201
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945 LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HÀ NỘI - 2017

HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/LUAN AN NGUYEN THI HUYEN TRANG.pdf · Bởi vậy, với tư cách là chính đảng

  • Upload
    lenhan

  • View
    221

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG

HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG

TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

HÀ NỘI - 2017

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG

HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG

TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Mã số: 62 22 03 15

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS. TS. NGUYỄN MẠNH HÀ

2. TS. TRẦN THỊ NHẪN

HÀ NỘI - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của

riêng tôi trên cơ sở sưu tầm, đọc và phân tích các tài liệu. Tất cả các

tài liệu tham khảo, các tư liệu, số liệu sử dụng trong Luận án là trung

thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Nghiên cứu sinh

Nguyễn Thị Huyền Trang

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1

7

1.1. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài 7

1.2. Đánh giá kết quả của các công trình nghiên cứu 22

1.3. Những vấn đề luận án tập trung giải quyết 23

Chương 2: ĐẢNG RA ĐỜI VÀ TRIỂN KHAI HOẠT ĐỘNG ĐỐI

NGOẠI TỪ NĂM 1930 ĐẾN THÁNG 8 NĂM 1939

25

2.1. Sự ra đời và hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1930 đến

năm 1935

25

2.2. Hoạt động nâng cao vị thế của Đảng, đoàn kết với các Đảng

Cộng sản, đấu tranh vì hòa bình dân chủ từ năm 1936 đến tháng

8 năm 1939

54

Chương 3: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TRONG

CAO TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TỪ THÁNG 9 NĂM 1939

ĐẾN THÁNG 8 NĂM 1945

71

3.1. Hoàn cảnh quốc tế và trong nước 71

3.2. Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và hoạt động đối ngoại

của Đảng từ tháng 9 năm 1939 đến tháng 8 năm 1945

77

Chương 4: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 121

4.1. Nhận xét chung 121

4.2. Một số kinh nghiệm 134

KẾT LUẬN 145

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

149

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 150

PHỤ LỤC 167

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

BCH : Ban Chỉ huy

ĐCS : Đảng Cộng sản

ĐCSĐD : Đảng Cộng sản Đông Dương

ĐCSVN : Đảng Cộng sản Việt Nam

Nxb : Nhà xuất bản

QTCS : Quốc tế Cộng sản

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Đối ngoại là một hoạt động không thể thiếu với bất kỳ quốc gia nào, trong

bất kỳ thời điểm nào. Bởi vậy, với tư cách là chính đảng lãnh đạo cách mạng giải

phóng dân tộc, ĐCSVN luôn phải đưa ra những đường lối đối ngoại cũng như tiến

hành hoạt động đối ngoại trong bối cảnh các mối quan hệ quốc tế đan xen, phức

tạp. Đặc biệt, đã có những thời điểm Đảng phải đối mặt với không chỉ một mà

nhiều đối tác, cũng như nhiều kẻ đối địch. Những lúc đó, một yêu cầu tất yếu đặt

ra cho Đảng là phải tìm được đường lối thích hợp và ứng biến linh hoạt nhằm tận

dụng mọi thời cơ, tranh thủ mọi lực lượng trên thế giới. Thời kỳ ĐCSĐD lãnh đạo

đất nước đi đến độc lập tự do 1930-1945 chính là thời kỳ mà yêu cầu đó càng bức

thiết để một chính đảng non trẻ có thể tranh thủ được mọi yếu tố có lợi cho cách

mạng Việt Nam, dẫn dắt nhân dân tiến hành thành công Cách mạng Tháng Tám

năm 1945, mở ra thời kỳ mới cho dân tộc.

Từ đầu năm 1930, ĐCSVN ra đời, nắm quyền lãnh đạo cách mạng Việt

Nam. Với tổ chức chặt chẽ và Cương lĩnh Chính trị đúng đắn, Đảng đã quy tụ lực

lượng và sức mạnh toàn dân tộc bước vào một thời kỳ đấu tranh mới. Tháng 10-

1930, ĐCSVN đổi tên thành ĐCSĐD, tiếp tục lãnh đạo toàn dân thực hiện nhiệm

vụ cao cả: đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, thống trị của chủ nghĩa

thực dân, đem lại quyền lợi cho quần chúng cần lao. Thời kỳ này, Đảng đã

xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương: lúc đầu là cuộc

cách mạng tư sản dân quyền, sau đó tiếp tục phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bản chủ

nghĩa, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, xác định những nhiệm vụ cụ

thể của cách mạng bao hàm hai nội dung: đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành

độc lập dân tộc và thực hiện người cày có ruộng có quan hệ khăng khít với nhau;

xác định hình thức, phương pháp đấu tranh và mối quan hệ giữa cách mạng Việt

Nam và cách mạng thế giới. Thời kỳ này, trong hoạt động đối ngoại, Đảng hướng

tới việc xây dựng, mở rộng quan hệ với QTCS và các ĐCS anh em, các lực lượng

2

tiến bộ trên thế giới để nâng cao vị thế của Đảng, xây dựng lực lượng, ổn định tổ

chức, lãnh đạo các phong trào cách mạng.

Đến thời kỳ 1936-1939, Đảng xác định nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt là

đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh,

đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình, kẻ thù trước mắt là thực dân

phản động Pháp và tay sai. Đảng hướng tới việc mở rộng quan hệ của Đảng sau

khi đã chính thức trở thành một phân bộ độc lập của QTCS. Việc đưa phong trào

đấu tranh dân chủ trở nên công khai, sát hợp với tình hình thế giới và trong nước

đã khiến cho mối quan hệ của ĐCSĐD với các ĐCS anh em có sự gắn kết hơn.

Thời kỳ 1939-1945, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai đã làm thay đổi cơ

bản tình hình thế giới. Tháng 9-1940, phát xít Nhật vào Đông Dương. ĐCSĐD

đã tiến hành hàng loạt các hành động cụ thể để lãnh đạo cách mạng Việt Nam

như tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương ĐCSĐD tháng 11-1939, đặt

nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; Thành lập Mặt trận thống nhất dân

tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương, nhằm tập

hợp mọi lực lượng dân tộc chống đế quốc; Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành

Trung ương Đảng (tháng 5-1941) đề ra chủ trương, đặt nhiệm vụ giải phóng dân

tộc lên hàng đầu và nhấn mạnh đây là nhiệm vụ “bức thiết nhất”. Để thực hiện

chủ trương đó, Đảng đã lãnh đạo toàn dân, chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt, trong đó

có thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) để đoàn kết dân tộc Việt

Nam, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo tín ngưỡng. Chính

nhờ sự chỉ đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, toàn dân tộc Việt Nam đã tiến

hành thành công cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, đánh dấu một

mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc.

Để đi đến thắng lợi to lớn đó, hoạt động đối ngoại dưới sự lãnh đạo của

Đảng đóng một vai trò quan trọng. Những chủ trương, đường lối đối ngoại, các

đối sách của ĐCSĐD trong quan hệ đối ngoại thời kỳ này cho thấy sự tài tình,

nhạy bén của Đảng đối với mỗi một đối tượng riêng. Hoạt động đối ngoại của

Đảng từ năm 1930 đến năm 1945 hướng đến các nhóm đối tượng có tác động

3

trực tiếp và gián tiếp đến sự vận động, phát triển của cách mạng Việt Nam:

QTCS và các ĐCS; các nước Đồng minh…

Như chúng ta đã biết, những hoạt động đối ngoại của Đảng trong thời kỳ

1930-1945 được tiến hành trong bối cảnh Đảng chưa phải đảng cầm quyền. Điều

này gây trở ngại lớn trong việc tạo dựng mối quan hệ với các nước khác bởi

Đảng chưa thể chính thức đại diện cho quốc gia mà chỉ có tư cách là một đảng

phái chính trị (thậm chí là một đảng chính trị không được hoan nghênh ở các

nước tư bản). Để vượt qua trở ngại này, Đảng đã linh hoạt sử dụng nhiều danh

nghĩa khác nhau khi đặt mối quan hệ với các đối tượng: khi liên hệ với các tổ

chức cộng sản thì dùng chính danh ĐCSĐD, còn khi giao thiệp với các nước tư

bản trong khối Đồng minh thì dưới danh nghĩa tổ chức mặt trận chống phát xít.

Xét đến hoàn cảnh khó khăn mà Đảng phải đương đầu, những thành công trong

hoạt động đối ngoại mà Đảng đạt được thời kỳ này càng có ý nghĩa to lớn.

Từ việc phân tích các chủ trương, chính sách đúng đắn, cách ứng xử phù

hợp của Đảng trong hoạt động đối ngoại từ năm 1930 đến năm 1945, để đạt

được mục tiêu giải phóng dân tộc, có thể hiểu rõ hơn hoạt động đối ngoại phong

phú để vượt qua khó khăn thử thách của Đảng trong thời kỳ lịch sử đầy biến

động và quan trọng nhưng còn ít được nghiên cứu, tìm hiểu này. Qua đó, có thể

thấy được bức tranh toàn cảnh của các mối liên hệ giữa cách mạng Việt Nam với

quốc tế trong giai đoạn 1930-1945, rút ra những kinh nghiệm cần thiết về đối

ngoại trong xu thế hội nhập toàn cầu của Việt Nam ngày nay.

Chính vì vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Hoạt động đối ngoại của

Đảng từ năm 1930 đến năm 1945”với mong muốn tập trung làm rõ sự thành

công của Đảng trong quá trình lãnh đạo hoạt động đối ngoại, tạo điều kiện cho

cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ và đi đến thắng lợi đúng với mong

muốn của toàn thể nhân dân. Đây là nhu cầu khách quan, cần thiết trong nghiên

cứu về lịch sử ĐCSVN, đồng thời làm rõ thêm những nội dung lịch sử đã diễn ra

trong giai đoạn này.

4

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu, làm rõ quá trình nhận thức và đường lối của ĐCSĐD về công

tác đối ngoại cũng như những tình huống đối ngoại tiêu biểu của Đảng từ 1930

đến 1945, trên cơ sở đó, luận án góp phần làm sáng tỏ hoạt động đối ngoại của

Đảng, rút ra những ưu điểm, hạn chế và kinh nghiệm về đối ngoại của Đảng từ

1930 đến 1945.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài tập trung vào những nhiệm vụ cụ thể:

Một là, phân tích, đánh giá bối cảnh lịch sử thế giới và Việt Nam trong

thời kỳ 1930-1945.

Hai là, làm rõ những chủ trương, đường lối của ĐCSĐD về công tác đối

ngoại và hoạt động đối ngoại của Đảng từ 1930 đến tháng 8-1945.

Ba là, đưa ra một số nhận xét về quá trình Đảng lãnh đạo, chỉ đạo công tác

đối ngoại, đánh giá những thành tựu, hạn chế, đúc rút một số kinh nghiệm trong

quá trình Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại từ năm 1930 đến năm 1945.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là hoạt động đối ngoại của Đảng từ

1930 đến 1945, bao gồm các hoạt động đối ngoại của Đảng trong các tình huống

đối ngoại cụ thể và cả nội dung các chủ trương đối ngoại quan trọng của Đảng.

Sở dĩ lựa chọn đối tượng nghiên cứu như vậy là do luận án đi sâu nghiên cứu

hoạt động đối ngoại, nhưng nhiều hoạt động đã tự thân toát lên tư tưởng chỉ đạo

của Đảng, nên luận án không hoàn toàn khu biệt hoạt động đối ngoại với đường

lối đối ngoại.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nội dung: Nghiên cứu hoạt động đối ngoại của Đảng với các đối

tượng: QTCS, một số ĐCS như Liên Xô, Trung Quốc, Pháp, một số ĐCS ở khu

5

vực Đông Nam Á và các lực lượng Đồng minh (Anh, Mỹ, Trung Hoa Dân quốc)

dưới danh nghĩa của ĐCSĐD hoặc dưới danh nghĩa các tổ chức khác. Đặc biệt,

Nguyễn Ái Quốc với vai trò một nhà hoạt động cách mạng Việt Nam, người

sáng lập ĐCSVN, là người có ảnh hưởng lớn đến ĐCSĐD và cách mạng Việt

Nam. Vì vậy, luận án cũng xem Nguyễn Ái Quốc như một chủ thể của hoạt động

đối ngoại của Đảng để nghiên cứu.

Phạm vi không gian: Luận án chủ yếu nghiên cứu hoạt động đối ngoại của

Đảng diễn ra ở Việt Nam, Trung Quốc, Liên Xô, một số sự kiện diễn ra ở Đông

Nam Á và một số nước khác…

Phạm vi thời gian: từ đầu năm 1930 đến tháng 8-1945.

4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh và quan điểm của ĐCSVN về công tác đối ngoại.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ

nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ yếu là phương pháp

lôgic, phương pháp lịch sử, và các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh...

4.3. Nguồn tài liệu

- Văn kiện Đảng là nguồn tài liệu quan trọng được khai thác khi nghiên

cứu lịch sử Đảng nói chung và lịch sử hoạt động đối ngoại của Đảng nói riêng.

- Các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh: Một số tác phẩm quan

trọng và tiêu biểu của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh về đường lối, chủ trương

của Đảng từ năm 1930 đến tháng 8-1945.

- Các tư liệu khác liên quan đến đề tài:

+ Các công trình luận án, luận văn, bài báo đã công bố về đề tài.

+ Tư liệu về các hội nghị quốc tế, quan điểm của chính trị gia các nước,

văn kiện của chính phủ các nước.

6

+ Khối báo chí đương thời phát hành từ năm 1941 đến năm 1945, gồm

báo chí bí mật như Cờ giải phóng, Việt Nam độc lập, Cứu quốc…

+ Các tài liệu nghiên cứu: ảnh, bưu thiếp, thẻ tham dự hội nghị… (một số

được đưa vào phụ lục luận án).

5. Đóng góp mới của luận án

- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học về

quá trình định hình đường lối đối ngoại của Đảng trong giai đoạn 1930-1945. Từ

đó, thấy rõ sự phát triển, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo thực hiện công tác

đối ngoại của Đảng.

- Phân tích, góp phần làm sáng tỏ những hoạt động đối ngoại của ĐCSĐD

với cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945. Góp phần khẳng định

đường lối và hoạt động đối ngoại đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong giai đoạn

lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền.

- Góp phần đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong hoạt động đối ngoại

của Đảng giai đoạn này, đúc rút những kinh nghiệm lịch sử bổ ích có thể áp

dụng trong quá trình lãnh đạo của Đảng về đối ngoại sau này.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận

án bao gồm 4 chương; 9 tiết.

7

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

“Đối ngoại”, theo định nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn

ngữ học [163] là đối với nước ngoài, bên ngoài, nói về đường lối, chính sách, sự

giao thiệp của nhà nước, của một tổ chức; để phân biệt với đối nội. Đối ngoại

luôn là nội dung quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn đối với đường lối, chính sách

của bất kỳ nhà nước hay tổ chức nào. Còn “ngoại giao” là việc thực hiện các mối

quan hệ giữa các quốc gia có chủ quyền thông qua liên lạc, thương lượng, gây

ảnh hưởng cũng như điều chỉnh những khác biệt. Do thời kỳ luận án đề cập đến

Đảng chưa phải là Đảng cầm quyền, Nhà nước Việt Nam chưa được thành lập,

nên nghiên cứu sinh sử dụng thuật ngữ “đối ngoại” để nói đến các hoạt động của

Đảng đối với các Đảng, các lực lượng quốc tế thời kỳ này.

Đây là thời điểm mà đường lối đối ngoại cùng các hoạt động đối ngoại

của Đảng có tác động đến đường lối chung của Đảng trong quá trình lãnh đạo

toàn dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng của dân tộc,

tránh được những tổn thất lớn lao, là một nội dung quan trọng trong quá trình

nghiên cứu lịch sử Đảng nói riêng, lịch sử dân tộc nói chung.

Các nội dung về vấn đề này được thể hiện trong nhiều công trình nghiên

cứu khoa học, xã hội, các luận án, luận văn, sách, báo… về lịch sử Việt Nam nói

chung, lịch sử Đảng nói riêng.

Có thể phân chia thành ba nhóm chính sau đây:

1.1.1. Những công trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, lịch sử

Đảng liên quan đến đề tài

Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề chung của lịch sử ĐCS mà

trong đó có đề cập đến hoạt động đối ngoại ở các khía cạnh khác nhau. Đáng chú

ý là các công trình:

8

“Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam” của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng

Trung ương [7]. Cuốn sách đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng qua các giai đoạn

lịch sử, cung cấp những nội dung cơ bản của lịch sử Đảng trong đó nêu lên

những quan điểm, chủ trương của Đảng về hoạt động đối ngoại.

Các sách lịch sử do các đồng chí lãnh đạo của Đảng viết như:

Trường Chinh, “Tiến lên dưới lá cờ của Đảng” [23]; Trường Chinh,

Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam”, tập I [24]; tập II [25];

Trường Chinh, “Cách mạng Tháng Tám” [26]; Lê Duẩn, “Một vài đặc điểm của

cách mạng Việt Nam” [30]; Lê Duẩn, “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập

tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành thắng lợi mới” [32]… đã chỉ ra những

nội dung cụ thể, trong đó có hoạt động đối ngoại, có tính chất tổng kết lý luận và

thực tiễn rất cơ bản, hướng dẫn toàn Đảng, toàn dân ta vươn lên đạt những thắng

lợi mới cho sự nghiệp cách mạng.

“Cách mạng Tháng Mười với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở

Việt Nam” của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN Lê Duẩn [31].

Cuốn sách đã tập trung khẳng định ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga

đối với thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, thể hiện sự tiếp thu của Đảng

từ thành công của cuộc Cách mạng Tháng Mười, để lãnh đạo nhân dân

nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giành thắng lợi

về mọi mặt, trong đó có mặt trận đối ngoại.

“Lịch sử Cách mạng Tháng Tám” của Viện Lịch sử Đảng [161].

Cuốn sách cung cấp một cái nhìn tổng quan về diễn trình của Cách mạng

Tháng Tám, trong đó có đan xen những chủ trương và hoạt động đối ngoại của

Đảng và Hồ Chí Minh.

“Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội” của tác giả Nguyễn Duy Quý

[137]. Cuốn sách đề cập đến việc phát triển một số vấn đề lý luận và thực tiễn

của tiến trình cách mạng Việt Nam và thế giới, phân tích những vấn đề lớn của

dân tộc và những sự kiện lớn của thế giới, trong đó có đề cập đến các hoạt động

9

đối ngoại, vấn đề hợp tác quốc tế... nhưng phân tích ở nhiều thời kỳ, nhiều

khía cạnh khác nhau.

Những công trình trên đi sâu nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về

lịch sử Đảng, về quá trình Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập

dân tộc, trong đó có các hoạt động đối ngoại. Qua đó, các tác giả đều

khẳng định: những quan điểm, đường lối của Đảng nói chung, đường lối

đối ngoại nói riêng đã có giá trị lớn, góp phần vào thành công của cách mạng

Việt Nam. Đồng thời, chỉ ra những hạn chế, và bước đầu đúc kết một số

kinh nghiệm của Đảng trong quá trình lãnh đạo hoạt động đối ngoại. Đây là

những công trình khoa học cung cấp những vấn đề lý luận chung, phương pháp

nghiên cứu đề tài; những luận điểm khoa học và là tài liệu quý cho nghiên cứu

sinh trong quá trình giải quyết các nhiệm vụ mà luận án đặt ra.

1.1.2. Những công trình khoa học nghiên cứu quan hệ đối ngoại và

hoạt động đối ngoại của Đảng liên quan đến đề tài

Nghiên cứu về hoạt động đối ngoại của Đảng, cách mạng Việt Nam từ

năm 1930 đến năm 1945 là một vấn đề mới. Nhìn chung, các công trình nghiên

cứu về ngoại giao Việt Nam thường bắt đầu từ thời điểm nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa chính thức thành lập (2-9-1945). Các hoạt động đối ngoại của Đảng từ

năm 1930 đến năm 1945 chưa được nghiên cứu thành công trình chuyên khảo

riêng biệt. Dù thời kỳ này, các hoạt động đối ngoại của Đảng có vai trò, ý nghĩa

quan trọng đối với quá trình đấu tranh cách mạng, giành chính quyền về tay

nhân dân. Từ những ngày đầu mới thành lập, Đảng cần có sự ủng hộ mạnh mẽ từ

QTCS và các ĐCS anh em để khẳng định vai trò cũng như có tiếng nói uy tín trên

mặt trận đấu tranh quốc tế. Từng bước, cùng với sự phát triển của cách mạng,

Đảng cũng phải đối mặt với nhiều kẻ thù trực tiếp, gián tiếp. Các công trình

nghiên cứu đã đưa ra đánh giá về đường lối đối ngoại của Đảng, của lãnh tụ

Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh, của cách mạng Việt Nam... Đối với việc

nghiên cứu về đường lối và hoạt động đối ngoại của Đảng, có các công trình tiêu

biểu như:

10

“Ý nghĩa của việc đánh bại chủ nghĩa quân phiệt Nhật đối với thắng lợi

của cuộc cách mạng nhân dân ở Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam” của tác giả

M. L. Titapenco [151]. Tác giả tập trung vào phong trào giải phóng dân tộc ở

Viễn Đông và Đông Nam Á sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trong đó có

đề cập đến quan hệ đối ngoại, thời cơ cách mạng dẫn đến sự ra đời của ĐCSVN

để lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

“Cách mạng Việt Nam 1945-Rudơven, Hồ Chí Minh và Đờ Gôn trong

thế giới có chiến tranh” của tác giả Stein Tønnesson [154]. Trong cuốn sách,

tác giả phân tích tình hình quốc tế và Việt Nam; nhấn mạnh các nguyên nhân

dẫn tới thành công của cách mạng Việt Nam năm 1945.

“Paris-Sài Gòn-Hà Nội-Tài liệu lưu trữ của cuộc chiến tranh 1944-1947

của tác giả Philippe Deviller [29]. Cuốn sách đã nêu lên những nhận định của

một nhà sử học người Pháp về cuộc chiến tranh ở Việt Nam thông qua khối

tài liệu lưu trữ từ phía Pháp.

“Tại sao Việt Nam?” của tác giả A. Patti [128]. Một thiếu tá tình báo OSS

được trực tiếp gặp Nguyễn Ái Quốc thời điểm năm 1945, đã kể về những sự kiện

lịch sử, quan điểm của ông về các mối quan hệ, ảnh hưởng của chúng đối với

cách mạng Việt Nam.

“Việt Nam 1945 - Sự tìm kiếm quyền lực” của tác giả David G. Marr

[188]. Cuốn sách trình bày bối cảnh và diễn tiến cuộc Cách mạng Tháng Tám

1945, vào lúc lực lượng Việt Minh giành chính quyền và tuyên bố Việt Nam

độc lập. Tác giả David G. Marr cho rằng: “Sau ngày 9 tháng 3 năm 1945, các sự

kiện diễn ra theo một cái đà tự phát, không có bàn tay điều khiển nào. Những

đảng viên Cộng sản và những người tham gia Việt Minh ở địa phương đã giành

nhiều thắng lợi do sự ứng phó nhanh chóng của họ trước những thay đổi đột ngột

hơn là theo một kế hoạch điều khiển nào”.

“Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với

cách mạng Lào thời kỳ 1930-1945” của tác giả Nguyễn Trọng Phúc [132], thuộc

Đề tài nghiên cứu khoa học “Khái quát sự hình thành và phát triển quan hệ

11

hai nước trong giai đoạn 1930-1945, rút ra một số bài học và kinh nghiệm”,

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Công trình đã nghiên cứu chi tiết quá

trình thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào thời kỳ 1930-1945,

phân tích những hoạt động thực tế của Đảng.

“QTCS với Việt Nam” của tác giả A.A. Xô-cô-lốp [170]. Cuốn sách nêu

nhiều tư liệu chứng minh sự giúp đỡ và ảnh hưởng của QTCS với ĐCSĐD

và những cán bộ cách mạng Việt Nam đã học tập tại Liên Xô. Điều này ảnh

hưởng trực tiếp đến đường lối của ĐCSĐD, tác động đến phong trào cách mạng

Việt Nam.

“QTCS và cách mạng Việt Nam” của TS. Hồ Thị Tố Lương [98]. Cuốn

sách cho thấy rõ những ảnh hưởng của QTCS (1919-1943) đến Đảng và cách

mạng Việt Nam cũng như những hạn chế của mối quan hệ này.

“OSS và Hồ Chí Minh-Đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít

Nhật” của tác giả Dixee R. Bartholomew-Feis [11]. Cuốn sách viết về mối quan

hệ giữa Mỹ (cụ thể là Cơ quan Tình báo chiến lược Mỹ OSS - tiền thân của CIA)

với Việt Minh trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền. Trong đó, đề cập

cụ thể vai trò quan trọng của Hồ Chí Minh để thiết lập mối quan hệ này, đồng

thời, tác giả viết về các mối quan hệ quốc tế đầu tiên của ĐCSĐD thông qua

Mặt trận Việt Minh trong khối Đồng minh chống phát xít.

“Sự tương đồng và khác biệt về quan điểm cách mạng Việt Nam

giữa Hồ Chí Minh với QTCS và ĐCSĐD những năm 1930-1941” do PGS.TS.

Nguyễn Khánh Bật chủ biên [12]. Cuốn sách đề cập tới những vấn đề quan hệ

đối ngoại và các vấn đề về quan điểm, lý luận giữa ĐCSĐD và QTCS, là cơ sở

để nghiên cứu sinh nghiên cứu sâu hơn về quan hệ đối ngoại giữa ĐCSĐD và

QTCS.

“Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam (1930-2007)” của

Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào [44]. Cuốn sách trình

bày những nét chính của chặng đường lịch sử quan hệ đặc biệt giữa Việt Nam và

Lào từ năm 1930 đến năm 2007; nêu bật những thành quả, vai trò to lớn của

12

mối quan hệ đặc biệt giữa hai dân tộc đối với tiến trình cách mạng mỗi nước

trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng cũng như trong công cuộc xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc hiện nay dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN và Đảng Nhân dân

Cách mạng Lào.

“Đối ngoại Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử 1945-2012” của tác giả

Đinh Xuân Lý [100]. Cuốn sách đề cập đến các thời kỳ lịch sử đối ngoại của

Việt Nam, bao gồm những quan điểm đối ngoại của Hồ Chí Minh và ĐCSVN

trước Cách mạng Tháng Tám 1945.

“Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam (1940-2010)” của GS. Vũ Dương

Ninh [125]. Cuốn sách trình bày những nét cơ bản về lịch sử quan hệ đối ngoại

Việt Nam từ năm 1940 đến năm 2010, với các giai đoạn lịch sử quan trọng của

đất nước, nêu lên bối cảnh quốc tế và trong nước dẫn đến các sự kiện, diễn tiến

lịch sử quan hệ đối ngoại của Việt Nam. Trong đó, có một giai đoạn quan trọng

mà luận án nghiên cứu: quan hệ đối ngoại của Việt Nam từ 1940-1945.

Vấn đề hoạt động đối ngoại của Đảng còn được thể hiện trong các

luận án, luận văn, tiêu biểu như:

Luận án Tiến sĩ Lịch sử “Quan hệ Nhật-Pháp và vấn đề Đông Dương trong

thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai 1939-1945” của TS. Trần Văn La [85]. Luận án

đã dựng lại một cách hệ thống, khách quan quan hệ Nhật-Pháp về vấn đề

Đông Dương trong những năm 1939-1945, làm rõ bản chất, nguồn gốc,

biểu hiện mâu thuẫn Nhật-Pháp, cho thấy rõ ảnh hưởng của mối quan hệ này

đối với việc Việt Nam đấu tranh giành độc lập.

Luận án Tiến sĩ Lịch sử “Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại thời kỳ

1945-1946” của TS. Nguyễn Thị Kim Dung [33]. Luận án đã trình bày các

hoạt động đối ngoại của Đảng trong giai đoạn đầu năm 1945. Luận án phân tích,

luận giải về đường lối đối ngoại của Đảng, tư tưởng, nghệ thuật chỉ đạo, chiến

lược, sách lược ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “lợi dụng mâu thuẫn

kẻ thù”, “thêm bạn bớt thù”, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”...” nhằm góp phần

giữ vững chính quyền cách mạng, xây dựng lực lượng, trong những năm đầu

13

mới thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Luận án có phần

phân tích kỹ bối cảnh lịch sử trong nước và tình hình các nước liên quan của

thời kỳ trước năm 1945.

Luận án Tiến sĩ Lịch sử “Quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và Liên Xô

trong giai đoạn 1930-1954” của TS. Lê Văn Thịnh [145]. Luận án đề cập đến

các quan hệ về chính trị tư tưởng và tổ chức, về đối ngoại và ngoại giao, về ảnh

hưởng của cách mạng Liên Xô ở Việt Nam. Đồng thời, luận án cũng đề cập đến

quan hệ kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam và Liên Xô sau khi

có quan hệ ngoại giao.

Luận án Tiến sĩ Lịch sử “Hoạt động đối ngoại của nước Việt Nam

Dân chủ Cộng hòa thời kỳ 1945-1950” của TS. Nguyễn Trọng Hậu [59]. Luận

án phân tích kỹ bối cảnh thế giới, tình hình của các nước ở Đông Dương, đồng

thời chỉ rõ âm mưu của các nước lớn đối với vấn đề Đông Dương, đặc biệt là

Việt Nam.

Một số bài viết đăng trên các tạp chí có thể kể đến: Bài viết “Chủ trương

tìm bạn đồng minh xa của Mặt trận Việt Minh qua Báo Việt Nam Độc lập (1941-

1945)” của tác giả Nguyễn Trọng Hậu [60], phân tích về đường lối của Đảng,

của Mặt trận Việt Minh trong việc tìm đồng minh.

Một số bài viết của PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hà như “Bàn thêm về vấn đề

thời cơ trong cuộc tổng khởi nghĩa năm 1945” [52]; “Bài học của cách mạng

Tháng Tám năm 1945 với công cuộc đổi mới” [53]; “Ý nghĩa thời đại của Tuyên

ngôn Độc lập” [54], đã phân tích kỹ vấn đề thời cơ và nghệ thuật chớp thời cơ

đưa đến sự thành công của Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam.

Ngoài ra, còn nhiều bài nghiên cứu có liên quan đến quan hệ đối ngoại

Việt Nam được công bố trên các tạp chí chuyên ngành như: Nghiên cứu quốc tế,

Nghiên cứu Đông Nam Á, Nghiên cứu Trung Quốc, Nghiên cứu Đông Bắc Á,

Nghiên cứu châu Mỹ, Nghiên cứu châu Á, Nghiên cứu Lịch sử, Châu Á, Nghiên

cứu Lịch sử quân sự…

14

Các tài liệu như: “Những hoạt động ngoại giao đầu tiên của Mặt trận

Việt Minh” (1991) của tác giả Phạm Xanh, Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

H28C9/22 [168]; “Thông điệp đầu tiên của Chính phủ Việt Nam gửi Liên hiệp quốc

tháng 8-1945” của tác giả Phạm Xanh; “Một số tư liệu về quan hệ Việt-Mỹ”, của

tác giả Nguyễn Xuân Thông, Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh H28C8/275

[146]... cung cấp những tư liệu nền tảng, làm rõ những hoạt động đối ngoại

đầu tiên, mở ra những cuộc tiếp xúc và xác lập quan hệ với Mỹ.

Những công trình nghiên cứu này phần nào đề cập đến đường lối

đối ngoại của Đảng nhưng tập trung vào từng nhóm đối tượng cụ thể, hoặc

nghiên cứu về đối ngoại ở một thời kỳ khác.

Vấn đề hoạt động đối ngoại của Đảng từ 1930-1945 còn được đề cập ở

những mức độ khác nhau trong các tập tài liệu của các tác giả nước ngoài:

Tập tài liệu “Việt Nam và Trung Quốc 1938-1954” của tác giả

King C.Chen, bản dịch tiếng Việt [22]; cuốn “Nước Mỹ và Đông Dương từ

Rudơven đến Ních xơn” của tác giả A. Pulơ [134]; cuốn “Trung Quốc và việc

giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất” của Ph. Gioayô [51];

cuốn “Lời phán quyết về Việt Nam” của Gi. A. Amtơ [1]... cung cấp những

quan điểm của các nhà sử học nước ngoài về các sự kiện lịch sử, những mối

quan hệ giữa Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ... với Đảng trong thời kỳ mà luận án

nghiên cứu.

Nhiều cuốn sách, bài viết về chính sách bành trướng của quân phiệt Nhật

ở vùng Đông Nam Á - Thái Bình Dương, về những hoạt động và tội ác của

quân đội Nhật ở Đông Dương, qua đó có thể thấy rõ hơn bối cảnh lịch sử và

thời cơ cho Cách mạng Tháng Tám 1945. Chẳng hạn như: “Tình hình nghiên

cứu của Nhật Bản về tội ác chiến tranh của phát xít Nhật tại Việt Nam” của

Furuta Motoo, Tạp chí Khoa học - Đại học Tổng hợp Hà Nội, 4-1988. Các

học giả nhận định: tại Đông Dương, mâu thuẫn Nhật - Pháp ngày càng gay gắt,

cuối cùng chúng tự thanh toán nhau. Nguyên nhân dẫn đến cuộc xung đột ấy là

vì cả hai đều muốn giành lấy Đông Dương - một vị trí có ý nghĩa quan trọng về

15

quân sự và kinh tế. Ngoài ra, còn một số bài chuyên khảo đề cập trực tiếp đến

hoạt động của quân đội Pháp và Nhật ở Đông Dương trong thời kỳ 1939-1945

như:“Đông Dương thuộc Pháp: 1940-1945”(1982) của P. Brocheux, Nxb

Presses Universitaires de France;“Quân đội Pháp ở Đông Dương 1939-

1945”(1985) của Claude Hesse d’Alzon, NxbService historique de l’Armée de

terre, là nguồn tư liệu phong phú về các hoạt động quân sự của quân đội Pháp ở

Đông Dương.

Các cuốn sách, tài liệu của các tướng lĩnh, học giả các nước đã cung cấp

cho người đọc nhiều tư liệu liên quan đến vấn đề này. Tuy nhiên, do khác biệt về

cách nhìn nhận và đánh giá vấn đề, nên nghiên cứu sinh chỉ tham khảo ở khía

cạnh cung cấp tư liệu bổ sung cho vấn đề nghiên cứu.

1.1.3. Những công trình nghiên cứu về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc

- Hồ Chí Minh liên quan đến đề tài

Khi nói đến sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là hoạt động đối ngoại, không

thể không nhắc đến vai trò của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Những hoạt

động của Người có đóng góp lớn đối với Đảng, với đất nước, dẫn dắt Đảng, dẫn

dắt dân tộc Việt Nam đi đến độc lập tự do, đã được nhiều công trình lớn đề cập

đến.

Cuốn “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao” của Học viện Quan

hệ Quốc tế [68]. Thông qua những sự kiện, hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại và

ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuốn sách khẳng định công lao to lớn của

Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam nói chung, trên mặt trận ngoại

giao và quan hệ quốc tế nói riêng.

Cuốn sách “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao” [68] có phần

tập trung phân tích các hoạt động đối ngoại của Nguyễn Ái Quốc từ 1941-1945,

trong đó có mối quan hệ với Trung Quốc và với Pháp. Cuốn sách khẳng định sự

kiên trì tranh thủ ủng hộ của quốc tế và phân hóa lực lượng đối phương mà Hồ

Chí Minh hướng tới là nhân tố quan trọng góp phần đưa cách mạng Việt Nam đi

đến thắng lợi năm 1945.

16

Chương trình nghiên cứu cấp Nhà nước về khoa học xã hội (KX.02):

“Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh” do GS. Đặng Xuân Kỳ làm chủ nhiệm,

được triển khai từ 1991- 1995, bao gồm 13 đề tài nhánh, trong đó một số đề tài

có nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án như: đề tài nhánh

KX02- 01: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam do

Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm chủ nhiệm; Đề tài nhánh KX.02-07: Tư tưởng

Hồ Chí Minh về đại đoàn kết; Đề tài nhánh KX.02-09: Hồ Chí Minh - Những

hoạt động quốc tế; Đề tài nhánh KX.02-12: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề

dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc... Những kết quả nghiên cứu của các

đề tài này đã đề cập đến đường lối đối ngoại của Đảng, của Hồ Chí Minh đối với

cách mạng Việt Nam trong cả tiến trình cách mạng Việt Nam nói chung, trong

đó có thời kỳ 1930-1945. Tuy nhiên, chưa có sự phân định rạch ròi về đối ngoại

với từng đối tượng cụ thể mà chủ yếu là phân tích theo từng thời kỳ lịch sử.

Cuốn “Chủ tịch Hồ Chí Minh trí tuệ lớn của nền ngoại giao Việt Nam

hiện đại” của Nguyễn Phúc Luân [95]. Cuốn sách khái quát những cống hiến

của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với nền ngoại giao Việt Nam trong giai đoạn

1945-1946 và trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ;

phân tích một số quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế như nhận thức

về mối quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc trong thời đại mới; bạn thù và sách

lược tập hợp lực lượng...

Cuốn “Hồ Chí Minh chiến sĩ cách mạng quốc tế” do GS. Phan Ngọc Liên và

PGS. Trịnh Vương Hồng chủ biên [90]. Cuốn sách đã khẳng định quá trình hoạt

động, phát triển về nhận thức, tư tưởng của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc -

Hồ Chí Minh từ một người yêu nước trở thành người cộng sản; sự phát triển

chung, trong đó có sự phát triển về quan điểm đối ngoại trong các thời kỳ lịch

sử, các đối tượng tác động đến quan điểm đối ngoại của Hồ Chí Minh. Cuốn

sách đã đề cập đến mối quan hệ với QTCS, đến sự ảnh hưởng của các ĐCS đối

với Việt Nam và cả mối liên hệ trong hàng ngũ Đồng minh chống quân phiệt

Nhật…

17

Luận án Tiến sĩ Lịch sử “Hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh

thời kỳ 1945-1954” của TS. Đặng Văn Thái [140] nghiên cứu một cách hệ thống

về hoạt động đối ngoại của Hồ Chí Minh thời kỳ 1945-1954, cung cấp tư liệu và

nhận định mới về cống hiến của Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của cuộc kháng

chiến chống Pháp trong hoạt động đối ngoại, khái quát những luận điểm cơ bản

trong tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh.

Sách “Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng

dân tộc (1911-1945)” của tác giả Nguyễn Đình Thuận [147]. Cuốn sách nêu rõ

những nhân tố tác động lớn tới sự hình thành tư tưởng về cách mạng giải phóng

dân tộc cũng như những nội dung tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của

Chủ tịch Hồ Chí Minh để Người có thể đưa ra những quyết sách đúng đắn cho

đất nước, cho nhân dân.

Cuốn “Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Dy Niên [123].

Cuốn sách giới thiệu nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển, hệ thống các

quan điểm, quan niệm của Hồ Chí Minh về ngoại giao; trình bày phương pháp,

phong cách và nghệ thuật đặc sắc trong hoạt động quốc tế và ngoại giao của

Người; nêu lên ý tưởng và suy nghĩ của tác giả về việc vận dụng tư tưởng

ngoại giao Hồ Chí Minh.

Cuốn “Ngoại giao Hồ Chí Minh lấy trí nhân thay cường bạo” của

Nguyễn Phúc Luân [97]. Cuốn sách nêu lên vai trò lịch sử của Hồ Chí Minh

trong quan hệ quốc tế, phân tích một số quan điểm của Hồ Chí Minh về

ngoại giao.

Cuốn sách “Tư tưởng đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh” của tác giả

Đinh Xuân Lý [99]. Cuốn sách khái quát một số nội dung trong tư tưởng

Hồ Chí Minh về đối ngoại, luận giải, phân tích về quan điểm đối ngoại mang tính

sáng tạo của Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng trong sự nghiệp cách mạng

giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.

Cuốn “Bác Hồ đấu trí với tình báo phương Tây” của tác giả Lê Kim [84].

Cuốn sách đề cập đến quá trình hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc -

18

Hồ Chí Minh và những mưu trí của Người để vượt qua các thế lực chống cộng

dò xét, theo dõi...

Cuốn “Hồ Chí Minh với chiến lược đoàn kết quốc tế trong cách mạng

giải phóng dân tộc” của tác giả Lê Văn Yên [173]. Cuốn sách đã đề cập đến việc

xây dựng mối quan hệ đoàn kết giữa phong trào giải phóng dân tộc và

phong trào cách mạng vô sản quốc tế, kết hợp giữa đoàn kết dân tộc và đoàn kết

quốc tế, dẫn dắt toàn thể nhân dân đi đến mục tiêu độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Cuốn sách cũng nêu lên một số quan điểm về chiến lược đoàn kết quốc tế của

Hồ Chí Minh nói chung và giá trị thực tiễn của chiến lược này đối với Việt Nam.

Cuốn “Nguyễn Ái Quốc với QTCS (1920 - 1943)” của tác giả Lê Văn Tích

(chủ biên) [148]. Cuốn sách cung cấp những tư liệu mới; phân tích cụ thể mối

quan hệ giữa Nguyễn Ái Quốc và QTCS, phân tích những chuyển biến tư tưởng của

Nguyễn Ái Quốc từ người chiến sĩ của QTCS đến người sáng lập ĐCSVN (1920-

1930); ảnh hưởng của đường lối “tả khuynh” trong QTCS từ sau Đại hội lần thứ sáu

và những năm tháng gian truân của Nguyễn Ái Quốc (1928-1938); sự ảnh hưởng

của QTCS với sự phát triển của ĐCSĐD những năm tháng này. Cuốn sách cho thấy

mối quan hệ gắn bó giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới do QTCS chỉ

đạo, sự khéo léo gắn kết để tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Việt Nam của

Nguyễn Ái Quốc.

Cuốn “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao” của tác giả

Vũ Khoan [80]. Cuốn sách đã tổng kết lý luận và thực tiễn những bài học kinh

nghiệm quý báu của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực ngoại giao, kể từ khi Người

ra đi tìm đường cứu nước; khẳng định sự quan tâm và cống hiến to lớn của

Hồ Chí Minh đối với nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, trong đó những nội

dung tư tưởng, nghệ thuật ngoại giao của Hồ Chí Minh là cơ sở nền tảng để

ngoại giao Việt Nam vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng trong tình

hình mới.

Cuốn “Suy nghĩ về trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh” của tác giả

Võ Văn Sung [138]. Cuốn sách nêu lên những dấu ấn sâu đậm trong lĩnh vực

19

ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phân tích những nét độc đáo trong hoạt

động ngoại giao của Người, từ đó làm nổi bật lên “trường phái ngoại giao

Hồ Chí Minh”.

Cuốn “Hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc (1911-1945)” của

Trần Nam Tiến [149]. Tác giả đã phản ánh toàn bộ những hoạt động quốc tế của

Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài trên hành trình tìm đường cứu nước. Từ quá trình

hình thành con đường cứu nước và những hoạt động quốc tế đầu tiên của

Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài (1911-1917); ở Pháp (1917-1923); ở Liên Xô

(1923-1924); ở Trung Quốc, châu Âu và Xiêm (1924-1929) và những hoạt động

quốc tế góp phần thành lập ĐCSVN, xây dựng mối quan hệ giữa cách mạng

Việt Nam với cách mạng thế giới (1930-1941). Đây là sự tổng hợp tương đối đầy

đủ nhưng chưa nghiên cứu các đối tượng ở phía đối địch mà Nguyễn Ái Quốc -

Hồ Chí Minh đã tranh thủ để tạo điều kiện cho cách mạng Việt Nam.

Nhiều cuốn kỷ yếu Hội thảo khoa học về Hồ Chí Minh cũng làm

phong phú thêm kết quả nghiên cứu về quan hệ ngoại giao của Đảng, của

Hồ Chí Minh với các lực lượng bên ngoài để tranh thủ điều kiện thuận lợi cho

cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 120 năm

ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh với chủ đề “Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại

ngày nay” tổ chức tại Hà Nội, (2010), có nhiều bài tham luận khẳng định về

ngoại giao Hồ Chí Minh trên nhiều lĩnh vực, trong những giai đoạn khác nhau,

dẫn dắt dân tộc đi đến thành công trong Cách mạng Tháng Tám, đưa đất nước

đi đến độc lập tự do. Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Hồ Chí Minh với nước Nga” có

nhiều bài viết đề cập đến mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam-Liên bang Nga,

trong đó có những nội dung đề cập đến mối quan hệ giữa Đảng với QTCS như:

bài viết “Liên Xô 1923-1924, Một chặng trong quá trình hoàn chỉnh đường lối

cách mạng Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc” của Th.S Đào Tuấn Anh, Bảo tàng

Hồ Chí Minh; Bài viết “Những hoạt động và đóng góp của Nguyễn Ái Quốc với

QTCS (1920-1930)” của TS. Nguyễn Thị Kim Dung, Viện Hồ Chí Minh và các

Lãnh tụ của Đảng - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh…

20

Bên cạnh đó, trong các tạp chí chuyên ngành, vấn đề này cũng được đề cập ở

mức độ khác nhau. Một số bài viết liên quan đến mối quan hệ với QTCS như:

“Đồng chí Nguyễn Ái Quốc với phong trào cộng sản quốc tế và cách mạng Đông

Dương thời kỳ 1930 - 1940” của tác giả Thế Tập; “Từ những hoạt động của

Nguyễn Ái Quốc thời kỳ 1934 - 1938 hiểu thêm về quan điểm quốc tế của

Hồ Chí Minh” của Trịnh Tùng; PGS.TS. Trình Mưu với bài: “Quốc tế Cộng sản

với Đảng Cộng sản Đông Dương” [116].

GS.TS. Đỗ Quang Hưng cũng có một loạt bài viết về đề tài này:

“Chính sách phương Đông của Quốc tế Cộng sản, lý thuyết và thực tiễn” [75];

“Chủ tịch Hồ Chí Minh những năm 1934 - 1938, rọi sáng thêm cho vấn đề dân

tộc hay quốc tế”, Hồ Chí Minh-Anh hùng giải phóng dân tộc danh nhân văn

học: Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh 1890-1990 [76]… đã

phân tích tình hình cách mạng trong và ngoài nước thời điểm này, tính dân tộc

hay quốc tế trong quan điểm của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh khi đó.

Bài viết “Vai trò của Hồ Chí Minh trong thiết lập và tranh thủ mối quan hệ

với quân Đồng minh nhằm tăng cường thế và lực cho Cách mạng Tháng Tám”

(2008) của tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền [73]. Bài viết phân tích vai trò của

Hồ Chí Minh trong việc thiết lập mối quan hệ với Đồng minh, đem lại những lợi

ích nhất định cho cách mạng.

Ngoài ra còn có những bài viết như “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa

quốc tế vô sản” của tác giả Vũ Quang Vinh [166], bài viết “Một số quan điểm của

Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế” của tác giả Mạch Quang Thắng [144];

Nguyễn Thị Yến, “Một vài suy nghĩ về tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về

mặt trận đấu tranh ngoại giao trong giai đoạn lịch sử 1941-1946”, Tài liệu lưu tại

Bảo tàng Hồ Chí Minh, ký hiệu H28C22/3 [174],...

Riêng về vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông, tài liệu “Hồ Chí Minh ở

Hồng Kông”của Dennis J. Duncanson, đăng trên tạp chí The China Quarterly,

1-3, 1974 đã nêu rõ những diễn biến của vụ án này. Cũng về vụ án này có cuốn

“Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông (1931-1933)-tư liệu và hình ảnh” (2004) do

21

Bảo tàng Hồ Chí Minh phối hợp với Nxb Chính trị Quốc gia sưu tầm, Nxb

Chính trị Quốc gia [10] . Cuốn sách chọn lọc, cung cấp những tài liệu chi tiết về

diễn biến vụ án, kết quả vụ án ở Hội đồng Cơ mật London, Anh, cho thấy sự

giúp đỡ chân tình của quốc tế đối với Nguyễn Ái Quốc nói riêng, với ĐCSĐD

nói chung.

Như vậy, các công trình nghiên cứu đề cập ở các mức độ khác nhau

nội dung hoạt động đối ngoại, những ứng xử của Đảng, của Nguyễn Ái Quốc -

Hồ Chí Minh đối với các tuyến đối ngoại, trong một sự đánh giá tổng quan

chung, chưa đi sâu vào nội dung mà luận án tập trung nghiên cứu.

Một số học giả nước ngoài đề cập đến việc trong quá trình lãnh đạo

cách mạng, ĐCS, Hồ Chí Minh có những quan điểm, đường lối và hoạt động

đối ngoại rộng mở, tạo thời cơ cho cách mạng Việt Nam như:

Cuốn “Đồng chí Hồ Chí Minh” của tác giả E. Cô-bê-lép, Nxb Thanh niên

(Hà Nội) và Nxb Tiến bộ (Matxcơva) xuất bản lần đầu năm 1985, Nxb Chính trị-

Hành chính tái bản (có sửa chữa, bổ sung) nhân kỷ niệm 120 năm ngày sinh

Hồ Chí Minh [28]. Đây là công trình nghiên cứu khá toàn diện về cuộc đời và

sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Trong đó, đề cập đến tư tưởng

ngoại giao, đoàn kết quốc tế của Người đấu tranh vì độc lập tự do.

Tác giả Sophie Quinn-Judge, Đại học LSE, London nghiên cứu sâu về

những năm tháng khó khăn của Hồ Chí Minh cùng những sự kiện quan trọng của

lịch sử Việt Nam trong cuốn “Ho Chi Minh-The missing years (Hồ Chí Minh-

Những năm tháng lưu lạc)” [193]. Những sự kiện này luôn gắn liền với những

sự kiện quan trọng của Đảng, của lịch sử Việt Nam, ảnh hưởng không ít tới hoạt

động đối ngoại của Đảng.

Sách “Hô Chi Minh – A life (Hồ Chí Minh – một cuộc đời)”(2012) của

tác giả William J. Duiker [181]. Tác giả đã nghiên cứu một cách tương đối đầy

đủ, toàn diện về cuộc đời hoạt động và lãnh đạo cách mạng Việt Nam của

Hồ Chí Minh, cung cấp khá nhiều tư liệu về hoạt động của Người từ 1930-1945.

Những hoạt động của Người trong giai đoạn này có nhiều liên quan đến QTCS

22

và bộ phận lãnh đạo của ĐCSĐD. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam được

đánh giá cao, có sự ảnh hưởng lớn của Hồ Chí Minh với tư cách là người lãnh

đạo cách mạng.

Trong những công trình nêu trên, các tác giả nước ngoài đều ít nhiều

đề cập đến mối liên hệ giữa ĐCSĐD, Hồ Chí Minh với quốc tế, có ảnh hưởng tới

sự vận động của cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Các công trình này là

nguồn sử liệu quý, cung cấp những nhận định từ bên ngoài có tính khách quan

đối với các hoạt động của Đảng.

Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về

Đảng, về Hồ Chí Minh, tham gia các Hội thảo khoa học và công bố trên các

diễn đàn khác nhau. Một số tác giả có nhận định sắc sảo, sâu sắc, song cũng có

những nhận định, đánh giá phiến diện, thiếu khách quan như một số tác phẩm

của các cựu Ngoại trưởng Mỹ James Byrnes, George Marshall và John Foster

Dulles hiện được lưu trong kho tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh…

1.2. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

Các công trình khoa học nghiên cứu về đường lối đối ngoại và hoạt động

đối ngoại của Đảng trong những năm qua được đăng tải ngày càng nhiều về

số lượng, chất lượng cũng được nâng cao với nhiều cách tiếp cận, giải quyết

vấn đề khác nhau. Nội dung các công trình đề cập khá toàn diện.

- Nhìn tổng thể, liên quan đến phạm vi nghiên cứu của luận án, các công

trình khoa học tập trung nghiên cứu về đối ngoại của Đảng nói chung, về

quan điểm tư tưởng, đường lối, chính sách, hoạt động đối ngoại cụ thể.

Những công trình khoa học, bài viết về hoạt động đối ngoại của Đảng

để đưa đất nước đến độc lập, tự do khá phong phú, đa dạng về cách tiếp cận,

về các mối quan hệ quốc tế. Các công trình đã bước đầu đề cập đến việc

quán triệt, lãnh đạo tổ chức thực hiện hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm

1930 đến năm 1945, nêu lên những nội dung đối ngoại, một số kết quả

đạt được và những tồn tại hạn chế. Toàn bộ khối tài liệu đã dẫn ở trên cung cấp

những kiến thức nền tảng về đường lối, hoạt động của Đảng nói chung,

23

hoạt động đối ngoại nói riêng, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ và sự hy sinh to lớn

cùng những đóng góp vĩ đại của các nhà cách mạng cho Đảng và cách mạng

Việt Nam trong những ngày đầu đưa cách mạng đi đến thành công. Đây là

nguồn tài liệu có giá trị tham khảo, kế thừa lớn đối với nghiên cứu sinh trong

quá trình thực hiện đề tài luận án.

Tuy nhiên, cho đến nay, còn thiếu những công trình khoa học nghiên cứu

một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống quá trình hoạt động đối ngoại của

Đảng từ năm 1930 đến năm 1945.

- Trong những công trình đã công bố về mảng đề tài này còn nhiều ý

kiến đánh giá khác nhau về các sự kiện, nhân vật lịch sử, có những đánh giá,

nhận định chưa có sức thuyết phục hoặc chưa xác đáng, chưa phân tích sâu

nguyên nhân dẫn đến những thiếu sót, khuyết điểm của một số cấp uỷ Đảng

trong hoạt động đối ngoại của Đảng... Một số công trình nghiên cứu của

học giả nước ngoài có những nhận định thiên kiến về thời kỳ Nguyễn Ái Quốc

hoạt động ở Thái Lan, ở Liên Xô, hoặc cho rằng Cách mạng Tháng Tám của

Việt Nam chưa phải là một cuộc cách mạng, “là một sự ăn may”. Dù vậy,

các tác phẩm, các công trình đã tập hợp được nhiều tư liệu có liên quan,

cung cấp những luận cứ khoa học, những gợi mở quan trọng cho việc tiếp cận,

nghiên cứu đề tài luận án một cách hệ thống, toàn diện và sâu sắc hơn.

1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG GIẢI QUYẾT

Kết quả khảo cứu các công trình khoa học có liên quan đến đề tài

Luận án: “Hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1930 đến năm 1945” cho

thấy, bên cạnh những vấn đề đã được luận bàn thấu đáo, còn những vấn đề đặt ra

cho nghiên cứu sinh cần tiếp tục giải quyết:

Thứ nhất, làm rõ hơn quá trình nhận thức và chủ trương, đường lối lãnh đạo

của ĐCSĐD về hoạt động đối ngoại giai đoạn 1930-1945.

Thứ hai, làm rõ các hoạt động đối ngoại của Đảng trong thời kỳ 1930-1945,

trong đó có các nhà cách mạng Việt Nam. Từ đó, làm sáng tỏ đường lối đối ngoại mà

24

Đảng và các nhà cách mạng Việt Nam đã áp dụng với những đối tượng khác nhau:

QTCS, các ĐCS anh em, các nước Đồng minh và các nước khác…

Thứ ba, làm rõ giá trị lý luận và thực tiễn của đường lối đối ngoại, hoạt động

đối ngoại của Đảng đối với thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Thứ tư, nêu lên những nhận xét, đánh giá và đúc kết những kinh nghiệm

rút ra từ hoạt động đối ngoại của Đảng thời kỳ 1930 - 1945, có thể tham khảo

phục vụ hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước hiện nay.

25

Chương 2

ĐẢNG RA ĐỜI VÀ TRIỂN KHAI HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI

TỪ NĂM 1930 ĐẾN THÁNG 8 NĂM 1939

2.1. SỰ RA ĐỜI VÀ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930

ĐẾN NĂM 1935

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng đưa đất nước đi đến độc lập

tự do, ĐCSVN đã trải qua nhiều khó khăn. Đặc biệt là những năm đầu mới thành

lập (1930-1935), Đảng phải đối mặt với nhiều gian nan, nhiều kẻ thù, mà sự

trợ giúp từ bên ngoài là không đáng kể. Tuy vây, các đồng chí lãnh đạo Đảng

vân tranh thủ mọi yếu tố có lợi cho cách mạng Việt Nam, tận dụng mọi thời cơ,

tranh thủ các lực lượng trên thế giới để mang lai lợi ich lớn nhất cho cách mạng,

phù hợp với hoàn cảnh thực tế của đất nước lúc bấy giờ.

Đầu năm 1930, ĐCSVN ra đời, đề ra Cương lĩnh chính trị, đảm đương

vai trò lãnh đạo đối với cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Tháng 10-1930,

ĐCSVN đổi tên thành ĐCSĐD, tiếp tục lãnh đạo toàn dân thực hiện nhiệm vụ:

đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, thống trị của chủ nghĩa thực dân.

Đảng xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương: lúc đầu là

cuộc cách mạng tư sản dân quyền, sau đó tiếp tục phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bản

chủ nghĩa, tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa. Đồng thời xác định

hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến có

quan hệ khăng khít với nhau; xác định hình thức, phương pháp đấu tranh và

mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.

Từ năm 1930 đến năm 1935, tuy những hoạt động mang tính đối ngoại

của Đảng chưa nhiều và chưa có biểu hiện ro rêt, nhưng có thể thấy Đảng đã

chủ động tìm kiếm sự giúp đỡ, tích cực tham gia các hoạt động của phong trào

giải phóng dân tộc trên thế giới, từ đó, dần xây dựng mối quan hệ với ĐCS

các nước, tạo tiếng nói và vị thế cho Đảng trong vai trò lãnh đạo cách mạng

Việt Nam đấu tranh giành độc lập dân tộc. Các hoạt động đối ngoại của Đảng

từ năm 1930 đến năm 1935 thể hiện đóng góp của đối ngoại vào thành quả

26

cách mạng chung giai đoạn này và cho thấy nỗ lực của Đảng trong bước đầu

lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc.

2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử

2.1.1.1. Tình hình thế giới

Năm 1919, QTCS thành lập, ảnh hưởng mạnh tới phong trào cộng sản và

công nhân quốc tế. Đến những năm 20-30 của thế kỷ XX, QTCS trở thành

trung tâm nghiên cứu lý luận, đường lối, chiến lược và tổ chức chỉ đạo

phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Thời gian đầu, QTCS nhanh chóng

truyền bá sâu rộng chủ nghĩa Mác-Lê nin vào nhiều nước tư bản và thuộc địa;

đấu tranh quyết liệt về lý luận và tổ chức với chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh và

bệnh “ấu trĩ tả khuynh”. Đồng thời, QTCS đề ra hàng loạt biện pháp nhằm

thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới

phát triển. Nhờ có sự giúp đỡ của QTCS mà hàng loạt các ĐCS ở các nước đã ra

đời như: ĐCS Pháp (1920), ĐCS Trung Quốc (1921), ĐCS Mỹ (1921)...

Đối với vấn đề dân tộc và thuộc địa, QTCS rất chú trọng và đã xây dựng

những báo cáo mang tính nền tảng cho đường lối giải phóng dân tộc tại các nước

thuộc địa và phụ thuộc. Năm 1935, QTCS đã thành lập một mặt trận quốc tế

rộng rãi chống sự bành trướng, xâm lược của chủ nghĩa phát xít.

Đến năm 1929, kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng,

ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình kinh tế, xã hội của các nước tư bản chủ nghĩa.

Cuộc khủng hoảng diễn ra trên mọi mặt của đời sống xã hội, ở mọi ngành nghề:

công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, tài chính, gây ra hậu quả nặng nề

không chỉ đối với kinh tế mà cả chính trị và xã hội ở các nước tư bản chủ nghĩa.

Mức sản xuất của toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa giảm 42%, trong đó tư liệu

sản xuất giảm 53%. Tại Mỹ, nơi phồn vinh nhất của thế giới tư bản, sự nghèo đói

và nạn thất nghiệp cũng tràn lan khắp nơi. Hàng chục triệu công nhân bị

thất nghiệp, hàng triệu nông dân bị phá sản, đời sống người lao động trở nên

cùng cực hơn bao giờ hết. Đồng thời, các phong trào đấu tranh của quần chúng

nhân dân cũng phát triển ngày càng mạnh mẽ. “Theo thống kê không đầy đủ,

27

trong thời gian từ năm 1928 đến cuối năm 1933, số người tham gia bãi công ở

các nước tư bản chủ nghĩa đã lên tới 17 triệu, còn số ngày bãi công là 267 triệu.”

[141, tr. 99]

Trước sự tàn phá khốc liệt của khủng hoảng, đe dọa nghiêm trọng đến nền

thống trị của các nước tư bản chủ nghĩa, nhu cầu tìm kiếm lối thoát cho khủng hoảng

trở nên vô cùng cấp thiết. Các nước thuộc địa chính là một trong những lối thoát

đó. Đây là nơi phải chịu gánh nặng lớn nhất khi cuộc khủng hoảng diễn ra ở

các nước tư bản. Những khó khăn về kinh tế, về nhu yếu phẩm, các nguồn thu để

khắc phục phần nào khủng hoảng đều đổ lên đầu người dân ở các nước thuộc địa.

Điều này khiến đời sống kinh tế ở các nước thuộc địa vốn đã vô cùng khổ sở

càng trở nên bần cùng hơn. Người dân các nước thuộc địa ngày càng điêu đứng

trước những chính sách thuế má hà khắc. Vì vậy, nhân dân nhiều nước thuộc địa

đã đứng lên đấu tranh chống lại sự áp bức, bóc lột tàn bạo của các nước tư bản.

Chính quyền một số nước tư bản tìm mọi cách tăng cường quản lý

kiểu cảnh sát, thiết lập chế độ độc tài, ủng hộ hoạt động của các tổ chức phát xít

và quân phiệt; đồng thời, chuẩn bị tiến hành chiến tranh xâm lược để chia lại

thị trường và khu vực ảnh hưởng. Điển hình cho xu hướng này là Đức, Ý và

Nhật Bản. Phía các nước Mỹ, Anh, Pháp... mong muốn thoát khỏi khủng hoảng

bằng cải cách kinh tế - xã hội ôn hòa, chủ trương tiếp tục duy trì nền dân chủ

đại nghị, tăng cường vai trò của nhà nước.Từ thực tế này, giữa các cường quốc

tư bản chủ nghĩa vào đầu những năm 30 hình thành hai khối đối lập, một bên là

Đức, Ý, Nhật Bản; một bên là Anh, Pháp, Mỹ…

Tại Pháp, cuộc khủng hoảng diễn ra muộn hơn nhưng kéo dài đến tận năm

1936, có ảnh hưởng rộng và sâu sắc. Sản lượng công nghiệp của Pháp giảm 1/3,

nông nghiệp giảm 2/5, ngoại thương giảm 3/5, thu nhập quốc dân giảm 1/3 [141,

tr. 117]. Với mong muốn thoát khỏi tình trạng bi thảm của khủng hoảng,

chính quyền Pháp chuyển gánh nặng lên nhân dân lao động ở chính quốc và

các nước thuộc địa (trong đó có Đông Dương). Về chính trị, các đảng cánh hữu

liên tiếp cầm quyền, dung túng các phần tử phát xít tự do hoành hành. ĐCS Pháp

28

đã kêu gọi nhân dân đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh và được

sự hưởng ứng của đông đảo quần chúng. Tháng 6-1932, E-ri-ốt (Édouard

Herriot) lên làm Thủ tướng Pháp. Là một người cánh tả có quan điểm ôn hòa,

với chủ trương chống giáo hội và chống quân phiệt, trong suốt nhiệm kỳ của

mình, E-ri-ốt tìm kiếm một chính sách hòa giải giữa Pháp với các nước Anh,

Mỹ, Liên Xô và Đức. Chính phủ này ký hiệp ước không xâm phạm với Liên Xô

tháng 11-1932. Tuy nhiên, Chính phủ của E-ri-ốt chỉ tồn tại một thời gian ngắn

(kết thúc vào 18-12-1932).Nước Pháp lại bước vào thời kỳ mất ổn định trong

năm 1933-1934. Các chính phủ nối tiếp nhau bị đổ. Tình hình nước Pháp như

vậy ảnh hưởng mạnh mẽ cả về chính trị, kinh tế, tài chính và những bất ổn

cơ bản trong xã hội đến các nước thuộc địa, đặc biệt là Đông Dương.

2.1.1.2. Tình hình trong nước

Là một phần chủ yếu của Đông Dương thuộc Pháp, Việt Nam chịu

ảnh hưởng nặng nề. Nhân dân Việt Nam tư trươc đa phải chịu cảnh “một cổ

hai tròng”: vừa chịu sự cai trị của chế độ phong kiến, vừa chịu ách bóc lột của

thực dân với những chính sách khai thác, bóc lột, thuế má nặng nề. Khi Pháp

rơi vào khủng hoảng, nền kinh tế Việt Nam vốn phụ thuộc vào kinh tế

nước Pháp, giờ lại gánh thêm hậu quả của khủng hoảng ở “chính quốc”, càng

suy sụp hơn bao giờ hết. Chính quyền thực dân ở Đông Dương thi hành một loạt

biện pháp kinh tế-tài chính. Chúng rút vốn đầu tư về các ngân hàng Pháp,

tăng các thứ thuế đã có và đặt thêm nhiều loại thuế mới... Ví dụ như: thuế thân ở

Bắc Kỳ và Trung Kỳ tăng 20%, thuế môn bài tăng từ 3 đến 8 lần. Các biện pháp

thu tài chính khác ở Đông Dương như mở công trái, lạc quyên, vay dài hạn…

cũng được áp dụng, với mục đích đem về cho ngân sách liên bang một nguồn thu

lớn. Thực dân Pháp còn thi hành chính sách hai mặt, vừa đẩy mạnh các

biện pháp văn hóa giáo dục, tuyên truyền lôi kéo người bản xứ, tranh thủ

các tầng lớp thượng lưu; vừa thi hành chính sách khủng bố trắng một cách

tàn bạo ở cả thành thị và thôn quê, đàn áp các lực lượng yêu nước…

29

Các biện pháp này làm cho khủng hoảng kinh tế ở Đông Dương nặng hơn

nhiều nước trong khu vực, như Inđônêxia, Philíppin, Triều Tiên,…, rơi vào

nhóm các thuộc địa bị khủng hoảng nặng nhất của Pháp, chỉ sau Tây Phi.

Đời sống của đại bộ phận nhân dân Đông Dương ngày càng điêu đứng.

Người dân Việt Nam chịu sư áp bức bóc lột, không ngừng nuôi ngọn lửa

căm hờn, mong muốn đấu tranh giành lại công bằng trong xã hội. Từ đó,

các phong trào đấu tranh diễn ra ngày một mãnh liệt, mong muốn giải phóng

khỏi ách thống trị của ngoại bang bằng chính sức mạnh của mình.

Giai đoạn này, tư tưởng vô sản theo chủ nghĩa Mác-Lê nin dần trở thành

tư tưởng chủ đạo, vượt xa các tư tưởng khác mang tính cải lương dựa vào

nước ngoài để tìm kiếm độc lập, hoặc mang tính tiêu cực chống phá cách mạng.

Với sự thành lập ĐCSVN tháng 2-1930, lần đầu tiên, Việt Nam có một tổ chức

Đảng vững vàng về chính trị, đúng đắn về đường lối để dẫn dắt toàn dân tộc trên

con đường tìm kiếm độc lập tự do.

2.1.2. Sự ra đời của Đảng năm 1930 và bước đầu xác định

đường lối đối ngoại của Đảng

Đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam lâm vào khủng hoảng, bế tắc

về đường lối. Năm 1920, với việc được tiếp cận bản Sơ thảo lần thứ nhất

những Luận cương về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin,

Nguyễn Ái Quốc đã tìm được đường đi cho cách mạng Việt Nam, đó là

con đường cách mạng vô sản. “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường

giải phóng chúng ta” [115, tr.584]. Luận cương của Lênin đã chỉ ra con đường

giành độc lập, tự do cho người dân các nước thuộc địa. Từ đó Nguyễn Ái Quốc

tán thành Quốc tế III, trở thành một trong những người sáng lập ĐCS Pháp và

là người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Cũng từ đây, tư tưởng làm cách mạng để

thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc bắt đầu hình thành.

Lúc này, Nguyễn Ái Quốc xác định: muốn có cuộc sống ấm no, hạnh phúc

thực sự thì vấn đề quyết định trước hết là phải giành cho được độc lập, tự do.

Muốn có độc lập, tự do thì các dân tộc bị áp bức không thể ngồi yên chờ đợi,

30

càng không thể trông chờ vào sự “ban ơn” của các thế lực đế quốc, thực dân;

“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường

cách mạng vô sản” [112, tr.30]. Do đó, từ năm 1921 đến năm 1930, mọi hoạt động

quốc tế của Nguyễn Ái Quốc đều hướng tới mục tiêu này. Người hoạt động ở Pháp,

dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II ĐCS Pháp, hoạt động trong Hội Liên hiệp

thuộc địa, lên án chủ nghĩa thực dân, xuất bản báo Người cùng khổ… Giữa năm

1923, Người sang Liên Xô hoạt động, học tập và nghiên cứu về chủ nghĩa

Mác-Lênin, tham dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân bàn về liên minh

công - nông trên phạm vi toàn thế giới. Người theo học lớp ngắn hạn ở Trường

Đại học phương Đông. Sau khi học xong, Nguyễn Ái Quốc được nhận vào làm cán

bộ của Ban phương Đông QTCS theo Quyết định do R.P. Pêtơrốp ký ngày 14-4-

1924, việc này ảnh hưởng lớn tới các hoạt động của Đảng sau này. [Phụ lục 1].

Năm 1924, Người dự Đại hội V QTCS.Trong đó, Người đặc biệt

quan tâm đến vấn đề thuộc địa và thường xuyên nhấn mạnh với QTCS rằng

“Họ còn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo. QTCS cần phải giúp đỡ họ tổ chức

lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con đường đi tới

cách mạng và giải phóng” [101, tr.311]. Các bài báo, bài viết của Người trong

giai đoạn này đều tập trung vào vấn đề dân tộc và thuộc địa, mối quan hệ giữa

cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng thuộc địa. Người tận dụng mọi

cơ hội để những người cộng sản ở phương Tây có thể hiểu rõ hơn về thuộc địa.

Sau đó, Người dự Đại hội lần thứ III Quốc tế Công hội đỏ (cơ quan đấu tranh để

thiết lập sự thống nhất trong phong trào công đoàn trên cơ sở đấu tranh cách mạng

nhằm bảo vệ những yêu sách của giai cấp công nhân, chống nguy cơ chiến tranh

đế quốc và đoàn kết với giai cấp công nhân Nga Xô viết) tại Mátxcơva.

Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô sang Trung Quốc, xúc tiến

chuẩn bị thành lập chính đảng vô sản kiểu mới cho giai cấp công nhân và dân tộc

Việt Nam. Người đã xác định rõ việc này khi đặt câu hỏi: “Cách mệnh trước hết

phải có cái gì?”, “Trước hết phải có Đảng cách mệnh”[102, tr.289]. Và do vậy,

Người xúc tiến mọi sự chuẩn bị để thành lập ĐCSVN. Người dựa vào cơ sở là

31

những thanh niên yêu nước Việt Nam đang hoạt động tại Quảng Châu để

triển khai công việc, tiến tới thành lập một tổ chức có tính chất quần chúng

rộng hơn để tập hợp những thanh niên yêu nước ở trong và ngoài nước, đó là

Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (năm 1925). Người tổ chức huấn luyện

chính trị để xây dựng đội ngũ nòng cốt, gửi các thanh niên yêu nước đi học ở

Trường Đại học phương Đông, Trường Quân sự Hoàng Phố… Đồng thời,

tăng cường giác ngộ, giáo dục, tuyên truyền cách mạng bằng việc ra báo

Thanh niên (6-1925), truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam.

Nhờ sự giúp đỡ tích cực của ĐCS Pháp và các đảng anh em khác, dưới sự

lãnh đạo của QTCS, nhiều sách báo về Chủ nghĩa Mác-Lênin và các tài liệu

tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được in và truyền bá về Việt Nam, được

giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như “người đi đường đang

khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn” [111, tr.173]. Từ đó, người

Việt Nam biết đến chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm về vấn đề dân tộc và

thuộc địa của QTCS, tiếp nhận được sự chỉ đạo của QTCS đối với cách mạng

thuộc địa, bắt đầu có suy nghĩ mới, đi theo con đường mới tiến tới giải phóng

dân tộc. Một cao trào đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả nước diễn ra, giai cấp

công nhân dần trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Sự phát triển mạnh mẽ

của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân đặt ra

yêu cầu phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo.

Năm 1927, cánh hữu trong Quốc dân Đảng Trung Hoa, đứng đầu là

Tưởng Giới Thạch, tiến hành cuộc đảo chính phản cách mạng. Do tình hình

không thuận lợi cho việc ở lại Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc quay lại Mátxcơva,

tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu phong trào cách mạng ở thuộc địa. Năm 1928,

Người đến Xiêm, hoạt động theo phân công của QTCS, đồng thời nghiên cứu

con đường trở về Tổ quốc. Trong thời gian ở Xiêm, Người tích cực giúp đỡ,

gây dựng phong trào cách mạng cho quần chúng yêu nước. Nhờ đó, những người

tiên phong đã nhận thức được tình hình và đứng ra thành lập các tổ chức

cộng sản đầu tiên ở Xiêm vào nửa cuối năm 1929, đầu năm 1930.

32

Từ cuối năm 1929, đầu năm 1930, ở Việt Nam lần lượt thành lập ba tổ chức

Đảng: Đông Dương Cộng sản Đảng (thành lập ngày 17-6-1929), An Nam Cộng sản

Đảng (thành lập tháng 8-1929), Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (thành lập ngày

1-1-1930). Ba tổ chức song song tồn tại gây ra tình trạng chia rẽ, bè phái, cục bộ,

khiến quần chúng yêu nước không hiểu đâu là tổ chức đảng chân chính.

Trước tình hình đó, ngày 27-10-1929, QTCS gửi những người cộng sản ở

Đông Dương tài liệu Về việc thành lập một ĐCS ở Đông Dương, chỉ rõ:

“Không có một ĐCS duy nhất trong lúc phong trào quần chúng công nhân và

nông dân ngày càng phát triển, đó là điều cực kỳ nguy hiểm cho tương lai

trước mắt của cuộc cách mạng ở Đông Dương” [36, tr. 614]. QTCS đã ra chỉ thị,

nêu rõ: “Nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp bách nhất của tất cả những người

cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng cách mạng có tính chất giai cấp của

giai cấp vô sản, nghĩa là một ĐCS có tính chất quần chúng ở Đông Dương.

Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương” [36,

tr.614]. Việc hợp nhất phải “dưới sự lãnh đạo của một đại diện Ban Chấp hành

QTCS, cần thành lập ngay một Ban hợp nhất”.

Ngay từ năm 1924, khi về công tác ở Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã

được giao nhiệm vụ là “phái viên của QTCS có đầy đủ quyền quyết định

mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương” [103, tr.13].

Đây là quyết định quan trọng do chính đồng chí Pêtơrốp - Tổng thư ký

Ban Phương Đông ký ngày 14-4-1924. Trong bức thư ngày 13-8-1925, Chủ tịch

đoàn Quốc tế Nông dân gửi Nguyễn Ái Quốc, Người được phân công phụ trách

phong trào cách mạng Trung Quốc, Đài Loan, Miến Điện, Xiêm, Philippin,

Đông Dương [8, tr.62]. Đây là cơ sở đầu tiên và quan trọng để củng cố và

phát triển mối quan hệ tích cực giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới

sau này. Với đầy đủ uy tín và thẩm quyền, Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội nghị

hợp nhất các tổ chức cộng sản của Việt Nam. Mục tiêu chính của việc hợp nhất

các tổ chức Đảng ở ba kỳ thành ĐCSVN là làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập,

thực hiện giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người và tạo ra

33

những điều kiện phát triển mới vì lợi ích của dân tộc và con người Việt Nam.

Về vấn đề đối ngoại với các ĐCS anh em, QTCS đã chỉ đạo:

Ban Chấp hành Trung ương lâm thời phải liên lạc với các đảng viên

ĐCS Trung Quốc di cư sang ở Đông Dương và lôi cuốn họ vào

công tác đảng và công tác cách mạng quần chúng ở Đông Dương.

ĐCSĐD phải liên lạc thường xuyên với ĐCS Pháp, phải báo cho

Ban Chấp hành Trung ương ĐCS Pháp biết tình hình công tác của

mình. Về phần mình, ĐCS Pháp phải hết sức giúp đỡ

ĐCSĐD. ĐCSĐD cũng phải đặt quan hệ với các ĐCS anh em khác,

trước hết là với ĐCS Trung Quốc và ĐCS Ấn Độ. [36, tr.614]

Hội nghị hợp nhất thành lập ĐCS đã họp từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7

tháng 2 năm 19301 ở bán đảo Cửu Long (Hồng Kông), do Nguyễn Ái Quốc

chủ trì. Thành phần tham dự Hội nghị gồm: 2 đại biểu Đông Dương Cộng sản

Đảng: Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh, 2 đại biểu An Nam Cộng sản

Đảng: Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm. Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đã

thành lập, song chưa có liên hệ, nên chưa cử được đại biểu tới dự. (Ngày 24-2-

1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn chính thức gia nhập ĐCSVN).

Tại Hội nghị, các đại biểu nhất trí tán thành hợp nhất, thành lập một

chính đảng duy nhất, lấy tên là ĐCSVN, thông qua các văn kiện quan trọng như:

Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt

của Đảng và Điều lệ vắn tắt của các tổ chức... Hội nghị cũng ủy quyền cho các

đại biểu thay mặt QTCS trở về nước tiến hành hợp nhất các tổ chức cộng sản, cử

ra Ban Trung ương lâm thời gồm 7 ủy viên.

Bản Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị

là những văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của Đảng, tuy còn “vắn tắt”

nhưng đã nêu lên những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Chánh cương

vắn tắt chỉ ra xã hội Việt Nam là một xã hội thuộc địa, nhưng chế độ phong kiến

1 Đại hội Đảng lần thứ III năm 1960 đã quyết định lấy ngày 3 tháng 2 năm 1930 là ngày thành lập Đảng.

34

đang còn và căn bản vẫn là nền kinh tế nông nghiệp. Con đường cách mạng

Việt Nam là phải “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới

xã hội cộng sản” [38, tr.1]. Mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng là: “Đánh đổ đế quốc

chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.

Dựng ra chính phủ công nông binh. Tổ chức ra quân đội công nông” [38, tr.2].

Lực lượng cách mạng nêu trong Sách lược vắn tắt là lấy liên minh

công nhân và nông dân làm nòng cốt, đồng thời lôi kéo tiểu tư sản, trí thức,

trung nông, tranh thủ phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản dân tộc để họ đứng

về phía cách mạng. Phương pháp cách mạng là sử dụng sức mạnh quần chúng

lật đổ ách thống trị của đế quốc và tay sai.

Về mặt đối ngoại, Sách lược vắn tắt xác định cách mạng Việt Nam là

một bộ phận của cách mạng thế giới nên cần phải liên kết với cách mạng của các

dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản trên thế giới. “Trong khi tuyên truyền

cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành

liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp

Pháp” [38, tr.3]. Các văn kiện này đã bao quát được những vấn đề chủ yếu về

chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam. Chính nhờ tầm nhận thức

rộng lớn, nhìn thấy sức mạnh quốc tế là ở phong trào đấu tranh chung của các

dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân thế giới, mà Đảng, ngay từ khi

mới thành lập, đã chủ trương nối liền mối liên kết giữa nhân dân Đông Dương

thuộc địa với người lao động và giới tiến bộ của nước Pháp. Đường lối ấy là nét

đặc biệt của cách mạng Việt Nam: không chỉ đoàn kết với nhân dân

Đông Dương chống kẻ thù chung mà còn đoàn kết với nhân dân Pháp trong cuộc

đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược. Sự đồng tình và và ủng hộ của

nhân dân Pháp và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới xuất phát từ tính chất chính

nghĩa của cách mạng Việt Nam, từ đường lối liên minh quốc tế đúng đắn của

Đảng và Hồ Chí Minh. Đây chính là nhân tố dẫn đến thắng lợi của cách mạng

Việt Nam.

35

Hội nghị cũng nhất trí sẽ ra Tạp chí Đỏ và Báo Tranh đấu làm cơ quan

ngôn luận của Đảng, thông qua Lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc gửi công nhân,

nông dân, binh lính, thanh niên học sinh và toàn thể quần chúng bị áp bức

bóc lột trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng. Sau đó, ngày 18-2-1930,

Nguyễn Ái Quốc viết báo cáo gửi QTCS về những công việc đã làm như:

“Công tác ở Lào, Đi về An Nam, Tới Trung Quốc, Công tác của Trung ương

mới…”, đồng thời, nêu lên những kiến nghị tới QTCS.

Ngày 27-2-1930, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi các tổ chức quốc tế để

giới thiệu về ĐCSVN mới được thành lập và đề nghị thiết lập mối quan hệ, sự

giúp đỡ lẫn nhau trong đấu tranh cách mạng. Các thư gửi đại diện Tổng Công hội

thống nhất Pháp ở Quốc tế Công hội, gửi Văn phòng đại diện các ĐCS Đức, Pháp,

Mỹ, Anh ở QTCS đều đề nghị sự giúp đỡ, hợp tác. Lúc này, Nguyễn Ái Quốc với

tư cách là cán bộ của QTCS, Quốc tế Nông dân cùng với nhiều bạn bè của Người

trong QTCS đã có nhiều hoạt động giúp đỡ cho cách mạng Việt Nam…

Cùng thời điểm này, mối liên hệ giữa ĐCSVN với Đảng bộ các nước trong

khu vực bắt đầu có sự phát triển. “Đảng bộ Xingapo đã viết thư nói rằng ĐCSVN

sẽ ở dưới sự chỉ dẫn của Xingapo” [103, tr. 16]. Tuy nhiên, báo cáo của Đảng

ngày 18-2-1930 đề nghị QTCS rằng ĐCSVN sẽ nhận sự chỉ dẫn từ Thượng Hải

qua Hồng Kông (để cho thuận tiện xét cả về hoàn cảnh địa lý cũng như hoàn cảnh

chính trị) nhưng vẫn nhấn mạnh sẽ giữ mối quan hệ chặt chẽ với Xingapo và

mong được gửi một đồng chí An Nam sang làm việc với Xingapo. [103, tr.17]

Cuối tháng 3-1930, Nguyên Ai Quôc rời Hồng Kông đến Đông Bắc

Xiêm, làm nhiệm vụ do QTCS giao phó. Tháng 4-1930, Nguyễn Ái Quốc đi

Malaixia, rồi qua Inđônêxia, Xingapo, với tư cách là đại diện người Việt Nam

đến dự Hội nghị dưới sự bảo trợ của đồng chí Bí thư Liên hiệp các nhóm

cộng sản ở Inđônêxia.

Đánh giá về sự kiện thành lập ĐCSVN, Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này đã

viết: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt lịch sử vô cùng quan trọng trong

36

lịch sử cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã

trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng” [112, tr. 406].

Như vậy, qua một quá trình đầy khó khăn, thử thách, cùng với việc thành lập

ĐCS, Nguyễn Ái Quốc đã từ một thanh niên yêu nước tiến bộ trở thành một

chiến sỹ cách mạng đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc, thành người cộng sản

kiên trung theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời, tư tưởng cách mạng của cả

dân tộc Việt Nam được hình thành từ “nguồn trong, gốc thẳng”, được tôi luyện qua

thực tiễn đấu tranh và đưa đến thành công lớn là thành lập, rèn luyện được một

tổ chức Đảng cách mạng tiên tiến, vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Từ những hoạt động đầu tiên, Nguyễn Ái Quốc góp phần quan trọng giúp QTCS và

các ĐCS anh em biết đến tình hình Đông Dương và phong trào cách mạng ở

Đông Dương, từ đó, dần có những hành động ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân

Đông Dương, giúp đỡ nhân dân Đông Dương vượt qua khó khăn trước

sự khủng bố, đàn áp dã man của thực dân Pháp. Qua đó, Nguyễn Ái Quốc cũng

giúp cho ĐCS các nước quan tâm hơn đến vấn đề thuộc địa.

Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (ngày 14 đến

ngày 31-10-1930)

Tình hình cách mạng có những bước phát triển mới, vai trò lãnh đạo của

Đảng dần được coi trọng. Tháng 4-1930, đồng chí Trần Phú về nước hoạt động

sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Phương Đông của QTCS ở Mátxcơva.

Tháng 7-1930, đồng chí được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời

của Đảng và cùng Ban Thường vụ chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ nhất của

Ban Chấp hành Trung ương.

Để chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ nhất, ngày 2-9-1930, Nguyễn Ái Quốc

gửi thư tới Ban Phương Đông-QTCS, báo cáo chương trình nghị sự dự kiến của

Hội nghị sẽ gồm 4 việc:

a. Tự phê bình trong quá khứ

b. Kế hoạch công tác tiến tới Đại hội Đảng

c. Kế hoạch cho Đại hội Đảng

37

d. Kế hoạch gửi học viên đi đào tạo tại Mátxcơva

Đến ngày 29-9-1930, Nguyễn Ái Quốc gửi báo cáo tới Ban Chấp hành QTCS,

cho biết: “Ba Ủy viên Trung ương từ Nam Kỳ đã tới đây ngày 19-9, chờ các đồng chí

ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ tới…” [103, tr. 58] để chuẩn bị cho Hội nghị.

Ngày 14 đến 31-10-1930, ĐCSVN tiến hành tổ chức Hội nghị lần thứ nhất

Ban Chấp hành Trung ương tại Hồng Kông. Hội nghị thông qua Nghị quyết về

tình hình và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, dự thảo Luận cương Chính trị, Điều lệ

các tổ chức quần chúng. Theo chỉ thị của QTCS, Hội nghị đổi tên ĐCSVN

thành ĐCSĐD, bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức của Đảng. Đồng chí

Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư.

Trong Hội nghị, Dự thảo Luận cương Chính trị được thông qua đã

phân tích sâu sắc tình hình thế giới và trong nước. Lúc này, trên thế giới, thời kỳ

tạm ổn định của chủ nghĩa tư bản đã chấm dứt, chủ nghĩa tư bản đang lâm vào

khủng hoảng; phong trào cách mạng vô sản và cách mạng thuộc địa lên đến

trình độ cao. Phong trào cách mạng thế giới ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào

cách mạng Đông Dương. Vì vậy, “cách mạng Đông Dương và cách mạng

thế giới phải có liên lạc chặt chẽ với nhau, giai cấp vô sản Đông Dương phải có

quan hệ mật thiết với giai cấp vô sản trên thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp

và phải mật thiết liên lạc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và

nửa thuộc địa nhằm mở rộng và tăng cường lực lượng cho cuộc đấu tranh

cách mạng ở Đông Dương.” [37, tr.89,90]

Luận cương chỉ rõ tính chất xã hội của ba nước Đông Dương (Việt Nam,

Lào, Campuchia) là “xã hội thuộc địa nửa phong kiến” với nền kinh tế

nông nghiệp là chủ yếu. Mâu thuẫn giai cấp chủ yếu là giữa “một bên thì

thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến,

tư bổn và đế quốc chủ nghĩa” [37, tr. 89,90]. Hội nghị xác định nhiệm vụ:

Ở giai đoạn đầu, cách mạng “có tánh chất thổ địa và phản đế”, cụ thể là đánh đổ

đế quốc giành độc lập dân tộc và đánh đổ địa chủ đem lại ruộng đất cho dân cày.

Hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến có mối quan hệ khăng khít với nhau,

38

“có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm

cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới

đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa.” [37, tr. 89,90] Giai cấp vô sản được xác định

vừa là động lực chính, vừa là giai cấp lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh.

Dân cày là động lực mạnh. Luận cương Chính trị khẳng định: “Điều kiện cốt yếu

cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một ĐCS có

một đường lối chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với

quần chúng, và từng trải đấu tranh mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của

vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc”. [37, tr. 89,90]

Tuy nhiên, Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 có hạn chế là chưa chỉ ra

được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp,

nên không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu, đánh giá chưa khách quan

vai trò và thái độ cách mạng của tiểu tư sản và mặt yêu nước của tư sản dân tộc

cũng như một bộ phận địa chủ nhỏ. Điều này xuất phát từ nguyên nhân chưa

nắm vững đặc điểm xã hội Việt Nam, vận dụng máy móc đường lối của QTCS

vào hoàn cảnh đất nước. Những hạn chế này được Đảng từng bước khắc phục,

bổ khuyết trong tiến trình cách mạng.

Ngày 28-10-1930, Nguyễn Ái Quốc gửi báo cáo nhanh tới QTCS

thông báo quá trình họp Hội nghị, tóm tắt những Nghị quyết Hội nghị đã

thảo luận và thông qua, như Cương lĩnh, Điều lệ Đảng; nhiệm vụ trước mắt của

Đảng; bầu Tổng Bí thư… kèm báo cáo tài chính chi tiêu cho Hội nghị.

Những bức thư, báo cáo này cho thấy Đảng và đồng chí Nguyễn Ái Quốc

đặc biệt chú ý và nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị từ Bộ chỉ huy tối cao là QTCS.

So với Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt, Luận cương Chính trị

có chỗ khác biệt, nhất là trong sách lược tập hợp lực lượng cách mạng trong

nước. Song cả văn kiện tháng 2-1930 và tháng 10-1930 đều nhất quán trong việc

xác định những nhân tố chủ yếu hình thành đường lối quốc tế của cách mạng

Việt Nam, đặt nó trong chuyển biến lực lượng thế giới, tìm thấy sức mạnh

bên ngoài cần thiết cho công cuộc giải phóng của các dân tộc Đông Dương.

39

Trong đó, cách mạng Việt Nam và Đông Dương được xác định là một bộ phận

của cách mạng thế giới, nên mọi “hành động phản đế ở Đông Dương phải có

tính chất quốc tế”. Bởi vậy, một trong những nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng

tư sản dân quyền được xác định trong Luận cương là “ủng hộ Liên bang Xôviết;

liên kết với vô sản giai cấp toàn thế giới và phong trào cách mạng thuộc địa và

bán thuộc địa”. “Vô sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết với vô sản thế giới,

nhứt là vô sản Pháp để làm mặt trận vô sản “mẫu quốc” và thuộc địa cho

sức tranh đấu cách mạng được mạnh lên. Trong cuộc tranh đấu chống đế quốc,

quần chúng cách mạng ở Đông Dương lại phải liên lạc với quần chúng

cách mạng ở các thuộc địa và bán thuộc địa, nhứt là ở Tàu và Ấn Độ, ... Trong

công tác, Đảng phải liên lạc mật thiết với ĐCS Pháp, Tàu và Ấn Độ.” [37, tr.90]

Như vậy, trong đường lối quốc tế, Đảng luôn coi trọng mở rộng quan hệ

giữa cách mạng Việt Nam, cách mạng Đông Dương với các lực lượng

cách mạng bên ngoài. Bên cạnh nhiệm vụ được đề ra năm 1930 là “ủng hộ

Liên bang Xô viết”, năm 1931, phong trào cách mạng Đông Dương dưới sự lãnh

đạo của Đảng đã kết hợp với cuộc đấu tranh vì tự do độc lập ở các nước châu Á,

đóng góp tích cực vào việc hình thành mặt trận “Đại đồng minh phản đế quốc

chủ nghĩa và mưu dân tộc độc lập” châu Á. Các hội phản đế Đông Dương

hình thành và trở thành bộ phận của mặt trận, góp phần tạo thêm sức mạnh cho

trào lưu cách mạng châu Á, chống mưu đồ cấu kết của thực dân Pháp, Anh,

Hà Lan gia tăng bóc lột và thực hành chính sách khủng bố ở các thuộc địa châu

Á, đồng thời đối phó với sự bành trướng của quân phiệt Nhật.

2.1.3. Hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1930 đến năm 1935

Từ sau khi thành lập và nhất là sau Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành

Trung ương Đảng (10-1930), ĐCSĐD nhanh chóng nắm bắt tình hình thực tiễn

và lãnh đạo phong trào cách mạng trên phạm vi cả nước.

Từ tháng 1 đến tháng 4-1930 là bước khởi đầu của phong trào. Nhiều cuộc

bãi công của công nhân nổ ra liên tiếp ở Nhà máy Xi măng Hải Phòng, hãng dầu

Nhà Bè (Sài Gòn), Nhà máy Dệt Nam Định, Nhà máy Diêm và Nhà máy Cưa

40

Bến Thủy... Đến tháng 5-1930, phong trào phát triển thành cao trào. Ngày 1-5-

1930, lần đầu tiên nhân dân ta kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động trên diện rộng từ

thành phố đến nông thôn với truyền đơn, cờ đỏ búa liềm, mít tinh, bãi công,

biểu tình, tuần hành... Trong tháng 5-1930, trên cả nước có 16 cuộc đấu tranh của

công nhân, 34 cuộc đấu tranh của nông dân, 4 cuộc đấu tranh của học sinh và

dân nghèo thành thị. Từ tháng 6 đến tháng 8-1930, đã nổ ra 121 cuộc đấu tranh,

trong đó 22 cuộc của công nhân, 95 cuộc của nông dân. Nổi bật nhất là cuộc

tổng bãi công của toàn thể công nhân khu công nghiệp Bến Thủy - Vinh (8-1930),

đánh dấu “một thời kỳ mới, thời kỳ đấu tranh kịch liệt”. Tháng 9-1930, khi

Xô viết nông dân thành lập ở một số xã ở Nghệ An và cuộc đấu tranh của

quần chúng đang bị kẻ địch khủng bố tàn bạo, Ban Thường vụ Trung ương Đảng

gửi thông tri cho Xứ ủy Trung Kỳ vạch rõ chủ trương bạo động riêng lẻ trong vài

địa phương lúc này là quá sớm vì chưa đủ điều kiện. Trách nhiệm của Đảng là

phải tổ chức quần chúng chống khủng bố, giữ vững lực lượng cách mạng, “duy trì

kiên cố ảnh hưởng của Đảng, của Xô viết trong quần chúng để đến khi thất bại thì

ý nghĩa Xô viết ăn sâu vào trong óc quần chúng và lực lượng của Đảng và Nông

hội vẫn duy trì”. Tuy mới thành lập ở một số xã, thời gian tồn tại ngắn, song chính

quyền Xô viết đã tỏ rõ bản chất cách mạng và tính ưu việt. Đảng ra lời kêu gọi,

tuyên bố về việc bảo vệ Nghệ An đỏ chống khủng bố trắng của thực dân Pháp, dự

bị Đảng và quần chúng, chuẩn bị sẵn sàng để đấu tranh cả về chính trị lâu dài chứ

“không chủ trương bạo động địa phương, bạo động non, sớm” [37, tr.56].

Tuy nhiên, phong trào cách mạng bị thực dân Pháp và tay sai đàn áp,

khủng bố hòng dập tắt phong trào và tiêu diệt Đảng. Các đảng viên bị bắt, giam

tại các nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội), Khám Lớn (Sài Gòn), Côn Đảo… Từ tháng 5

đến tháng 12-1930, có 649 nông dân bị giết, 83 nhà cách mạng bị tử hình, 237

người bị kết án lao động khổ sai chung thân, 306 người bị kết án đi đày suốt đời,

696 người bị kết án tổng cộng 3.390 năm tù với 790 năm quản thúc.

Riêng nhà tù ở Vinh có 1.359 tù chính trị bị giam cầm, tra tấn.

41

Sự bắt bớ, truy lùng gắt gao của thực dân Pháp ảnh hưởng nặng đến

đội ngũ cán bộ các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Trung ương và địa phương.

Nhiều Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Xứ ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ,

Trung Kỳ, Nam Kỳ bị bắt. Dù vậy, các đảng viên vẫn kiên cường đấu tranh,

kiên trì bảo vệ lập trường, quan điểm cách mạng của Đảng, tổ chức vượt ngục,

những đảng viên không bị bắt thì tìm cách gây dựng lại tổ chức Đảng. Một số

đảng viên đang hoạt động ở Trung Quốc, Xiêm trở về nước hoạt động.

Ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị về vấn đề

thành lập Hội phản đế đồng minh, nhấn mạnh việc đoàn kết toàn dân thành

một lực lượng rộng rãi, lấy công-nông làm hai động lực chính: “... giai cấp

vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không

tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật đông, thật kín thì cuộc

cách mạng cũng khó thành công” [37, tr. 227]. Tuy nhiên, Hội phản đế

đồng minh Đông Dương chưa được thành lập trong thực tế.

Cả năm 1931, thực dân Pháp và tay sai đẩy mạnh khủng bố trắng, sử dụng

những thủ đoạn lừa bịp về chính trị đối với nhân dân Việt Nam.

Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc đã đề nghị với QTCS, Quốc tế

Nông dân... giúp đỡ phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Trong bài viết

về phong trào cách mạng Đông Dương ngày 21-1-1931, Người cho rằng:

“Nhiệm vụ cấp thiết của giai cấp vô sản thế giới - đặc biệt là giai cấp vô sản

Pháp - là chìa bàn tay hữu nghị anh em và giúp đỡ tới Đông Dương, để chứng tỏ

tình đoàn kết thực sự và tích cực của họ”.[103, tr.69]

Phong trào đấu tranh của quần chúng trên thực tế gặp nhiều khó khăn,

địch khủng bố dữ dội. Lúc này, Xứ ủy Trung Kỳ đề ra chủ trương thanh trừ

“trí, phú, địa, hào, đào tận gốc trốc tận rễ” ra khỏi Đảng khiến trong quần chúng

và một số đảng viên xuất hiện tư tưởng hoang mang. Chủ trương thanh Đảng

sai lầm và “tả” khuynh này làm cho Đảng và phong trào cách mạng thêm

khó khăn. Tháng 5-1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị

42

nghiêm khắc phê phán chủ trương sai lầm về thanh Đảng của Xứ ủy Trung Kỳ

và vạch ra phương hướng đúng đắn về xây dựng Đảng.

Giữa năm 1931, phong trào Xô viết Nghệ-Tĩnh đi vào thoái trào. Lực lượng

của Đảng bị tổn thất nặng nề. Phần lớn cơ sở Đảng và quần chúng tan vỡ. Nhiều

cán bộ lãnh đạo và đảng viên ưu tú của Đảng từ Trung ương đến cơ sở bị bắt.

Trần Phú bị bắt tại Sài Gòn ngày 18-4-1931. Ở Thượng Hải, Hồng Kông (Trung

Quốc), các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Hồ Tùng Mậu cũng lần lượt bị bắt giam.

Cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô viết Nghệ-Tĩnh, là

thử thách đầu tiên và toàn diện của quần chúng công nông dưới sự lãnh đạo của

ĐCSĐD, chống lại đế quốc và phong kiến. Cao trào đã tỏ rõ tinh thần chiến đấu

hy sinh oanh liệt và năng lực cách mạng sáng tạo của nhân dân lao động.

Tuy thất bại nhưng cao trào có ý nghĩa lớn trong lịch sử Đảng và lịch sử dân tộc.

“Không có những trận chiến đấu giai cấp rung trời chuyển đất những năm 1930-

1931, trong đó công nông đã vung ra nghị lực cách mạng phi thường của mình,

thì không thể có cao trào những năm 1936-1939.” [32, tr. 38-39]

Cùng với phong trào cách mạng Việt Nam, ở Lào, phong trào cách mạng

dưới sự lãnh đạo của ĐCSĐD cũng có những bước phát triển. Trước năm 1930,

ở Lào chưa có tổ chức cách mạng quần chúng nào dù là của công nhân hay

tiểu tư sản. Khi được truyền bá tư tưởng cứu nước, phong trào cách mạng Lào

ra đời và ngày càng lan rộng. Từ đầu những năm 1930, trong học sinh,

công nhân ở Viêng Chăn, ở Xà Vằn, trong công nhân hai mỏ thiếc Boneng và

Phônchiu ở Khăm Muộn,… đã có hoạt động yêu nước bí mật. Báo cáo của

Khâm sứ Pháp ở Ai Lao trong những năm 1933-1934 đã kể công về sự

“hoạt động tích cực” của chúng nhằm phá vỡ những cơ sở cách mạng ở Lào.

Trong năm 1931, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi QTCS, nêu lên tình hình

tổ chức của Đảng: đồng chí Tổng Bí thư bị bắt, sự thiệt hại về nhân sự, tổ chức

Đảng ở địa phương bị giải tán… và đề nghị “QTCS chỉ thị cho tất cả các tổ chức

cách mạng tham gia với khẩu hiệu “Bảo vệ Đông Dương” cùng với những hành

động: “Không can thiệp vào Trung Quốc”, “Không can thiệp vào nước Nga

43

Xôviết”. Đặc biệt là ĐCS Pháp và các tổ chức cách mạng khác sẽ tǎng cường

hơn nữa việc bảo vệ phong trào cách mạng ở Đông Dương”. [103, tr.108-109]

Đến đầu năm 1932, Lê Hồng Phong và một số đồng chí nhận chỉ thị của

QTCS về việc tổ chức Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng. Ngày 27-2-1932,

QTCS gửi thư yêu cầu các ĐCS Pháp, ĐCS Trung Quốc và ĐCS Ấn Độ

phát động quần chúng các nước này đấu tranh ủng hộ và cổ vũ công nông

Đông Dương, lên án cuộc khủng bố tàn bạo của thực dân Pháp.

Tháng 6-1932, Ban lãnh đạo Trung ương công bố Chương trình

hành động của ĐCSĐD [39, tr.309-310], với mong muốn giữ vững sự ổn định và

thống nhất tư tưởng, chính trị và tổ chức trong toàn Đảng, tiếp tục đấu tranh theo

hình thức thích hợp, liên kết những yêu cầu khẩn thiết trước mắt với những

nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng phản đế và cách mạng ruộng đất để

khôi phục lực lượng, tiếp tục đưa cách mạng tiến lên.

Chương trình tiếp tục khẳng định đường lối, nhiệm vụ cơ bản của

cách mạng theo Luận cương Chính trị tháng 10-1930, nêu ra 4 yêu cầu:

Đòi chính quyền thực dân thực hiện các quyền tự do dân chủ; Chống chính sách

đàn áp cách mạng, thả tù chính trị, thủ tiêu hội đồng đề hình; Bỏ thuế thân,

thuế ngụ cư và các thứ thuế khác, miễn thuế cho dân nghèo; Bỏ độc quyền rượu,

thuốc phiện, muối và những yêu sách riêng cho mỗi tầng lớp nhân dân.

Đồng thời, nêu lên sự cấp thiết phải củng cố, phát triển Đảng, các

đoàn thể cách mạng của quần chúng, tổ chức mặt trận thống nhất các lực lượng

phản đế; kết hợp những khả năng hợp pháp, nửa hợp pháp với hoạt động bí mật.

Chương trình hành động giữ vững và giương cao ngọn cờ cách mạng của Đảng,

góp phần khôi phục nhanh chóng phong trào cách mạng và chuẩn bị cho Đại hội

Đảng lần thứ nhất.

Những yêu cầu trước mắt về chính trị cùng với những biện pháp tổ chức

do Đảng vạch ra trong chương trình phù hợp với điều kiện lịch sử lúc bấy giờ.

Quần chúng công nông cũng sáng tạo ra các hình thức tổ chức và đấu tranh thích

hợp. Các tổ chức như hội cấy, hội cày, hội hiếu, hội đá bóng, hội đọc sách báo

44

được lập ra. Phong trào cách mạng của quần chúng dần được nhen nhóm lại.

Các cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân lại bùng nổ.

Để đảm bảo vai trò lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước, ĐCSĐD

tích cực đẩy mạnh phát triển các tổ chức cơ sở đảng, giữ vững tinh thần

cách mạng tiến công, kiên trì lãnh đạo quần chúng đấu tranh.

Bản Chương trình hành động được QTCS thông qua ngày 15-6-1932, sau

đó, QTCS yêu cầu ĐCS Pháp giúp đỡ ĐCSĐD công bố Chương trình hành

động đó.

Ngày 17-7-1932, ĐCS Pháp gửi thư cho ĐCSĐD nói về kế hoạch công bố

bản Chương trình hành động trên báo chí ở Pháp. Theo đó, ĐCS Pháp sẽ viết

một lời giới thiệu cho bản Chương trình hành động và chia nhỏ các phần cụ thể

của bản Chương trình hành động đăng trên từng loại báo của các giai cấp,

tầng lớp khác nhau cho hợp lý. Phần yêu sách tổng quát, yêu sách của nam, nữ

công nhân và cu li, phần III “Yêu sách của nông dân nam và nữ” đưa vào tờ

“V.O” (Tiếng nói công nhân)... Riêng tờ báo chính thức của ĐCS Pháp sẽ trích

đăng phần I, phần quan trọng nhất của bản Chương trình hành động nói về

những nhiệm vụ căn bản của cách mạng Đông Dương.

Trong một bức thư khác của Ban Chấp hành Trung ương ĐCS Pháp gửi

ĐCSĐD, ngày 17-7-1932, ĐCS Pháp nhiệt liệt chào mừng Chương trình

hành động của ĐCSĐD và nêu rõ văn kiện sẽ giữ vai trò quan trọng hàng đầu

trong sự phát triển của cách mạng Đông Dương. Nó chứng tỏ sự trưởng thành

nhanh chóng về chính trị của ĐCSĐD - một Đảng vừa mới ra đời, còn rất

non trẻ. Nó cũng cho thấy, ĐCSĐD đã vượt qua sự khủng bố tàn bạo của

đế quốc Pháp, tồn tại, lớn mạnh. Với Chương trình hành động, ĐCSĐD kêu gọi

tập hợp hàng triệu người bị áp bức ở Đông Dương đi theo đường lối cách mạng

của mình và đưa họ tới bến bờ tự do, độc lập.

Nhân dịp bản Chương trình hành động của ĐCSĐD ra đời, ĐCS Pháp ra

Lời kêu gọi Vì sự nghiệp giải phóng Đông Dương gửi toàn Đảng và nhân dân

lao động Pháp, kêu gọi toàn thể đảng viên và nhân dân tiến bộ Pháp chú ý

45

tăng cường liên minh chiến đấu với nhân dân Đông Dương, chống kẻ thù chung

của giai cấp vô sản và những người tiến bộ Pháp là chủ nghĩa đế quốc Pháp,

đang áp bức bóc lột ở các xứ thuộc địa và chính nhân dân Pháp. ĐCS Pháp

ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng của những người cộng sản ở

Đông Dương, coi đó là tấm gương cho giai cấp vô sản Pháp noi theo, đấu tranh

chống chủ nghĩa đế quốc Pháp ở thuộc địa cũng như chính tại đất nước mình.

Không chỉ được ĐCS Pháp ủng hộ, cuộc đấu tranh khôi phục hệ thống tổ

chức của Đảng được QTCS nói chung và các ĐCS khác ủng hộ, giúp đỡ nhiệt tình.

ĐCS Liên Xô cũng giúp ĐCSĐD nhiều mặt, tạo điều kiện cho cán bộ lãnh đạo của

Đảng nghiên cứu, học tập những kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới.

Bên cạnh đó, QTCS đã góp nhiều ý kiến và tiếp tục đưa những cán bộ

ưu tú được bồi dưỡng, đào tạo ở Liên Xô về Việt Nam để tăng cường sức

lãnh đạo của Đảng. Một số đảng viên lần lượt trở về gây cơ sở Đảng ở vùng

biên giới Việt - Lào. Dần dần, nhiều cơ sở của Đảng được phục hồi ở Bắc, Trung,

Nam. Những việc làm thấm đượm tình quốc tế vô sản của các ĐCS anh em

đối với ĐCSĐD đã cổ vũ, động viên những người cộng sản Việt Nam, có

tác dụng trực tiếp đến việc khôi phục phong trào cách mạng ở nước ta.

Cũng trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Hồng Kông

thì bị chính quyền Anh ở Hồng Kông bắt giam trái phép ngày 6-6-1931. Ngay khi

biết Nguyễn Ái Quốc bị bắt, QTCS thông qua Quốc tế Cứu tế đỏ đã nhờ luật sư

Lô-dơ-bi (Loseby) giúp đỡ. Trong thời gian Người bị giam, QTCS lên án mạnh

mẽ những hành động phi pháp, những thủ đoạn đê hèn của đế quốc Anh, Pháp,

thông qua Liên đoàn chống chủ nghĩa đế quốc ra một bản kêu gọi nhan đề

Hãy cứu lấy nhà cách mạng Việt Nam Nguyễn Ái Quốc, phản đối đế quốc Anh,

yêu cầu tất cả các tổ chức chống chủ nghĩa đế quốc trên thế giới phản đối việc

giao Nguyễn Ái Quốc cho đế quốc Pháp và đòi trả tự do cho Người. QTCS đã

thông qua Quốc tế Cứu tế công nhân của Pháp, liên hệ với các tổ chức xã hội của

Anh để vận động đưa Nguyễn Ái Quốc thoát khỏi Nhà tù Hồng Kông. ĐCS Pháp

cũng tích cực phản đối vụ án này. Sau gần 20 tháng giam cầm, đến cuối tháng 1-

46

1933, đế quốc Anh phải trả lại tự do cho Nguyễn Ái Quốc. Đó là kết quả của sự

đấu tranh khôn khéo của Nguyễn Ái Quốc cùng phong trào đấu tranh trong nước

và trên thế giới, đặc biệt là nhờ sự vận động bí mật của QTCS, luật sư Loseby và

một số luật sư tiến bộ khác (luật sư Noel Pritt, luật sư Stafford Cripps,…).

Từ lúc Nguyễn Ái Quốc được trả tự do, đến khi Người bắt được liên lạc

với một số đảng anh em và trở về Liên Xô là cả một quá trình đấu tranh kiên trì,

khôn khéo và rất phức tạp của Nguyễn Ái Quốc và các tổ chức cách mạng.

Quá trình này thông qua một hệ thống liên lạc, vận động bí mật, bố trí sắp xếp

của QTCS. Đến năm 1933, các tổ chức Đảng dần được hồi phục và củng cố.

Với sự trợ giúp của một số ĐCS anh em, phong trào đấu tranh của nhân dân

Việt Nam bắt đầu nhận được những đánh giá, ủng hộ tích cực.

Ngày 9-3-1933, ĐCS Pháp thành lập Ủy ban vận động tòa án ân xá tù

chính trị Đông Dương. Sau đó, Ga-bri-en Pe-ri (Gabriel Péri), nghị sĩ thuộc ĐCS

trong Quốc hội Pháp dẫn đầu phái đoàn sang Đông Dương điều tra tình hình.

Phái đoàn đã yêu cầu chính quyền thực dân giải quyết nhiều yêu sách quyền

chính trị và đời sống của các tầng lớp nhân dân Đông Dương.

Ngày 14-3-1933, trong phiên họp của Hạ nghị viện Pháp tranh luận về

luật ân xá, đồng chí Tô-rê (Maurice Thorez), Tổng Bí thư ĐCS Pháp, đã lên

tiếng ủng hộ cách mạng Đông Dương. Đồng chí phản bác luận điệu xuyên tạc

của Bộ trưởng Bộ Thuộc địa An-be Sa-rô (Albert Sarraut) vu cáo tù chính trị

Đông Dương là “quân trộm cướp bị kết án hình sự thông thường”, không phải

đối tượng của luật ân xá. Với những số liệu và chứng cứ cụ thể, đồng chí tố cáo

đế quốc Pháp đang dìm nhân dân lao động Đông Dương trong bể máu. Đồng chí

trình bày nội dung bản Luận cương Chính trị của Đảng và tuyên bố:

Chúng tôi tán thành cương lĩnh của ĐCS. Chúng tôi ủng hộ cuộc đấu

tranh của những người anh em chúng tôi ở Đông Dương. Chúng tôi

ủng hộ cuộc đấu tranh đó với danh nghĩa của tình đoàn kết vô sản

quốc tế. Chúng tôi ủng hộ cuộc đấu tranh đó vì đó là lợi ích của chính

những người lao động của nước Pháp, bởi vì theo lời nói bất hủ của

47

Mác, “Một dân tộc đi áp bức một dân tộc khác không thể là một

dân tộc tự do”.[162, tr.82]

Tiếp đó, ngày 4-4-1933, tham luận trước Hạ nghị viện, đồng chí Tô-rê

nói: “Nhóm cộng sản chúng tôi đề nghị Hạ nghị viện sẽ thông qua văn kiện

bao gồm việc ân xá hoàn toàn tất cả nạn nhân của sự khủng bố kinh khủng và

tai hại ở thuộc địa, nhất là ở Đông Dương”. [162, tr. 82]

Sự ủng hộ của ĐCS Pháp là nguồn cổ vũ to lớn đối với ĐCS và nhân dân

Đông Dương, trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung của giai cấp vô sản,

góp phần thức tỉnh nhân dân tiến bộ Pháp, là đòn mạnh mẽ giáng vào chính sách

khủng bố trắng của đế quốc Pháp ở Đông Dương.

Ngày 15-10-1933, các ĐCS Pháp, ĐCS Trung Quốc và ĐCS Nhật Bản

gửi chung một bức thư cho ĐCSĐD khẳng định những thành tích của Đảng

trong mấy năm qua đã lãnh đạo cuộc đấu tranh anh dũng chống ách áp bức

bóc lột của đế quốc và phong kiến. Bức thư tố cáo chính sách khủng bố tàn bạo

của đế quốc Pháp và bè lũ tay sai đối với cách mạng Đông Dương qua những

chứng cứ, số liệu cụ thể, và vạch rõ điều đó chứng tỏ đế quốc Pháp và tay sai

đang rất hoảng hốt, lo sợ trước sức mạnh của phong trào cách mạng.

Trong cuộc đấu tranh chung của giai cấp vô sản chống chủ nghĩa đế quốc,

ĐCSĐD luôn nhận được sự quan tâm ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế. Bức thư

nêu rõ “Các ĐCS Pháp, Tàu và Nhật Bản gửi lời chào mừng vô sản nồng nhiệt

nhất đến những người cộng sản và tất cả những người lao động Đông Dương.

Tuy ở các nước khác nhau, nhưng chúng ta đều có một sự nghiệp chung. Thưa các

đồng chí, chúng tôi ở bên cạnh các đồng chí”.[39, tr.439-444] Bức thư nói lên tinh

thần đoàn kết chiến đấu giữa ĐCSĐD với các ĐCS và nhân dân tiến bộ thế giới, là

nguồn cổ vũ ĐCS và nhân dân Đông Dương tiếp tục tiến lên.

Tháng 3-1934, được sự chỉ đạo của QTCS, BCH ở ngoài của ĐCSĐD

được thành lập, do Lê Hồng Phong đứng đầu, hoạt động như một Ban Chấp hành

Trung ương lâm thời, tập hợp các cơ sở đảng mới xây dựng lại trong nước thành

hệ thống, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, chuẩn bị triệu tập Đại hội Đảng.

48

Từ ngày 16 đến ngày 21-6-1934, Hội nghị BCH ở ngoài của ĐCSĐD và

đại diện các tổ chức Đảng ở trong nước được tổ chức, gồm các đồng chí

Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Dựt, Nguyễn Văn Tham và Trần Văn

Chấn. Hội nghị thông qua Nghị quyết chính trị nhận định về tình hình thế giới,

tình hình Đông Dương, những vấn đề về tổ chức đảng và nhiệm vụ trước mắt.

Những vấn đề quan trọng khẳng định việc cơ quan lãnh đạo chính thức được lập

lại và chỉ đạo phong trào cách mạng mà Hội nghị nhất trí thông qua là:

- Đề nghị QTCS ra Nghị quyết công nhận BCH ở ngoài - với quyền hạn

và chức năng như Ban Chấp hành Trung ương lâm thời - cơ quan lãnh đạo cao

nhất của ĐCSĐD.

- Quyết định sẽ tổ chức Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Đảng vào mùa

xuân 1935; các đảng bộ phải tích cực xúc tiến việc chính thức thành lập lại các

xứ ủy trước khi Đại hội tiến hành.

- Sau khi thành lập Xứ ủy Trung Kỳ và Lào, cần xoá bỏ “cơ quan Đông

Dương viện trợ bộ” ở Xiêm.

- Quyết định một số vấn đề về tổ chức của Xứ ủy Bắc Kỳ và việc lặp lại

các cơ quan lãnh đạo các tỉnh bộ và Hà Nội, Hải Phòng, Hòn Gai.

- Thông qua thư của BCH ở ngoài của ĐCSĐD gửi các ĐCS Pháp,

Trung Quốc, Xiêm...

- Việc giúp đỡ ĐCS Xiêm cử người sang học Trường Đại học

Phương Đông ở Mátxcơva.

Nghị quyết về các vấn đề tổ chức của Đảng được thông qua với những nội

dung như: BCH ở ngoài được nhất trí công nhận gồm 5 người (3 người do QTCS

chỉ định và 2 người do Trung ương ĐCSĐD chỉ định). BCH ở ngoài bầu Ban

Thường vụ và thư ký của Ban. Các hội nghị toàn thể của BCH ở ngoài được triệu

tập ít nhất ba tháng một lần. BCH ở ngoài là đại diện của Đảng trong quan hệ và

liên lạc với QTCS và các ĐCS anh em. BCH ở ngoài chỉ đạo đường lối chính trị

chung của Trung ương Đảng. Ban có quyền cử đại biểu để tham gia công tác và

kiểm tra toàn bộ công tác của các cấp ủy đảng trong nước. BCH ở ngoài còn xây

49

dựng một số cơ sở liên lạc ở biên giới Việt-Trung, Lào-Xiêm, Campuchia-Xiêm

để giữ mối liên lạc với Ban Chấp ủy Trung ương và với các xứ ủy.

Cùng thời điểm cuối năm 1934, Nguyễn Ái Quốc quay trở lại Liên Xô,

Người vào học Trường Quốc tế Lênin. Ở thời kỳ này, vai trò của

Nguyễn Ái Quốc không được phát huy mạnh mẽ như trước do vấp phải một số

nghi vấn trong QTCS cũng như việc Người bị cho là mang nặng tư tưởng chủ

nghĩa dân tộc. Thậm chí, ngày 31-3-1935, trong Thư của BCH ở ngoài gửi

QTCS, có “đề nghị đồng chí Lin viết một cuốn sách để tự phê bình những

khuyết điểm đã qua” [40, tr. 203-04]. Dù vậy, Nguyễn Ái Quốc vẫn đặc biệt

quan tâm đến phong trào cách mạng trong nước và quốc tế và luôn mong muốn

được hòa mình vào dòng chảy cách mạng.

Được sự lãnh đạo, chỉ đạo từ QTCS, qua BCH ở ngoài, cùng những nỗ lực

của Đảng, đến cuối năm 1934, đầu năm 1935, hệ thống tổ chức của Đảng dần

khôi phục. Đầu tiên là các Xứ ủy trong nước được lập lại. Xứ ủy Lào thành lập

vào tháng 9-1934. Sau đó, năm 1935, các tổ chức Đảng và phong trào

quần chúng được hồi phục.

Lúc này, Nguyễn Ái Quốc đề nghị QTCS giúp đỡ để nâng cao trình độ,

năng lực của cán bộ. Ngày 16-1-1935, Người gửi “Thư gửi Ban Phương

Đông”, nêu lên sự non yếu về trình độ của đại đa số cán bộ ở các nước phương

Đông “những người này có trình độ lý luận và chính trị rất thấp” [103, tr 83-

87] nên hầu như không hiểu một số khái niệm cơ bản, như “cách mạng dân chủ

tư sản”, “không hiểu chức năng, vai trò của Đảng, không biết tổ chức hoạt động

bãi công...”. Và đề nghị “giúp đỡ các đồng chí của chúng ta khắc phục những

khó khăn ấy bằng cách tạo điều kiện cho các đồng chí tiếp thu được những

kiến thức sơ đẳng nhất mà mỗi chiến sĩ đều phải có” với “biện pháp duy nhất

có hiệu quả để giúp đỡ các đồng chí theo phương hướng là cho xuất bản những

cuốn sách nhỏ”, như “Tuyên ngôn của ĐCS”, “Lịch sử QTCS”, “Lịch sử ĐCS

Bônsêvich toàn liên bang Xô Viết”, “Các tổ chức quốc tế”, “Những vấn đề

dân tộc”, “Vấn đề ruộng đất”, về chủ nghĩa quốc tế, công tác Đảng công tác

50

quần chúng... Những nội dung bồi dưỡng này góp phần tích cực vào việc

nâng cao trình độ lý luận và kinh nghiệm công tác cho cán bộ cách mạng

các nước thuộc địa và phụ thuộc.

Ngày 17-3-1935, QTCS gửi thư tới ĐCSĐD đề cập vấn đề tổ chức của

Đảng: “Cần phải giữ lại BCH ở ngoài riêng cho ĐCSĐD” cho thấy vai trò to lớn

của Ban trong việc mở rộng quan hệ đối ngoại của Đảng. [40, tr.412-415]

Cuối tháng 3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của ĐCSĐD diễn ra tại

Ma Cao, Trung Quốc với 13 đại biểu chính thức thay mặt cho 500 đảng viên

trong nước và các đảng bộ ở nước ngoài. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung

ương, gồm 13 uỷ viên (9 uỷ viên chính thức và 4 uỷ viên dự khuyết). Đồng chí

Lê Hồng Phong là Tổng Bí thư. Ban Chấp hành Trung ương nhất trí cử đồng chí

Nguyễn Ái Quốc là đại biểu của Đảng bên cạnh QTCS.

Đại hội nhận định tình hình trong nước và quốc tế, khẳng định thắng lợi

của cuộc đấu tranh để khôi phục phong trào cách mạng và hệ thống tổ chức

Đảng. Tuy vậy, lực lượng của Đảng chưa phát triển mạnh ở các vùng tập trung

công nghiệp, hệ thống tổ chức Đảng chưa thật thống nhất, sự liên hệ giữa các

cấp bộ của Đảng chưa chặt chẽ... Đại hội ra Nghị quyết chính trị vạch rõ “Thâu

phục quảng đại quần chúng là một nhiệm vụ trung tâm, căn bản, cần kíp của

Đảng kịp thời”. [40, tr. 26]

Đại hội đề ra ba nhiệm vụ cụ thể:

- Xây dựng và phát triển Đảng gồm: Phát triển cơ sở Đảng tại các xí

nghiệp, nhà máy, hầm mỏ, tại các thành thị...; Kết nạp thêm đảng viên ưu tú

trong hàng ngũ giai cấp công nhân; Đẩy mạnh việc phê và tự phê trong Đảng.

- Thâu phục quảng đại quần chúng: Phát triển hội phụ nữ, các dân tộc thiểu

số..., Thành lập mặt trận dân tộc thống nhất.

- Đẩy mạnh chống chiến tranh đế quốc. Ủng hộ Liên Xô, Trung Quốc. [40,

tr. 23-30]

Đại hội đánh dấu bước phát triển quan trọng của Đảng: phục hồi hệ thống

tổ chức từ Trung ương đến địa phương, các Xứ ủy ba kỳ được lập lại, các

51

tổ chức quần chúng của Đảng cũng dần được khôi phục và phát triển. Đại hội là

mốc đánh dấu sức sống mãnh liệt của ĐCSĐD, vì trước đó, tất cả các tổ chức,

đảng phái khác như Việt Nam Quang Phục Hội, Việt Nam Quốc dân Đảng… sau

khi bị thực dân Pháp đàn áp đều không còn hoạt động hoặc hoạt động rất hạn

chế, chỉ còn các cơ sở hoạt động tại hải ngoại.

Về tổ chức của Đảng, BCH ở ngoài liên hệ với những cơ sở và tổ chức trong

nước, đưa đảng viên ở nước ngoài về phối hợp hoạt động; tiếp tục củng cố và

phát triển những cơ sở còn lại, xây dựng những cơ sở mới. Đại hội quyết định

thành lập Ban chống chiến tranh đế quốc do Đảng lãnh đạo, gồm đại biểu nhiều

tổ chức cách mạng và cá nhân yêu nước, yêu hòa bình và công lý. Đại hội đặc biệt

chú trọng việc đẩy mạnh chống chiến tranh đế quốc. Ủng hộ Liên Xô, Trung Quốc.

Qua đó cho thấy, Đảng đã ngày một trưởng thành, dù bị tổn thất nhưng

nhanh chóng được khôi phục. Bản lĩnh chính trị của Đảng, phẩm chất và khí tiết

cộng sản, ý chí chiến đấu của cán bộ, đảng viên và tinh thần cách mạng của

quần chúng đã thể hiện sáng ngời trong thử thách quyết liệt này.

Cũng trong Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng, ngày 30-3, ĐCSĐD

thừa nhận sự cần thiết của BCH ở ngoài đối với hoàn cảnh đặc biệt của

cách mạng Đông Dương: “đại biểu Đại hội lần thứ nhất của ĐCSĐD công nhận

rằng trong hoàn cảnh sinh hoạt bí mật, khó khăn của ĐCSĐD, việc thiết lập ra

BCH ở ngoài để chỉ đạo về đường chánh trị chung cho Đảng, và để thế Ban

Trung ương lúc sau này bị bắt hay bị giải tán, là một việc rất cần thiết” [40,

tr.167]. ĐCSĐD cũng đề nghị QTCS lập ra một cơ quan có quyền hạn lớn hơn,

đó là Phân bộ của Đông Phương Bộ của QTCS ở Nam Thái Bình Dương. Đây là

một mong muốn để có cơ cấu tổ chức mới, chỉ đạo ba Đảng ĐCSĐD, Xiêm và

Mã Lai. [40, tr.168] Song, QTCS cho rằng: Việc thành lập một Trung tâm

thống nhất để lãnh đạo ba Đảng (Đông Dương, Xiêm và Mã Lai) là quá sớm.

Ngày 31-3-1935, Ban Chấp hành Trung ương ĐCSĐD gửi thư tới các

ĐCS anh em với mong muốn liên hệ chặt chẽ trong phong trào cách mạng thế

giới, có được sự ủng hộ của hai ĐCS Liên Xô và Trung Quốc, chống chiến tranh

52

đế quốc. Trong Thư gửi Ban Chấp hành Trung ương ĐCS Liên Xô, ĐCSĐD

khẳng định thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra trang sử mới

cho cách mạng vô sản thế giới và cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp

bức. ĐCSĐD bày tỏ quyết tâm đi theo con đường vẻ vang của Liên Xô, lãnh đạo

nhân dân Đông Dương đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, lập chính quyền Xô

viết. ĐCSĐD bày tỏ quyết tâm bảo vệ Liên Xô - thành trì cách mạng thế giới...

Trong Thư gửi Ban Chấp hành Trung ương ĐCS Trung Quốc, Đảng nêu

rõ cách mạng Trung Quốc và Việt Nam có quan hệ mật thiết với nhau, tuyên bố

ủng hộ cách mạng Trung Quốc, bày tỏ lòng tin tưởng vào sự giúp đỡ của

Trung Quốc đối với cách mạng Đông Dương.

Trong Thư gửi Ban Chấp hành Trung ương ĐCS Pháp, Đảng khẳng định

mối liên hệ mật thiết giữa cuộc cách mạng giải phóng Đông Dương với

cách mạng vô sản Pháp. ĐCSĐD nêu cao vai trò tích cực của ĐCS Pháp,

nhân dân Pháp đối với cách mạng Đông Dương như: can thiệp việc thực dân

Pháp xử án các chiến sĩ Đông Dương, cổ động trên báo chí Pháp, diễn thuyết

ủng hộ Đông Dương, đặc biệt là những hành động nhân đạo của Cứu tế đỏ,

Công hội đỏ đối với các chiến sĩ cách mạng Đông Dương. ĐCSĐD hy vọng

ĐCS Pháp, nhân dân Pháp giúp đỡ cách mạng Đông Dương nhiều hơn nữa.

Thư gửi Ban Chấp hành Trung ương ĐCS Xiêm (Thái Lan), ĐCSĐD

khẳng định cuộc cách mạng ở mỗi xứ đều là bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.

Đông Dương và Thái Lan là hai xứ lân cận, cuộc cách mạng ở xứ này đều có ảnh

hưởng tới xứ kia nên sự liên hệ giữa hai Đảng phải mỗi ngày một thêm khăng khít.

Đảng khẳng định ĐCS Xiêm đã giúp đỡ ĐCSĐD nhiều mặt, hy vọng ĐCS Xiêm tiếp

tục giúp đỡ ủng hộ cách mạng Đông Dương, đồng thời tuyên bố ĐCS và nhân dân

Đông Dương sẽ giúp đỡ ĐCS Xiêm, cách mạng Xiêm.

Thư gửi Ban Chấp hành Trung ương ĐCS Ấn Độ: Đảng khẳng định vai

trò lãnh đạo duy nhất của ĐCS Ấn Độ trong cuộc cách mạng phản đế và điền địa

ở Ấn Độ. Cách mạng Ấn Độ và cách mạng Đông Dương là hai bộ phận của cách

mạng toàn thế giới, nên cách mạng hai xứ cần liên hệ chặt chẽ với nhau, cùng

53

đánh đổ chủ nghĩa đế quốc. ĐCSĐD bày tỏ niềm tin tưởng hai Đảng và nhân dân

hai nước sẽ ủng hộ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh cách mạng chống chủ nghĩa

đế quốc. [40, tr.177-187]

Với mong muốn như vậy, Đại hội đã thiết lập những mối quan hệ mới cho

ĐCSĐD, cho cách mạng Việt Nam.

Tháng 7-1935, Đoàn đại biểu ĐCSĐD gồm Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị

Minh Khai, Tú Hưu (tức Hoàng Văn Nọn) sang tham dự Đại hội lần thứ VII

QTCS ở Mátxcơva. Trong thời gian Đại hội chưa họp, Nguyễn Ái Quốc đã

giới thiệu hai đồng chí Minh Khai và Tú Hưu vào học văn hóa và chính trị ở lớp

đặc biệt của Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Được QTCS

phân công phụ trách nhóm Việt Nam, Người tận tình giúp đỡ, chỉ bảo, truyền đạt

những kiến thức lý luận và thực tiễn cho các cán bộ, đảng viên.

Ngày 25-7-1935, Đại hội lần thứ VII QTCS khai mạc với 513 đại biểu từ

76 tổ chức đảng và tổ chức cộng sản trên khắp thế giới tham dự. Trước đó, Đảng

Cộng sản Đông Dương đề nghị đại biểu chính thức Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội

và là đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương bên cạnh QTCS nhưng

không được chấp nhận. Người chỉ được tham gia với tư cách là đại biểu tư vấn

và được cấp thẻ mang số đăng ký 154. [Phụ lục 23, 24]

Đại hội vạch ra những phương hướng cụ thể liên quan đến cuộc đấu tranh

cách mạng ở Việt Nam trong thời kỳ mới,chủ trương chuyển hướng chỉ đạo

chiến lược cách mạng thế giới, xác định kẻ thù và nhiệm vụ cụ thể trước mắt của

cách mạng thế giới là chủ nghĩa phát xít, đề ra nhiệm vụ chủ yếu là chống

phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, hòa bình, cải thiện đời sống. Dưới

ánh sáng Nghị quyết Đại hội VII QTCS, phong trào chống phát xít trên thế giới

phát triển mạnh mẽ.

Tại Đại hội, thành tích đấu tranh của giai cấp công nhân và nông dân

lao động Đông Dương được đánh giá cao. ĐCSĐD được công nhận là đội ngũ

kiên cường trong phong trào Cộng sản Quốc tế. Tại phiên họp bế mạc, Đại hội

chuẩn y Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 11, Ban Chấp hành QTCS chính thức

54

công nhận ĐCSĐD là một phân bộ của QTCS và bầu đồng chí Tổng Bí thư

Lê Hồng Phong là Ủy viên Ban Chấp hành QTCS. Đồng thời, Đại hội VII uỷ

quyền cho ĐCS Pháp tiếp tục giữ mối liên hệ chặt chẽ với tất cả các ĐCS của

các nước thuộc địa Pháp và giúp đỡ các đảng đó bằng mọi cách. Đại hội VII giao

cho Ban Chấp uỷ QTCS trách nhiệm giúp đỡ các ĐCS mới được công nhận củng

cố về tư tưởng và tổ chức, phát triển toàn diện, mang tính quần chúng. [40,

tr.460-469]

Từ đây, phong trào cộng sản Đông Dương đã có đại biểu ở cơ quan lãnh

đạo của tổ chức QTCS. Trong phiên họp tối 16-8, Nguyễn Ái Quốc phát biểu về

cuộc đấu tranh của nhân dân các thuộc địa, trong đó có nhân dân Đông Dương

trước nguy cơ phát xít đang lên. Trên cơ sở nghị quyết của Đại hội QTCS, vận

dụng sát với hình hình cách mạng Đông Dương, ĐCSĐD xác định phương

hướng, mục tiêu đấu tranh, chủ động chuẩn bị đón một cao trào cách mạng mới.

2.2. HOẠT ĐỘNG NÂNG CAO VỊ THẾ CỦA ĐẢNG, ĐOÀN KẾT VỚI CÁC

ĐẢNG CỘNG SẢN, ĐẤU TRANH VÌ HÒA BÌNH DÂN CHỦ TỪ NĂM 1936 ĐẾN

THÁNG 8 NĂM 1939

2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử

2.2.1.1. Tình hình thế giới

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929-1933 đã để lại những hậu

quả nghiêm trọng, kinh tế suy thoái dẫn đến mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa

tư bản thêm gay gắt. Sự bóc lột nặng nề của chủ nghĩa tư bản khiến phong trào

cách mạng của quần chúng dâng cao.

Chủ nghĩa phát xít phát triển, ngày càng nhiều nước trở nên phát xít hoá:

dùng bạo lực để đàn áp phong trào đấu tranh trong nước và ráo riết chạy đua vũ

trang phát động chiến tranh thế giới mới. Chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức, Ý,

Nhật, chúng liên kết với nhau lập ra phe “Trục”, tuyên bố chống QTCS và phát

động chiến tranh chia lại thế giới. Nguy cơ phát xít và chiến tranh thế giới đe dọa

nghiêm trọng nền hòa bình và an ninh quốc tế. Đại hội VII QTCS (tháng 7-1935)

xác định: Kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới chưa phải là

55

chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít và nhiệm vụ trước mắt của

giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới chưa phải là đấu tranh lật đổ

chủ nghĩa tư bản, giành chính quyền mà là chống phát xít và chiến tranh, đòi

tự do, dân chủ, hòa bình và cải thiện đời sống. Phong trào đấu tranh chống

chủ nghĩa phát xít ngày càng mạnh mẽ. Tháng 4-1936, Mặt trận Bình dân Pháp-

một liên minh chính trị của các lực lượng cánh tả ở Pháp, bao gồm Đảng Xã hội,

ĐCS, Chi hội Pháp của Công nhân Lao động Quốc tế (SFIO) và các chính đảng,

tổ chức chính trị khác đã giành thắng lợi trong cuộc bầu cử Quốc hội. Chính phủ

đầu tiên do lãnh đạo SFIO Lêông Bơlum (Leon Blum) làm Thủ tướng đã có ảnh

hưởng tích cực tới phong trào dân chủ Đông Dương những năm 1936-1939.

Các ĐCS Pháp, ĐCS Tây Ban Nha, ĐCS Trung Quốc là nòng cốt trong việc

xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, nhằm đoàn kết mọi lực lượng chống

chiến tranh, bảo vệ hòa bình, đòi dân chủ, tự do.

2.2.1.2. Tình hình trong nước

Từ năm 1936 đến năm 1939, cách mạng Việt Nam diễn ra trong bối cảnh

có nhiều diễn biến phức tạp. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa phát xít với QTCS và

âm mưu phát động chiến tranh nhằm chia lại thế giới xuất hiện, đặt nhân loại

đứng trước thảm họa chiến tranh. Điều này gây ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống

mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Do hậu quả của khủng hoảng kinh tế mà

thế lực cầm quyền phản động ở Đông Dương ra sức vơ vét, bóc lột. Chúng

tập trung đầu tư, khai thác thuộc địa để bù đắp sự thiếu hụt cho kinh tế Pháp.

Chúng chiếm đoạt ruộng đất, độc canh các loại cây trồng: lúa, cao su, đay, gai,

bông …, đẩy mạnh khai mỏ, chế cất rượu; độc quyền bán thuốc phiện, rượu,

muối và xuất nhập khẩu, thu lợi nhuận rất cao. Công nhân bị thất nghiệp hàng

loạt, nông dân thì không đủ ruộng cày, phải chịu mức địa tô cao và bóc lột của

địa chủ, cường hào… Các tầng lớp khác trong xã hội cũng bị chèn ép, chịu thuế

khóa nặng nề, sinh hoạt đắt đỏ. Đời sống của đại đa số nhân dân khó khăn nên

hăng hái tham gia đấu tranh đòi tự do, cơm áo dưới sự lãnh đạo của Đảng.

56

Trong thời gian này, Chính phủ Pháp cử phái đoàn sang điều tra tình hình

Đông Dương, cử Toàn quyền mới, ân xá tù chính trị, nới rộng quyền tự do

báo chí… Một loạt động thái này đã khiến cho cao trào đấu tranh dân chủ

bùng lên sôi nổi, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Việt Nam.

2.2.2. Hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1936 đến tháng 8 năm 1939

Tiếp tục những nhiệm vụ của Đảng đặt ra, cùng thực tiễn tình hình cách

mạng, những năm 1936-1939, dưới ánh sáng của chủ trương chuyển hướng

chiến lược do Đại hội lần thứ VII QTCS đề ra, hai nhiệm vụ chống đế quốc và

phong kiến được ĐCSĐD cụ thể hóa bằng nhiệm vụ: chống phát xít, chống phản

động thuộc địa, đòi tự do dân chủ. Song song với quá trình thực hiện những

nhiệm vụ này, Đảng luôn chú trọng đến việc báo cáo, nhận chỉ thị từ QTCS cũng

như sự giúp đỡ từ các ĐCS, các phong trào tiến bộ của các nước anh em.

Ngày 2-7-1936, BCH ở ngoài ĐCSĐD gửi báo cáo tới QTCS về hoạt động

của Đảng từ tháng 5-1935 đến tháng 6-1936. Trong đó, đề cập đến mối quan hệ

giữa Ban Chấp hành Trung ương và BCH ở ngoài, cho thấy vai trò của BCH ở

ngoài cao hơn vai trò của Ban Chấp hành Trung ương. Song, sau khi nhận được

thư chỉ đạo của QTCS, BCH ở ngoài và Ban Chấp hành Trung ương trở thành

hai tổ chức ngang quyền. Mỗi cơ quan có địa bàn hoạt động riêng, một tổ chức ở

trong nước, một tổ chức ở ngoài nước. Tuy vậy, mối liên lạc giữa Ban Chấp

hành Trung ương và BCH ở ngoài rất chặt chẽ. Đến thời điểm 1-7-1936, BCH

ở ngoài đã đề nghị QTCS giúp kinh phí cho việc tổ chức Hội nghị toàn quốc của

Đảng để cử ra một Ban Chấp hành Trung ương đảm nhiệm lãnh đạo hoạt động

trong nước, để đưa cán bộ về nước và đưa sinh viên đi đào tạo ở nước ngoài

(Nga, Trung Quốc). [41, tr. 45-70]

Ngày 26-7-1936, Hội nghị các đồng chí cán bộ chủ chốt BCH ở ngoài và

đại diện Ban chấp hành Trung ương Đảng họp tại Thượng Hải (Trung Quốc) do

đồng chí Lê Hồng Phong, Uỷ viên Ban Chấp hành QTCS chủ trì. Tham dự

Hội nghị có các đồng chí Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên. Hội nghị dựa trên những

luận điểm cơ bản của Nghị quyết Đại hội lần thứ VII QTCS, căn cứ vào

57

tình hình cụ thể của cách mạng Việt Nam để định ra đường lối và phương pháp

đấu tranh trong thời kỳ mới. Nhiệm vụ chiến lược được đặt ra là chống đế quốc

và phong kiến, cụ thể là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống

phát xít và chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hoà bình. Kẻ thù trước mắt

lúc này là phản động thuộc địa và tay sai của chúng.

Về tổ chức, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân

phản đế Đông Dương nhằm tập hợp các đảng phái, giai cấp, đoàn thể chính trị,

tín ngưỡng, tôn giáo, dân tộc cùng nhau tranh đấu đòi quyền lợi dân chủ.

Về phương pháp, Hội nghị quyết định dùng các hình thức tổ chức và

đấu tranh công khai hợp pháp, nửa hợp pháp; tiếp tục duy trì tổ chức và

đấu tranh không hợp pháp nhằm mở rộng quan hệ của Đảng với quần chúng.

Về đoàn kết quốc tế, xác định rõ đoàn kết với giai cấp công nhân và ĐCS

Pháp, ủng hộ Mặt trận Nhân dân Pháp, ủng hộ Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp

để cùng chống kẻ thù chung là phát xít và phản động thuộc địa ở Đông Dương.

Hội nghị đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ đấu tranh khôi phục phong trào,

đưa cách mạng Đông Dương chuyển lên một cao trào mới.

Đồng thời, để tăng cường lực lượng cho Đảng, ngày 7-7-1936, BCH ở

ngoài ĐCSĐD đã gửi thư cho Ủy ban ở Xiêm. Một số đảng viên người Việt

thuộc Đảng bộ Xiêm bí mật về nước bắt liên lạc với Trung ương ĐCSĐD.

Trong giai đoạn này, hoạt động đối ngoại của Đảng chủ yếu với Chính phủ

và các đảng của nước Pháp, nhằm nêu rõ quan điểm, mục tiêu đấu tranh của Đảng

và phong trào cách mạng Việt Nam; đồng thời kêu gọi sự ủng hộ trong phong trào

đấu tranh chống phát xít, đòi hòa bình, dân chủ. Ngày 3-10-1936, ĐCSĐD gửi thư

cho Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp, kêu gọi chấm dứt chế độ khủng bố,

ủng hộ Đông Dương Đại hội, “thực hiện ngay những biện pháp để chấm dứt

chế độ khủng bố này và ban bố lệnh ân xá toàn diện và không điều kiện cho tất cả

các tù nhân” [41, tr.118]. Bên cạnh việc tố cáo chính sách áp bức bóc lột của

chính quyền thuộc địa, ĐCSĐD cũng thể hiện rõ quan điểm rằng Đảng không

chống tất cả mọi người Pháp mà chỉ đấu tranh chống tay sai phản động. Đảng

58

tuyên bố “sẽ mãi mãi là những người đồng minh tốt của nhân dân dân chủ Pháp”

[41, tr.120].Đây là lần đầu tiên trong lịch sử phong trào cách mạng, ĐCSĐD

“động viên quảng đại quần chúng nhân dân ở xứ này ủng hộ Chính phủ chính

quốc thực hiện cương lĩnh chống phát xít và chống chiến tranh”.[41, tr.121]

Đảng cũng kêu gọi Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp thi hành những

biện pháp đàn áp cần thiết đối với những hội phát xít và tổ chức tương tự ở Đông

Dương, ban bố những quyền tự do dân chủ, lệnh ân xá, luật bảo hộ lao động để

động viên quần chúng rộng rãi ở Đông Dương bảo vệ Mặt trận Nhân dân Pháp.

Đảng đề nghị Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp chỉ thị cho chính quyền Pháp ở

Đông Dương cho dân chúng tự do lập những Uỷ ban hành động và họp Đông

Dương Đại hội để họ trình bày những nguyện vọng của mình. Đồng thời, đề nghị

Chính phủ Pháp cho ĐCSĐD và các tổ chức cách mạng khác được hoạt động

hợp pháp để tổ chức quần chúng, hướng dẫn quần chúng đấu tranh cho hòa bình,

tự do. [41, tr.115-126].

“Những cải cách như vậy sẽ tạo ra những nhân tố mạnh mẽ có khả năng

động viên quần chúng rộng rãi nhất của xứ chúng tôi bảo vệ Mặt trận nhân dân

Pháp nói chung và chính phủ của các bạn nói riêng” [41, tr.122]. ĐCSĐD và các

tổ chức cách mạng khác ở Đông Dương được hoạt động hợp pháp càng sớm

càng tốt; thải hồi bọn thực dân phản động, thay vào đó những nhân vật được

lựa chọn trong những chiến sĩ nổi tiếng của Mặt trận nhân dân.

Đảng chủ trương ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp và Chính phủ Bơ-lum,

xem họ là người bạn của nhân dân Đông Dương. Ở Đông Dương, cần đoàn kết

với các tổ chức của người Pháp: Đảng Xã hội, Đảng Xã hội cấp tiến, Hội

nhân quyền, vì ở Pháp, họ là thành phần của Mặt trận nhân dân Pháp. Đảng

kêu gọi kiều dân các nước tham gia Đông Dương Đại hội và Mặt trận nhân dân

Đông Dương, đoàn kết đấu tranh cho tự do, cơm áo và hoà bình, chống

chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh đế quốc.

Đảng tuyên bố: “Những thắng lợi tuyển cử này và việc các bạn lên cầm quyền

đã làm nảy nở nhiều mối hy vọng trong các dân tộc Đông Dương. Đây là lần đầu tiên

59

trong lịch sử phong trào cách mạng của chúng tôi mà chúng tôi những người

cộng sản Đông Dương, cũng như những người anh em chúng tôi ở Pháp, động viên

quảng đại quần chúng nhân dân ở xứ này ủng hộ chính phủ chính quốc thực hiện

cương lĩnh chống phát xít và chống chiến tranh” [41, tr.121].

Thời gian này, Đảng tổ chức nhiều hoạt động đối ngoại thiết thực, như: Tham

gia các hoạt động trong phong trào đấu tranh dân chủ từ 1936-1938; Phối hợp với

Đảng Xã hội Pháp tổ chức các cuộc sinh hoạt quần chúng nhân ngày 1-5, tổ chức

Hội chợ quyên góp giúp nạn nhân chiến tranh ở Trung Quốc, phối hợp với tổ chức

dân chủ của người Pháp tổ chức các hoạt động quốc tế trên đất Đông Dương…

Tháng 10-1936, Trung ương Đảng được tổ chức lại, đồng chí Hà Huy Tập

làm Tổng Bí thư. Trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới, Ban

Chấp hành Trung ương đặt ra vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ

dân tộc và dân chủ, phản đế và điền địa trong cách mạng Đông Dương: cách mạng

giải phóng dân tộc không nhất thiết phải gắn kết chặt với cuộc cách mạng điền

địa. Đó là nhận thức mới phù hợp với tinh thần Cương lĩnh cách mạng đầu tiên

của Đảng, bước đầu khắc phục hạn chế của Luận cương Chính trị tháng 10-1930.

Đây là sự chuyển hướng chỉ đạo cách mạng đúng đắn của Đảng được chứng minh

bằng sự phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng từ giữa năm 1936. Hội

nghị lần thứ ba (3-1937), lần thứ tư (9-1937), tiếp đó là Hội nghị lần thứ năm (3-

1938), Ban Chấp hành Trung ương Đảng đi sâu về công tác tổ chức của Đảng,

quyết định chuyển mạnh về phương pháp tổ chức và hoạt động để tập hợp đông

đảo quần chúng trong mặt trận chống phản động thuộc địa, chống phát xít, đòi tự

do, cơm áo, hòa bình.Trước những đòi hỏi hợp lý của nhân dân và từ tình hình

thực tế tại Đông Dương, với mục đích xoa dịu dư luận phản đối của các lực lượng

cách mạng trong Mặt trận Nhân dân Pháp, Chính phủ Pháp buộc phải ban hành tại

thuộc địa một số quyền tự do dân chủ hạn chế. Ngày 11-10-1936, Toàn quyền

Đông Dương ra Nghị định về quyền lợi của lao động Đông Dương như thời gian

lao động 1 ngày không quá 10 giờ (kể từ ngày 1-11-1936), không quá 9 giờ (kể từ

ngày 1-1-1937), không quá 8 giờ (kể từ ngày 1-1-1938), được nghỉ ngày chủ nhật,

60

nghỉ phép hằng năm được hưởng lương (5 ngày từ năm 1937 và 10 ngày từ năm

1938); cấm bắt phụ nữ và trẻ em làm việc ban đêm. Ngày 30-12-1936, Bộ trưởng

Bộ Thuộc địa Pháp ra Nghị định quy định thêm một số chế độ lao động như: chế

độ học nghề, tiền lương tối thiểu, cúp phạt bằng tiền, chế độ nghỉ đẻ...; thi hành

một phần việc “ân xá” chính trị phạm. Năm 1936, có khoảng 1.000 người và đến

tháng 10-1937, đã có 1.532 người (phần lớn là các chiến sĩ cộng sản) được ra khỏi

nhà tù đế quốc trở về với phong trào quần chúng. Dù đây mới chỉ là những sự

nhượng bộ nhỏ, để đi đến thực tế thi hành còn cần phải có thời gian, trải qua đấu

tranh gian khổ, nhưng cũng đã tạo điều kiện mở rộng thế đấu tranh hợp pháp và

tạo khí thế cho phong trào đấu tranh dân chủ của cách mạng Việt Nam.

Đến đầu năm 1937, khi Phong trào Đông Dương Đại hội đi đến kết thúc,

Quốc hội Pháp cử đại diện là Gôđa (Godart) sang Đông Dương để thu thập

tình hình. Phong trào quần chúng biểu tình bùng lên với danh nghĩa đón Gôđa

với số lượng lên đến hàng chục vạn người, trải khắp Bắc - Trung - Nam.

Đặc biệt, tại Hà Nội, ngày 31-1, một cuộc biểu tình của khoảng 30.000

quần chúng do những người cộng sản trong nhóm Le Travail (Lao động) tổ chức

đã diễn ra. Nhân dân mang theo bản “dân nguyện” đòi dân sinh dân chủ, trao cho

Gôđa. Phong trào đón Gôđa là một phong trào công khai của quần chúng lao

động chống chế độ phản động thuộc địa.

Cùng năm 1937, nhiều hoạt động của quần chúng và các tổ chức xã hội diễn

ra mạnh mẽ nhân dịp Bre-vi-e (Brévié) nhậm chức Toàn quyền Đông Dương từ

ngày 14-1-1937. Người dân đòi chính quyền Pháp ở Đông Dương tiến hành những

cải cách cho phù hợp với việc Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp lên cầm quyền ở

chính quốc. Các khẩu hiệu như: “Ủng hộ Mặt trận Nhân dân Pháp”, “Tự do ngôn

luận”, “Tự do nghiệp đoàn”, “Đại xá chính trị phạm”, “Bỏ thuế thân”... được

giương cao khắp các tỉnh thành. Bất chấp sự đàn áp của chính quyền phản động,

phong trào vẫn ngày càng phát triển, một số đảng viên hoạt động công khai ở

Sài Gòn đã trực tiếp đến gặp Bre-vi-e phản đối hành động tàn bạo của nhà

cầm quyền Pháp và đòi thi hành cải cách dân chủ. Những cuộc biểu tình này

61

thể hiện ý chí đoàn kết đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống

của nhân dân Việt Nam và tố cáo chế độ phản động của thực dân Pháp.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các phong trào đấu tranh của công nhân

ngày càng mạnh mẽ. Trong năm 1937, 77 cuộc đấu tranh với hơn 20.000 người

thuộc các lĩnh vực công nghiệp, đồn điền, chủ nhỏ Việt Nam đã diễn ra.

Từ sự phát triển mạnh mẽ này của phong trào cách mạng trong nước, Ban

Chấp hành Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị mở rộng từ ngày 25-8 đến ngày

4-9-1937, tại xã Tân Thới Nhứt (Gia Định), đồng chí Hà Huy Tập chủ trì, với sự

có mặt của các đồng chí: Lê Hồng Phong, Hạ Bá Cang, Nguyễn Văn Cừ,

Nguyễn Chí Diểu, Nguyễn Thị Minh Khai....

Sau khi phân tích tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị nêu lên những

thành tích trong công tác Đảng. Trong thời gian từ năm 1935 đến tháng 8-1937,

Đảng đã khôi phục hệ thống tổ chức ở Trung, Nam, Bắc; trở nên một đoàn thể

thống nhất về tổ chức và phương diện chính trị. Tuy ở một vài nơi cơ sở Đảng

chưa khôi phục xong, nhưng thế lực của Đảng đã ảnh hưởng rất lớn. Con đường

chính trị của Đảng là đúng, chính sách lập Mặt trận Thống nhất nhân dân Đông

Dương ủng hộ Mặt trận Nhân dân Pháp lan rộng trong quần chúng; ảnh hưởng

của Đảng phát triển nhanh chóng. Đồng thời, Đảng cũng mắc phải một số khuyết

điểm: “tả khuynh”, cô độc, hẹp hòi và hữu khuynh, thỏa hiệp với các phần tử

Tờrốtkít. Hội nghị xác định các nhiệm vụ cần kíp của Đảng như: Về nội bộ, phải

mở rộng và củng cố các đảng bộ đã có, khôi phục cơ sở cũ của Đảng ở Lào,

Cao Miên, thống nhất các Đảng bộ ở Trung Kỳ, mật thiết chỉ đạo các Đảng bộ

người Trung Quốc; Về đào tạo cán bộ, phải nhanh chóng mở các lớp huấn luyện,

đào tạo cán bộ; Về tổ chức quần chúng, thủ tiêu lối hoạt động bí mật của các

tổ chức quần chúng, tổ chức các hình thức quần chúng hoàn toàn công khai và

bán công khai, tuỳ theo hoàn cảnh và trình độ của quần chúng mà tổ chức

các Hội ái hữu, tương tế, hợp tác xã...

62

Về tranh đấu chống các xu hướng sai lầm, Hội nghị nêu rõ: Đảng phải luôn

luôn đi đúng chủ nghĩa Mác-Lênin, theo đúng nguyên tắc của QTCS và phải

Bônsêvích hóa; chống “tả khuynh” cô độc và chống hữu khuynh thỏa hiệp.

Về Mặt trận Nhân dân thống nhất Đông Dương, Đảng chủ trương, một

mặt ủng hộ Mặt trận Nhân dân Pháp, mặt khác, đấu tranh để thực hiện Mặt trận

Nhân dân thống nhất Đông Dương.

Về chống phát xít và chống đế quốc chiến tranh: Hội nghị nhận định rằng

cuộc vận động đòi các quyền lợi trước mắt của nhân dân Đông Dương phải

liên hệ chặt chẽ với phong trào chống phát xít và chống đế quốc chiến tranh trên

thế giới. Phải cùng những người Pháp cấp tiến tổ chức ra những hội chống

phát xít, chống chiến tranh, ủng hộ hoà bình.[41, tr.263-298]

Đến tháng 8-1937, nhân danh Trung ương ĐCSĐD, Tổng Bí thư

Hà Huy Tập gửi thư công khai cho Mặt trận Nhân dân Pháp, Chính phủ Sôtăng-

Bơlum, ông Mute-Bộ trưởng Bộ Thuộc địa và ông Bre-vi-e-Toàn quyền

Đông Dương. Trong thư đã nhắc lại quan điểm của Đảng tiếp tục ủng hộ

Mặt trận Nhân dân và Chính phủ của Mặt trận Nhân dân Pháp, yêu cầu

chính phủ thực hiện chương trình của Mặt trận, tiến hành các cải cách dân chủ ở

Đông Dương, ban hành các quyền tự do dân chủ. Thư gắn việc chống phát xít

với chống phản động thuộc địa, lập Mặt trận dân chủ Đông Dương.

Những quyền tự do, dân chủ mà ĐCSĐD yêu cầu là:

1. Tự do ngôn luận, xuất bản, tư tưởng;

2. Tự do tổ chức, hội họp, bãi công, thị uy, biểu tình;

3. Tự do đi lại trong xứ và ngoài xứ;

4. Tổng ân xá chính trị phạm từ trước tới nay.

5. Thải hồi những phần tử quan liêu phản động ra khỏi bộ máy cai trị của

chính quyền thực dân - phong kiến ở Đông Dương.

6. Lập Mặt trận Dân chủ ở Đông Dương.

ĐCSĐD cho rằng điều kiện cần thiết để bảo đảm thi hành các quyền tự do

dân chủ là ĐCSĐD và chính đảng khác có xu hướng dân chủ phải được

63

công khai tồn tại, để bênh vực quyền lợi cho nhân dân. Phần cuối thư

nhấn mạnh: “ĐCSĐD là người trung thành với khoa học chủ nghĩa xã hội.

Chúng tôi không những muốn liên hiệp với nhân dân tiên tiến ở Pháp mà còn

muốn liên hiệp với hết thảy các dân tộc trên thế giới chân thật lấy bình đẳng đối

đãi với nhân dân Đông Dương”. [41, tr.253-262]

Sau Hội nghị, Ban Chấp hành Trung ương ĐCSĐD gửi báo cáo cho

Ban Chấp hành QTCS về các vấn đề Đảng, tổ chức quần chúng và các vấn đề

khác. Phần cuối báo cáo, Ban Chấp hành Trung ương Đảng yêu cầu QTCS

giúp đỡ một số vấn đề:

1. Yêu cầu QTCS lãnh đạo ĐCSĐD chặt chẽ và trực tiếp hơn.

2. Yêu cầu QTCS cấp cho Ban Chấp hành Trung ương ĐCSĐD mỗi tháng

500 đô la Mỹ.

3. Yêu cầu QTCS cung cấp những thông tin về ĐCS Pháp, ĐCS Trung Quốc.

4. Yêu cầu ĐCS Pháp gửi cho ĐCSĐD một số đồng chí để tổ chức Phân

bộ của ĐCS Pháp.

5. Yêu cầu QTCS gửi 5.000 đôla để xuất bản báo chí và sách hợp pháp.

6. ĐCSĐD đề nghị QTCS được tự lựa chọn sinh viên đi học tập ở

nước ngoài. [41, tr.299-314]

Đến tháng 10, ĐCSĐD gửi báo cáo tới QTCS về Mặt trận Nhân dân

Phản đế và tình hình Đảng. Trong đó đề cập đến đường lối chính trị mới của

Đảng dựa trên đường lối của QTCS: tập hợp các đảng phái, các giai cấp vào

Mặt trận Nhân dân, đấu tranh cho các quyền tự do dân chủ, chống bọn phản

động thuộc địa, ủng hộ Mặt trận Nhân dân Pháp, ủng hộ những cải cách tiến bộ

của Chính phủ Bơlum. Đồng thời vẫn giữ sự độc lập về tổ chức của Đảng và

quyền tự do phê bình đối với các bạn đồng minh và đối với Chính phủ của

phái tả Pháp. Thay đổi phương pháp tổ chức quần chúng sang hợp pháp và

bán hợp pháp. Chính sách này được các tổ chức của Đảng ủng hộ và áp dụng.

Sang năm 1938, trước những biến động mới của tình hình thế giới, nhất là

ở Pháp và Đông Dương, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị toàn

64

thể ngày 29 và 30-3-1938 tại xã Tân Thới Nhứt, Gia Định, với sự tham dự của

các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Lê Hồng Phong, Võ Văn Tần... Hội nghị nhận

định, từ khi Mặt trận Nhân dân Pháp thắng lợi, ủng hộ phong trào đấu tranh của

quần chúng, tình hình Đông Dương đã được cải thiện một phần. Nhưng những

cải cách dân chủ còn hạn chế do xu hướng phản động ở thuộc địa còn mạnh.

Hội nghị phân tích rõ tình hình phức tạp của các đảng phái chính trị ở

Đông Dương. Tuy nhiên, hoạt động của ĐCSĐD vẫn mạnh mẽ và đang tập trung

được ngày càng nhiều các lực lượng tiến bộ. Tại Hội nghị này, Ban Chấp hành

Trung ương có 11 đồng chí (2 đồng chí đang ở nước ngoài). Đồng chí Hà Huy

Tập thôi giữ chức Tổng Bí thư. Ban Chấp hành Trung ương bầu đồng chí

Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư của Đảng. [41, tr.342-365]

Sau Hội nghị Trung ương, có hai sự kiện đáng lưu ý: Thứ nhất là việc

Báo Tin tức, cơ quan Mặt trận Dân chủ ra số đầu tiên nhân danh “Cơ quan Mặt

trận Dân chủ” do đồng chí Đặng Xuân Khu (Trường Chinh), phụ trách Ban

Tuyên truyền cổ động của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trực tiếp chỉ đạo.

Báo đặt trụ sở tại Hà Nội và trở thành trung tâm chỉ đạo phong trào Mặt trận

Dân chủ ở Bắc Kỳ. Báo truyền bá những quan điểm Mácxít và chủ trương,

chính sách của Đảng với danh nghĩa Mặt trận Dân chủ, kiên quyết đấu tranh

chống những quan điểm lý luận phản động của các thế lực tay sai Pháp, Nhật,

phái Tờrốtkít. Thứ hai là Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi Báo cáo ngày

5-4-1938 cho Ban Phương Đông về công tác xây dựng Đảng và tổ chức quần

chúng. Theo đó, đến tháng 4-1938, ĐCSĐD có 1.597 đảng viên (Nam Kỳ 655

đảng viên, Trung Kỳ 740 và Bắc Kỳ 202 đảng viên). Ở Nam Kỳ, số đảng viên

không tăng. Ở tỉnh Cao Bằng thuộc Bắc Kỳ, số lượng đảng viên chỉ có 20

đồng chí so với báo cáo trước đó là 200 người. Ở Lào và Campuchia chỉ có 16

đảng viên và hơn 100 hội viên Công hội. Ban Chấp hành Trung ương mới được

tổ chức lại với 11 đồng chí uỷ viên (2 đồng chí ở nước ngoài). [41, tr.369-387]

Nhận thấy diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và sự thỏa hiệp của

một số nước đối với phe phát xít, ngày 29-10-1938, ĐCSĐD ra Tuyên ngôn đối

65

với thời cuộc, thể hiện rõ lập trường quan điểm của Đảng. Đảng phê phán chính

sách ngoại giao “thỏa hiệp, mập mờ, sai lầm” của Anh và Pháp, hy sinh quyền

lợi của các nước nhỏ yếu, chỉ góp phần nuôi dưỡng ngọn lửa chiến tranh. Khối

các nước phát xít Đức, Ý, Nhật đang ra sức lợi dụng thái độ nhu nhược của Anh,

Pháp, mở rộng khu vực chiếm đóng; ráo riết chuẩn bị chiến tranh thế giới. Ở

châu Á, chính sách xâm lược của phát xít Nhật ở Trung Quốc, nhất là ở

Hoa Nam, đang trực tiếp đe dọa Đông Dương. Đảng kêu gọi nhân dân phản đối

chính sách đầu hàng thoả hiệp của Anh, Pháp, ủng hộ Liên bang Xôviết. Đảng

cho rằng để phòng thủ Đông Dương, cần phải có sự tham gia của đông đảo

quần chúng, ban bố các quyền tự do, cải thiện sinh hoạt dân chúng. Đồng thời,

cần đề phòng các lực lượng thân Nhật, thân Xiêm, lực lượng cực đoan Tờrốtkít,

luôn âm mưu phá hoại phòng thủ. Trái lại, nếu chính quyền thuộc địa

mượn tiếng phòng thủ mà đàn áp quần chúng, đàn áp những đảng phái ủng hộ

Mặt trận Nhân dân Pháp và Mặt trận Dân Chủ Đông Dương, thì sẽ mất hết

lực lượng cho sự phòng thủ Đông Dương, chỉ có lợi cho bọn phát xít xâm lược.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng kêu gọi các tầng lớp nhân dân và các

lực lượng tiến bộ ở Đông Dương tăng cường đoàn kết xung quanh Mặt trận

Dân chủ Đông Dương đấu tranh vì tự do, cơm áo, hòa bình, đòi phòng thủ

đất nước chống nguy cơ xâm lược của chủ nghĩa phát xít. [41, tr.431-434]

Tuyên ngôn một lần nữa khẳng định nhãn quan chính trị sắc bén của Đảng

trước tình hình thế giới, tình hình Đông Dương của ĐCSĐD đối với cuộc

đấu tranh cách mạng.

Cùng trong năm 1938, Đảng đã mở cuộc vận động ủng hộ nhân dân

Trung Quốc kháng chiến chống phát xít Nhật. Báo chí công khai của Đảng như

các tờ Tin tức, Dân, Dân chúng và báo chí tiến bộ hàng ngày cổ vũ cuộc

kháng chiến của nhân dân Trung Quốc, phản đối những hành động tiếp tay cho

giặc Nhật của nhà cầm quyền phản động Pháp ở Đông Dương. Đảng nêu khẩu

hiệu “giúp đỡ Trung Quốc”. Những người cộng sản sáng tác và phổ biến bài hát

“Giúp Trung Quốc tức là giúp mình”. Chủ trương của Đảng tạo ra một phong

66

trào ủng hộ nhân dân Trung Quốc kháng Nhật ở nhiều địa phương trong cả nước.

Nhân dịp những ngày kỷ niệm như 7-7 (ngày phát xít Nhật gây hấn xâm lược

Trung Quốc), ngày 11-2 (kỷ niệm Công xã Quảng Tây), bằng nhiều hình thức,

đảng bộ các địa phương đã biểu thị tinh thần đoàn kết, giúp đỡ, ủng hộ nhân dân

Trung Quốc. Ở Nam Bộ, báo Dân chúng cổ động và tiếp nhận sự giúp đỡ nhân

dân Trung Quốc, năm 1938 quyên góp được 399,83 đồng. Ở Bắc Bộ, bộ phận

hoạt động công khai của Đảng vận động chi nhánh Đảng Xã hội (Pháp) và các

đoàn thể quần chúng đứng ra tổ chức chợ phiên ở Hà Nội từ ngày 1 đến ngày 4-

12-1938, quyên góp được 785 đồng giúp đỡ nhân dân Trung Quốc. Sau

chợ phiên, Đảng vận động các tổ chức quần chúng tiếp đón đoàn Nhi đồng

Cứu vong Trung Quốc tại Hội quán Quảng Đông (phố Hàng Buồm ngày nay). Ở

Trung Bộ, phong trào ủng hộ nhân dân Trung Quốc cũng rất mạnh mẽ. Đảng bộ

Thanh Hoá phát động phong trào ủng hộ nhân dân Trung Quốc kháng Nhật, thu

được 100 đồng gửi các chiến sĩ du kích Trung Quốc kèm theo một bức thư với

3320 chữ ký ủng hộ cuộc kháng chiến chống phát xít Nhật. Tỉnh uỷ Nghệ An

tổ chức mít tinh, diễn thuyết, đá bóng, diễn kịch, ném hình nộm bọn trùm

phát xít... Hội Phụ nữ có sáng kiến tổ chức “gánh hàng ngày xuân”, đem sách

báo, hàng hoá về các chợ bán để quyên góp tiền bạc gửi giúp nhân dân Trung

Quốc. Ở nhiều địa phương khác như Nam Định, Vinh... nhân dân cũng bày tỏ

tinh thần đoàn kết với nhân dân Trung Quốc bằng nhiều hình thức. Phong trào

ủng hộ nhân dân Trung Quốc kháng Nhật thể hiện tình đoàn kết quốc tế cao cả,

tinh thần yêu chuộng hòa bình chống chiến tranh phát xít của nhân dân ta,

góp phần nâng cao uy tín của Đảng ở Đông Nam Á và thế giới.

Như vậy, trong khuôn khổ xã hội thuộc địa, những hoạt động công khai

hợp pháp của Mặt trận Dân chủ Đông Dương do ĐCSĐD lãnh đạo đã đem đến

cho phong trào dân tộc một sinh khí mới để phát triển, một sự chuyển biến mới

trong cách thức và nội dung đấu tranh. Mặt trận Dân chủ Đông Dương do ĐCS

đề xướng và làm nòng cốt có công lớn trong việc phát động cao trào dân chủ ở

Đông Dương. Mặt khác, trong cao trào Dân chủ những năm 1936 - 1939,

67

đời sống tư tưởng văn hóa của dân tộc cũng có nhiều thay đổi, phản ánh sự

chuyển biến của đời sống kinh tế-xã hội thuộc địa những năm trước chiến tranh.

Phong trào báo chí công khai phát triển mạnh ở cả phía Bắc và Nam

suốt những năm 1936 - 1939. Phía Bắc có các tờ Notre Voix, Le Travail, En

Avant, Tin Tức, Thời Thế, Đời Nay, Bạn Dân; Trung Kỳ có báo Nhành Lúa, Kinh

Tế Tân Văn, Dân, Sông Hương Tục Bản; Nam Kỳ có L’Avantgarde, Le Peuple,

Dân Chúng, Lao Động… Đó là những tờ báo cách mạng, như bản cương lĩnh của

“Notre Voix” tuyên bố: “Là tiếng nói của những người mong muốn hòa bình,

muốn được tự do và hạnh phúc hơn, của những người quyết tâm đấu tranh cho

một cuộc sống tốt đẹp hơn, đấu tranh chống lại các lực lượng bảo thủ và áp bức

xã hội, và chống lại những kẻ gây chiến, chủ nghĩa phát xít trong nước và trên

quốc tế”. Với mục tiêu dân chủ hòa bình tự do, bằng cuộc đấu tranh của những

người làm báo (qua các hội nghị báo chí ở Trung Kỳ ngày 27-3-1937, ở Bắc Kỳ

ngày 24-4-1937), ngày 30-8-1938, Chính phủ Pháp phải ban hành Luật Tự do

báo chí (dù chỉ ở địa phận Nam Kỳ).

Đến cuối năm 1938, khi cuộc chạy đua vũ trang chuẩn bị chiến tranh của

chủ nghĩa phát xít càng ráo riết thì các hoạt động đấu tranh dân chủ hòa bình gặp

càng nhiều khó khăn. Ở Đông Dương, nhà cầm quyền phản động thuộc địa bắt đầu

ngăn cản và cấm đoán những hoạt động dân chủ công khai của quần chúng. Tháng

8-1939, sắc lệnh kiểm duyệt báo chí được thực hiện. Những hoạt động có liên quan

đến ĐCSĐD đều bị theo dõi gắt gao. Về phần mình, ĐCSĐD trong Thông cáo khẩn

cấptháng 3-1939 đã kêu gọi chống khủng bố [41, tr.448-449]. Trước tình thế bất lợi,

Đảng kịp thời rút vào bí mật trước khi địch ra tay khủng bố truy lùng.

Riêng về Nguyễn Ái Quốc, sau Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, Người

được nhận vào công tác tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa.

Cuối năm 1936, Người trúng tuyển vào lớp nghiên cứu sinh, ngành lịch sử của

Viện.[Phụ lục 25, 26]. Tuy nhiên, khi Chiến tranh thế giới thứ hai ngày một

lan rộng, Nguyễn Ái Quốc nóng lòng được trở về nước hoạt động. Ngày 6-6-

1938, Người gửi thư cho Quốc tế Cộng sản bày tỏ nguyện vọng về nước

68

hoạt động (ký tên Lin) [Phụ lục 27]. Ngày 8-6-1938, Phòng Tổ chức Cán bộ của

QTCS gửi công văn tới Tổng Bí thư Ban Chấp hành QTCS Đimitơrốp đề nghị

giải quyết dứt điểm cho đồng chí Lin về nước công tác [Phụ lục 28]. Được sự

phê duyệt của Quốc tế Cộng sản, cuối năm 1938, sau một thời gian nghiên cứu,

học tập tại Liên Xô, đồng chí Nguyễn Ái Quốc trở lại Trung Quốc, hết sức chú ý

theo dõi tình hình thế giới và cách mạng trong nước.

Với tư cách một nhà hoạt động cách mạng Việt Nam, Người viết nhiều

bài báo ủng hộ cách mạng Trung Quốc và có ý kiến sâu sắc đối với phong trào

cách mạng Việt Nam, đăng trên tuần báo Notre Voix. Tháng 12-1938, bài báo

đầu tiên mang tựa đề “Người Nhật Bản muốn khai hoá Trung Quốc như thế nào?”

tố cáo tội ác của phát xít Nhật đối với nhân dân Trung Quốc. Dưới danh nghĩa một

nhà báo Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc phân tích tình hình Trung Quốc, tố cáo

tội ác của phát xít Nhật, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân

Trung Quốc đang chiến đấu cho độc lập, tự do. Nội dung các bài báo giới thiệu

cho những người cộng sản và nhân dân Việt Nam những kinh nghiệm đấu tranh

của nhân dân Trung Quốc, giúp nhân dân ta nâng cao cảnh giác, đấu tranh chống

chủ nghĩa phát xít, đòi hòa bình, đòi phòng vệ Đông Dương [103, tr.99-137].

Tháng 2-1939, Nguyễn Ái Quốc viết bài: “Thư từ Trung Quốc”, tập trung

nêu lên họa xâm lược của phát xít Nhật ở Trung Quốc và các quốc gia châu Á,

đồng thời nêu rõ hoạt động phá hoại của những kẻ Tờrốtxkít ở Trung Quốc, gián

tiếp báo động về những hoạt động của chúng ở Việt Nam, nhằm nhắc nhở,

giáo dục cán bộ, đảng viên nâng cao tinh thần cảnh giác, không thỏa hiệp trong

bất cứ vấn đề nào. Cùng với những bài báo, Nguyễn Ái Quốc còn gửi thư cho

Trung ương ĐCSĐD, trực tiếp truyền đạt tinh thần Nghị quyết Đại hội VII

QTCS, nêu những ý kiến về đường lối, chủ trương của Đảng trong thời kỳ

thực hiện Mặt trận dân chủ Đông Dương:

- Về khẩu hiệu đấu tranh: không nên đưa ra những đòi hỏi quá cao, như

độc lập dân tộc mà chỉ nên đòi các quyền dân chủ, tự do hội họp, tự do

tổ chức,… đấu tranh để Đảng được hoạt động hợp pháp.

69

- Về công tác mặt trận: Phải ra sức tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất

rộng rãi, bao gồm cả những người Pháp tiến bộ ở Đông Dương và giai cấp tư sản

dân tộc.

- Về vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận

thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành

nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác

hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực

lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.

- Về quan hệ quốc tế: “Phải duy trì quan hệ chặt chẽ với ĐCS Pháp”, “với

Mặt trận Nhân dân Pháp”, vì mặt trận này “có thể giúp rất nhiều cho ta”.

Sau đó, Người báo cáo QTCS những ý kiến về đường lối mà Người đã

truyền đạt cho Trung ương ĐCSĐD và tình hình công việc của Người trong 9 tháng

qua như: làm phiên dịch tin tức, viết sách về Khu vực đặc biệt, và một số bài báo

phản ánh những biến cố chính trị, quân sự ở Trung Quốc.

Đầu năm 1939, tình hình chính trị trên thế giới và trong nước phát triển

theo chiều hướng xấu. Ngày 30-10-1938, Thủ tướng Pháp Đalađiê (Édouard

Daladier) đầu hàng phát xít Đức một bước, ký Hiệp ước Munich chia cắt Tiệp

Khắc. Mặt trận Nhân dân Pháp bắt đầu tan rã. Lực lượng phái hữu và phát xít ở

Pháp phản công các lực lượng dân chủ, đẩy tới nguy cơ chiến tranh cao. Ở Đông

Dương, lực lượng phản động thuộc địa bất chấp luật pháp và các sắc lệnh của

Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp ban hành ở Đông Dương, tấn công phong

trào dân chủ, khủng bố, đàn áp các tổ chức dân chủ và các cuộc đấu tranh của

quần chúng đòi dân sinh, dân chủ, bắt những người hoạt động chính trị vì dân

chủ và hoà bình. Số tù chính trị còn bị giam trong nhà tù thực dân khá đông chưa

được trả tự do, nay lại đầy thêm những người mới bị bắt.

Tình hình này khiến ĐCSĐD phải có những bước chuyển, định ra phương

hướng hành động của toàn Đảng, toàn dân đi tới giải phóng dân tộc, giành chính

quyền về tay nhân dân.

70

Tiểu kết chương 2

Có thể nói, hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1930 đến năm 1939 đã

đạt được những kết quả quan trọng đầu tiên:

1. Nâng cao vị thế của Đảng:

Đây là thời kỳ đường lối đối ngoại của Đảng được hình thành. Dù là một

Đảng non trẻ, mới ra đời, bị thực dân Pháp đàn áp, khủng bố nặng nề nhưng

ĐCSĐD đã dần từng bước xây dựng mối quan hệ với QTCS và các ĐCS anh em.

Trong mối quan hệ với QTCS, ĐCSĐD được công nhận là một phân bộ

độc lập của QTCS. Đây là một lợi thế lớn trên nhiều mặt. QTCS không những

chỉ đạo hoạt động của ĐCSĐD mà ĐCSĐD còn nhận được sự giúp đỡ không

nhỏ về lý luận cách mạng, về kinh phí hoạt động cũng như về đào tạo nhân lực.

Nhờ đó, Đảng dần dần xây dựng, củng cố lực lượng, xây dựng tổ chức Đảng

thành một hệ thống từ Trung ương đến địa phương. Việc đồng chí Tổng Bí thư

Lê Hồng Phong tham gia Ban Chấp hành QTCS không những thể hiện sự tín

nhiệm của QTCS với ĐCSĐD, mà còn cho thấy đảng viên ĐCSĐD đã có đóng

góp vào sự nghiệp chung của QTCS.Vị thế của Đảng được nâng lên rõ rệt.

2. Mở rộng mối quan hệ, đoàn kết với các Đảng Cộng sản anh em, tích

cực đấu tranh vì hòa bình dân chủ:

Trong mối quan hệ với các ĐCS khác, nhất là Đảng Cộng sản Pháp, ĐCSĐD

đã nhận được nhiều sự ủng hộ. Từ việc đơn thuần đón nhận sự giúp đỡ khi mới

thành lập, ĐCSĐD ngày càng có nhiều hoạt động cổ vũ cho phong trào của các

ĐCS anh em. Bên cạnh đó, Đảng cũng càng lúc càng tích cực đóng góp vào sự

nghiệp đấu tranh vì hòa bình, chống phát xít của nhân dân tiến bộ trên thế giới.

Những chủ trương, đường lối và hoạt động đối ngoại của Đảng thời kỳ

này đã bước đầu định hình rõ nét đường lối đối ngoại của Đảng; thể hiện sự sáng

suốt và linh hoạt trước bối cảnh, tình hình, đặc biệt là trước mỗi đối tượng đối

ngoại mà Đảng thực hiện. Qua việc ngày càng chủ động phát triển các mối quan

hệ, có thể thấy từng bước trưởng thành trong đối ngoại của Đảng. Đó là cơ sở để

Đảng tiếp tục vận dụng, phát triển hoạt động đối ngoại ở giai đoạn 1939-1945.

71

Chương 3

HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG

TRONG CAO TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

TỪ THÁNG 9 NĂM 1939 ĐẾN THÁNG 8 NĂM 1945

3.1. HOÀN CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC

3.1.1. Hoàn cảnh quốc tế

Từ 1-9-1939 đến 2-9-1945, Chiến tranh thế giới thứ hai khốc liệt giữa Khối

Trục theo chủ nghĩa phát xít (Đức, Ý, Nhật Bản) và phe Đồng minh (nhiều quốc

gia, trong đó các nước giữ vai trò chính yếu là Liên Xô, Anh, Mỹ và Pháp) diễn ra.

Cuộc chiến gồm nhiều mặt trận: mặt trận Tây Âu; mặt trận Xô - Đức; mặt

trận Bắc Phi; mặt trận châu Á - Thái Bình Dương và mặt trận trong lòng địch của

nhân dân các nước bị phát xít chiếm đóng. Trong đó, ngoài mặt trận chủ yếu,

quyết định đối với toàn bộ tiến trình của Chiến tranh thế giới thứ hai là mặt trận

Xô-Đức [141, tr.187], tác động đến số phận của Việt Nam, là mặt trận Tây Âu

(cụ thể là Pháp) và trực tiếp nhất là mặt trận châu Á-Thái Bình Dương. Cũng

trong Chiến tranh thế giới thứ hai, năm 1943, QTCS-tổ chức lãnh đạo phong trào

vô sản quốc tế đã tự giải tán, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của các

ĐCS trên thế giới.

* Nước Pháp tại mặt trận Tây Âu:

Ngày 10-5-1940, quân Đức tràn vào Pháp, Bỉ, Hà Lan và Lúc-xăm-bua.

Chỉ trong thời gian ngắn, Đức vượt qua phòng tuyến của Pháp và đầu tháng 6

đến thủ đô Pari. Ngày 10-6, Chính phủ Pháp bỏ Pari chạy về Tua. Nội bộ Chính

phủ Pháp mâu thuẫn, trong đó đa số thành viên Chính phủ chấp nhận đầu hàng.

Ngày 17-6, Pê tanh (Pétain) lên cầm đầu chính phủ đầu hàng phát xít Đức, Ý.

Nền Cộng hòa Pháp bị thủ tiêu, thay thế bằng chế độ độc tài quân sự. [145,

tr.191-192]. Ngày 27-10-1940, Đờ Gôn (DeGaulle) thành lập “Chính phủ Pháp

tự do”, muốn dựa vào lực lượng Anh, Mỹ để giải phóng đất nước.

Mỹ và Anh vẫn chưa tham gia chiến tranh, mà theo dõi tình hình các mặt

trận. Khi thấy thất bại của Đức đã rõ ràng, Mỹ - Anh mới mở Mặt trận thứ hai,

72

đổ bộ lên miền Bắc Pháp vào ngày 6-6-1944. Ngày 25-8-1944, quân Đồng minh

tiến vào Pari. Chính phủ lâm thời của nước Cộng hòa Pháp, do Đờ Gôn đứng

đầu, được thành lập ở Pari. Nước Pháp được giải phóng khỏi ách phát xít Đức.

* Mặt trận Xô-Đức: Ngày 22-06-1941, Liên Xô chính thức bước vào cuộc

chiến. Phát xít Đức mở cuộc tấn công trên khắp biên giới phía Tây của Liên Xô,

dù tháng 8-1939, hai nước đã ký Hiệp ước không xâm lược Xô-Đức.

Tháng 10-1941, Đức tập trung lực lượng mở cuộc tấn công vào Mátxcơva.

Sáng 7-11-1941, kỷ niệm lần thứ 24 ngày Cách mạng Tháng Mười, một cuộc

duyệt binh đặc biệt diễn ra, trong đó các đơn vị duyệt binh sẵn sàng vũ khí và

đạn dược, diễu qua Hồng trường và tiến thẳng ra mặt trận. Trong đó, có một

trung đoàn quốc tế thuộc sư đoàn cơ động đặc nhiệm của Hồng quân (gọi tắt

tiếng Nga là OMSBON) gồm hơn 2.000 người cộng sản của Bungary, Séc,

Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Pháp... Tham gia trung đoàn này có 6 người Việt Nam

tình nguyện gia nhập Hồng quân, 3 người trong số đó đã hy sinh ở ngoại ô

Mátxcơva. Đây đều là những học sinh Việt Nam được Nguyễn Ái Quốc cử sang

Liên Xô học tập ở Trường Đại học Phương Đông, Viện Nghiên cứu những vấn

đề Dân tộc và Thuộc địa, Trường Quốc tế Lênin trong những năm 1920.2 Trận

Stalingrad diễn ra cuối năm 1942 mở đầu cho những thất bại của phát xít Đức.

Ngày 16-4-1945, Liên Xô tấn công Béclin, và chiếm toàn thành phố ngày 2-5.

Ngày 9-5-1945, lễ ký kết văn kiện đầu hàng không điều kiện của phát xít Đức

được tiến hành, kết thúc cuộc chiến tranh ở châu Âu.

* Mặt trận châu Á - Thái Bình Dương:

Ở châu Á, Nhật Bản sớm có dã tâm bành trướng. Tháng 9-1931, Nhật xâm

lược miền Đông Bắc Trung Hoa, rồi dần mở rộng khu vực chiếm đóng. Tháng

11-1937, Đức, Ý và Nhật ký Hiệp ước chống QTCS. Ngày 23-9-1940, với sự

2 Cuối năm 1985 Hội đồng Xô viết tối cao Liên Xô đã truy tặng huân chương chiến tranh Vệ quốc hạng

Nhất cho 5 người Việt Nam,gồm 4 trong số 6 người tham gia OMSBON (3 đồng chí hi sinh ở ngoại ô

Mátxcơva và 1 đồng chí bị bắn chết ở Trung Quốc) và 1 người làm việc trong quân y viện. (Theo Nhà báo

Aleksei Syunnenberg, nhà Việt Nam học, phóng viên đặc biệt của Ban tiếng Việt, Đài Tiếng nói nước Nga)

73

giúp đỡ của Đức, Nhật đã ký với Chính phủ Pháp hiệp định để Nhật đưa quân

đội vào Đông Dương. Ngày 27-9-1940, ba nước phát xít lại ký hiệp ước đồng

minh quân sự và chính trị ở Béclin. Hiệp ước này nhằm chống Liên Xô, và cả

Anh, Mỹ. Hiệp ước đề ra việc phân chia thế giới: Đức, Ý ở châu Âu; Nhật ở

Viễn Đông. [141, tr.193] Ngày 7-12-1941, máy bay Nhật oanh tạc dữ dội các tàu

chiến và sân bay Mỹ ở cảng Trân Châu (Hawaii), gây tổn thất nặng cho Mỹ.

Ngày 8-12-1941, Mỹ và Anh tuyên chiến với Nhật Bản.

Từ cuối năm 1941 đến tháng 5-1942 là giai đoạn Nhật Bản thắng lớn. Anh -

Mỹ bị đánh bật ra khỏi Thái Bình Dương, mất hết các thuộc địa Đông Nam Á và

Nam Thái Bình Dương. Ngày 7-12-1941, quân Nhật từ Đông Dương kéo vào Thái

Lan. Ngày 31-12-1941, quân Nhật tấn công Inđônêxia. Ngày 15-2-1942, Xingapo

thất thủ. Đầu tháng 5-1942, quân Nhật chiếm được toàn bộ lãnh thổ Philíppin.

Đầu năm 1943, Mỹ chuyển sang phản công trên toàn chiến trường, chiếm

lại các quần đảo và đảo ở Thái Bình Dương.

Ngày 6-8 và ngày 9-8-1945, Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống

Hirosima và Nagasaki, hủy diệt 2 thành phố này. Ngày 8-8-1945, Liên Xô tuyên

chiến với Nhật. Ngày 9-8-1945, Hồng quân Liên Xô chính thức mở cuộc tấn

công vào đạo quân Quan Đông của Nhật và chỉ trong một tuần đã đánh bại đạo

quân này. Ngày 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các nước Đồng minh.

Ngày 2-9-1945, Nhật chính thức ký văn kiện đầu hàng, Chiến tranh thế giới

thứ hai kết thúc.

* QTCS tự giải tán

Trong năm 1943, QTCS - tổ chức cách mạng quốc tế lớn chỉ đạo

phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cũng như phong trào giải phóng dân

tộc thuộc địa - tự giải thể. Nguyên nhân là do Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra

và lan rộng đã cản trở hoạt động của QTCS. Sự khó khăn trong duy trì liên lạc

với nhau cũng như đa dạng trong tình hình mỗi nước khiến việc lãnh đạo phong

trào cộng sản quốc tế từ một trung tâm duy nhất không còn thích hợp nữa. Thêm

nữa, các thế lực tư bản quốc tế coi sự tồn tại của QTCS như cái cớ để trì hoãn

74

việc triển khai mặt trận đồng minh chống phát xít. Do nhu cầu cấp thiết phải

“củng cố hơn nữa mặt trận thống nhất của các nước” [172, tr.107], ngày 15-5-

1943, Ban Chấp hành QTCS đã ra quyết định giải tán QTCS.

Ngày 8-6-1943, Hội nghị cuối cùng của Ban Chấp hành QTCS ra

nghị quyết, từ 10-6-1943, tất cảhoạt động của QTCS kết thúc. QTCS tự giải thể,

ngoài nguyên nhân trực tiếp là tình hình chiến tranh, còn có căn nguyên sâu xa

là tổ chức này đã hoàn thành vai trò lịch sử của mình. Những sự kiện trọng đại

của thế giới này có ảnh hưởng lớn đến tình hình cách mạng ở Việt Nam.

3.1.2. Hoàn cảnh trong nước

Do tham dự vào Chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền Pháp thực thi

chính sách thời chiến một cách thô bạo ở Đông Dương. Là thuộc địa đem lại

lợi ích kinh tế hàng đầu cho Pháp, trong chiến tranh, Đông Dương càng bị

thực dân Pháp bóc lột ghê gớm. Chúng thực hiện chính sách kinh tế thời chiến,

tức là chính sách “kinh tế chỉ huy” nhằm huy động tối đa sức người, sức của

phục vụ chiến tranh. Chính quyền thực dân vơ vét vàng bạc, phát hành thêm tiền

giấy, ấn định giá cả, tăng thuế cũ, thêm thuế mới, phát hành công trái, sa thải

viên chức, giảm tiền lương, tăng giờ làm, bắt lính... Đã có 8 vạn lính Việt Nam

bị đưa sang Pháp. [88, tr.340-341]

Những quyền tự do, dân chủ đã giành được trong thời kỳ 1936-1939 bị

thủ tiêu. Toàn quyền Pháp ra nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, đóng cửa các

tờ báo và nhà sản xuất, cấm hội họp và tụ tập đông người. Ngày 4-1-1940,

Toàn quyền Đông Dương Catơru (George Catroux) tuyên bố: “Chúng ta đánh

toàn diện và mau chóng vào các tổ chức cộng sản; trong cuộc đấu tranh này, phải

tiêu diệt cộng sản thì Đông Dương mới được yên ổn và trung thành với nước

Pháp. Chúng ta không có quyền không thắng. Tình thế chiến tranh bắt buộc

chúng ta hành động không chút thương tiếc” [152, tr.304].

Đồng thời, Đông Dương cũng là mục tiêu quan trọng của Nhật Bản trong

chiến lược bành trướng. Đông Dương có vị trí thuận lợi, phù hợp làm bàn đạp

mở rộng xâm lược các nước: từ Bắc Kỳ có thể tấn công vào miền Nam

75

Trung Quốc; từ Nam Kỳ có thể sang các nước Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ và

vùng hải đảo Đông Nam Á, thậm chí mở rộng tầm kiểm soát tới các đảo phía

Nam Thái Bình Dương (Ôxtrâylia, Niu Di-lân...). Đây còn là nguồn dự trữ

chiến lược quan trọng về lương thực, thực phẩm, năng lượng và các tài nguyên

khác phục vụ chiến tranh: các vựa lúa ở đồng bằng sông Cửu Long và sông

Hồng, mỏ than ở Bắc Kỳ, rừng cao su ở Nam Kỳ và Campuchia cùng các loại

khoáng sản trải rộng trên cả bán đảo có khả năng đáp ứng nhu cầu của quân đội

Nhật [125, tr. 49]. Ngày 2-7-1940, Pháp bị buộc phải để Nhật sử dụng Bắc Kỳ

làm đường tiếp tế cho quân Nhật đóng ở Quảng Tây, Vân Nam, binh sĩ Nhật

được điều trị tại các bệnh viện của Pháp. [125, tr. 50].

Ngày 29-8-1940, đại diện hai chính phủ Nhật và Pháp ký Hiệp ước phòng

thủ chung. Theo đó, Nhật công nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương, Pháp

công nhận đặc quyền của Nhật được sử dụng các cơ sở quân sự ở Bắc Kỳ trong

cuộc chiến tranh xâm lược phía Nam Trung Quốc. Nhật không đánh đuổi Pháp

ra khỏi Đông Dương, còn Pháp phải để Nhật hoạt động tự do ở Bắc Kỳ. Nhật

được sử dụng ba sân bay ở Bắc Kỳ (Cát Bi, Gia Lâm, Kép), đóng 6.000 quân ở

phía Bắc sông Hồng và chuyển quân từ Quảng Tây đến Vân Nam qua Bắc Kỳ,

mỗi lần không quá 25.000 quân [125, tr.51].

Pháp không đủ sức chống lại Nhật, phải chấp nhận các yêu sách, để quân

Nhật di chuyển trên lãnh thổ Đông Dương. Đông Dương đã bị biến thành căn cứ

quân sự của Nhật để đánh chiếm toàn Đông Nam Á.

Đồng thời, Nhật sử dụng tầng lớp tay sai người Việt tụ tập trong các đảng

phái phản động như Đại Việt quốc dân Đảng, Đại Việt dân chính Đảng, Đại Việt

cách mạng Đảng, Quốc dân Đảng cải tổ, Đảng Phục Việt (tàn dư của Đảng Phục

quốc), đảng Dân xã,... Các đảng này hoạt động dưới sự chỉ đạo và chi tiền của

Nhật, không có ảnh hưởng trong nhân dân [125, tr.53].

Dù phải nhượng bộ, chấp nhận những yêu sách của Nhật, song Pháp vẫn

cố duy trì quyền lợi của mình ở thuộc địa, ngầm chuẩn bị lực lượng lật đổ Nhật,

phục hồi chế độ cai trị thực dân khi quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương.

76

Chính sách của Pháp là tranh thủ giới thượng lưu Đông Dương và khuyến khích

các nhóm hội thân Pháp hoạt động.

Dưới hai tầng áp bức của Nhật và Pháp, nhân dân Việt Nam càng bị bóc

lột nặng nề hơn. Gánh nặng lương thực, tiền bạc Nhật bắt Pháp nộp lại đổ lên

đầu nhân dân. Mức nộp này mỗi năm một tăng: năm 1941 là 558.000 tấn gạo, 58

triệu đồng; năm 1942 là 973.000 tấn gạo, 85 triệu đồng; năm 1943 là 1.023.470

tấn gạo, 117 triệu đồng; năm 1944 là 363 triệu đồng [125, tr.52]. Quân Nhật

cướp ruộng đất xây dựng trại lính, bắt nông dân nhổ lúa trồng đay phục vụ nhu

cầu chiến tranh. Tình trạng bóc lột nặng nề và kéo dài khiến xảy ra nạn đói đầu

năm 1945, làm cho gần 2 triệu người chết đói ở miền Bắc.

Không cam chịu cảnh áp bức, được tập hợp dưới ngọn cờ của Mặt trận

Việt Nam độc lập đồng minh (thành lập tháng 5-1941), nhân dân nổi dậy đấu tranh.

Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập ở

Cao Bằng, thực hiện công tác vũ trang tuyên truyền, xây dựng cơ sở cách mạng,

cổ vũ và thúc đẩy phong trào cách mạng và quần chúng trong cả nước.

Tháng 8-1944, nước Pháp được giải phóng, Nhật lo ngại khi quân

Đồng minh vào Đông Dương, quân Pháp sẽ phối hợp nổi dậy đánh Nhật.

Do vậy, để nắm quyền chủ động, ngày 9-3-1945, Nhật tiến hành đảo chính Pháp

ở Sài Gòn, Hà Nội, Huế và các tỉnh, thành khác, nhanh chóng nắm lấy

chính quyền. Từ đây, Nhật trực tiếp cai trị ở Đông Dương.

Trong khi Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn cuối, ở

Việt Nam, cao trào kháng Nhật cứu nước sục sôi, chỉđợi thời cơ để vùng dậy.

Ngày 12-8-1945, được tin Nhật hàng Đồng minh, Hồ Chí Minh và Thường vụ

Trung ương họp quyết định lập tức phát động Tổng khởi nghĩa. Ngày 13-8,

Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy ban khởi nghĩa

toàn quốc, ra Lệnh khởi nghĩa. Nhân dân cả nước nổi dậy giành chính quyền.

Chỉ trong 2 tuần lễ, ĐCSĐD đã lãnh đạo nhân dân vùng lên, đánh đổ

chính quyền địch ở các tỉnh, thành khắp cả nước. Đến cuối tháng 8, cuộc

tổng khởi nghĩa của nhân dân ta giành thắng lợi hoàn toàn.

77

Có thể thấy, Chiến tranh thế giới thứ hai đã tạo ra tình thế và thời cơ mới

cho phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trên thế giới. Ở

Viễn Đông, như nhận xét của Nguyễn Ái Quốc trong báo cáo gửi Ban Chấp hành

QTCS, tháng 7-1939, “cơn lốc lớn đang làm biến đổi số mệnh của hàng trăm

triệu con người”[103, tr.169]. Để nắm bắt được thời cơ đó, ĐCSĐD cần có

những bước đi đúng đắn để xây dựng, phát triển lực lượng và cần đặc biệt chú ý

hoạt động đối ngoại.

3.2. SỰ CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC VÀ HOẠT ĐỘNG ĐỐI

NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ THÁNG 9 NĂM 1939 ĐẾN THÁNG 8 NĂM 1945

3.2.1. Chủ trương về đối ngoại của Đảng

Trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và trong nước từ

khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, ngày 6-11-1939, Hội nghị Ban Chấp hành

Trung ương Đảng lần thứ sáu được triệu tập tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định),

do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Hội nghị phân tích tính chất của

Chiến tranh thế giới thứ hai, vị trí của Đông Dương trong cuộc chiến tranh,

những chính sách của thực dân Pháp, thái độ của các giai cấp xã hội và đề ra

đường lối chính trị của cách mạng Đông Dương, cũng như quyết định thành lập

Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương.

Để ứng phó với tình hình mới (sự có mặt của phát xít Nhật ở

Đông Dương), Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ bảy (ngày 6 đến

9-11-1940 tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh). Hội nghị phân tích tình hình

thế giới, tình hình Đông Dương, tình hình Đảng và các hội quần chúng, đưa ra

đường lối cho cách mạng tương ứng với tình hình mới. Nhìn chung, đường lối

đối ngoại của Đảng qua hai hội nghị đều thống nhất ở hai nội dung: đấu tranh

chống đế quốc xâm lược và liên hệ, ủng hộ phong trào cách mạng thế giới.

- Đấu tranh chống đế quốc xâm lược

Trước khi Nhật vào, Đảng xác định đế quốc Pháp là kẻ thù mà cách mạng

phải đánh bại để giành độc lập. Nghị quyết Trung ương lần thứ sáu của Đảng có

đoạn nhận định:

78

Bây giờ tình thế đã đổi khác hẳn, đế quốc Pháp hiện giờ là một tên

thủ phạm đương phát động cuộc thế giới đế quốc chiến tranh.

Chính sách cai trị của Chính phủ Đalađiê đã hoàn toàn phản động

(phát xít hoá)… Đế quốc Pháp còn, dân chúng Đông Dương chết.

Đế quốc Pháp chết, dân chúng Đông Dương còn. [41, tr.536].

Bởi vậy, cuộc cách mệnh tư sản dân quyền do Mặt trận thống nhất dân tộc

phản đế Đông Dương thực hiện giải quyết trước hết chính là “Đánh đổ đế quốc

Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội

dân tộc” với quan điểm “Đánh đuổi hải lục không quân của đế quốc Pháp ra khỏi

xứ, lập quốc dân cách mệnh quân…”[41, tr.541,542]

Đường lối này được thể hiện một lần nữa trong chiến lược và chương

trình của Mặt trận thống nhất dân tộc giải phóng Đông Dương nêu trong

Con đường chính trị của ĐCSĐD trong cuộc Chiến tranh thứ hai: Về chiến

lược: “…Cứ đập vào đế quốc chủ nghĩa Pháp, hay một đế quốc nào muốn

xâm lấn Đông Dương,vào Chiến tranh lần thứ hai này (đả đảo đế quốc chiến

tranh).” [41, tr.569]; Về chương trình: “1. Phản đối chiến tranh - đánh đổ

đế quốc chủ nghĩa Pháp cũng như đế quốc nào muốn nuốt đất Đông Dương.

…4. Đuổi các hải lục không quân của các đế quốc ra khỏi đất đai, bờ biển

Đông Dương.” [41, tr.571]

Đặc biệt, từ Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, Đảng cũng nhận rõ nguy cơ

Pháp và Nhật hợp tác với nhau:

… sự mưu mô đầu hàng thỏa hiệp với phát xít Nhật đã đặt ra trước mắt

vấn đề sống còn của các dân tộc Đông Dương. Bước đường sinh tồn

của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là

con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận

da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập.[41, tr.536]

Trong Chủ trương của người cộng sản đối với vụ bắt lính, Đảng dự phòng

cho tình huống xảy ra cuộc chiến tranh giữa đế quốc Nhật và Pháp để xâu xé

Đông Dương:

79

…dân chúng Đông Dương không thể nào ủng hộ đế quốc Pháp,

tán thành “phòng thủ Đông Dương” chống phát xít Nhật, bởi vì phòng

thủ Đông Dương trong lúc này chỉ là phòng thủ quyền lợi cho đế quốc

Pháp. Tuy nhiên dân tộc Đông Dương cũng không thể bị những câu

“đồng chủng, đồng văn”, “tự trị, tự quyết” của bọn tay sai đế quốc

Nhật lừa gạt mà mở cửa rước bọn quân phiệt lùn về giày xéo giết hại

ta, xô lùa ta làm bia đỡ đạn cho chúng đánh cách mạng giải phóng của

dân tộc Trung Hoa và lan rộng đế quốc chiến tranh trên khắp Thái

Bình Dương. Trái lại, trong trường hợp ấy, muốn giữ gìn quê hương

xứ sở, muốn cứu vớt đồng bào, thì chỉ có phương pháp duy nhất là

nổi dậy đánh đổ đế quốc Pháp, đánh tan xâm lược của Nhật, làm cuộc

chiến tranh giải phóng dân tộc.[41, tr.577,578]

Từ khi Nhật vào Đông Dương, Nhật và Pháp bắt tay nhau đàn áp cách

mạng. Nhận thức được tình hình, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội

nghị lần thứ bảy và ra Nghị quyết. Theo đó, khẩu hiệu đầu tiên mà cuộc cách

mạng tư sản dân quyền Đông Dương thực hiện là: “Đả đảo đế quốc chủ nghĩa

Pháp, Nhật và các thế lực phản động ngoại xâm. Đả đảo phong kiến bản xứ phản

lại quyền lợi dân tộc.”[42, tr.68]. Hội nghị chủ trương lập Mặt trận dân tộc thống

nhất phản đế với Chương trình của Mặt trận có một điểm chính là đánh đổ đế

quốc Pháp, Nhật và những lực lượng ngoại xâm.[42, tr.79]. Phương pháp tuyên

truyền cổ động của Mặt trận có nhiều điểm nhấn mạnh việc chỉ ra bản chất của

Pháp và Nhật:

a) Vạch mặt bọn phản quốc Pêtanh, Đờcu, bọn phát xít Pháp, đày tớ của

Đức, Ý, Nhật, chịu trách nhiệm việc Pháp bại trận, và không được

khinh thường bọn ấy, lấy cớ rằng chúng sắp chết vì đế quốc chủ nghĩa

Pháp đã tan rã.

…d) Vạch rõ chính sách Liên Á xỏ xiên của Nhật, những tội ác của

chúng ở ngay Đông Dương, chính sách cai trị thâm độc và tàn nhẫn

của chúng ở các thuộc địa Nhật.

80

…g) Vạch rõ tại sao Pháp hàng Nhật và giúp Nhật đánh Tàu.[42, tr.79,80]

Đảng nhận ra bản chất của đế quốc Pháp và Nhật khi chúng hợp tác với

nhau cũng như chỉ ra mâu thuẫn ngầm giữa hai đế quốc khiến chúng không thể

mãi hòa hoãn:

Chẳng qua bọn phản động Pháp trong lúc ngắc ngoải, muốn đem hơi

thở cuối cùng giúp cho đế quốc Nhật ra khỏi vũng bùn lầy Trung

Quốc, vì chúng biết rằng Nhật thất bại tức là đế quốc chủ nghĩa mất

một tên sen đầm bên Viễn Đông, mà Tàu thắng, tức là các dân tộc bị

áp bức thắng. Vả lại bọn tư bản cá mập ở thuộc địa mà Đờcu làm đại

biểu, muốn thoả hiệp với Nhật để tìm chỗ tiêu thụ hàng hoá, như cao

su, quặng,… chính bọn Pêtanh, Đờcu cũng biết rằng chính sách đầu

hàng Nhật chỉ có thể hoà hoãn mối mâu thuẫn giữa hai đế quốc Pháp-

Nhật lúc này, nhưng dần dần sẽ đưa chúng đến chỗ chết. Nhưng chúng

đã tự biết không đủ sức chống nhau với Nhật để giữ nguyên vẹn lợi

quyền của chúng bên Đông Dương, nên chúng đành tự nguyện làm tên

đày tớ “trung thành” cho Nhật hoàng trên bán đảo Đông Dương này

để giúp Nhật phá cách mạng Tàu, dựa vào Nhật đặng đối phó với cách

mạng Đông Dương. Rồi một mặt chúng yêu cầu Đức, Ý giao thiệp với

Nhật để cho Pháp ở lại Đông Dương, giúp vào việc phát xít hóa Viễn

Đông và thế giới. Và chính Đức cũng muốn như thế. Và Đức đương

muốn cho Pêtanh bóc lột cái thuộc địa béo bở này để lấy tiền cung cấp

cho Đức đánh nhau với Anh.[42, tr.46]

Tóm lại, bất kỳ kẻ thù là Nhật hay Pháp, hay là cả hai, Đảng đều xác định

chỉ có dân tộc Đông Dương mới giải thoát được Đông Dương:

Sự thật đã bày ra đó, dân chúng Đông Dương không thể tin vào sức phòng

thủ của đế quốc Pháp đang ở trong thời kỳ phá sản nguy ngập, dân chúng

Đông Dương không còn mộng tưởng đến sự giúp đỡ của đế quốc Nhật

được. Chỉ có dân tộc Đông Dương mới giải thoát được Đông Dương.

81

Cơ hội đã đến, dân chúng Đông Dương phải phát động ngay cuộc tiến

công cuối cùng để diệt trừ hết lũ đế quốc giết người cướp nước bất kỳ

Pháp hay là Nhật. [42, tr.84]

- Liên hệ, ủng hộ phong trào cách mạng thế giới

Liên hệ với phong trào cách mạng thế giới, tận dụng sự ủng hộ của lực

lượng tiến bộ toàn thế giới và ủng hộ sự nghiệp cách mạng của các dân tộc bị áp

bức bóc lột là nội dung xuyên suốt trong đường lối đối ngoại của Đảng từ khi ra

đời năm 1930.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ sáu khẳng định tầm quan trọng

của việc liên lạc với các lực lượng cách mạng toàn thế giới:

… cuộc cách mệnh còn cần đến những lực lượng dự trữ gián tiếp như

vô sản Pháp, vô sản thế giới, Liên Xô, dân chúng thuộc địa và bán

thuộc địa. Trong cuộc tranh đấu với dân chúng Đông Dương, đế quốc

Pháp còn kéo các đế quốc khác hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp đồng minh

với nó để dẹp phong trào cách mệnh thì sự liên lạc đồng minh của các

dân tộc Đông Dương với các lực lượng cách mệnh giải phóng chống đế

quốc trên thế giới, với vô sản giai cấp thế giới, với thành trì cách mệnh

thế giới là Liên Xô, là một sự cần thiết không thể không có được, vì sự

đồng tình và ủng hộ cuộc cách mệnh thế giới có thể quyết định phong

trào cách mệnh trong xứ trong một phạm vi không phải nhỏ (kinh

nghiệm cách mệnh Tây Ban Nha và Trung Quốc).[41,tr.541]

Với Lào và Campuchia, Nghị quyết nêu ra việc thi hành quyền dân tộc tự

quyết ở một Đông Dương hoàn toàn độc lập:

Không một dân tộc nào có thể giải phóng riêng rẽ vì Đông Dương ở

dưới quyền thống trị duy nhất của đế quốc Pháp về mặt chính trị, kinh

tế và binh bị. Không có thể một bộ phận nào thoát khỏi nền thống trị

ấy mà chẳng liên quan đến cả toàn thể nền thống trị của đế quốc Pháp.

Sự liên hiệp các dân tộc Đông Dương không nhất thiết bắt buộc các

dân tộc phải thành lập một quốc gia duy nhất vì các dân tộc như

82

Việt Nam, Miên, Lào xưa nay vẫn có sự độc lập. Mỗi dân tộc có

quyền giải quyết vận mệnh theo ý muốn của mình, song sự tự quyết

cũng không nhất định nghĩa là rời hẳn nhau ra… [41,tr. 541]

Trong nhiều tài liệu, Đảng nhấn mạnh việc coi phong trào cách mạng thế

giới là chỗ dựa cũng như tuyên truyền ủng hộ Liên Xô, ủng hộ cách mạng:

“Tuyên truyền phản đối chiến tranh, chống chính trị chiến tranh, tuyên

truyền ủng hộ Xô Liên, ủng hộ Mặt trận thống nhất dân tộc giải phóng

Đông Dương.” [41, tr. 570]

… huống hồ dân chúng Đông Dương không bị cô độc, bên cạnh mình

còn có dân chúng Pháp, dân chúng Nhật, dân chúng vĩ đại Trung

Quốc kháng Nhật, các dân tộc nhỏ yếu ở Đông Dương, vô sản giai cấp

thế giới và các dân tộc thuộc địa chống đế quốc, cùng với Liên Xô

thành trì cách mạng thế giới luôn luôn đó ủng hộ [41, tr. 578]

Sự tuyên truyền vận động chống cuộc chiến tranh phản cách mạng của đế

quốc đánh Liên Xô là một nhiệm vụ khẩn cấp…Chúng ta phải vận động

dân chúng Đông Dương, đặc biệt là những người binh lính, và những

người sắp ra lính ủng hộ Liên bang Xôviết, biểu đồng tình với Liên bang

Xôviết, quay súng lại đánh đổ bọn đế quốc cướp nước ta. [41, tr. 579]

Các khẩu hiệu tuyên truyền thường thấy là:

“Ủng hộ Liên bang Xôviết; ủng hộ cách mạng Pháp, cách mạng Tàu,

cách mạng thế giới.”[41, tr. 580]

“Đả đảo phát xít Nhật chực lấy Đông Dương đánh cách mạng Tàu!

Liên lạc với cách mạng Tàu và thế giới!

Bắt tay Liên bang Xôviết thành trì cách mạng!”[42, tr.14]

Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương lần thứ bảy, bên cạnh việc chủ trương

“Liên minh với Liên bang Xôviết và ủng hộ Liên bang Xôviết.”[42, tr.71], còn

đặc biệt nhấn mạnh “ủng hộ cách mạng Tàu.” [42, tr.79]. Lúc này, cách mạng

Đông Dương và cách mạng Trung Quốc có chung kẻ thù là quân phiệt Nhật nên

83

Đảng chủ trương liên hiệp Mặt trận phản đế Đông Dương với Mặt trận kháng

Nhật ở Trung Quốc:

Muốn liên hiệp với Mặt trận kháng Nhật ở Tàu, trước hết hãy liên hiệp

ngay với những đoàn thể kháng Nhật của Hoa kiều ở Đông Dương.

Phải tổ chức ra những hội bạn của dân Tàu ở các nơi tập trung Hoa

kiều để dễ liên lạc với họ. Phải giúp cho Hoa kiều thống nhất các đoàn

thể kháng Nhật lại để tiện việc liên hiệp giữa Mặt trận phản đế Đông

Dương và Mặt trận kháng Nhật của Tàu. Ngoài ra phải tìm cách liên

lạc với Mặt trận nhân dân thống nhất kháng Nhật ở Tàu và chính phủ

kháng Nhật ở Tàu.[42, tr.81]

Trong mục Phương pháp tuyên truyền cổ động của Mặt trận, Nghị quyết

chủ trương ra một tờ báo làm cơ quan chung của Mặt trận, nội dung là:

b) Nói rõ cuộc vận động cách mạng của vô sản Pháp chống bọn phản

quốc, chống Đức quốc xã xâm lược, vai trò của ĐCS Pháp trong cuộc

giải phóng cho nước Pháp khỏi ách phát xít bên trong và bên ngoài.

… e) Phải nói rõ chính sách phiêu lưu của Nhật, thực lực của Nhật đã

bị tiêu hao, phong trào cách mạng ở Nhật và các thuộc địa của nó,

phong trào phản chiến ngày một bành trướng ở các nơi ấy (đội quân

quốc tế kháng Nhật ở Hoa Bắc và Mãn Châu, trong đó có cả người

Nhật, người Mãn Châu, người Cao Ly, Đài Loan, Tàu,... “Phản chiến

đồng minh hội” ở Quế Lâm do Lục Địa Viên và binh lính Nhật hàng

Tàu tổ chức ra).

… h) Chỉ rõ tại sao cách mạng Tàu sẽ thắng. [42, tr.79,80]

Lời kêu gọi các dân tộc Đông Dương của ĐCSĐD (1940) cũng có đoạn

viết: “Chỉ có cuộc tranh đấu của dân chúng Đông Dương bên cạnh nhân dân cách

mạng Trung Quốc mới bảo đảm được thắng lợi cuối cùng ... Cùng nhân dân Trung

Quốc phát động cuộc chiến tranh cách mạng chống giặc Lùn và giặc Thái. Diệt trừ

hết lũ phản bội dân tộc và bọn Việt gian thân Pháp, thân Nhật.”[42, tr.84]

84

Có thể thấy, dù nội dung tổng quát là liên hệ và ủng hộ phong trào cách

mạng thế giới không đổi, nhưng dựa theo tình hình thực tế mà đối tượng trọng

tâm của mối liên hệ và ủng hộ do Đảng đề ra có sự thay đổi qua các Hội nghị

Trung ương.

Đến Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương ĐCSĐD xác định

trong cuộc cách mạng Đông Dương, lực lượng phản cách mạng là hai đối tượng:

“1. Thống trị Pháp ở Đông Dương và bọn tay sai của chúng; 2. Phát xít Nhật và

bọn tay sai của chúng nó” [42, tr.118]. Xác định đúng kẻ thù có ý nghĩa lớn

trong đường lối cách mạng giải phóng dân tộc và thể hiện cách mạng Việt Nam

là một bộ phận của lực lượng dân chủ thế giới chống phát xít:

“Cuộc cách mạng Đông Dương là một bộ phận cách mạng thế giới và giai

đoạn hiện tại là một bộ phận dân chủ chống phát xít. Bởi vì Pháp – Nhật hiện

nay là một bộ phận đế quốc xâm lược và là một bộ phận phát xít thế giới.” [42,

tr.114]. Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh

(gọi tắt là Việt Minh), dự kiến thành lập một Chính phủ nhân dân của Việt

Nam Dân chủ Cộng hòa.

Về công tác đối ngoại (ngoại giao), chính phủ đó sẽ:

1. Hủy bỏ tất cả mọi hiệp ước mà Pháp đã ký với bất kỳ nước nào;

2. Tuyên bố các dân tộc bình đẳng và hết sức giữ hòa bình;

3. Kiên quyết chống tất cả các lực lượng xâm phạm đến quyền lợi của

nước Việt Nam;

4. Mật thiết liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản trên

thế giới [42, tr.150-151].

Để thực hiện nhiệm vụ đánh đuổi Pháp – Nhật, Việt Minh hiệu triệu nhân

dân với khẩu hiệu hành động là “phản Pháp - kháng Nhật - liên Hoa - độc

lập”[42, tr.123]. Nhưng cũng xác định và phân biệt rõ nhân dân lao động các

nước và kẻ thù cần đánh đuổi (chỉ có phát xít). Tuyên ngôn của Mặt trận Việt

Minh (tháng 10-1941) viết: “Việt Minh cũng không quên kêu gọi dân chúng cần

lao Nhật Bản và những người Pháp dân chủ hãy cùng dân tộc Việt Nam thống

85

nhất hành động đánh đổ kẻ thù chung là phát xít Nhật và bọn Pháp gian” [42,

tr.461].

Từ việc Hội nghị lần thứ tám xác định phát xít Nhật- Pháp là kẻ thù của

phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Đông Dương, Đảng và Mặt trận Việt

Minh hiệu triệu nhân dân “đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp, Nhật”. Đảng và

Mặt trận Việt Minh đã có nhiều hành động thiết thực nhằm thực hiện nhiệm vụ

trọng tâm này.

3.2.2. Hoạt động đối ngoại của Đảng từ tháng 9 năm 1939 đến

tháng 3 năm 1945

Các hoạt động đối ngoại thời kỳ này tập trung vào những nội dung chính:

3.2.2.1. Hoạt động đấu tranh chống đế quốc xâm lược

Thực hiện đường lối chống đế quốc xâm lược đề ra trong Nghị quyết

Trung ương sáu và Nghị quyết Trung ương bảy, đảng bộ các nơi tích cực

lãnh đạo nhân dân chống giặc, tiêu biểu nhất là khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940)

và khởi nghĩa Nam Kỳ (23-11-1940).

Ngày 22-9-1940, quân Nhật đánh vào Lạng Sơn, quân đội Pháp trên đường

thua chạy đã rút lui qua châu Bắc Sơn. Nhân cơ hội đó, Đảng bộ Bắc Sơn lãnh đạo

nhân dân nổi dậy tước khí giới của tàn quân Pháp để tự vũ trang cho mình, giải tán

chính quyền địch và thành lập chính quyền cách mạng (27-9-1940). Đội du kích

Bắc Sơn được thành lập và lớn dần lên. Nhưng sau đó, Nhật đã thỏa hiệp để Pháp

quay trở lại đàn áp, dồn dân, bắt giết cán bộ, đốt phá nhà cửa của nhân dân. Cuộc

khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại vào cuối năm 1940 nhưng đã để lại những bài học

quý báu về khởi nghĩa vũ trang, xây dựng chính quyền và còn đặt nền móng cho

việc xây dựng căn cứ địa cách mạng với lực lượng vũ trang đầu tiên (sau này

phát triển thành Cứu quốc quân I).

Tháng 10-1940, quân Xiêm, được phát xít Nhật xúi giục, gây xung đột

dọc biên giới với Lào và Cam-pu-chia. Chiến tranh với Xiêm nổ ra, thực dân

Pháp bắt binh lính Việt Nam ra trận làm bia đỡ đạn. Nhân dân Nam Kỳ rất bất

bình, đặc biệt nhiều binh lính đã đào ngũ, hoặc bí mật liên lạc với Đảng bộ Nam

86

Kỳ. Trước tình thế cấp bách, Đảng bộ Nam Kỳ đã quyết định khởi nghĩa tuy

chưa được sự đồng ý của Trung ương Đảng. Nhận thấy thời cơ chưa chín muồi,

Trung ương Đảng ra lệnh hoãn, nhưng cán bộ truyền lệnh bị Pháp bắt nên

Nam Kỳ vẫn tiến hành khởi nghĩa. Theo kế hoạch đã định, cuộc khởi nghĩa vẫn

nổ ra vào đêm 22 rạng sáng 23-11-1940 ở hầu khắp các tỉnh Nam Kỳ.

Nghĩa quân triệt hạ một số đồn bốt giặc, phá nhiều đường giao thông, thành lập

chính quyền nhân dân và tòa án cách mạng ở nhiều vùng thuộc các tỉnh Mỹ Tho,

Gia Định... Thực dân Pháp đã biết trước về kế hoạch nên ra lệnh giới nghiêm và

bủa lưới săn lùng các chiến sĩ cách mạng. Do thực dân Pháp đàn áp khốc liệt, cơ

sở đảng bị tổn thất nặng. Dù thất bại nhưng đây là cuộc khởi nghĩa rộng lớn và

mạnh mẽ nhất so với các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp trước đó, để lại

những bài học quý báu về vấn đề chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang, chuẩn bị cho

ĐCSĐD những kinh nghiệm để thực hiện cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945.

Ngoài lãnh đạo nhân dân đấu tranh vũ trang, ĐCSĐD còn thông qua

Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế vận động nhân dân chống lại chính sách của

Pháp và Nhật. Chẳng hạn, trước sự kiện Pháp đàm phán cắt bảy vạn km2 đất

Miên, Lào cho Thái theo sự sắp xếp của Nhật, trên báo Giải phóng, số 1 ngày

25-3-1941, Mặt trận đã ra Hiệu triệu tranh đấu chống cắt đất dâng cho Xiêm La

để kêu gọi nhân dân “đoàn kết tranh đấu dùng hết cách phản đối giặc Pháp, giặc

Nhật gán gấp chia sẻ Đông Dương” [41, tr.453].

Trước những diễn biến mới của tình hình trong và ngoài nước, từ ngày 25

đến ngày 28-2-1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp để bổ sung thêm

những chính sách cho phong trào cách mạng của Việt Nam mà nội dung về

Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật-Pháp và Mặt trận dân chủ chống Nhật ở

Đông Dương là một vấn đề quan trọng. Ban Thường vụ xác định: “Kẻ thù

số một của dân tộc Đông Dương lúc này không phải là tất cả đế quốc chủ nghĩa

mà chỉ là đế quốc phát xít, đặc biệt là phát xít Nhật- Pháp”… “Và tất cả các

lực lượng chống phát xít trên thế giới đều có thể giúp sức cho cách mạng

Đông Dương”. [42, tr.290-291]

87

Đảng nhận ra xu hướng Đờ Gôn trong những người Pháp ở Đông Dương,

những người đã chán cảnh làm đày tớ cho Nhật. Phong trào cách mạng sôi nổi ở

Pháp có nhiều ảnh hưởng đến một bộ phận những người Pháp ở Đông Dương.

Nếu quân Anh - Mỹ - Trung Quốc vào Đông Dương đánh Nhật thì hàng ngũ phát

xít Pháp ở Đông Dương sẽ có thể tan rã và một bộ phận sẽ quay ra phản Nhật.

Hoa kiều ở Đông Dương cũng bị phát xít Nhật - Pháp áp bức bóc lột nên

cũng mang tinh thần chống Nhật. Dù đang ngấm ngầm, song tuỳ theo tình thế

biến đổi (ví dụ quân Trung Quốc vào Đông Dương đánh Nhật), lực lượng này có

thể trở thành một lực lượng đáng kể.

Do đó, Hội nghị Thường vụ Trung ương đề ra đường lối: “Những người

cách mạng Đông Dương có thể và phải liên minh với các đảng phái chống phát

xít của người ngoại quốc ở Đông Dương (ví dụ Pháp và Hoa kiều) đặng thành

lập Mặt trận dân chủ chống Nhật ở Đông Dương” [42, tr.292]. Việc vận động

thành lập mặt trận này cần chú ý:

1. Phải phân biệt bọn Hán gian chính thức với hạng Hoa kiều bị bắt

buộc theo Uông Tinh Vệ, nhưng thực ra vẫn làm việc cho tổ quốc họ,

cũng như không thể coi tất cả người Pháp ở Đông Dương là Pháp gian

thân Trục. Nhưng đồng thời phải chống lại quan niệm sai lầm cho phát

xít Pháp còn nhân đạo hơn phát xít Nhật, và chống lại xu hướng đánh

giá quá cao Anh - Mỹ - Trung Quốc và phái Đờ Gôn hay ỷ lại vào

Liên Xô và mặt trận dân chủ chống phát xít xâm lược.

2. Phải coi việc tuyên truyền chống đế quốc chủ nghĩa Nhật là một việc

cần thiết vào bậc nhất. Song vạch rõ tội ác của Nhật và kêu gọi nhân

dân Đông Dương chống lại cũng chưa đủ, phải chú trọng cổ động binh

lính Nhật phản đối chính lệnh hà khắc của võ quan Nhật và giải thích

cho họ hiểu chỉ có cách hiệp lực với nhân dân Đông Dương đánh đổ

đế quốc chủ nghĩa Nhật mới mang lại cho họ nhân cách và tự do.

88

3. Phải chú trọng đến quyền lợi của Hoa kiều và của người Pháp và

nǎng ra truyền đơn cổ động họ. Nhưng đồng thời phải hết sức vạch rõ

tội ác của bọn phát xít Pháp và bọn Hán gian, Việt gian.

4. Phải nhân những chuyện người Pháp ở Đông Dương bị Nhật cướp

bóc làm nhục mà chỉ cho họ biết đó là kết quả của chính sách hàng

Trục của bọn Pêtanh, Đờcu; và kêu gọi họ cùng nhân dân Đông

Dương chống lại phát xít Nhật và bọn Pháp gian phản quốc.

5. Phải đề nghị với Việt Minh kêu gọi các phái đảng chống Nhật của

người Pháp và Hoa kiều ở Đông Dương và vận động mở những cuộc

đàm phán với họ. Khi nào những cuộc đàm phán ấy có kết quả thì đề

nghị với họ phát biểu tuyên ngôn chung chống phát xít Nhật, Pháp, do

các đảng phái dân chủ cùng ký tên... [42, tr. 296, 297]

Ngoài ra, Ban Thường vụ còn dự báo diễn biến tình hình chiến tranh với khả

năng Chính phủ của phái Đờ Gôn lãnh đạo nước Pháp sau khi đánh bại phát xít. Khi

đó ở Đông Dương, quyền thống trị của Nhật-Pháp ở Đông Dương đã bị lật đổ (do

cách mạng Đông Dương hay cuộc phản công của Anh-Mỹ-Trung Quốc), sẽ có thể

xảy ra trường hợp Anh-Mỹ ủng hộ lập lại chính quyền của phái Đờ Gôn.

Đảng xác định:

Hiện nay, ta cần liên minh với phái Đờ Gôn để chống Nhật. Nhưng ta

không tán thành phái này lập một chính phủ thuộc địa để tiếp tục

chính sách đế quốc của Pháp ở Đông Dương. Nên ta hết sức tranh đấu

cho chính phủ cộng hoà dân chủ của nhân dân Đông Dương thành lập.

Đối với những người Pháp chống phát xít ở Đông Dương (cũng như

các kiều dân chống phát xít của các nước khác), chính phủ này sẽ bảo

đảm tính mệnh và tài sản cho họ và thừa nhận cho họ được quyền cư

trú và quyền tự do sinh hoạt ở Đông Dương.

Nhưng nếu một ngày kia, mặc dầu cuộc tranh đấu của chúng ta, một

chính phủ của phái Đờ Gôn cứ thành lập, thì Đảng ta phải lãnh đạo cho

quần chúng nhân dân tranh đấu, khiến cho chính phủ ấy phải là chính

89

phủ chống phát xít của người Pháp và người Đông Dương; nghĩa là bên

trong nó phải ban bố quyền tự do dân chủ rộng rãi cho quần chúng và

cương quyết diệt trừ những phần tử tay sai của Trục (phát xít Pháp,

Việt gian, Hán gian); bên ngoài, nó phải liên minh với Liên Xô và ủng

hộ cuộc kháng chiến của Trung Quốc.” [42, tr.313-314]

3.2.2.2. Tranh thủ mối quan hệ với Trung Quốc

Đầu tháng 10-1938, Nguyễn Ái Quốc trở lại Trung Quốc trong bối cảnh

tình hình có nhiều thay đổi: ĐCS Trung Quốc lập lại Mặt trận thống nhất, hợp

tác với Quốc dân Đảng cùng chống Nhật. Theo đường dây của ĐCS Trung

Quốc, Người đi xuống Quảng Tây, tìm cách về gần Tổ quốc. Dừng chân tại Quế

Lâm (Quảng Tây), Nguyễn Ái Quốc, với bí danh Hồ Quang, làm việc tại Văn

phòng Bát lộ quân đồng thời tìm cách liên lạc với trong nước.

Vào khoảng nửa cuối tháng 11-1939, Nguyễn Ái Quốc tìm đường đi

Côn Minh, thủ phủ tỉnh Vân Nam. Tại Côn Minh, BCH ở ngoài của ĐCSĐD đã

được lập lại, do đồng chí Phùng Chí Kiên phụ trách. Tin tức từ trong nước đến

Côn Minh rất đều đặn. Nhờ sự giúp đỡ của các đồng chí trong Tỉnh ủy

Vân Nam, Người bắt được liên lạc với BCH ở ngoài của Đảng. Cuối tháng 2-

1940, Nguyễn Ái Quốc gặp đồng chí Phùng Chí Kiên.

Nghe tin Chính phủ Pê tanh đầu hàng phát xít Đức (6-1940), tạo ra những

điều kiện mới cho sự phát triển của phong trào cách mạng, Nguyễn Ái Quốc

quyết định triệu tập cuộc họp tại trụ sở báo Đ.T. Tại cuộc họp, Người nhấn

mạnh: “Đây là thời cơ thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách

về nước để tranh thủ nắm thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng” [2,

tr.14,15]. Hội nghị tán thành ý kiến của Người và quyết định: Tìm mọi cách về

nước. Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí trong BCH ở ngoài đã có những bước đi

khôn khéo, tận dụng mọi sự giúp đỡ để về nước.

Cuối tháng 6-1940, Người cử đồng chí Trần Văn Hinh đi Diên An để thiết

lập mối quan hệ với quốc tế, còn Người đi Trùng Khánh gặp Trung ương ĐCS

Trung Quốc. [67, tr.107]. Cuối tháng 7-1940, Người trở lại Côn Minh, định trở về

90

nước theo hướng Côn Minh-Lào Cai nhưng không thực hiện được. Cuối tháng

9, Nguyễn Ái Quốc cho người bắt liên lạc với Hồ Học Lãm - một chí sĩ yêu nước

sống ở Trung Quốc. Đầu năm 1936, ở Nam Kinh, Hồ Học Lãm đã đứng ra vận

động thành lập Việt Nam độc lập đồng minh hội. Đây là một tổ chức quần chúng

có đăng ký chính thức với Trung ương Quốc dân Đảng Trung Quốc nhằm tạo

danh nghĩa hợp pháp cho hoạt động của những người yêu nước và cách mạng

Việt Nam ở Nam Kinh; và cũng để tranh thủ sự giúp đỡ của Chính phủ Trung

Quốc đối với các dân tộc nhỏ yếu theo Di chúc của Tôn Trung Sơn. Tuy nhiên,

Hội cũng mới chỉ có cái tên được đăng ký chứ chưa hoạt động trong thực tế. Sau

khi tiếp xúc với Trương Bội Công, ông Lãm thông báo rằng thời cơ về nước đã

tới.Nguyễn Ái Quốc cũng cử cán bộ đi Liễu Châu gặp Trương Bội Công và đi

Quế Lâm gặp Lý Tế Thâm. [67, tr.110]

Tháng 10-1940, Nguyễn Ái Quốc cùng một số đồng chí rời Côn Minh đi

Quế Lâm (Quảng Tây), tìm đường trở về nước theo hướng mới. Khoảng tháng

10, trong một cuộc họp ở vùng ngoại ô Quế Lâm, Nguyễn Ái Quốc nhận xét về

những diễn biến tình hình vừa qua và chỉ dẫn về đối sách của ta:

Tình hình Quốc Cộng hợp tác hiện nay đang trải qua một bước rất gay

go... Từ nay kỷ luật bí mật của Đảng phải được chấp hành triệt để.

Sách vở, tài liệu phải hết sức cẩn thận. Mua sách, báo về chủ nghĩa

cộng sản, đọc xong hủy đi trước khi về nhà. Trong lúc giao dịch với

bọn Quốc dân Đảng tuyệt đối không để lộ mình là cộng sản [67, tr.111]

Trong việc giao dịch với Quốc dân Đảng không mong chi nhiều. Điều

chủ yếu là làm sao cho chúng không cản trở công việc của ta. Phải hết

sức bí mật. Về chuyện “Hoa quân nhập Việt” đừng chỉ nhìn mặt thuận

lợi. Hiện nay chỉ có Hồng quân Liên Xô và Hồng quân Trung Hoa

mới là những đội quân anh em, mới là đồng minh thực sự của ta. Còn

quân đội Tưởng Giới Thạch dù có vào Việt Nam để đánh Nhật cũng

chỉ là đồng minh tạm thời, về bản chất chúng vẫn là kẻ thù. Phải thấy

91

hết tính chất phản động của nó, nếu không thấy thì nguy hiểm. Chúng

nó không vào Việt Nam càng tốt cho ta hơn. [67, tr.111]

Người cũng nhận định tình hình chung trên thế giới và Đông Dương càng

có lợi cho ta, không nên ở Quế Lâm lâu, phải chuyển về biên giới tìm cách về

nước ngay để hoạt động.

Để tạo danh nghĩa hoạt động, theo chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, cần tận

dụng danh nghĩa hợp pháp của Việt Nam độc lập đồng minh hội (gọi tắt là Việt

Minh). Người cho lập ra Văn phòng làm việc của Việt Nam độc lập đồng minh

hội ở Quế Lâm, do ông Hồ Học Lãm làm Chủ nhiệm và đồng chí Phạm Văn

Đồng (bí danh Lâm Bá Kiệt) làm Phó Chủ nhiệm, để quan hệ với tướng Trương

Phát Khuê, Tư lệnh trưởng Đệ tứ chiến khu và tướng Lý Tế Thâm, Chủ nhiệm

hành dinh khu Tây Nam của Tưởng. Người nói thêm:

“Làm như thế, không những hợp pháp hóa được tổ chức của chúng ta ở đây

mà vấn đề quan trọng hơn là chúng ta còn có thể ở đây lâu dài làm nhiều việc

khác, giữ được mối quan hệ của chúng ta với Trung Quốc, nhất là với Đệ tứ chiến

khu, đề phòng việc “Hoa quân nhập Việt”. Làm thế nào khi chúng “nhập Việt”,

chúng ta đã ở trong nước và với danh nghĩa Việt Nam độc lập đồng minh hội

chúng ta có thể đàng hoàng buộc chúng phải nói chuyện với chúng ta” [80, tr.16].

Tổ chức Việt Nam độc lập đồng minh hội gọi tắt là Việt Minh đã có

những hoạt động nổi bật và được biết đến một cách rộng rãi ở hải ngoại.

Đầu tháng 12, Nguyễn Ái Quốc nhận được thư báo cáo của nhóm

công tác ở Tĩnh Tây (gồm Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh, Cao Hồng Lĩnh) và

báo cáo của Phạm Văn Đồng về bức điện của Trương Bội Công gửi Văn phòng

Đệ tứ chiến khu nhờ mời ông Hồ Học Lãm và ông Lâm Bá Kiệt, Chủ nhiệm và

Phó chủ nhiệm Văn phòng Việt Minh tại Quế Lâm đưa hội viên về Tĩnh Tây

(Quảng Tây) để tổ chức Đại hội hợp nhất “Việt Nam độc lập đồng minh hội” với

“Việt Nam dân tộc giải phóng uỷ viên hội”. [67, tr.117-118]

Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc chủ trương biến bức điện mời của

Trương Bội Công thành “giấy đi đường” của một đoàn cán bộ về Tĩnh Tây, rồi

92

từ đó qua biên giới về nước. Vừa sắp xếp chuẩn bị về nước, Người vừa viết báo

đăng trên Cứu vong nhật báo (Trung Quốc) để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân

Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam, như các bài: Ông-trôi-có-mat” (15-

11-1940), tố cáo Pháp- Nhật, ca ngợi tình đoàn kết của nhân dân Trung Quốc và

Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống Nhật- Pháp; Ca dao Việt Nam và cuộc

kháng chiến của Trung Quốc (4-12-1940), đưa tin nhân dân Việt Nam chi viện

mọi mặt cho cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Quốc; Mắt cá giả ngọc

trai (5-12-1940), tố cáo Nhật cho tay chân đóng giả nhân dân Trung Quốc để dò

la tin tức… Đồng thời, Người cũng viết nhiều bài tuyên truyền về sự chi viện của

nhân dân Việt Nam cho cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Quốc, coi “cứu

Trung Quốc là tự cứu mình”.

Cuối tháng 12-1940, Nguyễn Ái Quốc cùng một số cán bộ rời Quế Lâm đi

Tĩnh Tây (Quảng Tây). Tại đây, Người gặp đồng chí Hoàng Văn Thụ. Thay mặt

Trung ương Đảng, đồng chí Hoàng Văn Thụ báo cáo với Người tình hình trong

nước, những công việc đang thực hiện và kế hoạch chuẩn bị cho Hội nghị Trung

ương lần thứ tám, đồng thời đề nghị Người nên chọn hướng Cao Bằng để về

nước. Ngày 28-1-1941, Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc sau gần 30 năm bôn ba

tìm đường cứu nước.

Có thể thấy, trong giai đoạn 1939 – 1941, cùng những hoạt động của

Hồ Chí Minh, đường lối và hoạt động đối ngoại chủ yếu của ĐCSĐD vẫn

tập trung vào mục tiêu đấu tranh chống đế quốc xâm lược, liên hệ chặt chẽ cũng

như ủng hộ nhiệt tình phong trào cách mạng thế giới. Điểm khác biệt trong

giai đoạn này là, do chiến tranh thế giới thứ hai, đã xuất hiện thêm đối tượng

đấu tranh mới (phát xít Nhật) và phương thức đấu tranh cần có sự thay đổi để

thích hợp với hoàn cảnh mới.

Ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo

cách mạng Việt Nam. Người triệu tập Hội nghị lần thứ tám Trung ương ĐCSĐD

tại Pắc Bó (Cao Bằng), từ ngày 10 đến 19-5-1941. Theo đề nghị của

93

Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã bầu Ban Chấp hành Trung ương mới và cử đồng

chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư của Đảng.

Phân tích những diễn biến lớn về tình hình thế giới và tương quan các lực

lượng ở Đông Dương, Hội nghị đề ra việc chuyển hướng hoạt động của Đảng, với

các chủ trương, hình thức, bước đi cụ thể, thích hợp. Hội nghị đã giải quyết một

cách đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, quyết định thành lập Mặt trận

Việt Minh để tập hợp lực lượng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết, xác

định việc chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền là nhiệm vụ trung tâm của Đảng

và dân tộc trong giai đoạn mới. Về đối ngoại, việc thành lập Mặt trận Việt Minh

có thể giúp Đảng sử dụng những mặt trận toàn dân, đấu tranh chống phát xít và

đồng thời giúp Đảng giao thiệp với các nước Đồng Minh. Từ đó, Hội nghị đề ra

những phương hướng lớn về đường lối và hoạt động đối ngoại.

Ngay sau Hội nghị Trung ương lần thứ tám, tình hình Chiến tranh thế giới lại

có những biến đổi mới: Đức tấn công Liên Xô (tháng 6-1941), Nhật tấn công Mỹ ở

Trân Châu cảng (tháng 12-1941). Trong thời gian này, căn cứ trên tình hình thực tế,

ĐCSĐD liên tục linh hoạt ứng biến trên mặt trận đối ngoại. Đảng đề ra chủ trương

đối ngoại đúng đắn, tranh thủ sự ủng hộ từ bên ngoài, góp phần vào cuộc đấu tranh

chống chủ nghĩa phát xít, ủng hộ Liên bang Xôviết, giao thiệp với chính phủ kháng

chiến Trung Quốc, thực hiện khẩu hiệu “Hoa-Việt kháng Nhật trên đất Đông Dương”

trên nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ” và liên hiệp có điều kiện với Anh-Mỹ để

chống phát xít Nhật giành độc lập. Giai đoạn 1941-1943, hoạt động đối ngoại của

Đảng tập trung vào những vấn đề sau:

3.2.2.3. Liên hệ, ủng hộ Liên bang Xô viết và phong trào cách mạng

thế giới

Liên hệ, ủng hộ Liên Xô và phong trào cách mạng của các dân tộc bị áp

bức là chính sách nhất quán trong đối ngoại của ĐCSĐD. Đặc biệt từ sau khi mặt

trận Xô - Đức nổ ra, Đảng càng chú trọng và nhiều lần nhấn mạnh hoạt động này.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương ĐCSĐD

nhận định:

94

Vận mạng dân tộc Đông Dương lại chung với vận mạng nước Tàu

cách mạng và Liên bang Xôviết. Cuộc tranh đấu chống phát xít của

Liên Xô và Tàu là cuộc tranh đấu chung vận mạng các dân tộc Đông

Dương. Bởi vậy ở Đông Dương cuộc tranh đấu chống phát xít Nhật là

một bộ phận của cuộc tranh đấu của Tàu và Liên Xô chống lại phát xít

thế giới [42, tr.114].

Tuyên ngôn của Mặt trận Việt Minh cũng viết: “Muốn cho lực lượng đánh

đuổi Nhật, Pháp, được mạnh mẽ…Việt Minh lại sẵn sàng bắt tay các dân tộc bị

áp bức châu Á, nhất là các dân tộc Tàu, Triều Tiên, Miến Điện, Ấn Độ, đặng

cùng các dân tộc ấy thành lập mặt trận liên minh chống đế quốc phát xít.” [42,

tr.461]. Đảng và Việt Minh đã xác định: “phải hết sức giúp đỡ các dân tộc Miên,

Lào tổ chức ra Cao Miên độc lập đồng minh, Ai Lao độc lập đồng minh để sau

đó lập ra Đông Dương độc lập đồng minh.” [42, tr.122]

Nghị quyết cuộc Hội nghị cán bộ toàn xứ Bắc Kỳ (ngày 25 đến 27-9-1941)

có một phần riêng về gây phong trào ủng hộ Liên Xô [42, tr.189-190], đề cập

những cách tuyên truyền ủng hộ: giải thích rõ cho quần chúng hiểu tầm quan trọng

của việc ủng hộ Liên Xô “tức là tự cứu lấy mình, phải ủng hộ Liên Xô vì quyền

lợi Tổ quốc”; rải truyền đơn kêu gọi các giới lao động, binh lính, và toàn thể nhân

dân Đông Dương ủng hộ Liên Xô; tổ chức những cuộc thảo luận về tình hình

chiến tranh Xô - Đức; soạn những bài hát ca ngợi tinh thần kháng chiến anh dũng

của Hồng quân, dán biểu ngữ, cờ, tranh vẽ kêu gọi ủng hộ Liên Xô. Ngoài tuyên

truyền, còn có những việc làm thiết thực là “Tổ chức các nhóm “bạn Liên Xô” để

giải thích nghiên cứu về tình hình Xô - Đức tùy từng địa phương thí dụ trong các

xưởng máy khi phổ biến khẩu hiệu đồng xu ủng hộ Liên Xô. Hằng tháng các công

nhân tuỳ nǎng lực góp tiền để ủng hộ Liên Xô đặng gây ra tinh thần đoàn kết giới

lao động Đông Dương với lao động Xô viết”. [42, tr. 189-190]

Ngày 31-10-1941, Trung ương Đảng ra Thông cáo Phải ủng hộ Liên bang

Xôviết gửi các cấp bộ của Đảng. Thông cáo phân tích mối liên hệ giữa việc giúp đỡ

Liên Xô với cách mạng Đông Dương và nhấn mạnh “Nhiệm vụ của Đảng ta là phải

95

làm cho các dân tộc Đông Dương hiểu rằng cách mạng giải phóng của Đông Dương

là gắn bó chặt chẽ với cách mạng thế giới cũng như với các cuộc cách mạng xã hội

chủ nghĩa của các giai cấp vô sản các nước tư bản”; “Giúp đỡ Liên Xô đó là làm

việc cho sự giải phóng của chính chúng ta, vì rằng nếu Liên Xô chiến thắng, đến

lượt nó sẽ giúp đỡ chúng ta giải thoát khỏi ách chủ nghĩa đế quốc Pháp và Nhật”.

Về phương pháp, Đảng đề ra việc tổ chức gấp ở mọi nơi các nhóm gọi là “Những

người bạn của Liên Xô”. Nhóm này sẽ “mở những buổi nói chuyện, tổ chức các

cuộc mít tinh để giải thích cho quần chung lý do vì sao chúng ta phải giúp đỡ Liên

Xô và những nhân tố góp phần vào chiến thắng cuối cùng của nó”; “mở những cuộc

lạc quyên trong tất cả các giai cấp xã hội và nhất là trong các “đồng chí” chúng ta,

nhằm thu được tiền bạc gửi cho Hồng quân”. [42, tr.204-205]

Ngày 30-10-1942, nhân kỷ niệm 25 năm Cách mạng tháng Mười, ĐCSĐD

ra lời hiệu triệu nhân dân. Lời hiệu triệu chỉ ra Liên Xô đang chiến đấu “cho cả

nhân dân Đông Dương ta”; “Ta với Liên Xô cùng có chung một kẻ thù: Pháp, Nhật.

Liên Xô là bạn của chúng ta.” [41, tr.260-262]. Vì vậy, chúng ta có bổn phận ủng

hộ Liên Xô kháng chiến. Đảng cũng gắn việc ủng hộ Liên Xô với cuộc đấu tranh

giải phóng dân tộc ngay tại Đông Dương: “Tranh đấu ủng hộ Liên Xô tức là tranh

đấu chống phát xít Pháp - Nhật, chống chính sách lừa bịp và ǎn cướp của chúng.

Tranh đấu ủng hộ Liên Xô tức là tranh đấu chống sinh hoạt đắt đỏ, đòi công ǎn việc

làm”. Đảng dự đoán: “Nhất định Liên Xô sẽ thắng. Dịp tốt sẽ đến. Chúng ta hãy

chuẩn bị chiến đấu, phá tan hai tầng xiềng xích của Pháp - Nhật”. [42, tr. 260-262]

Nghị quyết của Ban thường vụ Trung ương Đảng họp từ ngày 25 đến ngày

28-2-1943 một lần nữa xác định “ủng hộ Liên Xô kháng chiến là một trong

những nhiệm vụ chính của Đảng” và đề ra những phương pháp “vắn tắt và cụ

thể”: Giải thích để nhân dân Đông Dương hiểu việc ủng hộ Liên Xô là một

nhiệm vụ không thể thiếu; Ra sách báo, phát truyền đơn, dán biểu ngữ, diễn

thuyết phổ biến tình hình chiến đấu của Hồng quân làm cho quần chúng tin

tưởng vào bước thắng lợi cuối cùng của Liên Xô “nhưng đồng thời phải chống

xu hướng quá lạc quan đối với cuộc kháng chiến của Liên Xô rồi sinh ra bị động,

96

ỷ lại vào Liên Xô”; Gắn các cuộc tranh đấu ủng hộ Liên Xô với các cuộc tranh

đấu bênh vực quyền lợi hằng ngày cho quần chúng; Thành lập những tổ chức để

ủng hộ Liên Xô; Đấu tranh vũ trang chống phát xít ở Đông Dương; Vận động

“Đổi chiến tranh phát xít xâm lược ra cách mạng dân tộc giải phóng” trong các

lớp nhân dân, nhất là trong binh lính. [42, tr.303-304]

Ngày 15-5-1943, Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành QTCS công bố quyết

định “về việc giải thể QTCS”. Đoàn Chủ tịch đưa ra đề nghị để các phân bộ của

QTCS thông qua như sau: “Giải thể QTCS như một trung tâm lãnh đạo phong

trào công nhân quốc tế, giải phóng các phân bộ của QTCS khỏi những nhiệm vụ

đề ra trong điều lệ và trong những quyết định của các đại hội của QTCS. Đoàn

Chủ tịch Ban Chấp hành QTCS kêu gọi tất cả những người ủng hộ QTCS hãy

tập trung sức mạnh của mình vào việc ủng hộ toàn diện và tham gia tích cực vào

cuộc chiến tranh giải phóng các dân tộc và các nước trong liên minh chống phát

xít để nhanh chóng tiêu diệt kẻ thù không đội trời chung của nhân dân lao động -

chủ nghĩa phát xít Đức và những liên minh và tay sai của nó”. Đa số các ĐCS và

công nhân trên thế giới đã ủng hộ đề nghị của Đoàn Chủ tịch, không có đảng nào

phản đối vấn đề này. Trong các tuyên bố của phần lớn các ĐCS khẳng định việc

giải thể QTCS không có nghĩa là suy yếu mối quan hệ tư tưởng chung của phong

trào cộng sản quốc tế và đoàn kết vô sản. Nghiên cứu các văn bản tuyên bố của

các ĐCS, ngày 8-6-1943, Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành QTCS tuyên bố về sự

nhất trí thông qua đề nghị giải thể QTCS, đồng thời đã thông qua quyết định bãi

bỏ từ ngày 10-6-1943 Ban Chấp hành QTCS, Đoàn Chủ tịch và Đoàn Thư ký

Ban Chấp hành QTCS và cả Uỷ ban kiểm tra quốc tế. Việc QTCS tự giải thể là

một sự kiện chính trị rất lớn trong phong trào cộng sản thế giới.

Cũng như tuyệt đại đa số các đảng anh em, ĐCSĐD hoàn toàn nhất trí với

chủ trương nói trên của QTCS. Ngày 1-6-1943, Trung ương ĐCSĐD ra thông

cáo Đẩy mạnh cuộc chiến tranh chống phát xít xâm lược, vừa thông báo chính

thức với các đảng viên, vừa thể hiện quan điểm của Đảng về sự kiện này. Đảng

phân tích “Nhiệm vụ trung tâm của giai cấp vô sản thế giới trong giai đoạn này

97

là: “Đánh đổ chủ nghĩa phát xít, ủng hộ Liên Xô chiến thắng”, chưa phải là đánh

đổ toàn bộ chủ nghĩa tư bản trên hoàn cầu” [42, tr.322-326]. Sau khi chỉ ra sự

đúng đắn trong quyết định tự giải tán của QTCS, Đảng khẳng định:

Đảng ta - ĐCSĐD - vẫn đứng vững. Mục đích, tôn chỉ Đảng vẫn thế.

Bên trong Đảng vẫn chủ trương đoàn kết các giới đồng bào thành Mặt

trận dân tộc thống nhất chống phát xít Nhật - Pháp; đồng thời làm cho

cách mạng Đông Dương liên minh với mọi lực lượng chống phát xít

của người ngoại quốc ở Đông Dương đặng thành lập Mặt trận dân chủ

Đông Dương. Bên ngoài, Đảng ta vẫn chủ trương ủng hộ Liên Xô liên

minh với các nước trong mặt trận dân chủ quốc tế chống phát xít xâm

lược, góp sức vào cuộc chiến đấu vĩ đại đặng tiêu trừ họa phát xít cho

loài người. [42, tr.325]

3.2.2.4. Liên hiệp có điều kiện với Trung Hoa dân quốc và Mỹ, Anh

Ở chiến trường châu Á-Thái Bình Dương, Mỹ đặt Đông Dương vào khu

vực tác chiến của quân đội Mỹ chống Nhật, thuộc Mặt trận Trung Quốc do

Tưởng Giới Thạch làm Tổng tư lệnh. Từ thời điểm này, Mỹ có tiếng nói quan

trọng đối với các vấn đề liên quan đến Đông Dương trong và sau Chiến tranh thế

giới thứ hai.

Nhận thức được điều này, ngày 21-12-1941, Trung ương Đảng ra thông

cáo Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng gửi

các cấp bộ đảng. Sau khi phân tích tình hình cuộc chiến tranh Thái Bình

Dương, Trung ương Đảng đề cập đến vấn đề Hoa quân nhập Việt và ngoại giao

với Anh, Mỹ. [42, tr.243-244]

Với vấn đề “Hoa quân nhập Việt”, Đảng nhấn mạnh: “Đảng ta phải

lãnh đạo cho Việt Nam độc lập đồng minh giao thiệp với chính phủ kháng

chiến Tàu để thực hiện khẩu hiệu Hoa - Việt kháng Nhật trên đất Đông

Dương”. Phương châm chiến thuật là liên minh với quân Tưởng đánh Nhật -

Pháp theo nguyên tắc “bình đẳng tương trợ” và “làm cho quân Tàu nhận rằng:

“Họ vào Đông Dương để giúp cho cách mạng Đông Dương tức là tự giúp”,

98

đặng cùng với nhân dân Đông Dương chiến thắng quân Nhật, phá tan sức uy

hiếp Hoa Nam, chứ không phải vào Đông Dương để chinh phục Đông

Dương”. [42, tr. 243]

Đối với quân Anh - Mỹ, Đảng xác định: thái độ của ta là cùng họ nhân

nhượng liên hiệp có điều kiện. “Nếu họ chịu giúp cách mạng Đông Dương, thì ta

có thể nhận cho họ hưởng một phần quyền lợi ở Đông Dương. Nhưng nếu họ giúp

cho bọn Đờ Gôn, Catơru khôi phục lại chính quyền của đế quốc Pháp ở

Đông Dương, chúng ta phải cương quyết cự tuyệt và tiếp tục chiến đấu giành

quyền độc lập.” [42, tr. 243-244]. Trung ương Đảng nhấn mạnh:

Ta có mạnh thì họ mới chịu “đếm xỉa đến”. Ta yếu thì ta chỉ là một khí

cụ trong tay của kẻ khác, dầu là kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta

vậy. Nhất là đừng có ảo tưởng rằng: quân Tàu và quân Anh, Mỹ sẽ

mang lại tự do cho ta. Không, trong cuộc chiến đấu giải phóng cho ta,

cố nhiên là phải kiếm bạn đồng minh dầu rằng tạm thời bấp bênh có

điều kiện, nhưng công việc của ta trước hết ta phải làm lấy. [42, tr.244]

Điều này thể hiện Đảng hiểu rõ bản chất của các mối quan hệ quốc tế giữa

các nước tư bản. Từ đó, Đảng chủ trương: “Bổn phận của chúng ta là phải lợi

dụng khi quân Tàu hay quân Anh, Mỹ vào Đông Dương ở địa phương nào mà

nổi dậy khởi nghĩa ở địa phương ấy, thành lập chính phủ cách mạng rồi nhân

danh chính phủ cách mạng của nhân dân mà giao thiệp với họ”. [42, tr.244]

Chuẩn bị cho tình thế “Hoa quân nhập Việt”, Đảng có những chỉ đạo

cụ thể. Trong những vùng quân Tàu vào, Đảng chỉ huy lãnh đạo cho Mặt trận

phản đế và quảng đại nhân dân biểu tình cǎng bǎng đề những khẩu hiệu về việc

liên hiệp đánh đổ Pháp - Nhật, khẩu hiệu vận động quân Tưởng giữ nghiêm

kỷ luật và ủng hộ cách mạng dân tộc giải phóng Việt Nam. “Đồng thời phải

tổ chức những đội quân du kích, cổ động nhân dân tham gia thật đông nổi dậy

hiệp lực với quân Tàu đánh Pháp đuổi Nhật và thành lập chính quyền cách mạng

của nhân dân địa phương”. [42, tr.250-251]

99

Như vậy, Đảng chủ trương tranh thủ sự ủng hộ từ bên ngoài, giao thiệp với

chính phủ kháng chiến Trung Quốc, thực hiện khẩu hiệu “Hoa-Việt kháng Nhật trên

đất Đông Dương” trên nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ” và liên hiệp có điều kiện

với Anh – Mỹ để chống phát xít Nhật giành độc lập. Với tinh thần đó, ngày 13-8-

1942, Nguyễn Ái Quốc (với tên ghi trên giấy tờ tùy thân là Hồ Chí Minh) lên đường

sang Trung Quốc để gặp gỡ, làm việc với ĐCS Trung Quốc và Trung ương Quốc

dân Đảng Trung Quốc, liên hệ với các lực lượng cách mạng người Việt Nam và

Đồng minh, nhằm tranh thủ sự viện trợ từ bên ngoài. Không may, khi đến phố Túc

Vinh, huyện Thiên Bảo, tỉnh Quảng Tây thì Hồ Chí Minh bị quân tuần cảnh ở trụ sở

của Quốc dân Đảng bắt giữ với lý do: Khi kiểm tra căn cước, tuần cảnh phát hiện ra

rằng ngoài Chứng minh thư của “Quốc tế phản xâm lược hiệp hội Việt Nam phân

hội” ra, Hồ Chí Minh còn mang theo Thẻ hội viên đặc biệt của “Quốc tế tân văn

xã”, và Giấy thông hành của quân dụng của Văn phòng tư lệnh Đệ tứ chiến khu

cấp,... Tất cả giấy tờ đều cấp năm 1940, đã quá thời hạn sử dụng nên bị nghi là gián

điệp. Người bị bắt và bị giải qua nhiều nhà lao trước khi được trả tự do vào tháng 9-

1943. Tuy nhiên, biến khó khăn thành thuận lợi, Hồ Chí Minh đã chủ động tranh

thủ tìm những mối liên hệ với lực lượng của Tưởng Giới Thạch.

Trong khi đó, nhận thấy vấn đề ngoại giao với Mỹ - Anh - Trung là rất

quan trọng nhưng mới phát sinh, chưa được nêu rõ trong Nghị quyết Hội nghị

Trung ương lần thứ tám, Ban Thường vụ Trung ương đã bàn bạc về vấn đề này

trong cuộc họp từ ngày 25 đến 28-2-1943 [42, tr.312-314].

Về vấn đề ngoại giao với Trung Quốc, Đảng đề nghị Việt Minh dùng mọi

phương pháp ngoại giao cần thiết làm cho Chính phủ Trùng Khánh nhận rõ

“nguyên tắc bình đẳng và tương trợ” giúp đỡ lẫn nhau trong liên minh Việt Nam

và Trung Quốc để đánh bại kẻ thù chung là đế quốc chủ nghĩa Nhật và tay sai của

chúng (Pháp gian, Việt gian, Hán gian), để mang lại tự do độc lập cho hai dân tộc.

Đối với quân Anh - Mỹ - Trung Quốc vào Đông Dương đánh Nhật, Đảng

chủ trương phải lợi dụng dịp tốt khởi nghĩa giành chính quyền đồng thời giao

thiệp với Anh - Mỹ - Trung Quốc để họ công nhận quyền tự do độc lập của nhân

100

dân Đông Dương và rút ra khỏi Đông Dương sau khi đã cùng ta đánh bại phát xít

Nhật - Pháp.

Những chủ trương và hoạt động đối ngoại Đảng tiến hành trong giai đoạn

1941-1943 là đúng đắn và hợp lý, bám sát tình hình thế giới, thích hợp với từng

đối tượng và mang tính dự báo cao.

3.2.3. Hoạt động đối ngoại của Đảng từ tháng 3 năm 1945 đến

tháng 8 năm 1945

3.2.3.1. Quan điểm của các nước Đồng minh về vấn đề Việt Nam

Từ cuối năm 1943, khi cục diện Chiến tranh thế giới thứ hai đã dần ngã

ngũ với chiến thắng liên tiếp của Liên Xô trên mặt trận Xô - Đức, các nước

Đồng minh bắt đầu gặp mặt tại các hội nghị quốc tế để bàn bạc về tương lai của

các dân tộc sau cuộc chiến, trong đó có đề cập đến vấn đề Đông Dương.

* Quan điểm của Pháp

Pháp đã mất quyền kiểm soát Đông Dương, nhưng “Chính phủ Pháp tự

do” của Đờ Gôn không ngừng tuyên bố ý định khôi phục chế độ thuộc địa của

Pháp, quyết tâm “giải phóng Đông Dương”. Pháp luôn coi Đông Dương là một

xứ thuộc địa gắn liền với “mẫu quốc”. Ngày 8-12-1943, Đờ Gôn tuyên bố tại

Brazaville (Congo) về việc nước Pháp vẫn nắm quyền cai trị ở Đông Dương.

Chính phủ lưu vong của Đờ Gôn cho lập Phái đoàn 5 ở Côn Minh để theo dõi

Đông Dương; thành lập các đạo quân viễn chinh ở Calcutta và Madagasca chuẩn

bị trở lại tái chiếm Đông Dương.

Cuối 8-1944, nước Pháp được giải phóng khỏi phát xít Đức, thì cuối năm

1944, Đờ Gôn thành lập Uỷ ban hành động giải phóng Đông Dương. Sau khi

Nhật Bản đảo chính Pháp, Chính phủ lâm thời nước Pháp ra tuyên bố ngày 24-3-

1945 về “Những điều kiện tổng quát của quy chế Đông Dương sẽ được hưởng”,

nêu lên một số quan điểm vế khối “Liên hiệp Pháp”, trong đó Đông Dương là

một thành viên với những quyền tự trị hạn chế, bộc lộ ý đồ của Pháp duy trì chế

độ trực trị như trước năm 1939:

- Liên bang Đông Dương gồm năm xứ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Ai

101

Lao, Cao Miên) là một bộ phận của Liên hiệp Pháp, được quyền tự trị về một số

công việc nội bộ, còn ngoại giao thì do Pháp đại diện.

- Thành lập Chính phủ Liên bang Đông Dương do Toàn quyền người

Pháp đứng đầu gồm các bộ trưởng chọn trong số người Đông Dương và người

Pháp cư trú ở Đông Dương.

- Bầu một nghị viện theo kiểu đầu phiếu thích hợp với mỗi xứ trong Liên bang.

- Liên bang Đông Dương được hưởng quyền tự trị về kinh tế để có thể

phát triển đầy đủ về nông nghiệp, công nghiệp và thương mại [93, tr. 55-57].

Những nội dung trên cho thấy rõ ràng là Pháp vẫn rắp tâm khôi phục chế

độ thuộc địa ở Đông Dương. Trong khi đó, lực lượng quân Pháp đã bỏ chạy sang

Thượng Lào và Côn Minh (Trung Quốc) sau ngày 9-3-1945 được tổ chức thành

Đội đặc nhiệm số 5 để chuẩn bị quay trở lại chiếm đóng Đông Dương khi có thời

cơ. [125, tr.56]

Ngày 24-8-1945, sau Hội nghị Pốtxđam, Bộ tham mưu quân viễn chinh

Pháp ở Viễn Đông vạch kế hoạch trở lại Đông Dương gồm năm điểm, trong đó

dựa vào quân Anh để chiếm Đông Dương từ Nam vĩ tuyến 16; từng bước giành

lại những vùng do Trung Quốc Tưởng Giới Thạch kiểm soát; tùy tình hình chính

trị mà thương thuyết với các nhân vật bản xứ.

* Quan điểm của các nước Đồng minh khác

Tổng thống Mỹ Ru-dơ-ven (Roosevelt) nhiều lần tuyên bố phản đối việc

Pháp trở lại Đông Dương với lý do là sau gần một thế kỷ thống trị, nước Pháp

không làm được gì ở Đông Dương, mức sống của người dân rất thấp kém. Ông

đưa ra chủ trương thiết lập chế độ thác quản do một hội đồng gồm một số nước

(Trung Hoa, Liên Xô, Philíppin, Pháp và một, hai đại biểu Đông Dương) tham

gia quản lý trong khoảng 30-40 năm để trao dần nền độc lập cho các nước Đông

Dương. Ông chỉ thị cho những người Mỹ ở Đông Dương không được làm gì để

giúp Pháp thực hiện ý đồ của họ. [134, tr.10-12]

Thủ tướng Anh Sớc-Sin (Churchill) phản đối kế hoạch này vì lo ngại rằng

nếu Việt Nam độc lập, thì các thuộc địa của Anh ở Châu Á như Ấn Độ,

102

Pakixtan, Miến Điện, Mã Lai, Xingapo, Hồng Kông… cũng sẽ vùng lên đòi độc

lập. Anh chủ trương giúp các đế quốc “già” quay lại thuộc địa (Pháp quay lại

Đông Dương, Hà Lan quay lại Inđônêxia) để lập lại chế độ cai trị thực dân. Năm

1944, Chính phủ Anh đã đồng ý cho Đờ Gôn đặt một phái bộ quân sự của Pháp

tại Bộ chỉ huy Mặt trận Đông Nam Á của Anh đóng ở Ceylan. Ngay trước khi

chiến tranh kết thúc, Tư lệnh các lực lượng Anh tại chiến trường Đông Nam Á là

Đô đốc Môn-bat-ten (Mounbatten) đã tiếp Tổng chỉ huy lực lượng Pháp ở Viễn

Đông, tướng Lơ-cờ-lec (Leclerc), hứa hẹn hợp tác giúp đỡ Pháp khi quân đội

Anh vào Đông Dương giải giáp quân đội Nhật.

Thâm ý của Anh là muốn giúp Pháp chiếm lại Đông Dương, để ngăn

chặn phong trào cách mạng thế giới nói chung và ở khu vực có nhiều

thuộc địa của Anh nói riêng, để ngăn chặn âm mưu mở rộng thế giới ở

Đông Nam Á của Mỹ và Châu Phi… Vả lại Anh không dám để bị lôi

kéo vào những vấn đề quân sự ở Đông Dương, diễn biến ở Ấn Độ thu

hút sự chú ý của Anh hơn. Với ý đồ trên, ngày 24-8-1945, Anh đã ký

một thỏa hiệp với Pháp về nguyên tắc và cách thức khôi phục Đông

Dương. [81, tr. 169-170]

Nhưng chủ trương của Mỹ được người đứng đầu ĐCS và Nhà nước

Liên Xô Xta-lin (Stalin) tán thành. Xta-lin nêu lập trường của Liên Xô là không

muốn thấy Đồng minh đổ máu để giải phóng Đông Dương rồi sau đó Pháp sẽ

tiếp nhận, tái lập ở đây chế độ thuộc địa. [59, tr. 20]

Tổng thống Trung Hoa Dân quốc là Tưởng Giới Thạch cũng hưởng ứng

Ru-dơ-ven nhưng với âm mưu ngăn Pháp để một mình nhảy vào chiếm Đông

Dương, chuẩn bị kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”. “Nhà chức trách Trung Quốc

đã nhiều lần tuyên bố rằng mặc dầu Trung Quốc mong muốn thấy Đông Dương

được trả lại cho Pháp nhưng lại không muốn điều đó được thực hiện mà không

có một số các điều bảo đảm nhằm ngăn chặn Pháp dùng Đông Dương vào những

hoạt động không thân thiện đối với quyền lợi của người Trung Hoa sau này. Nói

tóm tắt là tương lai của Đông Dương sẽ không được định đoạt nếu như không có

103

mặt người Trung Hoa trên bàn Hội nghị Hoà bình.” [128]

Tuy nhiên, ngày 12-4-1945, Tổng thống Ru-dơ-ven qua đời, người kế

nhiệm là Tru-man (H.Truman) không phản đối việc Pháp trở lại Đông Dương.

Ông này xác nhận với Đờ Gôn là sẽ không làm gì để cản trở sự trở lại của nước

Pháp và với bà Tống Mỹ Linh, vợ Tưởng Giới Thạch, là sẽ không có vấn đề

quản trị quốc tế cho Đông Dương nữa. [59, tr.22]

Liên Xô sau khi ký Hiệp ước Liên minh trong chiến tranh chống chủ

nghĩa phát xít và tương trợ sau chiến tranh với Pháp (tháng 12-1944) cũng giữ

thái độ im lặng. Trong báo cáo về vấn đề Đông Dương ngày 20-8-1945 do Đại

sứ đặc mệnh toàn quyền Liên Xô tại Pháp Bô-gô-mô-lốp (A.E.Bogomolov) gửi

Thứ trưởng Bộ ngoại giao Liên Xô Đờ-ka-nô-dốp (V.G.Dekanozov), Đại sứ đã

hỏi Thứ trưởng về khả năng cho một “lối thoát thứ ba-đó là để cho Đông Dương

độc lập cùng với việc đặt Đông Dương dưới sự bảo hộ của ủy ban bảo an quốc

tế, bao gồm các nước như Anh, Liên Xô, Pháp và Rumani” bởi vì “người Đông

Dương sẽ có tương lai sáng sủa hơn nếu như để cho họ bình yên và không đẩy

họ vào tình thế bị người Pháp xâu xé”. Nhưng Thứ trưởng V.G.Dekanozov đã

phê vào bên dưới bức thư rằng: “Theo như tôi được biết thì chúng ta không giữ

lập trường như vậy đối với vấn đề này. Đồng chí Mô-lô-tốp khi trao đổi với

Katry đã không đề cập tới vấn đề này và không có kết luận chính thức nào.”

[Phụ lục 38]

Sự thay đổi thái độ của các nước lớn trên thực tế đã để ngỏ cửa cho thực

dân Pháp quay lại gây nhiều khó khăn cho cách mạng Việt Nam. Cuối cùng, theo

thỏa thuận của các nước Đồng minh, việc giải giáp quân Nhật ở phía Bắc Đông

Dương (Bắc vĩ tuyến 16) giao cho Trung Hoa Dân quốc Tưởng Giới Thạch; ở

Nam Đông Dương (Nam vĩ tuyến 16) giao cho Anh. Và Anh lại mở đường cho

Pháp quay lại Đông Dương.

3.2.3.2. Hoạt động đối ngoại của Đảng từ tháng 3 năm 1945 đến

tháng 8 năm 1945

Từ năm 1943 đến đầu năm 1945, hoạt động đối ngoại của Đảng là sự cụ

104

thể hóa đường lối đã nêu ra trong Hội nghị Trung ương lần thứ tám và các cuộc

họp sau đó để phù hợp với từng đối tượng. Đến khi Nhật đảo chính Pháp, ngày

9-3-1945, Đảng lại có sự ứng biến linh hoạt để phù hợp với tình hình mới, thể

hiện trong Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta 12-3-1945.

Trong đó, dự báo các tình huống, nhất là thời cơ quốc tế để khởi nghĩa nổ ra và

thắng lợi.

Ngày 12-8-1945, được tin Nhật hàng Đồng minh, Hồ Chí Minh và

Thường vụ Trung ương họp quyết định lập tức phát động Tổng khởi nghĩa và

triệu tập Hội nghị toàn quốc. Ngày 14-8-1945, Hội nghị toàn quốc của ĐCSĐD

chính thức khai mạc tại Tân Trào (Tuyên Quang). Tham dự Hội nghị có đủ đại

biểu các Đảng bộ Bắc, Trung, Nam và một số đại biểu hoạt động ở nước ngoài.

Hội nghị nhận định các điều kiện khách quan, chủ quan đã chín muồi để khởi

nghĩa nổ ra và thắng lợi; cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới. Hội

nghị quyết định: Đảng phải kịp thời nắm thời cơ phát động và lãnh đạo toàn dân

Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Đồng minh kéo vào. Hội

nghị cũng quyết định chủ trương đối nội và đối ngoại sau khi Tổng khởi nghĩa

thắng lợi.

Về đối ngoại, Hội nghị chủ trương: cần lợi dụng sự mâu thuẫn giữa 2 phe

Đồng minh Anh, Pháp, và Mỹ, Tàu về vấn đề Đông Dương. Tuy nhiên, cần nhận

rõ sự mâu thuẫn giữa Anh, Mỹ, Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh, Mỹ nhân

nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương. Từ đó, Đảng khéo léo đề

ra chính sách là phải tránh trường hợp một mình đối phó với nhiều lực lượng

Đồng minh (Tàu, Pháp, Anh, Mỹ) tràn vào nước ta và đặt chính phủ của Pháp

hay một chính phủ bù nhìn khác trái với ý nguyện dân tộc. Bởi vậy, cần tranh thủ

sự đồng tình của Liên Xô và Mỹ chống lại mưu mô của Pháp định khôi phục lại

địa vị ở Đông Dương và mưu mô của một số quân phiệt Tàu định chiếm nước ta.

Hội nghị khẳng định: “Dù sao chỉ có thực lực của ta mới quyết được sự thắng lợi

giữa ta và Đồng minh” và “đối với các nước nhược tiểu và dân chúng Tàu, Pháp

chúng ta phải liên lạc và tranh thủ sự giúp đỡ của họ”. [42, tr. 427]

105

Hội nghị cũng nêu chủ trương với người ngoại quốc ở Đông Dương:

a) Đối với Nhật: Tước võ khí, tịch thu tài sản; kẻ nào chống lại thì trị,

bắt được thì nhốt vào trại giam chung, đối đãi tử tế; cảm hóa những

phần tử tương đối tốt dùng vào việc tuyên truyền.

b) Đối với Pháp: Bảo vệ sinh mệnh, tài sản (trừ bọn Pháp gian

thân Nhật).

c) Đối với Hoa kiều: Bảo vệ sinh mệnh, tài sản và thân thiện. Riêng

với Hán gian, giao cho các đoàn thể kháng Nhật Hoa kiều xử trí.

Đối với Anh, Mỹ: Thân thiện. [42, tr.426]

Đối với các hạng quân Đồng minh vào Đông Dương:

a) Đối với quân Đờ Gôn vào nước ta, trong lúc đợi chỉ thị cụ thể của

Đảng, phải tránh xung đột quân sự; song nơi nào chúng vào phải làm

vườn không nhà trống đồng thời phải chỉ huy quần chúng biểu tình

phản đối mưu mô của Pháp khôi phục địa vị cũ ở Đông Dương.

b) Đối với quân Mỹ, Anh, Tàu vào nước ta thì trong lúc đợi chỉ thị của Đảng:

- Tránh xung đột. Giao thiệp thân thiện.

- Tiêu cực đề kháng bằng cách vườn không nhà trống nếu họ xâm

phạm đến quyền lợi của ta; huy động toàn lực quần chúng biểu tình

nêu khẩu hiệu “Việt Nam hoàn toàn độc lập”. [42, tr.426]

Các hoạt động đối ngoại của ĐCSĐD trong thời gian từ cuối năm 1943

đến ngày 2-9-1945 theo từng đối tượng như sau:

* Với Nhật

Cùng với việc ngày càng lấn lướt Pháp ở Đông Dương, phát xít Nhật dần

trở thành đối tượng đấu tranh chính của Đảng và Mặt trận Việt Minh. Nghị quyết

của Hội nghị cán bộ Bắc Kỳ ĐCSĐD (họp ngày 5 đến 7-3-1944) nhận xét:

Đông Dương sống dưới hai chính quyền Nhật - Pháp đi song song với

nhau và chống chọi nhau; không những mâu thuẫn giữa chính quyền

Nhật với Pháp mà còn mâu thuẫn giữa Nhật với Nhật, giữa Pháp với

Pháp, Nhật - Pháp đang đi tới chỗ dùng phương pháp cuối cùng là võ

106

lực để giải quyết mối mâu thuẫn ấy. Bởi vậy giặc Nhật đang dự định

cho bọn Việt gian thân Nhật bạo động đánh Pháp, rồi nhân đó, Nhật

đứng ra can thiệp truất quyền Pháp đi, cho bọn Việt gian thân Nhật lập

chính phủ bù nhìn. [42, tr. 335]

Nghị quyết đưa ra phần nội dung về chống phát xít Nhật và bọn Việt gian

thân Nhật, trong đó có các phương pháp:

1. Dùng truyền đơn vạch rõ âm mưu của Nhật và kêu gọi Pháp Đờ

Gôn hay dân chủ và Hoa kiều cùng ta thành lập mặt trận dân chủ

chống phát xít ở Đông Dương.

2. Dùng truyền đơn, biểu ngữ, mít tinh, biểu tình vạch ra cho nhân dân

nhận rõ âm mưu của Nhật và của bọn Việt gian thân Nhật.

3. ... chỉ cho quần chúng nhầm theo bọn Việt gian thấy rõ sự đểu giả

và bất lực của phát xít Nhật làm cho họ nhận khẩu hiệu “đánh đuổi

Nhật – Pháp” của Việt Minh là đúng và cần thiết. ...[42, tr. 337]

Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp. Đã lường trước mâu thuẫn giữa Nhật

và Pháp ở Đông Dương sẽ được giải quyết bằng việc Nhật “hất cẳng” Pháp, ngày

12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương ĐCSĐD ra Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau

và hành động của chúng ta. [42, tr.364-373]

Chỉ thị chỉ ra hàng ngũ kẻ thù và Đồng minh quân có chỗ thay đổi: Pháp

đã mất quyền thống trị ở Đông Dương, không phải là kẻ thù cụ thể trước mắt (dù

vẫn phải đề phòng việc Pháp khôi phục quyền thống trị). Kẻ thù chính - kẻ thù

cụ thể trước mắt - duy nhất của nhân dân Đông Dương là phát xít Nhật.

Đảng tán thành cuộc kháng chiến chống Nhật của Pháp, tuy có mục đích

là tranh giành quyền lợi đế quốc với Nhật, nhưng do Pháp đánh kẻ thù chính của

ta là đế quốc phát xít Nhật. Lực lượng Pháp đánh Nhật là đồng minh khách quan

của nhân dân Đông Dương lúc này.

Từ chủ trương đó, khẩu hiệu “Đánh đuổi Nhật, Pháp!” được đổi thành

“Đánh đuổi phát xít Nhật!” và Mặt trận dân chủ thống nhất kháng Nhật ở

Đông Dương chấp nhận những người Pháp kháng chiến đứng vào hàng ngũ nếu

107

họ thừa nhận những điều kiện của Đảng đã đề ra như “những người ngoại quốc

chống Nhật ở Đông Dương phải thừa nhận quyền dân tộc độc lập hoàn toàn và

tức khắc của nhân dân Đông Dương”.

Chỉ thị cũng nêu: sẵn sàng hưởng ứng quân Đồng minh, ủng hộ quân

Đồng minh bằng cách biểu tình, lập dân quân cùng chiến đấu, mở rộng chiến

tranh du kích... “Khi nào có lệnh phát động tổng khởi nghĩa thì nổi dậy tất cả,

đánh phá tan nát các đường giao thông, vận tải của giặc Nhật; đánh chiếm các

kho tàng, đồn trại của Nhật, đánh chẹn các đội quân tuần tiễu và vận tải của

Nhật, làm cho chiến tranh du kích càng lan tràn ra khắp nước, đến tận các thành

phố”. Coi đó là cơ hội, nhưng Đảng không xem việc quân Đồng minh đổ bộ vào

Đông Dương là điều kiện tất yếu cho cuộc tổng khởi nghĩa “vì như thế là ỷ lại

vào người và tự bó tay trong khi tình thế biến chuyển thuận tiện”. Đảng dự kiến

tình huống: Nếu cách mạng Nhật bùng nổ, và chính quyền cách mạng của nhân

dân Nhật thành lập hay nếu quân Nhật mất nước như Pháp nǎm 1940, và quân

đội viễn chinh của Nhật mất tinh thần, thì khi ấy dù quân Đồng minh chưa đổ bộ;

cuộc tổng khởi nghĩa vẫn có thể bùng nổ và thắng lợi.

Khi Nhật đầu hàng Đồng minh, Đảng nhận thấy thời cơ đã đến, phải

tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Thế nhưng, thực lực của quân Nhật ở

Đông Dương còn rất mạnh (8,3 vạn quân được trang bị đầy đủ vũ khí). Trong

khi đó, lực lượng của ta khá mỏng, không được huấn luyện bài bản và hầu như

chỉ có vũ khí thô sơ. Quân Nhật đang trong thế cùng đường, nếu không còn

đường lui sẽ dồn sức liều mạng chống lại ta, gây nhiều thương vong không cần

thiết và làm chậm tiến trình cách mạng trong khi ta phải tranh thủ thời cơ trước

khi quân Đồng minh vào.

Trong hoàn cảnh đó, Đảng đã tìm ra một giải pháp hợp lý. Một mặt, Đảng

dùng lực lượng quần chúng cách mạng, có vũ trang, một phần tiến hành mít tinh,

biểu tình rầm rộ, tạo ra khí thế cách mạng áp đảo để giành chính quyền. Mặt

khác, gửi tối hậu thư, ra điều kiện buộc chúng nằm yên và trao vũ khí để được an

108

toàn tính mạng. Đảng cũng không đặt ra mục tiêu đánh đồn trại Nhật, mà chủ

trương tránh xung đột vũ trang trực tiếp với quân Nhật.

Ban đầu, giải pháp này được tiến hành thí điểm với quy mô nhỏ để thăm

dò phản ứng của quân Nhật. Nhận thấy Nhật hầu như án binh bất động, quần

chúng cách mạng mạnh dạn vùng lên giành chính quyền trên diện rộng. Có một

số nơi quân Nhật còn chủ động đề nghị thương lượng và trao vũ khí cho Việt

Minh; cũng có những nơi phải qua cuộc giao chiến kịch liệt rồi kết thúc bằng

biện pháp thương lượng. Nhưng nhìn chung, cách làm vừa cương quyết, vừa

mềm dẻo này đã giúp cách mạng tránh được nhiều thương vong, thu được kết

quả quan trọng là giành được chính quyền trong thời gian ngắn. Biện pháp khéo

léo này đã góp phần quan trọng trong thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.

* Với Pháp

Quân Pháp ở Đông Dương là đội quân xâm lược, là đối tượng đấu tranh

chính của ĐCSĐD. Tuy nhiên, sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp, vị trí của Pháp

trong sách lược đối ngoại của Đảng đã có thay đổi đáng kể: “Đế quốc Pháp mất

quyền thống trị ở Đông Dương, không phải là kẻ thù cụ thể trước mắt ta nữa mặc

dầu ta vẫn phải đề phòng cuộc vận động của bọn Đờ Gôn định khôi phục quyền

thống trị của Pháp ở Đông Dương”; “Bọn Pháp kháng chiến đang đánh Nhật là

đồng minh khách quan của nhân dân Đông Dương lúc này.” [42, tr.366]

Cho nên, cần sẵn sàng “bắt tay những người Pháp thành thực chống Nhật

đến cùng và hiện đang bắn nhau với Nhật”, vì mục tiêu của ta lúc này là “Đánh

Nhật trước đã”. Tuy nhiên, nếu những người Pháp kháng chiến không tán thành

những điều kiện ta đề ra, cũng không giúp khí giới để đánh Nhật, thì“bổn phận ta

là phải vận động thống nhất với hạ tầng quân đội kháng chiến của Pháp, kẻo những

phần tử kiên quyết chống phát xít, có xu hướng quốc tế, thống nhất hành động với

ta đánh Nhật hoặc mang võ khí của đế quốc Pháp chạy sang phe ta” [42, tr.369].

* Với lực lượng Đồng minh

Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta cũng xác định

cần sẵn sàng hưởng ứng quân Đồng minh, ủng hộ quân Đồng minh bằng cách

109

biểu tình, lập dân quân cùng chiến đấu, mở rộng chiến tranh du kích... Coi đó là

cơ hội, nhưng Đảng không xem việc quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương là

điều kiện tất yếu cho cuộc tổng khởi nghĩa. Với tinh thần chủ động tiến công,

Đảng nhấn mạnh: dù tình huống nào thì cũng không trông chờ, ỷ lại, mà phải lấy

địa vị “chủ nhân ông” để tiếp đón quân Đồng minh.

Tiếp đó, trong Nghị quyết của Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, từ

ngày 15 đến 20-4-1945, có đề cập đến hoạt động đối ngoại [42, tr. 390]. Nhận

định quân Đồng minh cũng vào Đông Dương và trong nội bộ Đồng minh, giữa

Pháp - Anh và Trung Quốc - Mỹ có sự cạnh tranh quyền lợi ở Đông Dương nên

thái độ ta đối với Đồng minh là:

a) Lợi dụng sự mâu thuẫn của Trung Quốc - Mỹ và Anh - Pháp Đờ Gôn

để tranh thủ ngoại viện, ký hiệp ước với các nước Đồng minh, và để họ

thừa nhận nền độc lập của dân tộc ta; b) Một mặt nữa, đoàn ngoại giao

của ta phải tranh thủ cho Việt Nam có quyền cử đại biểu dự các cuộc

hội nghị quốc tế hoà bình; c) Phải đưa ra dư luận quốc tế những tài liệu

về hành vi tàn bạo phản động của bọn Pháp thuộc địa và chủ trương của

Việt Minh bắt tay với bọn Pháp tích cực chống Nhật. [41, tr. 390]

Nghị quyết Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ cũng có đoạn về vấn đề

liên hiệp kháng Nhật với Pháp Đờ Gôn và Hoa kiều:

a) Phải nêu rõ lập trường giành hoàn toàn độc lập trong cuộc bắt tay với

Pháp Đờ Gôn ở ngoài; còn trong nước, đối với bọn Pháp còn lại, buộc

họ phải phát biểu tuyên ngôn thừa nhận quyền độc lập của ta; b) Thành

lập một tiểu ban vận động Hoa kiều; ra truyền đơn kêu gọi họ để đi tới

thành lập một tổ chức Hoa - Việt liên minh kháng Nhật.[42, tr. 398]

Hồ Chí Minh đã thông qua những người Mỹ có mặt ở Tân Trào giao thiệp

với Pháp nhằm làm cho người Mỹ thấy thiện chí của Việt Minh muốn tìm kiếm

một giải pháp cho vấn đề Đông Dương sau chiến tranh, đồng thời, thăm dò thái

độ của các nước đối với Việt Nam. Ngày 25-7-1945, Hồ Chí Minh đã nhờ cơ

quan của Hoa Kỳ ở Côn Minh chuyển cho nhà chức trách Pháp đề nghị năm

110

điểm của Việt Minh về một giải pháp cho vấn đề Việt Nam sau chiến tranh: tổ

chức phổ thông đầu phiếu để bầu ra nghị viện cai trị đất nước, có một toàn quyền

người Pháp làm chủ tịch cho đến lúc độc lập được trao lại cho Việt Nam; nền

độc lập sẽ được trao trong thời hạn tối thiểu là năm năm, tối đa là 10 năm; tài

nguyên thiên nhiên được trả cho nhân dân sau khi đền bù công bằng và nước

Pháp được hưởng những nhượng bộ kinh tế; tất cả các quyền tự do mà Liên hợp

quốc khẳng định phải được trao cho người Đông Dương; cấm việc bán thuốc

phiện. [125, tr.63-64]

Đây là thăm dò chính thức đầu tiên của Việt Minh về lập trường thương

lượng của Pháp đối với tương lai Đông Dương và là một bước chuẩn bị cần thiết

cho cuộc thương lượng trực tiếp, sớm muộn sẽ diễn ra giữa Việt Minh với Pháp,

vào thời điểm các nước lớn trong phe Đồng minh đang ráo riết dàn xếp, định

đoạt số phận các lãnh thổ thuộc địa sau chiến tranh, trong đó có Đông Dương.

Ngày 22-8-1945, chỉ vài ngày sau cuộc Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội thành

công, J. Xanhtơni (Jean Sainteny), thiếu tá tình báo Pháp, từ Côn Minh (Trung

Quốc) đáp nhờ máy bay của người Mỹ đến Hà Nội với nhiệm vụ khôi phục

quyền lực của nước Pháp. Thông qua sự trung gian của thiếu tá người Mỹ Patti,

sáng ngày 27-08-1945, ông Võ Nguyên Giáp và ông Dương Đức Hiền đã đến

gặp trực tiếp Xanhtơni. Khi được yêu cầu trả lời về những điều Chủ tịch

Hồ Chí Minh đã đề nghị, Xanhtơni chỉ trả lời chung chung (vì ông ta vốn không

nhận được chỉ thị từ Paris). Nhận ra ý đồ của Pháp trước sau vẫn là không để

Đông Dương được độc lập, phía Việt Nam tỏ thái độ cương quyết và cuộc gặp

gỡ kết thúc mà không đạt được kết quả gì.

* Với chính quyền Tưởng Giới Thạch

Năm 1943, tình hình mặt trận chống phát xít ở Châu Á-Thái Bình Dương

có thay đổi, quân Anh - Mỹ bắt đầu phản công quân Nhật và có khả năng quân

Đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương. Chính quyền Tưởng Giới Thạch gấp rút

chuẩn bị kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”. Họ cho rằng có thể lợi dụng

Hồ Chí Minh - một lãnh tụ cách mạng có uy tín của Việt Nam để thúc đẩy kế

111

hoạch đó. Vì vậy, ngày 10-9-1943, Trương Phát Khuê trả tự do cho

Hồ Chí Minh và mời Người tham gia Ban trù bị của Đại hội toàn quốc của

Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội (Việt Cách).

Vì đây là điều kiện để được trả tự do, bảo đảm điều kiện thuận lợi cho các

hoạt động của mình trong thời gian còn ở Trung Quốc và là cơ hội tìm hiểu rõ

hơn những chủ trương mới của Trung Hoa Quốc dân Đảng về “Hoa quân nhập

Việt”, Hồ Chí Minh đã nhận lời và làm việc với tinh thần xây dựng trong Ban

trù bị đại hội Việt Cách. Cuối tháng 3-1944, Hội nghị đại biểu hải ngoại

Việt Cách đã họp kín tại Liễu Châu do Trương Phát Khuê chủ trì. Hồ Chí Minh

trở thành ủy viên Ban Chấp hành hội Việt Cách.

Người đọc hai bản báo cáo đề cập đến nhiều vấn đề, trong đó nổi bật là:

Quan điểm “ngoại giao phải có thực lực, phải lấy thực lực làm cơ sở”. Người

nói: “Chúng tôi cũng đã học ở Trung Quốc một bài học quý báu, nếu tự mình

không có thực lực gì làm cơ sở thì không thể nói đến ngoại giao gì cả” [80,

tr.34]. Người còn nói: “về phần chúng tôi, lúc nào cũng tin tưởng vững chắc ở

nền đạo đức cổ truyền của nhân dân Trung Quốc là bênh vực kẻ yếu, giúp đỡ

người gặp nguy nan, cứu kẻ sắp bị tiêu diệt, đồng thời chúng tôi tin tưởng sắt đá

vào quốc sách của Trung Quốc là: liên hiệp các nước tiểu dân tộc trên thế giới để

cùng chung chiến đấu” [80, tr.35]. Những lời đó vừa đề cao “quốc sách” đối

ngoại của Tưởng Giới Thạch để tranh thủ sự ủng hộ từ Trung Hoa Quốc dân

Đảng, vừa dùng chính những chính sách đó để nhắc nhở họ đừng tự đặt mình

vào vị trí bắt nạt kẻ yếu, lợi dụng thời cơ để áp bức dân tộc khác.

Sau cuộc họp này, Tưởng Giới Thạch đã chấp nhận để ĐCSĐD và

Việt Minh trong Mặt trận liên minh Trung - Việt chống chủ nghĩa phát xít.

Tướng Trương Phát Khuê đã ghi nhận uy tín và những đóng góp của Hồ Chí Minh

trong việc liên kết các lực lượng quốc tế chống phát xít đang có mặt trên địa bàn

của ông ta. Thông qua quan hệ với Trương Phát Khuê, Người đã quen với một số

sĩ quan Mỹ trong Tổ chức OSS - Cơ quan Tình báo Chiến lược Mỹ và OWI -

Cơ quan Thông tin chiến tranh Mỹ. Ngày 9-8-1944, tranh thủ được sự

112

đồng tình của Trương Phát Khuê, Hồ Chí Minh rời Liễu Châu, chuẩn bị việc về

nước. Như vậy, dù tốn khá nhiều thời gian nhưng Hồ Chí Minh đã hoàn thành

được mục đích chuyến đi đặt ra.

Tuy nhiên, trong mối quan hệ này, Hồ Chí Minh cũng không hề ảo tưởng

về “thiện chí” của chính phủ Trùng Khánh với Việt Nam. Người tranh thủ sự

ủng hộ của lực lượng Quốc dân Đảng, nhưng cũng chỉ rõ những âm mưu, nguy

cơ của kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”, cùng những biện pháp để đối phó

kế hoạch đó cho các cán bộ Đảng. Người căn dặn các cán bộ của Đảng không

nên có ảo tưởng với Tưởng Giới Thạch, nhưng “phải lấy Trung Quốc làm cái

cầu để tranh thủ các nước Đồng minh”. [22, tr.126]

Sau khi về Việt Nam, trong Thư gửi đồng bào toàn quốc tháng 10-1944,

Hồ Chí Minh viết: “Nhân dịp ở ngoài mà tôi hiểu rõ tình hình thế giới và chính

sách của các nước hữu bang, trước hết là Trung Quốc”. Người còn chỉ ra muốn

tiếp thu sự giúp đỡ của nước ngoài phải có một cơ cấu đại biểu cho sự đoàn kết

nhất trí của nhân dân trong nước do một Toàn quốc đại biểu Đại hội bầu ra thì

“mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc,

ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”. “Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự

thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc

năm rưỡi nữa”. [103, tr.537-538]

* Với Mỹ

Cuối năm 1944, một máy bay do thám Mỹ bị quân Nhật bắn rơi trên bầu

trời miền Bắc Việt Nam, Trung úy phi công Uy-li-am Sao (William Shaw) nhảy

dù xuống Cao Bằng và được Việt Minh cứu thoát khỏi vòng vây của Nhật-Pháp.

Ngày 2-11-1944, Hồ Chí Minh đã tiếp Trung úy Sao một cách thân mật và

Người tìm cách đưa viên phi công về Trung Quốc cho Tập đoàn không quân số

14 Mỹ. Ở Côn Minh lúc đó có Bộ Tổng tham mưu lục quân của tướng Hà Ứng

Khâm và các đơn vị của quân đội Mỹ, phái đoàn quân sự Anh và một phái đoàn

quân sự Pháp.

113

Đầu tháng 3-1945, nhân danh lực lượng Việt Nam giải cứu cho Trung úy

Sao, Hồ Chí Minh tiếp xúc với phía Mỹ. Mỹ cảm ơn và ngỏ ý tặng Người thuốc

men, tiền bạc nhưng Người không nhận tiền. Ngày 17-3-1945, Hồ Chí Minh gặp

Sác lơ Phen (Charles Fenn) - Trung úy của OSS và Sác lơ Phen đã thỏa thuận

trên nguyên tắc giúp đỡ Việt Minh. Ngày 29-3-1945, Hồ Chí Minh gặp

Trung tướng Claiơ Sê-nôn (Claire Chennault) tại Côn Minh (Trung Quốc).

Trung tướng cảm ơn Việt Minh và sẵn sàng giúp đỡ những gì có thể theo yêu

cầu. Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm của Việt Minh là ủng hộ và đứng về

phía Đồng minh chống phát xít Nhật. Đó là những bước tiếp xúc trực tiếp đầu

tiên trong mối quan hệ giữa ĐCSĐD và Mỹ.

Qua Trung úy Sao, cơ quan Thông tin chiến tranh Mỹ (OWI), cơ quan

Tình báo Chiến lược Mỹ (OSS) đã tìm gặp khi biết Hồ Chí Minh đến Côn Minh.

Tiếp xúc với những nhân vật có cương vị của hai cơ quan này, Người cho họ biết

thông tin về những cuộc chuyển quân mới nhất của quân đội Nhật ở vùng núi phía

Bắc Việt Nam. Người khẳng định những hoạt động quân sự dọc theo biên giới

Việt – Trung là âm mưu mới của Nhật, nhằm phòng ngừa một cuộc đổ bộ của

quân Đồng minh vào Việt Nam. Người cũng khẳng định rằng Việt Minh với các

hội viên ở Trung Hoa và khắp các địa phương trong nước, sẽ sẵn sàng làm việc và

cộng tác chặt chẽ với lực lượng không quân, tình báo của tướng Sê-nôn, với OSS,

OWI để cung cấp tin tức về Nhật và các mục tiêu hoạt động của họ. Qua việc giải

thoát phi công, cung cấp nơi trú ẩn và hướng dẫn họ đến nơi an toàn, Người đã nói

rõ thêm cho OSS và OWI về khả năng đa dạng của Việt Minh: vừa là tổ chức

chính trị, vừa là lực lượng vũ trang. Lực lượng này đã tổ chức thành những đơn vị

du kích và đã tích cực tiến hành một cuộc chiến đấu không cân sức chống Nhật.

Người cho rằng ở Đông Dương, ngoài những trận ném bom của không quân Mỹ,

không còn lực lượng nào khác chống lại kẻ thù là Nhật, nếu không có Việt Minh.

Ở đây, người Pháp chưa bao giờ đánh lại phát xít Nhật, mà chỉ có Việt Minh là lực

lượng duy nhất đánh Nhật ở Đông Dương. Người yêu cầu Mỹ công nhận

“Mặt trận Việt Minh” là tổ chức duy nhất hợp tác chống Nhật và là đại diện cho

114

nhân dân Việt Nam, trong cuộc chiến đấu chống phát xít bên cạnh các nước

Đồng minh. Và, Việt Minh cần Mỹ cung cấp phương tiện chiến đấu: Vũ khí, đạn

dược, cố vấn, phương tiện thông tin liên lạc… Trong thời gian này, ngoài việc trao

đổi công việc, Người còn tận tình giúp đỡ các nhân viên Mỹ học tiếng Trung, đọc

và dịch các tài liệu Trung văn. Ngược lại, các cơ quan Mỹ giúp chuyển thư, đề

nghị của Hồ Chí Minh đến các nhà lãnh đạo của phe Đồng minh. Chính trong dịp

này, Hồ Chí Minh phát hiện ra mâu thuẫn gay gắt giữa các nước Đồng minh trong

những vấn đề thuộc địa và ý đồ của mỗi bên đối với Đông Dương. Hồ Chí Minh

cũng có dịp tìm hiểu tình hình nội chiến ở Trung Quốc, xác định chiều hướng

phát triển của cục diện chính trị, quân sự tại Trung Quốc.

Thực hiện đúng chủ trương ủng hộ Đồng minh, sau khi về nước,

Hồ Chí Minh vẫn giữ mối liên lạc với các cơ quan quân sự Mỹ. Cùng về

Tân Trào với Người còn có hai người Mỹ là Tân (Frank Tan)-người Mỹ gốc Hoa

và Mác-Xin (Mac Shin)-người mà Sác lơ Phen đề nghị cùng đi để phụ trách

điện đài. Nhưng mối quan hệ vẫn chỉ dừng lại ở mức độ trao đổi, chứ chưa đạt

đến mức mà Hồ Chí Minh mong muốn. Dù vậy, trong mối quan hệ này,

Việt Minh cũng đã giúp, đồng thời nhận được không ít sự giúp đỡ từ phía Mỹ.

Tháng 6-1945, phía Mỹ thông qua Thiếu tá Pat-ti (A.Patti) đề nghị phía

Việt Minh chuẩn bị một sân bay cho máy bay cỡ nhỏ có thể lên, xuống được, và

Mỹ sẽ cho một đội sĩ quan, do một sĩ quan cao cấp chỉ huy sẽ nhảy dù xuống

Tuyên Quang. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ

chuẩn bị địa điểm làm sân bay. Sân bay được đặt tại hai xã Lũng Cò và xã

Minh Thanh, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

Người Mỹ đã cung cấp cho Việt Minh một số vũ khí, thuốc men bằng cách

thả dù xuống khu căn cứ Việt Bắc hoặc đưa đến Nam Ninh (Trung Quốc) để ta

chuyển về nước. Việt Minh cũng đã cung cấp cho OSS những tài liệu “cực kỳ

quan trọng” về quân đội Nhật. Đồng thời, Việt Minh cũng giúp phía Mỹ tìm

“những người Mỹ đang lẩn trốn khỏi sự bắt bớ ở khu tam giác Tuyên Quang-Thái

Nguyên-Bắc Kạn” cũng như giúp “thành lập một hệ thống radio suốt từ Hà Nội

115

vào Sài Gòn phù hợp với kế hoạch của OSS”. “Hồ Chí Minh đã giữ lời hứa”, đó là

nhận xét của ông Pat-ti khi nói về sự giúp đỡ và hợp tác của Việt Minh đối với

người Mỹ từ lúc Hồ Chí Minh ở Côn Minh về nước.

Ngày 17-7-1945, một đội tình báo Mỹ gồm năm người, mang biệt danh

Con Nai, do Thiếu tá Tô-mát (A. Thomas) chỉ huy, đã nhảy dù xuống Tân Trào,

triển khai huấn luyện các kỹ năng quân sự cho 40 người được chọn trong số khoảng

100 quân du kích của chỉ huy Đàm Quang Trung. Đầu tháng 8-1945, trung đội Bộ

đội Việt-Mỹ (tên do Hồ Chí Minh đặt) đã được thành lập và ngày 20-8-1945, tham

gia chiến đấu với đơn vị Việt Nam giải phóng quân tiến công quân Nhật ở thị xã

Thái Nguyên dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp.

Sau khi ta giành được chính quyền ở Hà Nội ngày 19-8-1945, người Mỹ

đã có đoàn đến Hà Nội vào ngày 22-8. Ngày 26-8-1945, Hồ Chí Minh mời cơm

Thiếu tá Pat-ti ở 48 Hàng Ngang. Sau khi Người hoàn thành bản thảo Tuyên

ngôn Độc lập ngày 30-8-1945, Người mời ông Pat-ti tới đọc trước. Ông Pat-ti đã

kinh ngạc khi thấy Người trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập Mỹ. Khi Mỹ thả một

bản Tuyên ngôn Độc lập cho Việt Minh ở núi rừng Việt Bắc theo yêu cầu của

Hồ Chí Minh, họ có lẽ không thể ngờ nó sẽ được sử dụng như vậy.

* Với Anh

Anh không quan tâm nhiều đến Đông Dương và hoạt động của Anh ở

Đông Dương không đáng kể. Nhưng để chống phát xít Nhật, Anh cũng đã xây

dựng một đường dây tình báo ở đây. Điều thú vị là ở chỗ, những điệp viên này là

những thành viên của ĐCSĐD.

Năm 1941, để “ổn định” tình hình chính trị, Pháp đã đày một số chính trị

phạm, trong đó có nhiều người tù cộng sản, đi đảo Nossi Lava thuộc Ma-đa-gát-

xca (Madagasca)-một thuộc địa khác của Pháp. Năm 1943, quân Đồng minh tiến

vào châu Phi buộc thực dân Pháp (lúc này vẫn do Chính phủ phản động Pétain

cầm đầu) phải bàn giao trại tù người Việt Nam ở Ma-đa-gát-xca cho người Anh.

Họ nảy ra ý định: lợi dụng tù nhân chính trị về nước để thu thập tài liệu, thông

tin quân sự của Nhật cho họ.

116

Từ trước khi người Anh vào Ma-đa-gát-xca, giữa những người tù chính trị

đã có cuộc thảo luận về việc nên làm gì: đứng vào hàng ngũ Đồng minh chống

Nhật hay không hợp tác, cứ đợi trong tù để chiến tranh kết thúc được thả ra.

Cuối cùng, những người cộng sản nhất trí: phải tham gia quân Đồng minh, tìm

cách về Việt Nam, tiếp tục phụng sự Đảng, phụng sự nhân dân. Vậy là, dù không

nhận được chỉ đạo, cũng không biết được đường lối mới của Đảng là hợp tác với

Đồng minh, nhưng với nhiệt huyết của người cộng sản, các đồng chí đã có

lựa chọn sáng suốt, phù hợp với hoàn cảnh thực tế.

Tình báo Anh chỉ tuyển chọn 7 người trong số tù nhân chính trị Việt Nam,

gồm các đồng chí: Hoàng Đình Giong, Dương Công Hoạt, Lê Giản, Phan Bôi

(tức Hoàng Hữu Nam), Vũ Văn Địch, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Văn Phòng

(tức Nguyễn Văn Minh), chia thành nhiều đợt nhập ngũ (lúc đầu là lính trong

quân đội Pháp rồi chuyển sang quân đội Anh). Dù biết họ là những người

cộng sản, tình báo Anh vẫn quyết định chọn họ, bởi nhận thấy họ có tinh thần

chiến đấu, nghị lực cao, có khả năng tổ chức và trên hết là họ quyết tâm chống

Nhật. Sau đó, các đồng chí được di chuyển đến Ấn Độ - thuộc địa của Anh, để

được huấn luyện sử dụng điện đài và nhảy dù. Trong quá trình huấn luyện, các

đồng chí được đối xử tốt nhưng bị giám sát kỹ. Đã có lần các đồng chí định tìm

cách liên lạc với những người cộng sản Ấn Độ nhưng nhận thấy việc này có thể

khiến tình báo Anh không cho về Đông Dương, nên đã dừng lại.

Tháng 10-1943, quân Anh cho một mình đồng chí Hoàng Đình Giong về

nước bằng máy bay từ Ấn Độ sang Trung Quốc, theo con đường Tĩnh Tây - Pác

Bó - Hà Quảng (Cao Bằng) rồi bí mật đến Hòa An. Tại đây, đồng chí tìm cách

liên lạc, báo cáo tình hình với Trung ương về chủ trương lợi dụng Đồng minh về

nước, chủ trương này được Trung ương nhất trí. Sau đó, vẫn theo đường cũ trở

lại Ấn Độ, đồng chí mang tài liệu mà Trung ương đã chuẩn bị theo đúng yêu cầu

của Đồng minh. Tình báo Anh rất hài lòng khi nhận được tài liệu đó.

Sau đó, ngày 25-10-1944, các đồng chí Hoàng Đình Giong và Lê Giản về

nước theo chuyến bay đầu tiên và nhảy dù xuống huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng.

117

Họ bắt liên lạc với đồng chí Hồng Kỳ (tức Đoàn Văn Nhật, một người bạn tù

chính trị của họ ở nhà tù Sơn La); được đồng chí Vũ Anh, đại diện Tỉnh ủy Cao

Bằng đón tiếp. Sau khi được đồng chí Vũ Anh báo cáo, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã

chỉ đạo giao nhiệm vụ ngay cho họ với lời dặn: “Giữ liên lạc thường xuyên với

người Anh, xin thêm điện đài, thuốc men và vũ khí”.

Chuyến nhảy dù thứ hai gồm Phan Bôi và Dương Công Hoạt, cũng đáp

xuống Cao Bằng cuối tháng 11-1944. Trong lần này, không quân Anh còn thả

hàng tiếp tế gồm radio, pin, chăn màn, quần áo, thuốc men, một số dụng cụ y tế;

riêng vũ khí mà ta đề nghị, người Anh trả lời sẽ gửi sau.

Nhóm cuối cùng gồm các ông Nguyễn Văn Phòng, Nguyễn Văn Ngọc,

Vũ Văn Địch nhảy dù xuống Chương Mỹ, họ tìm được nơi ẩn náu an toàn và bắt

mối với tổ chức. Sau khi nhảy dù và bắt liên lạc với cách mạng, ông Vũ Văn

Địch được đồng chí Trần Quốc Hoàn (Phó Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ) giao nhiệm vụ:

Giữ liên lạc thường xuyên qua điện đài với người Anh; Chuẩn bị tổ chức liên lạc

bằng điện đài giữa Trung ương và Xứ ủy; Chuẩn bị chương trình mở lớp công

tác trinh sát quân sự cho Xứ ủy Bắc Kỳ...

Như vậy, bằng sự thông minh và nhiệt tình cách mạng, các đồng chí tù

chính trị đã tham gia đội quân Đồng minh, tìm đường về nước và tiếp tục chiến

đấu. Các đồng chí tận dụng các kỹ năng đã được huấn luyện, vừa tranh thủ sự

giúp đỡ của Anh để có thêm hàng tiếp tế, vừa cung cấp cho tình báo Anh những

thông tin đã được phía ta “kiểm duyệt”.

* Với phong trào cách mạng các nước xung quanh

Với những chính sách thời chiến của Pháp và sau đó là việc Nhật vào

Đông Dương, thông tin liên lạc giữa Ban Chấp hành Trung ương ĐCSĐD và các

cơ sở ở nước ngoài cũng như các ĐCS khác gặp nhiều khó khăn. Phải đến cuối

năm 1944, Mặt trận Việt Minh mới từng bước mở rộng liên lạc với phong trào

dân tộc chống phát xít Nhật ở một số nước như Miến Điện, Mã Lai, Philíppin,

Thái Lan, Inđônêxia... Ở Thái Lan, Việt Minh cùng với các lực lượng yêu nước

chống Nhật lập khu căn cứ chung ở Phu Khan. Tại đây, Việt Minh đã huấn luyện

118

quân đội, lập kho vũ khí và tiếp nhận viện trợ vũ khí từ lực lượng Đồng minh

[165, tr.15]. Ở Lào, từ năm 1943, “Ban vận động Việt kiều Lào - Thái” được

thành lập và nhanh chóng tiến hành gây dựng cơ sở trên địa bàn Lào. Đến năm

1944, Ban vận động Việt kiều chuyển thành Hội Việt kiều cứu quốc. Để thống

nhất chỉ đạo phong trào cách mạng, phát triển lực lượng cách mạng, những đồng

chí trung kiên trong Hội Việt kiều cứu quốc thành lập Đội Tiên phong. Dưới sự

lãnh đạo của Đội Tiên phong, các chi bộ Đảng ở Viêng Chăn, Bò Nèng, Thà

Khẹc, Savẳnnàkhẹt lần lượt được củng cố. Đầu năm 1945, “Tổng hội Việt kiều

cứu quốc toàn Thái - Lào”, một chi nhánh của Mặt trận Việt Minh, được thành

lập nhằm hưởng ứng và tham gia công cuộc giành độc lập.

Cao trào kháng Nhật cứu nước phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam đã tác

động và hỗ trợ tích cực các lực lượng yêu nước Lào đấu tranh giành độc lập.

Tháng 4-1945, tại Thái Lan, nhóm người Lào đang hoạt động tại đây thành lập tổ

chức “Lào Ítxala” (Lào tự do). Tổ chức này tập hợp các công chức, học sinh có

tinh thần yêu nước, chủ trương dựa vào phe Đồng minh chống Nhật để giành độc

lập. Tháng 5-1945, một tổ chức yêu nước khác của người Lào cũng ra đời là

“Lào pên Lào” (Nước Lào của người Lào), gọi tắt là “Lopolo”, gồm những công

chức, trí thức, sĩ quan người Lào tập hợp nhau để đấu tranh giành độc lập cho

Lào. Đội Tiên phong, Tổng hội Việt kiều cứu quốc toàn Thái - Lào đã tiến hành

liên hệ với các tổ chức “Lào Ítxalạ” và “Lào pên Lào” để bàn việc phối hợp hoạt

động, thu hút và tổ chức huấn luyện chính trị, quân sự cho thanh niên Lào - Việt.

Khi Nhật Bản đầu hàng Đồng minh, ĐCSĐD triệu tập Hội nghị toàn quốc

họp từ ngày 14 đến 15-8-1945 tại tỉnh Tuyên Quang (Việt Nam). Đại biểu ở Thái

Lan và Lào tham dự là các đồng chí Dương Trí Trung, Trần Đức Vịnh. Sau Hội

nghị, đồng chí Trần Đức Vịnh được cử làm đại diện đặc biệt của Tổng bộ Việt

Minh, trở về Lào ngày 28-8-1945.

Cuộc Tổng khởi nghĩa sôi động kết thúc thắng lợi ở Việt Nam đã đập tan

bộ máy thống trị đầu não của phát xít Nhật và thực dân Pháp ở Đông Dương, tạo

điều kiện thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân Lào.

119

Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời và khôn khéo của Xứ ủy Ai Lao, ngày 23-8-

1945, một cuộc mít tinh lớn diễn ra tại khu vực chợ Mới đã thúc đẩy và tạo điều

kiện cho các địa phương khác trên đất Lào đứng lên khởi nghĩa thắng lợi.

Ở Campuchia, trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, cán bộ cộng

sản Việt Nam đã bắt đầu có những hoạt động nhỏ lẻ, chủ yếu ở tỉnh Battambang

(phía Tây Bắc Campuchia, giáp Thái Lan). Ban Vận động Việt kiều cũng được

thành lập trong cộng đồng Việt kiều Campuchia. Tuy vậy, hoạt động của Đảng ở

Campuchia không thu được nhiều kết quả như ở Lào.

Nhận định về cuộc Cách mạng Tháng Tám, tác giả Phillip Devillers trong

cuốn Lịch sử Việt Nam (từ 1940-1952) đã viết: “Cuộc Cách mạng không phải là

sự bùng nổ. Nó là kết quả cuối cùng của sự thấm lọc, điểm nút logic của sự thâm

nhập Việt Minh vào tất cả các lĩnh vực quốc gia.”Cuộc cách mạng này còn có ý

nghĩa là sự mở đầu cho phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa trên

toàn thế giới. “… Nước Việt Nam tuyên bố độc lập vào năm 1945 là giai đoạn đầu

tiên mở đầu cho làn sóng xóa bỏ chế độ thuộc địa ở Á châu, tiếp theo là Phi châu”

[154, tr 113-114], do kích thích dây chuyền của Cách mạng Tháng Tám Việt Nam

và Inđônêxia (17-8), Nê-pan giành độc lập cuối 1945, Philíppin vào năm 1946,

Mianma và Ấn Độ vào năm 1947, Triều Tiên, Xri Lanca vào năm 1948.

Cuộc cách mạng thành công rực rỡ, chặng đường quyết tâm thực hiện

mục tiêu độc lập dân tộc (1941-1945) đã kết thúc trong hoan ca với một ý nghĩa

to lớn không gì sánh nổi đối với nhân dân Việt Nam nói riêng và nhân dân yêu

chuộng hòa bình trên toàn thế giới nói chung.

Ngày 2-9-1945, tại vườn hoa Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt

Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn

Độc lập, tuyên bố với nhân dân Việt Nam và toàn thế giới về nền độc lập, tự do

vừa giành được cùng quyết tâm bảo vệ nền độc lập ấy: “Nước Việt Nam có

quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn

thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của

cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.” [42, tr.437]

120

Tiểu kết chương 3

Tuy rằng trong Nghị quyết Hội nghị toàn quốc (ngày 14 đến 15-8-1945),

Đảng tự nhận định: “Về mặt ngoại giao, tuy chúng ta đã cố gắng nhiều, nhưng mãi

đến giờ, đối với Tàu vẫn chưa có kết quả tốt; đối với các nước Đồng minh khác,

tuy việc ngoại giao có tiến, nhưng cách mạng Việt Nam vẫn chưa giành được một

địa vị trên trường quốc tế”; nhưng xem xét thực tế lịch sử, có thể khẳng định, từ

1939, đặc biệt là từ 1941 đến 1945 là những năm hoạt động đối ngoại của ĐCSĐD

đạt những kết quả bước đầu khá quan trọng.

Khởi đầu từ đường lối đối ngoại tổng quát: đoàn kết với ĐCS các nước,

chống chủ nghĩa đế quốc, đối ngoại của ĐCSĐD dần đi vào cụ thể với từng quốc

gia, thậm chí phân tích và có đối sách với các đối tượng khác nhau (như với Pháp

Đờ Gôn và Pháp thân Nhật có những chính sách khác nhau). Đảng đã thành công

trong việc lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống phát xít, ủng hộ Liên Xô, liên hiệp

với Mỹ và Trung Quốc,... Những hoạt động đó đã góp phần to lớn trong việc tạo

nên điều kiện thuận lợi để tổng khởi nghĩa diễn ra và thắng lợi vào tháng 8-1945.

Đặc biệt, giai đoạn này cũng đánh dấu hoạt động đối ngoại năng động của

Hồ Chí Minh. Nhờ có kiến thức cơ bản sâu sắc về lý luận Mác - Lênin, đi sâu nắm

tình hình ở các thuộc địa, nắm được quan điểm của một số ĐCSở khu vực Tây Âu

trong vấn đề thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã góp phần tập hợp và cung cấp cho QTCS

nhiều tư liệu quý và những nhận định sâu sắc. Người đã phát hiện chỗ mạnh, chỗ yếu

của các ĐCS và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước; đề xuất những kiến nghị

cụ thể về biện pháp khắc phục những nhược điểm về nhận thức lý luận, đường lối và

phương thức hoạt động. Cũng từ đó, Người đã có nhiều cố gắng lớn trong việc thiết

lập các mối quan hệ quốc tế nhằm tạo nên những điều kiện thuận lợi mới cho sự

nghiệp giải phóng dân tộc. Người đã góp phần giúp ĐCSĐD nhận được nhiều hơn sự

giúp đỡ từ QTCS, từ các ĐCS anh em cũng như nhân dân tiến bộ trên thế giới. Có thể

nói rằng, lịch sử hoạt động đối ngoại của ĐCSĐD từ năm 1939 đến năm 1945 là

tiền đề trực tiếp cho hoạt động ngoại giao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non

trẻ được thành lập ngày 2-9-1945 cũng như các hoạt động ngoại giao sau này.

121

Chương 4

MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

4.1. NHẬN XÉT CHUNG

4.1.1. Thành tựu

Ngay từ khi thành lập, ĐCSVN đã xác định đối ngoại là một mặt trận

quan trọng, góp phần bảo đảm thành công của cách mạng Việt Nam. Trải qua 15

năm lãnh đạo nhân dân (1930-1945), đi đến Cách mạng Tháng Tám thành công,

thành lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ĐCSĐD đã khẳng định vị trí,

vai trò lãnh đạo của mình đối với dân tộc, trong đó có những thành công của

Đảng trên mặt trận đối ngoại. Đường lối đối ngoại của Đảng được thực hiện theo

mục tiêu xuyên suốt: kiên trì đường lối ngoại giao độc lập, tự chủ, khơi nguồn

gắn bó triệt để sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, độc lập dân tộc với chủ

nghĩa xã hội. Để đạt được mục tiêu này, Đảng đã sử dụng nhiều phương pháp

ngoại giao như: hòa hoãn tránh xung đột, lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù, thêm bạn

bớt thù, giao thiệp thân thiện, dĩ bất biến ứng vạn biến… đồng thời, dự báo, nắm

bắt thời cơ, tận dụng thời cơ một cách hợp lí.

Ở giai đoạn này, hoạt động đối ngoại của Đảng có những đặc điểm nổi bật:

Thứ nhất: Lúc này, Đảng chưa phải là Đảng cầm quyền, mối quan hệ giữa

các nước không chính danh và cũng không có cơ quan chuyên trách về đối ngoại

nên đã tác động lớn đến hoạt động đối ngoại lúc này.

Thứ hai: Đảng thường xuyên phải hoạt động bí mật trong hoàn cảnh cực

kỳ khó khăn, bị tổn thất nhiều. Trong vòng 12 năm từ 1930 đến 1942, đã có 4

Tổng Bí thư của Đảng bị địch bắt, sát hại (Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy

Tập, Nguyễn Văn Cừ). Đảng có lúc hoạt động công khai, có lúc bán công khai

và có cả những giai đoạn đi vào hoạt động bí mật.

Thứ ba: Đối tượng đặt quan hệ của Đảng trải rộng: QTCS, các ĐCS,

Đồng minh...

Và đặc biệt cần nhắc đến đó là vai trò nổi bật của Nguyễn Ái Quốc -

122

Hồ Chí Minh trong hoạt động đối ngoại giai đoạn này. Với 15 năm, hoạt động

đối ngoại của Đảng đã đem lại những thành tựu đáng kể có thể kể đến như:

4.1.1.1. Hình thành đường lối đối ngoại phù hợp với tình hình thực tiễn

phức tạp

Hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1930 đến năm 1945 diễn ra trong

bối cảnh quốc tế và trong nước hết sức phức tạp, có cả những yếu tố thuận lợi và

khó khăn.

Về quốc tế, cuộc khủng hoảng kinh tế những năm đầu thập niên 1930 trong

thế giới tư bản chủ nghĩa khiến cho chủ nghĩa phát xít ngày càng bành trướng trở

thành nguy cơ đe dọa trực tiếp hòa bình thế giới, ảnh hưởng đến các lực lượng dân

chủ và yêu nước quốc tế và ảnh hưởng nhiều đến Đảng ta. Chiến tranh thế giới

thứ hai (1939-1945) lôi cuốn hầu hết các dân tộc trên thế giới và làm thay đổi cơ

bản cục diện của quan hệ quốc tế, cũng ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam. Phong

trào cộng sản quốc tế (với Liên Xô là trụ cột) đạt được nhiều thành tựu, nhưng

những người lãnh đạo QTCS chưa quan tâm nhiều đến cách mạng Đông Dương,

cách mạng châu Á, trong đó có cách mạng Việt Nam.

Trong nước, nhân dân Việt Nam bị thực dân Pháp thống trị, áp bức bóc lột

nặng nề. Đặc biệt, mỗi khi “mẫu quốc” gặp khủng hoảng hay chiến tranh, chính

quyền thực dân càng ra sức vơ vét làm cho tình hình kinh tế - xã hội ở thuộc địa

thêm bi thảm. Khi Nhật vào Đông Dương, nhân dân ta phải chịu thêm một tròng

áp bức bóc lột, đời sống càng ngày càng cực khổ. Trong bối cảnh đó, đã có nhiều

đảng phái ra đời nhưng chưa tổ chức nào tập hợp được quần chúng nhân dân để

tạo thành phong trào đấu tranh rộng khắp như ĐCSĐD. Do vậy, chính quyền thực

dân ra sức khủng bố Đảng vừa để dập tắt phong trào đấu tranh của nhân dân thuộc

địa, vừa để ngăn chặn sự lan tỏa của chủ nghĩa cộng sản trên thế giới.

Do sự áp bức của thực dân Pháp, hoạt động trong nước của Đảng hầu như

phải diễn ra trong bí mật, tổ chức của Đảng bị tổn thất nặng nề. Nhiều đảng viên,

nhất là những nhân vật lãnh đạo chủ chốt của Đảng, phải hoạt động ở nước

ngoài để tránh sự bắt bớ của địch. Có thời gian, Đảng phải đặt ra BCH ở ngoài

123

để chỉ đạo việc khôi phục lại tổ chức Đảng sau khi bị thực dân Pháp khủng bố.

Chỉ tính từ năm 1930 đến năm 1942, đã có 4 Tổng Bí thư của Đảng bị địch bắt,

sát hại (Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ).

Phần lớn những cuộc họp của Đảng như Hội nghị hợp nhất (2-1930), Hội

nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (10-1930), Đại hội đại biểu

lần thứ nhất ĐCSĐD (3-1935)... đều diễn ra ở nước ngoài. Điều này không thuận

lợi cho việc chỉ đạo phong trào trong nước nhưng phần nào lại có lợi trong việc

tạo quan hệ với bên ngoài.

Bên cạnh đó, sự phát triển của phong trào cộng sản thế giới, nhất là của các

ĐCS ở Đông Nam Á (ĐCS Thái Lan, ĐCS Malaixia,...) là điều kiện thuận lợi để

Đảng tạo quan hệ đối ngoại với các tổ chức này.

Tuy nhiên, vì sự chống phá của thực dân Pháp nói riêng và các nước đế

quốc nói chung với phong trào cộng sản thế giới, việc liên hệ của Đảng với các

tổ chức cách mạng các nước khác rất khó khăn. Không có được sự liên hệ mật

thiết cũng là một lý do khiến QTCS chưa quan tâm nhiều đến cách mạng Đông

Dương. Điều này càng đúng khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra. Trong chiến

tranh, các ĐCS cũng bị ảnh hưởng sâu sắc nên sự quan tâm của họ đến vấn đề

của nước khác cũng ít đi.

Giữa những biến động phức tạp của tình hình thế giới và trong nước Đảng đã

đưa ra được đường lối đối ngoại linh hoạt và hợp lý. Cũng như đường lối

cách mạng nói chung, đường lối đối ngoại của Đảng trong thời gian từ năm 1930

đến năm 1945 được hình thành do yêu cầu của thực tiễn đấu tranh cách mạng, dựa

trên kinh nghiệm hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và căn cứ vào quan

điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin. Một quốc gia không thể không có mối quan hệ với

các quốc gia hay tổ chức quốc tế khác, nên trong đường lối của một chính đảng

không thể thiếu đường lối đối ngoại. Đặc biệt, Việt Nam là một nước thuộc địa,

phong kiến đang đấu tranh giành độc lập, nên trong đường lối cách mạng nói chung

của Đảng phải có đường lối đối ngoại. Đây là điều cần thiết. Bên cạnh đó,

Nguyễn Ái Quốc - người truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin và sáng lập ĐCS ở

124

Việt Nam - là người đã đi qua nhiều quốc gia, khảo sát nhiều cuộc cách mạng,

biết được tầm quan trọng của đối ngoại với phong trào đấu tranh của nhân dân các

nước thuộc địa. Năm 1920, Người tin theo Lênin, tin theo QTCS thứ ba chính là vì

Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa

của Lênin đã nhấn mạnh nhiệm vụ của các ĐCS là phải giúp đỡ thật sự phong trào

cách mạng ở các nước thuộc địa, phải đoàn kết giai cấp vô sản các nước tư bản với

quần chúng cần lao của tất cả các dân tộc. Là chính đảng của giai cấp vô sản ở một

nước thuộc địa, phong kiến, Đảng luôn trung thành với quan điểm của chủ nghĩa

Mác-Lênin: xem cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, ủng

hộ Liên bang Xô viết và các ĐCS các nước.

Xuất phát từ thực tiễn một nước thuộc địa, phong kiến, đường lối đối

ngoại của Đảng với nội dung chính là chống đế quốc (cụ thể là thực dân Pháp)

và ủng hộ phong trào cách mạng thế giới được đề ra sớm, ngay trong những văn

kiện có tính cương lĩnh đầu tiên của Đảng là Chánh cương vắn tắt và Sách lược

vắn tắt (tháng 2-1930) và Luận cương Chính trị (tháng 10-1930). Trong đó,

Luận cương Chính trị, sau khi phân tích tình hình thế giới, đã xem việc ủng hộ

Liên bang Xô viết, liên kết với vô sản giai cấp toàn thế giới và phong trào cách

mạng thuộc địa và nửa thuộc địa là một trong những nhiệm vụ cốt yếu của cách

mạng. Đường lối này đã được chứng minh là đúng đắn thông qua những thành

quả của cách mạng Việt Nam.

Đường lối đối ngoại của Đảng không phải luôn luôn cố định như ban đầu.

Thời kỳ 1930-1945, đường lối đối ngoại của Đảng thể hiện sự linh hoạt, phù hợp

với sự thay đổi của hoàn cảnh lịch sử trên thế giới và trong nước, được bổ sung,

điều chỉnh dần trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của Đảng và chịu sự

kiểm nghiệm rất khắc nghiệt của thực tế. Đó là bởi tình hình trong nước và quốc

tế luôn luôn biến đổi, đòi hỏi đường lối phải có những thay đổi để phù hợp với

thực tế khách quan. Và từ đó, hoạt động đối ngoại củaĐảng luôn phù hợp với

những thay đổi cụ thể này.

Trong thực tiễn cách mạng, Đảng đã trải qua những giai đoạn khó khăn,

125

tồn tại sự đấu tranh giữa các quan điểm khác biệt, nhưng đó cũng là những thời

điểm Đảng phân tích, so sánh giữa lý luận cách mạng của quốc tế và thực tiễn

áp dụng vào Việt Nam, từ đó tổ chức các cuộc vận động quần chúng nhân dân

tạo nên các cao trào cách mạng. Trong thời gian 1930-1945, Đảng đã phát động

các cuộc vận động lớn: cuộc vận động những năm 1930-1935, mà đỉnh cao là

Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931); cuộc vận động dân chủ những năm 1936-1939.

Đến cao trào Mặt trận Dân chủ năm 1938, Đảng phải vượt qua tổn thất lớn do

cuộc khủng bố của địch gây ra để đi tiếp chặng đường mới.

Đảng luôn kịp thời xác định kẻ thù trực tiếp của cách mạng Đông Dương.

Trước tháng 9-1940, Đảng nhận định kẻ thù của nhân dân Đông Dương là

thực dân Pháp, nhưng sau khi phát xít Nhật vào Đông Dương tháng 9-1940,

Đảng nêu khẩu hiệu “đả đảo đế quốc chủ nghĩa Pháp, Nhật và các thế lực

phản động ngoại xâm”[42, tr.68], cũng tức là kẻ thù của ta có thêm Nhật nhưng

kẻ thù chính là Pháp. Nhạy cảm với thời cuộc, tháng 2-1943, Ban Thường vụ

Trung ương họp đã xác định: “kẻ thù số một của dân tộc Đông Dương lúc này

không phải là tất cả đế quốc chủ nghĩa mà chỉ là đế quốc phát xít, đặc biệt là

phát xít Nhật – Pháp”[42, tr.290-297]. Tiếp đó, khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9-

3-1945, Đảng nhận thấy Pháp đã mất quyền thống trị ở Đông Dương, nên

xác định lại kẻ thù chính - kẻ thù cụ thể trước mắt - duy nhất của nhân dân

Đông Dương là phát xít Nhật (theo Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động

của chúng ta). [42, tr.364-373]

Đảng đã sáng suốt phát triển cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang,

dấy lên cao trào tiền khởi nghĩa, chủ động nắm bắt thời cơ mới để tiến hành

Tổng khởi nghĩa. Trong mỗi cuộc vận động, cùng với sự giúp đỡ, góp ý, ủng hộ

của các Đảng cộng sản anh em, Đảng từng bước hoàn thiện đường lối chiến lược

và sách lược của mình.

Nghiên cứu, học tập đường lối của các ĐCS anh em, áp dụng sáng tạo vào

thực tiễn Việt Nam để tạo nên sự chuyển hướng chiến lược, chính là cách thức

hoàn thiện đường lối cách mạng và chủ trương đối ngoại của Đảng.

126

4.1.1.2. Tạo dựng vị thế quan trọng của Đảng Cộng sản Đông Dương

trong phong trào cộng sản quốc tế

Hoạt động đối ngoại của Đảng thời kỳ 1930-1945 đã tạo dựng và khẳng

định được vai trò và tiếng nói của ĐCSĐD đối với QTCS và phong trào cộng

sản quốc tế. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nhận thức rõ rằng Đảng là một bộ

phận của phong trào cộng sản quốc tế và cách mạng thế giới, nên Đảng luôn đặt

cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo của cách mạng vô sản trên thế giới. Đặc biệt,

Đảng nhận thấy sự cần thiết phải giành được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân

thế giới đối với Việt Nam, cũng như khả năng đóng góp của cách mạng

Việt Nam vào sự nghiệp cách mạng chung của thế giới. Điều này cho thấy mong

muốn, nhận thức về hoạt động đối ngoại của Đảng đã định hình từ rất sớm.

Ngay trong Sách lược vắn tắt của Đảng năm 1930 đã xác định cách mạng

Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới nên cần phải liên kết với

cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản trên thế giới. “phải đồng

tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp

thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp” [38, tr. 3], các “hành động phản đế ở

Đông Dương phải có tính chất quốc tế”...

Từ việc xác định mục tiêu, nỗ lực hoạt động, lãnh đạo các phong trào

cách mạng trong nước, Đảng đã nhận được sự giúp đỡ của QTCS, của các ĐCS

anh em trong thời kỳ đầu mới thành lập, cũng như những góp ý, thống nhất

công nhận ĐCSĐD là một chi bộ độc lập thuộc QTCS. Việc được công nhận là

một chi bộ độc lập giúp Đảng có nhiều hoạt động hiệu quả. Ban Chấp hành

Trung ương lâm thời của Đảng đã tập hợp các cơ sở đảng mới xây dựng lại trong

nước thành hệ thống, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, chuẩn bị triệu tập

Đại hội Đảng của BCH ở ngoài được thực hiện hiệu quả, có sự nhất quán trong

hoạt động cả ở trong và ngoài nước.

Một lợi thế cho hoạt động đối ngoại thời kỳ này là nhiều sự kiện

quan trọng của ĐCS trong thời gian đầu như Hội nghị thành lập Đảng năm 1930,

Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương tháng 10 năm 1930 tại

127

Hương Cảng (Trung Quốc), Đại hội lần thứ I Ban Chấp hành Trung ương tháng

3-1935, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương ĐCSĐD tháng 7-1936 đều diễn ra

ở nước ngoài, chủ yếu là Trung Quốc. Việc này tạo điều kiện thuận lợi cho việc

thực hiện chủ trương xây dựng quan hệ đối ngoại Đảng và tiến hành nhiều hoạt

động liên quan đến QTCS.

Hoạt động đối ngoại của Đảng ở những năm đầu và đặc biệt từ năm 1941

đến 1945, được thể hiện phần nhiều thông qua Hồ Chí Minh. Đây là một đặc thù

đồng thời cũng là điểm thuận lợi cho hoạt động đối ngoại của Đảng.

Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đã có thời gian ở nước ngoài rất lâu (từ năm

1911 đến năm 1941, Người ở nước ngoài gần 30 năm, sống, học tập và hoạt

động cách mạng tại 28 quốc gia trên thế giới), được tham gia vào các Đại hội,

Hội nghị tầm cỡ quốc tế về vấn đề dân tộc và thuộc địa ngay từ thời kỳ đầu, có

nhiều mối quan hệ với các tổ chức cộng sản, phong trào cách mạng và cá nhân

các lãnh tụ, cán bộ, đảng viên cộng sản của các nước. Bản thân Người cũng trực

tiếp tham gia tổ chức, hoạt động ở một số tổ chức đảng và phong trào cách mạng

trên thế giới. Hơn hết, Hồ Chí Minh là người hết lòng mong mỏi đấu tranh giành

độc lập dân tộc, đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân nên Người hết sức

chú trọng đến việc mở rộng hoạt động đối ngoại để đem lại hiệu quả cao hơn cho

phong trào cách mạng trong nước.

Bên cạnh vai trò của Hồ Chí Minh, Đảng cũng có những hoạt động ở bên

ngoài như thành lập BCH ở ngoài. Một số các đồng chí lãnh đạo Đảng thời kỳ

này như Lê Hồng Phong, Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Nọn...

đều đã từng học tập, hoạt động cách mạng ở nước ngoài, có những mối quan hệ

mật thiết với QTCS, được sự tin tưởng của các ĐCS anh em. Đây đều là những

nhà cách mạng lớn, chịu ảnh hưởng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, có xu hướng tiến

bộ, quan tâm đến việc mở rộng hoạt động đối ngoại của Đảng.

Từ chỗ là một bộ phận của QTCS, được tham gia vào các hoạt động của

QTCS, của phong trào cách mạng trên thế giới, Đảng đã có vị trí nhất định trong

các hoạt động của QTCS, của phong trào cộng sản thế giới.

128

4.1.1.3. Ngày càng mở rộng đối tượng quan hệ và thu được hiệu quả

Phong trào cách mạng thế giới từ đầu thập niên 30 (thế kỷ XX) đã có sự phát

triển mạnh mẽ, lan rộng khắp nơi, từ các nước tư bản chủ nghĩa Âu, Mỹ đến các

nước thuộc địa và phụ thuộc. Các lực lượng cách mạng và dân chủ ở nhiều nước,

dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản, đã vùng dậy chống chủ nghĩa phát xít

và nguy cơ chiến tranh thế giới mới. Ở các nước thuộc địa và phụ thuộc đã diễn ra sự

tập hợp các lực lượng yêu nước và cách mạng trong cuộc đấu tranh giành quyền

sống, giành độc lập dân tộc. Sự tǎng cường vai trò của giai cấp công nhân là một đặc

điểm của phong trào giải phóng dân tộc ở Á, Phi, Mỹ Latinh trong thời gian này.

Nhiều ĐCS ra đời trong ngọn lửa đấu tranh cách mạng: ĐCS Ecuađo (23-5-1926),

ĐCS Pêru (7-10-1928), ĐCSVN, ĐCS Philíppin, Côlômbia, Panama, Xanvađo, Xiri,

Libǎng… (1930). Các ĐCS Malaixia, Vênêxuêla, Côxta Rica, Puectôricô lần lượt ra

đời vào những nǎm đầu thập niên 30. Các chi bộ ĐCS Pháp ở Tuynidi và Angiêri

cũng trở thành những đảng độc lập vào nǎm 1934 và 1936… Các ĐCS trẻ tuổi ở

phương Đông đã chiến đấu như những chiến sĩ kiên cường vì độc lập dân tộc, vì tiến

bộ xã hội. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hoạt động của Đảng.

Hoạt động đối ngoại của Đảng khi mới thành lập chỉ tập trung trong đường

lối chống thực dân Pháp, ủng hộ Liên Xô và phong trào cộng sản quốc tế. Do vậy,

đối tượng hợp tác của Đảng hầu như chỉ có các tổ chức cộng sản và ĐCS khác.

Tuy gặp nhiều khó khăn, nhất là trong vấn đề liên lạc, Đảng vẫn cố gắng đặt các

mối quan hệ với các ĐCS như ĐCS Pháp, Liên Xô, Trung Quốc cùng một số ĐCS

ở các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Malaixia,... Đến năm 1930, Đảng được

QTCS công nhận là một chi bộ trực thuộc và thông qua QTCS đã có mối liên lạc

với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa nhằm mở rộng và

tăng cường lực lượng cho cuộc đấu tranh cách mạng ở Đông Dương. Điều này cho

thấy Đảng đã cố gắng xây đắp các mối quan hệ quốc tế. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc

là người được QTCS phân công nhiệm vụ phát triển phong trào cộng sản và cách

mạng ở khu vực Đông Nam Á, nên đã có vai trò lớn trong việc thành lập tổ chức

cộng sản ở khu vực này, cụ thể đối với sự ra đời của ĐCS Malaixia, xây dựng, phát

129

triển phong trào yêu nước ở Thái Lan, Lào, Inđônêxia... Tuy nhiên, sự liên lạc này

cũng còn chưa chặt chẽ, chưa tích cực do điều kiện hoạt động cách mạng ở nước ta

thời kỳ này còn nhiều hạn chế. Các ĐCS cũng chưa thực sự chú trọng đến việc

giúp đỡ ĐCSĐD mà chủ yếu là do ảnh hưởng, tác động, yêu cầu cụ thể của QTCS.

Các hoạt động đối ngoại thời kỳ này chưa phát huy được một cách mạnh mẽ nhất.

Sau khi được công nhận là phân bộ độc lập của QTCS, các thành viên của

Đảng tham gia nhiều vào công việc của QTCS và các Đảng cộng sản anh em.

Đảng đã cử đại biểu tham dự Đại hội VII QTCS, tham dự các Hội nghị của

Quốc tế Nông dân, QTCS đỏ. Thời kì năm 1938, Nguyễn Ái Quốc trong vai trò

thiếu tá Hồ Quang của Bát Lộ Quân-Trung Quốc, đã tham gia trực tiếp vào các

hoạt động của ĐCS Trung Quốc...

Dù hoạt động đối ngoại của Đảng có những ưu điểm nhưng kết quả hoạt

động về đối ngoại của Đảng chưa cao do nhiều nguyên nhân như: các hoạt động

diễn ra trong bối cảnh Đảng chưa cầm quyền, hoạt động khó khăn, xa Tổ quốc,

điều kiện vật chất thiếu thốn... nhưng những hoạt động này đã làm cho phong trào

cộng sản thế giới chú ý đến Việt Nam, đến phong trào cộng sản ở Việt Nam, công

nhận ĐCSĐD là một bộ phận của QTCS.

Không chỉ quan hệ với các tổ chức cộng sản và phong trào cách mạng các

nước, ĐCSĐD còn chủ động quan hệ với Trung hoa Dân quốc, với Đồng minh Mỹ

và những người Pháp, Anh chống phát xít để mở rộng mối quan hệ giúp đỡ lẫn nhau.

Qua hoạt động tích cực của các đảng viên ĐCSĐD, Đảng cũng nhận được sự giúp

đỡ dưới nhiều hình thức cho phong trào đấu tranh giải phóng độc lập giành chính

quyền. Trung Quốc, Mỹ, các lực lượng Đồng minh. Đặc biệt, Việt Minh đã nhận

được sự giúp đỡ về mặt vật chất, hướng dẫn kỹ thuật và huấn luyện từ phía Mỹ.

Không chỉ vậy, Đảng còn tranh thủ được sự giúp đỡ to lớn về nhiều mặt

(cả vật chất và tinh thần) của nhân dân, lực lượng tiến bộ trên thế giới, trong đó

trước hết phải kể đến sự giúp đỡ của Đảng và nhân dân Liên Xô, nhân dân

Trung Quốc. Sự giúp đỡ này là điều kiện quan trọng góp phần vào thắng lợi của

cách mạng Việt Nam.

130

Đảng đã thiết lập được quan hệ đối ngoại bước đầu với nhiều nước trên

thế giới, trong đó có các nước thuộc địa và phụ thuộc để cùng đoàn kết chống

ngoại xâm, tăng cường tình đoàn kết với nhân dân Lào và Campuchia, vừa làm

tăng sức mạnh của mỗi dân tộc cũng như sức mạnh tổng hợp của cả ba dân tộc

để đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Theo thời gian và do tình hình thế giới có nhiều biến đổi, đặc biệt trong

giai đoạn Chiến tranh thế giới thứ hai, quan hệ đối ngoại của Đảng dần mở rộng

hơn với đường lối ủng hộ phe Đồng minh chống phát xít. Không chỉ bó hẹp

trong quan hệ với các tổ chức cộng sản, Đảng còn bước đầu đặt quan hệ với các

nước như Trung hoa Dân quốc và Mỹ trên cơ sở có chung kẻ thù là phát xít

Nhật. Đặc biệt, đối với Pháp là một nước lớn trong phe Đồng minh nhưng lại là

đế quốc thống trị Đông Dương, Đảng đã rất linh hoạt, có thái độ và hành động

phù hợp với từng thời điểm, từng hoàn cảnh. Chính nhờ bám sát tình hình thực

tế, thích hợp với từng đối tượng và mang tính dự báo cao nên hoạt động đối

ngoại của Đảng dần mang lại những hiệu quả nhất định, góp phần vào thắng lợi

chung của phong trào cách mạng Việt Nam.

4.1.1.4. Góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của

dân tộc Việt Nam

Thắng lợi của đối ngoại trong thời kỳ 1930-1945 không rõ nét như các

thời kỳ sau khi thành lập nước, khi mà Việt Nam đã được công nhận là một quốc

gia độc lập, có tiếng nói riêng trên trường quốc tế. Tuy nhiên, hoạt động đối

ngoại của Đảng thời kỳ này đã có những đóng góp nhất định vào thành công của

Cách mạng Tháng Tám, thành lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Quan hệ đối ngoại của Đảng với QTCS và các ĐCS anh em đã tạo nhiều

thuận lợi cho phong trào cách mạng Đông Dương. QTCS đã giúp Đảng đào tạo

nhiều cán bộ, chỉ dẫn về đường lối và giúp đỡ tài chính. Báo chí của ĐCS

Liên Xô và ĐCS Pháp nhiều lần đăng tin, bài ủng hộ cách mạng Đông Dương

trên các tờ báo của mình.

Trong thời gian Nhật - Pháp cùng thống trị Đông Dương, hoạt động

131

đối ngoại của Đảng tập trung vào từng đối tượng cụ thể, đã tận dụng mâu thuẫn sẵn

có để chia rẽ quan hệ Nhật và Pháp: “- không thể coi tất cả người Pháp ở Đông

Dương là Pháp gian thân Trục”...“- Phải nhân những chuyện người Pháp ở Đông

Dương bị Nhật cướp bóc làm nhục mà chỉ cho họ biết đó là kết quả của chính sách

hàng Trục của bọn Pê tanh, Đờcu và kêu gọi họ cùng nhân dân Đông Dương chống

lại phát xít Nhật và bọn Pháp gian phản quốc” [42, tr.297].

Nhờ những mối quan hệ tương đồng của nhân dân vùng biên giới Việt -

Trung mà Đảng và Mặt trận Việt Minh đã xây dựng được nhiều cơ sở cách

mạng ở các huyện Long Châu, Tĩnh Tây... thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

Nhân dân nước bạn đã đồng cam, cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi với cán bộ cách

mạng Việt Nam. Đây cũng là những địa bàn quan trọng để cán bộ và nhân dân

Việt Nam tạm lánh mỗi khi bị khủng bố trắng.

Những giao thiệp ban đầu với Mỹ mang lại lợi ích dù không lớn nhưng

thiết thực. Việc quân Mỹ cung cấp cho Việt Minh một số vũ khí và thuốc men,

việc đội tình báo Mỹ (biệt danh Con Nai) nhảy dù xuống Tân Trào (tháng 7-

1945) huấn luyện các kỹ năng quân sự cho lực lượng vũ trang của Việt Minh là

một ví dụ tiêu biểu.

Trong Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Đảng sử dụng phương pháp

điều đình, thương lượng giành chính quyền từ quân đội Nhật, tiến hành lãnh đạo

khởi nghĩa thành công. Điều này làm giảm đáng kể những tổn thất của ta. Cuộc

tổng khởi nghĩa đã trải qua những giai đoạn vô cùng gay go, quyết liệt nhưng với

sách lược mềm dẻo, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi mà ít phải

đổ máu. Đó là một nét độc đáo trong sách lược của Đảng, làm cho Cách mạng

Tháng Tám khác với nhiều cuộc cách mạng trước nó và đương thời.

Với những đóng góp đáng kể của hoạt động đối ngoại, toàn thể dân tộc

Việt Nam đã đồng lòng, đồng sức, tiến lên phá tan xiềng xích nô lệ của thực dân

Pháp hơn 80 năm và phát xít Nhật gần 5 năm, chấm dứt chế độ phong kiến; lập

nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở đầu kỷ nguyên mới của dân tộc:

kỷ nguyên độc lập, tự do, kỷ nguyên nhân dân nắm chính quyền, làm chủ đất

132

nước. Từ sau Cách mạng Tháng Tám, Đảng lãnh đạo đất nước, nên đường lối

đối ngoại của Đảng cũng chính là đường lối đối ngoại của đất nước, được cụ thể

hóa bằng chính sách đối ngoại của Nhà nước.

Những thành tựu ngoại giao bước đầu đạt được, trước hết là nhờ Đảng đã

làm tốt công tác đánh giá tình hình trong và ngoài nước, đánh giá đúng diễn biến

của Chiến tranh thế giới thứ hai và mối quan hệ giữa các nước, đặc biệt là những

mâu thuẫn giữa các thế lực phát xít Nhật-Pháp hay mâu thuẫn giữa các nước Anh-

Pháp và Mỹ-Trung trong khối Đồng minh. Hơn nữa, Đảng còn dự báo đúng triển

vọng của cuộc chiến tranh, từ đó đưa ra những đường lối, chủ trương đúng đắn.

Không chỉ có nhận thức và dự báo chính xác về tình hình, Đảng còn có đường lối

linh hoạt. Kiên định với mục tiêu cuối cùng là giải phóng dân tộc nhưng căn cứ

vào tình hình, Đảng đã có những thay đổi hợp lý trong chính sách từng thời kỳ.

Đảng không chỉ đưa ra định hướng chung mà có những hành động đối

ngoại rất thiết thực. Gắn cuộc cách mạng của Việt Nam trong cuộc kháng chiến

chống phát xít nói chung, Đảng đã khéo léo xây dựng Mặt trận Việt Minh để tập

hợp nhân dân chống phát xít Nhật, ủng hộ Liên Xô, ủng hộ Đồng minh. Mặt trận

Việt Minh ngày càng mở rộng uy tín và ảnh hưởng sâu rộng trong các tầng lớp

quần chúng nhân dân trong nước.

Trong giai đoạn 1941-1945, Đảng luôn ý thức được việc lôi kéo các lực

lượng bên ngoài là rất cần thiết, nhưng luôn khẳng định tự sức mạnh của nhân

dân ta mới là yếu tố quyết định đến sự thành công của cách mạng. Điều này thể

hiện xuyên suốt từ Hội nghị Trung ương lần thứ tám (tháng 5-1941) đến Hội

nghị toàn quốc (ngày 14, 15-8-1945). Đảng nhiều lần khẳng định: ta có mạnh thì

mới có thể tự chủ, trong nước có cơ cấu tổ chức thì mới có thể giao thiệp được

với các nước lớn mạnh trên thế giới.

4.1.2. Hạn chế

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hoạt động đối ngoại của Đảng từ

năm 1930 đến năm 1945 cũng còn một số hạn chế:

Lúc này Đảng mới thành lập, số lượng Đảng viên còn ít, ĐCS chưa phải

133

là Đảng cầm quyền, đất nước đang trong tình trạng bị áp bức, các phong trào

cách mạng bị địch khủng bố đàn áp dữ dội nên hiệu quả hoạt động còn hạn chế.

Lúc này Đảng thường xuyên phải đối diện với sự khủng bố của thực dân Pháp

và tay sai. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng, nhất là cơ quan đầu não liên tục bị

truy lùng và đánh phá. Đây là thời kỳ cơ quan lãnh đạo Trung ương bị tổn thất

lớn nhất: Từ năm 1930 đến năm 1945, Ban Chấp hành Trung ương bị địch phá

vỡ ba lần (lần thứ nhất vào tháng 4-1931; lần thứ hai vào tháng 9-1935; lần thứ

ba vào đầu năm 1940); nhiều ủy viên Trung ương bị bắt, giam cầm trong các

nhà tù đế quốc. Bốn Tổng Bí thư: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập,

Nguyễn Văn Cừ hy sinh trong thời kỳ này.

Chính vì vậy, sự lãnh đạo, chỉ đạo không được liền mạch, bộ máy tổ chức

không đầy đủ dẫn đến hiệu quả hoạt động đối ngoại của thời kỳ này còn hạn chế.

Một trong những mục tiêu hoạt động đối ngoại của Đảng thời kỳ 1930-

1945 là tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế đối với phong trào giải phóng dân tộc của

nhân dân Việt Nam, tuy nhiên, sự giúp đỡ ủng hộ của các nước đối với phong trào

đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam cũng bị hạn chế. Chủ yếu là cách

mạng Việt Nam vẫn phải tự lực là chính, ít nhận được sự ủng hộ trực tiếp.

Thậm chí, có thời điểm, do có sự khác biệt, hiểu lầm về quan điểm, chủ

trương giữa những người cộng sản trong nước cũng như việc QTCS còn hiểu sai,

nhận thức không chính xác về tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc nên sự

giúp đỡ bị hạn chế. Trong khi đó, ta lại chưa tìm cách làm rõ vai trò đích thực của

Nguyễn Ái Quốc và những người cộng sản Việt Nam, nên bị QTCS hiểu lầm.

Hoạt động đối ngoại của Đảng cũng bị ảnh hưởng tiêu cực.

Một hạn chế nữa là trong thời kỳ này, Đảng không có cơ quan đối ngoại,

chưa thành lập bất kỳ cơ quan chuyên trách nào về đối ngoại của Đảng, vì vậy,

việc tiếp nhận các thông tin, tạo cơ hội tiếp xúc trực tiếp từ bên ngoài còn hạn

chế. Dù đến năm 1935, Đảng đã thành lập BCH ở ngoài, đã có sự thuận lợi hơn

rất nhiều khi cần báo cáo, nhận chỉ thị hoặc liên lạc với các Đảng Cộng sản anh

em, nhưng Ban chưa được coi chính thức là một cơ quan đối ngoại của Đảng cũng

134

như không hoạt động với tư cách là cơ quan đối ngoại.

Về đối tượng quan hệ đối ngoại, Đảng hướng đến nhiều đối tượng như

QTCS, các Đảng Công sản, các nước Đồng minh... nhưng lại chưa xác định đối

tượng nào cần đặc biệt ưu tiên, với đối tượng nào thì hợp tác đến mức độ nào. Đối

tượng mà Đảng mong muốn nhận được sự ủng hộ cả về tinh thần và vật chất là

tương đối rộng: Bên cạnh QTCS, ĐCS Pháp, ĐCS Liên Xô và các ĐCS anh em,

Đảng còn mong muốn mở rộng quan hệ với các nước Đồng minh trong cuộc chiến

chống phát xít Nhật, tranh thủ mối quan hệ với Mỹ, với Trung Hoa dân quốc...

Điều này hoàn toàn nằm trong mong muốn giảm thiểu kẻ thù, tạo điều kiện thuận

lợi nhất cho cách mạng Việt Nam phát triển, đưa đất nước đi đến độc lập tự do.

Đây là điều dễ hiểu đối với một Đảng non trẻ, mới thành lập, đang hướng tới mục

tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc. Nhưng việc chưa xác định rõ tầm quan trọng

khác nhau của các mối quan hệ đã phần nào hạn chế mong muốn hợp tác của các

nước khác với ta, cũng thể hiện sự thiếu kinh nghiệm đối ngoại của Đảng.

Tóm lại, trong bối cảnh phức tạp của những năm 1930 - 1945, Đảng đã có

nhiều nỗ lực trong việc xây dựng và mở rộng quan hệ đối ngoại. Tuy nhiên, do

chưa có một chính thể Nhà nước cụ thể nên việc tiến hành các hoạt động đối

ngoại vẫn còn nhiều hạn chế, hiệu quả của công tác đối ngoại chưa được như

mong đợi, không nhận được nhiều sự ủng hộ của quốc tế. Dù vậy, hoạt động đối

ngoại trong 15 năm đầu tiên của Đảng là tiền đề trực tiếp cho hoạt động ngoại

giao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ được thành lập ngày 2-9-

1945, góp phần thúc đẩy, phát triển quan hệ giữa Việt Nam với các nước trên

thế giới; đồng thời, để lại nhiều kinh nghiệm cho các thời kỳ sau.

4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM

4.2.1. Nhận thức đúng tầm quan trọng của công tác đối ngoại

Với một ĐCS bất kỳ, hoạt động đối ngoại là một trong những hoạt động

chủ yếu trong sự lãnh đạo của Đảng. Bởi một Đảng không thể hoạt động cô lập

mà phải đặt trong mối quan hệ quốc tế, với phong trào cộng sản công nhân quốc

tế để học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau, từ đó thêm bạn bớt thù. Thực tiễn cách mạng đã

135

đặt ra yêu cầu khách quan như vậy. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945,

Đảng bị chính quyền thực dân khủng bố, đàn áp rất khốc liệt, phải hoạt động bí

mật, bất hợp pháp. Các đồng chí lãnh đạo Đảng phải chỉ đạo phong trào cách

mạng từ bên ngoài Việt Nam là chính. Thậm chí, khi bị đàn áp nặng nề, các cơ

sở trong nước bị phá vỡ, các cơ sở ở nước ngoài chính là đầu mối để gây dựng

lại tổ chức. Bởi vậy, Đảng cần xây dựng được mối liên hệ mật thiết với các tổ

chức cộng sản ở các nước, với QTCS và ĐCS ở các nước.

Với một ĐCS lãnh đạo quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh giành

độc lập, đối ngoại càng là một mặt trận quan trọng. Kết quả của mặt trận đối

ngoại có thể thúc đẩy hoặc kéo lùi thắng lợi của toàn bộ cuộc đấu tranh. Nói

cách khác, nếu đấu tranh đối ngoại hiệu quả sẽ giảm được những tổn thất trên

mặt trận quân sự. Trong thời gian 1930 - 1945, Đảng phải đối mặt với nhiều kẻ

thù lớn mạnh, vì vậy, phải tận dụng hoạt động đối ngoại để thêm bạn bớt thù,

hạn chế tổn thất lực lượng. Và, hoạt động đối ngoại của Đảng trong thời kỳ này

cơ bản đã đạt được mục tiêu đó. Cụ thể là: Đảng đã tranh thủ được Chính phủ

Mặt trận Nhân dân Pháp để Chính phủ này có nhiều hoạt động ủng hộ đối với

các phong trào do ĐCSĐD lãnh đạo. Đồng thời, các nhà lãnh đạo của Mặt trận

cũng có những bài phát biểu, tham luận ủng hộ đường lối, hoạt động của Đảng.

Chính đồng chí Tô-rê, Tổng Bí thư ĐCS Pháp, đã nhiều lần lên tiếng ủng hộ

cách mạng Đông Dương, phản bác luận điệu xuyên tạc của Bộ trưởng Bộ Thuộc

địa An-be Sa-rô (Albert Sarraut), thể hiện rõ quan điểm “Tán thành cương lĩnh

của Đảng Cộng sản, ủng hộ cuộc đấu tranh của những người anh em chúng tôi ở

Đông Dươngvới danh nghĩa của tình đoàn kết vô sản quốc tế.”[162, tr.82]

Với quân Nhật, Đảng cũng tranh thủ mọi điều kiện thuận lợi cho cách

mạng. Trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, ở nhiều nơi, Đảng gửi tối hậu thư, ra

điều kiện buộc chúng không được bạo động và nộp vũ khí để được an toàn tính

mạng. Những chỗ có giao chiến kịch liệt, cuối cùng cũng kết thúc bằng biện

pháp thương lượng. Có một số nơi, quân Nhật chủ động đề nghị thương lượng và

giao vũ khí cho Việt Minh.

136

Việc tranh thủ các lực lượng của quân Đồng minh, lợi dụng những mâu

thuẫn trong nội bộ những đội quân này vào giải giáp quân đội Nhật là những

quyết định đúng đắn, dẫn đến việc Đảng lãnh đạo thực hiện thành công cuộc

Cách mạng Tháng Tám với tổn thất thấp nhất.

4.2.2. Xác định đường lối đối ngoại phù hợp tình hình thời cuộc

Tổng Bí thư Lê Duẩn đã từng nói: “Ở mỗi thời kỳ nhất định hay mỗi tình

thế nhất định, biết đề ra được mục tiêu cụ thể sát hợp nhất, biết dựa theo quy luật

khách quan mà điều khiển cuộc đấu tranh thế nào để thực hiện mục tiêu đó với

mức thắng lợi tối đa, mở đường cho cách mạng tiến lên những bước mới cao hơn

và tạo ra triển vọng chắc chắn nhất cho thắng lợi cuối cùng” [32, tr.38].

Với mỗi thời kỳ, Đảng đều xác định rõ tình hình quốc tế, khu vực và trong

nước để có những nhận định, đưa ra quyết sách phù hợp, đặc biệt là về đường lối

đối ngoại. Bám sát tình hình thời cuộc ở trong nước, khu vực và trên thế giới để

định ra đường lối đối ngoại phù hợp là một cơ sở quan trọng để xây dựng được

đường lối độc lập tự chủ trong hoạt động đối ngoại.

Trong những năm 1931 -1932, lực lượng cách mạng của Đảng bị tổn thất

nghiêm trọng do chính sách khủng bố trắng của thực dân Pháp. Phong trào cách

mạng bị ảnh hưởng nặng nề. Các đồng chí lãnh đạo Đảng phần nhiều bị bắt. Ban

Chấp hành Trung ương Đảng tan rã, nhưng sự đấu tranh cách mạng vẫn không

ngừng tiếp tục. Ngày 27-2-1932, QTCS gửi các ĐCS Pháp, Tàu, Ấn Độ về việc

công nhận ĐCSĐD là một chi bộ của QTCS và đề nghị các ĐCS này giúp đỡ

ĐCSĐD. Kết quả, ĐCSĐD đã sớm nhận được sự giúp đỡ của QTCS, và các

ĐCS anh em. Được QTCS công nhận là phân bộ độc lập, ĐCSĐD đã thành lập

BCH ở ngoài của ĐCSĐD để lãnh đạo công tác của Đảng.

Việc này đã giúp cho sự liên lạc giữa ĐCSĐD, và QTCS cũng như các

đảng anh em được thông suốt, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng, giúp tập

hợp và đào tạo cán bộ cho Đảng, cho cách mạng.

137

Các hoạt động đối ngoại của Đảng được đề ra cũng có sự thay đổi theo

tình hình thực tế: năm 1930, nhiệm vụ đã được đề ra là “ủng hộ Liên bang

Xô viết”, từ năm 1931, phong trào cách mạng Đông Dương dưới sự lãnh đạo của

Đảng đã kết hợp với cuộc đấu tranh vì tự do độc lập ở các nước châu Á, đóng

góp tích cực vào việc hình thành mặt trận “Đại đồng minh phản đế quốc chủ

nghĩa và mưu dân tộc độc lập” châu Á. Những năm 1936-1939, các hội phản đế

Đông Dương hình thành và trở thành bộ phận của mặt trận, góp phần tạo thêm

sức mạnh cho trào lưu cách mạng châu Á, chống mưu đồ cấu kết của thực dân

Pháp, Anh, Hà Lan gia tăng bóc lột và thực hành chính sách khủng bố ở các

thuộc địa châu Á, đồng thời đối phó với sự bành trướng của quân phiệt Nhật.

Đầu năm 1945, tình hình Chiến tranh thế giới thứ hai đi vào giai đoạn kết thúc,

quân Đồng minh chuẩn bị tiến vào Đông Nam Á, phát xít Nhật lâm vào tình

trạng nguy khốn, Ban Thường vụ Trung ương Đảng xác định: Nhật đảo chính

Pháp sẽ tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc nhưng điều kiện khởi

nghĩa chưa thực sự chín muồi, tuy nhiên, nó sẽ làm cho những điều kiện

tổng khởi nghĩa mau chóng chín muồi. Từ đó, xác định kẻ thù là Nhật, khẩu hiệu

“đánh đuổi phát xít Nhật”. Đồng thời chủ trương phát động cao trào kháng Nhật

cứu nước làm tiền đề cho khởi nghĩa. Đến khi Chiến tranh thế giới II kết thúc,

thắng lợi thuộc về phe Đồng minh, phát xít Đức đầu hàng Đồng minh không

điều kiện (9-5-1945), phát xít Nhật đi gần đến chỗ thất bại, Đảng xác định rõ

thời cơ cách mạng đã đến và đã tổ chức Hội nghị toàn quốc của Đảng tại

Tân Trào quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước từ tay

phát xít Nhật, trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương.

4.2.3. Nhận thức rõ bạn thù, chủ động, sáng tạo để mở rộng

quan hệ đối ngoại

Nhận thức rõ bạn thù, luôn chủ động, sáng tạo trong hoạt động đối ngoại

để mở rộng quan hệ đối ngoại là cách giúp Việt Nam thêm bạn bớt thù, nhận

được nhiều sự giúp đỡ nhất, hạn chế tối đa sự chống phá với cách mạng

Việt Nam của kẻ thù.

138

Đảng đã xây dựng quan hệ chặt chẽ với QTCS và các ĐCS anh em. Đây là

những mối quan hệ đối ngoại sớm nhất của Đảng, dựa trên cơ sở quan điểm của

chủ nghĩa Mác-Lênin về đoàn kết quốc tế. Tinh thần cơ bản của quan điểm này

là các ĐCS đoàn kết giúp đỡ nhau để chủ nghĩa cộng sản thắng lợi trên phạm vi

toàn thế giới. Theo Đề cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa (văn kiện

Đại hội II QTCS), ĐCS các nước cần giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc và

với sự giúp đỡ của các nước vô sản tiên tiến, các nước kém phát triển có thể đi

lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.

Xác định cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới,

Đảng không chỉ nhận sự hỗ trợ mà còn giúp đỡ cho các ĐCS anh em. Thể hiện

rõ nhất là việc Đảng phát động hoạt động ủng hộ Liên Xô trong Chiến tranh thế

giới thứ hai. “Nhiệm vụ của Đảng ta là phải làm cho các dân tộc Đông Dương

hiểu rằng cách mạng giải phóng của Đông Dương là gắn bó chặt chẽ với cách

mạng thế giới cũng như với các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của các giai

cấp vô sản các nước tư bản”; “Giúp đỡ Liên Xô đó là làm việc cho sự giải phóng

của chính chúng ta, vì rằng nếu Liên Xô chiến thắng, đến lượt nó sẽ giúp đỡ

chúng ta giải thoát khỏi ách chủ nghĩa đế quốc Pháp và Nhật”. [39, tr. 203]

Trong thời kỳ 1930-1945, Đảng đã đặc biệt chú trọng mở rộng quan hệ

quốc tế của Đảng với các nước láng giềng như Lào, Campuchia, Thái Lan để tạo

dựng sự ủng hộ, cũng là tạo thuận lợi cho phong trào cách mạng trong nước.

Nhưng, Đảng cũng cần chú ý xây dựng các mối quan hệ với các nước

Đồng minh Anh, Mỹ,... để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ trong lúc lực lượng của

ta còn khó khăn. Và thực tế, họ cũng đã có những hành động cụ thể đóng góp

cho cách mạng Việt Nam.

Từ việc xác định rõ bạn-thù, Đảng đã có đường lối đối ngoại phù hợp,

phối hợp chặt chẽ hoạt động trong nước và hoạt động đối ngoại. Phối hợp quân

sự, chính trị, ngoại giao để tìm kiếm đồng minh cho cách mạng. Tăng thêm lực

lượng cho cách mạng, nhận được sự ủng hộ của các lực lượng yêu chuộng hòa

bình, dân tộc dân chủ trên thế giới.

139

4.2.4. Đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách hoạt động đối ngoại

ĐCSĐD – một Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, nhân dân lao động

và cả dân tộc, là một đảng cách mạng chân chính, có đường lối chính trị đúng đắn

để lãnh đạo cách mạng đến thành công. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách

mạng, Đảng luôn phải đối mặt với nhiều âm mưu chống phá của kẻ địch khiến

cho lực lượng cán bộ của Đảng bị suy giảm. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ còn trẻ,

thiếu kinh nghiệm cũng là một thử thách đối với Đảng. Bởi vậy, để hoạt động của

Đảng nói chung, hoạt động đối ngoại của Đảng nói riêng đạt hiệu quả, cần có

những đảng viên hiểu biết về tình hình thế giới và phong trào cách mạng quốc tế.

Với tầm nhìn sáng suốt, ngay từ những năm 1920, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc

đã gửi các thanh niên yêu nước đi học ở các trường cộng sản và quân sự như

Trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và Trường Quân sự Hoàng Phố (Trung

Quốc). Nguyễn Ái Quốc đã nhiều lần viết thư đề nghị QTCS cho gửi thanh niên

Việt Nam sang học tập hoặc đề nghị được gửi sách, báo, tài liệu nghiên cứu

chính trị về nước để nâng cao trình độ. Không chỉ chủ động về đào tạo, rèn luyện

cán bộ, sử dụng cán bộ hợp lý, Đảng còn luôn duy trì và phát triển lực lượng của

Đảng cả trong những giai đoạn khó khăn nhất. Đảng luôn có ý thức kết hợp tổ

chức bí mật với hoạt động công khai, hợp pháp, sử dụng hết khả năng hợp pháp

để tuyên truyền, tổ chức và đề phòng bất trắc lúc nào cũng có thể xảy ra.

Chính nhờ sự phòng xa này mà trong quá trình hoạt động của Đảng, khi

rút hẳn vào bí mật thì không hấp tấp, không bỏ “thình lình” các cơ sở công khai

của mình. Tuy nhiên, việc bị suy giảm số lượng cán bộ do bị địch bắt, bị giết

cũng không ít. Tháng 9-1939, Nam Kỳ có 800 cán bộ bị bắt, trên cả nước là

khoảng 2000 cán bộ. Hội nghị Trung ương lần thứ sáu năm 1939, Đảng đã đòi

hỏi đảng viên phải hết sức đề phòng, hết sức thận trọng bởi “tả khuynh” manh

động sẽ làm hao tổn lực lượng, dễ dẫn đến thất bại. Năm 1940, số lượng đảng

viên ở Trung, Nam, Bắc Kỳ vẫn hết sức ít ỏi, chất lượng không cao, trình độ

hiểu biết phổ thông còn hạn chế.

140

Có thể thấy, công tác bồi dưỡng và tăng cường những nhân tố thắng lợi

của cách mạng Việt Nam là hết sức cần thiết, bởi muốn làm cách mạng thì phải

có thực lực, phải có điều kiện. Thắng lợi của cách mạng không phải là sự ăn

may, có sẵn, mà trái lại, phải qua phấn đấu gian khổ để tổ chức thắng lợi và

giành lấy thành công.

Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tám (5-1941), Đảng chính thức đặt vấn

đề: cần chú trọng công tác đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo

của Đảng. Nhờ vậy, trong những năm 1930 - 1945, trong đội ngũ Đảng có nhiều

đồng chí vừa được trang bị kiến thức về chủ nghĩa cộng sản, vừa có mối liên hệ

với bè bạn quốc tế, tiêu biểu có thể kể đến các đồng chí Trần Phú, Phùng Chí

Kiên, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai... Đội ngũ cơ bản, nòng cốt này

đã góp phần phát triển thêm mối quan hệ quốc tế của Đảng.

4.2.5. Nhận thức rõ động cơ và sự ứng xử của các nước lớn trước

vận mệnh của các nước nhỏ như Việt Nam

Thủ tướng Anh Pan-mơ-xtôn (Palmerston) (1784-1865) đã từng nói: “Không

có đồng minh vĩnh viễn, cũng không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích (dân tộc hay

quốc gia) là vĩnh viễn”. Điều Thủ tướng Anh nói hoàn toàn đúng với quan điểm và

hành động của các nước đồng minh trong vấn đề Đông Dương năm 1945.

Tổng thống Mỹ Rudơven (Roosevelt) đã từng phản đối việc Pháp trở lại

Đông Dương và đưa ra chủ trương thiết lập chế độ thác quản do một hội đồng

gồm một số nước (Trung Hoa, Liên Xô, Philippin, Pháp và một, hai đại biểu

Đông Dương) tham gia quản lý trong khoảng 30-40 năm để trao dần nền độc lập

cho các nước Đông Dương, thì Thủ tướng Anh Sớc-sin (Churchill) phản đối kế

hoạch này vì lo ngại rằng nếu Việt Nam độc lập, thì các thuộc địa của Anh ở

Châu Á như Ấn Độ, Pakixtan, Miến Điện, Mã Lai, Xingapo, Hồng Kông… cũng

sẽ vùng lên đòi độc lập. Tổng thống Trung Hoa Dân quốc là Tưởng Giới Thạch

cũng hưởng ứng Rudơven nhưng với âm mưu ngăn Pháp để một mình nhảy vào

chiếm Đông Dương, chuẩn bị kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”. Tuy nhiên, đến

tháng 4-1945, Tổng thống Rudơven qua đời, người kế nhiệm là Tru-man đã

141

không phản đối việc Pháp trở lại Đông Dương. Ông xác nhận với Đờ Gôn là sẽ

không làm gì để cản trở sự trở lại của nước Pháp. Liên Xô, sau khi ký Hiệp ước

Liên minh trong chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít và tương trợ sau chiến

tranh giữa Liên Xô và Pháp (tháng 12-1944), thì năm 1945, cũng giữ thái độ im

lặng trước các công thư, điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thống chế Xta-lin

và Chính phủ Liên Xô, thông báo đã làm Cách mạng Tháng Tám thành công và

đã thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Chính vì nhận thức được động cơ và ứng xử của các nước lớn, ĐCSĐD

càng thêm kiên định chủ trương giải phóng dân tộc, chớp thời cơ có lợi nhất để

tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc. Dù không nhận được sự công nhận của

Liên Xô (mãi đến năm 1950, Liên Xô mới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao

với nước ta), Đảng vẫn luôn thể hiện sự thiện chí, chủ động, sẵn sàng thiết lập

quan hệ; đồng thời, luôn chủ động, linh hoạt trong ứng xử với các nước lớn, áp

dụng sách lược đối ngoại mềm dẻo để phục vụ mục tiêu: giành độc lập dân tộc.

4.2.6. Nhận thức nội lực quyết định đối ngoại, đối ngoại phục vụ

đối nội

Trong đường lối đối ngoại của mình, nhất là thời gian 1941-1945, Đảng

nhiều lần nhắc đến vấn đề thực lực: “Ta có mạnh thì họ mới chịu “đếm xỉa đến”.

Ta yếu thì ta chỉ là một khí cụ trong tay của kẻ khác, dầu là kẻ ấy có thể là bạn

đồng minh của ta vậy.” [42, tr. 244]; “Song muốn tiếp thu lòng đồng tình và sự

giúp đỡ đó, chúng ta trước phải có một cái cơ cấu đại biểu cho sự chân thành

đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân ta. Mà cơ cấu ấy thì phải

do một cuộc Toàn quốc đại biểu Đại hội gồm tất cả các đảng phái cách mệnh và

các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra. Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng

và oai tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp

với các hữu bang” [42, tr. 352].

Như vậy, từ rất sớm, Đảng đã nhận thức được nội lực là sức mạnh quyết

định vị thế của mình trên mặt trận đối ngoại. Muốn giữ được đường lối độc lập

tự chủ phải xây dựng thực lực mạnh, dựa vào sức mình là chính, để nâng cao vị

142

thế, vai trò của Đảng trên trường quốc tế. Hội nhập và đoàn kết quốc tế phải là

sự kết hợp giữa lực lượng ở trong nước cùng sự góp sức từ các ĐCS anh em, các

lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh

đã nói: “Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to thì tiếng

mới lớn”. Nếu Đảng không có đường lối độc lập tự chủ, không tự chăm lo xây

dựng lực lượng... thì vận mệnh của Đảng, của cách mạng sẽ ra sao khi QTCS-

Trung tâm lãnh đạo quốc tế tối cao “tự giải tán” năm 1943 và mỗi nước đồng

minh đều trước hết chỉ chăm lo lợi ích dân tộc họ, kể cả “người anh cả”

Liên Xô- cũng không nằm ngoài “thông lệ” ấy!

Cùng với nhận thức nội lực quyết định đối ngoại, Đảng cũng xác định rõ:

đối ngoại là nhằm phục vụ đối nội, đưa đất nước ngày một phát triển.

Trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng đều đề ra mục tiêu tổng quát cần

thực hiện. Mục tiêu ấy khác nhau tùy giai đoạn nhưng đều vì sự phát triển của

dân tộc. Tất cả hoạt động của Đảng trong giai đoạn này đều hướng tới thực hiện

mục tiêu đó. Hoạt động đối ngoại cũng không ngoại lệ, luôn gắn liền với đường

lối cách mạng Việt Nam, với mục tiêu là tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi để

phục vụ yêu cầu nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng.

Trước Cách mạng Tháng Tám, Đảng đặt mục tiêu giải phóng dân tộc là

quan trọng, cấp bách nhất, giải quyết mọi vấn đề khác của cách mạng đều xoay

quanh vấn đề cốt lõi này. Vì vậy, mọi hoạt động đối ngoại như hoạch định

đường lối, đề ra khẩu hiệu, xây dựng liên minh chống phát xít,... đều không thể

tách rời mục tiêu đó. Như trong việc liên hiệp với Mỹ, Đảng đã xác định trước

phải có điều kiện: “Nếu họ chịu giúp cách mạng Đông Dương, thì ta có thể nhận

cho họ hưởng một phần quyền lợi ở Đông Dương. Nhưng nếu họ giúp cho bọn

Đờ Gôn, Catờru khôi phục lại chính quyền của đế quốc Pháp ở Đông Dương,

chúng ta phải cương quyết cự tuyệt và tiếp tục chiến đấu giành quyền độc lập.”

[42, tr. 238] Còn khi liên hiệp kháng Nhật với những người Pháp theo phe kháng

chiến của Đờ Gôn: “Phải nêu rõ lập trường giành hoàn toàn độc lập trong cuộc

bắt tay với Pháp Đờ Gôn ở ngoài; còn trong nước, đối với bọn Pháp còn lại, buộc

143

họ phải phát biểu tuyên ngôn thừa nhận quyền độc lập của ta” [42, tr. 382-400].

Sự kiên định với mục tiêu đã giúp công tác đối ngoại hoàn thành nhiệm vụ phục

vụ cho đối nội.

Từ những kinh nghiệm rút ra từ những hoạt động đối ngoại của ĐCSĐD

những năm 1930-1945, có thể thấy rõ hiện nay, ĐCSVN cũng đang thực hiện

theo những bài học kinh nghiệm trước đó, với những bước phát triển, sáng tạo,

linh hoạt theo từng biến chuyển của tình hình thế giới và thực lực trong nước.

Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội XII

(tháng 1-2016) đã xác định rõ 4 quan điểm:

1. Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc

cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi;

2. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp

tác và phát triển;

3. Đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại;

4. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và

thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Với những giải pháp thực hiện như: Tiếp tục mở rộng và đi vào chiều sâu

các mối quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu

quả quan hệ quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất

nước trên trường quốc tế. Tiếp tục phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa các

quan hệ đối ngoại, ưu tiên phát triển quan hệ hợp tác và hữu nghị truyền thống với

các nước láng giềng có chung biên giới như: Lào, Trung Quốc và Cam-pu-chia.

Ký kết và thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại song phương, đa phương

mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất

nước. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác

chiến lược. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc

biệt là với các nước ASEAN. Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ

động và tích cực hợp tác quốc tế. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh

tế, văn hóa, xã hội, khoa học-công nghệ, giáo dục-đào tạo và các lĩnh vực khác.

144

Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị...;

hội nhập là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt

mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu.

Như vậy, những quan điểm, chủ trương, định hướng hoạt động đối ngoại

theo phương châm chủ động và tích cực hội nhập quốc tế mà Báo cáo chính trị tại

Đại hội XII của Đảng là sự tiếp bước, có sự bổ sung, phát triển toàn diện, sâu sắc

hơn những kinh nghiệm hoạt động đối ngoại của Đảng qua các thời kỳ. Ngay từ khi

thành lập, Đảng đã chỉ ra quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp hết sức đúng

đắn, khoa học, phù hợp xu hướng quốc tế và điều kiện thực tiễn của đất nước, phù

hợp với ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng và toàn thể nhân dân Việt Nam.

Tiểu kết chương 4

Trong 15 năm đầu tiên lãnh đạo nhân dân đi đến Cách mạng Tháng Tám

thành công, thành lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Đảng đạt được

những thành tựu đáng kể trên mặt trận đối ngoại, nhưng cũng bộc lộ những hạn

chế nhất định. Kết quả hoạt động đối ngoại thời kỳ 1930-1945 đã để lại nhiều bài

học quý giá cho sau này.

Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, tình hình thế giới có nhiều diễn

biến phức tạp, những bài học kinh nghiệm rút ra từ hoạt động đối ngoại các thời

kỳ , trong đó có thời kỳ 1930-1945, tiếp tục được Đảng kế thừa, bổ sung, phát

triển toàn diện, sâu sắc hơn. Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng (tháng 1-

2016) đã chỉ ra quan điểm, chủ trương, định hướng hoạt động đối ngoại theo

phương châm chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, đề ra mục tiêu, nhiệm vụ,

giải pháp hết sức đúng đắn, khoa học, phù hợp xu hướng quốc tế và điều kiện

thực tiễn của nước ta, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng và toàn thể

nhân dân Việt Nam.

145

KẾT LUẬN

Từ năm 1930 đến năm 1945 là khoảng thời gian không dài trong lịch sử

cận hiện đại Việt Nam, song, lại là 15 năm cực kỳ quan trọng đối với lịch sử

hình thành và phát triển của ĐCSVN. Trong 15 năm ấy, Đảng đã lãnh đạo toàn

thể dân tộc lập nên những kỳ tích vẻ vang mà không phải Đảng chính trị nào,

dân tộc nào cũng làm được.

Là Đảng ra đời từ một nước nông nghiệp lạc hậu, chưa có nền sản xuất đại

cơ khí công nghiệp, chưa có giai cấp công nhân tiên tiến, vậy mà, bằng chính các

cuộc vận động cách mạng xuất sắc, vượt lên trên mọi sự đàn áp khốc liệt của kẻ

thù, sau 5 năm thành lập, Đảng đã được công nhận là một phân bộ độc lập của

QTCS. ĐCSĐD từ chỗ phải hoạt động bí mật không hợp pháp trở thành một

đảng cầm quyền và hoạt động công khai. Trải qua ba cuộc vận động cách mạng

lớn, sau 15 năm, Đảng đã tự khẳng định vai trò quyết định của mình trong việc

lãnh đạo toàn dân tộc làm cuộc khởi nghĩa “long trời, lở đất”, giành chính quyền

trong cả nước khi thời cơ tới.

Đạt được các kết quả vĩ đại ấy chính là nhờ Đảng đã được xây dựng trên

nền tảng tư tưởng đúng đắn, phù hợp với xu thế thời đại, có tổ chức cách mạng,

khoa học và trên hết là có một đội ngũ cán bộ, đảng viên-tuy chưa đông, song

hoàn toàn tự giác, sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng cộng sản. Chính vai trò tiên

phong, gương mẫu của đảng viên đã lôi kéo, tập hợp được đông đảo nhân dân đi

theo và ủng hộ, tạo nên một sức mạnh nội sinh to lớn. Tuy nhiên, Đảng và dân

tộc Việt Nam, không thể đạt được thắng lợi vĩ đại nếu không biết phát huy vai

trò to lớn của hoạt động đối ngoại trong 15 năm đầu tiên.

Trong suốt 15 năm, không những chưa có chính quyền, mà cơ bản Đảng và

các tổ chức quần chúng phải hoạt động bí mật, bị đặt ra ngoài vòng pháp luật (trừ

một thời gian ngắn bán công khai trong Mặt trận Dân chủ Đông Dương), trong khi

đó, sự trợ giúp bên ngoài là không đáng kể. Trong hoàn cảnh ấy, một mặt Đảng

bám rễ sâu chắc vào quần chúng nhân dân trong nước, giác ngộ họ, tổ chức họ,

đưa họ dần ra tranh đấu. Mặt khác, Đảng cố gắng tranh thủ mọi yếu tố quốc tế có

146

lợi cho cách mạng Việt Nam, tận dụng mọi thời cơ, tranh thủ mọi lực lượng, nhằm

mang lại lợi ích lớn nhất cho cách mạng, phù hợp với điều kiện và khả năng của

mỗi giai đoạn trong cách mạng. Quan điểm về đối ngoại, nhu cầu cần thiết phải

liên minh với các lực lượng quốc tế mà Đảng nêu ra trong Cương lĩnh chính trị

đầu tiên thực chất là luận điểm có tính chất chiến lược cho cả một thời kỳ cách

mạng lâu dài, bởi vì trên thực tế, việc vận dụng nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố

khách quan và chủ quan.

Nếu như những năm đầu thành lập, hoạt động đối ngoại của Đảng mới chỉ

dừng ở việc nghiêm chỉnh thực hiện chỉ thị của QTCS (dù rằng có lúc biết

Chỉ thị đó là chưa phù hợp) và lấy hoạt động thực tiễn để tự khẳng định vai trò

của một Đảng Mácxit-Lêninnít mới ra đời ở Đông Dương, thì từ giai đoạn 1936

trở đi, Đảng đã dần tranh thủ phát triển các mối quan hệ với các Đảng anh em,

đẩy mạnh việc tuyên truyền ủng hộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,

nhất là ủng hộ Liên bang Xô viết-thành trì và ngôi nhà chung của phong trào

cộng sản thế giới. Việc phong trào Dân chủ Pháp giành thắng lợi trong thời kì

Mặt trận Bình dân đã được ĐCSĐD tận dụng và khai thác triệt để, tạo được thế

và lực cho phong trào cách mạng ở Đông Dương suốt giai đoạn 1936-1945.

Đại chiến thế giới lần thứ hai nổ ra, nhân dân toàn thế giới chịu ảnh hưởng

nặng nề từ Chủ nghĩa phát xít. Trước tình hình đó, khi mà cả trung tâm QTCS

cũng nằm trong “chảo lửa” của cuộc chiến, hoạt động đối ngoại giai đoạn này

của Đảng không chỉ hướng tới ủng hộ Liên Xô, mà còn ủng hộ nhân dân Trung

Quốc kháng Nhật, mà ủng hộ mọi lực lượng chống chủ nghĩa phát xít, kể cả Mỹ,

cả Pháp theo Đờ Gôn...

Vào giai đoạn cuối đại chiến thứ hai, hoạt động đối ngoại của Đảng đã có bước

phát triển mạnh. Tuy chưa có chính quyền, song, thông qua Mặt trận Việt Minh,

kết quả hoạt động đối ngoại của Đảng đã trực tiếp tạo thế và lực to lớn để góp

phần đưa đến thành công của khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân.

Việc buộc hơn 8 vạn lính Nhật nằm im trong trại để Việt Minh giành chính

quyền có ý nghĩa to lớn, giảm tổn hao đáng kể cho lực lượng cách mạng. Điều gì

147

sẽ xẩy ra nếu ở đâu lính Nhật cũng kiên quyết chiến đấu và không hạ vũ khí, như

những ngày 18,19 tháng 8 ở Thái Nguyên?

Thành công của hoạt động đối ngoại trong 15 năm (1930-1945) là kết quả

tất yếu của đường lối đối ngoại Lêninnít của Đảng, một Đảng luôn nắm chắc các

nguyên lý của Chủ nghĩa Mác- Lênin, bám sát thực tiễn, hết sức sáng tạo và cách

mạng. Thành công đó cũng không tách rời công lao gây dựng và lãnh đạo của

Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh. Hiện nay, khi Việt Nam có được mối quan hệ

rộng rãi và đều khắp với các nước và các tổ chức quốc tế, đó là nhờ nền móng

được lãnh tụ Hồ Chí Minh gây dựng từ hơn 80 năm qua.

Các hoạt động này góp phần quan trọng đưa đất nước vượt qua những thử

thách hiểm nghèo tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Việc xây dựng đường lối đối ngoại của Đảng và chính sách đối ngoại của

Nhà nước ở thời điểm nào cũng được xác định là một trong những nhiệm vụ

trọng tâm hàng đầu. Thông qua đó, thể hiện quan điểm, đường lối của Đảng và

của Nhà nước Việt Nam trong quan hệ quốc tế. Đồng thời, thông qua đường lối,

chính sách đối ngoại, đảm bảo vững chắc vai trò lãnh đạo của Đảng và

Nhà nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Hiện nay, Việt Nam chủ trương: xác lập cân bằng quan hệ với các nước

lớn, đặt nền móng cho việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng

mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Nhờ đó, đã giải quyết hòa bình

các mâu thuẫn còn tồn tại, bình thường hóa quan hệ ngoại giao với hai nước lớn

là Mỹ và Trung Quốc; phá thế bao vây cấm vận, tạo dựng môi trường hòa bình

ổn định cho phát triển đất nước về mọi mặt, tham gia hội nhập quốc tế.

Đường lối, hoạt động đối ngoại của Đảng từ những ngày đầu đã góp phần

quan trọng trong quá trình đấu tranh giành chính quyền cách mạng, làm tiền đề

của mọi thắng lợi sau này; đã phối hợp nhịp nhàng giữa đấu tranh quân sự và

chính trị trong mọi hoạt động, để giành được thắng lợi to lớn trong cuộc kháng

chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược. Đồng

148

thời, Đảng cũng tích cực góp phần tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô,

Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, tạo nên sự đoàn kết chiến đấu

của nhân dân ba nước Đông Dương; hình thành mặt trận nhân dân thế giới, bao

gồm cả phong trào chống chiến tranh của nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ, đoàn

kết ủng hộ nhân dân Việt Nam chống xâm lược; kết hợp sức mạnh dân tộc với

sức mạnh thời đại; trực tiếp góp phần kết thúc thắng lợi hai cuộc chiến tranh cứu

nước, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.

Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, hoạt động ngoại giao của Việt Nam

cần có sự sáng tạo trên cơ sở những kinh nghiệm đã được đúc kết để góp phần

đưa đất nước ngày càng phát triển, đa dạng, đa phương hóa quan hệ, hội nhập

khu vực và thế giới, mở rộng và nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của Việt Nam,

tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc xã hội chủ nghĩa.

Có thể khẳng định, những bài học kinh nghiệm về đối ngoại của Đảng

thời kỳ 1930-1945 vẫn còn giá trị mãi đến ngày nay.

149

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thị Huyền Trang (2009), “Về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở

Thái Lan và Lào”, Tạp chí Lịch sử Đảng (6).

2. Nguyễn Thị Huyền Trang (2015), “Tuyên ngôn độc lập-sự khẳng định

mạnh mẽ về chủ quyền dân tộc”, Đặc san Thông tin tư liệu (48).

3. Nguyễn Thị Huyền Trang (2016), “Hồ Chí Minh-Phạm Văn Đồng, sự gắn

kết của tình thân”, Đặc san Thông tin tư liệu (50).

4. Nguyễn Thị Huyền Trang (2016), “Hồ Chí Minh với Hồ Tùng Mậu trong

cách mạng Việt Nam”, Đặc san Thông tin tư liệu (50).

5. Nguyễn Thị Huyền Trang (2016), “Hoạt động đối ngoại của Đảng từ tháng

5-1941 đến cuối năm 1943”, Tạp chí Lịch sử Đảng (11).

6. Nguyễn Thị Huyền Trang (2016), “Hồ Chí Minh trong nỗ lực xây dựng

quan hệ với Mỹ từ 1941 đến 1945”,

http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nhan-vat-su-kien/item/1706-

ho-chi-minh-no-luc-xay-dung-quan-he-voi-my-tu-1941-den-

1945.html.[truy cập ngày 30-11- 2016].

7. Nguyễn Thị Huyền Trang, Chu Đức Tính (2017), “Về cội nguồn sự phát

triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lnin của Nguyễn Ái Quốc”, Tạp chí

Nghiên cứu Hồ Chí Minh (1).

8. Nguyễn Thị Huyền Trang, Chu Đức Tính (2017), “Toàn văn bản lý lịch

năm 1934 của Nguyễn Ái Quốc”, Tạp chí Lịch sử Đảng (4).

150

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt

1. Gi. A. Amtơ (1985), Lời phán quyết về Việt Nam, NXB Quân đội nhân

dân, Hà Nội.

2. Vũ Anh (1986), Bác Hồ về nước, Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng.

3. Lê Quảng Ba (1977), “Bác Hồ về nước”, Avoóc Hồ, NXB Văn hóa Dân

tộc, Hà Nội.

4. Lê Quảng Ba (1994), Bác Hồ và Đội du kích Pác Bó, NXB Văn hóa Dân

tộc, Hà Nội.

5. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến

tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975, thắng lợi và bài học, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương (1970), Cách mạng tháng

Tám (1945), NXB Sự thật, Hà Nội.

7. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương (1981), Lịch sử Đảng Cộng

sản Việt Nam, Tập 1 (1920-1954), NXB Sự thật, Hà Nội.

8. Ban Tuyên giáo Trung ương, Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước, Bảo

tàng Hồ Chí Minh (2015), Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Quốc,

NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội.

9. Hoàng Chí Bảo (10, 11-2007), Tư tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa

xã hội trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, tại trang

http://mattran.org.vn/home/TapChi/so%2048/vd-sk1.htm và

http://mattran.org.vn/Home/TapChi/so%2049/vd-sk1.htm#2 .[truy cập

ngày 01-11-2015].

10. Bảo tàng Hồ Chí Minh-Nxb Chính trị Quốc gia (2004), “Nguyễn Ái Quốc

ở Hồng Kông (1931-1933)-tư liệu và hình ảnh”, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

151

11. Dixee R. Bartholomew-Feis (2007), OSS và Hồ Chí Minh-Đồng minh

bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật, NXB Thế giới, Hà Nội.

12. Nguyễn Khánh Bật (2010), Sự tương đồng và khác biệt về quan điểm

cách mạng Việt Nam giữa Hồ Chí Minh với QTCS và ĐCSĐD những

năm 1930 -1941, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

13. Nguyễn Đình Bin (2005), Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, NXB Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

14. Nguyễn Đức Bình (2005), “Những tư tưởng sáng tạo của Hồ Chí Minh

trong cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản,

(9).

15. Nguyễn Đức Bình (2008), “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, quan hệ

giữa giai cấp và dân tộc ở Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị, (8).

16. V.I. Brê-giơ-nép (1981), Đoàn kết với Việt Nam là mệnh lệnh của trái tim

và trí tuệ, NXB Sự thật, Hà Nội.

17. Lê Thanh Cảnh (1990), “Chủ tịch Hồ Chí Minh-những quan điểm cơ

bản về đường lối ngoại giao và đấu tranh ngoại giao”, Tạp chí Lịch

sử Đảng, (5).

18. Thanh Cao, Nguyễn Đức Gia (biên soạn) (2014), Bác Hồ người thầy vĩ

đại của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, NXB Thanh niên.

19. Đặng Văn Cáp (1986), Con đường dẫn tôi đến con đường của Bác, Viện

Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,

[Tài liệu chưa xuất bản].

20. Quang Cận (2000), “Nhận thức thêm về sự kiên định mục tiêu độc lập

dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Cộng sản, (16).

21. Fenn Charles (1973), Hồ Chí Minh-giới thiệu một tiểu sử, NXB Sự thật,

Hà Nội.

152

22. King C.Chen (1969), Việt Nam và Trung Quốc 1938-1954, bản dịch tiếng

Việt, Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội, [Tài liệu chưa xuất bản].

23. Trường Chinh (1963), Tiến lên dưới lá cờ của Đảng, NXB Sự thật, Hà

Nội.

24. Trường Chinh (1975), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam,

Tập I, NXB Sự thật, Hà Nội.

25. Trường Chinh (1975), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam,

Tập II, NXB Sự thật, Hà Nội.

26. Trường Chinh (2005), Cách mạng tháng Tám, NXB Quân đội Nhân dân,

Hà Nội.

27. Phạm Hồng Chương (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc

và chủ nghĩa xã hội, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28. E. Côbêlép (2010), Đồng chí Hồ Chí Minh, NXB Chính trị-Hành chính,

Hà Nội.

29. Philippe Devillers (1993), Paris-Sài Gòn-Hà Nội-Tài liệu lưu trữ của

cuộc chiến tranh 1944-1947, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, Thành

phố Hồ Chí Minh.

30. Lê Duẩn (1960), Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam, NXB Sự

thật, Hà Nội.

31. Lê Duẩn (1978), Cách mạng tháng Mười với độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam, NXB Sự thật, Hà Nội.

32. Lê Duẩn (1986), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ

nghĩa xã hội, tiến lên giành thắng lợi mới, NXB Sự thật, Hà Nội.

33. Nguyễn Thị Kim Dung (1998), Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại thời

kỳ 1945-1946, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

153

34. Nguyễn Thị Kim Dung (2013), “Những hoạt động và đóng góp của

Nguyễn Ái Quốc với QTCS (1920-1930)”, Kỷ yếu Hội thảo Chủ tịch

Hồ Chí Minh với nước Nga, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, [Tài liệu

chưa xuất bản].

35. Nông Công Dũng (1997), Hồ Chủ tịch với lực lượng vũ trang Cao Bằng

1941-1945, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Cao Bằng, Cao Bằng, [Tài liệu

chưa xuất bản].

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 1, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 3, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 4, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 5, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 6, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đảng 1930-1945, Tập III,

Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội.

44. Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011),

Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam (1930-2007),

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

45. Trần Đương (2011), Hà Nội nơi Frey đến với Cách mạng, NXB Hà Nội,

Hà Nội.

154

46. Võ Nguyên Giáp (1963), Nhật lệnh, diễn từ và thư động viên (1944-

1962), NXB Sự thật, Hà Nội.

47. Võ Nguyên Giáp (1977), Những chặng đường lịch sử, NXB Văn học, Hà

Nội.

48. Võ Nguyên Giáp (1980), Hồ Chí Minh-Nhà chiến lược thiên tài, người

cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, NXB Sự

thật, Hà Nội.

49. Võ Nguyên Giáp (1980), Đội quân giải phóng 1944-1947, ký hiệu VL

23017/85, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Hà Nội, [Tài liệu chưa

xuất bản].

50. Võ Nguyên Giáp (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách

mạng Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. Phrăng-xoa Gioay-ô (1981), Trung Quốc và việc giải quyết cuộc chiến

tranh Đông Dương lần thứ nhất (Giơ-ne-vơ 1954), NXB Thông tin lý

luận, Hà Nội.

52. Nguyễn Mạnh Hà (2005), “Bàn thêm về vấn đề thời cơ trong cuộc tổng

khởi nghĩa năm 1945”, Tạp chí Cộng sản, (16), tr.24-28.

53. Nguyễn Mạnh Hà (2010), “Bài học của cách mạng tháng tám năm 1945

với công cuộc đổi mới”, Tạp chí Cộng sản, (8), tr. 27-31.

54. Nguyễn Mạnh Hà và Vũ Thị Kim Oanh (2015), “Ý nghĩa thời đại của

Tuyên ngôn Độc lập”, Tạp chí Cộng sản, ( 8), tr. 20-23.

55. Trần Văn Hải (2001), Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề dân tộc và giai

cấp trong cách mạng Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện

Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

56. Lăng Kỳ Hàn (1984), Đằng sau sự tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật Bản

tại Hà Nội, bản dịch tiếng Việt ký hiệu H29C3/14, Bảo tàng Hồ Chí

Minh, Hà Nội, [Tài liệu chưa xuất bản].

155

57. Lê Mậu Hãn (2001), Các cương lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt

Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

58. Lê Mậu Hãn (5-2010), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự do với sự

kiến lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”, Tạp chí Nhịp cầu tri thức.

59. Nguyễn Trọng Hậu (2001), Hoạt động đối ngoại của nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hòa thời kỳ 1945-1950, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Viện Sử

học, Hà Nội.

60. Nguyễn Trọng Hậu (2006), “Chủ trương tìm bạn đồng minh xa của Mặt

trận Việt Minh qua Báo Việt Nam Độc lập (1941-1945)”, Tạp chí Lịch

sử Đảng, (5), tr. 34-35.

61. Vũ Quang Hiển (2002), “Bàn thêm về tính chất của Cách mạng tháng

Tám”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (4), tr. 60-62.

62. Vũ Quang Hiển (2007), “Vấn đề thời cơ trong Cách mạng tháng Tám

1945, Tạp chí Lịch sử Đảng, (8), tr. 3-7.

63. Vũ Quang Hiển (2009), “Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và thống

nhất đất nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lịch sử Đảng,

(10), tr. 44-51.

64. Vũ Quang Hiển (2010), “Sự sáng tạo của Đảng trong quá trình xác định

đường lối cách mạng giải phóng dân tộc (1930-1945) ”, Tạp chí Lịch

sử Đảng, (1).

65. Nguyễn Thị Mai Hoa (2007), Chủ trương của ĐCSVN trong quan hệ với

Trung Quốc từ năm 1975 đến năm 2001, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại

học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

66. Nguyễn Thị Phương Hoa (2010), “Quan hệ giữa ĐCSVN và ĐCS Trung

Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (9), tr. 27-34.

67. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Hồ Chí Minh-Biên niên

tiểu sử, Tập 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

156

68. Học viện Quan hệ quốc tế (1990), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác

ngoại giao, NXB Sự thật, Hà Nội.

69. Học viện Quan hệ quốc tế (2007), Chính sách đối ngoại Việt Nam - Tài

liệu tham khảo phục vụ giảng dạy,Tập 1: 1945-1975, NXB Thế giới,

Hà Nội.

70. Vũ Dương Huân (2008), “Thông cáo 3-10-1945 về chính sách ngoại

giao, Văn kiện ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (3).

71. Nguyễn Quốc Hùng (1991), “Thêm những tư liệu về QTCS với Đông

Dương”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (1).

72. Nguyễn Quốc Hùng (2005), Hồ Chí Minh - Người chiến sĩ quốc tế, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

73. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2008), “Vai trò của Hồ Chí Minh trong thiết

lập và tranh thủ mối quan hệ với quân Đồng minh nhằm tăng cường

thế và lực cho Cách mạng tháng Tám”, Tạp chí Giáo dục Lý luận, (8),

tr. 9-12.

74. Nguyễn Khắc Huỳnh (2011), Ngoại giao Việt Nam-Góc nhìn và suy

ngẫm, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

75. Đỗ Quang Hưng (1989), “Chính sách phương Đông của QTCS, lý thuyết

và thực tiễn”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (4), tr. 9-14.

76. Đỗ Quang Hưng (1990), “Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ 1934-

1938, rọi sáng thêm cho vấn đề dân tộc hay quốc tế”, Hồ Chí Minh

anh hùng giải phóng dân tộc danh nhân văn học: Kỷ niệm 100 năm

ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh 1890-1990, NXB Khoa học xã hội,

Hà Nội, tr. 28-36.

77. Hoàng Quang Khánh, Lê Hồng và Hoàng Ngọc La (1976), Căn cứ địa

Việt Bắc: Trong cuộc cách mạng tháng 8-1945, NXB Việt Bắc, Việt

Bắc.

157

78. Huỳnh Kim Khánh (1972), Chủ nghĩa cộng sản Việt Nam 1925-1945,

bản dịch tiếng Việt ký hiệu H28C3/07, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà

Nội, [Tài liệu chưa xuất bản].

79. Trần Khánh và các cộng sự (2014), Hợp tác và cạnh tranh chiến lược

Mỹ-Trung ở Đông Nam Á ba thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh,

NXB Thế Giới, Hà Nội.

80. Vũ Khoan (2010), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao, NXB.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

81. Vũ Như Khôi (2010), 80 năm (1930-2010) ĐCSVN, Những chặng đường

lịch sử vẻ vang, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.

82. Lê Kim (1996), Đạo quân Nhật Bản ở Việt Nam (1940-1945), NXB.

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

83. Lê Kim (2001), “Về lực lượng quân sự của Nhật Bản tại Đông Dương

trước khi bùng nổ cách mạng tháng Tám năm 1945”, Tạp chí Lịch sử

Quân sự, (4).

84. Lê Kim (2005), Bác Hồ đấu trí với tình báo phương Tây, NXB Công an

nhân dân, Hà Nội.

85. Trần Văn La (1993), Quan hệ Nhật - Pháp về vấn đề Đông Dương trong

thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945), Luận án Phó Tiến

sĩ Khoa học Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Hà Nội.

86. Đinh Xuân Lâm và Ngô Đăng Tri (1987), “Hoạt động kỷ niệm Cách

mạng tháng Mười một hình thức đấu tranh quan trọng ở Việt Nam

những năm 1930-1945”, Tạp chí Cộng sản, (11-1987), tr. 64-69.

87. Đinh Xuân Lâm (1989), “Quốc tế Cộng sản và Cách mạng Việt Nam”,

Tạp chí Lịch sử Đảng, (4), tr. 4-6.

88. Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh và Nguyễn Đình Lễ (2007), Đại

cương lịch sử Việt Nam, Tập II, NXB Giáo dục, Hà Nội.

158

89. Phan Ngọc Liên và các cộng sự (1995), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh

về một số vấn đề quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

90. Phan Ngọc Liên và Trịnh Vương Hồng (2001), Hồ Chí Minh-Chiến sĩ

cách mạng quốc tế, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

91. Phan Ngọc Liên (2010), Chiến sĩ quốc tế Hồ Chí Minh hoạt động thực

tiễn và lý luận cách mạng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

92. Nguyễn Bá Linh (2004), Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Ngọn cờ độc lập

dân tộc và chủ nghĩa xã hội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

93. Lưu Văn Lợi (1996), Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995),

Tập 1: Ngoại giao Việt Nam 1945-1975, NXB Công an nhân dân, Hà

Nội.

94. Lưu Trần Luân (1995), Lược sử mặt trận dân tộc thống nhất trong cách

mạng Việt Nam, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

95. Nguyễn Phúc Luân (1999), Chủ tịch Hồ Chí Minh trí tuệ lớn của nền

ngoại giao Việt Nam hiện đại, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

96. Nguyễn Phúc Luân và các cộng sự (2001), Ngoại giao Việt Nam hiện đại

vì sự nghiệp giành độc lập, tự do (1945-1975), NXB Chính trị Quốc

gia, Hà Nội .

97. Nguyễn Phúc Luân (2004), Ngoại giao Hồ Chí Minh lấy trí nhân thay

cường bạo, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

98. Hồ Thị Tố Lương (2007), QTCS và cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

99. Đinh Xuân Lý (2005), Tư tưởng đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh,

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

100. Đinh Xuân Lý (2013), Đối ngoại Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử 1945-

2012, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

159

101. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 1, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,

Hà Nội.

102. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 2, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,

Hà Nội.

103. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 3, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,

Hà Nội.

104. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,

Hà Nội.

105. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 5, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,

Hà Nội.

106. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 6, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,

Hà Nội.

107. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 7, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,

Hà Nội.

108. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 8, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,

Hà Nội.

109. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 9, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,

Hà Nội.

110. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 10, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,

Hà Nội.

111. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 11, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,

Hà Nội.

112. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 12, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,

Hà Nội.

113. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 13, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,

Hà Nội.

114. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 14, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,

Hà Nội.

160

115. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 15, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,

Hà Nội.

116. Trình Mưu (1989), “Quốc tế Cộng sản với Đảng Cộng sản Đông

Dương”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (4), tr. 15-22.

117. Phạm Chí Nhân (1994), “Bác Hồ với việc xây dựng bộ đội chủ lực”, Tạp

chí Lịch sử Quân sự, (5).

118. Nhiều tác giả (2005), Bác Hồ sống mãi với chúng ta: Hồi ký, Tập 1, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

119. Nhiều tác giả (2012), Hồ Chí Minh với con đường giải phóng dân tộc,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

120. Trịnh Nhu (2002), “Chủ trương thay đổi chiến lược của Đảng, nhân tố

quan trọng nhất quyết định thắng lợi của Cách mạng tháng Tám

1945”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (8).

121. Trịnh Nhu (2006), “Một số kinh nghiệm hoạt động của Đảng trong tiến

trình đấu tranh giành chính quyền và kháng chiến, kiến quốc (1930-

1954)”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (2), tr. 4-12.

122. Trịnh Nhu (2010), “Nguyễn Ái Quốc-Người tạo dựng nền tảng phát triển

của cách mạng Đông Dương”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (5).

123. Nguyễn Dy Niên (2002), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, NXB Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

124. Vũ Dương Ninh (2008), “Mưu đồ tái chiếm Đông Dương của thực dân

Pháp (1940-1946)”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (6).

125. Vũ Dương Ninh (2015), Lịch sử Quan hệ đối ngoại Việt Nam 1940-2010,

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

126. Nguyễn Văn Ngọc (1988), Điệp viên nhảy dù trở thành giám đốc Công

An Trung Bộ, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội.

127. Kim Oanh (2010), Hội thảo khoa học “ĐCSVN - 80 năm xây dựng và

phát triển”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (2).

161

128. A. Patti (1995), Tại sao Việt Nam?, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.

129. Bùi Đình Phong (2004), “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội-

ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng”, Tạp chí

Lý luận Chính trị, (1).

130. Bùi Đình Phong (2010), “Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay”,

Văn hoá Nghệ An, (5), tr.172, 173.

131. Hoàng Phong (1989), “QTCS với việc chuẩn bị và thành lập đảng ta

(1920-1930)”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (4), tr. 23-28.

132. Nguyễn Trọng Phúc (1999), “Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện

nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào thời kỳ 1930-1945”, Đề tài

nghiên cứu khoa học Khái quát sự hình thành và phát triển quan hệ

hai nước trong giai đoạn 1930-1945, rút ra một số bài học và kinh

nghiệm, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

133. Nguyễn Trọng Phúc (2004), “Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc sự

phát triển sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn tới thắng

lợi của Cách mạng tháng Tám 1945”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (8).

134. Pi-tơ A. Pu-lơ (1986), Nước Mỹ và Đông Dương từ Ru-dơ-ven đến Ních-

xơn, NXB Thông tin lý luận, Hà Nội.

135. Phạm Ngọc Quang (2003), “Về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã

hội”, Tạp chí Cộng sản, (1, 2).

136. Nguyễn Duy Quý (1999), “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta, dân tộc ta”, Tạp chí Quốc phòng toàn

dân, (9).

137. Nguyễn Duy Quý (2003), Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

138. Võ Văn Sung (2010), Suy nghĩ về trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

162

139. Văn Tạo, Phạm Xuân Nam và Cao Văn Lượng (1980), Nửa thế kỷ đấu

tranh dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, NXB Khoa

học xã hội, Hà Nội.

140. Đặng Văn Thái (2002), Hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh

thời kỳ 1945-1954, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

141. Nguyễn Anh Thái và các cộng sự (2014), Lịch sử thế giới hiện đại, NXB

Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

142. Phùng Quang Thanh (5-2010), “Không có gì quý hơn độc lập, tự do - Ý

nghĩa lịch sử và giá trị hiện thực”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (5).

143. Nguyễn Thành (1990), Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người chiến sĩ cách

mạng kiên cường của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng

sản và phong trào công nhân quốc tế, NXB Thông tin lý luận, Hà Nội.

144. Mạch Quang Thắng (2008), “Một số quan điểm của Hồ Chí Minh về

quan hệ quốc tế”, Tạp chí Lý luận chính trị, (1).

145. Lê Văn Thịnh (1999), Quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và Liên Xô

trong giai đoạn 1930-1954, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Trường Đại học

Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

146. Nguyễn Xuân Thông, Một số tư liệu về quan hệ Việt Mỹ, ký hiệu

H28C8/275, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, [Tài liệu chưa xuất bản].

147. Nguyễn Đình Thuận (2002), Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về

cách mạng giải phóng dân tộc (1911-1945), NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

148. Lê Văn Tích và các cộng sự (2009), Nguyễn Ái Quốc với Quốc tế Cộng

sản (1920 - 1943), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

149. Trần Nam Tiến (2011), Hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc (1911-

1945), NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.

163

150. Chu Đức Tính (2001), Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc giải quyết vấn đề

dân tộc dân chủ trong cách mạng Việt Nam (1930-1945), NXB Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

151. M.L. Titapenco (1985), Ý nghĩa của việc đánh bại chủ nghĩa quân phiệt

Nhật đối với thắng lợi của cách mạng nhân dân ở Trung Quốc, Triều

Tiên và Việt Nam, NXB Sự thật, Hà Nội.

152. Nguyễn Khánh Toàn (1989), Lịch sử Việt Nam, Tập 2, NXB Khoa học xã

hội, Hà Nội.

153. Huỳnh Văn Tòng và Lê Vinh Quốc (1992), Cuộc chiến tranh Thái Bình

Dương (1941-1945)– Tập 2: Đồng minh phản công, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

154. Stein TØnnesson (1991), Cách mạng Việt Nam 1945-Rudơven, Hồ Chí

Minh và Đờ Gôn trong thế giới có chiến tranh, NXB Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

155. Hoàng Trang và các cộng sự (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập

dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, NXB Lao động, Hà Nội.

156. Hoàng Tranh (1990), Hồ Chí Minh với Trung Quốc, bản tiếng Việt, NXB

Sao Mới, Bắc Kinh.

157. Benoit de Tréglodé (2000): “Những cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa Việt

Nam và Liên Xô”, Tạp chí Xưa và Nay, (73).

158. Ngô Đăng Tri (2012), 82 năm ĐCSVN Những chặng đường lịch sử

(1930-2012), NXB Thông tin và Truyền Thông, Hà Nội.

159. Phạm Viết Trung (1973), Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế

trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới - QTCS, Trường Đại

học Tổng hợp, Hà Nội.

160. Bùi Công Trừng và Nguyễn Văn Trấn (1958), Góp phần nhỏ về Lịch sử

Cách mạng cận đại Việt Nam (1930-1945), Tập 2, NXB Sự thật, Hà

Nội.

164

161. Viện Lịch sử Đảng (1995), Lịch sử cách mạng tháng Tám 1945, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

162. Viện Mác – Lênin (1986): Tình đoàn kết chiến đấu vô sản Việt –

Pháp, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội.

163. Viện Ngôn ngữ học (2010), Từ điển Tiếng Việt, NXB Từ điển Bách khoa,

Hà Nội.

164. Viện Sử học và Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (1995),

Cách mạng tháng Tám một số vấn đề lịch sử, NXB Khoa học xã hội,

Hà Nội.

165. Trần Thị Vinh và Hoàng Hải Hà (2005), “Đông Nam Á trong cuộc đấu

tranh chống phát xít Nhật (1941-1945): Lịch sử và vấn đề”, Tạp chí

Nghiên cứu Đông Nam Á, (5-2005), tr. 12-18.

166. Vũ Quang Vinh (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa quốc tế vô

sản”, Tạp chí Lý luận chính trị, (7).

167. Phạm Xanh (1989), “Sự nỗ lực của QTCS trong việc khôi phục phong

trào cách mạng Việt Nam”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (4), tr. 29-34.

168. Phạm Xanh (1991), Những hoạt động ngoại giao đầu tiên của Mặt trận

Việt Minh, ký hiệu H28C9/22, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, [Tài

liệu chưa xuất bản].

169. Phạm Xanh (2009), Góp phần tìm hiểu Lịch sử quan hệ Việt Nam - Hoa

Kỳ, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

170. A.A. Xô-cô lốp (1999), QTCS với Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

171. Điacốp, Xớckin (1960), QTCS với vấn đề dân tộc và thuộc địa, NXB Sự

thật, Hà Nội.

172. J. Xtalin (1965), Về cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên Xô, NXB

Quân đội, Hà Nội.

165

173. Lê Văn Yên (2008), Hồ Chí Minh với chiến lược đoàn kết quốc tế trong

cách mạng giải phóng dân tộc, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

174. Nguyễn Thị Yến, Một vài suy nghĩ về tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí

Minh về mặt trận đấu tranh ngoại giao trong giai đoạn lịch sử 1941-

1946, ký hiệu H28C22/3, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, [Tài liệu

chưa xuất bản].

II. Tài liệu tiếng nước ngoài

175. Robert M. Blum (1972), The United States and Vietnam 1944-1947, US

Government Printing Office, Washington, DC.

176. Philippe Devillers (1952), Histoire du Viet-Nam de 1940 à 1952, Éditions

du Seuil, Paris.

177. William J. Duiker (1975), The Comintern and Vietnamese Communism,

Ohio University Center for International Studies, Southeast Asia

Program, Athens, Ohio.

178. William J. Duiker (1976), The Rise of Nationalism in Vietnam, 1900-

1941, Cornell University Press, New York.

179. William J. Duiker (1981), The Communist Road to Power in Vietnam,

Westview Press, Boulder, Colorado.

180. William J. Duiker (1983), Vietnam: Nation in Revolution, Westview

Press, Boulder, Colorado.

181. Dennis J. Duncanson (1974), “Ho Chi Minh in Hong Kong, 1931-1932”,

The China Quarterly, (1-3), pp. 84-100.

182. Bemard B. Fall (editor), Ho Chi Minh (author) (1967), Ho Chi Minh on

Revolution: Selected Writings, 1920-66, Praeger, New York.

183. Charles Fenn (1973), Ho Chi Minh: A Biographical Introduction,

Scribner, New York.

166

184. Christopher E. Goscha (1999), Thailand and the Southeast Asian

Networks of the Vietnamese Revolution, 1885–1954, Curzon Press,

Richmond.

185. Ellen J. Hammer (1967), The struggle for Indochina 1940-1955,

Standford University Press, Standford, California.

186. Daniel Héméry (1990), Ho Chi Minh De l’Indochine au Vietnam,

Galllimard, Paris.

187. Thomas Hodgkin (1981), Vietnam: The Revolutionary Path, St. Martin's

Press, New York.

188. David G. Marr (1995), Vietnam 1945-The quest for power, University of

California Press, Berkeley, California.

189. John T. McAlister and Paul Mus (1970), The Vietnamese and Their

Revolution, Harper and Row, New York.

190. Eugène Mordant (1950), Au service de la France en Indochine 1941-

1945, Imprimerie Francaise d’Outre-Mer, Saigon.

191. Paul Mus (1971), Ho Chi Minh, Le VietNam, L’Asie, Éditions du Seuil,

Paris.

192. Sophie Quinn-Judge (2003), Ho Chi Minh The missing years 1919-1941,

C Hurst & Co Publishers Ltd, London.

193. Jean Sainteny (1953), Histoire d'une paix manquée. Indochine 1945-

1947, Amiot-Dumont, Paris.

194. Jean Sainteny (1970), Face à Ho Chi Minh, Seghers,Paris.

167

PHỤ LỤC

1. Giấy chứng nhận của Nguyễn Ái Quốc là cán bộ Ban Phương Đông

QTCS. 14-4-1924. Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

2. Thẻ đại biểu tham dự Đại hội lần thứ V QTCS của Nguyễn Ái Quốc

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

168

3. Thư của Nguyễn Ái Quốc gửi Ban Phương Đông QTCS.

5-1-1925.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

169

4. Thư của Chủ tịch đoàn Quốc tế Nông dân gửi Nguyễn Ái Quốc về việc

giao trách nhiệm lãnh đạo phong trào nông dân Trung Quốc và các

nước Đông Nam Á. 13-8-1925.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

170

5. Nguyễn Ái Quốc: Báo cáo gửi QTCS. 18-2-1930. Trang 1.

Tài liệu lưu tại Kho Bảo tàng Hồ Chí Minh ST2652 Q8

171

6. Thư của Nguyễn Ái Quốc gửi văn phòng ĐCS Pháp tại QTCS, 27-2-1930.

Trang 1, 2.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

172

7. Thư của Nguyễn Ái Quốc gửi văn phòng ĐCS Đức tại QTCS, 27-2-1930.

Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh ST 144 Q8

8. Nguyễn Ái Quốc: Thư gửi đại diện ĐCS Pháp tại QTCS. 28-2-1930.

Trang 1. Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh ST 147 Q8

173

9. Thư của Nguyễn Ái Quốc gửi ông Chota, Chủ tịch Liên đoàn chống đế quốc,

27-2-1930.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

174

10. Bưu thiếp của Quốc tế Cứu tế đỏ ủng hộ những người cách mạng Việt

Nam. 1930.

Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh ST 4128 Q11

11. Con tem in hình Trần Phú do Quốc tế Cứu tế đỏ phát hành năm 1930.

Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh ST 4127 Q11

175

12. Biểu tình của công nhân Pháp phản đối sự tàn sát của thực dân Pháp

ở Đông Dương 1930.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

13. Bưu thiếp của Quốc tế Cứu tế đỏ gửi Ngô Gia Tự trong nhà tù Hỏa Lò.

1931.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

176

14. Tài liệu của mật thám Pháp: “Các hội chống Pháp và sự tuyên truyền

cộng sản ở Đông Dương”. 8, 9-1931.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

177

15. Bài “Hãy ân xá cho tù chính trị ở Đông Dương”, tạp chí Thuộc địa, số 3

tháng 12-1931. Trang 1.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

178

16. Thư của QTCS gửi các ĐCS Pháp, Tàu, Ấn Độ về việc công nhận

ĐCSĐD là một chi bộ của QTCS. 27-2-1932.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

179

17. Thư tín của ĐCS Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản gửi ĐCSĐD. 15-10-1933.

Trang 1.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

180

18. Nguyễn Ái Quốc: Thư gửi Bộ Phương Đông QTCS về vấn đề

bồi dưỡng lý luận cho cán bộ thuộc địa. 16-1-1935.

Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh ST 150 Q12

181

19. Thẻ đại biểu dự Đại hội VII QTCS của đồng chí Lê Hồng Phong.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

20. Thẻ đại biểu dự Đại hội VII QTCS của đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

182

21. Thẻ đại biểu dự Đại hội VII QTCS của đồng chí Hoàng Văn Nọn.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

22. Trang đầu và trang cuối bản khai lý lịch tham dự Đại hội VII QTCS

của Nguyễn Ái Quốc (Lin)

Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh ST 160 Q12

183

23. Thư của Trưởng phòng cán bộ QTCS gửi đồng chí Kirơxanôva, đề nghị

đồng chí Lin nghỉ học tại Trường Quốc tế Lê nin để làm một số công việc

phục vụ Đại hội VII QTCS (Bản tiếng Nga)

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

24. Thẻ dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản của Nguyễn Ái Quốc,

với bí danh là Lin, số 154

Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh ST 161 Q12

184

25. Nguyễn Ái Quốc: Kế hoạch làm việc tại Viện nghiên cứu các vấn đề dân

tộc và thuộc địa. 10-2-1937. Trang 1.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

185

26. Bảng điểm nghiên cứu sinh của Nguyễn Ái Quốc, học kỳ I và II,

năm học 1937-1938.

Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

186

27. Thư của Nguyễn Ái Quốc gửi QTCS. 6-6-1938.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

187

28. Công văn của Phòng Tổ chức Cán bộ của QTCS gửi Tổng Bí thư

Ban Chấp hành QTCS Đimitơrốp đề nghị giải quyết dứt điểm cho đồng chí

Lin về nước công tác. Trong công văn có chữ viết tay phê duyệt của các đồng chí

Đimitơrốp và Manuinxki. Ngày 8-6-1938.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

188

29. Nguyễn Ái Quốc: “Những chỉ thị mà tôi có thể nhớ và truyền đạt được”.

Báo cáo gửi QTCS. 7-1939

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

189

30. Báo “Việt Nam độc lập”, số 131. Trang 1.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

190

31. Tài liệu: “Chiến tranh Thái Bình Dương và bộ mặt thật của chính sách

khu thịnh vượng chung”. 1944.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

191

32. Tài liệu: “Đảo chính của Nhật ở Đông Dương”. 1945.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

192

33. Chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Ủy ban

thường vụ Trung ương ĐCSĐD. 12-3-1945. Bìa và trang 15.

Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh ST 417 Q16

34. Toán quân của nhóm Con Nai của Cơ quan Tình báo chiến lược Mỹ

(OSS) nhảy dù xuống Tân Trào, Tuyên Quang. Tháng 7-1945.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

193

35. Phần IV-Vấn đề ngoại giao trong Nghị quyết của Hội nghị toàn quốc

của ĐCSĐD. 15-8-1945. Trang 3.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

194

36. Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp với các thành viên của nhóm Con Nai

của Cơ quan Tình báo chiến lược Mỹ (OSS) tại Tân Trào, Tuyên Quang.

Tháng 8-1845.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

37. Sau ngày kết thúc Đại hội quốc dân Tân Trào (17-8-1945), đại đội Việt

– Mỹ xuất quân hướng về Hà Nội.

Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

195

38. Báo cáo của ngài A.E.Bogomolov, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Liên Xô

tại Pháp gửi ngài V.G.Dekanozov, Thứ trưởng Bộ ngoại giao Liên Xô,

Ủy viên Trung ương ĐCS Liên Xô (1941-1952)về vấn đề Đông Dương,

ngày 20-8-1945.

196

Báo cáo của ngài A.E.Bogomolov, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Liên Xô tại

Pháp gửi ngài V.G.Dekanozov, Thứ trưởng Bộ ngoại giao Liên Xô, Ủy viên

Trung ương ĐCS Liên Xô (1941-1952)về vấn đề Đông Dương, ngày 20-8-

1945. (Bản dịch tiếng Việt)