Upload
api-3697048
View
830
Download
9
Embed Size (px)
DESCRIPTION
the lost chapter
Citation preview
1
CHƯƠNG VI
NHÀ TIÊN TRI NỔI GIẬN CÓ TÊN KARL MARX
Khi còn là một cậu bé, Adam Smith đã có lần bị một vài mụ yêu quái ranh mãnh bắt cóc.
Sau một vài giờ bắt giữ cậu bé, những mụ yêu quái thả cậu bên lề đường, và cậu được người
ta đưa về nhà trao trả cho gia đình. Một nhà viết tiểu sử đã nhận xét rằng nhà kinh tế đãng
trí, ngây thơ, chắc không thể trở thành một yêu quái tốt bụng được. Người ta có lẽ cũng nói
rằng có một điều tốt đẹp là Karl Marx chưa bao giờ bị các nhà tư bản bắt cóc. Ông chắc là sẽ
không trở thành một nhà tư bản tốt được. Ông cũng chẳng phải là một người tiêu dùng tốt.
Marx luôn luôn ở trong cảnh nợ nần.
Bằng những lời mạnh mẽ và những cách thức gây kích động, Marx tiên đoán sự sụp đổ
của chủ nghĩa tư bản. Nhưng không phải trước khi ông thực hiện công việc điều tra sắc sảo
về những quy luật của chủ nghĩa tư bản và bộ mật mã ẩn giấu quy định sự phát triển của
văn minh.
Vị trí của Marx trong lịch sử học thuyết kinh tế là rất khó xác định. Bằng nhiều cách, các
nhà kinh tế học chính thống ngày nay lùa Marx sang cuộc đàm luận cocktail của giai cấp tư
sản. Tuy nhiên một tỷ người vẫn phải vật lộn để sống sót dưới những chế độ đã tuyên thệ đi
theo chủ nghĩa Marx. Cùng với Freud và Darwin, Marx có một ảnh hưởng to lớn đối với tư
duy của thế kỷ XX. Nhưng trong suốt cuộc đời khi còn sống của ông, Marx có rất ít tiếng
tăm và ít người ủng hộ. John Stuart Mill, một người có học vấn uyên bác nhất về thời đại
của Marx, lại chưa bao giờ nghe đến tên ông.
Marx là một con người thích buổi bình minh của giai cấp tư sản trong thị trấn Trier của
nước Đức ở vùng Rhine. Sinh năm 1818, ông là tiêu biểu cho dạng thức pha trộn giữa tầng
lớp trung lưu và thượng lưu của Trier. Marx sau đó biểu lộ niềm tự hào rằng người cha của
mình, Heinrich, một luật sư xuất sắc, cũng sở hữu một vườn nho. Người vợ tương lai và là
bạn tuổi ấu thơ của Marx, Jenny, sống bên cạnh. Cha của bà, Nam tước Von Westphalen,
dần trở thành một người chú đối với Marx lúc trẻ.
Sau khi người anh chết lúc lên bốn tuổi, Marx thừa kế vai trò con trưởng và bắt đầu bắt
nạt những người em gái kém thông minh hơn. Một trò chơi ưa thích như “cưỡi” lên lưng em
như những con ngựa chạy hộc tốc khắp các dãy phố của thị trấn Trier. Ngoài những trò cưỡi
ngựa ra, Marx cũng buộc những đứa em gái của mình tham gia những cuộc thi ăn bánh,
trong đó họ phải ăn những chiếc bánh mà ông làm ra với hai bàn tay không rửa ráy gì và cứ
để bẩn mà nhào bột. Mặc dù vậy, những đứa em gái của Marx ngưỡng mộ Marx vì sự thông
minh và hay kể những câu chuyện giải trí cho các em. Những người cùng lớp với Marx cũng
yêu quý và sợ cậu bé, một người thường cười một cách vênh vang và làm cho mọi người
phải sợ rùng mình với câu thơ mỉa mai châm biếm.
Cả cuộc đời của Marx có một khả năng và thiên hướng phê phán cay độc và lạm dụng
việc đánh vào tình cảm con người. Ông giải thoát được một vài cuộc công kích đầy ác ý đối
với người Do Thái. Cả cha và mẹ của Marx đều xuất thân từ những dòng giáo sĩ Do Thái
xuất sắc, chú của ông là một trưởng giáo sĩ Do Thái ở Trier. Tuy vậy, những đạo luật chống
người Semic đã thuyết phục cha của Marx chuyển sang Cơ đốc giáo, cho dù ông nói người
Do Thái chính là những "tín đồ cùng chí hướng". Tuy nhiên, con trai ông lại phản bác tổ tiên
2
Do Thái của ông với một niềm thích thú hết sức ngang ngạnh. Các học giả có thể tranh luận
liệu ông có thực sự chống đối người Semic hay không. Nhưng không có gì phải nghi ngờ
rằng chính Karl Marx đã thốt ra rất nhiều điều lăng mạ, sỉ nhục độc địa.1
Giống như John Stuart Mill, Marx hít đủ cả hai loại chất độc hại là chủ nghĩa lãng mạn
và chủ nghĩa duy ý chí. Cha của ông cung cấp chủ nghĩa duy ý chí của Pháp thế kỷ XVIII
được những người kinh nghiệm chủ nghĩa ở Anh làm cho đỡ cứng nhắc, khuyên con trai
mình "phục tùng" đối với "lòng tin vào Newton, Locke và Leibnitz".2 Trong khi đó, Nam
tước Von Westphalen được trau dồi nhiều kiến thức đã bò bùa mê cậu thanh niên trẻ tuổi
Karl Marx bằng cách dắt cậu đi dạo khắp những cánh rừng điền viên và kể cho cậu những
câu chuyện của Shakespeares, Homer và những người theo phái lãng mạn. Thật trớ trêu,
chính vị bá tước theo phái Aristotle lại là người đưa Marx đến với chủ nghĩa xã hội không
tưởng, không có giai cấp. Không hề bị ảnh hưởng từ những suy nghĩ sắc sảo và sáng suốt
của cha mình, Marx có lẽ đã tin vào những ý niệm mờ nhạt, có vẻ thèm muốn khát khao của
những người theo chủ nghĩa không tưởng. Nhưng hễ cứ ở đâu họ trông thấy hạnh phúc, là
ông lại thấy có đấu tranh.
Tại Đại học Tổng hợp Bonn, cuộc đấu tranh lớn nhất mà Marx gặp phải là chống lại bản
thân trước những cơn khát rượu và cơn khát tiêu tiền của cha mình. Ông đã thua cuộc, và
Heinrich đã mất rất nhiều tiền. Marx nghiên cứu luật và thu được một chút kinh nghiệm
thực tiễn về luật pháp khi ông bị bắt giam vì tội say mèm. Kể từ khi trường đại học có thùng
rượu cho uống đến say của trường, thì sự bắt giam mới giảm bớt - những người khách có
thể chơi bài và tiếp tục uống với người đã bị xử phạt. Sự tự do phóng túng chứng tỏ có tác
dụng. Thắng lợi chính trị đầu tiên của Marx làm cho ông trở thành vị chủ tịch của hội Tửu
quán Trier (Trier Tavern).
Sau một năm với những bữa tiệc ở Bonn, Heinrich chuyển ông con trai mình sang
Trường Tổng hợp Berlin, một nơi ít chè chén nhậu nhẹt hơn, ông hy vọng như vậy. Heinrich
mất ngay hy vọng: "Cứ như thể là chúng tôi được làm bằng vàng, ông con trai quý tử của tôi
tiêu sạch 700 thaler chỉ trong vòng có một năm, vi phạm mọi điều cam kết và cách ứng xử,
trong khi đó người giàu nhất cũng chỉ tiêu có hơn 500 (thaler) thôi".3 Những người cho vay
đã kiện Marx vài lần, buộc ông phải chuyển nhà ít nhất là mười lần trong vòng năm năm ở
Berlin.
Heinrich còn phàn nàn nhiều hơn về sự trác táng: Karl là một kẻ lười biếng, bẩn thỉu,
một ông thánh biện hộ cho những sinh viên đại học đầu tóc bù xù, không tắm rửa gì. Nước
da ngăm đen làm cho ông có cái biệt danh "Người Maroc", sau này được những người bạn
và những đứa con của ông thường hay sử dụng một cách trìu mến. Với màu da tối và mái
tóc dài, mờ xỉn, ông thể hiện như là một lời biện hộ bờm xờm cho một sinh viên.
Heinrich cũng phản đối sự vòng vo khoa học của Marx trong môn luật và triết học. Nếu
Karl đi loanh quanh, ông chắc chắn sẽ không đi loanh quanh ở bên ngoài lớp học. Trong
những năm học cuối, ông chỉ theo có vài cua học và trở thành một "sinh viên tự do phóng
túng, một người chỉ coi trường đại học như là nơi cắm trại".4 Mặc dù vậy, Marx học triết học
theo cách của riêng mình và gia nhập Phái Hegel trẻ, những người phê phán có tính cấp tiến
tôn giáo và những môn đệ theo chủ nghĩa chiết trung của Hegel, một triết gia ở Berlin đã
chết một vài năm trước khi sự nghiệp học đại học của Marx bắt đầu. Marx đã tiếp thu một
cách tài tình phương pháp của Hegel và chứng minh cho thế giới thấy rằng bỏ học đôi khi
phải trả giá (mặc dù không phải trả giá về mặt tài chính).
3
Thật không may, Marx chưa bao giờ chứng minh được điều này với cha mình, ông chết
vào năm 1838. Marx vẫn giữ được lòng trìu mến đối với cha mình, luôn mang theo mình
một bức ảnh của cha. Nhân tiện đây, Marx chưa bao giờ thể hiện sự trìu mến như vậy đối
với mẹ ông, chỉ coi bà như một nguồn tài trợ keo kiệt. Ông không tham dự đám tang bà và
cũng chẳng hề chảy nước mắt khi bà qua đời.
Sau khi cha ông qua đời, Marx nghĩ tốt nhất là nên kết thúc việc học hành. Đột nhiên
hăm hở muốn rời bỏ khoa học, ông từ chối nộp bản luận văn về triết học Hy Lạp theo các
thủ tục nghiêm ngặt ở Đại học Berlin. Thay vào đó ông gửi luận văn tới Đại học Jena, một lò
luyện diploma có danh tiếng. Một cua học từ xa sáu tuần lẽ ra phải kéo dài hơn. Chỉ vài
ngày sau đó Jena lấy ra con dấu cao su đã mục nát của mình và phong tặng ông học vị tiến
sĩ.
Một thanh niên là một nhà báo
Với chứng chỉ trong tay, Marx loanh quanh trong giới báo chí, viết rồi sau đó làm biên
tập cho tờ Rheinische Zeitung, một tờ báo tự do hạng trung. Thật trớ trêu, ông kiểm soát
được các tay bút cấp tiến hơn của tờ báo, những người có khuynh hướng xã hội chủ nghĩa.
Chính phủ chuyên chế nước Phổ rất muốn kiểm duyệt sự phê phán, và Marx thường phải
làm việc với các quan chức gần như thoái hóa. Có lần sự kiểm duyệt cấm một quảng cáo cho
một bản dịch Comedy Divine (Hài kịch Thánh thần) của Dante. Tại sao? Ở nước Phổ, các
người không được báng giễu thánh thần thông qua hài kịch.
Một người quan sát thời gian làm việc của Marx ở tòa báo đã phác họa chân dung của
nhà biên tập trẻ:
Karl Marx, người xứ Trier, là một con người mạnh mẽ 24 tuổi, người có mái tóc đen, dày, xoăn, trùm lên cằm, lên cánh tay, mũi và cả tai. Ông độc đoán, hống hách, mạnh mẽ, đầy đam mê, vô cùng tự tin, nhưng đồng thời rất ham hiểu biết và học hỏi, một nhà biện chứng không ngơi nghỉ, một người với sự thông thái kiểu Do Thái đã đẩy mọi quan điểm của học thuyết Hegel trẻ tới kết luận cuối cùng và rồi khi đó, nhờ sự nghiên cứu tập trung về kinh tế của mình, ông chuẩn bị cho sự chuyển đổi sang chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Marx, tờ báo non trẻ ngay lập tức bắt đầu nói năng liều lĩnh.5
Chính phủ phản ứng lại sự xấc xược của Marx bằng cách đưa ra một lựa chọn: hoặc là tờ
báo phải đóng cửa, hoặc là Marx phải rời bỏ nó. Marx từ bỏ.
Ông đã mất việc làm, nhưng đồng thời ông lại kiếm được một người vợ, Jenny von
Westphanlen. Những người họ hàng của cô nghĩ rằng con gái của nhà quý tộc đã kết hôn với
một người đẳng cấp dưới, nhưng họ không biết rằng cô ta sẽ tụt dốc bao xa.
Năm 1843, gia đình Marx chuyển đến Paris, ở đó Marx biên tập một tạp chí chính trị
mới, bắt đầu đùa bỡn với chủ nghĩa cộng sản, nhập bọn với đám người cấp tiến trẻ và kiêu
ngạo, những người mà Heinrich Heine mô tả như là một "đám người vô thần và tự cho
mình là Chúa".6 Tờ tạp chí chỉ xuất bản một số, sau đó Marx và những người bạn theo chủ
nghĩa cộng sản của ông bất đồng với đồng chủ biên Arnold Ruge. Ruge cũng học cách bất
chấp đám đông vô thần: "Họ mong muốn giải phóng con người… nhưng lúc này đây họ đặt
trọng tâm lớn nhất vào nghèo đói và đặc biệt là vào tiền… Để giải phóng người vô sản về
4
mặt tinh thần và thể xác khỏi gánh nặng của sự bần cùng, họ mơ có một tổ chức có thể khái
quát hóa sự nghèo khổ này và bắt mọi người phải chịu cái gánh nặng của sự nghèo khổ đó".7
Cũng là một bộ phận của đám người đó, Friedrich Engels trở thành một phần quan
trọng trong cuộc đời và kế sinh nhai của Marx. Là con trai của một ông chủ công xưởng giàu
có, Engels có hai cuộc sống. Ban ngày ông làm việc trong doanh nghiệp của cha mình và
kiếm được một đồng lương đáng kể như một nhà tư bản. Ban đêm ông đọc Hegel và các
nghiên cứu về chủ nghĩa cộng sản. Mặc dù là một người Đức, Engels sống ở Anh trong vài
năm, cai quản doanh nghiệp dệt may cho gia đình. Sau một số thời gian sống ở Manchester,
ông viết bài phơi bày một cách gay gắt sự nghèo khổ ở nước Anh, Những điều kiện của giai
cấp lao động ở Anh năm 1844. Không phải là Engels tự nguyện đem những thu nhập tư bản
chủ nghĩa của mình chia cho người nghèo hay từ bỏ những thói hư tật xấu kiểu tư sản của
mình. Thực ra, ông dường như không bị giằng xé gì về mặt tâm lý bởi cuộc sống lưỡng phân
của mình. Ông cảm thấy khá thoải mái với trò đi săn cáo, nhâm nhi những cốc rượu Tây
Ban Nha và đấu kiếm. Ông có thể nâng một cốc champagne hảo hạng và uống mừng người
vô sản một cách rất hào hoa. Khi nào không săn đuổi cáo, thì ông săn đuổi phụ nữ, tuyên bố
rằng: "Nếu tôi có một thu nhập 5.000 franc, tôi sẽ không làm gì mà chỉ việc vui thú với đàn
bà cho tới khi tôi tan ra thành từng mảnh. Nếu không có những người đàn bà Pháp, cuộc
đời sẽ không còn đáng gì để sống nữa."8 Đúng là một bước nhảy vọt thoát khỏi những người
theo chủ nghĩa Socrates "cuộc đời không bị tra xét là một cuộc đời không đáng để sống".
Trong những năm 1840, Marx bắt đầu nặn ra những học thuyết sau này làm thay đổi thế
giới. Tất nhiên không phải ai cũng tán thành. Chính quyền nước Phổ liệt quan điểm trong
những bài viết của Marx vào sổ đen khi tuyên bố Marx mắc tội làm phản. Khi nước Pháp
trục xuất ông một năm sau đó, ông lánh sang Bỉ.
Những bài viết phản bội đã buộc Marx và gia đình của ông phải di chuyển từ một nước
châu Âu này sang một nước châu Âu khác là gì vậy? Trong những năm 1840, Marx xây dựng
những cơ sở triết học và lịch sử cho việc nghiên cứu chủ nghĩa tư bản. Những lý thuyết này
chứng minh điều gì? Nào là những nền tảng của chủ nghĩa tư bản sẽ nhanh chóng suy sụp,
nào là quần chúng sẽ sớm vùng lên làm cách mạng và làm rung chuyển những kẻ có của cho
tới khi họ phải lật nhào khỏi những chân đế của mình.
Nhà lịch sử theo Chủ nghĩa Duy vật
Triết học và lịch sử của Marx đều sử dùng những thuật ngữ của Hegel, nhưng ông không
phải là một con vẹt. Marx có lẽ đã dùng đúng những từ đó, nhưng ông thay đổi trật tự. Để
hiểu được ông làm điều đó như thế nào, chúng ta trước hết hãy khảo sát một giáo lý cơ bản
của người thầy thông thái của ông.
Hegel dạy rằng triết học nhắm vào kiến thức làm mở mang những ý tưởng. Những ý
tưởng và tinh thần của con người dẫn dắt lịch sử. Thế giới vật chất, những thứ mà chúng ta
nhìn thấy và sờ mó được, và những thể chế trong xã hội, đi theo những ý tưởng. Một nhà xã
hội chủ nghĩa người Đức là Max Weber cũng dùng luận thuyết này trong công trình nổi
tiếng của mình, Đạo đức Tin Lành và tinh thần của Chủ nghĩa Tư bản. Quả là đơn giản,
Weber tin rằng sự nổi dậy của đạo Tin Lành sẽ dẫn tới chủ nghĩa tư bản; nghĩa là, một lòng
tin vào Chúa chuyển thành những thể chế kinh tế.
5
Theo Hegel, chúng ta có thể truy tìm dấu vết của lịch sử nhờ những chủ nghĩa dân tộc
đang thống trị: thời đại Ai Cập, Hy Lạp, Roma và nhiều thời đại khác nữa. Là một người yêu
nước, Hegel nghĩ nước Phổ là người lãnh đạo thời đại của nó.
Marx phản đối tư tưởng của Hegel. Sau nhà triết học Đức Ludwig Feuerbach, Marx tìm
kiếm những lực lượng duy vật trong lịch sử. Chúa, theo tác phẩm Bản chất của đạo Cơ đốc
của Feuerbach, chỉ đơn giản là sự thể hiện những mong muốn, những đòi hỏi, và là vật
tưởng tượng của con người. Con người sáng tạo ra Chúa; Chúa không sáng tạo ra con người.
Cái thực sự có trên đời, con người, dẫn đến ý tưởng về Chúa. (Những tác phẩm của
Feuerbach làm cho Marx sau này đi đến việc lên án tôn giáo, coi đó là "thuốc phiện của
nhân dân".9 Chừng nào mà người ta có thể biểu hiện những khát khao của mình lên Chúa và
cõi âm, thì họ sẽ thụ động chấp nhận những điều kiện vật chất và những phán xét trên thế
giới thực tại.
Cho tới giờ Marx có vẻ giống một kẻ đào tẩu khỏi trường phái tư tưởng Hegel hơn là
một người theo phái Hegel Trẻ. Nhưng Marx giữ lại cái cốt tử đối với phương pháp của
Hegel, phép biện chứng. Hegel quả quyết rằng, lịch sử, giống như thực tại, không tuân theo
dạng thức từ từ và bằng phẳng. Nó cũng không bao gồm hàng loạt những sự kiện độc lập.
Lịch sử hàm chứa sự đấu tranh giữa những lực lượng chống đối nhau. Mọi ý tưởng đều có
mặt đối lập của nó. Các nhà triết học thường tóm lược phép biện chứng của Hegel bằng cách
nói rằng mọi luận đề hay ý tưởng đều bị phản bác bởi những phản luận đề của nó. Cuộc
chiến giữa những ý tưởng này tạo ra một cái tổng hợp, một luận đề mới. Rồi luận đề mới
này lại gặp những phản đề của nó. Thế giới luôn thay đổi. Lịch sử không bao giờ lặp lại
chính nó - mặc dù những nhà lịch sử học trống rỗng có thể lặp lại chính họ.
Hãy so sánh phương pháp biện chứng với cách tiếp cận kiểu Newton đối với kinh tế học,
một cách tiếp cận nhìn thấy những mối quan hệ nhân quả không thay đổi. Điều duy nhất
không thay đổi trong cách nhìn nhận của Hegel là có sự thay đổi.
Marx hàn nối phương pháp biện chứng với chủ nghĩa duy vật. Engels sau này đặt tên
cho sự kết hợp này chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nếu cái đầu
của Hegel ở trên mây, thì Marx muốn cắm mũi của chúng ta xuống đất. Lịch sử xảy ra trên
Trái đất, ông nói. Hãy quên việc nghiên cứu tôn giáo, đạo đức hay chủ nghĩa dân tộc đi. Hãy
đơn giản nhìn ra cửa sổ và hãy xem cách thức mà con người phải vật lộn để có được những
thứ thiết yếu chỉ cốt cho đủ sống. Chẳng có lịch sử gì cả nếu không có con người. Và cũng
chẳng có con người gì cả nếu không có lương thực. Do vậy, "hành động lịch sử đầu tiên là
…sản xuất ra những phương tiện để thỏa mãn những nhu cầu đó".10 Các nhà lịch sử tư
tưởng có lẽ cũng viết lịch sử của xứ Oz.
Marx vẽ ra con đường đi của lịch sử từ nô lệ đến phong kiến tới chủ nghĩa tư bản rồi tới
chủ nghĩa xã hội. Con đường này không nằm ở trên các vì sao hay trong các quy luật mà là
trong sản xuất - và cụ thể hơn, trong mối quan hệ của con người với quá trình sản xuất. Mỗi
một hệ thống sản xuất đều tạo ra những giai cấp cai trị và những giai cấp bị trị. Mỗi một
thời đại được đánh dấu bởi một cách thức nhất định bòn rút thu nhập cho những kẻ cai trị.
Trong những thời đại của Roma, bất kể kẻ nào sở hữu nô lệ đều nắm quyền sở hữu đối với
sản lượng. Trong các thời kỳ phong kiến, các địa chủ nắm quyền sở hữu những sản lượng
của nông nô. Dưới chủ nghĩa tư bản, những người chủ công xưởng và đất đai nắm quyền sở
hữu những sản lượng của những người làm công cho họ. Sự tồn tại của giai cấp trị vì nằm
trên sự lao động của giai cấp phục tùng. Điều này có đem lại cho những người công nhân
6
quyền mặc cả lớn hơn không? Không. Những người công nhân phải hợp tác với giai cấp
thống trị, vì những kẻ thống trị kiểm soát những phương tiện của sản xuất. Người công
nhân không thể "lấy những bộ đồ vật bằng đá cẩm thạch và đi về nhà". Họ không sở hữu
những đồ vật bằng đá cẩm thạch đó.
Do đó, tồn tại một sự phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù vậy, những kẻ cai trị vẫn cố ra vẻ như
thể là họ chẳng cần đến những người công nhân như những người công nhân cần họ. Nếu
thành công, họ sẽ bành trướng thêm sự thống trị của họ.
Họ cố duy trì địa vị của họ bằng cách nào? Đây là nơi mà sự quan tâm của Hegel đối với
đạo đức, chủ nghĩa dân tộc và tư tưởng đề cập đến. Giai cấp thống trị phát triển lòng tin,
luật pháp, văn hóa, tôn giáo, đạo đức và lòng yêu nước nhằm hỗ trợ cho quá trình sản xuất.
Một người công nhân có lòng yêu nước sẽ huýt sáo khi anh ta làm việc và không lừa dối
người chủ bằng cách nghỉ đi uống cà phê quá nhiều. Ngày nay, các nhà máy chế tạo ô tô và
các nhà sản xuất bia thích kết nối nước Mỹ với một "công việc của ngày tốt đẹp và chân
thành". Giấc mộng của người Mỹ bị vỡ vì một câu thơ nhiều âm điệp như "bóng chày và đồ
ăn nhanh, bánh táo và Chevrolet". Chevrolet thực sự thay thế người mẹ. (Liệu giấc mơ phức
cảm của người Mỹ có cả thú tính dành cho chiếc xe ô tô của người Cha không?)
Hệ thống luật pháp và đạo đức của chúng ta dạy chúng ta cảm thấy tội lỗi nếu chúng ta
lẩn trốn công việc của mình. Vậy tại sao những người chủ sở hữu lại được trao lợi nhuận
kiếm được nhờ mồ hôi của chúng ta? Bởi vì họ sở hữu bất động sản, chúng ta đáp lại như
vậy. Nhưng tại sao chúng ta phải chấp nhận hệ thống luật pháp này? Marx hỏi.
Theo Marx, những người cai trị, những người có phần trong hệ thống bất động sản tư
nhân, đã thôi miên quần chúng lao động. Sức mạnh của sự thuyết phục và gợi ý làm cho
người Mỹ mơ đến cổ phiếu, trái phiếu và những chiếc BMW. Tất nhiên, một cá nhân nghĩ
rằng những giấc mơ là của riêng anh ta và tiếp nhận những gợi ý. Marx gọi những ý tưởng,
luật pháp và đặc tính mang tính hỗ trợ là thượng tầng kiến trúc.
Câu nói nổi tiếng của Marx trong lời tựa cho cuốn sách của ông Sự phân phối đối với sự
phê phán Kinh tế Chính trị học: "Phương thức sản xuất của đời sống vật chất quy định đời
sống tri thức, chính trị và xã hội… Không phải sự nhận thức của con người quyết định sự tồn
tại của họ, mà, trái lại, sự tồn tại về mặt xã hội của họ quyết định sự nhận thức của họ."11
Những người nông nô cúi đầu và thể hiện lòng trung thành với chủ. Người làm thuê
phục vụ người thợ cả với lòng tự hào. Người lao động ăn lương cố gắng có được sự tăng tiến
bằng cách làm việc tích cực hơn. Tất cả họ làm việc cần cù và mong kiếm được một cuộc
sống tốt hơn trong phạm vi hệ thống đang ngự trị.
Marx không lập luận rằng giai cấp thống trị chủ ý âm mưu xây dựng thượng tầng kiến
trúc. Những người chủ sở hữu có lẽ thực sự tin vào tôn giáo của họ và không xem nhẹ điều
đó. Thượng tầng kiến trúc nổi lên bởi vì quá trình sản xuất bóp méo và làm tổn hại sự nhận
thức của mọi người. Đối với Marx, "con người làm nên lịch sử của chính mình, nhưng họ
không làm điều đó chỉ vì họ thích; họ không làm điều đó trong những bối cảnh mà họ lựa
chọn, mà trong những bối cảnh trực tiếp đối mặt, bị đưa đến và được chuyển tiếp từ trong
quá khứ. Truyền thống của tất cả các thế hệ đã chết nặng nề giống như một cơn ác mộng đè
nặng lên tâm trí của những con người đang sống".12 (Thật bất ngờ, Engels sau này thừa
nhận rằng Marx và ông đôi khi nhấn mạnh quá mức quan hệ nhân quả giữa sản xuất và
thượng tầng kiến trúc. Những tư tưởng đôi khi có những hậu quả thực tế của nó).
7
Nếu một thuộc tính hay một văn hóa nào đó tự động nổi lên để làm vững chắc thêm hệ
thống giai cấp, thì tại sao Marx lại tuyên bố trong cuộc tấn công mở màn với tiêu đề Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản rằng "lịch sử của tất cả các xã hội tồn tại từ nay về sau là lịch sử
của đấu tranh giai cấp"?13 Tại sao mọi người phải đấu tranh? Trước tiên là làm thế nào mà
mọi người biết phải đấu tranh? Những người chủ sở hữu bóp nặn những người công nhân
và người công nhân chấp nhận sự bóp nặn một cách thoải mái như một Moonie bị thôi miên
đem cho đi những cái đẹp nhất ở sân bay. Chừng nào mà Moonie/người công nhân được
hưởng lợi chỉ là hình thức thôi thì nền kinh tế vẫn cứ vận hành, và lợi nhuận vẫn cứ chảy
vào những tài khoản ngân hàng của các chủ sở hữu.
Sự nổi loạn xảy ra khi mà công nghệ của quá trình sản xuất thay đổi. Một công nghệ mới
hay một phương pháp mới làm biến đổi chất lượng và số lượng của đất đai, lao động và vốn.
Nhờ sự khám phá, phát kiến mới, giáo dục và sự gia tăng dân số, những lực lượng vật chất
của quá trình sản xuất là luôn biến động. Với một tập hợp mới những lực lượng vật chất,
quá trình sản xuất cũ trở nên lỗi thời. Chẳng hạn, nô lệ có lẽ đã tạo ra lợi ích khi mà tỷ lệ
giữa đất đai và lao động còn cao. Nhưng nếu những chiếc máy kéo và những chiếc máy gặt
làm việc hiệu quả hơn nô lệ, hoặc nếu dân số lao động tăng lên, thì nô lệ có thể sẽ ít tạo ra
lợi nhuận hơn. Tương lai nằm ở trong quá trình mới.
Mặc dù vậy, đừng quên rằng toàn bộ hệ thống luật pháp, đạo đức, chính trị lại nằm trên
phương pháp cũ. Các giáo sĩ Cơ đốc thường dạy rằng sự nô lệ dẫn tới vương quốc của Chúa.
Đó là một sự thực vĩnh cửu được ghi sâu trong tâm trí và trên những phiến đá của các thánh
đường Trung cổ. Thật vậy, thượng tầng kiến trúc có vẻ tĩnh.
Đấu tranh xảy ra khi giai cấp cai trị cũ tự ngăn mình không tham gia vào vòng quay
năng động của lịch sử bằng cách bám chặt lấy những tư tưởng cũ kỹ và ngăn trở những phát
triển kinh tế mới mẻ. Marx viết rằng công cụ làm bằng tay sinh ra các địa chủ phong kiến,
trong khi động cơ hơi nước cho thấy sự hiện diện của nhà tư bản công nghiệp. Nhưng các
chúa đất phong kiến chống lại người kế tục mình, các nhà công nghiệp. Sau đó, thợ cả
phường hội cãi lộn với chủ công xưởng. Hãy quên đi những câu chuyện bịa đặt về Ngài
Lancelot và Galahad. Cuộc cưỡi ngựa đấu thương với những cây thương sắc nhọn nhất xảy
ra không phải giữa những hiệp sĩ châu Âu thời Trung cổ mà là giữa các chúa đất và những
lực lượng thương mại.
Giai cấp thống trị luôn luôn vấp phải mối đe dọa khi mà đất đai, lao động, vốn hay công
nghệ thay đổi. Họ có thể đổ nhào từ trên mái của những ngôi nhà được xếp từ những quân
bài, đồng thời kêu khóc "sự thực vĩnh cửu" về triết lý của họ. Lịch sử làm xáo trộn những
quân bài, và ai mà nắm giữ lá bài K người đó có thể bị chém đầu.
Một câu chuyện có thể có ích ở đây. Ngày xưa, những tên lính gác nhanh nhẹn chân
thành cảnh báo một chúa đất phong kiến rằng sẽ có một cơn lũ. Gã chúa đất này chạy ngay
đến thánh đường và cầu xin Chúa cứu giúp. Khi mà nước lũ tràn đến những bậc thềm của
tòa thánh đường, một nông nô trong một con thuyền nhỏ chèo thuyền đến chỗ bậc thềm và
đề nghị vị chúa đất lên thuyền. "Không, cám ơn. Ta tin vào Chúa, và ta tin vào công lý. Chúa
sẽ cứu ta." Khi nước dâng lên, gã chúa đất bước lên bục giảng kinh. Lần này một con tàu có
động cơ chạy vội đến chỗ ông ta. Khi nước vỗ mạnh vào bục giảng kinh, người lái tàu la lên:
"Tôi sẽ cứu ngài. Hãy nhảy lên đây!" Lại một lần nữa gã chúa đất quý tộc đáp lại: "Đừng lo.
Ta tin vào Chúa. Chúa sẽ cứu ta. Ta không thích những chiếc máy ồn ào." Cuối cùng, cơn
nước nhấn chìm thánh đường. Khi mà gã chúa đất nắm được đỉnh ngọn tháp cao nhất, thân
8
thể ông ta bị sóng đánh tả tơi, một chiếc máy bay lên thẳng bay đến trên đầu. Viên phi công
hét lên: "Xin ngài, ông chủ của tôi. Hãy nắm lấy cái thang này." Gã chúa đất lại đáp: "Đừng
lo. Ta tin vào Chúa. Chúa sẽ cứu ta." Một lúc sau, nước dâng lên cao hơn và gã chúa đất
chìm nghỉm.
Trên thiên đường (suy cho cùng ông ta là một vị chúa đất tốt), ông ta gặp được Chúa.
"Chúa", ông nói, "tôi tin Ngài cả đời. Tôi làm theo mọi điều mà thầy tu bảo tôi làm. Khi mà
những người khác nghi ngờ và quay sang nhờ đến những chiếc máy, tôi tin Ngài sẽ cứu tôi.
Nhưng Ngài làm tôi thất vọng."
"Kẻ khờ dại đáng khinh!" Chúa ngắt lời, "Ngươi nghĩ ai đã cử thuyền, tàu có động cơ và
máy bay đến hả!"
Ai không đi với dòng chảy của chủ nghĩa duy vật lịch sử, người đó sẽ bị chết đuối trong
đó. Marx mô tả dòng chảy:
Vào một thời kỳ phát triển nhất định, các lực lượng vật chất của sản xuất trong xã hội sẽ xung đột với những quan hệ đang tồn tại… những mối quan hệ này trở thành những xiềng xích của chúng. Khi đó một thời kỳ cách mạng xã hội sẽ xảy ra. Với sự thay đổi của nền tảng kinh tế, toàn bộ thượng tầng kiến trúc rộng lớn kia sẽ bị cải biến dù nhanh dù chậm. Khi xem xét những cải biến như vậy, người ta luôn cần phải phân biệt giữa sự cải biến về mặt vật chất của những điều kiện kinh tế của sản xuất, cái có thể được quyết định nhờ sự chính xác của khoa học tự nhiên; và các hình thức luật pháp, chính trị, tôn giáo, thẩm mỹ hay triết học ‐ nói ngắn gọn là các hình thái tư tưởng, trong đó, con người ngày càng nhận thức được sự xung đột này và đấu tranh loại trừ nó đi.14
Bởi vì chủ nghĩa tư bản dựa trên hệ thống giai cấp, cách mạng và thắng lợi cho giai cấp
công nhân là không thể tránh khỏi. Tác phẩm bất hủ của Marx, cuốn Tư bản đã phác họa
"những khuynh hướng vận hành với sự tất yếu cứng nhắc tiến tới những kết cục không thể
tránh khỏi".15 Chỉ có một xã hội không giai cấp mới có thể tránh khỏi được cách mạng. Và
theo cách nhìn nhận của Marx, một xã hội không có giai cấp cuối cùng rồi cũng sẽ xuất hiện.
Những nhà tư bản thối nát cuối cùng sẽ bị tiêu diệt. Sau nhiều thế kỷ trộm cắp, những người
công nhân cuối cùng sẽ được tự do.
Nếu chủ nghĩa tư bản với sự "tất yếu thép" phải sụp đổ để rồi biến thành chủ nghĩa xã
hội, thì chắc hẳn chủ nghĩa phong kiến phải sụp đổ để biến thành chủ nghĩa tư bản? Có phải
chủ nghĩa tư bản là điểm dừng cần thiết trên con đường tiến tới chủ nghĩa cộng sản? Nếu
vậy, thì đó không phải là một cuộc tàn sát vô cớ, hay một cuộc nổi dậy không may của nhân
loại, như nhiều người xã hội chủ nghĩa không tưởng đã nhìn thấy. Marx được tiếp thêm
xung lực từ các nhà theo chủ nghĩa lãng mạn phi khoa học, những người mô tả chủ nghĩa tư
bản như là một tai nạn tồi tệ do những con người xấu xa tạo ra. Thực ra, Marx đã sáng tác ra
những lời tán dương nghe rất hùng hồn đối với các nhà tư bản, bởi vì theo quan điểm của
ông thì, chủ nghĩa tư bản đã giải phóng con người thoát khỏi những điều kiện tồi tệ hơn.
Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản của Marx không có lúc nào dành cho những tay
lái buôn với lòng hoài cổ có đầu tóc bù xù:
Giai cấp tư sản, nhờ sự cải thiện nhanh chóng của công cụ sản xuất, nhờ những phương tiện vô cùng thuận lợi của thông tin, đã lôi kéo tất cả các dân tộc, thậm chí cả những người dã man nhất, vào nền văn minh. Giá cả hàng hóa rẻ của nó là những khẩu
9
pháo hạng nặng, với chúng, giai cấp tư sản phá tan được tất cả những bức tường Trung Quốc, với chúng, giai cấp tư sản buộc cái đầu ngang ngạnh bướng bỉnh căm ghét những người xa lạ của những người dã man phải đầu hàng….Giai cấp tư sản, trong cái quy luật của sự khan hiếm của nó một trăm năm, đã tạo ra những lực lượng sản xuất to lớn hơn và đồ sộ hơn tất cả các thế hệ trước nó cộng lại.16
Marx đã phê phán giai cấp tư sản, nhưng ông lại dành những công kích độc hại nhất cho
những người đồng chí theo tư tưởng xã hội chủ nghĩa, những người đã đi chệch hướng khỏi
cách nhìn của ông. Không phải người xây dựng liên minh nào cả, với tình bạn chân thành
nhất ông là một hồn ma có mớ tóc xoăn. Marx có lẽ rất căm ghét đảng Xanh và mơ những
thành viên của nó bị nghẹn vì những Quả Nho của mình. Chủ nghĩa tư bản, ông viết, "đã
cứu một bộ phận đáng kể dân số khỏi sự ngu si của cuộc sống thôn quê".17 Ông có lẽ sẽ gửi
"trả lại thiên nhiên" những người theo Đảng Xanh trở về với những cuốn sách lịch sử của họ
để hiểu cuộc sống trước công nghiệp khủng khiếp như thế nào. Marx đáp lại một cách gay
gắt cuốn Triết học của sự khốn cùng của Pierre Proudhon bằng cuốn Sự khốn cùng của
Triết học. Những người thông minh không cố gắng xóa bỏ hay "nhớ lại" những giai đoạn
lịch sử và gửi chúng trở về công xưởng nhỏ bé của Chúa để sửa chữa.
Chủ nghĩa tư bản là một điều kiện tất yếu cho chủ nghĩa xã hội. Bởi vì chủ nghĩa tư bản
sản xuất ra nhiều như thế cơ mà, nó cho phép một hệ thống ít phải điều hành hơn, chủ
nghĩa xã hội, có thể kế tục. Các quốc gia tiền tư bản chủ nghĩa không hề có chuyện hy vọng
làm cách mạng cộng sản chủ nghĩa lật đổ các chúa đất phong kiến hay các đời Nga Hoàng.
Marx không nhìn vào nước Nga. Ông không trông chờ chủ nghĩa cộng sản đến sớm ở Đức,
bởi vì chỉ có 4% lao động nam giới làm việc trong các công xưởng lúc bấy giờ. Cái gông
xiềng có lẽ bị gãy vụn đầu tiên ở Anh và ở Pháp, những sào huyệt của chủ nghĩa tư bản tiên
tiến. Nước Pháp sẽ cho thấy dấu hiện khi nào nước Đức chín muồi cho chủ nghĩa cộng sản:
"Khi tất cả những điều kiện bên trong được đáp ứng đầy đủ, ngày hồi sinh của nước Đức sẽ
được báo trước bởi tiếng gáy của chú gà trống xứ Gô loa."18
Tư bản và sự sụp đổ của Chủ nghĩa Tư bản
Marx không chỉ chờ đợi một cách kiêu ngạo cho tới khi có tiếng gáy của chú gà trống.
Thay vào đó ông viết một cách đầy ngạo mạn về sự mổ xẻ dứt khoát của ông về chủ nghĩa tư
bản, cuốn Tư bản. Trong những năm 1850, Marx tự chôn mình trong đống sách giáo khoa
kinh tế học ở Bảo tàng Anh quốc ở London. Gia đình ông khánh tận khi ông phân tích sự
chịu đựng trừu tượng của người vô sản. Gia đình Marx sống trong một căn hộ nhếch nhác ở
một trong những khu nghèo nhất ở London. Một cảnh sát theo dõi điều tra Marx đã mộ tả
chân dung đầy hình ảnh về sự bần cùng mà gia đình ông phải trải qua:
Khi một ai đó bước vào phòng của Marx, mắt họ bị cay xè vì khói than và mùi thuốc lá tới mức lúc đầu người ta phải dò dẫm y như ở trong một cái hang… Mọi thứ đều bẩn thỉu, mọi thứ đầy bụi, ngồi xuống trở thành một vấn đề nguy hiểu thực sự. Chỗ này thì có cái ghế chỉ có ba chân, chỗ kia thì bọn trẻ chơi đùa và chuẩn bị cơm nước trên một cái ghế khác tình cờ còn nguyên vẹn.
Đối với bản thân Marx, "ông là một người cực kỳ bừa bãi, hay chỉ trích người khác cay
độc, một ông chủ nhà nghèo; ông trải qua một cuộc sống giống kiểu dân gipsi ở Ấn Độ thực
sự. Rửa ráy, chải tóc và thay đồ lót là những điều hiếm thấy ở ông; ông thường xuyên say bí
10
tỉ. Ông thường tiêu phí thời gian cả ngày một cách vô ích, nhưng nếu ông phải làm việc, ông
làm việc cả ngày cả đêm không mệt mỏi". Jenny, mặc dù được nuôi dưỡng theo kiểu quý
tộc, "cảm thấy chấp nhận ở nhà trong sự bần cùng đó".19
Gia đình Marx mất ba người con vì bệnh viêm phổi, viêm phế quản và bệnh lao trong
năm năm bất hạnh ở London. Điều kinh khủng nhất, những người làm dịch vụ tang lễ lại
không cho nợ. Jenny, trở nên vô cùng phiền muộn, đã có lần phải đi ăn xin 2 stecling để
mua quan tài cho đứa con. Mặc dù Marx thường thô lỗ với những người xung quanh, nhưng
những đứa con của ông lại đem đến những nét nhân văn trong nhân cách của ông. Bản thân
ông cũng suy sụp khi chúng chết:
Bacon nói rằng những người thực sự quan trọng có rất nhiều mối quan hệ với thiên nhiên và với thế giới, có rất nhiều thứ để quan tâm, rằng họ dễ dàng vượt qua những mất mát. Tôi không thuộc những người quan trọng như vậy. Cái chết của những đứa con tôi đã hủy hoạt sâu sắc trái tim và khối óc của tôi, và tôi cảm thấy sự mất mát chỉ như mới ngày hôm qua thôi.20
Marx tất nhiên quy cảnh ngộ tuyệt vọng của mình cho giai cấp tư sản và hứa là sẽ bắt họ
phải trả giá cho những tai họa của gia đình ông và cho sự ốm đau của chính ông, kể cả
những đám mụn đỏ trên mặt ông.
Marx hiếm khi tự trách mình. Lẽ ra ông phải làm như vậy. Marx có cảm nhận rất ấu trĩ
về kinh tế của gia đình. Có người đã có lần mô tả sự ấu trĩ như kiểu một con kênh cứ việc hét
to ở đầu này và chẳng có trách nhiệm gì ở đầu kia. Nếu có một ai đó đếm những những món
quà từ gia đình Jenny và Engels gửi cho, và những khoản thanh toán cho những bài báo
trong tờ New York Daily Tribune, thì gia đình Marx phải "kiếm" được một khoản tương
đương của một gia đình trung lưu cấp thấp. Trong những năm tháng nghèo khổ nhất của
họ, họ chỉ kiếm được một khoản thu nhập bằng khoảng ba lần thu nhập của một công nhân
không có kỹ năng. Một nhà thơ cấp tiến người Đức, ông này cũng bị đuổi khỏi quê hương,
viết rằng một khoản thu nhập tương tự như của Marx lúc nào cũng có thể mua được cho ông
"một miếng bít tết bò thơm ngon mang hương vị tha phương".21
Nhưng thay vì thường xuyên chăm sóc gia đình mình, Marx đầu tư tiền vào những tờ
báo chính trị và vào piano, âm nhạc và những bài tập nhảy cho những đứa con của mình!
Mặc dù người vợ của một nhà cách mạng, Jenny vẫn cứ cho in những đồ văn phòng của
tầng lớp trên và tự gọi mình là "Nữ Nam tước Von Westphanlen".
Vấn đề trở nên tồi tệ thêm khi Marx làm cho người hầu gái mang thai (cô ta là một món
quà từ nhà Von Westphanlen). Một lần nữa Marx chối bỏ trách nhiệm của mình gây ra. Ông
nói với Jenny rằng Engels là cha đứa bé. Người hầu gái bỏ đi một thời gian, rồi sau đó quay
trở về với một đứa trẻ tóc rậm, da hơi ngăm đen, đứa bé sau này được đem cho người khác
làm con nuôi.
Với một tình cảnh gia đình như vậy, người ta không ngạc nhiên gì thấy rằng trong suốt
những năm 1850 và 1851, Marx ở trong Thư viện Anh nhiều hơn là ở nhà. Ông đọc hầu hết
tất cả những gì liên quan đến kinh tế học. Ông bỏ ra hàng tháng trời để ghi chép những
đoạn dài của khoảng 80 tác giả. Engels cố gắng làm việc cùng để giúp ông nhanh hơn,
nhưng Marx lại làm tiến độ từ tốn và chậm lại một cách khó chịu. Marx cũng có một quãng
thời gian khó khăn tìm kiếm một nhà xuất bản thực sự có ý muốn chấp nhận khuôn mẫu
11
của ông cho bộ Tư bản. Engels quở trách nhà cộng sản ương ngạnh: "Lần này thì hãy đòi
hỏi về tài chính ít thôi."22
Vào lúc Marx hoàn thành việc nghiên cứu, viết lách và biên tập của mình, và bình phục
sau vài lần ốm đau, cuốn lịch giở sang năm 1867. Quyển I cuối cùng cũng ra đời. Ba quyển
bổ sung thêm được xuất bản sau khi tác giả qua đời.
Để mô tả bộ Tư bản, người ta cũng có thể chọn một trang bất kỳ nào đó trong cuốn
Roget's Thesaurus (Từ điển Đồng nghĩa và Dị nghĩa của Roget) và đọc thật to những tính từ
bất kỳ nào. Cuốn sách đó bao gồm 2.500 trang với sự trích dẫn tới hơn 1.500 tác phẩm. Một
vài trang thực sự là những kiệt tác văn chương. Một số trang toát ra logic sáng sủa. Và một
số lại mang nặng tính kỹ thuật, tầm thường và chán ngắt làm người người ta nhớ đến lời
phê phán kịch liệt của Truman Capote đối với nhà văn Jack Kerouac: "Đây không phải là
viết, mà chỉ là đánh máy thôi."
Chúng ta hãy xem xét bộ Tư bản theo ba bước. Thứ nhất, chúng ta sẽ khám phá điều cốt
lõi của chủ nghĩa tư bản, tư tưởng của Marx về sự bóc lột lao động. Thứ hai, chúng ta sẽ xem
xét những quy luật vận động của chủ nghĩa tư bản, cái tất yếu sẽ dẫn đến sự sụp đổ của nó.
Thứ ba, chúng ta sẽ xem xét những thiệt hại về tâm lý của chủ nghĩa tư bản.
Marx không đi con đường dễ dàng. Ông không đơn giản chỉ vào những doanh nghiệp
hống hách mà tuyên bố rằng kỷ nguyên của các nhà doanh nghiệp và sự cạnh tranh hoàn
hảo kiểu Smith đã hết thời rồi. Hãy nhớ rằng ông là một người theo phái Hegels trẻ; ông
muốn cho thế giới thấy rằng ngay cả những hình thức lý tưởng của chủ nghĩa tư bản nhất
định phải tự thất bại. Ông bắt đầu với những công cụ kinh điển.
Giống như Smith và đặc biệt là Ricardo, Marx "chứng minh" rằng giá trị của một sản
phẩm được quyết định bởi lượng lao động cần thiết để sản xuất ra nó. Máy móc chỉ là lao
động quá khứ được tích lũy lại dưới dạng sắt thép. Một bộ dàn nghe stereo tiêu tốn hết
mười giờ lao động để sản xuất ra nó có giá trị gấp hai lần giá trị của một cái khác chỉ mất có
năm giờ lao động.
Nếu điều đó là đúng, có thể sẽ không có lợi nhuận trừ khi lao động bị bóc lột. Người ta
sẽ nghe thấy phép tam đoạn luận như dưới đây:
1. Giá trị của một sản phẩm (giá cả của nó) được quyết định bởi lượng lao động.
2. Những người công nhân nhận được giá trị đầy đủ của cái mà họ đóng góp vào để
sản xuất ra sản phẩm đó.
3. Do đó, giá trị của một sản phẩm bằng với lượng (giá trị) mà người công nhân nhận
được.
Nhưng giá bán của một sản phẩm lại không được chia nhau giữa những người công
nhân. Người chủ sở hữu nắm lấy một phần trong đó, lợi nhuận của anh ta. Hãy quên đi bàn
tay vô hình. Bàn tay hữu hình và thô bạo của nhà tư bản nắm lấy một phần công việc. Lợi
nhuận từ đâu mà ra? Định đề 2 nhất định phải sai. Người công nhân không thể nhận được
đầy đủ giá trị mà họ đóng góp. Họ chắc chắn đã bị bót lột. (Những người phê phán Marx tất
nhiên lập luận rằng định đề 1 không đúng.)
Những nhà tư bản lừa người công nhân như thế nào? Thay vì trả cho họ một khoản mà
nhờ đó họ làm tăng thêm giá trị của việc kinh doanh của nhà tư bản, nhà tư bản chỉ trả cho
họ một sự tồn tại thôi, cái chỉ đủ giữ cho họ đủ sống sót và làm việc. Nhà tư bản mua sức lao
12
động như thể nó là một hàng hóa bất kỳ nào khác. Sau đó anh ta bắt nó phải làm việc X giờ
mỗi ngày.
Chúng ta hãy sử dụng những thuật ngữ của Marx. Marx phác họa chân dung nhà tư bản
cung cấp các công xưởng và thiết bị, gọi là vốn cố định. Họ cũng trả cho lao động, gọi là vốn
lưu có khả năng biến đổi. Khi quá trình sản xuất diễn ra, nhà tư bản nhất quyết phải đảm
bảo rằng giá trị của sản phẩm cuối cùng phải vượt tổng vốn cố định cộng vốn có khả năng
biến đổi. Giá trị tăng thêm (lợi nhuận) có được từ việc trả cho công nhân ít hơn giá trị mà
họ sản xuất ra. Nói cách khác, giá trị của người công nhân cộng vào giá trị sản phẩm vượt
quá vốn có khả năng biến đổi mà họ được trả. Marx gọi đây là sự ăn cướp giá trị thặng dư
của người lao động.
Ví dụ, Jasmin là một thợ may làm việc cho chương trình sân khấu Radio City Music
Hall. Khán giả nói chung không thích những trang phục rách nát. Vì thế công việc may vá
của cô làm tăng thêm giá trị của một buổi biểu diễn khoảng 10 đô la. Nhưng cô chỉ được trả
6 đô la thôi. Các ông chủ bóp nặn 4 đô la thặng dư của Jasmine cho mỗi buổi biểu diễn hằng
ngày. Tỷ lệ giữa giá trị thặng dư đối với tiền lương là (4/6) gọi là tỷ lệ bóc lột.
Tại sao Jasmine lại không đòi 10 đô la để có được giá trị đầy đủ? Chủ nghĩa tư bản dẫn
đến thất nghiệp và một đội quân dự bị sẵn sàng thế chỗ của Jasmine nếu cô đòi hỏi nhiều
tiền hơn. Cô không sở hữu máy may, trang phục, hay sân khấu gì cả. Các ông chủ mới là
người sở hữu. Bằng cách kiểm soát những phương tiện sản xuất, họ thống trị thị trường lao
động.
Các ông chủ đặt ra mức lương 6 đô la cho Jasmine như thế nào? Các ông chủ chỉ cần trả
những người công nhân đủ để cho họ sống sót. Jasmine nhận 6 đô la bởi vì 6 đô la sẽ giúp
cô sống được. Cô ta nhận được một đồng lương đủ sống. Nếu cô ta có được 1 đô la cho mỗi
giờ làm việc, thì sáu giờ làm việc sẽ giúp cô đủ sống. Nhưng các ông chủ không để cô dừng
lại ở sáu giờ. Họ buộc cô phải làm việc nhiều hơn trong một ngày, vá chữa nhiều bộ trang
phục rách hơn. Họ kéo 6 đô la tiền lương của cô thành, chẳng hạn, hơn mười giờ làm việc.
Kết quả là: Cô ta làm việc sáu giờ cho chính mình và bốn giờ tăng thêm cho các công chủ.
Khoản thặng dư bốn giờ đi ngay vào túi ông chủ. Họ chẳng cần phải đụng đến một cái đê
nào cả.
Tại sao người công nhân được trả đồng lương chỉ để đủ sống? Chúng ta nói rằng giá trị
của một hàng hóa được quyết định bởi lượng lao động nhập vào trong hàng hóa đó. Cung
lao động cũng là một hàng hóa. Do vậy, giá cả của lao động là khoản tiền cần thiết để sản
xuất và duy trì một con người: mức đủ sống.
Nói chung, các ông chủ không trả cho công nhân đủ để mua cái mà họ sản xuất ra.
Những người công nhân vật lộn chỉ để có được một phần thôi. Trong ví dụ của chúng ta,
Jasmine không thể trả nổi một chiếc vé 10 đô la cho buổi biểu diễn, thậm chí cô cộng thêm
10 đô la giá trị vào đó. Có lẽ các ông chủ sẽ để cho cô mua một chiếc vé 5 đô la thôi, nếu cô
hứa chỉ xem các diễn viên từ phần thắt lưng họ trở lên.
Nếu lợi nhuận kiếm được nhờ bóc lột lao động, chúng ta có thể xác định mức lãi tức như
tỷ lệ của phần thặng dư trên tổng vốn cố định cộng với vốn có khả năng biến đổi (s/[v + c]).
Nhà tư bản có thể làm tăng lợi nhuận nếu ông ta ép buộc ngày lao động dài hơn đối với
những người làm thuê của mình. Hoặc ông ta có thể tăng được lợi nhuận bằng cách bóc lột
lao động của phụ nữ và trẻ em ngoài lao động của những người đàn ông. Trong kỷ nguyên
13
khi mà Marx viết, giờ làm không tăng và ngày càng có nhiều lao động nữ và trẻ em đã gia
nhập vào lực lượng lao động công nghiệp.
Đến đây chúng ta hiểu lợi nhuận nhờ bóc lột có được như thế nào? Nhưng tại sao điều
này lại không thể tiếp diễn được? Những quy luật nào là quy luật của chủ nghĩa tư bản suy
cho cùng giải thoát người công nhân khỏi sự tuyệt vọng và làm cho các nhà tư bản phải quỳ
gối? Marx không chỉ tuyên bố rằng một cuộc cách mạng xã hội sẽ nổ ra. Ông mô tả một cách
cẩn thận những cái không hợp lý về kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Chúng ta sẽ khảo sát năm
“quy luật” hoặc “những khuynh hướng” thể hiện một sự bùng nổ kinh tế. Chẳng những
không hoan nghênh chủ nghĩa tư bản, bàn tay vô hình cuối cùng lại phá tan nó.
1. Tỷ lệ lợi nhuận giảm xuống và sự tích lũy tư bản. Cũng như Adam Smith,
Marx nhận thấy chủ nghĩa tư bản đối mặt với sự cạnh tranh. Nếu một công ty mở rộng quy
mô sản xuất của mình, nó có thể sản xuất hiệu quả hơn. Công ty nào có khả năng đổi mới sẽ
ép buộc các đối thủ cạnh tranh của nó phải mở rộng. Các công ty sẽ thuê mướn nhiều nhân
công hơn. Nhưng điều đó sẽ làm tăng tiền lương vượt mức đủ sống. Các ông chủ làm gì? Họ
sẽ thay thế lao động bằng máy móc. Nếu họ không làm điều đó, lợi nhuận của họ sẽ giảm
xuống, bởi vì trả cao hơn làm cho sự bóc lột của họ tạm dừng lại. Sự cạnh tranh khiến họ
phải thay thế như vậy.
Nhưng ở đây các ông chủ khôn ngoan hơn và bị rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan. Các
khoản thặng dư chỉ có thể bóp nặn được từ con người. Những người bán máy móc là chủ tư
bản có thể đòi giá trị công bằng, đầy đủ cho các sản phẩm của họ. (Nếu một công cụ in tráng
phim tốc độ cao làm tăng thu nhập của công ty bởi vì nó có thể in tráng nhiều ảnh hơn
trong một giờ, nhà sản xuất thiết bị có thể sẽ đòi công ty làm ảnh một cách thích đáng.) Hãy
nhìn lại công thức của Marx về tỷ lệ lợi nhuận s/[c + v]. Bằng cách cộng thêm máy móc [c],
các nhà tư bản làm giảm lợi nhuận của mình. Trên một khía cạnh khác của thế tiến thoái
lưỡng nan, nếu họ chống lại việc tăng thêm máy móc, không một ai sẽ mua những sản phẩm
không có sức cạnh tranh của họ:
Sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa làm cho nó luôn luôn phải tăng lượng vốn đổ vào một hoạt động kinh doanh công nghiệp nhất định, và sự cạnh tranh làm cho từng cá nhân các nhà tư bản đều cảm nhận được những quy luật nội tại của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, như là những quy luật bắt buộc bên từ bên ngoài. Điều này buộc anh ta phải liên tục mở rộng quy mô tư bản, nhằm duy trì nó…
Hãy tích lũy, hãy tích luỹ! Đó là Moses và các nhà tiên tri!... Do đó, hãy tiết kiệm, hãy tiết kiệm v.v..., hãy biến phần lớn nhất có thể có được của giá trị thặng dư, hay sản phẩm thặng dư thành tư bản!23
Một kết cục tương tự xảy ra nếu một nhà tư bản nâng cấp một cái máy. Người chủ nào
mà tạo ra được một chiếc máy may tốt hơn có thể đưa ra một giá thấp hơn cho sản phẩm
của anh ta. Bởi vì các ông chủ phải ganh đua với nhau, nên các đối thủ cạnh tranh phải
dành dụm những khoảng thặng dư moi được từ lao động và đầu tư vào máy may mới.
"Lòng tham vô hạn" của nhà tư bản buộc họ phải bị hủy diệt. Để tránh mất mát lợi
nhuận, các ông chủ cố gắng bóc lột lao động thậm tệ hơn nữa. Bằng cách nào? Họ sẽ tăng
tốc độ làm việc. Và họ sẽ kéo dài ngày lao động hơn nữa. Tất nhiên, những chiến thuật này
chỉ kéo dài hơn sự chịu đựng của người lao động một cách nguy hiểm.
14
2. Sự tập trung ngày càng cao quyền lực kinh tế. Với các nhà tư bản buộc phải
mở rộng và phát triển một cuộc chiến sẽ diễn ra ác liệt. Những công ty lớn nhất, những
người có thể sản xuất rẻ hơn, sẽ chiến thắng huy hoàng. Cuộc chiến đẫm máu "luôn luôn kết
thúc bằng sự hủy diệt đối với các nhà tư bản nhỏ, vốn liếng của họ một phần chuyển sang
tay những kẻ chiến thắng, một phần biến mất".24 Những kẻ sống sót sẽ nhanh chóng làm
cho kẻ bại trận trở nên còi cọc.
3. Khủng hoảng và trì trệ sâu sắc. "Những lời nhảm nhí con nít… những lời nói
khéo chỉ cốt được khen… những lời vô lý bịp bợm." Marx dùng những từ này để mô tả lập
luận của Say về sự ổn định của chủ nghĩa tư bản. Khi các nhà tư bản thay thế (máy) cho lao
động, nạn thất nghiệp tăng lên. Ai mua hàng hóa khi mà các ông chủ mở rộng sản xuất?
Không ai cả. Hàng hóa ngồi đó. Nạn phá sản tăng vọt. Sự sợ hãi trở nên khủng khiếp. Các
nhà tài chính bán tống bán tháo những tài sản của mình. Đầu tư tụt xuống. Các nhà đầu tư
nhảy lầu. Tất nhiên, vòng quay sẽ lại quay trở lại, sau khi giá cả tụt xuống. Những kẻ sống
sót sẽ lại thu gom những doanh nghiệp bị đổ vỡ và thuê mướn lại những người công nhân
tuyệt vọng. Các khoản thặng dư và lợi nhuận lại xuất hiện trở lại. Nhưng chỉ để suy giảm
nhanh hơn và nhiều hơn nữa ở lần tiếp theo.
4. Đội quân dự bị công nghiệp. Nhờ thay thế và trì trệ, các nhà tư bản ném ngày
càng nhiều người ra đường phố. "Đội quân" này không mang tính quân đội hơn Quân đội
Cứu tế (Salvation Army) - lúc đầu là như vậy. Chừng nào mà đội quân này vẫn duy trì được
bình tĩnh, nó vẫn còn là một nguồn lao động chi phí thấp. Sự dư thừa công nhân giúp các
nhà tư bản kiểm soát được tình hình - lúc đầu là như vậy.
5. Sự bần cùng ngày càng tăng của giai cấp vô sản. Cùng "với số các ông trùm
tư bản ngày càng giảm dần, những người chiếm đoạt được và nắm độc quyền tất cả các ưu
thế… số người bị bần cùng hóa, bị áp bức, làm nô lệ, bị thoái hóa, bị bóc lột sẽ ngày càng
tăng lên"25. Ngày làm việc dài hơn và ít được nghỉ ngơi hơn đem lại sự bần cùng hơn cho
những lao động bị chà đạp. Những bài viết trước đó của Marx lập luận rằng mức sống tuyệt
đối của họ bị giảm xuống. Nhưng trong bộ Tư bản, được viết khi vấp phải những bằng
chứng cho thấy mức sống tuyệt đối của công nhân lại tốt hơn, ông lại rút lui, thừa nhận rằng
chỉ có những công nhân có một phần nhỏ hơn trong sự giàu có so với trước.
Cuối cùng, sau nạn thất nghiệp, lợi nhuận giảm xuống, sự tuyệt vọng vô nhân đạo và sự
bần cùng, người vô sản sẽ nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Cái mặt nạ của thượng
tầng kiến trúc sẽ bị lột bỏ. Con quỷ xấu xa mà người ta gọi là chủ nghĩa tư bản sẽ lộ rõ. Quần
chúng bị áp bức sẽ vùng lên: "Người ta nghe thấy hồi chuông tài sản riêng của các nhà tư
bản rung lên. Những kẻ đi tước đoạt bị tướt đoạt lại."26
Những người vô sản sẽ giành được nhiều thứ hơn là các công xưởng. Họ giành lại được
sự nhân văn. Các nhà tư bản cướp đoạt không chỉ những túi tiền của người vô sản. Họ còn
cướp đi cả trái tim và khối óc. Đối với Marx, lao động đóng một vai trò quan trọng trong
cuộc sống của con người. Con người bị ép buộc phải sáng tạo và nâng cao cuộc sống của
mình thông qua tự nhiên và thông qua mối quan hệ với người khác. Nhân cách của con
người không thể phát triển nếu không làm việc sáng tạo. Dưới chủ nghĩa tư bản, lao động
15
chỉ làm một loại hàng hóa mà thôi. Con người bị buộc ép buộc phải chấp nhận những công
việc đần độn và tẻ nhạt. Họ trở thành những công cụ sinh vật. Họ cảm thấy xa lạ với chính
họ, với thế giới, và với người khác. Sự xa lạ trở thành một chủ đề nổi bật trong sự phê phán
của những người theo chủ nghĩa Marx và trong những sự phê phán của những người theo
thuyết hiện sinh đối với xã hội hiện đại.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Marx và Engels hối thúc những người vô sản
nắm lấy nền kinh tế và giải phóng chính mình:
Những người cộng sản không việc gì phải che đậy quan điểm và mục đích của mình. Họ công khai tuyên bố rằng kết cục của họ có thể đạt được chỉ bằng cách lật đổ bằng vũ lực những điều kiện xã hội hiện đang tồn tại. Hãy để giai cấp thống trị run sợ trước một cuộc cách mạng Cộng sản. Những người vô sản không có gì để mất ngoài xiềng xích của họ. Họ sẽ giành được cả thế giới.
Hỡi lao động toàn thế giới, hãy đoàn kết lại!27
Với sự xuất bản cuốn Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, gần 20 năm sau, những người vô
sản có thể hậu thuẫn cho những khẩu hiệu súc tích của mình bằng những phân tích sắc sảo.
Nhưng điều gì xảy ra sau cách mạng? Có phải tất cả mọi người đều đơn giản được hôn
lên và được tận hưởng cuộc sống sung sướng trong thế giới mới hình thành? Có phải tất cả
mọi người đều ngồi xung quanh đốm lửa trại, tay nắm tay, và hát "Cum-Ba-Ya"? Một vài
nhà Marxit đương thời có lẽ làm cho người ta nghĩ vậy.
Chắc chắn, Marx khinh miệt chủ nghĩa xã hội không tưởng và nhếch mép cười nhạo sự
đơn giản quê mùa của nó. Ông ta là một người vô cảm. Ông khinh bỉ lòng khát khao ước
vọng có được sự phân phối thu nhập "công bằng" hay một sự phân phối tài sản quy mô lớn.
Những người công nhân, ngay cả dưới chủ nghĩa xã hội, cũng không được hưởng "giá trị đầy
đủ" của lao động của mình. Mặc dù vậy, khoản thặng dư sẽ tới tay "nhân dân" vì những dịch
vụ tập thể.
Vậy chủ nghĩa cộng sản thực sự nghĩa là gì? Chúng ta không hiểu điều đó. Marx đã né
tránh một cách có chủ tâm việc để lại "cách nấu" cho những "cửa hiệu nấu ăn của tương
lai"28. Nếu không có sách dạy nấu ăn, chủ nghĩa Marx với tư cách là một hệ thống cai trị trở
thành một cái gì giống như món xúc xích chính trị: một cách thức rẻ tiền để ép những mục
đích của một tổ chức vào một dạng thức có thể nuôi dưỡng những người khác.
Marx cho rằng suy cho cùng, nhà nước sẽ "tiêu vong". Đồng thời một nền chuyên chính
của giai cấp vô sản sẽ thống trị. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản bao gồm một kế hoạch
mười điểm chia thành "những sự đột nhập bạo ngược vào quyền sở hữu tài sản":
1. Hủy bỏ quyền sở hữu đất đai và áp dụng tất cả các loại địa tô cho các mục đích công
cộng.
2. Một chế độ thuế thu nhập lũy tiến hoặc được chia theo cấp độ.
3. Hủy bỏ mọi quyền thừa kế.
4. Tịch thu tài sản của tất cả những người di cư và những kẻ nổi loạn.
5. Tập trung tín dụng vào trong tay nhà nước bằng một ngân hàng quốc gia với vốn
nhà nước và sự độc quyền tuyệt đối.
16
6. Tập trung các phương tiện thông tin liên lạc và vận tải trong tay nhà nước
7. Mở rộng các công xưởng và công cụ sản xuất do nhà nước sở hữu; canh tác ở những
vùng đất bỏ hoang, và cải thiện đất đai trong một kế hoạch chung bao quát.
8. Mọi người đều có trách nhiệm lao động. Thành lập các đội quân công nghiệp, đặc
biệt là đối với nông nghiệp.
9. Kết hợp nông nghiệp với công nghiệp chế biến; dần xoá bỏ sự phân biệt giữa thành
thị và nông thôn, nhờ một kiểu phân phối ngang bằng hơn về dân trong cả nước.
10. Giáo dục không mất tiền cho tất cả trẻ con trong các trường công. Xoá bỏ lao động
trẻ em trong công xưởng dưới mọi hình thức như hiện nay. Gắn giáo dục với sản xuất công
nghiệp, v.v...29
Những người Marxit sau này sẽ phải hình dung xem làm thế nào để thực hiện được kế
hoạch đó. Không hoàn toàn lạc quan về những phong trào xã hội chủ nghĩa bị vỡ vụn ở châu
Âu, Marx đã có lần tuyên bố rằng ông không còn là một nhà Marxit nữa.
Trong cuốn Kinh Thánh, Chúa ngăn Moses không cho vào Miền Đất hứa. Nhưng những
người Marxit, không giống như những người Israel, không hề có Joshua dẫn đường khi
Marx chết năm 1883.
Nhìn vào Marx
Làm thế nào mà chúng ta có thể phê phán một cách toàn diện những phân tích thiên tài
của Marx? Nhiệm vụ này thật là đáng sợ. Trong suốt thế kỷ qua, giới trí thức đã viết đầy
hàng triệu trang giấy để ngợi ca, lăng mạ và ba hoa, bốc phét. Một nghị trình khiêm tốn để
đánh giá Marx là như thế này: (1) Lịch sử mang tính duy vật duy vật của Marx bóp méo tư
tưởng về lao động thặng dư như thế nào? (2) Những điều tiên đoán về sự bần cùng hóa, nạn
thất nghiệp và sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản thì như thế nào? (3) Ông đem lại cho kinh tế
học hiện đại những thứ gì? (4) Ông đem lại cho chính trị học hiện đại cái gì?
1. Lịch sử mang tính duy vật của Marx đã bóp méo tư tưởng về lao động
thặng dư như thế nào. Trong tác phẩm Những người khốn khổ của Victor Hugo, Jean
Valjean thường xuyên phải đối diện với sự báo oán: Thanh tra Javert. Và cuộc đời cứ lôi kéo
Javert một cách không thể cưỡng lại phải trở lại với Valjean. Sự biện chứng văn học tạo ra
một cuộc tranh đấu kịch tính cho mỗi bên. Nếu không có nhân vật khác, cuộc đời sẽ trở nên
quá đơn giản cho mỗi người bọn họ.
Sự rắc rối với lịch sử của Marx là ở chỗ nhà biện chứng bậc thầy này lại bỏ qua sự biện
chứng kịch tính nhất: giữa những nguyên nhân tư tưởng và những nguyên nhân vật chất. Về
cơ bản, Marx phác họa những nhân tố vật chất như là những yếu tố có tính chất nguyên
nhân. Chúng tạo nên và định kỳ làm thay đổi những tư tưởng hay thượng tầng kiến trúc của
một xã hội. Nhưng khi mà giả định về mối liên hệ này, Marx rất thường xuyên coi nhẹ
những lực lượng thuộc về tư tưởng. Và kẽ hở này làm cho kinh tế học của ông bị nhiễm độc.
Khái niệm về lao động thặng dư làm cơ sở cho toàn bộ học thuyết Marx về chủ nghĩa tư
bản. Hãy nhớ lại phép tam đoạn luận đơn giản. Tại sao lao động lại bị bóc lột? Bởi vì Marx
nắm chặt lấy "lý thuyết về giá trị lao động" qua đó nhà tư bản thu được lợi nhuận. Theo
Marx, "không có một đơn nguyên tử" nào của giá trị đến từ nhà tư bản.30 Marx nhìn thấy
17
một cách dễ dàng Jasmine, cô thợ may hay người làm đồ trang sức da đen đang đập thình
thịch vào cái đe. Nghĩa là họ tạo ra giá trị.
Marx đã bỏ quên điều gì? Ông bỏ quên mất khả năng sáng tạo và tài kinh doanh. Tạo ra
của cải đòi hỏi phải có nhiều nhập lượng hữu hình hơn nữa. Sự phát triển các máy VCR
không đòi hỏi nhiều loại vật liệu thô mới hay những phương thức bóc lột lao động mạnh mẽ
nào. Ngành sản xuất video đòi hỏi hai điều: phát minh và bản lĩnh kinh doanh, ý nguyện
chấp nhận rủi ro đối với đầu tư. Tại sao người Nga sống dưới chế độ cộng sản lại phải xin
những chiếc quần bò làm bằng sợi bông mà người Mỹ làm ra? Không phải vì Liên Xô thiếu
bông hay thiếu công nhân để sản xuất quần áo chất lượng cao, mà bởi vì họ thiếu sự sáng
tạo, thiếu động cơ làm việc và thiếu kỷ luật. Chính những cái vô hình này phân biệt những
công ty và những quốc gia này với những công ty và những quốc gia khác.
Chủ nghĩa duy vật của Marx không may lại làm ông ta phớt lờ tất cả những loại vốn, như
vốn con người, tức là tri thức, sự thành thạo, hay kỹ năng quản lý rất quan trọng để có được
lợi nhuận. Làm thế nào mà lý thuyết về giá trị lao động có thể tính đến được những giây
phút lóe sáng giống như những ví dụ dưới đây?
Một vài năm trước, khi một người bước qua một khu rừng, một bông gai nhỏ bắt chặt
lên chiếc tất len của anh ta. Tài khoản ngân hàng của anh ta giờ đây đầy ắp tiền. Anh ta phát
kiến ra loại băng dán hai mặt bông, gai (Velco). Liệu những món lợi nhuận này là đánh cắp
của công nhân?
Trong chương sau, chúng ta sẽ thấy rằng Alfred Marshall tấn công Marx vì đã bỏ qua giá
trị của việc chấp nhận rủi ro và "chờ đợi" đối với xã hội. Bằng cách đầu tư, nhà tư bản từ bỏ
sự thỏa mãn tức thời mua hàng hóa. Những khoản kiếm được nhờ đầu tư trả cho anh ta vì
sự chờ đợi, vì sự trì hoãn niềm sung sướng. Nếu mọi người đều tiêu dùng tất cả mọi thứ bây
giờ, xã hội sẽ chẳng tạo ra được cái gì mới. Do vậy, lợi nhuận đóng một vai trò cốt tử và
hoàn toàn hợp lý. (Thật tình cờ, cuộc "cách mạng" của những người theo phái cận biên
(marginalist), mà Marshall là người đi đầu, cho thấy rằng giá trị được đến từ nhu cầu, cũng
như từ sản xuất hay cung. Vào thời gian đó Quyển II bộ Tư bản xuất hiện sau khi tác giả đã
chết, những người theo phái cận biên đã tấn công dữ dội cách tiếp cận chỉ nhấn đến phía
cầu của Marx và những nhà kinh điển.)
Bằng việc giả định lý thuyết giá trị lao động, Marx coi thường quá nhiều yếu tố mang
tính ý tưởng và năng động. Ricardo né tránh vấn đề này, bởi vì ông nhìn nhận lý thuyết giá
trị lao động chỉ là một công cụ tính toán tiệm cận thôi, chứ không phải là nguyên nhân
quyết định của giá trị. Khi Marx cố chứng minh lý thuyết theo cách toán học, ông rơi vào
một đống bông gai, thật là ngạc nhiên là ông lại không phát hiện loại băng dán hai mặt bông
và gai (Velco) hồi thế kỷ XIX.
2. Những điều tiên đoán về sự bần cùng hóa, nạn thất nghiệp và sự sụp đổ
của chủ nghĩa tư bản? Marx không có ý định đưa ra lời tiên đoán. Ông nhằm vào sự tiên
đoán khoa học, dự báo tiến trình lịch sử dựa trên những khuynh hướng nhận biết được.
Nhưng khi lịch sử đi chệch hướng từ những dự báo của ông, thì những hậu duệ sau khi ông
mất đã tạo ra một tôn giáo giả tạo từ những công trình của ông. Thật vậy, những "quy luật"
tuân theo lịch sử. Sau khi mô hình hóa những quy luật, những giáo lý của ông có thể xác
định sự đúng đắn của những điều tiên đoán. Mặc dù được khởi nguồn như là một khoa học
18
phi thần thánh, chủ nghĩa Marx trong thế kỷ XX lại trở nên giống như một cái cửa sổ kính
màu nhìn nhận Mặt trời một cách có chọn lọc và hiếm khi thừa nhận sai lầm. Một khi
những quy luật trở thành thánh kinh tôn giáo, thì những nỗ lực nhằm kiểm chứng chủ
nghĩa Marx một cách khoa học đều thất bại.
Marx sống đủ lâu để nhìn thấy một vài người ủng hộ mình tung hô, tán tụng những quy
luật của ông, dựng lên những bục giảng đạo và ban phát bánh thánh. Người cầm đầu cuộc
nổi dậy, Proudhon cảnh báo Marx đừng có tạo ra một cuốn giáo lý vấn đáp:
Vì sự nghiệp của Chúa, sau khi chúng ta bãi bỏ tất cả những giáo điều võ đoán một tu viện, chúng ta hãy đừng vì tất cả mà cố tiêm nhiễm một loại giáo điều võ đoán khác vào đầu dân chúng… Chúng ta hãy luận chiến với nhau một cách lịch sự và chân thành… Nhưng đơn giản bởi vì chúng là tâm điểm của phong trào, chúng ta hãy đừng làm cho mình trở thành lãnh tụ của một sự không khoan dung mới, chúng ta đừng áp đặt như là tông đồ của một tôn giáo mới ‐ ngay cả khi tôn giáo này là tôn giáo của logic, tôn giáo của lý trí.31
Ngay cả khi chúng ta không thể bác bỏ được những dự đoán của Marx, chúng ta vẫn có
thể quan sát một vài phát triển trong các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa kể từ thời đại của
ông. Thứ nhất, mức sống của công nhân đã được nâng lên rất đáng kể trong thế kỷ này.
Theo định nghĩa về sự nghèo đói hiện nay, giai cấp tư sản nổi lên ở thời của Marx đã bị
nghèo đi và bị "bần cùng hóa" theo thuật ngữ của Marx. Và nếu chiểu theo định nghĩa ở thời
của Marx, thì giai cấp công nhân ngày nay là giàu có một cách phô trương. Không ai có thể
bác bỏ sự tăng lên trong mức sống "tuyệt đối" của người công nhân.
Tuy cuốn Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản cảnh báo trước những người công nhân rằng
"những người lao động hiện đại… thay vì tăng lên với sự tiến bộ của công nghiệp, lại tụt
xuống ngày càng sâu hơn dưới những điều kiện sinh tồn của chính giai cấp mình. Anh ta trở
thành một người khốn khổ". Nhưng Marx sớm nhận ra rằng ví tiền của công nhân trở nên
đầy hơn. Ông thậm chí cũng phải thừa nhận rằng mười năm sau khi cuốn Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản ra đời, tiền lương của công nhân đã tăng lên 40%.32
Vì lý do này Marx sửa đổi những định nghĩa và cảnh báo rằng công nhân sẽ trở nên ngày
càng nghèo hơn so với nhà tư bản. Cảnh ngộ khải huyền của người công nhân cứ mờ nhạt
dần đi: Người giàu sẽ giàu hơn, và người nghèo cũng trở nên giàu hơn. Nhưng người giàu sẽ
giàu nhanh hơn.33
Marx ép định nghĩa mới vào bộ Tư bản bằng cách tuyên bố rằng "sự tồn tại" là một
thuật ngữ tương đối, tùy thuộc vào lối sống đương thời. Giả định là trong thế kỷ XX sự sinh
tồn tối thiểu đòi hỏi phải có máy truyền hình màu, vì những người "nô lệ ăn lương" trung
bình trong lĩnh vực chế tạo có thể mua được. Bằng cách rút lui vào lập luận theo kiểu tương
đối như vậy, Marx phải từ bỏ niềm đam mê và cảm giác về sự tuyệt vọng trong cảnh ngộ của
người công nhân. Chừng nào mà người nghèo vẫn trở nên giàu có hơn, thì viễn cảnh thậm
chí còn bỏ qua cả sự kiểm định công lý xã hội của nhà triết học John Rawls (cho phép người
giàu kiếm được chỉ khi nào người nghèo cũng có lợi).34
Những người Marxit hiện đại, do đó, nhấn mạnh đến sự bần cùng và sự thải loại mang
tính chất tâm lý. Họ có lẽ đúng; những người công nhân vẫn thường cảm thấy buồn chán và
phẫn nộ. Nhưng Marx không bảo chúng ta, chẳng hạn, làm thế nào để chủ nghĩa xã hội làm
cho việc thu gom rác rưởi trở nên thú vị. Nếu những người lao động hạnh phúc làm việc tốt
19
hơn, thì ít nhất dưới chủ nghĩa tư bản, những người chủ có những sự khuyến khích mạnh
mẽ để thỏa mãn những người làm thuê của mình.
Hơn nữa, làm thế nào để chúng ta có thể xác định được sự hạnh phúc ở những người lao
động? Nếu tiền lương là mang tính tương đối, thì tại sao điều đó lại không phải là sự hạnh
phúc? Liệu chúng ta có phải đưa ra câu hỏi tuyệt đối: Những người công nhân hôm nay có
hạnh phúc hơn những người công nhân 100 năm trước không? Hay chúng ta phải đặt ra
câu hỏi tương đối: Họ có trở nên hạnh phúc nhanh hơn mức hạnh phúc của các nhà tư bản
không? Hãy xem xét điều này: Người giàu trở nên hạnh phúc hơn, và nghèo cũng đang
hạnh phúc hơn. Nhưng người giàu đang trở nên hạnh phúc hơn một cách nhanh hơn. Một
khi chúng ta bắt đầu diễn giải sự hạnh phúc sao cho chúng ta có thể kiểm định được chủ
nghĩa Marx "khoa học", thì đó là một ngày đáng buồn cho những người Marxit cũng như
những người phi Marxit.
Marx cũng tiên đoán sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản, một hệ thống tạo ra những "người
đào mồ chôn" chính mình. Nhưng chủ nghĩa tư bản lại có vẻ chưa chết. Nạn thất nghiệp có
cao hơn một chút so với hồi đầu thế kỷ, nhưng nếu chúng ta xem xét tỷ lệ phần trăm của
dân số lao động, và đặc biệt sự cộng thêm lao động nữ, thì tỷ lệ việc làm lại cao hơn.
Hơn nữa, chủ nghĩa tư bản thường sản sinh ra tầng lớp trung lưu sở hữu một cách gián
tiếp một số phương tiện sản xuất thông qua thị trường chứng khoán. Trong những năm cuối
1980, hàng triệu người Anh thuộc tầng lớp trung lưu cấp thấp mua cổ phiếu trong những
công ty được "tư nhân hóa" như British Telecom, British Steel và British Airways. Hầu hết
các quỹ hưu trí nghiệp đoàn ở Mỹ đều đầu tư nhiều vào các chứng khoán công ty.
Một số người bảo vệ Marx chỉ ra sự gia tăng của chính phủ trong các quốc gia tư bản chủ
nghĩa như là vị cứu tinh bất ngờ của chủ nghĩa tư bản. Các chi tiêu phúc lợi xã hội bảo vệ
chủ nghĩa tư bản tránh khỏi sự trì trệ sâu sắc hơn và tránh cách mạng. Những người bảo vệ
Marx có lẽ đúng. Nhưng hãy nhớ rằng, Marx dự báo rằng hệ thống chính trị và thượng tầng
kiến trúc sẽ giữ bất động, chống lại sự thay đổi. Sự không linh hoạt sẽ hủy hoại nó. Nếu, xét
về quá khứ, thượng tầng kiến trúc nhượng bộ để cứu chủ nghĩa tư bản, thì Marx lại sai trên
hai khía cạnh.
Cuối cùng, những người Marxit giải thích sự thành công ngạc nhiên của chủ nghĩa tư
bản bằng cách viện dẫn những quốc gia bên ngoài. Các nhà tư bản bắt đầu bóc lột những
những công nhân nước ngoài ở những nước kém phát triển hơn, họ nói, và những người
công nhân bị bóc lột ở nước ngoài này duy trì được nền kinh tế trong nước. Một lần nữa,
ngay cả khi lập luận này có giá trị, thì nó cũng đưa chúng ta chệch xa ra khỏi sự phân tích
của Marx về sự hủy hoại biện chứng, bên trong của chủ nghĩa tư bản.
Nói tóm lại, Marx phát minh ra một hệ thống khoa học trong bộ Tư bản. Ông tiên đoán
một cách tự tin con đường của chủ nghĩa tư bản. Với lối diễn giải phóng khoáng và khó nắm
bắt, ông có lẽ đúng trong một vài trường hợp. Nhưng có một điều chắc chắn: Marx rất khinh
thường những người đa cảm tôn giáo, ông sẽ bác bỏ một cách bực tức những nỗ lực giành
chiến thắng trong lập luận bằng sự khoan dung tri thức.
3. Marx đem lại cho kinh tế học hiện đại cái gì? Khi mỉa mai tính thiết thực của
một lý thuyết nào đó của đồng nghiệp, nhà kinh tế học Joan Bobinson thường nói: "Hãy
20
tưởng tượng một con chó chạy qua cánh đồng đuổi bắt một con cáo. Con chó đi theo hơi của
con cáo. Lý thuyết của đồng nghiệp của tôi là con bọ chét trên lưng con chó đó."
Đối với hầu hết các nhà kinh tế ở Mỹ và ở Anh, các lý thuyết kinh tế của Marx là những
con bọ chét đó. Trong phạm vi lý thuyết kinh tế chính thống, sự thách thức của Marx chỉ
như kiểu thùng rỗng kêu to thôi. Paul Samuelson mô tả lý thuyết giá trị lao động như là một
sự nguỵ biện trừu tượng hay một sự nguỵ biện mang tính định nghĩa mà thôi.
Trong cuộc Đại Suy thoái, George Bernard Shaw đã cố thuyết phục John Maynard
Keynes về những phẩm chất của Marx. Keynes chống lại:
Cảm giác của tôi về bộ Tư bản cũng giống như cảm giác của tôi về kinh Koran. Tôi biết rằng nó quan trọng về mặt lịch sử và tôi biết có nhiều người, không phải tất cả mọi người đều dốt nát, coi nó như là Hòn đá tảng của mọi Thời đại và hàm chứa những hoài bão. Tuy nhiên khi tôi xem kỹ nó, tôi cảm thấy không thể giải thích được là tạo sao nó lại có được những tác động như vậy. Cách bút chiến khoa học lỗi thời và tồi tàn của nó dường như hoàn toàn không phù hợp với mục đích này. Nhưng cứ cho là như vậy, như tôi đã nói, tôi chỉ cảm thấy nó giống hệt với kinh Koran thôi. Làm thế nào mà hai cuốn sách này lại có thể đem gươm đao đến một nửa thế giới? Nó làm tôi thấy bối rối. Rõ ràng có điều gì đó là nhược điểm trong sự hiểu biết của tôi. Ngài có tin vào bộ Tư bản cũng như kinh Koran không? Hay chỉ có bộ Tư bản thôi? Nhưng nếu có bất cứ giá trị nào về mặt xã hội học của cuốn Tư bản, thì tôi dám chắc rằng giá trị kinh tế đương thời của nó (ngoài một vài điểm lóe sáng nhưng không liên tục và không có tính xây dựng ra) là bằng không. Ngài hứa sẽ đọc lại nó một lần nữa chứ, nếu tôi làm vậy?
Shaw đọc lại. Keynes đọc lại. Keynes có nhìn thấy ánh sáng hay Thánh địa Mecca
không? Ông không nhìn thấy gì:
ʺTôi ưa thích Engels của cả hai. Tôi có thể thấy rằng họ đã phát minh ra một phương pháp tiến hành nào đó và một lối viết rất rẻ tiền, những người kế tục cả hai cuốn đó đã duy trì với lòng trung thành. Nhưng nếu ngài bảo tôi rằng họ đã phát hiện ra một đầu mối của một bí ẩn kinh tế nào đó, thì tôi vẫn cảm thấy bối rốiʺ.35
Bởi vì Keynes thiên tài như vậy bị bối rối, nên hầu hết các nhà kinh tế học hiện đại đã từ
bỏ chuyến bay và ngừng đọc Marx. Theo Frank Hahn, một nhà phê bình xuất sắc chủ nghĩa
tư bản lười biếng (laisez-faire) thì: "Hầu hết những người Marxit chưa bao giờ đọc Marx cả.
Tất nhiên, bạn không thể đổ lỗi cho họ."
Tuy vậy, Marx núp đằng sau những lập luận của hàng nghìn nhà kinh tế học cấp tiến,
những người xuất bản cuốn Review of Radical Political Economy (Tổng quan Kinh tế
Chính trị cấp tiến) và có một tiếng nói mạnh mẽ ở Đại học Massachusetts, ở Amherst. Gốc
từ của từ "cấp tiến" (radical) là từ "radic" tức là gốc rễ, như là củ cải vậy. Giống như Marx,
các nhà kinh tế cấp tiến tin rằng nguồn gốc thực sự của lý thuyết kinh tế học hiện đại bị hủy
hoại trong sự phân tích của nó về chủ nghĩa tư bản. Mặc dù vậy, những người cấp tiến
không muốn chịu trách nhiệm cho tất cả những câu mà Marx thốt ra hoặc cho mọi dự đoán
mà ông ta tuyên bố.
Một vài người cấp tiến vẫn thực sự ôm lấy cái lý thuyết giá trị lao động của Marx. Tuy
nhiên, tất cả những người cấp tiến đều nhấn mạnh đến vấn đề kiểm soát dưới chủ nghĩa tư
bản. Các ông chủ tìm mọi cách "chia để trị", và duy trì sự kiểm soát ở nơi làm việc và trong
phòng bỏ phiếu. Nhà Marxit người Ba Lan Michal Kalecki hồi những năm 1940 đã lập luận
21
rằng chính phủ chủ ý tạo ra những đợt lạm phát và trì trệ để bóp chết cầu của công nhân.
Nhà cấp tiến hiện nay, Stephen Marglin cho rằng các doanh nghiệp thường chào đón những
cuộc trì trệ. Nếu Marglin nói đúng, thì chắc là nhiều người sẽ vận hành theo sự "nhận thức
sai lầm" của Marx. Chúng ta hãy xem xét bài viết của Marglin về cuộc bầu cử tổng thống
năm 1980: Ronald Reagan hứa hẹn lạm phát thấp hơn mà không có trì trệ. Thật là ngốc
ngếch, ông ta nghĩ rằng các ông chủ không thích trì trệ. Nhưng các ông chủ lại bầu cho
Reagan. Tại sao vậy? Họ biết là ông ta sẽ thất bại và vô tình gây ra trì trệ. Đúng là ông ta đã
thất bại, và, theo như luận thuyết của Marglin, các ông chủ vui sướng nhìn thấy giá cổ phiếu
của họ giảm xuống.36
Các nhà cấp tiến hiện đại tiến hành nhiều cuộc chiến - chống lại những mô hình của
những nhà kinh tế đồng nghiệp của họ, chống lại chính phủ, chống lại các nhà tư bản, và đôi
khi, chống lại ký ức của nhà thông thái của chính họ, Karl Marx. Cho đến nay người ta khó
lòng mà tính được những lần chiến thắng của họ.
4. Marx đem lại cho chính trị học hiện đại cái gì? Tiếng than khóc to nhất
trong bất kỳ một cuộc tranh luận nào về chủ nghĩa cộng sản ngày nay đều xuất phát từ
những người Marxit, những người chỉ trích gắt gao nền chính trị Liên Xô cũ và những đồng
minh của nó. Đây không phải là chủ nghĩa cộng sản của Marx, họ hô to như vậy. Tất nhiên,
họ đúng. Vì vào lúc khởi đầu, Marx chỉ giới hạn chủ nghĩa cộng sản ở những nước đã được
công nghiệp hóa (mặc dù trong những năm cuối đời, ông xem xét một cách cẩn trọng cuộc
cách mạng thực sự đã xảy ra ở nước Nga). Stalin có một nhiệm vụ khó khăn là tăng tốc, đưa
nước Nga nông nghiệp tiến vào kỷ nguyên công nghiệp. Phù hợp với những đề án trong
cuốn Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản điểm (1) và (9), Stalin buộc các chủ trang trại phải
nhập thành các nông trang tập thể và các trang trại nhà nước. Trong thời kỳ mùa đông năm
1932-1933, ông chủ ý làm chết đói hàng triệu người để loại trừ sự kháng cự của họ, và đặc
biệt ở Ukraina.37
Trước Stalin, Lenin đã gặp phải những rắc rối chính trị tương tự khi định hình lại tư duy
của người Nga. Trong thời kỳ ông ta cầm quyền, nền chuyên chính vô sản nổi lên như một
nền độc tài của Đảng - một nền độc tài sẽ không sớm gì tiêu tan.
Đến cuối những năm 1980, Mikhail Gorbachev cố gắng cứu chữa một nền kinh tế đã
bịễnơ cứng đã phải chịu đựng, như những người bảo vệ nó thường nói, trong suốt 70 năm
khí hậu xấu. Vào thời điểm đó Gorbachev dường như đã sẵn sàng vứt bỏ Marx và chấp nhận
một vài cơ chế thị trường tự do, kể cả việc cho thuê dài hạn đất đai nông trang và những
công xưởng chế tạo nhằm tìm kiếm lợi nhuận, tạo ra những hợp tác xã tư nhân. Mặc dù vậy,
Gorbachev lại không thể duy trì được tình thế, khi mà những lực lượng thị trường làm bỏng
những bày tay cộng sản đã nắm giữ nền kinh tế. Có thể nói rằng chiếc máy fax đóng một vai
trò lớn trong việc kết thúc Chiến tranh Lạnh giống như một công nghệ quân sự, bằng cách
cho phép các tổ chức dân chủ có thể truyền bá những thông điệp của mình. Tổng thống Nga
Boris Yeltsin đã vật lộn để thúc đẩy nền kinh tế Nga tiến lên, nhưng nó đã bị cản trở bởi
tình trạng tham nhũng, bởi một thế lực mafia đang nổi, bởi một dân số già cỗi cảm thấy có
quá ít lợi thế cho họ trong một nền kinh tế mới. Đối với những người hưu trí, chủ nghĩa
cộng sản đảm bảo cho họ một số tiền - một số tiền nhỏ mọn - nhưng ít nhất là một khẩu
phần có thể nhờ cậy được. Chủ nghĩa tư bản chẳng bảo đảm cho họ cái gì ngoài sự hỗn loạn.
Trái lại, những người Nga trẻ tuổi đã chớp lấy cơ hội xây dựng nên những doanh nghiệp
22
mới, đi lại tự do, và cố gắng bắt tay vào kinh doanh. Đó là một sự phân cách xã hội nguy
hiểm xem ra có vẻ gần như không thể hàn gắn được. Có lẽ đó là một sự phân ly còn lớn hơn
cả sự chia rẽ giữa "nhà tư bản và công nhân" mà Marx và Lenin đã khai thác. Tháng Bảy
năm 1998, Yeltsin tham gia một lễ tưởng niệm an táng ở St. Petersburg dành cho Czar
Nicholas và gia đình ông ta, những người mà hài cốt của họ đã bị thiêu đốt và bị bỏ lại chôn
vùi hàng thập kỷ. Yeltsin lên án sự chém giết cực kỳ tàn ác Czar của những người Leninist,
hy vọng tìm ra một vấn đề mà những người già và trẻ có thể đồng ý với nhau.
Người Trung Quốc thờ Marx sau cuộc cách mạng năm 1949 của họ. Ngay sau đó họ trở
thành người đa thần giáo, đặt Mao Trạch Đông lên cùng bàn thờ. Nhưng đến cuối những
năm 1970, dưới thời Đặng Tiểu Bình, người Trung Quốc bắt đầu nhanh chóng chuyển
hướng tự do hóa xí nghiệp trong nhiều khu vực, quở trách Marx và trách móc Mao.
Đặng, người đã bị Mao tống vào tù hồi Cách mạng Văn hóa đẫm máu những năm 1960, là
một người thực tế, phát biểu rằng "mèo trắng hay mèo đen không thành vấn đề miễn là bắt
được chuột".38 Ông cho phép các chủ hiệu được giữ lại lợi nhuận và nông dân được bán
lương thực của mình. Họ gọi phong trào này là gì? Họ chuyển ngữ thành từ "thị trường tự
do". Hàng triệu người Trung Quốc tưởng rằng "thị trường tự do" là một thuật ngữ của
Trung Quốc. Tuy nhiên, sau khoảng mười năm tự do hóa, những lực lượng bảo thủ khẳng
định lại vị thế của họ vào năm 1987 (mặc dù họ không cấm đoán nhà hàng Gà Rán
Kentucky (KFC) nằm ở phía đối diện của lăng Mao Trạch Đông). Mặc dù vậy, sự thụt lùi chỉ
là tạm thời. Sau khi Đặng chết, thủ tướng mới Chu Dung Cơ và chủ tịch Giang Trạch Dân
cam kết thúc đẩy hơn nữa kinh doanh tư nhân và cắt giảm phạm vi của doanh nghiệp sở
hữu công. Năm 1998, Giang thậm chí còn nắm quân đội, những ngón tay của ông ta có thể
sờ đến tất cả các khu vực từ khách sạn, các nhà máy sản xuất tủ lạnh, đến các quầy bar
karaoke. Các doanh nhân Trung Quốc đã len lỏi vào nền kinh tế thế giới. Hầu hết đồ chơi tại
các cửa hàng đồ chơi Toys "R" Us ở địa phương đều được chế tạo tại Trung Quốc. Trong khi
đó, ngày càng nhiều người Trung Quốc gội đầu bằng dầu gội đầu Proter & Gamble hơn bất
kỳ nhãn hiệu nào! Điều kỳ quặc trong sự thành công của Chu và Giang là trong khi thúc đẩy
hơn nữa doanh nghiệp tự do họ vẫn duy trì quyền lực của Đảng Cộng sản, làm cho người ta
thoái chí. Mặc dù, không còn nghi ngờ rằng đó không phải là Đảng Cộng sản của người cha
của các bạn.
Tất nhiên, Liên Xô và Trung Quốc là những quốc gia cuối cùng trong số các cộng sản lớn
nhất tuyên bố đi theo chủ nghĩa Marx. Khi Bức Rèm Thép tan chảy dọc theo đường biên giới
của Ba Lan, Đông Đức, Serb, Hungary và Rumany, ngày càng có nhiều công nhân giành
được tự do để đoàn kết lại - chống lại những tư tưởng của Marx.
Cho tới nay, không còn một nước nào tuân theo chủ nghĩa Marx đúng như trong trí
tưởng tượng của những người ngưỡng mộ ông ta nữa. Ngay cả khu định cư của Israel dường
như cũng đang tiến triển từ những dự án xã hội chủ nghĩa thành những dự án tư bản chủ
nghĩa. Có lẽ sẽ không còn nước nào thực hiện giấc mơ của Marx nữa, giấc mơ hứa hẹn đem
lại không phải là một thế giới thực tế, mà là một thế giới đầy rẫy sự khan hiếm, sự ích kỷ và
xấu xa. Đó là một giấc mơ giống kiểu một thiên đàng đã bị mất, phù hợp hơn đối với những
thiên thần chứ không phải là với những người vô sản. Thật không may, lòng mong mỏi khát
khao trở nên mạnh mẽ tới mức những người tốt đã bị mê hoặc đi theo, ủng hộ những chế độ
ác độc chuyên giảng đạo, nhưng lại không thực hiện giáo lý của chủ nghĩa Marx. George
Bernard Shaw, người đã bắt tay Stalin, nhìn thấy những năm tháng áp bức của Xô viết trước
khi ông lắc đầu.
23
Đối với nhiều người hôm nay, Marx nhắc nhở chúng ta rằng thay đổi về kinh tế có thể
gây ra đau đớn, rằng quyền lực có thể chuyển thành sự đàn áp, và rằng bộ phận dân cư sống
phụ thuộc phải được bảo vệ khỏi sự bóc lột. Nhưng những cảnh báo này lại cần phải áp
dụng nhiều hơn ngay trong các chế độ cộng sản. Những người ngưỡng mộ Marx tán dương
những người trẻ hơn, những người ít mang tính khoa học Marx hơn. Không phải là một nhà
lý thuyết kinh tế có sức thuyết phục hay một nhà lãnh đạo chính trị có sức lôi cuốn, Marx
trở thành một tiếng nói hiện thời cho sự công bằng mang tính nhân văn. Ông trở nên giống
như Tom Joad trong cuốn Grapes of Wrath (Chùm nho nổi giận) của John Steinbeck:
ʺTôi sẽ có mặt khắp mọi nơi ‐ bất kể nơi nào bạn nhìn. Bất kể nơi nào có tranh đấu để những người đói có thể ăn, tôi sẽ ở đó. Bất cứ nơi nào có cảnh sát đánh đập một ai đó, tôi sẽ ở đó… Tôi sẽ làm theo cách những chàng trai kêu thét khi họ điên…Và khi đám đông ăn uống họ sẽ xây nhà và sống trong những ngôi nhà mà họ xây ‐ tại sao, tôi sẽ ở đó. Bạn có thấy không?ʺ39
Đặt sự lạm dụng và bạo ngược dưới cái tên của Marx, đây có lẽ là chỗ tốt nhất dành cho
ông ta.
--
Chương VI
Nhà tiên tri nổi giận có tên Karl Marx
1. David McLellan, Karl Marx: His Life and Thought (New York: Harper & Row,
1973), tr.4. Xem Karl Marx, “On the Jewish Question”, trong The Marx-Engels Reader
(New York: W. W. Norton, 1978) do Robert C. Tucker biên soạn, tr.26-52; Gertrude
Himmelfarb, “The Real Marx”, trong Commentary (tháng Tư năm 1985), tr.37-43 và
“Letters” (tháng Tám năm 1985).
2. McLellan, tr.6-7.
3. Sđd, tr.33.
4. Robert Payne, Karl Marx (New York: Simon and Schuster, 1968), tr.77.
5. McLellan, tr.53.
6. Saul K. Padover, Karl Marx: An Intimate Biography (New York: McGraw-Hill,
1978), tr. 179.
7. McLellan, tr.99.
8. Karl Marx và Friedrich Engels, Collected Works (New York: International
Publishers, 1982), tập 38, tr.115.
9. Karl Marx, “Introduction to A Critique of Hegel's Philosophy of Right”, trong K.
Marx, The Early Texts, D. McLellan biên soạn (Oxford: Oxford University Press, 1971),
tr.116.
10. Karl Marx, The German Ideology, trong Tucker, tr.155-56.
11. Karl Marx, A Contribution to the Critique of Political Economy, N. I. Stone dịch
(Chicago: Charles Kerr, 1904), Lời tựa.
12. Karl Marx, The Eighteenth Brumaire of Louis Bonapart, trong Tucker, tr.595.
24
13. Karl Marx và Friedrich Engels, The Communist Manifesto, Samuel Beer biên soạn.
(Arlington Heights: Harlan Davidson, 1955), tr.9.
14. Marx, A Contribution to the Critique of Political Economy, lời tựa.
15. Karl Marx, Capital, tập 1 (Chicago: Charles Kerr, 1906), tr.13.
16. Marx và Engels, The Communist Manifesto, tr.13-14.
17. Sđd.
18. McLellan, tr.98.
19. Sandover, tr.291-293.
20. Payne, tr.295.
21. McLellan, tr.264, 357.
22. Sđd, tr.284.
23. Karl Marx, Capital, tập 1, tr.649, 652.
24. Sđd, tr.687.
25. Sđd, tr.836.
26. Sđd, tr.837.
27. Marx và Engels, The Communist Manifesto, tr.46.
28. Marx, Capital, tập 1, tr.21.
29. Marx và Engels, The Communist Manifesto, tr.31-32.
30. Marx, Capital, tập 1, tr.637.
31. Payne, tr.143.
32. Marx và Engels, The Communist Manifesto, tr.22; Thomas Sowell, Maxism:
Philosophy and Economics (New York: William Morrow, 1985), tr.138.
33. Vấn đề về nghèo khổ tương đối là rất khó đánh giá. Thứ nhất, bởi vì có một khoảng
cách về thu nhập giữa người giàu và người nghèo, thậm chí ngay cả khi người nghèo kiếm
được thu nhập với tốc độ nhanh hơn, thì chênh lệch tuyệt đối về đồng đô la vẫn có thể tăng
lên. Hãy so sánh một người là A, bắt đầu với 10.000 đô la và kiếm được 10% mỗi năm với
người B khởi nghiệp với 100.000 đô la và chỉ kiếm được thêm 5% mỗi năm. Trong khoảng
bảy năm, A kiếm được khoảng 20.000 đô la, trong B kiếm được hơn 140.000 đô la. Thứ hai,
ở nước Mỹ, trải qua mỗi thế hệ lại có sự dao động lên xuống đáng kể. Một nghiên cứu quan
trọng cho thấy rằng khoảng một phần ba số con cái có cha mẹ là những người có ảnh hưởng
nhất trong nước nhận được thu nhập dưới mức trung bình của quốc gia. Hơn nữa, khoảng
một phần ba số con cái có cha mẹ là những người nghèo nhất lại vươn lên và vượt mức
trung bình của quốc gia. Xem Christopher Jencks và cộng sự, Inequality: A Reassessment
of the Effect of Mamily and Schooling in America (New York: Basic Books, 1972), tr.209-
216. Để tham khảo cách tiếp cận quốc tế đối với sự dao động, hãy xem W. W. Rostow, Why
the Poor Get Richer and the Rich Slow Down (Austin: University of Taxas Press, 1980).
Chúng ta có thể tự tin mà nói rằng trong phần lớn thế kỷ XX, tất cả mọi tầng lớp xã hội ở
Mỹ đều đạt được sự tiến bộ tuyệt đối. Mặc dù vậy, trong thời kỳ trì trệ từ năm 1974 đến năm
25
1982, tất cả các tầng lớp xã hội có thu nhập đều bị suy giảm thu nhập. Người nghèo đặc biệt
phải chịu đựng vì những lý do cả về kinh tế lẫn tâm lý, khi số các hộ gia đình trong đó phụ
nữ làm chủ hộ tăng vọt khoảng 40%. Trong thời kỳ giữa và cuối thập kỷ 1980, nước Mỹ lại
đạt được và vượt mức bình ổn của năm 1973.
34. John Rawls, A Theory of Justice (Cambridge: Harvard University Press, 1971).
35. John Maynard Keynes, The Collected Writtings of John Maynard Keynes, tập 28
(London and New York: Macmillan/St. Martin's Press, 1973), tr.38, 42.
36. Xem Stephen A. Marglin, “Radical Macroeconomics” (Cambridge: Harvard
Institute of Economics Research, 1982), Discussion Paper số 902, tr.1-26.
37. Xem Robert Conquest, The Harvest of Sorrow (New York: Oxford University Press,
1987)
38. David S. G. Goodman, Deng Xiaoping and the Chinese Revolution: A Political
Biography (London: Routledge, 1994), tr.3.
39. John Steinbeck, The Graps of Wrath (New York: Penguin Books, 1986), tr.537.