90
1 SỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH THƯ VIỆN TỈNH QUẢNG NAM Thư mục chuyên đề HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN ĐƯỢC TỰ DO, NƯỚC ĐƯỢC ĐỘC LẬP (Kỷ niệm 140 năm ngày sinh Quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng (01/10/1876 01/10/2016) Quảng Nam, tháng 9 năm 2016

HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

  • Upload
    others

  • View
    4

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

1

SỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

THƯ VIỆN TỈNH QUẢNG NAM

Thư mục chuyên đề

HUỲNH THÚC KHÁNG

NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO

DÂN ĐƯỢC TỰ DO, NƯỚC ĐƯỢC ĐỘC LẬP (Kỷ niệm 140 năm ngày sinh Quyền Chủ tịch nước

Huỳnh Thúc Kháng (01/10/1876 – 01/10/2016)

Quảng Nam, tháng 9 năm 2016

Page 2: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

2

LỜI NÓI ĐẦU

Trong lịch sử Việt Nam, từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX, chí sĩ

Huỳnh Thúc Kháng nổi lên như là một trong những nhà yêu nước kiệt xuất, có

những đóng góp quan trọng trong tiến trình lịch sử dân tộc. Ông thật sự là người

tiêu biểu cho nhân cách trí thức và tinh thần yêu nước, ý thức dấn thân hành

động vì độc lập, tự do của dân tộc. Cả cuộc đời của cụ Huỳnh Thúc Kháng gắn

liền với những biến động của thời cuộc; cụ vừa là nhân vật lịch sử nổi tiếng, vừa

là chứng nhân trước các biến thiên xã hội trong suốt nửa đầu thế kỷ XX.

Xuất thân khoa bảng, nhưng không giống như nột số nhà nho đương thời,

ông có một cái nhìn khá mới mẻ với thời cuộc. Không ra làm quan mà tham gia

hoạt động trong phong trào Duy Tân, làm Viện trưởng Viện dân biểu Trung kỳ,

chủ bút báo Tiếng Dân, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Phó chủ tịch liên hiệp kháng chiến,

Chủ tịch Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hoà là quá trình Huỳnh Thúc Kháng luôn đi tìm cái mới, những giá trị

mới để mang lại độc lập, tự do, dân chủ cho nhân dân.

Cuộc đời cụ Huỳnh Thúc Kháng là một tấm gương tiêu biểu của một bậc đại

trí thức yêu nước nhiệt thành, luôn đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, vì dân vì nước

đến hơi thở cuối cùng, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cụ Huỳnh là một

người học hành rất rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao… Cụ Huỳnh là người

mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khó không làm nản chí, oai vũ không

làm sờn gan. Cả đời cụ không cầu danh vị, không cầu lợi lộc, không thèm làm

giàu, không thèm làm quan. Cả đời cụ Huỳnh chỉ phấn đấu cho dân được tự do,

nước được độc lập”.

Với những đóng góp to lớn cho đất nước, dân tộc, ngày 15/4/2013, cụ

Huỳnh Thúc Kháng đã được Chủ tịch nước Trương Tấn Sang truy tặng Huân

chương Sao Vàng.

Nhân kỷ niệm 140 năm ngày sinh Quyền Chủ tịch nước Huỳnh thúc Kháng

(01/10/1876 – 01/10/2016). Nhằm khẳng định, tôn vinh trí tuệ, đạo đức, nhân

cách, tinh thần yêu nước và tư tưởng đại đoàn kết toàn dân của cụ; tri ân những

công lao, đóng góp to lớn của cụ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc; đồng thời

phát huy và giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống hiếu học và ý chí cách

mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Thư viện tỉnh Quảng Nam phát hành

thư mục chuyên đề “ Huỳnh Thúc Kháng - Người suốt đời phấn đấu cho dân

được tự do, nước được độc lập”. Thư mục tập hợp các bài viết được chọn lọc từ các báo, tạp chí Trung ương

và địa phương.

Quá trình thu thập tài liệu và biên soạn không tránh khỏi những thiếu sót.

Rất mong nhận được sự góp ý xây dựng của bạn đọc.

THƯ VIỆN TỈNH QUẢNG NAM

Page 3: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

3

Truy tặng Huân chương Sao Vàng cho Cụ Huỳnh Thúc Kháng:

Suốt đời vì nước, vì dân

Sáng 15-4, tại huyện Tiên Phước, Tỉnh ủy, UBND, Ủy ban MTTQ Việt Nam

tỉnh Quảng Nam tổ chức Lễ truy tặng Huân chương Sao Vàng do Nhà nước

truy tặng Cụ Huỳnh Thúc Kháng, nguyên quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hòa, nay là nước CHXHCN Việt Nam. Thay mặt lãnh đạo Đảng,

Nhà nước, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trao Huân chương Sao Vàng cho

đại diện gia tộc Huỳnh tại Tiên Phước và đại diện lãnh đạo tỉnh Quảng Nam.

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trao Huân chương Sao Vàng mà Đảng, Nhà nước truy tặng cụ

Huỳnh Thúc Kháng, cho đại diện gia tộc họ Huỳnh tại Tiên Phước, Quảng Nam

Phát biểu tại lễ truy tặng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhấn mạnh: “Hôm nay,

chúng ta tổ chức trọng thể Lễ truy tặng Huân chương Sao Vàng, phần thưởng cao

quý nhất của Đảng, Nhà nước cho Cụ Huỳnh Thúc Kháng là một sự ghi nhận,

đánh giá rất cao công lao to lớn của Cụ đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập,

tự do cho Tổ quốc. Cuộc đời hoạt động và nhân cách cao đẹp cùng tài năng, đức

độ của Nhà văn hóa, Chí sĩ yêu nước, quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng là

tấm gương sáng ngời về truyền thống vượt khó, hiếu học, về nếp sống thanh cao

giản dị, không màng danh lợi, suốt một đời vì nước vì dân”.

Duy Tân và Cách mạng

Cụ Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) sinh ra trong một gia đình nhà nho học làng

Thạnh Bình, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước (Quảng Nam). Năm 1900, Cụ đỗ

đầu trong kỳ thi Hương và năm 1904 đỗ đầu kỳ thi Hội. Học giỏi, đỗ cao, sớm nổi

tiếng nhưng Cụ Huỳnh không ra làm quan mà cùng Phan Châu Trinh, Trần Quý

Cáp là những nhà tiên phong trong phong trào Duy Tân. Năm 1908, Cụ bị chính

Page 4: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

4

quyền thực dân Pháp bắt và đày ra Côn Đảo 13 năm. Đến năm 1921, Cụ được trả

tự do.

Những năm tháng tù đày không làm nhụt chí mà còn hun đúc tinh thần đấu tranh,

với mong muốn giành quyền dân chủ cho các tầng lớp nhân dân. Năm 1925, Cụ

Huỳnh tham gia vào cuộc vận động bầu Viện Dân biểu Trung Kỳ, sau đó đắc cử

và được bầu làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ. Trong gần 3 năm hoạt

động ở Viện, Cụ Huỳnh cương quyết đấu tranh trong nghị trường, rồi nhân việc

chống lại Khâm sứ Pháp, Cụ từ chức. Năm 1927, Cụ sáng lập Báo Tiếng Dân làm

diễn đàn nhằm tiếp tục đấu tranh đòi quyền dân chủ.

Trên chính trường, trong vai trò là Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ và chủ

bút Báo Tiếng Dân, với tầm nhìn xa, tư duy sắc sảo, bản tính thẳng thắn, Cụ

Huỳnh đã mạnh mẽ đấu tranh đòi thực hiện dân chủ, dân quyền; vạch trần chính

sách cai trị nô dịch, cướp bóc, đàn áp dã man của thực dân Pháp và sự mục nát

của chế độ phong kiến. Cụ Huỳnh công khai tuyên chiến với kẻ thù của dân tộc:

“Tôi là nhà cách mạng công khai, tôi đấu tranh cho quyền lợi của dân tộc Việt

Nam một cách công khai, vì đất nước Việt Nam có biên cương, lãnh thổ công

khai trên bản đồ thế giới nên tôi cũng công khai nói lên tiếng nói của người Việt

Nam yêu chuộng hòa bình, độc lập, tự do và tự chủ. Do đó, tôi thách đố mọi sự

trừng phạt và hiểm nguy đến với cá nhân tôi”.

Các nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng, Cụ Huỳnh là một trong những người yêu

nước hàng đầu, khởi đầu trong phong trào Duy Tân. Vì vậy, lịch sử nhìn nhận Cụ

như là nhân vật tiêu biểu nhất tạo được cái gạch nối lịch sử gắn kết phong trào

yêu nước của các chiến sĩ Duy Tân với phong trào Cách mạng.

Theo nhà sử học Dương Trung Quốc, Cụ Huỳnh cũng như người Quảng biết phê

phán, tranh cãi gay gắt, quyết liệt thể hiện tính biện chứng. Báo Tiếng Dân đã làm

được hơn rất nhiều điều đó. Báo chí hiện nay, trách nhiệm của người cầm bút với

trách nhiệm đất nước cần tinh thần của Báo Tiếng Dân: “Nếu không có quyền

nói, thì ít ra cũng giữ được cái quyền không nói những điều người ta buộc nói”.

Người làm lịch sử cũng cần sự thật đó.

Cụ Huỳnh và chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời Cụ ra

tham gia nội các Chính phủ Liên hiệp lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

với chức vụ Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp

đàm phán, Cụ Huỳnh được Hồ Chủ tịch tin tưởng giao quyền quyền Chủ tịch

nước. Cụ đã ứng phó với muôn vàn khó khăn, thù trong, giặc ngoài khi đất nước

mới giành độc lập. Cụ Huỳnh chỉ đạo các cơ quan chức năng thẳng tay trừng trị

những phần tử phản động trong Việt Nam Quốc dân đảng cấu kết với quân Tưởng

Giới Thạch hòng lật đổ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa được thành

lập.

Phát biểu tại lễ truy tặng Huân chương Sao Vàng, Chủ tịch nước Trương Tấn

Sang nhận xét về vai trò của Cụ Huỳnh: “Uy tín, tài năng, đức độ của Cụ Huỳnh

trong thời gian giữ trọng trách quyền Chủ tịch nước đã góp phần cùng Đảng ta và

Chủ tịch Hồ Chí Minh tạo nên khối đại đoàn kết rộng rãi toàn dân trong cuộc đấu

tranh giữ vững độc lập dân tộc, bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ ở thời

Page 5: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

5

điểm hết sức hiểm nghèo. Là một sử gia, Cụ Huỳnh đã để lại nhiều công trình có

giá trị, nhiều nguồn tư liệu quý về lịch sử nước nhà, trong đó có những chứng cứ

về chủ quyền lãnh thổ đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt

Nam chúng ta. Suốt cuộc đời vì nước, vì dân, hết lòng phụng sự Tổ quốc, Cụ ra đi

thanh thản, để lại “lời vĩnh quyết” như một lời hiệu triệu, kêu gọi mọi người đoàn

kết, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch

Hồ Chí Minh”.

Trong 16 năm tồn tại của Báo Tiếng Dân (1927-1943), Cụ Huỳnh có những bài

viết thể hiện nhận thức của mình về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa qua bài “Dấu

tích Tây Sa (Parasels, Hoàng Sa) trong lịch sử Việt Nam ta và giá trị Phủ biên tạp

tục” đăng trên Báo Tiếng Dân ngày 23-7-1938. Theo Cụ Huỳnh, cần phải sưu

tầm, tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu bằng chữ Hán của các bậc tiền nhân để lại

về đảo Tây Sa (Hoàng Sa) vì đây là nguồn tài liệu quý có thể làm chứng cứ pháp

lý chứng minh chủ quyền của Việt Nam về quần đảo Hoàng Sa. “… một mớ sách

chữ Hán của tiền nhân ta trứ thuật, lâu nay đã bỏ xó, lề hư bìa nát, phần đông,

nhất là bạn thanh niên, cho đó là một thứ học mượn, thứ chữ chết, không cần đếm

xỉa đến, nay nhân vấn đề đảo Tây Sa, trở thành món tài liệu rất quý giá có quan

hệ đến công pháp quốc tế không phải là ít”, Huỳnh Thúc Kháng viết.

Theo nhận định của các nhà sử học, Cụ Huỳnh không những nhận thức được vấn

đề “quốc tịch đảo Tây Sa” (Hoàng Sa) là của Việt Nam mà đồng thời còn dày

công sưu tầm, nghiên cứu trong những Hán văn đời trước để tìm ra chứng cứ đầy

đủ để chứng chinh Tây Sa là của nước Nam.

THANH TUYỀN

http://www.baodanang.vn/channel/5399/201304/truy-tang-huan-chuong-sao-

vang-cho-cu-huynh-thuc-khang-suot-doi-vi-nuoc-vi-dan-2234122/

Page 6: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

6

Chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng (1876 – 1947)

Huỳnh Thúc Kháng là chí sĩ, học giả, thuở nhỏ ông có tên là Hanh, tự Giới

Sanh, hiệu Mính Viên (còn có nhiều bút danh khác: Sử Bình Tử, Tha Sơn Thạch,

Khỉ Ưu Sinh, Xà Túc Tử, Thức Tự Dân, Ưu Thời Khách, Hải Âu, Ngu Sơn,

Khách Quan). Ông quê ở làng Thạnh Bình, tổng Tiên Giang thượng, nay là xã

Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.

Tổ tiên vốn là người miền Bắc vào lập nghiệp xứ Quảng khoảng thế kỉ

XIV,XV (Trần, Lê), sinh sống bằng nghề nông. Tằng tổ cày ruộng đọc sách, vào

đời Gia Long bản triều được liệt vào hạng người hiền. Ông tổ ( húy Văn Lập)

người tiếp thu được tổ âm sau này thành nhà nông hào, trong thôn nhiều người

mến phục.

Thân phụ ông (húy Phương) tên là Huỳnh Tấn Hữu, mẹ là Nguyễn Thị

Tình người làng Hội An cư ngụ làng Phú Thị ( nay thuộc thôn Hội An, xã Tiên

Châu, huyện Tiên Phước), em ruột phó bảng Nguyễn Đình Tựu. Bà là người có

dòng họ với những người từng lều chõng được sống trong cái vinh nhục của chế

độ khoa cử ngày trước.

Xuất thân trong một gia đình ở nông thôn trải qua nhiều đời vẫn là nhà

nông

khuôn mẫu. Nhưng ngày sau trong làng có người đi học xa nếm mùi khoa cử,

thân sinh Huỳnh Thúc Kháng lúc bấy giờ tuy còn nhỏ tuổi cũng biết hâm mộ cái

vinh của khoa cử bèn xin phép gia đình tìm thầy cầu chữ. Do đó, các trường

trong tỉnh ông đều biết qua, nhưng nhiều phen lều chõng vẫn lạc đệ. Từ đó thân

sinh ông trở về cày ruộng, đọc sách làm người biết chữ trong làng trọn đời vui với

ruộng vườn, khuyên dạy con trẻ. Thêm nữa, hai người anh trai của Huỳnh Thúc

Kháng tuổi tuy còn nhỏ, đã nổi tiếng thông minh nhưng bất hạnh chết sớm lúc

chưa được hai mươi. Các biến cố gia đình đến dồn dập càng đè nặng trên người

ông. Vả lại, thêm nỗi thúc giục của thân phụ đều trút vào làm cho Huỳnh Thúc

Kháng phải cố gắng chu toàn nhiệm vụ nặng nề, cao cả của gia đình giao phó.

Do không xuất thân trong một gia đình khoa bảng, bình trung ông chỉ là

một

người sinh ra trong một gia đình thuần nông nghiệp. Thân phụ tuy nhiều phen đèn

sách mà vẫn ôm mộng về không. Cho nên sự thành công của nhà nho Huỳnh

Thúc Kháng phần lớn tự khối óc của chính ông, cùng với biến cố gia đình thúc

giục. Là con thứ trong gia đình, nhưng sự thật ông lãnh trọng trách của một người

con trai duy nhất trong dòng họ (hai anh trai chết sớm). Từ đó gánh nặng “khoa

cử”, “nối dõi” không bao giờ rời trên vai con người nhỏ gầy Huỳnh Thúc Kháng,

cho đến ngày thực sự dấn thân vào sự nghiệp cách mạng.

Do vậy ông phải làm việc với một khả năng “ trải trên 20 năm như một

ngày theo khuôn khổ nghiêm huấn không lúc nào sai”.Những năm tháng ấu thơ,

ông được dìu dắt và dạy dỗ bởi người cậu ruột của mình là Tế tửu quốc tử giám

Nguyễn Đình Tựu ( người thôn Hội An xã Tiên Châu). Thế cho nên tuy mới mười

ba tuổi ông đã biết làm văn trường ốc, năm 16 tuổi đi thi Hương, đầu còn “để

chỏm” và từng nổi danh là mọt trong ba người hay chữ nhất ở kinh đô Huế vào

những năm đó ( cùng với Trần Quí Cáp, Phạm Liệu). Tuy nổi tiếng thông minh,

Page 7: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

7

nhưng với lối kén chọn nhân tài ngày trước, Huỳnh Thúc Kháng phải nhiều phen

lạc đệ, mãi đến năm 29 tuổi ( 1904) mới đỗ Tiến sĩ. Và cũng từ đó ông bắt đầu

học chữ Quốc ngữ, phát động phong trào Duy Tân (Mậu Thân 1908) mà ông là

một trong ba kiện tướng dẫn đạo. Do đó ông bị thực dân Pháp làm tội, đày ra

Côn Lôn đến năm 46 tuổi ( 1921) mới được phóng thích.Năm Bính Dần (1926),

ông đắc cử Dân biểu rồi được cử làm Viện trưởng Viện dân biểu Trung Kỳ.

Trong 3 năm hoạt động ở Viện, ông cương quyết tranh đấu trong nghị trường, rồi

chống lại viên Khâm sứ Pháp Jabouille. Ông từ chức và sáng lập tờ báo Tiếng

Dân, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút báo này tại Huế (1927-1943).

Thời gian đại chiến thế giới thứ hai, phát xít Nhật và đám thân Nhật toan

mua chuộc ông, nhưng không lung lạc được ông. Sau Cách mạng tháng 8-1945,

ông nhận chức Bộ trưởng bộ Nội vụ chính phủ Liên hiệp kháng chiến Việt Nam

Dân chủ Cộng hòa và trong khi Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp đàm phán, ông

được trao Quyền Chủ tịch Chính phủ (1946). Ông cũng là một sáng lập viên và là

Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt). Bắt đầu cuộc toàn quốc

kháng chiến, ông được chính phủ đặc phái vào Liên khu 5 công tác...

Tuổi già, lâm bịnh, ông mất tại Quảng Ngãi ngày 21-4-1947, thọ 71 tuổi. Huỳnh

Thúc Kháng mất nhằm lúc cuộc kháng chiến của toàn dân vào thời kì gay go

nhất. Sự tham gia kháng chiến của ông là một bài học lớn đối với người tri thức

Việt Nam vào giai đoạn cam go của lịch sử chống xâm lược.

Hồi ông đậu cử nhân năm 1900 Hà Đình Nguyễn Thuật (Thượng thư; Tổng tài

Quốc sử quán) có câu liễn chúc ông:

“Ổn bộ thượng vân cù văn trận hùng sư khẩn nhượng nguyên nguyên du

tranh trưởng;

Thịnh danh quy nguyệt đán từ lâm hậu khởi quả nhiên Huỳnh giang hạ vô

song.”

Nghĩa:

Vững bước đi thi, hùng sư văn trận lớn nhường Nguyễn nguyên du tranh

chức trưởng;

Lừng danh trở về đầu tháng, văn chương trác tuyệt, đúng sông Huỳnh lớn

vô song.

Với nhiều công lao, thành tích to lớn, ngày 27 tháng 12 năm 2012, Chủ tịch

nước quyết định truy tặng Huân chương Sao Vàng cho cụ Huỳnh Thúc Kháng.

Và vào ngày 15 tháng 4 năm 2013, tại lễ truy tặng Huân chương Sao Vàng được

tổ chức long trọng tại huyện Tiên Phước, chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đích

thân trao tặng Huân chương Sao Vàng cao quý cho người thân của cụ.

Đời tư

Về đời tư, Huỳnh Thúc Kháng lập gia đình rất sớm ( năm 20 tuổi-1895).

Vợ ông là bà Nguyễn Thị Sắt, con gái út một nhà vọng tộc thuộc làng Đại Đồng

nơi ông trọ học lúc nhỏ. ( Bà Sắt là em vợ Phan Văn Cừ, ông Cừ là anh ruột Phan

Châu Trinh).Bà Sắt sinh năm 1881, quê làng Đại Đồng, huyện Tiên Phước, tỉnh

Quảng Nam.

Bà về làm vợ Huỳnh Thúc Kháng năm 1895. Đến năm 1903, ông bà sinh

con gái đầu lòng đặt tên là Huỳnh Thị Xuân Lan (tức cô Yển), năm 1908 ông bà

sinh người con thứ hai tên là Huỳnh Thị Thu Cúc ( tức cô Kình ).

Page 8: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

8

Bà Xuân Lan sau lập gia đình với một người con trai cùng huyện tên là Lê

Bá Khải, sinh được một con trai tên là Lê Thứu. Năm 1954 ông Thứu tập kết ra

Bắc ( hiện là cán bộ Sở Ngoại Thương đã nghỉ hưu, thành phố Hải Phòng). Bà

Xuân Lan mất tháng 12 năm 1930.

Bà Thu Cúc sinh năm 1908, năm 18 tuổi ông Huỳnh Thúc Kháng“gả” cho

ông Lê Nhiếp ( người làng Võ Xá huyện Quế Sơn), nhưng đến năm 19 tuổi bà

Thu Cúc qua đời nhằm tháng 08 năm 1927. Ông Lê Nhiếp sau này có vợ ( rể Phó

bảng Nguyễn Đình Hiến bạn ông Huỳnh) nhưng vẫn được Huỳnh Thúc Kháng

xem như con rể, ông Nhiếp là nhân viên báo Tiếng Dân (1927-1943) và sống kề

cận Huỳnh Thúc Kháng mãi tới năm 1947. ( Ông Lê Nhiếp có giữ một số di cảo

của Huỳnh Thúc Kháng như:Thi tù tùng thoại, Mính viên cận tác…hiện ông Lê

Nhiếp đã tặng lại cho một cơ quan văn hóa tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng hồi đầu

năm 1980. Ông mất tại Sài Gòn sau năm 1986).

Năm 1924, Huỳnh Thúc Kháng cưới thêm một bà vợ nữa, nhưng bà này

sống chung với ông vẫn không có con. Cho nên, trước sau ông vẫn chỉ có hai

người con gái trên. Sau khi hai người con qua đời, cuộc sống gia đình ông rất hiu

quạnh, đời sống tình cảm khá u buồn. Do đó có lần ông tâm sự ”(tôi) không còn

ngăn được dòng nước mắt vì hai trẻ đều bỏ già đi sang thế giới khác”.

Sau này, khi ở Côn Đảo (1909) và Huế (1939) hồi tưởng lại đời sống với

vợ con, ông đã bồi hồi xúc động viết về người vợ yêu quí của mình:

“ Vô duyên giá tác cuồng sanh phụ

Tân khổ lao lao độc tự liên.

Trung quị tân phiền cung khách soạn

Lãng du phí tận điển y tiền

Phong hầu tái ngoại ứng hư thoại,

Hóa thạch sơn đầu bất ký niên.

Cương bả nhàn sầu vấn minh nguyệt

Vân tăng vũ đổ kỷ hồi viên.

Dịch thơ :

Rủi ro khéo gặp chồng khùng

Nhọc nhằn nhiều nỗi, cam lòng đắng cay

Trong nhà khách khứa liền ngày

Bao nhiêu tiền bạc một tay tiêu xài

Phong hầu ra việc nói chơi

Đã trông chồng nọ, một đời đã cam

Sầu riêng thử hỏi trăn rằm

Mây mưa ghen ghét mấy năm lại tròn.

Hoặc, viết thơ thăm hai con :

Thê tuyệt thông thông biệt nhỉ tình

Nhứt tài lục tuế nhứt sơ sinh

Hài đề chi tánh tri tư phụ

Giáo dục tiền đồ nhứt ủy khanh.

Nữ học tân triều thông quốc ngữ

Tiêu Đồng cựu khúc thiệu gia thanh.

Ủy tình khởi tất chân nam tử

Page 9: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

9

Quân kháng Trung gia tỉ muội hàng

Dịch thơ:

Vội vàng rẽ bước ra đi.

Đứa vừa sáu tuổi, đứa thì mới sanh.

Nhớ cha trông ngất trời sanh

Dạy nuôi nhờ có mẹ lành gắng công.

Bằng nay Quốc ngữ học thông

Tiếng nhà may nối Tiêu Đồng khúc xưa

Chưa trai thì gái cũng vừa

Chị em Trưng nữ tiếng giờ còn thơm !

Nỗi niềm chua xót về gia đình, con cái, khi cảm hoài hai bài thơ trên, ông

đau buồn viết:“ Đứa con gái đầu mới mười sáu tuổi, đứa sau tôi bị bắt tháng hai

, mà nó tháng 7 mới sinh ( 1908) kế tháng 8 thì tôi bị đày ra Côn Lôn. Nay (1939)

đọc bài thơ này không còn ngăn được dòng nước mắt, vì hai trẻ đều bỏ già sang

thế giới khác cả ! Đứa lớn được một trai, cháu hiện ở với tôi, cho đi học” ( tức

ông Lê Thứu vừa nói ở trên).

Sau khi ở Côn Lôn về (1921 -1926), ông vẫn sống tại Thạnh Bình, ông bà

vốn có hai người con gái và không có thêm người con nào nữa. Nên bà Huỳnh

Thúc Kháng mới “cưới” cho ông thêm một bà nữa để “có con nối dõi” như vừa

nói ở trên. Việc ấy xảy ra năm 1924. Trong Niên Phổ ( Tự truyện) ông ghi rõ:

“Năm này (1924) nội tử cưới thứ thất cho tôi” ( Hồ Thị Chưởng, người trong

làng).

Từ năm 1926, Huỳnh Thúc Kháng ra sống ở Huế, làm nghị viên và chủ

nhiệm kiêm chủ bút báo Tiếng Dân…cả hai đều ở Tiên Phước thỉnh thoảng mới

ra Huế. Năm 1933, bà Hồ Thị Chưởng ra Huế thăm ông, nhằm lúc ông vào Đà

Nẵng, bà bị bịnh tả và mất ở Huế vào khoảng tháng 10 cùng năm, phần mộ bà

nằm tại Ngự Bình ( Huế), nhưng nay đã thất lạc vì chiến tranh. Bà Chưởng không

có với ông người con nào cả.

Từ đó bà Huỳnh Thúc Kháng thỉnh thoảng ra Huế, nhưng vẫn sống và làm

nông tại Tiên Phước đến khi qua đời.

Năm 1947, bà Huỳnh Thúc Kháng được cử làm Hội trưởng Hội mẹ chiến sĩ

tỉnh Quảng Nam, cơ quan đóng tại Tiên Phước. Đến ngày 7 tháng 6 năm 1953 (

nhằm ngày 26 tháng 6 âm lịch) bà qua đời, hưởng thọ 72 tuổi. Trong tang lễ bà,

nhân danh Hội mẹ chiến sĩ tỉnh Quảng Nam, lúc ấy có câu đối điếu bà:

“ Ngoài bảy mươi tuổi nối gót theo ông, phú nhà cửa cho họ đương, khuất

bóng hơi hương còn phảng phất.

Trong một tỉnh mất bà chị cả, hội chị em hàng binh sĩ, chia buồn giọt lệ

những tuôn rơi”

Bà Huỳnh Thúc Kháng là một tấm gương kiên trinh, chịu khó, chịu thương

của người đàn bà Việt Nam muôn thưở, mãi mãi là một hình ảnh đẹp đối với dân

tộc. Bà đã làm tròn thiên chức cao cả của một người mẹ hiền, một người vợ đảm.

Đó là một bài học muôn đời đối với phụ nữ nước ta và cũng là một nhân tố cao cả

giúp Huỳnh Thúc Kháng sống và làm việc trọn đời một người chiến sĩ cách mạng

tuyệt vời của tranh đấu sử nước nhà.

Cá tính Huỳnh Thúc Kháng

Page 10: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

10

Huỳnh Thúc Kháng sinh ra và lớn lên trong một làng quê hẻo lánh thuộc

miền “nguồn” Tây Nam xứ Quảng. Xuất thân từ một nhà nông ở thôn quê trong

hoàn cảnh quê mùa, chung quanh đều rừng núi khô cằn. Thạnh Bình, một làng

“nguồn” phía Tây thành phố Tam Kỳ.

Ngày nay nhà nghiên cứu khoa học nhân văn muốn tìm thăm quê ông có

thể đi bằng đường bộ từ Sài Gòn ra hoặc từ Hà Nội vào. Chúng ta có thể nghỉ

chân tại thành phố Tam Kỳ rồi ngược lên hương lộ DT 616 ( trước là liên hương

lộ số 9) để đến “chợ huyện” Tiên Phước, hay qua ngã Suối Đá lên dốc Rơm. Rồi

từ đó ngược sông Tiên mới có thể thấy rừng quế, đồi tiêu, vườn chè Thạnh Bình

nơi sản sinh ra con người “Vườn chè”ấy.

Thạnh Bình là một làng dân cư thưa thớt, ruộng đồi chỉ chiếm một phần

nhỏ đất đai, còn bao nhiêu là rừng núi khô cằn. Nguồn lợi chính của huyện Tiên

Phước trong những năm về trước và ngay cả gần đây đều trong cậy vào các thổ

sản từ rừng núi mà có nhất là tiêu, quế, chè…Đây là miền cách trở mọi giao

thông liên lạc với bên ngoài, nhân dân phải sống lặn hụp trong cảnh “sơn lam

chướng khí”.

Từ khi mở mắt chào đời cho đến ngày nhắm mắt, Huỳnh Thúc Kháng vẫn

sống nguyên vẹn với sinh hoạt của quê hương ông, nghĩa là trong hoàn cảnh

“phác dã”.

Thạnh Bình là một làng như trăm làng khác của xứ Quảng, dầu cho ở đồng

bằng, duyên hải đều có những sinh hoạt phong tục tương tự. Quảng Nam là vùng

đất tương đối mới trong lịch sử Đại Việt. Nhưng đối với miền Nam thì cũ hơn.

Nơi đây là “địa đầu” của các tiên triều, là cửa ngõ để dòm ngó phương Nam. Đã

là cửa ngõ, đương nhiên người dân ở đây thấy trước mặt mình toàn là người

đương đi, chớ ít ai đứng lại quan sát, nhìn ngắm mình. Do vậy, con người xứ

Quảng ít khi nào thấy tâm hồn mình có thể thanh thản. Sự ngừng nghỉ đối với

dân Quảng Nam chỉ là một việc ảo tưởng. Thêm vào đó, phong tục đất đai…là

động cơ thúc đẩy người dân trong xứ phải làm việc, suy nghĩ cho hợp với hoàn

cảnh bên ngoài cũng như bên trong mới có thể hòa đồng được với thiên nhiên để

sống còn.

Thêm vào đó, ngay từ nhỏ ông phải ngày đêm chăm chú vào học khoa cử

với một khả năng thiên phú. Do đó, ông tự cho mình như thiếu tình cảm đẹp của

cuộc đời hiến tặng một cách tự nhiên. Nghĩa là cốt tính quê mùa, thô kệch ngay

thẳng có từ tro ng bào thai mẹ tại quê hương khô cằn đó. Như ông đã nói: “Tôi,

một anh học trò gốc sanh trưởng nhà nông nghèo trong thôn quê, đã là cái hoàn

cảnh phác dã thô vụng, khô khan quê kệch, gia dĩ trời phú ham mê về sự học, nữa

đời người tôi, ngoài văn sách vở ra gần như không có gì gọi là mỹ cảm”. Phan

Châu Trinh đã nhạo ông là “lão phác” và tặng ông một bức hoạt họa Huỳnh Thúc

Kháng:

“Khách lai vô thoại chỉ đam thư” ( Khách đến không nói chỉ mê sách)

Ngay từ thưở nhỏ ông đã ham chuộng Hán học, theo khuôn mẫu thánh hiền

Á Đông, cái tư tưởng khắc khổ của ba nguồn học thuyết (Nho, Phật, Lão) ngày

đêm thường tiếp xúc. Cái công “khắc kỉ” thật là sâu dày nên lí trí nhiều khi lấn áp

cả tình cảm thường tình, lâu ngày thành thói quen.

Page 11: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

11

Trong cuộc sống thường ngày ông cũng rất thận trọng, đa nghi và kiên

quyết

nghiêm trang với người cũng như đối với chính mình. Những cá tính ấy được bộ

lộ rõ rệt nhất là từ khi ông trở thành tù nhân sống 13 năm ở Côn Đảo và nhiều

năm tháng sau này. Khi trở thành dân biểu, chủ báo thì cá tính ấy càng trở nên

sâu sắc hơn, khi sống dưới chế độ có nhiều lừa mị. Cho nên trong việc dùng

người ông chỉ tin dùng toàn người xứ Nghệ, xứ Quảng hay người yêu nước, kẻ có

Hán học và biết kẻ đó không phản bội, hay kẻ lớn tuổi đã có nhiều va chạm với

thực tế cuộc đời.

Đối với hạng thanh niên ham chơi, theo Âu học một cách mù quáng, đó chỉ

là hạng “văn minh vỏ”. Ai có sống gần ông mới biết rõ ông là người khô khan,

không niềm nở dù cho khách thân hoặc sơ đến thăm, ông vẫn có một cảm tình tự

nhiên. Ít nói mà chỉ ngồi nghe người ta nói, cần lắm là cho ý kiến. Ai cần gặp ông

để hỏi chuyện gì, chưa chắc lần đầu ông đã trình bày đầy đủ. Nguyễn Thiệu Lâu

(1916-1967) một thời làm giáo sư tại trường Trung học Khải Định ( Quốc Học -

Huế) đến thăm ông, ông chỉ trình bày sơ qua vài câu chuyện thiết thực rồi nói: “

Ở tòa báo tôi bận nhiều việc vặt, không có thời gian nói chuyện lâu với ông. Xin

chờ dịp khác. Nếu tôi có duyên với ông, thế nào cũng có nhiều lần nói chuyện”.

Quả vậy, rồi sau hai người trở thành quen biết nhau nhiều và có lần

Nguyễn Thiệu Lâu trở thành nhân viên chính, thuộc cơ quan ông phụ trách. Khi

ông làm Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ, Nguyễn Thiệu Lâu giữu chức Vụ Trưởng Vụ

Kiều Hối Bộ Nội Vụ. Ngay trong thù tạc, ông cũng rất khô khan, chẳng niềm nở.

Nhiều khi chạm tự ái ông sẽ gắt, nhưng ai biết tính ông thì chẳng bao giờ hờn

giận một người nào.

Trong những nhu yếu hàng ngày, ông rất giản dị tiết kiệm. Nhiều người ở

tòa soạn báo Tiếng Dân kể lại việc ăn uống của nhân viên cũng như của gia đình

rất kham khổ, bữa ăn đạm bạc, cơm cá bình thường và thường xuyên có rau

muống, muối mè. Nhiều người hỏi vì sao ông ăn uống kham khổ vậy, ông trả lời:

“ còn sướng hơn ở tù nhiều”. Vả lại còn tiền để dành giúp người lỡ đường, hoặc

người ở Nghệ vào, người ở Quảng ra, nhất là giúp cụ Sào Nam Phan Bội Châu.

Sống giữa kinh đô Huế làm Viện trưởng “Nhân dân đại biểu”, chủ nhiệm

tờ báo tiếng tăm, nhiều khi nhận được giấy mời dự một bữa tiệc hay dạ hội ông

đều từ chối, nếu không thì nhờ người khác đi thay mình. Vì ông ít thích tới đám

đông tuy lòng vẫn muốn chỗ đông người và nhất là ông không uống rượu. Việc

tiết kiệm, giản dị của ông vừa trong phục sức, ăn uống. Ngày nào cũng như ngày

ấy, vẫn chiếc quần trắng áo dài đen với chiếc dù lớn, đi bộ từ nhà riêng tới trụ sở

tòa báo ở đường Đông Ba và chẳng bao giờ ông chú tâm đến cách ăn mặt. Nhiều

khi ra đường quần ống cao, ống thấp đến nỗi ông còn dùng chiếc mũ nỉ mang từ

Côn Đảo về.

Không những thế, suốt đời ông dù cho thực dân và tay sai cám dỗ, mua

chuộc ông vẫn khư khư với “cốt tính’ sẵn có của mình. Không thèm chạy theo lợi

lộc, danh vọng như ông từng tâm niệm:

“Giàu sang lợi lộc đừng ham.

Chông gai cay đắng cũng cam một bề”

Tác phẩm

Page 12: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

12

Thi tù tùng thoại. (1939).

Thi tù thảo (bản thảo).

Thơ văn với thời đại, (1939).

Đê hải thi tập (bản thảo).

Thi văn các nhà chí sĩ Việt Nam (ký Phi Bằng) (1937).

Mính Viên cận tác (di cảo).

Phan Tây Hồ tiên sinh lịch sử (1957).

Xã túc tập (bản thảo).

Huỳnh Thúc Kháng niên phổ (1962).

Gia đình giáo dục (bản dịch - 1937).

Bức thư gởi Cường Để (1957).

Cuộc khởi nghĩa Duy Tân (bản thảo)

Và rất nhiều thơ chữ quốc ngữ, chữ Hán có giá trị.

Sinh thời tâm chí ông biểu lộ rõ trong bài cảm khái lúc đi đày về: (bản dịch).

“Nợ bầy đeo đuổi giục bên người,

Chả để nằm yên xó góc trời.

Biển Bắc dê cùng chung mấy độ,

Nhành Nam chim sẵn ổ muôn đời.

Rừng sâu với quế ca xăng xái,

Hang thẳm tìm lan dạo thảnh thơi!

Rốt cuộc máu lòng tìm chỗ dốc,

Sử xanh núi biếc rưới cùng nơi”.

Đến lúc nước nhà giành được độc lập tự do, ông ra tham chính. Mừng xuân năm

1947, đôi liễn của ông cũng nói lên tấc lòng yêu nước thương dân chí thiết.

“Trẻ lại với xuân, nước tổ bốn ngàn năm lịch sử;

Đứng lên làm chủ, quyền người hai chục triệu dân sinh”.

Tác phẩm của ông gồm các lĩnh vực sau:

Thi tù tùng thoại (nguyên ông viết bằng chữ Hán ở Côn Đảo, khi được trả

tự do sách bị tịch thu và đốt, sau về Huế, ông chép lại theo trí nhớ và dịch ra tiếng

Việt), trong đó, chúng ta sẽ bắt gặp nhiều tài liệu liên quan đến hoàn cảnh xã hội,

diễn tiến các phong trào yêu nước, cách mạng Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX. Đồng

thời cũng thấy được tư tưởng, tình cảm của các nhà yêu nước, cách mạng Việt

Nam; nhất là phong trào Đông du, Duy tân. Trong đó, tác giả thu thập những bài

thơ làm trong tù hay có liên quan đến thế giới tù (cả Việt lẫn Hán). Nếu là Hán

văn thì dịch ra Việt văn cùng ghi những tình cảm và nhận xét của mình.

Trong Lời nói đầu (Bản in 1939) tác giả viết:

“Thi có cùng mà sau mới hay” (cùng nhi hậu công) tin như lời nói xưa, thì

trên đời mà gọi là “cùng” không chi cùng hơn cảnh tù, đáng lẽ thơ của kẻ tù, lưu

truyền khá nhiều mới phải. Vậy mà xét trên lịch sử phương Đông, trên dưới ngàn

năm, duy có mấy bài của Lý Bạch lúc đày ở Gia Lăng, bài “ở trong ngục vịnh

con ve” của Lạc Tân Vương, bài “Chính khí ca” của Văn Thiên Tường, bài thi

“Vịnh lúc gần hành hình” của Dương Kế Thạnh, cùng ở nước ta thì bài “Trần

tình” của Cao Bá Nhạ. “Tờ khai” của Đoàn Trưng v.v... còn có truyền lại, ngoài

ra không thấy thi văn tù bao nhiêu. Trái lại; những lối uống rượu ngắm hoa,

trông trăng thưởng gió, cùng lối thi ứng thù tiêu khiển của bọn văn sĩ phong lưu,

Page 13: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

13

thôi thì đầy kho chật tủ, làm họa cho bản in không biết là bao!Trên thi sử xưa

nay, thừa bên này mà thiếu bên kia, nghĩa là thi phong lưu nhiều mà thi tù ít, là vì

lẽ gì? Không phải là trái với cái thuyết “cùng mới hay” kia sao? Như nói trong

đám tù tội không có bọn văn nhân thì ngục Đáng Cố nhà Hán, ngục Thanh Lưu

đời Đường, án Ngụy học đời Tống, án Đông Lâm Thục Xã đời Minh, bọn văn hào

thi bá mấy đời, co tay bó chân làm bạn với gông cùm xiềng bộng, cúi đầu nín

tiếng, ngồi than thở cái oai quyền vô thượng của bọn ngục quan và lính gác,

trước sau

nối gót, biết bao nhiêu người! Ai bảo rằng trong đám tù không có hạng văn hào

thi bá?

Theo sở kiến của tôi thì thi tù ít truyền bá là vì cớ này:

Ở phương Đông về thời đại quân chủ chuyên chế, tù là tội cả, không có

hạng tù quốc sự (chánh trị phạm) như phương Tây. Bởi thế nên đã vào tù, vô luận

là nhân cách lưu phẩm thế nào, người đời đều xem như vật ghê gớm đáng sợ; đã

là vật đáng sợ trong xã hội, tự nhiên cái người đã mang cái huy hiệu “tù”, công

chúng đều tránh xa; với người đó còn không dám lại gần, huống là thi với văn,

dầu có nghe thấy thi văn của họ, không dùng đậy hũ tương thì phú cho ngọn lửa.

Thi của kẻ tù ít truyền là vì thế. Âu triều truyền sang, phong khí đổi mới, chế độ

về thời đại chuyên chế, bị triều lưu văn minh dội quét gần hết, trên sử tấn hóa

mới của loài người, trong đám tù tội có cái tên gọi là “tù quốc sự” khác với

hạng tù thường, không những xã hội không bài xích như ngày xưa, mà trong có

hạng chí sĩ, nhân nhân, trở lại được người đời tỏ lòng sùng bái và khen ngợi, từ

đó mà thi tù mới truyền.

Ở Âu Mỹ không nói, nói riêng về phương Đông như sử duy tân khẳng khái

của Nhật Bản, cách mạng sử của Trung Hoa sau cuộc Mậu tuất chánh biến, ở

trong chép nhiều thi của bọn tù, không sao kể hết. Nước ta sau cuộc dân biến

năm 1908 về sau có nhiều thi của tù, chính là theo lệ chung đời mới nói trên.

Chuẩn theo lẽ ấy, tức gọi rằng thi tù mở một cái màn mới trong văn giới cùng đi

với công lệ tấn hóa cũng không phải là quá đáng. Độc giả để ý xem” (M.V).

Thi văn với thời đại là một thi tuyển của các nhà chí sĩ Việt Nam trong

công cuộc Cần vương chống Pháp. Tác phẩm này, soạn giả góp nhặt một số thơ

văn (phần lớn là Hán văn) của các quan lại, nhà khoa bảng, nhà yêu nước thuộc

các phong trào Cần vương, Văn thân, rồi dịch ra Việt văn, có thêm lời chú thích;

nhất là những lời nhận định và phê bình xác đáng của ông.

Thi văn các nhà chí sĩ Việt Nam, ông cũng sưu tầm dịch thuật một số thơ

văn của các nhà thơ, nhà văn, nhà yêu nước trong các phong trào Cần vương, Văn

thần, Đông du, Duy tân. Theo đó, ông có lời phê bình nhận xét rất xác đáng về

các văn phẩm ấy.Đọc qua hai tác phẩm ngắn này, người đọc sẽ thấy được tư

tưởng tình cảm của các nhà yêu nước; đồng thời cũng rõ được lịch trình chống

ngoại xâm của nhân dân ta hồi cuối thế kỷ trước (XIX) và đầu thế kỷ XX.

Tuồng Trưng vương bình ngũ lãnh là một vở tuồng ngắn, ngắn hơn cả

một đoạn văn; nhưng ý tưởng và chủ đích của nó rất lớn. Đọc nó, người đọc còn

bắt gặp chủ nghĩa yêu nước, lòng thương yêu nòi giống, tư tưởng bình quyền,

bình đẳng... Nhất là tinh thần tự cường, độc lập, tự tôn dân tộc trong lịch trình tư

tưởng của dân tộc Việt Nam từ thời dựng nước đến cận đại.

Page 14: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

14

Bên cạnh đó, ông còn ba tập thơ chữ Hán:

Thi tù thảo nói về sinh hoạt tù ở Côn Đảo. (bản chép tay).

Đê hải thi tập (nt)

Xà túc tập (nói về sinh hoạt thơ văn trong đời sống xã hội). Riêng hai tập

thơ này chúng tôi chỉ thấy ghi đề và các bài tựa của Tiểu Mai và Mặc Si (nay đã

thất lạc).

Mính Viên cận tác: gồm một số thơ chữ Hán và Quốc ngữ một phần đã

đăng trên báo Tiếng Dân. Gia đình giáo dục (1937) nhà in Tiếng Dân Huế (dịch).

Ngoài các tập thơ trên, chúng ta còn thấy, Huỳnh Thúc Kháng niên phổ

(hay tự truyện). Đây là một tập tự truyện (bằng chữ Hán) về đời mình. Trong tác

phẩm này ông ghi những biến cố cá nhân có liên quan với lịch sử nước nhà từ

khi Pháp chiếm nước ta đến năm 1942. Ở đây, chúng ta còn bắt gặp nhiều sự kiện

lịch sử đáng chú ý. Đây là một tập tự truyện về đời tư ông do chính ông viết khá

đầy đủ và chính xác.

Sử học

Độc giả còn bắt gặp Huỳnh Thúc Kháng là một sử gia. Một sử gia yêu

nước, cách mạng, nhưng không bao giờ bị định kiến chi phối, hoặc có cái nhìn sai

lầm bởi ý thức chính trị của mình.

Cuộc cự sưu ở Trung Kỳ năm 1908 Nguyên văn tác giả viết bằng chữ

Hán với nhan đề: “Trung Kỳ cựu sưu ký”. Trong đó, ông ghi lại sự việc, lịch trình

của biến cố trọng đại năm 1908 bộc phát ở Quảng Nam. Từ ngày đầu cho đến khi

thực dân và Nam triều đàn áp trắng (từ Thanh Hóa đến Bình Thuận) với đầy đủ

các chi tiết, các nhân vật có liên hệ đến phong trào đã bị thực dân thủ tiêu, lưu

đày... Tuy (ông) là người trong cuộc và dẫn đạo, được ông viết theo cái nhìn chủ

quan, nhưng lại rất khách quan trong việc quan sát thực tại. Ông không hề thêm

một chi tiết nhỏ nào (phần này, chúng tôi đã khảo chứng với các tư liệu khác có

liên quan đến biến cố, nhất là “Trung kì dân biến thỉ mạt kí” của Phan Châu

Trinh) đã trở thành một

tác phẩm giá trị.

Cuộc khởi nghĩa Duy Tân là một bản lược sử về quá trình cuộc khởi

nghĩa của vua Duy Tân do Thái Phiên và Trần Cao Vân chủ động. Sử liệu này

được ông tham khảo các tài liệu có liên quan đến biến cố và các nhân vật ở Huế

vào thời đó; chứ ông không trực tiếp tham dự haychứng kiến (vì thời gian này

ông đang ở Côn Đảo).

Bức thơ gởi Kỳ ngoại hầu Cường Để là một quyển sử lược 80 năm vong

quốc. Bằng thư này, Huỳnh Thúc Kháng ghi lại tất cả thực trạng xã hội Việt Nam

hơn 80 năm sống dưới ách chuyên chế, một cổ hai tròng cùng mọi bịp bợm, lừa

dối của thực dân mà dân ta phải gánh chịu. Nội dung tác phẩm, ông còn “trả lời

khéo” sau những “câu hỏi khéo” do Nhật ủy thác cho Cường Để muốn ông làm

công việc “sào mũi”, “liên lạc”. Trong đó, đôi đoạn ông tỏ vẻ lạc quan, nhưng

cũng không quên nhắc đến sự thật khi quân Nhật đặt chân đến Đông Dương thì

cái hiện tượng đế quốc hiện ra rõ ràng “Hoàng quân đặt chân đến xứ này đã hai

năm mà cái khoảng giữa nhân dân Việt Nam cùng Hoàng quân gần trong gang

tấc mà cách xa như mấy lớp đèo ải núi non, khoảng ngăn rẽ ấy vạch một địa giới

Hồng Câu không vượt qua được”.

Page 15: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

15

Đọc kỹ bức thư ấy ta thấy tuy ông có vẻ lạc quan, nhưng ông luôn luôn

hoài nghi thái độ, chính sách của quân phiệt Nhật, nhất là việc bức thư của Cường

Để, hơn nửa năm sau mới tới tay ông. Việc đó sau này ông còn nhắc lại trong Bức

thư trả lời chung để phản đối chính sách duy trì hiện trạng Đông Dương. Cho

nên, nếu quả thực Cường Để có uy tín, thực lực thì hãy lấy danh nghĩa, dùng quân

lực để đánh đổ hiện trạng, tự mình thiết lập chính quyền tự trị có thực chất? Bức

thư vì vậy được gửi đi không có một dư luận hoặc biến cố gì do Nhật và Cường

Để đem lại.

Bức thư trả lời chung là một cuốn sử gọn hơn, đầy đủ hơn Bức thư gởi

Cường

Để. Bằng bức thư ấy ông viết một bản cáo trạng lên án chế độ thực dân và mọi

chính sách tàn ác dã man nhằm tiêu diệt dân tộc này. Cùng nói rõ lý do không thể

nào ông cộng tác được với người Nhật, nhất là đối với chính sách “Đại Đông Á”

của Nhật Bản. Bức thư đã gây nên dư luận sôi nổi lúc bấy giờ.

Tiếp đó ông còn viết một tác phẩm cùng chủ đích Một ít dật sử trên đoạn

sử Việt Nam cách mạng trong thời kỳ Pháp thuộc (1885-1945). Tập này chưa

xong thì ông ra Hà Nội nhận nhiệm vụ mới, nên tác phẩm còn dở dang, và nay đã

thất lạc (?).

Ngoài các sách về sử học nêu trên, Huỳnh Thúc Kháng còn viết Phan Tây

Hồ tiên sinh lịch sử về cuộc đời của nhà chí sĩ Phan Châu Trinh. Đây là một

quyển sử biên niên về nhà thơ Tây Hồ, từ khi Phan Châu Trinh chào đời cho đến

ngày nhắm mắt. Nguyên, sách này ông viết từ năm 1926 tại Thạnh Bình, huyện

Tiên Phước khi Phan Châu Trinh qua đời, sau đó ông trao sách này lại cho con

gái và con rể Phan Châu Trinh để làm kỷ niệm (bà Phan Thị Châu Liên và ông Lê

Ấm).

Sau này gia đình ông Lê Ấm có cho in trong Giai nhân kỳ ngộ vào năm

1958 do nhà xuất bản Hướng Dương Sài Gòn xuất bản. Đến năm 1959 nhà xuất

bản Anh Minh (Huế) có cho in lại thành một quyển riêng với đầu đề như trên.

Đây là một quyển lược sử về cuộc đời hoạt động của Phan Châu Trinh rất súc tích

và chính xác.

Bên cạnh đó, chúng ta còn thấy Huỳnh Thúc Kháng là một dịch giả rất xuất

sắc. Ông dịch rất nhiều cả thơ lẫn văn, nhất là thơ. Thơ của ông cũng như thơ của

tác giả khác. Hầu hết thơ, câu đối trong Thi văn với thời đại, Thi văn của các nhà

chí sĩ Việt Nam, Thi tù tùng thoại, Lương ngọc danh sơn phú, Toàn quốc đồng

bào phụ lão kháng chiến thư, Bức thư gởi Cường Để...đều do ông dịch, mà các

bản dịch này rất đạt, và chính xác.

Sau này (1945), chúng ta còn thấy Huỳnh Thúc Kháng tiếp tục dịch các tác

giả nước ngoài, nhất là bản dịch Xã hội tư tưởng sửcủa Từ Dật Tiều (theo tài

liệu của ông Anh Minh). Sách gồm bảy chương:

Chương 1: Nông nghiệp công trường.

Chương 2: Tinh thần chủ nghĩa xã hội cận đại.

Chương 3: Chủ nghĩa xã hội không tưởng.

Chương 4: Các nhà xã hội không tưởng: Charles fournier, Robert Owen và Saint

Simon.

Chương 5: Khái niệm về chủ nghĩa xã hội khoa học.

Page 16: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

16

Chương 6: Đời sống cùng trứ tác của Karl Marx.

Chương 7: Chủ nghĩa xã hội với trật tự xã hội.

Cùng với Lời nói đầu (của người dịch) và bài tựa (của tác giả), ông nêu rõ

mục đích dịch là “Thiếu các món sách thiết thực với nhân sinh, nói cho rõ là xã

hội học cùng sách tư tưởng xã hội, thật là một khuyết điểm rất lớn (...). Kẻ lược

dịch bản sách Xã hội tư tưởng sử bản ý không chi khác hơn là muốn cho nguồn

tư tưởng xã hội chóng phổ cập theo triều lưu chung cả dân tộc trên thế giới (...)

sách này dành cho số đông phổ thông quần chúng, không có thì giờ và công phu

làm thang bước đầu mở đường chỉ lối (...). Độc giả muốn hiểu rõ nguồn gốc, tư

tưởng xã hội khoa học cho đầy đủ cần phải nghiên cứu học thuyết Mác Ăng Ghen

cho đến nhà thực hành Lê Nin...”.

Cuốn sách có ưu điểm là trích dẫn nhiều tác phẩm của Mác và Ăng Ghen

để cho độc giả tiếp thu trực tiếp chủ nghĩa xã hội khoa học. Cảm tình của người

dịch đối với Mác và Ăng Ghen là điều dễ nhận thấy khi chúng ta đọc qua lời nói

đầu cùng toàn bộ bản dịch. Điều đó được ông nhắc: “Mã Khắc Tư (Karl Marx)

trọn đời tận tụy với chủ nghĩa vĩ đại, kiên quyết sáng suốt cho đến ngày chết mà

không thôi. Ông có người bạn thân thiết là Ân Cách Nhĩ (Engel), cùng một định

kiến, định lực như nhau, nối theo hoàn thành công việc trứ tác dở chừng của họ

Mã (...) Mã Khắc Tư cùng Ân Cách Nhĩ (hai ông tổ của khoa học xã hội) là hai

bạn thâm giao trọn đời khởi đầu từ tờ Đức Pháp niên báo, từ đó hai người trọn

đời dâng mình cho chủ nghĩa xã hội”.

Báo chí Huỳnh Thúc Kháng đã mở đường ngôn luận đầu tiên ở miền Trung và tờ

Tiếng Dân (1927-1943) trở thành cơ quan ngôn luận làm theo thực dân vừa lo,

vừa sợ, và cũng rất ác cảm với báo. Tiếng Dân là tờ báo ra đời sớm nhất và sống

lâu năm nhất (1927-1943) ở Trung Kỳ.Đó là một tờ báo đứng đầu, và uy tín nhất

của Việt Nam vào thời mất nước.

Nguồn: http://donghuongtienphuoc.com/que-huong/ch%C3%AD-s%C4%A9-

hu%E1%BB%B3nh-th%C3%BAc-kh%C3%A1ng

Page 17: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

17

HƯỚNG ĐẾN KỶ NIỆM 140 NĂM NGÀY SINH CỤ HUỲNH THÖC KHÁNG

Nhân cách Huỳnh Thúc Kháng

LTS: Hôm nay 23.9, tại Hà Nội, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì phối hợp với Ban

Tuyên giáo Trung ương và Tỉnh ủy Quảng Nam tổ

chức Hội thảo khoa học “Huỳnh Thúc Kháng với

cách mạng Việt Nam và quê hương Quảng Nam”.

Đây là sự kiện mở đầu chuỗi các hoạt động kỷ niệm

140 năm Ngày sinh cụ Huỳnh Thúc Kháng (1.10.1876

- 1.10.2016). Báo Quảng Nam xin giới thiệu bài viết

của PGS-TS. Ngô Văn Minh về nhân cách cụ Huỳnh

Thúc Kháng; đồng thời từ số báo này, Tòa soạn sẽ

mở thường xuyên chuyên mục về cuộc đời, sự nghiệp

của cụ Huỳnh với sự tham gia của các nhà nghiên

cứu, nhà báo trong và ngoài tỉnh.

Nghèo khó không nản chí

Trong “Tự truyện” cụ Huỳnh có nói đến hoàn cảnh nhà nghèo, nghèo đến

mức không đủ tiền mua sách để đọc, lại phải đi học thầy ở những nơi rất xa,

nhưng không vì thế mà nản chí học tập. Mới 12 tuổi đã phải trải qua đủ mùi đắng

cay” do “hoàn cảnh bách biến, gia tình ngàn mối, quỷ dịch quấy nhiễu…”, nhưng

Huỳnh Hanh (tên lúc nhỏ của cụ Huỳnh) vẫn cố công đèn sách để đến năm 16

tuổi lều chõng ra Huế dự thi Hương, đỗ tú tài, khiến người đến xem “đông như

kiến ổ”. Năm 25 tuổi, với tên mới là Huỳnh Thúc Kháng, cụ đi thi Hương đỗ

đầu cử nhân, được người đương thời xếp vào “Tứ Hổ” của giới sĩ tử tỉnh nhà.

Năm 29 tuổi, vào thi Hội lại đỗ đầu (Hội nguyên). Như vậy, Huỳnh Thúc Kháng

đã đỗ song nguyên (Hương nguyên và Hội nguyên). Nho học ở Quảng Nam chỉ

có cụ và trước đó là cụ Phạm Phú Thứ đạt được danh hiệu này. Đến khi vào thi

Đình, Huỳnh Thúc Kháng đỗ tam giáp đồng tiến sĩ.

Với Huỳnh Thúc Kháng, học trước hết là để đáp ứng ý nguyện của gia

nghiêm “làm người dân biết chữ trong làng”, cao hơn nữa là để đem kiến thức ra

giúp ích cho đời, để “làm cho hết nghĩa vụ một người đối với nhân quần xã hội”.

Cụ cảnh tỉnh cho những ai “Nếu mới cắp sách đến trường mà trong não đã mơ

tưởng đến chức kia hàm nọ, thấy người ta xuống ngựa lên xe, mà cũng ước ao

cho được cửa cao nhà rộng, thì cái bã hư vinh, cái mồi phú quý ấy chắc không sao

nhắc ta lên cái địa vị làm một người chân chính ở đời được. Vậy ai muốn khỏi cái

tiếng hư vinh thì cần phải “học để làm người” (Tiếng Dân, 17.5.1930).

Quen với cuộc sống nhà nông nghèo, phác dã thuở thiếu thời nên đến khi

đã ra Huế làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung kỳ, rồi Chủ bút Báo Tiếng Dân,

Huỳnh Thúc Kháng vẫn giữ cho mình cuộc sống thanh bần, chất phác. Cụ đứng

ra lập Công ty Huỳnh Thúc Kháng nhưng chẳng có đồng nào góp vốn mà phải

nhờ những người có nhiều cổ phần cho mượn để có điều kiện hợp pháp đứng tên

trong nhóm sáng lập. Nhà cụ tại Huế đơn sơ, không sẵn giường chiếu sang, ăn

uống chỉ rau muống, muối mè, nước mắm. Cụ trang phục giản dị, đến mức cộng

Page 18: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

18

sự của cụ là ông Anh Minh cho rằng “khi gặp ngoài đường, nếu ai không biết cụ,

thấy cái vẻ lài xài, quần nhàu bấn, ống cao ống thấp, đội cái mũ dạ cũ rích,

không khỏi cho là ông lão nhà quê nào!”.

Căn nhà nơi cụ Huỳnh sống những ngày cuối đời ở Quảng Ngãi. Ảnh:

L.QUÂN

Giàu sang không xiêu lòng

Gia sản của cụ chẳng giàu có gì, chỉ là mấy sào ruộng và ngôi nhà tranh

được người vợ tảo tần lợp lại mái ngói. Nhất là khi mới ra tù Côn Đảo về lại quê

nhà, phải sống cảnh “Nửa cánh cửa tre bàn lấp bụi/ Một vuông vườn quế cỏ thành

cồn” (Thi tù tùng thoại), thế mà cụ vẫn chối từ làm việc ở Viện Viễn Đông Bác

Cổ với mức lương tháng khá hậu hĩnh do chính quyền thực dân đưa ra, bởi cụ

nhất quyết “Giàu sang lợi lộc đừng tham/ Chông gai cay đắng cũng cam một bề”.

Cụ quan niệm sự nghiệp to lớn của một con người phải ở chỗ xem lời nói và việc

làm trong đời mình có giúp ích được gì cho nhân quần xã hội hay không, mình có

làm được ba cái “bất hủ” (không tiêu diệt được) là lập đức, lập công và lập ngôn

với đời hay không, còn như “chỉ giàu sang suông, không phải là sự nghiệp”

(Tiếng Dân, 22.2.1933).

Chính với quan niệm sống như vậy nên thời gian làm chủ nhiệm kiêm chủ

bút báo Tiếng Dân, nếu chấp nhận đăng những bài quảng cáo sai sự thật, hay in

sổ sách giấy tờ công sở mà Tòa Khâm sứ Pháp ở Trung kỳ muốn giao cho (trong

khi các nhà in khác phải qua đấu thầu) thì sẽ tăng thêm thu nhập, nhưng Huỳnh

Thúc Kháng vẫn lấy cớ “nhà in không đủ sức” để khước từ. Cụ khẳng quyết nhà

báo không phải nơi làm giàu. Đầu năm 1946, biết tin cụ vừa từ Huế ra Hà Nội

theo lời mời tham gia Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nguyễn Hải Thần

liền mở tiệc mời cụ đến dự và đặt vấn đề Việt Nam Cách mạng đồng minh hội sẽ

Page 19: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

19

lo chỗ ở cho cụ là một biệt thự sang trọng, có người hầu hạ, nhưng liền bị cụ

khước từ. Nhìn thấy Nguyễn Hải Thần với vợ Tàu, bàn đèn, thuốc phiện, cụ ngao

ngán nói với người thư ký của mình: “Làm cách mạng sướng thật! thấy bàn đèn,

thấy mụ vợ Tàu trẻ, tự nhiên hết tin tưởng”.

Ngược lại, khi nghe ông Nguyễn Xương Thái trình bày lời căn dặn của Chủ

tịch Hồ Chí Minh: “Chú thưa với cụ Huỳnh, khi xưa làm quan là hưởng đỉnh

chung, bây giờ chúng ta làm việc cho dân, cho nước, gọi là công bộc”, và “cụ

Huỳnh đã hy sinh nhiều, xin cụ hy sinh thêm” thì cụ nói: “Từ bữa ra đây đến nay

thấy công việc quá nhiều và thương Cụ Hồ quá vất vả. Đành rằng mình vẫn một

lòng với cụ, chớ nhận Bộ trưởng thì Tiếng Dân sẽ ra sao?”. Ông Nguyễn Xương

Thái trả lời “Tiếng Dân phải có ban quản trị mới thay cụ” thì cách mấy ngày sau

cụ đồng ý giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ Liên hiệp lâm thời

(Hồi ký của ông Nguyễn Xương Thái), sau đó là Chính phủ Liên hiệp kháng

chiến thành lập ngày 2.3.1946 tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I nước Việt

Nam Dân chủ cộng hòa.

Uy vũ không khuất phục

Bản tính cụ Huỳnh ngay thẳng, cương trực, ghét dua nịnh, không sợ cường

quyền áp chế. Cái tính ngay thẳng của cụ biểu lộ ở cả những cử chỉ nhỏ nhất

trong sinh hoạt hàng ngày, đến cắt một quả chanh cũng không bao giờ cắt xiên,

bởi như cụ nói: “Đời tôi không biết xiên!”.

Thực dân Pháp tưởng có thể đem tù tội giam cầm ra khuất phục ý chí của

Huỳnh Thúc Kháng, nhưng chúng đã thất bại. Tháng 3.1908, nhân đàn áp phong

trào xin sưu khất thuế ở Quảng Nam, để phòng bất trắc Pháp cho cả một lực

lượng quan quân gồm viên đề đốc tỉnh, 2 viên quan đồn binh Pháp, lại đèo theo

20 lính tập chia đường kéo đến làng Thạnh Bình bắt cụ, nhưng cụ vẫn giữ “thái

độ thản nhiên, cười nói như thường” (Tự truyện).

Chính sự ngay thẳng, không sợ cường quyền áp chế của cụ Huỳnh đã làm

giới cai trị Pháp ở Trung kỳ, và cả giới cai trị Pháp ở Đông Dương nhiều lúc phải

nổi xung, nhưng không thể khuất phục được cụ. Viên Toàn quyền Pasquier vừa

có bài diễn văn ở Paris liền bị Huỳnh Thúc Kháng cho đăng một loạt bài trên báo

Tiếng Dân chỉ ra những sai lầm, sai trái của y. Tiếp sau Pasquier, Varenne,

nguyên Toàn quyền Đông Dương đọc bài diễn văn tại Hạ nghị viện Pháp cũng bị

Huỳnh Thúc Kháng đăng bài phản bác từng ý một. Khi viên Bộ trưởng Bộ Thuộc

địa Pháp Paul Reynaud sang Đông Dương, Huỳnh Thúc Kháng liền có bức thư

dài chỉ ra những cái “biến” (hay là “một cuộc rối loạn”) trong đời sống chính trị ở

xứ thuộc địa này, gồm sĩ biến, nông biến, thương biến, công biến, phụ nữ biến,

quý tộc biến, quan trường biến, như là một sự cảnh cáo đối với chính sách cai trị

của Pháp.

Vừa làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung kỳ, Huỳnh Thúc Kháng đã đưa

ra yêu sách đòi quyền dân chủ, vạch trần thủ đoạn mỵ dân của Pháp, khiến cho

bầu không khí giữa Viện với phía chính quyền “bảo hộ” Pháp ngày một căng

thẳng. Quyền Khâm sứ Trung kỳ D‟Elloy ra thông tư gửi cho Viện cấm dân biểu

bàn việc chính trị, trong đó có nhiều lời mạt sát, chửi mắng, khiến cho các dân

biểu rất tức giận. Lập tức y bị Huỳnh Thúc Kháng lấy tư cách Viện trưởng triệu

tập một cuộc họp toàn Viện gồm 42 nghị viên đồng ký tên vào bản phản kháng,

Page 20: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

20

vạch từng đoạn trong thông tư, lại gửi cho các báo trong Nam ngoài Bắc đăng tải,

đến mức dư luận đương thời gọi đây là vụ “D‟Elloy – Huỳnh Thúc Kháng”.

D‟Elloy bị triệu về Pháp, viên Toàn quyền Pasquier phải mời ban trị sự của Viện

đến xoa dịu. Đến năm 1928, trong phiên họp của Viện, Huỳnh Thúc Kháng lại

đọc một bài diễn văn nảy lửa chỉ ra cái “khổ trạng” không thể nói hết của nhân

dân Trung kỳ. Khi những yêu cầu đưa ra đều bị viên Khâm sứ Jabouille cự tuyệt,

Huỳnh Thúc Kháng liền phản kháng quyết liệt bằng cách gửi đơn từ chức, một số

nghị viên đồng tình với vị Viện trưởng cũng tuyên bố rời khỏi Viện. Báo chí lại

một phen đưa tin về vụ “Huỳnh Thúc Kháng – Jabouille”.

Mặc dù chịu sự kiểm duyệt gắt gao của Sở Liêm phóng chính trị nhưng

trên báo Tiếng Dân cụ Huỳnh vẫn viết và cho đăng những bài báo phê phán chính

sách cai trị của Pháp. Đáp lại lời hăm dọa của viên khâm sứ Jabouille “Từ nay ai

nói đến vấn đề lập hiến sẽ nghiêm trị”, Huỳnh Thúc Kháng liền cho đăng luôn cả

10 số trên báo Tiếng Dân về thuyết lập hiến mà mình chủ trương. Cũng trên

Tiếng Dân, cụ thẳng thừng tuyên bố “Sự đắc thắng của cường quyền chỉ là tạm

thời”, và vạch trần chính sách độc tài chuyên chế của chính quyền thực dân

(Tiếng Dân, 18.11.1931). Với những bài bị kiểm duyệt cắt bỏ, chủ bút Huỳnh

Thúc Kháng không chịu biên tập lại cho liền mạch văn hoặc viết thêm vào cho

đầy cột mà yêu cầu công nhân sắp chữ để nguyên một ô trống tương ứng trên

khuôn báo nhằm tố cáo chế độ kiểm duyệt hà khắc của Sở Liêm phóng chính trị

Pháp tại Trung kỳ. Giữ lấy cái quyền “không nói những điều người ta ép buộc

nói”, Huỳnh Thúc Kháng tìm cách tránh không ủng hộ những chủ trương của nhà

cầm quyền Pháp có hại cho nhân dân, kể cả bài soạn sẵn của Phòng Thông tin

tuyên truyền Trung kỳ của Pháp gửi đến cụ cũng khước từ việc đăng tải. Cụ cũng

kiên quyết không để cho bài báo của mình bị Sở Liêm phóng chính trị Trung kỳ

dùng cái quyền kiểm duyệt để lợi dụng. Đỉnh điểm của sự phản kháng này là việc

cụ chấp nhận để Tòa soạn bị đóng cửa chứ không chịu đăng bài viết của mình đã

bị Sogny, Chánh mật thám kiêm luôn quyền trưởng phòng kiểm duyệt cắt sửa

theo ý của y.

Nhân cách của Huỳnh Thúc Kháng hội đủ những phẩm chất của một người

quân tử, một đại trượng phu “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ

bất năng khuất”. Cụ Huỳnh đã để lại một bài học, một tấm gương về nhân cách

sống của mỗi người, nhất là đối với kẻ sĩ.

PGS-TS. NGÔ VĂN MINH

http://baoquangnam.vn/dat-va-nguoi-xu-quang/nha-vat/201609/huong-den-ky-

niem-140-nam-ngay-sinh-cu-huynh-thuc-khang-nhan-cach-huynh-thuc-khang-

700363/

Page 21: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

21

HUỲNH THÖC KHÁNG - MỘT ĐỜI CÙNG VẬN NƯỚC - KỲ 1:

KẺ SĨ ĐẤT QUẢNG

TT - Những ngày này, khi sống lại với không khí của 70 năm trước, không thể

không nhớ tới “cụ Huỳnh” như cách gọi của quốc dân đồng bào thuở ấy.

Đọc lại những gì cụ Huỳnh viết, cụ Huỳnh làm, lòng chợt bừng thức những

cảm hứng đất nước truyền từ cụ Huỳnh!Những dòng viết này như để tưởng nhớ

nhân ngày sinh của chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng: 1-10-1876.

Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành lập năm 1945, vị nhân sĩ đất

Quảng ở tuổi 70 vẫn tận lòng vị quốc, nhận lời làm bộ trưởng Bộ Nội vụ trong

Chính phủ Hồ Chí Minh. Ngày 31-5-1946, Hồ Chủ tịch sang Pháp đàm phán, cụ

Huỳnh được tin cậy trao quyền Chủ tịch nước.

Thanh gươm và tấm bản đồ Việt Nam

Ngày giỗ Tổ Hùng Vương năm trước, nhân chuyến công tác lên miền tây

Quảng Nam, khi qua Tiên Phước chúng tôi không thể không ghé nhà lưu niệm cụ

Huỳnh để dâng nén nhang tưởng nhớ cụ.

Mảnh vườn xưa qua bao dâu bể vẫn lưu dấu qua những dáng cây sau nhà,

giậu chè tàu trên lối vào mướt xanh trong nắng sớm.

Nhắc đến ngày giỗ Tổ, bởi gần 70 năm trước, ngày giỗ Tổ Hùng Vương

đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, cụ Huỳnh thay mặt quốc dân đồng

Page 22: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

22

bào làm chủ tế, lễ vật dâng lên Quốc tổ Hùng Vương là một thanh bảo kiếm và

tấm bản đồ nước Việt, đó là ngày 10-3 âm lịch năm 1946.

Khi ấy, giặc Pháp đã quay lại tái chiếm Nam bộ, đất nước chuẩn bị bước

vào cuộc kháng chiến trường kỳ ác liệt.

Hai báu vật mà cụ Huỳnh thay mặt Chính phủ dâng lên trong ngày giỗ tổ

cũng là lời hứa trước anh linh tiên tổ quyết tâm giữ gìn trọn vẹn cõi bờ giang sơn.

Có phải thế chăng mà gần chín năm sau, khi cuộc kháng Pháp kết thúc thắng lợi

với chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày 19-9-1954 Hồ Chủ tịch khi nghỉ tại đền

Giếng đã gặp các chiến sĩ đại đoàn Quân tiên phong (đại đoàn 308) với lời dặn dò

bất hủ: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy

nước”.

Từ thanh gươm cụ Huỳnh dâng lên trong lễ giỗ Tổ Hùng Vương đến ngày

Hồ Chủ tịch gặp và dặn dò đoàn quân chiến thắng cũng tại đền Hùng, dường cả

hai câu chuyện đều muốn nhắn nhủ với hậu thế về một xúc cảm thiêng liêng và sự

đồng cảm giữa hai con người của thời cuộc.

Cũng chính vì thế mà khi cụ Huỳnh mất, Hồ Chủ tịch - có lẽ là lần đầu tiên

và duy nhất - đã có thư gửi cho quốc dân đồng bào:

“Hỡi đồng bào yêu quý, vị chiến sĩ lão tiền bối Huỳnh Thúc Kháng, bộ

trưởng Bộ Nội vụ và hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân, vừa tạ thế.

Trước sự đau xót đó, Chính phủ ta đã ra lệnh làm quốc tang. Nhân dịp này,

tôi có vài lời báo cáo cùng đồng bào. Cụ Huỳnh là một người học hành rất rộng,

chí khí rất bền, đạo đức rất cao. Vì lòng yêu nước mà trước đây cụ bị bọn thực

dân làm tội, đày ra Côn Đảo.

Mười mấy năm trường gian nan cực khổ nhưng lòng son dạ sắt, yêu nước

thương nòi của cụ Huỳnh chẳng những không sờn lại thêm kiên quyết”.

Đại diện báo Tuổi Trẻ thắp hương tại nhà lưu niệm cụ Huỳnh ở Tiên Phước

(Quảng Nam) - Ảnh: Tấn Vũ

Page 23: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

23

Khởi hành cùng Tiếng Dân

Từ cậu học trò Huỳnh Hanh nổi tiếng thông minh hay chữ, rồi thành ông

tiến sĩ Huỳnh Thúc Kháng vào năm 1904, ở tuổi 28, lẽ ra đường hoạn lộ khởi đầu

từ khoa cử của thời buổi ấy sẽ mở ra với Huỳnh Thúc Kháng.

Nhưng không! Chàng trai đất Quảng ấy chọn con đường đứng về phía nhân

dân đang rên siết dưới gông xiềng nô lệ.

Cùng với Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng đã dấy lên

phong trào Duy Tân mà đỉnh điểm là phong trào chống thuế ở Trung kỳ khiến bộ

máy cai trị của thực dân Pháp rúng động.

Bốn năm sau khi đỗ tiến sĩ, năm 1908 Huỳnh Thúc Kháng bị kết án chung

thân và đày ra Côn Đảo vì tội “xúi giục dân chúng làm loạn”. Rồi thay vì chung

thân, sau 13 năm lao tù, chí sĩ Huỳnh lại trở về tiếp tục cuộc tranh đấu không mệt

mỏi.

Năm 1921 Huỳnh Thúc Kháng ra tù thì năm 1926, khi thực dân Pháp bấy

giờ bắt đầu thay đổi cách cai trị, bãi bỏ hội đồng tư vấn bằng viện dân biểu,

Huỳnh Thúc Kháng trở thành dân biểu Trung kỳ.

Chính sách mị dân của người Pháp hi vọng với uy tín của viện trưởng Viện

Dân biểu Huỳnh Thúc Kháng sẽ thu phục được nhân sĩ trí thức và quảng đại quần

chúng.

Nhưng người Pháp đâu hay rằng từ năm 28 tuổi, đỗ hoàng giáp tiến sĩ

nhưng vị danh sĩ ấy đã từ chối quan trường để dấn thân vào cuộc tranh đấu cho

dân tộc, nữa là bây giờ khi đã trải qua 13 năm khổ sai ở nhà tù Côn Đảo trở về.

Hi vọng dùng nghị trường để đấu tranh hợp pháp của cụ Huỳnh đã không

thành, nhưng ngay khi nhậm chức viện trưởng Viện Dân biểu Trung kỳ, chính cụ

đã khởi đầu cuộc tranh đấu của mình và những đồng sự bằng cuộc đấu tranh ngôn

luận trực diện.

Việc xuất bản báo Tiếng Dân đã được cụ làm đơn gửi viên Toàn quyền

Pierre Pasquier vào tháng 10-1926, xin phép xuất bản một tờ báo bằng chữ Việt

mới với tên Tiếng Dân, đặt trụ sở tại Tourane (Đà Nẵng).

Tuy nhiên phải gần một năm sau, đến ngày 10-8-1927 tờ báo Tiếng

Dân mới ra số đầu tiên tại Huế chứ không phải Đà Nẵng như dự định ban đầu.

Trong chương trình ra báo Tiếng Dân gửi Toàn quyền Pasquier với 16

điều, ở điều 4 cụ Huỳnh nêu rõ: “Khiến chính quyền biết được nguyện vọng của

dân.

Đưa ra ánh sáng quyền lợi chung của dân chúng và những điều tệ hại khiến

họ bị phiền nhiễu. Tiếp tay vào việc giáo dục đạo đức, tri thức, chính trị và kinh

tế cho dân An Nam...” (tư liệu từ Trung tâm Lưu trữ quốc gia 2, TP.HCM).

Có lẽ nếu không lợi dụng cái ghế viện trưởng Viện Dân biểu Trung kỳ,

chưa chắc người Pháp đã đồng ý cho cụ Huỳnh ra báo. Đồng ý, nhưng người

Pháp đã có cách quản lý và kiểm duyệt với tờ báo này.

Việc kiểm duyệt được hẳn chánh mật thám Léonard Sogny, bấy giờ là

chánh Sở Liêm phóng An Nam, đệ trình kế hoạch kiểm soát tờ Tiếng Dân, trong

đó nhấn mạnh việc “không được xúc phạm chủ quyền Pháp và chế độ thiết lập tại

An Nam”.

Page 24: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

24

“Phải nạp hai bản vỗ cho Sở Liêm phóng với bản dịch Pháp ngữ. Sau khi

kiểm duyệt, một bản sẽ trả lại cho chủ nhiệm báo do đích thân Sogny ký với con

dấu. Nếu Sogny vắng mặt, cần chữ ký của Dussaut, cò đặc biệt. Sẽ có câu “Visa

pour publication” (cho phép xuất bản).

Báo ấn hành phải nạp hai bản: tại kho lưu trữ (dépôt légal) tòa khâm và kho

lưu trữ cảnh sát (dépôt de police). (Tờ trình số 462, ngày 19-3-1927 - lưu trữ tại

Trung tâm Lưu trữ quốc gia 2).

Những trang báo có tuổi đời gần thế kỷ trên nền giấy ố vàng với chữ ký

gốc của cụ Huỳnh khiến trong chúng tôi dâng lên những cảm xúc kỳ lạ.

Và càng khâm phục hơn khi làm báo dưới sự cai trị và kiểm duyệt của thực

dân, nhưng vẫn là những bài báo khẳng khái đúng với tôn chỉ “tiếng nói của nhân

dân”, vốn sống động và ắp đầy hơi thở cuộc sống.

Ai đó nói rằng tờ báo hôm nay sẽ là tờ giấy lộn ngày mai! Nhưng không,

gần thế kỷ trôi qua rồi, trên những trang báo Tiếng Dân ố vàng chúng tôi vẫn

nghe nhịp đập của một trái tim ái quốc và tấc lòng đau đáu cùng vận nước với đời

dân của cụ Huỳnh.

LÊ ĐỨC DỤC ([email protected])

http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/phong-su-ky-su/20151001/ke-si-dat-

quang/977971.html

Page 25: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

25

HUỲNH THÖC KHÁNG - MỘT ĐỜI CÙNG VẬN NƯỚC - KỲ 2:

CẤT LÊN “TIẾNG NÓI CỦA DÂN”

TT - Trong căn nhà nhỏ cuối đường Cao Bá Quát của thành phố Huế, nhà

nghiên cứu Hồ Tấn Phan sau một hồi lục tìm đã bất ngờ mang ra cho chúng

tôi mấy số báo Tiếng Dân nguyên bản.

Ông Hồ Tấn Phan và những số báo Tiếng Dân có chữ ký của cụ Huỳnh - Ảnh:

L.Đ.Dục

Càng đặc biệt hơn, đấy chính là những số báo mà cụ Huỳnh đã ký vào manchette

kèm con dấu để đem nộp cho kho lưu trữ tòa khâm (dépôt légan Indochine).

Thời sự thế kỷ

Báo Tiếng Dân với bốn trang khổ A2 (lớn gấp đôi khổ tờ báo Tuổi Trẻ hiện nay)

có cách đánh số trang không như bây giờ. Trang 1 (như vị trí trang 4 hiện nay)

Page 26: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

26

với manchette TIẾNG DÂN in đứng, cứng cáp và khẳng khái chạy tràn gần hết

sáu cột báo, bên dưới có thêm phụ ngữ bằng chữ Pháp “La Voix du Peuple” và

chữ Hán “Dân Thanh” (tiếng nói của dân). Góc trái ghi rõ chủ nhiệm kiêm chủ

bút: Huỳnh Thúc Kháng, quản lý: Trần Đình Phiên, góc phải là địa chỉ trụ sở: báo

quán - 123 đường Đông Ba, Huế.

Trang 2 của báo tương đương vị trí trang 1 bây giờ, còn trang 3 và 4 lại nằm bên

trong. Theo các tài liệu để lại, ban đầu cụ Huỳnh dự định đặt tên báo làTrung

Thanh - tiếng nói của dân miền Trung - vì khi đó cụ đang là viện trưởng Viện

Dân biểu Trung kỳ, tuy nhiên sau đó đổi lại Dân Thanh (tiếng nói của dân).

Cuối cùng cụ Phan Bội Châu, bấy giờ đang bị Pháp đưa về an trí tại Huế, góp ý:

gọi luôn là Tiếng Dân chứ không nên gọi là Dân Thanh. Tiếng Dân, tờ báo đầu

tiên mang đầy đủ phẩm chất của một tờ báo đại diện cho tiếng nói người dân ở

Trung kỳ đã ra đời như thế ngay tại kinh đô Huế.

Và tuyên ngôn của tờ báo, như cụ Huỳnh viết trong số báo đầu tiên, trải gần một

thế kỷ vẫn khiến chúng ta kinh ngạc về phẩm giá của người làm báo: “Nếu không

có quyền nói tất cả những điều mình muốn nói thì ít ra cũng giữ được cái quyền

không nói những điều người ta ép buộc nói”.

Mười sáu năm tồn tại của Tiếng Dân (1927 - 1943), đứng về phía lợi quyền dân

tộc là một lựa chọn dũng cảm của cụ Huỳnh và đồng sự trước cường quyền của

bộ máy cai trị người Pháp.

Trên những số báo Tiếng Dân mà chúng tôi có được, bất cứ số báo nào cũng có

những tiếng nói của người dân thấp cổ bé họng. Ví như trên số báo ra ngày 14-1-

1937, ngoài những bài viết có tính chất khai sáng, bình luận các vấn đề lớn như

“Nước Pháp với thuộc địa - bao giờ liên lạc với nhau?”, “Luật lao động”, “Thanh

niên với vấn đề cải tạo xã hội”, hai cột tin tức chính là “Việc thế giới” và “Việc

trong nước”, những tin tức ở “Việc trong nước” hầu hết là những sự việc chỉ đọc

tít tựa thôi đã thấy đầy sức chiến đấu và tinh thần chống tiêu cực như cách nói của

báo chí bây giờ: “Lại bắt dân chịu”, “Ngắn cổ kêu ai”, “Quan đã thấu nỗi khổ dân

chăng?”, “Dân lấy làm ức cho lý trưởng bị lưu dịch”.

Không chỉ đậm đặc những tin tức phản ánh tiếng nói của người dân, nhiều bài báo

trên Tiếng Dân từ thuở ấy đến hôm nay vẫn còn tính thời sự.

Nếu bây giờ giới xuất bản đang báo động truyện ngôn tình của Trung Quốc đang

là “ẩn họa” với bạn đọc trẻ Việt Nam, thì gần một thế kỷ trước trên báoTiếng

Dân của cụ Huỳnh cũng từng lên tiếng với các bài báo như “Những tiểu thuyết và

ngoại truyện nhảm của nhà văn Tàu gieo độc đến học giới ta”.

Cũng trên Tiếng Dân đã có bài viết “Cái tính ham làm thi (thơ) của người Nam

ta” do chính cụ chấp bút. Cụ Huỳnh điểm rất đích đáng: “Các ông đi sứ Tàu về

việc bang giao không rõ thế nào chứ ông nào cũng mang một tập thi về cả. Nghề

thi với việc nước, nhất là việc ngoại giao quan trọng, có ăn nhập gì với văn

chương mà chọn người “hay thi” đi, rốt cuộc mỗi ông đều mang một tập thi về”.

Nhưng “tính chiến đấu” của Tiếng Dân được làng báo lưu truyền đến tận ngày

nay là những trang báo, bài báo để trắng nếu bị kiểm duyệt.

Page 27: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

27

Những nội dung trên báo Tiếng Dân bị kiểm duyệt đục bỏ

được thư ký tòa soạn chép lại và lưu giữ - Ảnh: Thái Lộc

Những trang báo bị đục bỏ

Như đã nói, dù đồng ý cho cụ Huỳnh ra báo nhưng mỗi số báo Tiếng Dân cụ

Huỳnh phải nộp cho Sở Liêm phóng hai "bản vỗ” bằng hai thứ tiếng Việt và Pháp

để họ kiểm duyệt. Nếu bài nào bị Sở Liêm phóng đục bỏ thì phải thay thế bằng

bài khác “mềm mại” hơn, nhưng tòa soạn của cụ Huỳnh không ngoan ngoãn theo

lối ấy.

Với những bài báo bị đục bỏ cụ cứ để trống như thế, và người đọc sẽ đọc được

“rất nhiều thông tin” từ ô trống trên trang báo ấy. Tìm cho ra những “trang trắng”

bị Sở Liêm phóng đục bỏ trên báo Tiếng Dân thuở ấy quả là chuyện không dễ

dàng.

May sao, nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan lại “cứu” chúng tôi thêm một lần nữa!

Không chỉ sở hữu những tờ báo Tiếng Dân bản gốc có chữ ký bằng mực tím của

cụ Huỳnh và con dấu của kho lưu trữ tòa khâm, trong sưu tập của ông Phan còn

có một tập báo Tiếng Dân với những dòng chữ bị đục bỏ bởi kiểm duyệt liên

quan đến một sự kiện lớn của Huế: ngày cụ Phan Bội Châu qua đời!

Cụ Phan Bội Châu sau khi bị thực dân Pháp bắt cóc ở Thượng Hải vào tháng 6-

1925 đưa về nước xử án tù chung thân.

Page 28: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

28

Trước phong trào đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu của nhân dân cả nước, Toàn

quyền Varenne đã can thiệp đưa ông về an trí (thật ra là giam lỏng) ở Bến Ngự

(Huế). Từ năm 1925 cho đến khi mất, cụ Phan là một cộng sự quan trọng

cho Tiếng Dân, kể cả manchette báo cũng do cụ Phan gợi ý.

Ngày 29-12-1940 cụ Phan qua đời tại Huế, báo Tiếng Dân mỗi ngày nhận hàng

trăm điện văn, câu đối, lời điếu của người dân cả nước gửi về. Những ngày cụ

Phan mất, trên mỗi số báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh đều dành để đăng những tình

cảm đó của đồng bào với người chí sĩ cách mạng.

Và tất nhiên Sở Liêm phóng không thể nào chấp nhận lời điếu, những điện văn ca

ngợi cụ Phan. Và nhiều câu văn, bài thơ, câu đối bị Sở Liêm phóng Trung kỳ đục

bỏ không thương tiếc.

Để nguyên những trang báo với ô trống đục bỏ như thế chính là bày tỏ một thái

độ với chế độ cầm quyền cai trị, nhưng chỉ như thế thì hậu thế làm sao biết được

Sở Liêm phóng đã đục bỏ những gì?

May mắn thay, sau khi phát hành những số báo bị đục bỏ ấy, các thư ký tòa soạn

của Tiếng Dân (và cũng có thể là chính cụ Huỳnh) đã lấy các số báo lưu lại tòa

soạn và lấy bút viết lên những ô trống bị đục bỏ ấy những câu chữ đã bị cắt bỏ khi

kiểm duyệt.

Sau gần một tuần lục tung căn nhà bừa bộn những sách vở và chai hũ đồ cổ chật

kín, nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan đã tìm ra cho chúng tôi tư liệu cực kỳ quý giá

này: Những số báo Tiếng Dân ấn hành trong giai đoạn đám tang cụ Phan Bội

Châu với khoảng trống bị đục bỏ được những thư ký nắn nót chép lại từ những

bản thảo mà người mến mộ cụ Phan gửi về.

Ví như trong “Bài văn sanh vãn cụ Phan Sào Nam” do chính cụ Huỳnh soạn,

những từ như “hi sinh”, “hướng lộ”, “vĩ nhân” đều bị xóa. Và tất nhiên, trang

báo Tiếng Dân cũng cứ thế để trống.

Có đoạn để trống cả một khổ thơ viếng, được chép lại nắn nót. Một trang báo

khác, bài thơ của bạn đọc Lê Vũ Hồn (Vinh) gửi về điếu cụ cũng bị đục bỏ mất

một khổ thơ: “Họ nếu nghe ông trời đã vá/Con từ mất mẹ hận chưa nguôi/Khôn

đem huyết lệ tô sông núi/Non nước vì ai những ngậm ngùi”.

Và cũng như những lời bàn chuyện về sách nhảm Tàu đầu độc học giới nước

Nam, chuyện làm thơ mà quên việc nước đến nay vẫn còn thời sự, chủ quyền

Hoàng Sa cũng được cụ Huỳnh quan tâm đặc biệt trên những số báoTiếng Dân.

LÊ ĐỨC DỤC - THÁI LỘC

http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/phong-su-ky-su/20151002/y-cat-len-tieng-

noi-cua-dan/978478.html

Page 29: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

29

HUỲNH THÖC KHÁNG - MỘT ĐỜI CÙNG VẬN NƯỚC - KỲ 3:

CỤ HUỲNH, BÁO TIẾNG DÂN VÀ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO

TT - Từ gần cả thế kỷ trước, trên những số báo Tiếng Dân, cụ Huỳnh đã có

những bài báo đanh thép khẳng định chủ quyền của Việt Nam với quần đảo

Hoàng Sa.

Toàn cảnh các công trình kỹ thuật và hành chính của Pháp và VN tại Hoàng Sa - Ảnh tư liệu

Cụ Huỳnh và “thời sự Hoàng Sa” năm 1938

Tháng 7-1937 chiến tranh Trung - Nhật nổ ra, quân đội Thiên Hoàng xâm lược

Trung Quốc. Người Nhật với tham vọng bá chủ châu Á muốn thôn tính quần đảo

Hoàng Sa - bấy giờ đang do lính Pháp và lính An Nam quản lý.

Từ giữa những năm 1938 trở đi, việc tranh chấp quần đảo Hoàng Sa giữa Pháp và

Nhật Bản khá căng thẳng.

“Ngày 15-6-1938, toàn quyền Đông Dương Jules Brévié ký nghị định thành lập

đơn vị hành chính cho quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên, cũng trong

tháng 6-1938 một đơn vị lính bảo an Việt Nam được phái ra đồn trú tại quần đảo

Hoàng Sa.

Tấm bia chủ quyền được dựng lên trên đảo Hoàng Sa với dòng chữ: “République

Francaise - Royaume d‟Annam-Archipels des Paracels 1816- Ile de Pattle

1938” (Tư liệu Kỷ yếu Hoàng Sa - UBND huyện Hoàng Sa).

Cũng chính thời điểm này, báo Tiếng Dân ra liên tiếp 4 số báo về quần đảo

Hoàng Sa. Số báo ra ngày 12-7-1938 (số 1280) đăng bài “Quần đảo Tây Sa

(Paracels) với Pháp”, “Quần đảo Tây Sa trở thành vấn đề quan trọng” (Tiếng

Dân, số 1281), “Việc Paracels (Tây Sa), Pháp chính thức nhận chủ quyền đảo ấy"

(Tiếng Dân, số 1282) và “Dấu tích đảo Tây Sa (Paracels) trên lịch sử Việt Nam ta

và giá trị bản Phủ biên tạp lục” (Tiếng Dân, số 1284, 23-7-1938).

Trong bài thứ hai về Hoàng Sa, “Quần đảo Tây Sa trở thành vấn đề quan trọng”,

trên báo Tiếng Dân viết: “Người đời trong xã hội, có hạng người không tên không

tuổi, bình nhật không nghe ai nói đến hay không thèm đếm xỉa, mà có hồi thời thế

xô đẩy, hoàn cảnh xui khiến, trở thành người trọng yếu trong thời đại, ấy là hạng

vô danh anh hùng.

Page 30: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

30

Thì đất cũng thế, có những nơi đầu non góc biển, cồn hoang đảo vắng, bình thời

không ai để ý, mà gặp một thời thế đặc biệt hoặc cơ hội xảy ra, những nơi đó trở

thành địa vị quan hệ trọng yếu vô cùng.

Tôi muốn nói đến quần đảo Paracels. Mấy hòn đảo giữa biển thuộc Việt Nam ta

chánh phủ đang sắp đặt công cuộc phòng thủ mà Nhật Bản cũng nhòm ngó, sinh

một luồng dư luận giữa báo Tây Nam gần đây” (báo Tiếng Dân số 1281, ngày 16-

7-1938).

Bài báo viết tiếp rằng theo báo Đông Pháp, quần đảo này trước kia là đảo hoang

vô chủ, đến năm 1816 mới thuộc về nước Việt Nam dưới triều vua Gia Long.

Bên cạnh việc phản đối Trung Quốc về chủ quyền Hoàng Sa, cụ Huỳnh thẳng

thắn cho rằng người Nhật đã tham lam vô lý khi nói đến chủ quyền với Hoàng Sa.

Cũng trong số báo 1281 ngày 16-7-1938 cụ Huỳnh viết: “Gần mấy lúc đây, ở

Đông Dương đã có phái cảnh binh An Nam ta ra đảo ấy để bảo vệ cho người chài

lưới bản xứ, lại thường phái tàu binh ra đó tuần phòng. Như trên đã nói, đảo này

do nước Nam ta chiếm trước nhứt, là sở hữu của xứ Đông Dương, chớ người

Nhật ở bên ba hòn đảo Phù Tang xa tít mù kia, dính dáng gì đến đảo này mà đứng

ra tranh cãi...”.

Một bài báo trên Tiếng Dân về chủ quyền VN đối với quần đảo Hoàng Sa - Ảnh tư liệu

Trong tiêu đề và nhiều chỗ trong các bài viết, cụ Huỳnh dùng chữ “Tây Sa” để

chỉ quần đảo “Hoàng Sa”.

Chúng tôi nghĩ rằng trong thời điểm 1938, vấn đề cụ Huỳnh đề cập trước mắt là

làm rõ chủ quyền của Việt Nam đối với thực thể địa lý quần đảo này, chưa phải

lúc so sánh phân tích cặn kẽ về địa danh.

Mặt khác, truyền thông đương thời qua báo chí chữ Pháp và chữ Hán đang đề cập

nhiều đến tên gọi Paracels và Tây Sa, nên có thể cụ Huỳnh dùng từ “Tây Sa”

nhằm để quốc dân đương thời dễ xác định nơi đang được đề cập, và cũng với mục

Page 31: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

31

đích phổ biến thông tin đối với bên ngoài.

(nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân)

Chứng minh chủ quyền Hoàng Sa từ thư tịch cổ xưa

Ngoài những bài báo nói về thời sự quần đảo Hoàng Sa trong tình hình bấy giờ,

báo Tiếng Dân còn có một bài nghiên cứu, bình luận dài, viết rất công phu và có

giá trị: “Dấu tích đảo Tây Sa (Paracels) trên lịch sử Việt Nam ta và giá trị

bản Phủ biên tạp lục” ký tên tác giả là Sử Bình Tử (một bút danh khác của cụ

Huỳnh).

Trong bài báo này, cụ Huỳnh khẳng định: “Theo các báo cáo ta gần đây sưu tập

các tài liệu về đảo Tây Sa để chứng minh thì đảo ấy là phần sở hữu của nước

Nam ta, vì chính người Nam đã chiếm trước hết và đã kinh dinh các công cuộc ở

đảo ấy...”.

Cụ Huỳnh cũng đã liệt kê các tài liệu quý hiếm từ xưa để khẳng định chủ quyền

với quần đảo Hoàng Sa, đặc biệt là tác phẩm Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn

(hoàn thành năm 1776), Đại Nam nhất thống chí cả bản trước và bản của Cao

Xuân Dục soạn lại, bản Triều chính yếu thực lục của hai triều Gia Long - Minh

Mạng, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú,Công hạ ký văn của

Trương Quốc Dụng, Mân hành thi thoại và Đông hành thi thuyết của Lý Văn

Phức, Việt sử thông giám cương mục khảo lược của Nguyễn Thông... trong đó

đều đề cập đến Hoàng Sa và chủ quyền của nước ta từ thời bấy giờ.

Đặc biệt, trong thời điểm này làn sóng “văn minh Tây học” đã có khuynh hướng

bỏ bê các tư liệu sách vở, thư tịch bằng chữ Hán, cụ Huỳnh đã lưu ý việc dùng tư

liệu trong cổ sử để chứng minh chủ quyền Hoàng Sa.

“Thì nay, chúng ta lại phát kiến một điều không ngờ nữa là một mớ sách chữ Hán

của tiền nhân ta trứ thuật, lâu nay bỏ xó lề hư bìa nát, phần đông, nhất là bạn

thanh niên, cho đó là một thứ học mượn, thứ chữ chết, không cần đếm xỉa đến,

nay nhân vấn đề đảo Tây Sa, trở thành món tài liệu rất quý giá có quan hệ đến

công pháp quốc tế không phải là ít” (Tiếng Dân, số 1284, ngày 23-7-1938).

Những tác phẩm chữ Hán của tiền nhân mà cụ Huỳnh nhắc đến chính là những tài

liệu hết sức thuyết phục về chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam đối với

Hoàng Sa.

Chỉ trích Chính phủ Pháp về sự chậm trễ trong vấn đề thực thi chủ quyền với

quần đảo Hoàng Sa, cụ Huỳnh nhấn mạnh rằng: “Đáng lẽ ngay từ năm 1909, khi

Trung Hoa nhận quần đảo Tây Sa là của họ, Chính phủ Pháp đã tuyên bố quyền

sở hữu của Đông Dương đối với quần đảo ấy.

Nhưng tuồng như chính phủ này coi quần đảo ấy không ra gì, không biết là vật

mà Nhật thèm trong khi muốn bành trướng về phía nam nên không để ý đến.

Vào khoảng 1931 - 1932, Evell Ecoromique viết tiếp mấy bài đòi sáp nhập quần

đảo ấy vào Đông Dương. Dư luận nhân đó nổi lên thúc giục. Vào khoảng năm

1932 - 1933, Chính phủ Pháp mới tỉnh ngộ ra tay hành động thì bị Nhật Bản cản

trở. Hai bên cãi nhau ít lâu, rồi lơ”...

Làm báo ngay kinh đô Huế trong gọng kìm của chính quyền bù nhìn, bị mật thám

Pháp kiểm duyệt gắt gao, vậy mà trước tình thế chủ quyền biển đảo Tổ quốc bị

thách thức, cụ Huỳnh vẫn dũng cảm chỉ trích lòng tham của cả hai quốc gia Trung

Page 32: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

32

Hoa và Nhật Bản, đồng thời lớn tiếng mắng sự chậm trễ của chế độ bảo hộ của

người Pháp, lục tung cổ thư để chứng minh chân lý về chủ quyền quần đảo Hoàng

Sa, những tưởng chỉ riêng điều ấy thôi đã đủ nhắc nhở hậu thế nhiều điều!

HỒ TẤN VŨ - LÊ ĐỨC DỤC

http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/phong-su-ky-su/20151003/cu-huynh-bao-

tieng-dan-va-chu-quyen-bien-dao/979000.html

Page 33: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

33

HUỲNH THÖC KHÁNG - MỘT ĐỜI CÙNG VẬN NƯỚC - KỲ 4:

VỊ VIỆN TRƯỞNG CAN TRƯỜNG

TT - Từ ga Huế xuôi ra đường Lê Lợi, ngay đầu đường, ở địa chỉ số 3 Lê Lợi,

hàng ngàn người đi qua đây mỗi ngày, nhìn tòa nhà với kiến trúc rất đẹp treo

cao tấm biển “Đại học Huế” nhưng ít ai biết đây từng là trụ sở của Viện dân

biểu Trung kỳ.

Đó là nơi gắn với cuộc đời cụ Huỳnh chỉ hơn hai năm, nhưng những câu

chuyện về ông nghị Huỳnh từ tòa dân biểu này mãi mãi là một nhắc nhớ với hậu

thế.

Tòa nhà được xây năm 1927, làm trụ sở Viện dân biểu Trung kỳ rồi sau

này (1957) là trụ sở Viện đại học Huế, sau 1975 trở thành văn phòng hiệu bộ của

Trường ĐH Tổng hợp Huế rồi trụ sở Đại học Huế như hôm nay.

“Đừng để thành cái bánh vẽ”

Việt Nam bị thực dân Pháp chia làm ba miền với ba chế độ cai trị khác

nhau. Nếu Nam kỳ là xứ thuộc địa thì Trung kỳ và Bắc kỳ được coi là xứ bảo hộ

với hai hình thức: Bắc kỳ được người Pháp bảo hộ trực tiếp, còn Trung kỳ lại bảo

hộ gián tiếp bởi ở Trung kỳ còn có tòa khâm sứ đại diện cho sự có mặt của chính

phủ bảo hộ bên cạnh chính phủ Nam triều.

Khi người Pháp lập Viện dân biểu Trung kỳ, dù biết viện dân biểu chỉ là

một hình thức mị dân, một thứ “dân chủ trang trí” nhưng cụ Huỳnh vẫn ra ứng cử

với hi vọng đây sẽ là diễn đàn công khai để có thể bảo vệ lợi ích người dân.

Page 34: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

34

Kỳ bầu cử tháng 7-1926 đó, cụ Huỳnh đắc cử ở ba hạt Tam Kỳ, Tiên

Phước, Thăng Bình với số phiếu rất cao: 620/640 phiếu (có tài liệu ghi là 640/700

phiếu).

Thật ra việc một chính trị phạm mang tội chống chính quyền thực dân Pháp với

13 năm tù Côn Đảo nay trúng cử với số phiếu cao như cụ Huỳnh, trong khi các

ứng viên do chính phủ bảo hộ giới thiệu bị thất cử, có thể làm dấy lên chút hi

vọng nhỏ nhoi nào đó.

Diễn văn đầu tiên cụ Huỳnh đọc ở Tam Kỳ đã bày tỏ chút hi vọng này:

"...Bốn chữ "nhân dân đại biểu" xuất hiện, chưa nói nội dung thế nào, chưa nói

hiệu quả thế nào, mà chỉ trông thấy bốn chữ danh nghĩa đường đường quang minh

chính đại thì đã sinh lòng tin cậy”.

Cũng trong bài diễn văn này, cụ Huỳnh đã không quên cảnh giác: “Họa

may cái chính thể này nêu một bài thuốc hay, bắt đầu chữa bệnh cho nòi giống

mình, đừng để thành ra bánh vẽ ...”.

Cụ Huỳnh tiếp tục đắc cử chức viện trưởng Viện dân biểu Trung kỳ. Người

Pháp cũng hi vọng với chức sắc này cụ Huỳnh sẽ trở thành một “nghị gật” phục

vụ cho lợi ích của chính quyền bảo hộ, nhưng họ đã nhầm.

Hun đúc sẵn khí chất xứ Quảng, lại được tôi luyện qua 13 năm lao tù Côn

Đảo, những điều cụ Huỳnh để lại luôn là bài học về nhân cách và phẩm giá của

“người đại biểu của dân”.

Vụ “D‟Elloy - Huỳnh Thúc Kháng” đã trở thành một dấu son trong cuộc

đời hoạt động nghị trường của cụ Huỳnh! Chỉ mấy tháng sau khi Viện dân biểu

thành lập, khâm sứ Trung kỳ Pasquier được điều ra Hà Nội làm toàn quyền Đông

Dương, thay thế Pasquier làm khâm sứ Trung kỳ là D'Elloy.

Khâm sứ D'Elloy vốn là người bảo thủ, không muốn các nghị viên đấu

tranh đòi hỏi nhiều yêu sách có lợi cho dân bản xứ, vì thế trong một thông tư đề

tháng 11-1926, khâm sứ D'Elloy đã viết "nhiều lời mạt sát chửi mắng" khiến các

nghị viên của Viện dân biểu Trung kỳ tức giận.

Trong cuốn Huỳnh Thúc Kháng tự truyện, cụ Huỳnh kể lại rằng khi đó, lấy

tư cách viện trưởng, cụ triệu tập hơn bốn chục dân biểu, đồng thanh phản kháng,

vạch từng đoạn trong thông tư, biện bác, cho đăng trên báo Nam Bắc Tân Văn và

nhiều tờ báo khác. Dư luận khắp cả nước xôn xao, ủng hộ cụ Huỳnh và các nghị

viên.

Không bao lâu sau, D'Elloy bị điều trở về Pháp. Toàn quyền Pasquier phải

gửi thông tư tìm cách xoa dịu sự bất bình của các đại biểu của Viện dân biểu

Trung kỳ và điều Friès làm khâm sứ Trung kỳ thay cho D'Elloy.

Sau vụ khâm sứ D'Elloy, chỉ hơn một năm sau, tháng 10-1928 cụ Huỳnh lại

gây chấn động nghị trường và báo giới bằng một bài diễn văn nảy lửa vạch rõ cái

bánh vẽ nghị trường, đồng thời ngay sau đó cụ khẳng khái từ luôn chức viện

trưởng!

Page 35: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

35

Trụ sở báo Tiếng Dân, một di tích khác ở Huế gắn với cụ Huỳnh Thúc Kháng - Ảnh tư liệu

“Nhân dân đại biểu mà thật ra là một quan trường mới”

Phiên họp cuối của nhiệm kỳ dân biểu 1926-1928, thay vì như thông lệ

khâm sứ Jabouille sẽ đọc diễn văn khai mạc như là sự chỉ đạo cho các nghị viên

bàn bạc thì lần này, ngày 1-10-1928, viện trưởng Huỳnh Thúc Kháng đọc diễn

văn trước để rồi sau đó khâm sứ Jabouille lên phủ định tất cả tinh thần diễn văn

của ông viện trưởng Huỳnh.

Trên báo Tiếng Dân số 119 ra ngày 6-10-1928 đã đăng lại bài diễn văn này

của cụ Huỳnh với tất cả tinh thần chiến đấu của một nghị viên vì dân, vừa chỉ rõ

tính chất mị dân của người Pháp vừa đau đáu trước nhân dân vì đã không thể làm

tròn vai trò đại diện:

“Thế mà đã hai năm nay hình như nhà nước không lấy lời yêu cầu của chúng tôi

làm điều để chung cho nhân dân trong xứ hiểu rằng một cái cơ quan mới của nhà

nước (tức Viện dân biểu) khác với chính phủ chuyên chế ngày xưa, bởi thế nhân

dân đã ngả lòng tin cậy nơi chúng tôi mà nhân dân chúng tôi không dám tin đến

cái chính thể của nhà nước.

Chính chúng tôi đã từng nghe những câu trong dân gian phê bình viện chúng tôi:

“Tên là nhân dân đại biểu mà thật ra là một quan trường mới” (dòng này in đậm

trong nguyên văn). Chúng tôi ở vào địa vị dở dang bỡ ngỡ này, đối với chính phủ

cũng không làm gì được và đối với nhân dân cũng không thể cầm hai chữ đại biểu

suông mà đáp lại cái lòng mong mỏi của họ, đêm nằm tự nghĩ cứ thẹn lại buồn”

(Tiếng Dân ngày 6-10-1928).

Ngay lập tức khâm sứ Jabouille đăng đàn công kích viện trưởng Huỳnh

Thúc Kháng: "Bản chức quyết phản kháng lại một cách kịch liệt những điều công

kích của ông nghị trưởng" và cho rằng ông nghị trưởng (tức cụ Huỳnh) thuộc

“đám người không toại chí”, “nóng nảy”... khiến cho Viện dân biểu cũng bị

nhiễm cái ảnh hưởng ấy”. Sau bài diễn văn được đọc trước Viện dân biểu Trung

kỳ này vào ngày 1-10-1928 và phản ứng với thái độ của khâm sứ Jabouille, ngay

ngày hôm sau, 2-10-1928, cụ Huỳnh đưa đơn từ chức nghị viên và viện trưởng

dân biểu.

Nếu có một điều gì đó về cụ Huỳnh, chí ít, từ nghị trường này cụ đã vạch

mặt tính chất “bánh vẽ”, “trang trí” của cái gọi là dân chủ mà người Pháp trưng ra

ở Trung kỳ. Và thêm một điều nữa, từ danh nghĩa Viện dân biểu, cụ Huỳnh đã

gầy dựng nên được tờ báo Tiếng Dân. Dù chỉ có ba năm cụ Huỳnh ở Viện dân

Page 36: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

36

biểu nhưng tờ Tiếng Dân của cụ đã có một đời sống dài hơn thế, kéo dài đến năm

1943.

Suốt 16 năm tồn tại, vai trò nhóm lửa “dân chủ” của cụ Huỳnh từ nghị

trường đến trang báo là một thành công mà không mấy ai trong những người

cùng thời với cụ Huỳnh trong bối cảnh ấy có thể làm được như cụ!

Chính sức thuyết phục diệu kỳ như vậy từ cuộc đời cụ đã tạo ra “hấp lực”

khiến hiện nay có rất nhiều người đang say mê nghiên cứu về cụ.

Những sử gia, những giáo sư, tiến sĩ của viện này trường nọ nghiên cứu thì

đã đành, nhưng thật bất ngờ có một nhà “Huỳnh Thúc Kháng học” miệt mài suốt

cả cuộc đời mình chỉ làm hai việc: đó là mổ heo như kế sinh nhai và tập trung

nghiên cứu về cụ Huỳnh Thúc Kháng!

LÊ ĐỨC DỤC - HỒ TẤN VŨ

http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/phong-su-ky-su/20151004/vi-vien-truong-

can-truong/979456.html

Page 37: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

37

HUỲNH THÖC KHÁNG - MỘT ĐỜI CÙNG VẬN NƯỚC - KỲ 5:

„PHÍA SAU TUYỂN TẬP NGÀN TRANG”

Ông bảo nghề mổ heo của mình là chỉ để kiếm cơm, nuôi con và đáp

ứng thú vui đèn sách.

Ông Phạm Ngô Minh - Ảnh: Tấn Vũ

Ông khiêm tốn bảo rằng mình không được học hành tử tế, nhưng sách ông

viết về người xưa, đặc biệt là nhân vật lớn của đất nước như cụ Huỳnh Thúc

Kháng là viết như gắn cuộc đời mình vào từng con chữ để trả nợ tiền nhân.

Nhưng điều bất ngờ là sách ông viết ra chẳng những được các nhà nghiên

cứu đánh giá cao, mà còn đoạt nhiều giải thưởng danh giá. Ông là Phạm Ngô

Minh, 58 tuổi, ở phường An Hải Tây, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng.

Tự học để viết sách

Căn nhà hai tầng sát ngay ngã tư Nguyễn Công Trứ và Ngô Quyền (TP Đà

Nẵng) chứa đầy sách. Sách nhiều đến độ có thể gọi căn nhà của ông Phạm Ngô

Minh là thư viện mini cũng không ngoa.

Đặc biệt những cuốn sách cổ, tạp chí rất quý hiếm tưởng chừng đã mất hút

thì được ông lưu giữ khá đầy đủ.

Ông Minh bảo đã 31 năm qua, đêm nào ông cũng thức dậy lúc 1g sáng

giúp vợ mổ heo, mua bán, quản lý và chốt sổ lúc 9g cùng ngày, sau đó ông vùi

đầu vào sách.

Page 38: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

38

Ông mê sách đến độ nếu có một cuốn sách hay, sách cũ cần tìm, có người

mách bảo thì dù ở Hà Nội hay TP.HCM ông cũng mua vé máy bay đến mua cho

bằng được.

“Nghe có vẻ đầy tương phản rằng người mổ heo lại đi viết, sưu tầm sách.

Đó là mặc định của người đời. Nhưng tôi chỉ biết nói rằng mỗi người có một

niềm đam mê riêng và cái nghề kiếm cơm kia chỉ là phục vụ cho niềm yêu thích

của mình mà thôi” - ông Minh tâm sự.

Không biết đi xe máy nhưng nghe ngóng nơi đâu có sách quý, sách cũ là

ông bắt cô con gái chở đến và mang về nhà.

Dẫn chúng tôi lên tầng hai của căn nhà, ông Minh khoe rằng nhiều tạp chí

danh tiếng ngày xưa như Nam Phong, Phong Hóa Tuần Báo, Văn Hóa Ngày Nay,

Duy Tân, Thanh Nghị, Vạn Hạnh, Tư Tưởng... ông đều đóng thành tập bìa cứng

và cất giữ một cách cẩn trọng, gọn gàng trong tủ.

Đó là chưa kể hàng loạt sách cổ, tiểu thuyết và sách quý từ thời Pháp thuộc

đến trước năm 1975 đều được ông lưu giữ cẩn thận. Tủ sách ông Minh hiện tại có

đến hơn 2.500 đầu sách như vậy. Mới đây tủ sách của ông đã đoạt giải nhì cả

nước về tủ sách gia đình.

Rót chén chè xanh mời khách, ông Minh bảo rằng mình nói giọng Huế là

nói theo giọng của mẹ, nhưng gốc tích là Quảng Nam. Cha ông người làng Bảo

An, Gò Nổi thuộc huyện Điện Bàn nhưng ra Đà Nẵng sinh sống từ năm 1957.

“Cha mất khi tôi 5 tuổi. Mẹ đi lấy chồng khác và ba anh em tôi tự lo liệu.

Tôi học Trường Khiết Tâm ở Đà Nẵng và sau giải phóng thì công tác tận huyện

miền núi của Quảng Nam rồi bắt đầu tự mày mò, tự nghiên cứu và tự học...” - ông

Minh kể.

Việc học của ông Minh chưa một ngày dừng lại trong suốt gần 60 năm

cuộc đời. Dần dà ông trở thành người viết, sưu tầm tư liệu, nghiên cứu, đặc biệt là

các tư liệu về danh nhân và khoa bảng Quảng Nam như Trần Quý Cáp, Phan

Khôi, Phạm Phú Thứ...

Ông Minh bảo mình thích làm công việc này vì niềm đam mê thực thụ,

không cần nổi tiếng cũng chẳng viết sách để kiếm tiền.

Nhưng ông Minh cho rằng hạnh phúc nhất của ông là được cùng giáo sư

Chương Thâu (Viện Sử học Việt Nam) hoàn thành cuốn sách Huỳnh Thúc Kháng

tuyển tập dày 1.850 trang, được Nhà xuất bản Đà Nẵng in vào năm 2010.

Ông Minh bảo rằng cuốn sách là tâm huyết cả đời của ông để viết về một

người kiệt xuất của xứ Quảng và đất nước.

Sau khi cuốn sách ra đời và được các độc giả, các nhà nghiên cứu đánh giá

khá cao, năm 2011 cuốn sách Huỳnh Thúc Kháng tuyển tập đã được Hội Xuất bản

Việt Nam chính thức trao giải thưởng sách đẹp, sách hay của năm.

Ông Minh bảo rằng giải thưởng là những ghi nhận công sưu tầm của ông

và giáo sư Chương Thâu, còn bản thân những tư liệu nó đã tự hay và cái khó nhất

là thời gian và công sức.

Page 39: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

39

“Họ gọi tôi ra Hà Nội trao cái giấy khen và phần thưởng 14 triệu đồng. Vui

là chính nhưng nói về tiền bạc so với công sức mình thì chẳng thấm vào đâu” -

ông Minh vui vẻ nói.

Tuyển tập Huỳnh Thúc Kháng do GS Chương Thâu và ông Phạm Ngô Minh

biên soạn - Ảnh: T.V.

Page 40: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

40

Đời sau phải nhớ cụ Huỳnh

Ông Phạm Ngô Minh kể rằng để viết về cụ Huỳnh là điều cực kỳ khó khăn,

bởi hàng loạt nhà nghiên cứu tên tuổi trước đó đã viết rồi.

“Tôi bắt đầu vào TP.HCM gặp ông Nguyễn Q.Thắng, người đã viết rất kỹ

về cụ Huỳnh, để tìm hiểu. Ra tận Hà Nội trong vòng một năm trời, chưa hết phải

đi tìm từng tờ báo Tiếng Dân, trong 16 năm tồn tại của tờ báo nổi tiếng này của

cụ Huỳnh từ Huế, Thư viện Đà Nẵng, Thư viện Tổng hợp quốc gia tại Hà Nội và

TP.HCM để photo lại các bài báo.

Nhờ cả người thân từ bên Pháp lục tìm tài liệu về cụ Huỳnh gửi về Việt

Nam” - ông Minh kể.

Tuyển tập với độ dài 1.850 trang bao gồm gần 100 bài thơ, những bài văn

tuyển giai đoạn 1927 - 1936 của Huỳnh Thúc Kháng đăng trên báo Tiếng Dân.

Những bài báo của cụ Huỳnh viết trong những năm 1936 - 1943 được các tác

giả chia theo từng chủ đề.

Ngoài ra, ông còn trích đăng một số văn bản, tác phẩm có bình luận về thơ

văn của cụ Huỳnh, qua đó khẳng định và lý giải một số ý kiến chưa dứt khoát về

cụ.

Ông Minh cho rằng chính trong quá trình làm sách về cụ Huỳnh cũng là

thời gian ông học được rất nhiều từ những tác giả tên tuổi qua các bài viết sắc sảo

và rất có giá trị về cụ Huỳnh.

Sở dĩ ông cất công sưu tầm và biên soạn cuốn sách dày đến 1.850 trang với

rất nhiều công sức, ông Minh cho rằng:

“Tôi muốn cho con cháu đời sau biết về cụ một cách đa chiều và rộng rãi. Đặc

biệt những tư tưởng của cụ, lòng kiên trung của kẻ sĩ, làm quan không phải để

“vinh thân phì gia” đáng để chúng ta suy ngẫm và con cháu học hỏi. Tôi thấy

phong trào Duy Tân và những tư tưởng của nó bây giờ vẫn còn tính thời sự”.

Nhận xét về cuốn sách Huỳnh Thúc Kháng tuyển tập, giáo sư Văn Tạo,

nguyên viện trưởng Viện Sử học, cho rằng đến nay đã có nhiều cuốn sách khảo

cứu, biên soạn về cụ Huỳnh Thúc Kháng, nhưng độc giả vẫn mong có được công

trình đầy đủ hơn, toàn diện hơn, nói lên những cống hiến đa diện của cụ Huỳnh

vào lịch sử dân tộc.

Và cuốn sách này đã có thể đáp ứng được lòng mong muốn đó. “Cuốn sách

đã công bố được hầu hết tác phẩm của cụ Huỳnh cũng như những bài viết của các

nhà chính trị, nhà văn, nhà báo, nhà thơ, nhà sử học... viết về cụ. Tất cả đã nói lên

các hoạt động đa phương đa diện của cụ Huỳnh” - giáo sư Văn Tạo viết.

Nhận xét về tấm gương tự học của ông Minh, nhà giáo Lại Thế Luyện, Đại học

Sư phạm TP.HCM, cho rằng trong giáo dục có lẽ chúng ta chưa bao giờ cần nhấn

mạnh đến việc tự học như lúc này.

Mà muốn tự học thì phải có lòng say mê bền bỉ, sự miệt mài tích cóp tri thức

trong những tháng năm dài.

Chính cuộc đời của ông Phạm Ngô Minh là bài học sống động, chứng minh khả

năng tự học để thành công. Và ai cũng có thể tự học trong mọi hoàn cảnh để phục

Page 41: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

41

vụ bản thân và phục vụ đất nước tốt hơn.

HỒ TẤN VŨ

http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/phong-su-ky-su/phia-sau-tuyen-tap-ngan-

trang/979828.html

HUỲNH THÖC KHÁNG - MỘT ĐỜI CÙNG VẬN NƯỚC - KỲ CUỐI:

MAI SAU DÙ CÓ BAO GIỜ...

Trong ngôi nhà cụ Huỳnh ở Tiên Phước (Quảng Nam), tấm Huân

chương Sao Vàng được đặt trân trọng trước bàn thờ cụ.

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trước bàn thờ cụ Huỳnh Thúc Kháng ngày 15-

4-2013 tại Tiên Phước, Quảng Nam - Ảnh: Tấn Vũ

Điều đó nói lên sự ghi nhận công lao to lớn của cụ đối với đất nước. Nhưng

có lẽ những gì chúng ta đã làm để tôn vinh cụ Huỳnh dường như chưa đủ!

Page 42: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

42

Tôn vinh khí tiết tiền nhân

Ngày 15-4-2013, tại quê nhà cụ huyện Tiên Phước, Chủ tịch nước Trương

Tấn Sang và chính quyền tỉnh Quảng Nam đã long trọng tổ chức buổi lễ truy tặng

Huân chương Sao Vàng cho cụ Huỳnh Thúc Kháng.

Trao huân chương cho người thân trong gia đình cụ Huỳnh, Chủ tịch nước

chia sẻ: “Trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta, Quảng Nam là một vùng

đất “địa linh nhân kiệt”, từ bao đời đã có sự giao thoa của nhiều nền văn hóa và là

nơi sản sinh nhiều trí thức lớn, chí sĩ yêu nước, lãnh tụ cách mạng, làm rạng rỡ

quê hương, đất nước.

Trong các giai đoạn lịch sử của dân tộc, mảnh đất Quảng Nam giàu truyền

thống yêu nước và cách mạng đã có những người con ưu tú cống hiến cả cuộc đời

cho cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân.

Trong đó, cụ Huỳnh Thúc Kháng là một trong những nhân vật tiêu biểu của

phong trào yêu nước đầu thế kỷ 20, cùng thế hệ với các chí sĩ Phan Bội Châu,

Phan Châu Trinh, là bạn đồng khoa với cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh Chủ tịch

Hồ Chí Minh.

Cuộc đời cụ là tấm gương sáng ngời về truyền thống vượt khó, hiếu học, về

nếp sống thanh cao giản dị, không màng danh lợi, suốt một đời vì nước vì dân...

Cụ là niềm tự hào của nhân dân Việt Nam”.

Những đóng góp của cụ Huỳnh thật khó kể hết trong vài kỳ báo ngắn ngủi

này, nhưng có lẽ chỉ riêng câu chuyện tranh đấu lợi quyền cho nhân dân giữa nghị

trường và lập tờ báo Tiếng Dân để “nói tiếng nói người dân” đã là những bài học

mà cụ để lại cho hậu thế. Những bài học không bao giờ cũ.

Thử hình dung đất nước ngay sau ngày độc lập năm 1945, giữa bối cảnh

thù trong giặc ngoài, thế nước “ngàn cân treo sợi tóc”, vậy mà Hồ Chủ tịch tin

cậy đặt vào tay cụ tấm thiếp viết sáu chữ “Dĩ bất biến ứng vạn biến” nhờ cụ

Huỳnh thay mình làm quyền chủ tịch nước suốt mấy tháng trời để an tâm đi Pháp

theo lời mời của Chính phủ Pháp (đồng thời lúc này hội nghị Fontainebleau cũng

đang diễn ra, sự có mặt của Hồ Chủ tịch tại Pháp lúc này là vô cùng quan trọng).

Rồi dài theo con đường kháng chiến kiến quốc, cụ Huỳnh đã trút hơi thở cuối

cùng cũng chính trên con đường kháng chiến.

Ngày 21-4-1947, cụ ra đi sau mấy ngày lâm bệnh tại Nghĩa Hành (Quảng

Ngãi). Lễ tang cụ Huỳnh cũng là quốc tang đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ

cộng hòa.

Mộ cụ Huỳnh nay nằm trên núi Thiên Ấn (Quảng Ngãi) trở thành di tích

lịch sử, ngôi nhà ở Chợ Chùa (Nghĩa Hành), nơi cụ trút hơi thở cuối cùng sau một

đời dâng trọn cho dân cho nước, là di tích.

Và ngôi nhà ở Tiên Phước (Quảng Nam) cũng trở thành khu lưu niệm

Huỳnh Thúc Kháng, di tích quốc gia.

Mới đây, chính quyền huyện Tiên Phước cho biết sắp tới nhân lễ kỷ niệm

140 năm ngày sinh của cụ Huỳnh Thúc Kháng vào năm 2016, huyện sẽ chính

thức công bố chỉnh sửa quy hoạch lại nhà lưu niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng từ 3ha

lên 10ha và nâng cấp khu di tích quốc gia này lên thành khu di tích quốc gia đặc

biệt.

Page 43: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

43

Trong khi ở Quảng Ngãi và Quảng Nam những di tích liên quan đến cuộc

đời cụ Huỳnh được tôn tạo xứng đáng với cống hiến của cụ như thế thì ở Huế, di

tích trụ sở báo Tiếng Dân - nơi lưu giữ đậm nét nhất sự nghiệp cuộc đời của cụ

Huỳnh - lại tang thương không bút giấy nào tả xiết...

Ở Huế có một con đường mang tên cụ Huỳnh Thúc Kháng. Oái oăm thay, ngôi

nhà tàn tạ nhất trên con đường này lại từng là trụ sở báo Tiếng Dân của cụ

Huỳnh - Ảnh: Lê Đức Dục

Ngậm ngùi cùng Tiếng Dân

Chúng tôi vẫn thường đi qua con đường Huỳnh Thúc Kháng bên bờ sông

Đông Ba, mà trên những số báo Tiếng Dân địa chỉ này được ghi trang trọng ở góc

phải manchette báo: “Báo quán: số 123 đường Đông Ba, Huế”.

Đường Đông Ba xưa, nay đang mang tên cụ Huỳnh nhưng ngôi nhà chứng

tích lại hoang phế tàn tạ. Ngôi nhà quét vôi xanh nhợt nhạt, số nhà 123 xưa nay

đã thành số 193 với ba cửa ra vào cho một bề ngang chừng 7m.

Trong hình xưa, chỉ có lối đi đặt ở cửa giữa, hai cửa sổ phía hai bên ngôi

nhà nay cũng được trổ thành cửa đi.

Bước vào trong nhà, một bà cụ đang lần theo tường tập đi. Bà tên là Mai

Thị Hạnh Liên, năm nay đã 73 tuổi, vốn xưa là cấp dưỡng của Đại học Y Huế đã

về ở đây từ năm 1978.

Hóa ra sau bao nhiêu dâu bể, tòa nhà vốn là trụ sở báo Tiếng Dân sau khi

báo bị đình bản (năm 1943) cũng thay đổi công năng.

Một thời gian nơi đây trở thành địa chỉ của “Hội Ái hữu đồng châu Quảng

Nam”, rồi thành “cư xá sinh viên y khoa”. Sau năm 1975, số phận run rủi thế nào

để trụ sở Tiếng Dân trở thành khu tập thể cho chín hộ cán bộ nhân viên của Đại

học Y Huế, trong đó có hộ bà Hạnh Liên.

Vậy là đã ngót 40 năm gia đình bà sống ở “khu tập thể” bất đắc dĩ này. Bà

nói giọng ngậm ngùi: “Mấy hộ kia cũng là cán bộ của Trường đại học Y, sau này

Page 44: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

44

khấm khá họ chuyển ra ngoài, mua đất cất nhà, riêng tôi khó khăn quá, cả gia

đình mấy thế hệ cứ quẩn quanh đây”.

Chồng bà Liên mất đã lâu, con trai bà, anh Văn Hồng Đông, cùng vợ và hai

con chung sống trong “căn hộ tập thể” của mẹ.

Len lỏi qua ngách nhỏ giữa nhà, chúng tôi chui sâu qua một lối đi như cống

ngầm, lách qua vài cái khe hẹp nữa thì ra tới phía đường Phan Đăng Lưu. Hóa ra

căn nhà này có hai mặt tiền ở hai con đường rất có giá, thông nhau như nhà phố

từ thế kỷ trước.

Phía mặt tiền đường Huỳnh Thúc Kháng còn có dáng của ngôi nhà chứ bên

phía đường Phan Đăng Lưu sự nhếch nhác càng tăng lên gấp bội, lều bạt vây

quanh làm chỗ bán đủ thứ tạp pí lù, thông ra phố là lối đi nhỏ trổ qua bức tường

xây ngang tầm người.

Bao nhiêu là hội thảo, hội nghị ngợi ca công lao cụ Huỳnh, tôn vinh sự

đóng góp của Tiếng Dân cho báo chí nước nhà, vậy mà “của tin còn một chút

này” hóa ra ngậm ngùi quá đỗi!

Không lẽ đất Huế, vốn khởi đầu cho lịch sử báo chí miền Trung, lại không

quan tâm đến chứng tích này? Hay còn có lý do nào nữa?

Chợt nhớ thầy giáo dạy báo chí của chúng tôi, thầy Phạm Phú Phong, trong

những câu chuyện về nghề nghiệp có lần kể rằng khi dạy môn lịch sử báo chí cho

một khóa sinh viên khoa báo chí của ĐH Huế, thầy bảo rằng sinh viên nào viết

được một trang giấy A4 về trụ sở báo Tiếng Dân ở Huế mà thông tin nằm ngoài

giáo trình thì thầy sẽ cho 8 điểm ngay, khỏi thi!

Cả lớp ngơ ngác không biết cái tòa báo Tiếng Dân ấy hiện nằm ở đâu tại

Huế.

Tròn một năm nữa là kỷ niệm 140 năm ngày sinh của cụ Huỳnh, chắc chắn

làng báo nước nhà sẽ có nhiều bài báo tôn vinh cụ. Nhiều di tích lưu dấu cụ

Huỳnh ở Quảng Nam, Quảng Ngãi sẽ được mở rộng, trùng tu tôn tạo xứng với

cống hiến của cụ Huỳnh cho dân cho nước.

Mong sao đến khi ấy, căn nhà 193 Huỳnh Thúc Kháng này sẽ thật sự trở

thành một di tích xứng tầm với cụ Huỳnh, một con người, một kẻ sĩ, một nhà báo

của nhân dân, vĩnh hằng trước thời đại!

LÊ ĐỨC DỤC - TẤN VŨ - THÁI LỘC

http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/phong-su-ky-su/20151006/mai-sau-du-co-

bao-gio/980485.html

Page 45: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

45

TƯ TƯỞNG CANH TÂN CỦA CỤ HUỲNH THÖC KHÁNG

Ngày 20-4, nhân kỷ niệm 65 năm ngày mất của cụ Huỳnh Thúc Kháng (21-4-

1947 – 21-4-2012), Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và UBND tỉnh Quảng Nam

tổ chức Hội thảo khoa học về thân thế và sự nghiệp của cụ. Đây được xem là

cuộc “đánh giá lại” công trạng của cụ Huỳnh với vận mệnh dân tộc thông qua

những câu chuyện còn nguyên tính thời sự, về chữ “liêm”, chữ “sĩ” của người

làm quan; về tư tưởng canh tân, nhạy cảm với cái mới và chủ quyền của Việt

Nam với quần đảo Hoàng Sa.

Cụ Huỳnh Thúc Kháng thành lập báo Tiếng Dân năm

1927 và thông qua đó thể hiện tư tưởng đổi mới của

mình.

Liêm - sĩ của người làm quan Hơn 100 nhà sử học, nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa đã có tham luận quý giá về

thân thế và sự nghiệp của cụ Huỳnh. Cụ Huỳnh (sinh năm 1876, người làng Thạnh

Bình, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam) không chỉ được biết đến

là người học hành đỗ đạt cao mà còn có khí tiết của một nhà Nho xứ Quảng. Cụ

Huỳnh là một trong những người yêu nước hàng đầu, khởi đầu trong phong trào

Duy Tân. Vì vậy, lịch sử nhìn nhận cụ như nhân vật tiêu biểu nhất, tạo được gạch

nối lịch sử gắn kết phong trào yêu nước của các chiến sĩ Duy Tân với phong trào

Cách mạng. Trên báo Tiếng Dân, cụ thẳng thắn không tán thành phương thức

“cách mạng bằng bạo lực” nhưng cụ Hồ vẫn giao trọng trách quyền Chủ tịch nước

của một Nhà nước non trẻ cho cụ Huỳnh lãnh đạo trong 4 tháng ròng, thể hiện

niềm tin của cụ Hồ, của cách mạng đối với cụ Huỳnh.

Nhà nghiên cứu Phạm Ngọc Sinh (Phó Giám đốc Sở KH-CN Quảng Nam) cho

rằng, cụ Huỳnh là người sẵn sàng từ bỏ cái cũ, luôn luôn đi tìm cái mới. Cụ bỏ lối

“thi cử xong ra làm quan thời phong kiến” để dấn thân vào con đường canh tân đất

nước, muốn thay đổi hẳn chế độ cũ. Tinh thần ấy rất trung thực, thẳng thắn, khẳng

khái và rất quyết liệt. Cụ ra làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ, rồi sáng

lập báo Tiếng Dân, rồi về bên cụ Hồ với tinh thần công khai cũng thể hiện ý chí

đổi mới đó. Cái tinh thần ái quốc Nho giáo của cụ Huỳnh mang đậm truyền thống

yêu nước của người Quảng Nam, sĩ phu Quảng Nam.

Nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng, Đảng ta hiện đang vận dụng Nghị quyết

Page 46: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

46

TƯ 4 về nâng cao phẩm chất của đảng viên Đảng Cộng sản thì càng thấy phẩm

cách của cụ Huỳnh là mẫu hình của những giá trị truyền thống của dân tộc và

không ngừng đổi mới theo thời đại. Vì thế, chúng ta không chỉ tri ân người xưa mà

còn phải lấy nhân cách của người xưa để soi sáng con đường phát triển đất nước,

con đường xây dựng nhân cách con người thời đại. Cụ Huỳnh là biểu hiện rõ nhất

về “tính cách Quảng”, đó là tinh thần luôn tìm cái mới. Tính cách này gắn với “địa

linh”, cửa ngõ để hướng ra bên ngoài thông qua Hội An, Tourane (Đà Nẵng), nơi

du nhập những tư tưởng mới từ châu Âu và Đông Á. Cụ Huỳnh mang tính hay cãi

gay gắt của người Quảng Nam, điều đó thể hiện tính biện chứng: có phê phán cái

cũ thì mới phát triển được. Không phải ngẫu nhiên, Lê Thánh Tông đứng trên đỉnh

đèo Hải Vân nhìn về phía Nam mà thấy cả tiền đồ đất nước, con đường sống của

dân tộc. “Xứ Quảng” không chỉ rộng về không gian địa lý mà còn rộng thoáng về

tư tưởng.

Liên hệ khí tiết, khí phách và tính “hay cãi” của cụ Huỳnh với người “làm quan”

hiện nay, nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng, “đội ngũ cán bộ hiện nay rất

thiếu và yếu” những phẩm cách đó. Cụ Huỳnh được đánh giá là người khởi đầu

cho “văn hóa từ chức” khi từ bỏ chức Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ để

bày tỏ thái độ của mình. Trong khi đó, những phẩm cách mà người xưa có hiện

nay chúng ta đánh mất rất nhiều, nhất là làm quan phải liêm – sĩ. Chữ “liêm” đi

đôi với chữ “sĩ”, trong khi cả 2 phẩm cách này rất thiếu trong đội ngũ cán bộ của

ta hiện nay.

Chủ quyền Hoàng Sa trên báo Tiếng Dân Theo nhà nghiên cứu Hà Thị Sương và Nguyễn Thế Trung (Trung tâm nghiên cứu

Biển và Đảo – Đại học KHXH-NV TPHCM), tư tưởng canh tân của cụ Huỳnh còn

được thể hiện qua những bài báo về quần đảo Hoàng Sa trên báo Tiếng Dân.

Trong 16 năm tồn tại của tờ báo Tiếng Dân (1927-1943), cụ Huỳnh có những bài

viết thể hiện nhận thức của mình về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa qua bài “Dấu

tích Tây Sa (Parasels, Hoàng Sa) trong lịch sử việt Nam ta và giá trị Phủ Biên Tạp

Lục” đăng trên báo Tiếng Dân ngày 23-7-1938.

Theo cụ Huỳnh, cần phải sưu tầm, tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu bằng chữ Hán

của các bậc tiền nhân để lại về đảo Tây Sa (Hoàng Sa), vì đây là nguồn tài liệu

quý có thể làm chứng cứ pháp lý chứng minh chủ quyền của Việt Nam về quần

đảo Hoàng Sa. “… Một mớ sách chữ Hán của tiền nhân ta trứ tác, lâu nay đã bỏ

xó, lề hư bìa nát, phần đông, nhất là bạn thanh niên, cho đó là một thứ học mượn,

thứ chữ chết, không cần đếm xỉa đến, nay nhân vấn đề đảo Tây Sa, trở thành món

tài liệu rất quý giá có quan hệ đến công pháp quốc tế không phải là ít” – cụ Huỳnh

Thúc Kháng viết.

Theo nhà nghiên cứu Hà Thị Sương, cụ Huỳnh không những nhận thức được vấn

đề Hoàng Sa là của Việt Nam mà đồng thời còn dày công sưu tầm, nghiên cứu

trong những Hán văn đời trước để tìm ra chứng cứ đầy đủ, chứng chinh Hoàng Sa

là của nước Nam.

Nguyên Khôi

http://www.sggp.org.vn/chinhtri/2012/4/286698/

Page 47: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

47

HUỲNH THÖC KHÁNG

VỚI VẤN ĐỀ CHỦ QUYỀN HOÀNG SA CỦA VIỆT NAM

Đã 65 năm ngày Cụ Huỳnh Thúc Kháng yên nghỉ trên núi Thiên Ấn, Quảng

Ngãi (21/4/1947), nhưng mỗi lần nhớ đến Cụ chúng ta không khỏi bồi hồi xúc

động hồi tưởng về những trang viết của Cụ trên báo Tiếng Dân về chủ quyền

quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà cụ là chủ bút.

Trong đó Cụ đặc biệt chú ý đến các luận cứ khoa học để chứng minh chủ quyền

quần đảo Hoàng Sa của đất nước ta.

Cụ Huỳnh Thúc Kháng

Từ giữa những năm 1938 trở đi, việc tranh chấp quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc

gọi là Tây Sa) giữa Pháp và Nhật hết sức gay gắt. Tháng 3/1939, Nhật chiếm

quần đảo Hoàng Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam đặt dưới quyền cai trị của Pháp. Từ

ngày 12/7/1938, Tiếng Dân bắt đầu đăng một loạt bài về quần đảo Hoàng Sa (Tây

Sa), trong đó có bài nghiên cứu, bình luận dài, rất công phu và có giá trị: Dấu tích

đảo Tây Sa (Paracels) trên lịch sử Việt Nam ta và giá trị bản "Phủ Biên Tạp

lục" (Tiếng Dân, số 1284, 23/7/1938) do Sử Bình Tử tức Huỳnh Thúc Kháng

viết.

Trong bài báo này Cụ đề cập đến việc tranh chấp quần đảo Hoàng Sa đã trở nên

nghiêm trọng: "Như trong bài báo Tiếng Dân số trước đã nói, đảo Tây Sa là mấy

hòn đảo con con làm nơi trú cho loài chim biển ở ngoài biển khơi, không ai cần

để ý đến, mà nhân cuộc Trung - Nhật chiến tranh trở nên một vấn đề nghiêm

trọng trên trường quốc tế, rõ là một điều không ngờ". Và Cụ khẳng định: "Theo

các báo cáo ta gần đây sưu tập các tài liệu về đảo Tây Sa để chứng minh thì đảo

ấy là phần sở hữu của nước Nam ta, vì chính người Nam đã chiếm trước hết và

đã kinh dinh các công cuộc ở đảo ấy...".

Page 48: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

48

Bác Hồ, cụ Huỳnh Thúc Kháng trong Chính phủ đầu tiên nước Việt Nam dân chủ

cộng hòa.

Cụ đã liệt kê các tài liệu phong phú: Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn, Đại

Nam Nhất Thống Chí cả bản trước và bản của Cao Xuân Dục soạn lại, Triều

Chính Yếu Thực Lục của hai triều Gia Long-Minh Mạng, Lịch Triều Hiến

Chương của Phan Huy Chú hoặc Cống Hạ Ký Văn của Dương Quốc Dung, Mán

Hình Thi Thoại và Đông Hành Thi Thuyết của Lý Văn Thức, Biển Sử Cương

Giám của Nguyễn Thông... trong đó đều đề cập đến Hoàng Sa và chủ quyền của

nước ta từ thời bấy giờ. Trong số đó Cụ Huỳnh nhấn mạnh giá trị của Phủ Biên

Tạp Lục bởi sự khẳng định chuẩn xác các yếu tố hành chính, địa lý, kinh tế, quân

sự của một nhà khoa học uyên thâm. Qua bài báo "Dấu tích đảo Tây Sa

(Parasels) trong lịch sử Việt Nam ta và giá trị bản Phủ Biên Tạp Lục", trước hết

Cụ Huỳnh nhấn mạnh vấn đề chủ quyền quần đảo Hoàng Sa cần phải dựa vào các

tài liệu chữ Hán làm minh chứng:"...chúng ta lại phát kiến một điều không ngờ

nữa là một mớ sách chữ Hán của tiền nhân ta lâu nay đã bỏ xó, lề hư bìa nát,

phần đông nhất là bạn thanh niên, cho đó là một thứ học mượn, thứ chữ chết,

không cần đếm xỉa đến, nay nhân vấn đề đảo Tây Sa, trở thành món tài liệu rất

quý giá có quan hệ đến công pháp quốc tế không phải là ít".

Từ đó Cụ dựa vào các tài liệu cổ sử để chứng minh đảo Hoàng Sa thuộc quyền

quản lý của nước ta; cụ thể:

1. Trước hết Cụ dựa vào tài liệu Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Ðôn cuối đời Lê

để viết: "... nơi phủ Quảng Ngãi, huyện Bình Sơn, làng An Bình gần biển, ngoài

biển có nhiều hòn đảo, trong đó có đảo Hoàng Sa dài ước 30 dặm. Rồi kể vật sản:

yến sào, chim biển, ốc tai-ve, xà cừ, đồi mồi, hải sâm... Sử chép truyện Chúa

Nguyễn có đặt đội Hoàng Sa 70 suất thay phiên ra đảo lấy hải vật, đi 3 ngày đêm

Page 49: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

49

đến đảo, mỗi năm tháng 3 đi, tháng 8 về; lại có chép sao biên bản của Thuyên

Ðức Hậu là cai quản đội Hoàng Sa ấy, kể rõ mỗi năm nhặt được thiếc mấy cân,

vàng mấy hốt, đồi mồi, yến sào mấy cân, lại có khi nhặt được đồng khí, súng

tiền... (những thứ có lẽ là đồ vật của những chiếc tàu chìm đây đó). Ðến giá trị

nhất là tờ công văn của Quan Chánh Ðường quan huyện Văn Xương, phủ Huỳnh

Châu (Trung Hoa) gửi sang Chúa Nguyễn ở Thuận Hóa khi hộ tống hai tên trong

đội Hoàng Sa bị phiêu bạt sang đây; trong "Thuận Hóa", công văn có chép: "Năm

Càn Long thứ 19 (1754, triều Hiến Võ năm thứ 17) tên quân đội Cát Vàng, người

làng An Bình, huyện Chương Mỹ, phủ Quảng Ngãi, nước An Nam, ngày tháng 7

đi ra Vạn Lý Trường Sa tìm nhặt các hải vật, 8 tên lên bờ tìm nhặt để hai tên lại

giữ thuyền, rủi bị trận bão, đứt dây neo, thuyền trôi dạt vào bãi biển Tàu, viên

huyện Văn Xương cho thuyền về xứ, chúa Nguyễn Thuận Hóa truyền cai bạ Thức

Lượng Hầu làm thư phúc đáp".

2. Dựa theo Lịch Triều Hiến Chương của Phan Huy Chú, Cụ viết: "Cống Hạ Ký

Văn của cụ Dương Quốc Dung dưới mục Phong Vực có nhắc đến... ngoài phần

biển Quảng Ngãi có đảo Hoàng Sa từ cửa biển Sa Kỳ đi hướng đông, 3 ngày đêm

thì đến nơi, cồn cát nơi đứt nơi nối, vài mươi dặm không sao kể hết, dấu người ít

đến".

3. Cụ dựa vào Mán Hình Thi Thoại và Ðông Hành Thi Thuyết của cụ Lý Văn

Thức ghi lại trong những chuyến đi Trung Quốc và Lucon (Philippines): Năm

Minh Mạng thứ 12 (1831), Cụ đi Phúc Kiến có chép: "Thuyền đi về bến hữu, nơi

gọi là "Vạn Lý Thạch Ðường" đều là cát vàng (Hoàng Sa) cũng gọi là "Vạn Lý

Trường Sa"; Cụ có bài thi có câu: Vạn Lý Trường Sa bí tuyệt hiểm Thất châu

cuồng lăng nhạ oan hào. Năm Minh Mạng thứ 13 (1832) Cụ lại đi Lữ Tống

(Lucon) đảo Phi Luật Tân hồi đó thuộc Tây Ban Nha. Thuyền từ Quảng Ngãi đi

theo hướng đông, bị gió lạc vào vùng Vạn Lý Trường Sa, Cụ có bài dẫn nói: Một

chòm đảo cát nổi lên giữa biển, phía tây là biển Quảng Ngãi, phía bắc tiếp biển

Quảng Ðông, Phúc Kiến, phía đông tiếp biển Lữ Tống, phía nam thì kéo dài... là

một nơi tuyệt hiểm có thuyền bè.

4. Tiếp đến Cụ dẫn Ðại Nam Nhất Thống Chí cả bản trước và bản của cụ Cao

Xuân Dục mới soạn lại và bản Triều Chính Yếu Thực Lục cả tiền triều và triều

Minh Mạng, bản Biển Sử Cương Giám của Nguyễn Thông để minh chứng: Đảo

Tây Sa là phần sở hữu của nước Nam ta, vì chính người Nam đã chiếm trước hết

và đã kinh dinh các công cuộc ở đảo ấy...

Như vậy, theo Cụ Huỳnh Thúc Kháng, về vấn đề chủ quyền quần đảo Hoàng Sa

cần phải chú ý đến các yếu tố sau đây:

1. Vấn đề tranh chấp quần đảo Hoàng Sa đã diễn ra từ cuối những năm 40 của

thế kỷ XX.

2. Quốc gia nào có đầy đủ các bằng chứng, cứ liệu sớm về phân thư, chúc thư,

luật điền thổ - lập nghiệp của tiền nhân để lại, cũng như các thư tịch cổ khẳng

định chủ quyền của quần đảo này thì quốc gia đó có luận cứ khoa học khẳng định

chủ quyền quần đảo Hoàng Sa thuộc về mình.

Page 50: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

50

3. Cần sử dụng các tư liệu Hán Nôm, các tài liệu thuộc về thư tịch cổ để tìm cơ

sở khoa học cho chủ quyền quần đảo Hoàng Sa thuộc về ViệtNam đã từ lâu.

4. Cần chú ý nghiên cứu triều Nguyễn về vấn đề bảo vệ chủ quyền biên giới quốc

gia, đặc biệt là biên giới biển đảo.

5. Trong tất cả các tài liệu cổ, tác phẩm Phủ biên Tạp lục của Lê Quý Đôn là tài

liệu có giá trị nhất về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa đối với Việt Nam. 65 năm

trôi qua nhưng những trăn trở, suy nghĩ, những lời răn dạy của Cụ Huỳnh Thúc

Kháng về đất nước, về chủ quyền biển đảo vẫn còn nguyên giá trị lịch sử. Nhớ về

Cụ, chúng ta không chỉ nhớ về một con người "không cần danh vị, không cần lợi

lộc, không thèm giàu sang" chỉ "phấn đấu cho dân được tự do, nước được độc

lập"; nhớ lại những bút tích của cụ về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, ta lại càng

thấm thía hơn đạo đức, nhân cách và trách nhiệm của Cụ đối với dân tộc và đất

nước.

Ngày 20/4, UBND tỉnh Quảng Nam phối hợp với Hội Khoa học Lịch sử

Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học "Thân thế và sự nghiệp Cụ Huỳnh Thúc

Kháng giai đoạn 1876-1947" H. Tiên Phước.

Phát biểu khai mạc Hội thảo, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam Trần Minh

Cả nhấn mạnh, Hội thảo là dịp ôn lại, tìm hiểu sâu hơn cũng như bày tỏ lòng

thành kính, tri ân sâu sắc đối với cuộc đời, sự nghiệp của cụ Huỳnh Thúc

Kháng - một chí sĩ yêu nước nổi tiếng, nhà hoạt động văn hóa xuất sắc, vị lãnh

đạo Nhà nước mẫu mực, người con ưu tú của quê hương Quảng Nam... Hội

thảo nhận được 91 bài viết của các nhà nghiên cứu, giảng dạy lịch sử, văn học

và một số ngành khoa học xã hội nhân văn trong cả nước xoay quanh các nội

dung: Những vấn đề lịch sử liên quan đến sự nghiệp chính trị của cụ Huỳnh

Thúc Kháng; Mối quan hệ giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và cụ Huỳnh Thúc

Kháng; Những di sản để lại của cụ Huỳnh Thúc Kháng, một tấm gương gắn kết

người trí thức với vận mệnh dân tộc... Từ nhiều góc nhìn khác nhau, các tham

luận góp phần làm rõ những nhân tố khách quan, chủ quan đã làm nên lý tưởng

và nhân cách cao đẹp của cụ Huỳnh, đồng thời, cung cấp những tư liệu quý,

nhiều thông tin bổ ích, có giá trị về tài năng, đức độ và những đánh giá quan

trọng về nhà văn hóa, chí sĩ yêu nước, quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc

Kháng. (T.Tân)

Theo PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh

ĐH Khoa học Huế

http://dantri.com.vn/chinh-tri/huynh-thuc-khang-voi-van-de-chu-quyen-hoang-sa-

cua-viet-nam-1338316075.htm

Page 51: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

51

HUỲNH THÖC KHÁNG VÀ BÁO TIẾNG DÂN

QUA BÁO CÁO MẬT THÁM PHÁP

Huỳnh Thúc Kháng – một nhà nho ái quốc, một lòng đau đáu với vận mệnh

dân tộc, lúc thuyết trình cũng như khi viết báo cụ đều đề cao tinh thần dân tộc,

chống mọi bất công, áp bức, cường quyền. Suốt một đời, cụ hết lòng tận tuỵ,

cống hiến cho quê hương đất nước, đặt quyền lợi nhân dân, quốc gia, xã tắc

lên trên hết. Con người khẳng khái, nghĩa khí cương cường đó, “nhà cách

mạng công khai” mang đậm phong cách Quảng đó, làm thế nào để tồn tại giữa

xã hội thuộc địa nửa phong kiến như nước ta thời bấy giờ? Thông qua những

báo cáo mật thám Quảng Nam, mật thám Trung kỳ và mật thám Đông Dương,

bài viết này xin phác hoạ đôi nét về cụ Huỳnh và báo Tiếng Dân do chính

những kẻ thù của cụ ghi lại.

Vào năm 63 tuổi, trong một bài báo trên báo Tiếng Dân cụ Huỳnh đã cho

rằng cái số của mình là “thường hay bị chấm đầu sổ” trong đó cụ liệt kê ra những

cái “đầu sổ‟ của mình và không quên nhắc: “đứng đầu sổ tù chung thân Côn

Đảo” rồi “Viện trưởng Viện Dân biểu Trung kỳ” và “cái Chủ nhiệm và chủ bút

báo Tiếng Dân” song có lẽ có một cái “đầu sổ” khác mà cụ không biết hoặc có

biết song vẫn phớt lờ là, cụ luôn bị xem “là một trong những phần tử nguy hiểm,

cần theo dõi đặc biệt” trong sổ đen của mật thám Pháp!

Quả vậy, từ một tù nhân chính trị “làm tổn hại đến nhà nước bảo hộ qua

các cuộc dấy loạn”, lúc ở Côn Đảo về ít lâu lại đắc cử vào Viện Dân biểu Trung

kỳ, cụ Huỳnh đã làm cho chính quyền thực dân và phong kiến Nam triều đặc biệt

quan ngại, do uy tín của cụ rất lớn trong các tầng lớn nhân dân Trung kỳ, nhất là

Quảng Nam nơi quê hương của cụ. Trong một báo cáo chính trị của Công sứ

Quảng Nam ngay khi cụ đắc cử cho thấy: “Trong những nguyên nhân ở tại địa

phương đã làm dấy lên một tình hình căng thẳng, phải kể đến kết quả của những

cuộc bầu cử vừa rồi vào Viện dân biểu Trung kỳ. Không nói ngoa khi nhận xét

rằng: kết quả của những cuộc bầu cử đã đưa lại quyền lực cho đa số áp đảo

những ứng cử viên phe đối lập, trong đó có người tù chính trị trước đây là Huỳnh

Thúc Kháng được bầu với 624 phiếu trong 644 người bầu cử, cho phép phái

"Thanh niên An Nam" cũng như phái của những nhà nho hòa thuận với nhau

hoàn toàn để họ có thể nghĩ đến nhiều nguyện vọng. Có thể thấy đó là khả năng

khởi đầu một hành động độc lập, công khai và rõ ràng của những phần tử tên

tuổi có tư tưởng tiến bộ và đấu tranh, mà một số tấn công vừa qua đã là biểu hiện

rõ rệt. Giả thuyết ấy không phải không có cơ sở nhưng đó chỉ là một giả thuyết

dựa vào: trước hết là tín nhiệm của dân chúng tỉnh Quảng Nam đối với nhà nho

Huỳnh Thúc Kháng và các nghị viện khác. Tất cả trong phe đối lập cũng được sự

tín nhiệm ấy nhưng nhân cách của họ kém hơn”[1].

Khi trở thành Viện Dân biểu Trung kỳ, ông nghị Huỳnh Thúc Kháng đã tạo

ra hàng loạt những “tiếng sét giữa trời quang”, nhất là khi cụ đọc bài diễn văn đưa

ra 3 điểm cốt tử mà Viện và cá nhân Viện trưởng phải đề đạt lên chính phủ bảo

hộ giải quyết gồm: một là "học giới bó buộc", hai là "tài nguyên kiệt quệ", ba là

"hình luật phiền lụy". Cụ đã chỉ rõ: "Hình luật Nhà nước đặt ra là cốt để trị người

Page 52: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

52

có tội (như đạo kiếp, loạn tặc) đặng giữ gìn trật tự, duy trì cuộc trị an trong xứ,

nếu người không tội mà bị hình, hoặc bị vu cáo, chưa tra xét cho đích thực mà đã

bị bắt bị giam, thì sao cho khỏi điều oan khuất, mà những người trọn đời lương

thiện thì cũng không biết đường nào mà tránh. Hiện xứ Trung kỳ mấy năm gần

đây bị cái phong triều bề ngoài kích thích mà không khí bề trong có hơi lộn xộn.

Nhà nước vì cuộc trị an buộc phải thi hành cái hình luật nghiêm ngặt (báo sách

bị cấm, bị bắt, dân gian bị xét nhà xét cửa, cho đến diễn thuyết làm trường học

cũng bị lụy), những người làm quấy mà bị tội đã đành, mà những kẻ oan hẹp

cũng không ít, gia dĩ tội danh không được rõ ràng, chứng cớ không được xác thực

(ở Trung kỳ bắt tội đã không tuyên án cho người bị tội biết, lại không được cải lẽ

nữa, thật là một điều rất lạ) những bọn sinh sự dân công, hiệp hiềm vu oán, nhân

đó mà thi cái thủ đoạn ám muội. Một tờ đầu cáo tra xét đến năm bảy nhà, hai chữ

tình nghi hãm hại biết bao nhiêu kẻ, tự Nhà nước tin theo những lời thêu dệt, cho

là phản kháng, cho là phiến loạn, không trị không được, mà biết đâu ở trong lành

là chuyện ít mà xít cho nhiều, sự nhỏ mà gây ra lớn làm cho dân ngu cùng bọn

thiếu niên sa vào lưới, tội mà không biết và cũng không tránh được. Thảm hại

biết là chừng nào!"[2]. Và về khoản "tài nguyên kiệt quệ", cụ cũng chỉ rõ: “Nước

có nguồn thì múc mới khỏi cạn, cây có gốc thì trái mới được thường, tài nguyên

trong một xứ sinh sản có ít mà tiêu phí thì nhiều, thì tự nhiên ngày càng thấy khốn

đốn. Xứ Trung kỳ đất hẹp dân nghèo, khai thông chậm trễ, công nghệ thì không

có gì là nội hóa, thương mại thì quyền ở ngoại thương như tơ, đường, chè, quế…

người khách chở đi xứ nọ xứ kia, cái giá cao thấp tự người khách định, người

Nam vì không đi đâu được, nên người khách ép uổng thế nào cũng phải chịu.

Phần nhiều nhân dân Trung kỳ chết sống chỉ nhờ nghề nông, lại bị cái nạn thủy

hạn không năm nào không có, ruộng đất, vật sản chỉ có ngần ấy mà ngạch thuế

mỗi năm một gia, tuy tự Nhà nước vì việc kinh phí to tát, bất đắc dĩ phải lấy của

dân, song Nhà nước đã lấy sự gia thuế làm cái phương pháp lý tài, quan lại nhân

đó mà lập công, hào cường nhân đó mà chiếm chỉ, mỗi năm đến kỳ thuế, trong

dân gian chạy sấp chạy ngửa trống mõ giục dòn, gông cùm hò hét, tình cảnh rất

là rắc rối. Đó là chưa kể cái tệ "phí thu tạm sách" của bọn hoạt lại gian hào, mồ

hôi nước mắt, cào trong dân gian đã đến đáy, trên chưa lên đến cửa Nhà nước,

mà rớt đường rớt sá đã lọt vào túi tham đâu đâu, rút cục lại dân chỉ quy oán cho

Nhà nước. Tát ao bắt cá được cá vẫn dễ mà ngày sau thành ra ao khô, đốn cây

hái trái được trái vẫn nhiều mà mùa sau thành ra cái vườn bỏ. Nhà nước một nói

rằng nhân từ, hai nói rằng khoan địa, mà về đường tài chánh, không trừ cách gì

cho ra ngoài sự "gia thuế" được, thì cái nạn nghèo khốn của người An Nam, cũng

không phải là cái lợi lâu dài của nước Pháp"[3]. Cụ Huỳnh phát biểu như thế,

hóa chẳng khác gì bảo thực dân Pháp bòn rút một cách cạn kiệt tài nguyên, của

cải, nhân vật lực của xứ Nam để về làm giàu cho chính quốc là gì!.

Với chủ trương Viện Dân biểu là nơi tiếp thu ý kiến và nguyện vọng của

người dân, cụ Huỳnh đã tiếp nhận hàng ngàn trường hợp oan khiên, hàng chục

ngàn những điều chướng tai, gai mắt của đám hào lý, quan lại địa phương các tỉnh

và đưa lên bàn nghị sự của Viện, để rồi làm ra biên bản gửi Toà Khâm đề nghị

giải quyết. Hành động đó của cụ đã đi quá ý đồ ban đầu của thực dân Pháp là chỉ

xem Viện Dân biểu là “một cái bình phong, với những ông nghị gật” cho mình.

Page 53: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

53

Tuy nhiên chúng đã lầm, bởi Huỳnh Thúc Kháng không phải là ông Viện trưởng

của đám “nghị gật”. Bằng chứng là ông đã phản đối kịch liệt Toà Khâm sứ tự ý

sửa chữa biên bản các cuộc họp của Viện. Để trả miếng, nhân việc các ông nghị

đề nghị chính quyền Pháp cấp tiền lộ phí, tên Khâm sứ Trung kỳ lúc đó là D‟

Elloy đã viết thư mạt sát toàn Viện. Với tư cách là Viện trưởng, cụ Huỳnh đã viết

thư và đồng ký tên cùng 40 nghị viên khác, gửi Khâm sứ Trung kỳ và Toàn quyền

Đông Dương. Trong thư có đoạn: “Đã là cơ quan chính trị thì khoản lộ phí nhật

cấp dân biểu có quyền được hưởng. Kìa những con mọt trong kho nhà nước, con

đĩa hút máu nhân dân sao không nói, mà lại đi trách dân biểu đòi tiền lộ

phí”. Cuối cùng viên Toàn quyền Đông Dương Pasquier phải gửi thư trực tiếp xin

lỗi. Và dĩ nhiên, không lấy làm lạ khi báo cáo mật thám Trung kỳ lúc đó đã

liệt “ông Viện trưởng của cái Viện ấy phát biểu thay một cách công khai cho

những người cộng sản”!?.

Với tư cách là Viện trưởng, cụ Huỳnh còn đề nghị “có một Hiến pháp hẳn

hoi và mở rộng quyền hạn cho nhân dân được tham dự chính trị”[4]. Về điều

này, quan điểm của cụ không khác lắm với Nguyễn Ái Quốc lúc đó là: "Hiện tình

về đường chính trị: Dân chúng tôi không được quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn

luận, tự do giáo dục, tự do du lịch và xuất ngoại, tự do lập đảng, tự do hội đồng.

Dân bản xứ chịu một thứ hình luật riêng. Sổ chi-thu trong nước, dân không được

quyền quản đốc đến. Biết bao nhiêu trường học của dân ngày trước nay đều bị

hủy hoại, mà trường mới của chính phủ lập thì chẳng được là bao!"[5]. Quan

điểm đó của cụ, mãi đến năm 1937, đã được các nghị sĩ thường trực Viện Dân

biểu Trung kỳ cho đăng ngày 9 tháng 11, trên tờ Trung Bắc Tân văn ở Hà Nội

khá đầy đủ[6].

Với sự cứng cỏi, dám đương đầu với bạo quyền của Viện trưởng Huỳnh

Thúc Kháng làm cho mâu thuẫn giữa cụ và Khâm sứ Trung kỳ mỗi ngày thêm

sâu sắc. Trước tình thế đó, cụ đã đọc một bài diễn văn rất sắc bén nêu lên thảm

trạng của nhân dân Trung kỳ giữa toàn Viện và tuyên bố từ chức. Trước khi từ

chức, cụ đã cho đăng nguyên văn trên báo Tiếng Dân bài đáp từ của Khâm sứ

Trung kỳ là Jabouille, với thủ thuật “đưa tin không bình luận” theo đúng phong

cách báo chí Huỳnh Thúc Kháng, để vạch mặt chính sách mị dân, giả hiệu của

hắn và cái hư danh Viện Dân biểu Trung kỳ mà cụ đang làm Viện trưởng, bài đáp

từ có đoạn: “Bởi thế nên cũng không lạ chi cái thái độ của Viện này cũng tiêm

nhiễm cái ảnh hưởng ấy (tức đòi tự do, đòi thực sự dân chủ, đòi quyền lợi chính

trị) nên dân càng đòi với chính phủ Nam triều hay chính phủ bảo hộ. Viện này ra

mặt phản kháng, khi nào cũng công kích, khi nào cũng hoài nghi cái ý tưởng hay

của bảo hộ, cho đến nỗi quên hẳn cái phạm vị chức vị theo thể lệ đã đặt ra cái

Viện này… Các ông đừng tưởng rằng Viện Nhân dân đại biểu ở đây y như Hạ

viện bên Tây do phổ thông đầu phiếu bầu ra, tưởng rằng không những được

quyền giám sát Chính phủ mà còn được dự cả quyền thống trị và quyền hành

chính với nhà nước bảo hộ nữa, còn với Nam triều, theo ý các ông thì không cần

thiết nữa. Nghĩ như vậy thiệt trái hẳn với sự thật, với cái ý tưởng sáng lập ra Viện

này, mà cũng nên nói hẳn cho rõ là sai hẳn đến cái tình thế hiện thời nữa”[7].

Tin cụ Huỳnh từ chức Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ làm rúng động

dư luận Trung kỳ. Nghĩ rằng sẽ tác động mạnh đến dư luận và sẽ gây ra những

Page 54: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

54

phản ứng mạnh từ dân chúng nên thực dân Pháp ra lệnh cho bọn mật thám, nhất

là tại Huế và Quảng Nam quê hương của cụ theo dõi sát tình hình. Báo cáo chính

trị tại Quảng Nam vào thời gian này cho thấy: “Sự yên tĩnh của dân chúng Quảng

Nam không bị ảnh hưởng bởi những sự việc xảy ra ở Huế hồi tháng 11 năm 1928,

dịp Viện dân biểu họp trong lúc ấy có 2 trong 3 dân biểu, kể cả ông Huỳnh Thúc

Kháng - Chủ tịch Viện buộc phải từ chức. Những tiếng vang của sự kiện nói trên,

tuồng như đã làm ồn ào ở Huế được tiếp tục ở đây với một tinh thần lãnh đạm và

hoàn toàn vô tư. Thật là quá ngạc nhiên mà nhận thấy rằng, việc từ chức nói trên

mà triển vọng đã đến phủ Toàn quyền trong kỳ họp Hội đồng nhà nước vừa qua,

làm cho các cử tri bầu 2 ứng cử viên từ chức ấy ít quan tâm đến. Có nên thấy

trong tình hình nói trên một vấn đề đơn giản là: ánh hào quang do tư cách cựu

phạm chính trị ở Côn Đảo của ông Huỳnh Thúc Kháng đã lu mờ đi thuộc những

nhận thức của thời cuộc, hoặc nói một cách đơn giản hơn là tư cách của họ

không quá rực rỡ như chúng ta thường nghĩ đến. Tôi đã có nhiều dịp tiếp chuyện

với các ông Huỳnh Thúc Kháng và Lương Quý Di, mỗi lần đi ngang qua Faifo họ

đều đến Tòa sứ một cách lịch sự và tôi đã nhận thấy qua những cuộc tiếp xúc với

2 ứng cử viên của phe đối lập, ấn tượng của sự mất tin tưởng của họ vì, hình như

họ không tìm được ở những cử tri những sự cổ vũ để kích thích những nghị lực

của mình. Thật ra, Hội đồng dân cử đã trừ khử những phần tử đã bị án tù nhiều

là điều tốt nhưng mà có nên tiếc rằng những kẻ cựu phạm không còn ảnh hưởng

chính trị nữa”[8].

Nói đến cụ Huỳnh Thúc Kháng mà không đề cập đến báo Tiếng Dân, nhất

là sự kiểm soát và kiểm duyệt của mật thám Pháp dành cho báo này là một thiếu

sót lớn.

Báo Tiếng Dân được phép xuất bản theo nghị định ký ngày 12/02/1927 của

Toàn quyền Đông Dương Pasquiet. Tờ báo có khổ 58 x 42cm, phát hành mỗi tuần

hai kỳ. Trong thời kỳ vận động dân chủ 1936 - 1939, báo ra ba kỳ một tuần. Mặc

dù chỉ có 4 trang nhưng do khổ báo lớn nên dung lượng bài vở của báo khá phong

phú. Đây là tờ báo đầu tiên ở miền Trung và là tờ nhật báo duy nhất xuất hiện

trước năm 1930. Tuy ra đời có trễ hơn nếu so với báo chí ở hai miền Nam, Bắc

nhưng báo Tiếng Dân đã đóng một vai trò chính trị quan trọng trong đời sống của

nhân dân Trung kỳ. Cụ Huỳnh Thúc Kháng đã giải thích từ “Tiếng Dân” trên tờ

La Tribune Indochinoise số ra ngày 24/12/1926 như sau: “Đó là sự vui mừng, sự

buồn tủi và sự chờ đợi ấp ủ trong lòng hàng triệu đồng bào. Dân là đầu mối của

nước. Tiếng Dân đi sát với những vấn đề trong nước. Nếu chánh phủ biết rõ

những nguyện vọng sâu xa của dân thì cần gì đối xử bất công với Tiếng Dân như

đã từng đối xử với vài tờ báo đã ra mắt gần đây và đã bị đóng cửa. Tờ báo này

thật xứng đáng để mang tên là Tiếng Dân, vì trong thực tế, phải nhờ đến báo chí

thì Tiếng Dân mới bộc lộ ra được”. Quan điểm chính yếu của cụ Huỳnh khi làm

báo là: “Tôi là nhà cách mạng công khai, tôi đấu tranh cho quyền lợi của dân tộc

Việt Nam một cách công khai. Vì đất nước Việt Nam có biên cương và lãnh thổ

công khai trên bản đồ thế giới. Cho nên, tôi cũng công khai nói lên tiếng nói của

người Việt Nam yêu chuộng hòa bình, độc lập, tự do và tự chủ. Do đó, tôi thách

đố mọi trừng phạt và hiểm nguy đến với cá nhân tôi”.

Page 55: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

55

Từ quan điểm đó cùng với những bài báo được đưa hằng ngày lên báo

Tiếng Dân, đã trở thành cái gai trong mắt thực dân Pháp và dĩ nhiên là tâm điểm

của mật thám Trung kỳ, bởi chúng đã liệt cụ và báo Tiếng Dân vào đối tượng cần

đặc biệt theo dõi. Chính vì thế, ngày nay, có dịp đọc các báo cáo mật thám tại

Quảng Nam, Huế và của mật thám Trung Kỳ, đều thấy người Pháp theo dõi cá

nhân cụ Huỳnh và báo Tiếng Dân khá sát sao. Từ lúc cụ tiếp chuyện Toàn quyền

Đông Dương, đến khi về thăm quê tại Tiên Phước, diễn thuyết ở Tam Kỳ, ghé

Hội An, hay dự các hội nghị báo chí… đều được đề cập trong các báo cáo của

mật thám Trung kỳ. Ví như sự kiện “Các nhà báo cách mạng ở Trung kỳ cùng

họp nhau ở Huế, ngày 15 tháng 1, ở trụ sở ban biên tập báo Nhành Lúa để chuẩn

bị thành lập một Nghiệp đoàn báo chí. Nhưng không thành, vì các chủ nhiệm báo

Tiếng Dân, Sông Hương (Huế) và Tràng An không đồng ý”[9]cũng được đề

cập.Việc đi lại nhiều tại Quảng Nam của cụ Huỳnh lúc bấy giờ còn đáng quan

ngại với thực dân Pháp Pháp hơn khi: “Nhưng còn có điều đáng lo ngại là phong

trào cộng sản vì có thể phát triển ở Quảng Nam vì tỉnh này có những điều kiện

chính trị, xã hội và kinh tế giống như tỉnh Quảng Ngãi lân cận, nơi đã xảy ra

những sự biến nghiêm trọng mà chúng tôi sẽ nói đến sau đây. Cả hai tỉnh ấy, năm

1908, là nơi đã diễn ra cuộc nổi dậy hòa bình thường gọi là "cuộc nổi dậy của

những người cắt tóc ngắn". Cuộc nổi dậy này không phải là không có những

điểm giống như những cuộc biểu tình hiện nay của nông hội đỏ, tức là cũng được

huy động nhanh chóng, cũng có một sự tuân thủ thụ động của đông đảo quần

chúng đối với những người chỉ huy nằm phân tán ở trong bóng tối. Cả hai tỉnh

đều có nhiều thế hệ những sĩ phu có nhiều tham vọng và cơ bản vẫn là những

người quốc gia chủ nghĩa có thể so sánh với Phan Chu Trinh rất nổi tiếng trong

những năm gần đây. Chủ nghĩa quốc gia ở đây cũng như ở Vinh và Hà Tĩnh đáng

lẽ ra đã có thể mở đường cho công tác tuyên truyền bôn sê vích”[10]

Với cách đưa tin “rất Huỳnh Thúc Kháng”, ông đã bất chấp sự kiểm duyệt

của mật thám Pháp và “bất tuân thượng lệnh” của chúng. Bởi với cụ, cái quyền

của người làm báo, nhất là chủ nhiệm báo là: “Nếu không có quyền nói tất cả

những điều mình muốn nói, thì ít ra cũng giữ cái quyền không nói những điều

người ta ép buộc nói”. Có lần, cụ Huỳnh quyết không chịu đăng nguyên văn một

bản tin do Toà Khâm sứ Trung kỳ nhờ đăng hộ. Khâm sứ Jabuoille gọi dây nói

sang dọa sẽ đóng cửa tờ báo, cụ Huỳnh dõng dạc: “Tôi nghĩ việc cho đăng hay

không cho đăng một bài gì lên mặt báo là quyền của chủ nhiệm báo; cũng như

cho xuất bản hoặc đóng cửa một toà soạn báo là quyền hành của chính phủ. Nay

quan lớn cất cái quyền ấy của tôi thì chẳng khác gì quan lớn đã đóng cửa tờ báo

Tiếng Dân vậy. Mà tôi không trông gì hơn, vì dưới quyền ngôn luận quá chật hẹp,

tôi thấy nhiệm vụ của tôi đối với nhân dân quá nặng nề!”. Vì thế, trong các báo

cáo của mật thám Pháp tại Trung kỳ thấy có nêu rõ “những báo chống đối ở

Trung kỳ có tờ “Tiếng dân” là báo đối lập hoạt động ngấm ngầm và những tờ "Ý

dân", "Tuần lễ" và "Dân" xuất bản không đều kỳ”.

Điều độc đáo đáng nói ở đây là, đâu đó còn có một số ý kiến cho rằng cụ

Huỳnh thân Pháp song tất cả các báo cáo mật thám mà chúng tôi có dịp tiếp cận

đều cho rằng cá nhân cụ và báo tiếng dân là “có tư tưởng cộng sản”. Đáng quý

hơn, hầu hết những phong trào đấu tranh dân sinh, dân chủ do Đảng Cộng sản

Page 56: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

56

Đông Dương lúc đó phát động (1936-1939), nhất là phong trào chuẩn bị “đón

Goda”, phong trào chống thuế thân năm 1938… Tiếng Dân đều có nhiều bài phản

đối chính quyền một cách mạnh mẽ, gây khó chịu cho thực dân Pháp và phong

kiến Nam triều.

Tháng 3 năm 1937, để cổ vũ phong trào dân sinh, dân chủ do Đảng cộng

sản lãnh đạo cũng như chuẩn bị dư luận để đón Goda, tại Huế, nhiều tờ báo trong

cả nước đã mở một “Hội nghị báo chí bằng tiếng An Nam”, thì báo cáo mật thám

Pháp cho biết: “Tất cả các báo bằng tiếng An Nam đã công khai hay mặc nhiên,

có khi vô tình, tiếp nhận công thức của Mặt trận phản đế do Đông Dương cộng

sản Đảng đề nghị. Các đại biểu của họ đã họp thành hội nghị tại Huế, ngày 27

tháng 3, trong dịp hội chợ thay mặt cho báo chí Trung kỳ: Báo Tiếng Dân (có

giám đốc Huỳnh Thúc Kháng, dân biểu) và bốn đại biểu Báo Nhành Lúa (chủ bút

Nguyễn Khoa Vân, thành viên của bộ phận hợp pháp của Đông Dương cộng sản

Đảng) có 5 đại biểu; Báo Sông Hương (giám đốc Phan Khôi) có 1 đại biểu; Báo

Tràng An (giám đốc Bùi Huy Tín) có 2 đại biểu; Báo Đông Dương hoạt động

(giám đốc Võ Quý Huân, dân biểu) có 1 đại biểu; Báo Lectures (giám đốc

Soularv) có 1 đại biểu; Báo Vì Chúa (giám đốc là người Gia tô giáo Tôn Thất Đễ

tức Kỳ) có 1 đại biểu; Báo Trung Nam Bắc (giám đốc Phạm Gia Mỹ) có 1 đại

biểu”[11]. Hội nghị báo chí trên đã xác định rõ mục tiêu cần phải đấu tranh mạnh

mẽ hơn nữa vấn đề dân sinh, dân chủ cho nhân dân khắp 3 kỳ. Một chiến dịch cao

điểm tuyên truyền của báo chí đã được khởi xướng. Và, để “điểm mặt” những báo

có tư tưởng cộng sản và chống đối trong thời gian này, báo cáo mật thám Pháp

cho hay: “Việc tuyên truyền cách mạng bằng các báo tiếng An Nam trong tháng

này đã lên tới độ rộng và mức độ hung hăng đáng ngại”. Ở Trung kỳ, các báo

Sao Mai, Tiếng Dân và Tràng An vẫn tiếp tục chiến dịch của mình chống chế độ

nhà lao và chính quyền địa phương. Họ đã đăng nhiều bài có khuynh hướng Mác

xít rõ rệt. Việc rút giấy phép xuất bản báo Nhành Lúa công bố bằng nghị định

của ông Toàn quyền ngày 10 tháng 3 cũng không làm thay đổi thái độ của báo

chí… Ngoài ra, các báo đó còn đăng nhiều bài phỏng vấn những nhà cách mạng

đã được thả như Phan Bội Châu, Nguyễn Quyền, những người sáng lập ra Đông

Kinh nghĩa thục (nhóm đã gây ra các sự kiện năm 1908), những người An Nam

được ân xá mới từ I-ni-ni trở về. Một vài bài thơ và bài báo của Phan Bội Châu

được đăng lại trong các báo của ba xứ An Nam trong Liên bang Đông Dương. Kỷ

niệm ngày chết của Phan Chu Trinh (24 tháng 3) là một cớ để đăng những bài

báo ngắn xuất phát từ chủ nghĩa dân tộc và cái chết của Phạm Tuấn Tài dùng

làm cớ tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản”[12]. Từ công tác theo dõi, kiểm duyệt

báo chí hằng ngày, nhất là báo Tiếng Dân – tờ báo có số phát hành và ảnh hưởng

sâu rộng nhất khắp các tỉnh Trung Kỳ, mật thám Pháp đã khẳng định, xu hướng

cộng sản của tờ báo này: “Ở Trung kỳ, không có tờ báo nào của Đảng cộng sản

Đông Dương xuất bản, công tác tuyên truyền của Đảng được tờ Tiếng Dân ở Huế

dù có ý đồ hay không ủng hộ”[13].

Để “đón Gôda, đưa dân nguyện” dưới sự vận động của Đảng Cộng sản, báo

chí khắp trong Nam, ngoài Bắc liên tiếp, dồn dập đưa tin yêu cầu thực hiện sự

bình đẳng về lương bổng giữa công chức người Pháp và người bản xứ; thành lập

một Ban kiểm tra hành động của quan lại gồm có hai ủy viên các hội đồng dân

Page 57: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

57

cử; thành lập ngạch thẩm phán tỉnh người bản xứ; sửa đổi thành phần của tòa án

thượng thẩm; bỏ lệ phí xử án; dùng trạng sư ở tòa án bản xứ; thành lập một quân

đội Đông Dương; xây dựng các nhà máy đóng tàu biển; quy định nghĩa vụ tòng

quân thi hành luật quân sự; tuyển dụng phụ nữ vào các công sở, cho phụ nữ được

hưởng mọi quyền chính trị như nam giới, tăng số trường tiểu học và trung học; tổ

chức nền đại học hoàn chỉnh; thành lập ngạch giáo sư chữ nho; tách đồng bạc

khỏi đồng France, bỏ chế độ ty rượu hiện nay; tự trị về thuế quan... "Trong số

những nguyện vọng đăng trên các báo, đáng chú ý là yêu cầu bỏ thuế thân đăng

trên báo Tân Việt Nam ngày 18 tháng 12 và những đơn khiếu nại và nguyện vọng

có khuynh hướng đối lập của nông dân và thương gia đăng trên tờ Tiếng Dân. Về

phương diện chính trị, Viện phải đòi mở rộng quyền hạn của mình nhằm biến đổi

dần việc thành lập một cơ quan lập pháp, đòi chính phủ phải hỏi ý kiến Viện về

tất cả những vấn đề có liên quan đến kinh tế, xã hội, chính trị; đòi giao cho Viện

quyền lập ngân sách của Trung kỳ, thực hiện dần quyền phổ thông trong đầu

phiếu; đòi tuyên bố ngay về giá trị những nghị viện do chính phủ chỉ định; đòi

ban bố cho mọi người Việt Nam các quyền tự do hội họp, lập hội, tự do báo chí

và đòi ân xá hoàn toàn cho tù chính trị; đòi bãi bỏ sự quản chế; bãi bỏ độc

quyền, đòi giảm thuế… (…) Các dân biểu có thái độ như vậy là do tuyên truyền

của những người cộng sản tiến hành trong những tháng vừa qua, để chống lại

các dân biểu và các tập viên các báo Việt Báo, Tân Việt Nam, Ngày Nay và Tiếng

Dân cũng ủng hộ cuộc tuyên truyền vận động ấy”[14].

Giữa năm 1938, thực dân Pháp đưa ra dự án tăng thuế hòng buộc Viện Dân

biểu Trung kỳ phải thông qua. Và báo “Dân chúng” - một tờ báo của Đảng cộng

sản đặt tại Nam kỳ đưa tin: “Dự án thuế thân mới ở Trung kỳ làm cho dân chúng

rất sôi nổi và bất bình. Năm nào dân chúng cũng bị nạn lụt, trong hai năm gần

đây lại bị nạn ốm đau liên miên rất cực khổ, năm nay lụt, vừa qua hóa vật cao,

đời sống của họ rất nguy khốn nên họ yêu cầu nhà cầm quyền cải thiện cho dễ

chịu hơn, nhưng ngạch thuế vẫn tăng thêm không thay đổi. Tưởng chánh phủ cải

cách giảm bớt, không dè bắt trả thêm thuế tỷ lệ, một hình thức tăng giá thu

lên”. Trước tình hình đó, báo chí tại Trung kỳ thêm sôi sục, kiểm duyệt báo chí

của thực dân Pháp tháng 7.1938 cho biết: “Báo chí: Như thường lệ, hầu hết các

báo bản xứ đều vận động phủ nhận sự nghiệp của nước Pháp ở Đông Dương, phỉ

báng những người cầm quyền, góp phần tạo nên tâm trạng thuận lợi cho công tác

tuyên truyền của bọn quấy rối. Các báo ấy đăng những đơn thỉnh cầu, đơn kiện,

đơn khiếu nại các loại mà những người quấy rối gửi cho họ khá nhiều. Trong số

các đơn khiếu nại ấy, có những yêu sách tập thể phản đối tỷ suất thuế thân -

những người cộng sản Bắc kỳ và Nam kỳ, đã vận động hàng trăm người ký tên

vào đơn chống thuế ấy. Những đề tài của cuộc vận động, báo chí thường nêu lên

là cần thiết xóa nạn mù chữ bằng cách truyền bá quốc ngữ, cải cách chế độ nhà

tù; mở rộng việc thi hành các luật xã hội đối với "vô sản nông nghiệp", giải

phóng phụ nữ; trừng trị cho vay nặng lãi, khắc phục những sai sót trong việc tổ

chức nền giáo dục sơ đẳng khắc phục nạn thiếu trường học; đòi giảm nhẹ thuế

khóa, đòi công nghiệp đất nước; đòi tự trị về tiền tệ và đòi những "quyền tự do

dân chủ" cần thiết phải có lực lượng vũ trang để đề phòng xảy ra chiến tranh;

binh lính Việt Nam phải do sĩ quan Việt Nam chỉ huy...”[15]. Và, “Báo Tiếng

Page 58: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

58

Dân và báo Sông Hương, những tờ báo quan trọng nhất của Trung kỳ, cũng

không để lỡ dịp đăng một số bài có dụng ý”[16]. Một báo cáo mật thám Đông

Dương vào tháng 12.1938 cũng cho hay: “Ngoài ra, trong tháng này, những

người cộng sản đã thành công khi giao cho những người cảm tình đăng lên báo

chí tiếng Việt nhiều bài báo có xu hướng cách mạng. Ở Bắc kỳ, Viên thống sứ đã

buộc phải đề nghị rút giấy phép xuất bản tờ "Hà Nội báo" và báo "Tiếng Trẻ" và

theo đề nghị của Thống đốc Nam kỳ, ngày 17 tháng 12, tờ "Việt Nam" Nguyễn

Phan Long xuất bản ở Sài Gòn cũng bị đình bản. Trong tháng 12, báo chí tiếng

Việt ở Nam kỳ có phát triển sau khi trục xuất hai nhà báo đặc biệt chống đối là

các ông Diệp Văn Kỳ và Bùi Thế Mỹ, trước đây là chủ nhiệm tờ Việt Nam nói và

tờ Điện Tín. Báo Tiếng Dân và báo Sông Hương, hai tờ báo lớn ở Trung kỳ,

cũng không tránh khỏi đăng một số bài báo có xu hướng không tốt”[17].

Nhân đây tưởng cũng nên nói qua về nghệ thuật làm báo của cụ Huỳnh

trong một xã hội mà tự do báo chí bị bóp nghẹt thời bấy giờ. Cụ đưa tin, viết bài

rất trung thực. Tin nào sai sót về nghiệp vụ báo chí cụ sẵn sàng cho chỉnh sửa và

đính chính, tin nào đã được cụ điều tra kỹ lưỡng, xác đáng thì dù nhà cầm quền

có bắt ép không được đăng cụ vẫn nhất quyết cho đăng. Chúng tôi tìm thấy một

số dữ liệu từ các báo cáo mật thám lúc bấy giờ như sau: “Theo Cv số 219-s ngày

7.3.1935 tôi có lưu ý ngài về một cột báo Tiếng Dân số 770 ngày 25.2.1935 trong

mục "Quảng Nam" nhan đề "Sự lo lắng của dân chúng về việc nộp thuế năm

1935". Bài này đã được chữa lại nhờ có sự đồng ý của ngài, trong số 775 của báo

ấy, đã có một ảnh hưởng tốt. Ảnh hưởng của các báo không to lớn lắm trong

quảng đại dân chúng An Nam nhưng rất có hiệu lực đối với giới khá giả, họ là

những độc giả chính. Chúng ta được lợi để ngăn cảnh tâm lý đe dọa lan tràn mỗi

năm khi nộp thuế. Sự lo lắng tập thể ấy không do tình hình kinh tế hiện nay đề ra,

mà hình như do nhiều chiến dịch báo chí xảy ra những năm 1934-1935 sau

những vụ giảm thuế ở Bắc kỳ mà các nước khác ở Đông Dương được hưởng như

vậy. Danh sách những báo chính được đọc trong tỉnh: Tiếng Dân 94 độc giả,

Tràng An: 28, Ngọ Báo 22, gafette de Huế, Loa: 20 Quê hương An Nam: 13, Tân

Văn 16, Thanh Nghệ tỉnh 11, Phong Hóa 12, Trung Bắc, Tân Văn 10, Tân An

Nam 9, Sài Gòn: 8, Canard déchainé 7, Dân báo Hoa kiều 3, Tiểu thuyết thứ 7, là

7, A Hoa kiều 5”[18].

Hoặc “Kiểm soát báo chí: Sau một bức thư của viên Giám đốc mỏ Bông Miêu

báo cáo về một bài đăng trong báo "Tiếng Dân" số 999, ngày 17 tháng 12 năm

1936 về việc hoàn toàn không có giảm tiền lương công nhân mỏ ấy. Sở Mật thám

Huế đã yêu cầu ông Huỳnh Thúc Kháng cải chính tin không đúng ấy (tham khảo

công văn của tôi số 1176-s ngày 23.12.1936)”[19]. Ai đã đọc báo tiếng dân đều

thấy bàng bạc phong cách báo chí đặc sắc, lắm khi độc địa khi chửi chính quyền

thuộc địa của cụ Huỳnh mà bọn cầm quyền cũng như mật thám không thể làm

được gì cụ. Đơn cử như trên báo Tiếng Dân số 739, ra ngày 31.10.1934, Huỳnh

Thúc Kháng đã châm chọc việc nhà nước bán gậy cho các lão nhiêu tại Tiên

Phước như sau: “Quảng Nam - việc bán thẻ bài chưa ngớt, thì nay thấy ở huyện

Tiên Phước đã có giấy tỉnh đưa về, nói nhà nước sẽ định bán cho mỗi người lão

nhiêu một cây gậy giá độ 0$20. Kẻ già đi không vững, họ phải sắm gậy, tưởng

không phiền gì đến nhà nước. Nay nhà nước định bán gậy cho họ, mấy ông già

Page 59: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

59

nghèo không làm gì ra ăn, không lẽ chống gậy đi suông, tất họ sẽ phải sắm cái bị

nữa!”. Đưa tin như vậy chả khác gì bảo nhà nước trấn lột nhân dân đến nước phải

đi ăn mày! Hay mô tả quan cảnh bế mạc Viện Dân biểu Trung kỳ vào ngày

27.10.1934, báo Tiếng Dân xách mé như sau: “Các quan lại Tây đi dự thính đếm

kỹ được mười người và hơn mươi người quan ta. Người ngoài đến dự tính có 4

người. Quan Thượng Bộ lại Thái Văn Toản đọc bài diễn văn tuyên bố bế mạc Hội

đồng, ông Phạm Như Phiên tạm phái Bộ lại đọc bản dịch ra Pháp văn. Vì không

có diễn văn của ông Viện trưởng nên đọc xong bài dịch Pháp văn thì xong bữa bế

mạc các quan đứng dậy ra về… trong khi bàn ăn đã bàn soạn sẵn”. Vì những lẽ

đó, trong suốt quá trình theo dõi, kiểm duyệt báo Tiếng Dân, mật thám Pháp

không ngừng liệt báo này vào diện “những người cộng sản”. Báo cáo dưới đây

một lần nữa khẳng định điều đó: “Các tờ báo Sao Mai, Sông Hương, Tràng An,

và Tiếng Dân thỉnh thoảng cũng công kích chính phủ và đôi lúc cũng đăng những

bài ngụ ý ca ngợi chế độ cộng sản. Từ ngày nghị định ngày 17 tháng 12 cấm báo

Việt Nam xuất bản, thái độ báo chí tiếng Việt ở Nam kỳ có khá hơn[20].

Vì vậy, đến năm 1943, thực dân Pháp buộc Tiếng Dân phải đình bản, sự

kiện này cũng ghi dấu sự đụng độ của cụ Huỳnh với mật thám Pháp, mà thực chất

là sự đụng độ giữa cụ và tên mật thám Songy – lúc đó là Chánh mật thám Trung

kỳ, kiêm Trưởng Ty kiểm duyệt. Songy là một tên mật thám khét tiếng tại Quảng

Nam, kẻ đã tắm máu rất nhiều sĩ phu và nhân dân Quảng Nam, nhất là vụ kháng

thuế năm 1908 cũng như khởi nghĩa Thái Phiên – Trần Cao Vân năm 1916. Cụ

Huỳnh không lạ gì hắn và tỏ ý khinh miệt hắn ra mặt. Lần đó, Songy kiểm duyệt

bài phê bình truyện Kiều và gạch bỏ những đoạn y cho rằng “không có lợi cho

nền cai trị của nước Pháp”, sau đó y viết thư gửi cho cụ Huỳnh buộc phải đăng

nguyên văn phần còn lại theo ý của y. Cụ Huỳnh đã khẳng khái từ chối, không

cho đăng. Và vì cớ đó, báo Tiếng Dân ra số cuối cùng vào ngày 28/4/1943, để lại

sự luyến tiếc sâu sa với bạn đọc cả nước.

Đã 60 năm trôi qua ngày cụ Huỳnh qua đời, lần đọc lại những ghi chép của

kẻ thù cụ, mà cụ thể là mật thám Pháp, ta càng cảm mến và kính trọng hơn nhân

cách của nhà nho Huỳnh Thúc Kháng. Cụ đã thực hiện thành công vai trò "một

nhà cách mạng công khai" của mình, hết lòng phục vụ dân tộc, xã tắc, đặt quyền

lợi dân cày lên trên hết, bất chấp hiểm nguy, bạo quyền có thể đến với mình. Và,

những ai làm báo ngày nay có thể học ở cụ tinh thần tác nghiệp trung thực, sự can

trường và dám chịu trách nhiệm trong tác nghiệp báo chí, tất cả là để nói lên sự

thật, tất cả là để phụng sự đất nước, phụng sự nhân dân.

Lưu Anh Rô

[1] Báo cáo tổng quát từ ngày 1.6.1926 đến 31.5.1927 của Công Sứ Faifo, ngày

1.6.1927. Tài liệu mang ký hiệu 255-A-VIII, lưu tại Ban Tuyên giáo Thành uỷ Đà

Nẵng

Page 60: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

60

[2] Trích "Bài diễn văn khai mạc Viện Dân biểu Trung kỳ của ông Nghị trưởng

Huỳnh Thúc Kháng". Tài liệu mang ký hiệu A-14-XIX, hiện lưu tại Ban Tuyên

giáo Thành ủy Đà Nẵng.

[3] Trong bài diễn văn khai mạc Viện Dân biểu Trung kỳ, ông Nghị trưởng

Huỳnh Thúc Kháng. Tài liệu mang ký hiệu A-14-XIX, hiện lưu tại Ban Tuyên giáo

Thành ủy Đà Nẵng.

[4] Bức thư củ ông Huỳnh Thúc Kháng trả lời cho Ban Thường tực Viện Dân

biểu Trung kỳ. Tài liệu mmang ký hiệu 2 - XI- D. Hiện lưu tại Ban Tuyên giáo

Thành ủy Đà Nẵng.

[5] Dẫn theo bài: "Nhời hô hoán cùng vạn quốc hội: "Phải giả quyền tự do cho

dân Việt Nam", từ Báo Việt Nam hồn của Nguyễn Ái Quốc. Tài liệu mang ký hiệu

2 - IV -A. Hiện lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng.

[6] "Yêu cầu Đông Dương phải trở thành một liên nghị viện được quyền thảo

luận mọi vấn đề có liên quan đến Liên bang. Ở thượng nghị viện, số lượng đại

biểu người Pháp và số lượng đại biểu người bản xứ ngang nhau. Mỗi xứ ở Đông

Dương phải cử ra một hội đồng, hội đồng này bầu ra những nghị sĩ của Thượng

nghị viện. Những quyền hạn của Thượng nghị viện Đông Dương và của các Hội

đồng dân cử bản xứ và quyền hạn của toàn quyền và của các viên thống sứ, khâm

sứ và thống đốc sẽ do một đạo luật được Hạ nghị viện Pháp thông qua, quy định.

"Quyền lập pháp sẽ giao cho Thượng nghị viện và các Viện dân cử của năm xứ

Đông Dương. "Quyền hành pháp do toàn quyền, các viên thống sứ, khâm sứ và

thống đốc và các vị hoàng đế thực hiện. "Toàn quyền các viện thống sứ, khâm sứ

và thống đốc và các vị hoàng đế có quyền đề xuất luật. "Các hội đồng dân cử

kiểm soát việc thi hành quyền hành pháp, ủy viên các hội đồng ấy có quyền chất

vấn. "Toàn quyền có các viện Thống sứ, Khâm sứ, Thống đốc và các vị hoàng đế

có gửi những lời hiệu triệu cho các Hội đồng dân cử, bác bỏ những quyết định do

các Hội đồng ấy đã thông qua, nhưng chỉ có thể bác bỏ hai lần đối với mỗi quyết

định sự việc”.

[7] Báo Tiếng Dân, số ra ngày 10.10.1928.

[8] Báo cáo chính trị quý 4. 1928 của Công Sứ Quảng Nam tại Hội An. Tài liệu

mang ký hiệu A-06-VIII. Hiện lưu tại Ban Tuyên giáo Thành uỷ Đà Nẵng.

[9] Báo cáo Sở mật thám Đông Dương tháng 1.1937. 272 - A - VIII

[10] Báo cáo tình hình chính trị Trung kỳ gửi về Bộ Thuộc địa. Số 1624 - AP

ngày 1 tháng 6 năm 1931.

[11] Báo cáo Mật thám Pháp về hoạt động cách mạng trong tháng 3 năm 1937.

Tài liệu mang ký hiệu 269 -A – VIII, lưu tại Ban Tuyên giáo Thành uỷ.

[12] Báo cáo Mật thám Pháp về hoạt động cách mạng trong tháng 3 năm 1937.

Tài liệu mang ký hiệu 269 -A – VIII, lưu tại Ban Tuyên giáo Thành uỷ.

[13] Báo cáo Sở Mật thám Đông Dương về tình hình tháng 11 và 12 năm 1937.

Tài liệu mang ký hiệu 271 - A- VIII, lưu tại Ban Tuyên giáo Thành uỷ.

[14] Báo cáo Sở Mật thám Đông Dương về tình hình tháng 11 và 12 năm 1937.

Tài liệu mang ký hiệu 271 - A- VIII, lưu tại Ban Tuyên giáo Thành uỷ.

[15] Báo cáo Sở Mật thám Đông Dương tháng 8 năm 1938. Tài liệu mang ký

hiệu 276 -A- VIII, lưu tại Ban Tuyên giáo Thành uỷ.

[16] Báo cáo của Sở liêm phóng Trung ương, tháng 1.1937.

Page 61: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

61

[17] Báo cáo của Sở liêm phóng Trung ương, tháng 1.1937.

[18] Sở mật thám Faifo, Báo cáo chính trị ngày 27 tháng 3.1935. Tài liệu mang

ký hiệu A-29-VIII

[19] Báo cáo chính trị quý 4. 1928 của Sở Mật thám faifo ngày 28.12.1936.

[20] Báo cáo mật thám Pháp tại Đông Dương. Tài liệu mang ký hiệu 272 - A –

VIII. Hiện lưu tại Ban Tuyên giáo Thành uỷ Đà Nẵng

--------------------------------------------------------------

http://nghiencuuxuquang.com/can-hien-dai/huynh-thuc-khang-va-bao-tieng-dan-

qua-bao-cao-mat-tham-phap-89.html

Page 62: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

62

CHÍ SĨ, NHÀ BÁO HUỲNH THÖC KHÁNG

ĐÓN TẾT Ở CÔN LÔN NHƯ THẾ NÀO?

Năm 1908, nhân phong trào chống thuế Quảng Nam bùng phát, thực dân

Pháp bắt và đày cụ Huỳnh Thúc Kháng - một trong những nhân vật lãnh

đạo chủ chốt của phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ - ra đảo Côn Lôn, giam

cầm suốt 13 năm. Trong cuốn"Thi tù tùng thoại" (xuất bản lần đầu năm

1939), cụ Huỳnh thuật lại cảnh đón Tết chốn lao lung khá ấn tượng và cảm

động.

Cụ Huỳnh cho hay, ngoài đảo Côn Lôn, mỗi năm đến Tết âm lịch, cửa

ngục được mở toang 3 ngày, tù nhân được ra ngoài hiên và giữa sân để vui chơi:

nào đánh bạc, nào hát bội... Mỗi tù nhân được phát tiền lưu ký một đồng, kể cả

người có tiền mandat. Khung cảnh đón Tết khá nhộn nhịp: "Trước sân banh như

hội chợ và đám hội, bọn khách trú, ma - tà và người trong làng đua nhau bán các

thứ quà bánh cho tù, được lợi khá nhiều".

Mặc dù nhiều tù nhân coi đây là một "đặc ân", song các chí sĩ yêu nước

không vui vẻ, hào hứng gì. Tết đầu tiên ở Côn Lôn - Tết Kỷ Dậu (1909), ai nấy

đều "tỏ dạng buồn như mình bị mất cái gì vậy". Để khuây khỏa, họ rủ nhau làm

thơ, lấy đề tài "một tình nhi nữ nhớ chồng vắng nhà trong dịp Tết".

Là một người chủ xướng thú vui bất đắc dĩ này, cụ Huỳnh có hai bài "trúc

chi từ" ghi lại cảm xúc khó tả ấy.

Nội dung bài đầu như sau:

Gia gia bộc trúc nhạ tân niên,

Muộn sát nông gia độc tiễu nhiên.

Phu tế thiên nhai kỷ thời phản,

Phần hương đăng hạ bốc kim tiền.

(Rước xuân, hàng xóm pháo tre kêu,

Buồn rứt nhà ta khéo vắng teo!

Về chăng? Ven trời trông cách biệt,

Dưới đèn khấn vái lại xin keo).

Bài thứ hai cũng không kém phần bi lụy và có hàm ý trách móc:

Song tiền xuân nhật ảnh trì trì,

Mạch đầu dương liễu sắc y y.

Tự thị đông quân tình độc quả,

Bất huề phu tế cộng xuân quy.

(Ngoài cửa ngày xuân đẹp bội phần

Cạnh đường dương liễu sắc xanh ngần.

Page 63: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

63

Đông hoàng sao khéo vô tình nhỉ!

Không dắt chồng ta về với xuân).

Cùng tâm trạng đau buồn ấy, cụ Tập Xuyên Ngô Đức Kế cảm tác:

Cao đường sơ thượng bái niên bôi,

Chỉnh bị quy ninh hoán tiểu oa

Muộn sát từ đường môn ngoại lộ,

Ngọc lang thiên bạn a di lai.

(Rượu xuân vừa chúc chén mừng xuân,

Về viếng gia nương nhủ tớ em.

Buồn rứt từ đường bên cửa trước,

Dì cùng dượng nó cũng về thăm!)

Cụ Huỳnh nhận xét: "Mấy bài tứ tuyệt trên, vẻ rõ tình nhi nữ trông chồng trong

dịp Tết. So với câu thi "thất tịch" của nhà nọ:"Cháu trời thôi chớ rầu đêm vắng,

tớ biệt nhà nay đã mấy năm" (thiên tôn mạc mạn giá hoàn đoàn, nùng tự ly gia dĩ

kỷ niên) tưởng không kém chút nào".

Sau này, Cụ Huỳnh thừa nhận rằng, một trong những yếu tố quan trọng giúp ông

vượt lên hoàn cảnh ngặt nghèo ấy chính là thú "thi văn". Trong bài tựa in trong

cuốn "Thi tù tùng thoại", cụ khẳng định: "Ở tù mà dùng thi văn làm món tu dưỡng

tinh thần, không phòng hại gì mà sự bổ ích rất rõ ràng. Trong trường học thiên

nhiên 13 năm (1908 - 1921), cả bọn đồng thời với tôi, cả thân sĩ cho đến người

dân, kẻ chết không nói, người còn mà được tha về, vẫn giữ được tấm lòng không

thay đổi. Biết đâu không nhờ món nuôi tinh thần đằm thắm đó mà không tự biết".

Cái Tết bi thương nhất đối với cụ Huỳnh vẫn là Tết Mậu Ngọ - 1918. Chuyện xảy

ra vào ngày mùng 4 Tết, khi tù nhân phải trở lại đi làm bình thường. Cụ Huỳnh

kể: "Bữa ấy tôi cùng các tù sở ruộng làm xâu gặt lúa ngoài bàu sen, cách xa

bagne độ trên một cây số. Chiều chiều độ 2 giờ, bọn tù đang cởi trần mình gặt

lúa tham đứng dưới bàu sâu, bỗng nghe trong ngục bagne có tiếng súng nổ dữ

dội kế tiếp không dứt, như là hai bên đánh nhau; bọn tù đều tỏ vẻ kinh hãi, mà

bọn cai và lính coi sở đó, cũng biết trong bagne có sự biến xảy ra. Cai và lính

bèn hạ lệnh thôi việc cắt lúa, bắt cả sở ruộng đều tụ lại một chỗ, không được rục

rịch, đứa nào chạy xớ rớ sẽ bị bắn. Chúng tôi xúm ngồi một chỗ trên bờ bàu, vẫn

nghe tiếng súng từng hồi, hơn cả giờ đồng hồ mới vắng".

Khi đoàn tù về đến bagne, vào trong sân, cụ Huỳnh bàng hoàng chứng kiến một

cảnh tượng thật tang thương: xác chết nằm ngổn ngang, máu chảy thành đống.

Tìm hiểu ra mới biết rằng, từ khi quan Tham biện Audoand ra Côn Lôn (thay thế

O.Coonell bị triệu hồi về đất liền), tù nhân ở đảo bị quản lý rất nghiêm ngặt, động

một chút gì là bị phạt rất nặng, nhất là đối với tù chung thân. Tức nước, vỡ bờ.

Nhân lúc đập đá, một số tù chung thân dùng búa đập chết tên Mata đang quản lý

và tên Cai coi kho ở sát bagne. Cướp được súng từ hai tên này, họ tìm bắn tên

Gardien nhưng không trúng. Nghe động, quan Chánh, Gardien Chef, quan hai

cùng lính kéo đến bao vây. Viên quan Chánh truyền lệnh bắn vào trong sân

bagne, hễ tù nhân nào chạy đều bị bắn. Thế là, tổng cộng có tới 80 tù chung thân

và hai tù "quốc sự phạm" ở chung trong khám chung thân (Phạm Cao Chẩm và

Nguyễn Trọng Thường) bị thiệt mạng. Huỳnh Thúc Kháng gọi đây là "tấn kịch tù

Page 64: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

64

chung thân bạo động" - một trong 3 cuộc "đại biến" mà ông đã chứng kiến trong

suốt 13 năm ở Côn Lôn.

Nhà cụ Huỳnh Thúc Kháng ở quê nhà (Tiên Phước)

Có thể nói, với chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng, trong cuộc đời hoạt động cách mạng

của mình, dẫu phải đón những cái Tết không vui, thậm chí bi thảm tại ngục tù

Côn Lôn, nhưng "lòng son, dạ sắc, yêu nước thương nòi của Cụ chẳng những

không sờn, lại thêm cương quyết" (lời Chủ tịch Hồ Chí Minh). Cụ coi "Côn Lôn

là một trường học thiên nhiên. Mùi đắng cay trong ấy, làm trai giữa thế kỷ XX

này không thể không nếm cho biết". Bản lĩnh kiên cường và cốt cách của chí sĩ,

nhà báo họ Huỳnh đáng để hậu thế ngưỡng mộ và trân trọng!

Vân Trình (Nguồn tin: Tạp chí Non Nước, số172 +173 (Xuân Nhâm Thìn 2012)

http://nghiencuuxuquang.com/can-hien-dai/chi-si-nha-bao-huynh-thuc-khang-

don-tet-o-con-lon-nhu-the-nao-92.html

Page 65: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

65

CUỐN “SỬ TÙ” CỦA CỤ HUỲNH THÖC KHÁNG Nhân kỷ niệm 64 năm Ngày mất của cụ Huỳnh Thúc Kháng (21-4-1947 - 21-

4-2011), đọc lại “Thi tù tùng thoại” để thấy khó có thể nêu hết giá trị lịch sử

thông qua cuốn “sử tù” này.

Ngày 15-8-1911, gần 100 năm trước, tại nhà ngục Côn Đảo của thực dân

Pháp đã xảy ra một sự kiện hiếm có: Tù quốc

sự là các nhà khoa bảng đã tổ chức một cuộc

vịnh thơ lấy đề là “Tích niên kim nhật đáo Côn

Lôn” (Ngày này năm trước đến Côn Lôn) để kỷ

niệm tròn ba năm ngày bị đày với án “lưu biệt

xứ; ngộ xá bất nguyên” (lưu đày vĩnh viễn khỏi

xứ; gặp dịp ân xá cũng không được tha).

Chuyện làm thơ hy hữu ấy cùng nhiều chuyện

khác trong tù đã được cụ Huỳnh Thúc Kháng

ghi lại trong tác phẩm “Thi tù tùng thoại”.

Cụ Huỳnh đề tựa cho cuốn “sử tù” của

mình như sau: “Bản này là ký giả chép góp thi

(thơ) và chuyện của một ít bạn chính trị phạm

đồng tội trong thời gian 13 năm bị đày ở Côn Đảo (Poulo Condore) mà ký giả là

một người trong đồng bọn ấy, tai nghe mắt thấy toàn là chuyện thật khởi đầu năm

1908 đến năm 1921”. (Mính Viên, Thi tù tùng thoại, NXB Nam Cường, Sài Gòn,

tháng 10-1951, tr.7)

Cuốn sử ấy bắt đầu bằng bài thơ của cụ Phan Châu Trinh ứng khẩu trên

đường bị giải ra đảo: “Luy luy già tỏa xuất đô môn/ Khẳng khái bi ca thiệt thượng

tồn/ Quốc thổ trầm luân dân tộc tụy/ Nam nhi hà sự phạ Côn Lôn”. Cụ Huỳnh

dịch: “Xiềng gông cà kệ biệt Đô môn/ Khẳng khái ngâm nga lưỡi vẫn còn/ Đất

nước đắm chìm nòi giống mỏn/Thân trai nào sợ cái Côn Lôn” ( Sđd, tr.12; từ đây

trở đi, chỉ ghi các câu thơ dịch của cụ Huỳnh – NV).

Nhưng, theo cụ Huỳnh thì cụ Ngô Đức Kế mới là người làm thơ tù đầu tiên.

Năm 1907, một năm trước ngày bị giải ra Côn Lôn, tại nhà ngục Hà Tĩnh, cụ

nghè Ngô đã viết “Ham học văn minh đà mấy lúc/ Mão tù đâu khéo cấp cho

ông?” (sđd tr.13)

Người thứ ba được nhắc đến là cụ nghè Trần Quý Cáp. Nghe tin cụ Trần bị

xử chém ở Khánh Hòa, nhớ lại lúc chia tay ở Tourane, cụ Huỳnh khóc mấy vần

thảm thiết “Bồng đảo gió chưa đưa giấc mộng/ Nha Trang cỏ đã khóc hồn thiêng/

Chia tay chén rượu còn đương nóng/ Đà Nẵng đưa nhau lúc xuống thuyền”

(tr.17).

Nhờ cuốn sử tù của cụ Huỳnh Thúc Kháng, người đời sau biết được diễn tiến

cái chết bi tráng ngoài đảo của cụ Tiểu La Nguyễn Thành, của ông tú tài làng

Bìa cuốn “Thi tù tùng thoại” do

NXB Nam Cường in ở Sài Gòn

năm 1951.

Page 66: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

66

Chiên Đàn (Tam Kỳ) là Dương Thạc, của ông hương chức làng Hà Lam (Thăng

Bình) là N8uyễn Quần cùng nhiều vị khác.

Bị đày ra Côn Lôn cùng cụ Huỳnh chuyến ấy, ngoài các đồng hương như các

cụ Phan Thúc Duyện, Lê Bá Trinh, Lê Bá Huy, Nguyễn Cảnh, còn có các văn

thân, sĩ dân Nghệ Tĩnh, Bình Định, Quảng Ngãi: “Kể cả thân sĩ cùng dân mấy

tỉnh cùng đày đi chuyến tàu ấy là 27 người. Mà văn hào chiếm gần 20 người. Cái

họa khoa giáp cùng mạt kiếp Hán học rõ là một đoạn thảm kịch trên sử Hồng

Bàng xưa nay chưa từng có!”(tr.33).

Các người tù có chữ nghĩa đó, cùng với các văn thân bị đày ra các năm sau,

được bọn cai ngục gọi chung là “tù quan to” và bị đối xử một cách “đặc biệt”. Cụ

Huỳnh kể một câu chuyện cười ra nước mắt: “Một ngày nọ, có một chú ma tà nhỏ

tuổi coi xâu đập đá thấy “tụi quan to” đập đá ươn quá, tay cầm cây roi mây đi tự

đầu này đến đầu kia hỏi từng người: Mày cái gì? - Bẩm cử nhân. Chú cho một

roi”. Rồi cụ cho biết lúc chú lính gặp một người mà “khi bẩm có bộ cười, chú ta

cũng cho một roi khá đau và bảo: “Mày ăn nói vô lễ, cho một roi từ này về sau

biết tay tao!” Rồi ấm sanh, tú tài đều được ngọn roi ấy, duy có người xưng chánh

tổng được khỏi roi” (tr.48).

Cụ Huỳnh còn ghi lại nhiều chuyện rất sinh động như cuộc đối đáp giữa cụ

Phan Châu Trinh và viên thống soái Sài Gòn đại diện phái bộ Pháp ra Côn Lôn

điều tra về hành tung của cụ Phan trong quá khứ (tr.104-107); hoặc như chuyện

vượt ngục Côn Lôn bằng bè về đất liền rồi bị bắt trở lại của các ông Cửu Cai, Hy

Cao và Kim Đài (tr.213-222). Câu chuyện vượt ngục ly kỳ của các ông này cùng

rất nhiều chuyện về sinh hoạt của người tù trong nhà ngục Côn Lôn thời Pháp

thuộc có thể giúp cho các nhà làm phim thời nay tái hiện một cách sinh động bộ

mặt của chốn “địa ngục trần gian” giữa biển khơi vào đầu thế kỷ XX này.

Cụ Huỳnh ghi lại “Thi tù tùng thoại” bằng trí nhớ; bởi trong tù, bọn thực dân

cấm viết chữ Tây, chữ quốc ngữ mà chỉ cho viết bằng chữ Hán; đến khi ra tù thì

mọi tài liệu chữ Hán - kể cả bản gốc “Thi tù tùng thoại” - chúng đều tịch thu. Vì

thế, theo cụ, tất cả trứ tác của tù nhân đã đều “mất tích đáng tiếc” (tr.271). Bản

“thi tù” hiện lưu hành là bản được cụ Huỳnh nhớ lại và dịch ra quốc ngữ.

Khó có thể nêu hết giá trị lịch sử thông qua các câu chuyện về “người thật,

việc thật, thơ thật” mà cụ Huỳnh Thúc Kháng đã ghi trong cuốn “sử tù” này cho

dù trong phần “Bổ lục” cụ chỉ khiêm tốn ghi: “Vì vậy, nhân chuyện thi văn mà

Page 67: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

67

gửi một ít sử liệu ở trong. Giấy vụn, bìa tan, biết đâu sau này không trở nên món

tài liệu chân xác cho nhà làm sử” (tr.272).

Phú Bình

http://www.baodanang.vn/channel/5433/201104/chuyen-xua-xu-quang-cuon-su-

tu-cua-cu-huynh-thuc-khang-2046274/

KỶ NIỆM 140 NĂM NGÀY SINH CHÍ SĨ HUỲNH THÖC KHÁNG

BIẾN NHÀ TÙ THÀNH TRƯỜNG HỌC

Năm Mậu Thân (1908) nhân vụ dân biến (chống thuế ở miền Trung),

Huỳnh Thúc Kháng bị thực dân Pháp ghép tội “theo đảng bội quốc, ngầm

thông nước ngoài, đề xướng dân quyền, kết án đày Côn Lôn” sau Phan Châu

Trinh vài tháng. Tại ngục tù Côn Đảo ông biên soạn “Thi tù tùng thoại” kể lại

những năm tháng ở “trường học thiên nhiên”.

Sau vụ kháng sưu cự thuế năm 1908, chính quyền thực dân Pháp thẳng tay

đàn áp, bắt bớ những người tham gia biểu tình ở Quảng Nam nhưng vẫn không

truy được ai là lãnh tụ phong trào. Vin vào cớ các nhà khoa bảng, thân sĩ hô hào

Duy tân tự cường, chúng bắt giam họ song lại không có đủ chứng cứ xác thực để

buộc tội. Dẫu vậy, bọn chúng vẫn thẳng tay đàn áp không theo một văn bản pháp

luật nào. Người vào nhà lao đầu tiên ở Quảng Nam là Huỳnh Thúc Kháng. Thực

dân Pháp đã huy động một bộ phận quân sự gồm có Đề đốc tỉnh, quan đồn phòng

thủ miền tây Quảng Nam để dẫn độ ông. Chúng coi ông như một lãnh tụ đích

thực, cho dù không có bằng chứng gì xác đáng, chỉ vin vào cớ ông là người

xướng thuyết dân quyền trong dân gian để bắt bớ làm tội.

Page 68: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

68

Dinh Chúa đảo năm 1912-1916 nơi cụ Huỳnh Thúc Kháng được chọn

làm chức biên ký ở phòng giấy (Ảnh tư liệu sưu tầm nguồn Internet)

Đầu tháng 2.1908 ông bị giam tại nhà lao Hội An, mãi đến tháng 6.1908

thực dân Pháp và tay sai mới vá víu xong bản án, chiếu theo điều “mưu bạn vi

hành” (mưu làm giặc mà chưa làm) để phải gông xiềng, lưu đày Côn Đảo, mà

chẳng bao giờ tuyên án cho tội nhân và công chúng biết. Từ đó, Huỳnh Thúc

Kháng trở thành một tù nhân để bắt đầu vào “trường học thiên nhiên” ở Côn Đảo.

Khi mang gông xiềng bước xuống boong tàu, ông chắc mình khó có ngày về

nhưng tâm hồn vẫn dạt dào niềm tin. Dù nơi chân trời góc biển ông vẫn lạc quan,

tự nhủ rằng giang sơn, lòng người còn đó thì nước tổ vẫn còn chờ tay mình vun

xới, đắp bồi. Non sông có nghiêng ngửa thay hình đổi dạng, ông có bị gông

xiềng, bị hành hạ thế nào miễn giữ lòng son sắt với Tổ quốc thì cũng có ngày

đoàn tụ để nhìn thấy quê hương vươn mình đứng dậy. Tâm trạng ấy được Huỳnh

Thúc Kháng thể hiện trong Bài ca lưu biệt:

Dầu đến lúc núi sập, biển lồi, trời nghiêng đất ngả,

Tấm lòng vàng tạc đá vẫn chưa mòn

Trăng kia khuyết đó lại tròn.

Côn Lôn đã trở thành nơi thử thách, tôi luyện Huỳnh Thúc Kháng. Ngày

28.8.1908 ông đặt chân đến Côn Lôn, ghi lại trong hồi ức: “Bọn chúng tôi đến

đảo, vào phòng giấy ngục trưởng (do lính tây cùng mã tà áp dẫn) nhận áo quần

cùng chiếu, lại có thẻ bài bằng gỗ hình vuông giống như thẻ bài ngà, chỉ khác là

trên ấy ghi số hiệu, khi căn cứ gọi số hiệu thay tên (số bài của tôi hiệu 7.455)

dưới khắc hai chữ D.C (chữ viết tắt bằng chữ Pháp “Dangereux Condamné” có

nghĩa là tù nguy hiểm, cho ở riêng một phòng, được đôi ngày rồi chia ra ở các

phòng cùng với các tù khác làm tạp dịch”.

Page 69: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

69

Một góc sở Đồi mồi tại Côn Đảo nơi cụ Huỳnh

Thúc Kháng từng làm việc vào năm 1920.

Ngay ngày hôm đó, bỗng từ ngoài cửa sổ lưới sắt ném vào một viên đá

nhỏ, có một mảnh giấy, Huỳnh Thúc Kháng lượm xem thấy một bài thi với lời an

ủi:

“Xe nam đi lại vắng tin hồng

Đường thế quanh co giận chửa thông

Người có đồng lòng thêm khẳng khái,

Võ không lưa đất khuẩn anh hùng

Mạnh tân giắt giáp chờ mưa Bắc

Xích Bích giương buồm thiếu gió Đông

Ắt hẳn lòng trời phò Tổ quốc

Hỏa tinh thổi đỏ giữa tầng không”.

Dưới ký tên là Bắc Hà Thượng Cát Trần Trọng Cung (sau mấy tuần giáp

mặt mới biết người cựu đảng Cần vương, can án Hà thành đầu độc). Đêm ấy lại

được thủ thư của Tây Hồ Phan Châu Trinh: “Anh em vì quốc dân hy sinh tất cả ra

đây, nơi đảo khơi, tưởng có vui thú tuyệt, chứ chẳng chút nào buồn chán, cảnh

đắng cay này, làm trai ở thế kỷ 20, không thể không nếm tới”.

Page 70: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

70

Bưu điện Côn Đảo đầu thế kỷ XX nơi cụ Huỳnh Thúc Kháng làm xâu

tại đây vào năm 1918. (Ảnh tư liệu sưu tầm nguồn Internet)

Lúc mới tới Côn Đảo, Huỳnh Thúc Kháng chưa biết chữ Pháp. Ông mượn

được quyển tự vị tiếng Pháp “Petit Larousse” của tên cai ngục người Pháp để tự

học, chỉ sau mấy tuần, ông mang trả sách và nhớ toàn bộ quyển tự vị không thiếu

một từ. Năm 1909, Huỳnh Thúc Kháng ở phòng làm tạp dịch với các tù nhân

khác, tham gia các công việc: đập đá, đánh tranh, quét dọn tàu, trồng rau, đan

chiếu… Năm 1912, ông được chọn vào làm biên ký ở phòng giấy Ngục trưởng.

Ông cho biết, trong bọn tù kẻ nào được quan Tây cùng lính giữ ngục cho làm bồi

nấu ăn, được ăn uống no đủ, được cấp phát áo quần cùng tiền công cũng như có

một ít quyền lợi đặc biệt. Chức thông ký ở phòng giấy là chức được đối đãi tối

ưu, chẳng khác nào hàng quan trường ở trong nội địa, bọn tù lấy làm vinh lắm.

Bọn chúng tôi đến đảo mới bắt đầu học chữ Tây, bọn tù đều hỉnh mũi cười, đến

ngày cần có người làm chức thông ký (vì không có người thông ký cùng người

biết chữ Tây nên chọn đến bọn tôi). Bọn tù khác đều lấy làm ngạc nhiên. Năm

1913, ông được giảm án xuống còn 13 năm, lúc đầu bị án phát phối vô kỳ hạn. Ở

phòng giấy mực khoảng 3 năm, chuyên biên chép các sổ công dịch thay đổi ra

vào, kỳ hạn trừng phạt cùng tiền công cấp phát, theo từng ngày chép vào vào sổ

không sai chày chút nào. “Đối với công văn thư trát và sổ sách kế toán, tôi biết

được đại khái đôi chút, đều nhờ lúc đó gọi là “trường học thiên nhiên” thật đúng”

- Huỳnh Thúc Kháng viết.

Huỳnh Thúc Kháng cho biết, năm 1916, ở Côn Đảo có quan Tham biện

Ôcônen mới đến, thi hành chính sách mở rộng cửa. Ông cùng bạn quốc sự đồng

nhân đều được ra ngoài tự dinh sinh, mở một tiệm buôn, tất cả tiền măng da

(mandat) nộp tại công khố chung được 70 đồng, gửi về Sài Gòn mua hàng (rượu

nho, rượu mạnh, tạp vật) bán cho lính Tây, gác dan, mã tà (những bàn ghế trong

tiệm cùng hàng hóa gửi bưu điện đều nhờ ông Ôcônen chỉ thị cùng lo liệu một

cách gián tiếp). Lúc bấy giờ, nhân có xây bức tường thành ngục mới, đem ở Sài

Page 71: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

71

Gòn ra hơn trăm thợ nề, bọn ấy tiền công nhiều tiêu xài thành thói quen. Mỗi

ngày làm xong việc, thường đến tiệm buôn này ăn uống thích khẩu, lại trong số

trên năm chục lính Tây ở đảo, mới độ nửa năm mà vốn trong tiệm đã lên tới trên

dưới 300 - 400 đồng. Bọn chúng tôi ban đầu không tính đến như thế, bèn mua tạp

hóa cần dùng cho bọn tù, lại chỉnh đốn nội dung không ngoài một năm nghiễm

nhiên thành một tiệm buôn lớn nhất đảo, hơn cả hai tiệm buôn của người Tàu lâu

nay, tiền vốn lên tới hàng ngàn đồng. Năm 1917, ông Ôcônen bị triệt về Sài Gòn,

có tham biện mới đến, chính sách khai phóng bị tiêu ma, quay trở lại quy chế câu

thúc ngày trước. Quốc sự phạm trừ ngoài án biệt xứ còn được ở ngoài còn ra đều

chia rải rác đi các nơi.

Huỳnh Thúc Kháng cùng một số người qua sở cày, được ở trong cảnh trại

ngoài ruộng, dưới quyền của cai sở đội trưởng, giữ trâu, cày ruộng, ngày làm xâu

hai lần, so với ngày làm xâu bất thường ở trong nhà giam có chút dư rỗi. Năm

1918, Huỳnh Thúc Kháng làm xâu đài vô tuyến điện, học nghề làm thợ nề. Kể 10

năm ở đảo, xâu này cực nhọc, vất vả. Ngày thường là việc làm không nổi, thế mà

nay làm xong, có thể gọi “thêm điều ích vào chỗ không biết”. Năm 1919, Huỳnh

Thúc Kháng lại điều về làm công dịch tại Phòng giấy quan Tham biện. Năm

1920, làm ở sở đồ mây, rồi sở làm đồi mồi. Năm 1921, Huỳnh Thúc Kháng mãn

hạn tù và được trả về đất liền, mở đầu một bước ngoặc mới trong cuộc đời hoạt

động chính trị xã hội của nhà chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng.

NGUYỄN VĂN TÂM

NGUYỄN VĂN TÂM. Biến nhà tù thành trường học/ Nguyễn Văn Tâm// Quảng

Nam: Số đặc biệt chào mừng ngày báo chí Việt Nam.- 2016.- Ngày 21 tháng 6.-

Tr.11

CUỘC CHIA LY

GIỮA TRẦN QUÝ CÁP VÀ HUỲNH THÖC KHÁNG

Đầu năm 1908, Trần Quý Cáp bị đổi vào Ninh Hoà (Khánh Hoà). Trong buổi

chia tay tại bến sông Hàn, ông đã ân cần uỷ thác cho người bạn cùng chí

hướng của mình là Huỳnh Thúc Kháng những nhiệm vụ cách mạng quan

trọng của tỉnh nhà mà ông đang thực hiện dở dang và đây là lần cuối cùng hai

chí sĩ gặp nhau. Cuộc tiễn đưa có ai ngờ đã thành ra vĩnh biệt!.

Khi giữ chức Giáo thọ ở phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, Trần Quý Cáp

đã làm một cuộc cách mạng giáo dục, hợp pháp hóa chủ trương dạy chữ Quốc

ngữ, truyền bá tân học để mở mang dân trí, phong trào Duy Tân tại Quảng Nam

phát triển rầm rộ khiến thực dân Pháp lo sợ cho nền thống trị lung lay.

Lúc bấy giờ có một số sĩ phu tân học có tinh thần vọng ngoại, Trần Quý

Cáp thấy cái bệnh vọng ngoại có thể đến “dịch chủ vi nô”. “Ông cho rằng muốn

chữa bệnh cuồng nhiệt vọng ngoại ngoài phương thuốc tự trị không gì hơn”

(Huỳnh Thúc Kháng, Tiểu truyện Thai Xuyên Trần Quí Cáp), nên ông viết

bài “Sĩ phu tự trị luận” thẳng thắn công kích họ.

Page 72: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

72

Những việc làm của ông Giáo thọ Thăng Bình để phổ biến tân học, vận

động Duy Tân được quần chúng hưởng ứng mạnh mẽ, gây tiếng vang lớn làm cho

giới cựu học phải gai mắt, nhà cầm quyền xem như kẻ thù, do đó đầu năm 1908

họ mới đổi ông vào làm Giáo thọ Ninh Hoà (Khánh Hoà) với mục đích tách ông

ra khỏi phong trào cách mạng đang sôi sục ở Quảng Nam mà ông là người chủ

chốt.

Đến nhiệm sở mới, ông càng hăng hái diễn thuyết nói về ích lợi của việc học và

khuyên nhân dân mở nhiều trường tân học. Lúc đầu thì Công sứ Pháp và quan Bố

chính tỉnh Khánh Hòa cũng khen và khuyến khích ông, nhưng đến khi cuộc dân

biến nổ ra ở Quảng Nam và các tỉnh lân cận vào năm 1908, thì thực dân Pháp và

quan lại phong kiến lại bắt ông rồi xử chém một cách gấp rút để thực hiện ý đồ

thủ tiêu một nhà lãnh đạo cách mạng mà chúng đánh giá vô cùng quan trọng.

Ông thọ hình ngày 17 tháng 5 năm Mậu Thân (1908) bên cầu Phước Thạnh, sông

Cạn, tỉnh Khánh Hòa trong tư thế hiên ngang của người anh hùng thung dung tựu

nghĩa.

Về cái chết anh dũng của ông, Phan Bội Châu trong Văn tế Thai Xuyên Trần Quý

Cáp có viết : “ Nhớ khi ông ra tới trường chém, dao đã kề cổ, còn thung dung xin

với quan giám trảm, cho đặt án đốt hương, áo mão nghiêm trang, bái tạ quốc

dân ngũ bái, rồi khẳng khái tựu hình, sắc mặt in như khi nhóm trò giảng sách!”

Sự hy sinh cao cả của Trần Quý Cáp khiến cho toàn thể nhân dân ViệtNamvô

cùng kính phục, tiếc thương. Nhiều nhà cách mạng, thân hào nhân sĩ, môn đệ, đã

làm thơ, câu đối để khóc ông, Huỳnh Thúc Kháng lúc bấy giờ đang bị giam trong

nhà lao Hội An (QuảngNam), được hung tin có làm bài

Khóc Thai Xuyên Trần Quý Cáp

Thư kiếm tiêu nhiên độc xuất môn

Nhứt quan thác lạc vị thân tồn

Trực tương tân học khai nô lũy

Thùy tín dân quyền chủng hoạ côn

Bồng đảo xuân phong huyền viễn mộng

Nha trang thu thảo khấp anh hồn

Khả lân nhứt biệt thành thiên cổ

Đà Nẵng phân khâm tửu thượng ôn

Huỳnh Thúc Kháng tự dịch:

Gươm sách xăm xăm tách dặm miền

Làm quan vì mẹ há vì tiền!

Quyết đem học mới thay nô kiếp

Ai biết quyền dân nảy họa nguyên

Bồng đảo gió chưa đưa giấc mộng

Nha Trang cỏ đã khóc hồn thiêng

Chia tay chén rượu còn đương nóng

Đà Nẵng đưa nhau lúc xuống thuyền.

Page 73: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

73

Nguyễn Thiếu Dũng dịch:

Sách gươm lầm lũi biệt quê nhà

Hoạn lộ chôn chân vị mẹ già

Học mới quyết đem thay kiếp tớ

Quyền dân ai biết họa tai a

Gió tan giấc mộng mơ Bồng Đảo

Cỏ khóc hồn thiêng hận Khánh Hòa

Đà Nẵng đưa nhau chưa nguội rượu

Mà người thiên cổ đã chia xa.

Tám câu thơ đã thể hiện đầy đủ ý tình: từ lý do Trần Quý Cáp đi nhận chức

Giáo thọ đến viêc thực thi lý tưởng cứu nước cứu dân, và sự hy sinh cao cả của

ông. Cuối cùng, đọng lại trong lòng người là tình bạn, tình đồng chí sâu nặng

giữa hai nhà lãnh đạo phong trào Duy Tân trong chén rượu chia tay còn nóng hổi

tại Đà Nẵng.

Làm quan vì mẹ há vì tiền

Năm 1904, Trần Quý Cáp thi Đình đỗ Tiến sĩ, đứng đầu bảng Đệ tam giáp

đồng Tiến sĩ xuất thân vượt lên trên Huỳnh Thúc Kháng. Tuy đạt được thành tích

xuất sắc nhưng ông không ra làm quan để vinh thân phì gia mà dấn thân vào con

đường cách mạng. Ông là một trong ba nhân vật khởi xướng phong trào Duy Tân:

Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, một phong trào cách mạng

vô cùng sôi nổi những năm đầu thế kỷ XX.

Năm 1906, thực hiện chủ trương “dĩ nông hợp quần” ông đang ở nông

trường Yến Nê (Cẩm Nê), thì được chiếu chỉ của triều đình Huế bổ chức Giáo thọ

Thăng Bình. Ông không muốn ra làm quan nhưng bạn bè lấy việc nhà nghèo và

mẹ già khuyên nhủ mãi ông mới đi. Trong bài thơ chữ Hán, Huỳnh Thúc Kháng

viết: “Nhứt quan thác lạc vị thân tồn”

Nhưng câu thơ dịch: “Làm quan vì mẹ há vì tiền” của chính Huỳnh Thúc Kháng

còn rõ ràng và hay hơn cả câu nguyên tác. Câu thơ khẳng định dứt khoát mục

đích ra làm quan của Trần Quý Cáp là vì hiếu chứ không phải vì tiền.

Về sự kiện này, ông Trần Huỳnh Sách có ghi :

"Năm Bính Ngọ 1906 đương ở sở nông hội Cẩm Nê, tiên sinh đắc chỉ bổ

chức Giáo thọ phủ Thăng Bình thuộc tỉnh nhà, tiên sinh không muốn đi, nhưng

thân bằng lấy sự nhà nghèo và mẹ già khuyến khích mãi, tiên sinh mới đi." (Cuộc

đời và hoạt động của chí sĩ Trần Quý Cáp)

Page 74: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

74

Ngoài lý do Trần Quý Cáp làm quan vì mẹ, thiển nghĩ còn một lý do khác

quan trọng hơn mà trong hoàn cảnh lịch sử đương thời cụ Huỳnh Thúc Kháng

không tiện nói ra trong bài thơ. Đó là mục đích hoạt động cách mạng.

Nếu Trần Quý Cáp không nhận chức Giáo thọ thì làm sao ông có thể công

khai phổ biến tân học một cách rộng rãi để “khai dân trí” là mục tiêu hàng đầu mà

phong trào Duy Tân đã đề ra. Muốn tiến bộ, muốn chống lại kẻ thù phải làm cho

dân khôn ra, phải “cắt cái ngu, cái dại” đã đưa dân tộc vào vòng bị trị. Công cụ

để tiến hành sứ mệnh đó không gì tiện dụng hơn chữ Quốc ngữ. Khai dân trí là

bước đầu của công việc hưng quốc, phục quốc. Khai dân trí để làm cho người dân

biết rõ các quyền của mình trong xã hội, trong cuộc sống, trong đất nước và trên

thế giới. Dân quyền chính là cơ sở của độc lập tự chủ, là sức mạnh để giành độc

lập và giữ vững nền độc lập. Nhận chức quan phụ trách về giáo dục của một phủ,

Trần Quý Cáp có cơ hội thực thi nhiệm vụ cách mạng một cách dễ dàng, thuận lợi

hơn là phải hoạt động trong vòng bí mật.

Quyết đem học mới thay nô kiếp Ở cương vị Giáo thọ, Trần Quý Cáp đã làm một cuộc cách mạng giáo dục,

truyền bá tân học. Ông đã biến ngôi trường của chính quyền theo lối học khoa cử

cũ thành ngôi trường lớn của Duy Tân theo lối học mới, tiến bộ. Trường dạy chữ

Quốc ngữ, chữ Tây, dạy các môn khoa học tự nhiên và xã hội, dạy thủ công, thể

dục, võ thuật, chú trọng thực dụng và hướng nghiệp. Đó là lối giáo dục nhằm đào

tạo những con người có thực tài với một bộ óc sáng suốt trong một thân thể tráng

kiện. Ông còn tổ chức những buổi diễn thuyết cổ động cho tân học gây được xúc

động mạnh mẽ trong hàng ngũ thân hào nhân sĩ khiến họ tự nguyện góp công,

góp của dựng lên những ngôi trường Duy Tân trong các xóm làng, mời thầy về

dạy chữ Quốc ngữ, chữ Tây. Chỉ trong vòng năm, sáu tháng, 40 trường tân học đã

được dựng lên để dạy chữ Quốc ngữ, truyền bá cái học mới. Nhiều trường đã gây

được ảnh hưởng lớn, uy tín vang khắp nước như Phú Lâm, Diên Phong, Phước

Bình, Cẩm Toại ...

“ Trực tương tân học khai nô lũy”

Trần Quý Cáp chính là người giữ vai trò trọng yếu trong cách mạng văn

hóa của phong trào Duy Tân. Ông tích cực phổ biến tân học, hô hào cúp tóc ngắn,

mặc âu phục, tổ chức các cuộc diễn thuyết để “khai dân trí” khiến cho quần chúng

ý thức được “dân quyền”, đưa đồng bào tiến bước trên đường duy tân, cứu đất

nước thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Và đó chính là nguyên nhân mang

đến thảm họa cho ông:

“ Quyết đem học mới thay nô kiếp,

Ai biết quyền dân nảy họa nguyên”

Báo cáo của Công sứ Quảng Nam Charles gởi Khâm sứ Trung kỳ

Lévecque ngày 8-1-1908 viết: “...Trong hai phủ Thăng Bình và Tam Kỳ họ nắm

các trường học và điều hành việc dạy học. Họ trao cho học sinh những tài liệu

kích thích tinh thần yêu nước, hận thù quân xâm lược, xem thường cái chết. Mỗi

người phải sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc. Thật là những bài học tuyệt vời về chí

khí, chỉ tiếc là chúng ta một ngày kia phải trả giá cho sự giáo dục ấy mà thôi”. (

Lê Thị Kinh, Phan Châu Trinh qua những tài liệu mới, nxb Đà Nẵng, Q1, tr 50}

Page 75: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

75

Khâm sứ Lévecque đã nhanh chóng đánh hơi được mối nguy hiểm của

ngọn lửa tư tưởng văn hóa mới đang lan nhanh trong quần chúng, có thể cháy

bùng lên bất cứ lúc nào, đe dọa nền thống trị, mà Trần Quý Cáp là người thủ lãnh,

nên đã chủ ý giết ông để chặn đứng phong trào dân biến không cho lan rộng vào

các tỉnh Nam Trung kỳ.

Rút kinh nghiệm sau vụ “làm đúng thủ tục, giao triều đình Huế xử các

vị đại khoa” mà không giết được Phan Châu Trinh, Khâm sứ Lévecque đã đích

thân chỉ đạo giết Trần Quý Cáp ngay tại Khánh Hòa chứ không đưa về Huế Vì

nếu đưa ông về triều đình xét xử thì ông cũng sẽ được giảm án tử hình.

Và trong báo cáo gởi Bộ Thuộc địa năm 1908, Toàn quyền lâm thời

Bonhoure đã khen ngợi hành động kiên quyết và nhạy bén nầy của Khâm sứ

Lévecque. ( theo Lê Thị Kinh, Phan Châu Trinh qua những tài liệu mới Q4, tr

272)

Thùy tín dân quyền chủng họa côn

Câu thơ đã nói rõ nguyên nhân thúc đẩy Pháp giết Trần Quý Cáp chính là vấn đề

dân quyền:

Ai biết quyền dân nảy họa nguyên

Bởi vì Pháp luôn lo sợ nếu để người dân Việt Nam ý thức được dân quyền

thì một ngày không xa họ sẽ đứng lên đánh đổ ách đô hộ của thực dân Pháp.

Nha Trang cỏ đã khóc hồn thiêng

Hai câu luận là tiếng khóc của một người bạn, người đồng chí khóc cho

người đồng chí. Huỳnh Thúc Kháng tiếc thương cho ước vọng cao cả của Trần

Quý Cáp (muốn theo chân Phan Bội Châu sang Nhật Bản vận động cách mạng

cứu nước) chưa thành mà ông đành phải hy sinh:

“Bồng đảo gió chưa đưa giấc mộng

Nha Trang cỏ đã khóc hồn thiêng”

Trần Quý Cáp đã có lần tính đến chuyện xuất dương, nhưng các đồng chí

khuyên ông nên ở lại nội địa để phụng dưỡng mẹ già và để chủ trì việc tân học,

khai thông dân trí, giúp đỡ ý kiến cho Tiểu La Nguyễn Thành.

Trong buổi tiễn đưa Phan Bội Châu sang Nhật, Trần Quý Cáp đã tự gánh

trách nhiệm lo việc trong nước hỗ trợ cho cuộc Đông Du:

Đã không vượt biển sang Đông thổ

Thì ở nhà lo việc Quảng Nam

( Lam Giang,Trần Quý Cáp và tư trào cách mạng dân quyền đầu thế kỷ XX,

Đông

A xuất bản, tr 128, 136).

Nỗi xót xa, thương tiếc được diễn tả bằng hình ảnh nhân hoá “Cỏ đã khóc

hồn thiêng” cho thấy không phải chỉ riêng Huỳnh Thúc Kháng khóc Trần Quý

Cáp mà cả sông núi, đất trời, cỏ cây đều nhỏ lệ trước cái chết của người anh hùng

đã hiến dâng cuộc đời mình cho Tổ quốc cho nhân dân lúc mới tròn 38 tuổi. Con

sông Cạn ở Khánh Hoà đến mùa nắng thì nước khô nhưng nơi cầu Phước Thạnh

nước không bao giờ ráo, phải chăng nỗi đau lớn đã bao trùm cả thiên nhiên, vạn

vật.

Page 76: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

76

Đà Nẵng đưa nhau lúc xuống thuyền

Hai câu kết làm sống lại buổi chia tay tại Đà Nẵng khi Huỳnh Thúc Kháng

tiễn đưa Trần Quý Cáp vào Khánh Hòa, biểu hiện tình bạn, tình đồng chí sâu

nặng giữa hai nhà lãnh đạo của phong trào Duy Tân:

“Chia tay chén rượu còn đương nóng

Đà Nẵng đưa nhau lúc xuống thuyền.”

Chén rượu chia tay còn nóng, những lời Trần Quý Cáp ân cần phó thác

việc thương, việc học trong tỉnh cho Huỳnh Thúc Kháng lúc xuống thuyền vẫn

còn như văng vẳng bên tai mà người bạn thâm giao, người đồng chí đã thành

người thiên cổ. Thật đau xót biết dường nào! Tác giả không nói nhiều, chỉ dùng

hình ảnh “chén rượu chia tay còn nóng” mà nói lên rất đầy đủ ý tình.

Người đọc thấy được từ sự bồi hồi xúc động đến nỗi đau quặn thắt tâm can

của Huỳnh Thúc Kháng trước cái chết bất ngờ của Trần Quý Cáp. Cuộc tiễn đưa

như mới hôm qua, tình bạn, tình đồng chí còn ấm áp quanh đây mà người tri kỷ

đã vĩnh viễn xa rời.

Bài thơ nói về sự hy sinh, mất mát mà không bi lụy, tình cảm sâu nặng mà

không thảm thiết, rất phù hợp với phong cách của một nhà cách mạng khóc một

nhà cách mạng vì nghĩa cả hy sinh.

Bến sông Đà Nẵng đã chứng kiến cảnh biệt ly đầy nghĩa tình của hai nhà

chí sĩ cách mạng đầu thế kỷ XX. Huỳnh Thúc Kháng tiễn đưa Trần Quý Cáp,

người bạn, người chiến hữu, đi vào nhiệm sở mới và cũng là đi vào cõi vĩnh hằng.

Tuy sự nghiệp “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” của phong trào Duy Tân

chưa thành công, nhưng chí sĩ Trần Quý Cáp đã “thành danh” trong trang sử đấu

tranh chống ngoại xâm của dân tộc.

Châu Yến Loan

http://nghiencuuxuquang.com/can-hien-dai/cuoc-chia-ly-giua-tran-quy-cap-va-

huynh-thuc-khang-tai-da-nang-73.html

Huỳnh Thúc Kháng với Đà Nẵng .

Đầu thế kỷ XX, Huỳnh Thúc Kháng từng có mặt ở Đà Nẵng ít nhất một lần

vào năm 1907 khi tiễn chân Trần Quý Cáp xuống tàu đi Khánh Hòa nhậm

chức.

Lúc ấy, Trần Quý Cáp đang bị Công sứ Quảng Nam Charles thuyết phục

Khâm sứ Trung Kỳ Fernand Lévecque cho chuyển vào làm Giáo thụ phủ Ninh

Hòa nhằm cách ly người chủ xướng Duy tân khỏi phong trào cách mạng đất

Quảng. Trong bài thơ khóc Trần Quý Cáp vừa bị kẻ thù sát hại với án chém

Page 77: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

77

ngang lưng năm 1908, Huỳnh Thúc Kháng bùi ngùi nhắc lại cuộc tiễn đưa giữa

hai người đồng tâm đồng chí trong Bộ-ba-Quảng-Nam (chữ dùng của Hồ Tá

Khanh trong Thông sử Liên Thành Công ty để gọi Phan Châu Trinh, Trần Quý

Cáp và Huỳnh Thúc Kháng): Khả lân nhứt biệt thành thiên cổ/ Đà Nẵng phân

khâm tửu thượng ôn, và tự dịch: Chia tay chén rượu còn đương nóng/ Đà Nẵng

đưa nhau lúc xuống thuyền.

Một bài báo trên báo Tiếng Dân nói về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo

Hoàng Sa. Trong tiêu đề và nhiều chỗ trong các bài viết, cụ Huỳnh dùng chữ

“Tây Sa” để chỉ quần đảo Hoàng Sa. (Ảnh tư liệu)

Tuy nhiên, hai sự kiện sau đây: một là việc Huỳnh Thúc Kháng và nhóm

nhân sĩ trí thức yêu nước trong Hưng Nam hội như Trần Mộng Bạch, Đào Duy

Anh, Lê Văn Huân, Trần Đình Nam... họp hội nghị ở Đà Nẵng vào ngày mồng

10-9-1926 bàn việc xin phép nhà cầm quyền Pháp cho thành lập Việt Nam tấn bộ

dân hội có trụ sở đặt tại Đà Nẵng (nhưng Toàn quyền Đông Dương Alexandre

Varenne đã thẳng thừng bác bỏ đề nghị này); hai là sự ra đời vào tháng 4-1927

của Công ty Huỳnh Thúc Kháng chuyên ngành in và báo chí cũng đặt trụ sở ở Đà

Nẵng, mới được xem là đánh dấu mối quan hệ gắn bó giữa Huỳnh Thúc Kháng

với Đà Nẵng.

Từ giữa năm 1926 đến giữa năm 1927, Huỳnh Thúc Kháng chủ yếu sống ở

Đà Nẵng, trong nhà Nguyễn Xương Thái - lúc ấy đang là Thư ký Sở Thương

chính Tourane. Vào khoảng thời gian này, Huỳnh Thúc Kháng đã gặp Đào Duy

Anh cũng đang sống tại Đà Nẵng để bàn việc thành lập Việt Nam Tấn bộ dân hội,

Công ty Huỳnh Thúc Kháng và ra báo Tiếng Dân.

Trong hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm xuất bản lần đầu năm 1989, Đào Duy

Anh kể về cuộc gặp mặt này: “Một buổi sáng, tôi nhận được thư của anh Đặng

Page 78: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

78

Văn Tế báo cho biết chiều hôm ấy cụ Huỳnh Thúc Kháng cùng một số bạn bè của

anh ở Tourane sẽ xuống Mỹ Khê tắm biển và nhân ghé thăm tôi, anh dặn tôi

chuẩn bị cho khách ăn cá biển.Cụ Huỳnh Thúc Kháng đã già, nhưng gặp lại cảnh

biển mà cụ từng quen thuộc ở Côn Lôn, cụ rất thích thú nên bơi và lặn không kém

gì thanh niên. Tắm xong tôi mời khách lên nhà, dưới rừng phi lao. Hôm ấy cụ

Huỳnh cao hứng đọc cho chúng tôi nghe rất nhiều thơ và câu đối cụ và các bạn tù

khác làm ở Côn Lôn, cùng những bài cụ mới làm từ sau khi được tự do.Trong khi

ăn cơm, cụ Huỳnh hỏi đến tình hình tôi nghỉ mát ở Mỹ Khê. Sau khi tôi bày tỏ ý

định vào Sài Gòn làm báo, thì anh Nguyễn Xương Thái - người sau này sẽ từ

chức thư ký Thương chính mà theo báo Tiếng Dân - ngắt lời tôi rằng: “Việc gì

anh phải đi Sài Gòn, cứ ở đây khắc có báo cho anh làm thôi”. Thế là anh khuyên

tôi ở lại cùng với anh em giúp cụ Huỳnh xây dựng tờ báo Tiếng Dân”.

Huỳnh Thúc Kháng và các cộng sự còn muốn tranh thủ sự thông thoáng

trong quản lý báo chí và xuất bản của một đô thị nhượng địa như Tourane/Đà

Nẵng thời Pháp thuộc để xin đặt tòa soạn báoTiếng Dân tại thành phố bên sông

Hàn. Theo thông tin trong bài Báo Tiếng Dân (1927-1943): vài tư liệu mới, ngày

mồng 8-10-1926, Huỳnh Thúc Kháng chính thức làm đơn gửi Xử lý Thường vụ

Toàn quyền Pierre Marie Antoine Pasquier xin được phép xuất bản một tờ báo

bằng chữ Việt mới, với tên Tiếng Dân, đặt trụ sở tại Tourane. Ngày 26-11-1926,

Huỳnh Thúc Kháng nhờ Đốc lý Tourane chuyển thư cho Khâm sứ Trung Kỳ

D‟Elloy, nêu rõ thêm chi tiết về tòa soạn và trị sự của Tiếng Dân (báo có nhà in

riêng, về tài chính sẽ lập một công ty vô danh; phụ tá cho Huỳnh Thúc Kháng có

Đào Duy Anh, Trần Đình Phiên, một thư ký kế toán và một thư ký phụ trách văn

thư) - ngày 27-11-1926, Đốc lý Tourane chuyển thư này cho D‟Elloy.

Ngày mồng 6-12-1926, D‟Elloy gửi thư cho Huỳnh Thúc Kháng - thông

qua Công sứ Hội An - báo rằng đã nhận được thư liên quan đến việc ra báo Tiếng

Dân do Đốc lý Tourane chuyển, và nêu rõ D‟Elloy đồng ý nhưng với điều kiện

tòa soạn phải đặt ở Huế. Huỳnh Thúc Kháng vẫn kiên trì thuyết phục nhà cầm

quyền Pháp cho phép đặt trụ sở Tiếng Dân tại Tourane. Ngày 14-12-1926, Huỳnh

Thúc Kháng gửi thư viết tay cho D‟Elloy nhấn mạnh sở dĩ chọn Tourane là bởi

nếu dời ra Huế thì phí tổn di chuyển quá nặng trong khi Công ty Huỳnh Thúc

Kháng nghèo. Ngoài ra, Huỳnh Thúc Kháng còn viện lý do Tourane là thành phố

thương mại, trong khi Huế là một trung tâm văn hóa, nơi có nhiều trào lưu tư

tưởng và chính kiến dị biệt, chắc chắn có những tư tưởng không phù hợp với chủ

trương ôn hòa và mục tiêu giáo huấn đám đông của Tiếng Dân… Tuy nhiên,

D‟Elloy kiên quyết không chịu nhượng bộ và cuối cùng tòa soạn Tiếng Dân vẫn

phải đặt tại Huế.

Nếu hồi ấy, Khâm sứ Trung Kỳ D‟Elloy chấp nhận đề nghị đặt trụ sở Tiếng

Dân tại Tourane thì chắc tờ báo yêu nước này đã có điều kiện thuận lợi hơn về

thời tiết chính trị - do ít áp lực hơn về chế độ kiểm duyệt chứ không phải do

không có tư tưởng không phù hợp với chủ trương ôn hòa và mục tiêu giáo huấn

đám đông của Tiếng Dân, như Huỳnh Thúc Kháng cố tình biện bạch với D‟Elloy

- nhằm thể hiện chính kiến của những người sáng lập. Đương nhiên dẫu đặt tòa

soạn báo ở đâu - Tourane hay Huế - thì Tiếng Dân vẫn luôn trung thành với quan

điểm cầm bút/tuyên ngôn làm báo của Chủ nhiệm kiêm Chủ bút Huỳnh Thúc

Page 79: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

79

Kháng: “Nếu không có quyền nói thì ít ra cũng giữ được cái quyền không nói

những điều người ta buộc nói”, hoặc: “Vì rằng ta không có quyền tự do nói những

điều nên nói, mà ta lại có quyền tự do không nói những cái không nên nói”. Đây

mới là thực chất cái gọi là “chủ trương ôn hòa” của báo Tiếng Dân mà Huỳnh

Thúc Kháng từng viện dẫn để thuyết phục Khâm sứ Trung Kỳ.

Trên trang web donghuongtienphuoc.com có tài liệu ghi rằng vào năm

1933, vợ sau của Huỳnh Thúc Kháng là bà Hồ Thị Chưởng từ quê nhà Tiên

Phước ra tòa soạn báo Tiếng Dân thăm chồng nhưng nhằm lúc ông vào Đà Nẵng

nên hai người không gặp nhau, sau đó bà bị bệnh tả và mất ở Huế vào khoảng

tháng 10 cùng năm. Không biết vào thời điểm này Huỳnh Thúc Kháng vào Đà

Nẵng có công chuyện gì, song sự việc này cũng chứng tỏ thời kỳ làm báo Tiếng

Dân, Đà Nẵng là nơi Huỳnh Thúc Kháng có nhiều mối quan hệ cần trực tiếp giao

dịch xử lý.

Trên báo Tiếng Dân, Huỳnh Thúc Kháng còn có một đóng góp đáng kể vào

mặt trận ngoại giao học thuật thông qua việc viết nhiều bài báo bàn về chủ quyền

của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Trong báo Tiếng Dân số 1284 ra ngày

23-7-1938, với bút danh Sử Bình Tử, Huỳnh Thúc Kháng viết bài đề cao giá trị tư

liệu của sách Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn, đồng thời khẳng định với các tài

liệu đã sưu tập được về Hoàng Sa thì “thì đảo ấy là phần sở hữu của nước Nam ta,

vì chính người Nam đã chiếm trước hết và đã kinh dinh các công cuộc ở đảo ấy

(…) nếu trên sân khấu quốc tế, nhận chủ quyền sở hữu của những ai chiếm trước

và có tài liệu làm chứng hẳn hoi, như luật điền thổ, khai tài, khai lập nghiệp ở xa,

bằng theo lộ tịch và phân thư chúc từ của tiền nhân để lại, tưởng không có nước

nào có chứng cứ đầy đủ như nước ta…”.

Như vậy là từ rất sớm, Huỳnh Thúc Kháng đã quan tâm đến thư tịch cổ

nhằm tìm kiếm những bằng chứng vừa có giá trị lịch sử vừa có giá trị pháp lý để

góp phần vào cuộc đấu tranh khẳng định chủ quyền biển đảo và quan trọng hơn là

trên cơ sở những chứng cứ đầy đủ hơn bất kỳ nước nào khác, từ thập niên 30 của

thế kỷ trước, Huỳnh Thúc Kháng đã khẳng định trước công luận rằng Hoàng Sa

hoàn toàn thuộc về chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của nước ta. Đóng góp học

thuật ấy của Huỳnh Thúc Kháng đến nay vẫn còn nóng hổi tính thời sự đối với Đà

Nẵng là địa phương có huyện đảo Hoàng Sa đang còn trong tay Trung Quốc.

Ngày 21-4-1947, được tin Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng tạ thế, với

lòng tiếc thương vô hạn, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài thơ điếu bằng chữ Hán: Ô

hô!/ Vân phong vân khí ám/ Đà hải triều thanh bi/ Tứ nguyệt lệ vân tố/ Huỳnh Bộ

trưởng yên quy?/ Nội vụ bộ kim nhật/ Tài đức giả kỳ thùy?/ Đồng bào nẫm dư

triệu/ Thống khấp lệ lâm ly, và tự dịch: Than ôi!/ Bể Đà Nẵng triều thảm/ Đèo

Hải Vân mây sầu/ Tháng tư tin buồn đến/ Huỳnh Bộ trưởng đi đâu?/ Trông vào

Bộ Nội vụ/ Tài đức tiếc thương nhau!/ Đồng bào ba chục triệu/ Đau đớn lệ rơi

châu! Điều đáng nói là trong bài thơ này, Huỳnh Thúc Kháng được người làm thơ

nhắc đến như là người con của thành phố bên sông Hàn, với hai địa danh đặc

trưng là biển Đà Nẵng và đèo Hải Vân.

Thật ra, trong tư duy đương thời, các địa danh biển Đà Nẵng, núi Hải Vân

hay núi Ngũ Hành là cách hình dung chung về quê hương đất Quảng, chẳng hạn

như khi Phan Bội Châu khóc thương Tiểu La Nguyễn Thành: Nghĩ một người đã

Page 80: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

80

tạo ra em, thành tựu cho em, mà bây giờ kẻ mất người còn, hồn trời phách đất!

Mây Hải Vân mờ mịt bóng gươm vàng! Bể Đà Nẵng chập chờn cơn sóng bạc!,

hoặc: Than ôi! Núi Hải Vân còn đó, biển Đà Nẵng còn đó, ai là người Tiểu La

tiên sinh thứ hai? Tuy nhiên cách hình dung ước lệ như vậy cũng/càng chứng tỏ

mối quan hệ gắn bó giữa Huỳnh Thúc Kháng với Đà Nẵng. Vì vậy, từ những năm

50 của thế kỷ trước, ở Đà Nẵng đã có đường Huỳnh Thúc Kháng và ngày nay trên

địa bàn quận Thanh Khê cũng có một trường THCS mang tên ông...

BÙI VĂN TIẾNG

http://www.baodanang.vn/channel/5414/201510/huynh-thuc-khang-voi-da-nang-

2449152/

Page 81: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

81

Cụ Huỳnh đi... nghe ca Huế

Huỳnh Thúc Kháng là một người hết sức nghiêm túc, nghiêm túc đến độ khô

khan. Vì thế, nói chuyện cụ đi nghe ca Huế trên đò sông Hương thì ai cũng

ngạc nhiên, mặc dù ngày trước đó chỉ là một thú vui tao nhã. Nhưng người

ta kể, ít nhất có hai lần cụ đã từng tham gia thú vui này trong thế “chẳng đặng

đừng”.

Bến thuyền du lịch biểu diễn ca Huế tại Đập Đá, thành phố Huế. Ảnh: V.T.L

Là hai người bạn thân thiết nhưng về tính cách, Phan Châu Trinh và Huỳnh

Thúc Kháng là hai người hoàn toàn khác biệt nhau. Cụ Phan là con người “ngang

tàng”, “Luôn đạp phá khuôn khổ”... “Bình sinh trong quan trường, cõi sắc, đám

bạc, cuộc say, chỗ nào cũng chui mình vào, không thèm trớ tránh chi cả, song đã

biết là lụy thì tức thì gò ngựa, không bước vào nữa... không có chút gì là quyến

luyến”(1). Còn cụ Huỳnh thì ngược lại, “Không biết uống rượu, chơi hoa, ngắm

sắc, thưởng sơn thủy” (2)ông tránh xa mọi thứ hệ lụy.

Cụ Phan bảo “Cảnh tình dục ham muốn, vào trong ấy mà ra được, mới là

hào kiệt, là không nịch (chìm đắm)... đứng ngoài xa trông vào mà đã sinh lòng sợ

không dám lại gần đó mà thôi, nhất đán vào trong, biết đâu không bị nó làm lụy

mà ra không được”(3). Cụ Huỳnh lại chủ trương “Để cho đến vào trong mà

không ra được thà không vào còn hơn”(4). Vì vậy đối với cụ Huỳnh, đi nghe ca

Huế trên đò sông Hương là loại thú vui cần phải “kính nhi viễn chi”. Nhưng đã có

hai lần cụ phải đi.

Lần thứ nhất do cụ Phan rủ. Chuyện kể, khoảng năm 1903-1904, các nhà

nho Duy tân Quảng Nam thường rủ nhau ra Huế để tìm đọc Tân thư, nhằm đi tìm

phương cách mới để cứu nước, đưa đất nước khỏi chìm đắm trong ngu dốt và lệ

thuộc. Để tránh con mắt dòm ngó của thực dân Pháp và quan lại Nam triều, các

cụ rủ nhau xuống đò lấy cớ là đi nghe ca Huế, nhưng thực chất là để bàn luận về

những tư tưởng mới của Tân thư mà các cụ vừa đọc. Cụ Huỳnh không biết được ý

đồ của cụ Phan nên cương quyết từ chối. Mãi cho đến khi nghe cụ Phan rỉ tai “Đò

“chay” chứ không phải đò "mặn” và để bàn chuyện quốc sự chứ không phải để

nghe ca hát vớ vẫn”, lúc đó cụ mới chịu để cụ Phan nắm tay dắt xuống đò.

Lần thứ hai vào khoảng giữa thập niên 30, khi cụ Huỳnh đang làm chủ

nhiệm kiêm chủ bút báo Tiếng Dân. Một hôm ông Trần Đình Diệm từ Nghệ An

vào Huế chơi, có nhã ý muốn mời cụ đi uống rượu và nghe ca Huế trên đò sông

Page 82: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

82

Hương. Cụ lấy làm khó xử vì cụ rất ít tham gia những cuộc vui chơi nhất là đi

nghe ca hát trên đò. Nhưng ngặt một nỗi, Trần Đình Diệm là một người đặc biệt,

là con trưởng của cụ Mã Sơn Trần Đình Phong, mà đối với Huỳnh Thúc Kháng,

cụ Mã Sơn là ân sư của mình.

Truyện kể khi học ở trường tỉnh tại Thanh Chiêm, Điện Bàn, do Tiến sĩ

Trần Đình Phong vừa làm Đốc giáo (Hiệu trưởng) vừa trực tiếp giảng dạy. Cụ

Đốc giáo đã dành nhiều ưu ái cho Huỳnh Thúc Kháng. Tháng nào đến kỳ khảo

hạch bài của Huỳnh Thúc Kháng cũng được xếp loại ưu dù bản thân ông không

thấy bài của mình nổi trội hơn các bạn đồng môn. Một lần Huỳnh Thúc Kháng

nghe cụ Mã Sơn bảo: “Anh nhà nghèo lại ở xa, bổng lại ít vì là học sinh, không

nhiều như các ấm sinh và cử nhân nên chấm cho cao một tí để có thêm tiền ăn

học”.(5)

Huỳnh Thúc Kháng luôn nhớ tấm lòng ưu ái của thầy dành cho mình. Mặt khác,

ngày xưa học trò lại luôn coi con thầy là anh. Trần Đình Diệm còn là anh ruột của

Trần Đình Phiên là cộng sự thân tín của Huỳnh Thúc Kháng tại báo Tiếng Dân,

làm Quản lý báo từ ngày đầu cho đến ngày cuối. Hơn nữa, Trần Đình Diệm cũng

lại là cộng tác viên của báo Tiếng Dân, đã viết nhiều bài giá trị cho tờ báo. Đối

với cụ Huỳnh, Trần Đình Diệm còn là người đồng chí của mình. Khi Viện trưởng

Huỳnh Thúc Kháng từ chức (sau khi có bài diễn văn nẩy lửa lên án thực dân Pháp

và tên Khâm sứ Trung Kỳ) trong vụ Huỳnh Thúc Kháng - Jaboulle, Trần Đình

Diệm là người đầu tiên làm đơn từ chức nghị viên để ủng hộ lập trường của Viện

trưởng họ Huỳnh.

Tuy rất nể tình người anh (con trưởng của thầy), người cộng tác viên,

người nhà (anh ruột của thành viên sáng lập tờ báo), người khách, người đồng chí

nhưng xuống đò trên sông Hương để nghe ca Huế đối với cụ Huỳnh là cả một cực

hình. Sau nhiều lần từ chối không được cụ bất đắc dĩ phải đi. Nhưng đến nơi, sau

khi uống một chung rượu, cụ đã để lại một bài thơ, rồi xin cáo từ ra về. Bài tứ

tuyệt có tựa là “Tiễn bạn trên sông Hương” (6) được nhiều người ở Huế nhớ và

đọc lại như sau:

Đối tửu đương ca khí dị đồi,/ Bằng trù hà sự cố tương thôi./ Hương Giang tất

cảnh mê nhân động,/ Đa thiểu thanh niên khí vị hồi.

Dịch thơ: Uống rượu nghe ca khí dễ lùi,/ Cớ sao các bạn cứ nài tôi./ Hương

Giang là động mê người đó,/ Bao kẻ thanh niên khí chửa hồi.

Bản dịch khác: Nhọc lòng chén rượu câu ca,/ Cớ sao các bạn cùng ta cứ nài./

Hương Giang là động mê người,/ Thanh niên bao kẻ chưa rời cuộc say.

Đúng là phong cách Huỳnh Thúc Kháng, một “lão phát” đại khoa tiến sĩ đáng

kính!

LÊ THÍ

(1), (2), (3), (4): Theo Huỳnh Thúc Kháng trong Giai nhân kỳ ngộ; dẫn lại theo

Nguyễn Văn Xuân trong Phong trào Duy tân, NXB Đà Nẵng.

(5), (6): Nguyễn Q. Thắng, Huỳnh Thúc Kháng-Con người và thơ văn , NXB Đà

Nẵng.

http://www.baodanang.vn/channel/6058/201411/cu-huynh-di-nghe-ca-hue-

2377379/

Page 83: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

83

CÂU ĐỐI XƯA TRÊN MỘ CỤ HUỲNH

Vào những ngày cuối tháng Ba, đầu tháng Tư năm 1975, trong hành trình

“Chim Sơn Ca” theo chân những đoàn quân giải phóng, nhóm phóng viên

chiến trường chúng tôi có dịp dừng chân ở Quảng Ngãi, khi tỉnh này vừa được

giải phóng. Những anh chị cán bộ vừa ở chiến khu về, dẫn chúng tôi đi thăm

một vài địa điểm xung quanh thị xã, mà theo các anh chị thì đó là những nơi

hội tụ những dấu tích non sông, là người dân Quảng Ngãi, ai cũng thấy tự

hào.

Nơi chúng tôi đến thăm đầu tiên là núi Thiên Ấn, nơi được coi là “đệ nhất danh

thắng” của miền núi Ấn sông Trà. Anh Hoàng Trương ở Tuyên giáo nói vui:

“Đến Quảng Ngãi là phải lên Thiên Ấn. Đó là nơi ấn tín nhà Trời niêm xuống

dòng sông!”. Lên đến đỉnh núi, tuy không thấy ấn tín nhà Trời đâu cả, nhưng quả

thật thì nơi đây là một thắng cảnh hiếm có. Trong nắng ấm tháng Tư, cả bốn phía

chân trời bao la hiện ra với những cảnh sắc thắm tươi, vời vợi. Sông Trà Khúc ở

phía Nam đang rì rào chảy xuôi về biển ở hướng đông, những làn nước óng ánh

phơi mình trong nắng ấm cuối xuân, in hình những guồng xe nước chậm rãi quay

bình bên những cánh đồng xanh. Nơi kia, phía Tây là dải Trường Sơn sừng sững,

một màu xanh đậm kéo dài hút mắt. Thị xã nho nhỏ, xinh xinh với nhấp nhô

những dãy phố nhỏ, hòa vào khung cảnh mênh mang những bãi mía, nương dâu,

ruộng lúa. Và, xa hơn một chút là núi Bút, vẫn xanh xanh những vòm cây yên

lành.

Chúng tôi đang lặng ngắm bốn phía chân trời, thì anh Hoàng Trương lên tiếng:

“Bây giờ xin mời các anh đến viếng thăm một nhà chí sĩ yêu nước đang yên nghỉ

nghìn thu trên đỉnh núi thiêng này!”. Chúng tôi, ai cũng hết sức xúc động vì lần

đầu tiên lên thăm núi Thiên Ấn, lại được đến kính viếng một nhà chí sĩ yêu nước

từ lâu đã nghe danh tiếng, nhưng chưa biết rằng ngôi mộ của cụ lại đang ở chính

nơi danh thắng đệ nhất này. Đó là cụ Huỳnh Thúc Kháng, một chí sĩ yêu nước nổi

tiếng, mà ai đã học qua lịch sử nước nhà thời cận hiện đại đều không thể nào

quên. Lúc đó, có một cán bộ lão thành cùng đi, được anh Hoàng Trương giới

thiệu là bác Đỗ Minh Toại - người biết rõ về lai lịch của ngôi mộ cụ Huỳnh. Khi

chúng tôi đã quay tụ lại phía trước ngôi mộ ở ngay phía Tây Nam của đỉnh núi,

bác Toại chỉ lên hai hàng câu đối ở phần quách xây vòng ngôi mộ, và đọc to: Làm

nghị sĩ không vinh, tù Côn Lôn không nhục, Khí tiết cõi tùng trơ một gốc/ Lãnh

bộ trưởng tròn tài, quyền Chủ tịch trọn đức, Minh tinh sao Vĩ chiếu ngàn thu.

Rồi bác Toại cho biết: “Danh tiếng cụ Huỳnh Thúc Kháng thì đồng bào ta ai cũng

đã biết. Nhưng việc ngôi mộ cụ ở trên núi Thiên Ấn này, thì có lẽ nhiều người

còn chưa hiểu rõ. Nguyên là vào năm 1947, khi nước ta mới bước vào những

tháng đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp trở lại xâm lược, với tư cách là Hội

Page 84: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

84

trưởng Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam, đồng thời là Đặc phái viên của Chính

phủ tại miền Nam Trung bộ, cụ Huỳnh đã đi kinh lý các tỉnh miền Trung, để giải

thích đường lối kháng chiến và động viên, kêu gọi toàn dân ủng hộ Chính phủ,

kêu gọi các đảng phái “thực hiện ngay đại đoàn kết chung quanh Chủ tịch Hồ Chí

Minh”. Trong khi đó, giặc Pháp đã đánh chiếm Đà Nẵng và tiến vào phía bắc

sông Thu Bồn, phía nam thì chúng đã gây hấn ở Nam Bộ, đánh ra chiếm Quy

Nhơn, tiến lên Tây nguyên chiếm Pleiku, Kon Tum. Vùng tự do của ta ở miền

Trung chỉ còn một khu vực từ nam sông Thu Bồn đến phía bắc Bình Định. Ủy

ban Kháng chiến Hành chánh Nam Trung bộ lui về đóng ở chợ Cùa, huyện Nghĩa

Hành. Cụ Huỳnh cũng về đây cùng ở trong khu tự do, ở trong nhà dân như các vị

lãnh đạo của Trung ương về công tác và các thành viên của Ủy ban Kháng chiến

Hành chánh Nam Trung bộ.

Theo các cụ lão thành cách mạng như cụ Nguyễn Công Phương, cụ Lê Hồng

Long… là những người chăm sóc những ngày cuối cùng cho cụ Huỳnh kể lại, thì

cụ Huỳnh vào công tác ở Quảng Ngãi hơn 4 tháng, dù tuổi cao sức yếu, đời sống

kháng chiến gian khổ, nhưng cụ luôn hăng say đến với mọi tầng lớp nhân dân, đi

thăm dân công đắp đê, đi dự Đại hội thân hào liên tỉnh Bình Định - Quảng Ngãi,

ở huyện Tư Nghĩa vào ngày 25-2-1947. Cụ Huỳnh đã chào mừng đại hội với bài

thơ “Thanh xuân bất tái”, nhằm nhắn nhủ già trẻ gái trai đồng lòng chung sức

phục vụ kháng chiến, không thể chần chừ, vì tuổi xuân một đi không trở lại.

Giữa tháng 3-1947, căn bệnh dạ dày kinh niên của cụ Huỳnh tái phát. Các vị đại

diện lãnh đạo lúc bấy giờ ở vùng kháng chiến Nam Trung bộ như ông Phạm Văn

Đồng, các bác sĩ có mặt như Lê Đình Thám, Trương Gia Thọ đều đến thăm và chỉ

đạo việc điều trị chăm sóc cho cụ Huỳnh. Nhưng điều kiện thuốc men thời đó

thiếu thốn, sức khỏe của cụ Huỳnh suy giảm, điều trị tận tình mà bệnh tình không

thuyên giảm. Biết bệnh tình khó lòng qua khỏi, ngày 14-4-1947, cụ Huỳnh gửi

điện cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, rồi ngày 19-4-1947, cụ lại gửi điện cho anh em

binh sĩ, cho các đảng phái, tôn giáo. Trong thư riêng được đọc cho thư ký chép

gửi đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ Huỳnh viết với những lời đầy xúc động: “Tôi

bệnh nặng chắc không qua khỏi. Bốn mươi năm ôm ấp độc lập và dân chủ, nay

nước ta đã độc lập, chế độ dân chủ đã thực hiện, thế là tôi chết hả. Chỉ tiếc không

được gặp Cụ lần cuối cùng. Chúc Cụ sống lâu để dìu dắt quốc dân trên đường

vinh quang hạnh phúc. Chào vĩnh quyết”. Và trong giây phút lâm chung, các vị

đại diện Việt Minh, Liên Việt và thân hào đang chăm sóc cho Cụ có hỏi về

nguyện vọng được mai táng nơi đâu, cụ Huỳnh đã bày tỏ ý muốn được nằm lại

nơi đây trên đất Quảng Ngãi, nếu được thì mai táng ngay trên núi Thiên Ấn, bên

cạnh dòng sông Trà.

Ngày 21-7-1947, cụ Huỳnh Thúc Kháng trút hơi thở cuối cùng trong niềm tiếc

thương vô hạn của đông đảo đồng bào, cán bộ, chiến sĩ vùng kháng chiến Nam

Trung bộ, trên đất Quảng Ngãi mến yêu. Thay mặt cho đồng bào, chiến sĩ cả

nước, lúc 8 giờ sáng ngày 24-4-1947, cán bộ, quân, dân, chính đảng và đông đảo

nhân dân Quảng Ngãi đã tổ chức trọng thể lễ tang tiễn đưa cụ Huỳnh. Lúc 13 giờ

Page 85: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

85

chiều cùng ngày, linh cữu của Cụ đã được đưa lên mai táng trên núi Thiên Ấn,

theo đúng ý nguyện của Cụ. Trong điếu văn mà đại diện Ủy ban Kháng chiến

Hành chánh tỉnh Quảng Ngãi đọc trong lễ tang, phần kết thúc có đôi câu đối như

trình bày ở trên, mà chúng ta được đọc hôm nay ngay tại chính ngôi mộ của cụ.

Gần 20 năm sau, tôi lại có dịp đi cùng đồng chí Đỗ Minh Toại, lên thăm mộ cụ

Huỳnh trên núi Thiên Ấn. Lúc này, cuối tháng 10-1994, đồng chí Đỗ Minh Toại

đã là Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi. Mộ cụ Huỳnh lần này đã được tôn tạo lại khang

trang hơn. Tấm bia mới xây trước mộ phần của cụ, ghi rõ: “Mộ Cụ Huỳnh Thúc

Kháng - Chí sĩ Cách mạng, Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,

Chủ tịch Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Liên Việt). Sinh năm Bính Tí, 1876,

tại huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, mất ngày 21-4-1947 tại huyện Nghĩa

Hành, tỉnh Quảng Ngãi”. Và dưới đó là một phần trang trọng ghi lời của Chủ tịch

Hồ Chí Minh: “Cụ Huỳnh là người học hành rất rộng, chí khí rấ bền, đạo đức rất

cao. Vì lòng yêu nước, mà trước đây cụ bị bọn thực dân làm tội, đày ra Côn Đảo.

Mười mấy năm trường, gian nan cực khổ. Nhưng lòng son dạ sắt, yêu nước

thương nòi của cụ Huỳnh, chẳng những không sơn lại thêm kiên quyết. Cụ Huỳnh

là người mà giàu sang không làm xiêu lòng,nghèo khó không làm nản chí, oai vũ

không làm sờn gan. Cả đời cụ không cầu danh vị, không cầu lợi lộc, không thèm

làm giàu, không thèm làm quan. Cả đời cụ Huỳnh chỉ phấn đấu cho dân được tự

do, nước được độc lập”.

Đọc xong những giòng chữ trang trọng ấy, chúng tôi dâng hương lên mộ cụ

Huỳnh, và nhìn ra không gian bao la của vùng đất núi Ấn sông Trà. Lòng tôi cảm

khái nhớ về câu đối xưa. Nhưng chính lúc đó, từ pháp đình Thiên Ấn vang lên hồi

chuông ban trưa, lan trong không gian, từng nhịp từng nhịp dội vào cõi lòng từng

con người. Đồng chí Đỗ Minh Toại quay sang phía tôi và như hiểu niềm day dứt

trong tôi, ông chỉ cho tôi đôi câu đối mới được tô lại trên hai trụ biểu của ngôi

chùa. Tôi ngoảnh đọc, và bỗng ngộ ra điều mà ông muốn nói. Đôi câu đối trước

cổng chùa Thiên Ấn như sau: “Thiên Ấn kỳ gian hề, hoa điểu thụ lâm hàm tuyên

diệu pháp/ Tổ đình chi ngoại giả, sơn hà đại địa toàn lộ pháp thân”. Ý nghĩa của

câu đối như sau này đồng chí Đỗ Minh Toại cho tôi biết, được một nhà thức giả

dịch như sau: “Trong Thiên Ấn, mọi cỏ cây hoa lá, thảy thấm nhuần huyền vi

diệu pháp/ Ngoài Tổ Đình, mỗi ngọn núi giòng sông, đều đẫm sương Cam Lộ vô

thường!”.

Mãi gần đây, tham gia sinh hoạt Câu lạc bộ Hán Nôm, khi được nghe về câu đối

ấy, cụ Nguyễn Đình Ngật, Chủ nhiệm Câu lạc bộ đã dịch lại như sau: “Thiên Ấn

đứng nơi này, hoa cười chim hót rừng xanh ghi sâu Diệu Pháp/ Tổ đình ở ngoài

ấy, núi cao sông dài đất rộng tỏ bày Pháp Thân”. Những buổi sinh hoạt Câu lạc

bộ như thế, chúng tôi vẫn thường ôn lại những trang sử và sự nghiệp của các danh

nhân, chí sĩ xứ Quảng, thường hòa chung niềm vui khi một thành viên nào đó

dịch đạt được một đoạn văn, một bài thơ hoặc một câu đối của các bậc tiền nhân,

Page 86: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

86

ví như câu đối trên chùa Thiên Ấn, nơi cụ Huỳnh đã nằm lại ngàn thu giữa một

danh thắng của vùng núi Ấn sông Trà./.

Nguyễn Trương Đàn (Nguồn tin: Theo Đặc san Nghiên cứu Lịch sử xứ Quảng, số 5, 2015)

http://nghiencuuxuquang.com/van-hoa/cau-doi-xua-tren-mo-cu-huynh-94.html

LÕNG DÂN QUẢNG NGÃI VỚI CỤ HUỲNH

Quảng Ngãi là nơi cụ Huỳnh Thúc Kháng yên giấc nghìn thu. Tấm lòng

người dân Quảng Ngãi đối với cụ trước kia cũng như bây giờ luôn tôn

kính…

Thị trấn Chợ Chùa, huyện Nghĩa Hành, Quảng Ngãi, nơi cuối năm 1946 cụ

Huỳnh đến ở tại nhà bà Võ Thị Tuyết cho đến khi từ trần, vẫn còn những người

thời trai trẻ biết rõ cụ Huỳnh sống và làm việc đó. Ông Phạm Đức năm nay tuổi

đã gần 90, kể: “Lúc cụ Huỳnh về đây ở và làm việc, tôi còn là một học sinh. Bộ

đội thông báo cho dân biết có lãnh đạo cấp cao của Nhà nước về nên người dân

tập trung hết hai bên đường rước cụ vào ban đêm. Sau này, người dân chúng tôi

gọi cụ là cụ Huỳnh bộ trưởng”. Ông Đức cho biết thêm, hình ảnh cụ Huỳnh mặc

áo dài đen, đội khăn đóng rất “cổ” luôn in đậm trong tâm trí mọi người. Bà

Nguyễn Thị Đang tuổi ngoài 90, kể rằng, hồi ấy, bà có gặp cụ Huỳnh trong một

lần sau khi cụ về chợ Chùa. Bà đem lúa thóc cho bộ đội, tình cờ gặp cụ Huỳnh.

Cụ xoa đầu khen bà ngoan, biết giúp đỡ bộ đội. Từ manh mối của ông Đức, bà

Đang cung cấp, chúng tôi tìm đến nhà ông Trần Thanh Ba ở xã Hành Dũng,

huyện Nghĩa Hành, là cháu gọi bà Hương Thừa bằng cố. Bà Hương Thừa là

người đã hiến cái hòm để khâm liệm cụ Huỳnh. Ông Ba nói: “Hồi ấy, bà cố tôi là

nhà giàu có nên đóng hòm bằng gỗ quý để sẵn trong nhà. Khi nghe tin cụ Huỳnh

mất, bà cố bảo ông nội tôi đến chợ Chùa liên hệ với bộ đội để tặng hòm cho cụ

nằm lúc nhắm mắt”.

Page 87: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

87

Nhà bà Võ Thị Tuyết, nơi cụ Huỳnh Thúc Kháng ở và làm việc đến lúc

từ trần nay đã thành di tích. Ảnh: D.L

Đến với Nghĩa Hành hôm nay, những câu chuyện về cụ Huỳnh gắn liền với

nơi ngày xưa cụ đã đến ở và hoạt động cách mạng, nay đã thành di tích lịch sử.

Những câu chuyện ấy được ông Nguyễn Lãnh, cháu gọi bà Võ Thị Tuyết bằng

cố, kể cho những người khách đến thăm di tích, đặc biệt là các đoàn viên thanh

niên, học sinh về thăm “địa chỉ đỏ”, tìm hiểu lịch sử. Bà nội của ông Lãnh là bà

Nguyễn Thị Em - người lo cơm nước cho cụ Huỳnh cho đến lúc cuối đời. Bà nội

ông kể lại, lúc ấy, cụ Huỳnh rất thích uống nước chè xanh, giống như ở quê nhà

cụ vẫn hay uống. Nhưng cụ bị bệnh dạ dày mãn tính nên ăn uống rất cẩn thận.

Lúc cụ bệnh nặng, cán bộ cách mạng rất lo, mua thuốc bổ cho cụ nhưng cụ kiên

quyết không nhận vì cho rằng bệnh mình không cứu được nữa, để thuốc tốt lại

cho người còn cứu được. Rồi cụ Huỳnh mong muốn khi chết đi, được chôn ở núi

Thiên Ấn, đầu hướng về Quảng Nam. Đám tang cụ, người dân khắp nơi đổ về

khóc thương, ai cũng để tang cụ bằng rẻo băng đen gắn lên ngực.

Nhà bà Võ Thị Tuyết đã thành di tích lịch sử, cùng với mộ cụ Huỳnh trên

núi Thiên Ấn, trở thành một địa chỉ đỏ trong những đợt hành quân về nguồn của

thế hệ trẻ. Nơi đây được các cấp, ngành của tỉnh Quảng Ngãi chăm lo tôn tạo, bảo

tồn.

Page 88: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

88

Cụ Huỳnh được người dân Quảng Ngãi tôn kính.

Ông Phan Bình - Bí thư Huyện ủy kiêm Chủ tịch UBND huyện Nghĩa

Hành cho biết: “Đối với khu di tích Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Trung

Bộ là nơi cụ Huỳnh ở và hoạt động cách mạng, huyện đã đề nghị tỉnh đầu tư xây

dựng, mở rộng, đã có dự án đầu tư cho toàn bộ khu vực này là 49 tỷ đồng. Sau

khi được trùng tu, mở rộng, nơi đây sẽ thành một điểm đến thiêng liêng của mọi

người dân trong và ngoài tỉnh, là nơi để giáo dục truyền thống cách mạng cho thế

hệ trẻ”.

Về phần mộ của cụ Huỳnh trên núi Thiên Ấn, ông Lê Hồng Khánh - Giám đốc

Bảo tàng tổng hợp Quảng Ngãi cho biết, luôn có người bảo vệ, chăm sóc, giữ gìn

phần mộ cụ Huỳnh. Đồng thời người bảo vệ kiêm nhiệm vụ đón tiếp khách đến

thăm, cung cấp hương đèn để khách dâng hương mộ cụ Huỳnh. Khu mộ cụ

Huỳnh Thúc Kháng trở thành điểm đến dâng hương của người dân Quảng Ngãi,

Quảng Nam và các đoàn khách trong và ngoài tỉnh.

DIỄM LỆ

DIỄM LỆ. Lòng dân Quảng Ngãi với cụ Huỳnh/ Diễm Lệ// Quảng Nam: Số đặc

biệt chào mừng ngày báo chí Việt Nam.- 2016.- Ngày 21 tháng 6.- Tr.12.

LƯU NHỮNG DẤU XƯA

Một khoảng không gian bình yên để người đi về phía núi dừng chân, cúi

đầu qua cổng, và lòng thì đầy những ngưỡng vọng. Gian nhà ấy, rất đơn sơ, bình

dị. Như tính cách của một người cả đời – “lòng cuồn cuộn như nước triều dâng”

chỉ quan tâm duy nhất đến vận nước, đến việc làm sao để “cất lên tiếng nói của

nhân dân”. Còn về phần mình, cụ chọn đời thanh bạch.

Page 89: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

89

Gian nhà vùng đồi trung du lúp xúp những bụi chè tàu bao bọc. Sân gạch,

bể cạn, mái ngói âm dương, và một căn nhà cổ ba gian, lưu giữ lại một số di vật

của cụ. Ở đó, có những số báo Tiếng Dân do cụ làm chủ bút đã ố vàng. Những

bức hình lưu lại hành trình và những cuộc gặp gỡ của cụ, khi hoạt động trong

phong trào Duy tân và cả lúc đã trở thành một nhân vật quan trọng trong Nhà

nước Cách mạng Việt Nam. Những hiện vật ít nhiều đã làm trọn vai trò của mình,

rằng để hậu thế còn nhớ tới một tiết tháo Quảng Nam, một người làm báo đầu đàn

với tuyên ngôn: “Nếu không có quyền nói thì ít ra cũng giữ được cái quyền không

nói những điều người ta buộc nói” mà mỗi thế hệ người làm báo sau này đều nằm

lòng. “Có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi”, cả một đời mang “tinh thần gang

thép” của cụ, đến tận hơn 100 năm sau, hậu thế nhắc nhớ nhau bằng một “Huân

chương Sao Vàng”. Nhưng có những giá trị không gọi tên bằng lời, vẫn như một

bài học không bao giờ cũ, và mỗi ngày, lại càng ấm nóng hơn. Đó chính là tinh

thần làm báo quả cảm, cương trực…, mà những người cầm bút hôm nay luôn

phải tâm niệm.

Hàng năm, nhiều đoàn khách về viếng hương Nhà lưu niệm Huỳnh

Thúc Kháng (Tiên Phước). Ảnh: ĐÌNH QUÂN

Lạ rằng trong gian nhà lưu niệm cụ Huỳnh tại Tiên Cảnh (Tiên Phước),

khói hương vẫn đỏ mỗi ngày, nhưng người vào ra thăm viếng lại chưa từng mang

về cảm giác của u tịch. Có lẽ đôi phần bởi sự giản dị trong bày biện, trong cấu

trúc không gian và trong cả những câu chuyện mà con cháu họ Huỳnh kể cho

khách nghe. Chỉ cần hình ảnh quanh vườn nhà, đã thấy lòng đủ sự bình yên. Bởi

ở đây, di tích này, luôn có sự sống sinh sôi, luôn ấm hơi người. Ở cuối khu vườn,

có một căn nhà của cháu con cụ Huỳnh. Họ ở đó, mỗi ngày vun tưới cho những

gốc cây trong vườn, xua đi những cũ kỹ mà một di tích hay gặp phải. Và luôn

luôn tự hào về tiền nhân của họ tộc mình. Tiếc rằng bây giờ, người nắm giữ nhiều

Page 90: HUỲNH THÚC KHÁNG NGƯỜI SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CHO DÂN …thuvienquangnam.org.vn/SiteAssets/THU_MUC_KY_NIEM_140_NAM_NGAY_SIN…mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo

90

câu chuyện nhất trong cuộc đời cụ Huỳnh, đã từng cùng chung sống với cụ

Huỳnh hơn 10 năm tại Huế - cụ Huỳnh Toản, cháu cụ Huỳnh Thúc Kháng, đã

thành người thiên cổ. Có lẽ ngày cụ Toản nhắm mắt cũng đã an yên phần nào với

phần việc trọn đời cụ đeo đuổi: dựng lại di tích tòa soạn báo Tiếng Dân. Bây giờ,

trụ sở báo Tiếng Dân đã được công nhận di tích cấp quốc gia, kế hoạch tôn tạo trụ

sở tại Huế cũng đã có, nhưng người góp công lớn nhất - vác từng lá đơn mòn mỏi

đến tận Hà Nội, cụ Huỳnh Toản, lại chưa kịp chứng kiến ngày bảng tên Báo

Tiếng Dân được treo trang trọng trở lại ở chính ngôi nhà này.

Mỗi ngày, người đến thăm viếng căn nhà lưu niệm cụ Huỳnh mỗi đông. Có

lẽ nên vui, vì tất thảy cả đời mình, cụ làm việc cũng chỉ vì những người dân nước

Việt. Và mai này, khi kế hoạch mở rộng Khu lưu niệm nhà cụ Huỳnh từ 1.700m2

lên đến 6.700m2 đi vào thực hiện, như là một điểm nhấn của du lịch vùng trung

du Tiên Phước, mong gần gũi những xúc cảm bình yên.

THƯ QUÂN

THƯ QUÂN. Lưu những dấu xưa/ Thư Quân// Quảng Nam.- 2016.- Ngày 21

tháng 6.- Tr.12,13.