32
MỤC LỤC Lời mở đầu:........................................ 2 I. Những vấn đề chung về sự cố tràn dầu.............4 1. Khái niệm sự cố tràn dầu (SCTD).................4 2. Phân loại sự cố tràn dầu........................4 3. Tác động của dầu tràn...........................6 II. Khái quát chung về tình hình ô nhiễm dầu ở Việt Nam 8 1. Sự cố trên sông................................10 2. Các SCTD trên biển.............................11 3. Các SCTD xảy ra trên đất liền..................12 III.Một số nét về thực trạng pháp luật về ô nhiễm tràn dầu ở nước ta.....................................12 1. Hệ thống các văn bản pháp lý về ứng phó sự cố tràn dầu............................................... 12 2. Một số đánh giá về hệ thống pháp luật về phòng, chống ô nhiễm dầu của Việt Nam....................15 IV. Đề xuất, kiến nghị............................17 1. Một số đề xuất chung:..........................17 2. Một số kiến nghị cụ thể đối với việc sửa đổi, bổ sung một số điều về phòng chống ô nhiễm dầu trong Luật bảo vệ môi trường năm 2005........................18 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................20 1

II. Khái quát chung về tình hình ô nhiễm dầu ở Việt Nam

Embed Size (px)

Citation preview

MỤC LỤC

Lời mở đầu:......................................................................................................2

I. Những vấn đề chung về sự cố tràn dầu....................................................4

1. Khái niệm sự cố tràn dầu (SCTD)..............................................................4

2. Phân loại sự cố tràn dầu..............................................................................4

3. Tác động của dầu tràn.................................................................................6

II. Khái quát chung về tình hình ô nhiễm dầu ở Việt Nam......................8

1. Sự cố trên sông...........................................................................................10

2. Các SCTD trên biển...................................................................................11

3. Các SCTD xảy ra trên đất liền..................................................................12

III. Một số nét về thực trạng pháp luật về ô nhiễm tràn dầu ở nước ta.12

1. Hệ thống các văn bản pháp lý về ứng phó sự cố tràn dầu.....................12

2. Một số đánh giá về hệ thống pháp luật về phòng, chống ô nhiễm dầu của

Việt Nam.........................................................................................................15

IV. Đề xuất, kiến nghị.................................................................................17

1. Một số đề xuất chung:................................................................................17

2. Một số kiến nghị cụ thể đối với việc sửa đổi, bổ sung một số điều về phòng

chống ô nhiễm dầu trong Luật bảo vệ môi trường năm 2005....................18

TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................20

1

THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ Ô NHIỄM TRÀN DẦU Ở VIỆT NAM VÀ

MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ

Lời mở đầu:

Trên thế giới, từ khi nhân loại biết khai thác và sử dụng dầu mỏ đến nay, dầu

mỏ đã trở thành một yếu tố thiết yếu, đưa đến những lợi ích vô cùng lớn cho sự

phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó, những sự cố trong

việc khai thác, vận chuyển dầu mỏ trên thế giới cũng trở thành mối đe dọa lớn đối

với môi trường nói chung và các hệ sinh thái nói riêng. Nhiều sự cố tràn dầu đã xảy

ra trên thế giới, để lại hậu quả nghiêm trọng lâu dài cho môi trường sinh thái.

Là một quốc gia có đường bờ biển dài trên 3.200 kilomet, hệ thống sông

suối, kênh rạch chằng chịt, với điều kiện hạ tầng hàng hải và phòng ngừa sự cố yếu

kém, nguy cơ xảy ra sự cố dầu tràn ở Việt Nam là rất lớn. Theo Bộ TNMT (2008),

từ năm 1997 đến nay ở Việt Nam đã xảy ra hơn 50 vụ tràn dầu trên biển, trên sông

hoặc trong các hoạt động khai thác vận chuyển dầu, trong đó một số sự cố đến nay

chưa xác định được nguồn gốc.

Từ những tác động tiêu cực mà SCTD gây ra cho môi trường, Việt Nam đã

từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý để quản lý và ứng phó

sự cố dầu tràn. Luật BVMT sửa đổi năm 2005 lồng ghép những nguyên tắc quản lý

sự cố và ứng phó với sự cố môi trường (Chương X), khắc phục môi trường

(Chương XI). Điều 130, 131 của Luật nhấn mạnh tính thiết yếu của việc đánh giá

thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường gây ra để làm cơ sở cho việc xử

lý ô nhiễm, khôi phục hiện trạng môi trường, giải quyết tranh chấp. Bên cạnh đó,

Chính phủ và các bộ ngành liên quan đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi

hành, trong đó có những văn bản về ứng phó, khắc phục ô nhiễm dầu. Tuy nhiên,

nhìn chung, hệ thống quy định pháp luật về phòng chống ô nhiễm dầu và khắc phục

sự cố do ô nhiễm tràn dầu gây ra còn nhiều tồn tại, hạn chế.

2

Chính vì thế, trong nội dung chính của chuyên đề, chúng tôi tập trung nghiên

cứu một số vấn đề chính như sau: khái quát về những vấn đề chung như khái niệm,

tác động của dầu tràn, tình hình ô nhiễm dầu ở Việt Nam để đem lại cái nhìn tổng

thể về sự cố tràn dầu ở Việt Nam; khái quát hệ thống văn bản pháp lý về sự cố tràn

dầu và đưa ra một số nhận xét, đánh giá về hiện trạng pháp luật về ô nhiễm dầu,

trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị.

3

I. Những vấn đề chung về sự cố tràn dầu

1. Khái niệm sự cố tràn dầu (SCTD)

Theo Quyết định số 103/2005/QĐ-TTg ban hành ngày 12/5/2005 của Thủ

tướng Chính phủ hướng dẫn cụ thể và chi tiết về tổ chức và qui chế hoạt động ứng

phó với SCTD thì:

“Sự cố tràn dầu là hiện tượng dầu từ các phương tiện chứa khác nhau thoát

ra ngoài môi trường tự nhiên do sự cố kỹ thuật, thiên tai hoặc do con người gây ra

không kiểm soát được”.

Trong đó “dầu và các sản phẩm của dầu” bao gồm:

- Dầu thô: là dầu từ các mỏ dầu khai thác chưa qua chế biến.

- Dầu thành phẩm: là các loại dầu đã qua chế biến như xăng, dầu hoả,

dầu máy bay, dầu dieseel (DO), dầu mazut (FO) và các loại dầu bôi trơn, bảo

quản, làm mát khác.

- Các loại khác: dầu thải từ hoạt động của tầu biển, tầu sông, của các

công trình nổi hoặc từ súc rửa, sửa chữa tàu.

Theo từ điển bách khoa Wikipedia (2010):

“Tràn dầu là sự giải phóng hydrocarbon dầu mỏ lỏng vào môi trường do

các hoạt động của con người và gây ra ô nhiễm môi trường. Thuật ngữ này thường

đề cập đến các vụ dầu tràn xảy ra trong môi trường biển hoặc sông. Dầu có thể

bao gồm nhiều loại khác nhau từ dầu thô, các sản phẩm lọc dầu (như xăng hoặc

dầu diesel), bồn chứa dầu của các tàu, dầu thải hoặc chất thải dính dầu. Dầu cũng

được giải phóng vào môi trường do rò rỉ tự nhiên từ các cấu trúc địa chất chứa

dầu dưới đáy biển. Hầu hết các vụ ô nhiễm dầu do con người đều từ hoạt động trên

mặt đất, nhưng các vấn đề nổi trội đặc biệt hướng về các hoạt động vận chuyển

dầu trên biển”.

2. Phân loại sự cố tràn dầu

* Phân loại SCTD theo nơi tiếp nhận dầu tràn

4

- Tràn dầu trên đất liền:

+ Rạn nứt các thể tích các ống dẫn dầu: có thế do động đất, các mối hàn

không đảm bảo chất lượng nên xảy ra trường hợp rạn nứt mối hàn… khiến dầu bị

tràn ra môi trường.

+ Do phụt bể chứa: Các bể chứa chỉ có một thể tích nhất định, khi lượng dầu

được xả vào bể quá mức sẽ gây ra hiện tưỡng tràn hoặc do sự thay đổi thời tiết làm

cho thể tích dầu tăng lên cũng là nguyên nhân làm dầu từ các bể chứ trào ra.

+ Rò rỉ từ quá trình tinh chế, lọc dầu.

+ Rò rỉ từ quá trình khai thác, thăm dò trên đất liền.

- Tràn dầu trên biển

+ Rò rỉ từ các tàu thuyền hoạt động ngoài biển và trong các vịnh: Các tàu

thuyền đều sử dụng nguồn nhiên liệu là dầu do đó khi các bình chứ dầu của thuyền

không đảm bảo chất lượng khiến dầu bị rò rỉ ra biển.

+ Rò rỉ từ các giếng khoan dầu trên vùng biển thềm lục địa: Công tác xây

dựng không đảm bảo làm cho dầu từ các giếng này đi ra môi trường.

+ Các SCTD do tàu và sà lan trở dầu bị đắm hoặc va đâm: Đây là nguyên

nhân rất nguy hiển không những tổn thất về mặt kinh tế, môi trường mà còn đe dọa

tới tính mạng con người.

- Tràn dầu trên sông

+ Dầu rò rỉ từ các bình chứa nhiên liệu của các tàu thuyền hoạt động trên

sông.

+ Các SCTD do tàu và sà lan trở dầu bị đắm hoặc va đâm.

* Phân loại SCTD theo nguồn gốc dầu tràn

- Từ các hoạt động tàu thuyền

- Do chất thải công nghiệp và dân dụng đổ ra biển

- Dầu từ các tai nạn, sự cố giao thông đường thủy

- Dầu từ khí quyển

- Dầu rò rỉ khâu dự trữ

5

- Dầu từ các hoạt động dầu khí (thăm dò - khai thác)

* Phân loại SCTD theo chủng loại dầu tràn để ứng phó

- Dầu nhẹ, dễ bay hơi (light volatile oils) như: nhiên liệu chưng cất và dầu

thô nhẹ nhất

- Dầu không nhớt (dính) như: Dầu thô và dầu tinh chế (có hàm lượng parafin

từ trung bình tới nặng)

- Dầu nhớt (dính) nặng như: Dầu nhiên liệu dư (có hàm lượng asphal từ

trung bình tới nặng)

- Dầu không bay hơi (non fluid oils) như: Dầu thô nặng

- Dầu nặng (sinking oils) như; Dầu thô, dầu nhiên liệu nặng

* Phân loại dầu tràn theo độc tố trong thành phần hóa học của dầu

Dầu mỏ là những hidrocacbon, có thành phần cơ bản là C và H. Từ thành

phần dầu đến thành phần khí, hàm lượng H tăng dần. Tỷ lệ C/H được xem là một

chỉ tiêu đặc trưng về thành phần dầu thô, vì tỷ lệ này tăng theo tỷ trọng dầu. Ngoài

hidrocacbon, trong dầu thô còn thường xuyên có các nguyên tố N, O, S và một số

kim loại khác ở dạng vi lượng. Bốn tổ phần hidrocacbon cơ bản trong thành phần

dầu thô là: parafin, naften, hợp chất thơm (aromatic) và acetylen, ngoài ra còn có

resin.

3. Tác động của dầu tràn

Kể từ khi nhân loại biết khai thác và sử dụng dầu mỏ đến nay thì những sự

cố trong việc khai thác, vận chuyển dầu mỏ trên thế giới đã trở thành mối đe dọa

lớn đối với môi trường nói chung và các hệ sinh thái nói riêng.

SCTD làm ảnh hưởng đến môi trường đất, khí và đặc biệt gây nguy hại

nghiêm trọng môi trường nước do hầu hết các vụ tràn dầu xảy ra trên biển hay các

kênh rạch nơi có tàu thuyền qua lại. Khi SCTD xảy ra trên đất hoặc trên nước,

không chỉ làm ô nhiễm môi trường hiện tại mà còn để lại những hậu quả nghiêm

trọng và lâu dài về sau. Khi dầu tràn trên đất và trên nước xâm nhập vào bờ biển và

bờ sông nếu không được xử lý thì để càng lâu dầu càng ngấm sâu. Một thời gian

6

sau có thể trên mặt đất không còn dấu hiệu của dầu do bị nước thủy triều rửa trôi

hay bị các lớp đất khác lấp lên, nhưng thực chất phần lớn lượng dầu tràn đã ngấm

sâu xuống dưới, không thể tự phân hủy, làm nhiễm độc lâu dài môi trường đất và

nước ngầm. Dầu nhiễm vào đất thì sẽ và tác động lên cây trồng làm chậm và giảm

tỷ lệ nảy mầm của cây, ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của các loại thực vật.

Tràn dầu hay xảy ra nhất trên lớp nước mặt của biển và người ta thấy rằng nó

không chỉ ảnh hưởng lập tức đến khu vực xảy ra tai nạn tràn dầu mà nó còn ảnh

hưởng lâu dài và rộng khắp trên cả các khu vực thường xuyên có tàu bè qua lại.

Môt khi xảy ra sự cố tràn dầu, các loài phiêu sinh vật như ấu trùng, trứng cá, các

loài thủy sản, hải sải, các loài thực vật như rong biển, tảo… ở nơi xảy ra sự cố và

nơi dầu loang đến đều chịu ảnh hưởng nghiêm trọng. Ngay cả đối với loài động vật

như chim, động vật có vú, chủ yếu sống trên cạn và chỉ tiếp xúc với môi trường

biển cũng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi dầu loang trôi dạt vào bờ.

Ô nhiễm dầu gây nên ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, đặc biệt là hệ

sinh thái như hệ sinh thái rừng ngập mặn, cỏ biển, vùng triều bãi cát, đầm phá và

các rạn san hô. Ô nhiễm dầu làm giảm khả năng sức chống đỡ, tính linh hoạt và khả

năng khôi phục của các hệ sinh thái. Ngoài ra, dầu tràn chứa độc tố làm tổn thương

hệ sinh thái, có thể gây suy vong hệ sinh thái.

Dầu tràn gây nên những thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế và ảnh hưởng đến

sức khỏe của con người. Dầu lan trên biển và dạt vào bờ trong thời gian dài không

được thu gom sẽ làm suy giảm lượng cá thể sinh vật, gây thiệt hại cho ngành khai

thác và nuôi trồng thủy, hải sản. Dầu gây ô nhiễm môi trường nước làm cá chết

hàng loạt do thiếu ôxy hòa tan. Dầu bám vào đất, kè đá, các bờ đảo làm mất mỹ

quan, gây mùi khó chịu đẫn đến doanh thu của ngành du lịch cũng bị thiệt hại nặng

nề. Nạn tràn dầu còn làm ảnh hưởng đến hoạt động của các cảng cá, cơ sở đóng

mới và sửa chữa tàu biển. Do dầu trôi nổi làm hỏng máy móc, thiết bị khai thác tài

nguyên và vận chuyển đường thủy.

7

Trên thế giới, các thống kê cho thấy từ năm 1900 đến nay, trung bình mỗi

năm trên thế giới có từ 2 đến 4 vụ tràn dầu lớn trên biển. Những sự cố nổi bật có

thể kể tới là: Năm 1978, tàu Amoco Cadiz làm tràn 231 ngàn tấn dầu thô xuống

vùng Brittany, tây bắc nước Pháp; Năm 1989, tàu Exxon Valdez làm tràn 40 ngàn

tấn dầu ngoài khơi Alaska (Hoa Kỳ); Năm 2002, tàu Prestige làm tràn 77 ngàn tấn

dầu ngoài khơi phía tây bắc Tây Ban Nha; Năm 2007, tàu Hebei Spirit làm tràn 2,7

triệu galong dầu ra biển tây nam Hàn Quốc... Hầu hết các vụ tràn dầu đều biến

thành thảm họa với những tổn thất nghiêm trọng về sinh thái, kinh tế và xã hội.

II. Khái quát chung về tình hình ô nhiễm dầu ở Việt Nam

Việt Nam nằm trên tuyến đường giao thông chính từ Trung Đông đến các

nước Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tại khu vực Đông Nam Á

diễn ra nhiều hoạt động thăm dò và sản xuất dầu khí, Việt Nam là quốc gia có tốc

độ phát triển kinh tế khá nhanh, kéo theo nhu cầu về dầu mỏ cũng tăng cao, tiềm ẩn

nhiều nguy cơ gây sự cố tràn dầu. Vùng biển Việt Nam là loại biển mở nối liền

Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, là một trong những trục hàng hải có lưu lượng

tàu bè qua lại rất lớn, trong đó 70% là tàu chở dầu. Với đường bờ biển kéo dài

3000km cùng hệ thống sông suối, kênh rạch chằng chịt song điều kiện hạ tầng hàng

hải và phòng phòng ngừa sự cố yếu kém, nguy cơ xảy ra sự cố dầu tràn, tràn đổ hóa

chất ở Việt Nam là rất lớn. Việt Nam cũng là một quốc gia có hoạt động khai thác,

xuất nhập khẩu xăng dầu khá lớn. Tính đến nay, đội tàu biển Việt Nam có tổng số

1.614 tàu với 4.497.157 GT và 7.348.206 DWT. Hệ thống cảng biển Việt Nam gồm

49 cảng, trên 130 cầu bến với tổng chiều dài cầu cảng gần 40km. Trong năm 2010,

có khoảng 119.744 lượt tàu ra vào các cảng biển VN với tổng sản lượng hàng hóa

thông qua hệ thống ước chừng 259 triệu tấn. Theo Cục ĐKVN, cả nước hiện có

160 cơ sở đóng và sửa chữa tàu biển, trong đó có 120 nhà máy đóng, sửa chữa tàu

trọng tải ≥ 1.000 DWT với 170 công trình nâng hạ thủy. Hầu hết trong số này có

quy mô nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu… rất khó nâng cao năng lực trong hoàn cảnh

hiện tại.

8

Bên cạnh đó, sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và sự phát triển mạnh mẽ

của các ngành công nghiệp ở Việt Nam trong thời gian qua đã kéo theo đó là những

hệ lụy của ô nhiễm môi trường do chất thải công nghiệp và sinh hoạt, trong đó có

không nhỏ lượng dầu thải từ các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thải vào hệ

thống công thoát và đổ ra sông, ra biển. Số lượng dầu mỏ thấm qua đất và lan

truyền ra nước biển ước tính 3 triệu tấn mỗi năm. Theo Báo cáo quốc gia về ô

nhiễm biển từ đất liền Việt Nam năm 2004 thì lượng dầu mỡ khoáng thải xuống

biển của các cơ sở công nghiệp chỉ riêng thành phố Hạ Long là 844 tấn/năm. Từ

vùng kinh tế trọng điểm phía nam đã thải vào các con sông lượng nước thải sinh

hoạt là 113.216m3/ngày và nước thải công nghiệp là 312.330 m3/ngày, theo đó một

lượng không nhỏ dầu thải đã đổ vào sông, biển, gây nên ô nhiễm dầu cho môi

trường.

Ô nhiễm dầu ở Việt Nam còn bắt nguồn từ các hoạt động khai thác dầu khí

và sự cố tràn dầu trên biển Đông. Hiện nay, Biển Đông đã trở thành một trong

những vùng biển nhộn nhịp các điểm thăm dò và khai thác dầu khí. Nước ta có

khoảng 340 giếng khoan thăm dò và khai thác dầu khí, phát triển mạnh ở các khu

vực: Vịnh Bắc Bộ, Vịnh Thái Lan và Quần đảo Trường Sa. Hoạt động khai thác

dầu khí ngoài việc thải nước lẫn dầu với khối lượng lớn, trung bình mỗi năm hoạt

động này còn phát thải khoảng 5.600 tấn rác thải dầu khí, trong đó có 20 – 30% là

chất thải rắn nguy hại còn chưa có bãi chứa và xử lý. Ngoài ra, hằng năm ước tính

có khoảng 1 triệu tấn dầu mỏ tràn ra mặt biển do những sự cố ở các dàn khoan dầu.

Các tàu chở dầu cũng làm thất thoát một lượng dầu mỏ ước tính tới 0,7% tải trọng

của chúng trong quá trình vận chuyển thông thường.

Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), từ năm 1997 đến

nay, ở Việt Nam đã xảy ra hơn 50 vụ tràn dầu trên biển, trên sông do các hoạt động

khai thác vận chuyển dầu, trong đó một số sự cố đến nay chưa xác định được

nguồn gốc. Một số sự cố tràn dầu điển hình như:

9

1. Sự cố trên sông

16/4/1999: Trên sông Nhà Bè (đoạn trước mặt kho B Tổng kho xăng dầu

Nhà Bè), hai tàu chở dầu Nhật Thuần 1 mang bảng số SG 53000 và Hiệp Hoà 2

mang bảng số CT 1990H đã đâm vào nhau khiến 110.000 lít dầu DO chảy tràn ra

sông.

7/9/2001: Tàu Formosa One, quốc tịch Liberia đâm vào tàu chở dầu

Petrolimex 01 của Công ty Vitaco, TP.HCM đang neo đậu tại Vũng Tàu, làm thủng

khoang số 1 của tàu và làm hàng nghìn tấn dầu tràn ra ngoài. Tàu Petrolimex 01 có

trọng tải 30.000 tấn, đang chở khoảng 20.000 tấn dầu D.O.

21/10/2003: Tàu Hoàng Đạt 35 trên đường từ Hải Phòng đi Singapore đã gặp

thời tiết xấu và chìm tại vùng biển Vũng Tàu với 16 thuyền viên trên tàu. Tàu Stolt

Capability quốc tịch Liberia đang đi ngang qua đã cứu được 13 thuyền viên và tìm

được thi thể hai thuyền viên khác. Còn lại một thuyền viên trong mất tích.

21/1/2005: Trên đoạn đường sông Đồng Nai thuộc P.Thạnh Mỹ Lợi, Q.2

(TP.HCM) tàu chở dầu KASOO MONROVIA số hiệu IMO - 7913816 chở khoảng

30.000 tấn dầu cập cảng Saigon Petrol va vào trụ cảng khiến thân tàu thủng lớn,

hàng ngàn tấn dầu DO chảy ra sông Đồng Nai, loang rộng khắp nơi, kéo dài

khoảng 1 km từ cảng Saigon Petrol đến bến phà Cát Lái.

12/05/2005: Tại vùng biển Vũng Tàu, tàu Trinity (quốc tịch Liberia), tải

trọng 35.000 tấn, trên đường vận chuyển dầu cung cấp cho tàu chứa dầu Lompoeste

tại mỏ Bạch Hổ, khi vòng qua khu vực mỏ Đại Hùng đã đâm thẳng vào tàu Mimosa

của Công ty Dịch vụ kỹ thuật dầu khí (PTSC, thuộc Petro Việt Nam).

14/12/2006: Tàu chở hàng mang số TG 0107 do Cty TNHH Thành Thành

Công ở TPHCM thuê chở rỉ mật từ Cần Thơ về giao cho Cty bột ngọt Ajinomoto ở

thành phố Biên Hòa (Đồng Nai), đã va chạm mạnh vào cầu cảng khi cập bến trên

sông Đồng Nai làm tàu bị chìm, toàn bộ 125 tấn rỉ mật trên tàu đã tràn xuống sông.

24/8/2006, tàu La Palmas có trọng tải 31.000 tấn, chuyên chở 23.000 tấn dầu

DO trong lúc cập cảng Sài Gòn đã va vào cầu cảng và làm tràn hơn 1500 tấn dầu ra

10

môi trường. Ngoài ra, còn có 150 tấn xăng tràn ra từ hệ thống ống dẫn của cầu

cảng. Dù đã ứng phó sự cố kịp thời, nhưng chỉ sau 9 giờ, váng dầu đã lan rộng cách

khu vực xảy ra sự cố 40- 50 km theo phía hạ lưu sông Sài Gòn. Tiếp đó, do thủy

triều lên, váng dầu bị đẩy ngược lên thượng lưu cách nơi xảy ra sự cố 4-5km. Sau

15 ngày, diện tích bị ảnh hưởng bởi tràn dầu là 60.000ha bao trùm một khu vực lớn

dọc theo sông Sài Gòn, trong đó diện tích bị ô nhiễm nặng nhất là 40.000ha.

2. Các SCTD trên biển

Ngày 26/12/1992, Mỏ Bạch Hổ, vỡ ống dẫn mềm từ tàu dầu đến phao nạp

làm tràn 300-700 tấn dầu FO.

Cuối tháng 2/2007, dầu vón cục xuất hiện trên bờ biển 3 xă thuộc huyện Lệ

Thủy – Quảng Bình. Sau hơn 10 ngày, dầu đă loang ra trên 60 km bờ biển biển từ

Ngư Thủy đến Thanh Trạch (huyện Bố Trạch) với mật độ ngày càng tăng. Một số

băi tắm đẹp như Hải Ninh (Quảng Ninh); Nhật Lệ, Bảo Ninh, Quang Phú (Đồng

Hới); Đá Nhảy (Bố Trạch) đă bị dầu tấp vào.

Ngày 19/04/2007, dầu loang xuất hiện ở vùng biển Nha Trang và Ninh

Thuận. Tại Khánh Hòa, dầu loang vào tới băi biển ngay trung tâm TP du lịch Nha

Trang. Ở Ninh Thuận dầu loang kéo dài hàng chục km bờ biển.

Cuối tháng 10/2007, tàu vận tải biển New Oriental bị lâm nạn và ch́m đắm ở

vùng biển xă An Ninh Đông, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Vết dầu đă loang ra

cách vị trí tàu bị chìm về hướng Tây Nam khoảng 500m với diện rộng, ước tính

khoảng 25 ha.

Ngày 23/12/2007, trên vùng biển cách mũi Ba Làng An - xă B́nh Châu -

huyện Bình Sơn –tỉnh Quảng Ngăi khoảng 3 hải lý, hai chiếc tàu chở hàng đă đâm

nhau, làm hơn 170 m3 dầu diezel tràn ra biển. Đây là vụ tai nạn giữa hai tàu chở

hàng có trọng tại lớn lần đầu tiên trên vùng biển Quảng Ngăi.

11

3. Các SCTD xảy ra trên đất liền

SCTD trên đất liền nghiêm trọng nhất xảy ra năm 2008 tại dầu tại kho xăng

dầu hàng không Liên Chiểu của Vinapco miền Trung trên địa bàn TP. Đà Nẵng.

Nguyên nhân xảy ra sự cố là do mưa lớn gây sạt lở đất, khiến một đoạn tường

bêtông dài chừng 30m thuộc hệ thống bờ kè bảo vệ kho xăng dầu này bị gãy sụp rồi

trôi xuống đụng vào thành hai bồn chứa xăng dầu loại dung tích 3.200m3/bồn

(tương đương 3,2 triệu lít) gồm một bồn chứa xăng A92 và một bồn chứa dầu Jet

(dùng cho động cơ máy bay) khiến hai bồn chứa này bị vỡ. Trong vụ này đã có gần

1.000m3 xăng, dầu tràn ra khỏi bồn chứa, ngấm xuống đất và chảy ra biển, gây ô

nhiễm môi trường nghiêm trọng, nhất là khu vực từ biển Xuân Thiều đến đèo Hải

Vân (nơi xảy ra SCTD). Chỉ tính riêng vụ tràn dầu ở kho xăng dầu hàng không

Liên Chiểu đã gây tốn kém chi phí ứng cứu gần 800 triệu đồng và thiệt hại về ngư

nghiệp 122 triệu đồng (theo thời giá năm 2008) chưa kể việc bồi thường phục hồi

môi trường bị suy thoái.

Có thể nói, ô nhiễm dầu gây nên những tổn thất nghiêm trọng về kinh tế và

ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe con người. Chính vì thế, việc phòng ngừa và

khắc phục các sự cố về tràn dầu là vấn đề cấp thiết mà trước hết là phải xây dựng

và hoàn thiện pháp luật về vấn đề này nhằm tạo dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động

phòng chống và khắc phục ô nhiễm dầu ở nước ta.

III. Một số nét về thực trạng pháp luật về ô nhiễm tràn dầu ở nước ta

1. Hệ thống các văn bản pháp lý về ứng phó sự cố tràn dầu

- Hiến pháp năm 1992 đã có quy định về trách nhiệm bảo vệ môi trường,

trong đó có môi trường biển, đã trở thành một nguyên tắc quan trọng, theo đó các

cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi công dân có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ

môi trường, nghiêm cấm mọi hành vi huỷ hoại môi trường (Điều 11, 17, 18, 25, 29,

và 78).

12

- Luật Bảo vệ Môi trường năm 1993 đã đưa ra các quy định liên quan đến

việc phòng ngừa, xử lý ô nhiễm do dầu, cụ thể: quy định tổ chức, cá nhân khi tìm

kiếm thăm dò, khai thác vận chuyển, chế biến, tàng trữ dầu khí phải áp dụng công

nghệ phù hợp, thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, có phương án phòng

tránh rò rỉ dầu, sự cố tràn dầu (Điều 21); Quy định các nguyên tắc về xử lý, khắc

phục ô nhiễm môi trường, trong đó có nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải bồi

thường thiệt hại, khắc phục hậu quả” (Điều 7, 52).

- Nhằm cụ thể hoá Luật Bảo vệ Môi trường, Chính phủ đã ban hành nhiều

văn bản hướng dẫn như: Nghị định 175-CP ngày 18/10/1994 hướng dẫn thi hành

Luật Bảo vệ Môi trường, Nghị định 121/2004/NĐ-CP ngày 12/5/2004 về xử phạt

hành chính trong lĩnh vực Luật bảo vệ Môi trường (với một số quy định về phòng

ngừa, xử lý và khắc phục ô nhiễm do dầu như Điều 18, Điều 21), Nghị định

121/2004/NĐ-CP quy định hành vi vi phạm các quy định về phòng chống sự cố

môi trường trong tìm kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển dầu khí... có thể bị phạt

tiền đến 70 triệu đồng và buộc khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường.

- Ngoài ra, việc xử lý các tổ chức, cá nhân gây nên SCTD được vận dụng

trong các quy định về xử lý các chủ thể gây ô nhiêm môi trường trong Bộ luật Dân

sự (BLDS) năm 2005, trong đó có điều 623 quy định bồi thường thiệt hại do nguồn

nguy hiểm cao độ, trong đó có thiệt hại do dầu gây ra. Bộ luật Hình sự năm 1999

đã dành một chương riêng (Chương XVII) quy định các tội phạm về môi trường,

trong đó có Điều 183 quy định mức phạt tù và tiền đối với cá nhân nào thải vào

nguồn nước dầu, mỡ... gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt

nghiêm trọng. Bộ Luật Hàng hải Việt Nam 2005 (BLHH) đã dành 16 điều đề cập

đến vấn đề bảo vệ môi trường biển, trong đó có hai điều trực tiếp điều chỉnh việc

phòng ngừa, xử lý ô nhiễm biển do dầu (Điều 28 và Điều 223). Luật Thuỷ sản 2003

(khoản 1 Điều 7) nêu trách nhiệm của các chủ thể khi tham gia khai thác nguồn lợi

thuỷ sản là phải bảo vệ môi trường sống của các loài thuỷ sản, tạo cơ sở bảo vệ các

nguồn thuỷ sản khi bị ô nhiễm do dầu tác động. Luật Dầu khí 1993 sửa đổi năm

13

2008 (lần 2) - Điều 5 - quy định các chủ thể tham gia hoạt động dầu khí phải có đề

án bảo vệ môi trường và các biện pháp ngăn ngừa bảo vệ môi trường…

- Để triển khai cụ thể các nội dung trên, Chính phủ đã ban hành một số nghị

định có liên quan đến công tác ngăn ngừa và ứng phó SCTD: Nghị định số

160/2003/NĐ-CP ngày 18/12/2003 của Chính phủ về quản lý hoạt động hàng hải

tại cảng biển và khu vực hàng hải Việt Nam; Nghị định số 71/2006/NĐ-CP ngày

25/7/2006 về quản lý cảng biển và luồng Hàng hải, đã quy định cụ thể việc phòng

ngừa ONMT trong hoạt động Hàng hải.

Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành một số văn bản về ứng cứu sự cố

dầu tràn như sau: Quyết định số 192/2001/QĐ-TTg ngày 29/8/2001 của Thủ tướng

Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch Quốc gia ứng phó SCTD giai đoạn 2001 –

2010; Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ

phê duyệt kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ONMT nghiêm trọng; Quyết định

số 256/2003/QĐ-TTg ngày 2/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chiến

lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020;

Quyết định số 103/QĐ-TTg, ngày 12/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ ban hành

quy chế hoạt động ứng phó SCTD

- Việt Nam đã tham gia ký kết một số Công ước quốc tế liên quan đến công

tác ngăn ngừa ô nhiễm và ứng phó SCTD như: Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô

nhiễm từ tàu, 1937 được sửa đổi bởi nghị định thư 1978 (MARPOL 73/78); Công

ước quốc tế về an toàn sinh mạng trên biển 1974 (SOLAS 1974); Công ước của

liên hợp quốc về luật biển 1982 (UNCLOS 82); Hiệp ước khu vực 1969 - 1993 về

phòng chống ô nhiễm biển; Nghị định thư 1992 sửa đổi công ước quốc tế về giới

hạn trách nhiệm dân sự đối với các thiệt hại do ô nhiễm dầu 1969 (CLC 92); Công

ước quốc tế về sẵn sàng ứng phó và hợp tác đối với ô nhiễm dầu 1990 (OPRC 90);

Thoả thuận về kiểm tra nhà nước tại cảng biển trong khu vực Châu Á - Thái Bình

Dương 1993 (TOKYO MOU)

14

2. Một số đánh giá về hệ thống pháp luật về phòng, chống ô nhiễm dầu

của Việt Nam

- Từ khi thực hiện chính sách hội nhập kinh tế quốc tế và chiến lược

biển, pháp luật về bảo vệ môi trường biển bắt đầu được chú trọng. Từ những tác

động tiêu cực mà SCTD gây ra cho môi trường, Việt Nam đã từng bước xây dựng

và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý để quản lý và ứng phó sự cố dầu tràn. Hoạt

động bảo vệ môi trường tại Việt Nam chính thức được ghi nhận từ năm 1993 khi

Luật Bảo vệ Môi trường được Quốc hội thông qua ngày 27 tháng 12 năm 1993, đây

là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất của Nhà nước Việt

Nam về vấn đề bảo vệ môi trường. Đến năm 2005, Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi,

bổ sung tiếp tục được thông qua và hiện nay đang tiếp tục được nghiên cứu để sửa

đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Tuy nhiên, các văn bản pháp lý về

phòng chống ô nhiễm dầu ở nước ta chỉ mới được quy định rải rác trong các văn

bản pháp luật chung và văn bản pháp luật chuyên ngành mà Việt Nam đã tham gia

hoặc đã ban hành. Hiện nay ở nước ta hầu như không có một văn bản hay dự luật

riêng nào về phòng chống ô nhiễm dầu. Ngay trong Luật Bảo vệ môi trường cũng

chỉ có một điều định nghĩa về sự cố ô nhiễm trên biển mà cũng không có nghị định

hướng dẫn thi hành nào về vấn đề này. Chính vì thế, trong thực tế, công tác phòng

ngừa, khắc phục sự cố tràn dầu gặp rất nhiều khó khăn, công tác phòng ngừa ít

được quan tâm, thường khi sự cố xảy ra thì mới lo khắc phục hậu quả, khi đó sự cố

đã gây nên những thiệt hại nặng nề về kinh tế và để lại hậu quả nặng nề cho môi

trường sinh thái. Có thể thấy tính ứng dụng trong thực tiễn của pháp luật về phòng

chống ô nhiễm tràn dầu có hiệu quả thấp.

- Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005 đã dành một chương riêng về phòng

ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường, song ở đây chỉ là những quy định

mang tính chất chung đối với sự cố môi trường nói chung và còn nhiều bất cập.

Luật chưa quy định rõ vấn đề trách nhiệm và bồi thường thiệt hại, không có biện

15

pháp cưỡng chế dẫn đến sự hạn chế, tiêu hao quyền và nghĩa vụ của các chủ thể.

Chưa có quy định rõ ràng để phân biệt giữa trách nhiệm khắc phục, phục hồi môi

trường theo pháp luật về hành chính và trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo pháp

luật về dân sự. Chính vì chưa có cơ chế riêng về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm

dầu và cũng chưa có quỹ bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu (theo Công ước CLC

1992) nên khi các vụ gây ô nhiễm dầu xảy ra, việc giải quyết đòi bồi thường thiệt

hại đều làm cho các cơ quan chức năng lẫn nạn nhân đều lúng túng.

- Việc quy định về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, nhất là của các cơ

quan quản lý đối với sự cố tràn dầu còn chung chung, không cụ thể, không rõ ràng.

Quy định về trách nhiệm của các cơ quan quản lý từ trung ương đến địa phương

còn có sự chồng chéo. Việc xây dựng kế hoạch ứng phó sự cố tràn dầu là một quy

định bắt buộc đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây nên

sự cố tràn dầu. Tuy nhiên, chưa có hướng dẫn cụ thể nào về việc xây dựng kế

hoạch ứng phó sự cố tràn dầu, cũng như chưa có quy định về việc tổ chức, cơ quan

nào sẽ đứng ra thẩm định, phê duyệt kế hoạch ứng phó và kiểm tra việc thực hiện

các nội dung được đề ra trong kế hoạch. Nếu không có thẩm định, phê duyệt thì

không thể xác định được liệu các nội dung trong bản kế hoạch có đầy đủ, đúng, đáp

ứng được yêu cầu không và nếu không có kiểm tra, giám sát thì càng không thể

đánh giá được tính hiệu quả của việc thực hiện kế hoạch ứng phó sự cố.

- Việt Nam hiện nay mới chỉ tham gia một số điều ước về ô nhiễm dầu như:

Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu thuyền (MARPOL 73/78); Công ước trách

nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại do dầu năm 1969 và Công ước bổ sung năm

1992 (CLC). Sau khi gia nhập Công ước Marpol, Việt Nam đã ban hành TCVN

6276 về hệ thống ngăn ngừa ô nhiễm biển của tầu, tiêu chuẩn dầu thải cũ... Ngày

17/6/2004, Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại do ô nhiễm

dầu 1992 (viết tắt là CLC 92) có hiệu lực ở Việt Nam [2]. Nhìn chung, các Công

ước quốc tế về phòng chống ô nhiễm do dầu mà Việt Nam đã tham gia về cơ bản

đều được thực hiện một cách nghiêm túc, bảo đảm nguyên tắc, nếu những quy định

16

của điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia khác với Luật trong nước thì áp

dụng theo Điều ước quốc tế. Việc thể chế hóa các công ước quốc tế một cách gián

tiếp hay việc áp dụng một cách trực tiếp các công ước quốc tế của Việt Nam tuy đã

được thực hiện, tuy nhiên việc áp dụng đó mới chỉ trên một vài khía cạnh. Việt

Nam cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng chống ô nhiễm dầu cho phù hợp

với tất cả các khía cạnh, nội dung của các công ước.

IV. Đề xuất, kiến nghị

1. Một số đề xuất chung:

- Từ những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành về

phòng, chống ô nhiễm do dầu, vấn đề cần kíp trước mắt là xây dựng một văn bản

pháp luật chuyên biệt và thống nhất về phòng, chống ô nhiễm dầu như Nghị định

phòng chống ô nhiễm do dầu. Các văn bản pháp lý có liên quan cần được soạn thảo

phù hợp với các nguyên tắc và tiêu chuẩn chung về ô nhiễm môi trường theo thông

lệ quốc tế và có tính đến hoàn cảnh đặc thù của nước ta.

- Đối với các luật chuyên ngành khác:

a. Trong lĩnh vực hàng hải:

Tiếp tục ban hành các văn bản bổ sung quy định về phòng ngừa, xử lý và

khắc phục ô nhiễm dầu mà Bộ Luật Hàng hải 2005 còn thiếu, nhất là những quy

định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu không thuộc phạm vi điều

chỉnh của CLC 1992. Cần sửa đổi Luật dầu khí theo hướng bảo vệ môi trường biển

là một chương.

b. Trong lĩnh vực đánh bắt thuỷ sản, vận tải đường sông

Cần bổ sung các quy định cụ thể về phòng chống ô nhiễm biển do dầu từ các

hoạt động của tàu cá mà cụ thể là kiểm soát hoạt động thải dầu cặn, nước lẫn dầu

cũng như sự rò rỉ trong quá trình hoạt động của tàu.

c. Đối với các luật có liên quan

17

Bộ luật Hình sự: Cần phải nghiên cứu bổ sung các tội về gây ô nhiễm môi

trường biển, trong đó có tội trừng trị hành vi xả thải dầu làm ô nhiễm biển gây hậu

quả nghiêm trọng.

Bộ luật Dân sự: Trước hết cần bổ sung một số điều khoản về bồi thường thiệt

hại do ô nhiễm dầu tại Mục 3, Chương XVII, Bộ luật Dân sự. Mặt khác, cần nghiên

cứu các quy định về tổ chức, hoạt động của Toà án quốc tế, Trọng tài quốc tế về

luật biển để sẵn sàng đưa các vụ kiện liên quan đến tổ chức, cá nhân Việt Nạm ra

giải quyết theo trình tự tố tụng thay vì giải quyết theo trình tự thương lượng, ngoại

giao như hiện nay.

2. Một số kiến nghị cụ thể đối với việc sửa đổi, bổ sung một số điều về

phòng chống ô nhiễm dầu trong Luật bảo vệ môi trường năm 2005

- Dự thảo Luật bảo vệ môi trường sửa đổi, bổ sung đã đưa ra nhiều quy định

mới, mở rộng phạm vi hơn so với Luật bảo vệ môi trường năm 2005. Tuy nhiên, về

vấn đề phòng chống ô nhiễm dầu chưa được quy định cụ thể trong dự thảo mà vẫn

nằm trong phần về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường. Ô nhiễm

dầu, đặc biệt đối với môi trường nước biển hiện nay là vấn đề được nhiều nước trên

thế giới đặc biệt quan tâm vì phạm vi ảnh hưởng và mức độ tác hại của nó và đã có

nhiều Công ước quốc tế ra đời nhằm phòng chống, khắc phục ô nhiễm dầu trên

biển. Chính vì thế, nên chăng qui định vấn đề phòng chống ô nhiễm biển do dầu

trong một chương hoặc mục riêng. Trong đó có những nội dung cơ bản như: khái

niệm môi trường biển, ô nhiễm biển, ô nhiễm biển do dầu và các khái niệm khác có

liên quan; những nguồn chính có thể gây ô nhiễm biển, ô nhiễm biển do dầu, ô

nhiễm có nguồn gốc từ đất liền, từ hoạt động của tầu thuyền, từ hoạt động thăm dò,

khai thác dầu khí, đánh bắt hải sản...; các biện pháp chủ yếu để phòng ngừa, xử lý,

khắc phục ô nhiễm biển do dầu; quyền, nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức, cá nhân

trong việc thực hiện các qui định về phòng ngừa, xử lý, khắc phục ô nhiễm biển do

dầu... Trong công tác phòng ngừa sẽ có qui định về nghĩa vụ chấp hành các tiêu

18

chuẩn kỹ thuật, các tiêu chuẩn về môi trường, lắp đặt thiết bị… Trong công tác xử

lý, khắc phục ô nhiễm dầu sẽ có những nội dung cơ bản gồm: Quyền và nghĩa vụ

của các tổ chức, cá nhân trong việc ứng cứu, xử lý ô nhiễm dầu và công tác khắc

phục ô nhiễm biển do dầu; công tác phối hợp với các tổ chức quốc tế, với nước

ngoài trong việc ứng cứu sự cố tràn dầu cũng như khắc phục những hậu quả do dầu

gây ra.

- Đề nghị quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý trong việc thẩm

định, phê duyệt và kiểm tra việc xây dựng và thực hiện kế hoạch ứng phó sự cố môi

trường (trong đó có sự cố tràn dầu) của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ…

- Cần có quy định về quỹ ứng phó sự cố môi trường (trong đó có sự cố tràn

dầu) nhằm kịp thời ứng phó với các sự cố xảy ra, góp phần hạn chế thiệt hại về

kinh tế và sớm phục hồi môi trường sau sự cố.

- Đề nghị bổ sung quy định về điều tra, xác định nguyên nhân gây nên sự cố

môi trường (trong đó có sự cố tràn dầu), trong đó nêu rõ trách nhiệm của các cơ sở

gây nên sự cố, trách nhiệm của các cơ quan quản lý, quy định việc thành lập tổ điều

tra sự cố (bao gồm sự tham gia của các thành viên có đủ năng lực chuyên mô,

nghiệp vụ, pháp luật cần thiết theo lĩnh vực điều tra), quy định về xây dựng báo cáo

kết quả điều tra về sự cố.

- Đề nghị bổ sung quy định tạm đình chỉ hoạt động đối với các cơ sở để xảy

ra sự cố tràn dầu nhằm khắc phục sự cố và phục vụ điều tra, xác định nguyên nhân

sự cố.

- Về vấn đề bồi thường thiệt hại nên dẫn chiếu đến Công ước CLC 1992

trong trường hợp việc bồi thường thoả mãn các yêu cầu của CLC như: Sự cố tràn

tàu dầu và dầu tràn ra môi trường là dầu nặng khó phân huỷ. Các trường hợp khác

sẽ bồi thường theo quy định của Bộ luật Dân sự (điều này đặt ra vấn đề sửa đổi

điều 628 BLDS). Những qui định đó mang tính khái quát làm cơ sở pháp lý cho các

luật chuyên ngành cụ thể hoá.

19

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo tổng hợp xây dựng quy trình, quy phạm, định mức kinh tế kỹ

thuật cho hoạt động đánh giá, xác định thiệt hại môi trường do sự cố tràn dầu

gây ra, Cục Kiểm soát ô nhiễm, Tổng cục Môi trường.

2. Diễn tập xử lý tình huống ứng phó sự cố tràn dầu (tài liệu ngày 08-10 tháng

04 năm 2009 do Trung tâm ứng phó sự cố tràn dầu khu vực miền nam cung cấp)

3. Nguyễn Bá Diễn, Tổng quan pháp luật Việt Nam về phòng, chống ô nhiễm

dầu ở các vùng biển

4. TS. Lý Ngọc Minh, Nghiên cứu xây dựng phương pháp đánh giá sự cố môi

trường trong sử dụng khí hóa lỏng ở Việt Nam

5. Luật bảo vệ môi trường năm 2005 và văn bản hướng dẫn thi hành (2006),

NXB Lao động xã hội

6. Quyết định số 103/2005/QĐ-TTg ban hành ngày 12/5/2005 của Thủ tướng

Chính phủ hướng dẫn cụ thể và chi tiết về tổ chức và qui chế hoạt động ứng phó

với SCTD

20