25
KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975

KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975

Embed Size (px)

DESCRIPTION

KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975. I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ, XÃ HỘI, VĂN HÓA VIỆT NAM SAU 1975. Kỷ nguyên hòa bình, thống nhất và sự trở lại của cuộc sống đời thường, những khát vọng hạnh phúc, tự do muôn thuở của con người cá nhân. Cơ chế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế - văn hóa: - PowerPoint PPT Presentation

Citation preview

Page 1: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975

KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975

Page 2: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ, XÃ HỘI, VĂN HÓA VIỆT NAM SAU 1975

Kỷ nguyên hòa bình, thống nhất và sự trở lại của cuộc sống đời thường,

những khát vọng hạnh phúc, tự do muôn thuở của con người cá nhân.

Cơ chế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế - văn hóa:

- Sự chấm dứt của nền văn hóa bao cấp và sự trở lại của đời sống văn học

dân chủ, mang tính cạnh tranh.

- Sự du nhập ồ ạt của những luồng tư tưởng, văn hóa hiện đại trên thế giới.

- Sự hình thành của một công chúng đọc đa dạng, với thị hiếu thẩm mỹ

phức tạp.

Page 3: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975
Page 4: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975
Page 5: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975
Page 6: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975
Page 7: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975

II. QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA NỀN VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975

1. 1975 – 1985: Giai đoạn chuyển tiếp từ nền văn học cách mạng trong chiến tranh sang nền

văn học thời hậu chiến.

Sau ngày đất nước thống nhất, lịch sử VN chuyển qua một thời đại mới, nhưng văn học

nghệ thuật vẫn vận động theo quán tính của văn học thời chiến, với khuynh hướng sử thi và

cảm hứng lãng mạn.

Diễn ra sự vận động ngầm của đời sống văn học, với những trăn trở vật vã, tìm tòi thầm

lặng ở một số nhà văn mẫn cảm với đòi hỏi của cuộc sống và có ý thức trách nhiệm cao về

ngòi bút của mình. Đó là những người đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học.

Tác phẩm tiêu biểu: kịch Rừng trúc (1978) và Nguyễn Trãi ở Đông Quan (1979) của Nguyễn

Đình Thi, tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985)

của Nguyễn Minh Châu, tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm (1981) của Nguyễn Khải, kịch Hồn

Trương Ba da hàng thịt (1984), Tôi và chúng ta (1985) của Lưu Quang Vũ, tập thơ Ánh

trăng (1984) của Nguyễn Duy, tập thơ Tự hát (1984) của Xuân Quỳnh, tập thơ Hoa trên đá

(1984) của Chế Lan Viên, tập thơ Người đàn bà ngồi đan (1985) của Ý Nhi…

Page 8: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975

Ánh trăng(Nguyễn Duy)

Hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với biển hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỷ 

Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa 

Từ hồi về thành phố quen ánh điện cửa gương vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường 

Thình lình đèn điện tắt phòng buyn-đinh tối om vội bật tung cửa sổ đột ngột vầng trăng tròn 

Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng 

Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình

1978 

Page 9: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975

Tự hát(Xuân Quỳnh)

Chả dại gì em ước nó bằng vàng Trái tim em, anh đã từng biết đấy Anh là người coi thường của cải Nên nếu cần anh bán nó đi ngay 

Em cũng không mong nó giống mặt trời Vì sẽ tắt khi bóng chiều đổ xuống Lại mình anh với đêm dài câm lặng Mà lòng anh xa cách với lòng em 

Em trở về đúng nghĩa trái tim Biết làm sống những hồng cầu đã chết Biết lấy lại những gì đã mất Biết rút gần khoảng cách của yêu tin 

Em trở về đúng nghĩa trái-tim-em Biết khao khát những điều anh mơ ước Biết xúc động qua nhiều nhận thức Biết yêu anh và biết được anh yêu 

Mùa thu nay sao bão giông nhiều Những cửa sổ con tàu chẳng đóng Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm Em lạc loài giữa sâu thẳm rừng anh 

Em lo âu trước xa tắp đường mình Trái tim đập những điều không thể nói Trái tim đập cồn cào cơn đói Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn 

Em trở về đúng nghĩa trái-tim-em Là máu thịt, đời thường ai chẳng có Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi. 1984

Page 10: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975

II. QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA NỀN VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975

2. 1986 – 1991: Đổi mới toàn diện và sôi nổi trên tất cả mọi lĩnh vực của văn học nghệ

thuật.

Từ năm 86 trở đi, những cuộc tranh luận về văn học diễn ra sôi nổi nhờ bầu không khí

tương đối dân chủ, lành mạnh, tạo nên sự khởi sắc và đổi mới mạnh mẽ, quyết liệt trong

sáng tác văn học cũng như mọi lĩnh vực nghệ thuật khác.

Một loạt phóng sự về những thực trạng nhức nhối trong xã hội, đặc biệt là tình hình ở

nông thôn: Lời khai của bị can (1987) của Trần Huy Quang, Tiếng kêu cứu của một vùng

văn hóa (1988) của Võ Văn Trực, Cái đêm hôm ấy đêm gì... (1987) của Phùng Gia Lộc…

Truyện ngắn và tiểu thuyết nở rộ, tập trung phản ánh những xung đột, khủng hoảng dữ

dội của xã hội và tâm hồn con người: tiểu thuyết Thời xa vắng (1986) của Lê Lựu, tập

truyện ngắn Tướng về hưu (1988) của Nguyễn Huy Thiệp, tiểu thuyết Bến không chồng

(1990) của Dương Hướng, tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma (1990) của Nguyễn

Khắc Trường, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (1990) của Bảo Ninh…

Page 11: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975

II. QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA NỀN VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975

3. Từ 1992 đến nay: Quá trình đổi mới chậm và trầm lắng lại, đi vào chiều sâu.

Cao trào đổi mới của văn học Việt Nam dần chậm lại, chuyển sang những tìm tòi về hình

thức nghệ thuật.

Vẫn xuất hiện những tác phẩm đáng chú ý như tập truyện ngắn Khi người ta trẻ (1993)

của Phan Thị Vàng Anh, tiểu thuyết Hồ Quý Ly (2001) của Nguyễn Xuân Khánh, tiểu

thuyết Cơ hội của Chúa (1999) của Nguyễn Việt Hà, truyện ngắn Cánh đồng bất tận

(2003) của Nguyễn Ngọc Tư, tập truyện Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ (2000) của

Nguyễn Ngọc Thuần, tiểu thuyết Mười lẻ một đêm (2006) của Hồ Anh Thái, hồi ký

Thượng đế thì cười (2003) của Nguyễn Khải…

Cuộc “nổi loạn” trong văn học của một số cây bút rất trẻ như Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền

Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh... khuấy động đời sống văn học.

Page 12: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975

Người dệt tầm gai(Vi Thùy Linh)

Chúng mình ở hai miền Ngày nào em cũng khóc.... 

Anh yêu của em Em yêu anh cuồng điên Yêu đến tan cả em ra Ào tung ký ức Ngày dài hơn mùa Em mong mỏi Em (có lúc) như một tội đồ nông nổi 

...

Em là người dệt tầm gai... Em nhẫn nại chắt chiu từng niềm vui Nhưng lại gặp rất nhiều nỗi khổ Truân chuyên đè lên thanh thản Ôi sự trái ngược - những sợi tầm gai ! Không kỳ vọng những điều lớn lao Em lặng lẽ dệt hạnh phúc từ những nỗi buồn - những sợi tầm gai - không ai nhìn thấy 

Gai tầm gai đâm em đau đớn Em chờ anh mãi... Tưởng chừng không thể vượt qua nổi cái lạnh, em đã khóc trên hai bàn tay trầy xước Những giọt tâm hồn thấm xót mười ngón tay rớm máu Ngay cả khi anh làm em buồn thảng thốt Em vẫn hướng về anh bằng tình yêu trọn vẹn của mình 

Dệt tầm gai đến bao giờ? Mỗi ngày dài hơn một mùa Dệt tầm gai đến bao giờ? 

Về đi anh! Cài then những ngón tay trầy xước của em bằng Anh!

Page 13: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975

III. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975

1. Văn học vận động theo hướng dân chủ hóa

Về quan niệm nghệ thuật: Văn học là phương tiện biểu hiện tư tưởng, quan niệm, chính

kiến riêng của nghệ sĩ, không còn tuyên truyền cho một tư tưởng có sẵn mà còn ý thức

về chân lý của các quan niệm khác.

Về đề tài: Văn học không chỉ tập trung vào hiện thực cách mạng, các biến cố lịch sử, mà

còn tập trung vào hiện thực của đời sống hằng ngày với các quan hệ thế sự phức tạp,

hiện thực của đời sống cá nhân với những vấn đề riêng tư, số phận, nhân cách, khát

vọng…

Về bút pháp: Văn học mạnh dạn từ bỏ lối viết hoa mỹ, tô hồng một thời để đáp ứng nhu

cầu hiện đại của công chúng, chấp nhận ngôn ngữ đời thường, thông tục, táo bạo.

Page 14: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975

VIỆT NAM ƠI Lưu Quang Vũ

Những áo quần rách rướiNhững hàng cây đắm mình vào bóng tốiChiều mờ sương leo lắt đèn dầuLũ trẻ ngồi quanh mâm gỗLèo tèo mì luộc canh rau 

Mấy mươi năm vẫn mái tranh nàyDòng sông đen nước cạnTiếng loa đầu dốc lạnhTin chiến trận miền xa 

Những người đi chưa vềNhững quả bom hầm hào sụt lởNhững tên tướng những lời hăm dọaNgười ta định làm gì Người nữaViệt Nam ơi? 

Mấy mươi năm đã mấy lớp ngườiChia lìa gục ngãĐã tận cùng nỗi khổNgười ta còn muốn gì Người nữaViệt Nam ơi?

Người đau thương, tôi gắng gượng mỉm cườiGắng tin tưởng nhưng lòng tôi có hạnChiều nay lạnh, tôi nghẹn ngào muốn khócXin Người tha thứ, Việt Nam ơi

Tổ quốc là nơi tỏa bóng yên vuiNơi nghĩ đến lòng ta yên tĩnh nhấtNhưng nghĩ đến Người lòng tôi rách nátXin Người đừng trách giận, Việt Nam ơi 

Tôi làm sao sống được nếu xa NgườiNhư giọt nước bậu vào bụi cỏNhư châu chấu ôm ghì bông lúaNgười đẩy ra tôi lại bám lấy NgườiKhông vì thế mà Người khinh tôi chứViệt Nam ơi 

Không vì tôi đau khổ rã rờiMà Người ghét bỏ?Xin Người đừng nhìn tôi như kẻ lạXin Người đừng ghẻ lạnh, Việt Nam ơi

Người có triệu chúng tôi, tôi chỉ có một NgườiTất cả sẽ ra saoMảnh đất nghèo máu ứa?Người sẽ đi đến đâuHả Việt Nam khốn khổ?Đến bao giờ bông lúaLà tình yêu của Người? 

Đến bao giờ ngày vuiNhư chim về bên cửa?Đến bao giờ Người mới được nghỉ ngơiTrong nắng ấm và tiếng cười trẻ nhỏ?Đến bao giờ đến bao giờ nữaViệt Nam ơi?

Page 15: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975

Người đàn bà ngồi đan(Ý Nhi)

Giữa chiều lạnh 

Một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ 

Vẻ vừa nhẫn nại vừa vội vã 

Nhẫn nại như thể đó là việc phải làm suốt đời 

Vội vã như thể đó là lần sau chót

Không thở dài 

không mỉm cười 

Chị đang giữ kín đau thương 

Hay là hạnh phúc 

Lòng chị đang tràn đầy niềm tin 

Hay là ngờ vực 

Không một lần nào chị ngẩng nhìn lên 

Chị đang qua những phút giây trước lần gặp mặt 

Hay sau buổi chia ly 

Trong mũi đan kia ẩn giấu niềm hân hoan hay nỗi lo âu 

Trong đôi mắt kia là chán chường hay hy vọng 

Giữa chiều lạnh 

Một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ 

Dưới chân chị 

Cuộn len như quả cầu xanh 

Đang lăn những vòng chậm rãi

(1-1984) 

Page 16: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975

Thị Mầu(Anh Ngọc)

Người mấy trăm năm làm rung chuyển những sân đìnhLàm điên đảo những phông màn khép mởNgười táo bạo Người không hề biết sợNgười chưa từng lùi bước trước tình yêu

Người phá tung khuôn khổ những điệu chèoĐể cuộc sống ùa lên đầu cửa miệngNgười trung thực đến không cần giấu giếmCặp môi hồng con mắt ướt đong đưa

Người cả gan sàm sỡ cả cửa chùaChọn sắc áo cà sa mà chọc ghẹoThừa sinh lực nên người luôn túng thiếuNên hương trầm tiếng mõ khéo trêu ngươi

Người đi qua nghiêng ngả những trận cườiChấp tất cả lời ong ve mai mỉaNgười chịu hết mọi thói đời độc địaChiếc quạt màu khép mở vẫn ung dung

Trên môi người câu hát cứ trẻ trungTừng sợi tóc cũng rung theo nhịp pháchMùi táo chín, mùi hương, mùi da thịtNgười đi qua sân khấu tới đời thường

Người sống trong hơi thở của nhân dânMấy trăm năm ai để thương để giậnCâu sa lệch cũng hò reo nổi loạnNhịp trống gầm lên những khát vọng không lời

Những khát vọng nằm sâu trong mỗi trái tim ngườiĐược sống đúng với lòng mình thực chấtNhững xiềng xích phết màu sơn đạo đứcMấy trăm năm không khóa nổi Thị Màu

Những cánh màn đã khép lại đằng sauTáo vẫn rụng sân đình không ai nhặtBao Thị Màu đã trở về đời thựcVị táo còn chua mãi ở đầu môi . 

Page 17: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975

III. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975

2. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân trên tinh thần nhân bản, dẫn đến sự nổi trội của

khuynh hướng thế sự - đời tư

Sự phê phán, hoài nghi và mỉa mai đối với những giá trị cũ, sự sụp đổ của các thần

tượng cũ.

Nỗi buồn, sự ưu tư gắn với một thực tại rối ren phức tạp, với những bi kịch nhân sinh

trong hiện thực đời sống.

Xuất hiện quan niệm mới về con người như một thực thể phức tạp, đa chiều, đa diện;

khuynh hướng tự vấn ngày càng nổi trội.

Page 18: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975

ĐƯỜNG TỚI THÀNH PHỐHữu Thỉnh

… Chị đợi chờ quay mặt vào đêmHai mươi năm mong trời chóng tốiHai mươi năm cơm phần để nguội

Thôi tết đừng về nữa chị tôi buồnThôi đừng ai mừng tuổi chị tôiChị tôi không trẻ nữa, xóm làng thương ý tứ vẫn kêu côXóm làng thương không khoe con trước mặtHai mươi năm chị tôi đi đò đầyCứ sợ đắm vì mình còn nhan sắc

Vẫn được tiếng là người đứng vậyNhưng anh tôi vẫn cònAnh tôi che cho ngọn đèn khỏi tắtHai mươi năm áo gấm đi đêmChị màu mỡ mà anh tôi chẳng biết

Nhưng chị tôi không thể làm như con rắn que cờiLột cái xác già nua dưới gốc cây cậm quẫyChị thiếu anh nên chị bị thừa raTrong giỗ tết họ hàng nội ngoạiBao nhiêu tiếng cười vẫn côi cui một mình

Những đêm trở trời trái gióTay nọ ấp tay kiaSúng thon thót ngoài đồn dân vệMột mình một mâm cơmNgồi bên nào cũng lệchChị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiềnChị vẫn nhớ anh và mong anh như thếVà chị buồn như bông điệp xé đôiRằng tuổi trẻ không bao giờ trở lạiAnh đã nghe và cây cỏ cũng ngheCây thương anh làm vành lá ngụy trangDù vẫn biết không mát bằng bóng chịDù vẫn biết không ấm bằng tóc chịCỏ mùa khô một buổi vẫn tưng bừngChị thổi ù dằng dặc suốt đời anhChiếc khăn tay muốn làm buồm náo nứcChiếc khăn tay của một thời nước mắtSẽ tung cờ hạnh phúc trước hàng hiênNhưng đêm nay chị vẫn còn buồnNhẫn vẫn lỏng ngón tay khô héo…

Page 19: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975

GIỮA HAI CHIỀU QUÊN NHỚ                                       Bùi Sim Sim

Chưa đủ nhớ để gọi là yêuChưa đủ quên mà thành xa lạAnh ám ảnh em hai chiều nghiệt ngãNghiêng bên này lại chống chếnh bên kia.

Ngôi sao nào thổn thức giữa trời khuyaDịu dàng quá lời thì thầm của gió!Ngủ ngoan thôi, ngọn cỏ mềm bé nhỏBiết đâu chừng thiên sứ đến vây quanh...

Trái tim đa mang chở tình yêu chòng chànhYêu với nhớ lắc lư nhịp sóng.Anh là gì giữa bốn bề vang vọngEm giật mình khi thốt gọi thành tên.

Page 20: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975

BÙA LÁ                       Nguyễn Thị Đạo Tĩnh

I.     Lá vàng tôi thả bùa mêCho ai nhặt về làm chút duyên chơi     Lỡ làng mười tám đôi mươiTôi đi chợ muộn kiếm cơi trầu già Tơ vương tóc rối chân gàAi mua tôi bán - để mà cầu duyên…

II.     Đợi người như đợi trăng lênNgười như chàng Cuội - người quên lối về.     Đêm dài - đêm thả bùa mêCho con đom đóm bờ đê lạc đường!

III.     Buồn tình ngồi ngắm trăng suôngChẳng ai thương đến thì thương lấy mình.     Lá rơi lạc xuống sân đìnhBùa yêu tôi thả cho mình tôi… yêu!

Page 21: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975

CHỒNG CHỊ CHỒNG EMĐoàn Thị Lam Luyến

Xưa thì chị. Nay thì em

Phải duyên chồng vợ, nối thêm cho dài…

Ngỡ ngàng nặng cả đôi vai

Những cao như núi, những dài như sông

Được lúa, lúa đã gặt bông

Được cải, cải đã chặt ngồng muối dưa

Mặn mà cũng khác ngày xưa

Bâng khuâng… như chửa bao giờ bén duyên

 

Gần được ấm, xa được êm

Dẫm vào ruộng hóa, vụt nên mùa màng

Cái giần vục phải cái sàng

Xui cho hai đứa nhỡ nhàng gặp nhau .

Lá bùa từ thuở Mỵ Châu

Lá bài Trọng Thuỷ còn đau đến giờ!

Tình yêu một mất, nghìn ngờ

Khiến cho biển cứ khuất bờ trong nhau.

 

Cái phận trước, cái duyên sau

Nào ai tính được dài lâu với trời ?

Khi vui, muốn có một người

Khi buồn muốn cả đất trời sẻ chung.

Đã từ hai mảnh tay không

Kể chi mẹ ghẻ, con chung, chồng người?

Dở dang suốt nửa cuộc đời

Bỗng dưng mọc một mặt trời trong nhau!

 

Chị thản nhiên mối tình đầu

Thản nhiên em nhặt bã trầu về têm.

Page 22: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975

III. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975

3. Văn học phát triển phong phú, đa dạng, hướng tới tính hiện đại nhưng không kém

phần phức tạp

Nới lỏng và phá vỡ các thể thơ truyền thống, tăng cường tính chất “điệu nói” và vắt dòng.

Bùng nổ mạnh mẽ các hình thức thơ tự do, cả về khuôn khổ lẫn số lượng.

Sự phục hồi và phát triển của các thể loại văn xuôi trước 45 (tiểu thuyết tâm lý, phóng

sự…) cùng với sự hình thành của một số thể loại mới (truyện cực ngắn).

Sự đa dạng và phong phú được thể hiện trên nhiều bình diện: đề tài, thể loại, thủ pháp,

phong cách, khuynh hướng thẩm mỹ…

Thái độ của công chúng đối với văn học cũng thay đổi rất nhanh: từ phản bác, có khi

quyết liệt, gay gắt đến dần dần chấp nhận và cuối cùng là có cả sự cổ vũ tuy còn dè dặt,

thăm dò.

Page 23: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975

DƯƠNG CẦM LẠNH

Dương Tường

Chờ em đường dương cầm xanh

dậy thì nõn dương cầm phố

 

Chờ em đường dương cầm sương

chúm chím nụ dương cầm biếc

 

Chờ em đường dương cầm sim

vằng vặc nụ dương cầm trinh

 

 

Chờ em đường dương cầm khuya

ôi cái im đêm thơm mộng

 

Chờ em đường dương cầm trăng

ứa nhụy, lạnh dương cầm xuân

 

Chờ em đường dương cầm mưa

giọt giọt lá buồn dạ khúc

 

... Xào xạc lòng tay khuya

Anh về lối dương cầm lạnh

Page 24: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975

VỢ ỐMNguyễn Duy

Kính tặng vợ nhân đầu xuân con Tuất – 1994

Vừa một xuân, lại một xuânVợ ơi đại hạn đã gần một năm

Một nhà là sáu miệng ănMột thi nhân hoá phăm phăm ngựa thồ

 Cái lưng em, sụn bất ngờ

Tứ chi anh lõng thõng quơ rụng rờiThông thường thượng giới rong chơi

Trần gian choang choác sự đời tuỳ em 

Nghìn tay nghìn việc không tênMình em làm cõi bình yên nhẹ nhàng

Thình lình em ngã bệnh ngangPhang anh xất bất xang bang sao đành

 Cha con Chúa Chổm loanh quanh

Anh như nguyên thủ tanh bành quốc giaViệc thiên, việc địa, việc nhà

Một mình anh vãi cả ba linh hồn (!)

Page 25: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM  SAU 1975

NGƯỜI ĐẸPLò Ngân Sủn

Người đẹp trông như tuyết Chạm vào lại thấy nóng Người đẹp trông như lửa Sờ vào lại thấy mát Người không khát - nhìn thấy người đẹp cũng khát Người không đói - nhìn thấy người đẹp cũng đói Người muốn chết - gặp người đẹp lại không muốn chết nữa  Ơ! Người đẹp là ước mơ Treo trước mắt mọi người!