Upload
doandieu
View
216
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
GIÁO TRÌNH PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
GIÁO TRÌNH
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Tác giả: ThS. NGUYỄN ANH TUẤN
- ThS. TRẦN THÚY NGA
LỜI NÓI ĐẦU
Pháp luật đại cương là môn học nghiên cứu những vấn đề cơ bản về Nhà
nước và pháp luật. Trang bị cho người học nền tảng căn bản sự hiểu biết về
Nhà nước và pháp luật để hiểu và vận dụng đúng các quy định của pháp luật
trong công việc và đời sống xã hội. Hiện nay, chúng ta đã và đang tiến hành xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân với mục
đích thực hiện quyền làm chủ của nhân dân theo chủ trương, đường lối của
Đảng. Nhà nước pháp quyền XHCN lấy pháp luật làm căn cứ điều tiết các hành
vi cá nhân, các quan hệ xã hội, bảo đảm cho xã hội ổn định và phát triển bền
vững. Do đó, nhu cầu hiểu biết về Nhà nước và pháp luật là vấn đề quan tâm
của nhiều người.
Để pháp luật đi vào cuộc sống, làm kim chỉ nam cho hành vi của con
người đòi hỏi ý thức pháp luật phải được nâng cao. Sự tuân thủ và tôn trọng
pháp luật phụ thuộc nhiều vào trình độ nhận thức pháp luật và các trạng thái tâm
lý pháp luật của con người. Ý thức pháp luật của các chủ thể càng được nâng
cao thì sự tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật, chấp hành pháp luật của họ
càng đúng đắn. Vì vậy, việc đưa pháp luật vào giảng dạy trong nhà trường là
một trong những biện pháp trọng tâm, mang tính chiến lược và được ngành
Giáo dục phối hợp với ngành Tư pháp thực hiện từ nhiều năm. Đối với sinh viên,
giáo dục pháp luật được thực hiện qua chương trình môn học Pháp luật đại
cương và các môn học pháp luật chuyên ngành khác ở bậc đại học, cao đẳng
không chuyên luật.
Cuốn sách cung cấp cho sinh viên khối ngành kinh tế và các ngành học
khác những kiến thức nền tảng về Nhà nước và pháp luật để từ đó giúp sinh
viên hiểu và ứng xử theo quy định của pháp luật và đánh giá các sự kiện pháp
luật trong đời sống xã hội.
TÁC GIẢ
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC
I. NGUỒN GỐC, ĐẶC TRƯNG VÀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC
1. Nguồn gốc của Nhà nước
Nhà nước là một hiện tượng, quá trình lịch sử có vị trí đặc biệt quan trọng
- trung tâm của quyền lực chính trị trong hệ thống chính trị của xã hội. Hơn nữa,
Nhà nước cũng là một hiện tượng xã hội đa dạng và phức tạp, liên quan chặt
chẽ đến lợi ích của các giai cấp, tầng lớp, dân tộc. Cho nên, trong lịch sử Nhà
nước đã hình thành những quan điểm, lý thuyết khác nhau về nguồn gốc hình
thành của Nhà nước.
Lý giải về nguồn gốc ra đời của Nhà nước luôn gắn liền với bản chất và
chức năng của Nhà nước. Do đó, các học thuyết lý giải về nguồn gốc ra đời của
Nhà nước bị chi phối bởi phương pháp luận, điều kiện lịch sử cũng như mục
đích khác nhau, dẫn đến kết quả nghiên cứu về nguốn gốc, bản chất và chức
năng của Nhà nước cũng khác nhau.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau lý giải về nguồn gốc ra đời của Nhà
nước phong phú và đa dạng, nhưng tựu trung lại có hai dòng quan điểm cơ bản:
quan điểm phi mác xít và quan điểm mác xít về nguồn gốc của Nhà nước.
a. Quan điểm phi mác xít về nguồn gốc của Nhà nước
* Thuyết thần học
Thuyết thần học là một trong những học thuyết cổ điển nhất, ra đời trong
thời kỳ cổ, Trung đại. Tiêu biểu cho trường phái này là Thomas Aquin (triết gia
được đánh giá là đại diện cho hệ tư tưởng thời Trung cổ, sinh ở gần thành phố
Naples vào năm 1225 và mất 1274) cho rằng: Thượng đế là người sắp đặt mọi
trật tự xã hội, Nhà nước là do Thượng để sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung.
Do vậy, quyền lực Nhà nước là hiện thân của lực lượng siêu nhiên, là vĩnh cửu
và sự phục tùng quyền lực là tất yếu.
Cơ sở phương pháp luận của thuyết thần học là quan điểm duy tâm khách
quan để lý giải về sự ra đời của Nhà nước. Học thuyết này đã được giai cấp
thống trị thời kỳ phong kiến sử dụng một cách rộng rãi, đặc biệt là các quốc gia
phong kiến châu Âu.
Theo thuyết thần học Nhà nước ra đời là do các lực lượng siêu nhiên sáng
tạo ra và địa vị của mỗi người trong xã hội có Nhà nước cũng là do sự sắp đặt
của Thượng đế, thần linh.
Mặc dù học thuyết này lý giải một cách thần bí, thiếu cơ sở khoa học về
nguồn gốc của Nhà nước, nhưng xét về khía cạnh hoàn cảnh lịch sử ra đời của
nó trong điều kiện xã hội loài người chưa phát triển, nên học thuyết này đã được
giai cấp thống trị sử dụng để bảo vệ địa vị thống trị vững chắc cho mình.
* Thuyết gia trưởng
Cùng thời đại với thuyết thần học, những người theo thuyết gia trưởng cho
rằng: Nhà nước ra đời từ gia đình, là hình thức tổ chức tự nhiên của đời sống
con người, vì vậy Nhà nước tồn tại trong mọi xã hội, quyền lực Nhà nước về
thực chất cũng giống như quyền lực người đứng đầu trong gia đình, nó chỉ là sự
kế tiếp quyền lực người gia trưởng trong gia đình. Theo họ, mỗi gia đình có một
người đứng đầu - người đó là gia trưởng, mỗi dòng họ có một người đứng đầu -
người đó là tộc trưởng, xã hội cũng cần có người đứng đầu - người đó là vua,
hoàng đế. Thuyết gia trưởng về nguồn gốc Nhà nước thực chất nhằm bảo vệ
chế độ dân chủ chuyên chế thời phong kiến. Tiêu biểu cho cho học thuyết này là
Aristore, Philmer...
Cơ sở lý luận của học thuyết này mặc dù đứng trên lập trường duy vật để
giải thích về nguồn gốc của Nhà nước là một tiến bộ so với thuyết thần học. Tuy
nhiên, do đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật cổ đại nên các nhà tư
tưởng của thuyết gia trưởng đã không thấy được sự khác biệt về sự vận động
và phát triển của các hiện tượng xã hội nên đã cho rằng sự ra đời của Nhà nước
là một hiện tượng của tự nhiên.
* Thuyết khế ước xã hội
Học thuyết này ra đời vào khoảng thế kỷ 17, 18 nhằm chống lại tư tưởng
thần quyền trong Nhà nước phong kiến. Thuyết này đã được giai cấp tư sản sử
dụng trong quá trình giành lấy chính quyền từ giai cấp phong kiến. Tư tưởng của
thuyết khế ước là sự tiến bộ của xã hội loài người nhận thức về Nhà nước
nhưng do phương pháp tiếp cận siêu hình, nên các nhà tư tưởng của thuyết khế
ước xã hội đã không giải thích được mối liên hệ giữa sự phát triển của sản xuất
và sự ra đời của Nhà nước.
Những người theo thuyết khế ước cho rằng: Sự ra đời của Nhà nước là
kết quả của một khế ước (hợp đồng), được ký kết giữa những con người sống
trong trạng thái tự nhiên không có Nhà nước. Vì vậy, Nhà nước phản ánh lợi ích
của các thành viên trong xã hội và mỗi thành viên đều có quyền yêu cầu Nhà
nước phục vụ họ, bảo vệ lợi ích của họ. Trong trường hợp Nhà nước không giữ
được vai trò của mình, các quyền tự nhiên bị vi phạm thì khế ước sẽ mất hiệu
lực và nhân dân có quyền lật đổ Nhà nước và ký kết khế ước mới.
Mặc dù khi phát triển các quan điểm của mình, giữa các nhà tư tưởng có
cách lý giải khác nhau về nội dung của khế ước, nhưng giữa họ có những quan
niệm chung về nguồn gốc của Nhà nước là khế ước xã hội, chủ quyền Nhà
nước thuộc về nhân dân. Tiêu biểu cho thuyết khế ước xã hội là các nhà tư
tưởng tư sản: Thomas Hobbes, Jonh Locke, S.L Montesquieu, J. Roussau.
Sự xuất hiện thuyết khế ước xã hội về nguồn gốc Nhà nước, đánh dấu
bước phát triển nhận thức mới của con người về nguồn gốc Nhà nước, nhằm
chống lại sự chuyên quyền độc đoán của chế độ phong kiến, đòi hỏi sự bình
đẳng cho giai cấp tư sản mới ra đời trong việc tham gia nắm chính quyền Nhà
nước, về mặt lịch sử, thuyết khế ước xã hội về nguồn gốc Nhà nước chứa đựng
yếu tố tiến bộ xã hội, nó phủ nhận thuyết thần học về sự ra đời của Nhà nước,
đồng thời coi quyền lực Nhà nước là sản phẩm hoạt động của con người.
Mặc dù có nhiều tư tưởng tiến bộ lý giải về nguồn gốc ra đời của Nhà
nước nhưng do cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy tâm (chủ quan), nên
học thuyết này vẫn có những hạn chế căn bản khi cho rằng Nhà nước ra đời do
ý muốn, nguyện vọng chủ quan của các bên tham gia hợp đồng, mà không giải
thích được cội nguồn vật chất và bản chất giai cấp của Nhà nước.
Học thuyết, này đã được giai cấp tư sản sử dụng một cách phổ biến khi
giải thích về nguồn gốc ra đời của Nhà nước tư sản. Tuy nhiên, ngày nay trước
những căn cứ khoa học và sự thật lịch sử, nhiều nhà tư tưởng tư sản thừa nhận
rằng Nhà nước là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, là tổ chức quyền lực của xã
hội có giai cấp, nhưng lại không thừa nhận bản chất giai cấp của Nhà nước mà
coi Nhà nước như là cơ quan trọng tài đứng ra điều hòa mâu thuẫn giai cấp.
* Kết luận
Tất cả các quan điểm nói trên bằng nhiều hình thức khác nhau, đã cố
gắng minh chứng về nguồn gốc ra đời của Nhà nước, nhưng do hạn chế về mặt
lịch sử, do sai lầm về phương pháp luận hoặc do bị chi phối bởi lợi ích giai cấp,
nên cố tình giải thích sai lệch những nguyên nhân đích thực làm phát sinh Nhà
nước, nhằm che đậy bản chất của Nhà nước. Do đó, khi xem xét sự ra đời của
Nhà nước vì nhiều lý do khác nhau họ đều tách rời những điều kiện vật chất của
xã hội, tách rời những nguyên nhân kinh tế và chứng minh Nhà nước là một thiết
chế tồn tại trong mọi xã hội, một lực lượng đứng trên xã hội, đứng ngoài xã hội
để giải quyết các tranh chấp, điều hòa mâu thuẫn xã hội nhằm đảm bảo sự phồn
vinh cho xã hội. Theo họ, Nhà nước không thuộc giai cấp nào, Nhà nước là của
tất cả mọi người và Nhà nước tồn tại mãi mãi cùng xã hội.
b. Quan điểm Mác - Lênin về nguồn gốc của Nhà nước
Xuất phát từ cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã
chứng minh một cách khoa học rằng: Nhà nước không phải là một hiện tượng
vĩnh cửu bất biến. Nhà nước chỉ ra đời khi xã hội đã phát triển đến một giai đoạn
nhất định và tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại của nó
không còn. Theo các ông, chính sản xuất đã duy trì sự tồn tại và phát triển của
xã hội loài người, nhưng cũng chính sản xuất đã làm thay đổi cơ cấu tổ chức
của xã hội.
* Chế độ cộng sản nguyên thủy và quyền lực thị tộc
Chế độ cộng sản nguyên thủy là xã hội đầu tiên của xã hội loài người. Đó
là xã hội không có giai cấp, không có Nhà nước. Nhưng nguyên nhân ra đời của
Nhà nước lại nảy sinh trong xã hội nguyên thủy.
Xã hội nguyên thủy dựa trên phương thức sản xuất thấp kém của lực
lượng sản xuất và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Nền sản xuất của xã hội
này phụ thuộc chủ yếu vào tự nhiên (săn bắt và hái lượm), với trình độ sản xuất
thấp kém, cho nên con người phải sống dựa vào nhau cùng lao động và cùng
hưởng thụ. Do lực lượng sản xuất kém và quá trình phân công lao động tự
nhiên, dẫn tới sản phẩm làm ra chỉ đảm bảo nhu cầu tối thiểu nuôi sống xã hội.
Do đó, trong xã hội không có người giàu kẻ nghèo, không có người bóc lột
người, mọi người đều bình đẳng trong lao động và hưởng thụ.
Chính điều kiện kinh tế đã quyết định cấu trúc xã hội của chế độ cộng sản
nguyên thủy, cấu trúc của xã hội là thị tộc, thị tộc là kết quả của quá trình tiến
hóa lâu dài, xuất hiện khi xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Tổ
chức thị tộc thực sự là một tổ chức lao động và sản xuất, một bộ máy kinh tế xã
hội. Trong thị tộc dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất nên mọi người
trong xã hội là bình đẳng, thị tộc được tổ chức theo huyết thống và người phụ nữ
có vai trò chủ đạo trong sản xuất nên các thị tộc được tổ chức theo chế độ mẫu
hệ. Dần dần cùng với sự phát triển của sản xuất đã làm thay đổi quan hệ hôn
nhân và địa vị của người phụ nữ trong thị tộc, chế độ mẫu hệ đã chuyển đổi
sang chế độ phụ hệ.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy đã tồn tại quyền lực và hệ thống quản
lý các công việc của thị tộc. Nhưng quyền lực này do toàn xã hội tổ chức ra và
phục vụ lợi ích cho cả cộng đồng. Hội đồng thị tộc là tổ chức quyền lực cao nhất
của thị tộc gồm những người đàn ông, đàn bà lớn tuổi quyết định những vấn đề
quan trọng của thị tộc. Những quyết định của Hội đồng thị tộc là bắt buộc đối với
mọi người, cho dù thị tộc chưa có cơ quan cưỡng chế nhưng nó đảm bảo thực
hiện bằng quyền lực xã hội mang tính tự nhiên mạnh mẽ. Hội đồng thị tộc bầu ra
người đứng đầu thị tộc là các tù trưởng, thủ lĩnh để thực hiện quản lý các công
việc chung. Những người đứng đầu thị tộc có quyền lực rất lớn dựa vào tập thể
cộng đồng và uy tín cá nhân. Tuy nhiên, tù trưởng, thủ lĩnh cũng không có đặc
quyền, đặc lợi nào khác so với các thành viên trong thị tộc. Họ chịu sự kiểm tra
của cộng đồng và có thể bị bãi miễn lúc nào nếu uy tín không còn và không
được tập thể ủng hộ.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy quy tắc ràng buộc các thành viên là
các quy phạm tập quán, đạo đức tôn giáo mà chưa có pháp luật. Việc tuân thủ
các quy tắc trở thành thói quen và sự cưỡng chế của cả cộng đồng.
Như vậy, chế độ cộng sản nguyên thủy là chế độ dân chủ, bình đẳng chưa
có phân hóa giàu nghèo và kết quả chưa có Nhà nước, chưa có pháp luật.
* Sự tan rã của thị tộc và sự xuất hiện Nhà nước
Trong quá trình sản xuất, con người luôn mong muốn làm ra nhiều của cải
vật chất nhằm thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của xã hội. Do vậy, họ phải hoàn thiện
công cụ lao động, lĩnh hội những kỹ năng lao động mới đã làm cho lực lượng
sản xuất phát triển, tạo tiền đề cho sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất, đã đặt ra yêu cầu phải thay đổi quan
hệ sản xuất cho phù hợp nhằm mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Quá trình đó đã được đánh dấu bằng ba lần phân công lao động trong lịch sử xã
hội nguyên thủy mà mỗi lần xã hội lại có những bước tiến mới, làm sâu sắc thêm
quá trình tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy.
Chăn nuôi tách khỏi trồng trọt - lần phân công lao động lần thứ nhất đã
làm xã hội chuyển biến rõ rệt, mở ra một kỷ nguyên mới cho xã hội loài người
bằng sự phát triển của chăn nuôi và trồng trọt, hình thành nguồn tích lũy quan
trọng là mầm mống của chế độ tư hữu. Do sự phát triển của sản xuất nên nhu
cầu lao động của xã hội tăng cao, nên những tù binh của chiến tranh nếu như
trước đây đều bị giết đi thì nay được giữ lại và biến thành nô lệ.
Như vậy, sau lần phân công lao động lần thứ nhất đã tác động mạnh mẽ
đến sản xuất và kết quả là năng suất lao động tăng nhanh, sản phẩm làm ra
ngày càng nhiều không những đáp ứng được nhu cầu nuôi sống xã hội ở mức
tối thiểu mà còn có phần dư thừa đã làm phát sinh khả năng chiếm đoạt phần
của cải dư thừa ấy. Phần của cải dư thừa của xã hội đã không được phân chia
như trước đây mà rơi vào tù trưởng, thủ lĩnh của thị tộc và bộ lạc những người
mà trước đây quyền lợi của họ không có gì khác biệt so với các thành viên trong
thị tộc. Như vậy, sau lần phân công lao động lần đầu tiên đã làm cho quan hệ
sản xuất thay đổi, chế độ tư hữu xuất hiện, xã hội phân chia thành giai cấp chủ
nô và nô lệ. Sự xuất hiện của chế độ tư hữu đã làm thay đổi quan hệ hôn nhân:
Chế độ hôn nhân một vợ một chồng đã thay thế chế độ quần hôn. Chế độ phụ
hệ quyền hành thuộc về người cha đã tiến tới thay thế chế độ mẫu hệ, gia đình
cá thể đã trở thành một lực lượng đe dọa sự tồn tại của thị tộc.
Việc tìm ra kim loại và chế tạo công cụ lao động bằng kim loại đã tạo ra
khả năng nâng cao năng suất lao động và nhiều ngành nghề mới xuất hiện (chế
tạo kim loại, nghề dệt, làm gốm...) đã làm cho thủ công nghiệp tách khỏi nông
nghiệp - lần phân công lao động lần thứ hai. Sự phát triển đó, đã làm cho nền
sản xuất xã hội phát triển mạnh mẽ, kéo theo sự phát triển về số lượng nô lệ và
họ trở thành một lực lượng phố biến và hệ quả của sự phát triển ấy là quá trình
phân hóa xã hội được đẩy nhanh, sự phân hóa giàu nghèo, mâu thuẫn giai cấp
càng thêm sâu sắc.
Nền sản xuất phát triển với nhiều ngành nghề chuyên môn, làm xuất hiện
nhu cầu trao đổi và nền sản xuất hàng hóa đã ra đời. Sự phát triển của nền sản
xuất hàng hóa dẫn đến sự phát triển của thương nghiệp và thương nghiệp đã
tách ra thành một ngành hoạt động độc lập - lần phân công lao động lần thứ ba.
Đây là lần phân công lao động giữ vai trò quan trọng và có một ý nghĩa quyết
định, nó sinh ra tầng lớp thương nhân chỉ làm công việc trao đổi sản phẩm,
không tham gia vào sản xuất nhưng lại nắm quyền lãnh đạo sản xuất và bắt
những người sản xuất phải phụ thuộc mình về mặt kinh tế.
Sự ra đời và phát triển của thương mại cũng dẫn đến sự xuất hiện của
đồng tiền. Nạn cho vay, quyền tư hữu ruộng đất ngày càng phát triển đã tăng
cường sự tích tụ của cải vào tay một số người thiểu số. Từ đó sự phân hóa giữa
chủ nô và nô lệ ngày càng sâu sắc.
Như vậy, nguyên nhân kinh tế là nguyên nhân cơ bản nhất làm đảo lộn,
phá vỡ sự tồn tại của thị tộc. Tổ chức thị tộc không còn thích hợp với sự phát
triển của xã hội, khi lợi ích giữa các giai tầng trong xã hội là khác nhau. Từ
nguyên nhân kinh tế dẫn đến sự thay đổi về cấu trúc xã hội, xã hội cần có những
tổ chức, thiết chế mới nhằm bảo vệ lợi ích cho những người giàu và duy trì trật
tự xã hội khi mâu thuẫn giai cấp ngày càng gia tăng.
Để điều hành và quản lý xã hội mới đòi hỏi phải có một tổ chức mới khác
trước về chất. Tổ chức đó do toàn bộ những điều kiện tồn tại của nó quy định,
chỉ đại diện cho quyền lợi của giai cấp nắm ưu thế về kinh tế và nhằm thực hiện
sự thống trị của giai cấp, dập tắt sự xung đột giai cấp và giữ cho chúng trong
vòng trật tự. Tổ chức đó là Nhà nước.
Như vậy, Nhà nước ra đời từ sự phát triển của sản xuất làm tan rã chế độ
cộng sản nguyên thủy. Xã hội chỉ xuất hiện Nhà nước khi xuất hiện sự phân chia
xã hội thành giai cấp và do vậy Nhà nước là một hiện tượng thuộc về bản chất
của xã hội có giai cấp.
Tuy nhiên, lịch sử đã chứng minh rằng Nhà nước không xuất hiện ngay
cùng một lúc mà sự xuất hiện Nhà nước ở các vùng, các dân tộc khác nhau
cũng có những đặc điểm khác nhau. Toàn bộ nội dung nói trên là quy luật hình
thành của Nhà nước nói chung, đặc biệt là thực tế ở phương Tây.
Bên cạnh đó, ở các quốc gia phương đông con đường hình thành Nhà
nước không phải do nhu cầu bức thiết của đấu tranh giai cấp, mà có một số đặc
điểm riêng của nó. Ở phương Đông, các Nhà nước thường được hình thành ở
lưu vực các con sông lớn đã chứa đựng trong đó hai mặt đối lập: ưu đãi và thử
thách. Do đó, cộng đồng cư dân ở đây cũng phải tiến hành công cuộc trị thủy và
thủy lợi. Điều đó phải tổ chức lực lượng trong một cộng đồng với quy mô lớn
hơn gia đình và công xã, thiết lập bộ máy quyền lực tập trung có tổ chức chặt
chẽ hơn để giải quyết các công việc chung của cộng đồng. Khi xã hội phát triển
đến một trình độ phân hóa nhất định thì yêu cầu này càng có tác động mạnh mẽ
và Nhà nước đã ra đời. Như vậy, nguyên nhân của sự ra đời các Nhà nước ở
phương Đông chủ yếu là do nhu cầu trị thủy và chống ngoại xâm.
Tóm lại, nguồn gốc ra đời của Nhà nước có thể khác nhau nhưng Nhà
nước không phải là thứ quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội mà là lực
lượng nảy sinh từ xã hội, là sản phẩm của sự phát triển nội tại của xã hội.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất -> kinh tế phát triển và có sự phân
công lao động xã hội -> xuất hiện của cái dư thừa và chế độ tư hữu -> sự hình
thành giai cấp và mâu thuẫn giai cấp -> nhà nước.
2. Các dấu hiệu đặc trưng của Nhà nước
Dấu hiệu đặc trưng là những nét riêng biệt, tiêu biểu để phân biệt với các
sự vật khác. Đặc trưng của Nhà nước là những dấu hiệu riêng có của Nhà nước
làm cho nó khác về chất so với các tổ chức khác trong xã hội. Với các đặc trưng
của mình, đã làm cho Nhà nước trở thành một tổ chức đặc biệt, tổ chức chính
thống của toàn xã hội, tác động toàn diện, mạnh mẽ và có hiệu quả đối với các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời, Nhà nước cũng chính là công cụ bảo vệ
lợi ích của giai cấp thống trị một cách tập trung nhất. Vậy, dấu hiệu đặc trưng cơ
bản của Nhà nước bao gồm những đặc trưng nào?
Thứ nhất, Nhà nước là một tổ chức quyền lực có chủ quyền quốc gia. Chủ
quyền quốc gia chính là quyền làm chủ đối với quốc gia, là thuộc tính chính trị
pháp lý không thể tách rời của quốc gia. Chủ quyền quốc gia gồm nhiều nội
dung, trong đó có các quyền cơ bản thể hiện ở quyền tự quyết của Nhà nước
trong việc thực hiện chính sách đối nội và đối ngoại mà không phụ thuộc vào yếu
tố bên ngoài. Chủ quyền quốc gia là thuộc tính gắn liền với Nhà nước, dân tộc.
Chủ quyền quốc gia có tính tối cao thể hiện ở chỗ quyền lực Nhà nước phổ biến
trên toàn bộ đất nước đối với tất cả cư dân, tổ chức. Dấu hiệu chủ quyền Nhà
nước thể hiện sự độc lập, bình đẳng giữa các quốc gia.
Thứ hai, Nhà nước có quyền thiết lập quyền lực công. Đặc trưng này thể
hiện ở chỗ Nhà nước là một tổ chức công quyền thiết lập một quyền lực đặc biệt
không còn hòa nhập với dân cư như trong chế độ thị tộc nữa mà dường như
tách rời và đứng trên xã hội. Quyền lực này mang tính chính trị, giai cấp, được
thực hiện bởi bộ máy cai trị, quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù v.v... Như vậy, để
thực hiện quyền lực, để quản lý xã hội, Nhà nước có một tầng lớp người đặc biệt
chuyên làm nhiệm vụ quản lý. Những người này được tổ chức thành các cơ
quan Nhà nước và từ đó hình thành một bộ máy thống trị có sức mạnh cưỡng
chế để duy trì địa vị của giai cấp thống trị, buộc các giai cấp, tầng lớp khác phải
phục tùng theo ý chí của mình, ý chí của giai cấp thống trị trở thành ý chí Nhà
nước thống trị xã hội.
Thứ ba, Nhà nước phân chia lãnh thổ quốc gia thành các đơn vị hành
chính - lãnh thổ nhằm áp đặt và triển khai quyền lực của mình xuống dân cư,
quản lý dân cư theo lãnh thổ. Việc áp đặt quyền lực Nhà nước xuống đơn vị
hành chính - lãnh thổ nhằm xóa bỏ tình trạng cát cứ, tự trị. Tuy nhiên, trong lịch
sử phát triển của Nhà nước thì mức độ áp đặt, quyền lực cũng khác nhau. Dấu
hiệu này cho thấy sự khác biệt giữa xã hội có Nhà nước và xã hội nguyên thủy.
Trong xã hội nguyên thủy thị tộc quản lý các thành viên theo huyết thống, dòng
tộc thì trong xã hội có Nhà nước lại quản lý dân cư theo các đơn vị hành chính -
lãnh thổ mà không phụ thuộc vào huyết thống, dòng tộc.
Việc phân bố dân cư theo đơn vị hành chính - lãnh thổ dẫn đến hình thành
các cơ quan quản lý ở các cấp độ khác nhau từ cao đến thấp và thông qua dấu
hiệu này để Nhà nước thiết lập mối quan hệ với công dân của mình.
Thứ tư, Nhà nước có quyền ban hành pháp luật và bắt buộc mọi thành
viên trong xã hội phải thực hiện. Để quản lý xã hội Nhà nước sử dụng nhiều
công cụ khác nhau nhưng sự tác động mạnh mẽ và hiệu quả hơn cả là pháp
luật. Pháp luật là công cụ chủ yếu của Nhà nước để quản lý xã hội, thông qua
pháp luật ý chí của Nhà nước trở thành ý chí xã hội. Khác biệt với các quy phạm
khác, pháp luật luôn được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng
chế.
Thứ năm, Nhà nước quy định và tiến hành thu thuế. Để bảo vệ lợi ích của
mình cũng như duy trì trật tự xã hội Nhà nước đã lập ra bộ máy Nhà nước. Vì
vậy bất cứ Nhà nước nào cũng quy định và tiến hành thu thuế dưới hình thức
bắt buộc để nuôi sống bộ máy Nhà nước và bảo đảm cho sự phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng. Thông qua chế độ thuế khóa và việc sử
dụng nguồn thu này của Nhà nước cho chúng ta thấy được bản chất của Nhà
nước đó đối với cư dân của mình và cũng chính đặc trưng này cho chúng ta thấy
được trong xã hội không có một thiết chế chính trị nào có quyền quy định về thuế
và thu thuế.
3. Bản chất của Nhà nước
Vấn đề về bản chất Nhà nước có một ý nghĩa hết sức quan trọng và luôn
là đối tượng của cuộc đấu tranh tư tưởng giữa các trường phái khác nhau, vấn
đề giải thích về nguồn gốc Nhà nước có nhiều quan điểm khác nhau, suy cho
cùng là xuất phát từ việc che đậy vấn đề bản chất của Nhà nước nhằm biện hộ
cho sự thống trị của giai cấp bóc lột. Bởi vì, nói đến bản chất của một sự vật hiện
tượng là chúng ta đề cập yếu tố bên trong diễn đạt những đặc tính cơ bản của
sự vật, thực chất bên trong của sự vật. Vì vậy, khi đề cập đến vấn đề bản chất
Nhà nước là chúng ta đề cập đến vấn đề Nhà nước của ai? Bảo vệ và phục vụ
ai? Bóc lột và đàn áp những ai?...
Với luận điểm khoa học của mình, học thuyết Mác - Lênin đã chỉ ra rằng
"Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể
điều hòa được". Cho nên, nói đến bản chất của Nhà nước là nói đến hai thuộc
tính căn bản sau:
- Bản chất của Nhà nước luôn mang tính giai cấp, bởi vì Nhà nước sinh ra
và tồn tại trong xã hội có giai cấp, cho nên Nhà nước là một bộ máy cưỡng chế
đặc biệt nằm trong tay giai cấp thống trị, là công cụ bảo vệ lợi ích cho giai cấp
thống trị và duy trì trật tự xã hội.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng sự thống trị của giai cấp này đối với giai
cấp khác luôn thể hiện dưới ba hình thức đó là: quyền lực kinh tế, quyền lực
chính trị và quyền lực tư tưởng. Trong ba loại quyền lực đó có mối quan hệ mật
thiết với nhau nhưng quyền lực kinh tế giữ vai trò quyết định, vì quyền lực kinh tế
tạo cho chủ sở hữu khả năng bắt giai cấp khác phải phụ thuộc vào mình về mặt
kinh tế. Nhưng bản thân quyền lực kinh tế không thể duy trì được các mối quan
hệ bóc lột, vì vậy thông qua Nhà nước giai cấp thống trị về mặt kinh tế biến ý chí
của mình thành ý chí chung của toàn xã hội và trở thành giai cấp thống trị về
chính trị. Nói cách khác, giai cấp thống trị đó trở thành chủ thể của quyền lực
kinh tế và quyền lực chính trị.
Nhà nước là tổ chức để giai cấp thống trị thực hiện quyền lực chính trị của
mình, biến quyền lực đó thành quyền lực Nhà nước để điều hành quản lý và sai
khiến xã hội. Như vậy, Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị,
thông qua Nhà nước ý chí, đường lối của giai cấp thống trị có tính bắt buộc đối
với toàn xã hội.
Sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác không chỉ về kinh tế,
chính trị mà còn cần đến sự tác động của tư tưởng. Trong xã hội có giai cấp có
nhiều hệ tư tưởng các khâu của các giai cấp khác nhau, nhưng chỉ có hệ tư
tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế là hệ tư tưởng chủ đạo, hệ tư tưởng thống
trị xã hội, bắt các giai cấp khác phải lệ thuộc vào mình về mặt tư tưởng.
Như vậy, tính giai cấp của Nhà nước thể hiện ở chỗ, Nhà nước là một bộ
máy đặc biệt bảo đảm sự thống trị của giai cấp thống trị về kinh tế, chính trị và tư
tưởng đối với quần chúng nhân dân.
- Bản chất của Nhà nước còn mang tính xã hội, nghĩa là Nhà nước không
chỉ là công cụ bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị mà còn bảo vệ lợi ích cho toàn
xã hội. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, một Nhà nước sẽ không tồn tại
nếu nó chỉ phục vụ lợi ích cho giai cấp thống trị mà không tính đến lợi ích của
các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội. Bởi vì bất kỳ một Nhà nước nào, vào bất
kỳ thời đại nào thì Nhà nước đều phải duy trì trật tự, an toàn xã hội, ổn định và
phát triển, thực hiện hoạt động này hay hoạt động khác phù hợp với yêu cầu của
xã hội, như vậy thông qua đó Nhà nước cũng đảm bảo lợi ích nhất định của các
tầng lớp, giai cấp khác trong chừng mực lợi ích đó không đối lập gay gắt với lợi
ích của giai cấp cầm quyền.
Vai trò xã hội và giá trị xã hội của Nhà nước còn thể hiện ở chỗ, Nhà
nước: giải quyết các công việc mang tính xã hội, mà cá nhân, công dân không
thể giải quyết được như xây dựng cơ sở hạ tầng, bảo vệ mội trường, chống
thiên tai, dịch bệnh... Do đó, vai trò xã hội và giá trị xã hội của Nhà nước phụ
thuộc vào bản chất giai cấp của Nhà nước.
Nhìn lại lịch sử phát triển của Nhà nước chúng ta thấy rằng, bất cứ kiểu
Nhà nước nào cũng có đủ hai thuộc tính nói trên. Tuy nhiên, độ đậm nhạt của
hai thuộc tính đó giữa các kiểu Nhà nước cũng khác nhau và cùng với lịch sử
phát triển của xã hội, tính xã hội của Nhà nước ngày càng được đề cao so với
tính giai cấp và xu hướng đó là phù hợp với thực tiễn phát triển của nền văn
minh nhân loại. Do đó, sẽ là sai lầm trong nhận thức và hành động nếu chỉ nhấn
mạnh một chiều đến bản chất giai cấp của Nhà nước mà không thấy vai trò xã
hội và giá trị xã hội của Nhà nước, đặc biệt là trong giai đoạn xây dựng Nhà
nước pháp quyền hiện nay.
Từ những nội dung trên, chúng ta có thể đi đến định nghĩa Nhà nước như
sau: Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy
chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt
nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị
trong xã hội.
II. CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm và đặc điểm chức năng của Nhà nước
Để nhận thức đầy đủ bản chất và vai trò xã hội của Nhà nước, cần phải
tìm hiểu nhiệm vụ và chức năng của Nhà nước.
Nhiệm vụ của Nhà nước là mục tiêu mà Nhà nước hướng tới, là những
vấn đề đặt ra mà Nhà nước cần phải giải quyết trong những thời kỳ lịch sử nhất
định. Nhiệm vụ của Nhà nước tùy thuộc vào bản chất của Nhà nước và điều kiện
lịch sử của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể.
Chức năng của Nhà nước là những phương hướng hoạt động chủ yếu
của Nhà nước thể hiện bản chất vai trò, sứ mệnh xã hội và mục tiêu của Nhà
nước.
Giữa nhiệm vụ và chức năng của Nhà nước có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Một nhiệm vụ của Nhà nước làm phát sinh một hay nhiều chức năng,
nhưng để thực hiện một chức năng của Nhà nước cũng phải giải quyết hàng loạt
các nhiệm vụ cụ thể. Là phương hướng hoạt động chủ yếu của Nhà nước, chức
năng của Nhà nước có những đặc trưng cơ bản sau:
- Bản chất của Nhà nước khác nhau thì chức năng của Nhà nước củng
khác nhau. Chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa khác với chức năng của
các Nhà nước khác ở nội dung và phương thức thực hiện.
- Chức năng của Nhà nước chủ yếu do các cơ quan Nhà nước thực hiện.
Tuy nhiên cần phải phân biệt giữa chức năng Nhà nước nói chung và chức năng
của mỗi cơ quan Nhà nước nói riêng, vì chức năng của mỗi cơ quan Nhà nước
chỉ là những phương diện, mặt hoạt động của cơ quan đó nhằm góp phần thực
hiện chức năng chung của Nhà nước, vì vậy, một chức năng của Nhà nước
được giao cho nhiều cơ quan Nhà nước thực hiện.
- Chức năng của Nhà nước được quy định một cách khách quan bởi điều
kiện kinh tế xã hội. Cho nên, giữa các chức năng có mối quan hệ mật thiết với
nhau, tác động qua lại lẫn nhau và tạo thành một thể thống nhất.
- Các chức năng của Nhà nước được thực hiện dưới những hình thức và
phương pháp nhất định. Nội dung những hình thức và phương pháp ấy bắt
nguồn và trực tiếp thể hiện bản chất cũng như mục tiêu và tính xã hội của Nhà
nước. Các chức năng của Nhà nước được thực hiện dưới các hình thức cơ bản:
Lập pháp, hành pháp và tư pháp và phương pháp thực hiện chủ yếu để thực
hiện các chức năng là các phương pháp giáo dục, thuyết phục và phương pháp
cưỡng chế.
2. Phân loại chức năng Nhà nước
Có nhiều cách khác nhau phân loại chức năng Nhà nước, có thể phân loại
chức năng Nhà nước thành: Chức năng lập pháp, chức năng hành pháp, chức
năng tư pháp; Chức năng cơ bản và chức năng không cơ bản; Chức năng đối
nội và chức năng đối ngoại... Mỗi cách phân loại có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
nhất định, như nếu phân loại theo chức năng cơ bản và chức năng không cơ
bản sẽ cho chúng ta thấy được hoạt động nào là chủ yếu của Nhà nước, nhiệm
vụ nào là nhiệm vụ trọng tâm của Nhà nước trong một giai đoạn cụ thể.
Hiện nay cách phân loại thông dụng nhất là căn cứ vào đối tượng tác động
của chức năng Nhà nước là trong nội bộ quốc gia hay đối với các quốc gia và tổ
chức nước ngoài mà các chức năng được chia thành các chức năng đối nội và
chức năng đối ngoại.
- Chức năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của Nhà nước trong
nội bộ đất nước, mà chủ yếu là tập trung vào việc thực hiện quyền lực chính trị
trong nước như quản lý kinh tế, thống trị giai cấp...
- Chức năng đối ngoại là những mặt hoạt động của Nhà nước trong mối
quan hệ với các quốc gia, dân tộc khác trên thế giới về các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội.
Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại có mối quan hệ mật thiết với
nhau, thực hiện chức năng đối ngoại xuất phát từ chức năng đối nội và phục vụ
cho chức năng đối nội, nếu thực hiện tốt các chức năng đối nội sẽ thuận lợi cho
việc thực hiện chức năng đối ngoại và ngược lại, thực hiện thành công hay thất
bại chức năng đối ngoại sẽ thúc đẩy hoặc kìm hãm thực hiện chức năng đối nội.
Trong mối quan hệ này thì chức năng đối nội giữ vai trò quyết định và suy cho
cùng việc thực hiện chức năng đối ngoại là để thực hiện tốt chức năng đối nội.
III. KIỂU VÀ HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC
1. Kiểu Nhà nước trong lịch sử
a. Khái niệm kiểu Nhà nước
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì sự phát triển của Nhà
nước gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người, thông qua sự phát triển
của các hình thái kinh tế xã hội và chính sự thay thế của các hình thái kinh tế xã
hội, dẫn đến sự thay thế của các kiểu Nhà nước và kiểu Nhà nước sau bao giờ
cũng tiến bộ hơn kiểu Nhà nước trước.
Trái ngược với chủ nghĩa Mác - Lênin các học giả tư sản thường phân
chia Nhà nước thành hai loại Nhà nước tự do và Nhà nước độc tài. Sở dĩ có
quan điểm khác nhau như vậy về kiểu Nhà nước là bởi vấn đề này liên quan
chặt chẽ đến bản chất của Nhà nước, nhận thức đúng đắn về kiểu Nhà nước sẽ
giúp chúng ta nhận thức một cách cụ thể và logic về bản chất và ý nghĩa xã hội
của Nhà nước được xếp vào cùng một loại, về những điều kiện tồn tại và phát
triển của các Nhà nước đó.
Nói tới kiểu Nhà nước là nói tới bộ máy thống trị của giai cấp nào, tồn tại
trên cơ sở nền tảng kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế xã hội nào. Bởi
vì, Nhà nước tồn tại trên cơ sở kinh tế của một xã hội nhất định nên đặc điểm
của mỗi kiểu Nhà nước là do chế độ kinh tế của xã hội sản sinh ra nó quy định,
Nhà nước phản ánh một cách tập trung nhất đặc điểm kinh tế - xã hội của một
thời đại nhất định.
Vậy, kiểu Nhà nước là tổng thể những dấu hiệu cơ bản, dặc thù của Nhà
nước, phản ánh nguồn gốc phát sinh, bản chất giai cấp, vai trò xã hội và những
điều kiện tồn tại và phát triển của Nhà nước trong một hình thái kinh tế xã hội
nhất định.
b. Các kiểu Nhà nước trong lịch sử
Trong lịch sử xã hội có giai cấp, đã tồn tại bốn hình thái kinh tế xã hội:
Chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Tương ứng
với bốn hình thái kinh tế xã hội đó là bốn kiểu Nhà nước.
* Kiểu Nhà nước Chiếm hữu nô lệ (Chủ nô)
Nhà nước chiếm hữu nô lệ là kiểu Nhà nước đầu tiên trong lịch sử, ra đời
khi chế độ thị tộc - bộ lạc tan rã, là tổ chức chính trị đặc biệt của giai cấp chủ nô.
Cơ sở kinh tế của Nhà nước chiếm hữu nô lệ là quan hệ sản xuất chiếm
hữu nô lệ, dựa trên chế độ sở hữu chủ nô không những đối với tư liệu sản xuất
mà cả đối với nô lệ. Chính cơ sở này đã quyết định bản chất giai cấp của Nhà
nước chiếm hữu nô lệ, là công cụ bạo lực để giai cấp chủ nô thực hiện nền
chuyên chính của giai cấp mình.
Nhà nước chiếm hữu nô lệ bảo vệ và củng cố chế độ sở hữu của giai cấp
chủ nô, củng cố hệ tư tưởng tôn giáo và sử dụng nó để thống trị về mặt tư tưởng
đối với xã hội. Đây là kiểu Nhà nước tàn bạo nhất trong lịch sử, thể hiện một
cách rõ nét bản chất giai cấp, và chức năng chủ yếu của Nhà nước là bộ máy
trấn áp.
* Kiểu Nhà nước Phong kiến
Ra đời kế sau Nhà nước chiếm hữu nô lệ và mặc dầu là kiểu Nhà nước
bóc lột nhưng Nhà nước phong kiến có nhiều tiến bộ hơn so với Nhà nước chủ
nô. Sự tiến bộ thể hiện rõ nét nhất của Nhà nước phong kiến là việc thừa nhận
giai cấp bị thống trị là con người và công nhận một số quyền cơ bản của con
người như quyền được sống, quyền tự do, quyền sở hữu.
Cơ sở kinh tế của Nhà nước phong kiến là chế độ sở hữu về ruộng đất
của giai cấp địa chủ và buộc chặt người nông dân với chế độ tư hữu về ruộng
đất. Trên cơ sở kinh tế này mà xã hội cũng có sự phân chia thành các thứ bậc
khác nhau của các giai tầng trong xã hội.
Bản chất của Nhà nước phong kiến là công cụ của giai cấp địa chủ phong
kiến để thực hiện chuyên chính đối với giai cấp nông dân và tầng lớp lao động
khác, là phương tiện duy trì địa vị kinh tế, bảo vệ lợi ích và sự thống trị của giai
cấp địa chủ phong kiến.
Hệ tư tưởng thần quyền được Nhà nước phong kiến sử dụng một cách
rộng rãi nhằm che đậy bản chất và địa vị của giai cấp thống trị. Do bị chi phối
của hệ tư tưởng thần quyền đã kìm hãm sự phát triển của xã hội phong kiến và
giai đoạn này được gọi là "đêm trường Trung cổ" của xã hội loài người.
* Kiểu Nhà nước Tư sản
Sự ra đời của Nhà nước tư sản đánh dấu sự phát triển vượt bậc trong lịch
sử nhân loại, đặc biệt là trong sản xuất, xóa bỏ những tư tưởng cổ hủ, lạc hậu
trong xã hội phong kiến, nhằm đề cao giá trị của con người.
Vai trò của Nhà nước tư sản đóng góp cho sự phát triển của xã hội loài
người là sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và nền dân chủ cho xã
hội loài người. So với các kiểu Nhà nước trước đây, thì Nhà nước tư sản là Nhà
nước tiến bộ, dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của con người cũng như đề
cao con người. Tuy nhiên, do nền tảng của xã hội là sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất nằm trong tay giai cấp tư sản nên Nhà nước tư sản thực chất là công
cụ chính trị của giai cấp tư sản nhằm duy trì sự thống trị của họ và bóc lột giai
cấp công nhân và nhân dân lao động.
* Kiểu Nhà nước Xã hội chủ nghĩa
Nhà nước XHCN là kiểu Nhà nước mới có bản chất khác với các kiểu Nhà
nước ra đời trước. Bản chất đó do cơ sở kinh tế - xã hội và đặc điểm về tổ chức
thực hiện quyền lực chính trị trong CNXH quyết định.
Cơ sở kinh tế của Nhà nước XHCN là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh
đạo Nhà nước và xã hội, quyền lực Nhà nước thuộc về giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Nhà nước XHCN là công cụ duy trì sự thống trị của đa số đối
với thiểu số là các giai cấp bóc lột, thực hiện dân chủ với đa số nhân dân lao
động, chuyên chính với thiểu số bóc lột, chống đối.
Nhà nước XHCN là bộ máy hành chính, cơ quan cưỡng chế đồng thời là
một tổ chức quản lý kinh tế xã hội, là công cụ xây dựng một xã hội bình đẳng,
công bằng, tự do và nhân đạo.
Tuy nhiên, hiện nay trên thế giới các quốc gia (Trung Quốc, Việt Nam, Bắc
Triều Tiên, Cu Ba) đi theo con đường chủ nghĩa xã hội đang ở thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, Nhà nước mà các quốc gia này đang xây dựng là
Nhà nước quá độ, nên trong quá trình này vấn đề xây dựng bộ máy Nhà nước
cũng như quản lý về kinh tế vẫn còn tồn tại đan xen giữa cái mới và cái cũ là tất
yếu khách quan. Sẽ là nóng vội chủ quan nếu cho rằng các quốc gia nói trên đã
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
2. Hình thức Nhà nước
Hình thức Nhà nước là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Kết
quả của sự thống trị về mặt chính trị phụ thuộc phần lớn vào việc giai cấp thống
trị đã tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước như thế nào. (Quyền lực Nhà
nước gồm: quyền lập pháp; quyền hành pháp và quyền tư pháp).
Hình thức Nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực Nhà nước và những
phương pháp để thực hiện quyền lực ấy.
Hình thức Nhà nước là một khái niệm chung được hình thành từ ba yếu
tố: hình thức chính thể; hình thức cấu trúc và chế độ chính trị.
a. Hình thức chính thể
Hình thức chính thể là cách tổ chức và trình tự để lập ra các cơ quan tối
cao của Nhà nước và trình tự thiết lập mối quan hệ cơ bản của cơ quan ấy cũng
như mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước với nhân dân và mức độ tham gia
của nhân dân vào quá trình hình thành các cơ quan Nhà nước.
Trong lịch sử phát triển của Nhà nước, hình thức chính thể của Nhà nước
gồm chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa, cơ sở để phân chia hai hình
thức này là cách thức thành lập người đứng đầu Nhà nước.
* Chính thể quân chủ: Là chính thể mà trong đó quyền lực tối cao của Nhà
nước tập trung toàn bộ hay một phần vào trong tay một người đứng đầu Nhà
nước lên ngôi theo nguyên tắc thừa kế.
* Chính thể cộng hòa: Là chính thể mà trong đó quyền lực tối cao của Nhà
nước tập trung trong tay một cơ quan được lập ra bằng con đường bầu cử và
giữ nhiệm kỳ trong một thời hạn nhất định.
Cả hai hình thức chính thể nói trên đều có những biến thể khác nhau căn
cứ vào mối quan hệ giữa người đứng đầu Nhà nước, nghị viện và Chính phủ và
các hình thức biến thể này đã và đang tồn tại ở các quốc gia trên thế giới.
*/ Chính thể quân chủ được chia thành: Chính thể quân chủ tuyệt đối và
chính thể quân chủ hạn chế.
- Chính thể quân chủ tuyệt đối là chính thể mà người đứng đầu Nhà nước
có quyền lực vô hạn (Vua, hoàng đế). Hình thức chính thể này đã từng tồn tại
phổ biến trong các Nhà nước chiếm hữu nô lệ, phong kiến. Điển hình như Nhà
nước phong kiến Trung Hoa, Việt Nam...
- Chính thể quân chủ hạn chế (hay còn gọi quân chủ lập hiến hoặc quân
chủ đại nghị) là chính thể mà người đứng đầu Nhà nước chỉ nắm một phần
quyền lực Nhà nước. Bên cạnh Vua, Hoàng đế... còn có các cơ quan khác. Hình
thức chính thể này hiện nay đang tồn tại phổ biến ở nhiều nước trên thế giới
như: Anh, Tây Ban Nha, Nhật, Thái Lan... ở những nước này Vua tồn tại mang
tính chất hình thức và truyền thống với vai trò đoàn kết dân tộc là chủ yếu.
Quyền lực nhà vua không có ảnh hưởng nhiều trong lập pháp và hành pháp.
*/ Chính thể cộng hòa cũng được chia thành hai dạng: Cộng hòa quý tộc
và Cộng hòa dân chủ.
- Cộng hòa quý tộc là chính thể mà trong đó quyền tham gia bầu cử để lập
ra cơ quan quyền lực của Nhà nước chỉ dành cho tầng lớp quý tộc và bình dân
thiểu số, còn đại đa số nhân dân (nô lệ) không được tham gia bầu cử. Chính thể
này đã từng tồn tại trong các Nhà nước chiếm hữu nô lệ ở phương tây, điển
hình như Nhà nước Aten, La Mã cổ đại.
- Cộng hòa dân chủ là chính thể mà trong đó quyền tham gia bầu cử để
lập ra cơ quan đại diện quyền lực Nhà nước được quy định cho tất cả các tầng
lớp nhân dân. Tuy nhiên, việc tham gia bầu cử rộng rãi của nhân dân cũng có sự
khác biệt qua các thời kỳ khác nhau. Ngày nay, hầu như các quốc gia theo hình
thức chính thể này đều cho phép toàn thể nhân dân tham gia bầu cử để lập ra
cơ quan quyền lực Nhà nước.
Hiện nay các quốc gia có hình thức chính thể Cộng hòa dân chủ cũng có
những hình thức biến thể khác nhau bao gồm:
- Cộng hòa tổng thống (Mỹ, Philipin, Indonesia...).
- Cộng hòa đại nghị (Đức, Italia, Ba Lan...).
- Cộng hòa hỗn hợp hay lưỡng tính (Pháp, Bồ Đào Nha...).
- Cộng hòa dân chủ nhân dân (Trung Quốc, Việt Nam).
b. Hình thức cấu trúc
Hình thức cấu trúc là cơ cấu hành chính lãnh thổ của Nhà nước, mối quan
hệ qua lại giữa các bộ phận hành chính lãnh thổ và giữa cơ quan Nhà nước ở
Trung ương với địa phương.
Có hai hình thức cấu trúc Nhà nước gồm:
- Hình thức cấu trúc đơn nhất: Là hình thức Nhà nước có chủ quyền
chung, có hệ thống cơ quan Nhà nước thống nhất từ Trung ương đến địa
phương và lãnh thổ quốc gia được chia ra thành các đơn vị hành chính, có một
hệ thống pháp luật thống nhất. Trung Quốc, Việt Nam, Lào là Nhà nước đơn
nhất.
- Hình thức cấu trúc liên bang: Là Nhà nước có từ hai hay nhiều nước
thành viên hợp lại, có hai hệ thống cơ quan Nhà nước một cho toàn liên bang và
một cho bang, cũng có hai hệ thống pháp luật liên bang và bang; Có chủ quyền
quốc gia chung của liên bang và mỗi thành viên cũng có chủ quyền riêng. Nhà
nước Mỹ, Ấn Độ, Malaysia là Nhà nước liên bang.
c. Chế độ chính trị
Chế độ chính trị là tổng thể những phương pháp, thủ đoạn mà các cơ
quan Nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực Nhà nước. Những phương
pháp này phụ thuộc vào bản chất Nhà nước và sự phát triển của lịch sử xã hội
loài người. Có rất nhiều phương pháp khác nhau nhưng tựu chung được phân
thành hai phương pháp chủ yếu:
- Phương pháp dân chủ: Là phương pháp mà nhân dân được tham gia
rộng rãi trong việc thành lập, cũng như hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
Tuy nhiên, phương pháp dân chủ cũng có những dạng thức như: Dân chủ rộng
rãi và hạn chế; Thực sự và giả hiệu; Trực tiếp và gián tiếp. Phương pháp này
được sử dụng rộng rãi trong các Nhà nước tư sản và Nhà nước XHCN.
- Phương pháp phản dân chủ: Là phương pháp mà nhân dân bị hạn chế,
triệt tiêu trong việc thành lập cũng như hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong các Nhà nước Chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, độc tài phát xít.
IV. BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm bộ máy Nhà nước và và đặc điểm của cơ quan Nhà nước
Bộ máy Nhà nước là hệ thống các cơ quan thực hiện nhiện vụ và chức
năng của Nhà nước, Vì vậy, để quản lý xã hội mọi Nhà nước đều thiết lập hệ
thống cơ quan Nhà nước và trao cho những cơ quan này nhiệm vụ quyền hạn
cụ thể. Nhà nước khác nhau thì quy mô, nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan
Nhà nước cũng khác nhau.
Hoạt động của bộ máy Nhà nước phụ thuộc vào nguyên tắc tổ chức quyền
lực Nhà nước. Trong lịch sử Nhà nước giai cấp thống trị sử dụng nhiều nguyên
tắc khác nhau để tổ chức bộ máy Nhà nước, nhưng khái quát lại có hai nguyên
tắc cơ bản: Nguyên tắc phân quyền và nguyên tắc tập quyền. Tuy nhiên, việc áp
dụng các nguyên tắc này vào tổ chức và hoạt động của các bộ máy Nhà nước
cũng có sự cứng rắn hay mềm dẻo khác nhau và hơn nữa các nguyên tắc này
có sự đan xen chứ không biệt lập một cách cụ thể và mỗi nguyên tắc cũng chứa
đựng trong đó những ưu điểm và nhược điểm.
Vậy, bộ máy Nhà nước là hệ thống các cơ quan Nhà nước, tổ chức và
hoại động theo những nguyên tắc chung thống nhất tạo thành một cơ chế đồng
hộ để thực hiện các nhiệm vụ và chức năng của Nhà nước.
Bộ máy Nhà nước chịu sự chi phối của các nhiệm vụ Nhà nước, các yếu
tố kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước, truyền thống dân tộc, trình độ kỹ
thuật Tổ chức bộ máy Nhà nước.
Các cơ quan Nhà nước rất đa dạng, nhiều ngành. Nhưng thông thường
trong bộ máy Nhà nước nói chung bao gồm ba loại cơ quan:
- Cơ quan lập pháp.
- Cơ quan hành pháp.
- Cơ quan tư pháp.
Tất cả các cơ quan Nhà nước tạo thành bộ máy Nhà nước. Nhưng bộ
máy Nhà nước không phải là tập hợp đơn giản các cơ quan Nhà nước, mà là
một hệ thống thống nhất các cơ quan có mối liên hệ ràng buộc qua lại chặt chẽ
với nhau vận hành theo một cơ chế đồng bộ, thống nhất. Do đó, hiệu quả hoạt
động của bộ máy Nhà nước tùy thuộc vào hiệu quả hoạt động của từng cơ quan
Nhà nước.
Đặc điểm của cơ quan Nhà nước
- Cơ quan Nhà nước, là một tổ chức công quyền có tính độc lập tương đối
với cơ quan Nhà nước khác.
- Hoạt động của cơ quan Nhà nước có tính quyền lực Nhà nước.
- Thẩm quyền của cơ quan Nhà nước có những giới hạn mang tính chất
pháp lý.
- Mỗi cơ quan Nhà nước có những hình thức và phương thức hoạt động
riêng do luật định.
- Cơ quan nhà nước chỉ hoạt động trong phạm vi thẩm quyền của mình và
chịu trách nhiệm về hoạt động đó.
2. Các loại cơ quan Nhà nước
Cơ quan Nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy Nhà nước có cơ cấu
tổ chức, có nhiệm vụ, quyền hạn được quy định bởi Hiến pháp và pháp luật. Các
Nhà nước khác nhau thì việc tổ chức cơ quan Nhà nước cũng khác nhau nhưng
nhìn chung có những điểm chung giống nhau bao gồm các cơ quan sau:
* Nguyên thủ quốc gia
Nguyên thủ quốc gia là cá nhân hoặc tập thể đứng đầu Nhà nước, đại
diện cho Nhà nước trong quan hệ với các quốc gia khác. Trong các kiểu Nhà
nước khác nhau thì nhiệm kỳ, quyền lực và tên gọi của nguyên thủ quốc gia
cũng khác nhau. Đối với các quốc gia theo chính thể quân chủ thì tên gọi của
nguyên thủ quốc gia có thể là Vua, Hoàng đế, Nữ hoàng, đối với các quốc gia
theo chính thể Cộng hòa thì tên gọi của nguyên thủ quốc gia có thể là Tổng
thống, Chủ tịch Nước. Nguyên thủ quốc gia được hình thành có thể do thừa kế,
do nhân dân trực tiếp bầu hoặc do nghị viện bầu.
* Nghị viện
Nghị viện là cơ quan dân cử, đại diện cho nhân dân có thẩm quyền lập
pháp và phê chuẩn một số vấn đề trọng đại của quốc gia. Vai trò của nghị viện
trong các chính thể quân chủ hạn chế và chính thể cộng hòa cũng khác nhau.
Thông thường Nghị viện của chính thể Cộng hòa đại nghị là có vai trò lớn nhất,
vì Tổng thống và Thủ tướng đều phải chịu trách nhiệm trước nghị viện, về tên
gọi, cơ cấu của nghị viện ở các quốc gia cũng khác, có những quốc gia chỉ có
một viện, có những quốc gia có hai viện là Thượng viện và Hạ viện; về tên gọi
cơ quan dân cử là Nghị viện, Quốc hội, Đảng...
* Chính phủ
Chính phủ là cơ quan hành pháp, chịu trách nhiệm quản lý các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Trong các cơ quan Nhà nước thì Chính phủ là cơ quan thực
hiện nhiều nhiệm vụ nhất và có bộ máy giúp việc to lớn nhất. Đứng đầu Chính
phủ thường là Thủ tướng và một số nước theo chính thể Cộng hòa Tổng thống
thì Tổng thống vừa đứng đầu Nhà nước vừa đứng đầu Chính phủ (không có Thủ
tướng). Sự ổn định và phát triển của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào khả
năng điều hành của Chính phủ, do đó nếu Chính phủ hoạt động không hiệu quả
thì có thể bị Nghị viện hoặc nhân dân bất tín nhiệm và trong trường hợp này phải
bầu Chính phủ mới.
* Tòa án
Tòa án là cơ quan có chức năng xét xử các vi phạm pháp luật và các xung
đột pháp luật. Tuy nhiên, khi đề cập đến Tòa án trong bộ máy Nhà nước là nói
đến Tòa án với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp trong các quyền lực
Nhà nước. Khi thực hiện chức năng của mình, Tòa án có sự độc lập tương đối
với cơ quan Nhà nước khác và chỉ tuân theo pháp luật. Việc tổ chức Tòa án ở
các quốc gia cũng có sự khác biệt, có những quốc gia tổ chức Tòa án theo đơn
vị hành chính - lãnh thổ, nhưng cũng có những quốc gia tổ chức Tòa án theo khu
vực.
Ở một số quốc gia, việc thực hiện quyền tư pháp không chỉ có Tòa án mà
còn có Viện Công tố có chức năng thực hành quyền công tố hoặc cơ quan Nhà
nước độc lập là Viện Kiểm sát với chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật và
thực hành quyền công tố.
Chương 2. NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
I. BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Nguồn gốc và bản chất của Nhà nước CHXHCN Việt Nam
Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng
trường Ba Đình lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch
Hồ Chí Minh cùng toàn thể nhân dân đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới lập ra
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, kiểu Nhà nước công nông đầu tiên ở
khu vực Đông Nam châu Á. Ngay sau khi thành lập Nhà nước công nông non trẻ
đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược (1946 - 1954) và sau đó là tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc, đấu tranh chống Mỹ ở miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân trong thống nhất nước nhà và đi lên con đường chủ nghĩa
xã hội.
Nhà nước CHXHCN Việt Nam là sản phẩm trí tuệ của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể ở nước ta. Do vậy, sự ra đời của Nhà
nước ta là thành quả trực tiếp của Cách mạng tháng Tám do nhân dân ta tiến
hành thắng lợi. Vì vậy, Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước của dân, do
dân và vì dân.
Là kiểu Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở Đông Nam Á, cho nên Nhà
nước CHXHCN Việt Nam vừa có những đặc điểm chung của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa vừa có những đặc điểm riêng phù hợp với hoàn cảnh lịch sử Việt
Nam.
Ngày từ khi ra đời cho đến ngày nay, bản chất Nhà nước của dân, do dân
và vì dân luôn được thể hiện và được minh chứng qua bốn bản Hiến pháp của
Nhà nước ta.
Bản chất Nhà nước của dân, do dân và vì dân ngày càng được hoàn thiện
sửa đổi cho phù hợp với xu thế của thời địa và phát huy một cách tốt nhất quyền
làm chủ của nhân dân. Nguyên tắc hiến định về việc nhân dân là nguồn gốc và
chủ thể của quyền lực Nhà nước luôn luôn được khẳng định một cách rõ ràng và
đầy đủ tại Điều 2 Hiến pháp 1992 sửa đổi quy định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức".
Bản chất Nhà nước của dân, do dân và vì dân được thể hiện thông qua
các đặc điểm sau:
- Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân thiết lập nên
Nhà nước bằng quyền bầu cử, ứng cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân
các cấp và sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua các cơ quan này. Ngoài ra,
nhân dân còn thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua kiểm tra, giám sát, khiếu
nại, khiếu kiện các quyết định của cơ quan Nhà nước xâm hại đến lợi ích của
mình cũng như thảo luận các vấn đề chung và biểu quyết khi Nhà nước trưng
cầu dân ý.
Vấn đề khi nói về nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân và quvền
lực không thể phân chia, không thể không bàn về tính giai cấp của quyền lực
chính trị, quyền lực Nhà nước. Quyền lực chính trị trong xã hội có giai cấp đối
kháng không thể không thể hiện trước hết và trội hơn hết lợi ích của giai cấp
thống trị.
Vậy tại sao có thể nói "Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân" là
bản chất của Nhà nước CHXHCN Việt Nam?
Vấn đề ở chỗ, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa
xã hội, việc kết hợp tính giai cấp và tính nhân dân của quyền lực chính trị là vấn
đề thuộc bản chất. Trước hết, nó thể hiện ở chỗ lợi ích của giai cấp công nhân
phù hợp về cơ bản với lợi ích của các giai cấp và tầng lớp lao động khác, do đó
không cần và không thể thực hiện quyền lực một cách riêng rẽ. Mặt khác muốn
đạt được mục đích của giai cấp mình và đồng thời là mục tiêu chung của xã hội,
giai cấp công nhân phải có những hình thức tổ chức quyền lực để ghi nhận và
phản ánh kịp thời, đầy đủ lợi ích của các bộ phận khác của xã hội đại diện cho
những nhu cầu khác nhau của sự tiến bộ xã hội.
- Nhà nước thực hiện nền dân chủ thực sự và rộng rãi. Với quan điểm
phát triển, Điều 3 Hiến pháp chỉ rõ "Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát
huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân...". Dân chủ là bản chất của Nhà
nước ta, Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia đông đảo
vào quản lý các công việc của Nhà nước và xã hội. Quan điểm đó là quá trình
tìm tòi, kiểm nghiệm, sáng tạo được rút ra để định hướng cho sự phát triển của
toàn bộ hệ thống chính trị nói chung.
Bản chất dân chủ của Nhà nước còn thể hiện một cách toàn diện trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội, cụ thể: Trong lĩnh vực kinh tế Nhà nước thực hiện
chủ trương tự do, bình đẳng về kinh tế tạo ra những điều kiện làm cho nền kinh
tế đất nước năng động và phát triển. Trong lĩnh vực chính trị, Nhà nước đã tạo
cơ sở pháp lý quy định tất cả những quyền tự do, dân chủ trong sinh hoạt chính
trị, bảo đảm cho người dân được làm chủ về mặt chính trị. Trong lĩnh vực tư
tưởng văn hóa, Nhà nước thực hiện chủ trương tự do tư tưởng và giải phóng
tinh thần, phát huy mọi khả năng của con người, quy định một cách toàn diện
các quyền tự do ngôn luận, hội họp, tín ngưỡng, tôn giáo... Và bảo đảm cho mọi
người được hưởng các quyền đó.
- Bộ máy Nhà nước vừa thực hiện nhiệm vụ trấn áp các thế lực thù địch
phản động, vừa quản lý kinh tế xã hội. Trong đó, chức năng cơ bản của bộ máy
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế xã hội là chủ yếu.
- Nhà nước thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị
với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác
nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có
lợi.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì dân. Việc tổ chức và thực thi quyền lực Nhà nước phải
trên cơ sở pháp luật, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Những đặc điểm có tính bản chất nêu trên của Nhà nước ta trong các điều
kiện hiện tại đã được thể hiện cự thể trong các nhiệm vụ, chức năng của Nhà
nước và được pháp luật quy định một cách chặt chẽ. Tuy nhiên, để đáp ứng
được đầy đủ các nhu cầu, đòi hỏi để bảo đảm giữ vững và phát huy bản chất
của "Nhà nước của dân, do dân và vì dân" Nhà nước CHXHCN Việt Nam còn
cần phải tiếp tục đổi mới nhiều mặt, cải tổ sâu sắc từ cơ cấu tổ chức đến hình
thức và phương pháp hoạt động phù hợp với các quy định của pháp luật để từng
bước xây dựng và phát triển thành Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
2. Chức năng của Nhà nước CHXHCN Việt Nam
Chức năng của Nhà nước là những phương diện hoạt động cơ bản của
Nhà nước thể hiện bản chất giai cấp, ý nghĩa xã hội, mục đích và nhiệm vụ của
Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhà nước CHXHCN Việt Nam là kiểu Nhà nước xã hội chủ nghĩa do vậy
bản chất của Nhà nước quyết định các chức năng cơ bản của Nhà nước
CHXHCN Việt Nam. Tuy nhiên, các Nhà nước XHCN đều có những chức năng
giống nhau, nhưng do mỗi nước có những đặc điểm và hoàn cảnh không giống
nhau cho nên trong mỗi Nhà nước các chức năng cũng có những đặc điểm khác
nhau về mức độ, phạm vi, tầm quan trọng và phương pháp tổ chức thực hiện.
a. Chức năng đối nội
- Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế: Đây là chức năng cơ bản đặc thù
nói chung của Nhà nước XHCN nói chung cũng như Nhà nước CHXHCN Việt
Nam nói riêng. Bởi vì, Nhà nước CHXHCN Việt Nam không chỉ là bộ máy tổ
chức của quyền lực chính trị, mà còn là chủ sở hữu của các tư liệu sản xuất chủ
yếu, trực tiếp tổ chức và quản lý kinh tế đất nước.
Tố chức và quản lý nền "... kinh tế độc lập, tự chủ trển cơ sở phát huy nội
lực, chủ động hội nhập lãnh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hóa, hiện địa hóa
đất nước... thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ
chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu
tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền
tảng". (Điều 15 Hiến pháp 1992) là chức năng cơ bản của Nhà nước ta. Để thực
hiện chức năng này, đòi hỏi Nhà nước CHXHCN Việt Nam phải nhận thức đúng
đắn các vấn đề có tính quy luật của nền sản xuất xã hội và nền kinh tế thị
trường, đồng thời phân tích sâu sắc thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước ta
và bối cảnh kinh tế quốc tế để xây dựng chiến lược và bước đi phù hợp nhằm
thực hiện được mục tiêu "... làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng
tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở phát huy mọi năng
lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế... thúc đẩy xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu
với thị trường thế giới". (Điều 16 Hiến pháp 1992)
Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của Nhà nước CHXIICN Việt Nam
gồm những nội cơ bản sau dung sau:
- Sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý, phù hợp với thực tế
nhằm đảm bảo cho kinh tế phát triển ổn định.
- Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nqhĩa, sử dụnq đúng
đắn các thành phần kinh tế.
- Phát huy mạnh mẽ động lực khoa học kỹ thuật để đẩy nhanh quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
- Chức năng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, trấn áp sự
phản kháng của các thế lực thù địch. Đây là một trong những chức năng hết sức
quan trọng, đặc biệt là sau khi cách mạng thành công cũng như trong giai đoạn
hiện nay. Để thực hiện chức năng này Nhà nước CHXHCN Việt Nam phải không
ngừng tăng cường sức mạnh về mọi mặt, phải sử dụng sức mạnh tổng hợp của
hệ thống chính trị. Thực hiện tốt chức năng này sẽ tạo điều kiện hòa bình, ổn
định cho việc thực hiện các chức năng khác.
- Chức năng tổ chức và quản lý văn hóa giáo dục, khoa học công nghệ.
Đây cũng là một chức năng quan trọng của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, thể
hiện bản chất Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Chức năng này thể hiện trên
ba lĩnh vực: Nâng cao đời sống văn hóa vật chất và tinh thần cho nhân dân; bồi
dưỡng nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài phục vụ cho sự nghiệp xây
dựng đất nước; khuyến khích sự phát triển của khoa học công nghệ và sử dụng
có hiệu quả thành tựu của nó phục vụ cho phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội.
b. Chức năng đối nqoại
- Chức năng bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc là vấn đề có tính quy luật
của bất cứ quốc gia nào. Mặc dù hiện nay ở nước ta tình hình an ninh quốc
phòng vẫn được giữ vững nhưng điều đó không có nghĩa cho phép chúng ta lơ
là trước các âm mưu của các thế lực thù địch. Bài học về sự tan rã của các quốc
gia CNXH và tình hình chính trị thế giới hiện nay đòi hỏi CHXHCN Việt Nam phải
luôn đề cao cảnh giác trước các âm mưu và biện pháp mới của các thế lực thù
địch phản động. Để thực hiện tốt chức năng này đòi hỏi chúng ta phải gải quyết
tốt chức năng đối nội, đặc biệt là chức năng kinh tế và phát huy sức mạnh của
cả hệ thống chính trị.
- Chức năng mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, tổ chức quốc tế và
khu vực. Đây cũng là chức năng rất quan trọng của Nhà nước CHXHCN Việt
Nam và nó cũng là xu hướng phát triển chung của nhân loại. Quan điểm của
chúng ta là: "Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách
hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế
giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn
kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước
láng giềng; tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân
thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội". (Điều 14 Hiến
pháp 1992)
Hiện nay, Nhà nước CNXHCN Việt Nam hầu như đã thiết lập quan hệ
bang giao với tất cả các quốc gia và các tổ chức quốc tế lớn và có uy tín trên thế
giới, mối quan hệ này sẽ là động lực quan trọng để nước ta đi tắt đón đầu về các
lĩnh vực phát triển đất nước, cũng như thực hiện tốt chức năng đối nội. Tuy
nhiên, chỉ thực hiện tốt chức năng mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, tổ
chức quốc tế và khu vực khi chúng ta thực hiện tốt chức năng đối nội. Do vậy,
chức năng đối ngoại là quan trọng nhưng chức năng đối nội là quyết định.
II. BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Khái niệm và đặc điểm của bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam
Nhà nước CHXHCN Việt Nam là kiểu Nhà nước XHCN có bản chất và
mục đích khác với các kiểu Nhà nước bóc lột, vì vậy nó đòi hỏi phải có một bộ
máy tương ứng, phản ánh đúng bản chất của Nhà nước, phù hợp với các quy
luật vận động và phát triển khách quan của xã hội cũng như các điều kiện lịch
sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và các yếu tố truyền thống của nước ta.
Bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam được thiết lập từ Cách mạng tháng
Tám năm 1945, ngay từ buổi đầu đã thể hiện bản chất của một kiểu Nhà nước
mới, một Nhà nước có chế độ dân chủ rộng rãi, gắn bó chặt chẽ với nhân dân,
phục vụ lợi ích của dân tộc, của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Sau hơn nửa thế kỷ, bộ máy Nhà nước ta đã được củng cố, phát triển
và ngày càng hoàn thiện.
Để thực hiện nhiệm vụ tổ chức và quản lý rộng lớn, toàn diện, cần phải lập
ra hệ thống cơ quan Nhà nước để đảm nhận những chức năng nhiệm vụ khác
nhau của Nhà nước. Tuy có sự khác nhau về cơ cấu tổ chức và phương thức
hoạt động, nhưng tất cả các cơ quan Nhà nước đều có cùng chung một mục
đích là thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Vậy, Bộ máy Nhà nước CNXHCN Việt Nam là hệ thống các cơ quan Nhà
nước từ Trung ương đến cơ sở, được tổ chức theo những nguyên tắc chung
thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng và nhiệm
vụ của Nhà nước.
Xuất phát từ khái niệm trên và bản chất của Nhà nước, Bộ máy Nhà nước
CHXHCN Việt Nam có những đặc điểm cơ bản sau:
- Bộ máy quản lý của Nhà nước CHXHCN Việt Nam phát triển mạnh và
không ngừng được củng cố và hoàn thiện. Bởi vì, bên cạnh bộ máy trấn áp vẫn
cần duy trì và củng cố thì Nhà nước ta còn phải thực hiện sự quản lý toàn diện
mọi mặt của đời sống xã hội, để bảo đảm sự ổn định về chính trị, củng cố quyền
lực nhân dân, phát huy dân chủ, bảo đảm công bằng xã hội, thúc đẩy nền kinh tế
phát triển. Toàn bộ những hoạt động quản lý rộng lớn và phức tạp đó đòi hỏi
phải có một bộ máy có đủ năng lực và sức mạnh để thực hiện các chức năng
quản lý xã hội.
- Bộ máy Nhà Nước CHXHCN Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc
quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
(Điều 2 Hiến pháp 1992). Ở nước ta tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân
dân, bắt nguồn từ nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình theo hai
hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các cơ quan đại diện do mình trực
tiếp bầu ra.
Mặc dù bộ máy Nhà nước tổ chức theo nguyên tắc quyền lực Nhà nước là
thống nhất, nhưng vẫn có sự phân công phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
Nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy
nhiên cần phải thấy rằng sự phân công quyền lực Nhà nước ở nước ta không
giống với nguyên tắc phân quyền ở các nước tư sản. Bởi vì, bản chất của
nguyên tắc phân quyền trong các Nhà nước tư sản là quyền lực Nhà nước xuất
phát từ Hiến pháp nên giữa các quyền lực Nhà nước là ngang bằng, đối trọng và
kiềm chế lẫn nhau nhằm hạn chế tình trạng lạm quyền.
Sự phân công và phối hợp quyền lực Nhà nước ở nước ta không phải để
kiếm chế, đối trọng lẫn nhau mà nhằm mục đích tránh sự trùng lặp, chồng chéo,
mâu thuẫn trong việc thực hiện ba quyền với những chức năng, nhiệm vụ cụ thể
của từng cơ quan, bảo đảm sự vận hành nhịp nhàng, đồng bộ của cả bộ máy
Nhà nước trong quá trình thực thi quyền lực mà nhân dân trao cho Nhà nước.
- Bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam có đội ngũ cán bộ là những công
chức mới. Họ là những người thực hiện chức năng nhiệm vụ của các cơ quan
Nhà nước, trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình họ phải chịu
sự giám sát của nhân dân và có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào nếu không hoàn
thành nhiệm vụ và không được sự tín nhiệm của nhân dân.
2. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam
Nguyên tắc theo cách hiểu phổ biến, đó là những tư tưởng xuất phát điểm,
có tính chu đạo, định hướng, là quy tắc cơ bản của hành động.
Vậy, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước CHXHCN
Việt Nam là những tư tưởng, xuất phát điểm có tính chủ đạo, định hướng trong
việc tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến
địa phương, xuất phát từ bản chất của Nhà nước và tính nhân dân của Nhà
nước.
Việc tuân thủ triệt để các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước là một hệ
thống thống nhất, việc thực hiện các nguyên tắc này là điều kiện, tiền đề cho
việc thực hiện nguyên tắc khác. Vì vậy, cần phải thực hiện đồng bộ các nguyên
tắc. Các nguyên tắc này thường được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản
pháp luật quan trọng khác của Nhà nước, cụ thể bao gồm các nguyên tắc sau:
a. Nguyên tắc "Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân"
Đây là một trong những nguyên tắc rất quan trọng trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Việc lôi cuốn đông đảo nhân
dân lao động tham gia công tác quản lý Nhà nước là nguyên tắc thể hiện bản
chất nhân dân của Nhà nước, tạo khả năng phát huy tính tích cực chính trị - xã
hội, quyền làm chủ của nhân dân và trí tuệ của nhân dân tham gia công việc Nhà
nước, mặt khác là một trong những phương pháp tốt nhất để ngăn chặn bệnh
quan liêu, cửa quyền vốn rất dễ phát sinh trong bộ máy Nhà nước. Nội dung của
nguyên tắc này thể hiện ở các phương diện sau:
- Phải đảm bảo cho nhân dân tham gia đông đảo và tích cực vào việc tổ
chức lập ra bộ máy Nhà nước. Sự bảo đảm này phải thể hiện trước hết ở cơ sở
pháp lý và các biện pháp tổ chức phù hợp để nhân dân thể hiện ý chí của mình,
phát huy quyền làm chủ bầu ra các cơ quan đại diện của mình và thông qua hệ
thống cơ quan đại diện để lập ra hệ thống cơ quan khác. Điều 6 Hiến pháp 1992
quy định "Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội
đồng nhân dân là những cơ quan địa diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân
dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân".
- Phải bảo đảm cho nhân dân tham gia đông đảo vào việc quản lý các
công việc của Nhà nước và quyết định những vấn đề trọng địa của đất nước.
Nhân dân tham gia vào công việc của Nhà nước dưới nhiều hình thức khác
nhau: trực tiếp tham gia vào làm việc trong các cơ quan Nhà nước, bầu các đại
diện của mình vào cơ quan Nhà nước, tham gia trưng cầu dân ý, thảo luận đóng
góp các dự án luật... Việc tham gia vào công tác quản lý Nhà nước đã được ghi
nhận trong Hiến pháp "Công dân thực hiện quyền làm chủ của mình ở cơ sở
bằng cách tham gia công việc của Nhà nước và xã hội" (Điều 11), “Công dân có
quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề
chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết
khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân” (Điều 53). Đây là vấn đề có ý nghĩa rất
quan trọng, bảo đảm vấn đề trên sẽ là cơ sở để nhân dân trực tiếp phát huy sức
lực, trí tuệ và vai trò làm chủ của mình trong quản lý xã hội, bảo vệ lợi ích Nhà
nước, tập thể và cá nhân.
- Phải có cơ chế đảm bảo cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát
hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, đồng
thời là một trong những phương pháp đảm bảo cho bộ máy Nhà nước hoạt động
đúng mục đích phục vụ và bảo vệ lợi ích của nhân dân, chống những biểu hiện
tiêu cực như quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, xa rời quần chúng
của đội ngũ cán bộ Nhà nước. Điều 8 Hiến pháp 1992 quy định "Các cơ quan
Nhà nước, cán bộ, viên chức Nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ
nhân dẫn, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát
của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện
quan liêu, hách dịch, cửa quyền".
b. Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Sự lãnh đạo của Đảng là một nhu cầu khách quan của Nhà nước ta. Sự
lãnh đạo của Đảng là đảm bảo vững chắc nhất quyền làm chủ của nhân dân,
làm cho bộ máy Nhà nước luôn nằm trong quỹ đạo phục vụ nhân dân, là của
nhân dân, do nhân dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước tức là Đảng cầm quyền. Đảng
đề ra đường lối, chính sách, thực hiện công tác tổ chức, định hướng cho hoạt
động của bộ máy Nhà nước và đảm bảo cho chính sách đã được thực hiện.
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo đã được nghi nhận tại Điều 4 của Hiến pháp như
sau: "Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam,
đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ
Hiển pháp và pháp luật".
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện ở các mặt chủ yếu sau:
- Xây dựng đường lối chính trị, chủ trương chính sách lớn cho hoạt động
của Nhà nước.
- Quyết định những vấn đề quan trọng nhất về tổ chức bộ máy Nhà nước;
lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa các chủ trương chính sách của Đảng thành
pháp luật.
- Đảng thực hiện sự kiểm tra, hướng dẫn, lãnh đạo các cơ quan Nhà nước
hoạt động theo đúng đường lối chính sách do Đảng đề ra.
- Đảng đào tạo và giới thiệu đội ngũ cán bộ có uy tín và năng lực để đảm
nhận các chức vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước, gương mẫu thực hiện
đường lối của Đảng và chấp hành pháp luật của Nhà nước.
Tuy nhiên chúng ta phải thấy rằng, Đảng lãnh đạo Nhà nước chứ không
làm thay Nhà nước, tiêu chuẩn để đánh giá sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước là sự tin yêu của nhân dân vào bộ máy Nhà nước, tham gia tích cực, chủ
động vào quản lý Nhà nước.
c. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc này vừa bắt nguồn từ yêu cầu quản lý xã hội của Nhà nước
vừa bắt nguồn từ bản chất giai cấp của Nhà nước ta. Trong quá trình quản lý
Nhà nước, quản lý xã hội đòi hỏi phải tập trung quyền lực, có tập trung quyền
lực mới điều khiển được xã hội, mới thiết lập được một trật tự xã hội nhất định.
Tập trung là cần thiết, tuy nhiên phải gắn liền với dân chủ với nhân dân vì bản
chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa sự chỉ
đạo tập trung thống nhất của các cơ quan Nhà nước ở Trung ương và các cơ
quan Nhà nước cấp trên với việc mở rộng dân chủ, phát huy tính chủ động, sáng
tạo của các cơ quan Nhà nước ở địa phương và cơ quan Nhà nước cấp dưới.
Nguyên tắc này đã được ghi nhận tại Điều 6 Hiến pháp 1992 như sau "Nhân dân
sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là
những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân
bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các
cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyền tắc tập trung
dân chủ".
Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
- Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, là chủ thể tối cao của
quyền lực Nhà nước. Các cơ quan quyền lực đều do nhân dân trực tiếp bầu ra
và phải báo cáo định kỳ hoạt động của mình trước cử tri, đồng thời cử tri có
quyền giám sát cơ quan đại diện.
- Các cơ quan Nhà nước đều trực tiếp hay gián tiếp do cơ quan quyền lực
Nhà nước lập ra và chịu trách nhiệm báo cáo trước cơ quan quyền lực.
- Cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung
ương, các quyết định của cấp trên có giá trị bắt buộc đối với cấp dưới, văn bản
của cơ quan cấp dưới không được mâu thuẫn, trái với văn bản của cơ quan Nhà
nước cấp trên.
- Cơ quan Nhà nước cấp trên kiểm tra hoạt động của cơ quan Nhà nước
cấp dưới, cơ quan Nhà nước cấp dưới phải báo cáo hoạt động trước cơ quan
Nhà nước cấp trên.
- Các quyết định của cấp trên khi thông qua có sự tham gia của cơ quan
cấp dưới.
- Khi thực hiện các quyết định của cấp trên, cấp dưới có quyền phát huy
tính chủ động, sáng tạo phù hợp với tình hình cụ thể của cơ sở trên cơ sở đảm
bảo sự phân công, phân cấp rành mạch về chức năng, nhiệm vụ, quvền hạn và
trách nhiệm của mỗi cấp.
- Các vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của các cơ quan phải được
thảo luận tập thể và quyết định theo đa số nếu cơ quan làm việc theo chế độ tập
thể, nếu cơ quan làm việc theo chế độ thủ trưởng thì các vấn đề quan trọng
được đưa ra các hội đồng khác nhau để bàn bạc, người đứng đầu cơ quan
quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định đó.
- Bảo đảm thông tin hai chiều thông suốt phục vụ tốt cho công tác kiểm tra
hoạt động của cấp dưới trong khi thi hành nhiệm vụ.
Tập trung và dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất kết hợp hài hòa
với nhau. Nếu thiên về tập trung mà không chú trọng đến dân chủ sẽ dẫn đến
tập trung quan liêu, độc đoán trái với bản chất của Nhà nước ta. Ngược lại nếu
thiên về dân chủ mà coi nhẹ tập trung sẽ dẫn đến dân chủ quá trớn làm cho hoạt
động của bộ máy kém hiệu quả.
d. Nguyên tắc pháp chế Xã hội chủ nghĩa
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Đây là nguyên tắc hiến định
được ghi nhận tại Điều 12 của Hiến pháp 1992 "Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan
Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công
dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, dấu tranh phòng ngừa
và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành động xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công
dân đều bị xử lý theo pháp luật".
Pháp chế là sự đòi hỏi tôn trọng pháp luật triệt để pháp luật trong việc tổ
chức và hoạt động của tất cả các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, nghĩa là việc
tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước phải theo đúng các quy định của
pháp luật. Trong khi thi hành công vụ, mọi cơ quan, cán bộ, công chức Nhà
nước phải tuân theo pháp luật.
Mặt khác, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi công tác tăng
cường kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức Nhà
nước. Đồng thời phải xử lý công minh mọi hành vi vi phạm pháp luật.
Thực hiện tốt nguyên tắc pháp chế là cơ sở đảm bảo cho sự hoạt động
nhịp nhàng đồng bộ của bộ máy Nhà nước, đảm bảo hiệu lực và hiệu quả cao
của hoạt động quản lý Nhà nước, đảm bảo sự công bằng xã hội.
3. Các cơ quan trong bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam
Có nhiều cách phân loại cơ quan Nhà nước dựa vào các tiêu chí khác
nhau. Mỗi căn cứ đều có ý nghĩa khoa học làm cơ sở để xem xét và giải quyết
những vấn đề về bộ máy Nhà nước. Có nhiều cách phân loại về cơ quan Nhà
nước dưới những góc độ khác nhau, chẳng hạn như: nếu xét theo hình thức
thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì cơ quan Nhà nước được
chia thành cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp (nhưng
cũng chỉ có ý nghĩa tương đối và cũng để dùng để xem xét BMNN ở Trung
ương. Hoặc nếu xét theo trình tự thành lập thì có cơ quan Nhà nước do dân trực
tiếp bầu ra và các cơ quan không do dân trực tiếp bầu ra. Hoặc nếu xét theo tính
chất thẩm quyền thì có cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chung và cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền riêng. Hoặc nếu xét theo cấp độ thẩm quyền thì có cơ
quan Nhà nước ở Trung ương và cơ quan Nhà nước ở địa phương.
Tuy nhiên, với yêu cầu của môn học và để thuận tiện cho người học tiếp
cận khi nghiên cứu về các loại cơ quan Nhà nước để có cách nhìn tổng quát và
cụ thể về BMNN, chúng ta xem xét cơ quan Nhà nước theo quan điểm cấu trúc
hệ thống, trên cơ sở tính đến một cách toàn diện cả ba khía cạnh: thứ nhất là
trình tự thành lập, thứ hai là nội dung hoạt động, thứ ba là hình thức thực hiện
các hoạt động đó của các cơ quan Nhà nước. Với cách nhìn nhận vấn đề BMNN
theo quan điểm này, thì hệ thống cơ quan Nhà nước ta bao gồm các loại cơ
quan sau:
a. Cơ quan quyền lực
* Quốc hội. (tham khảo Hiến pháp 1992 sửa đổi 2001 và Luật Tổ chức
Quốc hội 2001).
Trong bộ máy Nhà nước ta, Quốc hội chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi
vì nhân dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước, nhưng nhân dân không thể trực
tiếp và thường xuyên sử dụng quyền lực Nhà nước, cho nên phải bầu ra các cơ
quan đại biểu, để thay mặt mình sử dụng quyền lực Nhà nước. Vì vậy, các cơ
quan này được gọi là cơ quan quyền lực bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp.
- Về vị trí và tính chất của Quốc hội: Nhà nước CHXHCN Việt Nam được
tổ chức theo nguyên tắc tập quyền XHCN nên nó đã chi phối về vị trí, tính chất,
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn Quốc hội.
Hiến pháp 1992 tại Điều 83 đã nêu rõ vị trí và tính chất của Quốc hội:
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước
và của nhân dân như: thông qua Hiến pháp, các đạo luật, quyết định những
chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội, tổ chức hoạt động của bộ máy Nhà nước; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm
những viên chức cao cấp của bộ máy Nhà nước; giám sát tối cao các hoạt động
của cơ quan Nhà nước. Quốc hội biểu hiện tập trung ý chí và quyền lực của
nhân dân trong phạm vi toàn quốc. Các đại biểu Quốc hội là những thành phần
ưu tú trong xã hội, được nhân dân tín nhiệm và chịu trách nhiệm trước nhân
dân.
Do đó, mọi quyền lực Nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc hội. Mọi
công việc quan trọng của đất nước và của nhân dân có ý nghĩa toàn quốc đều
do Quốc hội quyết định. Các quyết định của Quốc hội đều bắt nguồn từ ý chí và
nguyện vọng chung của nhân dân cả nước và đều nhằm phục vụ lợi ích chung
của dân tộc, của nhân dân. Còn tính chất quvền lực Nhà nước cao nhất thể hiện
ở chỗ: Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến - lập pháp; Quốc hội là
cơ quan có quyền quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; quyền lực
Nhà nước cao nhất còn thể hiện ở chỗ mọi cơ quan Nhà nước "tối cao" đều do
Quốc hội thành lập và phải báo cáo trước Quốc hội. Quốc hội thực hiện quyền
giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của BMNN.
Với vị trí và tính chất như trên, Quốc hội mang chủ quyền Nhà nước và
chủ quyền nhân dân. Mọi quyền lực Nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc
hội. Mọi công việc quan trọng của đất nước và của nhân dân có ý nghĩa toàn
quốc đều do Quốc hội quyết định.
- Về chức năng của Quốc hội bao gồm những chức năng sau:
+ Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp:
Lập hiến có nghĩa là làm Hiến pháp, lập pháp có nghĩa là làm luật. Chức
năng này của Quốc hội thể hiện ở chỗ Quốc hội sẽ thông qua, sửa đổi bổ sung
Hiến pháp và các đạo luật khác. Đây là chức năng quan trọng của Quốc hội, bởi
vì Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, mà Hiến pháp và Luật của Quốc hội
là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất và điều chỉnh những vấn đề quan
trọng, cơ bản của đất nước. Hiến pháp luật cơ bản, đặt nền tảng cho hệ thống
pháp luật quốc gia. Đây là quyền mà không cơ quan Nhà nước nào có được.
Thông quan chức năng lập pháp mà Quốc hội đảm đương các nhiệm vụ với tư
cách là cơ quan quyền lực tối cao trong hệ thống các cơ quan tạo thành BMNN;
thông qua việc ban hành các đạo luật mà Quốc hội quyết định các chủ trương,
chính sách, những vấn đề mang tính quốc kế dân sinh (Ví dụ như: Luật Phòng
chống tham nhũng, Luật Nhà ở, Luật Hôn nhân gia đình, Luật Sở hữu trí tuệ,...).
+ Chức năng giám sát tối cao:
Chức năng này được khẳng định tại Điều 83 Hiến pháp năm 1992: “Quốc
hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”.
Điều này có nghĩa là, mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước tối cao
trong BMNN đều đặt dưới sự kiểm tra và giám sát của Quốc hội. Quốc hội thực
hiện việc kiểm tra và giám sát đối với các cơ quan Nhà nước ở Trung ương, các
cơ quan và cá nhân do Quốc hội bầu ra đều có trách nhiệm báo cáo công tác
trước Quốc hội, chịu sự giám sát của Quốc hội và có thể bị thay đổi nhân sự khi
có quyết định của Quốc hội. Hoạt động giám sát của Quốc hội thể hiện ở các
mặt sau:
Xem xét báo cáo hoạt động của UBTVQH, Hội đồng dân tộc và các Ủy
ban của Quốc hội, Chủ tịch Nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao.
Các ủy ban và Hội đồng dân tộc của Quốc hội tăng cường giám sát việc
thi hành pháp luật của các ngành, địa phương thuộc lĩnh vực mình phụ trách.
Các đại biểu Quốc hội cũng thực hiện quyền giám sát của mình tại các địa
phương mà đại biểu Quốc hội đại diện.
Lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của cử tri cả nước và có những ý kiến
chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội (Ví dụ như: Tại kỳ họp Quốc hội khóa XI ngày
27/11/2006, đại biểu Quốc hội chất vấn Chánh án TANDTC Nguyễn Văn Hiên về
tình trạng thẩm phán thiếu năng lực, dẫn đến xét xử oan sai; nhưng Chánh án
TANDTC trả lời không thuyết phục (vì cho rằng phải "vơ vét" thẩm phán) làm cho
các đại biểu Quốc hội không đồng tình và có đại biểu đề nghị Quốc hội ra Nghị
quyết về cuộc chất vấn và trả lời chất vấn đối với Chánh án TANDTC, có thể nói
đây là lần đầu tiên mà các đại biểu Quốc hội làm cho công tác chất vấn thực sự
là nơi để giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước tối cao).
Đặc biệt theo Hiến pháp được sửa đổi, bổ sung tại Nghị quyết số
51/2001/NQ-QH thì quyền giám sát tối cao của Quốc hội còn được thể hiện ở
quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu
hoặc phê chuẩn, ví dụ như: đối với Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Lê Huy Ngọ nộp đơn xin từ chức, mặc dù không có sai phạm nhưng
Quốc hội phải làm thủ tục bỏ phiếu tín nhiệm tư cách đại biểu Quốc hội của ông).
Bỏ phiếu tín nhiệm là cách đánh giá của Quốc hội, của người dân đối với
đại biểu dân cử, và nhất là thành viên Chính phủ, để nhắc nhở họ đề cao trách
nhiệm của mình. Khi tín nhiệm đạt cao, rõ ràng ĐB cũng thấy sự đóng góp của
họ đối với đất nước, đối với ngành, lĩnh vực. Ngược lại, nếu tín nhiệm đạt thấp,
cho thấy họ chưa làm tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Nếu có khuyết điểm
trong chỉ đạo điều hành, buộc họ phải kịp thời chấn chỉnh, khắc phục. Trong
trường hợp tín nhiệm thấp, phải xem xét cả quá trình hoạt động của người đó,
xem đại biểu Quốc hội có vi phạm pháp luật hay không, có đến mức phải cách
chức hoặc bãi nhiệm không... Bất cứ thành viên Chính phủ nào cũng thế - nếu
không hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình hoặc có vi phạm pháp luật, Quốc hội và
ĐBQH hoàn toàn có thể đưa ra để bỏ phiếu bất tín nhiệm.
Về chức năng này, do nhiều nguyên nhân nên trên thực tế hoạt động này
của Quốc hội còn nhiều hạn chế, hiệu quả chưa cao. Hoạt động giám sát của
Quốc hội mới chỉ dừng lại ở mức độ phát hiện và phân tích vấn đề, vụ việc rồi
động viên, đôn đốc, nhắc nhở các ngành các cấp ở địa phương quan tâm, xem
xét giải quyết chứ chưa có những biện pháp thật sự hữu hiệu.
+ Chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước:
Là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, Quốc hội có quyền quyết định
những mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, những vấn đề quốc kế, dân sinh;
những vấn đề đối nội, đối ngoại và quốc phòng an ninh của đất nước.
Trong lĩnh vực kinh tế, Quốc hội quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước; quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự
toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Trung ương, phê chuẩn quyết
toán ngân sách Nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế.
Quyết định những vấn đề hệ trọng đối với vận mệnh đất nước như: Quyết
định chiến tranh và hòa bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc
biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia; quyết định chính sách dân
tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước; quyết định đại xá; quyết định trưng cầu ý
dân.
Quốc hội còn có nhiệm vụ quan trọng là quyết định chính sách cơ bản về
đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế do Chủ tịch Nước ký kết;
phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều khác đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị
của Chủ tịch Nước (Ví dụ: Việt Nam vừa mới gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới WTO, đây là ĐƯQT do Chủ tịch Nước trực tiếp ký vào ngày, sau đó Quốc
hội mới phê chuẩn vào ngày …).
+ Chức năng tổ chức, xây dựng BMNN:
Quốc hội đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng, củng cố và
phát triển BMNN bởi vì BMNN từ Trung ương đến địa phương, từ các cơ quan
quyền lực Nhà nước đến cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan xét xử và cơ quan
kiểm sát được tổ chức theo mô hình nào, nguyên tắc tổ chức hoạt động ra sao
đều do Quốc hội xem xét lựa chọn, quyết định tại các kỳ họp Quốc hội và được
thể hiện trong Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật
Tổ chức TAND, Luật Tổ chức VKSND, Luật Tổ chức HĐND và UBND.
Ngoài việc quy định chung về tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà
nước; Quốc hội còn bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Nước, Phó Chủ tịch
Nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các ủy viên UBTVQH,
Thủ tướng Chính phủ, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC; phê chuẩn
đề nghị của TTCP v/v bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ (CTN bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức trên cơ sở NQ của Quốc hội); phê chuẩn đề nghị của CTN về danh sách
thành viên HĐQPAN; bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ
do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ
của CP; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, thành lập hoặc giải thể các đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt (Ví dụ như: Ngày 30/5/1979, Quốc hội ra NQ về việc thành lập Đặc khu
Vũng Tàu Côn Đảo tương đương với cấp tỉnh, và đến năm 1991 thì sáp nhập
đặc khu này với các huyện Châu Thành, Long Đất, Xuyên Mộc của tỉnh Đồng
Nai (sau này huyện Châu Thành được chia tách thành 3 đơn vị hành chính mới:
thị xã Bà Rịa, huyện Châu Đức, huyện Tân Thành; huyện Long Đất tách ra thành
hai huyện Long Điền và Đất Đỏ) và thành lập ra tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu như hiện
nay).
Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch Nước, UBTVQH, CP,
TTCP, TANDTC và VKSNDTC trái với Hiến pháp, Luật và Nghị quvết của Quốc
hội.
Quốc hội còn quy định hàm, cấp trong các Lực lượng vũ trang nhân dân,
hàm cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác; quy định huân chương
và danh hiệu vinh dự Nhà nước.
Với chức năng trên của Quốc hội được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ
quyền hạn của Quốc hội như sau: (Điều 2 Luật TCQH 2001)
1. Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm Luật và sửa đổi Luật; quyết
định chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh;
2. Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, Luật và
Nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch Nước, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao;
3. Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
4. Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán
ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Trung ương, phê chuẩn quyết toán
ngân sách nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế;
5. Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;
6. Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch Nước, Chính
phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương;
7. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Nước, Phó Chủ tịch Nước, Chủ
tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các ủy viên Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính
phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các
thành viên khác của Chính phủ; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch Nước về danh
sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh; bỏ phiếu tín nhiệm đối với
những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;
8. Quyết định thành lập, bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ của
Chính phủ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt;
9. Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch Nước, ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao trái với Hiến pliáp, Luật và Nghị quyết của Quốc hội;
10. Quyết định đại xá;
11. Quy định hàm, cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp
ngoại giao và những hàm, cấp Nhà nước khác; quy định huân chương, huy
chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước;
12. Quyết định vấn để chiến tranh và hòa bình; quy định về tình trạng khẩn
cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;
13. Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ
Điều ước quốc tế do Chủ tịch Nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều
ước quốc tế khác đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước;
14. Quyết định việc trưng cầu ý dân.
- Về cơ cấu tổ chức của Quốc hội gồm:
Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Là cơ quan thường trực của Quốc hội bao
gồm các thành viên sau: Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các ủy
viên do Chủ tịch Quốc hội làm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Quốc hội làm các Phó
Chủ tịch.
Là cơ quan thường trực của Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội có
nhiều nhiệm vụ quan trọng trong đó quyền giải thích Hiến pháp, Luật và ban
hành Pháp lệnh cũng như giám sát việc thi hành Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và
các cơ quan Nhà nước là những quyền quan trọng. Bên cạnh đó, nhiệm vụ
quyền hạn của ủy ban Thường vụ Quốc hội còn được quy định trong Điều 91
Hiến pháp 1992 và cụ thể hóa trong Luật Tổ chức Quốc hội 2001.
UBTVQH gồm có: Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các ủy
viên, số thành viên của UBTVQH, đồng thời để đảm bảo cho hoạt động của
UBTVQH được khách quan, Hiến pháp 1992 còn quy định thành viên của
UBTVQH không thể đồng thời là thành viên của Chính phủ, ngoài ra để
UBTVQH thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao, Luật Tổ
chức Quốc hội còn quy định các thành viên của UBTVQH phải làm việc theo chế
độ chuyên trách.
Hội đồng dân tộc: Là cơ quan của Quốc hội làm việc theo chế độ tập thể
và quyết định theo đa số theo nhiệm kỳ của Quốc hội bao gồm Chủ tịch, các Phó
Chủ tịch và các ủy viên do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội. Hội
đồng dân tộc có nhiệm vụ tham mưu cho Quốc hội về vấn đề dân tộc, nghiên
cứu và kiến nghị với Quốc hội về những vấn đề dân tộc, thực hiện quyền giám
sát thi hành các chính sách về dân tộc, các chương trình phát triển kinh tế - xã
hội miền núi và vùng đồng bào có dân tộc thiểu số.
Hội đồng dân tộc gồm có Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các ủy viên do
Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội; để nâng cao hiệu quả hoạt động
của Hội đồng dân tộc, Hiến pháp 1992 quy định có một số thành viên làm việc
theo chế độ chuyên trách và số thành viên Hội đồng dân tộc hoạt động chuyên
trách do UBTVQH quyết định.
Các ủy ban của Quốc hội là cơ quan của Quốc hội làm việc theo chế độ
tập thể và quyết định theo đa số theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Những vấn đề
thuộc nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội có quan hệ đến mọi lĩnh vực hoạt
động của Nhà nước và xã hội, nhưng Quốc hội chỉ họp hai kỳ trong một năm nên
không thể nghiên cứu, thảo luận và quyết định tốt các vấn đề nếu không có sự
chuẩn bị kỹ càng. Vì vậy, các ủy ban của Quốc hội được lập ra để giúp Quốc hội
thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Các ủy ban được thành lập ra để giúp Quốc hội thực hiện được tốt các
nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Các ủy ban của Quốc hội làm việc khi Quốc
hội họp và cả khi Quốc hội không họp; không những nghiên cứu, thẩm tra những
vấn đề được Quốc hội và UBTVQH giao mà còn đề xuất những sáng kiến giúp
Quốc hội và UBTVQH giải quyết tốt các vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền
của mình; đồng thời các ủy ban của Quốc hội còn là hình thức thu hút các đại
biểu vào việc thực hiện công tác chung của Quốc hội.
Hiện nay, Quốc hội nước ta có các ủy ban sau:
1. ủy ban Pháp luật.
2. ủy ban Tư pháp.
3. ủy ban Kinh tế.
4. ủy ban Tài chính và ngân sách.
5. ủy ban Quốc phòng và an ninh.
6. ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng.
7. ủy ban về các vấn đề xã hội.
8. ủy ban Khoa học, công nghệ và môi trường.
9. ủy ban Đối ngoại.
Hình thức hoạt động của Quốc hội: Kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu
và quan trọng nhất của Quốc hội. Kỳ họp là nơi biểu hiện trực tiếp và tập trung
nhất quyền lực Nhà nước của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Tại kỳ họp
Quốc hội thảo luận dân chủ và quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất
nước và của nhân dân, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của
các cơ quan Nhà nước. Quốc hội họp thường lệ mỗi năm hai kỳ và có thể họp
bất thường trong những trường hợp hiến định.
- Vấn đề chất vấn và trả lời chất vấn:
Chất vấn là một biện pháp thực hiện quyền giám sát của Quốc hội, chất
vấn là quyền của đại biểu Quốc hội đòi hỏi một một cơ quan Nhà nước, một nhà
chức trách nào đó phải trả lời, phải báo cáo với cơ quan quyền lực Nhà nước
cao nhất về những vấn đề có liên quan đến hoạt động của cơ quan hoặc người
bị chất vấn.
Chất vấn được đặt ra nhằm để quy kế trách nhiệm, và tìm ra các giải pháp
để khắc phục về các vấn đề bị chất vấn.
Đối tượng bị chất vấn là: Chủ tịch Nước, Chủ tịch Quốc hội, TTCP, Chánh
án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC; trong thời gian Quốc hội họp thì các đại
biểu Quốc hội gửi chất vấn đến Chủ tịch Quốc hội. Người bị chất vấn phải trả lời
trước Quốc hội tại kỳ họp đó. Trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể
quyết định cho trả lời trước UBTVQH hay tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc trả
lời bằng văn bản. Nếu đại biểu Quốc hội không đồng ý với nội dung trả lời thì có
quyền đề nghị Chủ tịch Quốc hội đưa ra thảo luận trước Quốc hội; khi cần thiết
Quốc hội hoặc UBTVQH ra Nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm
của người bị chất vấn.
Quốc hội họp công khai, công chúng có thể được đến dự theo giấy mời
của Văn phòng Quốc hội; các cơ quan thông tấn, báo chí được tham dự các
phiên họp công khai của Quốc hội đế phản ánh kịp thời, chính xác hoạt động của
Quốc hội. Trong trường hợp cần thiết, theo đề nghị của CTN, UBTVQH, TTCP
hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội thì Quốc hội quyết định
họp kín. Việc công bố nội dung các phiên họp kín do Chủ tịch Nước cùng với
Chủ tịch Quốc hội quyết định.
* Hội đồng nhân dân: (tham khảo Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân 2003)
HĐND và UBND (chính quyền, địa phương) được thiết lập ở các cấp hành
chính, lãnh thổ: tỉnh, huyện và xã.
Các cơ quan chính quyền địa phương được thiết lập để quản lý địa
phương bảo đảm thực hiện thống nhất, có hiệu quả Hiến pháp, Luật, các văn
bản cơ quan Nhà nước trên địa bàn địa phương.
- Vị trí, tính chất và chức năng của HĐND:
HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên.
Trong quá trình hoạt động, HĐND chịu sự giám sát, hướng dẫn của cơ
quan quyền lực Nhà nước cao nhất thông qua ủy ban Thường vụ Quốc hội; sự
kiểm tra hướng dẫn của Chính phủ, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa
phương và cơ quan Nhà nước cấp trên.
Đại diện cho nhân dân địa phương, HĐND căn cứ vào quyết định của các
cơ quan Nhà nước ở Trung ương:
+ Quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm
năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội,
củng cố quốc phòng, an ninh, nâng cao mức sống của nhân dân, làm tròn nghĩa
vụ đối với Nhà nước.
+ Bảo đảm thực hiện các quy định và quyết định của cơ quan Nhà nước
cấp trên và Trung ương ở địa phương.
+ Giám sát hoạt động của thường trực HĐND và UBND, Tòa án nhân dân,
và Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát thực hiện nghị quyết của HĐND,
việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân ở địa phương (được cụ thể hóa trong
Luật Tổ chức HĐND và UBND 2003).
Để thực hiện những nhiệm vụ trên, HĐND ban hành nghị quyết để định ra
chủ trương, biện pháp lớn và giám sát thực hiện nghị quyết.
Nhiệm vụ của HĐND được thực hiện thông qua các hình thức hoạt động
của thường trực của HĐND, các ban và đại biểu HĐND và hình thức hoạt động
chủ yếu là các kỳ họp của HĐND.
- Cơ cấu tổ chức của HĐND:
Về cơ cấu tố chức, HĐND cấp tỉnh, cấp huyện có thường trực HĐND gồm:
Chủ tịch, Phó Chủ tịch và ủy viên thường trực; cấp xã thường trực HĐND gồm:
Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND.
HĐND cấp tỉnh thành lập ba ban: Ban Kinh tế và ngân sách, Ban Văn hóa
- Xã hội, Ban Pháp chế, nơi có nhiều dân tộc thì có thể thành lập Ban dân tộc.
HĐND cấp huyện thành lập hai ban: Ban Kinh tế - Xã hội, Ban Pháp chế.
- Kỳ họp của HĐND:
Đây là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng của HĐND. Tại kỳ họp,
HĐND thảo luận dân chủ và quyết định theo đa số các công việc quan trọng của
địa phương; bầu ra Thường trực HĐND, UBND và Hội thẩm của TAND cùng
cấp.
Các quyết định của HĐND được thể hiện dưới hình thức nghị quyết. Các
Nghị quyết này phải phù hợp với Hiến pháp, Luật và các văn bản pháp luật khác
của các cơ quan Nhà nước TW, quyết định của cấp trên và phải được quá nửa
tổng số đại biểu HĐND biểu quyết tán thành; trừ trường hợp bãi nhiệm đại biểu
HĐND thì phải được ít nhất là 2/3 tổng số đại biểu HĐND biểu quyết tán thành.
HĐND họp thường lệ mỗi năm 2 kỳ; ngoài ra, còn tổ chức các kỳ họp
chuyên đề hoặc họp bất thường theo đề nghị của Chủ tịch HĐND, Chủ tịch
UBND cùng cấp hoặc khi có ít nhất 1/3 tổng số đại biểu HĐND cùng cấp yêu
cầu. Thường trực HĐND quyết định triệu tập kỳ họp của Quốc hội.
Kỳ họp HĐND được tiến hành khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu HĐND
tham gia.
HĐND họp công khai, khi cần thiết, HĐND quyết định họp kín theo đề nghị
của chủ tọa cuộc họp hoặc của Chủ tịch UBND cùng cấp.
Kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa HĐND rất quan trọng vì sẽ tiến hành thẩm
tra tư cách đại biểu HĐND, bầu ra Thường trực HĐND, UBND cùng cấp, các
ban của HĐND. Kỳ họp này được triệu tập chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày bầu
xong đại biểu HĐND (ở miền núi, nơi đi lại khó khăn là 45 ngày).
Trong thời gian HĐND họp, nếu không được sự đồng ý của chủ tọa kỳ họp
thì không được bắt giữ đại biếu HĐND. Nếu phạm tội quả tang hoặc trong
trường hợp khẩn cấp mà đại biểu HĐND bị tạm giữ thì cơ quan ra lệnh tạm giữ
phải báo cáo ngay với Chủ tọa kỳ họp; giữa hai kỳ họp HĐND, nếu cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền ra lệnh tạm giữ đại biểu HĐND thì phải thông báo cho Chủ
tịch HĐND cùng cấp.
- Việc bãi nhiệm, mất quyền đại biểu HĐND, việc đại biểu HĐND xin thôi là
nhiệm vụ đại biểu.
Đại biểu nào không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì tùy
mức độ sai phạm mà bị HĐND hoặc cử tri bãi nhiệm. Thường trực HĐND và
UBND quyết định việc đưa ra HĐND hoặc cử tri bãi nhiệm đại biểu HĐND theo
đề nghị của ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp.
Trong trường hợp bãi nhiệm đại biểu HĐND phải được ít nhất 2/3 tổng số
đại biểu HĐND biểu quyết tán thành. Khi Tòa án kết án và bản án có hiệu lực thì
đại biểu HĐND mất quyền đại biểu.
Đại biểu HĐND có thể xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu vì lý do sức khỏe
hoặc vì lý do khác. Việc chấp thuận cho đại biểu Hội đồng nhân dân xin thôi làm
nhiệm vụ đại biểu do HĐND cùng cấp xét và quyết định.
b. Chủ tịch Nước (tham khảo Hiến pháp 1992 sửa đổi 2001)
Xét về bản chất, nguyên thủ quốc gia là một chế định của Bộ máy Nhà
nước tư sản, bởi vì Nhà nước tư sản muốn sử dụng vị thế của vua sẵn có trong
Nhà Nước phong kiến để phục vụ cho mục đích chính trị của mình; để vua tồn
tại "trị vì nhưng không cai trị"; còn những nước có hình thức Nhà nước cộng hòa
thì tạo lập ra một cơ cấu mới là Tổng thống, có vị trí như vua - vua hiến định.
Vua, Tổng thống được coi là nguyên thủ quốc gia song nhìn chung vua,
tổng thống có vai trò không to lớn về mặt thực tế; một số nước theo hình thức
chính thể cộng hòa tổng thống thì quy định Nguyên thủ quốc gia là tổng thống có
nhiều quyền hành hơn; nhưng vẫn phải cùng với cơ quan quyền lực là nghị viện
thực hiện chức năng của một nguyên thủ quốc gia; nhìn chung sự hiện diện của
nguyên thủ quốc gia ở các nước tư sản với nhiều hình thức khác nhau nhưng
cũng đóng một vai trò nhất định trong việc tổ chức quyền lực Nhà nước; đặc biệt
là vai trò biểu tượng cho sự đoàn kết dân tộc, liên kết phối hợp các nhánh quyền
lực thể hiện quan thỏa hiệp giai cấp ở các nước tư bản.
Vì vậy, có thể nói chế định nguyên thủ quốc gia thể hiện bằng một sự liên
kết nằm giữa lập pháp và hành pháp; tùy vào từng hình thức chính thể mà
nguyên thủ quốc gia sẽ nghiêng về phía lập pháp hay hành pháp.
Nhưng ở Nhà nước XHCN, tổ chức theo nguyên tắc tập quyền, mọi quyền
lực đều thuộc về nhân dân mà đại diện là Quốc hội thì về cơ bản không cần thiết
có chế định nguyên thủ quốc gia; nhưng theo thông lệ quốc tế - để thuận lợi
trong việc thực hiện một số hoạt động Nhà nước có tính long trọng, hình thức và
trong chừng mực nhất định để phối hợp hoạt động giữa các cơ quan trong cơ
chế Nhà nước, các nước XHCN như Việt Nam ta vẫn tồn tại chế định nguyên
thủ quốc gia. Tuy nhiên, tùy từng thời điểm khác nhau mà vị trí và chức năng
của nguyên thủ quốc gia ở nước ta là khác nhau. Ở nước ta, theo Hiến pháp
năm 1946, Chủ tịch Nước là người vừa đứng đầu Nhà nước vừa đứng đầu
Chính phủ, Hiến pháp năm 1959, Chủ tịch Nước chỉ là người đứng đầu Nhà
nước, không còn là người đứng đầu Chính phủ, Hiến pháp 1980 xác định chế độ
Chủ tịch Nước tập thể theo mô hình thịnh hành ở các nước XHCN Liên Xô và
Đông Âu có tên gọi là Hội đồng Nhà nước - cơ quan cao nhất hoạt động thường
xuyên của Quốc hội và là Chủ tịch tập thể của nước CHXHCNVN, đến Hiến
pháp 1992, thiết chế Chủ tịch Nước được thiết lập trở lại và hoàn chỉnh hơn. Mô
hình lần này vừa tiếp theo những ưu điểm của mô hình trước vừa giữ được sự
gắn bó giữa Quốc hội, UBTVQH và Chủ tịch Nước trong việc thực hiện các chức
năng nguyên thủ quốc gia vừa đảm bảo sự phân công và phối hợp giữa các cơ
cấu trong BMNN.
- Tính chất:
Chủ tịch Nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối
nội và đối ngoại. Chủ tịch Nước do Quốc hội bầu trong số đại biếu Quốc hội,
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Nhiệm kỳ của Chủ tịch
Nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch Nước
tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu Chủ tịch Nước mới.
Với vị trí đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch Nước là người bảo đảm việc phối hợp
hoạt động của các cơ quan Nhà nước then chốt ở Trung ương nhưng Chủ tịch
Nước không có quyền can thiệp trực tiếp vào việc thực hiện các chức năng,
thẩm quyền của các cơ quan đó. Thực chất, Chủ tịch Nước là người bảo đảm
cho sự thống nhất của Nhà nước, bảo đảm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
quốc gia.
- Quan hệ giữa Chủ tịch Nước với các cơ quan Nhà nước khác:
Chủ tịch Nước do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội theo sự
giới thiệu của ủy ban Thường vụ Quốc hội với nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Quốc
hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Chế định Chủ tịch Nước theo Hiến pháp năm 1992 gắn bó chặt chẽ với
Quốc hội chứ không gắn với Chính phủ như Hiến pháp năm 1946 và 1959.
- Quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia và Chính phủ thể hiện:
+ Chủ tịch Nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng
Chính phủ.
+ Căn cứ Nghị quyết của Quốc hội của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức, chấp thuận việc từ chức của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành
viên khác của Chính phủ; trong thời gian Quốc hội không họp theo đề nghị của
Thủ tướng, quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và
các thành viên khác của Chính phủ.
+ TTCP phải báo cáo trước Chủ tịch Nước.
- Quốc hội giữa Chủ tịch Nước với TAND và VKSNDTC cũng là mối quan
hệ quan trọng: Chủ tịch Nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, cách chức Phó
Chánh án, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm
phán Tòa án quân sự Trung ương, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao.
- Nhiệm vụ quyền hạn của Chủ tịch Nước:
* Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay
mặt nước về đối nội và đối ngoại:
- Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của VN, tiếp nhận Đại sứ đặc
mệnh toàn quyền của nước ngoài.
Ví dụ: Đại sứ, lãnh sự, tham tán của VN ở nước ngoài đều do Chủ tịch
Nước cử và triệu hồi.
- Tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước
CHXHCNVN với người đứng đầu Nhà nước khác.
Ví dụ: Chủ tịch Nước ta ký kết điều ước quốc tế với Tổng thống Mỹ về hợp
tác kinh tế, về dẫn độ tội phạm...
- Trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế đã trực tiếp ký (Ví dụ như:
Khi tham gia WTO, Chủ tịch Nước là người trực tiếp ký kết nhưng sau đó phải
trình Quốc hội phê chuẩn).
- Quyết định cho nhập, thôi, hoặc tước quốc tịch VN (Ví dụ: Một số Việt
kiều xin thôi quốc tịch Việt Nam để gia nhập quốc tịch nước ngoài, thì Chủ tịch
Nước sẽ ra quyết định).
- Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức Chủ tịch Hội
đồng quốc phòng và an ninh.
- Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội hoặc UBTVQH công bố quyết định
tình trạng chiến tranh, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố
tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; trường hợp
UBTVQH không họp thì ban bố tình trạng khẩn cấp.
Ví dụ: Khi dịch bệnh lan cả một huyện, một tỉnh hay nhiều tỉnh thì Chủ tịch
Nước sẽ ban bố tình trạng khẩn cấp hoặc như có chiến tranh...
- Quyết định phong hàm cấp sĩ quan cao cấp trong các lực lượng vũ trang
nhân dân, hàm cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác.
- Quyết định tặng thưởng huân, huy chương và các danh hiệu vinh dự
khác.
- Công bố quyết định đại xá và ra quyết định đặc xá (Đại xá là việc tha
miễn truy tố đối với một số loại tội phạm nhân một dịp long trọng nào đó; đại xá
do Quốc hội quyết định, Chủ tịch Nước công bố. Còn đặc xá là việc Chủ tịch
Nước tha tù hoặc miễn hình phạt tù còn lại đối với những phạm nhân có hoàn
cảnh đặc biệt như: ốm đau nặng, già cả, có công lao hoặc có hoàn cảnh gia đình
khó khăn... Việc đặc xá này thường được thực hiện nhân dịp lễ tết và hay kết
hợp với việc tha tù trước thời hạn và giảm án nên cần phải phân biệt rõ các vấn
đề này.
* Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế
quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp:
- Trong lĩnh vực lập pháp:
+ Trình dự án luật ra trước Quốc hội, kiến nghị về Luật thông qua việc kiến
nghị ban hành Luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung Luật hiện hành (Điều 62 Luật Tổ
chức Quốc hội), còn gọi là quyền sáng kiến lập pháp.
+ Công bố Hiến pháp, Luật và Pháp lệnh. Đây được xem là một phần của
quá trình lập pháp. Đối với Hiến pháp, Luật do Quốc hội hoặc Pháp lệnh do
UBTVQH thông qua thì Chủ tịch Nước công bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày
Quốc hội thông qua để thực hiện.
+ Chủ tịch Nước có quyền đề nghị UBTVQH xem xét lại Pháp lệnh trong
thời hạn 10 ngày, nếu Pháp lệnh đó vẫn được UBTVQH biểu quyết tán thành mà
Chủ tịch Nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch Nước trình Quốc hội quyết định tại
kỳ họp gần nhất (trong trường hợp này, thời hạn công bố chậm nhất là mười
ngày kể từ ngày được UBTVQH xem xét lại hoặc từ khi Quốc hội quyết định).
Việc quy định quyền này của Chủ tịch Nước không phải là quyền phủ quyết Luật
như một số quốc gia theo hình thức chính thể cộng hòa Tổng thống có cơ chế
hoạt động Nhà nước kiềm chế và đối trọng, nhưng ở ta quyền lực là thống nhất,
mà quy định như vậy vì Pháp lệnh là một văn bản có tính chất như văn bản Luật
- lẽ ra phải do Quốc hội ban hành dưới hình thức Luật nên đòi hỏi sự kiểm tra
chặt chẽ, đảm bảo sự thận trọng.
+ Ngoài ra, theo Luật ban hành Văn bản quy phạm pháp luật thì Chủ tịch
Nước còn công bố Nghị quyết của Quốc hội và Nghị quyết của UBTVQH nhưng
chỉ những Nghị quyết có tính quy phạm.
Trong lĩnh vực hành pháp:
+ Chủ tịch Nước tham gia thành lập Chính phủ (Chủ tịch Nước đề nghị
Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ; Căn cứ Nghị quyết
của Quốc hội của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, chấp thuận việc
từ chức của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ;
TTCP phải báo cáo trước Chủ tịch Nước).
+ Ban bố tình trạng khẩn cấp khi UBTVQH không thể họp được.
+ Trong thời gian Quốc hội không họp theo đề nghị của Thủ tướng, quyết
định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên
khác của Chính phủ.
- Trong lĩnh vực tư pháp và giám sát:
+ Chủ tịch Nước giới thiệu để Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh
án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC.
+ Bổ nhiệm Phó Chánh án và Thẩm phán TANDTC; Chánh án, Phó Chánh
án, Thẩm phán TAQSTW; Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên VKSNDTC.
(Trước đây theo quv định của Luật Tổ chức TAND đã hết hiệu lực thi hành
thì Chủ tịch Nước còn bổ nhiệm cả Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Tòa
án các cấp; nhưng theo Luật Tổ chức TAND hiện hành năm 2002 đã bãi bỏ
Điểm này, giao quyền này cho Chánh án TANDTC).
+ Chủ tịch Nước xem xét và quyết định việc ân xá (giảm án tử hình).
+ Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC chịu trách nhiệm báo cáo
công tác trước Chủ tịch Nước khi Quốc hội không họp.
Để đảm bảo thực hiện quyền này, Chủ tịch Nước ban hành lệnh và quyết
định.
- Hội đồng quốc phòng và an ninh:
Với tư cách là người đứng đầu Nhà nước (nguyên thủ quốc gia), Chủ tịch
Nước là biểu tượng cho sự thống nhất và bền vững của quốc gia; vì vậy Chủ
tịch Nước thống lĩnh lực lượng vũ trang, giữ gìn và bảo vệ Tổ quốc.
Theo Hiến pháp năm 1980, HĐNN là Chủ tịch Nước tập thể thì có
HĐQPAN nằm trong Quốc hội để giúp Quốc hội và HĐNN hoạt động nhưng đến
Hiến pháp 1992 thì HĐQPAN thuộc Chủ tịch Nước do Chủ tịch Nước là Chủ tịch
Hội đồng; các Phó Chủ tịch và các Ủy viên thì do Chủ tịch Nước đề nghị danh
sách thành viên trình Quốc hội phê chuẩn. Thành viên HĐ không nhất thiết là đại
biểu Quốc hội.
Thông thường, thời kỳ hòa bình thì vai trò của HĐ này không nổi bật, thậm
chí không hoạt động; nhưng trong trưừng hợp có chiến tranh thì HĐ động viên
mọi lực lượng và khả năng của đất nước để bảo vệ Tổ quốc, và Quốc hội có thể
giao cho HĐ những nhiệm vụ và quyền hạn đặc biệt, được áp dụng các biện
pháp cần thiết để giữ gìn ổn định và bảo vệ đất nước. HĐ làm việc theo chế độ
tập thể và quyết định theo đa số.
c. Cơ quan hành chính (còn gọi là cơ quan quản lý Nhà nước)
* Chính phủ (tham khảo Luật Tổ chức Chính phủ 2001)
- Vị trí của Chính phủ trong bộ máy Nhà nước:
Chính phủ là "cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà
nước cao nhất của nước CHXHCNVN".
Theo Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ chức HĐBT năm 1981 thì không có
cơ quan là Chính phủ, mà có tên gọi là HĐBT là Chính phủ của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành và cơ quan hành chính Nhà
nước cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất; điều này thể hiện sự
khác biệt so với các Hiến pháp, Thành viên HĐBT đều do Quốc hội bầu, bãi
nhiệm và miễn nhiệm. HĐBT không chỉ chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Quốc hội mà trong thời gian Quốc hội không họp chịu trách nhiệm báo cáo
công tác trước HĐNN. Việc quy định như vậy làm cho Chính phủ không có sự
độc lập trong việc thực hiện quyền hành pháp.
Nhưng đến Hiến pháp 1992 thì vị trí pháp lý của Chính phủ đã được thế
hiện rõ, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, Chính phủ chịu sự giám
sát của Quốc hội, chấp hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội; Pháp
lệnh, Nghị quyết của ủy ban Thường vụ Quốc hội; Lệnh, Quyết định của Chủ tịch
Nước. Trong hoạt động, Chính phủ phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch Nước.
Với tư cách là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của cả nước,
Chính phủ có chức năng thống nhất quản lý tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, lãnh đạo thống nhất bộ máy hành chính Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở
về tổ chức cán bộ, bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật, quản lý việc xây
dựng kinh tế quốc dân, thực hiện chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, quản lý y
tế, giáo dục, quản lý ngân sách Nhà nước. Thi hành các biện pháp cần thiết bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, quản lý công tác đối ngoại, thực hiện
chính sách xã hội của Nhà nước.
Khi thực hiện chức năng quản lý, điều hành các quy trình xã hội, hoạt
động của Chính phủ chỉ tuân theo Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, nghị quyết của
các cơ quan quyền lực Nhà nước.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, Chính phủ có toàn quyền
giải quyết công việc với tính sáng tạo, chủ động, linh hoạt tránh được sự can
thiệp từ các cơ quan khác và sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ.
Chính phủ có quyền tham gia vào hoạt động lập pháp bằng quyền trình dự
án luật trước Quốc hội, dự án Pháp lệnh trước ủy ban Thường vụ Quốc hội, trình
Quốc hội các dự án kế hoạch, ngân sách Nhà nước và các dự án khác.
- Cơ cấu thành phần của Chính phủ:
Theo Hiến pháp 1992, Chính phủ có Thủ tướng Chính phủ được quy định
là người đứng đầu Chính phủ, do Quốc hội bầu ra trong số đại biểu Quốc hội.
Các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng, các cơ quan ngang Bộ là thành
viên Chính phủ, được Thủ tướng Chính phủ lựa chọn, không nhất thiết phải là
đại biểu Quốc hội và đề nghị Quốc hội phê chuẩn. Trong Chính phủ không tổ
chức ra cơ quan Thường vụ mà một trong các Phó Thủ tướng đảm nhiệm chức
vụ Phó Thủ tướng Thường trực (như hiện nay, Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh
Hùng là Phó Thủ tướng Thường trực).
Chế độ làm việc của Chính phủ là sự kết hợp chế độ lãnh đạo tập thể với
chế độ thủ trưởng. Những vấn đề quan trọng có tính chiến lược của hoạt động
hành pháp do tập thể bàn bạc, thảo luận, quyết định theo đa số.
Những vấn đề có tính tác nghiệp, điều hành hàng ngày, vấn đề xây dựng
bộ máy hành pháp được quy định do Thủ tướng giải quyết với tư cách cá nhân
nhằm bảo đảm quản lý tập trung thống nhất và nhanh chóng.
Bộ và cơ quan ngang Bộ: Bộ, cơ quan ngang Bộ (gọi chung là Bộ) là bộ
phận cấu thành của Chính phủ.
Bộ là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối
với ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước.
Bộ và ngành là hai khái niệm không đồng nhất:
- Bộ là khái niệm về tổ chức hành chính Nhà nước, là cơ quan Trung
ương thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, theo nguyên tắc tổ chức hành
chính Nhà nước đối với một ngành hoặc nhóm ngành kinh tế, kỹ thuật, văn hóa,
xã hội...
- Ngành là một phạm trù dùng để chỉ một nhóm quan hệ thuộc một lĩnh
vực của đời sống xã hội bao gồm các tổ chức, cơ quan ở các cấp khác nhau
nhưng giống nhau về cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động và sản phẩm làm
ra. Vì vậy trong tố chức hành chính Nhà nước, một bộ có thể quản lý một ngành
hoặc một nhóm ngành.
Khác với Chính phủ (là cơ quan quản lý Nhà nước thẩm quyền chung), Bộ
là cơ quan quản lý theo ngành hoặc lĩnh vực công tác (quản lý Nhà nước thẩm
quyền riêng). Vì vậy có 2 loại Bộ: Bộ quản lý ngành và Bộ quản lý theo lĩnh vực
(chức năng).
+ Bộ quản lý ngành: Là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản
lý Nhà nước những ngành kinh tế, kỹ thuật hoặc sự nghiệp như: nông nghiệp,
công nghiệp, y tế, giáo dục, giao thông vận tải... Bộ thực hiện thống nhất quan lý
trong ngành, chỉ đạo toàn diện những cơ quan, đơn vị trực thuộc từ Trung ương
đến địa phương.
+ Bộ quản lý theo lĩnh vực: Là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước theo từng lĩnh vực lớn như: tài chính, kế hoạch đầu tư,
lao động xã hội, khoa học công nghệ... Hoạt động của bộ này có liên quan tới
hoạt động của tất cả các bộ, các cấp quản lý, tổ chức xã hội và công dân, nhưng
không can thiệp vào hoạt động quản lý Nhà nước của các cấp chính quyền và
quyền tự chủ, sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Bộ quản lý lĩnh vực có
trách nhiệm giúp Chính phủ nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
chung, xây dựng các dự án kế hoạch tổng hợp và cân đối liên ngành, xây dựng
chế độ chính sách chung (tham mưu) hoặc tự nó ra những văn bản pháp quy
thuộc lĩnh vực phụ trách, hướng dẫn tạo điều kiện để các Bộ, các cấp, các
ngành hoàn thiện nhiệm vụ.
Bộ trưởng là thành viên Chính phủ, người đứng đầu cơ quan quản lý
ngành hay lĩnh vực, một mặt tham gia cùng Chính phủ quyết định tập thể những
nhiệm vụ của Chính phủ tại các kỳ họp Chính phủ; mặt khác chịu trách nhiệm
quản lý Nhà nước về lĩnh vực ngành mình phụ trách trong phạm vi cả nước.
Hiện nay, ở nước ta có 18 Bộ:
1. Bộ Quốc phòng
2. Bộ Công an
3. Bộ Ngoại giao
4. Bộ Tư pháp
5. Bộ Tài chính.
6. Bộ Công thương.
7. Bộ Lao động - Thương binh và xã hội.
8. Bộ Giao thông - Vận tải.
9. Bộ Xây dựng.
10. Bộ Thông tin và Truyền thông.
11. Bộ Giáo dục và Đào tạo.
12. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
13. Bộ Kế hoạch Đầu tư.
14. Bộ Y tế.
15. Bộ Khoa học và Công nghệ.
16. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch.
17. Bộ Nội vụ.
18. Bộ Tài nguyên và Môi trường.
04 cơ quan ngang Bộ:
1. Thanh tra Nhà nước.
2. Ngân hàng Nhà nước.
3. Ủy ban Dân tộc.
4. Văn phòng Chính phủ.
Cơ cấu tổ chức của Bộ và cơ quan ngang Bộ quy định cơ cấu Bộ gồm:
Vụ, Thanh tra, Văn phòng Bộ; Cục, Tổng cục (không nhất thiết các Bộ đều thành
lập); Các tổ chức sự nghiệp.
Ngoài ra, để tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ, thì Thủ tướng Chính phủ
thành lập các Ban chỉ đạo, ban chủ nhiệm, các đoàn, các tổ công tác của CP, ví
dụ như: Ban chỉ đạo cải cách hành chính, Ban chỉ đạo 814/TTg, Đoàn đàm phán
Chính phủ về kinh tế - thương mại, Tổ nghiên cứu cơ chế, chính sách DN vừa
và nhỏ...; nhưng không có Luật quy định việc thành lập các tổ chức này, nên
chẳng cần xem xét bổ sung quy định của Luật cho phù hợp.
- Các hình thức hoạt động của Chính phủ:
+ Phiên họp Chính phủ: Chính phủ họp thường kỳ mỗi tháng 1 lần, ngoài
ra có thể họp bất thường theo quyết định của Thủ tướng hoặc theo yêu cầu của
ít nhất 1/3 tổng số thành viên Chính phủ.
Ngoài các thành viên Chính phủ, Chính phủ có thể mời Chủ tịch Nước,
Chủ tịch HĐDT của Quốc hội, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Chủ
tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và người đứng đầu các tổ chức đoàn thể
khác tham dự các phiên họp của Chính phủ khi bàn về các vấn đề có liên quan.
Nghị quyết của phiên họp Chính phủ phải được quá nửa tổng số thành
viên Chính phủ biểu quyết tán thành, trong trường hợp biểu quyết ngang nhau,
thực hiện theo ý kiến mà Thủ tướng đã biểu quyết (quy định này thể hiện sự kết
hợp chặt chẽ chế độ trách nhiệm cá nhân và tập thể, vừa đề cao vai trò của tập
thể Chính phủ trong việc quyết định những vấn đề quan trọng, vừa đề cao vai trò
của Thủ tướng).
+ Hoạt động của Thủ tướng Chính phủ (cá nhân): Là người đứng đầu
Chính phủ lãnh đạo công tác của Chính phủ, thành viên Chính phủ, Thủ trưởng
các cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các cấp.
+ Hoạt động của các Bộ trưởng và các thành viên khác thuộc Chính phủ.
* Ủy ban nhân dân (tham khảo Luật Tổ chức HĐND và UBND 2003)
- Vị trí, tính chất, chức năng của UBND:
Điều 123 Hiến pháp năm 1992 và Điều 2 Luật Tổ chức HĐND và UBND
năm 2003 quy định: "UBND do HĐND bầu, là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ
quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến
pháp, luật, các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên và Nghị quyết của
HĐND".
Ở quy định này, vị trí tính chất của UBND được thể hiện ở hai điểm sau:
- Thứ nhất: UBND là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà
nước ở địa phương. Bởi vì UBND do HĐND cùng cấp bầu ra tại kỳ họp thứ nhất
của mỗi khóa HĐND dưới hình thức bỏ phiếu kín. Kết quả bầu cử các thành viên
của UBND phải được sự phê chuẩn của Chủ tịch UBND cấp trên trực tiếp, đối
với UBND cấp tỉnh thì phải được sự phê chuẩn của Thủ tướng Chính phủ;
HĐND có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do HĐND
bầu (Khoản 5 Điều 58 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003).
Hơn nữa, UBND là cơ quan chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc triển khai,
tổ chức thực hiện các Nghị quyết của HĐND, biến những quy định của Nghị
quyết thành hiện thực (UBND phải tiến hành họp, bàn bạc cụ thể và phân công
tổ chức thực hiện để các chủ trương của Nghị quyết HĐND đi vào thực tế cuộc
sống).
Bên cạnh đó, UBND chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND
cấp mình và cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên trực tiếp; ở đây đòi hỏi
UBND phải chịu sự lãnh đạo của UBND cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của
Chính phủ; do đó các văn bản của UBND ban hành không được trái với Nghị
quyết của HĐND cùng cấp và văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên. HĐND
có quyền bãi nhiệm, miễn nhiệm các thành viên của UBND cùng cấp, có quyền
sửa đổi hay hủy bỏ những quyết định không phù hợp của UBND cùng cấp.
- Thứ hai, với tư cách là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương,
UBND là cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, chấp hành NQ của
HĐND cùng cấp cũng như văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, để thực
hiện được chức năng này, UBND phải nắm được nhân lực, vật lực cũng như
những tiềm năng khác của địa phương; chức năng này là chức năng chủ yếu
của UBND, khác với hoạt động quản lý của cơ quan Nhà nước khác ở những
điểm sau:
+ Quản lý hành chính là hoạt động chủ yếu, quan trọng, là chức năng của
UBND, còn các cơ quan Nhà nước khác như: HĐND, TAND, VKSND trong hoạt
động của mình cũng tiến hành hoạt động quản lý nhưng chỉ mang tính chất nội
bộ nhằm quản lý đội ngũ cán bộ công nhân viên chức để đảm bảo thực hiện các
chức năng chủ yếu của mình. Chẳng hạn như, chức năng chủ yếu của TAND là
xét xử, Chánh án TAND thực hiện quản lý cán bộ, bố trí thẩm phán, thư ký để
đảm bảo công tác xét xử; hoặc chức năng của VKSND là thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp thì Viện trưởng tiến hành hoạt động quản lý
các Kiểm sát viên, các nhân viên dưới quyền để bố trí thực hiện chức năng chủ
yếu của VKSND. Còn UBND thì tiến hành quản lý trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, không mang tính chất nội bộ cơ quan mà quản lý đối với tất cả
các tổ chức, cá nhân trên địa bàn khu vực của mình thể hiện ở các nội dung sau:
+ Hoạt động quản lý của UBND mang tính toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh, quốc
phòng...
+ Hoạt động quản lý của UBND mang tính thống nhất (vì phải chấp hành
văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và sự quản lý thống nhất của Chính
phủ).
+ Hoạt động quản lý của UBND chỉ giới hạn trong phạm vi địa phương,
một vùng lãnh thổ nhất định (Chính phủ mới thực hiện chức năng quản lý trong
phạm vi cả nước, đối với mọi địa phương, mọi vùng lãnh thổ).
Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, UBND được quyền ban
hành các quyết định, chỉ thị và tổ chức thực hiện các văn bản đó.
- Cơ cấu, tổ chức của UBND gồm: Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các ủy viên.
Chủ tịch UBND do HĐND cùng cấp bầu ra tại kỳ họp thứ nhất của mỗi
khóa theo sự giới thiệu của Chủ tịch HĐND, được bầu trong số các đại biểu
Quốc hội theo thể thức bỏ phiếu kín, phải được quá 1/2 tổng số đại biểu HĐND
biểu quyết tán thành.
Phó Chủ tịch UBND do HĐND cùng cấp bầu ra tại kỳ họp thứ nhất của mỗi
khóa theo sự giới thiệu của Chủ tịch UBND, số lượng Phó Chủ tịch do Chính
phủ quyết định, không nhất thiết là đại biểu HĐND.
Các ủy viên do HĐND bầu tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa theo sự giới
thiệu của Chủ tịch UBND, phụ trách quản lý những ngành, lĩnh vực chuyên môn
nhất định như: Công an, quân sự, tổ chức, thanh tra, kế hoạch, tài chính, văn
phòng...
Số lượng thành viên UBND quy định như sau: cấp tỉnh 9 - 11 thành viên
(riêng Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh không quá 13), cấp huyện từ 7 - 9, cấp
xã từ 3 - 5.
Để đảm bảo tính khách quan trong quá trình giám sát của HĐND đối với
UBND, Luật còn quy định: Chủ tịch, Phó Chủ tịch, các ủy viên của UBND không
thể đồng thời là Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Trưởng ban các ban chuyên trách của
HĐND.
Ngoài ra, UBND còn có các Sở, phòng, ban trực thuộc UBND (ở cấp tỉnh
thì có khoảng 20 đến 26 sở, ban ngành; ở cấp huyện có khoảng 10 đến 12
phòng ban, cấp xã thì có khoảng 5 ban), ví dụ như: Sở Xây dựng, Sở thương
mại, Phòng Tư pháp, Phòng Tài nguyên Môi trường, Ban Văn hóa Xã hội, Ban
Chỉ huy quân sự. Tuy nhiên, không phải tỉnh nào cũng có các sở giống nhau, mà
tùy theo từng vùng địa phương có những Sở như Sở Ngoại vụ, sở Quy hoạch
kiến trúc là có ở Hà Nội và TP.HCM, hoặc ở những vùng nông thôn thì có Phòng
Nông nghiệp nhưng ở quận, thị xã thì không có Phòng này thuộc UBND cấp
Huyện.
- Hình thức hoạt động:
Các phiên họp của UBND: UBND họp mỗi tháng 1 lần, do Chủ tịch UBND
triệu tập và chủ tọa; ngoài ra có thể họp phiên bất thường theo yêu cầu của Chủ
tịch UBND hoặc theo đề nghị của ít nhất 1/3 tổng số thành viên của UBND; Hoạt
động của Chủ tịch UBND; Hoạt động của các thành viên khác thuộc UBND.
Ngoài ra, khi bàn các vấn đề có liên quan, UBND có thể mời Chủ tịch
UBMTTQ và những người phụ trách các đoàn thể cùng cấp hoặc các trưởng,
phó ban các ban HĐND, các thủ trưởng cơ quan chuyên môn không phải là
thành viên UBND tham dự.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của UBND:
Nhiệm vụ, quyền hạn của UBND trong lĩnh vực quản lý Nhà nước: UBND
có nhiệm vụ quản lý Nhà nước đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống địa
phương như: lĩnh vực kinh tế (như phát triển ngành, phát triển đô thị, lập dự toán
ngân sách địa phương, thu ngân sách, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng); lĩnh vực
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thủy lợi và đất đai (trồng rừng, nuôi trồng
thủy sản, kế hoạch sử dụng đất...); lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
(như tổ chức quản lý Nhà nước đối với DN công nghiệp, xây dựng các khu chế
xuất, khu công nghiệp, phát triển thương mại, du lịch, các cơ sở chế biến,...).
Nhiệm vụ quyền hạn của UBND trong lĩnh vực thi hành pháp luật: Tổ chức
và chỉ đạo thực hiện các NQ của HĐND; các Nghị định của Chính phủ; Quyết
định, Chỉ thị, Thông tư của các Bộ và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp
trên. Trong quá trình triển khai thực hiện các văn bản này, UBND có quyền kiến
nghị với các cơ quan Nhà nước đó ban hành mới, hay sửa đổi, bổ sung những
quy định cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống và không có sự mâu thuẫn, chồng
chéo giữa các văn bản.
UBND có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo công tác thanh tra Nhà nước, tiếp
dân, trực tiếp xét giải quyết khiếu nại, tố cáo, quản lý hộ tịch; thực hiện công tác
công chứng, giám định tư pháp, xử lý vi phạm hành chính... Ví dụ: Chính phủ
ban hành Nghị định xử phạt vi phạm hành chính về xây dựng, về hoạt động kinh
doanh trên lĩnh vực văn hóa, về hoạt động kinh doanh; chính UBND sẽ tổ chức
việc kiểm tra và xử lý để thực hiện các văn bản này.
Nhiệm vụ quyền hạn của UBND trong lĩnh vực xây dựng chính quyền Nhà
nước và quản lý địa giới đơn vị hành chính: UBND chịu trách nhiệm tổ chức, chỉ
đạo thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND: như phối
hợp với TT HĐND, UBND MTTQ lập danh sach cử tri, tổ chức tuyên truyền,
chuẩn bị các điều kiện vật chất cho bầu cử...
Phối hợp với các ban của HĐND xây dựng đề án về việc thành lập mới,
sáp nhập hoặc giải thể các cơ quan chuyên môn, tổ chức sự nghiệp (Ví dụ như:
Sáp nhập Đài Truyền thanh Huyện với Trung tâm Văn hóa Huyện thành Trung
tâm Văn hóa Thông tin; hoặc tách Phòng Quản lý đô thị thành Phòng Quản lý đô
thị và Phòng Tài nguyên Môi trường hay chuẩn bị thành lập mới Phòng Y tế để
quản lý về lĩnh vực y tế); xây dựng đề án phân vạch, điều chỉnh địa giới hành
chính ở địa phương trình HĐND cùng cấp thông qua để trình cấp có thẩm quyền
quyết định (Ví dụ: Việc thành lập mới các quận huyện như: Bình Tân, Tân Phú,
Quận 7,... thì do UBND TP. Hồ Chí Minh xây dựng đề án trình HĐND Thành phố
để trình Chính phủ ra quyết định thành lập mới các quận - huyện này), trường
hợp điều chỉnh địa giới hành chính cấp tỉnh (như thành lập tỉnh Đắc Nông từ việc
tách tỉnh Đắc Lắc, tỉnh Điện Biên từ tỉnh Lai Châu, hay tỉnh Hậu Giang từ việc
tách thành phố Cần Thơ, hay tách tỉnh Sông Bé thành 2 tỉnh Bình Dương và
Bình Phước... thì UBND cấp tỉnh trình HĐND cấp tỉnh thông qua, trên cơ sở đó
đề nghị Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định).
Theo sự phân cấp của Chính phủ, UBND quản lý công tác tổ chức, biên
chế, lao động, tiền lương, tổ chức việc khen thưởng, kỷ luật, thực hiện chính
sách chế độ đối với cán bộ, viên chức Nhà nước trên địa bàn; đào tạo đội ngũ
viên chức Nhà nước và cán bộ cấp xã.
Nhiệm vụ, quyền hạn của UBND trong lĩnh vực kiểm tra, giám sát: Thực
hiện việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật, kiểm tra việc chấp hành Hiến pháp,
luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng
cấp tại các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang;
UBND kiểm tra Nghị quyết của HĐND cấp dưới về dự toán ngân sách và
quyết toán ngân sách; kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch của UBND
cấp dưới;
UBND tổ chức, chỉ đạo công tác thanh tra Nhà nước; tổ chức tiếp dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo.
Thông qua chức năng quản lý Nhà nước, UBND có quyền kiểm tra, giám
sát hoạt động của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cũng như quyền kiểm
tra, giám sát văn bản của UBND và HĐND cấp dưới trực tiếp (đình chỉ việc thi
hành hoặc bãi bỏ những văn bản trái pháp luật của các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND cấp mình và những văn bản trái pháp luật của UBND cấp dưới trực
tiếp; đình chỉ việc thi hành những NQ trái pháp luật của HĐND cấp dưới trực
tiếp, đình chỉ hoạt động của HĐND cấp dưới trực tiếp trong trường hợp HĐND
đó gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân địa phương và đề nghị
HĐND cấp mình hủy bỏ đối với văn bản và giải tán đối với hoạt động của HĐND
cấp dưới trực tiếp.
Điều động, miễn nhiệm, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp dưới
trực tiếp; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên UBND cấp dưới
trực tiếp; bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, cách chức, khen thưởng, kỷ luật cán
bộ công chức Nhà nước theo sự phân cấp quản lý; Chủ tịch UBND phân công
công tác cho các Phó Chủ tịch và các thành viên khác của UBND.
Ngoài ra, theo Luật Tố chức HĐND và UBND năm 2003, còn quy định
những nhiệm vụ và quyền hạn đặc thù của chính quyền đô thị như Thành phố
trực thuộc Trung ương, quận - thị xã, Phường - Thị trấn. Ví dụ: UBND Thành
phố trực thuộc Trung ương còn có một số nhiệm vụ khác so với UBND tỉnh như:
xây dựng và phát triển đô thị; hướng dẫn sắp xếp mạng lưới thương mại, dịch
vụ, du lịch đô thị; xây dựng và biện pháp giải quyết việc làm, phòng chống các tệ
nạn xã hội (chẳng hạn: UBND ban hành quy hoạch về việc kinh doanh các
ngành nghề nhạy cảm, hay ngành nghề xăng, gas...).
4. Cơ quan Tư pháp
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân nước CHXHCNVN, trong
phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế
độ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập
thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân là những khâu trọng yếu, cơ
bản thuộc hệ thống các cơ quan tư pháp, thực hiện quyền tư pháp.
a. Tòa án nhân dân: (tham khảo Luật Tổ chức TAND 2002)
Tòa án nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp luật thông qua hoạt
động xét xử. Đây là chức năng riêng cơ bản của các Tòa án.
Hiến pháp 1992: "Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa
phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do Luật định là những cơ quan
xét xử của nước CHXHCNVN" (Điều 127).
* Hoạt động xét xử của các Tòa án có đặc điểm đặc thù:
Nhân danh Nhà nước CHXHCNVN, căn cứ vào pháp luật của Nhà nước
đưa ra phán xét quyết định cuối cùng nhằm kết thúc vụ án, là sự thể hiện trực
tiếp thái độ, quan điểm của Nhà nước đối với một vụ án cụ thể. Thái độ, quan
điểm đó chính là sự thể hiện trực tiếp bản chất của Nhà nước. Nhà nước chịu
trách nhiệm về nội dung và hậu quả của các quyết định giải quyết các vụ việc do
Tòa án đưa ra.
Khi xét xử, trong bản án: lúc nào cũng tuyên là "Nhân danh nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam".
Xét xử và kiểm tra hành vi pháp lý của các cơ quan Nhà nước, các cán bộ
công chức trong bộ máy Nhà nước, trong quá trình giải quyết các vụ việc có liên
quan đến việc bảo vệ các quyền tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản của con
người, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân.
Xét xử nhằm ổn định trật tự pháp luật, giữ vững kỷ cương xã hội, tự do an
toàn của con người, làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội.
Xét xử mang nội dung giáo dục pháp luật với bản thân đương sự cũng
như với xã hội, tạo ý thức pháp luật cho mỗi cá nhân, từ đó có được những hành
vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật trong mối quan hệ xã hội, tạo tinh thần tích
cực đấu tranh của công dân chống các hành vi vi phạm pháp luật.
* Cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án gồm: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa
án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự Trung ương,
Tòa án quân sự quân khu, Tòa án quân sự khu vực và các Tòa án khác được
thành lập theo quy định của pháp luật.
* Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động:
Nguyên tắc bổ nhiệm thẩm phán và bầu Hội thẩm nhân dân: Thẩm phán
Tòa án nhân dân các cấp được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ và có thể bị miễn nhiệm,
cách chức nếu không hoàn thành chức trách.
Việc bổ nhiệm thẩm phán là sự đổi mới trong tố chức Tòa án (trước đây
Thẩm phán do HĐND cùng cấp bầu ra), nó giúp cho Nhà nước chọn những
người có đủ điều kiện để thực hiện chức năng xét xử của Tòa án; có điều kiện
tích lũy kinh nghiệm xét xử, tăng tính độc lập trong việc xét xử (không còn phụ
thuộc vào HĐND, nếu xét xử trái với ý của HĐND thì nhiệm kỳ sau không được
bổ nhiệm).
Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy
định của pháp luật. Đối với Hội thẩm nhân dân của Tòa án tối cao và Tòa án
quân sự được thực hiện theo chế độ cử, còn đối với Tòa án nhân dân địa
phương thực hiện theo chế độ bầu (do HĐND cùng cấp bầu ra theo sự giới thiệu
của UBMTTQ cùng cấp; và do HĐND cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề
nghị của Chánh án TAND cùng cấp sau khi thống nhất với UBMTTQ cùng cấp);
đối với Hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự quân khu và tương đương do Chủ
nhiệm Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân cử theo sự giới thiệu của cơ quan
chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng và do Tổng cục Chính trị Quân đội
nhân dân bãi nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Chánh án TAQS quân khu
sau khi thống nhất với cơ quan chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng. Đối
với Hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự khu vực do Chủ nhiệm chính trị quân
khu, quân đoàn, quân chủng cử theo sự giới thiệu của cơ quan chính trị sư đoàn
hoặc cấp tương đương và do Chủ nhiệm chính trị quân khu, quân đoàn, quân
chủng miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án TAQS khu vực sau khi
thống nhất với cơ quan chính trị sư đoàn hoặc cấp tương đương; nhiệm kỳ Hội
thẩm là 5 năm.
Nguyên tắc khi xét xử có Hội thẩm tham gia, Hội thẩm ngang quyền Thẩm
phán: Xuất phát từ chỗ Nhà nước của ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân;
có hội thẩm tham gia khẳng định tính dân chủ trong việc xét xử; đảm bảo cho
việc xét xử của TA đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, phù hợp với nguyện vọng nhân dân, sát với thực tế cuộc sông. Ví dụ: Khi
xét xử, bị cáo là người chưa thành niên hay là Đoàn viên Thanh niên Cộng sản
thì Hội thẩm thường là những người phụ trách công tác Đoàn, sẽ hiểu rõ về tâm
tư, nguyện vọng của bị cáo; hoặc bị cáo là học sinh, sinh viên thì Hội thẩm
thường là các thầy cô giáo.
Và khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền Thẩm phán (có nghĩa là, Hội thẩm có
quyền thảo luận và đưa ra ý kiến của mình (nhưng trên thực tế không phải lúc
nào Hội thẩm cũng am hiểu tường tận pháp luật, mà xét xử thường có 2 Hội
thẩm và 1 Thẩm phán nên nhiều Bản án không thực sự đúng người, đúng tội; vì
vậy đòi hỏi của nguyên tắc này là phải nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn
cho các Hội thẩm).
- Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
- Các chánh án Tòa án nhân dân phải chịu trách nhiệm và báo cáo công
tác các cơ quan quyền lực Nhà nước cùng cấp.
- Nguyên tắc quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do
Chánh án TAND tối cao đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Bộ quốc phòng
(đối với Tòa án quân sự) hoặc Hội đồng nhân dân địa phương (đối với TAND).
* Các nguyên tắc xét xử của Tòa án nhân dân:
- Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập chỉ tuân theo pháp
luật.
- Tòa án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp đặc biệt do luật định.
- Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và quvền bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự.
- Công dân thuộc các dân tộc ít người được quyền dùng tiếng nói và chữ
viết dân tộc mình trước phiên Tòa.
- Các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật
phải được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh. Trong trường hợp cần thiết để
bảo đảm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, Nhà nước thực hiện sự
cưỡng chế tương ứng.
Chức năng xét xử là chức năng chủ yếu của Tòa án nhân dân, TAND xét
xử các vụ án hình sự, các tranh chấp dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình;
trong lĩnh vực kinh tế TAND xét xử các tranh chấp hợp đồng, các tranh chấp nội
bộ doanh nghiệp, các tranh chấp về mua bán cố phiếu, trái phiếu, các vụ phá
sản doanh nghiệp.
b. Viện Kiểm sát nhân dân: (tham khảo Luật Tổ chức VKSND 2002)
* Về chức năng và nhiệm vụ: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh
vực tư pháp và thực hiện quyền công tố theo quy định của Hiến pháp và pháp
luật là chức năng riêng có của Viện Kiểm sát nhân dân trong thực hiện quyền tư
pháp, nhằm bảo đảm cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất
trong phạm vi cả nước.
* Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Viện Kiểm sát:
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các văn bản pháp quy của các
cơ quan từ cấp độ trở xuống.
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của các cơ quan
điều tra.
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của Tòa án nhân dân
và thực hiện quyền công tố theo pháp luật.
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành
án, chấp hành viên cơ quan, đơn vị cá nhân có liên quan trong việc thi hành án.
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, đơn vị và người có
trách nhiệm trong việc giam giữ, cải tạo.
* về cơ cấu tổ chức:
Viện Kiểm sát nhân dân là hệ thống cơ quan bao gồm: Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao, các Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, các Viện Kiểm sát nhân dân
cấp huyện và các Viện Kiểm sát quân sự. Cơ cấu tổ chức của mỗi Viện Kiểm sát
được quy định trong Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân.
* Nguyên tắc tổ chức và hoạt động:
Viện Kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện Kiểm
sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân
dân cấp trên. Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân địa phương, Viện trưởng Viện
Kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao.
Tại Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện
Kiểm sát quân sự quân khu và tương đương thành lập ủy ban kiểm sát để thảo
luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng theo quy định của Luật
Tổ chức kiểm sát nhân dân.
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm,
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội hoặc trước Ủy ban
Thường vụ Quốc hội giữa hai kỳ họp Quốc hội, trước Chủ tịch Nước, phải trả lời
chất vấn của đại biểu Quốc hội.
Chủ tịch Nước thực hiện việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với
phó viện trưởng và kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao theo đề nghị
của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Viện Kiểm sát nhân dân các
địa phương và các Viện Kiểm sát quân sự do Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc cách chức.
Viện trưởng các Viện Kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo
cáo trước HĐND cùng cấp về tình hình pháp luật ở địa phương và trả lời chất
vấn của đại biểu HĐND.
Ngoài ra, theo Hiến pháp 1992 và Luật Tổ chức Chủ tịch Nước, còn có
một cơ quan nhưng hoạt động mang tính chất cá nhân là Chủ tịch Nước.
Chương 3. KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT
I. NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT VÀ ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT
1. Nguồn gốc của pháp luật
Trong bất kỳ xã hội nào cũng cần phải có một trật tự nhất định, cần có sự
điều chỉnh nhất định đối với các quan hệ của con người. Nếu không có sự điều
chỉnh của các quan hệ ấy, thì không thể tiến hành sản xuất, phân phối sản
phẩm, đảm bảo nhu cầu của xã hội và nhu cầu của cá nhân con người. Nói cách
khác, việc điều chỉnh các quan hệ xã hội là nhu cầu khách quan cần thiết để đảm
bảo tính tổ chức của xã hội. Việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong bất kỳ xã
hội nào cũng được thực hiện bằng một hệ thống các quy phạm xã hội. Các quy
phạm này có thể hình thành một cách tự phát hoặc tự giác thông qua ý thức của
con người, nhưng giữa chúng đều có điểm chung là điều chỉnh hành vi của con
người và thậm chí một số quy phạm không chỉ tác động đến hành vi của con
người mà con tác động cả về tư tưởng của con người. Trong xã hội nguyên thủy
việc điều chỉnh quan hệ giữa người với người chủ yếu là bởi các quy phạm tập
quán, đạo đức và tôn giáo. Trong xã hội có giai cấp, có Nhà nước, ngoài các quy
phạm tập quán, đạo đức và tôn giáo thì nhân tố nổi bật lên hàng đầu trong tất cả
các quy phạm xã hội và có vai trò đặt biệt quan trọng để điều chỉnh các quan hệ
xã hội, đó là quy phạm pháp luật.
Như vậy, trong lịch sử của xã hội loài người đã có thời kỳ không có pháp
luật. Đó là thời kỳ Công xã nguyên thủy khi đó chỉ có những quy tắc tập quán,
đạo đức điều chỉnh quan hệ giữa người với nhau và hình thành một cách tự
nhiên. Các quy phạm này thể hiện ý chí của toàn thể xã hội, điều chỉnh hành vi
của con người theo tinh thần tương trợ giúp đỡ và chúng được thực hiện một
cách tự nguyện, tự giác. Khi xã hội có giai cấp, có Nhà nước thì quy phạm pháp
luật xuất hiện, nguyên nhân làm phát sinh Nhà nước cũng là nguyên nhân dẫn
đến sự ra đời của pháp luật. Như vậy cũng như Nhà nước pháp luật là một hiện
tượng có tính lịch sử, nó chỉ xuất hiện trong những điều kiện nhất định về kinh
tế, xã hội và chính trị trong xã hội loài người.
Vậy tại sao pháp luật chỉ ra đời khi xã hội phân hóa giai cấp? để trả lời cho
câu hỏi này chúng ta phải xuất phát từ nền tảng kinh tế xã hội. Chúng ta biết
rằng, sự phát triển của lực lượng sản xuất đã làm xuất hiện sở hữu tư nhân và
phân hóa xã hội thành giai cấp dẫn đến sự ra đời của Nhà nước. Chính điều này
đã làm thay đổi trật tự các quan hệ xã hội, đặc biệt là các quan hệ kinh tế, trong
khi đó các quy phạm đã từng tồn tại trong xã hội nguyên thủy không thể phù hợp
để điều chỉnh các quan hệ đã có sự thay đổi về chất. Để phù hợp với sự thay đổi
của các quan hệ xã hội mới thì cần thiết phải có một loại quy phạm mới để điều
chỉnh các quan hệ xã hội mà lợi ích giữa các giai cấp là xung đột với nhau, quy
phạm đó thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Như vậy, những quy phạm do giai
cấp thống trị ban hành thông qua Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội
mang tính bắt buộc chung được gọi là quy phạm pháp luật.
Hệ thống quy phạm pháp luật do Nhà nước xây dựng lên bằng các
phương thức khác nhau. Thứ nhất, giai cấp thống trị thông qua bộ máy Nhà
nước sửa chữa các quy tắc phong tục, tập quán có sẵn trong xã hội phù hợp với
lợi ích của mình và nâng chúng lên thành quy phạm pháp luật và được gọi là tập
quán pháp. Thứ hai, Nhà nước thừa nhận các quyết định có trước về từng vụ
việc cụ thể của cơ quan xét xử hoặc cơ quan hành chính cấp trên để trở thành
khuôn mẫu cho cơ quan cấp dưới tương ứng giải quyết những vụ việc tương tự
xảy ra sau này, hình thức này được gọi là tiền lệ pháp. Nhưng việc làm này vẫn
chưa thể thỏa mãn nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội trong xã hội có giai
cấp đối kháng. Vì thế, Nhà nước còn ban hành các quy phạm mới và dùng
quyền lực Nhà nước buộc mọi người phải tuân theo để duy trì xã hội trong vòng
trật tự của giai cấp thống trị, đồng thời bảo vệ lợi ích, củng cố sự thống trị của
chúng đối với xã hội, hình thức này được gọi là văn bản quy phạm pháp luật.
Như vậy, pháp luật được hình thành từ việc thừa nhận các quy phạm xã hội,
thừa nhận các quyết định của Tòa án hay cơ quan hành chính cấp trên hoặc ban
hành mới (sáng tạo) các văn bản quy phạm pháp luật.
Vậy tại sao Nhà nước lại ban hành pháp luật? Có thể nói rằng Nhà nước
là sản phẩm của xã hội có đối kháng giai cấp, Nhà nước có vai trò giữ cho các
quan hệ xã hội phát triển trong trật tự ổn định. Để làm được điều này, Nhà nước
có nhiều công cụ khác nhau nhưng công cụ cơ bản và quan trọng nhất đó chính
là pháp luật. Nhờ có pháp luật mà giai cấp thống trị không những bảo vệ được
lợi ích của mình mà còn làm cho các quan hệ xã hội phát triển theo ý chí của giai
cấp thống trị.
2. Bản chất của pháp luật
Pháp luật là sản phẩm, là công cụ cơ bản của Nhà nước nên bản chất của
pháp luật cũng giống như bản chất của Nhà nước là tính giai cấp của nó. Pháp
luật, đó là nhân tố điều chỉnh về mặt giai cấp các mối quan hệ xã hội. về mặt bản
chất, pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị được Nhà nước thể chế hóa.
Nội dung của ý chí đó được bảo đảm bằng lực lượng vật chất của giai cấp thống
trị. Pháp luật là công cụ thống trị về mặt giai cấp và chính trị trong xã hội. Sự
khác biệt giữa pháp luật và các quy phạm xã hội khác thể hiện ở chỗ, pháp luật
với tư cách là nhân tố điều chỉnh các mối quan hệ xã hội về mặt giai cấp được
thể hiện trước tiên pháp luật chỉ là đặc thù đối với một giai cấp nhất định; ý chí
của pháp luật thể hiện ý chí của Nhà nước, nói cách khác pháp luật xuất phát từ
Nhà nước và được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế.
Như vậy, tính giai cấp của pháp luật chính là pháp luật là ý chí của giai cấp
thống trị, ý chí đó được đề lên thành luật. Nhờ nắm được trong tay quyền lực
Nhà nước mà giai cấp thống trị có khả năng thể hiện và cụ thể hóa ý chí của
mình thành các quy phạm pháp luật, áp đặt lên xã hội, buộc xã hội phải thừa
nhận và phục tùng. Tuy nhiên, giai cấp thống trị không thể ban hành pháp luật
tùy ý mà nội dung của ý chí giai cấp được đề lên thành pháp luật được quy định
khách quan bởi những điều kiện kinh tế - xã hội hiện thực, những quan hệ sản
xuất, tương quan lực lượng giữa các giai cấp và kết quả đấu tranh giai cấp.
Mặt khác, khi nói đến bản chất của pháp luật không chỉ thể hiện ở tính giai
cấp mà bản chất của pháp luật còn thể hiện ở tính xã hội. Vì pháp luật do Nhà
nước, đại diện chính thức của xã hội ban hành nên ở mức độ nhiều hay ít tùy
thuộc vào từng giai đoạn phát triển của lịch sử mà tính xã hội của pháp luật
được thể hiện đậm hay nhạt. Tính xã hội của pháp luật chính là sự thể hiện ý chí
của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội, điều đó có nghĩa là lợi ích của giai
cấp thống trị về cơ bản là phù hợp với lợi ích của các giai tầng khác trong xã hội.
Tính xã hội của pháp luật còn thể hiện ở chỗ pháp luật nhiều giá trị của xã hội
được pháp luật đăng tải, phản ánh. Nghĩa là Nhà nước ghi nhận những xử sự
hợp lý khách quan, được số đông chấp nhận, phù hợp với lợi ích của số đông
trong xã hội. Dưới góc độ này có thể nói rằng pháp luật mang tính khách quan,
phản ánh đời sống xã hội, tồn tại xã hội. Mặt khác, giá trị xã hội của pháp luật
còn thể hiện ở chỗ, pháp luật vừa là thước đo hành vi của con người, vừa là
công cụ kiểm nghiệm các quá trình các hiện tượng xã hội, là công cụ để nhận
thức xã hội và điều chỉnh các quan hệ xã hội, hướng chúng vận động phát triển
phù hợp với quy luật khách quan.
Như vậy, pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp lại vừa mang
tính xã hội. Hai thuộc tính này có mối liên hệ mật thiết với nhau. Xét theo quan
điểm hệ thống, không có pháp luật thuần túy mang tình giai cấp và ngược lại
cũng không có pháp luật chỉ thuần túy mang tính xã hội. Tuy nhiên, mức độ đậm
nhạt của hai thuộc tính đó là khác nhau trong các xã hội khác nhau và chúng
thường hay biến đổi phụ thuộc vào điều kiện pháp triển của kinh tế xã hội.
Nghiên cứu lịch sử pháp luật của xã hội loài người chúng ta có thể đưa ra một
nhật xét chung rằng: tính giai cấp của pháp luật ngày càng nhạt đi và tính xã hội
của pháp luật ngày càng đậm lên.
Từ bản chất nguồn gốc và bản chất của pháp luật ta có thể định nghĩa:
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chúng do Nhà nước
ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội
và là nhân tố cơ bản điểu chỉnh các quan hệ xã hội.
3. Đặc trưng (thuộc tính) của pháp luật
Khi đề cập đến đặc trưng của pháp luật là chúng ta đề cập đến những
thuộc tính, dấu hiệu riêng có của pháp luật, thông qua những đặc trưng này cho
chúng ta thấy được sự khác biệt của pháp luật so với các quy phạm xã hội khác.
Nhờ vào những đặc trưng của mình mà sự điều chỉnh của pháp luật lên các
quan hệ xã hội cũng có sự khác biệt so với các quy phạm tập quán, đạo đức hay
tôn giáo...
Nhìn một cách khái quát nhất chúng ta thấy pháp luật có nhưng đặc trưng
sau:
- Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung. Tính
bắt buộc chung của pháp luật thể hiện ở chỗ mọi chủ thể của pháp luật trong
phạm vi lãnh thổ quốc gia đều phải có nghĩa vụ thực hiện các yêu cầu của pháp
luật mà không phân biệt già trẻ, trai gái, giàu nghèo, màu da, sắc tộc... Như vậy,
so với các quy phạm khác như đạo đức, tập quán... thì phạm vi chủ thể của
pháp luật rộng hơn. Các quy phạm xã hội khác chỉ có tính bắt buộc riêng như
phong tục tập quán thì mỗi vùng mỗi khác, vì vậy chủ thể của nó cũng khác nhau
trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Ví dụ: Phong tục ma chay, cưới hỏi ở nước ta
cũng có sự khác biệt giữa các vùng, miền. Nhưng đối với pháp luật thì bất cứ
chủ thể nào trong phạm vi lãnh thổ quốc gia và thậm chí công dân của Nhà nước
đó khi đi ra ngoài lãnh thổ quốc gia cũng phải có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật của
quốc gia mà công dân đó mang quốc tịch.
- Pháp luật thể hiện ý chí của Nhà nước. Như chúng ta đã nói bản chất
của pháp luật mang tính giai cấp cho nên pháp luật luôn thể hiện ý chí của giai
cấp thống trị. Ý chí của giai cấp thống trị chi phối cả về nội dung lẫn hình thức
của pháp luật. Điều này cho thấy vì sao mà các quốc gia tuy có trình độ phát
triển như nhau nhưng các quy định của pháp luật cũng khác nhau. Hơn nữa, đặc
điểm này cũng cho ta thấy sự khác biệt của pháp luật so với các quy phạm khác.
Chúng ta biết rằng, quy phạm xã hội khác được hình thành bằng nhiều con
đường khác nhau và phản ánh ý chí của nhiều giai tầng khác nhau trong xã hội.
Ví dụ: Quy phạm đạo đức cũng là quy phạm mang tính ý chí nhưng nó có thể
phản ánh ý chí của giai cấp thống trị hoặc phản ánh ý chí của giai cấp bị thống
trị. Nhưng với pháp luật thì chỉ có ý chí của giai cấp thống trị mới có thể chi phối
được pháp luật một cách rõ nét. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa rằng
pháp luật không phản ánh ý chí của các giai tầng khác, pháp luật phần nào đó
cũng phản ánh ý chí của giai cấp khác, những sự phản ánh đó không rõ nét như
ý chí của giai cấp thống trị. Hay nói rõ hơn là sự phản ánh ý chí của các giai tầng
khác của pháp luật không có sự khác biệt so với sự phản ánh trong các quy
phạm xã hội khác.
- Pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thừa
nhận. Như đã đề cập ở phần nguồn gốc của pháp luật, pháp luật là do Nhà nước
thừa nhận những quy phạm xã hội khác phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị
và nâng chúng lên thành Luật. Nghĩa là nếu không được Nhà nước thừa nhận
thì những quy phạm đó chỉ là những quy phạm xã hội và nó không có tính bắt
buộc chung cũng như không được Nhà nước đảm bảo thực hiện. Nhưng khi có
sự thừa nhận của Nhà nước thì điều đó đồng nghĩa với việc quy phạm đó từ quy
tắc xử sự riêng thành quy tắc xử sự chung và được Nhà nước đảm bảo thực
hiện. Bên cạnh thừa nhận Nhà nước còn ban hành các quy phạm pháp luật mới.
Vậy, nói pháp luật là do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thừa nhận hoặc ban
hành nhưng cần phải lưu ý rằng, không phải mọi cơ quan Nhà nước đều có
thẩm quyền này, mà chỉ có những có quan đặc biệt và cũng do pháp luật quy
định mới có quyền thừa nhận hoặc ban hành pháp luật. Ví dụ như ở nước ta có
nhiều cơ quan Nhà nước nhưng chỉ có Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền
ban hành Hiến pháp.
- Pháp luật được thể hiện dưới những hình thức nhất định, ở đây chúng ta
đề cập đến hình thức bên ngoài của pháp luật mà thông qua đó chủ thể của
pháp luật nhận biết được sự tồn tại và các yêu cầu của pháp luật. Các quốc gia
khác theo các hệ thống pháp luật khác nhau thì hình thức của pháp luật cũng
khác nhau nhưng tựu chung lại hình thức của pháp luật bao gồm các hình thức
cơ bản sau: Tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật. Còn
khi đề cập đến hình thức của pháp luật nói chung chúng ta còn phải nói tới hình
thức bên trong của pháp luật bao gồm các nguyên tắc chung của pháp luật, hệ
thống pháp luật, ngành luật, chế định luật và quy phạm pháp luật.
- Pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà
nước. Có thể nói rằng, đây là ưu thế lớn nhất của pháp luật so với các quy phạm
khác và cũng nhờ có ưu thế này mà sự tác động của pháp luật vào các quan hệ
xã hội cũng hiệu quả hơn hẳn so với các quy phạm khác. Nếu phong tục tập
quán được thực hiện bằng thói quen, đạo đức được thực hiện bằng dư luận, tôn
giáo được thực hiện bằng lòng tin thì pháp luật được thực hiện bằng sức mạnh
cưỡng chế của bộ máy Nhà nước. Nghĩa là khi ban hành ra pháp luật, Nhà nước
thiết lập một hệ thống cơ quan chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế để bắt buộc các
chủ thể phải thực hiện các yêu cầu của pháp luật, đảm bảo cho các quy định của
pháp luật được thực thi trong thực tế.
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ CÁC HIỆN TƯỢNG XÃ HỘI KHÁC
Để nhận thức đầy đủ về bản chất của pháp luật, cần phải xem xét các mối
liên hệ của pháp luật với các hiện tượng xã hội khác. Thông qua các mối liên hệ
này cho chúng ta có được cái nhìn toàn diện về bản chất, vai trò và chức năng
của pháp luật. Vậy, pháp luật có những mối quan hệ sau:
1. Mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế
Pháp luật là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng. Vì thế, xem xét mối
quan hệ giữa pháp luật và kinh tế là xem xét mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với
một bộ phận của kiến trúc thượng tầng. Mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế là
mối quan hệ biện chứng. Trong đó, kinh tế giữ vai trò quyết định nhưng pháp
luật cũng có sự tác động trở lại so với kinh tế.
Do pháp luật là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng, nên pháp luật sinh
ra trên cơ sở hạ tầng và bị quvết định bởi cơ sở hạ tầng. Do vậy, trong mối quan
hệ giữa pháp luật và kinh tế thì kinh tế không chỉ là nguyên nhân trực tiếp quyết
định sự ra đời của pháp luật mà còn quyết định toàn bộ nội dung, tính chất và cả
cơ chế điều chỉnh của pháp luật. Cho nên pháp luật suy cho cùng là sự biểu hiện
về mặt hình thức pháp lý những nội dung kinh tế mà thôi. Pháp luật tồn tại trong
khuôn khổ cơ chế kinh tế và có nhiệm vụ điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát
sinh từ cơ chế kinh tế và đảm bảo cho sự tồn tại bền vững của cơ cấu kinh tế.
Như vậy có thể nói rằng kinh tế như thế nào thì pháp luật như thế ấy và kinh tế
thay đổi thì sớm muộn gì pháp luật bắt buộc cũng phải thay đổi theo.
Như đã nói trên, mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế là mối quan hệ
biện chứng, cho nên pháp luật cũng có sự tác động trở lại đối với kinh tế. Sự tác
động trở lại của pháp luật đối với kinh tế có thể xảy ra theo hai chiều hướng tích
cực hoặc tiêu cực. Nếu pháp luật phản ánh đúng nội dung, bản chất và các quy
luật của cơ chế kinh tế thì pháp luật sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, hoàn thiện cơ
chế kinh tế và hệ thống kinh tế. Nhưng nếu pháp luật phản ánh sai lệch nội
dung, tính chất và các quy luật của cơ chế kinh tế thì pháp luật sẽ kìm hãm sự
phát triển của kinh tế.
2. Mối quan hệ giữa pháp luật và chính trị
Khác với mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế, trong mối quan hệ giữa
pháp luật và chính trị là mối quan hệ giữa các yếu tố của bộ phận kiến trúc
thượng tầng. Cho nên, trong mối quan hệ này không phải pháp luật quyết định
chính trị hay ngược lại mà giữa chúng có mối liên hệ tương hỗ và giúp đỡ lẫn
nhau, cần phải có nhau. Chúng ta biết rằng, chính trị là sự biểu hiện tập trung
của kinh tế vì thế chính trị là cầu nối giữa pháp luật và kinh tế, không có chính trị
pháp luật không thế phán ánh chuyển tải được nội dung, tích chất và các quy
luật của. cơ chế kinh tế. Để phản ánh được kinh tế pháp luật phải tiếp thu những
yếu tố của chính trị.
Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp về lợi ích khác nhau
trong xã hội. Vì vậy, Nhà nước vừa là tổ chức chính trị, vừa là công cụ để giai
cấp thống trị thực hiện quyền lực chính trị của mình đối với xã hội. Do vậy, pháp
luật biểu thị nền chính trị của giai cấp thống trị nên về bản chất pháp luật và
chính trị là thống nhất với nhau. Khi đề cập đến mối quan hệ giữa pháp luật và
chính trị, cần phải xem xét mối quan hệ giữa đường lối chính sách của Đảng
cầm quyền và pháp luật của Nhà nước. Đường lối chính sách của đảng cầm
quyền được thể hiện chủ yếu trong các nghị quyết của đảng và nó có ý nghĩa chỉ
đạo trong việc xây dựng pháp luật. Pháp luật là phương tiện chủ yếu để chuyển
hóa đường lối chính sách của đảng cầm quyền thành ý chí chung của xã hội,
của Nhà nước. Như vậy chúng ta có thể kết luận rằng trong mối quan hệ giữa
pháp luật và chính trị thì giữa chúng có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau trong đó
chính trị chỉ đạo xây dựng pháp luật và pháp luật là sự cụ thể hóa, chi tiết hóa
chính trị.
3. Mối quan hệ giữa pháp luật với Nhà nước
Pháp luật và Nhà nước là hai yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng nên cũng
có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nhà nước và pháp luật đều là phương tiện của
quyền lực chính trị. Chúng cùng phát sinh, tồn tại, phát triển và tiêu vong. Mối
liên hệ giữa Nhà nước và pháp luật thể hiện sự thống nhất và mâu thuẫn giữa
chúng. Mâu thuẫn giữa Nhà nước và pháp luật được thể hiện ở chỗ, Nhà nước
là một thiết chế quyền lực ban hành hoặc thừa nhận pháp luật, nhưng Nhà nước
phải tôn trọng pháp luật, đặt mình dưới pháp luật. Nhưng sự thống nhất của
chúng thể hiện ở chỗ, chúng làm tiền đề cho nhau, không có Nhà nước thì
không có pháp luật, không có pháp luật thì không thể tổ chức được bộ máy Nhà
nước, không thể phát huy được quyền lực của mình.
Giữa Nhà nước và pháp luật có sự thống nhất và tác động qua lại lẫn
nhau, chế ước lẫn nhau. Giai cấp thống trị cần phải tổ chức sức mạnh của mình
dưới dạng pháp luật, cần tạo cho ý chí của mình, mô hình thức biểu hiện ý chí
Nhà nước dưới hình thức các đạo luật. Như vậy, Nhà nước thể hiện ý chí của
mình dưới hình thức pháp luật, còn pháp luật trở thành ý chí của Nhà nước. Do
vậy, sẽ là sai lầm trong lý luận và thực tiễn nếu ai đó đặt vấn đề về tính trội thuộc
về Nhà nước hay pháp luật. Chúng hòa quyện vào nhau và tạo thành một thể
thống nhất.
4. Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
Pháp luật và đạo đức có chung cùng một mục đích là điều chỉnh các hành
vi của con người. Chúng đều là những quy phạm xã hội được sử dụng để điều
chỉnh các hành vi xã hội. Do vậy trong mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức
là mối quan hệ bổ sung cho nhau, giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình điều chỉnh
hành vi của con người. Trong cả hệ thống các quan hệ xã hội, có nhiều nhóm
quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh chung của cả pháp luật lẫn đạo đức. Khi
đó việc xuất hiện sự tác động lẫn nhau giữa chúng sẽ thường xuyên và cần thiết.
Tuy nhiên, có nhiều quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của đạo đức nhưng
không thể là đối tượng điều chỉnh của pháp luật và ngược lại. Nhưng chúng ta
thấy rằng, trong những điều kiện chính trị, văn hóa xã hội khác nhau, pháp luật
và đạo đức có thể trao đổi cho nhau đối tượng điều chỉnh của mình. Và cuối
cùng sự tương hỗ lẫn nhau giữa pháp luật và đạo đức còn thể hiện ở chỗ nếu
pháp luật mà phù hợp, không mâu thuẫn với đạo đức thì pháp luật đó sẽ được
mọi người tự giác chấp hành, pháp luật dễ đi vào cuộc sống.
III. CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT
1. Chức năng của pháp luật
Chức năng của pháp luật là những hình thức tác động đặc thù bằng con
đường Nhà nước lên các quan hệ xã hội. Đây là những phương diện, những
hoạt động chủ yếu của pháp luật, thể hiện bản chất và giá trị xã hội của pháp
luật. Vậy, pháp luật có những chức năng cơ bản sau:
Chức nănq điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đây là chức năng cơ bản và
quan trong nhất của pháp luật. Bởi vai trò và giá trị cao nhất của pháp luật là
điều chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy nhiên pháp luật không điều chỉnh tất cả các
quan hệ xã hội mà nó chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội phổ biến, điển hình.
Mặt khác không phải mọi quan hệ xã hội đều có nhu cầu điều chỉnh bằng pháp
luật mà bên cạnh đó các quan hệ xã hội còn được điều chỉnh bởi các quy phạm
khác. Tuy nhiên, sự điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ xã hội có phạm
vi và hiệu quả hơn cả. Cho nên, việc xác định phạm vi và mức độ điều chỉnh của
pháp luật nhằm tìm ra ranh giới của pháp luật với những công cụ điều chỉnh
khác là vấn đề có ý nghĩa quan trọng.
Nhờ có chức năng điều chỉnh của pháp luật mà các quan hệ xã hội đã có
được hành lang pháp lý hướng các quan hệ ấy phát triển trong trật tự, ổn định
và thậm chí chức năng này còn tạo ra nhiều quan hệ xã hội mới, cũng như hạn
chế và triệt tiêu các quan hệ xã hội tiêu cực. Chức năng điều chỉnh các quan hệ
xã hội được thực hiện thông qua các hình thức quy định, cho phép, ngăn cấm,
khuyến khích, quy định quyền và nghĩa vụ qua lại của các chủ thể trong quan hệ
xã hội.
Chức năng bảo vệ của pháp luật. Chúng ta biết rằng pháp luật - công cụ
bảo vệ các quan hệ xã hội do nó điều chỉnh. Khi có hành vi vi phạm pháp luật,
xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh thì sẽ bị cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm khôi phục lại các
quan hệ xã hội bị xâm hại.
Chức năng giáo dục của pháp luật. Chính là sự tác động của pháp luật lên
ý thức và tâm lý của con người hướng cho các xử sự của họ phù hợp cách xử
sự mà pháp luật yêu cầu. Điều đó được thể hiện thông qua việc ban hành, tuyên
truyền phổ biến giáo dục pháp luật hoặc thông qua đời sống thực tiễn pháp lý
như thông qua các hành vi cụ thể trong lĩnh vực tuân thủ pháp luật, áp dụng và
thi hành pháp luật. Thông qua chức năng giáo dục con người hiểu được rằng xã
hội, Nhà nước đặt ra những yêu cầu, những quy tắc xử sự nhất định và nguy cơ
phải gánh chịu những hậu quả bất lợi nếu các chủ thể vi phạm.
2. Vai trò của pháp luật
Để tồn tại được, mọi thiết chế của Nhà nước và của xã hội phải được tổ
chức trên những nền tảng chuẩn mực và ổn định, thể hiện lợi ích tiến bộ của xã
hội - đó là pháp luật. Với những đặc trưng riêng của mình, pháp luật có nhiều vai
trò to lớn trong đời sống Nhà nước và đời sống xã hội. Thể hiện ở những vai trò
sau:
Pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền Lực Nhà
nước. Nhà nước không thể tồn tại thiếu pháp luật và pháp luật cũng không thể
phát huy sức mạnh của mình nếu thiếu Nhà nước. Nếu thiếu pháp luật thì hoạt
động của bộ máy Nhà nước dễ bị trùng lặp, chồng chéo, cồng kềnh và thiếu hiệu
quả.
Pháp luật là phương tiện để Nhà nước quản lý kinh tế và xã hội. Vì Nhà
nước là đại diện chính thức của xã hội, có nhiệm vụ quản lý xã hội nên Nhà
nước sử dụng nhiều biện pháp nhưng pháp luật là biện pháp, là phương tiện
quan trọng hơn cả. Với những ưu thế vượt trội của mình pháp luật có khả năng
triển khai những chủ trương, chính sách của Nhà nước một cách đồng bộ,
nhanh chóng và có hiệu quả. Bên cạnh đó, cũng nhờ có pháp luật mà Nhà nước
kiểm tra, giám sát các hoạt động của cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan.
Pháp luật góp phần tạo dựng những quan hệ mới, hạn chế và triệt tiêu
những quan hệ lạc hậu, lỗi thời.
Pháp luật tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các quan hệ bang
giao giữa các quốc gia,
IV. KIỂU VÀ HÌNH THỨC CỦA PHÁP LUẬT
1. Kiểu pháp luật
Pháp luật là một bộ phận quan trọng của kiến trúc thượng tầng. Bản chất,
nội dung của pháp luật suy cho cùng là do cơ sở kinh tế quyết định. Vì vậy,
muốn phân loại các pháp luật đã tồn tại trong lịch sử cần phải dựa vào hai tiêu
chuẩn.
- Thứ nhất, pháp luật ấy đã ra đời tồn tại trên cơ sở kinh tế nào, do quan
hệ sản xuất nào quyết định.
- Thứ hai, pháp luật ấy thể hiện tập trung ý chí của giai cấp nào và để bảo
vệ, củng cố lợi ích của giai cấp nào?
Là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ sở kinh tế của một
xã hội nhất định, vì thế đặc trưng của mỗi kiểu pháp luật là do chế độ kinh tế - xã
hội đã sản sinh ra nó quyết định.
Như vậy, kiểu pháp luật là tổng thể những dấu hiệu cơ bản, đặc thù của
pháp luật, thể hiện tính giai cấp, tính xã hội của pháp luật và những điều kiện tồn
tại, phát triển của chúng trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
Tương ứng với các hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp và Nhà nước, có
các kiểu pháp luật tương ứng:
- Kiểu pháp luật chiếm hữu nô lệ.
- Kiểu pháp luật phong kiến.
- Kiểu pháp luật tư sản.
- Kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Nhận xét chung về ba kiểu pháp luật chủ nô, phong kiến, tư sản chúng ta
thấy rằng đó là các kiểu pháp luật bóc lột được hiện thành trên cơ sở của chế độ
kinh tế sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Cho nên mỗi kiểu pháp luật có bản
chất và cách thể hiện riêng của mình nhưng chúng đều có một đặc điểm chung
là thể hiện ý chí của giai cấp bóc lột trong xã hội, củng cố và bảo vệ chế độ tư
hữu, bảo đảm về mặt pháp lý sự áp bức bóc lột của giai cấp thống trị đối với
nhân dân lao động. Còn pháp luật XHCN được xây dựng trên cơ sở của chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động. Mục đích của pháp luật XHCN là thủ tiêu mọi hình thức áp bức bóc lột,
xây dựng một xã hội mới trong đó mọi người đều tự do, bình đẳng.
Sự thay thế giữa các kiểu pháp luật, kiểu pháp luật sau tiến bộ hơn kiểu
pháp luật trước là một tất yếu khách quan, nhưng do điều kiện, bối cảnh lịch sử
ở các nước khác nhau nên sự thay thế của các kiểu pháp luật ở mỗi quốc gia
cũng khác nhau. Sự thay thế các kiểu pháp luật không phải ở đâu cũng diễn ra
theo trình tự: pháp luật phong kiến thay thế pháp luật chiếm hữu nô lệ, pháp luật
tư sản thay thế pháp luật phong kiến...
2. Các hình thức của pháp luật (nguồn của pháp luật)
Hình thức của pháp luật là khái niệm dùng để thể hiện và xác định ranh
giới tồn tại của pháp luật trong hệ thống các quy phạm xã hội, là hình thức biểu
hiện ra bên ngoài của pháp luật. Trong công việc hàng ngày chúng ta thường
vận dụng các quy phạm này hay quy phạm khác để giải quyết những vụ việc cụ
thể, những quy phạm đó lấy từ nguồn khác nhau.
Theo cách hiểu truyền thống thì "hình thức của pháp luật là cách thức mà
giai cấp thống trị sử dụng để nâng ý chí của giai cấp mình lên thành luật".
Chúng tôi cho rằng "Hình thức của pháp luật là phương thức tồn tại, biểu
hiện nội dung của pháp luật nhưng cũng là hình thức biểu hiện bên ngoài của
pháp luật, là hình thức vật chất mà thông qua đó mọi người có thể nhận biết
được pháp luật".
Trong lịch sử của pháp luật có các hình thức pháp luật cơ bản sau:
Tập quán pháp: Là những tập quán đã lưu truyền trong xã hội, phù hợp
với lợi ích của giai cấp thống trị đã được Nhà nước thừa nhận, làm cho chúng
trở thành quy tắc xử sự chung và được Nhà nước đảm bảo thực hiện. Đây là
hình thức pháp luật xuất hiện sớm nhất trong lịch sử và được sử dụng nhiều
trong các Nhà nước chủ nô và phong kiến.
Tiền lệ pháp (án lệ): Là các quyết định của cơ quan hành chính hoặc cơ
quan xét xử được Nhà nước thừa nhận là khuôn mẫu để giải quyết những vụ
việc tương tự. Hình thức này cũng được sử dụng phổ biến trong các Nhà nước
chủ nô và phong kiến, ngày nay hình thức pháp luật này vẫn là nguồn luật chủ
yếu của các quốc gia đi theo truyền thống Pháp Ănglosaxon.
Văn bản quy phạm pháp luật: Là văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền ban hành trong đó có chứa đựng các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc
chung và được áp dụng nhiều lần trong đời sống xã hội. Đây là hình thức pháp
luật tiến bộ nhất nó có khả năng phản ánh một cách khái quát và chính xác các
quan hệ xã hội và nó được trình bày chặt chẽ, lôgíc và rõ ràng dễ hiểu.
V. PHÁP LUẬT NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM
1. Bản chất của pháp luật nước CHXHCN VN
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, giai cấp công nhân và nhân dân
lao động ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nhanh chóng xóa bỏ hệ thống
pháp luật cũ, xây dựng một hệ thống pháp luật của giai cấp mình để kịp thời điều
chỉnh các quan hệ xã hội trong điều kiện mới, trấn áp các phần tử chống đối
cách mạng, tổ chức xây dựng một xã hội mới - xã hội XHCN.
Xét ở góc độ chung bản chất pháp luật nước ta cũng thể hiện tính giai cấp
và tính xã hội. Bản chất đó của pháp luật được quyết định bởi cơ sở kinh tế,
chính trị, xã hội trong xã hội mới thể hiện ở những điểm sau:
Pháp luật nước ta thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Đây là nét khác biệt cơ bản của pháp luật XHCN nói chung cũng như pháp
luật nước ta nói riêng so với các kiểu pháp luật trước đó. Các kiểu pháp luật
trước đây ở nước ta thể hiện ý chí của thiểu số giai cấp bóc lột, bị chi phối bởi
cơ sở kinh tế sở hữu tư nhân nhỏ lẻ và là công cụ bảo vệ lợi ích cho thiểu số ấy.
Trái lại, pháp luật nước ta thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, chiếm tuyệt đại đa số trong dân cư và quan trọng hơn là hệ thống pháp
luật ấy được xây dựng trên nền tảng kinh tế của xã hội mới. Mặc dù trong thòi kỳ
đổi mới pháp luật nước ta đã có sự thay đổi cơ bản so với trước đây cho phù
hợp với thực tiễn của đất nước và quá trình hội nhập nhưng bản chất của pháp
luật vẫn là công cụ thể hiện ý chí của tuyệt đại đa số dân cư trong xã hội.
Pháp luật nước ta là công cụ bảo đảm thực hiện quyền lực, quyền làm chủ
của nhân dân lao động. Chúng ta biết rằng pháp luật là do Nhà nước ban hành
và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế. Chính pháp luật sẽ là công cụ
thực sự đảm bảo cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã
hội. Quyền làm chủ của nhân dân chỉ thực sự khi nó được nghi nhận trong các
văn bản pháp luật, đặc biệt là Hiến pháp - văn bản có giá trị pháp lý cao nhất.
Pháp luật nước ta là sự thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng Cộng
sản. Ở nước ta vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản là tất yếu khách quan, vai
trò ấy đã được thực tiễn chứng minh. Tuy nhiên, sự lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước và xã hội thông qua đường lối, chính sách của Đảng được ghi nhận
trong các nghị quyết. Để đường lối, chính sách của Đảng trực tiếp đi vào đời
sống xã hội phải được Nhà nước cụ thể hóa thành pháp luật. Đường lối chính
sách của Đảng là kim chỉ nam chỉ đạo phương hướng xây dựng pháp luật, nội
dung của pháp luật và chỉ đạo việc thực hiện pháp luật.
2. Hình thức của pháp luật nước ta
Như đã nói trên, hình thức của pháp luật là cách thức mà giai cấp thống trị
sử dụng để thể hiện ý chí của mình thành pháp luật. Trong lịch sử giai cấp thống
trị đã sử dụng ba hình thức pháp luật cơ bản bao gồm: Tập quán pháp, tiền lệ
pháp và văn bản quy phạm pháp luật.
Trong các hình thức trên của pháp luật thì ở nước ta chỉ thừa nhận một
hình thức pháp luật duy nhất đó là văn bản quy phạm pháp luật, hình thức pháp
luật tiến bộ nhất vì những đặc điểm ưu việt của nó so với hai hình thức pháp luật
kia. Nói như vậy không có nghĩa là ở nước ta phủ định một cách sạch trơn tập
quán pháp và tiền lệ pháp. Đặc biệt là trong thời kỳ đầu cách mạng mới thành
công, hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh thì các hình thức này vẫn được áp
dụng giải quyết dưới các hình thức khác nhau. Trong giai, đoạn hiện nay, các
tổng kết thực tiễn hoạt động áp dụng pháp luật vẫn có ý nghĩa nhất định đối với
các cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật. Như vậy, có thể nhận xét rằng
văn bản quy phạm pháp luật là hình thức pháp luật duy nhất ở nước ta nhưng
các hình thức pháp luật khác vẫn có giá trị tham khảo.
Chương 4. QUY PHẠM PHÁP LUẬT
I. KHÁI NIỆM QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1. Khái niệm quy phạm
Để tồn tại và phát triển con người buộc phải liên kết với nhau thành những
cộng đồng, đó là môi trường tồn tại của mỗi cá nhân trong xã hội. Tính cộng
đồng của đời sống xã hội loài người xuất hiện nhu cầu phải phối hợp, quy tụ
hoạt động của những cá nhân riêng lẻ theo những định hướng nhất định, để đạt
được mục đích nhất định, nghĩa là nhu cầu điều chỉnh mối quan hệ giữa người
với người. Cho nên, điều chỉnh mối quan hệ giữa người với người trong cộng
đồng xã hội là tất yếu khách quan, xã hội càng phát triển thì nhu cầu điều chỉnh
lại càng cao. Từ yêu cầu khách quan đó mà từng bước hình thành quy tắc của
hành vi. Các quy tắc của hành vi, đó chính là quá trình tích lũy tri thức và kinh
nghiệm. Đó là các quy tắc chứa đựng sự thống nhất của các nhân tố khách quan
và chủ quan. Khách quan vì nó phản ánh quy luật vận động của tự nhiên và xã
hội, chủ quan vì đây là sự nhận thức của cá nhân hay cộng đồng người đối với
quy luật đó, kết quả suy cho cùng là vì lợi ích của chủ thể nhận thức.
Như vậy, quy tắc của hành vi đó chính là quy phạm được hình thành từ sự
tác động của quy luật khách quan và sự nhận thức chủ quan, hai yếu tố đó quyết
định nội dung ý chí của quy phạm. Vậy, quy phạm là quy tắc, khuôn mẫu của
hành vi mà các chủ thể phải tuân thủ trong đời sống xã hội. Sở dĩ có thể đưa ra
được những cách xử sự mẫu để điều chỉnh hành vi của con người là vì:
- Hành vi của con người thường mang tính tái diễn, lặp đi, lặp lại trong
những điều kiện hoàn cảnh nhất định, mà những điều kiện hoàn cảnh đó của đời
sống xã hội lại diễn ra theo quy luật nên có thể dự kiến được những cách thức
xử sự của họ khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh đó.
- Một người bình thường thì hoạt động của họ là hoạt động có lý trí và có
tự do ý chí, nghĩa là họ nhận thức và điều khiển được hành vi của mình. Chính
vì vậy, có thể đưa ra trước một cách xử sự mẫu để buộc mọi người khi ở vào
điều kiện hoàn cảnh ấy đều phải lựa chọn cánh thức xử sự đó.
Trong quá trình hoạt động, con người có mối quan hệ với tự nhiên và quan
hệ giữa người với người, chính quan hệ đó đã hình thành hai nhóm quy phạm.
Nếu mối quan hệ giữa con người với tự nhiên sẽ hình thành nên các quy phạm
kỹ thuật, là loại quy phạm dựa trên nhận thức về các quy luật của tự nhiên, Nếu
mối quan hệ giữa người với người sẽ hình thành nên các quy phạm xã hội, là
loại quy phạm dựa trên sự nhận thức về các quy luật vận động và phát triển của
xã hội. Sự phân định trên cho ta biết được hậu quả của việc vi phạm quy phạm.
Không tuân thủ quy phạm kỹ thuật sẽ bị phản ứng từ phái tự nhiên, hơn nữa quy
phạm kỹ thuật cũng tồn tại trong môi trường xã hội, nên việc không tuân thủ các
quy tắc ấy chẳng những ảnh hưởng đến lợi ích của người vi phạm mà còn ảnh
hưởng đến các thành viên khác trong xã hội (Ví dụ: Khai thác rừng bừa bãi,
không tuân thủ các quy tắc sử dụng điện...). Không tuân thủ các quy phạm xã
hội sẽ gây nên sự phản ứng của xã hội, của cộng đồng... Ví dụ: Không tuân thủ
các quy tắc giao thông sẽ gây nên hậu quả... Do đó, không được đối lập quy
phạm kỹ thuật và quy phạm xã hội cũng như không được đồng nhất giữa chúng,
vì ý nghĩa giai cấp, xã hội của chúng có những nét khác nhau.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng, quy phạm là phương tiện đăng tải các
lượng thông tin về những tình huống hợp lý của các hành vi xác định, là một
trong những khả năng điều chỉnh hành vi của con người. Nó có những đặc điểm
sau:
- Quy phạm là khuôn mẫu của hành vi.
- Hình thành dựa trên sự nhận thức các quy luật tự nhiên và xã hội.
- Nội dung của quy phạm phản ánh chức năng điều chỉnh hành vi nên nó
có cấu trúc xác định bao gồm các bộ phận: thông tin về trật tự hoạt động, thông
tin về các điều kiện của hoạt động và thông tin về hậu quả khi vi phạm.
Vậy, quy phạm là mệnh lệnh có ý chí, mang tính điều chỉnh dựa trên cơ sở
phản ánh các quy luật khách quan, chứa đựng thông tin về một trật tự hợp lý của
hoạt động trong một điều kiện nhất định.
2. Khái niệm và đặc điểm của quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật là yếu tố đầu tiên xây dựng xiên hệ thống pháp luật,
tương tự như ngôi nhà được xây lên từ những viên gạch. Quy phạm pháp luật là
hiện tượng ý thức, không phải là hiện tượng vật chất, khi nó được biểu thị trên
giấy, dưới hình thức văn bản pháp luật, thì nó có hình thức vật chất. Hình thức
vật chất này chính là các điều ghi trong văn bản quy phạm pháp luật, bằng
phương tiện ngôn ngữ biểu thị các quy phạm pháp luật. Là một loại quy phạm xã
hội nhưng quy phạm pháp luật có những đặc điểm riêng, thông qua những đặc
điểm này cho chúng ta thấy được sự khác biệt giữa quy phạm pháp luật và các
quy phạm khác.
- Quy phạm pháp luật là quy tắc hành vi có tính bắt buộc chung. Tính bắt
buộc chung của quy phạm pháp luật được hiểu là bắt buộc tất cả nhưng ai nằm
trong điều kiện mà pháp luật đã quy định nghĩa là nó được ban hành không phải
cho một cá nhân, tổ chức cụ thể mà cho tất cả các chủ thể tham gia vào quan hệ
mà nó điều chỉnh. Với tính cách là quy tắc xử sự, quy phạm pháp luật là khuôn
mẫu cho hành vi của con người, nó chỉ dẫn cho mọi người cách thức xử sự
trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định. Tuy nhiên chúng ta cũng cần phải
phân biệt giữa tính bắt buộc chung với tính bắt buộc. Ví dụ: Trong Điều 102 của
BLHS, có quy định về trách nhiệm hình sự của người không cứu qiúp người
trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Trong điều này có chứa đựng quy
phạm pháp luật, quy định tất cả những ai thấy người khác trong tình trạng nguy
hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp, dẫn đến hậu quả chết
người thì sẽ bị trừng phạt. Khi Tòa án kết án một công dân X nào đó vi phạm
Điều 102 thì bản án đó có tính bắt buộc đối với công dân X nhưng không phải là
bắt buộc chung.
- Quy phạm pháp luật là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành
vi của con người. Không chỉ là khuôn mẫu cho hành vi, mà nó còn là tiêu chuẩn
để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của chủ thể tham gia quan hệ đó từ
phía Nhà nước về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong xử sự của các bên.
Ví dụ: 1 cảnh sát hình sự nổ súng làm chết kẻ phạm tội. Vậy việc làm đó có hợp
pháp hay không, có đúng với chức trách nhiệm vụ hay không phải căn cứ vào
quy phạm pháp luật. Như vậy, chúng ta thấy rằng muốn biết hoạt động nào của
chủ thể trong quan hệ hợp pháp hay không hợp pháp phải lấy quy phạm pháp
luật làm tiêu chuẩn đánh giá.
- Quy phạm pháp luật được thể hiện dưới các hình thức xác định. Tính
hình thức ở đây được biểu thị, diễn đạt chính thức nội dung trong các văn bản
quy phạm pháp luật. Cho nên không thể coi là quy phạm pháp luật, nếu không
biết nó xuất phát từ đâu, được biểu thị chính thức trong văn bản nào. Nhờ được
biểu thị dưới hình thức xác định mà quy phạm pháp luật có nội dung rõ ràng,
chính xác, dễ hiểu và áp dụng được trong đời sống.
- Quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyển ban hành và
đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của bộ máy Nhà nước. Là quy
phạm do Nhà nước thừa nhận hoặc ban hành nên quy phạm pháp luật luôn thể
hiện ý chí của giai cấp thống trị, nghĩa là nó chứa đựng trong đó những quan
điểm, tư tưởng chính trị pháp lý của Nhà nước, của lực lượng cầm quyền trong
việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Cơ quan Nhà nước là chủ thể ban hành quy
phạm pháp luật và đảm bảo thực hiện nó nhưng chúng ta cần lưu ý rằng không
phải mọi cơ quan Nhà nước đều có thẩm quyền này mà chỉ những cơ quan nào
do chính quy phạm pháp luật quy định mới có thẩm quyền ban hành quy phạm
pháp luật. Đặc điểm trên là đặc điểm rõ nhất, cơ bản nhất thể hiện sự khác biệt
giữa quy phạm pháp luật và các quy phạm khác.
- Nội dung của quy phạm pháp luật thường được thể hiện dưới dạng cho
phép và bắt buộc. Nghĩa là quy phạm pháp luật chỉ ra quyền và nghĩa vụ pháp lý
cho các bên tham gia quan hệ mà nó điều chỉnh. Cho nên, quy phạm pháp luật
thường chứa đựng những chỉ dẫn về khả năng và các phạm vi có thể xử sự,
cũng như nghĩa vụ cần thiết phải xử sự của các bên trong quan hệ mà nó điều
chỉnh. Các quyền và nghĩa vụ mà quy phạm pháp luật dữ liệu cho các chủ thể
trong quan hệ luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau và phụ thuộc vào tính chất
của quan hệ. Ví dụ: trong quan hệ hợp đồng pháp luật cho phép các bên tự do
thỏa thuận nội dung của hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên, nhưng pháp
luật ngăn cấm việc ép buộc, lừa dối để ký kết hợp đồng. Do vậy, nội dung của
quy phạm pháp luật có chức năng thông báo cho các chủ thể quan hệ nhận biết
được cái gì có thể làm, không được làm, cái gì phải làm và cái gì phải tránh
trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định.
- Quy phạm pháp luật có tính hệ thống. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong các lĩnh vực khác nhau Nhà nước ban hành rất nhiều các quy phạm pháp
luật. Xã hội càng phát triển nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật càng nhiều thì số
lượng các quy phạm pháp luật cũng tăng theo theo tỷ lệ thuận. Tuy nhiên, các
quy phạm ấy không tồn tại một cách biệt lập, riêng rẽ, mà giữa chúng luôn có sự
liên hệ mật thiết với nhau, thống nhất với nhau tạo thành các chế định, ngành
luật và hệ thống pháp luật. Tính hệ thống của quy phạm pháp luật là yếu tố đảm
bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, nếu thiếu đặc tính này thì hệ thống
pháp luật sẽ mâu thuẫn, chồng chéo khó áp dụng và không đảm bảo tính công
bằng.
Như vậy, từ những đặc điểm trên chúng ta có thể hiểu khái niệm quy
phạm pháp luật như sau: Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự có tính bắt buộc
chung, được biểu thị dưới những hình thức nhất định, do Nhà nước ban hành và
đảm bảo thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo những định hướng
nhằm đạt dược mục đích nhất định.
II. CẤU TRÚC CỦA QUY PHẠM PHÁP LUẬT
Nói đến cấu trúc của quy phạm pháp luật là nói đến nội dung của nó.
Chúng ta biết rằng, nội dung của quy phạm nói chung và quy phạm pháp luật nói
riêng phản ánh chức năng điều chỉnh hành vi, nên nó có cấu trúc xác định bao
gồm các bộ phận: thông tin về trật tự hoạt động, thông tin về các điều kiện của
hoạt động và thông tin về hậu quả khi vi phạm. Vậy, cấu trúc của quy phạm pháp
luật là cơ cấu bên trong, là các bộ phận hợp thành quy phạm pháp luật. Cấu trúc
đó hàm chứa những câu hỏi: ai, khi nào, trong những điều kiện, hoàn cảnh nào?
Phải làm gì và không được làm gì? Nếu không làm thì hậu quả như thế nào? Từ
cách tiếp cận này cho chúng ta thấy quy phạm pháp luật có ba bộ phận có quan
hệ mật thiết với nhau bao gồm: Giả định; Quy định và chế tài.
Tuy nhiên, hiện nay trong khoa học pháp lý chưa có sự thống nhất trong lý
luận về các yếu tố cấu thành quy phạm pháp luật, tựu chung lại có hai nhóm
quan điểm cơ bản: Quan điểm thứ nhất cho rằng, cấu trúc của quy phạm pháp
luật bao gồm ba yếu tố cơ bản là giả định, quy định và chế tài; quan điểm thứ hai
lại cho rằng cấu trúc của quy phạm pháp luật chỉ có hai yếu tố là giả định và quy
định hoặc là giả định và chế tài. Sở dĩ tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau như vậy
về cấu trúc của quy phạm pháp luật vì các nhà làm luật có quá nhiều những
cách thức thể hiện chúng.
1. Các yếu tố của cấu trúc quy phạm pháp luật
a. Giả định:
Đời sống xã hội vô cùng phong phú, đa dạng và phức tạp với nhiều tình
huống, hoàn cảnh và điều kiện khác nhau. Nhưng nhà làm luật phải xác định
trong những tình huống (hoàn cảnh, điều kiện) có thể xảy ra trong đời sống xã
hội mà quy phạm pháp luật sẽ tác động tới đối với những chủ thể nhất định. Như
vậy, giả định chính là phần mô tả những tình huống thực tế của nhà làm luật xảy
ra trong quan hệ xã hội mà quy phạm pháp luật sẽ tác động đối với những chủ
thể nhất định. Nên giả định trả lời cho câu hỏi: Ai? Khi nào? Trong những điều
kiện, hoàn cảnh nào?
Ví dụ: Điều 34 Luật HN&GĐ quy định: "Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền
thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc..., chăm lo việc học tập và sự
phát triển lành mạnh của con về thể chất, trí tuệ, đạo đức..." Như vậy, có thể
hiểu giả định như sau: ai ở đây là những người làm cha, làm mẹ; hoặc Điều 90
quy định "Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa
không thành..., thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn" thì giả định chính là: ai?
là vợ và chồng; khi nào? Cùng nhau đồng thuận nộp đơn ra Tòa xin ly hôn; hoàn
cảnh? Hòa giải không thành.
Những tình huống được nhà làm luật nêu ra trong phần giả định của quy
phạm pháp luật vô cùng phong phú. Về hoàn cảnh có thể là những sự kiện liên
quan đến hành vi, sự biến, thời gian, không gian. Về điều kiện có thể là điều kiện
về thời gian, không gian, chủ thể... những điều kiện, hoàn cảnh được dự liệu
trong phần giả định là những tình huống đã, đang và sẽ xảy ra trong cuộc sống,
chúng có thể được nêu khái quát hoặc chi tiết, nhưng phải có tính phổ biến và
điển hình và cần có sự tác động, điều chỉnh của pháp luật. Hơn nữa, những chủ
thể, tình huống nêu trong giả định phải rõ ràng, chính xác, sát với thực tế tránh
tình trạng mập mờ, khó hiểu hoặc hiểu sai lệch nội dung quy phạm. Giả định
chính là phạm vi tác động của quy phạm pháp luật, khi xây dựng pháp luật phải
dự kiến tới mức tối đa những tình huống có thể xảy ra trong đời sống thực tế của
quan hệ pháp luật, tránh những thiếu sót, lỗ hổng của pháp luật.
Giả định của QPPL có thể được xây dựng ở nhiều dạng khác nhau. Khi
căn cứ vào số lượng tình tiết, sự kiện, hoàn cảnh thì ta có giả định đơn giản (chỉ
nêu lên một hoàn cảnh điều kiện). Ví dụ: Điều 9 Luật GTĐB: Người tham gia
giao thông phải đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng phần đường quy
định và phải chấp hành hệ thống báo hiệu đường bộ; hoặc giả định phức tạp
(nêu lên nhiều hoàn cảnh, điều kiện). Trong giả định phức tạp tình huống nêu ra
có thể bằng cách liệt kê (thông thường được nêu trong các nghị định xử phạt
hành chính) hoặc theo cách loại trừ (thông thường được nêu trong Luật Doanh
nghiệp, Luật Hình sự, Luật Tố tụng); Ví dụ: Điều 93 BLHS. Tội giết người (LIỆT
KÊ).
1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết nhiều người;
b) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
c) Giết trẻ em;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
Điều 13. k2 Luật Doanh nghiệp: Tổ chức, cá nhân sau đây không được
quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam (LOẠI TRỪ).
Căn cứ vào khả năng biểu thị ta có giả định cụ thể, là giả định nêu lên các
tình huống hoàn cảnh một cách cụ thể Ví dụ. Điều 2. Cơ sở của trách nhiệm
hình sự "Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải
chịu trách nhiệm hình sự" và giả định trừu tượng, là giả định mà các hoàn cảnh,
tình huống... được nêu khái quát: Ví dụ: K4, Đ8 BLHS quy định. "Những hành vi
tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng
kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác".
b. Quy định:
Nếu giả định của quy phạm pháp luật nêu lên những tình huống có thể xảy
ra trong thực tế mà pháp luật tác động tới, thì quy định sẽ chỉ ra cho chủ thể
(mệnh lệnh của Nhà nước, yêu cầu của pháp luật) quyền và nghĩa vụ (cách thức
xử sự) khi chủ thể rơi vào giả định. Phần quy định sẽ trả lời cho câu hỏi chủ thể
phải làm gì? được làm gì? và không được làm gì? mà giả định đã dự liệu trước.
Có thể nói rằng, phần quy định là linh hồn, là lõi của quy phạm pháp luật,
thể hiện ý chí của Nhà nước đối với chủ thể khi rơi vào giả định. Chính giả định
đã chỉ rõ cho chủ thể phải làm theo yêu cầu của pháp luật, nghĩa là khi rơi vào
giả định chủ thể phải xử sự theo yêu cầu của phần quy định của quy phạm pháp
luật mà không được xự sự theo thói quen, sở thích hay suy nghĩ của mình. Xử
sự của chủ thể theo quy định của pháp luật không những đảm bảo lợi ích cho
toàn xã hội mà còn vì lợi ích của chính chủ thể.
Phần quy định của quy phạm pháp luật thường được nêu ở dạng mệnh
lệnh như: Cấm, không được, phải, thì, có, được... Do vậy, yêu cầu của phần quy
định phải chính xác, rõ ràng, chặt chẽ, dễ hiểu, ngắn gọn và có khả năng thực
hiện được trên thực tế. Những yêu cầu của pháp luật đối với chủ thể được nêu
trong quy định có thể là:
- Xử sự mà chủ thể được phép thực hiện hoặc không được thực hiện.
- Những lợi ích vật chất hoặc tinh thần mà chủ thể được hưởng.
- Những xử sự mà chủ thể phải làm và thậm chí là làm như thế nào.
Như vậy, có thể nói phần quy định của quy phạm pháp luật chính là tổng
hợp các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà chủ thể được hưởng hoặc phải thực
hiện.
Căn cứ vào tính chất, phương pháp tác động:
Quy định dứt khoát: Chỉ nêu ra một cách thức xử sự và buộc chủ thể phải
thực hiện mà không có sự lựa chọn. Ví dụ: Điều 9 Luật GTĐB: "Người tham gia
giao thông phải đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng phần đường quy
định và phải chấp hành hệ thống báo hiệu đường bộ.".
Quy định tùy nghi: Là quy định nêu ra hai hoặc nhiều cách thức xử sự
khác nhau và cho phép chủ thể có thể lựa chọn cho mình cách thực xử sự thích
hợp từ những cách thức đã nêu. Ví dụ: Điều 255 BLDS. Các biện pháp bảo vệ
quyền sở hữu: "Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cẩu Tòa
án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm
quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở
trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi
thường thiệt hại".
Quy định giao quyền: Là quy định mà nội dung trực tiếp xác định quyền
hạn của cá nhân hay tổ chức nào đó:
Ví dụ: Điều 162 Luật Doanh nghiệp. Trách nhiệm quản lý Nhà nước đối
với doanh nghiệp:
1. Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp; chỉ định
một cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ chủ trì phối hợp với các Bộ,
ngành khác thực hiện quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp.
Điều 4 BLHS. Trách nhiệm đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
1. Các cơ quan Công an, Kiểm sát, Tòa án, Tư pháp, Thanh tra và các cơ
quan hữu quan khác có trách nhiệm thi hành đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của
mình, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức,
công dân đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, giám sát và giáo dục người
phạm tội tại cộng đồng.
c. Chế tài:
Nếu quy định là quyền và nghĩa vụ mà chủ thể phải xử sự theo yêu cầu
của pháp luật khi rơi vào giả định thì chẽ tài là hậu quả pháp lý khi chủ thể không
thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ các yêu cầu của quy định, cụ thể
là không thực hiện nghĩa vụ mà phần quy định yêu cầu. Chế tài là sự phản ứng
của Nhà nước đối với chủ thể vi phạm pháp luật hoặc vì lợi ích chung của xã hội,
là một trong những biện pháp quan trọng để đảm bảo cho các quy định của pháp
luật được thực hiện nghiêm minh. Chế tài trả lời cho câu hỏi nếu không tuân thủ
quy định thì phải gánh chịu hậu quả gì? Phần chế tài không chỉ là hậu quả pháp
lý đối với chủ thể vi phạm mà nó còn là sự cảnh báo của Nhà nước đối với chủ
thể khi rơi vào những tình huống được nêu trong giả định.
Cũng tương tự như giả định và quy định, chế tài trong quy phạm pháp luật
còn có chế tài cố định và chế tài không cố định. Chế tài cố định là chế tài trong
đó xác định chính xác, cụ thể biện pháp tác động sẽ áp dụng đối với chủ thể vi
phạm pháp luật, còn chế tài không xác định là chế tài không nêu biện pháp tác
động một cách chính xác, cụ thể, dứt khoát hoặc chỉ quy định mức tối thiểu và tối
đa của biện pháp tác động. Thông thường, chế tài trong quy phạm pháp luật chủ
yếu là chế tài không cố định, bởi vì đời sống xã hội đa dạng, phong phú và phức
tạp về chủ thể vi pham với tính chất, mức độ, lỗi, động cơ, mục đích... khác nhau
nên chế tài không cố định sẽ phù hợp và công bằng hơn.
Cách thức thể hiện chế tài trong quy phạm pháp luật cũng khác nhau vì
những mục đích khác nhau: có thể chế tài mang tính chất trừng trị, giáo dục,
nhưng cũng có thể chế tài mang tính chất khôi phục, khắc phục những hậu quả
nhằm giảm bớt những thiệt hại do vi phạm pháp luật gây ra.
2. Cách thức thể hiện quy phạm pháp luật trong các văn bản quy phạm pháp luật
Như đã đề cập ở trên hiện nay còn có nhiều cách hiểu khác nhau về cấu
trúc của quy phạm pháp luật. Mỗi quan điểm đều có những cơ sở lý luận khác
nhau, nhưng nếu nhìn vào cách thức thể hiện quy phạm pháp luật trong các văn
bản pháp luật, nhìn vào thực tiễn các quy phạm tác động vào các quan hệ xã hội
thì chúng ta thấy rằng quan điểm cho rằng quy phạm pháp luật bao gồm hai yếu
tố hoặc là giả định và quy định hoặc là giả định và chế tài thì có cơ sở hơn quan
điểm khác.
Để đảm bảo tính lôgíc, chặt chẽ đòi hỏi các quy phạm pháp luật phải được
trình bày theo một kết cấu: “Nếu... thì”. "Nếu: ở đây là giả định, còn "thì" có thể là
quy định hoặc chế tài. Tuy nhiên, trong các quy định của pháp luật không phải
bao giờ cũng có cách thức biểu đạt như vậy, thực tiễn trình bày các quy phạm
pháp luật rất đa dạng, trong nhiều trường hợp quy phạm pháp luật trùng hợp với
các điều trong văn bản quy phạm pháp luật. Đó là một quy phạm cũng là một
điều duy nhất trong văn bản. Ví dụ: Điều 2 BLHS. Cơ sở của trách nhiệm hình
sự: "Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu
trách nhiệm hình sự".
Nhưng cũng có nhiều trường hợp trong một điều của văn bản gồm có
nhiều quy phạm pháp luật, chúng gắn bó liên kết với nhau và cùng điều chỉnh
một lĩnh vực. Ví dụ: Điều 62 BLHS. Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù: 1.
Người đang chấp hành hình phạt tù mà thuộc một trong các trường hợp quy định
tại Khoản 1 Điều 61 (hoãn chấp hành hình phạt tù) của Bộ luật này, thì có thể
được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.
Hơn nữa, trật tự trình bày các bộ phận của quy phạm pháp luật cũng trong
một điều luật có thể thay đổi chứ không nhất thiết phải từ giả định đến quy định
hoặc chế tài. Cũng khó có thể nói là cách thức nào thể hiện tốt hơn mà tùy từng
trường hợp cụ thể có thể có trường hợp diễn đạt một quy phạm trong một điều
thì tốt hơn nhưng cũng có trường hợp diễn đạt nhiều quy phạm trong một điều
lại tốt hơn.
Nhìn chung, có ba phương pháp thể hiện quy phạm pháp luật trong một
điều luật,
- Phương pháp thể hiện trực tiếp: Là phương pháp mà tất cả các thành
phần của quy phạm pháp luật trực tiếp thể hiện trong điều luật của văn bản.
phần lớn các quy phạm pháp luật dược thể hiện theo phương pháp này.
Ví dụ: Điều 2 BLHS. Cơ sở của trách nhiệm hình sự: "Chỉ người nào phạm
một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự".
- Phương pháp viện dẫn: Là phương pháp mà thành phần này hay thành
phần khác của quy phạm pháp luật không được diễn đạt đầy đủ, trực tiếp trong
điều của văn bản mà được chỉ ra trong các điều khác trong văn bản pháp luật đó
hoặc văn bản khác.
Ví dụ: Điều 62 BLHS. Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù:
1. Người đang chấp hành hình phạt tù mà thuộc một trong các trường hợp
quy định tại Khoản 1 Điều 61 (hoãn chấp hành HIẾN PHÁP tù) của Bộ luật này,
thì có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.
- Phương pháp thể hiện mẫu: Phương pháp này không viện dẫn cụ thể
đến điều nào như phương pháp trên mà nó chỉ đưa ra phương hướng chung để
tham khảo một văn bản nào đó đang hiện hành. Khác với phương pháp viện dẫn
là chỉ ra điều luật cụ thể còn phương pháp này chỉ nói chung là cần phải tham
khảo, nghiên cứu Luật nào.
Ví dụ: Điều 3 BLDS. Áp dụng tập quán, quy định tương tự của pháp luật:
Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa
thuận thì có thể áp dụng tập quán; nếu không có tập quán thì áp dụng quy định
tương tự của pháp luật. Tập quán và quy định tương tự của pháp luật không
được trái với những nguyên tắc quy định trong Bộ luật này.
Điều 12. Nguyên tắc hòa giải:
Trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa các bên phù hợp với quy định
của pháp luật được khuyến khích.
Tóm lại, trong ba phương pháp trên thì phương pháp diễn đạt trực tiếp là
tốt nhất, vì nó cụ thể và đầy đủ. Nhưng trong trường hợp tránh sự dài dòng, lặp
lại, súc tích thì phương pháp viện dẫn hoặc phương pháp thể hiện mẫu lại tốt
hơn.
III. PHÂN LOẠI QUY PHẠM PHÁP LUẬT
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự để điều chỉnh các chủ thể trong quan
hệ xã hội. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội phong phú và đa dạng đòi hỏi quy
phạm pháp luật cũng có nhiều loại khác nhau cho phù hợp với đối tượng mà nó
điều chỉnh. Có nhiều căn cứ khác nhau để phân loại quy phạm pháp luật nhưng
nhìn vào hệ thống pháp luật chung ta có thể phân loại quy phạm pháp luật như
sau:
1. Căn cứ vào đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của quy
phạm có thể phân chia QPPL thành các nhóm lớn như ngành luật (hình sự, hành
chính, dân sự) hoặc chế định luật.
2. Căn cứ vào nội dung của QPPL có thể phân chia QPPL thành: QPPL
điều chỉnh và QPPL bảo vệ.
- QPPL điều chỉnh: là quy phạm có nội dung trực tiếp điều chỉnh hành vi
của các chủ thể pháp luật. Quy phạm điều chỉnh bao gồm: quy phạm bắt buộc;
quy phạm cấm đoán và quy phạm cho phép. (Nó thường bao gồm giả định và
quy định).
Ví dụ: Điều 401 BLDS. Hình thức hợp đồng dân sự.
2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện
bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì
phải tuân theo các quy định đó. (bắt buộc).
Điểu 13 LDN. Quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần và quản lý doanh
nghiệp:
1. Tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền
thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật này. (cho
phép).
- QPPL bảo vệ: Là quy phạm xác định các biện pháp cưỡng chế mang
tính Nhà nước đối với các chủ thể không thực hiện đúng phần quy định. (Nó
thường bao gồm giả định và chế tài).
Ví dụ: Điều 165 LDN. Xử lý vi phạm:
1. Người có hành vi vi phạm các quy định của Luật này thì tùy theo tính
chất và mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; trường hợp gây thiệt hại đến
lợi ích của doanh nghiệp, chủ sở hữu, thành viên, cổ đông, chủ nợ của doanh
nghiệp hoặc người khác thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
2. Doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và bị xóa
tên trong sổ đăng ký kinh doanh trong các trường hợp sau đây:
a) Nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký kinh doanh là giả mạo;
b) Doanh nghiệp do những người bị cấm thành lập doanh nghiệp theo
Khoản 2 Điều 13 của Luật này thành lập;
c) Không đăng ký mã số thuế trong thời hạn một năm kể từ ngày được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
3. Căn cứ vào hình thức mệnh lệnh nêu trong phần quy định của QPPL có
thể phân chia QPPL thành: QPPL dứt khoát, QPPL không dứt khoát và QPPL
hướng dẫn.
- QPPL dứt khoát: Là quy phạm mà trong đó phần quy định chỉ nêu lên
một cách xử sự duy nhất.
Ví dụ: Điều 401 BLDS. Hình thức hợp đồng dân sự.
Khoản 2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể
hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép
thì phải tuân theo các quy định đó. (dứt khoát)
- QPPL không dứt khoát: Là quy phạm mà trong đó phần quy định của
QPPL nêu lên hai hoặc nhiều cách thức xử sự khác nhau và cho phép chủ thể
lựa chọn một trong các cách thức xử sự đó.
Ví dụ: Điều 401 BLDS. Hình thức hợp đồng dân sự.
Khoản 1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn
bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó
phải được giao kết bằng một hình thức nhất định, (không dứt khoát)
- QPPL hưởng dẫn: Là quy phạm trong đó phần quy định của QPPL
thường đưa ra những khuyên nhủ, hướng dẫn các chủ thể tự giải quyết một số
công việc nhất định.
4. Căn cứ vào nội dung, tác dụng của QPPL có thể phân chia QPPL
thành: QPPL nội dung và QPPL hình thức.
- QPPL nội dung là quy phạm xác định các quyền và nghĩa vụ hay trách
nhiệm của các chủ thể.
- QPPL hình thức là quy phạm xác định trình tự, thủ tục để cho các chủ
thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình hoặc tiến hành áp dụng pháp luật.
Chương 5. HỆ THỐNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM
I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1. Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL)
Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do
Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện. So với các quy tắc khác trong xã hội
pháp luật luôn được thể hiện dưới hình thức xác định, nghĩa là nó luôn được ghi
nhận thành văn bản. Như vậy, văn bản nào có chứa đựng các quy phạm pháp
luật sẽ được gọi là VBQPPL, là hình thức của pháp luật. Như chúng ta đã đề cập
trong chương 3, hình thức của pháp luật không chỉ có VBQPPL mà còn có tập
quán pháp và tiền lệ pháp, đó là các cách thức mà giai cấp thống trị sử dụng để
thể hiện ý chí của mình thành pháp luật. Tuy nhiên, hình thức tập quán pháp và
tiền lệ pháp nó có nhiều nhược điểm so với VBQPPL, tập quán pháp thì ít biến
đổi và mang tính cục bộ, còn tiền lệ pháp dễ tạo ra sự tùy tiện, không phù hợp
với nguyên tắc pháp chế. Ở nước ta, VBQPPL được thừa nhận là hình thức
(nguồn) pháp luật cơ bản nhất vì những tiến bộ của nó so với hai hình thức kia,
sự tiến bộ đó được thể hiện ở phạm vi tác động, tính đồng bộ cũng như tính phù
hợp của VBQPPL.
Vậy, văn bản quy phạm pháp luật là hình thức của pháp luật, do cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền ban hành, sửa đổi hoặc hủy bỏ theo thủ tục luật định,
trong đó có chứa đựng quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
và được áp dụng nhiều lần trong thực tế.
2. Đặc điểm của VBQPPL
Từ khái niệm nói trên cho thấy VBQPPL có những đặc điểm sau:
- Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức của pháp luật nước ta. Ở nước
ta chỉ có VBQPPL mới được coi là hình thức của pháp luật, hay nói cách khác
chúng ta không thừa nhận tập quán pháp và tiền lệ pháp là hình thức của pháp
luật. Mặc dù, trong thực tiễn áp dụng pháp luật những hình thức này vẫn có giá
trị tham khảo đối với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Do vậy, chủ thể có thẩm
quyền áp dụng pháp luật khi giải quyết những công việc thuộc thẩm quyền phải
dựa vào các quy định trong VBQPPL làm cơ sở pháp lý để giải quyết công việc.
- VBQPPL do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. Đặc điểm này
cho ta khẳng định rằng VBQPPL do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành
nhưng không phải mọi cơ quan Nhà nước đều có thẩm quyền ban hành
VBQPPL. Ở đây tác giả muốn nhấn mạnh đến hai từ "thẩm quyền", nghĩa là chỉ
một số cơ quan trong hệ thống các cơ quan trong bộ máy Nhà nước mới có
thẩm quyền ban hành VBQPPL. Sở dĩ chỉ có một số cơ quan có "thẩm quyền"
trong bộ máy Nhà nước mới có thẩm quyền ban hành VBQPPL là bởi VBQPPL
là văn bản thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng và hơn nữa nó có phạm
vi chủ thể tác động cũng như lĩnh vực mà nó điều chỉnh có quy mô rộng khắp và
ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội. Cho nên, trong hệ thống cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền ban hành VBQPPL luôn chiếm thiểu số về số lượng so với
cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật.
- VBQPPL luôn chứa đựng các quy phạm pháp luật. Văn bản có thể do
nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội ban hành trong đó có các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền nhưng không được gọi là VBQPPL. Để được coi là
VBQPPL thì trong đó phải chứa đựng các quy phạm pháp luật, nghĩa là văn bản
đó có giá trị bắt buộc các chủ thể trong phạm vi chủ quyền quốc gia và được
Nhà nước đảm bảo thực hiện. Đặc điểm này cho thấy trong thực tiễn cơ quan
Nhà nước không chỉ ban hành VBQPPL mà còn ban hành các văn bản khác (lời
kêu gọi, hiệu triệu, văn bản áp dụng pháp luật...) nhưng trong các văn bản ấy
không có tính bắt buộc chung, không chứa đựng quy phạm pháp luật.
- VBQPPL có tên gọi, nội dung và trình tự ban hành theo luật định. Pháp
luật là một hệ thống các quy tắc có tính thống nhất nội tại cao. Để đảm bảo tính
thống nhất của pháp luật nhằm phát huy vai trò của nó trong việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội thì yêu cầu tất yếu khách quan đặt ra là cũng cần một hệ thống
các VBQPPL để chứa đựng hệ thống quy tắc ấy. Xuất phát từ yêu cầu khách
quan ấy mà mỗi loại VBQPPL trong hệ thống VBQPPL phải có tên gọi, nội dung
và trình tự ban hành khác nhau, sự khác nhau ấy không chỉ là yếu tố cần thiết
nhằm đảm bảo tính thống nhất, tính đồng bộ của hệ thống pháp luật. Ví dụ: cũng
là VBQPPL nhưng Hiến pháp có nội dung và trình tự ban hành khác với các văn
bản Luật, Pháp lệnh, Nghị định... về tên gọi, nội dung, trình tự ban hành các
VBQPPL khác nhau xuất phát từ cơ quan ban hành cũng như lĩnh vực, phạm vi
mà văn bản ấy tác động tới.
Trong hoạt động của mình, cơ quan Nhà nước không chỉ ban hành
VBQPPL mà còn nhiều văn bản khác. Trong đó chủ yếu là văn bản áp dụng
pháp luật. Việc phân biệt hai loại văn bản này không chỉ có ý nghĩa trong lý luận
mà còn trong hoạt động thực tiễn. Dưới đây là một số tiêu chí so sánh hai loại
văn bản này:
SO SÁNH
TIÊU CHÍ VBQPPL VBADPL
GIỐNG Chủ thể
- Do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban
hành, theo trình tự luật định.
- Được Nhà nước đảm bảo thực hiện.
KHÁC
Cơ sở ban hành Quan hệ xã hội Quy phạm PL
Nội dung, phạm vi
tác động
Chứa đựng quy tắc xử
sự mang tính bất buộc
chung đối với mọi người
Cụ thể hóa quy tắc xử
sự và chỉ áp dụng đối
với 1 chủ thể nhất
định
Hiệu lực
Áp dụng nhiều lần không
làm mất hiệu lực pháp lý
Áp dụng một lần,
chấm dứt hiệu lực
pháp lý
Chủ thể thực hiệnKhông xác định cụ thể Xác định cụ thể
Trình tự ban hànhPhức tạp hơn (về chủ
thể, về trình tự...)
Đơn giản hơn
Tên gọi Đa dạng Không đa dạng
II. NGUYÊN TẮC VÀ TRÌNH TỰ BAN HÀNH VĂN BẢN QPPL Ở NƯỚC TA
1. Nguyên tắc ban hành VBQPPL
Hoạt động ban hành VBQPPL là một hình thức thực hiện quyền lực của
Nhà nước, hoạt động này phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định, đó là
những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo quá trình ban hành VBQPPL mà cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền phải tuân theo. Có thể đưa ra những nguyên tắc trong
quá trình ban hành VBQPPL bao gồm:
- Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng: Đảng Cộng sản VN là lực
lượng lãnh đạo duy nhất Nhà nước và xã hội. Thông qua hoạt động ban hành
VBQPPL mà đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng được thể chế hóa
thành pháp luật.
- Nguyên tắc khách quan: Nguyên tắc này đòi hỏi VBQPPL phải được ban
hành phù hợp với các quy luật khách quan. Vì vậy, trong quá trình soạn thảo
VBQPPL cần thu hút các nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau tham gia
để nâng cao hiệu quả của VBQPPL.
- Nguyên tắc dân chủ: Nguyên tắc này đòi hỏi mở rộng sự tham gia của
nhân dân và các tổ chức chính trị xã hội về việc lấy ý kiến của họ khi ban hành
VBQPPL.
- Nguyên tắc pháp chế: Nguyên tắc này đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền
ban hành VBQPPL phải ban hành văn bản đúng hình thức pháp lý, thẩm quyền
theo quy định của pháp luật. VBQPPL được ban hành phải phù hợp với Hiến
pháp, bảo đảm tính thống nhất, thứ bậc hiệu lực pháp lý của văn bản trong hệ
thống pháp luật, VBQPPL do các cơ quan Nhà nước cấp dưới ban hành phải
phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên,
VBQPPL trái với Hiến pháp, trái với văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên
phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bãi bỏ, đình chỉ việc thi hành.
Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 đã cụ thể hóa các
nguyên tắc ban hành văn bản QPPL như sau:
- Thứ nhất, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn
bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật. Một trong những yêu cầu
quan trọng hàng đầu của việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
là tạo ra được một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thống nhất, đồng bộ,
bảo đảm tuân thủ tính tối cao của Hiến pháp và được ban hành theo đúng các
quy định của pháp luật. Bởi vậy, nguyên tắc quan trọng nhất mà các cơ quan
tham gia vào hoạt động soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần
phải tuân thủ là bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn
bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật.
- Thứ hai, tuân thủ thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban
hành văn bản quy phạm pháp luật. Nguyên tắc này đặt ra yêu cầu văn bản quy
phạm pháp luật phải được ban hành đúng thẩm quyền, tức là chỉ có các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo quy định
và trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình mới được ban hành
văn bản dưới các hình thức tương ứng với thẩm quyền ban hành. Quá trình
soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm tuân thủ đúng
trình tự, thủ tục như thành lập ban soạn thảo, lấy ý kiến nhân dân, thẩm định,
thẩm tra...
- Thứ ba, bảo đảm tính công khai trong quá trình xây dựng, ban hành văn
bản quy phạm pháp luật trừ trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có nội
dung thuộc bí mật Nhà nước; bảo đảm tính minh bạch trong các quy định của
văn bản quy phạm pháp luật.
- Thứ tư, bảo đảm tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật. Để văn
bản quy phạm pháp luật thực sự đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước, là công cụ
hiệu quả trong hoạt động quản lý, điều hành thì một trong những yêu cầu quan
trọng là văn bản đó phải bảo đảm tính khả thi cao.
- Thứ năm, không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Đây là một nguyên tắc rất quan
trọng trong việc bảo đảm tính phù hợp, thống nhất, đồng bộ của văn bản quy
phạm pháp luật với các điều ước quốc tế có liên quan mà nước ta đã ký kết
hoặc gia nhập.
2. Trình tự ban hành VBQPPL
Trình tự ban hành VBQPPL là một quá trình bao gồm các động tác, thủ tục
cần thiết diễn ra trong một thời gian nhất định để tạo ra VBQPPL mới. Trình tự
ban hành các văn bản QPPL không giống nhau nhưng tựu trung lại bao gồm các
giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1: Lập chương trình ban hành VBQPPL mới hoặc sửa đổi
VBQPPL hiện hành và thông qua quyết định về soạn thảo VBQPPL. Giai đoạn
này phải chỉ rõ cơ quan có có trách nhiệm soạn thảo văn bản đó.
- Giai đoạn 2: Soạn thảo và thẩm tra văn bản VBQPPL. Giai đoạn này bao
gồm các công việc như soạn theo văn bản, thảo luận sơ bộ, lấy ý kiến của nhân
dân, tổ chức hữu quan, thuyết minh về dự thảo được chính thức trình ra cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền.
- Giai đoạn 3: Thảo luận, tiếp thu, chỉnh lý và thông qua dự thảo VBQPPL
ở cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đây là giai đoạn quan trọng và có tính chất
quyết định của quá trình ban hành VBQPPL.
- Giai đoạn 4: Công bố VBQPPL. Giai đoạn này đòi hỏi phải tuân thủ các
quy định của Luật ban hành VBQPPL. Các văn bản VBQPPL thì việc công bố
cũng khác nhau. Mục đích của việc công bố là để xác định hiệu lực pháp lý của
VBQPPL.
III. HỆ THỐNG VBQPPL Ở NƯỚC TA
Trước đây, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật của nước ta bao gồm hơn 20 loại văn bản,
do nhiều cơ quan có thẩm quyền khác nhau ban hành; mỗi cơ quan ban hành từ
2 đến 3 loại văn bản. Điều này làm cho hệ thống văn bản quy phạm pháp luật rất
phức tạp, việc theo dõi, áp dụng và xác định thứ bậc hiệu lực của văn bản quy
phạm pháp luật gặp không ít khó khăn, đặc biệt là khó xác định được khi nào, về
vấn đề gì thì cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới hình thức nào.
Nhằm khắc phục tình trạng nêu trên, đơn giản hóa hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật, hiện nay luật quy định một số cơ quan có thẩm quyền ban hành
văn bản chỉ ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới một hình thức văn bản.
Theo đó, Chính phủ chỉ ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới một hình
thức - Nghị định, thay vì Nghị quyết và Nghị định; Thủ tướng Chính phủ chỉ ban
hành văn bản quy phạm pháp luật dưới một hình thức - Quyết định, thay vì Chỉ
thị và Quyết định; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Viện trưởng Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chỉ ban hành văn
bản quy phạm pháp luật dưới một hình thức - Thông tư, thay vì Quyết định, Chỉ
thị, Thông tư như trước đây.
Để phù hợp với quy định của Luật Kiểm toán, Luật Bổ sung thẩm quyền
của Tổng Kiểm toán Nhà nước trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật
dưới hình thức quyết định.
Bên cạnh đó, Luật cũng quy định hướng giải quyết đối với Nghị quyết của
Chính phủ, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định, Chỉ thị của Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ; văn bản liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ với cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị - xã hội
được ban hành trước khi Luật có hiệu lực. Theo đó, các văn bản này vẫn tiếp tục
có hiệu lực cho đến khi bị bãi bỏ, hủy bỏ hoặc được thay thế bằng văn bản quy
phạm pháp luật khác.
Hệ thống VBQPPL ở nước ta theo Hiến pháp 1992 và Luật ban hành
VBQPPL năm 2008 bao gồm các loại văn bản từ cao đến thấp, tạo thành một
chỉnh thể đồng bộ và thống nhất. Hệ thống ấy bao gồm các loại văn bản sau đây:
- Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội.
- Pháp lệnh, Nghị quyết của ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Lệnh, Quyết định của Chủ tịch Nước.
- Nghị định của Chính phủ.
- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
- Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thông tư
của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
- Thông tư của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
- Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ.
- Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước.
- Nghị quyết liên tịch giữa ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính
phủ với cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị - xã hội.
- Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao; giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ.
Căn cứ vào hiệu lực pháp lý và trình tự ban hành, hệ thống VBQPPL nói
trên được chia ra thành: văn bản luật và văn bản dưới luật.
1. Văn bản luật
Là VBQPPL do Quốc hội, cơ quan có thẩm quyền cao nhất ban hành. Đây
là loại văn bản có giá trị pháp lý cao nhất và có thủ tục ban hành được quy định
chặt chẽ trong Hiến pháp và Luật ban hành VBQPPL. Văn bản luật bao gồm
Hiến pháp và Luật (bộ luật).
- Hiến pháp (bao gồm Hiến pháp và các đạo luật về bổ sung hoặc sửa đổi
Hiến pháp): là văn bản do Quốc hội ban hành, có giá trị pháp lý cao nhất và quy
định những vấn quan đề cơ bản và quan trọng nhất của Nhà nước như: hình
thức và bản chất của Nhà nước, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa xã hội,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức và hoạt động của cơ quan Nhà
nước. Hiến pháp là cơ sở để hình thành hệ thống pháp luật, các văn bản dưới
Hiến pháp suy cho cùng là sự cụ thể hóa, chi tiết hóa các quy định của Hiến
pháp.
- Luật của Quốc hội quy định các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực kinh tế, xã
hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo,
văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, tổ chức và
hoạt động của bộ máy Nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền và
nghĩa vụ của công dân.
- Nghị quyết của Quốc hội được ban hành để quyết định nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội; dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Trung
ương; điều chỉnh ngân sách Nhà nước; phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà
nước; quy định chế độ làm việc của Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội
đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc
hội; phê chuẩn Điều ước quốc tế và quyết định các vấn đề khác thuộc thẩm
quyền của Quốc hội.
2. Văn bản dưới Luật
Là VBQPPL do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục
luật định. Những văn bản này, có giá trị pháp lý thấp hơn văn bản Luật và nội
dung của nó chủ yếu là cụ thể hóa, chi tiết hóa những quy định của văn bản
Luật. Trong một số trường hợp văn bản Luật chưa quy định, hoặc quy định chưa
rõ thì văn bản dưới Luật sẽ quy định để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Văn bản
dưới Luật bao gồm:
- Pháp lệnh: Là văn bản do ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành quy
định về những vấn đề do Quốc hội giao. Pháp lệnh là văn bản có giá trị pháp lý
thấp hơn văn bản Luật nhưng có giá trị pháp lý cao nhất trong số các văn bản
dưới Luật. Sau một thời gian điều chỉnh, Pháp lệnh sẽ được Quốc hội xem xét
và nâng lên thành Luật.
- Nghị quyết của UBTVQH. Nghị quyết của ủy ban Thường vụ Quốc hội
được ban hành để giải thích Hiến pháp, luật, Pháp lệnh, giám sát việc thi hành
Hiến pháp, văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao, giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân,
quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, tổng động viên hoặc động viên cục
bộ, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc từng địa phương và quyết
định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Lệnh, quyết định của Chủ tịch Nước được ban hành để thực hiện những
nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Nước do Hiến pháp, luật quy định. Văn bản
QPPL do Chủ tịch Nước ban hành thường không nhiều so với văn bản áp dụng
pháp luật, chỉ những văn bản nào do Chủ tịch Nước ban hành có chứa đựng
QPPL mới được gọi là VBQPPL.
- Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật, Nghị quyết của
Quốc hội, Pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban Thường vụ Quốc hội, Lệnh, Quyết
định của Chủ tịch Nước.
Quy định các biện pháp cụ thể để thực hiện chính sách kinh tế, xã hội,
quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn
hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, chế độ công vụ,
cán bộ, công chức, quyền, nghĩa vụ của công dân và các vấn đề khác thuộc
thẩm quyền quản lý, điều hành của Chính phủ;
Quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của
Chính phủ;
Quy định những vấn đề cần thiết nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành
Luật hoặc Pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế,
quản lý xã hội. Việc ban hành Nghị định này phải được sự đồng ý của ủy ban
Thường vụ Quốc hội.
- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ được ban hành để quy định các
vấn đề sau đây: Biện pháp lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ và hệ
thống hành chính Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở; chế độ làm việc với các
thành viên Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ;
Biện pháp chỉ đạo, phối hợp hoạt động của các thành viên Chính phủ;
kiểm tra hoạt động của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy
ban nhân dân các cấp trong việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
- Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ được ban hành
để quy định chi tiết thi hành Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị
quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Lệnh, Quyết định của Chủ tịch Nước,
Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Quy định về quy
trình, quy chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế - kỹ thuật của ngành, lĩnh vực do
mình phụ trách; Quy định biện pháp để thực hiện chức năng quản lý ngành, lĩnh
vực do mình phụ trách và những vấn đề khác do Chính phủ giao.
- Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được ban
hành để hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật.
- Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao được ban hành để thực
hiện việc quản lý các Tòa án nhân dân địa phương và Tòa án quân sự về tổ
chức; quy định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao.
- Thông tư của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao được ban
hành để quy định các biện pháp bảo đảm việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện Kiểm sát nhân dân địa phương, Viện Kiểm sát quân sự; quy định
những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao.
- Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước được ban hành để quy định,
hướng dẫn các chuẩn mực kiểm toán Nhà nước; quy định cụ thể quy trình kiểm
toán, hồ sơ kiểm toán.
- Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch gồm:
Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính
phủ với cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị - xã hội được ban hành để
hướng dẫn thi hành những vấn đề khi pháp luật quy định về việc tổ chức chính
trị - xã hội đó tham gia quản lý Nhà nước.
Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao được ban hành để hướng dẫn việc áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt
động tố tụng và những vấn đề khác liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan đó.
Thông tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ
được ban hành để hướng dẫn thi hành Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp
lệnh, Nghị quyết của ủy ban Thường vụ Quốc hội, Lệnh, Quyết định của Chủ tịch
Nước, Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ có liên
quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ, cơ quan ngang bộ đó.
- Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân
Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân là
văn bản do Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân ban hành theo thẩm quyền,
trình tự, thủ tục do Luật này quy định, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu
lực trong phạm vi địa phương, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội ở địa phương gồm: Nghị quyết của Hội đồng nhân dân
và Quyết định, Chỉ thị của Ủy ban nhân dân.
Nghị quyết của HĐND các cấp là văn bản do cơ quan quyền lực Nhà nước
ở địa phương ban hành để quyết định các chủ trương, chính sách, biện pháp
trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội cũng như thi hành các văn bản
QPPL của cơ quan Nhà nước cấp trên.
Quyết định, chỉ thị của UBND các cấp là văn bản được ban hành để thực
hiện các chủ trương, chính sách, biện pháp trong các lĩnh vực khác nhau mà
UBND quản lý cũng như thi hành văn bản QPPL của cơ quan Nhà nước cấp
trên.
Chỉ thị của UBND được ban hành để chỉ đạo, phối hợp hoạt động, đôn đốc
và kiểm tra hoạt động của các cơ quan đơn vị trực thuộc và cơ quan đơn vị cấp
dưới.
IV. HIỆU LỰC CỦA VBQPPL
Hiệu lực của VBQPPL là giới hạn tác động về thời gian, không gian và
phạm vi đối tượng tác động. Xác định đúng hiệu lực của VBQPPL là điều kiện
quan trọng và cần thiết nhằm phát huy vai trò tác động và điều chỉnh có hiệu quả
các quan hệ xã hội theo đúng mục đích đã đặt ra. Phụ thuộc vào thẩm quyền
của cơ quan ban hành VBQPPL, tính chất và mục đích điều chỉnh của mỗi loại
văn bản mà hiệu lực của chúng có những giới hạn và mức độ khác nhau. Hiệu
lực của VBQPPL được thể hiện trên ba mặt: Hiệu lực về thời gian; hiệu lực về
không gian và hiệu lực theo đối tượng tác động.
1. Hiệu lực về thời gian
Hiệu lực về thời gian của VBQPPL được xác định từ thời điểm phát sinh
cho đến khi chấm dứt sự tác động của văn bản đó.
Như mọi hiện tượng khác của thực tại khách quan, VBQPPL luôn tồn tại
trong thời gian, chúng có thời điểm phát sinh hiệu lực và thời điểm kết thúc. Tuy
nhiên, hiệu lực của văn bản các cấp khác nhau ban hành thì thời điểm phát sinh
hiệu lực cũng khác nhau. Thông thường thời điểm phát sinh hiệu lực được xác
định theo hai cách: ghi rõ thời điểm phát sinh hiệu lực hoặc không ghi rõ.
a. Văn bản QPPL của cơ quan Nhà nước ở Trung ương
Nguyên tắc chung được xác định như sau: Thời điểm có hiệu lực của văn
bản quy phạm pháp luật được quy định trong văn bản nhưng không sớm hơn
bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành.
Ngoại lệ: Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật quy định các biện pháp
thi hành trong tình trạng khẩn cấp, văn bản được ban hành để kịp thời đáp ứng
yêu cầu phòng, chống thiên tai, dịch bệnh thì có thể có hiệu lực kể từ ngày công
bố hoặc ký ban hành nhưng phải được đăng ngay trên Trang thông tin điện tử
của cơ quan ban hành và phải được đưa tin trên phương tiện thông tin đại
chúng; đăng Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sau đây gọi
chung là Công báo) chậm nhất sau hai ngày làm việc, kể từ ngày công bố hoặc
ký ban hành.
Văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo; văn bản quy
phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành, trừ trường
hợp văn bản có nội dung thuộc bí mật Nhà nước và các trường hợp ngoại lệ nói
trên.
b. Văn bản QPPL của cơ quan Nhà nước ở địa phương
- Văn bản của HĐND và UBND cấp Tỉnh có hiệu lực sau 10 ngày và phải
được đăng trên công báo cấp tỉnh chậm nhất 5 ngày kể từ ngày được HĐND
thông qua hoặc Chủ tịch UBND ký ban hành. Trừ trường hợp quy định muộn
hơn.
- Văn bản của HĐND và UBND cấp Huyện có hiệu lực sau 7 ngày và phải
được niêm yết chậm nhất 3 ngày kể từ ngày được HĐND thông qua hoặc Chủ
tịch UBND ký ban hành. Trừ trường hợp quy định muộn hơn.
- Văn bản của HĐND và UBND cấp Xã có hiệu lực sau 5 ngày và phải
được niêm yết chậm nhất 2 ngày kể từ ngày được HDND thông qua hoặc Chủ
tịch UBND ký ban hành. Trừ trường hợp quy định muộn hơn.
c. Thời điểm chấm dứt hiệu lực toàn bộ hoặc một phần của VBQPPL được xác định trong các trường hợp sau:
- Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản.
- Được thay thế bằng văn bản mới của chính cơ quan đã ban hành văn
bản đó.
- Bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ bằng văn bản của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền.
Chú ý: Nếu VBQPPL chấm dứt hiệu lực, thì văn bản quy định chi tiết,
hướng dẫn thi hành cũng hết hiệu lực theo, trừ trường hợp được giữ lại toàn bộ
hoặc một phần vì còn phù hợp với văn bản mới.
Hiệu lực hồi tố: (hiệu lực trở về trước của VBQPPL).
Hiệu lực hồi tố là hiệu lực ngược về trước của một VBQPPL. Nghĩa là, nó
được áp dụng cho những trường hợp đã xảy ra trước ngày văn bản pháp luật đó
được ban hành.
Về nguyên tắc VBQPPL ở nước ta không áp dụng nguvên tắc hồi tố, trừ
trường hợp: Văn bản QPPL mới không quy định trách nhiệm pháp lý hoặc quy
định nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra trước đây, thì áp dụng văn bản mới.
Ví dụ: K3 Điều 7 BLHS quy định: "Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình
phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm
nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn
hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người
phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều
luật đó có hiệu lực thi hành".
Không được quy định hiệu lực trở về trước đối với các trường hợp sau
đây:
- Quy định trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời điểm thực
hiện hành vi đó pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lý;
- Quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn.
2. Hiệu lực về không gian
Hiệu lực về không gian của VBQPPL là giới hạn tác động về không gian
của văn bản ấy được xác định bằng lãnh thổ quốc gia, một vùng hay một địa
phương nhất định.
Việc xác định hiệu lực về không gian phụ thuộc vào các yếu tố như: thẩm
quyền ban hành, tính chất, mục đích và nội dung của văn bản ấy. Thông thường
hiệu lực về không gian của VBQPPL được xác định theo hai cách cơ bản: ghi rõ
trong văn bản hoặc không nghi rõ. Nhưng nhìn chung thì văn bản quy phạm
pháp luật của các cơ quan Nhà nước Trung ương có hiệu lực trong phạm vi cả
nước, trừ trường hợp văn bản có quy định khác, văn bản quy phạm pháp luật
của Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân có hiệu lực trong phạm vi địa phương.
3. Hiệu lực theo đối tượng
Hiệu lực theo không gian và thời gian của VBQPPL luôn gắn liền với hiệu
lực theo đối tượng. Hiệu lực theo đối tượng chính là sự tác động của văn bản ấy
đối với các chủ thể xác định. Thông thường các VBQPPL tác động đến tất cả
mọi đối tượng nằm trong lãnh thổ mà văn bản đó có hiệu lực về không gian và
thời gian. Phù hợp với điều đó, VBQPPL tác động đến các chủ thể pháp luật có
quốc tịch Việt Nam và trong những trường hợp nhất định còn có hiệu lực đối với
các chủ thể có quốc tịch nước ngoài hoặc không quốc tịch.
Nhìn chung, các VBQPPL thường ghi rõ đối tượng mà văn bản ấy tác
động, nhưng trong một số trường hợp nếu không nghi rõ thì cần phải xem xét
đến hiệu lực về không gian và thời gian và các văn bản liên quan với văn bản ấy.
Chuơng 6. QUAN HỆ PHÁP LUẬT
I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA QUAN HỆ PHÁP LUẬT
1. Khái niệm quan hệ pháp luật
Nhu cầu tồn tại và phát triển đòi hỏi con người phải liên kết với nhau thành
cộng đồng để cùng nhau tiến hành các hoạt động sản xuất ra của cải vật chất.
Như vậy, chính nhu cầu tồn tại đã hình thành quan hệ giữa người với người, mà
trước hết là quan hệ sản xuất và từ quan hệ cơ bản này hình thành và phát triển
thành các quan hệ khác. Sự phát triển của quan hệ sản xuất sẽ kéo theo sự phát
triển của các quan hệ xã hội khác, điều đó lý giải vì sao quan hệ xã hội ngày
càng phong phú và đa dạng. Vậy, quan hệ giữa người với người được gọi là các
quan hệ xã hội, nó tồn tại một cách khách quan và con người không thể tự đặt
mình ra ngoài các quan hệ ấy.
Để tiến hành các hoạt động của mình có hiệu quả thì đòi hỏi có tính tất
yếu khách quan là các hoạt động của con người với con người cần phải được tổ
chức, quản lý. Tùy thuộc vào sự phát triển của xã hội, mà tính tổ chức và quản lý
của hoạt động con người có thể từ đơn giản đến phức tạp. Như vậy, xuất phát
từ tính tổ chức của đời sống cộng đồng đòi hỏi phải đặt ra các quy phạm để điều
chỉnh các quan hệ, các quy phạm điều chỉnh hoạt động tổ chức của xã hội loài
người có nhiều hình thức khác nhau và nguồn gốc hình thành cũng khác nhau.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã cho thấy có những quy phạm cơ bản
sau tác động vào tổ chức và hoạt động của con người như: quy phạm tập quán,
đạo đức, tôn giáo, pháp luật, nội quy, quy chế...
Sự tác động của các quy phạm xã hội khác nhau tới quan hệ xã hội, sẽ
hình thành các quan hệ xã hội khác nhau, chẳng hạn nếu quan hệ xã hội được
tác động bằng quy phạm đạo đức sẽ hình thành quan hệ đạo đức, sự tác động
của quy phạm tôn giáo sẽ hình thành các quan hệ tôn giáo hay sự tác động của
các quy phạm pháp luật sẽ hình thành nên các quan hệ pháp luật... Hơn nữa,
những quan hệ xã hội không chỉ có một quy phạm, tác động mà thông thường là
sự tác động của nhiều loại quy phạm. Sự tác động của số lượng các quy lên các
quan hệ xã hội phụ thuộc vào sự phát triển của xã hội loài người. Ví dụ: Quan hệ
vợ chồng là quan hệ xã hội nhưng ban đầu nó chỉ được điều chỉnh bằng quy
phạm tập quán, đạo đức, tôn giáo nhưng về sau quan hệ này còn được tác động
bởi quy phạm pháp luật.
Việc lựa chọn quy phạm nào tác động vào quan hệ xã hội có ý nghĩa rất
lớn đối với mục đích mà con người đặt ra. Vì mỗi quy phạm có vị trí và vai trò
nhất định trong việc điều chỉnh quan hệ giữ người với người, giữa chúng có thể
hỗ trợ, bổ sung cho nhau hoặc kìm hãm lẫn nhau và thậm chí là triệt tiêu lẫn
nhau.
Trong hệ thống các quy phạm xã hội, quy phạm pháp luật có vị trí đặc biệt
quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Vị trí quan trọng của quy
phạm pháp luật khi tác động lên các quan hệ xã hội được quyết định bởi những
thuộc tính của loại quy phạm này như tính bặt buộc chung, tính được đảm bảo
thực hiện bằng quyền lực Nhà nước, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức...
Như vậy, quan hệ pháp luật là một dạng quan hệ xã hội được hình thành
bởi ý chí của Nhà nước mà các bên trong quan hệ đó có quyền và nghĩa vụ
pháp lý. Mặc dù quan hệ pháp luật là một dạng quan hệ xã hội, nhưng khi được
các quy phạm pháp luật tác động tới đã làm cho quan hệ này có nhiều điểm
khác biệt so với trước đây, mà cụ thể nhất dễ dàng thấy được đó là quan hệ
pháp luật xác định rõ chủ thể của quan hệ, quyền và nghĩa vụ cụ thể cũng như
căn cứ làm phát sinh hay thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật. Từ những
nội dung trên chúng ta có thể rút ra khái niệm quan hệ pháp luật như sau:
Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật điều
chỉnh, trong đó các bên tham gia đáp ứng được những điều kiện do Nhà nước
quy định, có những quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật.
2. Đặc điểm của quan hệ pháp luật
Việc nghiên cứu để thấy được những đặc điểm riêng của quan hệ pháp
luật không chỉ cho chúng ta thấy được sự khác biệt của quan hệ pháp luật với
các quan hệ khác mà còn giúp cho chủ thể quan hệ pháp luật thấy được sự khác
biệt về hành vi xử sự của mình khi tham gia vào quan hệ pháp luật so với các
quan hệ lchác. Ví dụ: Khi tham gia vào quan hệ tôn giáo một số chủ thể có hành
vi ăn chay, nhưng việc thực hiện hay không là tùy thuộc vào lòng tin của chủ thể
đối với tôn giáo. Nhưng ngược lại, khi tham gia giao thông - tham gia vào quan
hệ pháp luật hành chính thì chủ thể phải có nghĩa vụ tuân thủ các quy định của
Nhà nước mà không có sự lựa chọn nào khác. So với các quan hệ khác quan hệ
pháp luật có những đặc điểm sau:
- Quan hệ pháp luật hình thành, tồn tại và vận động trên cơ sở quy phạm
pháp luật. Quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý của quan hệ xã hội. Nhờ có
quy phạm pháp luật và hoạt động thực hiện pháp luật mà quan hệ pháp luật
được hình thành, quan hệ xã hội được mang hình thức pháp lý tương ứng. Quy
phạm pháp luật và quan hệ pháp luật có mối quan hệ khăng khít, hữu cơ trong
quá trình tồn tại và phát huy tác dụng trên thực tế. Tính xác thực, phù hợp của
quy phạm pháp luật được kiểm chứng thông qua quan hệ pháp luật, ngược lại
quan hệ pháp luật cần được quy phạm pháp luật mô hình hóa, phản ánh trước
những đặc điểm, yêu cầu cơ bản của nó. Ví dụ: Nhà nước ban hành quy phạm
quy định về tội đầu cơ nhưng trong thực tế của nền kinh tế thị trường quy phạm
này hầu như không áp dụng; Hoặc như quan hệ giữa người với người về tính
mạng cần phải được quy phạm pháp luật bảo vệ và việc mô hình hóa làm sao
cho mọi trường hợp có hành vi tước đoạt tính mạng của người khác được xử lý
công bằng.
Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy, mặc dù quy phạm pháp luật là tiền đề cho
việc hình thành, thay đổi chấm dứt quan hệ pháp luật cụ thể nhưng không phải
cứ có quy phạm pháp luật là có quan hệ pháp luật hoặc mọi quan hệ pháp luật
đều phát sinh, thay đổi chấm dứt trên cơ sở quy phạm pháp luật. Bởi vì, trên
thực tế, có một số quy phạm pháp luật có nội dung không trực tiếp đưa đến việc
thiết lập quan hệ pháp luật cụ thể. Ví dụ: Điều 121 BLDS 2005 quy định "Giao
dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự". Thậm chí trong một số trường hợp
đặc biệt thì quan hệ pháp luật vẫn phát sinh trên cơ sở áp dụng pháp luật tương
tự.
- Quan hệ pháp luật là quan hệ mang tính ý chí. Đặc điểm chung của quan
hệ xã hội là hình thành trên cơ sở nhận thực nên nó luôn mang tính ý chí.
Nhưng tính ý chí của quan hệ pháp luật rõ ràng, cụ thể và minh bạch hơn rất
nhiều so với các quan hệ xã hội khác. Bởi vì, quan hệ pháp luật là một dạng
quan hệ cụ thể hình thành giữa những chủ thể nhất định. Các quan hệ này
không phải ngẫu nhiên hình thành mà phải qua hành vi có ý chí của một hoặc
hai chủ thể. Tùy thuộc vào từng loại quan hệ pháp luật mà có quan hệ pháp luật
hình thành từ ý chí của hai hay nhiều bên như quan hệ hợp đồng, quan hệ hôn
nhân, nhưng cũng có những quan hệ pháp luật hình thành từ ý chí của một bên
là Nhà nước như quan hệ hình sự, quan hệ hành chính.
- Quan hệ pháp luật xác định rõ cơ cấu của chủ thể. Nghĩa là không phải
mọi cá nhân và tổ chức tồn tại trong xã hội đều có thể tham gia vào quan hệ
pháp luật. Muốn tham gia vào quan hệ pháp luật, chủ thể phải thỏa mãn những
điều kiện luật định và khi tham gia vào quan hệ pháp luật cụ thể, chủ thể phải
thuộc đối tượng điều chỉnh của quan hệ ấy. Ví dụ: Pháp nhân không bao giờ là
chủ thể của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình hay quan hệ pháp luật hình
sự ở nước ta.
- Quan hệ pháp luật có nội dung là quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể.
Đây là đặc trưng cơ bản của quan hệ pháp luật cho phép phân biệt nó với các
quan hệ xã hội khác. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật không những xác định
rõ ràng cơ cấu chủ thể của quan hệ mà còn xác định rõ ràng quyền và nghĩa vụ
pháp lý mà chủ thể được hưởng cũng như nghĩa vụ phải gánh vác. Như vậy so
với quan hệ khác, quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể trong quan hệ pháp
luật cho phép chủ thể có phương thức xử sự rõ ràng, cụ thể, nó là thước đo,
khuôn mẫu của hành vi.
3. Phân loại quan hệ pháp luật
Việc phân loại quan hệ pháp luật có ý nghĩa quan trọng bởi nó cho phép
đánh giá thực trạng đời sống pháp lý, hiệu quả pháp luật, kiểm tra khả năng điều
chỉnh thực tế của pháp luật ở mỗi giai đoạn. Bên cạnh đó, việc phân loại cũng
phục vụ cho hoạt động hệ thống hóa pháp luật, xây dựng pháp luật nhất là khả
năng điều chỉnh. Tuy nhiên việc phân loại quan hệ pháp luật cũng chỉ mang tính
chất tương đối do quan hệ pháp luật có tính đan xen, tương đồng nhiều đặc
điểm trong quá trình tồn tại và vận động. Hơn nữa tiêu chí phân loại cũng phụ
thuộc vào nhận thức chủ quan cũng như mục đích của chủ thể phân loại mà có
nhiều tiêu chí khác nhau.
- Căn cứ vào đối tượng điều chỉnh, phương pháp điểu chỉnh: quan hệ
pháp luật được phân loại thành các nhóm lớn tương ứng với các ngành luật
như: quan hệ pháp luật hình sự, quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ pháp luật
hành chính... Thông qua căn cứ phân loại này, chúng ta có điều kiện tìm hiểu
sâu sắc hơn từng nhóm quan hệ pháp luật, nắm bắt được những đặc trưng riêng
và những thuộc tính phổ biến của chúng. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, khi
mà các quan hệ xã hội có sự đan xen, xâm nhập hoặc giao thoa với nhau thì khả
năng phân loại này cũng không tuyệt đối và rõ ràng.
- Căn cứ vào mức độ hiện thực hóa quyền và nghĩa vụ của chủ thể, quan
hệ pháp luật được phân loại thành quan hệ pháp luật chung và quan hệ pháp
luật cụ thể. Quan hệ pháp luật chung là quan hệ không xác định rõ ràng quyền
và nghĩa vụ của chủ thể và cách thức thực hiện chúng mà quy định một cách
chung nhất. Ví dụ: Các quyền và nghĩa vụ quy định trong Hiến pháp - đạo luật có
vị trí pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật. Quan hệ pháp luật cụ thể là sự
cụ thể hóa, chi tiết hóa quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể và cách thức thực
hiện chúng dựa trên cơ sở quan hệ pháp luật chung. Ví dụ: Quyền cư trú trong
luật cư trú, quyền kinh doanh trong luật doanh nghiệp...
- Căn cứ vào tính độc lập về quyền của chủ thể, quan hệ pháp luật được
chia thành quan hệ pháp luật tuyệt đối và quan hệ pháp luật tương đối. Quan hệ
pháp luật tuyệt đối là quan hệ trong đó một chủ thể được xác định (là bên có
quyền) còn chủ thể kia là bất kỳ cá nhân tổ chức nào. Ví dụ: Quan hệ thừa kế,
người để lại di sản thừa có quyền để lại bất cứ cho ai, hoặc trong quan hệ về sở
hữu, quyền tác giả. Quan hệ pháp luật tương đối là quan hệ là các chủ thể trong
quan hệ được xác định, việc thực hiện quyền của chủ thể này hoàn toàn phụ
thuộc vào việc thực hiện nghĩa vụ của chủ thể đó và nghĩa vụ của chủ thể khác.
Ví dụ: Quan hệ hợp đồng là điển hình của loại quan hệ này.
II. CẤU THÀNH CỦA QUAN HỆ PHÁP LUẬT
Việc nghiên cứu cấu thành của quan hệ pháp luật là xem xét các yếu tố
hợp thành của nó theo quan điểm cấu trúc hệ thống. Theo quan điểm này, có thể
coi bản thân quan hệ pháp luật như là một cơ cấu hoàn chỉnh, bởi vì quan hệ
pháp luật gắn liền với các chủ thể và cũng chính thông qua chủ thể các yếu tố
còn lại của cấu thành quan hệ pháp luật gắn bó và tương tác hữu cơ với nhau.
Với quan điểm cấu trúc hệ thống, cấu thành của quan hệ pháp luật bao gồm các
yếu tố sau:
1. Chủ thể
a. Khái niệm chủ thể
Quan hệ pháp luật là hiện tượng đánh dấu vai trò đặc biệt quan trọng của
chủ thể. Quan hệ pháp luật sẽ không phát sinh, tồn tại nếu thiếu đi yếu tố chủ
thể, do vậy việc nghiên cứu toàn diện các vấn dề liên quan đến chủ thể luôn là
vấn đề trọng tâm trong quan hệ pháp luật. Cũng có ý kiến cho rằng, không nên
đưa khái niệm chủ thể quan hệ pháp luật vì nó không có tính định lượng về mặt
nội dung và trong đời sống thực tế không một cá nhân hay tổ chức nào nằm
ngoài sự tác động của pháp luật, do đó họ mặc nhiên là chủ thể của pháp luật.
Chúng tôi cho rằng, việc làm sáng tỏ những nội dung về chủ thể của quan hệ
pháp luật cụ thể sẽ cho chúng ta thấy được sự khác biệt với chủ thể của hành vi
pháp luật.
Vậy, chủ thể của Quan hệ pháp luật là cá nhân hoặc tổ chức tham gia vào
Quan hệ pháp luật, mang quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
b. Năng lực chủ thể
Năng lực chủ thể là một điều kiện cơ bản đòi hỏi chủ thể phải đáp ứng để
có thể thỏa mãn những yêu cầu đặt ra của từng loại quan hệ pháp luật cụ thể.
Để có thể tham gia vào quan hệ pháp luật một cách đầy đủ và chủ động thì chủ
thể phải có năng lực chủ thể, nhưng trong một số trường hợp đặc biệt thì chủ
thể không nhất thiết phải chờ cho đến khi có đầy đủ năng lực chủ thể mới tham
gia vào quan hệ pháp luật. Trong một số trường hợp, theo quy định của pháp
luật, yếu tố điều kiện nào đó mặc dù chủ thể chưa đáp ứng đầy đủ nhưng nó
không cơ bản, không ảnh hưởng đến trạng thái, tính chất của quan hệ pháp luật
thì họ vẫn có thể tham gia.
Năng lực chủ thể là phạm trù có tính ổn định tương đối, nhưng nó cũng có
thể có những biến đổi nhất định ở từng giai đoạn và có những đòi hỏi khác nhau
giữa các loại quan hệ pháp luật. Năng lực chủ thể vận động, phát triển và tăng
dần về dung lượng cùng với độ tuổi, đặc biệt là năng lực hành vi và đến một độ
tuổi nhất định thì được coi là đầy đủ.
Năng lực chủ thể bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi, Nhà
nước là chủ thể duy nhất có quyền quy định năng lực pháp luật, đồng thời là một
chủ thể quan trọng xác nhận hoặc hạn chế năng lực hành vi của chủ thể trong
từng trường hợp cụ thể.
*/ Năng lực pháp luật:
Năng lực pháp luật với tính cách là một đặc tính của chủ thể, nhưng không
phải là một đặc tính tự nhiên, bẩm sinh và cũng không phải là hiện tượng bất
biến mà nó là một thuộc tính pháp lý của chủ thể. Vậy, năng lực pháp luật được
hiểu là khả năng hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ pháp lý mà Nhà nước quy
định cho chủ thể.
Năng lực pháp luật là phần tối thiểu của năng lực chủ thể, hình thành một
cách thụ đồng đối với chủ thể. Các quyền và nghĩa vụ mà chủ thể có được là do
ý chí của Nhà nước.
Năng lực pháp luật của cá nhân hình thành từ khi người đó sinh ra và kết
thúc khi chết, với tổ chức thì từ thời điểm thành lập và kết thúc khi giải thể, phá
sản hoặc tuyên bố chấm dứt hoạt động. Trong một số trường hợp đặc biệt đối
với cá nhân, mặc dù chưa sinh ra (bào thai) nhưng vẫn có năng lực pháp luật.
Như vậy, chúng ta thấy rằng, việc tuyên bố đơn phương về khước từ hay
tự hạn chế năng lực pháp luật của chủ thể là cá nhân đều không có hiệu lực về
mặt pháp lý. Tuy nhiên, năng lực pháp luật của chủ thể mang tính "động", nghĩa
là trong một số trường hợp đặc biệt năng lực pháp luật của chủ thể có thể bị hạn
chế theo quy định của pháp luật hoặc khi có quyết định của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền. Ví dụ: Khoản 2, Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định. "Tổ
chức, cá nhân sau đây không được quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại
Việt Nam: Cơ quan Nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử
dụng tài sản Nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho
cơ quan, đơn vị mình; Cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ,
công chức..." Hoặc bản án của Tòa án áp dụng hình phạt cấm cư trú, hành nghề
của cá nhân khi họ phạm tội.
Năng lực pháp luật xuất hiện trên cơ sở pháp luật của mỗi nước nên công
dân của các quốc gia khác nhau thì năng lực cũng khác nhau. Điều này là tất
yếu bởi pháp luật luôn mang tính giai cấp và điều kiện vật chất của các quốc gia
cũng khác nhau.
*/ Năng lực hành vi:
Năng lực hành vi là yếu tố biến động nhất trong cấu thành năng lực chủ
thể. Các quan hệ pháp luật khác nhau thì năng lực hành vi của chủ thể cũng
khác nhau. Nếu năng lực pháp luật là điều kiện "cần" thì năng lực hành vi đóng
vai trò là điều kiện "đủ" của năng lực chủ thể. Để tự mình tham gia vào quan hệ
pháp luật, thủ hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ một cách trực tiếp thì chủ thể
phải có năng lực hành vi.
Vậy, năng lực hành vi là khả năng chủ chủ thể bằng chính hành vi của
mình xác lập các quyền và nghĩa vụ cũng như độc lập gánh chịu trách nhiệm
pháp lý về chính hành vi đó.
Đối với chủ thể là cá nhân khi xem xét về năng lực hành vi người ta
thường xem xét trên các phương diện sau:
- Để có năng lực hành vi đầy đủ, cá nhân phải đạt đến một độ tuổi nhất
định. Vì chỉ khi đạt đến một độ tuổi nhất định thì cá nhân con người mới có khả
năng thụ hưởng những quyền pháp lý cũng như gánh chịu những nghĩa vụ pháp
lý nhất định về hành vi của mình. Năng lực hành vi của chủ thể xuất hiện ở
những độ tuổi khác nhau. Thông thường các nước lấy độ tuổi 18 và khả năng lý
trí để làm điều kiện công nhận năng lực hành vi đầy đủ của chủ thể.
- Về phương diện nhận thức và điều khiển hành vi. Độ tuổi với yếu tố nhận
thức có mối quan hệ biện chứng với nhau, nhưng không phải cứ đạt đến một độ
tuổi nhất định là chủ thể có năng lực hành vi, hay nói cách khác, không phải cứ
đủ tuổi theo quy định của pháp luật cho từng loại quan hệ thì cá nhân trở thành
chủ thể của quan hệ pháp luật. Có thể nói rằng khả năng nhận thức là điều kiện
căn bản để xem xét năng lực hành vi, vì chủ thể có khả năng nhận thực thì chủ
thể mới có khả năng thụ hưởng các quyền một cách thực thụ và gánh vác nghĩa
vụ một cách đúng nghĩa. Để có khả năng nhận thức chủ thể phải đạt đến một độ
tuổi nhất định và không bị mắc các chứng bệnh liên quan đến nhận thức.
Trong một số trường hợp tuy chủ thể có khả năng nhận thức nhưng không
có khả năng điều khiển hành vi của mình thì chủ thể cũng không có năng lực
hành vi. Ví dụ: Bảo vệ phải có nghĩa vụ bảo vệ tài sản và hưởng lương, nhưng
khi bảo vệ bị kể cướp dí súng vào đầu và lấy tài sản thì họ không phải chịu trách
nhiệm về việc mất mát tài sản.
NLHV của chủ thể trong từng quan hệ pháp luật cụ thể cũng có những
biến dạng, tùy thuộc vào quan hệ pháp luật mà chủ thể tham gia, chủ thể có thể
có:
- Không có NLHV.
- NLHV hạn chế.
- NLHV đầy đủ.
Chủ thể không có năng lực hành vi hay năng lực hành vi hạn chế cũng
như năng lực hành vi đầy đủ có sự khác nhau giữa các ngành luật trong hệ
thống pháp luật và giữa các loại chủ thể. Đối với chủ thể là tổ chức (có hay
không có tư cách pháp nhân) thì chỉ có năng lực hành vi đầy đủ, còn không có
năng lực hành vi hay năng lực hành vi hạn chế không xảy ra trong thực tế. Bên
cạnh đó, một số ngành luật cũng chỉ xảy ra trường hợp không có năng lực hành
vi và có năng lực hành vi đầy đủ chứ không xảy ra trường hợp năng lực hành vi
hạn chế. Ví dụ: Ngành luật hôn nhân và gia đình.
c. Các loại chủ thể
Việc xuất hiện và tồn tại nhiều loại quan hệ pháp luật cho thấy sự đa dạng
và linh hoạt về chủ thể. Dựa vào những đặc điểm cơ bản về tư cách chủ thể và
phương thức thiết lập hành vi chủ thể, chủ thể quan hệ pháp luật bao gồm:
*/ Cá nhân: gồm CD, người nước ngoài và người không quốc tịch.
Cá nhân là chủ thể phổ biến của Quan hệ pháp luật, chỉ có cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền, theo một trình tự nghiêm ngặt mới có quyền hạn chế năng
lực của chủ thể.
*/ Pháp nhân.
Là tổ chức được thừa nhận hoặc hình thành trên cơ sở pháp luật.
- Để có tư cách pháp nhân: thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt
chẽ; có tài sản độc lập với thành viên; nhân danh mình tham gia vào quan hệ
pháp luật một cách độc lập.
- Là chủ thể của Quan hộ pháp luật nhưng pháp nhân không tham gia vào
tất cả các quan hệ pháp luật.
- Khoa học pháp lý chia pháp nhân thành: pháp nhân công quyền và pháp
nhân kinh tế xã hội.
Theo Điều 100 BLDS 2005 bao gồm Các loại pháp nhân sau:
1. Cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân.
2. Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
3. Tổ chức kinh tế.
4. Tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội -
nghề nghiệp.
5. Quỹ xã hội, quỹ từ thiện.
6. Tổ chức khác có đủ các điều kiện quy định tại Điều 84 của Bộ luật này.
- Nhà nước là pháp nhân đặc biệt.
*/ Một số tổ chức có Năng lực hạn chế:
- Hộ gia đình: Điều 106 (BLDS 2005).
Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức
để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số
lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia
quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này.
Chủ hộ là đại diện của hộ gia đình trong các giao dịch dân sự vĩ lợi ích
chung của hộ. Cha, mẹ hoặc một thành viên khác đã thành niên có thể là chủ hộ.
Hộ gia đình phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa
vụ dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập, thực hiện nhân danh hộ gia
đình.
Hộ gia đình chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản chung của hộ; nếu tài
sản chung không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của hộ thì các thành viên phải
chịu trách nhiệm liên đới bằng tài sản riêng của mình.
- Tổ hợp tác.
Tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực
của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn của từ ba cá nhân trở lên, cùng đóng
góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi
và cùng chịu trách nhiệm là chủ thể trong các quan hệ dân sự.
Tổ viên tổ hợp tác là cá nhân từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ. Đại diện của tổ hợp tác trong các giao dịch dân sự là tổ
trưởng do các tổ viên cử ra. Tổ trưởng tổ hợp tác có thể ủy quyền cho tổ viên
thực hiện một số công việc nhất định cần thiết cho tổ.
Giao dịch dân sự do người đại diện của tổ hợp tác xác lập, thực hiện vì
mục đích hoạt động của tổ hợp tác theo quyết định của đa số tổ viên làm phát
sinh quyền, nghĩa vụ của cả tổ hợp tác. Tổ hợp tác phải chịu trách nhiệm dân sự
về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện
nhân danh tổ hợp tác. Tổ hợp tác chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của tổ;
nếu tài sản không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của tổ thì tổ viên phải chịu
trách nhiệm liên đới theo phần tương ứng với phần đóng góp bằng tài sản riêng
của mình.
- Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp. (Điều 141 Luật Doanh nghiệp 2005).
- Hộ kinh doanh cá thể. Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt
Nam hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký
kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con
dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh
doanh. (Điều 36 - NĐ 88/2006 Về đăng ký kinh doanh).
2. Nội dung của Quan hệ pháp luật
Nội dung của quan hệ pháp luật là một trong những yếu tố cấu thành nên
quan hệ pháp luật, thông qua năng lực hành vi của chủ thể mà chủ thể đã
chuyển hóa các quyền và nghĩa vụ về mặt pháp lý (quy định trong VBQPPL) đi
vào đời sống thực tế. Vậy, nội dung của Quan hệ pháp luật bao gồm:
- Quyền của chủ thể; Là khả năng thực hiện một hành vi nhất định nào đó
theo quy định của pháp luật, hoặc yêu cầu chủ thể khác phải thực hiện hoặc
không được thực hiện một hành vi nào đó nhằm đáp ứng nhu cầu lợi ích của
chủ thể.
Quyền của chủ thể có các đặc tính.
- Khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định mà pháp luật cho
phép.
Ví dụ: Quyền kết hôn, được bảo hộ về tính mạng, sức khỏe...
- Yêu cầu chủ thể khác phải thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi
nào đó vì lợi ích của chủ thể.
Ví dụ: Người học phải có nghĩa vụ tôn trọng nhà giáo; nhà giáo không
được xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể của người học.
- Yêu cầu CQNN bảo vệ lợi ích của mình.
Ví dụ: Quyền khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện...
Các đặc tính trên của quyền pháp lý của chủ thể là thống nhất, không tách
rời. Mỗi đặc tính có ý nghĩa khác nhau đối với việc thực hiện quyền của chủ thể,
trong đó đặc tính "Yêu cầu CQNN bảo vệ lợi ích của mình" là quan trọng nhất, vì
nó là tiêu chí cơ bản về sự khác biệt của quyền pháp lý so với các quyền xã hội
khác. Ví dụ: Trong quan hệ tình yêu (quan hệ xã hội) hay hôn nhân (quan hệ
pháp luật) thì hai người nam nữ đều phải có nghĩa vụ chung thủy. Tuy nhiên,
Nhà nước chỉ bảo vệ quan hệ hôn nhân khi vợ, chồng không thực hiện nghĩa vụ
chung thủy.
Quyền của chủ thể không phải là phạm trù bất biến mà có thể thay đổi
theo hoàn cảnh thực tế và tất nhiên việc thay đổi đó phải được pháp luật quy
định. Bên cạnh đó, quyền của chủ thể cũng có thể chuyển giao cho chủ thể khác
trong những điều kiện được pháp luật thừa nhận (thông thường là quyền về tài
sản hoặc quyền nhân thân có liên quan đến tài sản). Cuối cùng, quyền của chủ
thể cũng có thể bị hạn chế hoặc bị mất bởi chính hành vi có lỗi của chủ thể. Ví
dụ: Mất quyền khởi kiện vì hết thời hiệu; Vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đảng; Hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên.
- Nghĩa vụ của chủ thể: Là đòi hỏi có tính chất bắt buộc đối với chủ thể
phải thực hiện một hành vi nhất định nào đó, hay không được thực hiện một
hành vi nhất định nào đó theo quy định của pháp luật nhằm đáp ứng thỏa mãn
nhu cầu lợi ích của chủ thể khác.
Nghĩa vụ của chủ thể có các đặc tính sau:
- Cần phải tiến hành một hoạt động nhất định.
Ví dụ: Phải nộp thuế; cha mẹ phải nuôi dưỡng con chưa thành niên; Vợ
chồng phải chung thủy...
- Kiềm chế không được tiến hành một số hoạt động nhất định.
Ví dụ: Không vượt đèn đỏ khi tham gia giao thông; không xâm phạm sức
khỏe, tính mạng người khác...
- Phải chịu trách nhiệm pháp lý khi xử sự không đúng với quy định của
pháp luật.
Ví dụ: Phải đóng tiền nộp phạt VPHC; Gánh chịu hình phạt tước tự do;
Tháo dỡ công trình xây dựng trái phép...
Tóm lại, quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể là hai mặt của một thể
thống nhất, nó phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể cùng tham gia quan hệ
pháp luật, phản ánh khả năng nhận thức về những quy định của pháp luật có
liên quan cũng như thái độ trách nhiệm của chủ thể khi tham gia vào quan hệ
pháp luật.
Dưới tác động của sự kiện pháp lý, thì quyền và nghĩa vụ của chủ thể có
thể thay đổi hoặc chuyển hóa lẫn nhau. Ví dụ: A và B giao kết hợp đồng thuê
nhà, nhưng sau đó lại thỏa thuận thành hợp đồng mua bán nhà (thay đổi quyền
và nghĩa vụ); Cha mẹ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên,
nhưng khi con đã thành niên thì lại có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ
(chuyển hóa quyền và nghĩa vụ).
3. Khách thể của Quan hệ pháp luật
Khách thể là yếu tố không thể thiếu trong cấu thành của quan hệ pháp
luật, vì nó là yếu tố tạo nên sự quan tâm của chủ thể trong việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ pháp lý của mình. Khách thể có quan hệ chặt chẽ với mục đích, bởi
vì bất cứ chủ thể nào khi tham gia vào Quan hệ pháp luật đều có những mục
đích nhất định, mục đích đó có thể thỏa mãn các lợi ích vật chất hoặc tinh thần
của chủ thể.
Khách thể của Quan hệ pháp luật là những lợi ích vật chất hoặc tinh thần
và những lợi ích xã hội khác mà vì chúng chủ thể tham gia vào quan hệ pháp
luật, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ thể.
- Khách thể của Quan hệ pháp luật phản ánh lợi ích của chủ thể. Vì vậy sự
quan tâm nhiều hay ít của chủ thể Quan hệ pháp luật đối với khách thể là động
lực thúc đẩy phát sinh, tồn tại hay chấm dứt Quan hệ pháp luật.
Khi nghiên cứu về khách thể của quan hệ pháp luật cần phân biệt khách
thể với đối tượng tác động, điều chỉnh cũng như khách thể của vi phạm pháp
luật. Vì đối tượng tác động, điều chỉnh của pháp luật là con người, tổ chức và
các mối quan hệ xã hội mà thông qua đó pháp luật phát huy được giá trị của
mình, còn khách thể của vi phạm pháp luật chính là các mối quan hệ xã hội
được pháp luật bảo vệ bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Ví dụ: A ký hợp
đồng bán nhà cho B, thì đối tượng của quan hệ là căn nhà, khách thể là quyền
sở hữu nhà; C kết hôn với D thì đối tượng là C và D, còn khách thể là quan hệ
vợ chồng.
III. SỰ KIỆN PHÁP LÝ
Quan hệ pháp luật có một đời sống riêng của nó, gắn liền với những điều
kiện, môi trường thực tế nhất định. Khi điều kiện, môi trường có những thay đổi
căn bản thì quan hệ pháp luật cũng có những biến đổi trên thực tế, đó là phương
pháp tiếp cận quan hệ pháp luật dưới góc độ tổng thể. Nhưng nếu xét quan hệ
pháp luật dưới góc độ cụ thể, thì mỗi quan hệ pháp luật dều có điều kiện hình
thành, thay đối và chấm dứt khác nhau. Có ba yếu tố cơ bản trực tiếp làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật, đó là: quy phạm pháp luật, năng
lực chủ thể và sự kiện pháp lý. Trong đó, quy phạm pháp luật, năng lực chủ thể
là điều kiện tiền đề đầu tiên làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp
luật. Ví dụ: Nhà nước ban hành quy phạm pháp luật và hình thành nên quan hệ
pháp luật, nhưng đó chỉ là quan hệ về lý thuyết, muốn quan hệ pháp luật đi vào
cuộc sống cần phải có chủ thể có năng lực chủ thể tham gia.
Để quan hệ pháp luật phát sinh, thay đổi chấm dứt là cả cơ chế phức tạp
có mối quan hệ hữu cơ với nhau, điều kiện đủ để quan hệ pháp luật phát sinh,
thay đổi, chấm dứt đó chính sự kiện pháp lý.
1. Khái niệm sự kiện pháp lý
Sự kiện pháp lý là những sự kiện trong số các sự kiện xảy ra trong thực
tế, là một bộ phận của chúng. Sự khác nhau giữa sự kiện pháp lý và sự kiện
thực tế là ý nghĩa của chúng đối với pháp luật. Sự kiện nào xảy ra trong thực tế
mà có ý nghĩa, đối với pháp luật thì được gọi là sự kiện pháp lý và nó được coi là
cầu nối giữa QPPL và QHPL. Tuy nhiên, sự kiện trên thực tế chỉ trở thành sự
kiện pháp lý khi nào pháp luật xác định rõ được điều đó.
Vậy, Sự kiện pháp lý là những sự kiện trong thực tế mà sự xuất hiện hay
mất đi của chúng được pháp luật gắn liền với việc hình thành, thay đổi hoặc
chấm dứt QHPL.
2. Phân loại sự kiện pháp lý
Sự kiện pháp lý trong xã hội rất đa dạng, căn cứ vào tiêu chuẩn ý chí sự
kiện pháp lý được chia thành 02 loại:
a. Sự biến
Là những hiện tượng trong tự nhiên xảy ra ngoài ý muốn của con người,
mà trong những trường hợp nhất định, PL gắn việc xuất hiện của chúng với sự
hình thành, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể. Ví dụ: Lý do
khách quan là căn cứ miễn trách nhiệm cho một bên có nghĩa vụ giao hàng
không đúng thời hạn; sinh, tử, ngày, một cá nhân tròn 18 tuổi...
b. Hành vi
Hành vi (hành động hoặc không hành động) là những sự kiện xảy ra theo
ý chí của con người, là hình thức biểu thị ý chí của chủ thể pháp luật.
Hành vi có hành vi hợp pháp và bất hợp pháp.
Ngoài ra sự kiện pháp lý còn đưực phân loại thành:
- Sự kiện pháp lý khẳng định là sự kiện mà sự xuất hiện của chúng được
gắn với những hậu quả pháp lý.
- Sự kiện pháp lý phủ định là sự kiện mà sự vắng mặt của chúng được
gắn với những hậu quả pháp lý. Ví dụ: Nếu không có kháng cáo thì sáu 15 ngày
bản án có hiệu lực pháp luật.
Chú ý: Để làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt Quan hệ pháp luật có thể
chỉ cần một sự kiện pháp lý (gọi là sự kiện pháp lý đơn nhất) nhưng cũng có thể
cần một tập hợp các sự kiện pháp lý (SKPL phức hợp).
Chương 7. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT, VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
I. KHÁI NIỆM VÀ CÁC HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
1. Khái niệm và đặc điểm của thực hiện pháp luật (THPL)
a. Khái niệm THPL
Nhà nước ban hành Pháp luật (PL) nhằm xác định "khả năng" ứng xử của
mọi chủ thể. Khả năng đó chỉ có thể trở thành hiện thực, hay nói cách khác pháp
luật chỉ có ý nghĩa đích thực của nó khi được các chủ thể nghiêm chỉnh thực
hiện. Thực hiện pháp luật (THPL) là thực hiện đúng, đầy đủ các đòi hỏi, các yêu
cầu của pháp luật đối với chủ thể khi tham gia vào một quan hệ pháp luật. Ý
thức pháp luật của các chủ thể chỉ là điều kiện "cần" để pháp luật đi vào cuộc
sống, điều kiện "đủ" để pháp luật đi vào cuộc sống phải là hành vi hợp pháp của
các chủ thể.
THPL là việc xem xét pháp luật trong trạng thái "động" khi pháp luật được
áp dụng vào cuộc sống, trở thành những mối quan hệ pháp lý, thể hiện thông
qua hành vi pháp luật của chủ thể.
Vậy, THPL là một hoạt động có mục đích nhằm biến các quy phạm pháp
luật thành hiện thực trong cuộc sống để các chủ thể khi tham gia vào quan hệ xã
hội được pháp luật điều chỉnh thực hiện đúng, đầy đủ các đòi hỏi của pháp luật.
b. Đặc điểm của THPL
- THPL là một trong những hình thức để thực hiện nhiệm vụ, chức năng
của Nhà nước (chức năng hành pháp và tư pháp).
- THPL là hoạt động hiện thực hóa các Quy phạm pháp luật vào đời sống
xã hội.
- Hình thức của THPL là hành vi pháp luật của chủ thể.
- Hành vi (hành động hoặc không hành động) hợp pháp là biểu hiện cơ
bản của THPL.
- Nội dung và cũng là mục đích cơ bản trong việc THPL là việc thực hiện
các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể.
- Hành vi hợp pháp của chủ thể đem lại lợi ích cho xã hội và cho chính chủ
thể.
- THPL do chủ thể có năng lực hành vi thực hiện.
2. Mục đích và ý nghĩa của THPL
THPL nhằm cụ thể hóa các quy định của pháp luật vào thực tiễn của đời
sống xã hội. Bên cạnh đó, THPL nhằm tạo ra trật tự pháp luật, tạo ra một trật tự
cần thiết để xã hội tồn tại và phát triển. Tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi để
các chủ thể đạt được mục đích của mình.
Thông qua quá trình THPL các chủ thể sẽ phát hiện được những hạn chế,
những lỗ hổng, những bất cập của pháp luật, từ đó đề ra phương hướng và giải
pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật. Hơn nữa, thông qua quá trình THPL sẽ
nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân.
3. Các hình thức THPL
Căn cứ vào tính chất của hoạt động THPL, khoa học pháp lý đã xác định
những hình thức THPL sau:
a. Tuân thủ (tuân theo) pháp luật:
Là một hình thức THPL, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không
tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm.
- Chủ thể: mọi chủ thể pháp luật (cá nhân, tổ chức).
- Cách thức: chủ thể thực hiện hành vi không hành động.
- Nội dung: là nghĩa vụ chung của chủ thể.
- Ý chí: chủ thể thụ động.
- Mục đích: thỏa mãn lợi ích của chủ thể khác.
- Khả năng lựa chọn: không có khả năng lựa chọn.
Ví dụ: Không xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác;
dừng phương tiện giao thông khi gặp đèn đỏ...
b. Thi hành (chấp hành) pháp luật:
Là một hình thức THPL, trong đó chủ thể thực hiện nghĩa vụ của mình khi
tham gia vào quan hệ pháp luật, hoặc chấp hành trách nhiệm pháp lý.
- Chủ thể: mọi chủ thể pháp luật (cá nhân, tổ chức).
- Cách thức: chủ thể thực hiện hành vi hành động.
- Nội dung: là nghĩa vụ cụ thể của chủ thể.
- Ý chí: chủ thể chủ động.
- Mục đích: thỏa mãn lợi ích của chủ thể khác.
- Khả năng lựa chọn: không có khả năng lựa chọn.
Ví dụ: Cứu giúp người khác trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng;
thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng...
c. Sử dụng (vận dụng) pháp luật:
Là một hình thức THPL, trong đó chủ thể dựa vào các quy định của pháp
luật để thực hiện quyền pháp lý của mình.
- Chủ thể: mọi chủ thể pháp luật (cá nhân, tổ chức).
- Cách thức: chủ thể thực hiện hành vi hành động hoặc không hành động.
- Nội dung: là quyền của chủ thể.
- Ý chí: chủ thể chủ động.
- Mục đích: thỏa mãn lợi ích của chính chủ thể.
- Khả năng lựa chọn: có khả năng lựa chọn.
Ví dụ: Khiếu nại, khởi kiện...
d. Áp dụng pháp luật:
Là một hình thức THPL, trong đó cơ quan và cán bộ Nhà nước có thẩm
quyền tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật.
- Chủ thể: cơ quan, cán bộ Nhà nước hoặc tổ chức xã hội được Nhà nước
trao quyền.
- Cách thức: chủ thể thực hiện hành vi hành động hoặc không hành động.
- Nội dung: là quyền và nghĩa vụ của chủ thể.
- Ý chí: chủ thể chủ động.
- Mục đích: thỏa mãn lợi ích cho Nhà nước, xã hội và tổ chức, cá nhân.
- Khả năng lựa chọn: có hoặc không có khả năng lựa chọn.
Ví dụ: Chứng thực di chúc; giải quyết tranh chấp dân sự, kinh tế; truy cứu
trách nhiệm hình sự...
Khi ta sắp xếp các hình thức THPL trong thực tế cũng có nghĩa là hình
thức đầu tiên đơn giản nhất, sau đó các hình thức tiếp theo sẽ phức tạp dần.
II. ÁP DỤNG PHÁP LUẬT - MỘT HÌNH THỨC THPL ĐẶC THÙ
1. Khái niệm và đặc điểm của áp dụng pháp luật (ADPL)
a. Khái niệm áp dụng pháp luật:
- Áp dụng pháp luật là hình thức THPL có những nét đặc thù.
- Mục đích của áp dụng pháp luật đảm bảo cho các quy phạm pháp luật
được thực hiện triệt để trong thực tế.
- ADPL được coi là một phương tiện, một phương pháp tổ chức THPL.
- Nếu thiếu hình thức này thì trong nhiều trường hợp pháp luật sẽ không
được thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ.
Vậy, áp dụng pháp luật là một hình thức THPL trong đó nhà nước thông
qua các cơ quan, cán bộ nhà nước, các tổ chức được nhà nước trao quyền tổ
chức cho các chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình hay nhà nước tự
mình căn cứ vào các quy định của pháp luật ra các quyết định làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật.
b. Đặc điểm của ADPL:
* Thứ nhất: Hoạt động ADPL là hoạt động có tính tổ chức thực hiện
quyền lực Nhà nước.
Bởi vì: Hoạt động ADPL chỉ do cơ quan, cán bộ Nhà nước có thẩm quyền
hay tổ chức được Nhà nước trao quyền thực hiện. (Ví dụ: Tòa án, UBND...).
Hoạt động ADPL chủ yếu dựa trên ý chí đơn phương của Nhà nước và các
quyết định của Nhà nước trong quá trình ADPL có ý nghĩa bắt buộc đối với các
chủ thể. Trong trường hợp cần thiết quyết định ADPL được bảo đảm thực hiện
bằng biện pháp cưỡng chế.
* Thứ hai: Hoạt động ADPL là hoạt động có tính hình thức và được thực
hiện theo một trình tự thủ tục chặt chẽ.
- Về hình thức: Chủ yếu của hoạt động ADPL là văn bản áp dụng pháp
luật. (Ví dụ: Bản án; quyết định...).
- Về thủ tục: Tùy thuộc vào quan hệ pháp luật mà trình tự thủ tục ADPL
khác nhau: về chủ thể, về nguyên tắc, về thời gian... (Ví dụ: Thủ tục tố tụng).
* Thứ ba: ADPL là hoạt động cá biệt hóa quy phạm pháp luật vào trường
họp cụ thể để đưa quy phạm pháp luật vào hiện thực cuộc sống.
* Thứ tư: Hoạt động ADPL là hoạt động có tính sáng tạo khi áp dụng các
quy phạm pháp luật vào trường hợp cụ thể.
Bên cạnh những đặc điểm riêng biệt nói trên thì giữa hoạt động hoạt động
ADPL và sáng tạo pháp luật còn có nhiều điểm tương đồng.
Nếu hoạt động sáng tạo pháp luật là hình thức để quản lý xã hội thì hoạt
động ADPL được coi như là hình thức pháp luật thứ hai để quản lý Nhà nước.
Bởi vì khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, bằng cách này Nhà nước
đã thực hiện việc quản lý xã hội. Sau đó, Nhà nước cần can thiệp vào mỗi vấn
đề cụ thể trong đời sống xã hội chỉ sau khi Nhà nước ban hành các văn bản tiếp
theo về việc ADPL, thì lúc đó mới quản lý xã hội trực tiếp và cụ thể.
Điểm khác biệt cơ bản giữa hai hoạt động này chính là ở nội dung hoạt
động. Nếu hoạt động sáng tạo pháp luật là đưa ra các văn bản pháp luật mang
đặc điểm chung thì ADPL đưa ra các văn bản pháp luật mang tính chất cá biệt
đối với từng trường hợp cụ thể.
Ngoài sự khác biệt trên thì hoạt động ADPL đều gần gũi với hoạt động
sáng tạo pháp luật. Cụ thể:
- ADPL uà sáng tạo pháp luật đều là hình thức để Nhà nước thực hiện
quản lý xã hội.
- Các chủ thể của hoạt động ADPL và sáng tạo pháp luật cũng là các chủ
thể có thẩm quyền theo luật định.
- Hai hoạt động này đều mang đặc điểm quyền lực Nhà nước, thể hiện ý
chí của Nhà nước.
- Hai hoạt động này đều được tiến hành theo trình tự, thủ tục nhất định,
mặc dù thủ tục cụ thể khác nhau, nhưng đều do các quy phạm pháp luật quy
định.
2. Các trường hợp cần ADPL
- Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế hoặc chế tài đối với chủ thể vi
phạm pháp luật. (Ví dụ: Bắt người; thi hành bản án hình sự...).
- Khi những quyền và nghĩa vụ của chủ thể không mặc nhiên phát sinh
nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước. (Ví dụ: Kết hôn; thực hiện nghĩa vụ quân
sự...).
- Khi có sự tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham gia quan
hệ pháp luật mà họ không thể tự giải quyết được. (Ví dụ: Tranh chấp kinh tế, dân
sự...).
- Trong một số quan hệ pháp luật nhất định mà Nhà nước thấy cần thiết
phải tham gia để kiểm tra giám sát các bên trong việc thực hiện quyền và nghĩa
vụ của mình. Hoặc để xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của một sự việc, sự
kiện nào đó. (Ví dụ: Kiểm tra hoạt động kinh doanh của các chủ thể; chứng thực
di chúc, hợp đồng...).
3. Các giai đoạn của quá trình ADPL
ADPL là hoạt động rất phức tạp. Hoạt động đó trước hết nhằm:
- Xác định những tình tiết thực tế của vụ việc và tầm quan trọng pháp lý
của nó.
- Tìm kiếm và phân tích quy phạm pháp luật thích ứng với vụ việc đó.
- Ra quyết định giải quyết vụ việc.
- Tổ chức thực hiện quyết định đã ban hành.
Với tính cách là một quá trình, ADPL được chia ra các giai đoạn, mỗi một
giai đoạn trong quá trình ADPL có mối quan hệ mật thiết với nhau, giai đoạn đầu
là tiền đề để thực hiện các giai đoạn sau. Các giai đoạn đó là:
a. Nghiên cứu để làm sáng tỏ mọi tình tiết khách quan của vụ việc xảy ra cần ADPL:
Yêu cầu:
- Nghiền cứu khách quan toàn diện và đầy đủ những tình tiết liên quan
đến vụ việc.
- Xác định đặc trưng và ý nghĩa pháp lý của nó.
- Tuân thủ tất cả các quy định mang tính thủ tục gắn với mỗi loại vụ việc.
Mục đích: Đảm bảo tính có căn cứ và tính hợp pháp của văn bản ADPL.
b. Lựa chọn quy phạm pháp luật cần áp dụng, phân tích làm sáng tỏ nội dung, ý nghĩa của quy phạm pháp luật cần áp dụng:
Yêu cầu:
- Lựa chọn quy phạm pháp luật cần áp dụng cho trường hợp đó.
- Xác định quy phạm được lựa chọn đang có hiệu lực và không mâu thuẫn
với các văn bản khác.
- Xác định tính chân chính của văn bản chứa đựng quy phạm pháp luật
cần áp dụng.
- Làm sáng tỏ và nhận thức đúng nội dung tư tưởng của quy phạm pháp
luật.
Mục đích: Nhằm đảm bảo nguyên tắc pháp chế, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân tổ chức.
c. Ra văn bản ADPL:
Yêu cầu:
- Văn bản ADPL phải xuất từ thực tế khách quan mà không được xuất
phát từ động cơ cá nhân.
- Văn bản ADPL phải ban hành đúng thẩm quyền, tên gọi, cơ sở thực tế
và cơ sở pháp lý.
- Nội dung của văn bản phải rõ ràng, chính xác về trường hợp cụ thể, chủ
thể và chỉ được thực hiện một lần.
Mục đích: Nhằm đảm bảo nguyên tắc pháp chế, tạo điều kiện thuận lợi
trong việc tổ chức thực hiện văn bản ADPL.
d. Tổ chức thực hiện văn bản ADPL:
Yêu cầu:
- Đảm bảo về mặt vật chất, kỹ thuật cho việc thực hiện đúng văn bản
ADPL.
- Kiểm tra, giám sát việc thi hành văn bản ADPL.
Mục đích: Đảm bảo cho văn bản ADPL được thực hiện nghiêm chỉnh trong
cuộc sống.
4. Văn bản áp dụng pháp luật - hình thức chủ yếu của hoạt động áp dụng pháp luật
a. Khái niệm văn bản ADPL:
Hình thức biểu hiện bên ngoài của hoạt động ADPL có thể bằng miệng
hoặc bằng văn bản. Tuy nhiên, trong hoạt động ADPL biểu hiện chủ yếu là văn
bản ADPL. Vậy, văn bản ADPL là gì?
Văn bản ADPL là văn bản pháp lý cá biệt do các chủ thể có thẩm quyền
ADPL ban hành trên cơ sở những quy phạm pháp luật nhằm xác định các quyền
và nghĩa vụ pháp lý cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức hoặc xác định những
biện pháp cưỡng chế, chế tài đối với chủ thể vi phạm pháp luật.
(Ví dụ: Quyết định tuyển dụng công chức; bản án của Tòa án...).
b. Đặc điểm của văn bản ADPL:
- Do cơ quan Nhà nước, cán bộ có thẩm quyền hoặc tổ chức xã hội được
Nhà nước trao quyền ban hành.
- Được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực Nhà nước.
- Có tính chất cá biệt, chỉ áp dụng một lần đối với chủ thể cụ thể trong
trường hợp cụ thể.
- Phải hợp pháp và phù hợp với thực tế.
- Được thể hiện trong những hình thức pháp lý xác định.
c. Phân loại văn bản ADPL:
Căn cứ vào nội dung và nhiệm vụ của văn bản ADPL, có thể chia chúng
thành hai loại:
- Văn bản xác định quyền và nghĩa vụ quyền và nghĩa vụ theo hướng tích
cực.
Là văn bản trong đó xác định cụ thể ai mang quyền chủ thể, ai mang nghĩa
vụ pháp lý bằng con đường cá biệt hóa phần quy định của quy phạm pháp luật.
(Ví dụ: Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn; giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất...)
- Văn bản bảo vệ pháp luật.
Là văn bản chứa đựng những biện pháp cưỡng chế, trừng phạt được quy
định trong phần chế tài của quy phạm pháp luật. (Ví dụ: Quyết định bắt người,
khám nhà; bản án hình sự...)
5. Áp dụng pháp luật tương tự
Hoạt động xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật đều được quyết định
bởi những điều kiện chung về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa... của xã hội,
nhưng biểu hiện và phạm vi của các yếu tố đó khác nhau:
- Đối với hoạt động xây dựng pháp luật, các quan hệ cần chú ý là những
quan hệ đã ổn định và điển hình nhất cần có sự điều chỉnh của pháp luật.
- Đối với hoạt động ADPL có thể có những quan hệ cụ thể hơn, nhiều hơn
về số lượng các bên tham gia quan hệ xã hội. Do ADPL có mức độ cụ thể như
vậy, nên khả năng tác động một cách có ý thức vào các quan hệ xã hội sẽ có
nhiều hơn. Nhờ đó, giúp "pháp luật" thấy được những "chỗ trống pháp luật" và
giải quyết được những "xung đột quy phạm" chính là thuộc về quá trình áp dụng
pháp luật.
- Chỗ trống pháp luật: Là những mảng quan hệ xã hội cụ thể thiếu sự điều
chỉnh của pháp luật mà lẽ ra phải được điều chỉnh. Khi ADPL mà gặp những chỗ
trống pháp luật cơ quan ADPL phải xác định những vấn đề sau:
*/ Xác định xem tình tiết cụ thể này có thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp
luật hay không và có nhu cầu phải điều chỉnh hay chưa và nên điều chỉnh như
thế nào?
*/ Xác định có thể dùng hình thức điều clilnh cụ thể tức là ADPL, để khắc
phục chỗ trống này.
*/ Tìm phương pháp điều chỉnh cụ thể đó.
Khi xảy ra trường hợp thiếu pháp luật để điều chỉnh như thế, phương
hướng giải quyết mang tính nguyên tắc là phải xây dựng pháp luật. Nhưng biện
pháp tình thế tạm thời để giải quyết những trường hợp trên là áp dụng pháp luật
tương tự.
Vậy, áp dụng pháp luật tương tự là biện pháp mang tính tạm thời trong
trường hợp có "chỗ trống" pháp luật cần được khắc phục thì áp dụng một quy
phạm khác, hoặc áp dụng tương tự pháp luật để điều chỉnh quan hệ ấy.
- Xung đột quy phạm: Là khi hai hay nhiều quy phạm pháp luật cùng điều
chỉnh một quan hệ xã hội, nhưng nội dung trái nhau hoặc mâu thuẫn với nhau.
Trong trường hợp này sẽ được giải quyết như sau: Nếu các văn bản có giá trị
pháp lý khác nhau thì văn bản nào có giá trị pháp lý cao hơn sẽ được áp dụng
để giải quyết; Nếu các quy phạm do cùng một cơ quan ban hành, thì văn bản
ban hành sau sẽ được áp dụng để giải quyết; Nếu xung đột giữa quy phạm
chung và quy phạm chuyên ngành thì áp dụng quy phạm chuyên ngành.
a. Điều kiện áp dụng pháp luật tương tự:
- Điều kiện chung:
ĐK 1: Vụ việc được xem xét phải có liên quan và có ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích của Nhà nước, xã hội hoặc của cá nhân đòi hỏi Nhà nước phải
xem xét giải quyết.
ĐK 2: Phải chứng minh một cách chắc chắn vụ việc cần xem xét giải quyết
không có quy phạm pháp luật nào trực tiếp điều chỉnh.
- Điều kiện riêng:
- Đối với áp dụng tương tự quy phạm pháp luật: phải xác định được quy
phạm pháp luật điều chỉnh trường hợp khác có nội dung gần giống như vậy.
- Đối với áp dụng tương tự pháp luật: phải xác định là không có quy phạm
pháp luật điều chỉnh vụ việc tương tự với vụ việc cần giải quyết (không thể giải
quyết vụ việc theo nguyên tắc tương tự quy phạm pháp luật).
b. Các hình thức áp dụng pháp luật tương tự:
- Áp dụng tương tự quy phạm pháp luật.
Là hình thức áp dụng pháp luật tương tự, trong đó chủ thể áp dụng pháp
luật áp dụng một quy phạm pháp luật để giải quyết một vụ việc tương tự với một
vụ việc khác được quy phạm pháp luật này trực tiếp điều chỉnh.
- Áp dụng tương tự pháp luật.
Là hình thức áp dụng pháp luật tương tự, trong đó chủ thể áp dụng pháp
luật dựa trên nguyên tắc chung của pháp luật và ý thức pháp luật để giải quyết
vụ việc cụ thể mà chưa có quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh và cũng
không thể áp dụng tương tự quy phạm pháp luật.
ADPL tương tự không áp dụng trong lĩnh vực hành chính; hình sự.
6. Giải thích pháp luật
a. Khái niệm giải thích pháp luật:
Như đã nói trên, ở giai đoạn hai của hoạt động ADPL các cơ quan có thẩm
quyền không những phải lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp mà còn phải làm
sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của quy phạm pháp luật đối với trường hợp cần áp
dụng. Giải thích pháp luật là quá trình tự nhận thức và giải thích cho người khác
hiểu về quy phạm pháp luật cần áp dụng.
Tự nhận thức là mỗi người tự tìm hiểu văn bản quy phạm pháp luật, tự
nhận thức nội dung của văn bản pháp luật đó. Sau khi đã nắm rõ nội dung thì
cần phải giải thích cho những người liên quan hiểu được. Không thể giải thích
cho người khác nếu người giải thích không nắm được vấn đề.
Tự nhận thức và giải thích cho người khác hiểu là hai giai đoạn của quá
trình giải thích pháp luật. Nó có vai trò rất quan trọng trong việc THPL nói chung
và ADPL nói riêng.
Vậy, giải thích pháp luật là một quá trình tư duy, làm sáng tỏ về mặt tư
tưởng và nội dung các quy phạm pháp luật, bảo đảm cho việc nhận thức và thực
hiện thống nhất pháp luật.
b. Các loại giải thích pháp luật:
Căn cứ vào Chủ thể tiến hành giải thích và đặc trưng của sự giải thích, có
thể chia giải thích pháp luật thành hai loại:
- Giải thích chính thức.
Giải thích chính thức do các cơ quan có thẩm quyền tiến hành và được ghi
nhận trong các văn bản chính thức. Các văn bản giải thích chính thức có ý nghĩa
pháp lý đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền cần phải tính đến trong việc ADPL.
Giải thích chính thức có những đặc trưng cơ bản sau:
- Được tiến hành bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Là việc giải thích có hiệu lực pháp lý bắt buộc.
- Được ghi nhận trong các văn bản giải thích pháp luật.
(Ví dụ: Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán; Thông tư của các Bộ...)
Giải thích chính thức gồm:
*/ Giải thích mang tính quy phạm: Là sự giải thích có tính chất bắt buộc
chung, hình thành từ kết quả của sự khái quát hóa thực tế thực hiện và ADPL, từ
đó xác định sự thực hiện, áp dụng thống nhất các quy phạm pháp luật.
*/ Giải thích chính thức cụ thể: Có hiệu lực đối với một vụ việc pháp lý cụ
thể. Còn đối với các vụ việc pháp lý khác không có giá trị.
- Giải thích không chính thức.
Giải thích không chính thức là sự giải thích tư tưởng, nội dung của các
quy phạm pháp luật nhưng không mang tính chất bắt buộc phải hiểu, hành động
theo cách giải thích đó. (Ví dụ: Bình luận khoa học bộ luật hình sự; các bài viết
trên tạp chí chuyên ngành...).
Giải thích không chính thức có những đặc trưng cơ bản sau:
- Được tiến hành bởi mọi cá nhân tổ chức.
- Không có tính buộc trong hoạt động ADPL (có ý nghĩa tác động tới ý
thức pháp luật của các chủ thể).
- Thường được giải thích trên các sách báo pháp lý.
c. Các phương pháp giải thích pháp luật:
Để làm sáng tỏ nội dung, tư tưởng và ý nghĩa của quy phạm pháp luật,
trong lý luận về pháp luật người ta đưa ra các phương pháp giải thích sau:
- Phương pháp giải thích về mặt văn phạm (ngữ nghĩa)
Là phương pháp giải thích nhằm làm sáng tỏ nội dung tư tưởng của quy
phạm pháp luật bằng cách làm rõ nghĩa của từng chữ từng câu, mối liên hệ giữa
các phần hay các cụm từ, liên từ, giới từ...
Phương pháp này được chia ra:
*/ Phương pháp giải thích từ ngữ: Là ý nghĩa của văn bản pháp luật được
giải thích theo ý nghĩa của từng từ riêng biệt.
Ví dụ: Tái phạm, tội kéo dài, tội ghép...
*/ Phương pháp giải thích theo cú pháp: Là giải thích về cách đặt dấu
chấm, phẩy, mối liên hệ giữa các từ...
Ví dụ: Tử hình, không nên tha bổng - Chết.
Tử hình không nên, tha bổng - sống.
Và hay hoặc...
- Phương pháp giải thích lôgích.
Là phương pháp giải thích sử dụng những suy đoán logic để làm sáng tỏ
nội dung của quy phạm pháp luật. Nghĩa là phân tích các khái niệm, so sánh với
các khái niệm gần với nó. Phương pháp này thường được sử dụng trong trường
hợp lời văn của quy phạm không trực tiếp nói đến yêu cầu của Nhà nước.
(Ví dụ: Phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái phẩm...)
- Phương pháp giải thích về mặt chuyên môn nghiệp vụ.
Là phương pháp giải thích trong những trường hợp điều luật không thể
hiểu được đầy đủ nếu không nói rõ những nội dung pháp lý mà chỉ những ai
nắm được chuyên môn về pháp luật mới hiểu được.
(Ví dụ: Giải thích nội dung của thuật ngữ: sở hữu; án treo...).
- Phương pháp giải thích hệ thống.
Là phương pháp giải thích thể hiện ở việc phân tích ý nghĩa và nội dung
của quy phạm pháp luật thông qua việc xác định vị trí của quy phạm pháp luật đó
hay của văn bản đó trong hệ thống pháp luật, đối chiếu, so sánh với các điều
luật hay văn bản khác và chỉ ra mối liên hệ giữa các điều luật hoặc các văn bản
đó với nhau.
Ví dụ: Giải thích khái niệm tội phạm - là khái niệm trung tâm của Luật Hình
sự.
- Phương pháp giải thích về mặt lịch sử - xã hội.
Là phương pháp giải thích bằng cách phân tích nội dung quy phạm pháp
luật thông qua việc nghiên cứu các điều kiện lịch sử của việc ra đời văn bản có
chưa quy phạm đó, những kinh nghiệm bằng việc điều chỉnh bằng văn bản có
trước đó hoặc của văn bản cùng loại trong nhung điều kiện và bối cảnh xã hội
tương tự.
(Ví dụ: Giải thích cơ sở không truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không tố
giác tội phạm đối với những người có quan hệ thân thích; hàng thừa kế trong
chế định thừa kế...).
- Phương pháp giải thích theo khối lượng.
Là các cách thức giải thích sau:
*/ Giải thích đúng nguyên văn: Là giải thích quy phạm pháp luật theo đúng
từng câu, từng chữ đúng với ý nghĩa các câu trong văn bản. Đây là phương
pháp giải thích phổ biến nhất trong thực tế.
*/ Giải thích theo hướng mở rộng: Là giải thích nội dung và ý nghĩa của
quy phạm pháp luật rộng hơn một chút so với ý nghĩa được thực hiện bằng từ
ngữ trong văn bản.
*/ Giải thích hạn chế: Là giải thích nội dung và ý nghĩa văn bản hẹp hơn
một chút so với nội dung mà ngôn ngữ trong văn bản đã trình bày.
Ví dụ: Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.
Trong thực tế, tất cả các hình thức giải thích pháp luật nói trên không phải
áp dụng tách biệt mà phối hợp với nhau, quan hệ mật thiết với nhau. Trong mọi
trường hợp việc giải thích một cách thô bạo cũng như giải thích hời hợt đều
không cho phép.
SO SÁNH CÁC HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
SO SÁNH
TIÊU CHÍTUÂN THỦ
PLTHI HÀNH
PLSỬ DỤNG
PLÁP DỤNG
PL
GIỐNG
- Là hình thức thực hiện PL.
- Thể hiện bằng hành vi hợp pháp, có lợi.
- Do chủ thể có năng lực hành vi thực hiện.
GIỐNG
VÀ
KHÁC
Chủ thể Mọi chủ thể Mọi chủ
thể
Mọi chủ thể Nhà nước
Nội dung Nghĩa vụ Nghĩa vụ Quyền Quyền - N.vụ
Cách thức
thực hiện
Không hành
động
Hành động Hành động
hoặc không
hành động
Hành động
hoặc không
hành động
Ý chí Bị động Chủ động Chủ động Chủ động
Mục đích Bảo vệ lợi
ích cho chủ
thể khác
Bảo vệ lợi
ích cho chủ
thể khác
Bảo vệ lợi ích
cho chính chủ
thể
Bảo vệ lợi ích
cho mọi chủ
thể
Khả năng
lựa chọn
Không Không Có Có hoặc
không
Khả năng
xử sự
Cấm đoán Bắt buộc Cho phép Bắt buộc
SO SÁNH ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TƯƠNG TỰ VÀ TIỀN LỆ PHÁP
SO SÁNH
TIÊU CHÍÁP DỤNG PL TƯƠNG
TỰTIỀN LỆ PHÁP
GIỐNG
- Thông qua PL để trực tiếp điều chỉnh các quan hệ xã
hội.
- Cùng được áp dựng cho một vụ việc tương tự.
KHÁC
Nguồn Không phải là nguồn của
PL
Nguồn của PL
Hoạt động Áp dụng PL Sáng tạo PL
Chủ thể Nhiều cơ quan Tòa án
Cơ sở áp
dụng
Dựa vào quy phạm PL,
nguyên tắc, ý thức PL
Dựa vào bản án trước đó để
áp dụng cho vụ việc sau
Tính chất Tạm thời, tình thế Ổn định, lâu dài
Trường hợp
áp dụng
Khi có chỗ trống PL Khi có vụ việc tương tự như
vụ việc trước đây Tòa án đã
giải quyết
III. VI PHẠM PHÁP LUẬT
1. Khái niệm vi phạm pháp luật
Pháp luật là hệ thống quy tắc của hành vi, là tiêu chuẩn của hành vi con
người. Trong hoạt động thường ngày của mỗi con người biểu hiện ra thế giới
khách quan là những hành vi nhằm thỏa mãn các lợi ích vật chất và tinh thần,
trong những hoạt động ấy, có những hành vi được pháp luật điều chỉnh mà chủ
thể bắt buộc phải thực hiện, gọi là hành vi pháp luật. Vậy, hành vi chính là những
phản ứng, cách xử sự được biểu hiện ra bên ngoài của con người trong những
hoàn cảnh điều kiện nhất định. Mỗi hành vi đều được hình thành trên cơ sở nhận
thức và kiểm soát của chủ thể, nghĩa là chủ thể ý thức được và chủ động thực
hiện nó. Những hoạt động của con người trong trạng thái vô thức không thể coi
là hành vi.
Hành vi của con người được biểu đạt ra bên ngoài bằng những phương
thức khác nhau (hành động hoặc không hành động), nghĩa là nó phải thể hiện
trong thế giới khách quan thông qua những thao tác hành động hoặc không
hành động của chủ thể và các chủ thể khác có thể nhận biết được điều đó. Hành
vi của chủ thể có thể là hành vi thực hiện pháp luật (hành vi hợp pháp) hoặc
hành vi không thực hiện pháp luật (hành vi bất hợp pháp). Thông thường, khi
tham gia vào các quan hệ pháp luật, đa phần các chủ thể có hành vi hợp pháp,
tuy nhiên trong xã hội vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà vẫn còn nhiều chủ
thể thực hiện hành vi bất hợp pháp, hay còn gọi là hành vi trái pháp luật. Nhưng
hành vi trái pháp luật chưa hẳn đã là vi pháp pháp luật, vì vi phạm pháp luật cần
phải thỏa mãn nhiều yếu tố khác nhau. Vậy, một hành vi như thế nào thì mới
được coi là vi phạm pháp luật? câu trả lời sẽ là: Vi phạm pháp luật là hành vi trái
pháp luật, do chủ thể có năng lực hành vi thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xân
hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ và gây hậu quả hoặc đe dọa
gây hậu quả thiệt hại cho xã hội.
2. Đặc điểm của vi phạm pháp luật
Nghiên cứu các đặc điểm của vi phạm pháp luật không những sẽ cho
chúng ta thấy được sự khác biệt với hành vi hợp pháp mà còn cho chúng ta thấy
được sự khác biệt với hành vi trái pháp luật cũng như hành vi vi phạm các quy
tắc khác trong xã hội. Vi phạm pháp luật có những đặc điểm cơ bản sau:
- Vi phạm pháp luật luôn luôn là hành vi của con người Nghĩa là nó phải
được biểu hiện ra bên ngoài và các chủ thể khác có thể nhận biết được dưới
dạng hành động hoặc không hành động (hành vi hành động là hành vi mà chủ
thể phải thực hiện bằng những thao tác nhất định; hành vi không hành động là
hành vi mà chủ thể thực hiện nó bằng cách không tiến hành những thao tác nhất
định). Hơn nữa, nói vi phạm pháp luật phải là hành vi, bởi những suy nghĩ, tâm
tư, tình cảm không phải là đối tượng của pháp luật nên cho dù suy nghĩ đó có
xấu xa, nguy hiểm thế nào đi chăng nữa thì cũng không thể là vi phạm pháp luật.
Ví dụ: Một người luôn có ý nghĩ tước đoạt tính mạng của người khác vì đã xâm
hại đến tính mạng cha mình đề trả, thù thì cũng không phải là vi phạm pháp luật.
- Hành vi đó phải là hành vỉ trái pháp luật. Vì hành vi của chủ thể biểu hiện
ra bên ngoài có thể là hành vi hợp pháp hoặc bất hợp pháp. Vậy, bất cứ vi phạm
pháp luật nào cũng hàm chứa trong nó hành vi trái pháp luật, không có hành vi
trái pháp luật thì cũng không có vi phạm pháp luật. Nghĩa là, chủ thể đã xâm hại
đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Ví dụ: Không dừng xe khi có tín
hiệu đèn đỏ, không nộp thuế, không chung thủy trong quan hệ vợ chồng...
- Hành vi đó có tính nguy hiểm cho xã hội. Nếu hành vi hợp pháp là hành
vi có ích cho xã hội thì hành vi vi phạm pháp luật luôn có tính nguy hiểm cho xã
hội, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm pháp luật thể hiện ở chỗ nó
có thể gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội. Tuy nhiên,
tinh chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội là khác nhau giữa các loại vi phạm
pháp luật.
- Hành vi đó phải do chủ thể có năng lực hành vi thực hiện. Nếu chủ thể
không có năng lực hành vi, thì chủ thể không tự mình hưởng quyền và thực hiện
nghĩa vụ pháp lý cũng như phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Nếu hành
vi trái pháp luật do chủ thể không có năng lực hành vi thực hiện thì trong trường
hợp này người đại diện, giám hộ phải chịu trách nhiệm hoặc họ chỉ là công cụ
phạm tội. Ví dụ: Con chưa thành niên gây thiệt hại thì cha mẹ phải gánh chịu;
người đủ 16 tuổi xúi giục người không đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự chui vào
nhà người khác lấy trộm tài sản thì người xúi giục phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Hành vi đó phải có lỗi Lỗi là yếu tố chủ quan thể hiện thái độ của chủ thể
đối với hành vi trái pháp luật của mình. Nếu chủ thể thực hiện hành vi trái pháp
luật nhưng do điều kiện hoàn cảnh khách quan, chủ thể không tự mình lựa chọn
được cách thức xử sự theo yêu cầu của pháp luật thì bị coi là không có lỗi. Hành
vi có lỗi là hành vi mà chủ thể nhận thức và điều khiển được hành vi của mình
nhưng đã lựa chọn xử sự trái pháp luật. Ví dụ: Một người đã thành niên bình
thường, hút thuốc và ném tàn thuốc làm cháy rừng, cháy nhà, cháy cây xăng...
thì bị coi là có lỗi. Trong trường hợp này người đó không thể nói là không biết
hay không có lỗi. Hoặc người gây tai nạn giao thông không thể nói là không có
lỗi.
Trên đây là những đặc điểm, những dấu hiệu cơ bản của vi phạm pháp
luật, khi xem xét một vi phạm pháp luật chúng ta phải xem xét các đặc điểm trên
trong mối quan hệ với nhau, không được xem xét phiến diện một vài đặc điểm
rồi đưa ra kết luận về hành vi vi phạm pháp luật.
3. Cấu thành vi phạm pháp luật
Nghiên cứu cấu thành của vi phạm pháp luật sẽ cho chúng ta có được cái
nhìn toàn diện về vi phạm pháp luật và thông quá đó chúng ta sẽ lý giải được
nhiều vấn đề liên quan đến hậu quả của nó như: mức độ xử lý, hình thức xử lý,
biện pháp xử lý... Nói đến cấu thành vi phạm pháp luật là chúng ta đề cập đến
các yếu tố của nó theo quan điểm cấu trúc, đó là các yếu tố không thể thiếu
được để một hành vi được coi là vi phạm pháp luật. Các yếu tố cấu thành của vi
phạm pháp luật bao gồm:
a. Mặt khách quan:
Bất cứ một hành vi nào của con người biểu hiện ra bên ngoài đều để lại
những dấu vết, hình ảnh - đó là thuộc tính phản ánh của vật chất. Vậy, mặt
khách quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện ra bên ngoài mà không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của chủ thể thực hiện. Nó bao gồm các yếu tố
sau:
- Hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật là yếu tố không thể thiếu khi
xem xét mặt khách quan của vi phạm pháp luật, nếu thiếu nó thì không cần thiết
phải xem xét đến các yếu tố khác. Tính trái pháp luật của hành vi thể hiện ở chỗ
chủ thể làm không đúng điều pháp luật cho phép, không là hoặc làm không đầy
đủ điều pháp luật bắt buộc phải làm hoặc làm điều mà pháp luật cấm. Ví dụ:
Hành vi đi vào đường cấm, dùng vũ khí làm bị thương nạn nhân...
- Hậu quả. Bất cứ một hành vi trái pháp luật nào cũng đều gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, nó là
yếu tố không thể thiếu của mặt khách quan. Hậu quả là yếu tố có thể là yếu tố để
xác định vi phạm pháp luật hoàn thành hoặc là yếu tố để xác định mức độ xử lý.
Ví dụ: Hành vi trốn thuế gây thất thu cho ngân sách Nhà nước; hành vi xây dựng
trái phép phá vỡ qui hoạch, cảnh quan đô thị...
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả. Mối quan
hệ này thể hiện ở chỗ hậu quả xảy ra là có nguyên nhân trực tiếp từ hành vi trái
pháp luật. Nếu giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả không có mối liên hệ với
nhau, thì hậu quả đó có thể do một nguyên nhân khác. Việc xác định mối quan
hệ nhân quả có ý nghĩa hết sức quan trọng, nếu xác định sai có thể sẽ ra tình
trạng oan sai. Ví dụ: A là tài xế xe tải gây tai nạn cho B, A đưa B vào bệnh viện
chữa trị, một ngày sau B chết. Bệnh viện kết luận cái chết của B là do bị thương
nặng và mất máu quá nhiều. A cho rằng, cái chết của B không thể là hậu quả do
hành vi của mình gây ra và đề nghị được mổ giám định tử thi. Sau khi giám định,
Hội đồng giám định đưa ra kết luận cái chết của B là do "chích nhầm thuốc".
- Ngoài ra trong mặt khách quan còn có các yếu tố như: thời gian, địa
điểm, công cụ, phương tiện vi phạm... Đây là những yếu tố không quyết định,
nhưng nó đóng vai trò quan trọng trong việc định lượng mức độ xử lý. Ví dụ: Giết
1 người bằng lựu đạn sẽ nguy hiểm hơn giết 1 người bằng tay, chân; Tham ô 10
triệu đồng tiền cứu trợ đồng bào lũ lụt sẽ bị xử lý nặng hơn tham ô 10 triệu thông
thường.
Có thể nói rằng, mặt khách quan là yếu tố hết sức quan trọng trong cấu
thành của vi phạm pháp luật, nhờ có mặt khách quan mà cơ quan Nhà nước có
thể tìm ra và xác định một cách chính xác sự thật của vụ việc hoặc vụ án.
b. Mặt chủ quan:
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện tâm lý bên trong
của chủ thể vi phạm. Muốn xác định được mặt chủ quan phải thông qua mặt
khách quan, việc xác định mặt chủ quan của vi phạm pháp luật không những xử
lý đúng người, đúng mức độ vi phạm mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc
cải tạo, giáo dục người vi phạm trở thành người có ý thức pháp luật cao, không
tái phạm hành vi vi phạm pháp luật. Mặt chủ quan bao gồm các yếu tố sau:
- Lỗi của chủ thể vi phạm: Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành
vi và hậu quả. Nó là yếu tố thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể. Thái độ của chủ
thể đối với hành vi và hậu quả thể hiện ở hai mặt lý trí và ý chí và cũng dựa trên
hai mặt đó khoa học pháp lý chia lỗi thành lỗi cố ý và lỗi vô ý.
Lỗi cố ý gồm có:
* Lỗi cố ý trực tiếp: Chủ thể vi phạm pháp luật nhận thức được hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước thiệt hại cho xã hội do hành vi của
mình gây ra nhưng mong muốn hậu quả xảy ra. Ví dụ: Trộm cắp luôn có lỗi cố ý
trực tiếp.
* Cố ý gián tiếp: Chủ thể vi phạm nhận thức được hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước thiệt hại cho xã hội do hành vi của hành vi của
mình gây ra, tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy
ra. Ví dụ: Cố ý gây thương tích thường có lỗi cố ý gián tiếp.
Lỗi vô ý gồm có:
* Vô ý vì quá tự tin: Chủ thể của vi phạm nhận thấy trước hậu quả thiệt hại
cho xã hội do hành vi của mình gây ra, nhưng hy vọng, tin tưởng hậu quả đó
không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được. Ví dụ: Vi phạm các quy tắc nghề
nghiệp thường do lỗi vô ý vì quá tự tin như bác sĩ chích thuốc có phản ứng mà
không thử.
* Vô ý do cẩu thả: Chủ thể vi phạm do khinh suất, cẩu thả nên không nhận
thấy trước thiệt hại cho xã hội do hành vi của mình gây ra, mặc dù có thể hoặc
cần phải thấy trước hậu quả đó. Ví dụ: Tai nạn giao thông luôn là lỗi vô ý vì cẩu
thả.
- Động cơ: Là cái thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Ví
dụ: động cơ trả thù, vụ lợi...
- Mục đích: Là kết quả cuối cùng mà chủ thể mong muốn đạt được khi
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
c. Chủ thể:
Chủ thể của vi phạm pháp luật là chủ thể hội đủ điều kiện tự mình tham
gia quan hệ pháp luật, nghĩa là chủ thể phải có năng lực hành vi. Chủ thể của vi
phạm pháp luật ở mỗi ngành luật có cơ cấu chủ thể khác nhau, nhưng nhìn
chung chủ thể của vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức (có hoặc không có tư
cách pháp nhân).
d. Khách thể:
Là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng bị hành vi VPPL bị xâm
hại. Tính chất của khách thể bị xâm hại phản ánh mức độ nguy hiểm của hành vi
vi phạm pháp luật, cần phân biệt khách thể của vi phạm pháp luật và khách thể
của quan hệ pháp luật, vì khách thể của quan hệ pháp luật là những lợi ích mà vì
nó chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật. Ví dụ: Hành vi giết người dã xâm hại
đến quyền được sống của cá nhân, quyền được pháp luật bảo vệ; hành vi ký
hợp đồng mua nhà, khách thể là quyền sở hữu nhà.
4. Phân loại vi phạm pháp luật
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật
được chia thành bốn loại:
- Vi phạm hình sự (còn gọi là tội phạm): Là hành vi trái pháp luật, có lỗi,
nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự thực hiện.
- Vi phạm hành chính: Là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện, có lỗi,
xâm phạm các quy tắc quản lý Nhà nước mà không phải là tội phạm theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
- Vi phạm dân sự: Là hành vi xâm hại tới quan hệ tài sản và quan hệ nhân
thân. Vi phạm dân sự chủ yếu được quy định trong Bộ luật Dân sự.
- Vi phạm kỷ luật: Là những hành vi có lỗi, trái nội quy, quy chế của đơn vị,
cơ quan Nhà nước.
IV. TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm là thuật ngữ được sử dụng hàng ngày trong đời sống xã hội,
nó được hiểu là bổn phận, là vai trò của từng chủ thể xã hội cũng như hậu quả
mà chủ thể phải gánh chịu khi vi phạm các quy phạm xã hội. Như vậy, ngay
trong đời sống xã hội thuật ngữ trách nhiệm cũng được hiểu theo nghĩa tích cực
và tiêu cực.
Trong khoa học pháp lý, hiện nay cũng còn nhiều ý kiến khác nhau về khái
niệm trách nhiệm pháp lý. Người cho rằng, trách nhiệm pháp lý đó là nghĩa vụ
pháp lý mà chủ thể phải thực hiện, cũng có người cho rằng trách nhiệm pháp lý
đó là hậu quả bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu khi thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật. Như vậy, trách nhiệm pháp lý trong khoa học pháp lý cũng được hiểu
theo nghĩa tích cực và tiêu cực.
Chúng ta biết rằng, pháp luật do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực
hiện, một trong những biện pháp quan trọng mà Nhà nước áp dụng là truy cứu
trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể vi phạm pháp luật. Hay nói cách khác,
truy cứu trách nhiệm pháp lý là sự phản ứng của Nhà nước đối với chủ thể
không tuân thủ quy phạm do Nhà nước đặt ra. Cho nên, khái niệm trách nhiệm
pháp lý ở đây mà chúng ta nghiên cứu được hiểu theo nghĩa tiêu cực, nó là hậu
quả pháp lý mà chủ thể phải gánh chịu vì đã có hành vi vi phạm pháp luật, là
biện pháp trừng trị và khôi phục lại những trật tự đã bị xâm hại, đồng thời giáo
dục người vi phạm có ý thức thực hiện pháp luật.
Vậy, Trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi đối với chủ thể vi phạm pháp
luật, thể hiện mối quan hệ đặc biệt giữa Nhà nước và chủ thể vi phạm pháp luật,
được các quy phạm pháp luật xác lập và điều chỉnh trong đó bên vi phạm pháp
luật phải gánh chịu những hậu quả bất lợi (vật chất hoặc tinh thần), những biện
pháp cưỡng chế Nhà nước được quy định ở chế tài các quy phạm pháp luật.
So với các loại trách nhiệm khác, trách nhiệm pháp lý có những đặc điểm
cơ bản sau:
- Trách nhiệm pháp lý chỉ phát sinh khi có hành vi vi phạm pháp luật.
Nghĩa là vi phạm pháp luật là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật
đặc biệt giữa Nhà nước và chủ thể vi phạm, ở đặc điểm này cho chúng ta thấy
rằng, giữa vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý có mối quan hệ nhân quả
với nhau, trong đó vi phạm pháp luật là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả
là trách nhiệm pháp lý. Như vậy, không vi phạm pháp luật thì cũng không phải
gánh chịu trách nhiệm pháp lý. Tuy nhiên, trong thực tiễn có một số trường hợp
vì lợi ích quốc gia, lợi ích xã hội Nhà nước cũng áp dụng một số biện pháp
cưỡng chế nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng như: tiêu hủy động
vật gây bệnh, trưng mua, trưng dụng trong những trường hợp cần thiết như
thiên tai, dịch họa... nhưng tất cả những biện pháp đó đều phải có bồi hoàn và
hơn hết đó không phải là truy cứu trách nhiệm pháp lý.
- Trách nhiệm pháp lý chỉ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc chủ
thể được pháp luật thừa nhận áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp
luật. Như vậy, chủ thể truy cứu trách nhiệm pháp lý phải là chủ thể có thẩm
quyền luật định, không phải cứ ai phát hiện có vi phạm pháp luật thì có quyền
truy cứu trách nhiệm pháp lý. Bởi vì, việc truy cứu trách nhiệm pháp lý ít nhiều
cũng ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể vi phạm, nên nó
cũng phải được các chủ thể có chuyên môn và phải theo một trình tự chặt chẽ.
- Truy cứu trách nhiệm pliáp lý thường gắn liền với các chế tài mang tính
chất trừng phạt. Nghĩa là chủ thể vi phạm pháp luật phải gánh chịu những hậu
quả bất lợi về vật chất hoặc tinh thần về hành vi của mình, hậu quả đó phụ thuộc
vào nhiều yếu tố khác nhau nhưng chủ yếu là tính chất, mức độ vi phạm và nhân
thân của chủ thể vi phạm.
- Truy cứu trách nhiệm pháp lý luôn có yếu tố trừng phạt, nhưng giáo dục
vẫn là mục đícli trên hết. Chủ thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lý phải gánh chịu
những hậu quả bất lợi như đã nói trên là tất yếu, nhưng thông qua đó chủ thể có
quyền truy cứu trách nhiệm pháp lý muốn họ thấy được ý nghĩa của việc thực
hiện pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho người vi phạm và khuyến khích họ
thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật.
2. Cơ sở của việc áp dụng trách nhiệm pháp lý
Cơ sở để xác định trách nhiệm pháp lý là những yếu tố cấu thành được
pháp luật quy định và thực tiễn xảy ra của hành vi. Hay nói cách khác, cơ sở để
truy cứu trách nhiệm pháp lý bao gồm cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn.
- Về cơ sở pháp lý: Là căn cứ vào các quy định của pháp luật có liên quan
đến vi phạm pháp luật. Khi căn cứ vào các quy định của pháp luật có liên quan
đến vi phạm pháp luật, chủ thể có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm pháp lý phải
xem xét đến các quy định của luật nội dung và luật hình thức, nghĩa là vi phạm
pháp luật đó thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành luật nào hình sự, hành chính
hay dân sự... sau đó xem xét đến luật hình thức quy định về thẩm quyền, trình
tự, thủ tục giải quyết vụ việc. Việc truy cứu trách nhiệm pháp lý dựa trên cơ sở
pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó là cơ sở đảm bảo công bằng, minh
bạch cũng như vừa đảm bảo mục đích trừng trị vừa đảm bảo mục đích giáo dục.
Nếu áp dụng cơ sở pháp lý sai trong việc truy cứu trách nhiệm pháp lý thì việc
giải quyết của chủ thể có thẩm quyền sẽ bị hủy bỏ và giải quyết lại, nếu lạm
dụng pháp luật làm oan người vi phạm thì sẽ bị xử lý theo mức độ và phải bồi
thường.
- Cơ sở thực tiễn: Là xem xét từng yếu tố của cấu thành vi phạm pháp luật
và trước hết là xem xét các yếu tố thuộc mặt khách quan. Trong mặt khách
quan, yếu tố đầu tiên phải xem xét là hành vi trái pháp luật và mức độ nguy hiểm
của hành vi, nếu hành vi tuy có trái pháp luật nhưng mức độ nguy hiểm không
đáng kể thì có thể không truy cứu trách nhiệm pháp lý. Trong thực tế có những
hành vi tuy có mức độ nguy hiểm cho xã hội nhưng thuộc trường hợp phòng vệ
chính đáng hoặc tình thế cấp thiết thì sẽ thuộc trường hợp loại trừ tính chất nguy
hiểm của hành vi và chủ thể không phải chịu trách nhiệm pháp lý. Tiếp đó là xác
định hậu quả, nghĩa là xác định mức độ thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần, trong
nhiều trường hợp, đặc biệt là các loại vi phạm pháp luật có cấu thành vật chất thì
hậu quả là căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý hay không hoặc chuyển từ
loại trách nhiệm pháp lý này sang loại trách nhiệm pháp lý khác. Ví dụ: Tỷ lệ
thương tật của nạn nhân là căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự hay trách nhiệm
hành chính, cần làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, tuyệt đối
không được suy diễn về hậu quả. Cuối cùng là cần xác định về thời gian, địa
điểm, công cụ, phương tiện... để xác định "mức" hậu quả mà chủ thể phải gánh
chịu.
Tiếp đó, là xác định các yếu tố thuộc mặt chủ quan, trong đó "lỗi" là yếu tố
quan trọng nhất. Việc xác định các yếu tố thuộc mặt chủ quan có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong việc lựa cho biện pháp cưỡng chế phù hợp. Ví dụ: Hành vi
được thực hiện do lỗi cố ý luôn phải xử lý nặng hơn lỗi vô ý như mức độ và biện
pháp xử lý đối với tội giết người luôn khác với tội vô ý làm chết người.
Chủ thể vi phạm cũng là yếu tố hết sức quan trọng trong việc xác định cơ
sở thực tiễn của vi phạm pháp luật. Bởi vì chỉ có chủ thể có năng lực trách
nhiệm pháp lý khi họ thực hiện hành vi trái pháp luật có lỗi thì họ mới phải gánh
chịu trách nhiệm pháp lý. Việc xác định chủ thể, đặc biệt là cá nhân vi phạm liên
quan đến độ tuổi và khả năng nhận thức là rất quan trọng, trong nhiều trường
hợp chỉ cách nhau một ngày, thậm chí một giờ thì chủ thể có thể phải gánh chịu
trách nhiệm pháp lý hoặc không.
Cuối cùng là xác định khách thể bị xâm hại, khách thể càng quan trọng thì
hành vi vi phạm càng nguy hiểm, tránh trường hợp chỉ nhìn thấy hậu quả trực
tiếp mà không thấy được tầm quan trọng của khách thể. Ví dụ: Hành vi cắt trộm
cáp quang nhưng vừa chuẩn bị thực hiện thì bị phát hiện nên hậu quả chưa xảy
ra. Nhưng đây là hành vi hết sức nguy hiểm liên quan đến công trình an ninh
quốc gia, nếu hành vi vi phạm hoàn thành thì hậu quả sẽ vô cùng to lớn.
Tóm lại, việc xác định cơ sở thực tiễn của vi phạm pháp luật, phải xem xét
các yếu tố trong mối quan hệ biện chứng với nhau, tránh trường hợp phiến diện,
một chiều, chủ quan nóng vội có thể xử lý oan người vi phạm hoặc không đánh
giá đúng tính chất và mức độ nguy hiểm của vi phạm dẫn đến bỏ lọt vi phạm.
Bên cạnh đó, cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn cũng có mối quan hệ biện
chứng với nhau, cơ sở thực tiễn là nội dung và cơ sở pháp lý là hình thức. Nội
dung như thế nào thì hình thức phải tương ứng, phù hợp và chính hình thức là
biểu hiện của nội dung, chủ thể có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm pháp lý
không được xem thường hay coi nhẹ bất cứ cơ sở nào.
3. Các loại trách nhiệm pháp lý
Vi phạm pháp luật có nhiều loại, cũng như có sự khác về tính chất và mức
độ nguy hiểm của hành vi. Vì vậy, có nhiều loại trách nhiệm pháp lý khác nhau
để tương xứng với các loại vi phạm cũng như tính chất và mức độ nguy hiểm
vừa vi phạm. Hơn nữa, mỗi loại trách nhiệm pháp lý có những biện pháp cưỡng
chế Nhà nước khác nhau để vừa đảm bảo mục đích trừng trị cũng như mục đích
giáo dục để chủ thể bị áp dụng nhận thức được trách nhiệm của mình về hành vi
đã thực hiện và quyết tâm cải tạo giáo dục để trở thành người có ý thức pháp
luật cao, luôn thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật.
Hiện nay, khoa học pháp lý chia trách nhiệm pháp lý thành các loại sau:
- Trách nhiệm hình sự: Là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất chỉ
do Tòa án áp dụng đối với chủ thể có hành vi phạm tội. Trách nhiệm hình sự chỉ
áp dụng với chủ thể là cá nhân khi họ phạm tội.
Sở dĩ nói trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc
nhất là bởi người thực hiện hành vi phạm tội có tính chất và mức độ nguy hiểm
nhất nên họ phải gánh chịu các biện pháp cưỡng chế như: Bắt, tạm giữ, tạm
giam; phải gánh chịu hình phạt, trong đó có những hình phạt tước đi những
quyền thiêng liêng và cao quý của con người như quyền tự do, quyền sống.
- Trách nhiệm hành chính. Là loại trách nhiệm pháp lý do cơ quan quản lý
Nhà nước áp dụng đối với mọi chủ thể (cá nhân, tổ chức) khi họ có hành vi vi
phạm hành chính và bị xử phạt hành chính.
- Trách nhiệm dân sự. Là loại trách nhiệm pháp lý do Tòa án áp dụng đối
với mọi chủ thể khi họ vi phạm pháp luật dân sự.
- Trách nhiệm kỷ luật. Là trách nhiệm do cơ quan, xí nghiệp, trường học
áp dụng đối với cán bộ công chức, nhân viên, sinh viên... khi họ vi phạm điều lệ,
nội quy cơ quan.
Mặc dù có các loại trách nhiệm pháp lý khác nhau tương xứng với các loại
vi phạm pháp luật. Nhưng đối với một hành vi vi phạm pháp luật chủ thể vi phạm
có thể chỉ phải gánh chịu một loại trách nhiệm pháp lý hoặc cũng có thể phải
gánh chịu nhiều loại trách nhiệm pháp lý. Ví dụ: A đánh người gây thương tích
15%. Do vậy, A phải gánh chịu trách nhiệm hình sự với hình phạt là 2 năm tù và
phải chịu trách nhiệm dân sự với mức bồi thường cho nạn nhân là 10 triệu đồng.
Chương 8. PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I. KHÁI NIỆM PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa
Việc nghiên cứu pháp chế xã hội chủ nghĩa là vấn đề có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn. Vì suy cho cùng thì bản chất của Nhà nước như thế nào, sức mạnh
của Nhà nước được củng cố và tăng cường ra sao, hiệu lực pháp luật phát huy
ở mức độ nào trong việc điều chỉnh các vấn đề xã hội còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, trong đó các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, viên chức Nhà nước và
mọi công dân tôn trọng và tự giác thực hiện pháp luật như đến đâu là yếu tố cơ
bản bảo đảm cho pháp chế được thực hiện. Pháp chế xã hội chủ nghĩa là khái
niệm rộng bao gồm nhiều mặt cần xem xét ở các khía cạnh sau.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, ở nội dung này, pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện
ở việc: nó đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước phải
được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do luật định, mọi cán bộ, nhân viên
Nhà nước đều phải triệt để và nghiêm chỉnh tôn trọng pháp luật, khi thực hiện
nhiệm vụ và quyền hạn của mình, mọi sự vi phạm pháp luật đều phải xử lý kịp
thời và nghiêm minh. Thực hiện đúng các quy định của pháp luật là thực hiện tốt
nguyên tắc pháp chế, là cơ sở đảm bảo cho hoạt động của bộ máy Nhà nước
nhịp nhàng, đồng bộ, phát huy hiệu lực của Nhà nước và đảm bảo công bằng xã
hội.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa còn là nguyên tắc hoạt động của các tổ chức
chính trị, chính trị xã hội, và các đoàn thể. Các tổ chức chính trị, chính trị xã hội
luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm để các tổ chức này có điều kiện phát
huy vai trò của mình trong quản lý Nhà nước và quản lý xã hội. Tuy mỗi tổ chức
có những cách thức, nguyên tắc hoạt động riêng phù hợp với đối tượng của tổ
chức, nhưng dù được tổ chức với hình thức nào và nguyên tắc hoạt động nào đi
nữa thì nguyên tắc pháp chế cũng phải được đảm bảo và tôn trọng. Vì thành
viên của những tổ chức này là công dân nên họ có quyền và nghĩa vụ theo quy
định của pháp luật, các tổ chức này hình thành và hoạt động trong giới hạn
phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Cho nên, các tổ chức này không thể thoát ra
khỏi nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, trong phương hướng tổ chức
và hoạt động của mình, các tổ chức này phải dựa vào quy định của pháp luật
nhằm bảo đảm cho hoạt động của tổ chức này không vi phạm pháp luật.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc xử sự của công dân. Bất cứ Nhà
nước nào cũng đều có pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Vì lẽ đó,
pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mọi công dân phải tuyệt đối tuân thủ và tôn
trọng các quy định của pháp luật. Chỉ có sự tuân thủ và tôn trọng triệt để các quy
định của pháp luật thì quyền và lợi ích cơ bản của công dân mới được pháp luật
bảo vệ.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa còn có mối quan hệ mật thiết với chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Trong mối quan hệ này, dân chủ xã hội chủ nghĩa là cơ sở
để củng cố nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhưng đồng thời pháp chế xã hội
chủ nghĩa là yếu tố không thể thiếu được để củng cố, mở rộng và phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa, là nền tảng vững chắc để duy trì và thực hiện dân chủ xã
hội chủ nghĩa.
Như vậy, pháp chế không phải là pháp luật nhưng giữa pháp chế và pháp
luật có mối quan hệ mật thiết với nhau. Pháp luật là tiền đề của pháp chế, không
có pháp luật thì cũng không có pháp chế, nhưng ngược lại có pháp luật mà
không có pháp chế thì pháp luật ấy khó đi vào đời sống xã hội và phát huy
những giá trị của mình. Cho nên, có thể nói rằng pháp chế chính là pháp luật
trong đời sống hiện thực, nhờ có pháp chế mà các quy định của pháp luật đi vào
đời sống thực tiễn thông qua việc thực hiện nghiêm ngặt các quy định của pháp
luật.
Từ những nội dung trên, có thể hiểu khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa
như sau: "Pháp chế xã hội chủ nghĩa là sự tuân thủ một cách nghiêm chỉnh và
triệt để các quy định của pháp luật trong hoạt động của cả cơ quan Nhà nước, tổ
chức xã hội và mọi công dân".
2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về pháp chế
Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Mọi
hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội đều phục vụ đông
đảo lợi ích của quần chúng nhân dân lao động. Chính vì vậy, ngay từ khi mới ra
đời, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Sự quan tâm đó được thể hiện trong các văn kiện, các Nghị quyết của đại hội
Đảng và các Nghị quyết trong các kỳ họp của Đảng đều đề cập đến pháp chế và
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào
pháp chế và tăng cường pháp chế trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước,
tổ chức và công dân, Đảng ta luôn xem xét vấn đề pháp chế xã hội chủ nghĩa
gắn liền với bản chất của Nhà nước ta cùng với việc phát huy sức mạnh của hệ
thống chính trị và vấn đề dân chủ xã hội chủ nghĩa. Pháp chế và dân chủ có mối
quan hệ mật thiết nhau, tương hỗ cho nhau, là cơ sở, điều kiện tiên quyết nhằm
phát huy tính chủ động và tính tích cực của mọi người dân tham gia vào các
công việc quản lý Nhà nước, vào việc kiểm tra hoạt động của các cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội nói chung và hoạt động tố tụng hình sự nói riêng.
Nhận thức rõ vai trò của pháp chế và tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị xã
hội và mọi công dân trong giai đoạn hiện nay, nhằm phát huy sức mạnh của
nhân dân trong việc củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong
những năm qua công tác xây dựng và áp dụng pháp luật đã được Đảng và Nhà
nước ta quan tâm đúng mức. Vì pháp luật là điều kiện vật chất của pháp chế,
pháp chế chỉ được thực hiện trên thực tế khi có một hệ thống pháp luật đầy đủ,
hoàn chỉnh, đồng bộ và kịp thời nhằm đấu tranh, xử lý đối với mọi hành vi vi
phạm pháp luật, trong đó có hành vi phạm tội.
Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã nhấn
mạnh: "Thực hiện tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa bằng pháp luật, quản lý Nhà nước theo
pháp luật là quy luật phổ biến của một Nhà nước hiện đại". Đảm bảo và tăng
cường pháp chế nhằm xây dựng một Nhà nước pháp quyền là phù hợp với giai
đoạn cách mạng của nước ta hiện nay. Nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp
luật mới đảm bảo duy trì được trật tự xã hội, mọi hoạt động của các cơ quan, tổ
chức và cá nhân đều phải tuyệt đối tuân thủ quy định của pháp luật, mọi sự vi
phạm trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân đều là vi phạm pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Do vậy, để pháp chế thực sự được thực hiện và phát huy
được vai trò của mình thì "Nhà nước phải định ra các đạo luật nhằm xác định
các quyền công dân và quyền con người, quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách
nhiệm. Nhà nước phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra pháp luật và tổ
chức quản lý mọi mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật".
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP CHẾ
1. Pháp chế là phương thức để pháp luật đi vào đời sống
Pháp luật là quy tắc do Nhà nước ban hành phù hợp với ý chí của giai cấp
thống trị thì pháp chế là việc đưa ý chí đó vào đời sống thực tiễn, trở thành hiện
thực và có sức mạnh vật chất. Như vậy nội dung của pháp chế ở đây được hiểu
là sự hiện diện của pháp luật như là một công cụ hữu hiệu để Nhà nước quản lý
các lĩnh vực cơ bản, quan trọng của đời sống xã hội, pháp chế trong trường hợp
này chính là đời sống pháp lý của xã hội, là sự nhập cuộc của pháp luật vào đời
sống xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa thì nội dung trên của pháp chế càng có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Đó là cơ sở quan trọng cho các hoạt động của xã hội được đảm bảo bằng
pháp luật và trên cơ sở tôn trọng pháp luật, tránh tình trạng ngẫu nhiên và mang
tính chất tự phát đã từng tồn tại trong suốt thời kỳ bao cấp. Trong những năm
qua, hệ thống phát luật của nước ta ngày càng hoàn thiện cả về số lượng và
chất lượng nhằm đáp ứng những đòi hỏi khách quan của quá trình đổi mới. Tuy
nhiên, với yêu cầu của pháp chế trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp
quyền thì có thể nói rằng hệ thống pháp luật của nước ta vẫn chưa đáp ứng
được so với những yêu cầu của quá trình đổi mới và hội nhập. Ví dụ: Hiện nay,
chúng ta chưa phân định được một cách rõ ràng giữa thế nào là Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ dẫn đến tình trạng Đảng can thiệp quá
sâu vào hoạt động cụ thể của bộ máy Nhà nước. Vì vậy, vấn đề Đảng lãnh đạo
Nhà nước cũng cần phải được thể chế hóa thành pháp luật là một yêu cầu tất
yếu khách quan trong giai đoạn hiện nay.
2. Phải có hệ thống pháp luật cần và đủ
Nếu như ở nội dung trên pháp chế là sự nhập cuộc của pháp luật vào đời
sống xã hội thì ở nội dung này pháp chế chính là mức độ can thiệp của pháp luật
vào đời sống xã hội. Quản lý xã hội bằng pháp luật cần thiết và hiệu quả, nhưng
sử dụng nó ở mức độ nào để pháp luật thực sự là đại lượng của tự do, của công
bằng, bình đẳng và dân chủ. Vì vậy, pháp chế đòi hỏi phải xác định khả năng và
vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, nghĩa là mức độ
điều chỉnh và phương thức điều chỉnh của pháp luật sẽ phải được xác định đúng
đắn phù hợp với đặc điểm của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội. Ví dụ: Trước
đây trong thời kỳ kinh tế bao cấp, cũng như trong giai đoạn đầu của quá trình đổi
mới, sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là
rất lớn, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn sở hữu của Nhà nước. Nhưng trước yêu
cầu thực tiễn hiện nay, Nhà nước vẫn phải quản lý doanh nghiệp mà Nhà nước
là chủ sở hữu, nhưng cần thiết phải bỏ (thu hẹp khả năng can thiệp) cơ chế
"hành chính chủ quản" để doanh nghiệp hoạt động tự chủ theo quy luật của nền
kinh tế, nhưng ngược lại (mở rộng phạm vi can thiệp) đề cao trách nhiệm của
những người được giao sử dụng vốn của Nhà nước trong hoạt động kinh doanh.
Hoặc vấn đề quản lý xuất nhập cảnh của công dân Việt Nam định cư ở nước
ngoài hiện nay cũng đã được thu hẹp phạm vi tác động bằng việc bãi bỏ thị thực
khi họ nhập cảnh vào Việt Nam.
Như vậy, nội dụng của pháp chế là đòi hỏi việc điều chỉnh pháp luật phải
đúng cách, nghĩa là phải xác định đúng tính chất, đặc điểm của các quan hệ cần
điều chỉnh bằng pháp luật. Sẽ là phản tác dụng khi khi sự can thiệp của pháp
luật cũng như phương pháp điều chỉnh của nó bị sử dụng nhầm chỗ, điều này sẽ
dẫn tới sự tác động trở lại của pháp luật đối với đời sống xã hội là sự "kìm hãm,
trói buộc" các quan hệ xã hội. Để có được nội dung này của pháp chế việc phân
định phạm vi và phương pháp tác động của các ngành luật trong hệ thống pháp
luật là rất căn bản, nhằm xác định hành lang pháp lý an toàn cho các quan hệ xã
hội phát triển trong trật tự khách quan và ổn định. Tóm lại, hệ thống pháp luật
cần và đủ của nội dung pháp chế ở đây được hiểu là pháp luật không được thiếu
cũng không được thừa xét cả hai yếu tố "lượng" và "chất" khi tác động vào các
quan hệ xã hội, muốn làm được điều này thì cơ quan có thẩm quyền phải
thường xuyên ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật và cở sở
để ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật là thực tiễn khách
quan.
3. Mọi hoạt động của chủ thể của pháp luật phải phù hợp với pháp luật, tuân theo pháp luật và chấp hành pháp luật
Pháp luật là do Nhà nước ban hành nhằm tạo ra các khuôn mẫu cho hành
vi của các chủ thể và bắt buộc các chủ thể phải thực hiện. Nhưng trong giai đoạn
hiện nay, mặc dù Nhà nước là chủ thể làm ra luật nhưng Nhà nước cũng phải tự
nguyện đặt mình trong sự ràng buộc về quyền và trách nhiệm trước pháp luật,
trong khuôn khổ các quy định của pháp luật, đó là yêu cầu không thể thiếu của
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Nghĩa là "cơ quan, cán bộ Nhà nước chỉ
được làm những gì mà pháp luật cho phép. Còn cá nhân, tổ chức thì được làm
những gì mà pháp luật không cấm".
Để thực hiện được nội dung này trước hết phải đảm bảo tính tối thượng
của Hiến pháp và pháp luật và đảm bảo tính thống nhất của pháp chế. Nghĩa là
mọi văn bản của cơ quan Nhà nước ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, đúng
thẩm quyền của cơ quan đó. Hơn nữa, mọi hoạt động của các chủ thể pháp luật
phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tuân theo pháp luật, hành vi pháp luật
của các chủ thể pháp luật là cơ sở hết sức quan trọng để pháp luật thực sự đi
vào đời sống xã hội. Sự hiện diện của pháp luật mới chỉ là điều kiện cần, pháp
luật chỉ thực sự phát huy vai trò và giá trị của mình thông quá các hành vi của
chủ thể mà nó tác động, hành vi đó phải là hành vi thực hiện pháp luật, tôn trọng
pháp luật. Để các chủ thể thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật thì
vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho chủ thể là vấn đề quan trọng, có nhiều
biện pháp nâng cao ý thức pháp luật nhưng trong đó tính minh bạch của pháp
luật là vấn đề có ý nghĩa quan trọng. Tính minh bạch của pháp luật không chỉ là
sự công khai, rõ ràng của các văn bản quy phạm pháp luật mà còn phải minh
bạch các hoạt động áp dụng pháp luật. Minh bạch văn bản quy phạm pháp luật
từ khâu dự thảo cho đến khi thông qua cũng như minh bạch các quyết định áp
dụng của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là biện pháp rất quan trọng nâng
cao ý thức pháp luật của chủ thể. Bên cạnh đó, việc nâng cao ý thức pháp luật
còn phụ thuộc vào truyền thống, trình độ dân trí, cách thức tuyên truyền... cũng
là vấn đề quan trọng cần được quan tâm nghiên cứu.
4. Bảo đảm và bảo vệ hiệu quả các quyền và tự do của công dân được pháp luật quy định
Pháp chế chính là chiếc cầu nối quan trong giữa Nhà nước và công dân,
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi mối tương tác hữu hiệu giữa quyền lực Nhà nước
và tự do chân chính của con người. Hiến pháp và những đạo luật cơ bản khác là
những văn bản pháp lý quan trọng ghi nhận quyền và tự do của công dân cũng
như các biện pháp bảo đảm cho các quyền và tự do của công dân được thực
hiện trong thực tế.
Như vậy, pháp chế và Nhà nước pháp quyền có mối quan hệ biện chứng
với nhau, hỗ trợ và bổ sung cho nhau nhằm giải quyết mối quan hệ giữa Nhà
nước và công dân trên cơ sở quy định của pháp luật. Trong đó pháp luật trong
Nhà nước pháp quyền là tiền đề, vì Nhà nước pháp quyền không chỉ là Nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật, coi trọng tính tối thượng của pháp luật, mà
còn pháp luật ấy phải ghi nhận các quyền và tự do cơ bản của con người. Còn
pháp chế là trách nhiệm của Nhà nước để hiện thực hóa các quyền được pháp
luật ghi nhận đi vào đời sống xã hội.
5. Phải xử lý kịp thời và công minh những hành vi vi phạm pháp luật
Một trong những yêu cầu cơ bản của pháp chế và cũng là tiêu chỉ cơ bản
để đánh giá pháp chế là sự tuân thủ các quy định của pháp luật. Nhưng chúng ta
cũng cần phải nhận thấy rằng, nếu pháp luật ra đời từ yêu cầu tất yếu khách
quan của xã hội có giai cấp, có nguồn gốc xã hội, thì vi phạm pháp luật cũng có
nguồn gốc tương tự - hay nói cách khác vi phạm pháp luật là một hiện tượng xã
hội, có nguồn gốc xã hội.
Do đó, để hạn chế vi phạm pháp luật có nhiều biện pháp khác nhau, trong
đó xử lý kịp thời và công minh mọi hành vi vi phạm pháp luật là thẩm quyền và
cũng là trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước. Yêu cầu của pháp chế là mọi
hành vi vi phạm pháp luật phải được xử lý kịp thời, hay nói cách khác bất cứ một
hành vi vi phạm pháp luật nào đều phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý, gánh chịu
những hậu quả bất lợi từ những biện pháp cưỡng chế Nhà nước. Hơn nữa, việc
xử lý vi phạm pháp luật phải công minh, phải tương xứng với tính chất và mức
độ của hành vi vi phạm, không xử lý quá nhẹ nhưng cũng không được quá nặng.
Tóm lại, những nội dung trên của pháp chế là những nội dung cơ bản,
chúng có mối liên hệ mật thiết, tương tác với nhau. Việc thực hiện tốt nội dung
này là cũng thực hiện tốt các nội dung khác, việc xem nhẹ hay coi trọng nội dung
này hay nội dung kia đều không đảm bảo pháp chế. Vì pháp chế là cơ chế, là
phương thức để đánh giá mức độ hiệu quả của pháp luật trong đời sống.
III. VẤN ĐỀ TĂNG CƯỜNG PHÁP CHẾ
Pháp chế là một nội dung của quan trọng, một trong những nguyên tắc
hoạt động của bộ máy Nhà nước cũng như yêu cầu cơ bản của mọi công dân.
Tuy nhiên, không phải cứ có pháp luật là có pháp chế ngay trong đời sống xã
hội, do đó vấn đề tăng cường pháp chế là một quá trình từ thấp đến cao, từ
chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, phù hợp với tình hình và đặc điểm của mỗi giai
đoạn cụ thể. Vì vậy, có thể nói vấn đề tăng cường pháp chế luôn là vấn đề có
tính thời sự và cấp thiết.
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề củng cố và tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa ở nước ta là vấn đề cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực của
bộ máy Nhà nước, mở rộng dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Muốn tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa phải áp dụng nhiều biện
pháp đồng bộ, trong đó có những biện pháp cơ bản sau:
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế.
- Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
- Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh những hành
vi vi phạm pháp luật.
- Tuyên truyền, phổ biến bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm nâng cao
ý thức pháp luật cho mọi chủ thể trong đời sống xã hội.
Chương 9. HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
1. Khái niệm hệ thống pháp luật
Hệ thống được hiểu là một chỉnh thể bao gồm những ý tưởng, những vấn
đề hoặc bộ phận có mối liên hệ mật thiết với nhau và được sắp xếp theo một
trình tự khách quan, lôgíc và khoa học. Như vậy, khi bàn đến khái niệm hệ thống
pháp luật cũng chính là bàn đến mối liên hệ của các quy phạm pháp luật để tạo
nên các yếu tố hình thành nên hệ thống pháp luật. Vậy tại sao pháp luật lại có
tính hệ thống? Chúng ta biết rằng để thực hiện các chức năng của mình, Nhà
nước ban hành rất nhiều QPPL khác nhau để điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong các lĩnh vực của đời sống quốc gia, toàn bộ các quy phạm đó không tồn tại
một cách độc lập, rời rạc mà có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, tác động qua
lại lẫn nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất, một hệ thống. Với tư cách là một
hệ thống, pháp luật ở mỗi quốc gia không phải được sắp xếp một cách ngẫu
nhiên, tùy tiện mà theo một trật tự rất chặt chẽ do những yếu tố khách quan quy
định, sở dĩ các quy phạm được sắp xếp theo một trình tự chặt chẽ là bởi quy
phạm pháp luật chẳng qua là sự phản ánh các lĩnh vực của đời sống xã hội, mà
các lĩnh vực luôn có mối liên hệ nội tại và thống nhất trong một chỉnh thể của đời
sống xã hội và tất nhiên là chúng cũng có tính hệ thống. Như vậy, chúng ta thấy
rằng tính hệ thống của pháp luật vừa mang yếu tố khách quan vừa mang yếu tố
chủ quan. Tính chủ quan được xác định bởi khả năng nhận thức của nhà làm
luật và mức độ, trình độ trong việc xây dựng các quy phạm và sắp xếp chúng
trong một trật tự lôgíc theo nhưng mô hình được xác định trước.
Tuy nhiên, khi bàn đến khái niệm hệ thống pháp luật còn có nhiều cách
hiểu khác nhau. Trong thực tiễn, khi bàn đến khái niệm hệ thống pháp luật người
ta thường hiểu đó là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Cách hiểu này là
chưa phù hợp, nó chỉ mới thể hiện được yếu tố bên ngoài cụ thể của pháp luật.
Hoặc trong các sách báo pháp lý, còn có khái niệm các hệ thống pháp luật, khái
niệm này hoàn toàn khác với khái niệm hệ thống pháp luật, nó là khái niệm chỉ
các trường phái pháp luật trên thế giới như: hệ thống pháp luật Ănglosaxon, hệ
thống pháp luật châu Âu lục địa.
Khi bàn đến khái niệm hệ thống nói chung cũng như hệ thống pháp luật
nói riêng, một mặt chúng ta phải xem xét đến cấu trúc nội dung bên trong của hệ
thống đó, xác định rõ các bộ phận, các mối liên hệ có tính bản chất quyết định
sự tồn tại của nó. Mặt khác, cũng phải đề cập đến hình thức biểu hiện bên ngoài,
coi đó là hai mặt của một thể thống nhất, dù có khác biệt nhưng không thể tách
rời nhau.
Vì vậy, hệ thống pháp luật được hiểu: Là tổng thể các quy phạm pháp luật
có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các chế định
luật, ngành Luật và được thể hiện trong các văn bản do Nhà nước ban hành
theo một thủ tục và hành thức nhất định.
2. Điểm của hệ thống pháp luật
Từ khái niệm trên chúng ta có thể thấy hệ thống pháp luật có những đặc
điểm sau:
- Tính thống nhất của hệ thống pháp luật Tính thống nhất của hệ thống
pháp luật là do tính thống nhất, hài hòa tác động qua lại lẫn nhau giữa các quan
hệ xã hội. Tính chất đó sẽ quy định sự điều chỉnh của pháp luật phải bảo đảm
tính thống nhất, khách quan. Do đó, tính thống nhất của hệ thống pháp luật được
thể hiện ở tính thứ bậc của các VBQPPL, thể hiện trong việc cụ thể hóa các văn
bản chung nhằm làm cho những quy định đó được thực hiện dễ dàng, thống
nhất. Ví dụ: Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp...
- Tính phân hóa của hệ thống pháp luật. Cũng như mọi hệ thống, hệ thống
pháp luật được tạo bởi các yếu tố cấu thành là các chế định luật, ngành Luật.
Các yếu tố này điều chỉnh các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, Luật Hình
sự điều chỉnh quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội, Luật Dân sự điều
chỉnh các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa... Và ngay trong mỗi lĩnh vực
lại có những nhóm quan hệ xã hội độc lập tương đối với nhau. Chính sự hình
thành những lĩnh vực, nhóm quan hệ xã hội đã quy định sự phân chia hệ thống
pháp luật thành các bộ phận cấu thành.
- Tính khách quan của hệ thống pháp luật. Sự hình thành các bộ phận cấu
thành của hệ thống pháp luật bắt nguồn từ thực tiễn khách quan. Do vậy, không
thể sắp xếp các QPPL, các chế định, các ngành Luật một cách chủ quan mà
không tính đến cơ cấu và sự phát triển của các quan hệ xã hội đang tồn tại. Tuy
vậy, cũng không loại trừ yếu tố chủ quan đối với sự hình thành, phát triển của hệ
thống pháp luật. Ví dụ: Chính sự quan tâm xây dựng pháp luật hình sự ở nước
ta được hình thành sớm hơn so với luật kinh tế.
Chính những đặc điểm trên cho ta thấy, để pháp luật là nhân tố cơ bản
điều chỉnh các quan hệ xã hội thì các QPPL không xuất hiện một cách ngẫu
nhiên, biệt lập, mà phải xây dựng chúng thành một hệ thống, có kết cấu chặt
chẽ, thống nhất và phối hợp.
3. Cấu thành của hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật cũng như bất cứ hệ thống nào khác đều có những yếu
tố cấu thành. Các yếu tố cấu thành hệ thống pháp luật bao gồm hai phương
diện: hệ thống cấu trúc (bên trong) của pháp luật và hệ thống VBQPPL (bên
ngoài).
3.1. Hệ thống cấu trúc:
Hệ thống cấu trúc của pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có
mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các cấu trúc theo
từng cấp độ khác nhau: QPPL, chế định luật và ngành Luật.
- QPPL: Là hạt nhân, là tế bào tạo nên hệ thống cấu trúc của pháp luật, nó
vừa mang tính khái quát vừa mang tính cụ thể. Tính khái quát của QPPL được
thể hiện ở chỗ nó là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, áp dụng trên một
phạm vi rộng lớn và trong một thời gian dài, còn tính cụ thể của nó được thể hiện
ở chỗ nó là mô hình hành vi đã được mẫu hóa để điều chỉnh các quan hệ cụ thể.
Bản thân QPPL cũng có cấu trúc nhất định gồm: Giả định và quy định hay giả
định và chế tài.
- Chế định Luật: Là thành tố ở cấp độ thứ hai của hệ thống pháp luật, nó
bao hàm một nhóm các QPPL có đặc điểm chung giống nhau nhằm điều chỉnh
một nhóm quan hệ xã hội tương ứng. Sự liên kết các quy phạm cùng nhóm để
hình thành nên chế định luật xuất phát từ chỗ các quan hệ xã hội tồn tại không
tách biệt mà chúng có mối liên hệ với nhau, sự liên hệ này hình thành các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Trong các lĩnh vực đó lại có các nhóm có đặc điểm
chung giống nhau, tác động qua lại lẫn nhau và cũng có tính độc lập tương đối,
chính các nhóm nhỏ này là cơ sở để hình thành các chế định luật trong hệ thống
pháp luật. Ví dụ: Lĩnh vực hôn nhân và gia đình có các nhóm quan hệ nhỏ như:
kết hôn, quan hệ vợ chồng, cha mẹ và con cái, ly hôn... Việc xác định ranh giới
giữa các chế định có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo ra các khả năng để xây
dựng hệ thống QPPL phù hợp với thực tiễn.
- Ngành Luật: Nếu chế định luật là tập hợp nhóm những QPPL điều chỉnh
một nhóm các quan hệ xã hội cùng loại thì ngành Luật là tập hợp những QPPL
điều chỉnh một lĩnh vực quan hệ xã hội nhất định. Như vậy, ngành Luật là một
thành tố ở cấp độ thứ ba tạo nên hệ thống pháp luật, nó điều chỉnh các quan hệ
xã hội cùng loại trong một lĩnh vực nhất định. Ví dụ: Trong toàn bộ những quan
hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh, có những quan hệ xã hội liên quan đến hôn
nhân và gia đình, liên quan đến tội phạm và hình phạt, liên quan đến Tòa án...
đó là những lĩnh vực quan hệ xã hội có tính đặc thù mà mỗi lĩnh vực đó được
điều chỉnh bằng một tổng thể các QPPL có mối liên kết chặt chẽ với nhau hình
thành nên các ngành Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Hình sự, Luật Tố tụng
hình sự...
Cũng cần lưu ý rằng, việc phân định hệ thống pháp luật thành các ngành
Luật chỉ có ở những quốc gia theo truyền thống pháp luật XHCN. Còn ở các
quốc gia khác như ở châu Âu lục địa, hệ thống pháp luật được phân định thành
luật công và luật tư.
Luật Công pháp và Luật Tư pháp: Khoa học pháp lý của một số quốc gia
có đề cập đến sự phân chia pháp luật thành Luật Công pháp và Luật Tư pháp.
Các quốc gia theo hệ thống Common Law như Anh, Hoa Kỳ thường không phân
biệt luật công và luật tư. Ngược lại, một số nước như Pháp lại có truyền thống
phân biệt như vậy. Theo cách phân biệt này, Luật Công pháp được hiểu là toàn
bộ những quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước với những
cá nhân và giữa các cơ quan Nhà nước với nhau, chẳng hạn Luật Hiến pháp,
Luật Hành chính, Luật Tài chính, Luật Hình sự,... Còn Luật Tư pháp là những
quy phạm điều chỉnh quan hệ giữa những cá nhân với nhau như Luật Dân sự,
Luật Thương mại, Luật Tố tụng dân sự,... Cùng với sự phát triển của khoa học
pháp lý và thực tiễn áp dụng pháp luật, sự phân biệt rạch ròi giữa Luật Công
pháp và Luật Tư pháp ngày càng ít được nhắc đến. Xét cho cùng, pháp luật, dù
là công pháp hay tư pháp cũng do Nhà nước ban hành, cũng cùng mục đích
điều chỉnh các quan hệ xã hội. Sự phân biệt, nếu có, cũng chỉ tác động đến một
số quan hệ pháp luật nhất định và có tính chất kỹ thuật nhiều hơn là khoa học.
Ở các nước XHCN, xuất phát từ quan điểm duy vật lịch sử, khoa học luật
XHCN quan niệm rằng sự khác biệt của các lĩnh vực quan hệ xã hội được pháp
luật điều chỉnh là căn cứ để phân định ngành Luật. Mỗi ngành Luật chỉ điều
chỉnh một lĩnh vực quan hệ xã hội, các quan hệ xã hội trong mỗi lĩnh vực có tính
đặc thù. Ví dụ: Quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân gia đình khác với những
quan hệ mang tính chấp hành và điều hành trong quản lý Nhà nước nên hình
thành nên các QPPL điều chỉnh các quan hệ hôn nhân gia đình hợp thành ngành
Luật hôn nhân và gia đình, còn các QPPL điều chỉnh những quan hệ xã hội
mang tính chấp hành và điều hành hợp thành ngành Luật hành chính. Như vậy,
căn cứ cơ bản nhất để phân định các ngành Luật trong hệ thống pháp luật là lĩnh
vực quan hệ xã hội mà các QPPL tác động tới, những quan hệ mà các QPPL ấy
tác động tới được gọi là đối tượng điều chỉnh. Tuy nhiên, trong thực tế có những
quan hệ xã hội không phải là đối tượng điều chỉnh cũa một ngành Luật, mà là đối
tượng điều chỉnh của hai hoặc nhiều ngành Luật. Trong trường hợp này, người
ta phải sử dụng căn cứ thứ hai có tính chất hỗ trợ cho căn cứ thứ nhất để phân
định các ngành Luật, đó là phương pháp điều chỉnh. Phương pháp điều chỉnh là
cách thức mà ngành Luật sử dụng để tác động lên các quan hệ xã hội mà ngành
Luật ấy điều chỉnh. Như vậy, để phân định các ngành Luật, người ta căn cứ vào
đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh. Trong đó, đối tượng điều chỉnh
là căn cứ căn bản, phương pháp điều chỉnh là căn cứ phụ trợ.
3.2. Hệ thống VBQPPL:
Các QPPL là hạt nhân của hệ thống cấu trúc của pháp luật, luôn được
biểu hiện và xác định trong các văn bản QPPL cụ thể. Xuất phát từ tính hệ thống
của pháp luật, các VBQPPL dù đa dạng, phong phú đến đâu, đều hợp thành một
hệ thống, có mối liên hệ mật thiết với nhau. Khi nói đến đến hệ thống VBQPPL,
phải xem xét ở hai góc độ: chiều ngang và chiều dọc. Nếu xét theo chiều ngang,
hệ thống VBQPPL phù hợp với hệ thống cấu trúc pháp luật, nghĩa là dù văn bản
đó được ban hành như thế nào, thuộc hệ thống thang bậc giá trị nào thì suy cho
cùng cũng phải căn cứ vào đối tượng điều chỉnh, cho nên chúng hoặc toàn bộ
đều hợp thành chế định, các ngành Luật.
Nhưng xét theo chiều dọc, hệ thống VBQPPL mang tính thứ bậc, tính thứ
bậc của VBQPPL được xác định bởi hiệu lực của từng loại văn bản phù hợp với
cơ quan ban hành. Xuất phát từ hiệu lực của từng loại VBQPPL là khác nhau, ta
thấy rằng văn bản có hiệu lực tối cao là Hiến pháp, được xây dựng và ban hành
theo một thủ tục đặc biệt, quy định những vấn đề cơ bản nhất và quan trọng nhất
của đời sống xã hội. Là băn bản có hiệu lực tối cao, Hiến pháp quy định hiệu lực
của tất cả các VBQPPL khác và nhờ vậy nó xác lập mối liên hệ thống nhất và
nhất quán trong chính hệ thống VBQPPL. Các VBQPPL bao giờ cũng lệ thuộc
vào Hiến pháp, phải phù hợp với Hiến pháp, nếu trái với nội dung của Hiến pháp
chúng sẽ không có giá trị pháp lý và sẽ bị loại trừ ra khỏi hệ thống VBQPPL.
Tính thứ bậc của VBQPPL có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo ra tính thống
nhất của toàn bộ hệ thống VBQPPL và nó cũng là điều kiện biểu đạt mức độ
hoàn thiện của một hệ thống pháp luật.
Như vậy, khi xem xét đến một hệ thống pháp luật đòi hỏi chúng ta phải có
quan điểm toàn diện, nghĩa là phải xem xét cả yếu tố bên trong và yếu tố bên
ngoài cũng như mối quan hệ giữa chúng. Với cách tiếp cận như vậy, cho phép
chúng ta có nhiều thuận lợi trong việc xem xét các vấn đề của hệ thống pháp
luật, tránh được những mâu thuẫn, vướng mắc nhất định.
Tóm lại, thông qua nội dung trên cho phép chúng ta mô tả hệ thống pháp
luật như một hình tháp. Trong đó, chân tháp là sự đa dạng và phong phú của đời
sống xã hội, đòi hỏi phải có nhiều loại, nhiều nhóm QPPL điều chỉnh. Đáp ứng
nhu cầu đó, hệ thống cấu trúc của pháp luật hình thành. Tương ứng với hệ
thống cấu trúc của pháp luật được biểu hiện ra hình thức bên ngoài là hệ thống
VBQPPL được thể hiện theo chiều cao của tháp, với các thang bậc giá trị pháp
lý khác nhau mà cao nhất là Hiến pháp. Toàn bộ khối tháp đó đều xuất phát từ
nền tảng xã hội và cùng là để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng đã
đề ra.
II. NHỮNG TIÊU CHUẨN CƠ BẢN ĐỂ XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ HOÀN THIỆN CỦA MỘT HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
Các quan hệ xã hội dù tồn tại ở các lĩnh vực khác nhau cũng đều mang
nhiều đặc thù riêng và đòi hỏi pháp luật phải có phương pháp điều chỉnh riêng.
Nhưng các quan hệ xã hội này lại nằm trong mối quan hệ qua lại với nhau, do
đó, sự điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ xã hội ở nhóm này có liên
quan đến sự điều chỉnh của pháp luật ở nhóm khác. Ví dụ: Để bảo vệ lợi ích của
Nhà nước và của xã hội cần phải có luật hình sự, nhưng luật hình sự chỉ thực sự
đi vào cuộc sống phát huy vai trò của nó khi trong hệ thống pháp luật phải có luật
tố tụng hình sự và những ngành Luật khác. Cho nên, để thấy được hiệu quả
điều chỉnh các quan hệ xã hội của pháp luật phụ thuộc rất lớn vào chất lượng
của hệ thống pháp luật. Một hệ thống pháp luật duy ý chí, thiếu đồng bộ sẽ làm
méo mó các quan hệ xã hội, gây ra các tiêu cực cho đời sống xã hội. Vì vậy, chỉ
khi có một hệ thống pháp luật đúng đắn, đầy đủ mới có khả năng tạo ra hành
lang pháp lý an toàn để thúc đẩy các quan hệ xã hội phát triển theo quy luật của
nó. Vậy, đâu là tiêu chuẩn để xây dựng một hệ thống pháp luật đúng đắn và có
hiệu quả. Trải qua thực tiễn điều chỉnh của pháp luật cả tích cực và tiêu cực đối
với đời sống xã hội, các nhà khoa học đã đưa ra nhiều tiêu chí khác nhau để xác
định mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật, nhưng tựu trung lại có thể tập
trung ở bốn tiêu chuẩn sau:
1. Tính toàn diện
Xã hội bao giờ cũng tồn tại với tính cách là một chỉnh thể, bao gồm nhiều
lĩnh vực khác nhau. Tất cả các lĩnh vực ấy đều đòi hỏi một sự điều chỉnh của
pháp luật ở mức độ này hay mức độ khác. Do vậy, tính toàn diện của hệ thống
pháp luật đòi hỏi ở khả năng bao quát toàn bộ đời sống xã hội, bảo đảm không
một lĩnh vực quan trọng nào của đời sống xã hội đứng ngoài sự điều chỉnh của
pháp luật. Tính toàn diện là tiêu chuẩn để định lượng một hệ thống pháp luật
nhưng lại có ý nghĩa rất quan trọng, vì chỉ khi nào định lượng được mới có thể
tiếp tục nghiên cứu để định tính. Tính toàn diện của hệ thống pháp luật thể hiện
ở hai yêu cầu: yêu cầu chung và yêu cầu cụ thể:
Yêu cầu chung của tính toàn diện thể hiện ở sự đầy đủ các ngành Luật
theo cơ cấu nội dung lôgíc khách quan và sự thống nhất trong hệ thống văn bản
pháp luật tương ứng. Cơ sở để xác định cơ cấu các ngành Luật là tính đặc thù
của các quan hệ xã hội cần sự điều chỉnh pháp luật. Bên cạnh đó, yêu cầu
chung của tính toàn diện không chỉ ở sự đầy đủ các ngành Luật mà còn đòi hỏi
ở sự phát triển đồng bộ giữa các ngành Luật, tức là các ngành Luật phải cùng
chung trên một mặt bằng phát triển.
Yêu cầu cụ thể của tính toàn diện thể hiện ở sự đầy đủ các chế định pháp
luật và các QPPL ngay trong bản thân một ngành Luật.
2. Tính đồng bộ
Nếu tính toàn diện yêu cầu hệ thống pháp luật phải có đầy đủ các ngành
Luật cũng như các chế định, quy phạm trong một ngành Luật thì tính đồng bộ
chính là sự đòi hỏi các ngành Luật, chế định luật và mỗi QPPL không được mâu
thuẫn, trùng lặp, chồng chéo, loại bỏ lẫn nhau. Cũng như tính toàn diện, tính
đồng bộ của hệ thống pháp luật cũng thể hiện ở hai mức độ: yêu cầu chung và
yêu cầu cụ thể:
Yêu cầu chung của tính động bộ trong hệ thống pháp luật đó là sự đồng
bộ của các ngành Luật với nhau trong hệ thống. Để đạt được điều này cần phải
chú ý, một mặt, xác định rõ ranh giới giữa các ngành Luật, mặt khác phải tạo ra
được hệ thống quy phạm căn bản thống nhất. Việc xác định ranh giới giữa các
ngành Luật là một vấn đề không đơn giản, vì các mối quan hệ xã hội rất phức
tạp và có mối liên hệ mật thiết với nhau nên việc xác định các quan hệ cần điều
chỉnh thuộc về ngành Luật nào không phải là vấn đề dễ dàng. Sự nhầm lẫn trong
việc xác định đối tượng điều chỉnh của ngành Luật sẽ dẫn đến điều chỉnh chồng
chéo, lấn sân của nhau và khoảng hiệu quả, thậm chí gây ra hậu quả. Vì vậy,
việc xác định đúng đối tượng điều chỉnh của từng ngành Luật là một trong những
yêu cầu rất cơ bản nhằm đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật khi xây
dựng pháp luật và thuận tiện trong việc áp dụng pháp luật.
Yêu cầu cụ thể của tính đồng bộ thể hiện ở sự thống nhất giữa các quy
phạm, các chế định trong một ngành Luật tạo ra lôgic nhất quán trong việc điều
chỉnh các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành Luật.
3. Tính phù hợp
Hệ thống pháp luật được hình thành do nhu cầu điều chỉnh các quan hệ
xã hội, hướng chúng phát triển trong một trật tự theo mục đích Nhà nước đề ra.
Hay nói cách khác sự tác động trở lại của pháp luật chỉ đạt được hiệu quả khi nó
phản ánh đúng bản chất, quy luật vận động và phát triển của các quan hệ xã hội
được pháp luật điều chỉnh. Do vậy trình độ của pháp luật không thể thấp hơn
hoặc cao hơn trình độ phát triển của xã hội. Nếu một hệ thống pháp luật đảm
bảo các yêu cầu của tính toàn diện, tính đồng bộ nhưng lại không phù hợp với
trình độ phát triển của xã hội thì thậm chí nó không tác động tích cực đến các
quan hệ xã hội mà còn kìm hãm sự phát triển của xã hội. Nhìn chung, ít khi hệ
thống pháp luật không phù hợp mà chủ yếu là sự không phù hợp của từng bộ
phận trong hệ thống pháp luật, sở dĩ có tình trạng trên là bởi các quan hệ xã hội
hình thành và phát triển từng bước qua mỗi giai đoạn, sự biến đổi của nó
thường diễn ra từ từ nên các QPPL điều chỉnh chúng cũng có tính độc lập tương
đối. Việc các bộ phận của hệ thống pháp luật không phù hợp có thể do sai lầm
chủ quan trong nhận thức của các nhà làm luật hay bị lạc hậu do những quan hệ
xã hội mà chúng điều chỉnh đã thay đổi nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung các
QPPL mới từ nhà làm luật. Để đảm bảo tính phù hợp của hệ thống pháp luật thì
chúng cần được thường xuyên pháp điển hóa.
4. Trình độ kỹ thuật pháp lý
Kỹ thuật pháp lý là tổng thể những phương pháp, phương tiện được sử
dụng trong quá trình soạn thảo và hệ thống hóa pháp luật, chứa đựng các
nguyên tắc, các quy tắc khoa học nhằm bảo đảm cho pháp luật có được đầy đủ
các khả năng để điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội.
Khi đề cập đến trình độ kỹ thuật pháp lý, có ba điểm quan trọng cần phải
chú ý:
- Kỹ thuật pháp lý thể hiện ở nguyên tắc tối ưu được vạch ra để áp dụng
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. (Ví dụ: NT khách
quan, dân chủ, pháp chế...).
- Trình độ kỹ thuật pháp lý thể hiện ở việc xác định chính xác cơ cấu của
pháp luật.
- Cách biểu đạt bằng ngôn ngữ pháp lý phải đảm bảo tính cô đọng, lôgic,
chính xác và một nghĩa.
III. HỆ THỐNG HÓA PHÁP LUẬT
1. Khái niệm và mục đích của hệ thống hóa pháp luật
Các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh luôn vận động và phát triển
theo những quy luật khách quan vốn có. Do vậy, đến một lúc nào đó dựa trên
các tiêu chuẩn để đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật sẽ cho
chúng ta thấy được những lỗ hổng, những bất cập, mâu thuẫn chồng chéo... của
hệ thống pháp luật sẽ dẫn đến hiệu quả tác động tiêu cực của pháp luật tới các
quan hệ xã hội. Hơn nữa, hệ thống pháp luật bao gồm nhiều yếu tố, bộ phận bên
trong và bên ngoài khác nhau nên việc hiểu biết để thực hiện cũng như áp dụng
pháp luật của các chủ thể pháp luật sẽ khó khăn. Cho nên, công tác hệ thống
hóa pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng đối với chủ thể ban hành pháp luật cũng
như đối với chủ thể chịu sự tác động của pháp luật. Thông qua công tác hệ
thống hóa pháp luật sẽ cho phép cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có sự nhìn
nhận tổng quát đối với hệ thống pháp luật hiện hành, phát hiện những lỗ hổng,
mâu thuẫn chồng chéo và đưa ra các biện pháp khắc phục, đồng thời, công tác
này cũng sẽ tạo điều kiện cho các chủ thể pháp luật dễ dàng tìm kiếm, tra cứu
những quy định của pháp luật về các lĩnh vực mà họ quan tâm từ đó nâng cao ý
thức pháp luật cho họ. Vậy, hệ thống hóa pháp luật là tổng hợp các biện pháp
của các chủ thể khác nhau nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như nâng
cao ý thức pháp luật.
Việc hệ thống hóa pháp luật có những mục đích cơ bản sau
- Tạo ra một hệ thống pháp luật cân đối, hoàn chỉnh và thống nhất.
- Khắc phục tình trạng lỗi thời, mâu thuẫn và các lỗ hổng pháp luật.
- Làm cho nội dung của pháp luật phù hợp với những yâu cầu của đời
sống, có hình thức rõ ràng dễ hiểu, tiện lợi cho việc sử dụng.
2. Các hình thức hệ thống hóa pháp luật
Lý thuyết về hệ thống là cơ sở cho hệ thống hóa pháp luật, những kiến
thức đó là cơ sở khoa học cho công tác hệ thống hóa nhằm hoàn thiện pháp
luật. Khoa học pháp lý xã hội chủ nghĩa phân biệt hai hình thức hệ thống hóa
pháp luật đó là: tập hợp hóa và pháp điển hóa.
- Tập hợp hóa: Là sắp xếp các VBQPPL, các QPPL riêng biệt theo một
trình tự nhất định (theo cơ quan ban hành, theo thời gian, theo lĩnh vực...). Công
việc này không làm thay đổi nội dung của VBQPPL, không bổ sung những quy
định mới mà chỉ nhằm loại bỏ những quy phạm đã hết hiệu lực hoặc có nội dung
mâu thuẫn với văn bản cấp trên. Chủ thể của hình thức tập hợp hóa là bất cứ ai
có khả năng, nhưng trong thực tiễn công việc này chỉ đạt được mục đích khi
người tập hợp hóa có kiến thức nhất định về pháp luật mà thông thường là các
nhà khoa học pháp lý, các luật gia, luật sư... thực hiện.
- Pháp điển hóa: Là hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
trong đó không những tập hợp hóa các VBQPPL theo một trình tự nhất định mà
còn loại bỏ, sửa đổi những quy phạm lỗi thời, bổ sung những quy phạm mới
nhằm khắc phục những lỗ hổng pháp luật. Kết quả của hình thức pháp điển hóa
là một VBQPPL mới ra đời làm cho hệ thống pháp luật hoàn thiện hơn. Chủ thể
của hoạt động pháp điển hóa là các cơ quan có nhiệm vụ và thẩm quyền ban
hành VBQPPL.
IV. CÁC NGÀNH LUẬT TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Ngành Luật là một thành tố ở cấp độ thứ ba tạo nên hệ thống pháp luật,
nó điều chỉnh các quan hệ xã hội cùng loại trong một lĩnh vực nhất định. Trong
hệ thống pháp luật có nhiều ngành Luật tồn tại một cách độc lập tương đối và cơ
sở lý luận để phân định ngành Luật này với ngành Luật khác là đối tượng điều
chỉnh và phương pháp điều chỉnh là những tiêu chí cơ bản. Bên cạnh đó, còn có
nhiều tiêu chí bổ trợ khác để phân định như: chủ thể, nguồn... nhưng đối tượng
và phương pháp điều chỉnh vẫn là cơ bản nhất.
- Đối tượng điều chỉnh của pháp luật là những quan hệ xã hội mà ngành
Luật tác động tới. Mỗi ngành Luật điều chỉnh một lĩnh vực nhất định của đời
sống xã hội và các quan hệ xã hội trong mỗi lĩnh vực có tính đặc thù.
Ví dụ: Đối tượng điều chỉnh của ngành Luật Hôn nhân và gia đình là các
quan hệ hôn nhân và gia đình.
- Phương pháp điều chỉnh của pháp luật là tổng hợp các phương tiện, biện
pháp, cách thức Nhà nước sử dụng trong pháp luật để tác động tới cách xử sự
của các chủ thể.
Hiện nay, Nhà nước đã sử dụng những phương pháp điều chỉnh sau đây
trong pháp luật:
+ Phương pháp mệnh lệnh.
+ Phương pháp thỏa thuận.
+ Phương pháp bình đẳng....
Hiện nay, hệ thống pháp luật Việt Nam bao gồm những ngành Luật cơ bản
sau:
1. Ngành Luật Hiến pháp
Thuật ngữ "Hiến pháp" có gốc từ tiếng La tinh là "consitutio"; trong Nhà
nước La Mã cổ đại, các hoàng đế đã dùng thuật ngữ này chỉ các quyết định của
mình. Chỉ từ cách mạng tư sản thuật ngữ này mới có nghĩa như Hiến pháp ngày
nay là luật cơ bản quy định những vấn đề cơ bản về thực hiện quyền lực Nhà
nước và quyền của công dân.
Những đạo luật về việc tổ chức quyền lực Nhà nước này được tập trung
lại thành một ngành Luật độc lập gọi là Luật Nhà nước (hiện nay được gọi là
Luật Hiến pháp). Ngành Luật này có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều
chỉnh riêng và những chủ thể riêng.
a. Đối tượng điều chỉnh:
Ngành Luật Hiến pháp có đối tượng điều chỉnh riêng, đó là những quan hệ
xã hội quan trọng liên quan đến việc tổ chức quyền lực Nhà nước. Qua việc tổ
chức quyền lực Nhà nước này mà pháp luật xác lập nên chế độ chính trị của
Nhà nước. Đó là những quan hệ:
- Liên quan đến nguồn gốc của quyền lực Nhà nước, bản chất Nhà nước,
hay nói một cách cụ thể hơn liên quan đến vấn đề quyền lực Nhà nước bắt
nguồn từ đâu và thể hiện ý chí của giai cấp nào trong xã hội.
Ví dụ: ở Việt Nam ta tại Điều 2 Hiến pháp 1992 khẳng định: "Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức". Như vậy ở nước ta, nguồn gốc quyền lực Nhà nước là
từ nhân dân và nhân dân là người quyết định thực hiện quyền lực Nhà nước.
- Liên quan đến việc xác định mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân,
nói một cách cụ thể hơn công dân sống trong một quốc gia đó được hưởng
những quyền lợi và phải gánh vác những nghĩa vụ gì; nhất, là mức độ nhân dân
tham gia vào việc tổ chức Nhà nước.
So với các ngành Luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam, ngành
Luật Hiến pháp có một vị trí rất quan trọng, làm cơ sở cho các ngành Luật khác.
Luật Hiến pháp quy định chế độ chính trị - vấn đề có tính chất quyết định đến các
chế độ khác do các ngành Luật khác điều chỉnh; chính vì lẽ đó mà các ngành
Luật khác đều phải tuân thủ những quy định của Luật Hiến pháp. Các quy định
của Luật Hiến pháp hầu như trở thành những nguyên tắc của các ngành Luật
khác.
Ví dụ: Như quy tắc "mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật" là quy
định chứa đựng tại Điều 52 Chương V của Hiến pháp năm 1992 là nguyên tắc
chung cho các ngành Luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Nói tóm lại: Luật Hiến pháp là ngành Luật chủ đạo trong hệ thống pháp
luật, bởi vì nó là ngành Luật điều chỉnh những quan hệ xã hội quan trọng nhất
của quốc gia và tất cả những ngành khác đều hình thành trên cơ sở những
nguyên tắc của Luật Hiến pháp, Luật Hiến pháp điều chỉnh ở mức độ khái quát
hóa cao nhất, những quan hệ xã hội cơ bản làm nền tảng cho tất cả các ngành
Luật khác.
b. Phương pháp điều chỉnh:
Ngoài đối tượng điều chỉnh là các quan hệ xã hội có liên quan đến việc tổ
chức quyền lực Nhà nước, muốn xác định Luật Hiến pháp là một ngành Luật độc
lập còn phải dựa vào phương pháp được sử dụng trong các quy phạm luật Hiến
pháp để tác động tới các quan hệ xã hội tương ứng.
Quan hệ xã hội liên quan đến tổ chức quyền lực Nhà nước là những quan
hệ xã hội rất quan trọng, là những quan hệ có tính chất cơ sở cho mọi quan hệ
xã hội khác, đây là những quan hệ cội nguồn, đặt nền móng cho sự phát sinh
các quan hệ xã hội khác, do đó ngành Luật này thường sử dụng phương pháp
định nghĩa, bắt buộc, quyền uy để điều chỉnh các quan hệ xã hội này.
Còn chủ thể của ngành Luật này cũng rất khác so với các ngành Luật
khác vì chủ thể này tham gia các quan hệ xã hội có liên quan đến tổ chức quyền
lực Nhà nước là hết sức đa dạng, phong phú, không cân bằng nhau về quyền lợi
và trách nhiệm, đó là công dân, Nhà nước, dân tộc... Ngoài ra còn có thể là một
tập thể ưu tú, một nhóm người khó xác định, hay một đơn vị hành chính lãnh
thổ, thậm chí là cá nhân không có quốc tịch của bất kỳ quốc gia nào.
Luật Hiến pháp là ngành Luật giữ vị trí tối cao, chủ đạo trong hệ thống
pháp luật Việt Nam. Vì ngành Luật Hiến pháp điều chỉnh những quan hệ xã hội
quan trọng nhất, cơ bản nhất. Từ những quy phạm, những chế định của ngành
Luật Hiến pháp là tiền đề, cơ sở pháp lý cho việc xây dựng mới hoặc sửa đổi, bổ
sung các quy phạm, các chế định của các ngành Luật khác.
Luật Hiến pháp là ngành Luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam,
nó điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản nhất, quan trọng nhất, gắn liền với
việc xác định chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ, địa vị pháp
lý của công dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước.
c. Lịch sử lập hiến Việt Nam:
- Sau Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 3/9/1945 Chính phủ lâm
thời đề ra nhiệm vụ khẩn cấp là xây dựng Hiến pháp. Sau một thời gian chuẩn
bị, ngày 9/11/1946 Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thông
qua. Gồm 70 điều chia làm 7 chương.
- Sau chiến thắng 1954, đất nước bị chia cắt làm hai miền, xã hội đã có sự
thay đổi, giai cấp thống trị đã yếu đi, giai cấp công nông đã mạnh dần, Hiến pháp
1946 không còn phù hợp. Do đó bản Hiến pháp mới đã được Quốc Hội thông
qua ngày 31/12/1959 và có hiệu lực ngày 1/1/1960. Hiến pháp 1959 gồm 112
điều chia làm 10 chương.
- Sau 1975 đất nước thống nhất chúng ta cần có một bản Hiến pháp mới
cho một đất nước thống nhất. Ngày 18/12/1980 Quốc Hội đã thông qua bản Hiến
pháp 1980, gồm 147 điều, chia làm 12 chương.
- Sau Đại hội VI của Đảng cộng sản đất nước trải qua thời kỳ đổi mới, cần
ban hành một bản Hiến pháp mới. Ngày 15/4/1992 bản Hiến pháp sửa đổi đã
được Quốc Hội thông qua, gồm 147 điều và chia làm 12 chương. Đến năm 2001
Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi bổ sung một số nội dung và đây là bản Hiến
pháp đang có hiệu lực hiện nay.
d. Một số nội dung cơ bản của ngành Luật Hiến pháp:
- Quy định chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chế độ văn hóa - xã hội của
Nhà nước.
- Quy định về cách thức tổ chức của Bộ máy Nhà nước: Quốc hội, Chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tổ chức chính
quyền địa phương.
- Quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
- Quy định về việc sửa đổi, bổ sung, ban hành Hiến pháp...
2. Ngành Luật Hành chính
Luật Hành chính là ngành Luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành của các
cơ quan Nhà nước. Khái niệm "hoạt động chấp hành - điều hành" có thể được
hiểu với nội dung và phạm vi gần như các khái niệm "hoạt động hành pháp",
"hoạt động hành chính Nhà nước" hoặc "hoạt động quản lý Nhà nước"; do đó có
thể nói ngành Luật hành chính là ngành Luật về quản lý Nhà nước.
a. Đối tượng điều chỉnh của Luật Hành chính:
Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính là những quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực quản lý Nhà nước, bao gồm ba nhóm quan hệ xã hội cơ bản
sau:
- Nhóm thứ nhất: Những quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lý
Nhà nước của các cơ quan hành chính Nhà nước, đây là bộ phận cơ bản trong
đối tượng điều chỉnh của ngành Luật Hành chính, gồm các quan hệ chủ yếu sau:
+ Quan hệ giữa các cơ quan hành chính Nhà nước với nhau (cơ quan cấp
trên và cơ quan cấp dưới theo hệ thống dọc, cơ quan có thẩm quyền chuyên
môn cấp trên với cơ quan có thẩm quyền chuyên môn cấp dưới; cơ quan có
thẩm quyền chung và cơ quan có thẩm quyền chuyên môn cùng cấp, giữa các
cơ quan có thẩm quyền riêng cùng cấp).
Ví dụ: Quan hệ giữa Chính phủ với UBND cấp tỉnh, UBND cấp tỉnh với
UBND cấp huyện; quan hệ giữa Bộ giáo dục và đào tạo với Sở Giáo dục Thành
phố Hồ Chí Minh, Quan hệ giữa Bộ Công nghiệp với UBND cấp tỉnh; quan hệ
giữa Sở Giáo dục và Sở Y tế,...
+ Quan hệ giữa các cơ quan hành chính Nhà nước với các cá nhân, tổ
chức thuộc phạm vi quản lý của nó (các đơn vị cơ sở trực thuộc, các đơn vị cơ
sở của Trung ương hoặc của cấp trên đóng tại địa phương, các tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, công dân, người nước ngoài).
Ví dụ: Quản lý Nhà nước về hộ khẩu, về hộ tịch, quản lý hoạt động kinh
doanh, cấp phép hoạt động kinh doanh, quản lý về vệ sinh an toàn thực phẩm...;
quan hệ quản lý giữa UBND TP.HCM với Công ty nưới Giải khát Sài Gòn, Tổng
Công ty Du lịch Sài Gòn Tourist; quan hệ giữa UBND TP.HCM với Công ty May
10 đóng tại TP.HCM; quan hệ giữa Sở Y tế với các bệnh viện công; Sở giáo dục
với các trường PTTH công lập...
- Nhóm quan hệ thứ hai: Những quan hệ có tính chất quản lý, hình thành
trong quá trình các cơ quan Nhà nước xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy và chế
độ công tác nội bộ của cơ quan, nhằm ổn định về tổ chức để hoàn thành chức
năng, nhiệm vụ của mình.
Ví dụ: Quan hệ giữa CBCC Tòa án với Chánh án TAND, giữa Kiểm sát
viên với Viện trưởng VKSND, giữa Quốc hội với các đại biểu Quốc hội, giữa
Quốc hội với các cơ quan chuyên trách của Quốc hội,...
- Nhóm quan hệ thứ ba: Là những quan hệ quản lý hình thành trong quá
trình một số tổ chức và cá nhân thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với
những vấn đề cụ thể được Nhà nước trao quyền thực hiện theo quy định pháp
luật.
Ví dụ: Tổng liên đoàn Lao động được trao quyền quản lý đối với các
doanh nghiệp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, Đoàn Thanh
niên được trao quyền quản lý những vấn đề liên quan đến thanh niên,...
b. Phương pháp điều chỉnh của Luật Hành chính:
Phương pháp điều chỉnh của ngành Luật Hành chính là phương pháp
mệnh lệnh - phục tùng, mang tính chất đặc thù được quy định bởi tính chất của
quan hệ quản lý; đó là mối quan hệ "quyền uy - phục tùng"; giữa một bên là
người có quyền nhân danh Nhà nước ra lệnh, ban hành những quy định có tính
chất bắt buộc đối với bên kia - là người phải phục tùng mệnh lệnh những quy
định đó. Quan hệ này thể hiện sự không bình đẳng giữa các chủ thể tham gia
quan hệ quản lý Nhà nước: một bên ra lệnh, bên kia phải phục tùng thi hành.
Ví dụ: Cảnh sát giao thông ra lệnh người điều khiển phương tiện giao
thông ngừng xe lại để kiểm tra giấy tờ; hay thủ trưởng UBND ra lệnh nhân viên
giải quyết khiếu nại của người dân; Thủ tướng yêu cầu Bộ Y tế giải trình về vụ
nước tương có chứa chất MDPC-3,...
Lưu ý: Trong một số trường hợp đặc biệt Luật Hành chính cũng sử dụng
phương pháp thỏa thuận như trong trường hợp ban hành các quyết định liên
tịch, ký kết và thực hiện các hợp đồng hành chính; quan hệ giữa các bên tham
gia các quan hệ này là quan hệ bình đẳng; không có ai có quyền ra lệnh ép buộc
bên kia (Ví dụ như: UBND ký kết Liên tịch với Trường 6 về tiếp nhận học viên
nghiện ma túy của địa phương; UBND TP.HCM ký với Công ty xây dựng để xây
dựng sửa chữa trụ sở làm việc của UBND...).
c. Một số nội dung cơ bản của Luật Hành chính:
* Địa vị pháp lý của các chủ thể Luật Hành chính:
Đây là chế định pháp luật bao gồm các quy phạm quy định về chế độ pháp
lý của các chủ thể như: cơ quan hành chính Nhà nước, cán bộ - công chức, tổ
chức xã hội, đoàn thể, đơn vị kinh doanh, cơ quan sự nghiệp, công dân, người
nước ngoài, người không có quốc tịch trong lĩnh vực quản lý Nhà nước. Tuy
nhiên, những người này chỉ có thể trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật hành
chính khi tồn tại quy phạm pháp luật hành chính tương ứng và xuất hiện sự kiện
pháp lý phù hợp đã được dự kiến trong phần giả định của quy phạm đó.
Ví dụ: Khi một người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật giao thông thì
người đó mới trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính với tư cách là
người vi phạm và sẽ bị người có thẩm quyền (là cảnh sát giao thông) xử lý theo
quy định của pháp luật về giao thông đường bộ.
+ Cơ quan hành chính, là chủ thể chủ yếu của quan hệ pháp luật hành
chính, thực hiện các hoạt động chấp hành - điều hành bằng các hình thức và
phương pháp do pháp luật quy định. Luật Hành chính quy định về trình tự thiết
lập, thay đổi tổ chức, bãi bỏ các cơ quan này; quy định thẩm quyền và cơ cấu
nội bộ, quy định về chế độ hoạt động và những quan hệ công tác chủ yếu; quy
định chế độ thanh tra kiểm tra hoạt động; quy định hệ thống tổ chức và trình tự
thực hiện hoạt động quản lý theo từng ngành, từng lĩnh vực...
Ví dụ: Bộ Giao thông Vận tải, UBND TP.HCM, sở Giáo dục.
+ Chế độ pháp lý của cán bộ công chức bao gồm các quy định về nguyên
tắc tổ chức công tác phục vụ Nhà nước, quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của
cán bộ công chức khi thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình; quy định chế độ
khen thưởng, xử lý kỷ luật, chế độ trách nhiệm...
+ Chế độ pháp lý của công dân, người nước ngoài, người không có quốc
tịch; các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội: gồm những quy định về quyền và nghĩa
vụ của các cá nhân và tổ chức này và những biện pháp quản lý để đảm bảo thực
hiện và bảo vệ những quyền và nghĩa vụ của họ.
Lưu ý: Quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ bất bình đẳng. Nhưng
điều đó không có nghĩa là quan hệ này chỉ xuất hiện giữa các cơ quan cấp trên
và cấp dưới, giữa các chủ thể trực thuộc nhau mà xuất hiện ở khắp nơi, kể cả
giữa các chủ thể hoàn toàn không trực thuộc nhau hoặc thậm chí ngang cấp với
nhau trong Bộ máy Nhà nước, điều quan trọng là ở chỗ giữa chúng có mối liên
hệ trong việc thực hiện chức năng hành chính Nhà nước nào đó. Mặc khác cần
lưu ý là quan hệ pháp luật hành chính không thể xuất hiện chỉ giữa các công
dân, bởi vì một bên tham gia quan hệ này bao giờ cũng với tư cách đại diện cho
Nhà nước, bảo vệ quyền lợi của Nhà nước và do đó thực hiện quyền lực Nhà
nước, có quyền đơn phương ra lệnh. Chính vì vậy quan hệ pháp luật hành chính
là quan hệ bất bình đẳng. Bên có quyền ra lệnh được gọi là bên bắt buộc, nghĩa
là bên không thể thiếu được, vì nếu thiếu thì khộng thể phát sinh quan hệ quyền
lực - phục tùng. Đây chính là đặc điểm quan trọng nhất của quan hệ pháp luật
hành chính; còn các chủ thể kể trên có thể là bên bắt buộc hoặc bên không bắt
buộc tùy theo từng quan hệ cụ thể.
* Các hình thức quản lý Nhà nước:
Hình thức quản lý Nhà nước là sự biểu hiện ra bên ngoài của những hoạt
động quản lý với cùng nội dung, tính chất và phương thức tác động của chủ thể
lên khách thể quản lý.
Hình thức quản lý được phân loại thành hai nhóm căn cứ vào những quan
hệ của chúng với pháp luật: những hình thức pháp lý và những hình thức không
hay ít mang tính pháp lý.
+ Những hình thức pháp lý: Là hình thức được pháp luật quy định cụ thể
và gắn liền với việc ban hành những quy phạm pháp luật và áp dụng pháp luật,
bao gồm:
- Hoạt động ban hành những quyết định quản lý chủ đạo (chứa được
những chủ trương, đường lối, những nhiệm vụ chung):
Ví dụ: Nghị quyết của Chính phủ về xây dựng chương trình phát triển kinh
tế - xã hội năm 2007.
- Hoạt động ban hành những văn bản quy phạm pháp luật:
Ví dụ: Nghị định của Chính phủ về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông, văn hóa thông tin, quản lý hộ tịch, Quyết định của UBND Thành phố
Hồ Chí Minh về ban hành khung giá đất trên địa bàn TP.HCM,...
- Hoạt động ban hành những quyết định cá biệt - cụ thể:
Ví dụ: Quyết định xử lý cán bộ công chức vi phạm kỷ luật, quyết định xử lý
vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm, quyết định tiêu
hủy văn hóa phẩm đồi trụy, độc hại...
Lưu ý: Khi thực hiện hoạt động ban hành các văn bản quản lý Nhà nước
cần hết sức chú ý đảm bảo các yêu cầu đối với nội dung, hình thức và đối với
trình tự ban hành quyết định. Ví dụ: UBND thì không được ban hành văn bản
mang tên là Nghị định, Nghị quyết, không được ban hành những quy định về xử
lý vi phạm hành chính; Nghị quyết, Nghị định của một tập thể thì không thể do
một cá nhân hoặc một vài cá nhân thông qua dù đó là những người có thẩm
quyền nhất, v.v...
+ Những hình thức ít hoặc không mang tính pháp lý, được thể hiện dưới
những hình thức sau:
- Những biện pháp tổ chức - xã hội trực tiếp:
Đó là những hoạt động tuyên truyền, giải thích, hướng dẫn thực hiện pháp
luật, tổ chức thực hiện pháp luật; ví dụ: tổ chức các cuộc hội thảo, mít tinh, biểu
tình của quần chúng, các phong trào thi đua, nêu gương điển hình, v.v...
- Những hoạt động tác nghiệp vật chất - kỹ thuật:
Đó là những hoạt động cụ thể như công việc của người đánh máy, người
trực tổng đài, thủ thư, cán bộ văn thư lưu trữ, người bảo vệ, v.v... Đây là những
hoạt động mang tính chất phục vụ cho các hoạt động quan trọng kể trên nhưng
nếu thiếu nó, những hoạt động quan trọng không thể tiến hành được bình
thường, có trật tự và hiệu quả. Hoạt động này thường được gọi là công tác hành
chính của cơ quan. Quản lý Nhà nước trong thời đại khoa học và công nghệ
phát triển khi mà được các phương tiện kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin
được áp dụng ngày càng nhiều thì hoạt động tác nghiệp vật chất - kỹ thuật càng
đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả hoạt động của quản lý
Nhà nước.
- Những hoạt động mang tính quyền lực pháp lý:
Đó là những hoạt động thi hành các biện pháp cưỡng chế như: dẫn giải tội
phạm, canh gác trại giam, chỉ huy ở nút giao thông, v.v... Những hoạt động này
không phải là hình thức pháp lý vì không làm thay đổi hệ thống quy phạm pháp
luật hoặc thay đổi các quan hệ pháp luật cụ thể (không đặt ra để thay đổi hoặc
chấm dứt những quyền và nghĩa vụ của các chủ thể cụ thể), nhưng mang tính
quyền lực rất cao vì các chủ thể áp dụng có thể thi hành các biện pháp cưỡng
chế khi cần thiết trong phạm vi mà pháp luật và quyết định của người có thẩm
quyền cho phép.
- Hợp đồng hành chính:
Đó là sự thỏa thuận giữa các chủ thể quản lý Nhà nước để thực hiện các
nhiệm vụ, chức năng quản lý, mà việc thực hiện hợp đồng đó không xuất phát
trực tiếp từ thẩm quyền của các chủ thể này. Một bên thực hiện hợp đồng được
trả thù lao. Ví dụ: Công an hợp đồng canh gác, bảo vệ cho một công ty, ngân
hàng có thù lao khi mà nhiệm vụ bảo vệ không phải là trách nhiệm trực tiếp của
cơ quan công an.
- Phương pháp quản lý Nhà nước
Phương pháp quản lý Nhà nước là những phương thức, cách thức, biện
pháp mà chủ thể quản lý áp dụng để tác động lên khách thể quản lý (hành vi của
đối tượng quản lý) nhằm đạt được những mục đích đề ra.
Căn cứ vào nội dung những phương pháp quản lý: Có hai loại phương
pháp chủ yếu là: phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế.
- Phương pháp thuyết phục:
Bao gồm những biện pháp như: giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức; áp
đụng những biện pháp khuyến khích về vật chất, tinh thần; tuyên truyền vận
động giải thích, hướng dẫn, v.v...
Ví dụ: Quyết định khen thưởng cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc
trong công tác đấu tranh phòng ngừa tệ nạn xã hội; tuyên truyền sống và học
tập, làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh...
- Phương pháp cưỡng chế:
Bao gồm những biện pháp như: ban hành những quy định mang tính bắt
buộc, cấm; những quyết định cá biệt, cụ thể mang tính bắt buộc; áp dụng các
biện pháp xử phạt hoặc những biện pháp cưỡng chế mang tính chất phòng
ngừa, ngăn chặn vi phạm.
Ví dụ: Quyết định tiêu hủy gia cầm nghi ngờ nhiễm bệnh H5N1, quyết định
xử phạt vi phạm giao thông,...
Căn cứ vào tính chất sự tác động, còn được phần thành hai loại rất quan
trọng, đó là: phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế:
- Phương pháp hành chính:
Là những biện pháp tác động một cách trực tiếp tới đối tượng bị quản lý
bằng cách trực tiếp quy định nghĩa vụ của đối tượng bị quản lý dưới hình thức
những mệnh lệnh mang tính quyền lực Nhà nước. Đây là phương pháp đặc
trưng không thể thiếu trong quản lý, bởi vì bản chất của quản lý mang tính mệnh
lệnh, tính quyền uy. Phương pháp này còn được gọi là phương pháp mệnh lệnh
hành chính, có thể được thể hiện dưới dạng văn bản pháp luật chứa đựng
những quy định có tính bắt buộc trực tiếp hoặc những quy định cấm, những
quyết định, chỉ thị, cá biệt trao nghĩa vụ cụ thể, hoặc dưới hình thức những biện
pháp tổ chức, điều hành trực tiếp.
- Phương pháp kinh tế:
Là những phương pháp tác động một cách gián tiếp tới tập thể, cá nhân
thông qua việc sử dụng những đòn bẩy kinh tế như chính sách giá cả, tín dụng,
tiền lương, tiền thưởng, lãi suất ngân hàng, chính sách thuế... nhằm tác động tới
lợi ích của các nhân, tổ chức và do đó tăng cường lòng nhiệt tình hăng say lao
động, sự quan tâm của người lao động tới kết quả cuối cùng của hoạt động lao
động của mình. Trong thời đại ngày nay, phương pháp này ngày càng phát huy
hiệu quả và chứng tỏ sức sống mạnh mẽ của mình. Tuy vậy, muốn áp dụng
phương pháp kinh tế trong thực tiễn đời sống cần phải thông qua những văn bản
theo quy định của Luật Hành chính, nghĩa là phương pháp hành chính là
phương tiện đưa phương pháp kinh tế vào cuộc sống.
Người ta còn chia phương pháp quản lý thành những loại như: phương
pháp lãnh đạo chung, phương pháp điều chỉnh, phương pháp quản lý tác
nghiệp, phương pháp quản lý theo chương trình - mục tiêu, v.v...
d. Vi phạm hành chính và trách nhiệm hành chính:
* Vi phạm hành chính:
* Khái niệm: Vi phạm hành chính là những hành vi (hành động hoặc không
hành động) trái pháp luật do các chủ thể của Luật Hành chính thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý xâm hại tới các quan hệ xã hội do Luật Hành chính bảo vệ
và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Một vi phạm hành chính phải có đầy đủ các dấu hiệu chủ yếu sau:
- Là hành vi (hành động hoặc không hành động) của cá nhân hoặc tổ
chức; ý nghĩa, tư tưởng nếu chưa thể hiện thành hành vi không bao giờ được
coi là vi phạm pháp luật.
- Tính trái pháp luật của hành vi (trái pháp luật hành chính).
- Có lỗi, nghĩa là hành vi đó được thực hiện bởi tổ chức hoặc cá nhân có
đầy đủ năng lực hành vi trách nhiệm hành chính (người từ đủ 14 tuổi trở lên phát
triển bình thường về thể chất).
- Xâm hại tới những quan hệ xã hội do luật hành chính bảo vệ.
- Được pháp luật hành chính quy định là phải chịu xử phạt hành chính.
Người có hành vi vi phạm hành chính thì phải bị xử lý vi phạm hành chính.
Xử lý vi phạm hành chính chủ yếu thuộc thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước
và được tiến hành theo trình tự thủ tục hành chính. Chủ thể vi phạm hành chính
có thể là cá nhân, tổ chức, kể cả người nước ngoài, người không có quốc tịch
sống trên lãnh thổ Việt Nam.
* Trách nhiệm hành chính:
Đó là sự áp dụng những biện pháp cưỡng chế hành chính mang tính chất
xử phạt hoặc khôi phục lại những quyền và lợi ích bị xâm hại được quy định
trong những chế tài của quy phạm pháp luật hành chính bởi cơ quan Nhà nước,
người có thẩm quyền đối với những chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành
chính.
Do đó, trách nhiệm hành chính thể hiện sự phản ứng tiêu cực của Nhà
nước đối với chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính, kết quả là chủ thể
thực hiện hành vi vi phạm hành chính phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, bị
thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần so với tình trạng ban đầu.
Cơ sở của trách nhiệm hành chính là vi phạm hành chính.
* Các nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính:
- Việc xử lý vi phạm hành chính do người có thẩm quyền tiến hành theo
đúng quy định của pháp luật.
- Chủ thể bị xử lý khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định.
- Mọi hành vi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời và phải đình
chỉ ngay; việc xử lý vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng, công
minh, triệt để; mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục
theo đúng quy định của pháp luật.
- Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần; một người thực
hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm.
Nhiều người cùng thực hiện hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm
đều bị xử phạt.
- Việc xử lý phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân của
người vi phạm và những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ.
- Không xử lý hành chính trong những trường hợp như: tình thế cấp thiết,
phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hoặc người thực hiện hành vi trái pháp
luật hành chính bị mắc những chứng bệnh làm mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi của mình.
* Thời hiệu xử lý vi phạm hành chính:
- Một năm kể từ ngày vi phạm hành chính được thực hiện.
- Hai năm nếu vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: tài chính, chứng
khoán, sở hữu trí tuệ, xây dựng, môi trường, an toàn và kiểm soát bức xạ, nhà
ở, đất đai, đê điều, xuất bản, xuất nhập cảnh hoặc vi phạm hành chính là hành vi
buôn lậu, sản xuất, buôn bán hàng giả.
- Ba tháng kể từ ngày người có thẩm quyền nhận được quyết định đình
chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án hình sự.
- Nếu cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì không áp dụng thời hiệu
nói trên.
* Các hình thức xử phạt VPHC:
- Hình thức xử phạt chính: cảnh cáo, phạt tiền.
- Hình thức xử phạt bổ sung: tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
- Các biện pháp xử lý vi phạm hành chính khác (không áp dụng đối với
người nước ngoài): giáo dục tại địa phương (từ 03 tháng đến 06 tháng); đưa vào
trường giáo dưỡng (từ 06 tháng đến 02 năm); đưa vào cơ sở chữa bệnh (từ 01
năm đến 02 năm đối với người nghiện ma tuý, từ 03 tháng đến 18 tháng đối với
người bán dâm); quản chế hành chính (từ 06 tháng đến 03 năm).
- Các biện pháp ngăn chặn bảo đảm việc xử lý vi phạm: tạm giữ người
theo thủ tục hành chính (không quá 48 giờ); tạm giữ tang vật, phương tiện vi
phạm; khám người; khám phương tiện vận tải, đồ vật; khám nơi cất giấu tang
vật, phương tiện vi phạm.
* Thủ tục xử phạt và mức phạt:
Đình chỉ hành vi vi phạm; thủ tục xử phạt đơn giản: xử phạt tại chỗ (áp
dụng đối với các vi phạm có mức phạt từ 10.000 đến 200.000 đồng); thủ tục xử
phạt phức tạp: lập biên bản vi phạm hành chính, ra quyết định xử phạt.
Mức phạt theo từng loại vi phạm, thấp nhất là 10.000 đồng và cao nhất là
500.000.000 đồng.
* Đối tượng chịu trách nhiệm hành chính:
- Các cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên hoặc từ đủ 14 tuổi cho đến dưới 16 tuổi
với lỗi cố ý.
- Cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế phải chịu trách nhiệm
về mọi hành vi vi phạm do cơ quan tổ chức gây ra.
- Cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính trên lãnh thổ Việt Nam.
3. Ngành Luật Dân sự
Khái niệm: Ngành Luật Dân sự là một ngành Luật độc lập trong hệ thống
pháp luật Việt Nam, điều chỉnh các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa -
tiền tệ và các quan hệ nhân thân trên cơ sở bình đẳng, độc lập của các chủ thể
tham gia vào quan hệ đó. Đây là ngành Luật xuất hiện rất sớm và có vị trí quan
trọng nhất trong hệ thống pháp luật quốc gia.
a/ Đối tượng điều chỉnh:
- Đối tượng điều chỉnh của ngành Luật Dân sự: là các quan hệ tài sản và
quan hệ nhân thân phi tài sản phát sinh trong giao dịch dân sự nhằm thỏa mãn
nhu cầu của các chủ thể trong xã hội.
+ Quan hệ tài sản là quan hệ giữa người với người thông qua tài sản
được biểu hiện dưới những dạng khác nhau. Tài sản bao gồm: vật, tiền, giấy tờ
có giá trị và các quyền tài sản.
Tuy nhiên ngành Luật Dân sự không điều chỉnh tất cả các quan hệ tài sản
mà chỉ điều chỉnh các quan hệ như:
-> Các quan hệ tài sản liên quan đến quyền sở hữu thông qua việc chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản.
-> Các quan hệ tài sản có tính chất đền bù ngang giá trong trao đổi tài sản,
nghĩa vụ tài sản, trách nhiệm đền bù trong và ngoài hợp đồng.
-> Các quan hệ về thừa kế tài sản.
Ví dụ: Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô
chủ, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật
nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên...
+ Quan hệ nhân thân là quan hệ liên quan đến các giá trị tinh thần của con
người, về nguyên tắc luôn gắn với một người nhất định và không dịch chuyển từ
người này sang người khác. Trong khoa học pháp lý người ta chia quan hệ nhân
thân thành 2 loại:
Quan hệ nhân thân không liên quan đến tài sản (quan hệ nhân thân phi tài
sản) là những quan hệ gắn liền với tên gọi, danh dự, nhân phẩm, uy tín của công
dân hoặc tổ chức nhất định. Ví dụ: Cá nhân có quyền có họ, tên. Họ, tên của một
người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó.
Quan hệ nhân thân có liên quan đến tài sản: Là những quan hệ nhân thân
làm cơ sở phát sinh quan hệ tài sản tiếp theo; như: quan hệ về quyền tác giả,
quan hệ về quyền sở hữu công nghiệp, quan hệ về phát minh sáng chế... Ví dụ:
Trong lĩnh vực quyền tác giả, quyền phát minh sáng chế... ở đây quan hệ nhân
thân là cơ sở khẳng định rằng người sáng tạo ra tác phẩm, công trình văn học
nghệ thuật, khoa học kỹ thuật có quyền đứng tên là tác giả của tác phẩm đó;
quyền này là quyền nhân thân không thể tách rời, chuyển dịch của chính người
sáng tạo; nhưng chính việc thừa nhận họ là tác giả của những công trình đó thì
khi công trình, tác phẩm đó đem lại lợi ích về tài sản thì tác giả phải được nhận
những lợi ích về tài sản như tiền nhuận bút, tiền thưởng... vì đã bỏ công sức
sáng tạo ra tác phẩm đó. Như vậy lợi ích vật chất ở đây xuất phát từ quan hệ
nhân thân có trước.
b/ Phương pháp điều chỉnh:
- Phương pháp điều chỉnh của ngành Luật Dân sự là những biện pháp,
cách thức mà Nhà nước tác động đến các quan hệ tài sản, các quan hệ nhân
thân làm cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi, chấm dứt phù hợp với ý chí
của Nhà nước.
Ngành Luật Dân sự sử dụng phương pháp tự do thương lượng thỏa thuận
giữa các chủ thể trong quan hệ dân sự nhưng không được xâm phạm đến lợi ích
của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích của hợp pháp của người
khác.
Những biện pháp, cách thức mà Nhà nước tác động lên các quan hệ dân
sự có những đặc điểm sau:
+ Bảo đảm sự bình đẳng về mặt pháp lý giữa các chủ thể (các bên) tham
gia quan hệ pháp luật dân sự. Không có sự phân biệt về địa vị xã hội, tình trạng
kinh tế...
+ Bảo đảm quyền tự định đoạt của các chủ thể; thể hiện các chủ thể tự
quyết định tham gia hay không tham gia quan hệ pháp luật dân sự, tự thỏa thuận
với nhau mà không bị ép buộc của bất kỳ ai, kể cả Nhà nước; nội dung của mối
quan hệ thể hiện sự tự nguyện nhất trí của các bên.
+ Các bên phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý dân sự với nhau do hành vi
gây thiệt hại cho người khác nếu có đủ điều kiện luật quy định về bồi thường
thiệt hại.
c/ Quan hệ pháp luật dân sự:
* Khái niệm: Quan hệ pháp luật dân sự là những quan hệ tài sản và quan
hệ nhân thân xuất hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật dân sự.
Các quy phạm pháp luật dân sự quy định cho các bên tham gia quan hệ
xã hội đó có thể hoặc cần phải thực hiện những hành vi nhất định phù hợp với
lợi ích của Nhà nước; quy định cho các chủ thể tham gia những quyền và nghĩa
vụ pháp lý cũng như trách nhiệm dân sự nếu không thực hiện các quyền và
nghĩa vụ đó hoặc có hành vi vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bên kia.
Nhưng các quyền và nghĩa vụ pháp lý chỉ xuất hiện khi có những sự kiện, pháp
lý mà quy phạm pháp luật dân sự đã dự liệu. Ngoài những đặc điểm của quan
hệ pháp luật nói chung, quan hệ pháp luật dân sự còn có những đặc điểm riêng
như sau:
- Là quan hệ bình đẳng giữa những người tham gia.
- Được bảo đảm và duy trì bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.
* Cơ cấu của quan hệ pháp luật dân sự: Quan hệ pháp luật dân sự có ba
bộ phận cấu thành là chủ thể, khách thể và nội dung.
- Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự: Là những người tham gia vào
quan hệ pháp luật dân sự mang quyền và nghĩa vụ trong quan hệ đó.
Người nói ở đây bao gồm: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác -
là những chủ thể có năng lực pháp luật và hành vi dân sự theo quy định của
pháp luật; trong đó hộ gia đình và tổ hợp tác là chủ thể đặc biệt của quan hệ
pháp luật dân sự.
- Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự: Là các hành vi của chủ thể
thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự.
- Nội dung quan hệ pháp luật dân sự: Là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ
của các bên tham gia vào quan hệ đó.
+ Quyền dân sự: Là cách xử sự được phép của người có quyền năng; cụ
thể như: Có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt những vật thuộc sở hữu của
mình trong khuôn khổ pháp luật để thỏa mãn các nhu cầu của mình.
Có quyền yêu cầu người khác thực hiện hoặc không thực hiện những
hành vi nhất định (trả tiền, thực hiện một công việc, chuyển giao một vật, không
làm điều gì cản trở chủ sở hữu thực hiện quyền sở hữu của họ).
Khi các quyền dân sự bị vi phạm, chủ thể có quyền sử dụng các biện pháp
bảo vệ mà pháp luật cho phép như tự bảo vệ, áp dụng các biện pháp tác động
khác... hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền dân sự
của mình như kiện ra tòa, khiếu nại đến cơ quan hành chính Nhà nước.
+ Nghĩa vụ dân sự: Là cách xử sự bắt buộc của người có nghĩa vụ; cụ thể
là những nghĩa vụ sau:
Thực hiện một hành vi nhất định; ví dụ như: trả tiền trong hợp đồng mua
bán, bồi thường thiệt hại, chuyển giao tài sản...
Kiềm chế không thực hiện những hành vi nhất định khi những hành vi này
xâm phạm đến lợi ích của bên kia; ví dụ như: không xâm phạm, cản trở chủ sở
hữu thực hiện quyền sở hữu của họ, không thay đổi cấu trúc ngôi nhà khi thuê
nhà...
Phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý khi không thực hiện các xử sự nhất
định nói trên.
d/ Một số chế định cơ bản:
* Chế định quyền sở hữu:
Sở hữu là một quan hệ xã hội biểu hiện ở việc nắm giữ, sử dụng, định
đoạt những của cải vật chất thông qua quan hệ của chủ sở hữu đối với người
khác.
Quyền sở hữu là một phạm trù pháp lý gồm tổng hợp các quy phạm pháp
luật điều chỉnh những quan hệ về sở hữu đối với các lợi ích vật chất trong xã hội.
Hay nói cách khác, quyền sở hữu là chế định trung tâm của ngành Luật Dân sự,
tổng hợp các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản.
Chế định quyền sở hữu là chế định trung tâm, quan trọng nhất không
những chỉ riêng Luật Dân sự mà còn cho cả hệ thống pháp luật. Đây là một
nhóm các quy phạm pháp luật xác nhận các hình thức sở hữu ở nước ta như:
sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữa của các tổ chức chính trị - xã hội, sở
hữu tư nhân và các loại sở hữu chung. Chế định này quy định về cách thức
pháp sinh, trình tự thực hiện và các phương pháp, hình thức nhằm bảo vệ quyền
sở hữu.
Đối tượng của quyền sở hữu là tài sản, bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá
và các quyền tài sản.
Nội dung quyền sở hữu: Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền
sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
Quyền chiếm hữu: Là quyền nắm giữ, quản lý tài sản. Chủ sở hữu có
quyền kiểm soát, chi phối tài sản của mình mà không bị hạn chế.
Quyền sử dụng: Là quyền khai thác công dụng và những lợi ích vật chất
của tài sản trong phạm vi pháp luật cho phép để thỏa mãn nhu cầu của chủ sở
hữu.
Quyền định đoạt: Là quyền của chủ sở hữu trong việc quyết định số phận
của tài sản, thể hiện trên 2 phương diện: định đoạt số phận thực tế của tài sản
như tiêu dùng hết, hủy bỏ, từ bỏ quyền sở hữu tài sản) hay định đoạt về số phận
pháp lý của tài sản (như chuyển giao quyền sở hữu thông qua các giao dịch dân
sự như mua bán, trao đổi, tặng cho...).
- Căn cứ xác lập quyền sở hữu:
+ Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp;
+ Được chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền;
+ Thu hoa lợi, lợi tức;
+ Tạo thành vật mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến;
+ Được thừa kế tài sản;
+ Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô chủ,
vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi
dưới nước di chuyển tự nhiên;
+ Chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục,
công khai phù hợp với thời hiệu quy định của pháp luật;
+ Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
- Căn cứ chấm dứt quyền sở hữu:
+ Chủ sở hữu chuyển quyền sở hữu của mình cho người khác;
+ Chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình;
+ Tài sản bị tiêu hủy;
+ Tài sản bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu;
+ Tài sản bị trưng mua;
+ Tài sản bị tịch thu;
+ Vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới
nước di chuyển tự nhiên mà người khác đã được xác lập quyền sở hữu trong
các điều kiện do pháp luật quy định; tài sản mà người khác đã được xác lập
quyền sở hữu theo quy định của pháp luật;
+ Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
* Chế định nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự:
- Nghĩa vụ dân sự là việc mà một hoặc nhiều chủ thể (còn gọi là người có
nghĩa vụ) phải làm một công việc hoặc không được làm một công việc vì lợi ích
của một hay nhiều chủ thể khác (còn được gọi là người có quyền).
+ Đối tượng của nghĩa vụ dân sự là tài sản, công việc phải làm hoặc công
việc không được làm.
+ Nghĩa vụ dân sự phát sinh từ hợp đồng, hành vi pháp lý đơn phương,
được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật, hành vi gây thiệt hại trái pháp
luật... Ví dụ: Nghĩa vụ trả tiền thuê nhà trong hợp đồng thuê nhà, nghĩa vụ trả
tiền mua xe trong hợp đồng mua bán... Hoặc nghĩa vụ chuyển giao nhà cho thuê
sang cho bên thuê, nghĩa vụ giao xe...
+ Căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự: Hợp đồng dân sự; Hành vi pháp lý
đơn phương; Thực hiện công việc không có ủy quyền; Chiếm hữu, sử dụng tài
sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; Gây thiệt hại do hành vi
trái pháp luật; Những căn cứ khác do pháp luật quy định.
+ Chấm dứt nghĩa vụ dân sự: Nghĩa vụ đã hoàn thành, theo thỏa thuận
của các bên, bên có quyền miễn việc thực hiện nghĩa vụ, nghĩa vụ được thay thế
bởi một nghĩa vụ khác hoặc trường hợp hai bên cùng có nghĩa vụ đối với nhau
về một đối tượng cùng loại thì nghĩa vụ dân sự sẽ chấm dứt.
Ngoài ra, pháp luật cũng quy định chấm dứt nghĩa vụ dân sự khi bên có
quyền và bên có nghĩa vụ sáp nhập làm một, khi thời hiệu khởi kiện đã hết, một
bên trong quan hệ nghĩa vụ chết, đối tượng là vật đặc định không còn mà phải
giao đúng vật đó, khi bị tuyên bố phá sản.
- Hợp đồng dân sự là thỏa thuận của các bên về việc xác lập, thay đổi hay
chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.
Việc giao kết hợp đồng phải chấp hành các nguyên tắc: tự do thể hiện ý
chí và bình đẳng. Tức là các bên tự do giao kết nhưng không được trái với pháp
luật và đạo đức xã hội; tự nguyện cùng nhau xác lập quan hệ nhưng nội dung
quan hệ phải thể hiện sự tương xứng về quyền và nghĩa vụ, đảm bảo lợi ích cho
các bên. Hình thức của hợp đồng thể hiện dưới hình thức trao đổi bằng lời nói,
văn bản viết hay bằng hành vi cụ thể. Khi không đảm bảo các yêu cầu của pháp
luật trong giao kết hợp đồng thì hợp đồng dân sự có thể bị Tòa án tuyên bố vô
hiệu.
Việc không thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng sẽ dẫn đến trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của bên có hành vi vi phạm gây thiệt hại.
Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng là sự cưỡng chế của Nhà nước
buộc bền vi phạm hợp đồng phải tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng hoặc phải bồi
thường thiệt hại do hành vi không chấp hành hợp đồng, thực hiện không đúng,
không đầy đủ hợp đồng mà gây thiệt hại. Luật Dân sự quy định về điều kiện phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, ấn định mức bồi thường thiệt hại, cách
thức tiến hành việc bồi thường thiệt hại...
Ngoài ra, trong chế định nghĩa vụ còn quy định người có hành vi vi phạm
pháp luật gây thiệt hại về tài sản, danh dự, nhân phẩm hoặc xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe của người khác phải bồi thường thiệt hại, đó là trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trách nhiệm dân sự phát sinh do gây thiệt hại là một quan hệ pháp luật
trong đó bên bị thiệt hại (người có quyền) có quyền yêu cầu bên gây thiệt hại
(người có nghĩa vụ) phải bồi thường những thiệt hại tài sản gây ra, còn bên gây
thiệt hại có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại đó cho người có quyền. Luật Dân
sự quy định điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại ngoài hợp
đồng, căn cứ miễn trách nhiệm dân sự, cách tính và ấn định mức bồi thường...
* Chế định quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ
Chế định này bao gồm các quy phạm pháp luật về quyền tác giả với tác
phẩm văn học nghệ thuật, khoa học, về quyền sở hữu công nghiệp và chuyển
giao công nghệ.
- Quyền tác giả là tổng hợp các quyền nhân thân phi tài sản và quyền tài
sản của tác giả. Tác giả là người sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa
học. Quyền tác giả phát sinh kể từ ngày tác phẩm được sáng tạo và được thể
hiện dưới một hình thức vật chất nhất định. Tòa án là cơ quan giải quyết các
tranh chấp phát sinh về quyền tác giả.
- Quyền sở hữu công nghiệp là quyền sở hữu đối với các đối bao gồm
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật
kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa. Quyền đối với giống cây
trồng là quyền sở hữu đối với các đối tượng là vật liệu nhân giống và giống cây
trồng.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết
kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, quyền đối với giống cây trồng, bao gồm quyền
nhân thân và quyền tài sản.
-> Quyền nhân thân bao gồm quyền được đứng tên tác giả trong văn bằng
bảo hộ do Nhà nước cấp, trong các tài liệu công bố, giới thiệu về sáng chế, kiểu
dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng đó.
-> Quyền tài sản bao gồm quyền sử dụng, cho phép hoặc cấm người khác
sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn,
giống cây trồng đó.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết
kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, quyền đối với giống
cây trồng được xác lập trên cơ sở quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền khi thực hiện việc đăng ký các đối tượng đó theo quy định của pháp luật
về sở hữu trí tuệ.
- Pháp luật về chuyển giao công nghệ bao gồm những quy định nhằm xác
định đối tượng chuyển giao công nghệ (các đối tượng sở hữu công nghiệp, bí
quyết, kiến thức kỹ thuật, các dịch vụ kỹ thuật...) cũng như quyền chuyển giao
công nghệ của các chủ thể dân sự, các trường hợp không được chuyển giao.
* Chế định quyền thừa kế
Thừa kế là một loại quan hệ xã hội tồn tại khách quan trong đời sống xã
hội thể hiện ở việc chuyển giao tài sản của người đã chết cho những người còn
sống.
Pháp luật dân sự quy định về thừa kế là tổng hợp những quy phạm pháp
luật quy định việc chuyển quyền sở hữu đối với di sản thừa kế của người chết
sang cho người thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật.
Di sản thừa kế bao gồm: tài sản riêng, quyền và nghĩa vụ mà người chết
để lại. Tài sản này phải thuộc sở hữu của người chết.
Người thừa kế là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế (thời điểm
người để lại di sản chết) hoặc đã sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế
nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường hợp không
có người thừa kế, người thừa kế không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối
quyền hưởng di sản thì di sản thuộc về Nhà nước.
- Thừa kế theo di chúc là việc di chuyển di sản thừa kế của người đã chết
cho những người còn sống theo sự định đoạt của người đó khi còn sống. Mọi
người đều có quyền lập di chúc nếu đủ 18 tuổi; di chúc có thể lập bằng văn bản
hoặc di chúc miệng nhưng phải đáp ứng các điều kiện: người lập di chúc phải tự
nguyện, tinh thần minh mẫn, không bị cưỡng ép; nội dung và hình thức của di
chúc không được trái pháp luật.
- Thừa kế theo pháp luật là việc di chuyển tài sản của người chết cho
những người thừa kế theo quy định của pháp luật; hình thức thừa kế này phát
sinh do người chết không để lại di chúc, di chúc không hợp pháp hoặc vì một số
lý do khác theo quy định của pháp luật.
Việc nhận thừa kế được phân định theo hàng thừa kế:
+ Hàng thừa kế thứ nhất: vợ, chồng, cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết;
+ Hàng thừa kế thứ hai: ông bà nội, ông bà ngoại, anh chị em ruột của
người chết;
+ Hàng thừa kế thứ ba: cụ nội, cụ ngoại, bác, chú, cô, dì, cậu, cháu ruột
của người chết.
Những người thuộc hàng thừa kế được hưởng phần di sản ngang nhau,
những người thừa kế ở hàng tiếp theo chỉ được hưởng thừa kế khi không còn ai
thuộc hàng thừa kế trước,...
Pháp luật dân sự còn quy định về thừa kế thế vị. Trong trường hợp con
của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di
sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng
nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để
lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được
hưởng nếu còn sống.
* Một số quy định về quyền sử dụng đất
Trong chế định này ghi nhận những căn cứ xác lập quyền sử dụng đất,
các hình thức chuyển quyền sử dụng đất, nguyên tắc chuyển quyền sử dụng đất
và các điều kiện, trình tự để thực hiện các quyền chuyển đổi, cho thuê, thế chấp,
thừa kế quyền sử dụng đất.
4. Ngành Luật Lao động
Khái niệm: Luật Lao động là tổng hợp những quy tắc và quy phạm pháp
luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa người lao động với người sử
dụng lao động; giữa người lao động, người sử dụng lao động với các cơ quan
chức năng của Nhà nước về lao động và các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp
với quan hệ lao động.
a/ Đối tượng điều chỉnh của Luật Lao động:
Đối tượng điều chỉnh của ngành Luật Lao động Việt Nam là quan hệ lao
động hay còn gọi là quan hệ về sử dụng lao động và những quan hệ liên quan
trực tiếp đến quan hệ lao động (các quan hệ phát sinh trên cơ sở quan hệ lao
động hoặc là phát sinh của quan hệ lao động). Cụ thể bao gồm các quan hệ sau:
- Quan hệ lao động là quan hệ giữa người với người hình thành giữa
người lao động và người sử dụng lao động trong quá trình tuyển chọn và sử
dụng sức lao động của người lao động tại đơn vị thuộc các thành phần kinh tế,
kể cả quan hệ lao động trong các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài, lao động
giúp việc nhà trên cơ sở giao kết hợp đồng lao động.
- Các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp với quan hệ lao động như: quan
hệ về việc làm và học nghề, quan hệ giữa công đoàn với người lao động và
người sử dụng lao động, quan hệ về bảo hiểm xã hội, quan hệ về bồi thường
thiệt hại vật chất, quan hệ về giải quyết tranh chấp lao động, quan hệ về quản lý
và thanh tra lao động.
b/ Phương pháp điều chỉnh của ngành Luật Lao động:
Xuất phát từ đối tượng điều chỉnh của mình, Luật Lao động sử dụng tổng
hợp 3 phương pháp: thỏa thuận, mệnh lệnh và sự tham gia của công đoàn.
Phương pháp thỏa thuận là phương pháp được sử dụng phổ biến trong
ngành Luật Lao động trong nền kinh tế thị trường. Bằng phương pháp này đã
hình thành nên quan hệ lao động cá nhân (trên cơ sở Hợp đồng lao động) và
quan hệ lao động tập thể (trên cơ sở Thỏa ước lao động tập thể). Ví dụ: Người
sử dụng lao động và người lao động thỏa thuận về các điều khoản trong hợp
đồng, như lương, trợ cấp, quyền, nghĩa vụ...
Phương pháp mệnh lệnh là phương pháp được sử dụng hợp lý trong Luật
Lao động, chủ yếu là trong lĩnh vực quản lý, tổ chức và điều hành lao động. Xét
về mặt vĩ mô, đó là sự thể hiện quyền uy Nhà nước đối với người sử dụng lao
động. Còn xét về mặt vi mô, thể hiện quyền tổ chức và điều hành của người sử
dụng lao động đối với người lao động. Nhìn chung, phương pháp mệnh lệnh
trong Luật Lao động được sử dụng mềm dẻo hơn trong Luật Hành chính.
Sự tham gia của công đoàn vào việc điều chỉnh những quan hệ là đối
tượng của Luật Lao động là phương pháp đặc thù của ngành Luật này. Tùy theo
từng lĩnh vực hoạt động, từng cấp công đoàn mà có sự tham gia tác động của
công đoàn là rất lớn, bao gồm cả việc sáng tạo các quy phạm pháp luật đến việc
áp dụng các quy phạm này. Đây là sự thể hiện sự coi trọng của Nhà nước đối
với công đoàn, tổ chức đại diện cho tập thể những người lao động trong quan hệ
lao động.
c/ Các nguyên tắc cơ bản của Luật Lao động:
- Nguyên tắc tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp; không bị phân biệt
đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo.
- Nguyên tắc trả lương trên cơ sở sự thỏa thuận và theo năng suất, chất
lượng, hiệu quả công việc nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu do
Nhà nước quy định.
- Nguyên tắc thực hiện bảo hộ lao động toàn diện và bảo đảm an toàn, vệ
sinh lao động.
- Nguyên tắc được nghỉ ngơi tái tạo sức lao động theo chế độ có hưởng
lương.
- Nguyên tắc được hưởng bảo hiểm xã hội, phúc lợi xã hội và các quyền
lợi khác.
- Nguyên tắc tôn trọng quyền tự do liên kết và lập hội của người lao động
và người sử dụng lao động.
- Nguyên tắc tuân thủ nghiêm chỉnh hợp đồng lao động, thỏa ước lao động
tập thể, kỷ luật lao động và tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật lao
động.
d/ Các chế định cơ bản của ngành Luật Lao động:
* Việc làm và học nghề:
Những quy phạm về việc làm và học nghề hợp thành một chế định quan
trọng của ngành Luật Lao động được quy định ở chương II và III Bộ luật Lao
động và Nghị định số 139/2006/NĐ-CP ngày 20/11/2006 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục và Bộ luật Lao động về mục
tiêu, chương trình dạy nghề; tổ chức, hoạt động dạy nghề; doanh nghiệp với
hoạt động dạy nghề; tuyển sinh và hợp đồng học nghề; thi, kiểm tra và thẩm
quyền cấp bằng, chứng chỉ nghề; chính sách đối với dạy nghề; trách nhiệm của
cơ quan quản lý Nhà nước về dạy nghề.
Dưới góc độ pháp lý: "Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp
luật cấm đều được thừa nhận là việc làm". Giải quyết việc làm, bảo đảm mọi
người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà
nước, của các doanh nghiệp và của toàn xã hội.
Pháp luật lao động quy định mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa
chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp,
không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng,
tôn giáo.
Nhà nước, một mặt có các chương trình, kế hoạch, biện pháp giải quyết
việc làm và học nghề, mặt khác cũng có những quy định ngăn ngừa những
người lợi dụng danh nghĩa giới thiệu việc làm, dạy nghề để trục lợi.
* Thời giờ làm việc và nghỉ ngơi:
Thời giờ làm việc không quá 8 giờ trong một ngày hoặc 48 giờ trong một
tuần. Người sử dụng lao động có quyền quy định thời giờ làm việc theo ngày
hoặc tuần, nhưng phải thông báo trước cho người lao động biết.
Thời giờ làm việc hàng ngày được rút ngắn từ một đến hai giờ đối với
những người làm các công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo
danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành (Điều
68).
Người sử dụng lao động và người lao động có thể thỏa thuận làm thêm
giờ, nhưng không được quá bốn giờ trong một ngày, 200 giờ trong một năm.
Thời giờ làm việc ban đêm tính từ 22 giờ đến 6 giờ hoặc từ 21 giờ đến 5
giờ, tùy theo vùng khí hậu do Chính phủ quy định.
Thời giờ nghỉ ngơi:
Người lao động làm việc 8 giờ liên tục thì được nghỉ ít nhất nửa giờ, tính
vào giờ làm việc. Người làm ca đêm được nghỉ giữa ca ít nhất 45 phút, tính vào
giờ làm việc. Người lao động làm việc theo ca được nghỉ ít nhất 12 giờ trước khi
chuyển sang ca khác.
Mỗi tuần người lao động được nghỉ ít nhất một ngày (24 giờ liên tục).
Người sử dụng lao động có thể sắp xếp ngày nghỉ hàng tuần vào chủ nhật hoặc
vào một ngày cố định khác trong tuần. Trong trường hợp đặc biệt do chu kỳ lao
động không thể nghỉ hàng tuần thì người sử dụng lao động phải bảo đảm cho
người lao động được nghỉ tính bình quân một tháng ít nhất là bốn ngày.
- Người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương những ngày lễ
sau đây:
+ Tết Dương lịch: một ngày (ngày 1 tháng 1 Dương lịch).
+ Tết Âm lịch: bốn ngày (một ngày cuối năm và ba ngày đầu năm Âm lịch).
+ Ngày Chiến thắng: một ngày (ngày 30 tháng 4 Dương lịch).
+ Ngày Quốc tế lao động: một ngày (ngày 1 tháng 5 Dương lịch)
+ Ngày Quốc khánh: một ngày (ngày 2 tháng 9 Dương lịch).
+ Ngày giỗ Tổ Hùng Vương (ngày 10 tháng 03 Âm lịch).
Nếu những ngày nghỉ nói trên trùng vào ngày nghỉ hàng tuần thì người lao
động được nghĩ bù vào ngày tiếp theo.
- Người lao động có 12 tháng làm việc tại một doanh nghiệp hoặc với một
người sử dụng lao động thì được nghỉ hàng năm, hưởng nguyên lương theo quy
định sau đây:
+ 12 ngày làm việc, đối với người làm công việc trong điều kiện bình
thường;
+ 14 ngày làm việc, đối với người làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm hoặc làm việc ở những nơi có điều kiện sinh sống khắc nghiệt và đối với
người dưới 18 tuổi;
+ 16 ngày làm việc, đối với người làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc
hại, nguy hiểm; người làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm ở những nơi
có điều kiện sinh sống khắc nghiệt.
Số ngày nghỉ hàng năm được tăng thêm theo thâm niên làm việc tại một
doanh nghiệp hoặc với một người sử dụng lao động, cứ năm năm được nghỉ
thêm một ngày.
- Người sử dụng lao động có quyền quy định lịch nghỉ hàng năm sau khi
tham khảo ý kiến của Ban chấp hành công đoàn cơ sở và phải thông báo trước
cho mọi người trong doanh nghiệp. Người lao động có thể thỏa thuận với người
sử dụng lao động để nghỉ hàng năm thành nhiều lần. Người làm việc ở nơi xa
xôi hẻo lánh, nếu có yêu cầu, được gộp số ngày nghỉ của hai năm để nghỉ một
lần; nếu nghỉ gộp ba năm một lần thì phải được người sử dụng lao động đồng ý.
Người lao động do thôi việc hoặc vì các lý do khác mà chưa nghỉ hàng năm hoặc
chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hàng năm, thì được trả lương những ngày chưa
nghỉ.
Khi nghỉ hàng năm, người lao động được ứng trước một khoản tiền ít nhất
bằng tiền lương của những ngày nghỉ. Tiền tàu xe và tiền lương của người lao
động trong những ngày đi đường do hai bên thỏa thuận. Người lao động có dưới
12 tháng làm việc thì thời gian nghĩ hàng năm được tính theo tỷ lệ tương ứng với
số thời gian làm việc và có thể được thanh toán bằng tiền.
- Người lao động được nghỉ về việc riêng mà vẫn hưởng nguyên lương
trong những trường hợp sau đây:
+ Kết hôn, nghỉ ba ngày;
+ Con kết hôn, nghỉ một ngày;
+ Bố mẹ (cả bên chồng và bền vợ) chết, vợ hoặc chồng chết, con chết,
nghỉ ba ngày.
+ Người lao động có thể thỏa thuận với người sử dụng lao động để nghỉ
không hưởng lương.
+ Hợp đồng lao động:
- Định nghĩa: Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và
người sử dụng lao động về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và
nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động; hợp đồng lao động được giao kết
theo nguyên tắc bình đẳng tự nguyện.
Hợp đồng lao động được ký kết trực tiếp giữa người sử dụng lao động với
người lao động bằng văn bản hoặc bằng lời nói (đối với một số công việc có tính
chất tạm thời mà thời hạn dưới 3 tháng hoặc đối với lao động giúp việc nhà). Có
các loại hợp đồng như: hợp đồng không xác định thời hạn, hợp đồng xác định
thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng và hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc làm
những công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.
Hợp đồng lao động phải có những nội dung chủ yếu như: công việc phải
làm, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương, địa điểm làm việc, điều kiện
về an toàn và vệ sinh lao động, thời hạn hợp đồng, bảo hiểm xã hội. Nội dung
của hợp đồng không được trái với những quy định của pháp luật lao động.
Ngoài ra, pháp luật lao động cũng quy định những trường hợp thay đổi nội
dung hợp đồng, tạm hoãn, chấm dứt hợp đồng...
Không được giao kết hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công
việc nhất định mà thời hạn dưới một năm để làm những công việc có tính chất
thường xuyên từ một năm trở lên, trừ trường hợp phải tạm thời thay thế người
lao động đi làm nghĩa vụ quân sự, nghỉ theo chế độ thai sản hoặc nghỉ việc có
tính chất tạm thời khác.
Hợp đồng lao động được ký kết bằng văn bản và phải được làm thành hai
bản, mỗi bên giữ một bản. Đối với một số công việc có tính chất tạm thời mà thời
hạn dưới ba tháng hoặc đối với lao động giúp việc gia đình thì các bên có thể
giao kết bằng miệng. Trong trường hợp giao kết bằng miệng, thì các bên đương
nhiên phải tuân theo các quy định của pháp luật lao động.
* Thỏa ước lao động tập thể:
- Định nghĩa: Thỏa ước lao động tập thể là văn bản thỏa thuận giữa tập
thể người lao động và người sử dụng lao động về các điều kiện lao động và sử
dụng lao động, quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ lao động.
- Thỏa ước tập thể do đại diện của tập thể lao động và người sử dụng lao
động thương lượng và ký kết theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và công
khai. Nội dung của Thỏa ước tập thể không được trái với các quy định của pháp
luật lao động và pháp luật khác. Nhà nước khuyến khích việc ký kết Thỏa ước
lao động tập thể với những quy định có lợi hơn cho người lao động so với quy
định của pháp luật lao động.
Thỏa ước lao động có ý nghĩa bổ sung, nâng cao hợp đồng lao động cá
nhân, tạo điều kiện cho người lao động được hưởng những điều kiện lao động
tốt hơn những gì pháp luật quy định. Đồng thời có ý nghĩa tăng cường trách
nhiệm của cả hai bên, điều hòa mâu thuẫn, ngăn ngừa tranh chấp trong quan hệ
lao động.
* Tiền lương:
- Định nghĩa: Tiền lương được hiểu là số tiền mà người sử dụng lao động
trả cho người lao động khi họ hoàn thành một công việc theo hợp đồng lao động
phù hợp với các quy định của pháp luật.
Tiền lương là một chế định quan trọng của ngành Luật Lao động do hai
bên thỏa thuận nhưng không được thấp hơn mức tối thiểu do Nhà nước quy
định. Có các hình thức trả lương: trả lương theo thời gian (tháng, tuần, giờ), trả
lương khoán và trả lương theo sản phẩm. Ngoài ra pháp luật lao động còn quy
định chế độ tiền thưởng, chế độ phụ cấp bổ sung cho tiền lương.
* Kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất:
- Định nghĩa: Kỷ luật lao động là những quy định về việc tuân theo thời
gian, công nghệ và điều hành sản xuất, kinh doanh thể hiện trong nội quy lao
động.
Nội quy lao động không được trái với pháp luật lao động và pháp luật
khác. Doanh nghiệp sử dụng từ 10 người lao động trở lên phải có nội quy lao
động bằng văn bản.
+ Người vi phạm kỷ luật lao động, tùy theo mức độ phạm lỗi, bị xử lý theo
một trong những hình thức sau đây: Khiển trách; Chuyển làm công việc khác có
mức lương thấp hơn trong thời hạn tối đa là sáu tháng; Sa thải.
+ Không được áp dụng nhiều hình thức xử lý kỷ luật lao động đối với một
hành vi vi phạm kỷ luật lao động.
+ Thời hiệu để xử lý vi phạm kỷ luật lao động tối đa là ba tháng kể từ ngày
xảy ra vi phạm, trường hợp đặc biệt cũng không được quá sáu tháng.
+ Khi xem xét xử lý kỷ luật lao động phải có mặt đương sự và phải có sự
tham gia của đại diện Ban chấp hành công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp.
+ Việc xem xét xử lý kỷ luật lao động phải được ghi thành biên bản.
- Định nghĩa trách nhiệm vật chất: Là hậu quả vật chất bất lợi mà người
lao động phải gánh chịu, tức là phải bồi thường những thiệt hại về tài sản do vi
phạm kỷ luật lao động hoặc do sơ suất khi làm việc gây ra.
Việc xem xét, quyết định bồi thường thiệt hại theo trách nhiệm vật chất do
người lao động làm hư hỏng hoặc làm mất dụng cụ, thiết bị và các tài sản khác
của đơn vị, phải căn cứ vào lỗi và mức độ thiệt hại thực tế. Không phải bồi
thường thiệt hại do nguyên nhân bất khả kháng.
Mức thiệt hại dược coi là không nghiêm trọng là mức thiệt hại gây ra dưới
5 triệu đồng.
* Bảo hiểm xã hội:
- Định nghĩa: Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một
phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc
chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.
Theo quy định hiện hành thì có các chế độ bảo hiểm xã hội sau:
1. Bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm các chế độ sau đây:
a) Ốm đau;
b) Thai sản;
c) Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
d) Hưu trí;
đ) Tử tuất.
2. Bảo hiểm xã hội tự nguyện bao gồm các chế độ sau đây:
a) Hưu trí;
b) Tử tuất.
3. Bảo hiểm thất nghiệp bao gồm các chế độ sau đây:
a) Trợ cấp thất nghiệp;
b) Hỗ trợ học nghề;
c) Hỗ trợ tìm việc làm.
* Giải quyết tranh chấp lao động:
- Định nghĩa: Tranh chấp lao động là những tranh chấp về quyền và lợi ích
phát sinh trong quan hệ lao động giữa người lao động, tập thể lao động với
người sử dụng lao động.
Tranh chấp lao động bao gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao
động với người sử dụng lao động và tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao
động với người sử dụng lao động.
Tranh chấp lao động tập thể về quyền là tranh chấp về việc thực hiện các
quy định của pháp luật lao động, thỏa ước lao động tập thể, nội quy lao động đã
được đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc các quy chế, thỏa
thuận hợp pháp khác ở doanh nghiệp mà tập thể lao động cho rằng người sử
dụng lao động vi phạm.
Tranh chấp lao động tập thể về lợi ích là tranh chấp về việc tập thể lao
động yêu cầu xác lập các điều kiện lao động mới so với quy định của pháp luật
lao động, Thỏa ước lao động tập thể, nội quy lao động đã được đăng ký với cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc các quy chế, thỏa thuận hợp pháp khác ở
doanh nghiệp trong quá trình thương lượng giữa tập thể lao động với người sử
dụng lao động.
- Những nguyên tắc giải quyết các tranh chấp lao động:
1. Thương lượng trực tiếp, tự dàn xếp và tự quyết định của hai bên tranh
chấp tại nơi phát sinh tranh chấp;
2. Thông qua hòa giải, trọng tài trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của
hai bên tranh chấp, tôn trọng lợi ích chung của xã hội và tuân theo pháp luật;
3. Giải quyết công khai, khách quan, kịp thời, nhanh chóng và đúng pháp
luật;
4. Có sự tham gia của đại diện người lao động và đại diện người sử dụng
lao động trong quá trình giải quyết tranh chấp:
- Thẩm quyền và trình tự giải quyết tranh chấp lao động:
-> Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân
+ Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá
nhân:
1. Hội đồng hòa giải lao động cơ sở hoặc hòa giải viên lao động;
2. Tòa án nhân dân.
+ Trình tự giải quyết tranh chấp lao động:
Hội đồng hòa giải lao động cơ sở hoặc hòa giải viên lao động tiến hành
hòa giải tranh chấp lao động cá nhân.
Tòa án nhân dân giải quyết các tranh chấp lao động cá nhân mà Hội đồng
hòa giải lao động cơ sở hoặc hòa giải viên lao động hòa giải không thành hoặc
không giải quyết.
+ Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân được quy định
như sau:
1. Một năm, kể từ ngày xảy ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng
quyền, lợi ích của mình bị vi phạm đối với các tranh chấp lao động (a) Tranh
chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn
phương chấm dứt Hợp đồng lao động; (b) Tranh chấp về bồi thường thiệt hại,
trợ cấp khi chấm dứt Hợp đồng lao động; (c) Tranh chấp giữa người giúp việc
gia đình với người sử dụng lao động.
2. Hai năm, kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho
rằng quyền, lợi ích của mình bị vi phạm đối với tranh chấp về bảo hiểm xã hội.
3. Ba năm, kể từ ngày xảy ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng
quyền, lợi ích của mình bị vi phạm đối với tranh chấp về bồi thường thiệt hại
giữa người lao động với doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
4. Sáu tháng, kể từ ngày xảy ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng
quyền, lợi ích của mình bị vi phạm đối với các loại tranh chấp khác.
-> Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân
+ Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể
về quyền bao gồm:
1. Hội đồng hòa giải lao động cơ sở hoặc hòa giải viên lao động;
2. Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau
đây gọi chung là Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện);
3. Tòa án nhân dân.
+ Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể
về lợi ích bao gồm:
1. Hội đồng hòa giải lao động cơ sở hoặc hòa giải viên lao động;
2. Hội đồng trọng tài lao động.
+ Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể là một năm, kể
từ ngày xảy ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho ràng quyền và lợi ích của
mình bị vi phạm.
5. Ngành Luật Kinh tế
Khái niệm: Pháp luật kinh tế là toàn bộ các QPPL thuộc nhiều ngành Luật
khác nhau như Luật Hiến pháp, Luật Hành chính, Luật Kinh tế, Luật Tài chính,
Luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Đất đai và Luật Môi trường... điều
chỉnh các quan hệ xã hội tuy khác nhau về nội dung đối tượng, chủ thể và
phương pháp điều chỉnh, song liên quan chặt chẽ với nhau, nhằm tổ chức và
điều tiết nền kinh tế phát triển phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị và những
yêu cầu cơ bản của cộng đồng xã hội.
+ Ngành Luật Kinh tế là tổng hợp các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp với nhau
và giữa các doanh nghiệp với các cơ quan quản lý kinh tế.
a/ Đối tượng điều chỉnh:
Đối tượng điều chỉnh của ngành Luật Kinh tế là những quan hệ xã hội liên
quan đến sự hình thành, hoạt động và giải thể các doanh nghiệp, các quan hệ
giữa các doanh nghiệp liên quan đến tài sản dùng vào quá trình hoạt động kinh
doanh và cuối cùng là bản thân những giao dịch kinh doanh đó.
Các quan hệ xã hội này có thể được phân vào những nhóm sau:
- Quan hệ quản lý kinh tế giữa cơ quan quản lý kinh tế và các doanh
nghiệp, từ việc cho phép và đăng ký thành lập doanh nghiệp, giám sát quá trình
thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp, ví dụ: giá cả, chất lượng, mẫu mã
sản phẩm đã đăng ký, hoạt động xuất nhập khẩu, giải thể, phá sản...
- Quan hệ "tài sản" (quan hệ trao đổi hành hóa) giữa các doanh nghiệp với
nhau phát sinh trong quá trình kinh doanh nhằm mục đích sản xuất kinh doanh
và hàm chứa những yếu tố hợp tác, liên kết. Ví dụ: A và B hợp tác với nhau
thành lập một doanh nghiệp thì quan hệ giữa A và B không phải là quan hệ tài
sản theo Luật Dân sự nữa; vì ở đây không có trao đổi hàng hóa nào giữa A và B
cả.
Khác với quan hệ "tài sản" trong Luật Kinh tế, quan hệ tài sản do Luật Dân
sự điều chỉnh nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần nhất
định.
- Quan hệ xã hội phát sinh trong nội bộ các đơn vị kinh doanh. Ví dụ:
Quan hệ giữa giám đốc doanh nghiệp và nhân viên, giữa công ty mẹ và công ty
con...
b/ Phương pháp điều chỉnh:
Phương pháp điều chỉnh của Luật Kinh tế là phương pháp mệnh lệnh và
phương pháp thỏa thuận.
- Phương pháp mệnh lệnh được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ quản
lý Nhà nước về kinh tế. Trong quan hệ này luôn thể hiện sự bất bình đẳng giữa
các chủ thể tham gia; chủ thể quản lý thì có quyền đơn phương ra lệnh mang
tính chất bắt buộc còn chủ thể bị quản lý thì có nghĩa vụ phải chấp hành mệnh
lệnh đó. Ví dụ: Những quy định có tính chất bắt buộc khi thành lập doanh nghiệp,
quy định về phá sản...
- Phương pháp thỏa thuận được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ phát
sinh giữa các chủ thể kinh doanh với nhau. Vì các chủ thể kinh doanh có quyền
và nghĩa vụ ngang nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh nên không có chủ
thể nào có quyền buộc chủ thể khác mà chỉ có thể cùng nhau thỏa thuận thống
nhất ý chí để thiết lập và duy trì quan hệ, đảm bảo các bên cùng có lợi.
c/ Một số nội dung cơ bản của luật kinh tế:
* Chế định pháp luật về tổ chức và hoạt động của các loại hình doanh
nghiệp.
- Quy định các loại hình doanh nghiệp.
- Cơ cấu tổ chức của các loại hình doanh nghiệp.
- Quyền và nghĩa vụ của các loại hình doanh nghiệp.
- Cơ cấu tổ chức lại doanh nghiệp.
- Giải thể doanh nghiệp.
- Phá sản doanh nghiệp.
* Chế định pháp luật về hợp đồng kinh doanh.
- Nguyên tắc ký kết hợp đồng.
- Cách thức, trình tự và thủ tục ký kết hợp đồng.
- Hiệu lực của hợp đồng.
- Trách nhiệm vật chất do vi phạm hợp đồng...
* Chế định tài phán trong kinh doanh là tập hợp QPPL quy định về việc
giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại phát sinh từ
những quan hệ xã hội mà chủ thể kinh doanh tiến hành khi hoạt động kinh
doanh.
Ví dụ: Trọng tài thương mại, Tòa án nhân dân...
6. Ngành Luật Đất đai
Khái niệm: Luật Đất đai là một ngành Luật dộc lập trong hệ thống pháp
luật Việt Nam gồm tổng hợp các QPPL do Nhà nước ban hành điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực bảo vệ, quản lý và sử dụng đất.
a/ Đối tượng điều chỉnh của Luật Đất đai:
- Đối tượng điều chỉnh của luật đất đai là những quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình con người trực tiếp chiếm hữu, quản lý và sử dụng đất được các
QPPL đất đai điều chỉnh nhằm sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm và đạt hiệu quả kinh
tế cao.
Nhóm quan hệ đất đai có đặc điểm phát sinh trong việc quản lý, sử dụng
và bảo vệ một tài sản đặc biệt là đất - một tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý
giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không do con người tạo ra, là thành phần quan
trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, xây dựng các
cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng.
Quan hệ đất đai là quan hệ tài sản nhưng không do Luật Dân sự điều
chỉnh, cũng là quan hệ kinh tế nhưng không do luật kinh tế điều chỉnh, vì đất đai
là tài sản đặc biệt. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản
lý.
b/ Phương pháp điều chỉnh:
- Phương pháp mệnh lệnh hành chính, là phương pháp mang tính chất
quyền uy, bất bình đẳng giữa các bên, được áp dụng trong lĩnh vực quản lý Nhà
nước về đất đai giữa các cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai với người sử
dụng đất và các tổ chức cá nhân khác.
- Phương pháp bình đẳng - thỏa thuận có đặc trưng là các bên tự do bày
tỏ ý chí, thỏa thuận với nhau, được sử dụng trong lĩnh vực sử dụng đất phát sinh
giữa những người sử dụng đất với nhau. Ví dụ: thuê đất, chuyển nhượng quyền
sử dụng đất...
c/ Một số nội dung của Luật Đất đai:
* Chế độ pháp lý về sở hữu và quản lý đất đai:
- Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý.
- Nhà nước quản lý đất đai thông qua các cơ quan quản lý Nhà nước về
đất đai từ Trung ương đến địa phương.
- Nội dung quản lý đất đai: đánh giá đất, thống kê đất đai, đăng ký quyền
sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phân phối sử dụng đất,
giải quyết tranh chấp đất đai...
* Chế độ pháp lý về sử dụng đất:
- Quy định về các loại đất và chế độ pháp lý đối vối từng loại đất.
- Quyền của người sử dụng đất đối với từng loại đất.
7. Ngành Luật Hôn nhân và gia đình
Khái niệm: Luật Hôn nhân và gia đình là ngành Luật độc lập trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình, bao
gồm các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ
và các con và các thành viên thân thuộc trong gia đình.
a/ Đối tượng điều chỉnh:
Đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình là các quan hệ hôn
nhân và gia đình. Những quan hệ này bao gồm hai nhóm: các quan hệ nhân
thân và các quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình; trong đó quan hệ
nhân thân là chủ đạo, có ý nghĩa quyết định tính chất và nội dung của các quan
hệ tài sản.
Yếu tố tình cảm gắn bó giữa các chủ thể là một đặc trưng của các quan hệ
thuộc đối tượng điều chỉnh của luật hôn nhân và gia đình; chúng tồn tại lâu dài,
bền vững; các quan hệ tài sản không mang tính đền bù, ngang giá (trong đó, luật
hôn nhân và gia đình điều chỉnh chế độ tài sản giữa vợ và chồng và nhóm quan
hệ cấp dưỡng).
b/ Một số nội dung chính của Luật Hôn nhân và gia đình:
* Chế định kết hôn:
Quy định về điều kiện kết hôn và thủ tục đăng ký hết hôn.
* Chế định vợ và chồng:
Quy định về quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng.
* Chế định cha mẹ và con:
Quy định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con.
* Chế định nuôi con nuôi:
Quy định việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và
người được nhận làm con nuôi, đảm bảo cho người được nhận làm con nuôi
được nuôi dưỡng, giáo dục.
* Chế định ly hôn:
Quy định về việc chấm dứt quan hệ hôn nhân.
8. Ngành Luật Tố tụng dân sự
Khái niệm: Ngành Luật Tố tụng dân sự là một ngành Luật độc lập trong hệ
thống pháp luật của Việt Nam, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh giữa Tòa án, Viện Kiểm sát với những người tham
gia tố tụng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án dân sự.
Tố tụng dân sự là trình tự hoạt động do pháp luật quy định cho việc xem
xét, giải quyết vụ án dân sự, vụ việc dân sự và thi hành án dân sự.
Mục đích của tố tụng dân sự là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của Nhà nước.
Tố tụng dân sự bao gồm: khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc
dân sự, thụ lý vụ việc dân sự, giải quyết vụ việc dân sự theo trình tự sơ thẩm,
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và thi hành án dân sự.
a/ Đối tượng điều chỉnh:
- Đối tượng điều chỉnh của Luật Tố tụng dân sự là những quan hệ xã hội
phát sinh giữa Tòa án với những người tham gia tố tụng trong quá trình Tòa án
giải quyết vụ án dân sự (như các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh thương mại, lao động) nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của
các công dân, pháp nhân, tập thể và lợi ích của Nhà nước.
Các quan hệ phát sinh phổ biến nhất ở tất cả các vụ án dân sự là quan hệ
giữa Tòa án và đương sự.
Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự bao giờ cũng là tòa án hoặc
Viện Kiểm sát.
b/ Các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự:
- Các nguyên tắc của Luật Tố tụng dân sự là những tư tưởng pháp lý chỉ
đạo toàn bộ quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng dân sự vào việc
giải quyết vụ án dân sự.
- Các nguyên tắc của Luật Tố tụng dân sự gồm có:
+ Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự: Theo nguyên tắc này, khi
tham gia tố tụng các đương sự có quyền tự quyết định việc bảo vệ quyền lợi của
mình. Nếu có quyền hoặc lợi ích bị xâm hại họ có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án
xét xử để bảo vệ các quyền và lợi ích đó, có quyền rút đơn khởi kiện, thay đổi
nội dung khởi kiện. Các đương sự có quyền tự hòa giải với nhau.
Ví dụ: Khi tranh chấp hợp đồng, các bên có thể tự lựa chọn phương pháp
giải quyết, có thể gửi đơn tới Tòa án hoặc tự thương lượng giải quyết.
+ Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp, thu thập chứng cứ. Đương sự có nghĩa
vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình. Tòa án có nhiệm vụ xem
xét mọi tình tiết của vụ án và khi cần thiết có thể thu thập thêm chứng cứ để đảm
bảo việc giải quyết vụ án được chính xác.
Ví dụ: A kiện B vi phạm hợp đồng thì A phải cung cấp chứng cứ chứng
minh sự vi phạm của B, như: hợp đồng, giấy tờ khác...
+ Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự: Các
đương sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự. Họ có quyền
bình đẳng trong việc đưa ra yêu cầu, phản đối yêu cầu của đương sự bên kia,
bình đẳng trong việc cung cấp chứng cứ để bảo vệ lợi ích của mình, bình đẳng
trong việc thực hiện nghĩa vụ, thi hành các quyết định của tòa án.
Ví dụ: A có quyền đưa ra chứng cứ chứng minh B vi phạm hợp đồng thì B
cũng có quyền đưa ra chứng cứ bảo vệ mình.
+ Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án: Để giải quyết vụ án, Tòa
án không chỉ xét xử mà phải tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với
nhau về giải quyết vụ án, trừ trường hợp không hòa giải được hoặc pháp luật
quy định không được hòa giải.
Ví dụ: Khi ly hôn, Tòa án luôn tiến hành bước hòa giải giữa các bên.
Ngoài những nguyên tắc đặc thù cho hoạt động tố tụng dân sự nói trên,
Luật còn quy định các nguyên tắc chung của Tòa án khi xét xử như: nguyên tắc
dùng tiếng nói chữ viết của dân tộc; nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nguyên tắc xét xử công khai, trực tiếp, bằng
lời nói và liên tục; nguyên tắc đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định...
c/ Các chủ thể của Luật Tố tụng dân sự:
* Tòa án nhân dân: Tòa án nhân dân là chủ thể đặc biệt của luật tố tụng
dân sự, có nhiệm vụ giải quyết các vụ án dân sự để bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, của tập thể và của công dân.
+ Tòa án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về dân sự (Điền 25 Bộ
luật TTDS năm 2005):
1. Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam.
2. Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản.
3. Tranh chấp về hợp đồng dân sự.
4. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ trừ trường
hợp quy định tại Khoản 2 Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự.
5. Tranh chấp về thừa kế tài sản.
6. Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
7. Tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy
định của pháp luật về đất đai.
8. Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định
của pháp luật.
9. Các tranh chấp khác về dân sự mà pháp luật có quy định.
+ Những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (Điều
26 Bộ luật TTDS năm 2005):
1. Yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng
lực hành vi dân sự hoặc quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.
2. Yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài
sản của người đó.
3. Yêu cầu tuyền bố một người mất tích, hủy bỏ quyết định tuyên bố một
người mất tích.
4. Yêu cầu tuyên bố một người là đã chết, hủy bỏ quyết định tuyên bố một
người là đã chết.
5. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về
dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của
Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự, quyết
định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước
ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
6. Các yêu cầu khác về dân sự mà pháp luật có quy định.
+ Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án (Điều 27 BLTTDS năm 2005):
1. Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
2. Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
3. Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
4. Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha mẹ.
5. Tranh chấp về cấp dưỡng.
6. Các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
+ Những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết
của tòa án (Điều 28 BLTTDS năm 2005)
1. Yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật.
2. Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
3. Yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi trực tiếp nuôi con sau khi
ly hôn.
4. Yêu cầu hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên hoặc
quyền thăm nom con sau khi ly hôn.
5. Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
6. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về
hôn nhân và gia đình của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án,
quyết định về hôn nhân gia đình của Tòa án nước ngoài mà không có yêu cầu
thi hành tại Việt Nam.
7. Các yêu cầu khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
+ Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc chủ quyền giải
quyết của Tòa án (Điều 29 BLTTDS):
1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao
gồm: mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi;
thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng hóa,
hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa; vận chuyển hàng
hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái
phiếu và giấy tờ có giá khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò,
khai thác;
2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá
nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
3. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty, giữa các thành viên
của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập,
hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức công ty.
4. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy
định.
+ Những yêu cầu về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án (Điều 30 BLTTDS)
1. Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết
các vụ tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.
2. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định kinh
doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết
định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài mà không có yêu cầu thi
hành tại Việt Nam.
3. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh,
thương mại của Trọng tài nước ngoài.
4. Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
+ Những tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
(Điều 31 BLTTDS)
1. Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động và người sử dụng
lao động mà Hội đồng hòa giải lao động cơ sở, hòa giải viên lao động của cơ
quan quản lý Nhà nước về lao động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
hòa giải không thành hoặc không giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định;
trừ các tranh chấp sau đây không nhất thiết phải qua hòa giải cơ sở.
a. Xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc trường hợp bị đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động.
b. Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động và người sử dụng lao động;
về trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động.
c. Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động.
d. Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về lao động.
đ. Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp xuất khẩu
lao động.
2. Tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng
lao động đã được Hội đồng trọng tài lao động tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương giải quyết mà tập thể lao động không đồng ý với quyết định của Hội đồng
trọng tài lao động bao gồm:
a. Về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các
điều kiện lao động khác;
b. Về việc thực hiện Thỏa ước lao động tập thể;
c. Về quyền thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn.
3. Các tranh chấp khác về lao động mà pháp luật có quy định.
+ Những yêu cầu về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
(Điều 32 BLTTDS)
1. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định lao
động của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định lao động
của Tòa án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
2. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định lao động
của Trọng tài nước ngoài.
3. Các yêu cầu khác về lao động mà pháp luật có quy định.
* Thẩm quyền của Tòa án các cấp:
-> Tòa án nhân dân cấp huyện:
+ Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ
thẩm các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 25 và 27
BLTTDS; Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao
gồm: mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi;
thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng hóa,
hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa; Tranh chấp lao
động cá nhân giữa người lao động và người sử dụng lao động mà Hội đồng hòa
giải lao động cơ sở, hòa giải viên lao động của cơ quan quản lý Nhà nước về lao
động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hòa giải không thành hoặc không
giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định.
+ Giải quyết yêu cầu về dân sự: Yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực
hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, hủy bỏ quyết định
tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc quyết định tuyên bố hạn
chế năng lực hành vi dân sự; Yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại
nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó; Yêu cầu tuyên bố một người mất tích,
hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích; Yêu cầu tuyên bố một người là
đã chết, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết.
+ Yêu cầu về hôn nhân và gia đình: Yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp
luật; Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; Yêu
cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn; Yêu
cầu hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm
nom con sau khi ly hôn; Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
+ Những tranh chấp, yêu cầu trên nếu có đương sự hoặc tài sản ở nước
ngoài hoặc cần ủy thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước
ngoài, cho Tòa án nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân cấp huyện.
-> Tòa án nhân dân tình, thành phố trực thuộc Trung ương:
Giải quyết các tranh chấp khác không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân
dân cấp huyện, những tranh chấp có yếu tố nước ngoài; giải quyết theo thủ tục
sơ thẩm những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân
dân cấp huyện mà Tòa án cấp tỉnh lấy lên giải quyết.
* Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ:
+ Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc hoặc là trụ sở nếu bị đơn là cơ quan,
tổ chức;
+ Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản Tòa án
nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của nguyên đơn nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ
chức.
+ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp
về bất động sản. Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản ở nhiều nơi
khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một trong các bất động
sản giải quyết.
+ Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên
đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh
giải quyết;
+ Nếu tranh chấp về cấp dưỡng; về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động, bảo
hiểm xã hội, quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các
điều kiện lao động khác đối với người lao động thì nguyên đơn có thể yêu cầu
Tòa án nơi cư trú, làm việc của mình giải quyết.
+ Nếu bị đơn cư trú, làm việc ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể
yêu cầu Tòa án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết.
* Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu:
Trong một số trường hợp, pháp luật cho phép nguyên đơn, người yêu cầu
được lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp, yêu cầu dân sự, hôn nhân gia đình,
kinh doanh thương mại, lao động.
Ví dụ: Nguyên đơn được chọn Tòa án để giải quyết vụ tranh chấp về kinh
doanh, thương mại trong trường hợp nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở
của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có
trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết.
* Chủ thể tham gia quan hệ tố tụng dân sự:
-> Chủ thể tiến hành tố tụng có: TAND, VKSND, và những người tiến hành
tố tụng có Chánh án TAND, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án,
Viện trưởng VKSND, Kiểm sát viên với các quyền hạn và nhiệm vụ được quy
định rõ ràng trong khi tham gia tố tụng.
-> Người tham gia tố tụng: gồm có: Đương sự, người đại diện, người bảo
vệ quyền lợi của đương sự, tổ chức xã hội tham gia tố tụng vì lợi ích chung,
người làm chứng, người giám định, người phiên dịch.
- Đương sự: Là cá nhân hoặc tổ chức - là "người" có quyền lợi liên quan
đến vụ án tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi của mình. Đương sự bao gồm:
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Nguyên đơn: Là người khởi kiện yêu cầu tòa án bảo vệ quyền lợi của
mình. Trong trường hợp Viện Kiểm sát khởi tố, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích
chung thì người có quyền lợi được bảo vệ có thể tham gia tố tụng với tư cách là
nguyên đơn.
Bị đơn là người bị yêu cầu tham gia tố tụng để giải quyết về vấn đề bị kiện.
Người có quyền và nghĩa vụ liên quan là người tuy không khởi kiện và bị
kiện nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của
họ.
Đương sự có các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự. Nguyên đơn có
quyền thay đổi yêu cầu của mình. Bị đơn có quyền phản đối yêu cầu của nguyên
đơn và có quyền để đạt yêu cầu liên quan tới yêu cầu của nguyên đơn. Các
đương sự có quyền bình đẳng trong việc cung cấp chứng cứ, yêu cầu tòa án
tiến hành các biện pháp điều tra cần thiết, tham gia hòa giải, tham gia phiên tòa,
v.v... Các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, thi hành quyết định, thực
hiện yêu cầu của Tòa án, phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án.
Để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự, đương sự phải có
năng lực hành vi tố tụng dân sự: theo quy định của pháp luật hiện hành (Khoản 3
Điều 57) thì người từ đủ 18 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân
sự trừ người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
hoặc pháp luật có quy định khác. Những người chưa có, mất, hạn chế năng lực
hành vi tố tụng dân sự, thì phải có người đại diện cho họ tham gia tố tụng.
- Người đại diện của đương sự: Là người thay mặt đương sự bảo vệ
quyền lợi của họ; người đại diện gồm có: đại diện theo pháp luật và đại diện do
đương sự ủy quyền. Ngoài ra còn có đại diện do Tòa án chỉ định.
- Người bảo vệ quyền lợi của đương sự là người tham gia tố tụng để giúp
đỡ đương sự về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi của họ. Người bảo vệ
quyền lợi của đương sự có thể là luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người
khác.
- Tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung: Bao gồm ủy ban Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức thành viên của MTTQ. Tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích
chung có quyền và nghĩa vụ như nguyên đơn, trừ quyền hòa giải.
- Người làm chứng: Người biết các tình tiết có liên quan đến nội dung vụ
án có thể được Tòa án triệu tập tham gia tố tụng với tư cách là người làm
chứng.
- Người giám định là người có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết theo quy
định của pháp luật về lĩnh vực có đối tượng cần giám định được các bên đương
sự thỏa thuận lựa chọn hoặc được Tòa án trưng cầu để giám định đối tượng đó
theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự.
- Người phiên dịch: Là người có khả năng dịch từ một ngôn ngữ khác ra
tiếng Việt và ngược lại trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử
dụng được tiếng Việt. Người phiên dịch có thể do các bên tự thỏa thuận chọn và
được Tòa án chấp nhận hoặc do Tòa án yêu cầu để phiên dịch.
d/ Các giai đoạn tố tụng dân sự:
- Giai đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự.
- Giai đoạn hòa giải và chuẩn bị đưa vụ án dân sự ra xét xử.
- Giai đoạn xét xử sơ thẩm dân sự.
- Giai đoạn xét lại bản án hay quyết định dân sự chưa có hiệu lực theo thủ
tục phúc thẩm.
- Giai đoạn thi hành bản án hay quyết định dân sự của Tòa án.
- Giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án dân sự.
9. Ngành Luật Hình sự
- Khái niệm: Ngành Luật Hình sự là ngành Luật độc lập trong hệ thống
pháp luật Việt Nam, tổng hợp những quy phạm pháp luật xác định những hành vi
nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm và hình phạt đối với tội phạm ấy.
Trong hệ thống pháp luật nước ta chỉ có Luật Hình sự mới quy định tội
phạm và hình phạt. Các quy phạm pháp luật hình sự được chia làm 2 loại:
+ Loại quy phạm quy định những nguyên tắc, nhiệm vụ của luật hình sự,
những vấn đề chung về tội phạm và hình phạt... Những quy phạm này tạo thành
phần chung của Luật Hình sự.
+ Loại quy phạm quy định các tội phạm cụ thể, loại và mức hình phạt với
các loại tội phạm. Những quy phạm này hợp thành phần các tội phạm của Luật
Hình sự Việt Nam.
a/ Đối tượng điều chỉnh:
Đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự là những quan hệ xã hội phát sinh
giữa Nhà nước và người phạm tội khi người này thực hiện một hành vi mà Nhà
nước quy định là tội phạm.
Ví dụ: Quan hệ giữa Tòa án nhân dân với tội phạm thực hiện hành vi giết
người. Đây là quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự.
b/ Phương pháp điều chỉnh:
Phương pháp điều chỉnh của luật hình sự là phương pháp quyền uy. Đó là
phương pháp sử dụng quyền lực Nhà nước trong việc điều chỉnh các quan hệ
pháp luật hình sự giữa Nhà nước và người phạm tội. Nhà nước dùng quyền lực
của mình để tiến hành điều tra, truy tố và xét xử kẻ phạm tội, buộc họ phải nhận
những hình phạt tương xứng với hành vi đã gây ra mà không bị cản trở bởi bất
kỳ ai.
Nhà nước có quyền tối cao trong việc định đoạt số phận của người phạm
tội, buộc họ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà họ đã gây ra. Trách
nhiệm hình sự về tội phạm đã gây ra là trách nhiệm thuộc về cá nhân người
phạm tội, phải do chính người phạm tội gánh chịu một cách trực tiếp, chứ không
thể chuyển hay ủy thác cho người khác.
c/ Những nội dung chủ yếu của Luật Hình sự:
* Tội phạm và cấu thành tội phạm
- Định nghĩa tội phạm: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi
ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Từ định nghĩa đầy đủ trên, có thể đưa ra định nghĩa tội phạm một cách
khái quát sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật
hình sự và phải chịu hình phạt.
Ví dụ: Tội giết người đựơc quy định tại Điều 93 BLHS năm 1999.
- Những dấu hiệu cơ bản của tội phạm:
+ Tính nguy hiểm cho xâ hội: Hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là tội
phạm phải là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho các
quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ.
+ Tính có lỗi của tội phạm: Hành vi được coi là tội phạm phải là hành vi có
lỗi (cố ý hoặc vô ý) của người phạm tội.
+ Tính trái pháp luật hình sự: Hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ được coi là
tội phạm nếu nó được quy định trong Luật Hình sự.
+ Tính phải chịu hình phạt: Nghĩa là bất kỳ một hành vi phạm tội nào cũng
đều phải chịu hình phạt. Chỉ có hành vi phạm tội mới chịu hình phạt, tội càng
nghiêm trọng thì hình phạt áp dụng càng nghiêm khắc.
- Phân loại tội phạm:
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được
quy định trong BLHS 1999, tội phạm được phân thành:
+ Tội phạm ít nghiêm trọng: Là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã
hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù;
+ Tội phạm nghiêm trọng: Là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà
mức cao nhất là của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù;
+ Tội phạm rất nghiêm trọng: Là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù;
+ Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: Là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn
cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm
năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
- Cấu thành tội phạm:
+ Khái niệm:
Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính chất đặc
trưng cho một loại tội phạm cụ thể được quy định trong Luật Hình sự.
Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự và là căn cứ
pháp lý để định tội danh.
+ Các yếu tố cấu thành tội phạm:
Vì tội phạm là hành vi VPPL hình sự nên cũng có 4 yếu tố cấu thành:
-> Mặt khách quan: Là những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại
bên ngoài thế giới khách quan. Những biểu hiện đó gồm: hành vi nguy hiểm cho
xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy
hiểm cho xã hội và hậu quả xảy ra. Thuộc về mặt khách quan còn có phương
tiện, công cụ phạm tội, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm thực hiện tội
phạm.
-> Mặt chủ quan: Là những diễn biến tâm lý bên trong của tội phạm, bao
gồm: lỗi, mục đích và động cơ phạm tội.
-> Khách thể: Là quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ và bị tội phạm
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại ở mức độ đáng kể.
-> Chủ thể: Là con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội đựơc Luật Hình sự quy định là tội phạm, có năng lực trách nhiệm hình sự và
đạt độ tuổi theo quy định của Luật Hình sự.
Đối với một số tội đặc biệt thì chủ thể đòi hỏi phải có thêm một số dấu hiệu
đặc biệt khác. Ví dụ: Tội hiếp dâm thì chủ thể phải là nam giới...
* Một số chế định liên quan đến tội phạm:
- Các giai đoạn thực hiện tội phạm:
Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước đánh dấu bằng các mốc có
tính chất khách quan trong quá trình thực hiện tội phạm, gồm có: chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành.
+ Chuẩn bị phạm tội: Là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc
tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm. Người chuẩn bị phạm một tội
rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội định thực hiện.
+ Phạm tội chưa đạt: Là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện
được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Người
phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.
+ Tội phạm hoàn thành: Là khi hành vi phạm tội đã thỏa mãn đầy đủ các
dấu hiệu được mô tả trong cấu thành của tội phạm mà không phụ thuộc vào việc
người phạm tội đã đạt được mục đích của mình hay chưa.
- Đồng phạm: Là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một
tội phạm.
Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là
những người đồng phạm.
-> Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
-> Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội
phạm.
-> Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực
hiện tội phạm.
-> Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất
cho việc thực hiện tội phạm.
Tuy cùng nhau phạm tội nhưng mỗi người tham gia sẽ phải chịu trách
nhiệm độc lập tương ứng với vai trò của mình thể hiện trong quá trình thực hiện
tội phạm.
- Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa
những người cùng thực hiện tội phạm.
- Những tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm của hành vi.
Những tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm của hành vi là những trường
hợp mà hành vi của một người gây thiệt hại cho các quan hệ được pháp luật
hình sự bảo vệ, về hình thức có các yếu tố cấu thành tội phạm, song trong hành
vi đó có tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi nên không bị
coi là tội phạm. Luật Hình sự coi phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết là
những tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
+ Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người
khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các
lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá
mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải
chịu trách nhiệm hình sự.
+ Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang
thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của
mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt
hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.
Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế
cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm.
+ Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng.
* Hình phạt:
- Khái niệm: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà
nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt
được quy định trong Bộ luật Hình sự và do Tòa án quyết định.
- Mục đích của hình phạt: Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm
tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo
pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm
tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm.
- Hệ thống hình phạt hiện nay: Gồm hình phạt bao gồm hình phạt chính và
hình phạt bổ sung.
1. Hình phạt chính bao gồm:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền;
c) Cải tạo không giam giữ;
d) Trục xuất;
đ) Tù có thời hạn;
e) Tù chung thân;
g) Tử hình.
2. Hình phạt bổ sung bao gồm:
a) Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định;
b) Cấm cư trú;
c) Quản chế;
d) Tước một số quyền công dân;
đ) Tịch thu tài sản;
e) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính;
g) Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.
Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính
và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.
* Phần các tội phạm cụ thể:
BLHS 1999 quy định 14 nhóm tội phạm được quy định trong phần riêng
với những tội danh và hình phạt cụ thể, gồm:
- Các tội xâm phạm an ninh quốc gia.
- Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
người.
- Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân.
- Các tội xâm phạm sở hữu.
- Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình.
- Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
- Các tội phạm về môi trường.
- Các tội phạm về ma túy.
- Các tội xâm phạm an toàn công cộng và trật tự công cộng.
- Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính.
- Các tội phạm về chức vụ.
- Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.
- Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân.
- Các tội phá hoại hòa bình, chống phá loài người và tội phạm chiến tranh.
10. Ngành Luật Tố tụng hình sự
Khái niệm: Tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, các cá nhân, cơ
quan Nhà nước và tổ chức xã hội góp phần vào việc giải quyết vụ án hình sự
theo quy định của Luật Tố tụng hình sự.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự gồm:
-> Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu của hoạt động TTHS, các cơ
quan có thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có hay không có dấu hiệu của tội
phạm để ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự.
-> Điều tra là giai đoạn thứ hai của TTHS, cơ quan điều tra đựơc sử dụng
mọi biện pháp mà Luật Tố tụng hình sự quy định để thu thập các chứng cứ
nhằm xác định sự việc phạm tội và con người phạm tội làm cơ sở cho việc truy
tố và xử lý tội phạm.
-> Xét xử là giai đoạn TTHS trong đó Tòa án xử lý sự việc phạm tội và con
người phạm tội và quyết định áp dụng hình phạt đối với người phạm tội bằng
các bản án và quyết định của mình.
-> Thi hành án hình sự là giai đoạn cuối cùng của TTHS nhằm thi hành
các bản án và quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
-> Giai đoạn đặc biệt của TTHS là Tòa án xét lại bản án và quyết định có
hiệu lực của Tòa án khi có kháng nghị của cơ quan có thẩm quyền.
+ Luật Tố tụng hình sự là một ngành Luật độc lập trong hệ thống pháp luật
Việt Nam, là tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và chấp hành án hình sự.
a/ Đối tượng điều chỉnh:
Đối tượng điều chỉnh của TTHS là những quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự giữa các chủ thể của quan hệ pháp luật TTHS.
QHPL TTHS là các QHXH được các QPPL TTHS điều chỉnh, trong đó
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể đựơc pháp luật quy định và bản đảm thực
hiện.
QHPL TTHS có đặc điểm:
- Mang tính chất quyền lực Nhà nước.
- Liên quan mật thiết tới QHPL HS.
- Liên quan hữu cơ tới các hoạt động TTHS.
- Có một số chủ thể đặc biệt mà quyền và nghĩa vụ của họ liên quan chặt
chẽ với nhau.
b/ Phương pháp điều chỉnh:
Phương pháp điều chỉnh của Luật TTHS là phương pháp quyền uy và
phương pháp phối hợp - chế ước.
Phương pháp quyền uy là phương pháp đặc trưng của ngành Luật TTHS,
thể hiện ở mối quan hệ giữa cơ quan tiến hành tố tụng và những người tham gia
tố tụng.
Phương pháp phối hợp - chế ước là phương pháp điều chỉnh mối quan hệ
giữa các cơ quan điều tra, VKS, TAND trong quá trình các cơ quan này phối hợp
với nhau nhằm tiến hành các hoạt động của mình.
c/ Những nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS:
Những nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS là những đường lối chung nhằm
hướng tới mục tiêu cao nhất là xét xử công minh, đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật.
Một số nguyên tắc:
- Nguyên tắc pháp chế XHCN;
- Nguyên tắc bảo đảm quyền tham gia TTHS của các tổ chức xã hội và
công dân;
- Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật;
- Nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội nếu chưa có bản án kết tội đã
có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
- Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án;
- Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo.
- Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án.
- Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật.
- Nguyên tắc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
d/ Các chủ thể tham gia QH TTHS:
- Các cơ quan tiến hành tố tụng: cơ quan điều tra, VKSND, TAND.
- Những người tham gia tố tụng gồm có: bị can (là người bị khởi tố về hình
sự), bị cáo (là người bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử), người bị tạm giam,
người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bảo vệ quyền lợi của đương sự.
- Những người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ gồm có: người làm chứng,
người giám định, người phiên dịch.
11. Ngành Luật Tài chính
Khái niệm: Luật Tài chính là tổng thể các QPPL do các cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong tổ
chức và hoạt động tài chính Nhà nước.
a/ Đối tượng điều chỉnh:
Đối tượng điều chỉnh của Luật Tài chính là quan hệ phân phối dưới hình
thức giá trị, phát sinh trong quá trình tạo lập, quản lý và sử dụng các nguồn vốn
tiền tệ nhất định.
Quan hệ pháp luật tài chính bao giờ cũng phát sinh và gắn với quá trình
tạo lập, phân phối quản lý và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định, như: quỹ ngân
sách Nhà nước, quỹ của doanh nghiệp, quỹ bảo hiểm xã hội,...
b/ Phương pháp điều chỉnh:
Luật Tài chính sử dụng phương pháp mệnh lệnh để điều chỉnh các quan
hệ tài chính.
c/ Một số nội dung của Luật Tài chính:
Nội dung chủ yếu của Luật Tài chính là thu và chi tài chính Nhà nước, tức
là toàn bộ các QPPL quy định việc thu tài chính từ dân và chi tài chính do dân
đóng góp.
* Pháp luật về ngân sách là tập hợp những QPPL quy định quyền hạn,
trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước các cấp trong quá trình hình thành, quản
lý, sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước, kiểm tra việc thực hiện chế độ thu - chi
ngân sách Nhà nước...
Nguồn thu ngân sách: thuế, phí, lệ phí, từ hoạt động kinh tế của Nhà
nước, các khoản đóng góp của cá nhân, tổ chức; các khoản viện trợ của nước
ngoài và các tổ chức quốc tế.
Ngân sách Nhà nước sẽ được chi cho các khoản nhằm phát triển kinh tế
xã hội trong toàn quốc và ở từng địa phương; đảm bảo an ninh quốc phòng; bảo
đảm hoạt động của BMNN, chi trả nợ của Nhà nước, chi viện trợ của Nhà nước
và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
* Tài chính doanh nghiệp:
Chế độ cấp phát tài chính cho các DNNN, chế độ tín dụng ngân hàng, chế
độ trích nộp khấu hao cơ bản, chế độ phân phối lợi nhuận...
* Pháp luật về thuế:
Điều chỉnh các quan hệ phát sinh về thuế, như phân loại thuế, đối tượng
nộp thuế, đối tượng chịu thuế, biểu thuế, thuế suất, miễn giảm thuế...
* Kỷ luật tài chính và thanh tra tài chính:
Kỷ luật về thu, chi, tín dụng, thanh toán và kỷ luật tiền mặt.
Thanh tra tài chính là hoạt động kiểm tra của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền về các hoạt động tài chính nhằm đảm bảo tốt kỷ luật tài chính.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình lý luận Nhà nước và pháp luật - Trường Đại học Luật Hà Nội,
Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội - 2006.
- Những vấn để lý luận cơ bản về Nhà nước và pháp luật - Viện Nghiên
cứu Nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1995.
- Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật - TS. Đinh Văn Mậu - TS. Hồng
Hồng Thái, Nhà xuất bản Tổng hợp Đồng Nai.
- Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật - PGS. PTS. Trần Ngọc Đường
(chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
- Nhập môn luật học - Nhà pháp luật Việt Pháp, Nhà xuất bản Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội - 2002.
- Những vấn đề lý luận về quan hệ pháp luật - TS. Lê vương Long, Nhà
xuất bản Tư pháp, Hà Nội - 2006.
- Các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới, Nhà pháp luật Việt Pháp,
Nhà xuất bản tư pháp, Hà Nội - 2006.
TÌM ĐỌC TỦ SÁCH KẾ TOÁN CỦA CÙNG TÁC GIẢ PHAN ĐỨC DŨNG
1. NGUYÊN LÝ KẾ TOÁN (Lý thuyết và bài tập) (Theo QĐ 15/QĐ -BTC
ngày 20/3/2006), NXB Thống Kê, 2009.
2. BÀI TẬP VÀ BÀI GIẢI NGUYÊN LÝ KẾ TOÁN (Theo QĐ 15/QĐ-BTC
ngày 20/3/2006), NXB Thống Kê, 2009.
3. KẾ TOÁN TÀI CHÍNH CHUYÊN (Theo QĐ 15/QĐ-BTC ngày
20/3/2006), NXB Thống Kê, 2009.
4. KẾ TOÁN TÀI CHÍNH KHÔNG CHUYÊN (Theo QĐ 15/QĐ-BTC ngày
20/3/2006), NXB Thống Kê, 2009.
5. BÀI TẬP VÀ BÀI GIẢI KẾ TOÁN TÀI CHÍNH (Theo QĐ 15/QĐ-BTC
ngày 20/3/2006), NXB Thống Kê, 2009.
6. KẾ TOÁN THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ & KINH DOANH XNK, NXB Thống
Kê 2009.
7. BÀI TẬP VÀ BÀI GIẢI KẾ TOÁN THƯƠNG MẠI DỊCH DỤ & KINH
DOANH XUẤT NHẬP KHẨU, NXB Thống Kê, 2009.
8. HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH KẾ TOÁN MỸ, (Thiên về thực hành & ứng
dụng), NXB Thống Kê, 2009.
9. KẾ TOÁN MỸ ĐỐI CHlẾU KẾ TOÁN VIỆT NAM (Lý thuyết, bài tập và
bài giải), NXB Thống Kê, 2009.
10. KẾ TOÁN CHI PHÍ GIÁ THÀNH (Lý thuyết, bài tập và bài giải), NXB
Thống Kê, 2009.
11. BÀI TẬP VÀ BÀI GIẢI KẾ TOÁN CHI PHÍ GIÁ THÀNH, NXB Thống Kê,
2009.
12. HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH KẾ TOÁN THUẾ VÀ BÁO CÁO THUẾ,
NXB Thống Kê, 2009.
13. KẾ TOÁN QUẢN TRỊ (Lý thuyết, bài tập và bài giải), NXB Thống Kê,
2009.
14. NGÂN HÀNG ĐỀ THI, CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM NGUYÊN LÝ KẾ
TOÁN, NXB Thống Kê, 2009.
15. NGÂN HÀNG ĐỀ THI, CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KẾ TOÁN TÀI
CHÍNH, NXB Thống Kê, 2009.
16. PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH (Lý thuyết, bài tập và bài
giải), Phan Đức Dũng & Nguyễn Thị My, NXB Thống Kê, 2009.
17. KẾ TOÁN QUẢN TRỊ (Lý thuyết, bài tập và bài giải), NXB Thống Kê,
2009.
18. PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH, NXB Thống Kê, 2009.
TÌM ĐỌC TỦ SÁCH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG CỦA CÙNGTÁC GIẢ NGUYỄN MINH KlỀU
1. Nguyễn Minh Kiều, (2009), TIỀN TỆ - NGÂN HÀNG, NXB Thống kê.
2. Nguyễn Minh Kiều, (2009), THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ CÁC GIAO
DỊCH KINH DOANH NGOẠI HỐI, Nhà xuất bản Thống kê.
3. Nguyễn Minh Kiều, (2009), TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP CĂN BẢN,
Nhà xuất bản Thống kê.
4. Nguyễn Minh Kiều, (2009), NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI,
Nhà xuất bản Thống kê.
5. Nguyễn Minh Kiều, (2009), BÀI TẬP VÀ BÀI GIẢI NGHIỆP VỤ NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội.
6. Nguyễn Minh Kiều, (2009), BÀI TẬP VÀ BÀI GIẢI THANH TOÁN QUỐC
TẾ, Nhà xuất bản Thống kê.
7. Nguyễn Minh Kiều, (2009), TÍN DỤNG VÀ THẨM ĐỊNH TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG, Nhà xuất bản Tài chính.
8. Trần Hoàng Ngân, Nguyễn Minh Kiều (2009), THANH TOÁN QUỐC TẾ,
Nhà xuất bản Thống kê.
9. Nguyễn Minh Kiều, (2009), TÀI CHÍNH CÔNG TY HIỆN ĐẠI, Nhà xuất
bản Thống kê.
10. Nguyễn Minh Kiều, (2009), NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG HIỆN ĐẠI, Nhà
xuất bản Thống kê.
11. Nguyễn Minh Kiều, (2009), PHÂN TÍCH VÀ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN,
Nhà xuất bản Thống kê.
12. Nguyễn Minh Kiều, (2009), PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH VÀ
ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP, Nhà xuất bản Thống kê.
13. Nguyễn Minh Kiều, (2009), LẬP MÔ HÌNH TÀI CHÍNH, NXB Thống kê.
14. Nguyễn Minh Kiều, (2009), QUẢN LÝ DANH MỤC ĐẦU TƯ, NXB
Thống kê.
15. Nguyễn Minh Kiều, (2009), QUẢN TRỊ RỦI RO TÀI CHÍNH, NXB
Thống kê.
16. Nguyễn Minh Kiều, (2009), QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG NGÂN HÀNG,
Nhà xuất bản Thống kê.
17. Nguyễn Minh Kiều, Bùi Kim Yến (2009), THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH,
Nhà xuất bản Thống kê.
18. Nguyễn Minh Kiều, (2009), HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH TÍN DỤNG VÀ
THẨM ĐỊNH TÍN DỤNG NGÂN HÀNG, Nhà xuất bản Thống kê.
19. Nguyễn Minh Kiều, (2009), NGHIỆP VỤ KINH DOANH VÀ ĐẦU TƯ
CHỨNG KHOÁN; Nhà xuất bản Thống kê.
MỤC LỤC
- Lời nói đầu
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về nhà nước
I. Nguồn gốc, đặc trưng và bản chất của nhà nước
II. Chức năng của nhà nước
III. Kiểu và hình thức nhà nước
IV. Bộ máy nhà nước
Chương 2: Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam
I. Bản chất và chức năng của nhà nước CHXHCN VN
II. Bộ máy nhà nước cộng hòa XHCN việt nam
Chương 3: Khái quát về pháp luật
I. Nguồn gốc và bản chất và đặc trưng cơ bản của pháp luật
II. Mối quan hệ giữa pháp luật và các hiện tượng xã hội khác
III. Chức năng và vai trò của pháp luật
IV. Kiểu và hình thức của pháp luật
V. Pháp luật nước CHXHCN việt nam
Chương 4: Quy phạm pháp luật
I. Khái niệm quy phạm pháp luật
II. Cấu trúc của quy phạm pháp luật
III. Phân loại quy phạm pháp luật
Chương 5: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở việt nam
I. Khái niệm và đặc điểm của văn bản QP pháp luật
II. Nguyên tắc và trình tự ban hành VBQPPL ở nước ta
III. Hệ thống VBQPPL ở nước ta
IV. Hiệu lực của VBQPPL
Chương 6: quan hệ pháp luật
I. Khái niệm và đặc điểm của quan hệ pháp luật
II. Cấu thành của quan hệ pháp luật
III. Sự kiện pháp lý
Chương 7: thực hiện pháp luật, vi Phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý
I. Khái niệm và các hình thức thực hiện pháp luật
II. Áp dụng pháp luật - một hình thức THPL đặc thù
III. Vi phạm pháp luật
IV. Trách nhiệm pháp lý
Chuơng 8: pháp chế xã hội chủ nghĩa
I. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa
II. Nội dung cơ bản của pháp chế
III. Vấn đề tăng cường pháp chế
Chương 9: hệ thống pháp luật việt nam
I. Những vấn đề chung về hệ thống pháp luật
II. Những tiêu chuẩn cơ bản để xác định mức độ hoàn thiện của một hệ
thống pháp luật
III. Hệ thống hóa pháp luật
IV. Các ngành luật trong HT pháp luật việt nam
---//---
GIÁO TRÌNH
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Tác giả:
ThS. NGUYỄN ANH TUẤN - ThS. TRẦN THÚY NGA
NHÀ XUẤT BẢN THỐNG KÊ
Đc: 98 Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Điện thoại: 04. 8457290
CN tại TP. HCM
16 Nguyễn Huệ - Q.1
ĐT: 8 234 673
Website: www.nxbthongke.com.vn
Chịu trách nhiệm xuất bản: TS. TRẦN HỮU THỰC
Biên tập: VIỆT THANH
Trình bày bìa: NGUYỄN TIẾN ĐẠT
Sửa bản in: NGUYỄN ANH TUẤN
In 2.000 bản, khổ 16 x 24cm, tại Công ty In Sáng Tạo. Giấy phép xuất bản số:
78-2009/CXB/268.1-109/TK. In xong và nộp lưu chiểu Quý IV/2009.