 89: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

liên kết, gắn bó chặt chẽ với nhau trong quá trình hình thành và phát triển của

mỗi cá nhân.

I. GIÁO DỤC GIA ĐÌNH1. Ý nghĩa của giáo dục gia đình

Gia đình là một đơn vị xã hội (nhóm nhỏ xã hội), hình thức tổ chức

quan trọng nhất của sinh hoạt cá nhân, dựa trên hôn nhân và quan hệ huyết

thống, tức là quan hệ giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị

em và những người thân khác cùng chung sống và có kinh tế chung (theo Từ

điển triết học, NXB Văn hoá Thông tin, HN, 2002).

Gia đình là môi trường cơ sở, đầu tiên có vị trí quan trọng và ý nghĩa

lớn lao đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Đó là môi trường

gắn bó trong suốt cuộc đời của mỗi một cá nhân. Gia đình là nơi tạo ra mối

quan hệ gắn bó ruột thịt, huyết thống - một thứ tình cảm khó có thể chia cắt.

Do đó, có phải trải qua bao biến động về mọi phương diện, con người vẫn

luôn hướng về quê hương, gia đình.

Cha mẹ là người thẩy giáo, là nhà sư phạm đầu tiên giáo dục cho con

cái mình những phẩm chất nhân cách cơ bản (gốc) làm nền tảng cho quá

trình phát triển toàn diện về đạo đức, trí lực, thể lực, thẩm mĩ, lao động theo

các yêu cầu của xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

đòi hỏi ngành giáo dục, trong đó có giáo dục gia đình đào tạo cho xã hội

những công dân có phẩm chất chính trị, đạo đức, tri thức, kĩ năng thực hành

nghề, khả năng thích ứng với những thay đổi về mặt công nghệ và quản lí, tài

giỏi trong các lĩnh vực chuyên môn như: chính trị, kinh tế, quản lí, thể thao,

văn hoá, v.v...; những lĩnh vực mà xã hội rất cần nhân tài

Do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nên số đông gia đình

không thể trực tiếp giáo dục con cái phát triển về mọi mặt: tri thức, văn hoá, kĩ

thuật, nghề nghiệp của xã hội hiện đại hoặc ngoại ngữ hay nghệ thuật v.v...

Để thực hiện những điều đó đã có những cơ quan tổ chức chuyên môn.

Page 90: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Song, giáo dục cho trẻ về mặt đạo đức, thói quen lao động chân tay và trí óc

phù hợp với khả năng của mình để tồn tại và phát triển trong xã hội hiện đại

thì các bậc cha mẹ giữ vai trò quan trọng. Nhà giáo dục kiệt xuất C Đ Usinxki

đã khẳng định: "Lao động tự giác là liều thần dược của quá trình phát triển

nhân cách". Đạo đức và lao động những phẩm chất cốt lõi của nhân cách.

Người có đạo đức cũng là người yêu quý, tích cực lao động chân tay và trí

óc, làm giàu một cách chân chính cho gia đình và cho xã hội.

Giáo dục gia đình có những mặt mạnh, tích cực là mang tính xúc cảm

cao, gắn bó với quan hệ ruột thịt, máu mủ nên có khả năng cảm hoá rất lớn.

Giáo dục gia đình cũng mang tính cá biệt rõ rệt dựa trên cơ sở huyết thống,

yêu thương sâu sắc, lâu dài, bền vững và cũng rất linh hoạt, thiết thực trên cơ

sở nhu cầu hứng thú của cá nhân. Mặc dù vậy, giáo dục gia đình không thể

thay thế hoàn toàn giáo dục của nhà trường.

2. Đặc điểm của giáo dục gia đình hiện nay

Đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng mạnh mẽ

đến toàn bộ đời sống vật chất, tinh thần của gia đình.

Quy mô gia đình nhỏ - ít thế hệ, ít nhân khẩu (gia đình hạt nhân) ngày

càng phổ biến, tạo nên nếp sống năng động, linh hoạt so với gia đình truyền

thống đông người nhiều thế hệ (tam, tứ đại đồng đường) sống chung với

nhau trong một mái nhà.

Ảnh hưởng của văn hoá ngoại lai và quy luật cạnh tranh cũng làm phát

triển nhanh chóng, mạnh mẽ những tệ nạn xã hội như tham nhũng, mại dâm,

nghiện hút, bạo lực v.v... tạo ra những thách thức và những khó khăn trong

việc lựa chọn các giá trị chân, thiện, mĩ trong giáo dục gia đình hiện nay.

Các hiện tượng gây mất ổn định đối với đời sống gia đình như li hôn, có

người nghiện hút, kinh doanh thua lỗ, phá sản, nợ nần, bị tù tội, bị lây nhiễm

căn bệnh thế kỉ HIV... đang có nguy cơ gia tăng.. cũng gây khó khăn cho công

tác giáo dục gia đình.

Page 91: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Tình trạng thiếu việc làm, đời sống chênh lệch giữa nông thôn và thành

thị khiến một bộ phận thanh thiếu niên ở nông thôn bỏ gia đình ra thành phố

lang thang kiếm sống... cũng tạo nên những hoàn cảnh bất lợi khiến các em

dễ sa vào các tệ nạn xã hội.

Nền sản xuất công nghiệp làm cho mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái

trong gia đình ngày càng lỏng lẻo. Nhiều bậc cha mẹ đã phải gửi con vào nhà

trẻ từ lúc 3 hay 4 tháng tuổi; hình thức nội trú, bán trú ở lứa tuổi mầm non,

tiểu học v.v... trở nên phổ biến. Thời gian tiếp xúc với con cái của các bậc cha

mẹ ngày càng ít ỏi.

Giáo dục gia đình chịu ảnh hưởng khá lớn của điều kiện kinh tế, tiện

nghi, nếp sống văn hoá, nghề nghiệp... của cha mẹ. Đặc biệt là mối quan hệ

gần gũi, gắn bó giữa cha mẹ và con cái.

Nhờ thấu hiểu tính cách, sức khỏe của con cái mà các bậc cha mẹ tìm

kiếm, lựa chọn được biện pháp phù hợp để giải quyết có hiệu quả các tình

huống giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi đối với việc hình thành và phát triển

những phẩm chất nhân cách tốt đẹp của trẻ.

3. Một số sai lầm thường gặp trong giáo dục gia đình

Nhà văn, nhà giáo dục J. J. Rút-xô đã khẳng định: "trẻ em không phải là

người lớn thu nhỏ lại", tức trẻ em có một đời sống tâm lí đặc trưng thể hiện

trong nhu cầu, hứng thú, suy nghĩ, hành vi của chúng. Do từng sống trong

những môi trường, hoàn cảnh giáo dục đầu tiên khác biệt mà nhiều bậc cha

mẹ thường có kì vọng truyền thụ, áp đặt kinh nghiệm, phương pháp giáo dục

mà mình được hưởng cho con em, điều này là không hợp lí bởi lẽ mỗi thời

đại đều có những phương thức giáo dục đặc thù. Cha mẹ cần tôn trọng quyền

được làm trẻ em và những nhu cầu vật chất, tinh thần hợp lí của trẻ trong xã

hội ngày nay.

Chiều chuộng, yêu thương con là một bản tính tự nhiên của cha mẹ, là

nguồn vui, hạnh phúc của gia đình. Nhưng không nên nuông chiều quá mức,

Page 92: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

tức là đáp ứng, thoả mãn mọi nhu cầu của trẻ dẫn đến việc hình thành những

thói xấu như vị kỉ, ỷ lại, kiêu ngạo, đua đòi...

Thường xuyên đánh mắng thô bạo sẽ làm cho quan hệ giữa bố mẹ và

con cái không có sự gần gũi, tạo nên sự cách biệt vì sợ hãi. Trẻ em sẽ tránh

những trận đánh mắng thô bạo khi biết mình phạm khuyết điểm bằng cách nói

dối hoặc ngoan cố một cách có ý thức. Mặt khác, thường xuyên đánh mắng

thô bạo làm cho trẻ bi quan, chán đời, muốn rời bỏ tổ ấm gia đình, thậm chí

quyên sinh. A. X. Macarencô đã tổng kết: "Từ những đứa trẻ bị đánh đập,

cấm đoán sẽ sinh ra con người bạc nhược, vô tích sự hoặc độc đoán, suốt

đời sẽ trả thù cho tuổi thơ bị dồn nén của mình".

Thả nổi tự do là sai lầm khá phổ biến đối với các bậc cha mẹ bận rộn

với công việc, không còn thời gian quan tâm và giáo dục con cái, phó thác

cho nhà trường hoặc người trông trẻ. Tác hại đầu tiên là không theo dõi được

khả năng phát triển trí lực của con cái để có biện pháp chấn chỉnh kịp thời, dễ

dẫn đến việc trẻ học yếu, từ đó chán học. Tác hại thứ hai là trẻ dễ có điều

kiện nhiễm các thói quen xấu mà bố mẹ không biết để ngăn chặn kịp thời.

Nóng lạnh thất thường, kì vọng quá cao thể hiện thái độ và cách cư xử

của cha mẹ với con cái, lúc thì vỗ về chiều chuộng hết mức, lúc thì đánh

mắng thô bạo tuỳ theo tâm trạng buồn vui của họ chứ không phải theo

phương pháp giáo dục phù hợp với các tình huống cụ thể, vì vậy không đạt

được kết quả mong muốn. Trong giáo dục gia đình, cha mẹ không nên đặt kì

vọng quá cao vào con cái, mong muốn thúc bách chúng trở thành tài, có thu

nhập cao... mà không tính đến năng lực thực sự của chúng. Kết quả là trẻ

không đánh giá được mình, một bộ phận trẻ thất bại và mất niềm tin vào cha

mẹ.

4. Một số nguyên tắc trong việc xây dựng môi trường giáo dục gia đình

a. Tạo không khí gia đình êm ấm, hoà thuận

Gia đình là môi trường sống đầu tiên, gần gửi, gắn bó suốt cuộc đời

của mọi thành viên nên nó có ảnh hưởng vô cùng lớn lao, sâu sắc đến toàn

Page 93: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

bộ đời sống tâm lí, đạo đức, xu hướng phát triển v.v... của cá nhân. Không

khí gia đình được hình thành và phát triển tuỳ thuộc vào quan hệ, uy tín của

bố mẹ. Không khí gia đình êm ấm, hoà thuận sẽ tạo nên nếp sống trật tự, kỉ

cương, mọi thành viên tôn trọng, quý mến, yêu thương, tin tưởng lẫn nhau.

Môi trường giáo dục gia đình được thể hiện qua cách con người lao

động, học tập, sinh hoạt v.v...

b. Nghiêm khắc và khoan dung độ lượng

Nghiêm khắc thể hiện trước hết bằng chính bản thân bố mẹ, bằng sự

mẫu mực trong lời nói và việc làm với tư cách là người công dân chân chính,

là người chủ gia đình; từ đó cha mẹ mới có thể nêu yêu cầu, đòi hỏi đối với

mọi hành vi hoạt động của con cái. Khoan dung, độ lượng thể hiện sự tôn

trọng, tin tưởng yêu thương của bố mẹ với con cái, không phải là quá dễ dãi,

nuông chiều mặc trẻ tự do hành động. Nghiêm khắc kết hợp với khoan dung

độ lượng sẽ giúp cho các bậc cha mẹ tìm được giải pháp phù hợp đối với các

tình huống trong giáo dục gia đình.

c. Thống nhất mục đích giáo dục theo mô hình lí tưởng xã hội

Giáo dục trẻ ở trong gia đình chỉ đạt kết quả tốt đẹp nếu như tất cả mọi

thành viên trong gia đình (ông bà, bố mẹ, người lớn v.v...) đều tác động theo

định hướng thống nhất vào một mục đích chung nhằm hình thành và phát

triển ở trẻ những phẩm chất, năng lực, thói quen, hành vi chuẩn mực của

người công dân chân chính theo yêu cầu của xã hội. Trong quá trình phát

triển nhân cách, đứa trẻ sẽ vô cùng khó khăn lựa chọn nếu như trong gia đình

không có sự tác động thống nhất vào những yếu tố cơ bản, phù hợp với mô

hình nhân cách mà xã hội đang yêu cầu

d. Uy quyền của bố mẹ trong giáo dục gia đình

Cơ sở chính để xây dựng uy quyền thật sự của bố mẹ chỉ có thể nằm

ngay trong cuộc sống lao động, học tập, trong đạo đức vai trò, trách nhiệm

của người công dân của họ làm cho con cái phải kính phục, học tập. Đối với

con cái, uy quyền thực sự của bố mẹ có ý nghĩa to lớn, tích cực, bền vững đối

Page 94: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

với quá trình hình thành và phát triển nhân cách tốt đẹp của chúng. Còn các

loại uy quyền giả tạo dựa vào sự đàn áp, mua chuộc, thuyết lí v.v. chỉ tạo ra

sự đối phó, không đem lại kết quả bền vững, lâu dài.

e. Tôn trọng nhân cách của trẻ

Ngày nay các quốc gia trên thế giới đã kí Công ước quốc tế về Quyền

trẻ em... Thực hiện "Quyền trẻ em" là thể hiện sự tôn trọng nhân cách của trẻ,

coi trẻ như một công dân nhỏ tuổi trong xã hội văn minh. Do đó, giáo dục gia

đình cũng cần tránh các phương pháp bạo lực như đánh đập, mắng mỏ, thoá

mạ, cưỡng bức v.v... thủ tiêu những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng cần có

do đặc điểm lứa tuổi của các em đòi hỏi.

g. Tổ chức môi trường cho trẻ hoạt động

Giáo dục gia đình sẽ không có ý nghĩa và tác dụng nếu chỉ tập trung

vào các phương pháp giải thích, diễn giảng, đối thoại, đàm thoại, nêu gương

v.v... điều quan trọng là các bậc cha mẹ phải tổ chức môi trường cho trẻ được

hoạt động và giao lưu. Hoạt động - giao lưu là con đường cơ bản để hình

thành và phát triển nhân cách. Theo một ý nghĩa nào đó, trong hoạt động đã

có giao lưu, muốn giao lưu cần phải hoạt động. Các bậc cha mẹ nên tổ chức

môi trường, không khí hoạt động lao động trong sinh hoạt hàng ngày của gia

đình từ những hình thức đơn giản như quét dọn nhà cửa, chăm sóc vườn

hoa, cây cảnh, chuẩn bị bữa ăn hằng ngày đến những hình thức lao động

phức tạp hơn… Như hoạt động học tập, nghỉ ngơi, giải trí, thể dục thể thao

v.v… Chính trong quá trình tham gia vào các hoạt động đó, cá nhân sẽ bộc lộ

năng lực, ý chí, tình cảm, hứng thú, tính nết… Thông qua các mối quan hệ cá

nhân tự nhận biết được những tồn tại nhược điểm để rèn luyện, học tập và

ngày càng hoàn thiện bản thân hơn.

Mọi hoạt động dù đơn giản nhưng các bậc cha mẹ cũng cần hướng

dẫn cẩn thận, nêu rõ lợi ích trước mắt, lâu dài trong đời sống con người. Ở

mức độ cao hơn các bậc cha mẹ nên và cần chú ý tổ chức môi trường giáo

dục gia đình sao cho hợp lý nhằm đưa các em vào các hoạt động phát triển

cả đức, trí, thể, mỹ, lao động… phù hợp với lứa tuổi

Page 95: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

II. GIÁO DỤC NHÀ TRƯỜNGGiáo dục nhà trường là hoạt động giáo dục trong các trường lớp thuộc

hệ thống giáo dục quốc dân theo mục đích, nội dung, phương pháp có chọn

lọc trên cơ sở khoa học và thực tiễn nhất định. Giáo dục nhà trường được

tiến hành có tổ chức, luôn luôn tác động trực tiếp và có hệ thống đến sự hình

thành và phát triển toàn diện của nhân cách. Thông qua giáo dục nhà trường,

mỗi cá nhân được bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức, kiến thức khoa học, kỹ

năng thực hành cần thiết, tương ứng với yêu cầu của các bậc học, cấp học

phù hợp với trình độ phát triển của xã hội trong từng giai đoạn.

So với gia đình, nhà trường là một môi trường giáo dục rộng lớn hơn,

phong phú, hấp dẫn hơn đối với thế hệ trẻ. Trong nhà trường trẻ được giao

lưu với bạn bè cùng lứa tuổi ở địa phương, cộng đồng, được tham gia vào

nhiều hoạt động mang tính xã hội, giúp cho quá trình xã hội hoá cá nhân

phong phú, toàn diện hơn.

Nhà trường là một thiết chế xã hội chuyên biệt thực hiện chức năng cơ

bản là tái sản xuất sức lao động, phát triển nhân cách theo hướng duy trì,

phát triển xã hội. Nhà trường có chức năng hình thành và phát triển nhân

cách thế hệ trẻ thông qua hoạt động dạy học, giáo dục. Tri thức trong nhà

trường là những kinh nghiệm của nhân loại đã được chọn lọc và tích luỹ. Nhà

trường là tổ chức chuyên biệt có chức năng truyền thụ toàn bộ kinh nghiệm

lịch sử của nhân loại cho thế hệ trẻ phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi

nhằm hình thành và phát triển mô hình nhân cách lí tưởng của xã hội đặt ra.

Giáo dục nhà trường có sự thống nhất về mục đích, mục tiêu cụ thể,

được thực hiện bởi đội ngũ các nhà sư phạm được đào tạo và bồi dưỡng chu

đáo; tiến hành giáo dục theo một chương trình, nội dung, phương pháp sư

phạm nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhân cách toàn diện,

hướng tới sự thành đạt của con người.

Page 96: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Ngày nay giáo dục nhà trường luôn gắn liền với môi trường sống và

môi trường tự nhiên, với các cơ sở sản xuất nhằm phát huy nội lực, lôi cuốn

sự tham gia của các lực lượng xã hội vào giáo dục học đường, mặt khác giúp

cho nội dung giáo dục gắn với đời sống sản xuất xã hội. Nhà trường có chức

năng chuyển giao văn hóa giúp cho mỗi học sinh hòa nhập với cộng đồng và

trở thành tác nhân chuyển giao nền văn hóa cho thế hệ sau, nhằm duy trì bản

sắc văn hóa của dân tộc. Ngày nay, mỗi cá nhân không chỉ tiếp thu tri thức từ

nhà trường mà còn tiếp nhận thông tin qua các kênh như sách báo, mạng

Internet...

Giáo dục nhà trường phải kết hợp chặt chẽ với giáo dục gia đình và xã

hội thì mới đạt được mục tiêu chung về giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ. Điều

quan trọng nhất là phải có sự thống nhất về định hướng giáo dục giữa nhà

trường, gia đình và xã hội.

III. GIÁO DỤC XÃ HỘIGiáo dục xã hội là hoạt động của các tổ chức, các nhóm xã hội có chức

năng giáo dục theo quy định của pháp luật hoặc các chương trình giáo dục

trên các phương tiện thông tin đại chúng. Giáo dục xã hội tác động đến quá

trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ thường qua hai hình thức tự

phát và tự giác. Những ảnh hưởng tự phát bao gồm các yếu tố tích cực và

tiêu cực của đời sống xã hội vô cùng phức tạp do cá nhân tự lựa chọn theo

nhu cầu, hứng thú, trình độ tự giáo dục của mình. Những ảnh hưởng tự giác

là những tổ hợp tác động trực tiếp hay gián tiếp có hướng đích, có nội dung,

phương pháp bằng nhiều hình thức của các tổ chức, cơ quan, đoàn thể xã

hội: như y tế, thể thao, nghệ thuật, Hội người cao tuổi, Hội cựu chiến binh,

Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội phụ nữ v v. đến quá trình hình

thành và phát triển nhân cách của trẻ. Môi trường xã hội có ảnh hưởng rất

mạnh mẽ đến cuộc sống của mọi cá nhân.

Đối với thanh thiếu niên, học sinh thì tổ chức Đoàn thanh niên Cộng

sản Hồ Chí Minh và Đội Thiếu niên Tiền phong ở trong nhà trường và địa

Page 97: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

phương là tổ chức thu hút các em thường xuyên sinh hoạt nhằm thoả mãn

các nhu cầu, hứng thú theo đặc điểm của lứa tuổi. Đó cũng là các tổ chức

giúp các em hoạt động - giao lưu, vui chơi, giải trí nhằm thực hiện chức năng

giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, nhân sinh quan cho thế hệ công dân

tương lai theo yêu cầu phát triển của xã hội.

Môi trường giáo dục xã hội hiện đại không còn hạn chế trong một địa

phương hay trong một quốc gia mà đã mở rộng ra toàn thế giới nhờ các

phương tiện thông tin. Trong môi trường xã hội, mỗi nhóm, mỗi tổ chức, mỗi

quốc gia đều có những mục đích, yêu cầu, nội dung, phương thức tiến hành

giáo dục riêng biệt.. Đây là vấn đề phức tạp của môi trường xã hội, nhà nước

cần có những chủ trương, chính sách phù hợp nhằm tập hợp quản lí các chủ

thể, phương tiện tham gia giáo dục xã hội hoạt động theo những định hướng

lành mạnh, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam

Giáo dục của xã hội phải kết hợp chặt chẽ với giáo dục gia đình và nhà

trường, góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo con người theo định hướng của

Đảng và Nhà nước. Để phát huy tính tích cực của giáo dục xã hội, các tổ

chức, cơ quan đoàn thể xã hội trước hết phải thực hiện chức năng cơ bản,

chủ yếu của mình, góp phần làm cho môi trường xã hội trong sạch, đời sống

văn hoá vật chất, tinh thần phong phú, lành mạnh, hạn chế tác động tiêu cực

đến đời sống của mỗi cá nhân, nhất là đối với thế hệ trẻ.

IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHỐI HỢP GIÁO DỤC GIỮA CÁC MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC1. Nội dung phối hợp

Việc liên kết, phối hợp giữa môi trường giáo dục gia đình, nhà trường

và các tổ chức xã hội nhằm thực hiện mục đích phát triển nhân cách công

dân được coi là một nguyên tắc quan trọng. Việc liên kết, phối hợp chặt chẽ

giữa ba môi trường giáo dục nhằm đảm bảo sự thống nhất về nhận thức cũng

như cách thức hành động để hiện thực hoá mục tiêu quá trình phát triển nhân

cách, tránh sự tách rời, mâu thuẫn, vô hiệu hoá lẫn nhau; gây nên tâm trạng

Page 98: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

nghi ngờ, hoang mang, dao động đối với cá nhân trong việc lựa chọn, tiếp thu

các giá trị tốt đẹp.

Gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội liên kết, phối hợp thống

nhất mục đích, mục tiêu giáo dục thể hiện ở những nội dung cơ bản nhằm

phát triển toàn diện các mặt đức, trí, thể mĩ, lao động v.v... mỗi môi trường

đều có một ưu thế trong việc thực hiện các nội dung giáo dục. Gia đình có ưu

thế đối với việc giáo dục định hướng nghề nghiệp, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo,

thói quen lao động chân tay, quan hệ ứng xử...; nhà trường có ưu thế trong

việc giáo dục toàn diện, đặc biệt là tri thức văn hoá, các chuẩn mực đạo đức,

ý thức công dân v.v... bằng các phương pháp, phương tiện hiện đại nhằm

thúc đẩy nhanh quá trình phát triển nhân cách; các đoàn thể xã hội bằng các

hình thức tổ chức hoạt động xã hội ngoài giờ lên lớp giúp các em mở rộng

kiến thức, gắn tri thức với thực tiễn, chủ trương, chính sách chung của Nhà

nước, của địa phương về các lĩnh vực trong đời sống xã hội.

Việc liên kết, phối hợp các môi trường giáo dục gia đình, nhà trường và

các tổ chức xã hội diễn ra dưới nhiều hình thức. Vấn đề cơ bản, quan trọng

hàng đầu là các lực lượng giáo dục đó phải phát huy tinh thần trách nhiệm,

chủ động tìm ra các hình thức, giải pháp, tạo ra mối liên kết, phối hợp vì mục

đích giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ thành những công dân hữu ích của đất

nước. Do đó, không thể coi đây là trách nhiệm riêng của lực lượng nào. Tuy

nhiên gia đình và nhà trường có trọng trách lớn hơn, bởi vì trẻ em là con cái

của gia đình, là học sinh của nhà trường trước khi trở thành công dân xã hội.

Liên kết, phối hợp giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội nhằm

thực hiện những nội dung chủ yếu sau:

- Thống nhất mục đích, kế hoạch chăm sóc, giáo dục học sinh của tập

thể sư phạm nhà trường với phụ huynh, với các đoàn thể, cơ sở sản xuất,

các cơ quan văn hoá - giáo dục ngoài nhà trường.

- Theo dõi, đánh giá kết quả quá trình giáo dục học sinh trong nhà

trường và ở địa phương nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả giáo dục.

Page 99: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

- Gia đình phải tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển toàn diện về

đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ cho trẻ em; người lớn có trách nhiệm giáo

dục, làm gương cho con em, cùng nhà trường nâng cao chất lượng, hiệu quả

giáo dục.

- Đẩy mạnh sự nghiệp xã hội hoá giáo dục, tạo động lực mạnh mẽ cũng

như điều kiện thuận lợi cho hệ thống nhà trường thực hiện tốt mục tiêu giáo

dục đào tạo ở tất cả các cấp học.

2. Những yêu cầu để thực hiện tốt việc phối hợp

a. Đối với gia đình

- Hoạt động tích cực trong tổ chức hội phụ huynh nhà trường nhằm góp

phần xây dựng cơ sở vật chất, tinh thần, thực hiện sự nghiệp xã hội hoá giáo

dục, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà trường nâng cao chất lượng giáo dưỡng

và giáo dục. Những cuộc họp phụ huynh học sinh được tổ chức theo khối,

theo lớp do giáo viên chủ nhiệm hoặc ban liên lạc phụ huynh tổ chức đầu

năm học hoặc từng học kì v.v... yêu cầu các bậc cha mẹ cần đi đầy đủ để

nắm vững mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp giáo dục học sinh, tạo

sự thống nhất giữa nhà trường với gia đình.

- Duy trì thường xuyên, đều đặn mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình

bằng sổ liên lạc, phiếu đánh giá, điện thoại để gia đình biết được kết quả học

tập, rèn luyện và những ưu - nhược điểm của con em mình. Ngược lại nhà

trường cũng nắm bắt được tình hình học tập, sinh hoạt của học sinh ngoài

giờ lên lớp. Tất cả những nhận xét, đánh giá về phía nhà trường cũng như

gia đình cần chính xác, thận trọng, nhấn mạnh đến ưu điểm, tiến bộ là chủ

yếu, không nên chỉ tập trung nhấn mạnh vào những nhược điểm, yếu kém.

Nếu trẻ có những sai phạm nghiêm trọng thì các bậc cha mẹ và nhà trường

cần gặp nhau trực tiếp nhằm tìm đúng nguyên nhân và các biện pháp giáo

dục phù hợp. Cha mẹ không nên che giấu những nhược điểm của con cái

trong học tập, sinh hoạt ở gia đình, địa phương đối với nhà trường, dẫn đến

những hiện tượng một số em ở trường được khen thưởng là học sinh giỏi,

tiên tiến nhưng ở địa phương và gia đình còn yếu kém về nhiều mặt. Gia đình

Page 100: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

cũng phát huy truyền thống "Tôn sư trọng đạo" bảo vệ uy tín, danh dự cho

thầy cô giáo, tránh những lời nói, thái độ, hành vi coi thường thầy cô giáo

trước mặt các em.

- Vì mục đích giáo dục nên các bậc cha mẹ cần mạnh dạn thẳng thắn

liên lạc, phối hợp với các cơ quan, đoàn thể, tổ chức ở mỗi phương, kể cả

những cơ quan bảo vệ pháp luật như công an, chính quyền địa phương nếu

thấy cần thiết để uốn nắn, ngăn chặn kịp thời những biểu hiện xấu, lệch lạc có

thể phát triển đối với con em mình.

b. Đối với nhà trường

Cần phát huy vai trò trung tâm trong việc liên lạc, phối hợp giáo dục;

nhà trường chủ động phổ biến nội dung, mục đích giáo dục đến các tổ chức

xã hội của địa phương như Đoàn Thanh niên, hội Phụ nữ, v.v... nhằm định

hướng tác động thống nhất đối với quá trình hình thành và phát triển nhân

cách của trẻ.

Thực hiện vai trò là trung tâm văn hoá, giáo dục của địa phương, nhà

trường cần tổ chức tuyên truyền, phổ biến các tri thức khoa học kĩ thuật, công

nghệ, văn hoá, xã hội v.v... những kiến thức về phương pháp, biện pháp giáo

dục, có hiệu quả, tránh được những sai lầm, lệch lạc đối với quá trình phát

triển nhân cách của trẻ, đặc biệt trong cơ chế thị trường có không ít những

tác động xấu ảnh hưởng đến thế hệ trẻ.

Nhà trường cần phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức cho các

em tham gia tích cực vào các hoạt động văn hoá, xã hội như: bảo vệ môi

trường, đền ơn đáp nghĩa, bài trừ ma tuý, dân số - kế hoạch hoá gia đình

v.v... nhằm góp phần cải tạo môi trường ngày càng tốt đẹp, lành mạnh đối với

quá trình hình thành, phát triển nhân cách của trẻ.

Giúp địa phương theo dõi, đánh giá kết quả của quá trình giáo dục

thanh thiếu niên, phân tích nguyên nhân, đề xuất các biện pháp nhằm nâng

cao hiệu quả của sự liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa các môi trường và khai

thác vai trò, ưu thế đặc biệt của giáo dục gia đình.

Page 101: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Xây dựng, củng cố hội phụ huynh học sinh, ban giáo dục địa phương

tạo nên sức mạnh tổng hợp, đồng bộ, hướng vào mục tiêu giáo dục. Thế hệ

trẻ một cách thường xuyên, có tổ chức, có kế hoạch.

c. Với các tổ chức xã hội

- Tiềm năng giáo dục của lực lượng xã hội như các cơ quan đoàn thể,

các hội quần chúng, các cơ sở sản xuất, các đơn vị quân đội v.v... là vô cùng

to lớn, được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực tư tưởng chính trị - đạo đức,

khoa học - kĩ thuật, văn hoá - nghệ thuật, thể dục - thể thao, nghề nghiệp

v.v... dưới hình thức kết nghĩa với nhà trường hoặc đỡ đầu nhà trường về xây

dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật, hoặc giúp các lớp học sinh tham quan, học tập,

giao lưu, tiếp xúc với việc thật, người thật điển hình, gương mẫu trong xã hội

để hoàn thiện cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Nếu nhà trường

dạy tốt mà gia đình ngược lại, sẽ có ảnh hưởng không tốt đến trẻ và kết quả

cũng không tốt. Cho nên muốn giáo dục các cháu thành người tốt, nhà

trường, gia đình, đoàn thể xã hội đều phải kết hợp chặt chẽ với nhau".

Chính quyền các cấp động viên tất cả mọi lực lượng, mọi tầng lớp xây

dựng thực hiện nếp sống văn minh, thực hiện các phong trào "ông bà cha mẹ

mẫu mực, con cháu hiếu thảo", "Gia đình văn hoá", xây dựng "Thôn xóm

không có người nghiện hút" v. v... kiên quyết đẩy lùi, xoá bỏ các tàn dư lạc

hậu, các nguyên nhân gây ra những tệ nạn xã hội. Người lớn cần gương mẫu

trong mọi lĩnh vực của cuộc sống để thế hệ trẻ noi theo.

CÂU HỎI ÔN TẬP, THẢO LUẬN1 Phân tích những khó khăn, thuận lợi của giáo dục gia đình trong xã

hội hiện nay.

2. Trình bày những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng môi trường giáo

dục gia đình.

3. Vì sao việc phối hợp giáo dục giữa ba môi trường: gia đình, nhà

trường và xã hội là một nguyên tắc quan trọng của nền giáo dục XHCN?

Page 102: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

4. Nhà trường có thế mạnh gì so với giáo dục gia đình và ở những nội

dung giáo dục nào?

BÀI TẬP

1 Đánh giá hiện trạng vai trò, trách nhiệm của gia đình nói chung, gia

đình bạn nói riêng trong sự liên kết, phối hợp với nhà trường hoặc đoàn thể

xã hội trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục nhân cách học sinh.

2. Thông qua ý kiến nhận xét trong sổ lên lạc của cha mẹ về một học

sinh chưa cố gắng thực hiện thời gian học tập ở nhà, bạn hãy chuẩn bị nội

dung để trao đổi với gia đình.

3. Lựa chọn một tình huống trong cuốn "Giải pháp tình huống trong giáo

dục gia đình", hãy bàn luận theo suy nghĩ của mình và đặt câu hỏi.

Phần 4: QUẢN LÍ GIÁO DỤC TRONG NHÀ TRƯỜNG

Chương 17: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÍ NHÀ TRƯỜNG

I. QUẢN LÍ NHÀ TRƯỜNG1. Khái niệm

Theo nghĩa chung nhất: Quản lí là sự tác động có tổ chức, có định

hướng của chủ thể quản lí lên đối tượng quản lí nhằm sử dụng có hiệu quả

các tiềm lực, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đã đặt ra trong

điều kiện biến đổi của môi trường.

Quản lí trường học là hoạt động của các cơ quan quản lí giáo dục

nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và các lực

lượng giáo dục khác huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao

chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường.

Page 103: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Từ các định nghĩa trên ta có thể hiểu:

- Quản lí là một hoạt động có mục tiêu, trong đó mục tiêu chất lượng.

Nhà quản lí biết chính xác mục tiêu phải đạt được và tổ chức cho các cá nhân

và tập thể dưới quyền thực hiện công việc đó một cách có chất lượng và hiệu

quả. Ban Giám hiệu nắm vững mục tiêu năm học, huy động mọi tập thể và cá

nhân thực hiện tốt mục tiêu đó.

- Quản lí là tạo ra một môi trường thuận lợi để mọi cá nhân và tập thể

hợp tác với nhau hoàn thành mục tiêu chung. Ban Giám hiệu tổ chức tốt các

hoạt động của Hội đồng giáo dục, các tổ chuyên môn tạo thành một phong

trào thi đua hoàn thành kế hoạch của năm học.

- Quản lí là tận dụng mọi nguồn lực, mọi cơ hội để đạt được mục tiêu

chất lượng. Ban Giám hiệu biết tận dụng các lực lượng giáo dục gia đình, nhà

trường, xã hội, khai thác các nguồn lực: cơ sở vật chất, nguồn tài chính, lực

lượng giáo viên... tập trung phấn đấu cho chất lượng giáo dục.

2. Mục đích của quản lí nhà trường

Mục đích của quản lí nhà trường là nâng cao chất lượng giáo dục và

đào tạo, đưa nhà trường từ trạng thái hiện có tiến lên một trạng thái mới có

chất lượng hơn. Mục đích cuối cùng của quản lí giáo dục là tổ chức quá trình

giáo dục có hiệu quả để đào tạo một lớp thanh niên thông minh, sáng tạo,

năng động, tự chủ, biết sống và phấn đấu vì hạnh phúc của bản thân và xã

hội.

Mục đích quản lí giáo dục còn là xây dựng và phát triển mạnh mẽ các

nguồn lực giáo dục, hướng các nguồn lực đó phục vụ cho việc tăng cường hệ

thống giáo dục và chất lượng giáo dục.

3. Nguyên tắc quản lí trường học

Để đảm bảo sự thành công trong mọi hoạt động của nhà trường, công

tác quản lí phải thực hiện các nguyên tắc sau đây:

Page 104: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

1. Đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng đối với toàn

bộ công tác giáo dục trong nhà trường về: chuyên môn, tư tưởng, chính trị,

đạo đức, văn thể, lao động hướng nghiệp và giáo dục quốc phòng...

2. Đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo các công việc

của nhà trường. Động viên và phối hợp với các tổ chức đoàn thể, các tập thể

giáo viên, cán bộ công nhân viên cùng tham gia vào công tác quản lí nhà

trường. Phát huy vai trò chủ động tích cực của các lực lượng giáo dục đối với

sự nghiệp giáo dục. Đảm bảo sự đoàn kết nhất trí trong tập thể sư phạm.

3. Nguyên tắc quản lí quan trọng nhất là quản lí theo chất lượng. Mỗi

trường học phải có sứ mệnh, mục tiêu và chính sách chất lượng, công bố các

tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng, phải phấn đấu để đạt danh hiệu trường chuẩn

quốc gia.

4. Đảm bảo nguyên tắc tính khoa học trong hoạt động quản lí, đó là áp

dụng kĩ thuật quản lí gồm bốn khâu: kế hoạch hoá, thực hiện, kiểm tra và điều

chỉnh. Mỗi công việc cần có mục tiêu cụ thể, được tổ chức thực hiện chu đáo,

có kiểm tra uốn nắn, điều chỉnh kịp thời.

4. Các cấp quản lí nhà trường

- Cấp quản lí nhà nước cao nhất đối với mọi nhà trường là Bộ Giáo dục

và Đào tạo, bằng hệ thống các văn bản, các quy chế, chế tài tổ chức cho cả

hệ thống giáo dục hoạt động có nền nếp và chất lượng.

- Có hai cấp trung gian quản lí trường học là các sở giáo dục và đào

tạo ở tỉnh và các phòng giáo dục và đào tạo ở các huyện. Các cấp quản lí này

theo dõi các trường học theo kế hoạch năm học và tạo mọi điều kiện tốt nhất

cho các nhà trường hoạt động.

- Cấp quản lí trực tiếp của hoạt động giáo dục trong nhà trường là Ban

giám hiệu mà người đại diện trực tiếp là hiệu trưởng.

5. Các nguồn lực giáo dục

Page 105: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Để thực hiện các hoạt động giáo dục nhà trường phải có đủ các nguồn

lực và các nguồn lực được phát huy tác dụng ở mức tối đa.

Nhân lực giáo dục: Là đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lí và nhân viên

phục vụ của trường học. Đội ngũ này cần đủ về số lượng, mạnh mẽ về chất

lượng, đồng bộ về cơ cấu sẽ tạo nên chất lượng giáo dục trong nhà trường.

+ Bộ phận quan trọng nhất của nhân lực giáo dục chính là đội ngũ giáo

viên, họ cần đạt chuẩn về đào tạo, có năng lực chuyên môn và nghiệp vụ sư

phạm, có phẩm chất tư cách đạo đức và một yêu cầu không kém phần quan

trọng là đủ thành phần cơ cấu theo môn học.

+ Bộ phận thứ hai của nhân lực giáo dục là các nhân viên kĩ thuật phục

vụ trong các phòng thí nghiệm, trung tâm công nghệ dạy học và công nghệ

thông tin, tài chính, giáo vụ phục vụ cho hoạt động giảng dạy và học tập trong

trường.

+ Bộ phận thứ ba là đội ngũ cán bộ quản lí nhà trường, là những người

chịu trách nhiệm chính về tổ chức các hoạt động giáo dục và đảm bảo chất

lượng giáo dục.

Cơ sở vật chất và thiết bị trường học là điều kiện thiết yếu để tổ chức

dạy và học. Phòng học đúng quy cách, môi trường phong quang, sạch sẽ,

trang thiết bị hiện đại phục vụ cho việc học lí thuyết và thực hành tất cả các

bộ môn, thư viện có đủ sách giáo khoa, báo chí và các tài liệu tham khảo...

Cơ sở vật chất đầy đủ là một trường học lí tưởng.

Ngân sách giáo dục là toàn bộ các nguồn thu, chi thoả mãn nhu cầu

hoạt động thường xuyên của quá trình giáo dục và dạy học trong nhà trường.

Ngân sách đầy đủ là một điều kiện thiết yếu cho giáo dục và đào tạo.

Ngân sách giáo dục ở các trường công lập chủ yếu từ nguồn tài chính

từ do Nhà nước cấp và một phần đóng góp của nhân dân.

Ngân sách của các trường ngoài công lập chủ yếu là sự đóng góp của

nhân dân theo các dịch vụ giáo dục.

Page 106: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Các lực lượng giáo dục xã hội quan tâm đến sự nghiệp giáo dục có

biện pháp chủ động phối hợp với nhà trường trong công tác giáo dục và dạy

học, điều này mang một ý nghĩa quan trọng. Lực lượng giáo dục của xã hội

thông nhất với nhà trường về mục tiêu nội dung và phương thức giáo dục, đó

là điều kiện tối ưu để dạy tốt và học tốt.

II. BỘ MÁY QUẢN LÍ TRƯỜNG PHỔ THÔNG 1. Ban Giám hiệu

Ban Giám hiệu gồm từ một đến ba người.

Hiệu trưởng là người phụ trách cao nhất của trường, chịu trách nhiệm

trước Nhà nước, trước nhân dân và trước cấp trên trực tiếp về mọi hoạt động

giáo dục của trường.

Các Phó hiệu trưởng chịu trách nhiệm về phần công tác được phân

công, đồng thời liên đới chịu trách nhiệm chung về các mặt công tác của

trường

2. Các bộ phận chức năng

Tổ chuyên môn: ở các trường phổ thông Trung học thường có các tổ

chuyên môn: tổ Tự nhiên, tổ Xã hội, tổ Văn - Thể - Mĩ và Giáo dục chính tả...

Trong các trường lớn, mỗi môn học có một tổ chuyên môn. Tổ chuyên môn là

lực lượng lao động quan trọng nhất ở trường học, chịu trách nhiệm bảo đảm

chất lượng bộ môn mình.

Các bộ phận giúp việc cho công tác quản lí của Ban Giám hiệu:

- Tổ giáo vụ, hành chính, quản trị, tài vụ.

- Tổ giáo dục chính trị, văn thể.

- Tổ giáo dục lao động và hướng nghiệp.

- Tổ giáo viên chủ nhiệm lớp.

Các hội đồng tư vấn:

Page 107: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

- Hội đồng sư phạm.

- Hội đồng thi đua, khen thưởng, kỉ luật.

- Hội cha mẹ học sinh.

3. Các đoàn thể

Các đoàn thể trong trường phổ thông gồm: Chi bộ Đảng. Đoàn thanh

niên Cộng sản và Công đoàn cơ sở, ban nữ công.

+ Chi bộ Đảng là tổ chức lãnh đạo toàn diện các công tác trong nhà

trường. Bí thư chi bộ thường là một trong ba người trong Ban Giám hiệu.

+ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với lực lượng là giáo viên và

học sinh là tổ chức trợ thủ đắc lực của Đảng và Ban Giám hiệu, là lực lượng

chủ yếu trong các phong trào hoạt động của nhà trường.

+ Công đoàn cơ sở tập hợp giáo viên thành một tổ chức để thực hiện

chức năng bảo vệ quyền lợi của người lao động. Chi bộ Đảng, Đoàn Thanh

niên, Công đoàn cơ sở và Ban Giám hiệu tạo thành bộ tứ lãnh đạo, tham gia

lãnh đạo nhà trường.

III. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC QUẢN LÍ NHÀ TRƯỜNG 1. Nội dung công tác quản tí trong nhà trường

Công tác quản lí trong nhà trường bao gồm các nội dung sau đây:

- Quản lí toàn bộ cơ sở vật chất và thiết bị nhà trường nhằm phục vụ tốt

nhất cho việc giảng dạy, học tập và giáo dục học sinh. Quản lí tốt cơ sở vật

chất nhà trường không đơn thuần chỉ là bảo quản tốt, mà phải phát huy tốt giá

trị của chúng cho dạy học và giáo dục. Quản lí tốt còn làm sao để có thể

thường xuyên bổ sung thêm những thiết bị mới, có giá trị sử dụng cao.

- Quản lí tốt nguồn tài chính hiện có của nhà trường theo đúng nguyên

tắc quản lí tài chính của Nhà nước và của ngành Giáo dục. Đồng thời biết

động viên, thu hút các nguồn tài chính khác nhằm xây dựng cơ sở vật chất,

mua sắm thiết bị phục vụ các hoạt động giáo dục và dạy học.

Page 108: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

- Tổ chức đội ngũ các thầy giáo, cán bộ công nhân viên và tập thể học

sinh thực hiện tốt các nhiệm vụ trong chương trình công tác của nhà trường.

Động viên, giáo dục tập thể sư phạm thành một tập thể đoàn kết nhất trí,

gương mẫu và hợp tác, tương trợ nhau trong mọi việc. Giáo dục học sinh

phấn đấu học tập và tu dưỡng trở thành những công dân ưu tú. Quản lí con

người là việc làm phức tạp, bao gồm các nội dung về nhân sự, tư tưởng tinh

thần, chuyên môn, đào tạo bồi dưỡng, khen thưởng và đề bạt... Quản lí con

người là một khoa học và một nghệ thuật. Chính đội ngũ giáo viên có chất

lượng sẽ làm nên mọi thành quả của giáo dục.

- Chỉ đạo tốt các hoạt động chuyên môn theo chương trình giáo dục

của Bộ, của các cấp chỉ đạo. Thực hiện nghiêm túc chương trình năm học,

phương pháp giáo dục luôn được cải tiến, từ đó chất lượng dạy học sẽ được

nâng cao. Biện pháp quản lí chuyên môn là theo dõi sát sao mọi công việc,

kiểm tra kịp thời để điều chỉnh, uốn nắn... Tổ chức tốt việc tự kiểm tra, giám

sát của các bộ phận, các tổ chuyên môn là biện pháp quản lí tốt và có hiệu

quả nhất.

- Quản lí nhà trường là chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của

tập thể nhà giáo và công nhân viên. Chỉ khi nào cuộc sống vật chất của giáo

viên được đảm bảo, tinh thần phấn khởi vươn lên lúc đó mới có thể nói là

quản lí tốt. Cần tạo thành một phong trào thi đua phấn đấu liên tục trong nhà

trường thầy dạy tốt, trò học tốt, cả trường hướng tới một chất lượng giáo dục

tốt.

- Quản lí tốt việc học tập của học sinh theo quy chế của Bộ Giáo dục và

Đào tạo. Quản lí học sinh bao gồm cả quản lí thời gian và chất lượng học tập,

quản lí tinh thần, thái độ và phương pháp học tập. Quản lí tốt việc học tập của

học sinh là nội dung quản lí quan trọng.

2. Phương thức quản lí trường học

Quản lí giáo dục là hoạt động mang tính khoa học, đối với mỗi nhà

trường cần phải tìm ra một phương thức phù hợp. Quản lí nhà trường được

thực hiện bằng các phương thức sau đây:

Page 109: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

a. Kế hoạch hoá hoạt động của nhà trường

Kế hoạch hoá trong quản lí giáo dục về bản chất là xây dựng chương

trình hành động của nhà trường theo năm học, nhằm đảm bảo thực hiện chất

lượng giáo dục. Chương trình hành động này bao gồm các chi tiết: mục tiêu

chất lượng, nội dung công tác, thời gian, biện pháp thực hiện và phân công

người chịu trách nhiệm và dự kiến sản phẩm.

Việc soạn thảo chương trình, kế hoạch hành động dựa vào tiềm lực

của nhà trường và sự ủng hộ của địa phương nơi trường đóng.

Xây dưng kế hoạch nhà trường thực chất là:

- Dự báo mục tiêu chất lượng cần đạt tới.

- Mô hình hoá nội dung công việc.

- Lựa chọn các giải pháp tối ưu.

- Phân công người thực hiện và thời gian hoàn thành.

Nội dung của chương trình hành động của nhà trường gồm có:

- Tổ chức lực lượng giáo dục, tăng cường chất lượng chuyên môn

trong đội ngũ giáo viên và các bộ phận chức năng khác. Xây dựng khối đoàn

kết nhất trí cao, tạo môi trường giáo dục thuận lợi cho việc dạy và học.

- Xây dựng chương trình công tác giảng dạy và giáo dục học sinh với

nội dung toàn diện: giáo dục đạo đức, giáo dục lao động và hướng nghiệp,

các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao... Quan trọng nhất là

chương trình chuyên môn của các tổ chuyên môn và các bộ phận công tác

khác.

Lưu tâm thích đáng đến hoạt động học tập của học sinh.

Đây chính là trọng điểm của công tác tổ chức quản lí giáo dục trong

nhà trường. Nhà trường cần có kế hoạch hoạt động cho học sinh một cách cụ

thể theo từng thời điểm trong năm, đồng thời động viên tập thể học sinh tự tổ

chức các hoạt động phù hợp với hứng thú của mình.

Page 110: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Cần có một chương trình xây dựng và phát triển các cơ sở vật chất

thiết bị trường học. Mỗi năm nhà trường cần có kế hoạch xây dựng bổ sung

phòng học mới, mua sắm những thiết bị mới phù hợp với kế hoạch phát triển

nhà trường. Nhà trường cần có kế hoạch phát triển tổng thể trong nhiều năm.

- Cần có một kế hoạch thực hiện xã hội hoá giáo dục bằng nhiều biện

pháp nhằm huy động tối đa khả năng của nhân dân, các tổ chức chính quyền

và các cơ sở sản xuất ở địa phương chăm lo đóng góp xây dựng nhà trường.

Cần xây dựng một kế hoạch tổng thể phát triển nhà trường phục vụ cho nhu

cầu văn hoá xã hội của địa phương.

b. Tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục

- Phân công rõ ràng từng nội dung công việc đến từng người thực hiện.

Sự phân công phải cụ thể: Nội dung công việc, thời gian hoàn thành, chất

lượng sản phẩm.

- Xác lập cơ cấu phối hợp với các bộ phận chức năng để công việc

được tiến hành đồng bộ, toàn diện, đúng với tiến độ của kế hoạch chung.

- Nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ chuyên môn bằng cách rút

kinh nghiệm thường xuyên nghiên cứu áp dụng các kiến thức mới, bồi dưỡng

nghiệp vụ chuyên môn... Tiếp nhận các nguồn bổ sung nhân sự, vật chất thiết

bị, tài chính và các tài liệu thông tin khoa học mới phục vụ cho công tác giảng

dạy và giáo dục học sinh.

- Huy động toàn bộ lực lượng trong trường tích cực hoàn thành công

việc đúng tiến độ và đảm bảo chất lượng.

- Giám sát thực hiện công việc và điều chỉnh kịp thời những bất hợp lí,

tháo gỡ khó khăn và những trở ngại trong quá trình thực hiện kế hoạch, uốn

nắn kịp thời những lệch lạc theo đúng quỹ đạo của chương trình chung.

c. Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch năm học

Chức năng kiểm tra của cơ quan quản lí được thực hiện trong suốt

năm học, theo từng giai đoạn và từng công việc. Kiểm tra giám sát chặt chẽ,

Page 111: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

sát sao tỉ mỉ về số lượng, chất lượng và tiến độ công việc để rút kinh nghiệm

kịp thời, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Vệc kiểm tra thực hiện bao

gồm. Kiểm tra đánh giá tình trạng ban đầu.

- Kiểm tra đánh giá tiến độ công việc. Quan trọng nhất là kiểm tra đánh

giá chất lượng các hoạt động giảng dạy của giáo viên và hoạt động học tập

của học sinh. Đánh giá quản lí cả số lượng, chất lượng sản phẩm, nhưng

quan trọng là các phương pháp thực hiện.

- Phát hiện sai sót, lệch lạc; tìm nguyên nhân để điều chỉnh, uốn nắn kịp

thời.

- Tổng kết, rút kinh nghiệm theo học kì và cả năm học để có những bài

học bổ ích cho việc kiểm tra ở các năm sau.

Chức năng kiểm tra giám sát, thanh tra là những chức năng quan trọng

của quản lí giáo dục.

IV. NHÀ TRƯỜNG VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ VAI TRÒ CỦA HIỆU TRƯỜNG TRONG QUẢN LÍ NHÀ TRƯỜNG 1. Đặc điểm nhà trường hiện nay

Sự nghiệp giáo dục ở nước ta trong hơn nửa thế kỉ qua đã phát triển và

trưởng thành vượt bậc cả về số lượng và chất lượng, tạo ra một hệ thống

giáo dục quốc dân hoàn chỉnh, có đủ tất cả các bậc học, từ bậc mầm non đến

đại học và sau đại học. Nhà trường Việt Nam đã đào tạo hàng triệu thanh,

thiếu niên trở thành những người lao động sáng tạo, tham gia vào quá trình

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước ta đang tiến hành quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam cũng phải

hiện đại hoá, tiến lên mạnh mẽ hơn nữa nhằm góp phần xây dựng một xã hội

học tập, đưa nước ta tiến vào kỉ nguyên kinh tế từ thức.

Nhà trường hiện đại Việt Nam có những đặc điểm sau:

Page 112: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

l) Nhà trường là một đơn vị giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân,

được tổ chức chặt chẽ và thực hiện một chương trình, một kế hoạch giáo dục

thống nhất trong cả nước.

2) Mục đích của nhà trường là giáo dục nhân cách toàn diện cho học

sinh và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, văn

hoá xã hội, đặc biệt là sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

3) Mục tiêu trước mắt của giáo dục nước ta là phổ cập giáo dục Trung

học cơ sở và tiến tới phổ cập giáo dục Trung học phổ thông, phát triển nhanh

giáo dục nghề nghiệp để nhanh chóng đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực có

kĩ thuật của nền kinh tế quốc dân.

4) Tính chất của nhà trường Việt Nam là khoa học, hiện đại, thống nhất,

dân tộc và đại chúng. Giáo dục Việt Nam phấn đấu tiến kịp trình độ thế giới,

mang bản sắc dân tộc và đáp ứng mọi nhu cầu học tập của nhân dân.

5) Nhà trường là một trung tâm văn hoá, khoa học kĩ thuật ở các địa

phương, thu hút tất cả mọi đối tượng học sinh, đáp ứng mọi nhu cầu học tập

của nhân dân địa phương. Nhà trường phải phát huy tác dụng của mình cho

sự nghiệp phát triển văn hoá, khoa học, kĩ thuật ở địa phương.

6) Hệ thống giáo dục Việt Nam được tổ chức đa dạng với nhiều loại

hình và phương thức đào tạo.

- Thực hiện chính sách xã hội hoá giáo dục, Nhà nước chủ trương thu

hút tất cả các lực lượng xã hội tham gia phát triển giáo dục và tạo điều kiện

để nhân dân được học tập (giáo dục cho mọi người và giáo dục của mọi

người). Trong hệ thống giáo dục hiện nay có các loại hình trường: trường

công lập, trường dân lập, trường tư thục. Các trường ngoài công lập được

quyền tự chủ quản lí về các phương diện: tài chính, cơ sở vật chất, nhân

lực.... nhằm đảm bảo chất lượng giáo dục.

Nhà nước chủ trương đa dạng hoá các phương thức đào tạo đặc biệt là

ở bậc đại học, có các chế độ học tập khác nhau nhằm tạo điều kiện cho mọi

người dân được học tập. Hiện nay ta có các hệ đào tạo: chính quy tập trung,

Page 113: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

chính quy không tập trung, chuyên tu, tại chức, đào tạo từ xa và bổ túc văn

hoá...

7) Về phương thức tổ chức giáo dục: Nhà nước chủ trương phân luồng

và phân hoá giáo dục phổ thông. Hiện nay đang thí điểm dạy học phân ban ở

các trường phổ thông trung học: ban khoa học tự nhiên và ban khoa học xã

hội và nhân văn. Mục tiêu phân ban là chuẩn bị tốt về kiến thức và kĩ năng

cho học sinh để giúp các em chọn được một nghề theo năng lực, sở trường

và hứng thú, tại các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, hoặc

bước vào cuộc sống một cách tự tin.

8) Về nội dung giáo dục: Nhà nước đang tiến hành đổi mới nội dung,

chương trình và sách giáo khoa. Thống nhất giữa dạy kiến thức văn hoá với

dạy nghề - hướng nghiệp. Thống nhất giữa chương trình bắt buộc và chương

trình tự chọn. Chuẩn bị cho một số lượng lớn học sinh vào các trường dạy

nghề nhằm đào tạo nhân lực cho các vùng công nghiệp địa phương.

9) Nhà nước đang tổ chức các trung tâm giáo dục mạnh ở Trung ương

và vùng miền, khu vực và các địa phương trong nước với hệ thống các

trường đại học trọng điểm, trường đại học vùng, các trường phổ thông

chuyên, các trường năng khiếu, các trường giáo dục đặc biệt. Đầu tư tập

trung có trọng điểm, đồng bộ về tài chính, phương tiện thiết bị kĩ thuật, đội

ngữ giáo viên để đảm bảo đào tạo chất lượng cao, làm cơ sở để phát triển

các vùng miền, địa phương.

2. Vai trò người hiệu trưởng trong quản lí nhà trường

Trong nhà trường, hiệu trưởng là con chim đầu đàn, vai trò của người

hiệu trưởng vô cùng quan trọng. Ngày nay trong trào lưu đổi ngôi, cải tiến

phương pháp quản lí và dân chủ hoá nhà trường, nhằm phát huy cao độ tính

tích cực của đội ngũ giáo viên thì vai trò của người hiệu trưởng càng nổi bật

lên hơn bao giờ hết.

Người hiệu trưởng có các nhiệm vụ sau đây:

Page 114: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

1. Tổ chức tất cả các hoạt động của nhà trường theo đúng quan điểm,

đường lối chính sách của Đảng. Chịu trách nhiệm trước Nhà nước về công

tác quản lí nhà trường và chất lượng giáo dục học sinh.

2. Đảm bảo cho bộ máy nhà trường hoạt động tích cực với sự sáng tạo

cao, hoàn thành các nhiệm vụ của năm học.

3. Đảm bảo các điều kiện vật chất và tinh thần để tập thể giáo viên và

học sinh hoàn thành các nhiệm vụ của mình với chất lượng cao.

4. Giữ vững khối đoàn kết nhất trí trong tập thể học sinh và giáo viên

trong trường. Động viên, khen thưởng kịp thời những người đạt được thành

tích tốt.

5. Luôn kiểm tra, giám sát, uốn nắn kịp thời những sai sót để điều chỉnh

công việc chung.

6. Động viên, phối hợp các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà

trường vào mục đích giáo dục chung.

Phẩm chất cần có của người hiệu trưởng:

1. Hiệu trưởng phải là giáo viên giỏi, nhà sư phạm tiêu biểu, có kinh

nghiệm tổ chức, quản lí giáo dục, tốt nhất là được lựa chọn từ đội ngũ giáo

viên trong trường.

2. Hiệu trưởng phải là nhà hoạt động xã hội, biết động viên, thu hút

quần chúng vào sự nghiệp giáo dục.

3. Có khả năng lao động sáng tạo, ham mê nghiên cứu khoa học, luôn

tìm tòi, cải tiến phương pháp giáo dục, giảng dạy và quản lí nhà trường.

4. Am hiểu pháp luật và đường lối giáo dục của Nhà nước, có nhãn

quan giáo dục để vận dụng đúng đắn vào thực tiễn giáo dục chung.

5. Hiệu trưởng cần được bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lí giáo dục.

Page 115: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN, THỰC HÀNH 1. Thế nào là quản lí trường học? Trình bày các nguyên tắc quản lí

trường học.

2. Hãy trình bày những nội dung quản lí trong nhà trường.

3. Hãy phân tích các phương thức quản lí trường học.

4. Nêu và phân tích vai trò của tổ bộ môn, của các bộ phận chức năng

tham mưu trong trường.

5. Nhận định, đánh giá và nêu các phương hướng hoạt động của các

đoàn thể để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường.

6. Nêu vai trò và các phẩm chất cần có của người hiệu trưởng và phân

tích vai trò của ban giám hiệu.

BÀI TẬP

1. Tìm hiểu các phương pháp kiểm tra nội bộ của trường Trung học

phổ thông mà anh (chị) đã thực tập.

Chương 18: LAO ĐỘNG SƯ PHẠM CỦA GIÁO VIÊN VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG GIÁO DỤC

I. LAO ĐỘNG SƯ PHẠM CỦA GIÁO VIÊN TRONG NHÀ TRƯỜNG1. Nhiệm vụ của giáo viên trong nhà trường

Trong Điều 70 của Luật Giáo dục, được Quốc hội nước CHXHCN Việt

Nam khoá XI, kì họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 có nêu "l.

Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở

giáo dục khác; 2. Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau đây: Phẩm chất,

đạo đức, tư tưởng tốt; đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn

nghiệp vụ; lí lịch bản thân rõ ràng; 3. Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục

Page 116: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên; ở cơ sở

đại học gọi là giảng viên." Giáo viên có những nhiệm vụ cụ thể như sau:

* Giáo dục và giảng dạy

- Giáo dục tư tưởng, đạo đức, xây dựng tập thể học sinh. Nhiệm vụ này

được tiến hành thông qua giảng dạy bộ môn, công tác chủ nhiệm lớp, công

tác phối hợp với cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội;

- Giảng dạy lí thuyết, chữa bài tập, hướng dẫn thực hành; Soạn bài,

chấm bài, làm đồ dùng giảng dạy, chuẩn bị thí nghiệm, tổ chức ngoại khoá,

bồi dưỡng và phụ đạo học sinh; Coi thi, chấm thi (học kì, lên lớp, thi tuyển vào

lớp đầu cấp thi tốt nghiệp);

- Giáo dục lao động cho học sinh và cùng học sinh tham gia lao động

sản xuất;

- Đánh giá kết quả học tập của học sinh, đánh giá xếp loại học sinh, làm

sổ điểm, phê học bạ;

- Sinh hoạt chuyên môn: họp hội đồng giáo dục, họp tổ chuyên môn, dự

giờ, rút kinh nghiệm giáo dục và giảng dạy học sinh.

* Học tập và bồi dưỡng

Tham dự các lớp bồi dưỡng tập trung, bồi dưỡng trong hè, trong năm

học theo chương trình và kế hoạch của Bộ Giáo dục và Đào tạo

Cá nhân có kế hoạch tự học, tự bồi dưỡng nhằm không ngừng nâng

cao trình độ để đạt tiêu chuẩn theo quy định.

* Tham gia công tác xã hội

- Tham gia xây dựng đời sống tập thể của cán bộ, giáo viên trong nhà

trường;

- Tham gia công tác xã hội, công tác đoàn thể ở trong và ngoài nhà

trường;

Page 117: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

- Tham gia các hoạt động của địa phương theo đúng chức năng của

nhà trường;

- Tham gia công tác bổ túc văn hoá;

* Luyện tập quân sự

Thực hiện theo quy định của Nhà nước đối với những người trong độ

tuổi.

2. Đặc điểm lao động sư phạm của giáo viên

* Mục đích của lao động sư phạm.

Như chúng ta đã biết, mỗi loại hình lao động đều có đặc trưng riêng,

nhờ đó mới có thể phân biệt giữa loại hình lao động này với loại hình lao

động khác. Theo Điều 2 của Luật Giáo dục của nước Cộng hoà Xã hội Chủ

nghĩa Việt Nam: "Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển

toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung

thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi

dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Đây chính là định hướng của nền giáo dục Việt

Nam, vì vậy lao động sư phạm của giáo viên phải phục vụ mục tiêu đó.

Lao động sư phạm của giáo viên là loại hình lao động có ý nghĩa như là

một yếu tố xã hội góp phần "sáng tạo ra con người", mang tính "khai sáng"

cho con người, từng bước cải biến con người tự nhiên thành con người xã

hội, tạo dựng nên con người đáp ứng yêu cầu của thời đại. Sản phẩm của lao

động đặc thù này cũng tạo ra những nét khác biệt. Đó là loại lao động sản

xuất ra những nhân cách, sản xuất ra giá trị nhân bản với sự tổng hoà của

các mối quan hệ xã hội.

* Đối tượng của lao động sư phạm.

Bất cứ loại hình lao động nào cũng có đối tượng tác động. Vậy lao

động sư phạm của giáo viên có đối tượng tác động rất đặc biệt - đó là nhân

cách của học sinh, dẫn dắt học sinh linh hội tri thức, phát triển trí tuệ, hình

Page 118: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

thành phẩm chất đạo đức. Giáo viên dùng trí tuệ và cả nhân cách của mình

để tác động tới học sinh (người học), hay nói cách khác là dùng một nhân

cách đã trưởng thành để tác động tới các nhân cách đang được rèn luyện

từng bước trưởng thành.

Đối tượng giáo dục là con người (người học) nên họ không thụ động

mà trái lại có ý thức, có tính tích cực, chủ động, sáng tạo. Vì vậy, thành quả

lao động sư phạm của giáo viên mang lại mà không chỉ phụ thuộc vào đạo

đức, trí tuệ, trình độ nghề nghiệp, nghệ thuật sư phạm của mình mà còn phụ

thuộc vào nhiều yếu tố khác như quan hệ thầy trò, khả năng nhận thức hành

vi, cách ứng xử, giao tiếp, trạng thái tâm lí, hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh xã

hội đặc biệt là nhân cách của học sinh.

Theo K.Đ.Usinxki: "Muốn giáo dục con người về mọi phương diện thì

trước hết phải hiểu con người về mọi phương diện". Như vậy muốn đạt được

hiệu quả cao trong công tác giảng dạy, giáo viên phải nghiên cứu, nắm chắc

các đặc điểm của đối tượng (học sinh), lựa chọn những tác động sư phạm

mềm dẻo, uyển chuyển, thích hợp với từng đối tượng, phát huy vai trò chủ thể

giáo dục của học sinh, vai trò chủ đạo của mình.

* Công cụ lao động sư phạm

Công cụ lao động sư phạm của giáo viên là hệ thống những tri thức,

những kĩ năng, kĩ xảo cần truyền đạt và rèn luyện, những dạng hoạt động và

giao lưu cần tổ chức cho học sinh. Giáo viên có công cụ lao động rất đặc biệt

là trí tuệ, là phẩm chất của chính mình, Nhân cách của giáo viên như một

công cụ lao động thật sự, nó sẽ phát huy tác dụng mạnh mẽ khi giáo viên có

uy tín cao, tức là phẩm chất năng lực, đức và tài của giáo viên có sức thuyết

phục lớn.

Muốn như vậy, bản thân giáo viên phải có năng lực chọn lọc tri thức cơ

bản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với mục tiêu của giáo dục, phải không

ngừng tự nâng cao trình độ về nhiều mặt, hoàn thiện nhân cách, đạo đức,

chuyên môn nghiệp vụ, độc lập, sáng tạo, đặc biệt phải luôn tìm tòi các

phương pháp giảng dạy hiện đại, sử dụng thành thạo các phương tiện dạy

Page 119: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

học tiên tiến để truyền tải kiến thức cho học sinh với con đường ngắn nhất và

hiệu quả nhất.

* Sản phẩm lao động của sư phạm

Lao động sư phạm của giáo viên tạo ra sản phẩm đặc biệt, đó là nhân

cách của học sinh, do đó nhân cách của học sinh (phẩm chất và năng lực) thể

hiện chất lượng sản phẩm của lao động sư phạm. Sự bùng nổ của công nghệ

thông tin và xu thế toàn cầu hoá đòi hỏi giáo viên phải không ngừng bồi

dưỡng, cập nhật tri thức, nâng cao trình độ để nâng cao chất lượng dạy học

và giáo dục. Giáo viên cần giáo dục và đào tạo học sinh trở thành người có tri

thức, có đạo đức, có năng lực sáng tạo, biết hợp tác, biết ứng xử, hiểu biết

pháp luật, thông lệ quốc tế... để góp phần xây dựng đất nước phồn vinh, xã

hội công bằng, dân chủ và văn minh.

* Thời gian và không gian của lao động sư phạm

Thời gian lao động sư phạm của giáo viên về mặt pháp lí là thời gian

quy định trong các văn hạn của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đó

chính là thời gian lao động bắt buộc tuỳ theo vào từng bậc học, cấp học. Vấn

đề này thường được hiểu là quy định về số giờ giảng dạy và các công tác

khác. Thời gian làm việc ngoài giờ quy định như: thời gian chuẩn bị bài giảng,

chấm bài, tự bồi dưỡng nghiệp vụ, tham gia các công việc ngoài nhà trường

và hoạt động xã hội.

Không gian lao động sư phạm của người giáo viên tiến hành ở hai

phạm vi là ở trong và ngoài nhà trường. Ở ngoài nhà trường thì rất đa dạng,

phong phú như: Tổ chức thực tế, tham quan, tham gia các hoạt động xã hội

hoặc đến thăm gia đình các học sinh. Đây là vấn đề cần được chú ý nghiên

cứu để có chế độ chính sách thích hợp, tạo điều kiện cho giáo viên hoàn

thành nhiệm vụ.

3. Những yêu cầu dối với giáo viên

* Thế giới quan của giáo viên

Page 120: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Như chúng ta đã biết, giáo dục có chức năng chính trị, sản phẩm của

giáo dục và người tạo ra sản phẩm giáo dục phải phục vụ đường lối, quan

điểm của nhà nước. Đối với nước ta, thể chế chính trị rất rõ ràng: Xây dựng

nước Việt Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa theo học thuyết Mác - Lê nin

và tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, nền giáo dục Việt Nam phải được định

hướng phát triển theo chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà

nước. Vì vậy, giáo viên phải có phẩm chất chính trị và thế giới quan chủ nghĩa

Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo niềm tin vào định hướng giáo dục

của Đảng và Nhà nước.

Người giáo viên phải hiểu biết thực tiễn của đất nước trong đó có giáo

dục, nắm bắt được tình hình thế giới trong đó có cả lĩnh vực giáo dục của các

nước để từ đó xây dựng hệ thống các quan điểm chỉ đạo, cách nhìn nhận vấn

đề, cách suy nghĩ, cách hành động nhằm xây dựng lí tưởng nghề nghiệp để

gắn bó cuộc đời mình với sự nghiệp giáo dục của đất nước. Đây là yếu tố rất

cơ bản để giáo viên trở thành tấm gương cho học sinh noi theo.

* Lòng yêu trẻ

Đây là một phẩm chất đạo đức cao quý của con người và là một phẩm

chất đặc trưng trong nhân cách của người thầy. Cố Tổng bí thư Đảng cộng

sản Việt Nam - Lê Duẩn đã nói tại một hội nghị giáo dục: “Càng yêu người

bao nhiêu càng yêu nghề bấy nhiêu”. Chính lòng yêu trẻ là một trong những

nhân tố hướng người thanh niên nam, nữ vào nghề dạy học và giáo viên

thành đạt một phần nhờ vào tình yêu trẻ.

Lòng yêu trẻ ở đây được hiểu đó là lòng thương trẻ, gần gũi, ân cần,

chân thật, khoan dung khi trẻ mắc lỗi, nhưng phải nghiêm nghị, công bằng và

có yêu cầu cao với trẻ. Ngày nay, giáo viên phải tôn trọng nhân cách của trẻ,

kết hợp với trẻ trong quá trình dạy và học nhằm đạt được mục tiêu đào tạo

lớp trẻ thành con người có trí tuệ và nhân cách tốt để phục vụ sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Page 121: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Tình cảm trong sáng, cao thượng của giáo viên sẽ tạo thêm sức mạnh

cho lớp trẻ không ngại khó khăn, quyết tâm vươn lên trong mọi thử thách,

chính là: “Tất cả vì học sinh thân yêu”.

* Lòng yêu nghề nghiệp

Trong bất cứ một xã hội nào, ở bất cứ thời đại nào, con người làm việc

mà không có lòng yêu nghề thì không bao giờ có sự thành đạt, nghề dạy học

cũng không nằm ngoài quy luật đó. Bởi vậy, mỗi giáo viên muốn thành đạt

phải yêu nghề dạy học thực sự, vượt qua mọi khó khăn thử thách để thực

hiện chức năng người "kĩ sư tâm hồn", không ngừng học hỏi để nâng cao

trình độ chuyên môn, hoàn thiện nhân cách để cống hiến cho sự nghiệp

"trồng người".

Ngoài những yếu tố nêu trên, giáo viên cần phải có một loạt các phẩm

chất, năng lực khác như: năng lực sư phạm, năng lực nghiên cứu khoa học,

năng lực giao tiếp, năng lực tổ chức, năng lực quản lí những vấn đề có liên

quan đến nghề dạy học. Phải hình thành cho mình một số kĩ năng, kĩ xảo để

tiến hành hoạt động sư phạm có hiệu quả cao. Đặc biệt, trong thời đại ngày

nay, giáo viên phải có ăn thức về ngoại ngữ, tin học... có kĩ năng sử dụng các

thiết bị hiện đại phục vụ công tác giảng dạy.

Qua khảo sát, nghiên cứu cũng như thực tiễn giáo dục, ta có thể thấy

có rất nhiều kĩ năng giáo viên phải có, nhưng tập trung vào hai hệ thống: hệ

thống kĩ năng cơ bản và hệ thống kê năng chuyên biệt.

Hệ thống những kĩ năng cơ bản bao gồm:

- Nhóm kĩ năng thiết kế. Những kĩ năng của nhóm này giúp giáo viên

nhìn thấy trước và lập các kế hoạch, nội dung, hình thức, phương pháp,

phương thức tiến hành các hoạt động của chính mình cũng như của học sinh;

dự kiến các tình huống có thể xảy ra, nhất là những hành vi bột phát và dự

liệu giải pháp để xử lí nếu những tình huống đó xảy ra. Làm được như vậy,

giáo viên luôn giữ vai trò chủ đạo trong quá trình giáo dục.

Page 122: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

- Nhóm kĩ năng tổ chức: Khi đã thiết kế, lập được kế hoạch dạy học -

giáo dục, giáo viên phải biết cách tổ chức thực hiện một cách tốt nhất để đạt

được kết quả như mong muốn.

- Nhóm kĩ năng giao tiếp: Đây là một tiền đề rất quan trọng để thành

công trong dạy học - giáo dục. Do đối tượng là học sinh - ở lứa tuổi hiếu

động, chưa nhận thức đầy đủ hành vi của mình, mỗi học sinh lại có nhân cách

khác nhau nên khi tiếp xúc phải có nghệ thuật lôi cuốn, lời nói phải dễ hiểu, có

sức truyền cảm, phải linh hoạt xử lí các tình huống, không "dập khuôn" vì

cùng một sự việc xảy ra, cách giải quyết đối với học sinh này có chút khác

biệt đối với học sinh khác...

- Nhóm kĩ năng nhận thức: Những kĩ năng này giúp giáo viên biết

nghiên cứu hoạt động của mình và hoạt động của học sinh để tìm ra cách

thực hiện có hiệu quả nhất. Vì cuộc sống luôn biến đổi nên phải thường

xuyên suy nghĩ, tìm tòi để ngày càng hoàn thiện vốn tri thức của mình.

Hệ thống các kĩ năng chuyên biệt bao gồm:

- Nhóm kĩ năng giảng dạy: Đây là kĩ năng đặc trưng trong lao động sư

phạm của giáo viên. Thành công và uy tín của người giáo viên thường thông

qua giảng dạy, còn các kĩ năng khác chỉ có chức năng bổ trợ...

Muốn vậy, giáo viên phải có kĩ năng lựa chọn và vận dụng nội dung dạy

học, các phương pháp dạy học, các hình thức tổ chức dạy học thuộc phạm vi

môn học; soạn bài giảng, tổ chức các dạng hoạt động học tập cũng như hoạt

động độc lập của học sinh, đặc biệt phải lấy học sinh làm trung tâm trong hoạt

động dạy học. Ngoài ra còn có kĩ năng giúp đỡ học sinh kém, bồi dưỡng học

sinh giỏi sử dụng thành thạo các phương tiện dạy học, nhất là các phương

tiện dạy học hiện đại: Máy tính, máy chiếu, thiết bị nghe nhìn... phân tích,

đánh giá, rút kinh nghiệm các hoạt động dạy học, kiểm tra đánh giá tri thức, kĩ

năng, kĩ xảo mà học sinh nắm được thông qua các hoạt động dạy học - giáo

dục.

Page 123: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

- Nhóm kĩ năng giáo dục: Bao gồm các kĩ năng xác định mục tiêu,

nhiệm vụ giáo dục theo quy định của Luật Giáo dục, những nhiệm vụ cụ thể

giáo dục học sinh, tổ chức, phối hợp các lực lượng giáo dục: nhà trường, các

tổ chức xã hội, đặc biệt là tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,

Hội Phụ nữ, Hội khuyến học... để giáo dục học sinh nói chung, học sinh cá

biệt nói riêng về lao động, hướng nghiệp. Giáo viên phải biết lựa chọn và vận

dụng các phương pháp, hình thức cho phù hợp với đối tượng giáo dục. Tuỳ

theo hoàn cảnh, yêu cầu, sau mỗi thời gian hoặc kết thúc chuyên đề cần phải

tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả rèn luyện, tu dưỡng của học sinh.

- Nhóm kĩ năng nghiên cứu khoa học: Ngày nay, khoa học và công

nghệ phát triển mạnh mẽ trong đó có khoa học giáo dục. Vì vậy, mỗi giáo viên

phải biết lựa chọn đề tài cần nghiên cứu để phục vụ nghề nghiệp của mình.

Muốn làm được điều đó, người giáo viên phải biết xây dựng đề cương nghiên

cứu, lựa chọn phương pháp, thu thập và xử lí dữ liệu, biết cách viết, trình bày

một cách khoa học. Muốn hoàn thành công trình nghiên cứu khoa học, không

thể thiếu vai trò của cố vấn khoa học cũng như sự giúp đỡ của đồng nghiệp...

nhất là nghiên cứu những đề tài khó, phức tạp, những vấn đề khoa học giáo

dục đang xem xét, nhận thức mới, bổ sung cho phù hợp với thời đại ngày

nay.

- Nhóm kĩ năng hoạt động xã hội: Nhà trường là một tổ chức có tư cách

pháp nhân, giáo viên, học sinh là thành viên của xã hội, cho nên bản thân

giáo viên phải có khả năng tham gia các hoạt động xã hội, nhất là các hoạt

động có liên quan đến giáo dục. Phải biết tổ chức cho học sinh tham gia các

hoạt động xã hội vô cùng phong phú như: xây dựng nếp sống văn hoá, giữ

gìn môi trường "xanh, sạch, đẹp", phong trào ủng hộ người nghèo, nạn nhân

chiến tranh, nạn nhân bị thiên tai, hiến máu nhân đạo... Đó là cách tốt nhất để

gắn nhà trường với xã hội. Như V. I. Lê nên đã từng nói: "Chúng ta không tin

vào dạy học, giáo dục, giáo dưỡng nếu hoạt động đó chỉ bó khung ở trong

nhà trường, nó tách biệt khỏi cuộc sống sôi động...".

Page 124: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

- Nhóm kĩ năng tự học: Giáo viên ngày nay khác với giáo viên những

thế hệ trước, bởi vì lượng kiến thức tăng rất nhanh ở nhiều lĩnh vực, xã hội có

nhiều biến động, do đó việc tự học được đặt ra một cách cấp bách. Ngày nay,

khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, nhiều ngành khoa học mới

hình thành, giáo dục học cũng có nhiều công trình nghiên cứu mới, phương

pháp dạy học cũng được đổi mới, nội dung, chương trình được biên soạn lại,

đưa thêm nhiều kiến thức hiện đại để giảng dạy... Vì vậy, giáo viên phải tổ

chức tự học những vấn đề có liên quan đến chuyên môn, đến nghề dạy học.

Đặc biệt, vấn đề toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đòi hỏi người giáo viên

phải biết sử dụng máy tính và các phương tiện dạy học hiện đại. Muốn đạt kết

quả, người giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp, vấn đề cần tự học để

nâng cao trình độ của mình.

3. Những lời khuyên đối với giáo viên trẻ mới vào nghề

Đặc điểm của giáo viên trẻ mới vào nghề

Giáo viên mới tốt nghiệp các trường sư phạm là những người trẻ tuổi,

nhiệt tình với nhiều hoài bão trong tương lai nhưng con đường nghề nghiệp

đang chờ họ cũng không ít những khó khăn, thách thức, bỡ ngỡ. Nếu không

có sự giúp đỡ của nhà trường, đặc biệt là Hội đồng nhà trường thì việc nâng

cao trình độ bị hạn chế, làm giảm ý chí phấn đấu và con đường vươn lên

trong sự nghiệp bị kéo dài, thậm chí dẫn tới tình trạng chán nghề hoặc bỏ

nghề. Giáo viên trẻ được đào tạo tại các trường Cao đẳng, Đại học được

trang bị các kiến thức về chuyên ngành, cách ứng xử giao tiếp..., nhưng để có

trình độ nghệ thuật sư phạm thì phải qua thực tiễn trong nhà trường, trong

môi trường sống động với trẻ e m.

Trong thực tế, giáo viên mới tốt nghiệp có người sẽ làm việc tại các

trường phổ thông với điều kiện thuận lợi (tập thể sư phạm mạnh, có đội ngũ

giáo viên nhiều kinh nghiệm, ở cạnh các thư viện lớn, các trường đại học...),

hoặc học sinh có điều kiện tốt (phần lớn bố mẹ học sinh đã được đào tạo,

thậm chí có trình độ nhất định); có người về các vùng xa, vùng khó khăn, với

những yêu cầu đòi hỏi khác, có khi phải dạy 2-3 môn học hoặc dạy các lớp

Page 125: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

khác nhau. Với các điều kiện như vậy, giáo viên cần phải quan tâm tới cái

chung, cái riêng, cái đặc thù của từng địa phương.

Những khó khăn thường gặp trong công tác của giáo viên mới vào

nghề

* Khó khăn trong việc nắm vững các tài liệu phục vụ công tác giảng

dạy;

* Phương pháp giảng dạy, điều khiển tổ chức lớp;

* Giáo dục đạo đức đối với những học sinh cá biệt

* Chủ trì, tiến hành các cuộc hội họp, thảo luận, tổ chức hoạt động.

Những lời khuyên đối với việc giáo viên trẻ mới vào nghề

* Biết lắng nghe các lời khuyên thực tế.

* Làm quen với truyền thống của nhà trường, những nét đặc trưng về

công tác giảng dạy, học tập, giáo dục đạo đức.

* Chủ động tìm hiểu về nhà trường, lớp học, phòng học, các trang thiết

bị, các cơ sở vật chất khác của nhà trường.

* Cần học hỏi về những phương pháp, phương thức thành công trong

giảng dạy của một số giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm có kinh nghiệm

của trường.

* Học hỏi kinh nghiệm về cách thức soạn bài, ghi sổ nhật ký, sổ điểm và

ghi chép các tài liệu cần thiết phục vụ công tác giảng dạy và học tập, đặc biệt

là khâu chuẩn bị cho bài giảng, tổ chức quá trình học tập cho học sinh và các

hoạt động khác (tiến hành giờ sinh hoạt lớp, tổ chức trực nhật, phân công

trách nhiệm cho học sinh v.v...).

* Cần nhận thức được những việc nên làm, việc nên tránh.

Thành công của giáo viên trẻ, ngoài khả năng giảng dạy và công tác

giáo dục khác còn thường phụ thuộc vào những việc nhỏ như: quần áo, giọng

Page 126: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

nói, nét mặt, phong cách... nếu như không phù hợp với môi trường sư phạm

sẽ dẫn tới có những lời nhận xét, bình phẩm không có lợi.

II. HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC 1. Các hoạt động giáo dục

Theo Điều lệ Trường trung học, các hoạt động giáo dục trong trường

trung học bao gồm:

- Hoạt động giáo dục trên lớp được tiến hành thông qua việc dạy học

các môn học bắt buộc và tự chọn theo quy định trong chương trình giáo dục

trung học cơ sở, trung học phổ thông do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo

ban hành.

- Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp do nhà trường phối hợp với các

lực lượng giáo dục ngoài nhà trường tổ chức, bao gồm hoạt động ngoại khoá

về khoa học, văn học, nghệ thuật, thể dục, thể thao nhằm phát triển năng lực

toàn diện của học sinh và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu; các hoạt động

vui chơi, tham quan, du lịch, giao lưu văn hoá; các hoạt động giáo dục môi

trường; các hoạt động lao động công ích; các hoạt động xã hội; các hoạt động

từ thiện phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh.

Hoạt động giáo dục trên lớp và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là

hai bộ phận hữu cơ hợp thành một thể thống nhất trong quá trình giáo dục

học sinh nhằm đạt được mục tiêu giáo dục ở trường trung học.

Hệ thống sổ sách theo dõi các hoạt động giáo dục trong trường bao

gồm:

- Đối với nhà trường: sổ đăng bộ; sổ gọi tên và ghi điểm; sổ ghi đầu bài;

học bạ học sinh; sổ quản lí cấp phát văn bằng chứng chỉ; sổ theo dõi phổ cập

giáo dục (khi tiến hành phổ cập giáo dục); sổ nghị quyết của nhà trường; sổ

kiểm tra đánh giá giáo viên về công tác chuyên môn; sổ khen thưởng kỉ luật

học sinh; sổ lưu trữ các văn bản, công văn; sổ quản lí tài sản, sổ quản lí tài

chính.

Page 127: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

- Đối với giáo viên: bài soạn, sổ dự giờ thăm lớp, sổ chủ nhiệm (đối với

giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp, sổ công tác).

2. Hội đồng giáo dục

Hội đồng giáo dục ở trường trung học là tổ chức tư vấn cho hiệu trưởng

trong việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường, do hiệu trưởng

thành lập vào đầu mỗi năm học.

Thành viên của hội đồng giáo dục (theo điều lệ trường trung học) bao

gồm: Hiệu trưởng là chủ tịch, các Phó hiệu trưởng, bí thư chi bộ Đảng Cộng

sản Việt Nam, chủ tịch Công đoàn giáo dục nhà trường, bí thư Đoàn TNCS

Hồ Chí Minh, các tổ trưởng chuyên môn, một số giáo viên có kinh nghiệm và

trưởng ban đại diện cha mẹ học sinh của trường.

Khi cần thiết, hiệu trưởng có thể mời đại diện chính quyền và đoàn thể

địa phương tham dự các cuộc họp của hội đồng giáo dục. Hội đồng giáo dục

họp ít nhất mỗi học kì một lần.

Nhiệm vụ của hội đồng giáo dục

Hội đồng giáo dục ở trường trung học có nhiệm vụ tư vấn cho hiệu

trưởng trong việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường như:

- Tư vấn về tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác

theo chương trình giáo dục trung học do Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo

ban hành.

- Tư vấn về việc tiếp nhận học sinh, vận động học sinh bỏ học đến

trường, thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục trong phạm vi cộng đồng theo

quy định của nhà nước.

- Tư vấn về việc quản lí giáo viên, nhân viên và học sinh.

- Tư vấn về việc quản lí, sử dụng đất đai, trường sở trang thiết bị và tài

chính theo quy định của pháp luật.

- Tư vấn việc phối hợp với gia đình học sinh, với các tổ chức và cá

nhân trong việc thực hiện các hoạt động giáo dục.

Page 128: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

- Tư vấn về việc tổ chức cho giáo viên, nhân viên và học sinh tham gia

các hoạt động xã hội trong cộng đồng.

Nội dung hoạt động của hội đồng giáo dục

Hội đồng giáo dục cần hoạt động để phát huy được vai trò, chức năng

là giúp hiệu trưởng quản lí, điều hành thực hiện nhiệm vụ năm học đạt kết

quả tốt.

Trong trường phổ thông hiện đại, hội đồng trường cần có các hình thức

hoạt động có hiệu quả để thực hiện tốt nhiệm vụ năm học. Hoạt động của Hội

đồng giáo dục chủ yếu tập trung vào các mặt chính:

- Kế hoạch năm học của nhà trường, xem xét các kết quả đạt được của

nhà trường trong từng học kì, nửa học kì, kế hoạch chuẩn bị và tiến hành tổ

chức thi, học sinh tốt nghiệp ra trường; chuyển lớp cho học sinh học lớp tiếp

theo; kế hoạch năm học, kế hoạch nghỉ hè đối với học sinh...

- Nghiên cứu và thảo luận các chỉ thị của các cơ quan lãnh đạo cấp trên

và các kết quả nghiên cứu khoa học, kinh nghiệm tiên tiến với mục đích phân

tích, áp dụng vào quá trình giáo dục trong nhà trường.

Có thể chia ra thành một số giai đoạn trong việc chuẩn bị và tiến hành

hoạt động của Hội đồng giáo dục.

- Lập kế hoạch của Hội đồng giáo dục trong cả năm;

- Chuẩn bị sơ bộ hoạt động cụ thể của Hội đồng giáo dục;

- Thực hiện các công việc của Hội đồng giáo dục.

Thông thường, một số kì họp của Hội đồng diễn ra vào các thời điểm:

đầu năm học, đầu học kì và cuối năm học. Trong cuộc họp, hội đồng cần thảo

luận những vấn đề lớn, quan trọng, những vấn đề có tính nguyên tắc, những

chỉ thị, nghị quyết, những vấn đề đặc biệt của nhà trường theo các mục tiêu

như: dạy học, giáo dục, công tác tổ chức lao động sư phạm, nhanh chóng

khắc phục những tồn tại, yếu kém.

Page 129: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Thông thường, hàng năm tập thể sư phạm nhà trường chọn một hoặc

một vài vấn đề xác định có tính định hướng cho hoạt động. Hội đồng giáo dục

có thể đặt kế hoạch hoạt động cụ thể cho từng thời kì. Tuỳ theo yêu cầu của

nhà trường, các cuộc họp có thể đề cập tới các chủ đề nhất định.

* Các chủ đề thảo luận của Hội đồng giáo dục:

- Kế hoạch công tác của trường cả năm học; Những nhiệm vụ cơ bản

của nhà trường;

- Trao đổi kinh nghiệm công tác; Công tác thể dục thể thao trong trường

(báo cáo và thảo luận); Công tác phối hợp nhà trường và gia đình về giáo dục

đạo đức; Vấn đề giáo dục những học sinh cá biệt.

- Mối quan hệ qua lại giữa giáo viên và học sinh, báo cáo trên cơ sở

phân tích công tác của nhà trường; Chuẩn bị thi và nghỉ hè cho học sinh, nêu

kế hoạch biện pháp thực hiện...

Hội đồng giáo dục có thể chọn chủ đề với các khía cạnh khác nhau của

hoạt động dạy học, đổi mới phương pháp dạy học... giáo dục, áp dụng kinh

nghiệm tiên tiến v.v... Chủ đề dựa trên tài liệu cụ thể, điều kiện, cơ sở vật chất

đội ngữ giáo viên của nhà trường.

Về mặt lí luận cũng như thực tế đã chứng minh rằng: Hội đồng giáo dục

trường nếu có nội dung hoạt động cụ thể theo điều lệ, có kế hoạch hoạt động

chi tiết, giải quyết những vấn đề cần thiết mà nhà trường đặt ra một cách có

hiệu quả thì chắc chắn sẽ phát huy được vai trò, chức năng giúp Hiệu trưởng

tổ chức thực hiện tốt kế hoạch năm học. Hiệu trưởng phải tạo mọi điều kiện

thuận lợi để Hội đồng làm đúng chức năng, nhiệm vụ đã quy định.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN1. Phân tích những đặc điểm lao động sư phạm của giáo viên.

2. Trình bày những yêu cầu đặt ra cho giáo viên trong thời đại ngày

nay.

Page 130: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

3. Nhiệm vụ và nội dụng hoạt động của Hội đồng giáo dục ở trường

Trung học.

BÀI TẬP

1. Tìm hiểu các biện pháp của nhà trường - nơi anh (chị) thực tập đã

sử dụng để giúp đỡ giáo viên mới vào nghề.

2. Viết một bản thu hoạch sau khi tìm hiểu về nội dung hoạt động của

Hội đồng giáo dục ở một trường - nơi anh (chị) thực tập.

Chương 19: CÔNG TÁC CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG

I. VAI TRÒ, CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP1. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông

Trong nhà trường phổ thông, lớp học là đơn vị hành chính cơ bản, một

tế bào hữu cơ của hệ thống nhà trường. Mỗi lớp học gồm một số lượng học

sinh ổn định, có lứa tuổi và trình độ nhận thức tương đương, cùng nhau tiến

hành các hoạt động học tập, lao động, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thể dục

thể thao, vui chơi, giải trí... Các hoạt động giáo dục và dạy học của nhà

trường chủ yếu diễn ra theo đơn vị lớp học. Vì thế, sự trưởng thành của lớp

học gắn liền với sự trưởng thành và phát triển của mỗi thành viên trong lớp

học và những thành tích của nhà trường. Xây dựng tập thể lớp vững mạnh là

nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường phổ thông. Do tầm quan trọng của lớp

học đối với sự hình thành nhân cách học sinh, các trường phổ thông đều cử

ra một giáo viên chủ nhiệm - người chịu trách nhiệm quản lí và giáo dục,

người điều khiển và phối hợp mọi hoạt động của các thành viên trong lớp

cũng như tổ chức mối quan hệ giữa lớp học với nhà trường, với gia đình và

xã hội.

Page 131: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Trong nhà trường phổ thông, giáo viên chủ nhiệm lớp là người thay mặt

hiệu trưởng, được hiệu trưởng cử ra làm công tác quản lí và giáo dục học

sinh trong một lớp học cụ thể và chịu trách nhiệm về chất lượng giáo dục toàn

diện của học sinh trong tập thể đó. Có thể nói, người giáo viên chủ nhiệm lớp

là cầu nối, người giữ mối liên lạc thường xuyên giữa các lực lượng giáo dục

trong nhà trường, giữa giáo dục nhà trường với gia đình và các tổ chức xã hội

khác.

Giáo viên chủ nhiệm là người góp phần quyết định sự thành công hay

thất bại trong công tác giáo dục của nhà trường nên những giáo viên có kinh

nghiệm, có uy tín, được các em quý trọng thường được cử làm giáo viên chủ

nhiệm lớp. Mỗi giáo viên chủ nhiệm tiếp nhận quản lí một lớp học trong

khoảng thời gian nhất định (thường là một năm học cũng có khi là cả một

khóa học). Giáo viên chủ nhiệm là người có vị trí đặc biệt quan trọng trong

công tác quản lí giáo dục của nhà trường.

Công việc quản lí và giáo dục học sinh của giáo viên chủ nhiệm được

thể hiện trong quản lí hồ sơ, sổ điểm, học bạ; quản lí tình hình lớp học và các

phương tiện dạy học trong lớp đó; quản lí và giáo dục tập thể học sinh, theo

dõi những biến chuyển trong tâm tư, nguyện vọng và tình cảm của mỗi học

sinh, phát huy những tiềm năng và giáo dục các em trở thành những chủ

nhân của đất nước theo hướng phát triển toàn diện. Giáo viên chủ nhiệm lớp

là người thay mặt và đại diện cho quyền lợi chính đáng của tập thể học sinh,

thay mặt tập thể học sinh để giải quyết một số vấn đề có liên quan đến quyền

lợi và nghĩa vụ hợp lí của các em.

Giáo viên chủ nhiệm cũng là người phản ánh với hiệu trưởng, với giáo

viên bộ môn, với các lực lượng giáo dục trong và ngoài trường những nguyện

vọng chính đáng của các em để các lực lượng giáo dục này có cách giải

quyết phù hợp. Giáo viên chủ nhiệm là người đại diện cho tập thể lớp trong

các cuộc họp bàn về quyền lợi và trách nhiệm của tập thể học sinh. Giáo viên

chủ nhiệm lớp đại diện cho lớp đề nghị khen thưởng hay kỉ luật học sinh

thuộc lớp mình phụ trách. Họ cũng có quyền biểu quyết trong hội đồng khen

Page 132: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

thưởng và hội đồng kỉ luật khi các hội đồng này giải quyết các vấn đề có liên

quan trực tiếp đến học sinh lớp mình đảm nhận.

Giáo viên chủ nhiệm lớp là người tổ chức, phối hợp và thống nhất các

lực lượng và tác động giáo dục tới tập thể học sinh. Chính giáo viên chủ

nhiệm là người tạo ra sự thống nhất giữa các tác động giáo dục trong nhà

trường, giữa các giáo viên bộ môn đến tập thể học sinh; sự thống nhất tác

động giáo dục của các đoàn thể, các tổ chức xã hội và gia đình trong công tác

quản lí và giáo dục học sinh.

Tóm lại, giáo viên chủ nhiệm lớp là người vừa thay mặt hiệu trưởng,

thay mặt nhà trường để quản lí và giáo dục toàn diện học sinh; là cầu nối giữa

các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường với tập thể học sinh; đồng

thời lại là người đại diện cho quyền lợi và nghĩa vụ của tập thể học sinh.

2. Chức năng của giáo viên chủ nhiệm lớp

a. Quản lí toàn diện hoạt động của học sinh trong một lớp học

Lớp học là một đơn vị cơ bản trong hệ thống giáo dục của nhà trường,

nơi diễn ra các hoạt động dạy học và giáo dục toàn diện đối với mỗi học sinh

trong lớp. Xét về mặt quyền lực hành chính, giáo viên chủ nhiệm là người

thay mặt hiệu trưởng chịu trách nhiệm quản lí toàn diện học sinh lớp mình

phụ trách. Chức năng quản lí đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm lớp phải tiến hành

công việc vừa mang tính hành chính vừa mang tính khoa học. nghệ thuật.

Công tác quản lí của giáo viên chủ nhiệm phải thống nhất với công tác quản lí

các các khối lớp khác trong nhà trường, chịu sự chỉ đạo của nhà trường và

mang tính hệ thống, kế hoạch cao.

Để thực hiện chức năng quản lí có hiệu quả, giáo viên chủ nhiệm cần

nắm vững mục tiêu giáo dục của lớp học, bậc học và cấp học, hiểu đầy đủ kế

hoạch, chương trình dạy học và giáo dục. Đặc biệt, cần phải dựa trên các

quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước, những quy định của Bộ Giáo

dục và Đào tạo trong việc xây dựng kế hoạch, tổ chức, triển khai các hoạt

động giáo dục trong lớp học sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn của lớp

Page 133: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

mình phụ trách. Chức năng quản lí cũng đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm lớp phải

nắm vững đầy đủ nghị quyết, sự chỉ đạo của hiệu trưởng nhà trường đối với

lớp học, phổ biến và triển khai đến các thành viên trong lớp và ngược lại,

phản ánh những tâm tư nguyện vọng, những diễn biến về tư tưởng tình cảm

của học sinh đến lãnh đạo nhà trường. Nắm vững các thông tin sẽ giúp cho

giáo viên chủ nhiệm tiến hành quản lí hoạt động của học sinh có hiệu quả.

b. Xây dựng tập thể và giáo dục toàn diện học sinh trong lớp

Giáo viên chủ nhiệm cần tập hợp được học sinh thành một tập thể tự

quản, biết đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, phấn đấu thực hiện mục

tiêu chung, giúp mỗi học sinh có ý thức và năng lực tham gia vào quá trình

giáo dục thành viên khác và giáo dục chính mình. Muốn làm được việc đó,

giáo viên chủ nhiệm lớp cần quan tâm đến việc xây dựng lớp học thành tập

thể tự quản. Một tập thể tự quản là tập thể có đội ngũ cán bộ lớp cán bộ Đoàn

Đội gương mẫu, có năng lực và nhiệt tình trong công tác; tạo ra sự đoàn kết,

nhất trí giữa các thành viên trong lớp, có dư luận tiến bộ lành mạnh, hướng

về lẽ phải, biết bảo vệ những giá trị chân, thiện, mĩ, biết lên án những thói hư,

tật xấu, những lối sống không lành mạnh; là tập thể có khả năng đề ra được

mục tiêu phấn đấu và biến chúng thành các kế hoạch và hoạt động cụ thể.

Xây dựng tập thể gắn liền với việc giáo dục toàn diện về trí tuệ, đạo

đức, thẩm mĩ và thể chất cho học sinh trong tập thể. Khắc phục tình trạng học

kém, lưu ban và chậm tiến về mặt đạo đức trong tập thể. Hình thành và phát

triển những phẩm chất và năng lực của con người mới, đáp ứng yêu cầu của

mục đích giáo dục.

Trong quá trình xây dựng tập thể và giáo dục toàn diện cho học sinh,

giáo viên chủ nhiệm tham gia với tư cách là người hướng dẫn, điều khiển các

hoạt động của tập thể và các thành viên trong tập thể.

c. Phối hợp và thống nhất các tác động để giáo dục học sinh lớp mình chủ nhiệm

Page 134: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Nhân cách được hình thành không chỉ trong lớp học mà diễn ra ở mọi

lúc, mọi nơi, trong từng khu phố, thôn xóm và gia đình. Trách nhiệm giáo dục

toàn diện học sinh trong lớp đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải chủ động phối

hợp và thống nhất các yêu cầu và các tác động giáo dục trong gia đình, nhà

trường và xã hội. Giáo viên chủ nhiệm lớp là người có vai trò chính, là cầu nối

trong sự phối hợp và thống nhất về yêu cầu và tác động giáo dục trong nội bộ

nhà trường, giữa nhà trường với gia đình và giữa nhà trường với các tổ chức

xã hội.

Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên liên lạc với các giáo viên bộ môn để

nắm tình hình chung của lớp, cùng với họ đề ra các yêu cầu và thống nhất

thực hiện các yêu cầu đó với tập thể học sinh. Thực tế cho thấy, nếu không

có sự phối hợp chặt chẽ với các giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm không

thể hoàn thành tốt các chức năng giáo dục của mình.

Giáo viên chủ nhiệm là người thay mặt cho hiệu trưởng nhà trường liên

kết và phối hợp với các lực lượng giáo dục ở địa phương, các tổ chức chính

trị xã hội để phối hợp và thống nhất trong công tác giáo dục học sinh. Giáo

dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, cần lôi cuốn mọi tầng lớp và các tổ

chức xã hội tham gia vào công tác giáo dục. Công tác giáo dục chỉ có thể

thành công khi giáo viên chủ nhiệm biết tập hợp, khai thác và phối hợp các

sức mạnh giáo dục của tập thể cán bộ công nhân viên trong trường, các lực

lượng giáo dục xã hội và gia đình học sinh. Giáo viên chủ nhiệm là người

chuyển tải những chủ trương, chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước

đến các tổ chức xã hội và đến cha mẹ học sinh, góp phần nâng cao nhận

thức và trách nhiệm giáo dục thế hệ trẻ.

d. Kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục toàn diện của học sinh lớp mình chủ nhiệm

Để tiến hành các hoạt động giáo dục, giáo viên chủ nhiệm phải thường

xuyên cập nhật những thông tin về học sinh, tiến hành kiểm tra và đánh giá

sự phấn đấu toàn diện của mỗi học sinh và tập thể lớp. Nếu giáo viên nắm

được những đặc điểm cơ bản về tâm lí, tư tưởng, chính trị đạo đức và các

Page 135: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

mối quan hệ của học sinh với tập thể và những người xung quanh... thì sẽ

thấy được mặt mạnh và yếu của học sinh và tập thể, qua đó có nội dung và

phương pháp giáo dục phù hợp. Theo sát từng bước phát triển của mỗi học

sinh và tập thể lớp, phát hiện ra những yếu tố tích cực và hạn chế của mỗi

học sinh sẽ giúp cho giáo viên chủ nhiệm nâng cao vai trò tự quản của tập thể

học sinh.

Là người quản lí, giáo dục và chịu trách nhiệm về tập thể học sinh

trước hiệu trưởng, giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá

tình hình học sinh để báo cáo cho hiệu trưởng và hội đồng giáo dục của nhà

trường về kết quả tu dưỡng, rèn luyện của học sinh. Để đưa ra được những

nhận định và đánh giá đúng mức, khách quan, giáo viên chủ nhiệm cần có sự

liên kết các giáo viên bộ môn, tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, đội ngũ cán

bộ quản lí lớp..., tham khảo ý kiến của họ. Việc thu thập thông tin phải được

cập nhật thường xuyên, ghi chép cẩn thận và nên sử dụng nhiều phương

pháp và từ các nguồn khác nhau để thu thập thông tin. Khi tiến hành đánh giá

học sinh, giáo viên chủ nhiệm cần đảm bảo tính khách quan, công bằng, công

khai. Đánh giá học sinh cần dựa vào những tiêu chuẩn nhất định. Những tiêu

chuẩn này phổ biến đến từng học sinh, giúp học sinh biết cách tự đánh giá và

hoàn thiện bản thân. Thống nhất đánh giá của giáo viên chủ nhiệm và của tập

thể lớp cũng như tự đánh giá của học sinh.

3. Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm lớp

Theo Điều lệ Nhà trường phổ thông, giáo viên chủ nhiệm lớp có những

nhiệm vụ sáu:

- Tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt để có biện pháp

tổ chức việc giáo dục sát với từng đối tượng nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả

lớp. Đảm bảo việc theo dõi và uốn nắn các hành vi của học sinh trong và

ngoài lớp học, nhằm thực hiện tốt các quy định giáo dục của nhà trường.

- Cùng với các giáo viên khác và cán bộ Đoàn, Đội phối hợp, thống

nhất các biện pháp và kế hoạch giảng dạy và giáo dục của lớp. Điều hòa các

hoạt động hàng ngày của học sinh trong lớp học giúp đỡ và tạo điều kiện thực

Page 136: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

hiện hợp lí các hoạt động học tập, lao động, vui chơi, giải trí. Đảm bảo sự học

tập chuyên cần của học sinh, phát hiện kịp thời những học sinh đi học muốn

và bỏ giờ, bỏ tiết. Đảm bảo và tạo điều kiện cho học sinh tham gia các hoạt

động dạy học và giáo dục theo đúng nội quy, quy chế của nhà trường.

- Cùng với các giáo viên khác và cán bộ Đoàn, Đội xây dựng lớp thành

một tập thể vững mạnh, giúp đỡ và tạo điều kiện cho Đoàn Thanh niên Cộng

sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh của lớp hoạt động,

phát huy ý thức tự chủ, tính tự giác và chủ động của học sinh trong các hoạt

động giáo dục.

- Phối hợp chặt chẽ với gia đình trong công tác giáo dục học sinh.

Nhiệm vụ cơ bản của việc phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với gia đình học

sinh là cùng nhau làm tốt công tác giáo dục toàn diện học sinh. Thường

xuyên thông báo tình hình học tập và tu dưỡng của học sinh về gia đình,

thống nhất với gia đình về các biện pháp quản lí giáo dục học sinh.

- Phối hợp với các giáo viên khác, với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ

Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, với gia đình học sinh tổ

chức, nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh vào cuối học kì và cuối năm

theo nội dung và tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đề nghị khen

thưởng học sinh, đề nghị danh sách học sinh được lên lớp hay phải ở lại...

Giáo viên chủ nhiệm phải báo cáo thường xuyên và định kì với Hiệu trưởng

về tình hình mọi mặt của lớp. Khi có thay đổi giáo viên chủ nhiệm lớp hoặc

học sinh chuyển lên lớp trên thì giáo viên chủ nhiệm cũ phải bàn giao cụ thể

tình hình mọi mặt của lớp cho giáo viên chủ nhiệm mới.

II. GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP VỚI VIỆC XÂY DỰNG TẬP THỂ HỌC SINHDo vị trí và chức năng của mình, nội dung và phương pháp công tác

của giáo viên chủ nhiệm có liên quan đến toàn bộ các hoạt động quản lí và

giáo dục học sinh trong lớp học. Các công việc với gia đình học sinh, các tổ

chức chính trị xã hội và các giáo viên khác đều nhằm mục tiêu giáo dục học

Page 137: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

sinh trong một lớp học cụ thể. Chương này sẽ tập trung vào công tác quản lí

và giáo dục đối với tập thể học sinh.

1. Tập thể học sinh trong nhà trường

a. Chức năng của tập thể học sinh

Trong nhà trường phổ thông, lớp học là đơn vị hành chính cơ bản, một

tế bào hữu cơ của hệ thống nhà trường. Các hoạt động quản lí giáo dục của

giáo viên chủ nhiệm chủ yếu diễn ra theo đơn vị lớp học. Tập thể học sinh

vừa là khách thể chịu sự tác động sư phạm của giáo viên vừa là chủ thể có

ảnh hưởng tích cực đến các thành viên khác trong lớp học.

Tác động của tập thể đến các thành viên của lớp học thông qua chức

năng tổ chức quản lí, giáo dục và động viên của tập thể. Với chức năng tổ

chức và quản lí, tập thể tập hợp các thành viên có cùng mục đích, lí tưởng,

cùng tham gia thực hiện các hoạt động chung của tập thể có hiệu quả. Với

chức năng giáo dục, tập thể góp phần chuyển hóa các quy tắc, các chuẩn

mực xã hội về đạo đức, lao động, thể chất, thẩm mĩ thành thói quen hành vi

văn hóa của học sinh. Tập thể còn có tác dụng kích thích động viên tính tích

cực của các thành viên, điều chỉnh những hành vi ứng xử của học sinh qua

dư luận tập thể.

Xây dựng tập thể vững mạnh, lấy tập thể học sinh để quản lí và giáo

dục học sinh là nhiệm vụ trọng tâm của mỗi giáo viên chủ nhiệm. Công tác

quản lí và giáo dục toàn diện học sinh chỉ thực sự có kết quả khi họ xây dựng

lớp học trở thành tập thể đoàn kết thân ái, có tổ chức và kỉ luật tự giác, biết

giúp đỡ và tạo điều kiện cho mỗi thành viên trong tập thể phấn đấu vươn lên.

b. Đặc trưng của tập thể học sinh

Tập thể học sinh không phải tự nó hình thành, không phải cứ có 40 - 50

học sinh có cùng một độ tuổi, cùng trình độ nhận thức, cùng ngồi cạnh nhau

trong một lớp học được gọi là tập thể học sinh. Tập thể học sinh là một hình

thái tổ chức đời sống xã hội, một đơn vị tự quản trong nhà trường, các học

sinh được tập hợp lại trên cơ sở nguyên tắc và kỉ luật tự giác, cùng nhau

Page 138: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

phấn đấu, học tập và rèn luyện nhằm đạt được những mục tiêu chung. Có thể

phân biệt được tập thể với đám đông, tập thể chân chính với tập thể giả hiệu,

tập thể học sinh với các tập thể khác qua các đặc trưng sau:

- Có mục đích chung. Tập thể được hình thành trên cơ sở mục đích

chung, phù hợp với lợi ích của thành viên trong tập thể và xã hội. Mục đích

chính là lí do tồn tại của tập thể. Mục đích của tập thể học sinh là trau dồi kiến

thức, đạo đức, là sự chuẩn bị những phẩm chất và năng lực để tham gia vào

cuộc sống lao động xã hội.

- Có hoạt động chung. Mục đích chung của tập thể được thực hiện

thông qua các hoạt động chung. Hoạt động của tập thể học sinh là cùng nhau

học tập, rèn luyện và tu dưỡng. Đó chính là các hoạt động học tập, lao động

công ích, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao, vui chơi giải trí...

- Có cơ quan tự quản. Để tiến hành các hoạt động chung, tập thể học

sinh được xây dựng thành một tổ chức chặt chẽ, tự quản; đội ngũ cán bộ do

tập thể bầu ra được phân công trách nhiệm rõ ràng, hoạt động theo cơ chế

dân chủ.

- Là một bộ phận của tập thể nhà trường, tập thể học sinh có quan hệ

mật thiết với các tập thể khác, phục tùng và thống nhất giữa lợi ích xã hội, lợi

ích tập thể và lợi ích cá nhân.

- Thành phần của tập thể học sinh là các em ở cùng độ tuổi, cùng trình

độ. Sự tồn tại của tập thể được tính theo năm học, khoá học. Tập thể học

sinh phát triển tốt sẽ có dư luận lành mạnh, tiến bộ; kỉ luật tự giác được hình

thành; các mối quan hệ xã hội trong tập thể lành mạnh, mọi người quan tâm

và giúp đỡ lẫn nhau.

2. Nội dung và phương pháp công tác của giáo viên chủ nhiệm lớp với tập thể học sinh

a. Tìm hiểu tình hình học sinh

* Ý nghĩa của việc tìm hiểu tình hình học sinh

Page 139: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Hiểu đối tượng có vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ quá trình hoạt

động giáo dục của giáo viên chủ nhiệm lớp. Có nắm được tình hình mọi mặt

của học sinh mới có cơ sở thực hiện nguyên tắc tính vừa sức trong giáo dục

và các hoạt động quản lí và giáo dục học sinh. Mọi hành động giáo dục như

xây dựng mục tiêu, nội dung, lựa chọn phương pháp và hình thức giáo dục

đều phải căn cứ vào đối tượng giáo dục và phụ thuộc vào những hiểu biết về

đối tượng giáo dục của giáo viên chủ nhiệm lớp. Vì thế, cần phải quan tâm

đến việc nắm vững tình hình mọi mặt của học sinh, đây là nhiệm vụ và nội

dung cần được tiến hành trước tiên đối với giáo viên chủ nhiệm lớp.

Tìm hiểu tình hình học sinh nhằm phục vụ cho công tác quản lí và giáo

dục các em. Để làm được điều này, giáo viên chủ nhiệm phải tìm hiểu thật

đầy đủ về các mặt của mỗi cá nhân trong tập thể, hoàn cảnh sống và các mối

quan hệ đa dạng có liên quan đến các nội dung giáo dục toàn diện.

* Nội dung của việc tìm hiểu tình hình học sinh bao gồm:

- Tìm hiểu về tư tưởng, chính trị, đạo đức của học sinh: là tìm hiểu về

nhận thức, thái độ, hành vi của các em với các sự kiện chính trị xã hội, với tập

thể và những người xung quanh của học sinh. Xem xét tính tự giác của học

sinh khi tham gia vào lao động, khi thực hiện các nhiệm vụ được giao trong

tập thể, thực hiện các nội quy, quy chế của trường và lớp, ý thức, hành vi và

thái độ đối với thầy với bạn...

- Tìm hiểu về học tập của học sinh: là tìm hiểu về động cơ và thái độ

đối với học tập, cách thức thực hiện các hoạt động học tập ở lớp cũng như ở

nhà, mức độ cố gắng và kết quả học tập của học sinh. Giáo viên chủ nhiệm

cần phân tích những điểm mạnh và hạn chế của học sinh trong việc tổ chức

hoạt động tự học, trên cơ sở đó tìm ra các biện pháp nâng cao kết quả học

tập của học sinh trong lớp.

Tìm hiểu về sự phát triển thể chất: là quan tâm đến tình trạng sức khỏe

và mức độ mệt mỏi của học sinh trong các hoạt động học tập và các hoạt

động khác. Nắm vững tình hình sức khỏe và vệ sinh phòng bệnh trong phạm

vi lớp học và từng cá nhân học sinh, đảm bảo cho mọi học sinh trong lớp có

Page 140: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

điều kiện phát triển thể chất bình thường. Giúp các em có điều kiện phòng

chống dịch bệnh và nâng cao sức khỏe thể chất.

- Tìm hiểu sự phát triển về mặt văn hóa thẩm mĩ ở học sinh: là tìm hiểu

những hiểu biết của học sinh về văn hóa và thẩm mĩ; tìm hiểu nhu cầu và thị

hiếu thẩm mĩ trong việc thưởng thức các tác phẩm văn hóa nghệ thuật; tìm

hiểu khả năng sáng tạo cái đẹp trong cuộc sống cũng như trong học tập.

- Tìm hiểu về lao động và lựa chọn nghề nghiệp ở học sinh: là những

hoạt động của giáo viên hướng vào việc tìm hiểu ý thức, thái độ và kĩ năng

tiến hành các hoạt động lao động sản xuất; tổ chức các hoạt động lao động

khoa học của học sinh. Đối với học sinh Trung học, giáo viên chủ nhiệm cần

quan tâm đến hứng thú và sự lựa chọn nghề nghiệp của học sinh, tạo điều

kiện cho các em có thể lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với hứng thú và khả

năng của của mình.

- Tìm hiểu những ảnh hưởng của giáo dục gia đình, bạn bè và xã hội

đối với sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh.

* Tìm hiểu tình hình học sinh bằng những cách thức sau:

- Nghiên cứu hồ sơ học sinh: nghiên cứu học bạ, lí lịch của học sinh và

cha mẹ các em, nghiên cứu hồ sơ sổ sách của lớp. Học bạ của học sinh là hồ

sơ ghi tương đối đầy đủ về tình hình học tập, tu dưỡng, khen thưởng và kỉ

luật đối với mỗi học sinh. Nghiên cứu học bạ sẽ cho giáo viên hiểu biết khái

quát về tình tình học sinh qua những năm học trước. Lí lịch cá nhân cho biết

về hoàn cảnh xuất thân, các mối quan hệ trong gia đình và xã hội của học

sinh. Nắm được lí lịch học sinh sẽ cho giáo viên có được phương pháp tác

động giáo dục học sinh trong lớp phù hợp. Sổ sách và hồ sơ lớp học mô tả

tương đối đầy đủ tình hình tiến hành các hoạt động của học sinh lớp chủ

nhiệm. Dựa vào sổ ghi đầu bài, giáo viên chủ nhiệm có thể biết được tình

hình chung của lớp diễn ra trong ngày: ai là người đi học muộn, không học

bài, ai là người học và làm bài đầy đủ, hăng hái phát biểu ý kiến, tình hình vệ

sinh và trật tự trong lớp học. Vì thế những giáo viên chủ nhiệm có kinh

Page 141: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

nghiệm thường quan tâm đến các loại hồ sơ sổ sách ghi chép về lớp học và

tình hình hoạt động của học sinh.

- Quan sát và nghiên cứu sản phẩm hoạt động của học sinh lớp chủ

nhiệm.

Nghiên cứu sổ sách và các hồ sơ của lớp giúp cho giáo viên biết được

khái quát tình hình của lớp. Tuy nhiên, nếu quá dựa vào những ghi chép sẽ

mắc bệnh quan liêu. Giáo viên chủ nhiệm cần kiểm tra lại những thông tin thu

được qua hồ sơ bằng việc quan sát hàng ngày các hoạt động tập thể, học

tập, lao động vui chơi giải trí; thái độ, hành vi của học sinh trong lớp và ngoài

lớp. Các sản phẩm lao động, học tập cũng phản ánh được sự phát triển nhân

cách của học sinh, vì thế giáo viên cần dựa vào để nắm vững tình hình học

sinh.

- Sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học để tìm hiểu tình hình

học sinh như soạn thảo các câu hỏi trắc nghiệm, thiết kế các phiếu điều tra,

thực hiện quan sát sư phạm. Sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học

vào việc nắm vững tình hình học sinh còn được thể hiện qua cách ghi chép,

xử lí các sự kiện và rút ra các kết luận khoa học phản ánh được đúng đắn

bản chất nhân cách của mỗi học sinh và trình độ phát triển của tập thể.

Nắm vững đặc điểm học sinh là việc làm rất quan trọng, nó là cơ sở

cho toàn bộ công việc quản lí giáo dục tập thể học sinh, các kết luận về học

sinh và tập thể phải mang tính khách quan và phản ánh đúng trình độ phát

triển nhân cách của học sinh cũng như trình độ phát triển của tập thể lớp.

b. Nội dung và phương pháp xây dựng tập thể học sinh

* Xây dưng mục tiêu phát triển tập thể

Tập thể học sinh cần được phát triển không ngừng với những mục tiêu,

hoạt động ngày càng phong phú đa dạng và cao hơn. Không tiến lên phía

trước hoặc dừng lại tại chỗ thì tập thể sẽ suy yếu và tan vỡ. Vì vậy, đặt ra

những mục tiêu (hay viễn cảnh) ngày một phức tạp, hấp dẫn hơn và thu hút

tập thể học sinh vào việc thực hiện mục tiêu mong muốn là điều kiện quan

Page 142: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

trọng giúp cho việc củng cố và phát triển học sinh. Xây dựng viễn cảnh sẽ

giúp cho các thành viên trong tập thể thấy được tương lai tươi đẹp của mình,

của tập thể góp phần kích thích tính tích cực hoạt động,. mang lại niềm hi

vọng, tình cảm lạc quan, yêu đời trong tập thể. Macarencô gọi những viễn

cảnh là "niềm vui ngày mai" của tập thể.

Đối với tập thể học sinh, hệ thống viễn cảnh là tổng thể những mục tiêu

được đề ra trước tập thể do những đòi hỏi khách quan của đời sống xã hội và

nhà trường, đồng thời có ý nghĩa quan trọng đối với tập thể và cá nhân. Xét

về mặt thời gian có ba loại viễn cảnh là viễn cảnh gần, viễn cảnh trung bình

và viễn cảnh xa.

Trong công tác của giáo viên chủ nhiệm, khi xây dựng hệ thống viễn cảnh cần

tập trung vào việc nâng cao chất lượng các hoạt động học tập và rèn luyện

của tập thể học sinh. Điều quan trọng là phải giúp cho các thành viên trong

tập thể biết tự đặt ra cho mình những mục tiêu, cụ thể, vừa sức, rõ ràng và có

tính khả thi. Gắn mục tiêu của cá nhân với mục tiêu của tập thể, mục tiêu gần

với mục tiêu xa, mục tiêu có tính cụ thể và mục tiêu mang tính khái quát.

Chẳng hạn những mục tiêu cụ thể như nắm vững bài học, thuộc bài khi tới

lớp, không đi học muộn... đến những mục tiêu có tính khái quát hơn như xây

dựng tập thể thành tập thể tiên tiến, xuất sắc, không có học sinh chậm tiến về

đạo đức.... Xây dựng mục tiêu cần chính xác về nội dung (mục tiêu có thể đo

được, đánh giá được, phù hợp với trình độ phát triển của tập thể...), hấp dẫn

về hình thức để có sức lôi cuốn mọi người thực hiện.

Khi đã xác định được mục tiêu, giáo viên chủ nhiệm cần tổ chức hoạt

động thi đua trong tập thể. Thi đua sẽ góp phần động viên, lôi cuốn mọi thành

viên hào hứng và tự giác thực hiện các mục tiêu mà tập thể đã đề ra.

* Xây dưng đội ngũ cán bộ lớp và các mối quan hệ tốt đẹp trong tập thể

Muốn hoạt động có hiệu quả, tập thể cần có bộ phận làm công tác tổ

chức và điều phối các hoạt động của mình. Với tập thể học sinh, bộ phận đó

là hàng ngũ cán bộ lớp và cán bộ Đoàn, Đội - những thành viên tích cực

được tập thể tín nhiệm bầu ra. Đó là những người chịu trách nhiệm chính

Page 143: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

trong việc xây dựng và triển khai kế hoạch về các công việc chung; phân công

và kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của các thành viên; phối hợp và thống

nhất công việc ở các đơn vị cơ sở. Khi xây dựng bộ máy lãnh đạo, giáo viên

chủ nhiệm cần làm cho học sinh trong lớp hiểu rõ cơ cấu, thành phần tổ chức

lớp, chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ lớp, hiểu rõ cơ chế, quy chế

hoạt động và điều hành của đội ngũ cán bộ lớp, tạo điều kiện cho đội ngũ cán

bộ hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Trong tập thể tồn tại ba loại quan hệ, được biểu hiện như sau:

- Quan hệ phục tùng của các thành viên đối với nội quy của tập thể.

Tôn trọng và tuân theo những quy định sẽ tạo nên sức mạnh của tập thể, đảm

bảo tập thể phát triển đúng hướng và đạt được các mục tiêu đề ra. Vì thế,

giáo viên chủ nhiệm cần giúp đỡ tập thể xây dựng, thực hiện và giám sát việc

thực hiện nội quy đã đề ra.

Quan hệ của các thành viên đối với công việc được giao, thể hiện trách

nhiệm của cá nhân đối với công việc. Trong tập thể, mỗi thành viên có một vị

trí, vai trò và trách nhiệm nhất định trong việc thực hiện nhiệm vụ chung. Xây

dựng mối quan hệ đối với công việc là tạo điều kiện cho mỗi người hoàn

thành tốt nhiệm vụ của mình và nhiệm vụ chung của tập thể, làm cho các

thành viên trong tập thể đoàn kết gắn bó với nhau.

- Quan hệ tình cảm riêng tư giữa các thành viên trong tập thể, chúng

được hình thành trong quá trình hoạt động và giao tiếp trong tập thể. Quan hệ

tình cảm tốt đẹp sẽ tạo nên sự đoàn kết gắn bó, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau

giữa các thành viên. Một tập thể có các mối quan hệ tốt đẹp là tập thể phát

triển cao. Vì thế, để xây dựng tập thể học sinh, giáo viên chủ nhiệm cần quan

tâm đến các mối quan hệ trên.

* Xây dưng dư luận và truyền thông của tập thể học sinh

Việc hình thành dư luận lành mạnh là yếu tố quan trọng của sự phát

triển và trưởng thành của tập thể. Dư luận tập thể bao gồm những phán đoán

và những đòi hỏi có tính chất đánh giá của đa số thành viên trong tập thể đối

Page 144: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

với các sự kiện (ý nghĩ, lời nói, hành động việc làm) có liên quan đến tập thể

và các giá trị xã hội. Dư luận có sức mạnh to lớn trong việc điều chỉnh các

mối quan hệ trong tập thể, xây dựng động cơ hoạt động, hoàn thiện hành vi

ứng xử của cá nhân. Dư luận mang tính giáo dục sâu sắc nên người giáo

viên chủ nhiệm cần biết cách xây dựng dư luận lành mạnh và hướng chúng

vào công tác giáo dục học sinh.

Xây dựng dư luận là xây dựng những ý kiến đánh giá và đòi hỏi chung

của tập thể đối với hành vi cá nhân. Việc này có thể tiến hành trong quá trình

hoạt động học tập, lao động, hoạt động xã hội..., qua các biện pháp như tranh

luận, trao đổi ý kiến, báo tường, truyền thanh.... Tuy nhiên, trước một sự kiện

trong tập thể có thể có nhiều ý kiến và đánh giá khác nhau, giáo viên chủ

nhiệm cần định hướng sao cho phù hợp với giá trị và chuẩn mực của tập thể,

của xã hội. Định hướng dư luận chính là hướng dư luận của tập thể vào nhận

thức và hành vi sai trái của các thành viên, giúp họ khắc phục và điều chỉnh

sao cho phù hợp với những giá trị chung của tập thể.

Truyền thống là những nét đẹp tiêu biểu, những tác động và hợp tác đã

được củng cố thành những nghi lễ, tập quán tương ứng. Nét đặc trưng nhất

của truyền thống là bao gồm những nguyện vọng cơ bản của tập thể, những

kinh nghiệm hoạt động đã được đúc kết, những quan hệ đã được hình thành,

những giá trị đã được chấp nhận. Vì thế, tác dụng giáo dục của truyền thống

là làm cho các thành viên tự hào về tập thể của mình, có ý thức giữ gìn và

thực hiện những nét đẹp đó.

Truyền thống không phải tự nhiên mà có, nó được hình thành và phát

triển trong quá trình xây dựng và phát triển. Giáo viên chủ nhiệm có thể xây

dựng truyền thống qua việc tổ chức tốt các hoạt động và quan hệ trong tập

thể. Giữ gìn truyền thống đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm tổ chức các cuộc triển

lãm, trưng bày, báo cáo và nhắc lại những ấn tượng tốt đẹp về truyền thống

của tập thể, hình thành ở học sinh lòng mong muốn thực hiện những nét đẹp

của truyền thống. Giáo dục truyền thống cũng đồng thời phải loại bỏ những

Page 145: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

nếp nghĩ, thói quen không phù hợp với các chuẩn mực xã hội, thay thế chúng

bằng những thói quen và truyền thống tốt đẹp hơn.

* Tổ chức các hoạt động trong tập thể học sinh

Cơ sở để tạo lập củng cố và phát triển tập thể học sinh là tổ chức

những hoạt động và giao lưu hướng vào thực hiện các mục tiêu chung của

tập thể. Do đó, con đường quan trọng nhất để xây dựng tập thể học sinh là lôi

cuốn các em tích cực tham gia vào các hoạt động chung của tập thể. Hoạt

động tập thể không những có tác dụng củng cố sự gắn kết các thành viên

trong tập thể mà còn có tác dụng giáo dục tích cực đối với các thành viên.

Bằng hoạt động và thông qua hoạt động, các thành viên trong tập thể mới bộc

lộ hiểu biết, hứng thú và năng lực của mình cũng như hiểu biết lẫn nhau, hình

thành các mối quan hệ tốt đẹp và giúp nhau cùng phát triển.

Hoạt động trong tập thể của học sinh rất đa dạng. Đó là các hoạt động

học tập, lao động sản xuất, thi đấu thể thao, văn hóa văn nghệ, giúp đỡ

những người bị thiệt thòi trong xã hội, vui chơi giải trí... Đó là hoạt động trong

giờ lên lớp và hoạt động ngoài giờ lên lớp.

Hoạt động trong giờ lên lớp là hoạt động học tập văn hóa được tiến

hành theo thời khóa biểu và được quy định chặt chẽ trong kế hoạch dạy học

ở trường phổ thông, được thực hiện chủ yếu dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo

trực tiếp của giáo viên bộ môn. Sự tác động của giáo viên chủ nhiệm đối với

hoạt động này thường thông qua các giáo viên bộ môn và tập trung vào giáo

dục ý thức, động cơ, thái độ học tập của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh

học tập trên lớp thoải mái và đạt kết quả cao.

Tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là nhiệm vụ chủ yếu

của giáo viên chủ nhiệm. Trong nhiều trường phổ thông hiện nay, giáo viên

chủ nhiệm tiến hành các tiết sinh hoạt lớp, các hoạt động ngoại khóa về văn

hóa thể thao, các hoạt động tham quan dã ngoại, hoạt động giáo dục hướng

nghiệp... Mỗi hoạt động trên tuy có những đặc điểm riêng về nội dung và

phương pháp tiến hành nhưng lại có điểm chung là đều nhằm bổ sung, hoàn

thiện những nội dung giáo dục qua các tiết học trên lớp. Vì thế có thể khẳng

Page 146: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

định, hoạt động ngoài giờ lên lớp là sự nối tiếp hoạt động dạy học trên lớp

trong trường phổ thông, tạo nên sự phát triển hài hòa, cân đối trong nhân

cách người học. Hoạt động ngoài giờ lên lớp có tác dụng củng cố phát triển

những mối quan hệ tốt đẹp trong tập thể, tạo nên sự gắn bó giữa các thành

viên. Nếu giáo viên chủ nhiệm tổ chức có hiệu quả, hoạt động giáo dục ngoài

giờ lên lớp sẽ phát huy được tiềm năng của các lực lượng xã hội và gia đình

vào công tác giáo dục, góp phần phát triển toàn diện nhân cách cho các em.

Biện pháp này còn thống nhất giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và

xã hội, là biện pháp lôi cuốn các lực lượng xã hội tham gia vào công tác giáo

dục toàn diện cũng như trở thành phương tiện quan trọng trong công tác giáo

dục học sinh của giáo viên chủ nhiệm.

Nội dung và hình thức hoạt động ngoài giờ lên lớp

- Hoạt động ngoài giờ lên lớp mang nội dung xã hội nhân văn: những

hoạt động này thường tập trung vào những ngày lễ lớn, những sự kiện chính

trị xã hội có ảnh hưởng quan trọng đến nhận thức, thái độ và hành vi của mỗi

người như: hoạt động kỉ niệm những ngày lễ lớn; hoạt động hưởng ứng chủ

trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta như vấn đề thực hiện

an toàn giao thông, thực hiện vệ sinh phòng bệnh, chông ô nhiễm môi trường,

trợ giúp những người nghèo, cô đơn không nơi nương tựa...

- Hoạt động ngoài giờ lên lớp mang nội dung tìm hiểu khoa học như tổ

chức các cuộc chơi tìm hiểu khoa học theo các môn học và chuyên đề. Tổ

chức cho học sinh nghe nói chuyện và tham quan các cơ sở nghiên cứu khoa

học; tham gia các câu lạc bộ về khoa học kĩ thuật hoặc về ngành nghề mà

các em yêu thích, tập ứng dụng những thành tựu khoa học vào thực tiễn đời

sống....

- Hoạt động ngoài giờ lên lớp với nội dung văn hóa nghệ thuật và thẩm

mĩ: đây là những hoạt động nhằm mục đích nâng cao nhận thức và thị hiếu

thẩm mĩ cho học sinh, giúp các em hiểu được cái đẹp, đánh giá đúng cái đẹp

và sáng tạo được cái đẹp trong cuộc sống và nghệ thuật. Cần tổ chức cho

học sinh xem phim, biểu diễn văn nghệ; ở mức độ cao hơn là tổ chức cho các

Page 147: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

em tham gia vào các hoạt động văn hóa, văn nghệ lành mạnh như tổ chức hội

diễn văn nghệ với các chủ đề và nội dung phong phú đa dạng; tổ chức các

cuộc thi như học sinh thanh lịch, cắm hoa, nấu ăn...

- Hoạt động ngoài giờ lên lớp với nội dung thể thao, giải trí: đó là các

hoạt động thể dục giữa giờ, hoạt động vui chơi giải trí, tổ chức Hội khỏe Phù

đổng, thi đấu thể thao...

- Hoạt động ngoài giờ lên lớp với nội dung lao động và hướng nghiệp.

Giáo viên chủ nhiệm tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động lao động

tự phục vụ như trực nhật, sửa chữa bàn ghế, trang trí lớp học; các hoạt động

lao động hàng tuần; thực hiện các nội dung giáo dục nghề nghiệp và hướng

nghiệp trong trường phổ thông.

Như vậy, các nội dung giáo dục ngoài giờ lên lớp rất phong phú và đa

dạng, chúng phục vụ cho các mục tiêu giáo dục toàn diện, bổ sung và khắc

phục những nhược điểm của hoạt động giáo dục trong giờ lên lớp. Các nội

dung giáo dục trên được tiến hành chủ yếu thông qua tiết sinh hoạt tập thể

lớp hàng tuần và sinh hoạt chủ điểm giáo dục hàng tháng. Những hoạt động

này đã được quy định và dành thời gian trong kế hoạch dạy học của trường

phổ thông trung học, thực hiện chúng chủ yếu dưới sự tổ chức điều khiển của

giáo viên chủ nhiệm lớp.

Phương pháp tiến hành hoạt động ngoài giờ lên lớp

Để tổ chức có hiệu quả một hoạt động ngoài giờ lên lớp, giáo viên chủ

nhiệm cần thực hiện tốt các bước sau:

- Xác định mục tiêu và yêu cầu cần phải đạt được của hoạt động ngoài

giờ lên lớp. Mục tiêu càng cụ thể, rõ ràng và đầy đủ thì việc đánh giá kết quả

hoạt động sẽ có căn cứ xác đáng. Khi xây dựng mục tiêu hoạt động ngoài giờ

lên lớp, giáo viên chủ nhiệm cần quan tâm đến các yêu cầu về nhận thức, thái

độ và hành vi của học sinh trong lớp.

- Chuẩn bị cho hoạt động ngoài giờ lên lớp: hiệu quả hoạt động ngoài

giờ lên lớp phụ thuộc phần lớn vào công tác chuẩn bị của người giáo viên.

Page 148: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Trong quá trình chuẩn bị, giáo viên chủ nhiệm nên mở rộng, phát huy dân chủ

và tinh thần tự quản của học sinh, khuyến khích đội ngũ cán bộ lớp và tập thể

học sinh bàn bạc, trao đổi cùng tìm ra những hình thức và nội dung hoạt động

cho phù hợp với hứng thú và thực tiễn lớp học.

- Tiến hành và kết thúc hoạt động: Để tiến hành hoạt động có hiệu quả,

giáo viên chủ nhiệm cần tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ lớp và tập thể học

sinh thực hiện chương trình hoạt động theo kế hoạch đã được chuẩn bị từ

trước. Giáo viên chủ nhiệm có kinh nghiệm thường đóng vai trò như một đại

biểu, một thành viên của lớp. Giáo viên chủ nhiệm chỉ xuất hiện khi nảy sinh

tình huống bất ngờ mà học sinh không có khả năng xử lí. Kết thúc hoạt động,

giáo viên chủ nhiệm cần tạo điều kiện cho người điều hành và tập thể đánh

giá và rút kinh nghiệm, chỉ ra những điểm đạt được và những vấn đề cần phải

lưu ý thêm.

d. Giáo dục học sinh chậm tiến về đạo đức

* Ý nghĩa của việc giáo dục học sinh chậm tiên về đạo đức

Quá trình giáo dục hướng vào việc hình thành nhân cách phát triển

toàn diện của học sinh. Tuy nhiên, một số học sinh có những hành vi thói

quen không phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội, thường được gọi là

học sinh chậm tiến về đạo đức. Các hoạt động của giáo viên chủ nhiệm

hướng vào sự thay đổi những quan điểm, phán đoán và đánh giá không đúng

đắn của học sinh, loại bỏ và làm thay đổi những hành vi thói quen không phù

hợp với các chuẩn mực xã hội được gọi là công tác giáo dục học sinh chậm

tiến về đạo đức. Giáo dục học sinh chậm tiến về đạo đức có vai trò đặc biệt

quan trọng trong công tác của giáo viên chủ nhiệm. Công tác quản lí giáo dục

của giáo viên chủ nhiệm chỉ thực sự có kết quả khi người giáo viên chủ nhiệm

khắc phục được tình trạng chậm tiến về đạo đức học sinh. Các giáo viên chủ

nhiệm giỏi thường có nhiều những kinh nghiệm quý báu và thành công trong

việc cảm hóa, giáo dục học sinh chậm tiến về đạo đức.

* Nguyên nhân học sinh chậm tiến về đạo đức và phương pháp khắc

phục

Page 149: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Sự chậm tiến về đạo đức bao giờ có những nguyên nhân chủ quan và

khách quan nhất định. Vì thế, muốn giáo dục học sinh chậm tiến về đạo đức,

giáo viên chủ nhiệm phải tìm hiểu nguyên nhân và mức độ chậm tiến, trên cơ

sở đó có phương pháp khắc phục phù hợp. Nguyên nhân học sinh chậm tiến

về đạo đức được lí giải theo nhiều cách khác nhau. Nhìn chung, những

nguyên nhân thường được đề cập là:

- Những thiếu sót trong môi trường xã hội

Môi trường ngoài nhà trường (gia đình đường phố...) nhiều khi có tác

động mạnh mẽ đến nhân cách của trẻ. Để khắc phục nguyên nhân này, giáo

viên chủ nhiệm cần quan tâm đến việc xây dựng môi trường giáo dục thống

nhất, hướng vào sự hình thành và phát triển nhân cách lành mạnh cho học

sinh.

- Những nguyên nhân về phát triển tâm lí

Không ít học sinh chậm tiến về đạo đức có liên quan đến sự phát triển

tâm lí với những nhu cầu không lành mạnh, những nhận thức và thái độ lệch

lạc, sự không ổn định về tâm lí, rối loạn thần kinh chức năng, dễ bị kích động,

khả năng nhận thức học tập bị hạn chế. Một số học sinh có sức khỏe tốt, phát

triển cơ thể khoẻ mạnh song sự phát triển trí tuệ lại hạn chế, kết quả học tập

thấp nên chán học và thường xuyên bỏ học, vi phạm những quy định trong

lớp... Để khắc phục nguyên nhân này, trong một số trường hợp cần có sự can

thiệt của y học, sinh học. Tuy nhiên, giáo viên chủ nhiệm cũng cần tìm ra

những nguyên nhân về mặt giáo dục đạo đức. Đây là những em không hiểu

hoặc hiểu không đúng đắn về những chuẩn mực đạo đức; có những thái độ

và hành vi không phù hợp với chuẩn mực xã hội. Do đó, giáo viên chủ nhiệm

cần hiểu rõ bản chất, mức độ và nguyên nhân chậm tiến về đạo đức của các

em nhằm có kế hoạch giáo dục phù hợp.

- Nguyên nhân từ phương pháp giáo dục

Một số giáo viên chủ nhiệm do có cách ứng xử sư phạm không phù

hợp nên đã để lại những hậu quả không tốt. Họ thường đưa ra nhận xét,

Page 150: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

đánh giá và hình thức kỉ luật học sinh một cách vội vã, thiếu khách quan,

không căn cứ vào ý kiến của tập thể, làm ảnh hưởng tới mối quan hệ thầy trò.

Việc cư xử thiếu tế nhị như: thường xuyên nhắc nhở và khiển trách những

khuyết điểm của học sinh, hay nhắc lại những khuyết điểm cũ, hoặc áp đặt

đánh giá chủ quan của mình với các hành vi chuẩn của học sinh đã gây ấn

tượng xấu với học trò, phản tác dụng giáo dục.

Giáo dục chỉ có hiệu quả trên cơ sở phát huy những ưu điểm, hạn chế

nhược điểm của người được giáo dục. Con người luôn có nhu cầu tự khẳng

định, đặc biệt với học sinh đầu tuổi thanh niên đang muốn vươn lên trở thành

người lớn thì nhu cầu này càng mạnh mẽ. Vì vậy, khen nhiều hơn chê,

thưởng nhiều hơn phạt một cách đúng mức là con đường giáo dục đem lại

hiệu quả cao. Nếu giáo viên chủ nhiệm đề ra yêu cầu đối với học sinh một

cách vô lí hoặc đòi hỏi học sinh thực hiện nhiều yêu cầu ngay một lúc (có khi

quá sức), hoặc thiếu thống nhất về ý kiến và thái độ giữa giáo viên chủ nhiệm

với tập thể sư phạm cũng làm ảnh hưởng tới việc phát triển đạo đức của học

sinh.

Giáo viên chủ nhiệm cần có sự bàn bạc thống nhất với các giáo viên bộ

môn, với Hội đồng giáo dục của nhà trường, với các bậc cha mẹ học sinh khi

đưa ra các yêu cầu giáo dục cho học sinh chậm tiến. Yêu cầu giáo dục chỉ có

hiệu quả khi được tập thể lớp đồng tình và ủng hộ. Vì thế, giáo viên chủ

nhiệm cần làm cho những yêu cầu này đến một các tự nhiên như một sự đòi

hỏi tất yếu trong cuộc sống và hoạt động của lớp học, tránh cho học sinh có

cảm giác bị áp đặt. Giáo viên chủ nhiệm thường giữ vai trò là người cố vấn tin

cậy của tập thể học sinh, tạo điều kiện cho tập thể đề xuất các yêu cầu với

những học sinh chậm tiến, chỉ có ý kiến can thiệp khi thấy thật sự cần thiết.

Thống nhất các yêu cầu và tác động giáo dục, tạo ra dư luận lành mạnh tiến

bộ trong tập thể, thương yêu tôn trọng và yêu cầu cao đối với học sinh là

những nguyên tắc quan trọng mà người giáo viên cần quán triệt trong việc

giáo dục học sinh chậm tiến về đạo đức.

Page 151: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

3. Các giai đoạn phát triển của tập thể học sinh và yêu cầu đối với giáo viên chủ nhiệm

Tập thể học sinh là đối tượng tác động sư phạm của người giáo viên

chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm là người thiết kế, tổ chức, quản lí tạo điều

kiện cho tập thể phát triển liên tục và bền vững. Những tác động sư phạm của

giáo viên chủ nhiệm có thể được thực hiện bằng hai con đường: tác động

trực tiếp đến từng học sinh hoặc tác động đến học sinh thông qua việc xây

dựng tập thể. Kinh nghiệm giáo dục của Macarenco cho thấy, giáo dục chỉ

thành công khi người giáo viên tổ chức tất tập thể học sinh. Tập thể học sinh

vừa là phương tiện, vừa là điều kiện vừa là mục tiêu giáo dục của giáo viên

chủ nhiệm lớp.

Tập thể học sinh được hình thành và phát triển liên tục qua các giai

đoạn. Mỗi giai đoạn được thể hiện bởi các dấu hiệu khác nhau, đặc biệt là hai

dấu hiệu quan trọng: Ai đề ra yêu cầu đối với tập thể (giáo viên chủ nhiệm,

cán bộ lớp hay tất cả các thành viên trong tập thể); Các thành viên trong tập

thể chấp nhận yêu cầu đó ra sao (bắt buộc hay tự giác, chủ động...). Căn cứ

vào những dấu hiệu này, các nhà lí luận giáo dục chỉ ra ba giai đoạn phát

triển của tập thể học sinh như sau:

a. Giai đoạn 1

Đặc điểm cơ bản của giai đoạn này là tập thể mới hình thành, các

thành viên trong tập thể mới được tập hợp, còn chưa hiểu biết nhiều về nhau,

các mối quan hệ trong tập thể còn nhiều bỡ ngỡ. ở giai đoạn này nhà giáo

dục cần phải trực tiếp giải quyết các công việc. Nhà giáo dục vừa là người đề

ra các yêu cầu, vừa là người giám sát thực hiện các yêu cầu đó trong tập thể.

Công việc này dừng lại khi có ban cán sự lớp được chỉ định, khi tập thể lớp

đã hoạt động và dần dần đi vào nền nếp, các thành viên trong tập thể hiểu

biết nhau hơn. Ở cuối giai đoạn này đã xuất hiện những phần tử tích cực, chủ

động và xung phong thực hiện các công việc chung.

b. Giai đoạn 2

Page 152: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Các mối quan hệ trong tập thể đã được hình thành, tập thể đã bầu ra

được ban lãnh đạo cho mình. Các mối quan hệ trong tập thể đã có sự phân

hoá đối với việc thực hiện các yêu cầu của tập thể. Yêu cầu của giáo viên chủ

nhiệm và tập thể được đa số các thành viên chấp nhận và ủng hộ. Trong quá

trình thực hiện những yêu cầu tập thể dần dần hình thành các mối quan hệ,

dư luận và truyền thống của tập thể đã bắt đầu được hình thành và phát huy

tác dụng. Sự phát triển này của tập thể làm cơ sở cho việc chuyển sang giai

đoạn thứ 3.

c. Giai đoạn 3

Đây là giai đoạn tập thể đã lớn mạnh với đặc trưng cơ bản là đã biết đề

ra yêu cầu cho mình và cho mỗi thành viên. Mỗi thành viên của tập thể cũng

biết tự đề ra yêu cầu đối với bản thân. Các hoạt động của tập thể đã dần dần

đi vào nền nếp. Các mối quan hệ trong tập thể được củng cố và phát huy tác

dụng. Tập thể thực sự trở thành nơi gắn bó tình cảm và trách nhiệm giữa các

cá nhân, lúc này tập thể thực sự trở thành sức mạnh giáo dục tuyệt vời.

Trong giai đoạn này, vai trò của nhà giáo dục được thể hiện như người cố

vấn, người bạn tâm tình, biết cách động viên và giúp đỡ tập thể xác định mục

tiêu và tổ chức các hoạt động thực hiện mục tiêu đó.

Tập thể học sinh được hình thành và phát triển không ngừng qua các

giai đoạn khác nhau. Kết quả của sự hình thành và phát triển đó là do có sự

quan tâm quản lí giáo dục của giáo viên chủ nhiệm, sự cố gắng và ý thức

vươn lên của tập thể lớp. Tài năng sư phạm của người giáo viên chủ nhiệm

thể hiện ở chỗ, trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của tập thể, nhà giáo

dục đưa ra những nội dung và phương pháp tác động phù hợp với tập thể

học sinh

III. XÂY DỰNG KẾ HOẠCH CHỦ NHIỆM LỚP 1. Ý nghĩa của việc xây dựng kế hoạch

Page 153: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Kế hoạch trường học có đặc tính quan trọng là tính liên tục thể hiện một

hệ thống liên tục các mục tiêu liên quan chặt chẽ với nhau, năm học trước

làm cơ sở cho năm sau, hoạt động trước làm cơ sở cho hoạt động sau.... Vì

vậy, kế hoạch nhà trường là tập hợp các mục tiêu có quan hệ chặt chẽ với

nhau, thống nhất bởi mục tiêu chung và hệ thống những biện pháp được xây

dựng trước cho một giai đoạn nhất định nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục đã

được xác định. Kế hoạch còn là chương trình hành động tập thể sư phạm

được xây dựng trên cơ sở những chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước

về giáo dục, được vận dụng và thực hiện trong những điều kiện cụ thể, phù

hợp với đặc điểm của trường.

Trong nhà trường phổ thông có nhiều loại kế hoạch. Kế hoạch của nhà

trường một mặt là sự cụ thể và chi tiết hoá kế hoạch của cơ quan quản lí cấp

trên, mặt khác nó được dựa trên tình hình thực tiễn và nhiệm vụ cụ thể của

nhà trường. Mỗi loại kế hoạch của nhà trường được xác định theo nhiệm vụ

của từng đơn vị công tác (theo tổ chức nhà trường), theo các hoạt động (dạy

học, giáo dục, lao động sản xuất...) và theo thời gian (năm học, học kì, tháng,

tuần). Kế hoạch chủ nhiệm là sự cụ thể hóa kế hoạch của nhà trường, của

khối lớp chủ nhiệm, được thực hiện trong phạm vi một lớp học cụ thể.

Kế hoạch chủ nhiệm lớp thể hiện sự cụ thể hoá quan điểm đường lối

giáo dục của Đảng, các nhiệm vụ năm học, những quy luật và lí luận giáo dục

vào việc thiết kế và thực hiện các mục tiêu giáo dục của nhà trường một cách

cụ thể.

Lập kế hoạch là vạch ra những cách tiếp cận hợp lí để đạt được các

mục tiêu đã đề ra, để sự cố gắng của thầy và trò có hiệu quả. Không có kế

hoạch, hoạt động quản lí sẽ ở trạng thái tự nhiên, hiệu quả thấp. Lập kế

hoạch chủ nhiệm có các mục đích: giảm bớt sự bất định; chú trọng vào các

mục tiêu; tạo khả năng đạt các mục tiêu một cách kinh tế và cho phép giáo

viên chủ nhiệm có thể kiểm soát quá trình tiến hành các nhiệm vụ.

Giáo viên chủ nhiệm cần quan tâm đến việc lập kế hoạch, đến việc thiết

kế những bước đi và việc làm cụ thể theo một trình tự đã được quy định để

Page 154: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

đạt được. mục tiêu đã đề ra. Hình dung được những bước đi cụ thể này, chắc

chắn giáo viên chủ nhiệm lớp sẽ tránh được yếu tố ngẫu nhiên, tùy tiện trong

công tác quản lí và giáo dục tập thể học sinh.

2. Nội dung và phương pháp lập kế hoạch chủ nhiệm lớp

Lập kế hoạch là quyết định trước xem phải làm cái gì? Làm như thế

nào? Khi nào làm? Và ai làm cái đó? Làm việc đó trong những điều kiện

nào?... Lập kế hoạch được hiểu là thiết kế trước bước đi cho hoạt động

tương lai thông qua việc sử dụng và khai thác tối ưu nguồn nhân lực, vật lực

để đạt được những mục tiêu xác định. Lập kế hoạch đòi hỏi phải có tri thức và

kỹ năng tiến hành, xác định được đường lối và đưa ra các quyết định trên cơ

sở các mục tiêu, sự hiểu biết cùng các đánh giá một cách thận trọng.

Kế hoạch chủ nhiệm là sự sáng tạo của giáo viên chủ nhiệm lớp, phản

ánh khả năng xử lí thông tin, xác định mục tiêu, thiết kế và dự đoán các hoạt

động đạt được mục tiêu của họ. Bản kế hoạch công tác của giáo viên chủ

nhiệm thường bao gồm những nội dung chủ yếu sau:

- Tóm tắt tình hình của nhà trường và của lớp học. Phần này yêu cầu

nêu ngắn gọn, rõ ràng đặc điểm năm học của nhà trường, của lớp (những

thuận lợi khó khăn, tình hình học sinh...).

- Xác định rõ mục đích, yêu cầu tiến hành các hoạt động giáo dục.

Phần này yêu cầu viết mục tiêu thật cụ thể, chính xác có thể đo được, quan

sát và đánh giá được: Cụ thể hóa mục tiêu thành các nhiệm vụ phải thực

hiện.

- Xác định những điều kiện, phương tiện, địa điểm và thời gian tiến

hành các hoạt động.

- Xác định các phương pháp kiểm tra và đánh giá việc thực hiện kế

hoạch.

Xây dựng các kế hoạch hoạt động giáo dục trong năm học, giáo viên

chủ nhiệm có thể sắp xếp các hoạt động theo cách sau:

Page 155: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Các

hoạt

động

Thời gian Phân côngChuẩn

bị điều

kiện

Kiểm tra Nhận

xét

đánh

giá

Ghi chú

(sửa đổi

điều chỉnh)Tháng Tuần

Người

phụ

trách

Người

tham

gia

Người

tham

gia

Thời

gian

Thực tiễn cho thấy, kế hoạch của giáo viên chủ nhiệm dù được thiết kế

một cách cẩn thận, có tính đến những tiền đề và những điều kiện nhất định,

song không tránh khỏi những hạn chế do những biến động của thực tiễn đem

lại. Do đó, giáo viên chủ nhiệm cần dựa vào các thông tin thu được, đối chiếu

với mục tiêu để kịp thời điều chỉnh và hoàn thiện kế hoạch một cách linh hoạt

sáng tạp nhằm thực hiện tốt những mục tiêu giáo dục đã đề ra. Giáo viên chủ

nhiệm giỏi là những người biết xây dựng kế hoạch, thực hiện theo kế hoạch

và cũng biết điều chỉnh chúng nếu thấy cần thiết.

V. NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚPThông thường, những người được hiệu trưởng và hội đồng giáo dục

nhà trường tin tưởng và giao phó làm công tác chủ nhiệm lớp là những giáo

viên gương mẫu trong công tác, có năng lực chuyên môn, được học sinh tin

yêu và mến phục. Vì thế, giáo viên chủ nhiệm lớp vừa phải là một giáo viên

tốt, thực hiện tốt và đầy đủ các công việc của một giá.o viên bộ môn, đồng

thời họ phải hiện tốt các yêu cầu của giáo viên chủ nhiều lớp. Mỗi giáo viên

và cán bộ giáo dục đều phải đáp ứng những yêu cầu về nhà giáo. Riêng đối

với giáo viên chủ nhiệm, người có trách nhiệm nặng nề là thay mặt hiệu

trưởng, thay mặt nhà trường, gia đình thực hiện công việc quản lí giáo dục

toàn diện một tập thể học sinh, muốn làm tốt nhiệm vụ của mình, bên cạnh

những yêu cầu chung của người cán bộ giáo dục, giáo viên chủ nhiệm cần

đạt được một số yêu cầu cụ thể sau

Page 156: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

1. Yêu cầu về tri thức

Bên cạnh những kiến thức sâu, rộng về chuyên môn mà mình phụ

trách, giáo viên chủ nhiệm cần có những hiểu biết đầy đủ về các hoạt động

quản lí và giáo dục học sinh, những quy định về sự phối hợp giáo dục giữa

nhà trường với gia đình và xã hội. Đó là những hiểu biết về quy chế, quy định

về công tác quản lí giáo dục học sinh, những hiểu biết về nội dung và phương

pháp giáo dục học sinh và tập thể học sinh. Giáo viên chủ nhiệm cũng cần

nắm được những quy định và cách thức tiến hành các nội dung phối hợp giữa

giáo viên chủ nhiệm với giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm với các tổ

chức Đoàn đội, giáo viên chủ nhiệm với các tổ chức xã hội, hội phụ huynh và

gia đình học sinh....

Đặc biệt, giáo viên chủ nhiệm cần có được những tri thức về công tác

giáo dục tập thể học sinh, giáo dục học sinh cá biệt, học sinh chậm tiến về

học tập, đạo đức; những tri thức về đặc điểm tâm sinh lí học sinh, về nội dung

và phương pháp giáo dục các em... Những hiểu biết này sẽ là cơ sở hình

thành kĩ năng quản lí giáo dục học sinh, giúp giáo viên chủ nhiệm lớp làm tốt

vai trò và trách nhiệm của mình.

Để có được hiểu biết sâu rộng về nghề nghiệp, về đối tượng và

phương pháp giáo dục, giáo viên chủ nhiệm phải không ngừng cố gắng vươn

lên, thường xuyên cập nhật kiến thức và năng lực, học tập không mệt mỏi,

suốt đời.

2. Yêu cầu về kĩ năng

Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, bên cạnh những kĩ năng chung

của giáo viên, mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp cán phấn đấu để đạt được một số

kĩ năng quản lí giáo dục như sau:

Nhóm kĩ năng thiết kế các hoạt động giáo dục. Thiết kế các hoạt động

giáo dục sẽ làm cho hoạt động giáo dục tập thể học sinh được tiến hành một

cách chủ động về thời gian, đảm bảo nội đung và phương pháp tiến hành.

Muốn thiết kế các hoạt động giáo dục, giáo viên chủ nhiệm phải biết thu thập

Page 157: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

các thông tin về tình hình của lớp học, của nhà trường, xác định mục tiêu và

cụ thể hóa các mục tiêu thành các hoạt động giáo dục v.v.... Hình dung ra

những thuận lợi và khó khăn khi tổ chức các hoạt động giáo dục cho học sinh,

những điều kiện, cơ sở vật chất và những hoạt động phối hợp khi tiến hành

các hoạt động giáo dục.

Nhóm kĩ năng tổ chức triển khai các hoạt động giáo dục. Tổ chức triển

khai các hoạt động giáo dục gắn liền với các hoạt động như phân công công

việc một cách hợp lí; truyền đạt công việc đầy đủ và đúng đắn đến từng thành

viên; phối hợp các hoạt động để đạt được mục tiêu chung; phát hiện ra những

yếu tố sai sót để khắc phục kịp thời... Muốn làm được các công việc đó đòi

hỏi giáo viên chủ nhiệm phải am hiểu và có kinh nghiệm trong việc thực hiện

và xử lí các công việc được giao, vừa biết cách thu thập đầy đủ các thông tin

về tiến trình thực hiện các hoạt động giáo dục; vừa biết cách đánh giá và sử

dụng các thông tin ấy để điều khiển, điều chỉnh các hoạt động cho phù hợp

với mục tiêu đã đề ra. Để tổ chức và triển khai tốt các hoạt động giáo dục,

giáo viên chủ nhiệm cần có khả năng sau:

Khả năng thiết lập các mối quan hệ đối với học sinh, gia đình và các cá

nhân có liên quan. Chỉ có xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với học sinh, gia đình

và tập thể học sinh, những tác động giáo dục của giáo viên mới có hiệu quả.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, những giáo viên nhạy bén, nhiệt tình thường

quan tâm đến hoạt động của học sinh và lớp học; hiểu và cư xử thân mật đối

học sinh... là những giáo viên chủ nhiệm hoạt động có hiệu quả.

Có kĩ năng kiểm tra và giám sát các hoạt động giáo dục học sinh. Có ba

loại kiểm tra đánh giá hoạt động giáo dục của học sinh là: đánh giá trước khi

tiến hành hoạt động giáo dục (đánh giá kế hoạch), đánh giá trong khi tiến

hành (đánh giá triển khai, đánh giá thực hiện) và đánh giá tổng kết (sau khi đã

thực hiện công việc). Có được kĩ năng kiểm tra đánh giá ở tất cả các khâu sẽ

giúp giáo viên chủ nhiệm hoàn thành tốt công việc của mình.

3. Yêu cầu về phẩm chất

Page 158: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Bên cạnh những phẩm chất cần có ở giáo viên như lòng yêu nước,

giác ngộ xã hội chủ nghĩa và lí tưởng nghề nghiệp, giáo viên chủ nhiệm lớp

phải xác định rõ trách nhiệm của mình, luôn giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh

dự của nhà giáo, không ngừng học tập rèn luyện nâng cao tư tưởng, phẩm

chất đạo đức, lối sống, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lòng yêu nghề, yêu

người, thực sự làm tấm gương tốt cho học sinh noi theo.

Phẩm chất chính trị, tư tưởng là một yêu cầu quan trọng đối với giáo

viên chủ nhiệm, tạo nên thành công trong công tác quản lí và giáo dục học

sinh của giáo viên. Phẩm chất chính trị đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải có

niềm tin sâu sắc vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, tin vào

đường lối đổi mới kinh tế xã hội, đổi mới giáo dục ở nước ta. Niềm tin sẽ tạo

nên động lực thúc đẩy người giáo viên tham gia vào các hoạt động chính trị

xã hội, vận động các tầng lớp nhân dân, gia đình và học sinh lớp chủ nhiệm

thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Giáo viên chủ nhiệm phải là người mẫu mực, thực sự là tấm gương

sáng cho học sinh. Những phẩm chất đạo đức cần có của giáo viên chủ

nhiệm vừa phù hợp với các chuẩn mực xã hội hiện đại, vừa kế thừa, phát huy

những truyền thống đạo đức của dân tộc. Đó là các phẩm chất đạo đức sau:

Lòng yêu thương con người, đặc biệt yêu thương trẻ em - đối tượng

trực tiếp của mình, hăng say với công việc giáo dục học sinh “Càng yêu nghề

bao nhiêu, càng yêu người bấy nhiêu”.

Quan tâm tới công việc của nhà trường và đồng nghiệp; có trách nhiệm

đối với công việc được giao (giáo dục, giảng dạy, chủ nhiệm lớp...).

Làm chủ được bản thân trong công việc và cuộc sống; biết giữ lời hứa

với mọi người, đặc biệt là đối với học sinh mẫu mực trong gia đình, trong

quan hệ với người khác.

Page 159: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN1 Phân tích những đặc điểm cơ bản của giáo viên chủ nhiệm lớp trong

trường trung học phổ thông?

2. Phân tích các nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm lớp và mối quan hệ

giữa các nhiệm vụ đó.

3. Phân tích các chức năng của giáo viên chủ nhiệm lớp và mối quan

hệ giữa các chức năng đó.

5. Trình bày các phương pháp chủ yếu khi nghiên cứu tình hình học

sinh, bạn đã sử dụng những phương pháp nào để nghiên cứu tình hình học

sinh trong đợt thực tập sư phạm vừa qua?

6. Trình bày nội dung và phượng pháp xây dựng tập thể học sinh, trong

đợt thực tập sư phạm vừa qua bạn đã sử dụng phương pháp nào để giáo dục

tập thể học sinh?

7. Hãy thảo luận về những phẩm chất và năng lực mà giáo viên chủ

nhiệm cần phải có để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.

BÀI TẬP

1. Mô tả nội dung và phương pháp tổ chức một hoạt động ngoài giờ lên

lớp cho học sinh lớp chủ nhiệm.

2. Thiết kế nội dung và phương pháp tổ chức hoạt động theo chủ đề

“Chào mừng ngày phụ nữ Việt Nam 8 – 3”.

3. Hãy viết một báo cáo để đánh giá tình hình giáo dục đạo đức ở lớp

chủ nhiệm trong đợt thực tập vừa qua. Theo bạn, cần phải có những biện

pháp gì với một số học sinh không có sự tiến bộ về đạo đức.

4. Xây dựng kế hoạch tiến hành buổi sinh hoạt lớp với chủ đề: "Xây

dựng và thực hiện nền nếp học tập".

Page 160: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Iu. K. Babanxki. Giáo dục học. NXB Giáo dục. Matxcơva, 1985.

2. Nguyễn Ngọc Bảo - Hà Thị Đức. Hoạt động dạy học ở trường Trung

học cơ sở. NXB Giáo dục. Hà Nội. 2001

3. Hoạt động giáo dục lao động - Hướng nghiệp năm học 2000 - 2001

và phương hướng năm học 2001- 2002. Bộ Giáo dục và Đào tạo 2001.

4. Phạm Khắc Chương. Giáo dục gia đình. NXB Giáo dục. Hà Nội.

2001.

5. Tô Xuân Giáp. Phương tiện dạy học. NXB Giáo dục. Hà Nội 1997.

6. Giáo trình giáo dục hướng nghiệp. Đại học Hùng Dã Mai - NXB Nhân

sư - Trung Quốc. Xuất bản lần đầu 1/2002.

7. Phạm Minh Hạc (chủ biên). Giáo dục thế giới đi vào thế kỉ XXI. NXB

Chính trị Quốc gia. Hà Nội. 2002.

8. Đặng Thành Hưng. Dạy học hiện đại - Lí luận, biện pháp, kĩ thuật.

NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.2002.

9. Nguyễn Văn Hộ, Hà Thị Đức. Giáo dục học đại cương. Tập I và Tập

II NXB Giáo dục. 2002.

10. Nguyễn Văn Lê - Nguyễn Sinh Huy. Giáo dục học đại cương. NXB

Giáo dục Hà Nội. 2000.

11. Luật giáo dục. NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội. 1998.

12. Luật Giáo dục. NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội. 2005.

13. Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII. NXB Chính trị Quốc gia. Hà

Nội. 1997.

14. Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt. Giáo dục học tập I, (1986) tập II

(1987). NXB Giáo dục Hà Nội.

15. Trần Tuyết Oanh (chủ biên). Giáo dục học hiện đại. NXB Đại học

Sư phạm. 2004.

Page 161: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

16. RAJA. ROY SINGH. Nền giáo dục cho thê kỉ XXI những triển vọng

của Châu Á - Thái Bình Dương. Viện Khoa học giáo dục. H. 1994.

17. Lê Thông (chủ biên). Dân số - Môi trường - Tài nguyên. NXB Giáo

dục Hà Nội. 1998.

18. Thái Duy Tuyên. Những vấn đề cơ bản của giáo dục học hiện đại.

NXB Giáo dục Hà Nội. 1998.

19. Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang. Giá trị định

hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị. Chương trình KHCN cấp Nhà

nước KX- 07. Đề tài KX - 07 - 04.

20. Việt Nam với công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em - NXB

Sự thật. Hà Nội. 1991.

21. Phạm Viết Vượng. Giáo dục học. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

2000.

22. Phạm Viết Vượng (chủ biên). Quản tí hành chính nhà nước và quản

lí ngành giáo dục và đào tạo. NXB Đại học Sư phạm. 2003.

23. Xkatkin M.N. Lí luận dạy học trường phổ thông. NXB Giáo dục Hà

Nội. 1982.

MỤC LỤCPhần III

LÍ LUẬN GIÁO DỤC

Chương XII. QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC

I. Khái niệm quá trình giáo dục

II. Bản chất và đặc điểm của quá trình giáo dục

III. Động lực và các khâu của quá trình giáo dục

IV. Tự giáo dục và giáo dục lại

Page 162: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Câu hỏi ôn tập và thảo luận

Bài tập

Chương XIII. NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC

I. Khái niệm nguyên tắc giáo dục

II. Hệ thống các nguyên tắc giáo dục

Câu hỏi ôn tập và thảo luận

Bài tập

Chương XIV. NỘI DUNG GIÁO DỤC

I. Những nội dung giáo dục cơ bản trong nhà trường

II. Những nội dung giáo dục mới

Câu hỏi ôn tập và thảo luận

Chương XV. PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC

I. Khái niệm và đặc điểm của phương pháp giáo dục

II. Hệ thống các phương pháp giáo dục

III. Lựa chọn các phương pháp giáo dục

Câu hỏi ôn tập, thảo luận

Bài tập

Chương XVI. MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC

I. Giáo dục gia đình

II. Giáo dục nhà trường

III. Giáo dục xã hội

IV. Một số giải pháp phối hợp giáo dục giữa các môi trường giáo dục

Câu hỏi ôn tập, thảo luận

Bài tập

Page 163: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

Phần IVQUẢN LÍ GIÁO DỤC TRONG NHÀ TRƯỜNG

Chương XVII. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÍ NHÀ TRƯỜNG

I. Quản lí nhà trường

II. Bộ máy quản lí trường phổ thông

III. Nội dung và phương thức quản lí nhà trường

IV. Nhà trường Việt Nam hiện nay và vai trò của hiệu trưởng trong quản

lí nhà trường

Câu hỏi ôn tập và thảo luận

Bài tập

Chương XVIII. LAO ĐỘNG SƯ PHẠM CỦA GIÁO VIÊN VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG GIÁO DỤC

I. Lao động sư phạm của giáo viên trong nhà trường

II. Hoạt động giáo dục ở trường Trung học

Câu hỏi ôn tập và thảo luận

Bài tập

Chương XIX. CÔNG TÁC CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG

I. Vai trò, chức năng và nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm lớp

II. Giáo viên chủ nhiệm lớp với việc xây dựng tập thể học sinh

III. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp

IV. Những yêu cầu đối với người giáo viên chủ nhiệm lớp

Câu hỏi ôn tập, thảo luận

Bài tập

Tài liệu tham khảo

Page 164: Giáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)saomaidata.org/library/42.GiaoTrinhGiaoDucHoc-Tap 2.… · Web viewGiáo Trình Giáo Dục Học - Tập 2 (Word)

---//---

GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC – TẬP 2

Tác giả:

TRẦN THỊ TUYẾT OANH (Chủ biên) – PHẠM KHẮC CHƯƠNG - PHẠM VIẾT

VƯỢNG – NGUYỄN VĂN DIỆN - LÊ TRÀNG ĐỊNH

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

Chịu trách nhiệm xuất bản:

Giám đốc: ĐINH NGỌC BẢO

Tổng biên tập: LÊ A

Người nhận xét:

GS. TSKH THÁI DUY TUYÊN - PGS.TS HÀ THỊ ĐỨC

Biên tập nội dung: NGUYỄN THỊ NGỌC HÀ

Kĩ thuật vi tính: ĐÀO PHƯƠNG DUYẾN

Trình bày bìa: PHẠM VIỆT QUANG

Mã số: 01.01.588/681 ĐH 2007

Đăng kí KHXB số: 30-2007/CXB/588-120/ĐHSP, ngày 4/1/2007.

In xong và nộp lưu chiểu tháng 8 năm 2007.