Upload
chidien789
View
34
Download
3
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Hướng dẫn làm thơ các thể loại
Citation preview
Hướng dẫn cách làm thơ đơn giản
Gần nhƣ ở bất kì 1 diễn đàn nào, hễ có box dành cho gái thì sẽ có sự bàn luận chuyện làm thế
nào để trở thành 1 ngƣời con gái duyên dáng. Những cuốn sách kiểu nhƣ “ Bí quyết bạn gái
chúng mình” , “ 1001 mẹo vặt bạn gái”,” Bí quyết trở thành ngƣời phụ nữ quyến rũ”,...vv..cũng
đều có đều cập đến vấn đề này.
Đại khái một em gái duyên dáng cần hội tụ rất nhiều tiêu chí. Ví dụ nhƣ không ngoáy mũi ở
chốn đông ngƣời, lựa chọn trang phục phù hợp với hoàn cảnh sống, có lòng vị tha bao dung, yêu
thƣơng con ngƣời, che chở con thú, không nói tục chửi thề,không ngồi hoặc cuỡi lên lƣng chó
mèo...blah blah... Đại loại vậy. Mình đọc cả ngày cũng chả hiểu gì.
Bởi thế dù rất mơ ƣớc trở thành “ ngƣời con gái duyên dáng” theo tiêu chuẩn sách vở và cũng đã
cất công hì hụi rị mọ khắp các diễn đàn, ngồi đọc hết cả bao tải sách “ bí quyết”, mình vẫn không
thấm đƣợc tí tị tì ti nào cái duyên ấy. Trong các tiêu chuẩn kể trên, mình mới đạt đc đúng 1 tiêu
chuẩn là “ không cƣỡi lên lƣng chó mèo” thôi . Hoàn cảnh thật éo le!
Thôi thì đã không có đƣợc sự duyên dáng trong thực tế, mình chỉ còn 1 cách là..cố gắng thể hiện
sự duyên dáng qua blog. Dù gì thì ở đây dễ lừa đảo hơn. Hị hị. Mọi ngƣời công nhận k? Cách
phổ thông nhất để thể hiện mình là 1 ngƣời con gái duyên dáng, lãng mạn đáng yêu chính là làm
thơ. Nếu mình là Xuân Quỳnh hay Đỗ trung Quân thì không có vấn đề gì để bàn cãi.Thà là
quăng thóc gạo ra bắt mình ngồi nhặt nhƣ chị Tấm đi, chứ bắt ngồi nặn thơ thì quả là đánh đố
thật. Bởi thế, mình đã nghiệm ra 1 cách làm thơ vừa đơn giản lại vừa tiện dụng:idea: . Trƣớc
tiên, hãy chọn 1 câu văn hay 1 đoạn lời bài hát bạn thích nhất, nghe sến tí cũng đƣợc, chả sao.
Nó chỉ sến khi là lời bài hát chứ chuyển về thơ thì chả sến tẹo nào. Hè hè
Ví dụ nha, cứ chọn 1 câu thật sến trong bài hát của cô Nhƣ Quỳnh “Đường vào tim em ôi băng
giá! Trời mùa đông mây vẫn hay đi về” Kinh chƣa? Đọc lên thấy kinh chƣa? Cứ để thể thì dĩ
nhiên là quá sến, nhiều ngƣời sẽ nghĩ con đấy có phải là ngƣời nữa không, sao mà sến thế. Cho
nên , bạn phải chuyển thành thơ . Bạn có thể tham khảo những bƣớc sau đây
1/ Chọn ra 1 số key word trong câu trên : em, đƣờng, mùa đông, băng giá, mây
2/ Thêm thắt 1 số từ ngữ liên quan đến chủ đề và mớ key word trên : anh, tình buồn, ra đi, tuyết
trắng,…vv…
3/ Ghép những từ này lại với nhau
Dễ nhất bạn có thể chọn thể thơ tự do, thỉnh thoảng nhớ xuống dòng, kiểu thể hiện sự nhớ nhung
khắc khoải :
Mùa đông
Tuyết trắng
Băng giá tim em
Băng giá con đƣờng
Hoặc kiểu thơ lục bát
Trời đông mây vẫn bay cao
Mà sao băng giá đƣờng vào tim em
Hoặc kiểu thơ 8 chữ
Một mùa đông đi qua đời anh
Tim băng giá nỗi buồn còn đọng lại
Nhớ những ngày còn yêu nhau quằn quại
Em vô tƣ mặc quần áo rồi đi.
Thấy không? Đơn giản mà vẫn duyên dáng. Hí hí. Chúc mọi ngƣời thành công!!
Thơ tám chữ - Shiroi
Thơ tám chữ là thể thơ mỗi dòng có tám chữ. Tuy là thơ tự do, nhƣng vẫn có luật của nó.
Thể thơ này không có quy luật nhất định, có nghĩa là vần điệu tự do hơn. Thể thơ tám chữ chú
trọng rất nhiều trong cái "nhạc" của từng câu thơ.
Làm thơ tám chữ dễ dàng hơn những thể thơ khác rất nhiều vì không bị luật thơ gò bó.
Luật bằng trắc
Thƣờng thì trong câu để có âm điệu du dƣơng hễ chữ cuối có thanh trắc thì chữ thứ 3 trắc, chữ
thứ 5 và 6 bằng; chữ cuối có thanh bằng thì chữ thứ 3 bằng, chữ thứ 5 và 6 trắc.
* Chữ cuối có thanh trắc thì chữ thứ ba là thanh trắc, thứ năm hoặc sáu là thanh bằng:
Ngắt câu chữ thứ 5 : x x T (b) B x x T
Ngắt câu chữ thứ 6 : x x T x (b) B x T
* Chữ cuối có thanh bằng thì chữ thứ ba là thanh bằng, chữ thứ năm hoặc sáu là thanh trắc:
Ngắt câu chữ thứ 5 : x x B (t) T x x B
Ngắt câu chữ thứ 6 : x x B x (t) T x B
Nhƣng nhiều tác giả làm thơ cũng không theo quy định bằng trắc này.
Trong một câu, nên có sự cân bằng giữa số lƣợng các thanh bằng và thanh trắc, ví dụ Bằng /Trắc
= 3/5 hay ngƣợc lại. Thanh bằng trắc cũng nên xen kẽ đều đặn để câu thơ uyển chuyển nhịp
nhàng.
Cách ngắt nhịp
Câu thơ 8 chữ có thể đƣợc ngắt nhịp bất kỳ, thƣờng ngắt nhịp 3/5, 3/3/2, 3/2/3, cũng có khi 4/4,
2/2/2/2, 5/3...
Chúng ta nên thay phiên cách ngắt nhịp để bài thơ có tiết tấu hay (tiết tấu nghĩa là nhịp nhàng, do
cách ngắt nhịp, đoạn dài đoạn ngắn mà thành)
Ta rắp nâng lời chào/ ngày mới mẻ,
Vì Đông,/ Thu,/ hay Hạ/ cũng như Xuân;
Cũng có tình riêng/ với lòng thi sĩ.
Ta vui ca/ trông ngày tháng xoay vần.
(Khúc ca hoài xuân - Thế Lữ)
Cách gieo vần
Gieo vần thì có nhiều cách, có thể theo các cách tƣơng tự nhƣ gieo vần thơ 4 chữ nhƣ sau :
1. Vần liên tiếp
Cứ hai vần bằng rồi đến hai vần trắc, hoặc hai vần trắc rồi đến hai vần bằng. Nhƣ vậy, câu 1 vần
câu 2, câu 3 vần câu 4, hoặc là câu 2 vần câu 3, câu 4 vần câu 5. Thí dụ:
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Tôi sẽ trách - cố nhiên, nhưng rất nhẹ
Nếu trót đi, em hãy gắng quay về...
Tình mất vui khi đã vẹn câu thề
Ðời chỉ đẹp những khi còn dang dở
Thư viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ
Cho nghìn sau... lơ lửng... với nghìn xưa...
(Ngập ngừng - Hồ Dzếnh)
Ta nghe rõ con thuyền trôi phấp phới
Non động hoang mang, tình xưa bạn mới
Hoa chờ, tươi: mây đợi, thắm lưng đèo
Suối quanh co bờ đá dựng cheo leo
Sườn bích lập nâng cao trần thạch nhũ
Vòm nho nhỏ còn ghi thương nhớ cũ
Lệ chia phôi ngàn thuở đọng lưng chừng
Lối vào sâu mấy khoá nẻo sau lưng
Khe nước hẹp khép dần sau bánh lái
Đôi bờ gấm chập chờn xê xích lại
Nóc rêu nhung buông rủ sát ngang đầu
Hồn phiêu dao tưởng cõi chiếc thuyền câu
Lách hang đá bay về non nước Tấn
(Đào Nguyên lạc lối - Vũ Hoàng Chương)
Khách ngồi lại cùng em trong chốc nữa
Vội vàng chi, trăng lạnh quá, khách ơi
Đêm nay rằm: yến tiệc sáng trên trời
Khách không ở, lòng em cô độc quá
Khách ngồi lại cùng em! Đây gối lả
Tay em đây mời khách ngả đầu say
Đây rượu nồng. Và hồn của em đây
Em cung kính đặt dưới chân hoàng tử
(Lời kỹ nữ - Xuân Diệu)
2. Vần chéo (Vần gián cách)
Một vần bằng rồi tới một vần trắc. Nhƣ vậy, câu 1 vần với câu 3, câu 2 vần với câu 4. Thí dụ:
Trời xuân vắng, cỏ cây rên xào xạc
Bóng đêm luôn hoảng hốt mãi không thôi.
Gió xuân lạnh, ngàn sâu, thời ca hát
Trăng xuân sầu, sao héo, cũng thôi cười.
(Đêm xuân sầu - Chế Lan Viên)
Đuốc hoa toả, xiêm y càng rực rỡ
Khói trầm dâng, son phấn ngát lây hƣơng.
Da thịt cháy, nhƣng còn hơi bỡ ngỡ,
Nấp sau rèm tơ lụa mỏng hơn sƣơng.
(Động phòng hoa chúc - Vũ Hoàng Chƣơng)
3. Vần ôm
Câu 1 vần với câu 4, câu 2 vần câu 3. Thí dụ:
Trời hôm nay mưa nhiều hay rất nắng?
Mưa tôi chả về bong bóng vỡ đầy tay
Trời nắng ngọt ngào... tôi ở lại đây
Như một buổi hiên nhà nàng dịu sáng
(Tuổi mười ba - Nguyên Sa)
Đêm thân ái có muôn hoa hồng nở
Em tới đây tình tự một đôi lời
Hồn phong hƣơng trầm tuổi mộng hai mƣơi
Ta nói khẽ đủ hai lòng nghe rõ
(Ân tình dạ khúc - Đinh Hùng)
Phụ lục :
1/ Muốn cho thơ tám chữ thêm âm điệu, một số nhà thơ ngoài vần cuối thƣờng gieo thêm vần
lƣng. Nhƣ vậy, chữ cuối câu 1 vần với chữ 5 hay 6 câu 2, chữ cuối câu 2 vần với chữ cuối câu 3
và vần với chữ 5 hay 6 câu 4
2/ Nếu làm thơ nhiều đoạn, mỗi đoạn có thể gieo vần theo cách khác nhau.
Thí dụ :
- Vần chữ thứ 6
Cho em hỏi bên anh trời trở lạnh
Gió giao mùa thổi buốt mảnh thân côi
Có chợt buồn khi tình mãi xa xôi ?
Dòng sông nhỏ giờ đã thôi mộng tưởng
Cho em hỏi gió những chiều chuyển hướng
Cát đại dương còn mãi vướng chân người
Anh có nghe bao thương nhớ bừng khơi
Mùi hương tóc thoảng bên trời ước vọng
(Cho em hỏi - Shiroi)
- Vần chữ thứ 5
Anh muốn nói dù trời đông giá lạnh
Rét da ngoài khôn sánh rét tim côi
Bàn thiên nhìn mâm quả với chè xôi
Lòng xáo động bồi hồi trong tâm tưởng
Anh muốn nói dù chúng mình đôi hướng
Điệu đàn tơ âm hưởng vẫn rung người
Qua đại dương hoà nhịp sóng trùng khơi
Vượt sa mạc gởi lời muôn khát vọng
(Anh muốn nói - Ái Hoa)
- Thơ nhiều đoạn hỗn hợp
Nàng Thơ ơi! Nàng Thơ! -- Ta buồn lắm!
Nắng gay gắt trên khóm sen không thắm
Gió thờ ơ không động bóng tàn cây
Dưới trời xanh mây quá trắng không bay
Hồ không sóng phơi mặt gƣơng quá sáng
Thời gian đứng sắc hình trơ trẽn dáng
Lòng ta không âu yếm không vui tƣơi
Không nhớ thƣơng không sôi nổi -- Than ôi!
Cũng không cả nỗi đắng cay tê tái
Nàng Thơ ơi tâm hồn ta trống trải
Ta đứng đây lơ láo hững hờ trông
Cảnh vô duyên không gợn tiếng tơ lòng
Ta đứng đây, thẫn thờ mơ bóng bạn
Trông giờ khắc lặng mang niềm ngao ngán
Ly Tao ơi, nƣơng tử của lòng ta
Nỡ lòng du, sơ lãng mối tình thơ
Tìm đâu thấy những phút giây êm ái
Những phút giây sán lạn ánh thiêng liêng
Ta cùng ai để tâm hồn mê mải
Tung ngọc châu gieo những khúc thần tiên
Đâu những buổi non sông cùng lặng lẽ
Đợi tay ta dìu dắt ngón tay ai
Tạo nên bức tranh tuyệt trần hoàn mỹ
Lên không gian, thâu góp muôn màu tƣơi
Vì bạn ơi! Những khúc đờn réo ngọc
Với bức tranh châu chuốt nét thanh cao
Là những bài thơ, nỗi tình cảm xúc
Của lòng ta và của bạn Ly Tao
Nàng Thơ ơi! Nàng Thơ! -- Ta buồn lắm!
Đem lại đây ánh hƣơng hoa say đắm
Đem lại đây làn sƣơng gió mơ màng
Đem lại đây, cùng với điệu du dƣơng
Những tiếng khóc than hay lời cảm khái
Để lòng ta thôi đừng khô héo mãi
Để cho ta khi ngắm nắng, trông hoa
Khi đứng bên hồ đón gió đƣa qua
Ta đƣợc thấy ánh lòng ta rung động
Ta đƣợc thấy hồn thơ ta gợn sóng
Thấy miệng cƣời bạn tiên tử yêu kiều
Và cùng ai chung giấc mộng cao siêu
(Giục hồn thơ - Thế Lữ)
Shiroi
Cách làm thơ tự do
Thơ TD có tất cả 4 cách làm , và Luật Bất Luận của thơ TD là ( Nhất Nhị Tứ bất luận ) ,
(Tam , Ngủ , Bát phân minh ) , nhưng thể thơ nầy ít có nhiều người theo luật lắm và được
cải tiến nhiều ( vì nó được gọi là Tự Do ) nên sau nầy chỉ chú trọng khi viết chỉ cần giữ luật
NIÊM VẦN là đủ
Cách thứ nhất:
Câu 1 và câu 3 phải giống nhau về luật BT và niêm Vần với nhau ở chữ cuối, Câu 2 và câu 4
cũng thế, nghĩa là chữ cuối phải vần (niêm) với nhau ! khi sang đoạn khác thì cũng nhƣ thể
Trƣờng Thiên (nhiều đoạn ) mình có thể đổi vần tuỳ thích
Luật Bằng Trắc trong thể thơ TỰ DO
ttTbBBTT (Niêm )
bbBtTTBB (niêm )
ttTbBBTT (Niêm)
bbBtTTBB (niêm )
Lỡ thƣơng bé nên ngày đêm trộm NHỚ
Câu yêu đƣơng anh khó thốt nên Lời
Ôi giấc mộng miên mang đầy nổi sợ
Tình đơn phƣơng cay đắng lệ thầm RƠI
Cách thứ nhì:
Trong cách này thì 2 câu trên Vần Trắc (niêm) 2 câu dƣới Vần Bằng và cũng niêm với nhau
ttTbBBTT (niêm )
ttTbBBTT (niêm)
bbBtTTBB (niêm )
bbBtTTBB (niêm)
Đơn bóng lẽ bao năm dài cách biệt
Niềm thầm kín xót xa ai có biết
Tình trái ngang đè nặng nổi thƣơng tâm
Cố nhân ơi... lạnh lẽo bƣớc thăng trầm ....
....
Cách thứ ba:
Cách nầy luật cũng nhƣ cách 1 và 2 , tuy nhiên câu 2 và câu 3 bắt buộc phải niêm nhau, còn câu
1 và 4 thì không đòi hỏi , cách nầy thì thƣờng đƣợc viết nhiều nhất và khi mình viết nhiều đoạn
thì câu 5 phải Niêm Luật và Vần với chử cuối câu 4 , và câu 9 niêm Luật và Vần với chử cuối
câu 8 , and so on...
ttTbBBTT
bbBtTTBB (niêm )
bbBtTTBB (niêm)
ttTbBBTT
TD:
Tháng Sáu Tình Xa
Tôi thoáng nhớ một thời yêu màu trắng
Trƣớc cổng trƣờng khi nhạt nắng chiều buông
Từng cánh hoa ngơ ngác mắt nai buồn
Tay cắp sách phất phơ muôn tà áo
Hồi tƣởng lại một chuyện tình huyền ảo
Giữa Hạ buồn trong tháng Sáu vàng hanh
Yêu một nàng con gái tuổi xuân xanh
Tà áo lụa nét hiền lành thôn nữ
Dáng bé bỏng mắt thẹn thùng bỡ ngỡ
Cánh Phƣợng hồng ,xác Ve nhỏ trao nhau
Rồi mỗi khi trông lá đổ khoe màu
Ru nho nho? bài mƣa sầu tháng sáu
........
Cách thứ tƣ :
Luật Bằng
Cách này thì câu 1 và câu 4 là vần BẰNG , câu 2 và câu 3 vần TRẮC và niêm nhau ! khi làm thì
phải từ 4 đoạn trở lên và chỉ giữ một vần Bằng trong khi mình viết Nhiều Đoạn...
TD:
bbBtTTBB
ttTbBBTT (niêm)
ttTbBBTT (niêm)
bbBtTTBB
bbBtTTBB
ttTbBBTT (niêm)
ttTbBBTT (niêm)
bbBtTTBB
........
........
TD:
Trái Đắng
Hiểu gì không ý nghĩa của lòng anh
Ôm mật đắng với niềm đau nghẹn Xót
Em có thể ban lời yêu thật Ngọt
Sƣởi tim nầy dù chỉ một lần thôi
Để ấm lòng an ũi trái tim côi
Dù xa cách vẫn tràn đầy hạnh phúc
Nầy em hởi có bao giờ thổn thức
Thả hồn mình theo tiếng gọi con tim ....
( theo trƣờng tƣơng tƣ )
SONG THẤT LỤC BÁT
Cũng nhƣ LỤC BÁT, SONG THẤT LỤC BÁT thƣờng đƣợc dùng trong
những truyện thơ, và là thể loại thứ hai của hai thể thơ
"chính tông" của Việt Nam.
Song Thất Lục Bát là loại thơ mở đầu bằng hai câu THẤT, rồi tiếp đến hai câu LỤC BÁT, tạo
thành một KHỔ với ý từ
trọn vẹn (có nghĩa là trong 4 câu phải trọn vẹn một ý)
Câu THẤT trên (câu số 1), tiếng thứ 3 là chữ TRẮC, tiếng
thứ 5 là chữ BẰNG, và tiếng thứ 7 là chữ TRẮc và VẬN
Câu Thất dƣới (câu số 2), tiếng thứ 3 là chữ BẰNG, tiếng
thứ 5 là chữ TRẮC và VẦN với tiếng thứ 7 của câu trên, tiếng thứ 7 là chữ BẰNG và VẬN
Song Thất Lục Bát không giống nhƣ Thất Ngôn Luật theo lối Hán văn, vì luật BẰNG TRẮC
đƣợc áp dụng trong Song Thất ở chữ thứ 3, thứ 5, mà trong Thất Ngôn Luật thì chữ thứ 3 và chữ
thứ 5 lại có thể theo lệ BẤT LUẬN
Sau hai câu Thất là hai câu Lục Bát, theo luật của Lục Batchữ cuối của câu LỤC vần với chữ thứ
7 của câu THẤT thứ nhì
Luật của STLB:
b b t t B b T(v)
t t B b T(v) t B(v)
b B t T b B(v)
b B t T b B(v) t B(v)
(v)=Vần
b = bằng ,không nhất thiết
t = trắc ,không nhất thiết
B = BẰNG , theo luật
T = TRẮC ,theo luật
Thí Dụ :
Thuở trời đất nổi cơn gió Bụi
Khách má hồng nhiều nổi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Nào ai gây dựng cho nên nổi nầy
Trống trƣờng Thành lung Laybóng Nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ Mịt khúc Mây
Chín tầng gƣơm báu trao Tay
Nữa đêm truyền hịch đợi Ngày xuất Chinh
(Chinh Phụ Ngâm Khúc)
Điều ngoại lệ của STLB :
ĐIỀU NGOẠI LÊ.: Thông thƣờng chữ thứ 3 của câu Thắt 1) là vần TRẮC, nhƣng trong trƣờng
hợp dùng vần BẰNG thì phải có đối ở câu dƣới
Thí Dụ đoạn hai của bài trên :
Trống trƣờng Thành lung Laybóng Nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ Mịt khúc Mây
Chín tầng gƣơm báu trao Tay
Nữa đêm truyền hịch đợi Ngày xuất Chinh
thì ta thấy hai câu 7 7 trên đƣợc đối nhau từng từ từng chữ
Thí dụ thêm về thơ STLB:
Giấc Mơ Viễn Xứ
Non nƣớc ấy bao giờ trở lại
Để con đây đƣợc mãi bên ngƣời
Mẹ già lệ đẩm đôi ngƣơi
Ôm con ve vuốt nụ cƣời điểm môi
Bờ liễu rũ con ngồi kể chuyện
Bao năm dài lƣu luyến quê hƣơng
Tấm lòng một kẽ tha phƣơng
Năm canh ,sáu khắc đoạn trƣờng xót xa
Ôi ƣớc vọng ngắm tà dƣơng xế
Thả hồn mình trên bể hoàng hôn
Trông chiều khói phủ làng thôn
Đếm chuông ngân vọng gõ mồn một vang
Bƣớc chân nhẹ bên hàng phƣợng vĩ
Ngắm trƣờng làng ôn kỹ niệm xƣa
Dầm mình nhẹ gót dƣới mƣa
Nhớ hồi cấp sách sớm trƣa thuở nào
Cầu tre ấy biết bao kỹ niệm
Dòng sông kia nhƣ mĩm cƣời rung
Nhăn mày ẩn chiếu linh lung
Lờ mờ đáy nƣớc bóng khung trời già
Chợt tỉnh giấc hồn đà nhập thể
Nghe đâu đây tiếng dế gọi nhau
Thì ra trống điểm canh thâu
Giấc mơ viễn xứ đêm sâu lở làng
Nam Quan kia phải đang lạnh ngút
Bắc Ải nầy đến lúc giá băng
Lòng quê lệ thảm khó ngăn
Mong sao đất Việt vĩnh hằng thiên thu
THƠ ĐƢỜNG LUẬT
Đƣờng Luật hoặc cận thể là thể thơ đặt ra tự đời nhà Đƣờng (618-907) phải theo niêm luật nhất
định.
Thơ tứ tuyệt và thơ bát cú: Theo số câu, thơ Đƣờng Luật chia làm hai lối.
- 1.) Tứ tuyệt, mỗi bài bốn câu;
- 2.) Bát cú, mỗi bài tám câu;
TỨ TUYỆT
Định nghĩa: Tứ là bốn, tuyệt là dứt, ngắt. Lối này gọi thế vì thơ tứ tuyệt là ngắt lấy bốn câu trong
bài thơ bát cú mà thành.
Các cách làm thơ tứ tuyệt: Vì một bài thơ bát cú có thể ngắt nhiều cách, nên cũng có nhiều cách
làm thơ tứ tuyệt
Nhƣng không hoàn toàn đồng ý với định nghĩa này ,thơ tứ tuyệt làm theo cấu trúc khai-thừa-
chuyển-hợp, mỗi câu bảy chữ, không yêu cầu đối. Chữ cuối của các câu 1, 2, 4 thƣờng là vần
bằng. Chữ cuối của câu 3 có thể vần trắc, cách niêm nhƣ thơ thất ngôn bát cú. Ngày nay ngƣời ta
sửa đổi định nghĩa về thơ tứ tuyệt, rằng thơ tứ tuyệt là thơ gì cũng đƣợc, miễn là có bốn câu, và
vần luật tất nhiên cũng theo đó mà thay đổ
Mấy lần vào các diễn đàn thơ , thấy các topic tứ tuyệt nhƣng chẳng ai viết đúng cả. Cách đây 2
năm , 1 tờ báo khá nổi tiếng ở Việt Nam tổ chức cuộc thi thơ tứ tuyệt : đoạt giải nhất là một bài
thơ Lục Bát . Tứ Tuyệt ơi chết thiệt rồi sao ....
Ngƣời ta nói thể thơ này dựa theo cấu Nhất Tam Ngũ bất luận ,Nhị Tứ Lục Phân Minh nghĩa là
chữ thứ 1,3,5 trong các câu thì không phải bắt buộc theo luật,còn chữ thứ 2,4,6 thì phải theo qui
luật của nó ,
Luật căn bản của TNTT :
( các chử viết thƣờng là không cần phải theo luật , còn các chử In Hoa thì bắt buộc
Bảng 1
b B t T t B B(niêm vần )
t T b B t T B(niêm vần )
t T b B b T T
b B t T t B B(niêm vần )
Thí dụ :
Nhớ
Song thƣa gió lộng buốt mây trùng
Chạnh nhớ ai mà mắt lệ rƣng
Soi mãi đài gƣơng ngồi dựa bóng
Ba Thu chƣa thoả mộng tƣơng phùng
Bảng 2
t T b B t T B niêm
b B t T t B B niêm
b B t T b B T
t T b B t T B niêm
Thí Dụ :
Trong vắt trời non suốt một màu
Trên sông cài lững ánh trăng cao
Làm sao hái đƣợc vành trăng ấy
Để tặng cho riêng khách má đào
TTT...
Bảng 3
b B t T b B T
t T b B t T B niêm
t T b B b T T
b B t T t B B niêm
TD :
Đêm tàn lệ gối phai hƣơng sắc
Nến lụn chập chờn gió thoảng qua
Cửa ngọc rèm thƣa lay ánh nguyệt
Thầm ngồi soi bóng , bóng soi ta
TTT...
Bảng 4
t T b B b T T
b B t T t B B niêm
b B t T b B T
t T b B t T B niêm
Trời đất vô tình buông lặng lẽ
Núi sông hờ hững nặng nề trôi
Đêm khuya thanh vắng thuyền ai rẽ
Ngƣời ở giang đầu có nhớ tôi
TTT...
Chú ý trong bảng 3 va `4 thì hai vần Trắc không đòi hỏi phải niêm nhƣng nếu làm đƣợc hai vần
trắc niêm thì càng hay
Ở trên chỉ là căn bản của phần 1, bây giờ cũng áp dụng
luật căn bản nầy nhƣng làm theo vần Trắc nghĩa là lấy vần Trắc làm căn bạn
Bảng 1
t T b B b T T niêm
b B t T b B T niêm
b B t T t B B
t T b B b T T niêm
TD:
Năm tháng buông dần theo đuỗi mãi
Tƣơng tƣ ảo mộng sao phân giãi
Vào yêu mới rõ đƣợc thƣơng đau
Mới hiểu sóng tình cuồn cuộn chảy
TTT...
Bảng 2
b B t T b B T niêm
t T b B b T T niêm
t T b B t T B
b B t T b B T niêm
TD:
Quanh co mấy chử buồn buồn ngũ
Trắc trắc bằng bằng sao khó thủ
Ít nét mà thôi đả hết rồi
Thơ gì viết mãi mà chƣa đủ
TTT...
Bảng 3
t T b B t T B
b B t T b B T niêm
b B t T t B B
t T b B b T T niêm
TD :
Gió lộng bên thềm quét lá rơi
Khuya nay bóng nguyệt không thèm ghé
Thƣơng ngƣời chốn ấy biệt ngàn khơi
Mắt dõi theo chàng đêm bóng lẽ
TTT...
Bảng 4
b B t T t B B
t T b B b T T niêm
t T b B t T B
b B t T b B T niêm
TD :
Dờn dờn nƣớc biếc gợn mây bay
Lất phất gió lùa lay khóm trúc
Đáy nƣớc lung linh bóng nguyệt cài
Vui say chén rƣợu bừng hƣơng cúc
* Một số cách ngắt bát cú thành tứ tuyệt
1.) Ngắt bốn câu trên, thành ra bài thơ ba vần, hai câu trên không đối nhau, hai câu dƣới đối
nhau. Thí dụ:
Con Voi
(So sánh với biểu Thất ngôn bát cú, luật bằng, vần bằng ở trên.)
Xông pha bốn cõi bể chông gai,
Vùng vẫy mƣời phƣơng bụi cát bay.
Phép nƣớc gọi là tơ chỉ buộc, *
Sức này nào quản búa rìu lay. *
Lê Thánh Tôn (?)
* = đối nhau.
2.) Ngắt bốn câu giữa, thành ra bài thơ 2 vần, cả bốn câu đối nhau. Thí dụ:
Khóm Gừng Tỏi
(So sánh với biểu Ngũ ngôn bát cú, luật bằng, vần bằng ở trên)
Lởm chởm vài hàng tỏi *
Lơ thơ mấy khóm gừng *
Vẻ chi là cảnh mọn #
Mà cũng đến tang thƣơng #
Ôn Nhƣ hầu
*, # = đối nhau.
3.) Ngắt bốn câu dƣới, thành ra bài thơ 2 vần, hai câu trên đối nhau, hai câu dƣới không đối. Thí
dụ:
Đề Chùa Vô Vi (So sánh với biểu Ngũ ngôn bát cú, luật bằng vần bằng ở trên)
Vắt vẻo sƣờn non Trạo, *
Lơ thơ mấy ngọn chùa. *
Hỏi ai là chủ đó?
Có bán tớ xin mua
Vô Danh
* = đối nhau.
4.) Ngắt 2 câu đầu và 2 câu cuối, thành ra bài thơ 3 vần, cả 4 câu không đối. Thí dụ:
Cái Pháo
(So sánh với biểu Thất ngôn bát cú, luật bằng, vần bằng ở trên)
Xác không, vốn những cậy tay ngƣời,
Bao nả công trình, tạch cái thôi!
Kêu lắm, lại càng tan tác lắm,
Thế nào cũng một tiếng mà thôi.
Nguyễn Hữu Chỉnh
5.) Ngắt hai câu 1-2 với hai câu 5-6, thành ra bài thơ 3 vần hai câu cuối đối nhau. Thí dụ:
Con Cóc
(so sánh với biểu Thất ngôn bát cú, luật trắc, vần bằng ở trên)
Bác mẹ sinh ra bốn áo sồi,
Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi.
Tép miệng năm ba con kiến gió, *
Nghiến răng chuyển động bốn phƣơng trời. *
Lê Thánh Tôn
( Sử dụng tài liệu của Dƣơng Quảng Hàm )
BÁT CÚ
Trong lối thơ Đƣờng Luật, có năm điều này phải xét:
1.) vần; 2.) đối; 3.) luật; 4.) niêm; 5.) cách bố cục.
Vần thơ:
A) Định nghĩa: Vần (chữ nho là vận) là những tiếng thanh âm hòa hiệp đặt vào hai hoặc nhiều
câu văn để hƣởng ứng nhau.
B) Cách gieo vần:
1.) Thơ Đƣờng: luật thƣờng dùng vần bằng, gián-hoặc mới dùng vần trắc.
2.) Suốt bài thơ Đƣờng Luật chỉ hiệp theo một vần, tức là theo lối độc vận.
3.) Trong một bài bát cú có năm vần gieo ở cuối câu đầu và cuối các câu chẵn.
C.) Lạc vận và cƣỡng áp: Gieo vần sai hẳn, không hiệp nhau gọi là lạc vận (lạc: rụng). Nếu vần
gieo gƣợng không đƣợc hiệp lắm gọi là cƣỡng áp (đặt gƣợng), đều không đƣợc cả.
Phép đối trong thể thơ:
A.) Định nghĩa: Đối là đặt hai câu đi sóng đôi cho ý và chữ trong hai câu ấy cân xứng với nhau.
1.) Đối ý là tìm hai ý tƣởng cân nhau mà đặt thành hai câu sóng nhau.
2.) Đối chữ thì vừa phải đối thanh tức là bằng đối với trắc, trắc đối với bằng; vừa phải đối loại
của chữ nghĩa là phải đặt hai chữ cùng một tự loại để đối với nhau (nhƣ cùng là hai chữ danh từ,
hoặc động từ, v.v.)
3.) Những câu phải đối trong một bài thơ bát cú: Trừ hai câu đầu và hai câu cuối, còn bốn câu
giữa thì câu 3 đối với câu 4, câu 5 đối với câu 6.
Luật Thơ:
A) Định nghĩa: Luật thơ là cách sắp đặt tiếng bằng tiếng trắc trong các câu của một bài thơ.
B) Tiếng bằng và tiếng trắc: Muốn hiểu luật thơ, phải biết phân biệt tiếng bằng tiếng trắc. Bằng
(chữ nho là bình) là những tiếng lúc phát ra bằng phẳng đều đều. Trắc (nghĩa đen là nghiêng,
lệch) là những tiếng khi phát ra hoặc tự thấp lên cao hoặc tự cao xuống thấp.
Trong tiếng ta có 8 thanh thì có hai thanh bằng và 6 thanh trắc nhƣ sau:
Bằng: Phù bình thanh = không có dấu
Trầm bình thanh = Huyền (`)
Trắc: Phù thƣợng thanh = Ngã (~)
Trầm thƣợng thanh = Hỏi (?)
Phù khứ thanh = Sắc (')
Trầm khứ thanh = Nặng (.)
Phù nhập thanh = Sắc (') *
Trầm nhập thanh = Nặng (.)*
* Riêng cho các tiếng đằng sau có phụ âm c, ch, p, t.
C.) Luật bằng và luật trắc: Thơ có thể làm theo hai luật:
1.) Luật bằng là luật thơ bắt đầu bằng hai tiếng bằng;
2.) Luật trắc là luật thơ bắt đầu bằng hai tiếng trắc.
D) Các luật thơ: Ngay liệt kê các luật thơ thông dụng nhƣ sau (b = tiếng bằng; t = tiếng trắc; v =
tiếng vần; những chữ in lối chữ nghiêng là phải theo đúng luật; những chữ in thƣờng thì theo
đúng luật hoặc không theo đúng luật cũng đƣợc, theo cái lệ "bất luận" sẽ nói về sau):
I. LUẬT BẰNG II. LUẬT TRẮC
A. Vần bằng A. Vần bằng
1@Ngũ ngôn bát cú 1@Ngũ ngôn bát cú
I : b b t t b (v) t t t b b (v)
II. : t t t b b (v) b b t t b (v)
III : t t b b t b b b t t
IV : b b t t b (v) t t t b b (v)
V : b b b t t t t b b t
VI : t t t b b (v) b b t t b (v)
VII : t t b b t b b b t t
VIII : b b t t b (v) t t t b b (v)
2@ Thất ngôn bát cú 2@ Thất ngôn bát cú
I : b b t t t b b (v) t t b b t t b (v)
II : t t b b t t b (v) b b t t t b b (v)
III : t t b b b t t b b t t b b t
IV : b b t t t b b (v) t t b b t t b (v)
V : b b t t b b t t t b b b t t
VI : t t b b t t b (v) b b t t t b b (v)
VII : t t b b b t t (v) b b t t b b t
VIII : b b t t t b b (v) t t b b t t b (v)
B. Vần trắc B. Vần trắc
Ngũ ngôn bát cú Thất ngôn bát cú
I : b b b t t (v) t t b b b t t (v)
II : t t b b t (v) b b t t b b t (v)
III : t t t b b b b t t t b b
IV : b b b t t (v) t t b b b t t (v)
V : b b t t b t t b b t t b
VI : t t b b t (v) b b t t b b t (v)
VII : t t t b b b b t t t b b
VIII : b b b t t (v) t t b b b t t (v)
E.) Bất luận và khổ độc: Vì sự theo đúng luật bằng trắc nhƣ trên đã định là một việc rất khó, nên
có lệ bất luận (không kể), nghĩa là trong câu thơ có một vài chữ không cần phải đúng luật.
1.) Trong bài thơ ngũ ngôn thì chữ thứ nhất và thứ ba không cần đúng luật: tức nhất, tam bất
luận.
2.) Trong bài thơ thất ngôn thì chữ thứ nhất, thứ ba và thứ năm không cần đúng luật: tức là nhất,
tam, ngũ bất luận.
Tuy theo lệ bất luận có thể thay đổi luật mấy chữ trong câu thơ, nhƣng đang trắc mà đổi ra bằng
bao giờ cũng đƣợc, chứ đang bằng mà đổi ra trắc thì trong vài trƣờng hợp sự thay đổi ấy làm cho
câu thơ thành ra khổ độc (khó đọc) không đƣợc. Những trƣờng hợp ấy là:
1.) Trong bài thơ ngũ ngôn, chữ thứ nhất các câu chẵn và chữ thứ ba của các câu đang bằng mà
đổi ra trắc là khổ độc.
2.) Trong bài thơ thất ngôn, chữ thứ ba các câu chẵn và chữ thứ năm các câu lẻ đang bằng mà đổi
ra trắc là khổ độc.
F.) Thất luật: Một câu thơ đặt sai luật nghĩa là một chữ đang bằng mà đổi ra trắc hoặc trái lại, thế
thì gọi là thất luật (sao mất luật) không đƣợc.
Niêm:
A) Định nghĩa: Niêm (nghĩa đen là dính) là sự liên lạc về âm luật của hai câu thơ trong bài thơ
Đƣờng Luật. Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì của hai câu cùng theo một luật, hoặc
cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng trắc niêm với trắc.
B) Những câu niêm với nhau trong một bài thơ bát cú: Trong một bài thơ bát cú (xem lại biểu
các luật thơ trên) những câu sau này niêm với nhau: 1 với 8. - 2 với 3. - 4 với 5. - 6 với 7. - 8 với
1.
C) Thất niêm: Khi các câu trong một bài thơ, vì sự đặt sai, không niêm với nhau theo lệ đã định;
thì gọi là thất niêm (mất sự dính liền) không đƣợc.
Cách bố cục: Một bài thơ bát cú có bốn phần.
1.) Đề gồm có phá đề (câu 1) là mở bài và thừa đề (câu 2) là nối câu phá mà vào bài.
2.) Thực hoặc trạng (hai câu 3 và 4) là giải thích đầu bài cho rõ ràng.
3.) Luận hai (câu 5 và 6) là bàn bạc cho rộng nghĩa đầu bài.
4.) Kết (hai câu 7 và 8) là tóm ý nghĩa cả bài mà thắt lại.
* Những dạng thơ Đƣờng Luật ( Theo Bồ Tùng Linh )
1 - Họa Vận
Một ngƣời làm một bài xƣớng lên, một ngƣời nữa làm bài khác họa lại mà các vần trong bài họa
phải theo y nhƣ các vần trong bài xƣớng, còn ý nghĩa hoặc phụ theo cho rộng,hoặc trái hẳn lại (
phản đề ) :
Hỏi Ả Bán Chiếu
Xƣớng :
Ả ở đâu nay bán chiếu gon ?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn ?
Xuân thu nay độ bao nhiêu tuổi ?
Đã có chồng chƣa đƣợc mấy con ?
Nguyễn Trãi
Họa :
Tôi ở Tây hồ bán chiếu gon .
Nỗi chi ông hỏi hết hay còn ?
Xuân thu tuổi mới trăng còn lẻ ,
Chồng còn chƣa có,có chi con !
Nguyễn thị Lộ
2-Thủ nhất thanh ( nhất đồng )
Từ đứng đầu 8 câu đều giống nhau.
Tám Mừng
Mừng đón xuân về, muôn sắc hoa,
Mừng xuân,xuân mới, mới thêm ra.
Mừng nghe nhựa sống, nhƣ còn trẻ,
Mừng thấy đời tƣơi, chửa muốn già.
Mừng khỏe đôi chân, đi đứng vững,
Mừng tinh cặp mắt ngắm nhìn xa.
Mừng nhau tuổi Thọ tăng tăng mãi,
Mừng đƣợc trƣờng xuân hƣởng thái hòa.
1986 Lạc Nam
3-Song điệp
Tất cả 8 câu đều có 2 điệp từ :
Chuyện Đời
Vất vất vơ vơ, cũng nực cƣời,
Căm căm cúi cúi có hơn ai .
Nay còn chị chị anh anh đó ,
Mai đã ông ông mụ mụ rồi.
Có có không không, lo hết kiếp
Khôn khôn dại dại, chết xong đời.
Chi bằng láo láo lơ lơ vậy,
Ngủ ngủ ăn ăn nói chuyện chơi.
Nguyễn Công Trứ
4-Song điệp độc vận
Tất cả 8 câu đều có 1 từ và chỉ có 1 vần.
Xuân Và Thơ
Xuân tự ngàn xƣa,bạn với Thơ
Tình Xuân là cả vạn lời Thơ
Đẹp duyên hoa bút,Xuân ngời sắc
Rộn khúc Xuân thiều,nhạc ánh Thơ.
Xuân vắng,oanh hờn,dầu dáng liễu
Xuân về hƣơng tỏa ngát lời Thơ
Xuân nƣơng, thi sĩ, đôi ngƣời ngọc,
Dệt mộng ngày Xuân, lộng ý Thơ.
Lạc Nam
5-Dĩ đề vi thuû
Lấy 8 từ đầu để mở đầu cho 8 câu thơ :
Xƣớng (Nam): "Trăm điều hãy cứ trông vào một ta"
Trăm nỗi bâng khuâng góp chuyện lòng
Điều chi mà ngại nghĩa non sông
Hãy buông lá thắm xuôi dòng vắng
Cứ để hoa đào cợt gió đông
Trông nẽo lầu thơ chờ hạnh ngộ
Vào trong giấc mộng đợì tao phùng
Một phen tâm sự hòa theo nhạc
Ta sẽ cùng nhau viết thỉ chung
Họa (Nữ) : "Đi đâu chẳng biết con ngƣời sở khanh"
Đi mãi đƣờng xa đã biết lòng
Đâu còn mơ tƣởng núi cùng sông
Chẳng đem thơ ấy treo lầu vắng
Biết chọn hoa nào bán chợ đông
Con mắt chƣa từng xanh thế tục
Ngƣời quen đành tạm trắng tƣơng-phùng
Sở Tần, xin nhắn thà xa cách
Khanh tƣớng đâu mà nghĩ đỉnh chung !
6-Dĩ đề vi vận
Lấy đầu đề làm vần
Không Chồng Trông Bông Lông
Xƣớng :
Bực gì bằng gái chực phòng không
Tơ tƣởng vì chƣng một tấm chồng,
Trên gác rồng mây ngao ngán nhẽ,
Bên trời cá nƣớc ngẩn ngơ trông.
Mua vui lắm lúc cƣời cƣời gƣợng,
Giả dại nhiều khi nói nói bông.
Mới biết có chồng nhƣ có cánh,
Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông.
Nguyễn Khuyến
Họa Vận :
Phật rằng sắc sắc không không ,
Sắc sắc không không khó chất chồng.
Ân oán,nhiều ngƣời còn có ngóng,
Trải oan,lắm kẻ vẫn chờ trông.
Thế gian,nhân quả nhanh nhƣ bóng,
Cõi Phật,nhân duyên nhẹ tựa bông.
Xuân đến hoa xuân tƣơi đẹp mãi,
Luân hồi ra khỏi,hết bông lông.
Cổ Lai Hy (nhóm Silicon)
7-Toán thi
Cả bài câu nào cũng có từ chỉ con số.
Thân Phận Gái
Một sớm phân vân bƣớc xuống thuyền,
Tƣng bừng hai họ,nỗi sầu riêng.
Lặng nhìn ba má,đôi giòng lệ,
Xác pháo bốn bề,nát phận duyên.
Năm tháng rồi đây tùy số kiếp,
Hoài lang sáu nhịp,vọng chim uyên.
Bảy ba chìm nổi,tình nhi nữ,
Đôi tám sang ngang,đạo chính chuyên.
Tùng Linh
8-Liên hoàn
Thể thơ có nhiều đoạn, câu cuối của đoạn trên đƣợc chuyển thành câu đầu của đoạn dƣới
Thi Lấy Đƣợc
Anh Phán nhà ta biết cóc gì
Kỳ thi Tham biện cũng ra thi,
Nhất thì anh đỗ,nhì anh trƣợt,
Chẳng đậu khoa này, khoa khác đi.
Chẳng đậu khoa này, khoa khác đi.
Nam nhi chi chí, há lo gì,
Một, hai, ba, bốn, năm năm trƣợt
Nhẵn mặt quan trƣờng, chẳng thẹn chi.
Nhẵn mặt quan trƣờng, chẳng thẹn chi.
Trƣợt thi, thi trƣợt, vẫn gan lì.
. . . .
Tú Mỡ
Lính Tập Vinh Qui
Chú đội qua Tây thắng trận về,
Cả nhà đón rƣớc thật mừng ghê !
Ông già, bà lão gồm hai cụ,
Vợ giảnh, con ngoan đủ mọi bề, (1)
Nảy ngực mề đay tiền bạc chói,
Rạng mình khố đỏ áo vàng xuê.
Giang sơn mày mặt càng tƣơi tốt,
Bộ cất tay lên, ngó cũng nghề. (2)
Bộ cất tay lên ngó cũng nghề,
Miệng cƣời tróm trém, húi râu dê.(3)
Xông pha trăm trận từng hăm hở
Gánh vác hai vai ghẹo nặng nề ! (4)
Mở mặt Tiên Rồng dòng Đại Việt,
Nổi danh hùng hổ cõi Âu tê (5)
Trong tình cảnh nọ dầu không vẻ,
Văng vẳng dƣờng nghe tiếng ắc-đê ! (6)
N.V.H
Chú thích
1-Vợ đẹp ( tiếng Nghệ)
2-Có vẻ tay nghề
3-Bộ râu xén nhƣ râu dê
4-Dù công việc có nặng đến đâu cũng không sợ (tiếng Nghệ)
5-Âu Tây.chữ tây,âm Hán có khi đọc là tê
6-Phiên âm chữ Pháp : un,deux.Tiếng hô đi đều của lính tập.
9-Liên hoàn thuận nghịch vận
Thể thơ nhƣ trên, nhƣng bài thứ 2 viết ngƣợc vần lại với bài thứ nhất.
Xem Núi Non Bộ
Non nhân, nƣớc trí, điểu muông hiền,
Núi giả mà in dáng tự nhiên.
Một vũng xinh xinh, vƣơn một ngọn,
Hai cầu nho nhỏ, vắt hai triền.
Thuyền ngƣ lƣớt suối dong miền tục,
Cánh hạc trƣờn mây bổng cõi tiên.
Đối cảnh tâm tƣ dƣờng nhẹ nhõm,
Lâng lâng chẳng bợn chút ƣu phiền.
Lâng lâng chẳng bợn chút ƣu phiền.
Bàn đá say cờ đôi lão tiên,
Lã vọng buông câu vờn sóng nƣớc,
Phật đài mở lối lƣợn ven triền.
Sỏn thanh thủy tú,hồn u nhã,
Sắc lộng hƣơng nùng ,khí hạo nhiên.
Phong cảnh tạo hình nhƣ giới thiệu
Chủ nhân đây cũng bậc nhân hiền.
Lạc Nam
10-Ô thƣớc kiều
Thể thơ liên hoàn nhƣ trên, nhƣng lấy 2 từ cuối, hoặc nhắc lại 2, 3 từ nào đó ở câu cuối của bài
trên để mở đầu cho câu 1 của bài dƣới.
Chống Tôn Thọ Tƣờng
Lung lay lòng sắt đã mang nhơ,
Chẳng xét phận mình khéo nói vơ.
Ngƣời trí mang lo danh chẳng chói,
Đứa ngu luống sợ tuổi không chờ.
Bài hòa đã sẵn in tay thợ,
Cuộc đánh hơn thua giống nƣớc cờ.
Chƣa trả thù nhà,đền nợ nƣớc,
Dám đâu mắt lấp với tai ngơ.
Tai ngơ sao đặng lúc tan tành,
Luống biết trách ngƣời,chẳng trách mình.
Đến thế còn khoe đàng đạo nghĩa,
Nhƣ vầy cũng gọi kẻ trâm anh.
Biển khơi vụng tính dung thuyền nhỏ,
Chuông nặng to gan buộc chỉ mành.
Thân có,ắt danh tua phải có,
Khuyên ngƣời ái trọng cái thân danh.
Thân danh chẳng kể, thật thằng hoang,
Đốt sáp nên tro lụy chẳng màng.
Hai cửa trâm anh xô sấp ngửa,
Một nhà danh giá xóa tan hoang.
Con buôn khấp khởi chƣa từng ngọc,
Ngƣời khó xăng xăng mới gặp vàng.
Thƣơng kẻ đòng văn nên phải nhắc.
Dễ đâu ta dám tiếng khoe khoang.
Phan Văn Trị ( 1830-1910)
11-Tập danh
a- Trong mỗi câu có danh từ gắn với đề tài
Mừng Ông Lão Hàng Thịt Ăn Thƣợng Thọ
Nay tiết mừng ông mới Bảy mƣơi,
Cổ hy(1) chƣa dễ mấy lăm ngƣời.
Răng long nhƣng hãy còn tinh mắt
Đầu bạc nhƣng mà chửa tắc tai.
Bè bạn bày vai kèo (2) chén Lý (3)
Cháu con dƣới gối múa sân Lai. (4)
Xƣa nay vẫn giữ lòng chân thực
Chữ đức giả xƣơng máu để đời.
Nguyễn Khuyến
Chú thích :
1-Do câu " nhân sinh thất thập cổ lai hy " ,ngƣòi ta sinh ra sống đƣợc 70 tuổi,xƣa nay rất hiếm
có.
2-Rót rƣợu mời ngƣời khác uống. 3-Chén rƣợu của Lý Bạch ,nhà thơ uống rƣợu nổi tiếng. 4-Lão
Lai,ngƣời nƣớc Sở đời Xuân Thu, tuổi đã ngoài 70 còn cha mẹ, giả cách khóc nhƣ trẻ con để làm
cho cha mẹ vui.
b-Mỗi câu thơ có 1 từ chỉ bộ phận trong thân thể con ngƣời.
Học Trò
Dài lƣng tốn vải lại ăn no,
Nghĩ ngán cho thân phận học trò.
Thù nƣớc, thù vua, ngay mặt chịu,
Công sƣu, công ích, cắm đầu lo !
Vẫn giƣơng mắt ếch mà ra quáng,
Còn ngậm lông mèo chả sợ ho !
Nói đến chuyện đời tai điếc đặc,
Rung đùi, chỉ nghĩ " tám đùi " to !
Nhì Mỹ
Chú thích : Ngậm lông mèo : ngậm bút chữ nho. Tám đùi :văn xƣa gọi là " bát cổ "dịch là tám
vế,vế đồng nghĩa với đùi.
12-Tính danh
Câu nào cũng có từ chỉ nhân danh hay địa danh. Giống nhƣ Điển Thi, câu nào cũng dẫn 1 điển ở
bên Tàu.Xƣa kia các cụ đồ nho chuộng lắm vì nhƣ thế các cụ mới chịu cho là có học, rộng kiến
thức.
Lỗi Thề
Vùi oan bạc mệnh sóng Tiền Đƣờng (1)
Ngọn đuốc Chiêm Thành(2) rở nhớ thƣơng.
Chắp cánh đẹp gì câu Thất Tịch (3)
Ôm cầm say mãi gái Tầm Dƣơng(4)
Lỗi thề Chung Tử (5) sầu tri kỷ
Hoen mái Tây hiên (6) lệ đoạn trƣờng
Hồ Hán (7) ngậm ngùi mây cách biệt
Ngân Hà (8) mƣa gió nẻo cầu sƣơng.
Toại Khang
Chú thích :
1: Kiều trầm mình ở sông Tiền Đƣờng. 2- Công chúa Huyền Trân phải sang lấy vua Chiêm
Thành.
3- Đƣờng Minh Hoàng -Dƣơng Quý Phi đêm 7 tháng 7 âm lịch thề cùng nhau "sống làm vợ
chồng chết là chim liền cánh cây liền cành". 4-Bạch Cƣ Dị,văn hào đời Đƣờng, đêm đậu thuyền
ở bến sông Tầm Dƣơng làm bài Tỳ Bà Hành cho ca nữ hát.
5-Chung Tử Kỳ -Bá Nha là 2 bạn tri âm. Bá Nha gảy đàn,T ử Kỳ biết Bá Nha nghĩ gì. Tử Kỳ
chết, Bá Nha đập đàn đi, không gảy nữa. 6-Trƣơng Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh tình tự dƣới
mái Tây hiên. 7-Chiêu Quân nhà Hán sang cống Hồ.
8-Ngƣu Lang và Chức nữ đứng 2 bên sông Ngân Hà nhớ nhau khóc thành mƣa ngâu trong tháng
7 Âm lịch.
13-Sắc thái
Câu nào cũng có từ chỉ màu sắc.
Chiều Nổi Mầu Thu
Trời thu bóng ác rực mầu vang,
Trƣờn trƣợt vào lƣng dặng núi vàng.
Cánh nhạn chiều tà sƣơng lót trắng
Chòm mây mƣa nhạt khói mờ lam.
Lầu thu thoát nắng nâng rèm tía,
Vƣờn vắng còn đây nở đóa vàng.
Nếu chẳng vƣơng tìm hoa súng tím,
Thì đâu đƣợc ngắm nguyệt da cam.
Toại Khang
14-Thủ vĩ ngâm
Thể thơ trong đó câu đầu và câu cuối giống nhau
Khoe Lƣời
Anh em chớ bảo ta lƣời,
Làm việc cho hay phải thức thời.
Xuân hãy còn chơi cho phỉ chí,
Hạ mà cất nhắc tất nhoài hơi.
Thu sang cảm nguyệt còn ngâm vịnh,
Đông lại hầm chăn tạm nghỉ ngơi.
Chờ đến xuân sang ta sẽ liệu,
Anh em chớ bảo ta lƣời.
Tú Mỡ
Đèn Kéo Quân
Lúng túng trong vòng mấy đứa đen,
Nhờ khi đỏ lửa mới hay hèn.
Nghênh ngang võng giá phô đồ giấy,
Đủng đỉnh dù che nép bóng đèn.
Thằng trƣớc thằng sau liền gót chạy,
Anh trên anh dƣới vểnh râu lên.
Này ai say tỉnh nhìn xem thử,
Lúng túng trong vòng mấy đứa đen.
Khuyết Danh
15-Triệt hạ
Từ cuối của mỗi câu thơ để bỏ lửng làm cho câu thơ chƣa trọn nghĩa, khiến ngƣời đọc phải nghĩ
ra.
Gái Hồng Nhan
Thấy gái hồng nha bỗng chốc mà . . .
Hõi thăm cô ấy chửa hay đà . . .
Hình dung yểu điệu in nhƣ thể . . .
Diện mạo phƣơng phi ngó tƣởng là . . .
Ăn mặc ra tuồng ngƣời ở chốn . . .
Nói năng phải lẽ giống con nhà . . .
Ƣớc gì ta đƣợc mà ta để . . .
Ta để đem về để nữa ta . . .
Nguyễn Quý Tân
16-Yết hậu
Các câu trên đủ từ cả, riêng câu cuối cùng chỉ có 1 từ.
Rƣợu Say Nhè
Sống ở nhân gian, đánh chén cay,
Trăm năm ngày tháng, giữ be đầy.
Diêm vƣơng phán hỏi "Ai đó " ?
- "Say ! "
Sống ở nhân gian đánh chén khè ,
Trăm năm ngày tháng,giữ đầy be.
Diêm vƣơng phán hỏi " Ai đó " ?
- "Nhè ! "
Phạm Thái (biệt hiệu Chiêu Lỳ)
17-Áp cú
Từ cuối của câu trƣớc trở thành từ đầu của câu sau.
Sang Canh
Năm nảo năm nao cũng ƣớc lành
Lành, còn mong hết ? đón sang canh.
Canh trời thắc thỏm phƣơng xin lộc,
Lộc nƣớc lăm le khách vít cành.
Cành lá đêm qua dù thiếu nụ,
Nụ đào xuân hé đẹp hơn tranh,
Tranh đời mới lại màu hoa gấm,
Gấm vóc sơn hà lộng sắc xanh.
Toại Khang
Chừa Rƣợu
Những lúc say sƣa, cũng muốn chừa,
Muốn chừa,nhƣng tỉnh lại hay ƣa,
Hay ƣa nên nỗi không chừa đƣợc,
Chừa đƣợc, nhƣng mà cũng chẳng chừa.
Nguyễn Khuyến
18-Chơi chữ
Thể thơ chơi chữ rất phong phú và hứng thú. Chỉ xin liệt kê ra đây vài bài mẫu :
a-Chơi theo vần A B C . . .
Muốn Quy Thuyền
A Di Đà Phật muốn quy thuyền,
B bết lòng tham hãy cứ nguyên.
C xích cho gần nơi cửa tịnh,
Đ đầu nguyện dứt mối trần duyên.
Thảo Am
Dở Dang
E không thoát khỏi xa niềm tục,
F gƣợng rồi ra cũng hão huyền.
T tái trần duyên tu chẳng trọn,
Y thời cũng trả,bát không quyên.
Bùi Tiến (nhóm Silicon)
b-Chơi theo các dấu : Huyền - Sắc - Nặng - Hỏi
Huyền diệu trông lên cửa đạo thuyền,
Sắc không khôn rõ thấu căn nguyên
Nặng nề nghiệp chƣớng e chƣa hết,
Hỏi mấy ai đà có thiện duyên.
Thảo Am
c-Các từ trong bài thơ đều dùng một phụ âm hay nguyên âm
Chuyện Cô Cháu
Cô chẳng cho con cả chén chè
Cô cho chút chút,chán cô chƣa.
Chè còn,cô cất cho chua cả,
Con cũng chê,mà chó cũng chê.
Bùi Tiến (Quán Thơ Silicon)
Chớ chớ, cháu cô chỉ chãnh chòe,
Cháo chè chi chiết chán chƣờng chƣa !
Chén chè cô cúng cho chùa cả,
Cầu cháu cùng cô chồng chẳng chê !
Mai Ninh (nhóm Silicon)
d- Ý của các từ , cụm từ, câu thơ đều phải hiểu theo nghĩa bóng, điển . . . Thể thơ chơi chữ này
thú vị và bất ngờ nhất vì có khi ngƣời đọc nghĩ ra những ý mà chính tác giả cũng không nghĩ ra.
Tắm Trong Tù
Vùng vẫy mình trong bể nƣớc đầy
Hết kỳ lại cọ, chẳng rời tay
Ông Tây cứ bảo mình yêu nƣớc,
Ừ, chẳng yêu sao lại thế này ?
Nhƣợng Tống
Chú thích : Lệ nhà tù, một tuần mới cho tắm một lần, nên mỗi khi tắm, phạm nhân vùng vẫy kỳ
cọ trong bể nƣớc cho bằng đã.
Ghẹo Sƣ nữ
Ôm tiu cắp mõ ngủ kho kho,
Gió thổi mùng thiền mát mẻ cô,
Cánh cửa từ bi gài lỏng khóa,
Nén hƣơng tế độ đốt đầy lò.
Cá khe lắng kệ đầu ngơ ngác ,
Chim suối nghe kinh cổ gật gù.
Nhắn với chúng sinh lòng muốn độ,
Đêm đêm thƣờng niệm chữ nam vô !
Nguyễn Khuyến ? Mai Thế Quý ?
19-Kỵ đề
Thể thơ trong đó tất cả 8 câu đều không có từ nào chỉ đề tài mà vẫn thể hiện đầy đủ yêu cầu của
đề tài. Chƣa sƣu tầm ra bài mẫu
20-Bát điệp
Thể thơ trong đó tất cả 8 câu đều có lồng vào 1 hoặc 2 từ giống nhau.
Gái Muộn Chồng
Ai giám thƣơng đâu gái có chồng
Thƣơng vì một nỗi chực phòng không.
Thƣơng con quốc đực kêu mùa hạ
Thƣơng cái bèo non giạt biển đông
Thƣơng vợ chồng Ngâu duyên chểnh mảng,
Thƣơng cha mẹ nhện số long đong.
Cái thƣơng quân tử thƣơng là thế,
Có giám thƣơng đâu gái muộn chồng.
Khuyết Danh
Còn Chơi
Ai đã hay đâu tớ chán đời,
Đời chƣa chán tớ, tớ còn chơi.
Chơi cho thật chán, cho đời chán,
Đời chán nhau thời tớ sẽ thôi.
Nói thế, can gì tớ đã thôi ?
Đời đƣơng có tớ, tớ còn chơi.
Ngƣời ta chơi đã già đời cả
Nhƣ tớ năm nay mới nửa đời.
Tản Đà
Chú thích :Trong câu 5 Tản Đà không có dùng từ đời. Nếu ta thay từ " can gì " bằng "đời nào "
câu 5 thành : "Nói thế, đời nào tớ đã thôi" thì bài thơ thuộc thể Bát điệp.
21-Liên ngâm
Thể thơ trong đó 2 hoặc nhiều ngƣời làm chung một bài thơ lần lƣợt nhau mỗi ngƣời 1 hoặc 2
câu.
Cảnh Tây Hồ
Bài này do bà Liễu Hạnh cùng ông Phùng Khắc Khoan ,1 ông họ Lý,1 ông họ Ngô chơi thuyền ở
Hồ Tây liên ngâm:
(Liễu)
Hồ Tây riêng chiếm một bầu trời
(Lý)
Bát ngát tứ mùa rộng mắt coi.
Cỗi ngọc xanh xanh làng phía cạnh,
(Phùng)
Trâu vàng biêng biếc nƣớc vàng khơi.
Che mƣa nhà lợp vài gian cỏ
(Ngô)
Chèo gió ai bơi một chiếc chài
Giậu thủng chó đua đàn sủa tiếng
. . . . . . . . . . . .
(Phùng)
Đông hết thành xuân chửa thấy mai.
Thú cảnh yên hà sang dễ đọ
(Ngô)
Sóng lòng trần tục dạ đầy vơi.
Xe săn Vị Thủy tha hồ hỏi
(Lý)
Thuyền tới Đào nguyên mặc sức bơi.
Chuông sớm dục thanh lòng Phật đó
(Liễu)
Trăng tròn soi bóng một tiên thôi.
( Nguyên văn chữ Hán Truyện Liễu Chúa-Phan Kế Bính dịch nôm trong Việt Hán văn khảo )
22-Hạn Vận
Ngƣời ra đề cho vần nào ta phải dùng vần ấy. Thể thơ này khác với thể Họa Vận vì không có bài
xƣớng để dựa theo mà họa, hơn thế nữa, ta phải :
* Tả ý thơ theo đầu đề
* Dùng 5 vần hạn định (trong 8 câu)
Thí dụ : Cuộc thi thơ do học giả Phan Kế Bính tổ chức
a/ đầu đề :
Trống treo ai dám đánh thùng
Bậu không, ai dám dở mùng chun vô ?
b/ 5 vần hạn định : xô, cô, vô, ô, rô.
Bài thơ sát với đầu đề, hạ đúng 5 vần hạn định, đƣợc giải nhất mà tác giả lại là một nhà sƣ chân
tu ! :
Nào phải là ai dám giục xô,
Thuận tình truớc hết tự nơi cô.
Có cho mới dám trao dùi đánh,
Không hẹn nào ai đẩy cửa vô ?
Mảng sƣớng kể gì thân lễ nghĩa,
Ham vui quên hết chuyện dâm ô.
Thói hƣ thuần, thƣớc xƣa còn lạc,
Đừng học làm chi gióng nhảy rô !
23-Phú Đắc
Giải thích và phát triển ý của một câu ca dao hay một câu thơ bằng một bài thơ, nhƣng nội dung
phải phù hợp với sự việc đó.
Già Còn Muốn Lấy Chồng
Phú Đắc :
Bà già đã bảy mƣơi tƣ,
Ngồi trong cửa sổ gửi thƣ kén chồng
Đã trót sinh ra kiếp má đào,
Bảy mƣơi tƣ tuổi có là bao ?
Xuân xanh xấp xỉ hàng răng rụng
Ngày vắng ân cần mảnh giấy trao.
Chữ nhất nhi chung đành đã vậy (1)
Câu tam bất hiếu nữa làm sao (2)
May mà lấy đƣợc ông chồng trẻ,
Họa có sinh ra đƣợc chút nào ?
Nguyễn Khuyến
Chú thích :
1- Nhất nhi chung : chỉ có một chồng cho đến trọn đời.
2- Tam bất hiếu :Theo thuyết Khổng Mạnh có câu " Bãt hiếu hữu tam, vô hậu vi đại ", nghĩa là
tội bất hiếu có 3 điều, không có con trai nối dõi là tội to nhất.
Thách Vần
Phú Đắc :
Tối um um, trống điểm thùm,
Dáng lum khum, có lẽ hùm !
Quán tùm hum !
Giời hôm nhƣ mực cỏ xanh um,
Kẽm trống đâu đây bƣớc đánh thùm,
Ven núi chẳng nề cao với thấp,
Qua cầu đếch biết thẳng hay khum.
Đƣờng mây, ngọn gió, đôi đàn vạc,
Móng đá chân sim, một dấu hùm.
Sực thức đêm khuya thƣơng kẻ lạnh,
Màn, chăn, đệm ấm hủm hùm hum.
Lê Lƣợng Thể (biệt hiệu Thảo Trang)
24-Láy Thơ
Thể thơ trong đó hoặc ở đầu câu,ở giữa câu hay ở cuối câu đều có từ láy. Láy có 3 loại :
a- Láy từ : Từ đùng trƣớc đƣợc láy lại toàn bộ ở từ sau : ngời ngời, xinh xinh, ngà ngà, ngoan
ngoãn . . .
b- Láy âm :Bộ phận phụ âm đàu của từ trƣớc đƣợc láy lại ởbộ phận phụ âm của từ sau : khó
khăn, đỡ đần . . .
c- Láy vần : Bộ phận vần của từ trƣớc đƣợc láy lại ở bộ phận vần của từ sau : bồn chồn-lẩm cẩm-
cheo leo . . .
d- Láy có 3 thể :
1/ Láy đôi : canh cánh, tà tà, lăm le . . .
Quan Khánh
Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo,
Đƣờng đi thiên thẹo, quán cheo leo.
Lợp lều quán cỏ tranh xơ xác,
Xỏ kẽ kèo tre đót khẳng khiu.
Ba chạc cạy xanh hình uốn éo,
Một dòng nƣớc biết cảnh leo teo.
Thú vui quên cả niềm lo lắng,
Kìa cái diều kia nó lộn lèo !
Hồ Xuân Hƣơng
2/ Láy ba (Vĩ Tam Thanh): Sạch sành sanh-dửng dừng dƣng - sát sàn sạt . . .
Ngẫu Hứng
Tiếng gà bên gối tẻ tè te,
Bóng ác trông lên hé hẻ hè.
Cây một chồi cao von vót vót,
Hoa năm sắc nở lóe lòe loe.
Chim tình bè lứa kia kìa kịa,
Ong, nhĩa vua tôi nhé nhẻ nhè.
Danh lợi mặc ngƣời ti tí tị,
Ngủ trƣa chửa dậy khỏe khòe khoe.
Vô Danh
3/ Láy tƣ : Trùng trùng điệp điệp, lúng ta lúng túng, hớt hơ hớt hải, áo áo quần quần . . .
Hạ Long Tức Cảnh
Trùng trùng điệp điệp núi chon von,
Ảo ảo mơ mơ thế trận hồn ,
Lớp lớp hàng hàng hòn Bái Tử,
Non non nƣớc nƣớc một lòng son.
Tùng Linh (Quán Thơ Silicon)
25-Lái Thơ
Thể thơ có những cụm từ đôi đƣợc lái thành cụm từ đôi khác (hoặc cụm từ ba, nhƣng rất ít), nhƣ
trong câu : "Con cá đối nằm trong cối đá" hoặc trong cảnh Trạng Quỳnh ngồi bờ ao chơi đá bèo
làm cho bà Quận Chúa phải đỏ mặt.
Muốn Quy Thuyền
Cầu đạo cần chi phải cạo đầu ,
Dầu lai dƣa muối cũng dài lâu.
Na bƣờng bát tới nƣơng bà vãi,
Dầu sãi không tu cũng giải sầu.
Thảo Am
Nhắn Bạn
Nhắc bạn những thƣơng tình nhạn bắc,
Trông đời chỉ thấy cảnh trời đông.
Đêm thâu tiếng dế đâu thêm mãi,
Cƣời ngả nghiêng cho mệt cả ngƣời.
Thảo Am
26-Cô nhạn xuất quần
Thể thơ trong đó vần câu đầu làm khác hẳn, không giống mấy vần dƣới. Chƣa sƣu tầm ra bài
mẫu.
27-Cô nhạn nhập quần
Thể thơ trong đó mấy vần trên đi với nhau, chỉ có vần dƣới làm khác hẳn đi. Chƣa sƣu tầm ra bài
mẫu
28-Liên Châu
Thể thơ tràng thiên dùng nguyên một vần mà câu nào cũng có vần. Chƣa sƣu tầm ra bài mẫu
29-Vấn nghi
Câu thơ nào cũng theo thể hỏi, nên sau mỗi câu đều đặt đƣợc dấu hỏi cả.
Vấn Nguyệt
Trải mấy thu nay vẫn hãy còn ?
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn ?
Hỏi con Ngọc-thỏ đà bao tuổi ?
Chớ chị Hằng-nga đã mấy con ?
Đêm thẳm cớ chi soi gác tía ?
Ngày xanh còn thẹn với vừng son ?
Năm canh lơ lửng chờ ai đó ?
Hay có tình riêng với nƣớc non ?
Vô Danh
30-Thuận nghịch độc (hồi văn)
Thể thơ khi đọc xuôi là 1 bài thơ,mà đọc ngƣợc cũng là 1 bài thơ. Thể thơ này đòi hỏi công phu
ghép từ thật khéo và phải làm theo đúng luật bằng trắc để có thể đọc xuôi ,đọc ngƣợc đều có
nghĩa, câu thơ chải chuốt không khổ đọc.
Cảnh Tây Hồ
(Đọc xuôi) :
Đây vui thực lạ cảnh Tây Hồ !
Trƣớc tự trời kia khéo vẽ đồ.
Mây lẫn nƣớc xanh màu tỏ ngọc,
Nguyệt lồng hoa thắm vẻ in châu.
Cây la tán rợp từng cao thấp,
Sóng gợn cầm tâu nhịp nhỏ to.
Bày khéo thú vui non nƣớc đủ,
Tây Hồ giá ấy dễ đâu so !
Khuyết Danh
(Đọc ngƣợc) :
So đâu dễ ấy giá Hồ Tây ?
Đủ nƣớc non vui thú khéo bày.
To nhỏ nhịp tâu cầm gợn sóng,
Thấp cao từng rợp tán la cây.
Châu in vẻ thắm, hoa lồng nguyệt,
Ngọc tỏ màu xanh, nƣớc lẫn mây.
Đồ vẽ khéo kia trời tự trƣớc,
Hồ Tây cảnh lạ thực vui đây !
Khuyết Danh
Xuân Hứng
(Đọc xuôi, Hán văn) :
Thi đàn tế liễu lộng hoa hài,
Khách bộ tùy sƣơng ấn bích đài
Kỳ cục đã thanh phong giáp trận
Tửu hồ khuynh bạch tuyết hòa bôi !
Sơ liêm thấu nguyệt hƣơng hung trúc,
Tuyết án lăng hoa vị áp mai
Phi phất thảo am đầu tĩnh điếm
U tình cố nãi thuộc quyên ai !
Khuyết Danh
(Đọc ngƣợc theo phiên âm chữ nôm) :
Ai quen thuộc ấy có tình ƣ ?
Điếm tĩnh đầu am cỏ phất phơ
Mai ép mùi hoa lùng án tuyết
Trúc lồng hƣơng nguyệt thấu rèm thƣa
Chén hòa tuyết trắng nghiêng hồ rƣợu
Trận giáp phong thanh đánh cuộc cờ
Rêu biếc in sƣơng theo bƣớc khách
Hài hoa lỏng lẻo tới đàn thơ.
Khuyết Danh
31-Phá cách
Thơ làm thất niêm có dụng ý
Đèo Ba Dội
Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa son đỏ hoét tùm hum nóc,
Kẽ đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt léo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sƣơng gieo.
Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mõi gối chồn chân vẫn muốn trèo.
Hồ xuân Hƣơng
Chú thích : Bài thất ngôn bát cú này làm theo thể bình, vần bình, nhƣng không theo niêm luật.
Mấy Điều Kỵ Trong Thơ Đƣờng Luật
Phép làm thơ ,có mấy điều tối kỵ không nên phạm đến :
1- Thất luật : Những từ đáng Bằng mà làm ra Trắc hoặc đáng Trắc mà làm ra Bằng
2- Thất niêm : Câu trên đang theo luật Bằng mà câu dƣới sang luật Trắc hoặc câu trên đang theo
luật Trắc mà câu dƣới làm sang luật Bằng
3- Lạc vận : Đang theo vần này mà gieo sang vần khác, nhƣ nhƣ vần trên là trời mà vần dƣới là
mây thì gọi là lạc vận.
4- Xuất vận : Ngƣời ta đã hạn định cho những cho những vần gì,mà mình dùng vần khác,thì gọi
là xuất vận.
5- Trùng vận : Câu trên đã dùng một vần ,câu dƣới lại dùng dùng nhƣ thế nữa thì gọi là trùng
vận.
6- Cƣỡng áp : Các vần gieo ép uổng, không đƣợc hiệp lắm.
7- Khổ độc : Trong một bài thất ngôn,chữ thứ ba các câu chẵn,trong một bài ngũ ngôn,chữ thứ
nhất các câu chẵn đáng là từ bằng mà làm ra từ trắc
8- Phong yêu hạc tất : từ thứ tƣ và tứ thứ bảy trong thơ thất ngôn, từ thứ hai và từ thứ năm trong
thơ ngũ ngôn trùng một âm.
9- Đối không chỉnh : Khi những từ trong bài thơ phải đối nhau mà từ nặng từ nhẹ không đƣợc
cân.
10- Trùng từ hay trùng ý : Từ hay ý đã dùng rồi mà lại còn dùng nữa.
Tài liệu tham khảo
1- Việt Nam Văn Học Sử Yếu , Dƣơng Quảng Hàm , nxb Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1962
2- Việt Nam Văn Học Sử Giản Ƣớc Tân Biên , Phạm Thế Ngũ ,nxb , Quốc Học Tùng Thƣ,1965
3- Nam Thi Hợp Tuyển, Ôn Nhƣ Nguyễn Văn Ngọc, nxb Bốn Phƣơng, 1952
4- Tìm Hiểu Các Thể Thơ, Lạc Nam, nxb Văn Học Hà Nội, 1996.
5- Khảo Luận Về Thơ, Lam Giang, nxb Đồng Nai, 1994.
6- Thơ Văn Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu giới thiệu, nxb Văn Học-Hà Nội, 1971.
7- Thơ Văn Trào Phúng Việt Nam Từ Thế Kỷ 13 Đến 1945, Vũ Ngọc Khánh Biên soạn, nxb
Văn Học-Hà Nội, 1974.
8- Thơ Văn Yêu Nƣớc (1858-1900), Chu Thiên ,nxb Văn Học Hà Nội , 1970.
9- Chơi chữ , Lãng Nhân, nxb Nam Chi Tùng Thƣ, 1961.
10- Việt Nam Gãm Hoa, Hƣơng Giang Thái Văn Kiểm, nxb Làng Văn Canada,1997.
11- Ngƣời Ham Chơi, Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng, nxb Thuận Hóa,1998.
Cách làm thơ thất ngôn tứ tuyệt
Thơ thất ngôn tứ tuyệt Đƣờng luật gồm có 4 câu, mỗi câu 7 chữ, về phối thanh hay luật bằng trắc
hoàn toàn giống thơ thất ngôn bát cú.
Về gieo vần thì có 3 cách:
Gieo vần vào tiếng cuối các câu 1-2-4 (tiếng cuối câu 3 bắt buộc thanh trắc)
Ví dụ:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nƣớc non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
Cách này thƣờng đƣợc các cao nhân thời xƣa sử dụng nhiều nhất.
Gieo vần chéo:
Vào tiếng cuối các câu 1-3 (tiếng cuối các câu 2-4 phải là thanh trắc) hay các câu 2-4 (tiếng cuối
các câu 1-3 phải là thanh trắc). Ví dụ:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thƣơng, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn nhƣ lệ ngân
Gieo vần ôm:
Tiếng cuối câu 1 vần với tiếng cuối câu 4, tiếng cuối câu 2 vần với tiếng cuối câu 3. Ví dụ:
Tiếng đàn thầm dịu dẫn tôi đi
Qua những sân cung rộng hải hồ
Có phải A Phòng hay Cô Tô ?
Lá liễu dài nhƣ một nét mi
Cách này ít ngƣời sử dụng.
Nói chung thơ này giống với thơ thất ngôn bát cú.
Tìm hiểu cách làm thơ của người xưa
Con ngƣời ta sở dĩ bay lên đƣợc là nhờ hai cái cánh: văn học và khoa học. Văn là ngƣời có học
vấn (trái với võ), văn hóa là dùng văn tự (chữ nghĩa) mà giáo hóa con ngƣời. Bậc thánh nhân thì
lập đức, danh tƣớng lập công, sỹ đại phu lập ngôn.Thi thƣ là những bộ môn giƣờng cột của văn
học.Thuở còn sơ khai, các bậc huynh trƣờng dùng thơ ca để dạy con em, để chúng trở thành
ngƣời chính trực ôn nhu, rộng lƣợng, kiên nghị, cứng cỏi mà không thô bạo, giản dị mà không
ngạo mạn.Thơ dùng để nói chí, ca dùng để ngân dài lời thơ.Thơ ở trong lòng là chí, phát ra lời là
thơ (chí có nghĩa là dừng ở trong lòng nên nó đƣợc gắn với hai chữ tình và ý). Ông cha ta xƣa
làm thơ là học theo lối Đƣờng-Tống: “Nhà thơ khi có thi hứng thì hồn thơ cất cánh bay bổng lên
những khoảng trời cao rộng.Luật lệ quy tắc (các thể thơ) là để điều khiển cái hứng, giúp cho lối
phô diễn đƣợc hoàn hảo, đẹp đẽ hơn, du dƣơng hơn chứ không phải để bóp chẹt cái hứng, phải
biết vứt bỏ luật lệ để giữ cái hứng, chứ không nên hi sinh cái hứng cho luật lệ.Thơ là để tả nỗi
lòng, tả bằng hính thức nào cũng đƣợc(cổ phong,luật thi..)Hễ tả mà cảm động đƣợc lòng ngƣời là
mục đích đã đạt.Thơ không phải chỉ là những chữ ghép cho thành vần, cho có đối, cho đủ bằng
trắc.Các bậc tài hoa theo luật mà không chịu nô lệ nó. Họ biết phá luật để theo hứng, đã tạo nên
những bài thơ bất hủ nhƣ “Hoàng hạc lâu” của Thôi Hiệu, “Anh Vũ Châu” của Lý Bạch, “Đăng
Cao” của Đỗ Phủ …đều thoát khỏi sự câu thúc của niêm luật”. Sự tác động qua lại của thi hứng
và luật lệ có thể tăng cƣờng hoặc trói buộc thi hứng – nhà thơ phải lao tâm khổ tứ để tạo đƣợc
những bài thơ hay là thế. Công việc làm thơ đầu tiên là luyện chữ: cách dùng “từ” (chữ) nhƣ thế
nào, bố cục thơ ra làm sao. Đỗ Phủ đã tâm sự “ngữ bất kinh nhân, tử bất hƣu” (chữ chẳng kinh
ngƣời, chết chẳng yên).Bì Nhật Hƣu thì nói ”bách luyện thành tự, thiên luyện thành cú” (trăm lần
luyện mới thành chữ, nghìn lần rèn mới thành câu. Đến luyện câu thì khởi – thừa –chuyển – hợp
nhƣ thế nào, khử đối ngẫu ra làm sao, luật bằng trắc ra sao, gieo vần thế nào? Luyện chữ đã khó,
(ví dụ “chữ mắt“ (nhãn tự) đặt ở đâu để nó tỏa sáng.Câu thơ hay phải có chữ hay đó là những hạt
linh đan làm cho đá biến thành vàng.Luyện chữ để cho chữ linh hoạt, sống động , cựa quậy,
không nằm bẹp trên trang giấy). Luyện câu lại khó hơn, rồi đến luyện ý (tạo ý mới, tứ lạ) và bao
trùm là luyện cách… thơ không có “thi cách” (phong cách riêng của từng nhà) thì coi nhƣ vứt đi,
loại bỏ. Bảng nhãn Lê Quý Đôn từng dạy:”một bài thơ hay phải có đủ tình, cảnh, sự - mà trong
đó Tình là ngƣời, Cảnh là trời, Sự là hợp cả trời đất mà quán thông…” Ngƣời xƣa dùng đạo lý
SÁNG/TỐI để tìm hiểu thơ ca, với quan niệm ”nhìn không thấy không phải là không có, mà là
chúng ta không thấy mà thôi”.Ví dụ: mặt trăng vào thƣợng tuần đến ngày mùng 7, mùng 8 nó
mới xuất hiện 1 nửa, còn một nửa kia không thấy đƣợc.Cái nhìn không thấy ấy là đạo lý, điều mà
ta nhìn thấy là sự thật.Ta dùng hình tròn của mặt trăng để biểu thị THI VŨ (vũ trụ thơ) khi mặt
trăng hiện ra hình bán nguyệt, một nữa phát sáng để biểu thị mặt sáng trong thơ, nửa kia không
phát sáng đại biểu bằng hƣ tuyến(màu đen) để biểu thị mặt tối trong thơ, hai mặt này đồng thời
tồn tại. Mặt biểu hiện bề ngoài của thơ (mặt sáng) ta thấy đƣợc đó là phong cách của thơ, ý và
tình đƣợc diễn đạt bằng cú pháp, luật bằng trắc, cách gieo vần bằng các con chữ, ấy là mặt ta có
thể thấy đƣợc (hiển hiện trên mặt giấy viết); còn những cảm thụ mà thơ mang đến cho ta (cái thứ
ẩn dụ, ý tại ngôn ngoại, một thứ “tiếng thầm” – đáo địa nhất vô thanh (là mặt tối) ta không thể
trông thấy nhƣng ta cảm đƣợc.Sự linh diệu, thần diệu của thơ là vậy. 5 BƢỚC CỦA VIỆC
LÀM THƠ Bƣớc 1: Mới bắt đầu học làm thơ
Đó là đi từ các con chữ ghép vần theo thể thơ (5 chữ, lục bát, 7 chữ …) tiếp là “theo thơ tìm lý”
(đạo lý) trong thơ có lý: Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
-Đồ Chiểu Bƣớc 2: Đã biết làm thơ theo các
thể loại một cách thành thạo (ví dụ: lục bát là phải có “vần”) trong thơ có lý (tức là bài thơ đã có
nội dung để nói lên một ý tƣởng nào đó) với ”từ lý bàn thơ” tức là nội dung và hình thức phải
“ăn khớp” nhau. Bƣớc 3: Làm thơ đã có thành tựu
Đã làm đƣợc các bài thơ gọi là có giá trị truyền cảm nghĩa là đã đạt tới mức”thể dụng nhƣ
nhất”,”lý chính là ở nơi thơ” ”trong thơ có lý”. Bƣớc 4:Thành NHÀ THƠ (thi nhân) Lúc này
trình độ đã đạt “dùng thể để hiển dụng”, dùng lý để luận thơ, dùng lý để thành thơ.
Đó là các Nhà thơ đạt tiêu chí ”Thi sỹ” – thơ của các vị này đã có “thƣơng hiệu” , đã có những
câu thơ, bài thơ Hay cho ngƣời đời biết đến, ngâm nga thƣởng thức, đã có thơ trong các Tuyển
Tập Thơ Quốc Gia. Bƣớc 5: Thành “Thi Hào”
Đó là nhà Thi sĩ đại danh (grand Poète)
Đó là thơ đã đạt trình độ “thể dụng đều mất” “biến hóa không dấu vết”, nghĩa là “thơ thành lý
lập”.Đó là các vị nhƣ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cƣ Dị, Tô Đông Pha, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du…
Tuy vậy các bậc tài hoa ấy lại rất khiêm tốn: *Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch
Lập thân tối hạ thị văn chƣơng”
-Viên Mai
*Thi phú suốt đời, vô ích thật
Sách đàn đầy giá, có ngu không!
-Nguyễn Du Ngày nay chúng ta làm thơ theo lối “thơ mới” là đã tiếp thu, vận dùng nhuần
nhuyễn cái “cách” ẩn dụ của thơ Đƣờng, tính tƣợng trƣng của thơ Pháp để có những Lƣu Trọng
Lƣ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mạc Tử, Nguyễn Bính, Hữu Loan, Quang Dũng,
Bùi Giáng… với những vần thơ đọc lên xao xuyến lòng ngƣời, rất hiện đại và đầy bản sắc Việt –
đó là những chiếc “áo lụa Hà Đông” của ngƣời Việt Nam ta : ĐẸP, nền nã, tƣơi mát để cho các
Thi khách ta đi vào thi đàn thế giới với một tƣ thế đàng hoàng, cao sang và đầy ấn tƣợng. Góc
Thành Nam Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2009
NGUYỄN KHÔI – cẩn bút…
Khái niệm thơ và cách làm thơ
Mới đăng nhập vào,thấy vƣờn thơ còn nghèo quá nên tôi sƣu tầm bài này về để giúp anh tham
khao xong sẽ có những bài post hay và không mắc phải những lỗi cơ bản của thi ca
* Mục đích tối cao của luật thơ là giúp cho ta phƣơng tiện sáng tạo âm điệu một cách dễ dàng.
Nhƣng tuân theo luật thơ một cách ngoan cố thì sẽ làm cho tác phẩm có lúc bị miễn cƣỡng, khô
cứng mất đi cái hồn của thơ.
Cho nên ngoài luật thơ thì ngƣời làm thơ phải có hứng thú có ngoại vật cảm kích và phải có tính
tình, có chân tâm nhƣ thế khi làm thơ tƣ tƣởng mới không bi lạc đi nơi khác.
Dƣới đây là môt số luật thơ cơ bản:
1. ÂM
+. Nguyên âm: gốc của một chữ hay nhiều chữ
- a, ă, â, o, ô, ơ, u, ƣ, i,……
- oa, ua, ƣa, ue, uê, uy, ai, ay, ây, oi, ôi, ơi, …
+. Phụ âm: những chữ khác nguyên âm
- b, c, d, g, h, l, m, n, p, q, r…
- ch, gh, kh, th, nh, ng, ....
2. THANH
+. Thanh Bằng: gồm các chữ không dấu và có dấu huyền
+. Thanh Trắc: gồm các chữ có dấu sắc, hỏi, ngã và nặng
3. VẦN : là hai chữ có cùng âm và cùng thanh
4. VẬN: là cách gieo vần trong câu, có một số cách gieo vần nhƣ sau:
+. Cƣớc vận : là cách gieo vần ở cuối câu
+. Yêu vận : là cách gieo vần ở giữa câu
+. Liên vận : là cách gieo vần ở hai câu đi liền nhau
+. Cách vận : là cách gieo vần ở hai câu cách nhau
+. Chính vận : là vần mà hai chữ hoàn toàn giống nhau về âm
+. Cƣỡng vận : là vần mà hai chữ có âm tƣơng tự nhau
+. Liên châu vận: là cách gieo vần nối liền nhau nhƣ chuỗi hạt châu
5. ĐIỆU
+. Điệu là nhịp, là tiết tấu, là âm tiết.
+. Thi điệu lấy câu làm âm tiết, câu lại có âm tiết của câu, gọi là cú điệu. Mỗi cú điệu gồm nhiều
âm tiết, tức nhiều nhịp.
Dƣới đây là thí dụ trong một số thể loại thơ thƣờng gặp.
I.Thơ Bốn Chữ
Thơ bốn chữ là loại thơ có thể gọi là đơn giản nhất bởi vì luật bằng trắc chỉ đƣợc áp dụng cho
chữ thứ hai và chữ thứ tƣ trong câu mà thôi.
Nếu chữ thứ hai là bằng thì chữ thứ tƣ là trắc và ngƣợc lại nếu chữ thứ hai là trắc thì chữ thƣ tƣ
là bằng.
Cách gieo vần của thể thơ này cũng đƣợc chia làm ba loại thƣờng đƣợc gọi là cách gieo vần ba
tiếng, cách gieo vần tréo và cách gieo vần ôm.
Nhƣng nhiều khi câu thơ cũng không tuân theo luật đó.
Cách gieo vần
1.Vần ba tiếng (ít dùng)
Sao biếc đầy trời
Sầu trông viễn khơi
Ðêm mờ im lặng
Nhìn hạt sƣơng rơi
2. Vần tréo
Tôi làm con gái
Buồn nhƣ lá cây
Chút hồn thơ dại
Xanh xao tháng ngày
3. Vần ôm
Em tan trƣờng về
Ðƣờng mƣa nho nhỏ
Chim non giấu mỏ
Dƣới cội hoa vàng
II.Thơ Năm Chữ (Ngũ ngôn cổ thể trƣờng thiên)
Thơ ngũ ngôn có độ dài ngắn khác nhau nhƣng đƣợc chia thành nhiều khổ nhỏ, mỗi khổ gồm 4
dòng thơ.
Cũng giống nhƣ thơ bốn chữ: nếu chữ thứ hai trong cầu là bằng thì chữ thứ tƣ là trắc và ngƣợc
lại. Nhƣng cũng có nhiều trƣờng hợp không phải vậy. Cách gieo vần của thể thơ này cũng đƣợc
chia làm hai loại thƣờng đƣợc gọi là cách gieo vần ôm, và cách gieo vần tréo
Thí dụ: Gieo Vần ôm:
Em có nghe hay chăng
Lá thu đang vẫy gọi
Rừng thu đang đón mời
Em về vơi hoang vắng
Thí dụ: Gieo vần tréo
Trƣớc sân anh thơ thẩn
Đăm đăm ngóng nhạn về
Mây chiều còn phiêu bạt
Lang thang trên đồi quê…
III. Thơ Sáu Chữ
Cách gieo vần của thể thơ này đƣợc chia làm hai loại: gieo vần ôm, và cách gieo vần tréo còn
luật bằng trắc thì chƣa thấy đƣợc áp dụng theo bất cứ quy định nào.
Thí dụ: Vần ôm
Nếu ngày mai em có tới
Mang cho anh đám mây xanh
Và một cơn gió trong lành
Làm hành trang anh đi tới
Thí dụ: Vần tréo
Quê Hƣơng là gì hả mẹ ?
Mà Cô Giáo dạy phải yêu
Quê hƣơng là gì hả mẹ ?
Mài ai đi cũng nhớ nhiều
Huyền Kiêu
IV. Thơ Cổ Song Tứ Lục Bát
Hai câu đầu là bốn chữ, câu thứ ba là sáu chữ và câu cuối là tám chữ theo luật nhƣ sau:
Đoạn một
x B x T(v)
x T x B(v)
x B x T x B(v)
x B x T x B(v) T B(v*)
đoạn hai:
x B x T(v*)
x T x B(v)
x B x T x B(v)
x B x T x B(v) T B(v)
Nếu nhƣ bắt đầu câu thứ nhất là T B T thì câu 4 chữ thứ hai phải là B T B, nhƣng câu thu' ba thứ
tƣ đều là B T B nhƣ bình thƣờng
Thí dụ:
Lòng nhƣ tơ RỐI
Mặn đắng bờ MÔI
Mất nhau ta mất thiệt RỒI
Còn đây nỗi khổ mình TÔI hận LÒNG*
Tâm còn giao ĐỘNG*
Lòng còn Mãi MONG
Bóng hình vẫn giữ trong LÒNG
Ngƣời ơi có thấu lệ ĐONG nhạt NHÒA*
V. Song Thất Lục Bát
Thể thơ Song Thất Lục Bát này là của riêng Việt nam ta, cho nên luật thơ không gò bó theo các
kiểu thơ khác .
Thơ Song Thất Lục Bát gồm mỗi đoạn có 4 câu, hai câu đầu là Song Thất, có nghĩa là mỗi câu
có 7 chữ, hai câu cuối là Lục, Bát, câu thứ ba sáu chữ, câu thứ 4 tám chữ đƣợc xắp theo luật bằng
trắc nhƣ sau:
x x x x B x T(v) x = tự do
x x B x T(v) x B(v) B = thanh bằng
x B x T x B(v) T = thanh trắc
x B x T x B(v) T B(v) v = vần với nhau
Đây là luật thơ trong một đoạn, để có thể nối thêm đoạn nữa thì có thể theo luật sau:
Câu thứ thƣ của đọan một: x B x T x B(v) T B(v)
Câu thứ nhất đoạn hai: x x x x B(v) x T(v)
Hoặc
Câu thứ thƣ của đọan một: x B x T x B(v) T B(v)
Câu thứ nhất đoạn hai: x x B(v) x x x T(v)
Thí dụ: (các chữ viế HOA là vần với nhau, các chữ có thêm (*) là nối liền hai đoạn)
Thủa trời đất nổi cơn gió BỤI
Khách má hồng nhiều NỖI truân CHUYÊN
Xanh kia thăm thẳm từng TRÊN
Nào ai gây dựng cho NÊN nỗi NÀY *
Trống Trƣờng Thành lung LAY * bóng NGUYỆT
Khói Cam Tuyền mời MỊT khúc MÂY
Chín tầng gƣơm báu trao TAY
Nửa đêm truyền Hịch đợi NGÀY xuất CHINH*
VI. Lục Bát Liên Hoàn
Lục Bát là loại thơ một câu sáu chữ rồi đến một câu tám chữ cứ thế nối liền nhau. Bài thơ lục bát
thông thƣờng đƣợc bắt đầu bằng câu lục và kết thúc bằng câu bát. Đôi khi cũng có trƣờng hợp
kết thúc bằng câu lục để đạt tính cách lơ lửng, hiểu ngầm, hay hầu đạt tính cách đột ngột.
Lục Bát là thể thơ thông dụng nhất, vì cách làm và gieo vần tƣơng đối đơn giản.
Lục= sáu chữ --- chữ thứ 2 Bằng, thứ 4 Trắc, thứ 6 Bằng
Bát= tám chữ --- chữ thu 2 Bằng, thứ 4 Trắc, thứ 6 Bằng, thứ 8 Bằng
Trong thơ lục bát, chữ thứ sáu của câu Lục, vần với chữ thứ sáu của câu Bát. Chữ thứ tám của
câu Bát vần với chữ thứ sáu của câu Lục kế tiếp và cứ theo quy luật đó cho đến hết bài thơ. (Chữ
thứ 6 và thứ 8 của câu bát nên thay đổi, hễ chữ này không dấu thì chữ kia có dấu hyền hay ngƣợc
lại ).
Ngồi chờ hết cả đêm nay x B x T x B(v)
Chỉ mong anh đƣợc xuân này bình yên x B x T x B(v) x B(v)
Cớ sao anh lại không lên x B x T x B(v)
Vô tình anh lại bỏ quên tim này x B x T x B(v) x B(v)
Tuy nhiên vẫn có những trƣờng hợp ngoại lệ
1.Chữ thứ 2 câu lục có thể là trắc, khi ấy nhịp thơ ngắt ở giữa câu
Ngƣời nách (T) thƣớc, kẻ tay đao
Đầu trâu mặt ngựa, ào ào nhƣ sôi
(Nguyễn Du)
2.Chữ cuối câu lục có thể vần với tiếng 4 câu bát, khi đó chữ 2 và 6 của câu bát sẽ đổi ra trắc.
Câu thơ sẽ ngắt nhịp ở giữa câu bát
Đêm nằm gối gấm không êm
Gối lụa (T) không mềm bằng gối (T) tay em
Hoặc
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
VII. Đƣờng Luật ( Thất ngôn bát cú )
Thơ Đƣờng đƣợc bắt đầu từ bên trung hoa, thời Nhà Đƣờng bên Trung Hoa rất xem trọng các
văn hào, và cũng vì lẽ đó nên các quan trong chiều bắt buộc phải biết làm thơ, cho nên trong thời
nhà Đƣờng có rất nhiều thi sĩ nổi tiếng. Đặc biệt hơn nữa, các thi hào thời nhà Đƣờng đã phát
triển một lối làm thơ riêng biệt mà ngày nay chúng ta đƣợc biết là Thơ Đƣờng.
Thơ đƣờng có 2 loại : chính cách và thiên cách
*Chính cách : là những bài thơ mà tác giả tuân thủ triệt để thanh Bằng - Trắc quy định của từng
câu
Thể thơ đƣờng luât chính cách đƣợc chia làm hai loại
- Trắc thể chính cách
Bƣớc tới đèo Ngang bóng xế tà ( T B T )
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa ( B T B )
Lom khom dƣới núi, tiều vài chú ( B T B )
Lác đác bên sông, rợ mấy nhà ( T B T )
Nhớ nƣớc đau lòng con quốc quốc ( T B T )
Thƣơng nhà mỏi miệng cái gia gia ( B T B )
Dừng chân đứng lại: trời non nƣớc ( B T B )
Một mảnh tình riêng: ta với ta ( T B T )
(Bà Huyện Thanh Quan)
- Bằng thể chính cách
Quanh năm buôn bán ở nom sông ( B T B )
Nuôi đủ năm con với một chồng ( T B T )
Lặn lội thân cò khi quãng vắng ( T B T )
Eo sèo mặt nƣớc buổi đò đông ( B T B )
Một duyên hai nợ âu đành phận ( B T B )
Năm nắng mƣời mƣa dám quản công ( T B T )
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, ( T B T )
Có chồng hờ hững cũng nhƣ không ( B T B )
(Tú Xƣơng)
*Thiên cách : là những bài thơ mà tác giả áp dụng luật " Nhất tam ngũ bất luận".
_ Nhƣng từ trƣớc đến giờ không mấy ai theo một cách triệt để. Luật " Bất Luận" luôn luôn đƣợc
áp dụng, không nhiều thì ít.
Giá trị của Luật Bất Luận là làm cho ngòi bút của thi nhân đƣợc thêm phần phóng túng.
Bố Cục Của Thơ Đƣờng Luật
Trong thơ Đƣờng Luật, mỗi một câu đều có chức năng của nó:
Câu 1 và 2 là phá đề và thừa đề.
Câu 3 và 4 là Thực hay Trạng, dùng để giải thích hoặc đƣa thêm chi tiết bổ nghĩa đề bài cho rõ
ràng
Câu 5 và 6 là Luận, dùng để bàn luận cho rộng nghĩa hay cũng có thể dùng nhƣ câu 3 và 4
Câu 7 và 8 là Kết, kết luận ý của bài thơ
Những chữ cuối của câu số 1, 2, 4, 6, và 8 là những chữ mang vần trong bài thơ và thuờng thì
mang thanh BẰNG và bắt buộc phải vần với nhau theo cùng một âm, những chữ này có thể
mang thanh Trắc, nhƣng chƣa bao giờ thấy cả.
Những chữ cuối của những câu 3, 5,và 7 mang thanh Trắc và không phải vần với nhau (nếu chữ
cuối của những câu 1, 2, 4, 6, và 8 là thanh Trắc thì có lẽ chữ cuối của những câu này mang
thanh Bằng)
Cũng giống nhƣ Thất Ngôn Tứ Tuyệt, luật bằng trắc trong Đƣờng Thi Chính cách cũng chỉ áp
dụng cho những chữ 2, 4, và 6 trong mỗi câu mà thôi.
Điểm khó nhất trong Đƣờng Thi là câu số ba và câu số bốn, bởi vì hai câu này đƣợc gọi là hai
câu Thực và hai câu năm và câu sáu là hai câu Luận, hai cặp câu này luôn luôn đối nhau, Danh
Từ đối Danh Từ, Động Từ đối Động Từ, Tính Từ đối Tính Từ, quan trọng hơn cả là hai câu 5,6
phải đối ý với hai câu 3,4 hoặc bổ sung cho ý của câu 3,4 .
Điểm cao nhất của Đƣờng Thi là có thể Hoạ Thơ với ngƣời khác, nghĩa là sẽ dùng lại tất cả
những chữ mang Vần của bài thơ muốn họa tức là bài thơ của ngƣời đầu tiên( thƣờng đƣợc gọi là
bài Xƣớng Thi) để diễn tả theo ý thơ của mình.
VIII. Bát Ngôn
Thơ bát ngôn ( tám chữ ) thƣờng làm theo lối liên vận hoặc cách vận.
Liên vận: câu đầu thƣờng không bắt vần, từ câu hai trở đi mới cặp vần. Cứ hai câu bằng rồi đến
hai câu trắc hay ngƣợc lại. Cách chia thành từng đoạn 4 câu trong thể liên vận chỉ là hình thức vì
câu đầu đoạn sau vẫn cần vần với câu cuối đoạn trƣớc.
Thôi thì gió mang niềm riêng đi cất
Để từng ngày tiếp nối những sầu vƣơng
Cuối cuộc đời chào biệt thú đau thƣơng
Tan muôn ngã theo mây ngàn, gió nhé!
_ Cách vận: câu lẻ vần với câu lẻ và câu chẳn vần với câu chẳn. Nhƣ vậy một đoạn 4 câu cần hai
vần, nhƣng ngƣợc lại các đoạn không cần nối vần với nhaụ.
Em không đến, làm sao ta biết đƣợc
Đời sống này, hạnh phúc có hay không?
Mƣa đã đến, cọng cỏ xanh mọng nƣớc
Riêng trời ta, mây xám vẫn mênh mông
Một biến dạng của thơ tám chữ cách vận là trong 1 đoạn 4 câu chỉ cần câu 4 vần với câu 2; còn
hai câu lẻ mang vần trắc là đủ.
Vì bát ngôn không có quá gò bó, từ ngữ bạn dùng sẽ làm bài thơ trở nên hay hơn. chỉ cần uốn
nắn, uyển chuyển dùng từ sẽ tạo ra một bài thơ thật hấp dẫn.
Thí dụ :
Mùa xuân về đang đón những bƣớc em
Chút hờ hững vẫn đong đầy trên lá
Con bƣớm vàng cánh vờn bay hối hả
Bóng lung linh trong những giọt sƣơng mềm
Trong một câu, nên có sự cân bằng giữa số lƣợng các vần bằng và vần trắc ví dụ Bằng /Trắc =
3/5 hay ngƣợc lại . Vần bằng trắc cũng nên xen kẽ đều đặn để câu thơ uyển chuyển nhịp nhàng .
Gieo vần thì có nhiều cách.
1. Gieo vần ôm :
- Chữ cuối câu 1 vần với chữ cuối câu 4, cuối câu 2 vần với cuối câu 3 .
Thí dụ :
Ngƣơi ám ảnh hƣơng thơm bằng ánh sáng
Ru màu êm, mà gọi thức lòng ngây
Trăng, nguồn sƣơng làm ƣớt cả gió hây
Trăng, võng rƣợu khiến đêm mờ chếnh choáng
2. Gieo vần chéo :
Chữ cuối câu 1 vần với cuối câu 3, và/hoặc chữ cuối câu 2 vần với cuối câu 4.
Thí dụ:
Tạo hóa hỡi ! Hãy trả tôi về Chiêm Quốc !
Hãy đem tôi xa lánh cõi trần gian!
Muôn cảnh đời chỉ làm tôi chƣớng mắt !
Muôn vui tƣơi nhắc mãi vẻ điêu tàn
Chú ý : bằng vần với bằng, trắc vần với trắc . Bằng không bao giờ vần với trắc . Ví dụ :lồng
không vần với lộng
Nếu làm thơ nhiều đoạn, chữ cuối câu 4 của đoạn trƣớc luôn vần với chữ cuối câu 1 của đoạn sau
Thí dụ :
Làm thi sĩ , nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng, và vơ vẩn cùng mây,
Để linh hồn ràng buộc bởi muôn dây,
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến
Đây là quán tha hồ muôn khách đến
Đây là bình thu hợp trí muôn hƣơng;
Đây là vƣờn chim nhả hạt mƣời phƣơng,
Hoa mật ngọt chen giao cùng trái độc
IX. HaiKu
Hai-Ku có nguồn gốc từ nhật, qua các thời đại dần dần len lỏi vào nền văn hóa Viêt Nam. Hiện
nay loại thơ nay cũng đƣợc các nƣớc tây phƣơng nhƣ, Anh, Pháp, Mỹ tiếp nhận.
Về hình thức thì Hai-Ku gồm ba câu và 17 âm. Ba câu đƣợc chia ra thành 5,7,5 câu năm, câu
bảy, và câu năm. Không biết ngƣời Nhật viết làm sao ( no speak Japanese ) nhƣng khi làm thử
trong tiếng việt nguyenvq rút ra rằng có thể để cho chữ cuối của mỗi câu vần với nhau sẽ làm bài
Hai-ku của bạn đọc xuôi tai hơn.
Thí dụ:
Sinh ra từ bụi cát
Đến hôm nay ta còn phiêu bạt
Bao giờ hết hoang mang
Trên đây là một bài Hai-Ku hoàn chỉnh, Hai-ku không cần dài vì chỉ là một quan niệm hoặc một
ý tƣởng nhỏ viết nên mà thôi. Tuy nhiên Hai-Ku đƣợc xếp vào thể thơ có ý nghĩa sâu sắc trong
nền thơ văn Nhật Bản. Theo ngƣời Nhật, Hai-Ku dùng để diễn tả bốn mùa trong năm, không
nhất thiết phải dùng từ ngữ về các mùa, nhƣng có thể dùng hình ảnh, biểu tƣợng nhƣ: Tuyết cho
mùa đông, hoa cho mùa xuân,,, vân vân.
Thí dụ:
Hoa tuyết còn rơi đều
Trắng ngần một cõi hồn rong rêu
Và đêm nay ta nhớ
Một số Ðiều Kỵ Trong Thơ
1-Thất luật
Những từ đáng Bằng mà làm ra Trắc hoặc đáng Trắc mà làm ra Bằng
2-Thất niêm
Câu trên đang theo luật Bằng mà câu dƣới sang luật Trắc hoặc câu trên đang theo luật Trắc mà
câu dƣới làm sang luật Bằng
3-Lạc vận
Ðang theo vần này mà gieo sang vần khác, nhƣ vần trên là trời mà vần dƣới là mây thì gọi là lạc
vận
4-Xuất vận
Ngƣời ta đã hạn định cho những cho những vần gì, mà mình dùng vần khác,thì gọi là xuất vận.
5-Trùng vận
Câu trên đã dùng một vần, câu dƣới lại dùng nhƣ thế nữa thì gọi là trùng vận.
6-Cƣỡng áp
Các vần gieo ép uổng, không đƣợc hợp lắm
7-Khổ độc
Trong một bài thất ngôn, chữ thứ ba các câu chẵn, trong một bài ngũ ngôn, chữ thứ nhất các câu
chẵn đáng là từ bằng mà làm ra từ trắc
8-Phong yêu hạc tất
Trong thơ thất ngôn, từ thứ tƣ và tứ thứ bảy, trong thơ ngũ ngôn, từ thứ hai và từ thứ năm nếu
trùng một âm.
9-Ðối không chỉnh
Khi những từ trong bài thơ phải đối nhau mà từ nặng từ nhẹ không đƣợc cân.
10-Trùng từ hay trùng ý
Từ hay ý đã dùng rồi mà lại còn dùng nữa.
Một Số Thể Loại Thơ Đặc Biệt
Tài liệu tham khảo
*Luật Thơ Mới, Nguyễn Ðình Tuyến
*Tiếng Việt Tuyệt Vời, Ðỗ Quang Vinh
* Luật Thơ, Phạm Doanh (datviet.com)
* nonsong.org
* Thi Pháp Thơ Đƣờng ( Quách Tấn )
*Việt Nam Văn Học Sử Yếu , Dƣơng Quảng Hàm , nxb Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1962
* Việt Nam Văn Học Sử Giản Ƣớc Tân Biên , Phạm Thế Ngũ ,nxb , Quốc Học Tùng Thƣ,1965
*Nam Thi Hợp Tuyển, Ôn Nhƣ Nguyễn Văn Ngọc, nxb Bốn Phƣơng, 1952
*Tìm Hiểu Các Thể Thơ, Lạc Nam ,nxb Văn Học-Hà NộI , 1996
*Khảo Luận Về Thơ , Lam Giang, nxb Ðồng Nai, 1994
*Thơ Văn Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu giới thiệu , nxb Văn Học-Hà Nội ,1971
*Thơ Văn Trào Phúng Việt Nam Từ Thế Kỷ 13 Ðến 1945, Vũ Ngọc Khánh Biên soạn, nxb Văn
Học-Hà Nội , 1974
*Thơ Văn Yêu Nƣớc (1858-1900) , Chu Thiên ,nxb Văn Học - Hà Nội , 1970
*Chơi chữ , Lãng Nhân, nxb nam Chi Tùng Thƣ, 1961
*Việt Nam Gãm Hoa ,Hƣơng-Giang Thái Văn Kiểm, nxb Làng Văn-Canada,1997
*Ngƣời Ham Chơi, Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng , nxb Thuận Hóa ,1998
Thơ đường luật
Thơ Đƣờng luật là một thể thơ xuất hiện vào đời nhà Đƣờng ở Trung Quốc. Vào thời này có
những nhà thơ nổi tiếng nhƣ Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cƣ Dị..., Luật ở đây là luật làm thơ Đƣờng.
Nên gọi là thơ Đƣờng luật.
Thơ Đƣờng luật là một thể thơ tuân theo quy luật chặt chẽ. Luật gồm có luật bằng trắc (bằng : B,
trắc : T) về thanh trong 1 câu, luật gieo vần giữa các câu, luật niêm giữa các câu thơ. Thơ Đƣờng
luật có nhiều loại, nhƣng thông dụng là thơ Thất ngôn (có thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú),
và ngũ ngôn.
I. CÁCH LÀM THƠ THẤT NGÔN BÁT CÚ
Thơ thất ngôn bát cú Đƣờng luật gồm có 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Tổng cộng có 56 chữ.
Về cách phối âm, hay luật bằng trắc giữa các câu, ta chỉ nói các thanh Bằng-Trắc của các chữ
đứng thứ 2-4-6 trong 1 câu (theo quy tắc Nhất-tam-ngũ bất luận, nhị-tứ-lục phân minh). Các
tiếng 2-4-6 trong cùng 1 câu theo thứ tự luật bằng trắc có thể là B - T - B hay có thể là T - B - T,
Ví dụ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông B - T - B
Nuôi đủ năm con với một chồng T - B - T
Đôi khi trong câu đầu tiên của bài thơ cũng có thể làm theo thứ tự B - B - T, cũng có thể xem đó
là luật phối thanh của câu T - B - T. Ví dụ:
Một đèo, một đèo, lại một đèo B - B - T
Về cách gieo vần trong thơ: Vần trong thơ là những tiếng đọc giống nhau hay những tiếng đọc
gần giống nhau nhƣ cùng một vần, hay là vần gần giống nhau nhƣ sông-chồng, tà-hoa.... Các vần
giống nhau trong thơ Đƣờng luật mang thanh bằng, và đƣợc đặt ở cuối mỗi câu thơ. Có thể gieo
vần vào các tiếng cuối của các câu 1-2-4-6-8, hay có thể là 2-4-6-8, và các vần phải vần với nhau
rõ ràng,các tiếng cuối câu 3-5-7 còn lại phải mang thanh trắc, các cao nhân thời xƣa thƣờng hay
gieo vần vào các tiếng cuối các câu 1-2-4-6-8.
Ví dụ:
Sóc phong suy hải khí lăng lăng
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng
Ngạc đoạn, kình khoa sơn khúc khúc
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng
Quan hà Bách nhị do thiên thiết
Hào kiệt công danh thử địa tằng
Vãn sự hồi đầu ta dĩ hĩ
Lâm lƣu phủ cảnh ý nan thăng
(Bạch Đằng hải khẩu - Nguyễn Trãi)
Trong khi gieo vần thƣờng các cao nhan cũng chú ý đối thanh trong thơ, thƣờng có 2 cách đối
thanh, đó là đối thanh huyền (H) và thanh ngang (N) trong các vần đƣợc gieo. Ở bài thơ ví dụ
trên ta thấy lăng-Đằng-tằng-tằng-thăng theo thứ tự N-H-H-H-N. Còn cách đối kách là xen kẽ
thanh huyền và thanh ngang với nhau. Ví dụ nhƣ bài Qua đèo ngang
Về niêm giữa các câu. Niêm là sự kết dính các câu theo luật Bằng trắc với nhau. Trong thơ thất
ngôn bát cú, niêm là sự kết dính các câu 1-8, 2-3, 4-5, 6-7 với nhau. Các câu này hoàn toàn giống
nhau về thanh bằng trắc của các tiếng thứ 2-4-6 theo cặp. Và theo thứ tự thay đổi. Ví dụ câu số 1
của bài thơ theo thứ tự các tiếng 2-4-6 là B - T - B thì câu 8 cũng vậy, câu 2 phải là T - B - T, và
cứ 2 câu lại đổi lại.
Ví dụ:
B - T - B
T - B - T
T - B - T
B - T - B
B - T - B
T - B - T
T - B - T
B - T - B
T - B - T
B - T - B
B - T - B
T - B - T
T - B - T
B - T - B
B - T - B
T - B - T
Phép đối trong thơ thất ngôn bát cú, là đối giữa các câu 3-4, 5-6. Các câu này đối lại nhau nhƣ
các câu đối thời xƣa. Rõ nhất là về các câu trong bài Qua đèo Ngang. Về bố cục thì bài thơ đƣợc
chia làm 4 mỗi phần có 2 câu:
Câu 1-2 là hai câu đề: Mở ra vấn đề về bài thơ
Câu 3-4 là hai câu thực: Giải thích về vẫn đề
Câu 5-6 là hai câu luận: Bàn luận về vấn đề
Câu 7-8 là hai câu kết: Kết luận lại vấn đề
II. CÁCH LÀM THƠ THẤT NGÔN TỨ TUYỆT
Thơ thất ngôn tứ tuyệt Đƣờng luật gồm có 4 câu, mỗi câu 7 chữ, về phối thanh hay luật bằng trắc
hoàn toàn giống thơ thất ngôn bát cú. Về gieo vần thì có 3 cách:
Gieo vần vào tiếng cuối các câu 1-2-4 (tiếng cuối câu 3 bắt buộc thanh trắc)
Ví dụ:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nƣớc non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
Cách này thƣờng đƣợc các cao nhân thwòi xƣa xử dụng nhiều nhất.
Gieo vần chéo: vào tiếng cuối các câu 1-3 (tiếng cuối các câu 2-4 phải là thanh trắc) hay các câu
2-4 (tiếng cuối các câu 1-3 phải là thanh trắc).
Ví dụ:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thƣơng, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn nhƣ lệ ngân
Cách này sử dụng.
Gieo vần ôm: Tiếng cuối câu 1 vần với tiếng cuối câu 4, tiếng cuối câu 2 vần với tiếng cuối câu
3.
Ví dụ:
Tiếng đàn thầm dịu dẫn tôi đi
Qua những sân cung rộng hải hồ
Có phải A Phòng hay Cô Tô ?
Lá liễu dài nhƣ một nét mi
Cách này ít ngƣời sử dụng.
Nói chung thơ này giống với thơ thất ngôn bát cú.
III. CÁCH LÀM THƠ NGŨ NGÔN
Thơ ngũ ngôn Đƣờng luật cũng giống thơ thất ngôn Đƣờng luật, hoàn toàn giống về niêm, về
cách gieo vần, nhƣng về bắng trắc thì chỉ có 2 tiếng 2-4 nên theo thứ tự B-T hay là T-B, cứ nhƣ
thế.
Ví dụ:
Đoạt sóc Chƣơng Dƣơng độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái bình nghi nổ lực
Vạn cổ thử giang san.
CÁCH NGẮT NHỊP THƠ
Đọc thơ phải đúng cách, đó là đọc đúng cách ngắt nhịp trong thơ để có thể cảm nhận hết đƣợc
những ý tứ của tá gỉ trong thơ.
Cách ngắt nhịp thƣờng gặp trong thơ thất ngôn Đƣờng luật là nhịp chắn: nhịp 2/2/3 hay còn gọi
là nhịp 4-3.
Ví dụ:
Một đèo / một đèo / lại một đèo
Nhƣng đôi khi cũng có thể làm nhịp 3-4 theo dụng ý tác giả.
Cách ngắt nhịp thơ ngũ ngôn theo nhịp 2/3.
Cách ngắt nhịp giúp ta hiểu rõ thơ hơn, cảm nhận hết ý tứ thơ.
Thơ lục bát và song thất lục bát
Thơ lục bát và thơ song thất lục bát là hai thể thơ của dân tộc Việt Nam chúng ta. Chúng ta
chẳng còn xa lạ gì với thể lịc bát, vì nó là những bài ca dao hàng ngày ta vẫn nghe ông bà ngâm
nga, thơ song thất lục bát thì ta đã đƣợc học trong chƣơng trình lớp 10 ở trƣờng phổ thông. Sau
đây ta cùng tìm hiểu về cách làm hai thể thơ này để phát huy thêm một nét văn hoá của ngƣời
Việt chúng ta.
I. CÁCH LÀM THƠ LỤC BÁT.
Thơ lục bát có nguồn gốc lâu đời, là một thể thơ dân tộc ta, thơ lục bát bao gồm có thể từ hai câu
trở lên. Trong đó thì cứ hai câu ghép lại thành một cặp câu. Các cặp câu gồm có một câu 6 tiếng
(câu lục) và một câu 8 tiếng (câu bát), và xen kẽ cứ câu lục là câu bát rồi đến cặp câu khác. Thơ
lục bát tuân thủ luật về thanh và vần rất nghiêm ngặt, vì vậy tìm hiểu thơ lục bát là tìm hiểu về
luật và vần của nó. Luật về thanh giúp cho câu thơ trở nên hài hoà. Các vần chính là hình thức
kết dính các câu thơ lại với nhau.
1. Luật thanh trong thơ lục bát
Thơ lục bát có 2 câu chuẩn là câu lục và câu bát, cũng nhƣ thơ Đƣờng luật, nó tuân thủ quy tắc
nhất, tam, ngũ bất uận, nhị, tứ, lịc phân minh. Nghĩa là các tiếng thứ 1,3,5 trong câu có thể tự do
về thanh, nhƣng các tiếng thứ 2,4,6 thì phải theo luật chặt chẽ. Luật nhƣ sau:
Câu lục: theo thứ tự tiếng thứ 2-4-6 là Bằng (b) - Trắc (t) - Bằng
Câu bát: theo thứ tự tiếng thứ 2-4-6-8 là b-t-b-b
Ví dụ:
Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân b-t-b
Bâng khuâng nhớ cụ, thƣơng thân nàng Kiều b-t-b-b
Thế nhƣng đôi khi có thể tự do về tiếng thứ hai của câu lục hay câu bát, có thể biến nó thành
thanh trắc. Hoặc là câu lục giữ nguyên mà câu bát thì lại theo thứ tự t-b-t-b, những câu thơ thế
này ta gọi là lục bát biến thể.
Ví dụ:
Có sáo thì sáo nƣớc trong t-t-b
Đừng sáo nƣớc đục đau lòng cò con t-t-b-b
hay:
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non t-b-t-b
2. Cách gieo vần trong thơ lục bát
Thơ lục bát cí cách gieo vần khác với các thơ khác. Có nhiều vần đƣợc gieo trong thơ nhiều câu
chứ không phải là một vần, điều này tạo cho thể lục bát tính linh hoạt về vần.
Cách gieo vần: Tiếng thứ 6 của câu lục vần với tiếng thứ sáu của câu bát kế nó. Tiếng thứ tám
câu bát đó lại vần với tiếng thứ sáu của câu lục kế tiếp.
Ví dụ:
Trăm năm trong cõi ngƣời ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Trong thể thơ lục bát biến thể vẫn gieo vần nhƣ vậy, nhƣng trƣờng hợp câu bát của cặp câu có
thanh là t-b-t-b thì tiếng thứ sáu câu lục trên nó vần với tiếng thứ tƣ của câu đó.
Ví dụ:
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Tiểu đối trong thơ lục bát:
Đó là đối thanh trong hai tiếng thứ 6 (hoặc thứ 4) cảu câu bát với tiếng thứ 8 câu đó. Nếu tiếng
này mang thanh huyền thì tiếng kia bắt buộc là thanh ngang và ngƣợc lại. Ví dụ:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Cách ngắt nhịp trong thơ lục bát:
Thơ lục bát thông thƣờng ngắt nhịp chẵn, là nhịp 2/2/2, nhƣng đôi khi để nhấn mạnh nên ngƣời
ta đổi thành nhịp lẻ đó là nhịp 3/3. Nhịp thơ giúp ngƣời đọc và ngƣời nghe cảm nhận đƣợc thơ
một cách chính xác hơn.
II. CÁCH LÀM THƠ SONG THẤT LỤC BÁT
Thơ song thất lục bát là thơ gồm có 4 câu đi liền với nhau, trong đó là hai câu 7 tiếng (câu thất 1
và câu thất 2), kế tiếp là câu lục và câu bát.
Về luật vần ở câu lục và bát thì hoàn toàn là giống thơ lục bát, không đề cập đến. Tôi chỉ đề cập
đến hai câu thất. Luât thanh không phải ở các từ 2-4-6 nhƣ các thể thơ khác mà lại chú ý vào các
tiếng 3-5-7.
Câu thất 1: các tiếng 3-5-7 theo thứ tự là t-b-t
Câu thất 2: các tiếng 3-5-7 theo thứ tự là b-t-b
Các tiếng 1-2-4-6 tự do về thanh.
Ví dụ:
Lòng này gửi gió đông có tiện t-b-t
Nghìn vàng xin gửi đến non yên b-t-b
Về cách gieo vần cũng khác các thể thơ khác. Các thể thơ khác chỉ gieo vần ở thanh bằng, nhƣng
thơ song thất lục bát gieo vần ở cả tiếng thanh trắc và thanh bằng.
Tiếng thứ 7 của câu thất 1 thanh trắc vần với tiếng thứ 5 thanh trắc của câu thất 2. Tiếng thứ 7
của câu thất 2 thanh bằng vần với tiếng thứ 6 câu lục kế.
Ví dụ:
Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng đằng đẳng đƣờng lên bằng trời.
Trong bài thơ có nhiều câu thơ song thất lục bát thì để nối hai nhóm câu lại về vần thì ta lấy tiếng
thứ 8 thanh bằng của câu bát vần với tiếng thứ 5 thanh bằng của câu thất 1 kế tiếp.
Ví dụ:
Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng đằng đẳng đƣờng lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu...
Cách ngắt nhịp trong 2 câu thất của thơ này là nhịp lẻ, tức là nhịp 3/4 hay là 2/1/4.