3
Tạp chí KH-CN Nghệ An SỐ 8/2016 [38] XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI 1. Họ Nguyễn Trọng Trung Cần và truyền thống văn hóa khoa bảng Vị thủy tổ đầu tiên ở làng Trung Cần là ông Nguyễn Trọng Quyên. Ông là người giỏi văn học, từng làm quan với chức Bác sĩ. Từ vị thủy tổ này đã phát tích ra 10 chi họ Nguyễn Trọng là Trung Cần (Nam Đàn), Nghi Thạch (Nghi Lộc), Nam Phúc (Nam Đàn), Đức La (Đức Thọ), Đô Yên (Hưng Mỹ, Hưng Nguyên), Thanh An và Thanh Văn (Thanh Chương), Hưng Long (Hưng Nguyên), Anh Sơn…. Họ đại tôn Nguyễn Trọng Trung Cần đến đời Nguyễn Trọng Tạo sinh ra Nguyễn Trọng Tuyền. Ông Tuyền là người tài năng, đức độ, có công với triều đình Lê Trung Hưng, thời Vĩnh Thịnh (1706- 1719), làm quan đến Viên ngoại lang bộ Lại, phong Tham nghị xứ Lạng Sơn, tước Nam. Ông là thân sinh của Tiến sĩ Nguyễn Trọng Thường. Nguyễn Trọng Thường sinh ra Nguyễn Trọng Đương (còn gọi là Đang). Nguyễn Trọng Đương là cháu đích tôn của Nguyễn Trọng Thường và là cháu ruột của Nguyễn Trọng Đương. Cả ba cha con, chú cháu đều đậu Tiến sĩ, là một trường hợp hiếm có trong làng khoa bảng Việt Nam thời phong kiến. Điều đặc biệt ở dòng họ Nguyễn Trọng Trung Cần là truyền thống hiếu học khoa bảng, có nhiều người đậu đạt, nhiều đời có người thi đậu Tiến sĩ, Cử nhân. Nhà thờ họ có treo đôi câu đối cổ tự hào với truyền thống khoa bảng: Thế tại Long Môn thanh giá trọng/ Thân vi Hồng Lĩnh vũ nghi cao. (Tạm dịch: Thế vượt cửa Rồng (thi đậu tiến sĩ) danh giá hiển trọng/ Thân (dòng họ) như Hồng Lĩnh uy nghi cao đẹp). Ba vị thi đậu Tiến sĩ được ghi tên trên bia đá Văn Miếu - Quốc Tử giám và nhiều sách sử của nhà nước. Các thư tịch cổ như Lịch triều đăng khoa, Lịch đại đăng khoa, Nghệ An ký… được biên dịch đưa vào sách Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919, sách Khoa bảng Nghệ An ghi về ba Tiến sĩ họ Nguyễn Trọng như sau: Nguyễn Trọng Thường (1681-1735). Người xã Trung Cần, huyện Thanh Chương - nay là thôn Trung Cần, xã Nam Trung, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Cha của Nguyễn Trọng Đương. 32 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Vĩnh Thịnh 8 (1712) đời Lê Dụ Tông. Làm quan đến chức Lại bộ Hữu Thị lang. Năm Long Đức 3 (1734), ông được cử đi sứ nhà Thanh. Khi trở về đến Hán Khẩu thì lâm bệnh chết. Được truy tặng chức Lại bộ Tả Thị lang, tước Cần Quận công. Nguyễn Trọng Đương (1724-1786)… Con của Nguyễn Trọng Thường, chú của Nguyễn Đường. 46 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Cảnh Hưng 30 (1769) đời Lê Hiển Tông. Làm quan đến chức Hàn lâm Hiệu lý. Đi sứ nhà Thanh (1761), trở về thăng Đốc trấn Lạng Sơn, tước Lạp Sơn bá. Sau ông được điều vào trấn Thuận Quảng. Khi quân Tây Sơn vây đánh thành Phú Xuân (1786), ông tử trận (6-1786), được truy phong Hữu Thị lang, tước hầu. Nguyễn Đường (1746- ?)… 34 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng 40 (1779) đời Lê Hiển Tông. Làm quan đến chức Hàn lâm Hiệu thảo, vâng mệnh làm Phó sứ sang nhà Thanh. Trở về thăng Thị chế, Đốc trấn Lạng Sơn, tước Chi Phong bá. Đầu đời Gia Long ông được vời ra giữ chức Đốc học Sơn Nam. Ba vị Tiến sĩ họ Nguyễn Trọng kể trên đều được triều đình cử đi sứ nhà Thanh. Mỗi lần đi sứ Tàu, triều đình nhà Thanh lại ban cho một bông hoa vàng để cài HỌ NGUYỄN TRỌNG NGHI THẠCH NỐ I ĐỜ I NO I TH EO TRUY ỀN THỐ NG TỔ T IÊN n Đào Tam Tỉnh Theo gia phả họ Nguyễn Trọng ở thôn Lan Đình, xã Nghi Thạch, thì họ Nguyễn Trọng có gốc từ làng Trung Cần (nay là xã Nam Trung, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An) phát tích nên một chi họ ở đây. Vị thủy tổ là Nguyễn Trọng Khang làm quan triều nhà Lê, thời Lê Trung Hưng được cử đi trấn giữ vùng đất sát biển Cửa Hội, Cửa Lò để chống lại quân chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Ông lấy vợ người ở làng Đông Chữ (nay là xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc) và quyết định chọn vùng đất Lan Đình, Nghi Thạch làm nơi định cư cho con cháu, họ tộc.

HỌ NGUYỄN TRỌNG NGHI THẠCH XN DVN_02.pdf · 2016-08-25 · Nhà thờ họ có treo đôi câu đối cổ tự hào với truyền thống ... uy nghi cao đẹp). Ba vị

  • Upload
    others

  • View
    2

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: HỌ NGUYỄN TRỌNG NGHI THẠCH XN DVN_02.pdf · 2016-08-25 · Nhà thờ họ có treo đôi câu đối cổ tự hào với truyền thống ... uy nghi cao đẹp). Ba vị

Tạp chíKH-CN Nghệ An

SỐ 8/2016 [38]

XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI

1. Họ Nguyễn Trọng Trung Cần và truyềnthống văn hóa khoa bảng

Vị thủy tổ đầu tiên ở làng Trung Cần là ôngNguyễn Trọng Quyên. Ông là người giỏi văn học,từng làm quan với chức Bác sĩ. Từ vị thủy tổ này đãphát tích ra 10 chi họ Nguyễn Trọng là Trung Cần(Nam Đàn), Nghi Thạch (Nghi Lộc), Nam Phúc(Nam Đàn), Đức La (Đức Thọ), Đô Yên (Hưng Mỹ,Hưng Nguyên), Thanh An và Thanh Văn (ThanhChương), Hưng Long (Hưng Nguyên), Anh Sơn….Họ đại tôn Nguyễn Trọng Trung Cần đến đờiNguyễn Trọng Tạo sinh ra Nguyễn Trọng Tuyền.Ông Tuyền là người tài năng, đức độ, có công vớitriều đình Lê Trung Hưng, thời Vĩnh Thịnh (1706-1719), làm quan đến Viên ngoại lang bộ Lại, phongTham nghị xứ Lạng Sơn, tước Nam. Ông là thân sinhcủa Tiến sĩ Nguyễn Trọng Thường. Nguyễn TrọngThường sinh ra Nguyễn Trọng Đương (còn gọi làĐang). Nguyễn Trọng Đương là cháu đích tôn củaNguyễn Trọng Thường và là cháu ruột của NguyễnTrọng Đương. Cả ba cha con, chú cháu đều đậu Tiếnsĩ, là một trường hợp hiếm có trong làng khoa bảngViệt Nam thời phong kiến.

Điều đặc biệt ở dòng họ Nguyễn Trọng TrungCần là truyền thống hiếu học khoa bảng, có nhiều

người đậu đạt, nhiều đời có người thi đậu Tiến sĩ, Cửnhân. Nhà thờ họ có treo đôi câu đối cổ tự hào vớitruyền thống khoa bảng:

Thế tại Long Môn thanh giá trọng/ Thân vi HồngLĩnh vũ nghi cao.

(Tạm dịch: Thế vượt cửa Rồng (thi đậu tiến sĩ)danh giá hiển trọng/ Thân (dòng họ) như Hồng Lĩnhuy nghi cao đẹp).

Ba vị thi đậu Tiến sĩ được ghi tên trên bia đá VănMiếu - Quốc Tử giám và nhiều sách sử của nhà nước.Các thư tịch cổ như Lịch triều đăng khoa, Lịch đại đăngkhoa, Nghệ An ký… được biên dịch đưa vào sách Cácnhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919, sách Khoa bảngNghệ An ghi về ba Tiến sĩ họ Nguyễn Trọng như sau:

Nguyễn Trọng Thường (1681-1735). Người xãTrung Cần, huyện Thanh Chương - nay là thôn TrungCần, xã Nam Trung, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.Cha của Nguyễn Trọng Đương. 32 tuổi đỗ Đệ tamgiáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn, niên hiệuVĩnh Thịnh 8 (1712) đời Lê Dụ Tông. Làm quan đếnchức Lại bộ Hữu Thị lang. Năm Long Đức 3 (1734),ông được cử đi sứ nhà Thanh. Khi trở về đến HánKhẩu thì lâm bệnh chết. Được truy tặng chức Lại bộTả Thị lang, tước Cần Quận công.

Nguyễn Trọng Đương (1724-1786)… Con củaNguyễn Trọng Thường, chú của Nguyễn Đường. 46tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa KỷSửu, niên hiệu Cảnh Hưng 30 (1769) đời Lê HiểnTông. Làm quan đến chức Hàn lâm Hiệu lý. Đi sứ nhàThanh (1761), trở về thăng Đốc trấn Lạng Sơn, tướcLạp Sơn bá. Sau ông được điều vào trấn ThuậnQuảng. Khi quân Tây Sơn vây đánh thành Phú Xuân(1786), ông tử trận (6-1786), được truy phong HữuThị lang, tước hầu.

Nguyễn Đường (1746- ?)… 34 tuổi đỗ Đệ tam giápđồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Hợi, niên hiệu CảnhHưng 40 (1779) đời Lê Hiển Tông. Làm quan đếnchức Hàn lâm Hiệu thảo, vâng mệnh làm Phó sứ sangnhà Thanh. Trở về thăng Thị chế, Đốc trấn Lạng Sơn,tước Chi Phong bá. Đầu đời Gia Long ông được vờira giữ chức Đốc học Sơn Nam.

Ba vị Tiến sĩ họ Nguyễn Trọng kể trên đều đượctriều đình cử đi sứ nhà Thanh. Mỗi lần đi sứ Tàu, triềuđình nhà Thanh lại ban cho một bông hoa vàng để cài

HỌ NGUYỄN TRỌNG NGHI THẠCH NỐI ĐỜI NOI THEO TRUYỀN THỐNG TỔ TIÊN

n Đào Tam Tỉnh

Theo gia phả họ Nguyễn Trọng ởthôn Lan Đình, xã Nghi Thạch, thì họNguyễn Trọng có gốc từ làng TrungCần (nay là xã Nam Trung, huyện NamĐàn, tỉnh Nghệ An) phát tích nên mộtchi họ ở đây. Vị thủy tổ là NguyễnTrọng Khang làm quan triều nhà Lê,thời Lê Trung Hưng được cử đi trấngiữ vùng đất sát biển Cửa Hội, Cửa Lòđể chống lại quân chúa Nguyễn ở ĐàngTrong. Ông lấy vợ người ở làng ĐôngChữ (nay là xã Nghi Trường, huyệnNghi Lộc) và quyết định chọn vùng đấtLan Đình, Nghi Thạch làm nơi định cưcho con cháu, họ tộc.

Page 2: HỌ NGUYỄN TRỌNG NGHI THẠCH XN DVN_02.pdf · 2016-08-25 · Nhà thờ họ có treo đôi câu đối cổ tự hào với truyền thống ... uy nghi cao đẹp). Ba vị

Tạp chíKH-CN Nghệ An

SỐ 8/2016 [39]

XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI

lên mũ vị sứ thần Đại Việt, là một vinh dự hiếmcó. Trong nhà thờ họ Nguyễn Trọng Trung Cầncó treo đôi câu đối cổ:

Quốc thể ngũ hoa trùng cống phỉ/ Thư hươngtam thế ngũ hoàng hoa

(Tạm dịch: Năm lượt đi sứ danh rạng quốcthể/ Ba đời dành hoa vinh dòng thư hương).

Công đức của họ làm rạng danh cho nước nhà,được cả triều đình hai nước đều tôn vinh. Đôi câuđối khác có ghi:

Nhất môn hàn mặc truyển thi lễ/ Lưỡng quốcgiang sơn chí tính danh (Tạm dịch: Nghiên bút mộtnhà truyền thi lễ/ Non sông hai nước nhớ họ tên).

Đến triều Nguyễn, đời vua Gia Long, NguyễnTrọng Võ thi đậu Hương cống, được triều đìnhcử đi sứ Tàu tới 2 lần thì thật hiếm có dòng họnào có thể sánh được về truyền thống thi thư,khoa bảng và đi sứ.

2. Chi họ Nguyễn Trọng Nghi Thạch nốiđời noi theo truyền thống tổ tiên

Cụ tổ Nguyễn Trọng Khang vốn tiếp thu đượctruyền thống nho, y, lý, số của tổ tiên, rất giỏi vềđịa lý, khi thấy cảnh Thạch Động (Nghi Thạch)nên thơ, đất tốt, là đất long mạch nổi lên, với ThuLũng (lưng Rồng, nay là đất phường Nghi Thu,Cửa Lò) làm nền; Long Trảo (móng vuốt Rồng,nay thuộc đất thôn Khánh Duệ, xã Nghi Khánh)làm vây cánh hộ vệ; trước mặt có Biển Hồ, TiênTọa, Tháp Bút dâng cao; xa xa là biển Đông dạtdào sóng vỗ, nổi giữa biển xanh Hòn Mắt trôngvào, Song Ngư cá lội, Lan Châu (Ngọc quý); bêntả có núi Cờ, núi Kiếm, Tượng Sơn (núi Voi)chầu, Long Thủ vênh râu phun lộc nước; bên hữucó 99 ngọn Hồng Lĩnh, có Thanh Long (sôngLam), từ ngàn nguồn sông suối hội về... rõ rànglà nơi “Địa linh nhân kiệt”, là đất phát nhân tàivăn võ, nên quyết định lập nghiệp ở đây. Đấy làlàng Lan Đình, sau đổi Xuân Đình, thuộc tổngĐặng Xá, huyện Chân Phúc, rồi gọi Chân Lộc,nay thuộc huyện Nghi Lộc. Kế thế, nối dõi tổtiên, đinh phát, trỗi lên có trai tài, gái sắc, nhiềungười có tướng văn, tướng võ, lãnh trách nhiệmcao ở mọi cương vị, đều đóng góp hết công sứcdựng xây quê hương, nước nhà giàu đẹp. Hệthống đại tự, câu đối ở nhà thờ chi họ NguyễnTrọng ở đây đã cho ta thấy cái tài của thầy địa lýTrọng Khang trong chọn đất đứng chân, làm nênsự nghiệp cho dòng họ, con cháu. Đó là vùng đấtđã được định hình là: Đinh, tài lộc, thể.

Trước nhà thờ họ có: Đại tự Đường cảnh quang(Từ đường ở nơi cảnh đẹp, có khí phát sáng); Đôicâu đối cột sảnh: Chính khí càn khôn tại/ Linhthanh nhật nguyệt trường (Tạm dịch: Khí tốt đấttrời đọng lại/ Tiếng linh ngày tháng phát tồn).

Từ một vùng đất cát pha sát biển, hoang vu,

nhiều cây dại, bụi ngấy đã được cụ Nguyễn Trọng Khangcùng các con cháu khai phá, làm cho xanh tươi trù phú,phát đạt. Các dòng họ khác như Nguyễn Bá, Nguyễn Bằng,Nguyễn Văn, Nguyễn Đình, Hoàng, Đặng, Phạm… cùngquy tụ về đây góp công xây dựng thành một vùng đất cótiếng ở Nghi Lộc, Cửa Lò, Nghệ An.

Khi đi làm quan triều đình, cụ Nguyễn Trọng Khangcũng nổi tiếng là một tướng tài, có công trong việc chốnggiặc bảo vệ vua Lê. Sách Đại Nam nhất thống chí có ghivề cụ Nguyễn Trọng Khang như sau:

Nguyễn Trọng Khang: Người huyện Nghi Lộc. Cuốinăm Cảnh Hưng đời Lê, làm Đội trưởng, dưới quyềnNguyễn Chỉnh. Khi Nguyễn Chỉnh lánh nạn theo Tây Sơn,Trọng Khang cũng theo đi, sau lại trở về. Đầu năm ChiêuThống, Nguyễn Chỉnh đem quân về bảo vệ nhà vua, TrọngKhang cũng đi theo. Khi ấy giặc bể hay quấy nhiễu HảiDương và Quảng Yên. Vua cho Trọng Khang ra trấn thủQuảng Yên, đánh tan đám giặc bể. Đến khi Tây Sơn lạiđánh cướp Thăng Long, vua phải chạy sang Kinh Bắc.Trọng Khang nghe tin Thống lĩnh Hoàng Viết Tuyển còn ởSơn Nam, liền đem thủy quân đến hội sư, tôn Viết Tuyểnlên làm Thống soái, để hợp quân đánh địch. Lúc đó ViếtTuyển vốn có ý hàng giặc, dùng dằng tránh né. TrọngKhang bèn tuốt gươm ra, vừa khóc vừa nói: “Nay thànhThăng Long đã mất, vua cha phải chạy ra ngoài, ấy là lỗicủa ai? Anh có giết tôi để hàng giặc thì giết, nếu không thìtôi cũng trói anh để ở đầu mũi thuyền, rồi đánh thẳng vàotrận giặc”. Quân Tây Sơn tan vỡ, ta thu được thuyền bèkhí giới rất nhiều. Sau đó, Tây Sơn kéo thêm quân đếnđánh, Trọng Khang phải lui về giữ sông Vị Hoàng. Ít lâusau gặp gió bão, quân bị tan vỡ, còn Trọng Khang khôngbiết kết cục thế nào(1).

Gia phả chi họ Nguyễn Trọng cũng không thấy ghi sựkiện ngày mất cụ thể của cụ Trọng Khang như thế nào, chỉthấy ghi: Mộ phần ông Nguyễn Trọng Khang táng tại chùaChi Huyền, mộ phần bà Trần Thị Đê táng tại chùa PhúcLạc - Ngày 16 tháng giêng âm lịch hàng năm là ngày giỗTổ. Có thể do hoàn cảnh đương thời nhiễu nhương, đểtránh sự trả thù của các thế lực phong kiến lúc đó, mà dòng

Giỗ tổ họ Nguyễn Trọng tại nhà thờ Nghi Thạch, Nghi Lộc (16/1 ÂL)

Page 3: HỌ NGUYỄN TRỌNG NGHI THẠCH XN DVN_02.pdf · 2016-08-25 · Nhà thờ họ có treo đôi câu đối cổ tự hào với truyền thống ... uy nghi cao đẹp). Ba vị

Tạp chíKH-CN Nghệ An

SỐ 8/2016 [40]

XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI

họ còn phải lo thu giấu tung tích, không dám tôn vinhtiên tổ để bảo vệ cho sự sinh tồn, phát triển của concháu về sau. Hơn nữa, sách sử Nhà nước lúc đó cũngchưa thể ghi hết, ghi rõ về các sự kiện liên quan đếnvị tiên tổ Nguyễn Trọng Khang.

Do có công lao với đất nước và là triệu tổ khai cơở Lan Đình, nên sau khi mất, cụ Nguyễn TrọngKhang đã được dân làng tôn thờ làm Thành hoàng.Các biển thờ, thần chủ, tài liệu ở nhà thờ chi họNguyễn Trọng là chứng cứ còn lưu đến ngày nay. Concháu cụ Trọng Khang cũng được thừa hưởng ân đức,ân điển của cụ và đều làm nên sự nghiệp.

Hai con trai cụ Trọng Khang là Nguyễn TrọngHợp và Nguyễn Trọng Trinh. Trọng Hợp là thầy địalý giỏi. Trọng Trinh nối tiếp được những tố chất củacha, nổi lên cũng là một võ tướng, cùng làm quanđồng triều với cha. Nguyễn Trọng Trinh là một Ưubinh dưới thời vua Lê chúa Trịnh, vì có chiến côngnên đã được thăng trải các chức Đội trưởng, PhóThiên hộ, là một võ quan làm nhiệm vụ bảo vệ Kinhthành Thăng Long. Với chức quan Phó Thiên hộ (theoquan chế Bảo Thái 1720-1729, chức quan này cóphẩm hàm tòng Ngũ phẩm), Nguyễn Trọng Trinhđược hưởng hàm tản quan tương ứng là Tráng tiếtTướng quân.

Nguyễn Trọng Thư là cháu ruột của NguyễnTrọng Trinh và là cháu đời thứ 4 của cụ Tổ NguyễnTrọng Khang, vì có công giúp triều đình nên nhà LêTrung Hưng ban tước Thất phẩm. Qua 8 văn bằngtriều Nguyễn cấp cho Nguyễn Trọng Thư, ta đượcbiết, khi Vương triều Nguyễn được thiết lập (năm1802), Vua Gia Long và Minh Mệnh đã vời NguyễnTrọng Thư ra làm việc tại bộ Công, giúp triều đìnhquản lý thợ cũng như việc xây dựng các công trìnhcủa đất nước. Nguyễn Trọng Thư đã từng làm việcrất lâu trong Cứ tượng ty, khoảng hơn 40 năm (vănbằng số 5), từng trải các chức trong ty như Thự bích(chuyên sắp xếp công việc cho các thợ khác), Caiquan (có thể là người đứng đầu một cục thợ). Caiquan Nguyễn Trọng Thư cùng với Ty quan HoàngNhật Liên đã cai quản 171 người thợ (văn bằng số 1),hay có trách nhiệm tuyển lựa 400 thợ đưa về Kinh(văn bằng số 2). Vốn là bậc thợ tài hoa, tinh xảo, “cótài năng tỏ rõ” (văn bằng số 6), thừa hành công vụnhiều năm, “thường xuyên là tấm gương để mọingười ở trong cục noi theo” (văn bằng số 5), Cai quanNguyễn Trọng Thư đã được hiệp thợ trong Cứ tượngty kính trọng, yêu mến, được triều đình Huế tin tưởng,trọng dụng. Năm 1821, vì đã “cập kề tuổi 69, khí lựcsuy nhược, nên thường hay bị [… ?] lại hay cảmmạo” (văn bằng số 5), ông tâu xin được nghỉ hưu vàđược “lấy bằng cấp cho giữ nguyên hàm trở về quêquán ở xứ Nghệ An và trình với quan địa phương làxã Hảo Hợp” (văn bằng số 8). Xin giới thiệu một sốvăn bằng liên quan đến Cai quan Nguyễn Trọng Thư :

Tòa sảnh Bộ Công. Kê:Thứ nhất, giao phó cho các vị: Cai quan Nguyễn

Trọng Thư, ty quan Hoàng Nhật Liên, Thủ hợp […?do mất chữ] cùng ở ty Cứ Tượng thuộc trấn Nghệ Anthừa hành công vụ và cai quản 171 người thợ. Naycông việc ở kinh thành không nhiều, thể theo nguyệnvọng của tỉnh cần giảm bớt nhân lực trong đội chuyểnvề quê.

Vậy nên, hãy tập hợp, căn cứ kê khai vào sổ rồiđệ lên tòa sảnh Bộ Hộ để quan trên viết cho bút tíchmà đem về trình với quan trấn của bản trấn để lĩnhlương cùng tiền đi lại, Phàm người nào mà ở xa quáthì được nghỉ tạm ở những nơi đồn lũy và […?]

Ngày […?] tháng 12 năm Gia Long 17 (1818).Hoặc một văn bằng khác có nội dung như sau:Sai phái Thự bích1 Nguyễn Trọng Thư ở ty Cứ

trọng vốn quê xã Hảo Hợp là người thừa hành côngvụ đã nhiều năm […]. Từng cai quản các thợ trongty Cục tượng lại có tài năng tỏ rõ. Vậy, nay thể theođơn của các thợ thanh lọc tiến bầu, nên hợp sai chogiữ chức […] của ty Cứ tượng […] suất trong xãthuộc vào hàng bậc số bạ để phụ cùng với chánhbằng Cai quan và Chánh phó để cai quản đốc thúccác viên thợ làm nhiệm vụ […] Nếu lười nhác khôngchăm chỉ sẽ có phép công trừng trị. Nay sai.

Ngày mùng 1 tháng 8 năm [….?](Người dịch: Vũ Xuân Hiển, Viện Nghiên cứu

Hán Nôm).Theo gia phả dòng họ Nguyễn Trọng Nghi Thạch,

thì con trai thứ hai của Nguyễn Trọng Thư là NguyễnTrọng Trường cũng làm quan triều Nguyễn: học rộng,tài cao, bản lĩnh cầm quân đánh giặc, được thăng quanCửu phẩm...

Trên đây là những nghiên cứu bước đầu sơ lượcvề công tích của vị triệu tổ Nguyễn Trọng Khang vàcác vị Trọng Trinh, Trọng Thư đối với quê hương, đấtnước. Con cháu chi họ Nguyễn Trọng ở Nghi Thạchđã noi gương tổ tiên tiếp thu được những tố chấtthông minh, học giỏi, kiên cường, bất khuất, văn võvẹn toàn của các vị tổ tiên họ Nguyễn Trọng, nhất làvị triệu tổ Nguyễn Trọng Khang, các đời đều có ngườithành danh, đều góp công sức cho sự nghiệp xâydựng và bảo vệ quê hương, đất nước. Ngày nay, nhiềucon cháu dòng họ đã phát huy truyền thống hiếu học,khoa bảng, phấn đấu trở thành các nhà giáo, bác sĩ, sĩquan quân đội, các doanh nhân… tiêu biểu nhưPGS.TSKH Nguyễn Quốc Tế, Phó Hiệu trưởngTrường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, có con trailà Nguyễn Trọng Hà cũng bảo vệ thành công Tiến sĩkhoa học tại Hoa Kỳ, Nguyễn Trọng Nghĩa là doanhnhân nổi tiếng trong làng đại lý lương thực…/.

Chú thích:(1) Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí (tỉnh

Nghệ An), tập 1, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, tr. 846.