450
Công trình được xuất bản trong sự hợp tác của Tạp chí Văn hóa nghệ thuật và Công ty phát hành sách Hà Nội để chào mừng những ngày lễ lớn năm 2000, và hướng tới kỷ niệm ngàn năm Thăng Long kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam 2000 30 2000 - DT 37 V Mã s

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

  • Upload
    le-tuan

  • View
    1.467

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Công trình được xuất bản trong sự hợp tác của Tạp chí Văn hóa nghệ thuật và Công ty phát hành sách Hà Nội để chào mừng những ngày lễ lớn năm

2000, và hướng tới kỷ niệm ngàn năm Thăng Long

kho tàng

lễ hội cổ truyền

Việt Nam

2000302000 - DT

37

VMã số

Page 2: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Nhiều tác giả

Kho tàng lễ hội cổ truyền việt

nam

Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc

Tạp chí văn hóa nghệ thuật

Hà Nội, 2000

Page 3: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Ban tuyển chọn:

- TS Nguyễn Chí Bền (trưởng ban)

- PGS, TS Trần Lâm Biền

- TS Bùi Khởi Giang

- TS Nguyễn Minh San

- TS Đỗ Lai Thúy

- CN Phạm Vũ Dũng

- CN Võ Hoàng Lan

- Nhạc sĩ Nguyễn Thanh Nghị

- Bìa: Họa sĩ Trần Quang Vinh

- ảnh : Phạm Lự

Page 4: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

9

Lời giới thiệu

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTW Đảng khoá VIII về xây

dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân

tộc đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể trong sự nghiệp xây dựng văn hoá Việt Nam, trong đó có nhiệm vụ bảo tồn, kế thừa, phát huy các di sản

văn hoá, các giá trị văn hoá truyền thống.

Nghiên cứu, sưu tầm, tập hợp, giáo dục sâu rộng những đạo lý

dân tộc tốt đẹp thông qua di sản văn hoá phong phú do cha ông để lại, do

đó, là nghĩa vụ, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân ta, trong đó, đội

ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.

Từ nhiều năm nay, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, cơ quan ngôn

luận của Bộ Văn hoá Thông tin, đã cố gắng thực hiện nhiệm vụ này, thể hiện ở việc đăng tải nhiều công trình nghiên cứu khoa học, nhiều bài báo

và thông tin đa dạng về văn hoá nghệ thuật, văn hoá dân gian, có tác

dụng thiết thực đối với công cuộc xây dựng đời sống văn hoá ở nước ta.

Không chỉ dừng lại ở đó, Tạp chí còn nghiên cứu, tập hợp để xuất bản

được những chuyên luận, những công trình nghiên cứu văn hoá hiện đại

và truyền thống, sách phổ cập kiến thức văn hoá... như: Tìm về bản sắc

dân tộc của văn hoá; Văn hoá vì con người; Việt Nam, cái nhìn địa văn

hoá; Hỏi và đáp về văn hoá Việt Nam... kiên trì ý tưởng nghiên cứu vùng văn hoá thể hiện ở các số chuyên đề về văn hoá địa phương, ở các cuốn

sách Văn hoá nghệ thuật Nam Bộ, Văn hoá nghệ thuật Trung Bộ...Những

ấn phẩm khoa học đó đã giúp ích nhiều cho các nhà quản lý văn hoá, các

nhà nghiên cứu, các cộng tác viên và bạn đọc đông đảo.

Sự xuất hiện công trình Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam do

Tạp chí Văn hoá nghệ thuật tập hợp, chọn lọc, biên soạn, một lần nữa

khẳng định phương châm nghiên cứu và phổ biến khoa học văn hoá của Tạp chí. Đó là đi tìm bản sắc văn hoá Việt Nam, sắc thái các vùng văn

hoá được thể hiện ở các đối tượng văn hoá cụ thể, mà lễ hội cổ truyền

Việt Nam chỉ là một trong những đối tượng đó.

Chúng tôi cho rằng lễ hội cổ truyền là một hiện tượng trội của văn

hoá truyền thống Việt Nam, đã từng được tìm hiểu, phân loại, sưu tập,

nghiên cứu khá kỹ lưỡng. Tư liệu công bố và chưa công bố về đối tượng

này chắc chắn hết sức đa dạng và phong phú, không chỉ ở số lượng sưu

tập được mà còn ở cách tiếp cận, mô tả, tập hợp và hệ thống hoá tư liệu. Chính sự phong phú và đa dạng đó của nguồn tư liệu ít nhiều tạo cho

Page 5: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

10

người đọc cảm giác choáng ngợp hay trùng lặp. Trong bối cảnh đó, sự

xuất hiện của Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam, với cái nhìn tổng quan

về lễ hội cổ truyền, với cách sắp xếp và nhìn nhận lễ hội cổ truyền gắn

với vùng văn hoá..., theo ý kiến riêng tôi, đã có được ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhất định, đóng góp có hiệu quả vào việc sưu tầm, nghiên cứu

lễ hội cổ truyền, văn hoá dân gian và văn hoá dân tộc. ít ra, cho đến nay,

đây cũng là sự tập hợp đầy đủ hơn cả về lễ hội cổ truyền Việt Nam.

Các nhà quản lý văn hoá, các nhà khoa học, các nhà sưu tầm

nghiên cứu, hoạt động văn hoá, các nhà giáo, các em học sinh và bạn đọc

đông đảo, ở vị trí của mình, sẽ tìm thấy trong Kho tàng lễ hội cổ truyền

Việt Nam những tri thức cần thiết cho bản thân. Chỉ dừng ở đấy thôi, thì

cũng có thể thấy việc Tạp chí Văn hoá nghệ thuật biên soạn và cho ra mắt độc giả cuốn Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam là việc làm đúng

đắn và hữu ích.

Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách này với bạn đọc gần xa./.

Hà Nội, tháng 1 năm 2000 Nguyễn Khoa Điềm

UVBCHTƯ Đảng

Bộ trưởng bộ văn hoá thông tin

Page 6: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

9

Cùng bạn đọc

1. Là một hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng, lễ hội cổ truyền

Việt Nam có vị thế quan trọng và to lớn trong đời sống xã hội, đời sống

văn hoá trước đây cũng như ngày nay.

Do vậy, nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu văn hoá, văn hoá dân gian đã sưu tầm, nghiên cứu lễ hội cổ truyền. Nhiều ấn phẩm về lễ hội cổ

truyền Việt Nam đã được công bố trong những năm qua. Tuy nhiên, một

cuốn sách có tính chất tổng hợp giới thiệu được toàn cảnh lễ hội cổ

truyền Việt Nam, cho đến nay vẫn chưa được ra mắt bạn đọc. Một công

trình như thế, sẽ có rất nhiều tác dụng cho việc sưu tầm những lễ hội cổ

truyền Việt Nam, cũng như việc tìm hiểu giá trị văn hoá của lễ hội cổ

truyền Việt Nam.

Xuất phát từ nhu cầu cấp bách cả về lý luận lẫn thực tiễn ấy mà Tạp chí Văn hoá nghệ thuật chủ trương tập hợp, biên soạn và cho ra mắt

bạn đọc công trình Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam.

2. Khi thực hiện cuốn sách này, nhóm tuyển chọn có một thuận lợi

cơ bản là được kế thừa toàn bộ thành tựu sưu tầm, nghiên cứu lễ hội cổ

truyền của thế hệ đi trước và những người cùng thời, ở những mức độ

khác nhau, ở những không gian, thời gian khác nhau. Những thành tựu

này là hết sức cơ bản và to lớn. Dù thế, trước nguồn tư liệu đồ sộ như vậy, nhóm tuyển chọn cũng không tránh khỏi những khó khăn trong thao

tác xử lý, sắp xếp đối tượng.

Trong khi xử lý tư liệu, chúng tôi nhận thấy có những hiện tượng:

- Có những lễ hội mới chỉ có một tác giả đề cập đến.

- Cùng một lễ hội có những tác giả viết một cách khác nhau (về góc

tiếp cận, về phong cách, về không gian, thời gian lễ hội, về diễn biến

nghi lễ, về nhân vật thờ phụng...).

- Có nhiều lễ hội chưa được đề cập tới hoặc được viết một cách sơ sài, song do khả năng có hạn, chúng tôi cũng chưa tập hợp được vào

trong sách này. Hy vọng sự thiếu vắng này sẽ được lấp đầy khi có điều

kiện về tư liệu và các phương diện khác.

- Đặc biệt, chúng tôi phải nhấn mạnh đến hiện tượng nhiều cách

viết, nhiều giọng văn khác nhau khi viết về lễ hội, nghĩa là, có lễ hội

được viết dưới góc độ nghiên cứu, có lễ hội được viết với tính chất miêu

thuật, có lễ hội lại chỉ được chú ý ở một vài tình tiết...

Page 7: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

10

3. Vì thế, nguyên tắc xử lý của nhóm tuyển chọn như sau:

- Tôn trọng tính khoa học của văn bản tư liệu được kế thừa.

- Thống kê, xử lý, lựa chọn, biên soạn từng lễ hội cổ truyền Việt

Nam theo trật tự như sau:

+ Địa điểm, thời gian tổ chức: thôn, xã, huyện, tỉnh (thành phố),

ngày tổ chức, chỉ dẫn đường đi v.v...

+ Di tích: miêu tả khái quát di tích, không gian, cảnh quan lễ hội

v.v...

+ Nhân vật phụng thờ: Thờ chính, phối thờ, lớp văn hoá.. truyền

thuyết, sắc phong v.v...

+ Diễn biến lễ hội: Nghi thức thờ cúng, trò diễn, rước, vật lễ, trò

chơi...

+ Giá trị văn hoá của lễ hội: ý nghĩa, các lớp văn hoá, giá trị trong

đời sống...

Trật tự này, khi ứng dụng trong thực tiễn biên soạn cũng chỉ mang

tính tương đối vì, thực ra, có những bài viết về một lễ hội nào đó, lại

không đáp ứng đầy đủ các mục của trật tự như một mô hình cấu trúc ấy.

Cho nên, chúng tôi cũng chỉ coi đây là khung cơ bản biểu hiện quan

niệm khoa học của nhóm tuyển chọn, về một mô hình cấu trúc của lễ hội

cổ truyền. Việc có những lễ hội không đáp ứng hoàn toàn mô hình này vẫn được tập hợp trong sách được coi là những biệt lệ.

Vì vậy, trong lựa chọn và xử lý, có những lễ hội được sử dụng

nguyên vẹn, có lễ hội được biên tập, bổ sung, có khi vài ba bài viết về

một lễ hội được gắn kết vào làm một (có chỉ nguồn cụ thể) trên cơ sở tôn

trọng tới mức cao nhất văn bản đã có. Đặc biệt, có nhiều lễ hội được ban

tuyển chọn viết lại trên cơ sở tư liệu cũ, có nhiều lễ hội được viết mới...

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam, bởi là cuốn sách về lễ hội ở nhiều vùng văn hoá khác nhau, của nhiều tác giả khác nhau ở nhiều thời

điểm lịch sử khác nhau, nên sự chấp nhận đa phong cách trong miêu tả

và diễn đạt cũng là một lẽ đương nhiên.

4. Cuốn sách được chúng tôi kết cấu như sau:

- Mở đầu là bài viết về Tết. Tách riêng, để trước tất cả các lễ hội cổ

truyền, bởi chúng tôi quan niệm Tết “là sự đón mừng năm mới” (Trần

Quốc Vượng), là sự mở đầu của mùa lễ hội, từ mùa xuân đến mùa thu và

hết năm.

Page 8: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

11

Trong một khía cạnh nào đó, có thể coi Tết như một lễ hội cổ

truyền.

- Sau đó, các vùng văn hoá là ranh giới để chúng tôi sắp xếp các lễ

hội cổ truyền. Có thể còn nhiều tranh luận về cách phân vùng văn hoá ở Việt Nam, tạm đặt ra ngoài sự tranh luận ấy, chúng tôi lấy các vùng: Tây

Bắc- Việt Bắc, châu thổ Bắc Bộ, duyên hải Trung Bộ, Tây Nguyên và

Nam Bộ để sắp xếp các lễ hội cổ truyền. Trong từng vùng như vậy, chúng

tôi sắp xếp theo a, b, c của địa danh có lễ hội cổ truyền.

- Đối với các lễ hội thờ cá voi/ cá ông, chúng tôi coi như một ngoại

biệt, bởi theo chúng tôi, đây là một loại lễ hội đặc thù của cư dân không

thuần tuý sống bằng nghề trồng lúa nước, mà sống bằng nghề đánh bắt

hải sản, trải dài ven biển từ Bắc vào Nam. Lễ hội thờ cá voi được sắp xếp theo hành trình đó (từ Bắc đến Nam).

Khi làm sách này, nhóm tuyển chọn chỉ ước mong rằng tập hợp

được một cách đầy đủ các lễ hội cổ truyền trong di sản văn hoá mà các

thế hệ trước để lại, nhằm đem đến cho bạn đọc một cái nhìn tương đối

toàn diện về kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam. Tuy nhiên, do hạn chế

về tư liệu khảo sát, về thời gian và nhân lực, chúng tôi chưa thể tập hợp

được vào sách này toàn bộ lễ hội cổ truyền như chính sự tồn tại của nó

trong cuộc sống. Chúng tôi hy vọng rằng công việc cần phải được tiếp tục để tương lai chúng ta có được một Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt

Nam đầy đủ như sự tồn tại của lễ hội cổ truyền trong cuộc đời.

Dù đã cố gắng hết sức, chúng tôi vẫn ý thức rằng, với một công

việc lớn như vậy, cuốn sách không tránh được những thiếu sót. Mong

rằng các bậc trí giả, các nhà hiểu biết, đông đảo bạn đọc, bằng tấm lòng

chân thành và độ lượng sẽ góp ý, chỉ bảo để những lần xuất bản sau

cuốn sách sẽ tốt hơn./.

Nhóm tuyển chọn

Page 9: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

12

Page 10: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

15

Tổng quan về kho tàng

Lễ hội cổ truyền Việt Nam

Nguyễn Chí Bền

- 1 -

Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng, ra

đời và phát triển trong xã hội loài người. ở Việt Nam, lễ hội gắn

bó với làng xã như một thành tố không thể thiếu vắng trong đời

sống cộng đồng. Là những cư dân nông nghiệp sống với nghề

trồng lúa nước, vòng quay của thiên nhiên và mùa vụ tạo ra

trong con người những nhu cầu tâm linh mà lễ hội chính là nơi,

là cơ hội thỏa mãn nhu cầu tâm linh ấy của họ. Trong tâm thức

mỗi người dân Việt Nam, nếu cây đa, giếng nước, sân đình là

những thành tố gắn bó thân thiết với mỗi người từ thuở thiếu

thời cho đến lúc giã biệt cõi đời thì lễ hội lại là thành tố văn hóa

gắn bó không những thân thiết mà vừa thiêng liêng lại vừa mãnh

liệt, gần gũi. Lễ hội cổ truyền là một "thời điểm mạnh của sinh

hoạt cộng đồng" - chữ dùng của GS. Đinh Gia Khánh - một

thành tố có tính chất tổng hợp trong các thành tố: tín ngưỡng,

tôn giáo, nghệ thuật biểu diễn dân gian v.v...

- 2 -

Trong số các loại hình của văn hóa dân gian Việt Nam, lễ

hội là loại hình được sưu tầm nghiên cứu tương đối muộn

màng. Thời kỳ từ thế kỷ thứ X đến năm 1858, các nhà nho chỉ

quan tâm ghi chép lại huyền thoại, thần tích về các thần được

người dân ở các làng quê thờ phụng mà ít ghi chép sự phụng

thờ các vị thần ấy của người dân ở các làng quê. Thực tế, các

thành tố: trò diễn, truyền thuyết, di tích v.v... của lễ hội cổ

Page 11: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

16

truyền gắn bó với nhau một cách mật thiết. Suốt dặm dài lịch

sử, chắc chắn các thành tố này tồn tại trong một di tích, một lễ

hội như một thành tố không thể tách rời. Phải chăng, điều này

là do quan niệm của các nhà nho hay do truyền thống của văn

hóa Việt Nam. Thành thử, từ Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên1

đến Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh - Kiều Phú 2 đến Vũ

trung tùy bút của Phạm Đình Hổ 3 đến Ô châu cận lục của

Dương Văn An4, v.v... chỉ ghi chép phần huyền thoại, truyền

thuyết liên quan đến các vị thần được các vương triều, các địa

phương phụng thờ. ở một địa hạt khác, khi làm các bộ sách

loại chí, thực lục, các nhà nho hay các viên quan trong Quốc sử

quán nhà Nguyễn có ghi chép một số dòng về phong tục tập

quán. Bút pháp của thể chí, kí, thực lục hay do quan niệm mà

các tác giả của các bộ sách như Đại Nam nhất thống chí, Gia

Định thành thông chí, Lịch triều hiến chương loại chí v.v..., chỉ

ghi những dòng ngắn gọn đến mức đơn giản về các phong tục,

trò chơi, lễ tết của cư dân mỗi vùng mà họ đề cập. Bởi vậy, nếu

nhìn nhận một cách nghiêm ngặt, các tác giả trong thời kỳ từ

thế kỷ X đến 1858, chưa sưu tầm, nghiên cứu về lễ hội, nhưng

nhìn ở từng thành tố, không thể không thừa nhận các tác giả ấy

đã có những dòng ghi chép và có thể nói là những dòng ghi

chép đầu tiên về lễ hội cổ truyền Việt Nam.

Thời Pháp thuộc, sớm nhất trong các tác giả sưu tầm

nghiên cứu về lễ hội cổ truyền Việt Nam phải chăng là

G.Dumoutier. Bài viết của ông về lễ hội làng Phù Đổng được in

trên Revue d' histoire des religions năm 1893, có lẽ là bài

nghiên cứu sớm nhất viết về lễ hội cổ truyền Việt Nam. Tác giả

đã miêu thuật truyền thuyết và đám rước cùng một lời bình khá

sắc sảo: "Cảnh tượng mà chúng tôi chứng kiến... sẽ là một

1 Bản dịch của Trịnh Đình Rư, Đinh Gia Khánh hiệu đính, bổ sung, Nxb Văn học tái bản,

Hà Nội, 1972. 2 Bản dịch của Đinh Gia Khánh và Nguyễn Ngọc San, Nxb Văn hóa, Viện Văn học, Hà

Nội, 1960. 3 Bản dịch của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nxb Văn học, Hà Nội, 1972.

4 Bản dịch của Trịnh Khắc Mạnh và Nguyễn Văn Nguyên, Nxb KHXH Hà Nội, 1997.

Page 12: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

17

trong những cảnh tượng hấp dẫn mà chúng tôi được xem ở

Bắc Kỳ. ở châu Âu cổ kính của chúng ta, thử hỏi dân tộc nào lại

hãnh diện là còn được tiến hành kỷ niệm một sự kiện anh hùng

của lịch sử mình đã xảy ra từ hai nghìn ba trăm năm trước"1.

Những năm đầu thế kỷ XX, việc nghiên cứu Đông

Dương, trong đó có Việt Nam, của người Pháp được tăng lên

với nhịp độ đáng kể với nguyên cớ như viên toàn quyền Đông

Dương P.Doumer từng viết: Muốn cai trị tốt dân tộc thuộc địa

thì điều trước hết phải hiểu tường tận dân tộc được cai trị. Lễ

hội cổ truyền là một thành tố của văn hóa dân gian được các trí

thức người Pháp, có khi là linh mục, có khi là công chức quan

tâm nghiên cứu. Lễ động thổ của M.J. Przyluski công bố năm

1910 trên BEFEO là một công trình như vậy. Năm 1913, một số

trí thức người Pháp tại Huế đã lập nên Hội đô thành hiếu cổ

(Association des Amis du Vieux Huê) ở Huế. Việc nghiên cứu

văn hóa, trong đó có văn hóa dân gian ở Huế, được đẩy mạnh.

Trên tờ tạp chí Những người bạn Huế cổ (BAVH), từ năm 1914,

đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về lễ hội cổ truyền

vùng Huế như Tế Nam giao của L.Cadière và R.Orbard. Năm

1915, H.Délétie đã có một bài viết khá sinh động và cặn kẽ về

nghi thức lên đồng: Lễ rước sắc thần Thiên Yana ở điện Huệ

Nam. Năm 1916, R.Orbard viết về lịch lễ hội ở Huế mà thực ra

là ông miêu tả những lễ tết của cư dân vùng Huế theo thời

gian.

Năm 1915, khi viết về phong tục tập quán, Phan Kế Bính

cũng dành nhiều trang trong cuốn Việt Nam phong tục để viết

về việc Thờ thần, Việc tế tự, nhập tịnh, Đại hội, Lễ kỳ an2. Tuy

không miêu tả một lễ hội nào cụ thể, nhưng những nhận xét về

lễ hội cổ truyền của ông là rất xác đáng. Ví dụ những miêu

thuật của ông về đại hội từ mở hội đến sửa sang nơi thờ cúng,

luyện tập, rước nước, gia quan, phụng nghênh hồi đình v.v...

1 Chuyển dẫn từ Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Văn học dân gian, tập 1, Nxb ĐH và

THCN, Hà Nội, 1972, tr.116 . 2 Xin xem Việt Nam phong tục, tái bản, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1990, từ trang 75 đến

tr.109.

Page 13: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

18

Năm 1930, không hoàn toàn sưu tầm hay nghiên cứu về lễ

hội cổ truyền, Nguyễn Văn Khoan khi nghiên cứu về ngôi đình

của người Việt đã dành ba mục: Các buổi cúng tế trong đình,

Tục lệ thờ cúng, Một số hèm đặc biệt1 để đề cập đến phần văn

hóa phi vật thể gắn bó với ngôi đình. Chính đây lại là những

thành tố của lễ hội cổ truyền gắn bó với môi trường xã hội của

văn hóa, nói khác đi tí chút, chính ngôi đình là môi trường diễn

xướng, là không gian của lễ hội cổ truyền.

Thành công sớm nhất trong số các nhà khoa học Việt

Nam nghiên cứu lễ hội cổ truyền là giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn

Huyên. Ông là người "tiếp thu được nhiều kinh nghiệm của học

thuật Pháp và do đó đã để lại những công trình khảo cứu rất có

giá trị"2. Hai lễ hội cổ truyền được giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn

Huyên dành tâm huyết và nghiên cứu cặn kẽ là lễ hội làng Giá

(nay là xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây) và lễ hội làng

Phù Đổng (nay thuộc huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội). Vừa

miêu thuật chi tiết, tỉ mỉ, vừa giải mã những yếu tố của hai lễ

hội cổ truyền trên, giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên đã dựng

lại diện mạo của hai lễ hội làng Giá và Phù Đổng rất trọn vẹn.

Cho đến hôm nay và mãi sau này, chắc chắn những miêu

thuật, nhận xét của giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên về hai lễ

hội cổ truyền này sẽ không bị lạc hậu hay phai nhạt giá trị. Xin

đơn cử phần ông miêu thuật lễ hội ở làng Giá: Một lễ hội Lý

Phục Man hàng năm từ sự phân công đến đám rước, đến các

lễ lớn: tế và các lời khấn đều được ông miêu thuật rất cặn kẽ.

Nguyên nhân đưa đến sự thành công này cũng không đơn

thuần chỉ là sự vận dụng một phương pháp mà còn do "Nguyễn

Văn Huyên tỏ ra say sưa với đề tài lễ hội và tín ngưỡng truyền

thống Việt Nam"3.

1 Bản dịch chép tay của Trịnh Hữu Ngọc.

2 Đinh Gia Khánh, bài Về những đóng góp của các nhà nghiên cứu người Pháp trong việc

tìm hiểu văn hóa dân gian ở Việt Nam, trong tập 90 năm nghiên cứu về văn hóa và lịch sử

Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 1993, tr.167. 3 Hà Văn Tấn, Nhà bác học Nguyễn Văn Huyên với văn hóa Việt Nam, in trong tập Góp

phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội, 1995, tr.13.

Page 14: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

19

Những năm 30-40, trên báo chí công khai hồi ấy, lác đác

có một số bài báo viết về các lễ hội, chẳng hạn như Lê Ta (tức

Thế Lữ), viết về hội Dóng1, Vũ Bằng viết về hội Lim2, Nguyễn

Duy Kiên viết về hội chùa Thày3, Huy Tân viết về Tục thổi cơm

thi ở phiên chợ Chuông4, Anh Đạt viết về Thi thả chim ở hội

đền Chèm5, Nguyễn Văn Tố viết Một vài tục cổ về mùa xuân 6.

Năm 1938, khi cho ra mắt bạn đọc cuốn Việt Nam văn

hóa sử cương, ông Đào Duy Anh có đề cập đến lễ hội cổ truyền

trong phần Tín ngưỡng và tế tự 7. Lễ hội không là đối tượng

được ông đề cập nhưng những ghi chép của ông vẫn có nhiều

tác dụng cho việc nghiên cứu lễ hội của các thế hệ sau. Chẳng

hạn, ông nhận xét: "Trong lễ vào đám hay vào hội của ít nhiều

làng, có một chi tiết đặc biệt gọi là hèm, người ta thường bày

một trò để nhắc lại tính tình sự nghiệp hoặc sinh bình của vị

thần làng thờ"8.

Bẵng đi mấy năm từ 1945 đến 1954, hầu như lễ hội cổ

truyền không được chú tâm nghiên cứu, sưu tầm. Lý do chính

phải chăng là khói lửa của cuộc kháng chiến chống thực dân

Pháp đã khiến cho những lễ hội cổ truyền không được mở, nên

việc sưu tầm, nghiên cứu về nó cũng chưa được phát triển.

Từ năm 1954 đến năm 1975, đất nước tạm thời chia cắt,

việc sưu tầm, nghiên cứu lễ hội ở hai miền diễn ra khác nhau,

cùng phương pháp và động cơ cũng có khác nhau.

ở miền Nam, trên các tạp chí như Văn hóa nguyệt san,

Bách khoa, Phổ thông, Tư tưởng v.v..., thỉnh thoảng vẫn có

những nghiên cứu về lễ hội, lễ tiết v.v... Có thể kể đến các bài

1 Báo Phong hóa số 99 năm 1934.

2 An Nam tạp chí số 19 năm 1931.

3 Trung Bắc chủ nhật số 9 năm 1940

4 Trung Bắc chủ nhật số 102 năm 1942.

5 Trung Bắc chủ nhật số 65 năm 1942.

6 Tạp chí Tri tân năm 1945, số 175-178

7 Xem Việt Nam văn hóa sử cương, tái bản, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1992, tr225-244.

8 Sđd, tr.234.

Page 15: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

20

viết của các tác giả như Bửu Kế với bài : Lễ tế xuân hay đám

rước thần nông (Bách Khoa, 1961), Những lễ tết đầu năm

(Bách Khoa, 1961), Đạm Quang với bài viết về hội đền Hùng

(Văn hóa nguyệt san, 1959), Tạ Thúc Khải viết về giỗ Hùng

Vương (Văn hóa nguyệt san, 1959), Nguyễn Ngu ý viết về hội

mùa xuân với đời sống tình cảm của Việt Nam (Bách Khoa,

1962), Phong An viết về nghi thức cúng đình (Hồn nước, 1971),

Thái Bạch viết về kỷ niệm Thánh Gióng (Văn hóa nguyệt san,

1960), Thái Văn Kiểm viết về các lễ tiết (Văn hóa nguyệt san,

1960), Lê Văn Hảo viết về cổ tục của người Việt qua hội mùa

(Đại học, 1964). Lễ hội của các dân tộc ít người cũng được chú

trọng giới thiệu. Lê Hương viết về lễ Ok om bok (Phổ thông,

1967), Nguyễn Trắc Dĩ viết về tục thưởng xuân của đồng bào

Thượng (Tập san Sử Địa, 1967), Nguyễn Bạt Tụy viết về Tết

của người Dao Mường (tạp chí Phương Đông, 1973). Bên cạnh

các tác giả viết về các lễ hội cụ thể, Nguyễn Toại viết một bài

nghiên cứu đáng lưu ý về lễ hội cổ truyền đăng trên Nghiên cứu

Việt Nam: Nhớ lại hội hè đình đám1. Tác giả không dừng ở một

lễ hội nào cụ thể, mà trình bày những nét khái quát về lễ hội cổ

truyền. Tác giả đi từ việc thờ phụng phúc thần và thành hoàng

ở các làng quê đến việc tìm hiểu nghi thức cúng tế, trò diễn, trò

rước của các lễ hội ở làng quê. Mặc dù tác giả viết rõ đó "là

một vài ký ức về đình làng, về hội hè đình đám" 2 nhưng bài

viết vẫn là một bài nghiên cứu đáng quan tâm trong các công

trình nghiên cứu về lễ hội cổ truyền ở miền Nam trước năm

1975.

Trong số các tác giả ở miền Nam từ năm 1954 đến năm

1975 sưu tầm nghiên cứu về lễ hội cổ truyền, có hai tác giả

đáng lưu ý. Thứ nhất là Nguyễn Đăng Thục. Thật ra, ông không

chuyên sưu tầm nghiên cứu về lễ hội cổ truyền mà ông xem lễ

hội cổ truyền như một phương tiện để tìm hiểu tư tưởng Việt

Nam. Năm 1965, trên Văn hóa nguyệt san, ông đã viết về văn

1 Nhà sùng chính Huế, niên san 1973, tập 1.

2 Bđd, tr.47.

Page 16: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

21

hóa đình làng, đến năm 1973, trên tạp chí Tư tưởng, ông lại trở

lại với đề tài này. Sau khi giới thiệu về đình làng thông qua

nhận định của các học giả khác, ông đã miêu thuật khá cặn kẽ

điện thần của đình làng cũng như hội hè đình đám. Trình tự các

nghi thức ở đình làng trong ngày lễ hội được miêu tả khá chi

tiết. Ông đã dẫn những ý kiến xác đáng của L.Cadière về tôn

giáo tín ngưỡng của người Việt để phân tích các tín ngưỡng

gắn liền với các lễ hội. Vẫn nhất quán với cách tiếp cận của

mình, khi viết về tư tưởng bình dân Việt Nam trong lịch sử tư

tưởng Việt Nam, ông vẫn dành những trang khá lớn để nói về

lễ hội cổ truyền, phục vụ cho sự phân tích tư tưởng bình dân

Việt Nam, như Mùa xuân với đời sống tình cảm Việt Nam, Trẩy

hội hành hương1.

Nếu như Nguyễn Đăng Thục coi lễ hội cổ truyền là

phương tiện để ông tiếp cận lịch sử tư tưởng Việt Nam thì Toan

ánh lại coi lễ hội cổ truyền là mục đích tiếp cận, đối tượng miêu

tả và nghiên cứu của ông. Sinh ra trên đất Bắc, những năm

sống ở miền Nam trước 1975, viết về lễ hội cổ truyền, với Toan

ánh còn như một cơ hội để đánh thức những kỷ niệm xưa cũ

về quê hương của mình, như tác giả đề từ: "Kính dâng anh hồn

thân phụ để kỷ niệm những ngày thơ ấu thân phụ thường dắt

con đi xem những hội quê tỉnh Bắc" 2. Năm 1960, trên Văn đàn

tuần san, ông đã viết về hội hè và phong tục mùa thu. Năm

1969, quyển thượng cuốn Nếp cũ hội hè đình đám ra mắt bạn

đọc, năm 1974, quyển hạ của cuốn sách này ra mắt bạn đọc.

Ngoài những phần khảo cứu, ông tập trung miêu thuật các lễ

hội cổ truyền trên mọi miền đất nước. Với 54 lễ hội cổ truyền,

Nếp cũ hội hè đình đám của ông là bộ sưu tập đầu tiên, dày

dặn về lễ hội cổ truyền Việt Nam. Riêng phần khảo cứu, Toan

ánh miêu thuật khá cặn kẽ nhiều trò diễn của các lễ hội qua các

mục như: hội hè đình đám là gì, mục đích của hội hè đình đám,

1 Xin xem Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1992, từ trang

122-177. 2 Quyển thượng, Nam chi tùng thư, xb, S, 1969, quyển hạ, tác giả xb, S, 1974.

Page 17: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

22

thời gian mở hội, rước, tế gia quan, hèm, những trò giải trí

v.v...1. Ông lại dành chương thứ tư để đề cập các trò diễn của

các lễ hội mà ông gọi là Những đặc tính của các cổ tục2 với các

mục luyến ái tính, khác với hội hè đình đám, chiến đấu tính

v.v... Bởi vậy, có thể nói Toan ánh là người có đóng góp rất lớn

vào công việc sưu tầm và nghiên cứu lễ hội cổ truyền Việt

Nam.

ở miền Bắc, từ sau năm 1954, việc sưu tầm và nghiên

cứu lễ hội cổ truyền có thể chia làm hai giai đoạn: trước và sau

năm 1975. Trước năm 1975, việc sưu tầm nghiên cứu lễ hội cổ

truyền chưa được giới nghiên cứu quan tâm nghiên cứu. Một

phần do chính sự phát triển của đối tượng nghiên cứu. Những

năm 1954-1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đòi hỏi

chúng ta phải tập trung sức người sức của cho sự nghiệp giải

phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mặt khác, do nhiều tác

động của chiến tranh, cho nên lễ hội cổ truyền tạm lắng xuống.

Phải chăng vì thế mà việc sưu tầm nghiên cứu lễ hội cổ truyền

cũng chưa phát triển lắm.

Sớm nhất trong số các công trình sưu tầm nghiên cứu về

lễ hội cổ truyền sau 1954 ở miền Bắc, phải kể đến bài viết của

cố giáo sư Nguyễn Đổng Chi: Một số tục cổ và trò chơi của

người Việt Nam trong Tết nguyên đán và mùa xuân3. Người có

nhận xét một cách bao quát về lễ hội cổ truyền ở miền Bắc vào

thời điểm này là giáo sư Nguyễn Hồng Phong. Tiếp cận từ góc

dân tộc học, khi nghiên cứu xã thôn Việt Nam, giáo sư Nguyễn

Hồng Phong khi đề cập về sinh hoạt cộng đồng ở xã thôn, đã

có những nhận xét về lễ hội cổ truyền 4. Tác giả nhận xét. "Hội

hè ở nông thôn nước ta ngày xưa cũng đều có tính chất vừa

giải trí vừa tín ngưỡng. Và ở hội hè nào thì cũng có tính chất

giải trí hoặc tín ngưỡng, nhiều hay ít là tùy từng loại. Song dù

1 Xin xem Nếp cũ hội hè đình đám quyển hạ, tác giả xuất bản, S, 1974, từ tr. 9-35.

2 Sđd, từ tr. 227-344.

3 Tập san Nghiên cứu Văn Sử Địa số 37, 1958 (từ tr 5-7).

4 Xin xem Xã thôn Việt Nam, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1959, từ tr. 201-218.

Page 18: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

23

loại nào thì hội hè cũng có tác dụng giải trí, có nội dung giải trí.

Do đó, ý nghĩa của hội hè cũng có khác nhau, có thứ xuất phát

từ yêu cầu giải trí như các hội mùa xuân ở nông thôn, có cái thì

xuất phát từ yêu cầu tín ngưỡng - cái tín ngưỡng này nói chung

là lành mạnh - như hội chùa Keo, hội đền Kiếp Bạc, hội chùa

Hương, hội Phủ Giày, hội đền Hùng v.v... tiến hành ngoài phạm

vi của từng thôn"1. Đó là một nhận xét đúng. Mặt khác, tác giả

có phân tích các thành tố của lễ hội từ sinh hoạt và biểu diễn

văn nghệ, các trò chơi và chỉ ra các mặt tiêu của hội hè như:

"cuốn người nông dân vào những tổ chức tế tự lãng phí rất

nhiều thì giờ và tiền của"2, về "mặt tinh thần thì ngày hội cũng

là một dịp để bọn làm nghề tôn giáo tuyên truyền cho tôn giáo,

bọn làm nghề mê tín (đồng bóng... thầy bói, thầy tướng, xem

thẻ...) tăng cường hoạt động" 3. Điều đáng lưu ý là tác giả đã

nhìn sự tồn tại của lễ hội với các thành tố riêng biệt nên không

thấy được sự gắn kết giữa các thành tố với nhau, cũng như các

lớp văn hóa lắng đọng trong lễ hội cổ truyền.

Vẫn tiếp cận từ góc độ dân tộc học, các nhà nghiên cứu

khi nhìn nhận thời Hùng Vương, đã không quên nghiên cứu về

lễ hội thời kỳ này. Trong cuốn Thời đại Hùng vương 4, PGS Lê

Văn Lan đã viết một số trang về hội lễ thời kỳ này. Ông miêu

thuật một cách đơn giản một số trò diễn như tục đánh trống

đồng, đánh cồng, múa nhảy và ca hát, giã cối và bơi thuyền và

những hoạt động trên sông nước, kể chuyện dân gian theo

nghi thức để đi tới nhận xét: "Ngày hội lễ ở thời Hùng Vương

như vậy là một dịp sinh hoạt văn hóa tinh thần quan trọng và

đặc sắc. Nó gồm có nhiều hình thức phong phú và độc đáo. Đó

là những ngày hội làng" 5. Trong khi đó, viết về Hà Nội, GS

Trần Quốc Vượng và nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Sán đã viết về

1 Sđd, tr.203-204.

2 Sđd, tr.215.

3 Sđd, tr.216.

4 Văn Tân, Nguyễn Linh, Lê Văn Lan, Nguyễn Đổng Chi, Hoàng Hưng, Nxb Khoa học xã

hội , Hà Nội, in lần 1 (1973), in lần 2 (1976). 5 Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội, 1975, từ tr. 259 - 282.

Page 19: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

24

những lễ hội của Hà Nội xưa ở phần 6: sinh hoạt văn hóa ở

Thăng Long buổi Lý Trần của cuốn sách Hà Nội nghìn xưa. Các

tác giả đã trình bày những lễ tiết của Thăng Long buổi ấy và có

những kiến giải khá xác đáng: "Tắm tượng, lễ mộc dục, không

chỉ dành riêng số tượng Phật mà với cả tượng và bài vị thánh

thần... Lễ mộc dục này, dù đã bị Phật giáo hóa và Đạo giáo

hóa, vẫn hé mở cho ta thấy cội nguồn xa xưa từ những lễ thức

cầu mưa" 1.

Cũng trước năm 1975, có một tác giả đã trở lại viết về

hội Gióng, nhưng là ở một góc tiếp cận khác, so với Nguyễn

Văn Huyên trước cách mạng tháng Tám. Đó là nhà nghiên cứu

đã quá cố Cao Huy Đỉnh với tác phẩm Người anh hùng làng

Dóng. Quả tình "ở những năm 60, khi mà không ít người

nghiên cứu văn học dân gian vẫn còn nhìn folklore ngôn từ

bằng con mắt văn học từ giác độ văn học, Cao Huy Đỉnh đã

kiên trì một phương pháp làm việc: đặt tác phẩm văn học dân

gian vào môi trường nảy sinh ra nó mà khảo sát"2. Với phương

pháp ấy, Cao Huy Đỉnh đã dành chương III: Hội Dóng và nghệ

thuật diễn xướng anh hùng ca cho việc nghiên cứu để tìm được

"sự chuyển hóa thường xuyên từ nghệ thuật truyện kể sang

nghệ thuật diễn xướng" có tính chất tổng hợp và ngược lại3.

Tác giả đã miêu thuật khá trọn vẹn diễn trình của hội Dóng

nhưng để phục vụ cho việc tiếp cận hình tượng người anh

hùng làng Dóng của mình.

Sau năm 1975, việc nghiên cứu, sưu tầm về lễ hội cổ

truyền như có một bước phát triển mới. Vẫn tiếp cận từ góc độ

dân tộc học, Lê Thị Nhâm Tuyết công bố liên tục chùm bài về lễ

hội cổ truyền trên tạp chí Dân tộc học. Tác giả đi từ vị trí lịch sử

của hội làng đến các loại hình của hội làng trước cách mạng

tháng Tám năm 1945 và hội làng trung du. Những nhận định

1 Sđd, tr. 273.

2 Các tác gia nghiên cứu văn hóa dân gian, Nguyễn Xuân Kính (chủ biên), Nxb KHXH, Hà

Nội, 1995, tr. 130. 3 Nghiên cứu văn nghệ dân gian Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1997, tr 498.

Page 20: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

25

của tác giả là chính xác. Chẳng hạn về địa điểm mở hội: "Hội

làng thường lấy đình làm cơ sở. Đấy là nơi thờ thành hoàng.

Và nhiều người đã nghĩ đến sự đồng nhất giữa hội làng và tín

ngưỡng thành hoàng: Hội làng chính là nghi thức biểu đạt quan

niệm của dân làng về thần thành hoàng làng. Nhưng có không

ít hội làng lại chẳng lấy đình làm nơi mở hội. Ngôi chùa làng

mới là cơ sở của hội làng ở khá nhiều nơi... Và cũng còn nhiều

nơi nữa, không dùng đình, cũng không chọn chùa, mà lại lấy

đền làm nơi mở hội làng" 1. Tác giả cũng đưa ra quan niệm về

sự phân loại hội làng trước cách mạng tháng Tám năm 1945

của mình. Đồng thời, như chưa bằng lòng ở kết quả nghiên

cứu của mình, tác giả viết: 'Chính vì vậy mà vấn đề hội làng

cần phải được xem xét với cái nhìn vừa lịch đại (nghiên cứu hội

làng trong lịch sử) vừa đồng đại (nghiên cứu loại hình hội làng)" 2. Sau này, trên Tạp chí Văn hóa dân gian (số 1-1984 và số

1/1985), tác giả cô gọn những ý kiến của bản thân đã công bố

trên tạp chí Dân tộc học bằng tiểu luận: Nghiên cứu về hội làng

của người Việt. Tác giả đã đi từ quan niệm về hội làng của bản

thân để phác họa sự biến đổi của hội làng qua các thời kỳ lịch

sử, trên cơ sở ấy mà khẳng định giá trị của hội làng.

Năm 1978, các tác giả Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần

Linh Quý công bố cuốn Quan họ nguồn gốc và quá trình phát

triển3. Tiếp cận từ góc độ của folklore học, tác giả Đặng Văn

Lung đã miêu thuật một số lễ hội, chủ yếu là các lễ hội liên

quan đến quan họ như hội Lim, hội ó, hội Nhồi, hội Bùi và các

lối hát quan họ như hát trùm đầu, hát cầu đảo, hát hiếu, hát kết

chạ, khía cạnh tác giả quan tâm là việc nghiên cứu nguồn gốc

và quá trình phát triển của dân ca quan họ mà các lễ hội chỉ là

phương tiện để tác giả chứng minh cho lễ hội của mình. Nói

khác đi là, lễ hội không là đối tượng nghiên cứu của tác giả

trong công trình này.

1 Tạp chí Dân tộc học số 1-1976, tr.48.

2 Tạp chí Dân tộc học số 2-1976, tr.23.

3 Nxb KHXH Hà Nội, 1978.

Page 21: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

26

Năm 1981 trong khuôn khổ của loại sách đất nước, con

người, Tô Nguyễn - Trịnh Nguyễn cho ra mắt bạn đọc cuốn

Kinh Bắc - Hà Bắc1. Các tác giả có dành một chương cho lễ

hội cổ truyền ở Hà Bắc với sự phân loại thành 6 loại: loại hội hè

liên quan đến tín ngưỡng nông nghiệp cổ truyền; loại hội mùa

biểu hiện các hình thức thượng võ; loại hội hè liên quan đến

các anh hùng dựng nước, giữ nước và nhân vật lịch sử; loại hội

văn hóa; loại hội chùa; và những hội hè tế lễ ở các làng mang

màu sắc Đạo giáo. Thực ra, cách phân loại của các tác giả

chưa thật khoa học, nhưng những trang viết về hội hè Hà Bắc

của các tác giả vẫn là những trang đầu tiên viết về lễ hội cổ

truyền ở phạm vi một vùng đất.

Bắt đầu từ những năm 80, tác giả Thu Linh đã có nghiên

cứu về lễ hội cổ truyền, Trên tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ

thuật, (số 2-1982), tác giả xác định Hội là một hình thức sinh

hoạt văn hóa truyền thống. Sau đó, năm 1983, cùng nghiên

cứu với tác giả Đặng Văn Lung, chị công bố chuyên luận Lễ hội

truyền thống và hiện đại2. Với sáu chương: Mấy nét về quá

trình phát triển của hội (chương 1), Đặc trưng và chức năng

của hội (chương 2), Cấu trúc hội (chương 3). Hội và đời sống

(chương 4), Hội trong thời đại chúng ta (chương 5), Tìm hiểu

phương pháp tổ chức hội (chương 6), hai tác giả Thu Linh và

Đặng Văn Lung đã có những đóng góp nhất định vào việc

nghiên cứu lễ hội. Bởi lẽ, đây là một trong không nhiều chuyên

luận về lễ hội được công bố sớm nhất trong tiến trình sưu tầm,

nghiên cứu về lễ hội ở Việt Nam. Đáng tiếc là các tác giả đồng

nhất hai phạm trù lễ hội cổ truyền và lễ hội đương đại và nên

không tập trung vào giải mã những vấn đề cần giải mã của lễ

hội dân gian. Và việc đi tìm một kịch bản cho lễ hội cổ truyền là

không sát với đặc điểm của đối tượng nghiên cứu.

1 Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1981.

2 Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1984.

Page 22: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

27

Khác với góc tiếp cận của các tác giả Lê Thị Nhâm

Tuyết, Thu Linh và Đặng Văn Lung, kiên trì quan điểm của

mình về tên gọi của đối tượng nghiên cứu nghiên cứu là hội lễ,

GS Đinh Gia Khánh tiếp cận lễ hội cổ truyền như một thành tố

văn hóa dân gian (folklore). Trong loạt bài nghiên cứu về các

thành tố: nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật biểu diễn, năm 1982

ông đề cập đến ý nghĩa xã hội và văn hóa của hội lễ văn hóa

dân gian 1. Bốn năm sau khi xuất bản cuốn Trên đường tìm

hiểu văn hóa dân gian, ông đặt hội lễ dân gian trong tương

quan với các thành tố khác như ngữ văn dân gian, nghệ thuật

tạo hình dân gian, nghệ thuật biểu diễn dân gian. Phân biệt với

các thành tố khác, giáo sư cho rằng hội lễ là "thời điểm mạnh

trong sinh hoạt cộng đồng". Phải thừa nhận rằng, đây là ý kiến

đã chỉ ra được chính xác đặc trưng lễ hội cổ truyền. Chương

viết về lễ hội trong cuốn sách này của giáo sư quả có sức khái

quát cao về lễ hội cổ truyền 2. Cùng với GS Đinh Gia Khánh,

trước năm 1975, khi viết về Hà Nội nghìn năm văn hiến, GS

Trần Quốc Vượng đã viết về lễ hội cổ truyền. Năm 1978 trên

tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, ông lại viết về hội hè

dân gian với làng quê đổi mới. Năm 1986, trên tạp chí Văn hóa

dân gian, ông đặt vấn đề tiếp cận lễ hội từ một cái nhìn tổng

thể. Ông khẳng định chúng ta "chỉ có khả năng đề cập đến

những lễ hội hiện hữu từ thời nông nghiệp" 3 và từ đó đi đến

quan niệm: "lễ hội là một sản phẩm và một biểu hiện của một

nền văn hóa" 4.

Trong những năm trước 1980, ngoài những tác giả trên

còn có một số tác giả khác viết về lễ hội cổ truyền như Nguyễn

Huy Hồng viết về hội chùa Keo (1977), Nguyễn Quốc Lộc viết

về hội Hiền (1977), Dương Văn Thâm viết về trò Trám (1974),

hội đánh cá Láng Thờ (1976), Nguyễn Hữu Thu viết về hội hát

chèo tàu (1975) rồi hội mùa xuân hát thổi cơm thi (1982), 1 Tạp chí Văn hóa dân gian số 1-1985.

2 Xem Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, Nxb KHXH, Hà Nội, 1989, từ tr. 171-191.

3 Tạp chí Văn hóa dân gian số 1-1986, tr. 3.

4 Bđd trang 4.

Page 23: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

28

Nguyễn Khắc Xương viết về một số diễn xướng hội làng về

vùng chân núi Hùng (1976) v.v...

Trước năm 1985, nhìn nhận những công trình sưu tầm,

nghiên cứu lễ hội cổ truyền không thể không đề cập đến những

trang miêu thuật về hội làng ở Hà Bắc (nay là hai tỉnh Bắc Ninh,

Bắc Giang) của tác giả Trần Linh Quí trong công trình Địa chí

Hà Bắc 1. Tác giả đã miêu thuật một cách phác thảo các hội

làng ở Hà Bắc từ các trò diễn: rước, thi đốt pháo, thi cướp cầu,

ném cầu trong ngày hội đến các tục lệ khác như thi đọc mục

lục, hát quan họ v.v... Đây là công trình địa chí sớm nhất trong

các công trình địa chí về các tỉnh thành của nước ta được công

bố sau năm 1954. Thành ra, những trang viết về lễ hội Hà Bắc

cũng là vào loại sớm trong các công trình sưu tầm, nghiên cứu

lễ hội cổ truyền. Sau năm 1985, tình hình sưu tầm, nghiên cứu

lễ hội cổ truyền như bừng lên với một luồng sinh khí mới. Lễ

hội cổ truyền được khôi phục và phát triển trở lại. Thực tiễn ấy

đòi hỏi công tác sưu tầm, nghiên cứu lễ hội cổ truyền phải phát

triển ở các tạp chí khoa học, sau năm 1985, số lượng các công

trình sưu tầm nghiên cứu về lễ hội cổ truyền được công bố

tăng rất nhanh.

Nếu trước năm 1985, tạp chí Nghiên cứu Văn hoá nghệ

thuật (nay là tạp chí Văn hoá nghệ thuật) chỉ có 2 bài viết

nghiên cứu về lễ hội cổ truyền thì từ năm 1986 đến năm 1998,

tạp chí này đã công bố 66 bài viết nghiên cứu, miêu thuật về lễ

hội cổ truyền. Bạn đọc gặp ở đây những bài miêu thuật về lễ

hội cổ truyền cụ thể như bài của Trịnh Minh Hiên viết về hội

chọi trâu Đồ Sơn, của Vũ Kim Biên về lễ hội đền Hùng xưa, của

Nguyễn Đức Minh về lễ hội Long Chu ở Hội An, của Nam

Phong - Hữu Bình về lễ hội đầm Ô Loan, của Nguyễn Tứ Hải

về lễ hội cầu ngư ở Khánh Hoà v.v... Mặt khác, số lượng các

bài nghiên cứu về lễ hội cổ truyền cũng được công bố khá

1 Nhiều tác giả, Ty Văn hóa và Thông tin, Thư viện tỉnh xuất bản, 1982, chỉ đạo biên soạn

Lê Hồng Dương, từ tr.555-579.

Page 24: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

29

nhiều. Đáng chú ý là những bài viết sâu sắc về lễ hội cổ truyền

như bài: Từ một vài trò diễn trong lễ hội làng của PGS Nguyễn

Từ Chi; bài: Những giá trị văn hoá của lễ hội cổ truyền và nhu

cầu của xã hội hiện đại của PGS, TS Ngô Đức Thịnh .v.v...

ở tạp chí Văn hoá dân gian, từ năm 1983 đến năm 19971

có 180 bài viết cả miêu thuật lẫn nghiên cứu về lễ hội cổ truyền

được công bố thì số lượng bài công bố sau năm 1985 là 155

bài. Nhiều công trình tập trung miêu thuật lễ hội vụ thể như TS

Lê Hồng Lý với Hội Trường Yên và cố đô Hoa Lư, Nguyễn Thị

Hiền với lễ hội đền hoá Dạ Trạch, TS Bùi Xuân Đính với hội

chùa Tam Sơn, TS Huỳnh Văn Tới với lễ hội Dinh Cô .v.v...

Nhiều công trình nghiên cứu sâu sắc về lễ hội dân gian được

công bố như Hội lễ dân gian truyền thống trong thời hiện đại

của GS Đinh Gia Khánh, Phác thảo lịch sử lễ hội của người Việt

ở Bắc Bộ của PGS, TS Nguyễn Xuân Kính .v.v... Năm 1986,

cuốn Địa chí văn hóa dân gian vùng đất tổ 2 ra mắt bạn đọc.

Tác giả Nguyễn Khắc Xương trong chương Trò diễn hội làng 3,

tác giả Lê Trung Vũ và Nguyễn Lợi trong chương Lễ thức trong

sinh hoạt xã hội và gia đình 4 đã phác họa những nét chính của

lễ hội cổ truyền ở Vĩnh Phú. Không dừng lại miêu thuật một lễ

hội nào trọn vẹn mà các tác giả miêu thuật các loại trò diễn

trong các lễ hội cổ truyền. Âu đó cũng là một đóng góp đáng

quí.

Cũng thời điểm này, ngành văn hóa thông tin Hà Bắc tổ

chức một cuộc hội thảo khoa học về lễ hội cổ truyền Hà Bắc

vào ngày 11-11-1986. Hội thảo đã thu hút các nhà nghiên cứu

như GS Đặng Nghiêm Vạn, PGS Lê Trung Vũ, PGS, TSKH

Phan Đăng Nhật, PGS, TS Phan Khanh, các TS Trần Đình

Luyện, Lê Hồng Lý, Lê Văn Kỳ, các cán bộ nghiệp vụ ở địa

1 Theo thống kê của tạp chí Văn hoá dân gian các năm 1983 - 1992, 1993 - 1994, 1995,

1996 - 1997. 2 Chủ biên Ngô Quang Nam, Xuân Thiêm, Sở Văn hoá Thông tin Vĩnh Phú, 1986.

3 Sđd từ tr. 211 - 256.

4 Sđd, từ tr. 267 - 300.

Page 25: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

30

phương như Nguyễn Quang Khải, Trần Thái v.v... Nội dung của

cuộc hội thảo không chỉ dừng lại những vấn đề về lễ hội cổ

truyền Hà Bắc mà còn mở rộng đến các vấn đề như quan niệm

và thực tế ở các nước xã hội chủ nghĩa anh em, về công tác, tổ

chức, chỉ đạo và quản lý các ngày hội trong giai đoạn hiện nay.

Đáng tiếc, có lẽ do thời gian chuẩn bị chưa cặn kẽ nên các

tham luận chưa phải là sâu sắc. Dầu vậy, nối tiếp công việc ấy,

năm 1989, Sở Văn hóa Thông tin Hà Bắc lại xuất bản cuốn Hội

xứ Bắc (tập II) với việc miêu thuật ba lễ hội: hội Lim, hội pháo

Đồng Kỵ, hội làng Đình Bảng. Thực ra, so với một vùng đất

từng là trung tâm sinh tụ của người Việt, việc miêu thuật các lễ

hội ở Hà Bắc thực ra còn quá ít ỏi, chưa phản ánh đúng diện

mạo của lễ hội cổ truyền nơi đây.

Năm 1988, nhà xuất bản Văn hóa dân tộc cho ra mắt bạn

đọc cuốn Lễ hội Khơ me Nam Bộ của tác giả Sôrya. Tác giả đã

miêu thuật lễ hội Chol Chnam thmây, lễ Oc Omboc và ngày hội

đua ghe ngo, lễ cưới, lễ Đôn ta và lễ tang. Mặc dù tác giả chưa

có sự giải mã hay nghiên cứu mà chỉ dừng ở mức độ miêu

thuật, nhưng đến nay, đây vẫn là tác phẩm duy nhất miêu thuật

lễ hội cổ truyền Khơ me Nam Bộ.

Năm 1988, tác giả Tôn Thất Bình cho công bố những

sưu tập của mình về lễ hội dân gian Bình Trị Thiên. Ngoài tiểu

luận Vài nét về văn nghệ dân tộc Bình Trị Thiên 1, tác giả đã

miêu thuật 8 lễ hội dân gian ở Bình Trị Thiên 2. Đáng tiếc là tác

giả không phân định các hình thức diễn xướng dân gian và lễ

hội cổ truyền. Thành thử đóng góp của công trình vào tiến trình

sưu tầm, nghiên cứu lễ hội cổ truyền chưa được là bao.

Năm 1989, nhà xuất bản Thể dục thể thao xuất bản cuốn

Trò chơi xưa và nay 3. Nhìn các trò diễn của các lễ hội trong

diện mạo trò chơi dân gian Việt Nam, các tác giả đã miêu thuật

1 Sở Văn hóa Thông tin Bình Trị Thiên, từ tr. 9-39.

2 Sđd từ tr. 40-160.

3 Chủ biên Mai Văn Muôn, Nxb Thể dục thể thao, Hà Nội, tập I, 1989.

Page 26: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

31

khá nhiều trò diễn trong lễ hội cổ truyền Việt Nam như trò chen

(Nga Hoàng, Hà Bắc), trò bắt chạch trong chum v.v... Lần đầu

tiên, lịch lễ hội cổ truyền ở một số địa phương đã được các tác

giả sắp xếp và hoàn chỉnh với các thông tin, tên hội, huyện, tỉnh

và các trò đặc sắc.

Năm 1990, Văn phòng Ban nếp sống mới trung ương tổ

chức xuất bản cuốn Hội hè Việt Nam 1. Ngoài lời mở đầu, lịch

hội Việt Nam, du lịch và hội hè Việt Nam, tập sách miêu thuật

18 lễ hội cổ truyền, trong đó có 16 lễ hội phía Bắc, 2 lễ hội phía

Nam cùng bài viết những phong tục đẹp và hội hè của một số

dân tộc ít người. Việc miêu thuật của các tác giả, thật ra không

có gì mới mẻ về mặt tư liệu so với các thế hệ trước đã miêu

thuật.

Năm 1991, Sở Văn hóa Thông tin Thái Bình, xuất bản

cuốn Hội lễ dân gian ở Thái Bình của các tác giả Phạm Minh

Đức, Phạm Thị Nết, Phạm Thị Lan, cuốn sách có hai phần:

phần một là bài viết Những ghi nhận bước đầu về hội lễ dân

gian ở Thái Bình và phần hai là 17 bài miêu thuật về 17 lễ hội ở

Thái Bình cùng phần ba là lịch hội Thái Bình. Có thể nói, Thái

Bình là tỉnh đầu tiên ở châu thổ Bắc Bộ có được một tập sách

miêu thuật các lễ hội cổ truyền trong tỉnh. Mặc dầu so với tiềm

năng lễ hội cổ truyền của tỉnh còn khá nhiều lễ hội cổ truyền

khác nữa. Với con số thống kê của tác giả Nguyễn Thanh, Thái

Bình có 49 lễ hội cổ truyền 2, thì 17 lễ hội cổ truyền được miêu

tả quả là chưa đầy đủ.

Trong khi đó, năm 1991, sở Khoa học công nghệ và môi

trường Hà Nội cho thực hiện đề tài khai thác những yếu tố tích

cực, hạn chế các yếu tố tiêu cực của lễ hội dân gian truyền

thống, định hướng một mô hình lễ hội hiện đại ứng dụng thể

nghiệm vào tình hình lễ hội hiện nay đang được phục hồi nhanh

chóng ở thủ đô Hà Nội do ông Nguyễn Vinh Phúc làm chủ

1 Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1990.

2 Xem Nhận diện văn hóa làng Thái Bình, Sở VHTT và TT Thái Bình, 1998, từ tr. 186-200.

Page 27: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

32

nhiệm đề tài. Do địa giới Hà Nội hồi ấy nên các tác giả miêu

thuật 8 lễ hội, mà đến nay, có những lễ hội thuộc về Hà Tây

hay Vĩnh Phúc. Bài tổng luận của đề tài này của hai tác giả

Nguyễn Vinh Phúc và Lê Văn Lan sau này được xuất bản trong

cuốn Tìm hiểu di sản văn hóa dân gian Hà Nội 1 cùng bài viết

về Hội Gióng của GS Trần Quốc Vượng: Căn bản triết lý người

anh hùng Phù Đổng và hội Gióng 2.

Cũng năm 1991, công trình Địa chí văn hóa dân gian

Thăng Long - Đông Đô- Hà Nội, do GS Đinh Gia Khánh và ông

Trần Tiến chủ biên được ra mắt bạn đọc. Mặc dù công trình

không dành một chương để viết về lễ hội dân gian, nhưng ở

chương Trò chơi và trò diễn dân gian, các tác giả có dành một

mục để viết về các hội thi tài của người dân Thăng Long mà

các tác giả xếp vào mục Trò chơi dân gian. Cũng ở chương

này, tác giả lại dành một mục để viết về các trò diễn dân gian,

trong đó có các trò: rước thần An Dương Vương, diễn trận

Thánh Gióng diệt giặc Ân, rước thánh Trèm. Ngoài ra, trong

chương Lễ thức và phong tục, các tác giả có một mục những lễ

hội dân gian với việc miêu thuật 30 lễ hội trên địa bàn Hà Nội.

Thực ra, con số này bao hàm cả những lễ hội mà theo địa giới

hiện nay không còn thuộc Hà Nội nữa, cho nên chưa thể nói

rằng con số ấy đã là tất cả các lễ hội cổ truyền Hà Nội.

Năm 1991, các tác giả Ngô Đức Thịnh, Đỗ Hồng Kỳ, Tô

Đông Hải đã hoàn thành công trình khoa học Văn hoá dân gian

M'nông do PGS, TS Ngô Đức Thịnh làm chủ biên. Chương Lễ

hội dân gian M'nông 3của cuốn sách này do tác giả Tô Đông

Hải đảm nhận. Tác giả đã từ hệ thống thần linh và những quan

niệm tín ngưỡng của người M'nông mà đề cập đến những hệ

thống lễ nghi: lễ nghi nông nghiệp, lễ nghi vòng đời người, nghi

lễ gia đình và nghi lễ cộng đồng. Việc miêu thuật của tác giả thì

1 Nxb Hà Nội, 1994.

2 Sđd, tr. 203-225.

3 Sở Văn hoá Thông tin Đắc Lắc, in lần 2, 1995

Page 28: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

33

khá cặn kẽ, nhưng việc giải mã giá trị văn hóa của lễ hội ở đây

thì đáng tiếc, tác giả chưa làm được là bao.

Năm 1992 có thể nói là năm đánh dấu những cột mốc

trên tiến trình nghiên cứu lễ hội cổ truyền. Sau hai năm 1990 -

1991 biên soạn, năm 1992, công trình Lễ hội cổ truyền của

người Việt ở Bắc Bộ 1 do PGS Lê Trung Vũ làm chủ biên ra mắt

bạn đọc. Công trình thu hút trí tuệ của các nhà khoa học như

PGS, TS Ngô Đức Thịnh, PGS, TSKH Phan Đăng Nhật, PGS,

TS Nguyễn Xuân Kính cùng TS Lê Văn Kỳ với 367 trang khổ 13

x 19 cm, các tác giả đã trình bày khá cặn kẽ về các vấn đề của

lễ hội cổ truyền từ vị trí của lễ hội trong đời sống tinh thần của

người Việt, môi trường tự nhiên, xã hội lịch sử của sự hình

thành lễ hội, lịch sử lễ hội của người Việt ở Bắc Bộ, đến nội

dung phản ánh của hội làng, cùng việc miêu thuật 9 lễ hội ở

châu thổ Bắc Bộ và lịch một số lễ hội cổ truyền của người Việt

ở Việt Nam.

Trong lĩnh vực nghiên cứu về lễ hội cổ truyền, công trình

này là công trình nghiên cứu đầu tiên đã trình bày một cách đầy

đủ, trọn vẹn, khoa học về lễ hội cổ truyền, tuy rằng các tác giả

giới hạn địa bàn nghiên cứu của mình là châu thổ Bắc Bộ. Nói

cách khác, đây là một cột mốc mà các nhà nghiên cứu ở Viện

nghiên cứu văn hóa dân gian đã cắm được trên đường nghiên

cứu về lễ hội cổ truyền, một cột mốc mà không phải ai cũng dễ

dàng cắm được .

Công trình thứ hai được xuất bản trong năm 1992 là

cuốn Bảo tàng di tích lễ hội 2. Vốn là một luận án phó tiến sĩ

được in thành sách, tác giả dành 5 chương và một phụ lục để

tiếp cận vấn đề: chương 1 là chương khái quát sử liệu và vấn

đề đặt ra; chương 2 là chương Bảo tàng với khoa học và di sản

văn hóa dân tộc; chương 3 là chương một số vấn đề lý luận,

1 Nxb, KHXH, Hà Nội, 1992.

2 Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1992. Tên sách trang bìa lót lại là: Bảo tàng - di tích - lễ

hội, vấn đề bảo vệ di sản văn hóa dân tộc.

Page 29: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

34

thực tiễn bảo tàng di tích nước ta; chương 4 là chương Di tích,

lễ hội và cuộc sống. Chương 5 là các kịch bản lễ hội. Ngoài ra

là phụ lục: danh sách di tích lịch sử văn hóa, các lịch lễ hội

trong năm. Như vậy, lễ hội được tác giả dành cho một chương,

nhưng tác giả chỉ đề cập nó trong mối quan hệ với di tích và

vấn đề xây dựng nghi lễ, nghi thức cũng như kịch bản lễ hội ở

các di tích lịch sử. Đáng chú ý là các kịch bản lễ hội mà tác giả

đưa ra trong phần phụ lục. Các kịch bản này, đã được thực thi

trong cuộc sống, nhưng nó không là kịch bản có tính chất mẫu

mực của các lễ hội cổ truyền.

Cũng năm 1992, tác giả Sơn Nam công bố một cuốn

sách mỏng với nhan đề Đình miếu và lễ hội dân gian 1. Thực ra

lĩnh vực này không phải là quen thuộc với nhà văn biên khảo

Sơn Nam. Với hơn 60 trang sách khổ 13 x 19, tác giả chia cuốn

sách của mình thành tám chương, cùng một phụ lục Đình miễu

ở đồng bằng sông Cửu Long của tác giả Trương Ngọc Tường,

để giải quyết vấn đề theo kiểu biên khảo. So với những bút ký

biên khảo của ông như Hương rừng Cà Mau, Văn minh miệt

vườn, Đồng bằng sông Cửu Long, những nét sinh hoạt xưa

v.v..., hình như lĩnh vực này không phải là sở trường của ông

nên cuốn sách thật ra chưa đáp ứng được yêu cầu nghiên cứu

và những điều tác giả trình bày, thực ra, chưa có gì mới mẻ

nếu không muốn nói là sơ sài về lễ hội dân gian.

Năm 1993, các tác giả Phan Hữu Dật, Lê Ngọc Thắng,

Lê Sĩ Giáo, Lâm Bá Nam công bố cuốn Lễ cầu mùa của các

dân tộc ở Việt Nam 2. Đây vốn là kết quả của một công trình

khoa học cấp Bộ đã được nghiệm thu và đánh giá tốt do Trung

tâm châu á - Thái Bình Dương của trường Đại học tổng hợp

Hà Nội chủ trì, có sự hợp tác chặt chẽ của bộ môn dân tộc

thuộc khoa lịch sử của trường.

1 Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1992

2 Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1993.

Page 30: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

35

Các tác giả đã đề cập đến tục cầu mùa của người Kinh,

của vùng Việt Bắc - Đông Bắc, Tây Bắc và Bắc Trung Bộ cùng

vùng Trường Sơn - Tây Nguyên, dù là những nét phác thảo,

nhưng tương đối bao quát về lễ cầu mùa của các dân nông

nghiệp ở các vùng trên.

Năm 1993, nhằm để chuẩn bị cho một qui chế lễ hội mới,

phù hợp với sự bùng nổ của lễ hội cổ truyền, thay thế qui chế

mở hội truyền thống ban hành kèm theo quyết định 54/VHQC

ngày 4-10-1989 của Bộ Văn hóa - Thông tin, Vụ Văn hóa quần

chúng và Thư viện, thuộc Bộ Văn hóa - Thông tin đã mở hội

thảo về lễ hội từ ngày 27 đến 29-6-1993 tại Hà Nội. Tại hội

nghị, các nhà quản lý và các nhà khoa học "đã bày tỏ và trao

đổi khá sôi nổi về nhiều khía cạnh khác nhau trong việc quản lý

lễ hội, cũng như các điều nên giữ, nên bỏ, thậm chí phải cấm

đoán khi tiến hành lễ hội" 1. Và ngày 21-5-1994, Bộ trưởng Bộ

Văn hóa - Thông tin đã ký quyết định số 636/QĐ-QC ban hành

Qui chế lễ hội. Cũng năm 1993, Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội

tổ chức hội thảo khoa học về lễ hội cổ truyền với 38 tham luận

tham gia hội thảo. Một số đặc điểm của lễ hội Hà Nội, cũng như

một số vấn đề lý luận chung về lễ hội cùng thực tiễn một số lễ

hội Hà Nội đã được đề cập.

Cũng năm 1993, Viện khoa học xã hội Việt Nam đã tổ

chức hội thảo quốc tế "Lễ hội truyền thống trong đời sống xã

hội hiện đại". Với sự có mặt của 11 nhà khoa học nước ngoài,

25 nhà khoa học trong nước cùng 6 khách mời, hội thảo đã đề

cập đến nhiều khía cạnh khác nhau xung quanh lễ hội cổ

truyền và hiện đại Việt Nam và các nước Inđônêxia, Philippin,

Thái Lan, Trung Quốc, v.v... Có thể nói rằng, so với công trình

Lễ hội cổ truyền của Viện nghiên cứu văn hóa dân gian được

xuất bản năm 1992, hội thảo này là một cột mốc nữa mà giới

nghiên cứu văn hóa dân gian đã đạt được ở lĩnh vực nghiên

cứu lễ hội cổ truyền, với nhiều kiến giải khoa học sâu sắc.

1 Kỷ yếu hội nghị - hội thảo về lễ hội, Vụ VHQC và TV, Hà Nội, 1993, tr. 5.

Page 31: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

36

Năm 1993, lần đầu tiên bạn đọc được tiếp nhận cuốn Từ

điển hội lễ Việt Nam của tác giả Bùi Thiết 1. Với 403 lễ hội được

giới thiệu trong các mục từ, cuốn sách là một tập hợp đầu tiên

về lễ hội cổ truyền đã được giới thiệu tóm tắt. Giá như tác giả

khảo sát điền dã cặn kẽ hơn các lễ hội cổ truyền, chịu khó đối

chứng tư liệu để xác lập được các thông tin đúng thì cuốn sách

sẽ là một cuốn sách có giá trị về lễ hội cổ truyền Việt Nam. Rất

tiếc, tác giả chưa làm được điều ấy! Thành ra, giá trị khoa học

của cuốn sách không khỏi bị ảnh hưởng ít nhiều.

Năm 1995, sau một thời gian dài nghiên cứu và sửa

chữa nhiều lần, công trình Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh 2 do GS Nguyễn Đổng Chi làm chủ biên được công bố. Dưới

mục Hội diễn dân gian, PGS Vũ Ngọc Khánh đề cập đến lễ hội

dân gian với các loại: hội diễn nghề nghiệp, hội diễn kỷ niệm

với 17 lễ hội ở Nghệ Tĩnh. Các lễ hội này, được miêu thuật

trong khuôn khổ của một công trình dạng chí, là cứ liệu, chỉ báo

rất tốt cho những ai muốn nghiên cứu, sưu tầm lễ hội cổ truyền

ở đây sau này.

Năm 1995, TS Ngô Văn Doanh đã công bố công trình Lễ

hội bỏ mả (pơ thi) các dân tộc bắc Tây Nguyên (dân tộc Giarai -

Bana). Có thể nói, đây là công trình đầu tiên về lễ hội cổ truyền

của hai dân tộc Bana, Giarai ở Tây Nguyên. Thế nhưng, đây lại

là kết quả của một quá trình khảo sát điền dã chu đáo, tỉ mỉ và

khoa học của tác giả. Mặt khác, sự giới hạn vấn đề trong phạm

vi lễ bỏ mả khiến cho tác giả có điều kiện đi sâu vào từng vấn

đề của lễ hội này từ việc phân tích lễ bỏ mả - đỉnh điểm của

mùa lễ hội, rồi cái chết được hồi sinh, người sống được giải

phóng, những ngày hội diễn của nghệ thuật truyền thống, rồi

trình bày những giá trị độc đáo của lễ bỏ mả: từ bữa ăn, lời

cúng, đến tượng mồ, nhà mồ. Công trình còn dừng lại miêu

thuật lễ bỏ mả của các nhóm nhỏ của hai tộc người Bana,

1 Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1993

2 Nxb Nghệ An, Vinh, 1995. Quá trình biên soạn và sửa chữa này xin xem: Về việc biên

soạn Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh từ tr. 7 đến tr 8.

Page 32: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

37

Giarai ở Tây Nguyên. Có thể nói rằng, TS Ngô Văn Doanh đã

cắm một cột mốc không dễ gì vượt qua trên đường sưu tầm,

nghiên cứu lễ hội cổ truyền của các dân tộc ít người ở Tây

Nguyên.

Năm 1995, PGS Lê Trung Vũ công bố công trình Lễ hội

dân gian Ê đê 1. Đây là công trình đoạt giải nhất năm 1993

trong tặng thưởng hàng năm của Hội Văn nghệ dân gian Việt

Nam. Ngoài phần trình bày những tiêu đề, tác giả đã trình bày

các lễ hội của độc giả Ê đê theo vòng đời người, theo hệ thống

lễ nghi nông nghiệp cùng một số các lễ khác như lễ cúng bến

nước, lễ cầu no đủ, lễ hội Kơpan v.v... Tác giả đã miêu thuật

cặn kẽ và chân xác các lễ hội này. Bởi vậy, cho đến nay, công

trình này vẫn là công trình duy nhất có giá trị khoa học trong

việc sưu tầm, nghiên cứu lễ hội dân gian Ê đê.

Cũng về tộc người Ê đê, năm 1995, trong công trình Văn

hóa dân gian Ê đê 2 do PGS, TS Ngô Đức Thịnh làm chủ biên,

PGS Lê Trung Vũ lại trở lại đề tài này trong chương 6: Lễ thức

trong đời sống cá nhân và cộng đồng của công trình.

Cũng năm 1995, cùng với nhà nghiên cứu Thạch

Phương, PGS Lê Trung Vũ lại công bố công trình 60 lễ hội

truyền thống Việt Nam3. Đây là một công trình miêu thuật các lễ

hội cổ truyền của hai tác giả. Ngoài những phần như phàm lệ,

cùng bạn đọc, hai ông đã miêu thuật 43 lễ hội của người Việt,

17 lễ hội các dân tộc ít người. Đồng thời hai ông còn dành một

số phần để miêu thuật các hiện tượng theo hai ông quan niệm

là trò diễn, trò chơi (9 trò diễn và chơi), cuộc thi tài (10 hình

thức), để giới thiệu lịch 100 lễ hội và các câu ca hội hè. Sau bộ

Nếp cũ hội hè đình đám, cuốn sách này là bộ tập hợp miêu

thuật nhiều lễ hội cổ truyền nhất được ra mắt bạn đọc.

1 Nxb VHDT, Hà Nội, 1995.

2 Sở VHTT Đăk Lak xuất bản, 1995.

3 Nxb KHXH, Hà Nội, 1995.

Page 33: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

38

Năm 1995 khi đề cập vai trò của văn hóa dân gian Việt

Nam trong sự phát triển của xã hội Việt Nam, GS Đinh Gia

Khánh đã dành một chương trình của cuốn sách Văn hóa dân

gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam1để đề cập

đến những giá trị của lễ hội cổ truyền trong đời sống xã hội

hiện nay.. Có thể nói ông đã trình bày khá đầy đủ quan niệm

của ông về lễ hội cổ truyền từ hội làng và các tôn giáo ngoại

lai, hội làng và tín ngưỡng bản địa đến ý nghĩa xã hội và văn

hóa của hội làng. Những nhận xét của ông có tác dụng định

hướng cho việc tiếp cận lễ hội cổ truyền. Chẳng hạn: "Hội làng

và tín ngưỡng gắn với hội làng là một biểu hiện của bản sắc

dân tộc ta. Bản sắc ấy không bị các tín điều và các biểu tượng

của các tôn giáo ngoại lai làm cho lu mờ đi. Ngược lại, các tín

điều, và các biểu tượng tôn giáo muốn có được ý nghĩa nào đó

trong xã hội nước ta thì phải hội nhập được vào bản sắc ấy".2

Năm 1996, Lê Văn Kỳ tiếp cận một khía cạnh của lễ hội

cổ truyền trong công trình: Mối quan hệ giữa truyền thuyết

người Việt và hội lễ về các anh hùng 3. Ngoài một phụ lục với 4

truyền thuyết, công trình vốn là một luận án phó tiến sĩ của tác

giả, bao gồm ba chương: Chương một đề cập đến truyền

thuyết với tư cách một thể loại văn học dân gian; chương hai

đề cập đến hội lễ Việt Nam với tư cách là một hình thức sinh

hoạt văn hóa cộng đồng đặc biệt. Chương ba đề cập mối quan

hệ giữa truyền thuyết và hội lễ về người anh hùng. Đấy là một

góc tiếp cận hẹp, do vậy, tác giả đã có những nhận xét xác

đáng về quan hệ giữa truyền thuyết và hội lễ về người anh

hùng4.

1 Xin xem Văn hoá dân gian Việt Nam với sự ttriển của xã hội Việt Nam Nxb CTQG, Hà

Nội, 1995 từ tr 74 đến tr 120. 2 Sđd, tr 111.

3 Nxb KHXH, Hà Nội, 1997.

4 Xem sđd, từ tr.100- 169.

Page 34: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

39

Cũng ở góc tiếp cận hẹp, năm 1997, Hà Hùng Tiến công

bố công trình Lễ hội và danh nhân lịch sử Việt Nam 1 với 4

chương sách và 1 phụ lục, tác giả đã đề cập đến nhiều khía

cạnh của vấn đề này. Đáng lưu ý là chương 4: Từ lịch sử dân

tộc đến danh nhân văn hóa và lễ hội hiện tại. Tác giả giới thiệu

12 lễ hội cổ truyền về các danh nhân văn hóa của Việt Nam từ

các vua Hùng đến Quang Trung. Rất tiếc là tác giả không tập

trung vào vấn đề đã dự kiến lựa chọn, mà dàn trải, thành ra,

các kết luận khoa học của tác giả chưa có gì đóng góp nhiều

lắm cho việc nghiên cứu lễ hội cổ truyền Việt Nam.

Trong khi đó, năm 1997, TS Tôn Thất Bình công bố

những khảo sát, sưu tầm của anh về lễ hội dân gian ở Huế

trong công trình Huế, lễ hội dân gian 2 có kế thừa công trình Lễ

hội dân gian Bình Trị Thiên trước đây. Lần này, tác giả tập

trung miêu thuật khá cặn kẽ các lễ hội dân gian Huế, từ lễ hội

tưởng niệm các vị khai canh, khai khẩn (19 lễ hội) đến lễ hội

các tổ sư ngành nghề (9 lễ hội), đến lễ hội theo tục lệ, cầu an

theo vụ mùa (9 lễ hội), đến lễ hội tín ngưỡng tôn giáo (9 lễ hội)

và lễ hội để tưởng nhớ các danh nhân anh hùng lịch sử (3 lễ

hội). Cùng với việc miêu thuật này, tác giả có một tiểu luận: Lễ

hội dân gian hiện nay ở Thừa Thiên Huế 3. Có thể nói, công

trình đã bao quát được diện mạo lễ hội dân gian ở vùng đất

một thuở là kinh kỳ của Việt Nam thời quân chủ.

Năm 1997, cùng với TS Nguyễn Hồng Dương, PGS Lê

Trung Vũ công bố cuốn Lịch lễ hội 4 với 387 lễ hội. Các lễ hội

đều được có những thông tin: địa điểm lễ hội, nhân vật phụng

thờ, trò diễn của lễ hội.v.v...

Có thể nói, đây là một tập tư liệu quí, có hệ thống về các

lễ hội ở Việt Nam, nhìn ở những nét căn bản nhất.

1 Nxb VHTT, Hà Nội, 1997.

2 Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế xuất bản, 1997.

3 Xin xem Huế, lễ hội dân gian, Sđd, từ tr.7-13.

4 Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1997.

Page 35: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

40

Từ một luận án phó tiến sĩ, năm 1998, tác giả Hồ Hoàng

Hoa công bố công trình Lễ hội, một nét đẹp trong sinh hoạt văn

hóa cộng đồng 1 . Tác giả không tiếp cận lễ hội cổ truyền từ

góc độ của khoa văn hóa dân gian mà đi sâu vào khía cạnh mỹ

học của lễ hội cổ truyền. Với 4 phần: phần một là những vấn đề

chung; phần hai là tính thẩm mỹ, tính cộng đồng và các giá trị

của lễ hội, phần ba là chức năng và vai trò của lễ hội trong sinh

hoạt văn hóa cộng đồng; phần IV là một số vấn đề của lễ hội

truyền thống trong xã hội hiện đại. Đây là công trình khoa học

đầu tiên tiếp cận lễ hội cổ truyền từ tính mỹ học của nó. Và tác

giả đã thành công và giải quyết trọn vẹn vấn đề này.

Năm 1998, TS Ngô Văn Doanh đã công bố công trình Lễ

hội Rija Nưgar của người Chăm 2. Chọn Rija Nưgar làm đối

tượng nghiên cứu, tác giả đã bỏ nhiều công khảo sát điền dã,

sưu tầm tư liệu để làm rõ một lễ hội, mà theo anh chính là Tết

năm mới truyền thống của người Chăm. Vì vậy, công trình là

một đóng góp vào việc nghiên cứu, sưu tầm các lễ hội cổ

truyền của người Chăm ở Việt Nam.

Năm 1999, dưới sự chủ biên của TS Trần Hữu Sơn, một

số tác giả dã công bố kết quả sưu tầm nghiên cứu về lễ hội cổ

truyền ở Lào Cai với nhan đề: Lễ hội cổ truyền Lào Cai 3 .

Ngoài tiểu luận, bài Đặc điểm món ăn trong lễ hội, cuốn sách

đã giới thiệu 9 lễ hội cổ truyền ở Lào Cai. Có thể nói đây là cố

gắng rất lớn của tác giả Lào Cai, giới thiệu được diện mạo lễ

hội cổ truyền Lào Cai.

Tựu trung, tiến trình sưu tầm và nghiên cứu lễ hội cổ

truyền Việt Nam đã trải qua một quá trình lâu dài. Nhiều thành

tựu đã đạt được, một số bộ sưu tập lễ hội đã được công bố.

Tuy nhiên, không phải mọi vấn đề khoa học về lễ hội cổ truyền

1 Nxb KHXH, Hà Nội, 1998.

2 Nxb VHDT, Hà Nội, 1998.

3 Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1999.

Page 36: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

41

đã được giải quyết trọn vẹn. Trước hết là công việc sưu tập các

lễ hội cổ truyền. Cho đến hiện nay, sưu tầm, miêu thuật thật sự

các lễ hội cổ truyền vẫn là công việc đặt ra một cách cấp bách.

Nhiều lễ hội, nhiều trò diễn trong các lễ hội đã bị mai một, thất

truyền. Một số bô lão am tường lễ hội, ở các làng quê đã dần

dà về thế giới khác, mang theo cả vốn liếng về lễ hội mà họ có

được qua năm tháng. Thành ra, việc sưu tầm, miêu thuật, dựng

lại diện mạo các lễ hội cổ truyền càng cấp bách hơn. Không có

tư liệu đầy đủ, khó mà giải mã được trọn vẹn những vấn đề của

lễ hội cổ truyền.

Mặt khác, dẫu công tác nghiên cứu lễ hội cổ truyền đã

đạt được nhiều thành tựu, nhiều cột mốc đã được cắm trên tiến

trình nghiên cứu nhưng chưa phải các khía cạnh về lễ hội cổ

truyền đã được xem xét đầy đủ. Hơn nữa, vận dụng những

thành tựu mới mẻ của khoa học vào việc nghiên cứu, giải mã

lễ hội cổ truyền, chúng ta lại chưa làm được là bao. Những câu

hỏi còn đang đặt ra trước mắt các nhà nghiên cứu để chờ câu

trả lời.

- 3 -

Hiện tại, quan sát lễ hội cổ truyền thực ra chúng ta đã

quan sát trên lát cắt đồng đại. Bởi lẽ, là một thực thể, một thành

tố của văn hóa, lễ hội cổ truyền không khi nào là một thành tố

bất biến, trái lại, nó vận động trong thời gian và không gian.

Lắng đọng trong lễ hội cổ truyền, qua dòng sông thời gian, qua

những bãi xa, bờ lạ, là những lớp phù sa văn hóa khác nhau.

Mỗi lễ hội cổ truyền, tồn tại đến hôm nay, đều là kết quả của

một quá trình tiếp biến văn hóa lâu dài. Quá trình tiếp biến ấy

khiến cho lễ hội cổ truyền luôn mang dáng vẻ của thời đại mà

vẫn không mất đi diện mạo ban đầu, nói khác đi là, cấu trúc của

lễ hội không bị phá vỡ ở hai mảng lớn: lễ và hội. Có thể thấy

quá trình tiếp biến ấy ở ba lần khác nhau:

Page 37: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

42

- Lần 1: Thời sơ sử và thời Bắc thuộc.

- Lần 2: Thời quân chủ và thời thuộc Pháp.

- Lần 3: Từ 1945 đến nay.

ở lần thứ nhất, tư liệu và hiểu biết của giới nghiên cứu

văn hóa dân gian về lễ hội cổ truyền giai đoạn này còn quá ít ỏi,

chưa đủ để chúng ta hiểu tận tường về lễ hội cổ truyền ở giai

đoạn này. Căn cứ mà các nhà khoa học dựa vào là trống, thạp

đồng Đông Sơn, Những hình chạm khắc trên các hiện vật khảo

cổ cho chúng ta hình dung được diện mạo văn hóa Đông Sơn,

trong đó có lễ hội thời Đông Sơn1. Người ta đã thấy một tín

ngưỡng thờ mặt trời như một thanh nam châm hút vào nó

những sinh hoạt văn hóa và còn thấy quan niệm về thế giới của

cư dân Đông Sơn. Đồng thời, người ta còn thấy tín ngưỡng

phồn thực, một tín ngưỡng mà theo các nhà khoa học xã hội và

nhân văn là tín ngưỡng của một lớp cư dân gắn với cơ tầng

văn hóa Đông Nam á. Vì thế, trên lát cắt đồng đại, lễ hội cổ

truyền còn nhiều những lễ thức mà các nhà nghiên cứu thừa

nhận có từ thời xa xưa, phản ánh những hiện tượng đến hôm

nay không còn tồn tại, hoặc chả ai hiểu được những lễ thức ấy,

hoặc trong con mắt của người hôm nay, thấy hiện tượng ấy là

"buồn cười", thậm chí "kém văn hóa"?! Chẳng hạn nghi thức tắt

đèn buổi rã đám của làng La, các nghi thức thị phạm hành

động tính giao ở một số hội làng, rước các biểu tượng sinh

thực khí, tháo khoán cho nam nữ tự do giao hợp v.v..., ở một

số hội làng. Người ta thường nghĩ đến cội nguồn của những lễ

thức này ở cơ tầng văn hóa Đông Nam á, ở nền văn hóa trước

khi có văn hóa của người Hán nhập vào mảnh đất này. Do vậy,

trong buổi khởi đầu của văn hóa Việt, lễ hội đã xuất hiện, do

nhu cầu tự nhiên của cư dân nơi châu thổ Bắc Bộ. Vòng quay

của thiên nhiên, mùa vụ nối tiếp nhau, chính ở điểm nối tiếp ấy,

lễ hội đã xuất hiện, như một lẽ tự nhiên, với cư dân nông

1 Xin xem Trần Quốc Vượng, Lễ hội, một cái nhìn tổng thể, Tạp chí văn hóa dân gian, số 1-

1985, tr. 5.

Page 38: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

43

nghiệp mà phương thức canh tác chính là trồng lúa nước: Lễ

lên đồng, xuống đồng, tết Nguyên đán, lễ hội mùa xuân v.v...

Có lẽ, trong mô hình cấu trúc của lễ hội thời ấy, chưa có một

nhân vật trung tâm được phụng thờ, và cũng chưa thể có

được một hệ thống nghi lễ đầy đủ, lớp lang như lễ hội cổ

truyền ở giai đoạn sau này.

Tiếp biến văn hóa xuất hiện khi người phương Bắc tràn

xuống xâm lược và đô hộ Giao Châu. Rồi với vị thế địa văn

hóa, địa chính trị của vùng châu thổ Bắc Bộ, văn hóa ấn Độ du

nhập vào đây. Cả hai nền văn hóa ấy cùng đan xen với văn hóa

của cư dân Việt. Các thành tố của hai nền văn hóa này có cơ

hội hòa vào lễ hội của cư dân Việt. Sự hội nhập giữa Phật giáo

và tín ngưỡng tứ pháp mà dấu vết chúng ta còn thấy ở lễ hội

làng Dâu (xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc

Ninh) từ huyền thoại đến điện thần ở di tích, đến các nghi thức

ngày lễ hội là biểu hiện cho khía cạnh ấy.

ở lần thứ hai, tiếp biến văn hóa lại mang đến các lớp văn

hóa cho lễ hội giai đoạn này. Sự phồn thịnh của Phật giáo buổi

Lý Trần, sự ưu thế của Nho giáo thời Lê sơ là ngọn nguồn đưa

đến những tiếp biến văn hóa của lễ hội. Đặc thù của Phật giáo

ở Việt Nam đã khiến cho ngôi chùa làng trở thành một môi

trường của lễ hội cổ truyền.

Trong lần thứ hai này, lễ hội cổ truyền có sự thay đổi khá

quan trọng. Sự can thiệp của vương triều quân chủ thông qua

việc phong thần cho một số vị thần ở các làng quê, việc kê

khai, san định thần tích vào năm 1572 sẽ khiến cho vị thành

hoàng bước những bước đi dài về các ngôi đình trú ngụ, làm vị

thành hoàng làng. Với quyết định năm 1496 giao cho làng quản

lý đình và quyết định của nhà Lê yêu cầu các làng quê kê khai

thần tích, rồi giao cho Nguyễn Bính san định, diện mạo tín

ngưỡng ở làng quê Việt nơi châu thổ Bắc Bộ có những thay đổi

quan trọng. Thực chất, đây là một quá trình sáng tạo folklore.

Khi người dân kê khai thần tích của vị thần làng mình, chính là

Page 39: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

44

lúc người dân đã bắt đầu quá trình sáng tạo này. Để có được

quá trình sáng tạo ấy, người dân đã huy động toàn bộ vốn liếng

văn hóa mà họ có. Một chút mẫu đề thần thoại, một chút văn

hóa Phật giáo, Nho giáo, pha chút văn hóa Lão giáo v.v..., đều

được huy động vào quá trình sáng tạo. Khi san định xong, triều

đình gửi về các làng xã bản thần tích ấy. Và lúc này, thần tích

lại bắt đầu một đời sống của nó trong tâm thức dân gian. Bởi

những bản thần tích ấy đều viết bằng chữ Hán, mà đại đa số

cư dân Việt, thời quân chủ, không phải ai cũng biết, cũng đọc

được thứ chữ này. Vả chăng, trong con mắt những người dân

quê, bản thần tích ấy là vật báu nhà vua ban cho vị thánh của

làng, thành thử, nó chứa không ít chất thiêng liêng kỳ bí, nên

được cất giữ cẩn thận. Và người dân quê chỉ được nghe lại, kể

lại từ các ông đồ nho, các nhân vật được làng xã trao cho

quyền cất giữ thần tích. Việc truyền miệng diễn ra, và đương

nhiên, quá trình sáng tạo folklore lại bắt đầu. Cứ như vậy, qua

thời gian, diện mạo của vị thần của làng quê này được hoàn

chỉnh, để trở thành vị thánh của cộng đồng trong tâm thức dân

gian. Nhưng cần thấy rằng, sự sáng tạo ấy của dân gian không

phải là sự sao chép lịch sử mà đó là "ý thức lịch sử của nhân

dân, hơn thế nữa là "cương lĩnh" cô đúc thái độ và yêu sách

của nhân dân trước lịch sử"1 . Diện mạo của vị thần được

phụng thờ trong lễ hội, sẽ được tạo dựng trong quá trình sáng

tạo này. Do đó, nhiều lớp văn hóa lắng đọng trong lễ hội cổ

truyền. Nói khác đi là, sự tiếp biến văn hóa ở thời kỳ quân chủ,

do những tác động có ý thức, có chủ định của các vương triều

đã khiến cho diện mạo lễ hội cổ truyền thay đổi, so với giai

đoạn trước. Nói cách khác, đến thời quân chủ, mô hình cấu

trúc của lễ hội cổ truyền đã có thay đổi quan trọng, hoàn chỉnh

như chúng ta quan sát sau này. Nghĩa là, lễ hội đã có một nhân

vật được phụng thờ, gắn với một tín ngưỡng nhất định, đã có

một nghi thức thờ cúng theo qui định của nhà nước quân chủ

1 Trần Quốc Vượng, Nguyễn Từ Chi, bài Vua chủ, in trong tập Góp phần nghiên cứu văn

hóa và tộc người, Nxb VHTT, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, 1996, tr.161.

Page 40: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

45

và những nghi thức ngoài lề, đã có những trò diễn gắn với từng

nhân vật được phụng thờ.

Mặt khác, cũng chính các vương triều quân chủ, chẳng

hạn như nhà Trần, đã nhiều lần ra lệnh đàn áp "dâm thần", phá

bỏ các "dâm từ" tạo cho một sự phản ứng trong người dân, sự

thay đổi trong cấu trúc lễ hội. Nhiều trò diễn vốn là các nghi lễ

phồn thực trở thành nghi thức bên lề, nghi thức mà người dân

các làng quê gọi là "hèm". Thời gian đi qua, dân làng không ai

giải thích được, hoặc có biết, cũng không dám giải thích, có rất

nhiều các loại hèm khác nhau: loại hèm nghi lễ liên quan đến

chiến trận, loại hèm phồn thực, loại hèm của những người chết

giờ thiêng, loại hèm về việc giao duyên, ẩu đả giữa các làng.

Trong tâm thức dân gian, những nghi thức bên lề, những "hèm"

ấy, đôi khi như từ miền sâu thẳm của ký ức chợt hiện về, bất

thần và rạo rực, theo tiếng trống ngày hội làng.

Cũng cần nói đến diện mạo lễ hội cổ truyền thời thuộc

Pháp. Người Pháp, đương nhiên là có thái độ vơ vét thuộc địa

của kẻ xâm lược. Thực dân Pháp hẳn là nhiều hành động đáng

lên án với dân tộc Việt Nam, nhưng phải thấy rằng trên cơ bản,

các hằng số của văn hóa Việt Nam; nông dân, nông nghiệp lúa

nước, xóm làng, không bị phá vỡ trong giai đoạn từ năm 1858

đến năm 1945. Đành rằng, có sự tiếp biến giữa một bên là văn

hóa Việt Nam và một bên là văn hóa Pháp và văn hóa Việt

Nam từ năm 1858 đến năm 1945 có những biến đổi quan trọng

nhưng lễ hội cổ truyền trong giai đoạn này, không có sự biến

đổi lớn lắm như ở thời quân chủ.

ở lần thứ ba, lễ hội cổ truyền có một thời kỳ chựng lại, do

hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Thế nhưng, khi có chủ

trương của Đảng, Nhà nước về bảo tồn và phát huy truyền

thống văn hóa dân tộc, lễ hội cổ truyền lại phát triển trở lại, như

chưa hề biết đến một thời kỳ chựng lại đã qua. Điều đáng quan

tâm là "sự bột phát trở lại" - chữ dùng của GS Đinh Gia Khánh

của lễ hội cổ truyền trong giai đoạn hiện nay lại trùng với sự

Page 41: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

46

thay đổi của nền kinh tế nước ta đang chuyển từ cơ chế quan

liêu bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.

Mặt trái của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, tác

động khá nhiều mặt tới các lĩnh vực đời sống xã hội, văn hóa,

trong đó có lễ hội cổ truyền. Đồng thời, "sự bột phát trở lại" của

lễ hội cổ truyền lại xảy ra vào thời kỳ khoa học công nghệ nhất

là công nghệ thông tin viễn thông có những phát triển vượt bậc.

Do đó, những tiếp biến văn hóa ở thời kỳ này tác động đến lễ

hội cổ truyền sẽ khác các giai đoạn đã qua. Các yếu tố truyền

thống có quan hệ với các yếu tố hiện đại, sẽ xảy ra ở cả hai

chiều: tiêu cực và tích cực. GS Đinh Gia Khánh đã khẳng định:

"Hội lễ dân gian truyền thống với tính cách là một hiện tượng

truyền thống thì tất là phải được hình thành dần từ nhiều yếu tố

đã có từ trước và lần lượt xuất hiện trong tiến trình lịch sử. Nếu

như đến nay nó không còn đáp ứng được cho những nhu cầu

đã từng làm cho nó trở thành một hình thức "xã hội - lịch sử"

của tư tưởng và cảm xúc của cộng đồng thì tất là nó phải chết.

Nhưng nếu nó còn có thể sống được thì chính là vì nó đã biết

thích ứng được với đời sống hiện nay bằng cách tiếp nhận và

đồng hóa những yếu tố mới, dù là bản địa, dù là ngoại lai" 1

Như vậy, trên lát cắt đồng đại, lễ hội cổ truyền có sự vận

động trong không gian và thời gian khác nhau, nên có nhiều lớp

văn hóa lắng đọng. Nói cách khác, lễ hội cổ truyền là một bảo

tàng văn hóa của Việt Nam.

- 4 -

Đã thành một cái nhìn quen thuộc, các nhà nghiên cứu

chia lễ hội cổ truyền thành hai bộ phận: phần lễ và phần hội.

Phần lễ bao gồm các nghi thức, các động tác, các bài văn tế,

phần hội với trò chơi, trò diễn, vật dâng cúng... Thực ra, sự 1 Bài Hội lễ dân gian truyền thống trong thời hiện đại, Tạp chí văn hóa dân gian, số 2 -

1993, tr.10.

Page 42: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

47

phân biệt giữa các yếu tố này chỉ có tính chất tương đối. Bởi lẽ,

trong các trò chơi dân gian, khá nhiều trò chơi vốn là các trò

diễn nghi lễ hoặc mang tính nghi lễ, nhưng hiện tại, nó đã nhạt

dần hay mất đi tính nghi lễ, khiến chúng ta lầm tưởng đó là trò

chơi dân gian đơn thuần. Chẳng hạn trò chọi gà, đấu vật v.v...

Nếu giả định lễ hội cổ truyền như một mô hình thì yếu tố

đầu tiên phải đề cập đến là nhân vật phụng thờ. ở mỗi làng quê

khác nhau, nhân vật này lại khác nhau, như một câu phương

ngôn: "Trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy

thờ". Nhìn ở các góc độ khác nhau, sẽ thấy nhân vật phụng thờ

có nhiều loại khác nhau. Có thể đó là các thần tự nhiên, nhưng

cũng có khi là nhân thần. Nhìn ở góc độ tín ngưỡng, có thể đó

là một vị thành hoàng làng, cũng có thể là một phúc thần, hoặc

một vị thánh mẫu, thậm chí là một loài vật ở loài khơi xa là cá

ông/cá voi. Nhìn ở góc độ cấp bậc, các nhà nho cũng như một số

vương triều quân chủ xưa chia các vị thần này thành các thứ bậc:

- Thượng đẳng thần

- Trung đẳng thần

- Hạ đẳng thần

Dầu nhìn ở góc nào, các vị thánh ấy đều là kết quả của

một quá trình sáng tạo dân gian của người dân nhiều thế hệ

qua dặm dài lịch sử. Mục đích cuối cùng của quá trình sáng tạo

dân gian ấy nhằm thiêng hóa nhân vật phụng thờ, biến nhân

vật phụng thờ trở thành thiêng liêng. Đáng chú ý là, bằng tấm

lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, thái độ uống nước nhớ

nguồn, người dân các thế hệ đã đưa nhiều nhân vật lịch sử,

văn hóa của đất nước vào hệ thống các nhân vật được phụng

thờ. Bởi vậy, có hai cách mà người dân hay sử dụng trong quá

trình thiêng hóa nhân vật phụng thờ này: một là lịch sử hóa, hai

là huyền thoại hóa. Đương nhiên, sự tách bạch giữa hai thủ

pháp này chỉ có tính chất tương đối. Hai thủ pháp này có thể

thấy trong khá nhiều nhân vật phụng thờ của các lễ hội khác

Page 43: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

48

nhau. Tác động của hai thủ pháp này có thể thấy qua lần kê

khai thần tích của người dân các làng quê và san định thần tích

của Đông các đại học sĩ tiến sĩ Nguyễn Bính vào năm 1572.

Điều đáng quan tâm là quá trình lịch sử hóa và huyền thoại hóa

nhân vật phụng thờ đều gắn bó mật thiết với cảnh quan từng

vùng quê, di tích và điện thần của các nhân vật phụng thờ. Quá

trình lịch sử hóa và huyền thoại hóa này lại diễn ra khác nhau

giữa các vùng văn hóa. Nếu như vùng châu thổ Bắc Bộ, quá

trình này diễn ra mạnh mẽ và trọn vẹn thì ở vùng đồng bằng

Nam Bộ, quá trình này lại diễn ra chậm hơn và chưa toàn vẹn.

Có thể lấy nhân vật thành hoàng làng làm ví dụ. Nếu như các vị

thành hoàng làng của châu thổ Bắc Bộ được đẩy về cõi xa mờ

của lịch sử, với một khoảng thời gian vô thủy vô chung với một

gương mặt của một nhân vật lịch sử thì thành hoàng làng ở

đồng bằng Nam Bộ vẫn vẹn nguyên dáng vẻ của một vị thần tự

nhiên, chưa xảy ra quá trình lịch sử hóa và huyền thoại hóa. So

sánh giữa nhân vật thánh mẫu Liễu Hạnh và bà chúa Xứ ở núi

Sam (thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang), cũng sẽ thấy điều này:

một bên là quá trình huyền thoại hóa đã diễn ra trọn vẹn, một

bên là quá trình huyền thoại hóa một pho tượng đá vốn không

có gốc rễ từ văn hóa Việt chưa toàn vẹn. Mặt khác, các nhân

vật phụng thờ này đều gắn bó với các tín ngưỡng khác nhau.

Nói cách khác, các nhân vật phụng thờ là đại diện, là nơi ký gửi

các niềm tin tín ngưỡng khác nhau. Đa số các nhân vật phụng

thờ trong các lễ hội cổ truyền ở các làng quê, đều là thành

hoàng làng: dù là nhân thần hay thần tự nhiên. Nhưng họ đều

có sắc phong của triều đình thế tục, để làm một nhiệm vụ của

triều đình: "bảo ngã lê dân" (bảo vệ dân đen của ta - tức nhà

vua). Thứ hai, là những nhân vật phụng thờ gắn bó với tín

ngưỡng thờ mẫu. Các nhân vật này có thể là các mẫu với một

hệ thống điện thần tương đối lớp lang từ bắc vào nam với mẫu

Thượng ngàn, mẫu Thoải, mẫu Liễu Hạnh, chúa Ngọc thánh

mẫu, Linh Sơn thánh mẫu, chúa Xứ thánh mẫu và các cận thần

như quan lớn Tuần Tranh, ông Hoàng Mười, cô Ba Bắc Lệ

v.v... Thứ ba là những ông tổ sư, tổ nghề gắn bó với tín

Page 44: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

49

ngưỡng thờ tổ nghề, như ông tổ nghề vàng bạc, tổ nghề khảm

trai, tổ nghề thêu v.v... Thứ tư là các vị thần gắn với tín ngưỡng

của đồng bào các dân tộc ít người: các Yang của đồng bào Tây

Nguyên, vị Thần nông của đồng bào Tày - Nùng ở Việt Bắc -

Tây Bắc v.v...

Tựu trung, nhân vật phụng thờ gắn với tín ngưỡng ẩn tàng

trong lễ hội cổ truyền như thành tố lớn nhất, chủ yếu nhất. Khó

có thể nói đến một lễ hội cổ truyền mà lại không đề cập đến

nhân vật phụng thờ và tín ngưỡng. Không có tín ngưỡng,

không có nhân vật phụng thờ, không thành lễ hội, hay nói giản

dị như dân gian, phi lễ bất thành hội.

Cũng cần nói đến các tôn giáo ngoại lai khi đề cập đến lễ

hội. Trong tiến trình lịch sử dân tộc, nhiều tôn giáo ngoại lai đã

du nhập vào Việt Nam. Thế nhưng, như các nhà nghiên cứu

khoa học xã hội và nhân văn khẳng định, chưa có một tôn giáo

ngoại lai nào du nhập vào Việt Nam lại có thể trở thành một hệ

ý thức duy nhất, độc tôn thống trị đời sống xã hội. Trái lại, các

tôn giáo ngoại lai đều phải thích nghi, hòa hợp với các tín

ngưỡng bản địa. Và "ở nước ta, các hiện tượng văn hóa dân

gian, các tác phẩm văn hóa dân gian gắn với các sinh hoạt

cộng đồng (trong đó có hội làng), có thể ít nhiều chịu ảnh

hưởng của các tôn giáo ngoại lai nhưng không hề bị khuôn đúc

vào các mô thức tôn giáo ấy, không hề bị đồng hóa vào hệ

thống tín điều, hệ thống biểu tượng của các tôn giáo ấy"1.

Thành tố thứ hai của một lễ hội cổ truyền cần lưu tâm là

trò diễn. Người ta hay xếp trò diễn vào phần hội, nhưng thực ra

trò diễn gắn kết rất mật thiết với nhân vật phụng thờ. Toàn bộ

cuộc đời của nhân vật phụng thờ được "trình diễn" trong ngày

lễ hội bằng những động tác, những nghi thức v.v..., từ bao đời

để lại. Có thể đó là trò nghiềm quân trong lễ hội làng Giá (xã

Yên Sở, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây), có thể đó là trò Thánh

1 Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội, 1995, tr.111.

Page 45: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

50

Gióng đi đánh giặc Ân của lễ hội làng Phù Đổng (huyện Gia

Lâm, thành phố Hà Nội), hoặc đó là trò kéo chữ trong lễ hội

Phủ Giày (xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định).

Trình tự của một trò diễn dân gian liên quan đến những

địa điểm gắn bó với cuộc đời của nhân vật phụng thờ. Vì vậy,

điểm xuất phát của các trò diễn thường là nơi thờ vọng (đa

phần là ở đình: nơi lưu giữ thần tích và sắc phong) như nhận

xét của Phan Kế Bính: "Miếu là chỗ quỉ thần bằng y, đình là nơi

thờ vọng"1. Và điểm kết thúc là một địa điểm nào đó gắn bó với

sự kiện nào đó trong cuộc đời của nhân vật phụng thờ, thường

là nơi hoá của nhân vật được phụng thờ (đa phần là

nghè/miếu). Do mỗi một lễ hội có một nhân vật phụng thờ khác

nhau nên trò diễn này không giống nhau. Có một số loại trò

diễn thường thấy trong các lễ hội cổ truyền như sau:

- Thứ nhất là trò diễn đồng nhất với nghi lễ lấy nước để

làm lễ mộc dục. Lễ hội xã Tự Nhiên (huyện Thường Tín, tỉnh

Hà Tây), đền Đa Hòa (xã Bình Minh, huyện Châu Giang, tỉnh

Hưng Yên), đền hóa Dạ Trạch (xã Yên Vĩnh, huyện Châu

Giang, tỉnh Hưng Yên) v.v..., chính là những lễ hội có các trò

diễn loại này. Khởi điểm ban đầu của các trò diễn ấy phải

chăng là lễ mộc dục, mà lễ mộc dục, là nghi thức cầu mưa của

cư dân nông nghiệp, về sau được lịch sử hóa và huyền thoại

hóa?!

- Thứ hai là trò diễn kể lại cuộc đời chiến công của nhân

vật phụng thờ. Lễ hội làng Phù Đổng (huyện Gia Lâm, thành

phố Hà Nội), lễ hội làng Đồng Kỵ (huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc

Ninh) là những lễ hội cổ truyền có trò diễn này. Các trò diễn

kiểu này mang tính chất đồng hiện lịch sử. Trước mặt những

người dân trong làng, lịch sử là một dòng chảy liên tục, đồng

hiện cả quá khứ lẫn hiện tại và tương lai.

1 Việt Nam phong tục, tái bản, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1990, tr.76.

Page 46: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

51

- Thứ ba là trò diễn giả định. Trò diễn nghinh ông trong

các lễ hội thờ cá voi của cư dân ven biển có thể coi như loại trò

diễn này. Người dân thờ cúng cá ông giả định rằng ra ngoài

khơi xa nơi nước sông với nước biển gặp nhau, dừng thuyền

lại là có thể nghinh ông, gặp ông lên vọi trong ngày lễ nghinh

ông.

- Ngoài ra là một số các trò diễn khác. Nói đến trò diễn là

phải nói đến các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ được hội nhập

vào đây. Trên đường vận hành của trò diễn trong lịch sử,

người dân đã đưa vào đủ loại: ca hát, múa sênh tiền, múa con

đĩ đánh bồng v.v..., khiến cho trò diễn mang tính chất vừa trang

nghiêm, linh thiêng, vừa trần tục, vui vẻ, vừa hoành tráng vừa

kỳ bí. Quan sát trò diễn trong lễ hội, theo cái nhìn lịch đại, ắt sẽ

thấy sự biến thiên của nó. Có những trò diễn là lưu ảnh của

những nghi thức xa xưa của cư dân nông nghiệp, nhưng lại có

những trò diễn vốn là nghi thức của một tín ngưỡng khác được

hút vào những nghi lễ gắn với nhân vật phụng thờ này.

Vấn đề cần lưu ý là hiện thực được phản ánh trong các trò

diễn là hiện thực thông qua lăng kính của người dân các thế

hệ. Lịch sử ở đây là ý thức của nhân dân về lịch sử. Nói cách

khác, các trò diễn trong lễ hội là thông điệp mà người dân các

thế hệ trước gửi lại các thế hệ sau.

Một thành tố khác không thể không đề cập đến khi nhìn

nhận lễ hội cổ truyền. Đó là các vật dâng cúng. Cần phân biệt

hai loại vật dâng cúng: một là những vật dâng cúng thông

thường như hương hoa, oản, quả, rượu, thức cúng v.v..., hai là

những vật dâng cúng mang tính nghi lễ, như món bánh trôi

trong lễ hội đền Hát Môn (huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây), món

chè củ mài trong các lễ hội làng ở vùng trung châu thuộc các

tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ. Đặc điểm của các vật dâng cúng này

là sự gắn kết của vật dâng cúng và nhân vật phụng thờ. Hoặc

đó là món ăn quen thuộc của nhân vật phụng thờ đã dùng

trước khi hóa, về cõi linh thiêng, hoặc đó là món ăn lúc sinh

Page 47: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

52

thời nhân vật phụng thờ ưa thích, đã dùng v.v... Có thể nói, đó

là tín hiệu folklore quí giá, giúp chúng ta giải mã được nhiều điều

về thời lịch sử xa xưa, cung cấp cứ liệu cho các nhà khảo cổ học,

dân tộc học, nhân học v.v... Nhưng trong tổng thể của một lễ hội,

đây là những yếu tố quí giá, mang bản sắc dân tộc của lễ hội cổ

truyền.

Cũng trong các vật dâng cúng, có những vật dâng cúng

như được tạo ra từ một ý niệm, từ cõi vô thức trao truyền tới

thế hệ hôm nay. Món bánh dày có mặt trong nhiều lễ hội chính

là một vật dâng cúng như vậy. Với tư cách là một vật dâng

cúng, bánh dày vừa là một vật dâng cúng các thần linh, vừa để

thi tài giữa các cá thể, giữa các cộng đồng lớn nhỏ, vừa cũng là

nơi chứa đựng ý tưởng, tư tưởng của người xưa. Các lễ hội cổ

truyền ở các làng như làng Cá Dốc (xã An Đạo, huyện Phong

Châu, tỉnh Phú Thọ), làng Nha Môn (huyện Phong Châu, tỉnh

Phú Thọ), làng Yên Thư (huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Phú Thọ), đều

có món bánh dày rất lý thú. Món bánh này là vật để thi tài giữa

các thành viên trong làng, sau đó để mà trình thánh, trong ngày

lễ hội, không thể không có. Thực ra, các vật dâng cúng này,

một thời xa xưa đã là nơi tải chứa một nội dung tín ngưỡng.

Thời gian trôi qua đã làm biến thiên, tạo ra vệt đứt giữa vật

dâng cúng và tín ngưỡng mà một thời giữa chúng đã có sự gắn

kết. Cho nên, hiện tại khó có thể nhận ra đường dây liên hệ từ

thời xa xưa ấy.

Thành tố thứ năm của lễ hội cổ truyền là nghi thức thờ

cúng. Thông thường, nghi thức thờ cúng của các lễ hội cổ

truyền là phương tiện để con người giao tiếp với thần linh, bao

gồm: bài văn tế, trình tự buổi cúng tế và các động tác cúng tế.

Nếu như các trò diễn thường xảy ra ở không gian rộng thì các

nghi thức thờ cúng này lại chỉ xảy ra ở không gian hẹp của di

tích. Trong các yếu tố ấy, bài văn tế là một yếu tố khả biến mà

ban quí tế thay đổi theo từng năm. ở bài văn tế này chỉ có một

yếu tố bất biến, đó là phần ca ngợi công lao, ân đức của vị thánh

mà dân làng phụng thờ. Phần được thay đổi theo từng năm là

Page 48: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

53

ngày tháng, tên những người được dân làng ủy quyền cúng tế

thần linh.

Trình tự của buổi thờ cúng và các động tác của những

người được dân làng ủy quyền đứng ra cúng tế thần linh, thực

ra rất giống nhau ở tất cả các lễ hội ở các làng quê từ các qui

định khi nào dùng rượu, khi nào dâng trà, khi nào dâng lễ mặn

v.v... Thực ra, các qui định ấy gần như mô phỏng, sao lại nghi

thức cúng tế của triều đình, bởi quan niệm hương đảng tiểu

triều đình của những người dân quê trong làng xã xưa. Chỉ cần

so sánh với nghi thức cúng tế của triều đình, chẳng hạn triều

đình nhà Nguyễn trong lễ tế giao, sẽ thấy sự giống nhau ấy1.

Một sự mô phỏng hay sự áp đặt của triều đình quân chủ, cũng

khó mà nói cho xác đáng?! Hay nói khác hơn, khó mà minh

định được một cách rõ ràng.

Riêng với nghi lễ này ở Nam Bộ, trong ngày lễ kỳ yên ở

đình làng với cư dân làm nghề trồng lúa nước có sự khác biệt

mà Phan Kế Bính đã nhận ra từ những năm đầu thế kỷ này: "ở

về Nam Kỳ thì các đồ ăn gì cũng hiến. Trong khi hiến rượu,

người ta đi một cách khoan thai và trang nghiêm. ở Nam Kỳ,

khi hiến rượu, hiến đồ ăn thường có hai người đóng tuồng, mặc

đồ nhung tay cầm nến đi trước, kế đến mỗi bên ba bốn con hát,

áo mũ rực rỡ, mỗi ả cầm vài nén hương, vừa đi vừa đọc câu

chúc hỗ rồi mới đến người hiến rượu, hiến đồ ăn đi sau. Mà

cách đi thì rất ngộ nghĩnh, người nào mắt cũng nhưng nhưng

nháo nháo, nghiêng đầu nghiêng cổ, chân bên nọ đá chân bên

kia, làm cho ai lạ mắt cũng phải phì cười, mà họ thì cho thế mới

là đi vào kiểu" 2. Các nhân vật mà Phan Kế Bính gọi là con hát,

các bô lão ở Nam Bộ gọi là đào thài. Tại đình Bình Thủy, thành

phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ, các cô đào thài này đi sau học trò

lễ và hát những câu chúc mừng như:

1 Xin xem Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, bản dịch của tổ phiên dịch , Viện

sử học Việt Nam, Nxb Sử học, Hà Nội, 1961, tr.123. 2 Việt Nam phong tục, tái bản, Nxb tp. HCM, 1990, tr. 86.

Page 49: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

54

Đội ơn thần thánh đượm nhuần

Hương lâm hoan lạc phỉ mừng kỳ yên 1

- 5 -

Như vậy, khởi điểm là các nghi thức nông nghiệp của

những cư dân sống bằng nghề trồng lúa nước, lễ hội trở thành

một sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng của cộng đồng, một thành

tố văn hóa đặc biệt ở làng quê. Vì thế, nhìn ở phương diện tính

chất, lễ hội cổ truyền có hai yếu tố: chất thiêng liêng và chất

thế tục. Ai đã từng chứng kiến một hội làng, ắt sẽ thấy rõ điều

ấy. Âm thanh náo nức của tiếng trống vào hội, khuôn mặt rạng

rỡ, hoan hỉ của những cư dân trong cộng đồng, dù đó là cộng

đồng của tộc người Việt hay của đồng bào các dân tộc ít

người. Đường làng, ngõ xóm như sạch sẽ, phong quang hơn.

Mọi thứ đều trở nên khác với bình thường. Tâm trí mọi thành

viên của cộng đồng đều hướng vào vị thần được thờ phụng, vị

thánh của làng. Nhân vật này vừa gần gũi, vừa xa vời, vừa

thiêng liêng, vừa rất đời. Đó là nơi người dân ký thác mọi niềm

vui, nỗi buồn, là chỗ dựa tinh thần của cá thể, gia đình, dòng họ

và cộng đồng. Mọi người đều tìm thấy chỗ dựa ấy cho chính

mình và cộng đồng, trong một xã hội nông nghiệp đầy phấp

phỏng, lo âu cùng các trắc trở đều có thể ập đến. Lễ hội là lúc

đẹp nhất để mọi người dân trong cộng đồng thể hiện niềm biết

ơn, niềm tin tưởng ấy. Chẳng phải ngẫu nhiên mà có nhà

nghiên cứu đã khẳng định giá trị văn hóa của lễ hội là sự "cộng

mệnh và cộng cảm" - chữ dùng của PGS, TS Ngô Đức Thịnh.

Do đó, tràn ngập trong các nghi thức, nghi lễ, hoạt động của

ngày lễ hội là chất thiêng. Chất thiêng này cố kết các số phận

con người, hướng con người vươn tới sự trong sáng, bằng an

của tâm hồn. Lại nữa, con người đến với lễ hội là đến với một

1 Xin xem: Văn hóa dân gian Nam Bộ, những phác thảo, Nguyễn Phương Thảo, Nxb Giáo

dục, in lần 2, Hà Nội, 1998, tr. 28.

Page 50: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

55

chuỗi thời gian không xác định quá khứ, hiện tại, tương lai mà

là thời gian đồng hiện, đưa con người vào cõi thiêng, sống

trong một không gian thiêng từ trung tâm điện thần của di tích

đến những địa điểm liên quan đến nhân vật phụng thờ. Các trò

diễn, các nghi lễ đưa con người vào tâm thế trở về cội nguồn,

tắm mình trong không gian huyền thoại, đậm đặc chất lịch sử.

Và biểu hiện trong con người lòng biết ơn, sự ước mong thầm

kín khi họ đến với vị thánh của làng, đến với thần linh để cầu

mong cho bản thân, gia đình, dòng họ, cộng đồng sự

bằng an, sinh sôi nảy nở của con người lẫn tạo vật.

Tuy nhiên, đan cài, hoà lẫn vào chất thiêng ấy là chất thế

tục. Lễ hội cổ truyền, vì thế, luôn luôn thấm đượm chất đời.

Dẫu có một thoáng ngẩn ngơ vì những nghi thức cổ xưa, một

chút thầm thì tiếng gọi từ ngàn xưa vọng về thì âm thanh náo

nức của lễ hội vẫn là âm thanh cuộc đời tươi nguyên nhựa

sống. Ai có thể quên được mùi thơm cay nồng quyến rũ của

miếng trầu mà cô gái làng có làn môi cắn chỉ đã mời ta trong

không khí bảng lảng của chiều hội làng. Ai có thể quên cô gái

làng thắt đáy lưng ong vừa cõng em bé, vừa giữ chú cóc trong

vòng vôi, vừa nấu nồi cơm thi. Ai có thể quên cỗ bánh dày

trắng muốt đoạt giải nhất của ngày hội làng, để dâng lên thánh

ngự v.v... Những biểu hiện của chất thế tục ấy, hòa quyện vào

chất thiêng, khiến cho lễ hội là "thời điểm mạnh của sinh hoạt

cộng đồng", là một sinh hoạt văn hóa đặc biệt của văn hóa

làng. Những giá trị của lễ hội cổ truyền phải được nhìn từ quan

hệ giữa chất thế tục và chất thiêng liêng ấy của lễ hội cổ

truyền.

- 6 -

Khi nhìn lễ hội cổ truyền, có một hiện tượng mà chúng ta

phải tách biệt rõ ràng, để tránh lầm lẫn về giá trị của nó. Đó là

hiện tượng một số sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, thường được

gọi là mê tín, đan cài vào các lễ hội cổ truyền. Chẳng hạn, các

Page 51: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

56

hiện tượng như xóc thẻ, bói toán, xin xăm, vay tiền v.v..., thực

ra, các hiện tượng này gắn bó với lễ hội cổ truyền rất lỏng lẻo.

Gọi cho đúng, các hiện tượng ấy chỉ gắn bó với lễ hội theo kiểu

cây tầm gửi, hay nói cách khác là sống nhờ không gian thiêng

của lễ hội. Các ông thầy thực hành văn hóa như thầy bói, thầy

tướng v.v..., đã mượn không gian thiêng của lễ hội để thực thi

các hoạt động của mình. Hình như họ đã hiểu rằng, không gian

lễ hội bao giờ cũng đậm chất thiêng, khiến cho mỗi con người

khi đặt chân tới đó, đều cảm như thấy mình là con người khác,

dễ chấp nhận hơn, dễ tin hơn. Và các ông thầy thực hành văn

hóa đã triệt để tận dụng đặc điểm này để thu lợi cho mình. Hơn

nữa, các hiện tượng ấy không là của riêng lễ hội nào, mà ở tất

cả các lễ hội mọi vùng quê đều có. Hiện tượng vay tiền không

chỉ có ở đền bà Chúa Kho (thị xã Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh) mà

ở miếu bà Chúa Xứ (núi Sam, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang)

cũng có. Hiện tượng xóc thẻ, không phải chỉ có ở các chùa của

người Hoa (thành phố thành phố Hồ Chí Minh), mà chắc chắn

ở chùa của người Việt châu thổ Bắc Bộ cũng có, và các thẻ

đều có một nội dung như nhau ở tất cả các vùng trong cả

nước.

Thái độ của Đảng, Nhà nước ta với các loại tầm gửi này

trong lễ hội cổ truyền rất rõ ràng. Thực hiện Chỉ thị số 27/CT-

TW ngày 12/1/1998 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung

ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chỉ thị số 14-1998/CT-TTg

ngày 28/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hóa - Thông

tin đã ra Thông tư số 04-1998/TT-BVHTT ngày 11-7-1998

hướng dẫn thực hiện việc cưới, việc tang, lễ hội. Thông tư ghi

rõ: "Nghiêm cấm lợi dụng lễ hội để hành nghề mê tín dị đoan".

Bởi vậy, khi nhìn nhận các hiện tượng văn hóa tín ngưỡng ấy

cần thấy rõ khía cạnh "tầm gửi" vào lễ hội của nó. Những sinh

hoạt văn hóa, tín ngưỡng ấy có bị loại bỏ thì cũng không ảnh

hưởng gì đến giá trị của lễ hội cổ truyền.

Page 52: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt am

57

- 7 -

Tiếp cận lễ hội cổ truyền Việt Nam, dù ở góc nhìn nào,

đều dễ thấy giá trị văn hóa của nó. Nhiều nhà nghiên cứu đã

khẳng định giá trị cộng cảm, cộng mệnh của lễ hội cổ truyền,

tính chất là "thời điểm mạnh trong sinh hoạt cộng đồng" của nó.

Trong các thành tố của văn hóa làng xã Việt Nam, lễ hội cổ

truyền là thành tố đặt ra nhiều vấn đề hơn cả. Làm thế nào để

kế thừa và phát huy kho tàng văn hóa quí giá này của các thế

hệ tiền nhân để lại? Trả lời câu hỏi ấy, không phải là một công

việc đơn giản, có thể giải quyết một sớm, một chiều và càng

không thể là công việc của một người hay một số người mà

phải là công việc của cộng đồng, cả dân tộc. Dù thế nào, lễ hội

cổ truyền vẫn như dòng nước mát lành chảy từ cội nguồn văn

hóa dân tộc qua thời gian và không gian và có sức chảy lan tỏa

đến các thế hệ hôm nay và mai sau. Phải chăng, đó là hành

trang của thế hệ hôm nay để bước vào thiên niên kỷ thứ ba,

xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc

dân tộc. Có lẽ không là phải chăng mà chắc chắn là như vậy.

Bởi lễ hội cổ truyền đã tồn tại qua lịch sử bao đời nay như một

loài cây tràn đầy sinh lực sống./.

Hà Nội, cuối năm 1999

N.C.B

Page 53: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

1361

Về loài cá và quá trình thiêng hóa

Nguyễn Chí Bền

Theo Từ điển bách khoa nông nghiệp thì: "Cá Voi Balaenus, (tên

khác : cá ông, cá ông voi) chỉ động vật có vú ở biển thuộc bộ Cetacea, họ

Balaenidae. Bề ngoài giống cá nhưng có máu nóng, thở bằng phổi, đẻ

con, nuôi con bằng sữa. Tổ tiên cá voi có lẽ là động vật ăn thịt, sống ở

cạn, 60-70 triệu năm về trước chuyển xuống nước. Do môi trường có ma

sát lớn, cấu tạo cơ thể được biến đổi thích nghi. Thân trần, hình thoi,

thuôn về phía đuôi, kết thúc bằng vây đuôi hai cánh nằm ngang. Chi trước biến thành vây ngực, chi sau, da lông, các tuyến mỡ, tuyến mồ hôi

và tai ngoài bị thoái hoá. Đa số các loài có vây lưng, khiến cơ thể thăng

bằng trong nước. Dưới da có lớp mỡ dày. Cổ không thể hiện rõ. Mũi có

1, 2 lỗ có van. Phổi rất dễ co dãn. Cột sống có 41-98 đốt, xương sườn 17

đôi, nhưng chỉ có 10-11 đôi liền, cá voi có thể lặn dưới nước lâu đến 1,5

giờ. Thính giác phát triển mạnh, xác định được chính xác âm hưởng

truyền tới, nhờ xoang khí ở sọ và việc tách hệ thần kinh 2 tai. Vị giác và

xúc giác (qua da) khá nhạy. Mắt bé, thị giác đóng vai trò thứ yếu... Cá voi là động vật có vú lớn nhất hiện nay. Thân dài từ 12 đến 33m tuỳ theo

loài. Có con nặng đến 150 tấn. Các loài thuộc nhóm cá voi răng chủ yếu

ăn cá, thân mềm chân đầu. Các loài cá voi không răng chủ yếu ăn thân

giáp trôi nổi" 1. Loài cá này đã được ghi chép trong thư tịch. Đầu thế kỷ

XIX, Trịnh Hoài Đức viết: "Tượng ngư : cá voi. Đầu tròn nơi trán có lỗ

phun nước ra, miệng mũi giống như con voi, trơn láng không có vẩy,

đuôi có hai chi giống đuôi tôm, tánh từ thiện biết cứu trợ người nên các nhà ngư nghệ thường gọi là nhân ngư" 2. Giữa thế kỷ XIX các viên quan

trong Quốc sử quán của nhà Nguyễn cũng ghi chép về cá voi với những

dòng tương tự : "Cá ông voi : Đức ngư (theo tên đời Tự Đức ban cho)...

Đầu đời Minh Mệnh cho tên là nhân ngư, đầu đời Tự Đức cho đổi tên

hiện nay... Dị lục ký trong An Nam chí của Cao Hùng Trưng chép rằng:

"Hải thu là thứ cá rất lớn trong các loài cá, phun hơi nước lên trên không,

gió bay đi như mưa. Cách trí kính nguyên dẫn sách Chính tự thông chép

1 Trung tâm quốc gia biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam xb, Hà Nội, 1991, tr.85

2 Đại Nam nhất thống chí, Sđd, tr.58.

Page 54: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

1362

rằng : Bạch ngư dài 20 trượng, tính hiền lành hay cứu người hoặc thấy

người chài bị loài cá dữ làm khốn quẫn nó cũng giải cứu. Lại sách Bắc sử chép: Nước Chân Lạp có thứ cá tên là kiến đồng, bốn chân, không vẩy,

mũi như vòi voi, hút nước phun lên cao đến 6, 7 mươi thước. Vậy chép

ra đây để phòng khảo cứu. Năm Minh Mệnh thứ 17 khắc hình tượng vào

nhân đỉnh" 1. Từ một loài cá ngoài biển khơi, quá trình huyền thoại hoá,

lịch sử hoá đã diễn ra, để cá voi trở thành linh thiêng. Trong dân gian,

người ta kể truyền thuyết về cá voi theo hai dạng khác nhau: một là

truyền thuyết của người Chăm; hai là truyền thuyết lưu hành ở vùng biển

Trung Bộ. Truyền thuyết thứ nhất kể: "Cá voi vốn là hoá thân của một vị thần tên là Cha-Aih-Va. Vì nôn nóng trở về xứ sở sau thời gian rèn luyện

pháp thuật, Cha-Aih-Va đã cãi lời thầy, tự ý biến thành cá voi, ra sông

lớn mà đi, sau đó bị thầy trừng phạt. Sau lời nguyền rủa của thầy, Cha-

Aih-Va bị các loài thuỷ tộc ở biển Đông hành hình, bị hoá thành thiên

nga... sau cùng trở lại hình người. Cha-Aih-Va đổi tên và tự xưng là Pô-

Ri-I-Ăk liền hoá thành cá voi, rẽ sóng đến dâng thuyền và đưa người vào

bờ" 2. Cũng đi theo hướng này, ông Thái Văn Kiểm cho rằng : "từ thuở

xa xưa, người Chàm tôn xưng cá voi là vua của sóng cả... Từ xa xưa, người Chàm đã tôn thờ tất cả những gì có vẻ kỳ lạ trong con mắt của họ.

Chính khúc gỗ có hình dáng con đại bàng mà những người Bồ Đào Nha

đầu tiên trả bằng giá vàng là đối tượng của một truyền thuyết giải thích

nguồn gốc nhà trời của dân Chàm. Nghĩa là người Chàm là cháu con

của một cuộc kết duyên của chim ưng gỗ (tiếng Chàm là Patangahlan) và

vua sóng cả tức là cá voi. Bởi vậy, cá voi luôn luôn bảo hộ những người

đi biển bị đắm tầu bè và cứu giúp họ" 3.

Trong khi đó, ông Lê Quang Nghiêm ghi ở miền ven biển Trung

Bộ một truyền thuyết về nguồn gốc cá voi: "Theo huyền thoại, xưa kia

đức Phật Quan Âm trong lần tuần du Đại Hải ngậm ngùi đau xót cho số

phận của người trần bị chết chìm ngoài biển khơi, nên xé chiếc áo cà sa

làm muôn mảnh thả trên mặt biển làm phép thành cá ông, lấy bộ xương

voi ban cho để cá ông có thân hình to lớn, lại ban cho phép (thâu đường)

1 Gia Định thành thông chí, Bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb KHXH,

Hà Nội, 1971, tập 5, tr.362-363. 2 Nguyễn Văn Kim, Bài về tục thờ cá ông (cá voi) ở vùng ven biển Bến Tre trong tập Bến

Tre đất và người, tài liệu đánh máy của đề tài Địa chí Bến Tre, 1985, tr.317. 3 Tục thờ cá voi, Tập san nghiên cứu xã hội Đông Dương, 1972. Bản dịch của Đỗ Lai Thuý,

tr.6.

Page 55: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

1363

để lội thật mau hầu làm tròn trách nhiệm cứu vớt người lâm nạn" 1.

Trong cuốn Nếp cũ hội hè đình đám, ông Toan ánh, khi ghi chép về lễ hội ở Vàm Láng (nay thuộc tỉnh Tiền Giang), cũng ghi truyền thuyết như

của Lê Quang Nghiêm : cá voi là tiền thân của đức Quan Thế Âm Bồ

Tát, và "những người dân sống về biển cả đều cầu nguyện đến cá voi mỗi

lần lâm nạn. Theo ngư dân ven bờ biển Bình Thuận, họ có 12 câu nguyện

gọi là Thập nhị đại nguyện. Tương truyền là của đức Quan Thế Âm

truyền cho họ để họ cầu lên kêu cứu với Nam Hải đại vương trước mọi

tai nạn" 2. Ông Lê Quang Nghiêm, ông Toan ánh không ghi chú cụ thể

truyền thuyết này là của tộc người nào, nhưng truyền thuyết các ông ghi chép trong tác phẩm của mình khác với truyền thuyết mà tác giả Nguyễn

Văn Kim nêu ra. Xung quanh các ngôi đền thờ cá voi ở Trung Bộ, Nam

Bộ, đều bao phủ những tình tiết liên quan đến cá voi, với tư cách là thần

hộ mệnh, luôn đóng vai trò cứu giúp ngư dân nơi biển khơi. Khảo sát

điền dã các xã ven biển Bến Tre, chúng tôi không gặp truyền thuyết thứ

nhất, mà chỉ gặp những mảnh vụn của truyền thuyết thứ hai. Tại xã Bình

Thắng, huyện Bình Đại, chúng tôi được nghe ông Nguyễn Văn Phùng kể:

"theo hầu ông còn có cặp cá đao nếu ông không làm tròn phận sự, cá đao sẽ là người xử tội ông. Người dân xã Thới Thuận từng nhặt được đầu cá

ông trôi dạt từ ngoài biển vào, và họ đem về thờ cúng". ở vùng Ba Tri,

ông Nguyễn Duy Oanh từng ghi : "Dân chài lưới có lập một cái miếu thờ

cá ông tại vùng Bãi Ngao. Mỗi khi ra khơi, họ thường cúng vái. Nhiều

lần họ được cá ông giúp đỡ trong lúc biển động mạnh ghe đánh cá của họ

suýt chìm. Họ cầu cứu cá ông thì ít phút sau cá ông hiện đến. Cá ông kê

lưng đỡ thuyền họ lướt qua sóng gió hãi hùng. Mỗi lần cá ông hiện lên trên mặt biển che chở thuyền chài thì y như có một con cá đao theo bên" 3.

Cũng trong quá trình thần thoại hoá còn có một quá trình lịch sử

hoá. Đó là việc người ta gắn sự linh thiêng của cá ông với những ngày

hàn vi của nhà vua Gia Long. Người dân vùng Gò Công có chuyện cá

ông cứu Nguyễn ánh mà Thái Văn Kiểm đã ghi lại : "Gia Long khi còn là

hoàng tử Nguyễn ánh bị săn đuổi bởi quân Tây Sơn đã phải chạy thẳng

vào vùng cực Nam ở vùng Soi Rạp (giữa Gia Định và Gò Công). Một

trận bão điên cuồng nổi lên. Chiếc thuyền lớn chòng chành như sắp lật. Vị vua tương lai cầu khấn trời. Thế là một điều kỳ diệu xảy ra : một con

1 Bài Những tục thờ cúng đặc biệt và kỳ lạ của ngư phủ lưới đăng tỉnh Khánh Hoà, Tạp chí

Bách khoa, S,1970, số 322, tr.26. 2 Quyển thượng, Nam chi tùng thư xb, S, 1969, tr.123.

3 Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam từ 1757 đến 1945. Phủ QVK đặc trách văn hoá xb, S,

1971, tr.355-356.

Page 56: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

1364

cá voi xuất hiện, nó đội chiếc thuyền lên và bơi thoát ra khỏi vùng bão và

đặt thuyền cập bãi Vàm Láng (Gò Công)." 1 . Ông Toan ánh cũng ghi lại truyền thuyết này trong cuốn Nếp cũ hội hè đình đám của ông. ở Bến Tre

cũng lưu hành chi tiết đã được lịch sử hoá này về sự linh thiêng của cá

ông. Ông Nguyễn Duy Oanh ghi : "Dân vùng Bãi Ngao (Ba Tri) cũng thuật

rằng cũng có lần thuyền của vua Gia Long đến đây gặp sóng to gió lớn và

cũng được cá ông hộ tống vào đến Bãi Ngao" 2.

Tất cả các chi tiết của các truyền thuyết về cá ông đều hướng tới

mục đích thần thoại hoá, lịch sử hoá một đối tượng từ lâu được ngưỡng

mộ. Loài cá nơi biển cả đã hoá thân thành vị thần thiêng liêng của biển. Cơ sở của việc thần thoại hoá và lịch sử hoá ấy, chính là niềm tin tưởng ở

đối tượng được tin, của người dân sống bằng nghề biển. Cốt lõi của

những thần thoại ấy đều là việc cá ông/ cá voi cứu giúp người ngoài biển

khơi, đồng thời cá ông / cá voi giúp cho cư dân được mùa biển. Dù rằng,

các thần thoại có khác nhau, nhưng tâm thức dân gian của cư dân vùng

biển đều coi cá ông / cá voi là thần. Bởi vậy người dân vùng biển không

khi nào ăn thịt cá ông / cá voi. Người ta cũng gọi cá ông / cá voi bằng

nhiều tên khác nhau : Ông Khơi, ông Lộng, Ông Sứa v.v...

Khi gặp cá ông / cá voi chết, bao giờ cư dân vùng ven biển Bến Tre

cũng chôn cất rất tử tế. Việc chôn cất, như sự ghi chép của Trịnh Hoài

Đức, vào đầu thế kỷ XIX: ...Dân miền biển đến kính lễ, thấy thây cá voi

này trôi dạt, dân chài lưới góp tiền mua vải hòm liệm chôn, người trưởng

trong ngư hộ đứng làm tang chủ, cất đền phụng sự” 3.

Bên cạnh việc thờ phụng là tục kiêng kỵ. Dân ở đây có một loạt

kiêng kỵ liên quan đến cá ông / cá voi. Thái Văn Kiểm đã ghi khá chi tiết về việc kiêng kỵ này : "Chúng tôi đọc trong tạp chí Excuraions et

Reconnaissances số 6 in ở Sài Gòn năm 1880 : Việc dùng tên cá voi bị

cấm. Đó là dấu hiệu tỏ sự kính trọng cá voi. Người ta chỉ dùng từ ông.

Nếu cá bị chết, người ta cũng tránh dùng từ chết mà chỉ dùng từ lụy. Lăng

cá ông thì người ta gọi là lăng ông"4.

Trong sự chuyển hoá từ một loài vật nơi biển cả thành một vị thần của cư dân sống bằng nghề biển, có vai trò của vương triều Nguyễn. Nhà Nguyễn phong tặng cá ông là : "Nam Hải cự tộc ngọc lân tôn thần".

Khảo sát điền dã các lăng cá ông ở các xã ven biển Bến Tre, chúng tôi

1 Bđd, tr.7.

2 Nguyễn Duy Oanh, Sđd, tr.356.

3 Gia Định thành thông chí, Sđd, tr.59.

4 Tục thờ cá voi, tài liệu đd, tr.11.

Page 57: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

1365

chưa gặp một sắc phong nào. Nhưng ngay từ đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hoài Đức đã ghi rất rõ : "Thần là con cá nhân ngư... ngư phủ dăng lưới đánh cá, thường hô là thần mà cầu khấn thì nhân ngư đuổi cả bầy cá chạy vào

lưới. Ngư phủ rất cảm ơn, có khi nhân ngư lầm vào trong lưới, thì ngư phủ mở một mặt lưới kêu mà dẫn ra, nhân ngư ắt theo cửa lưới ấy mà ra" 1. Ông đã khẳng định là vua Gia Long đã phong cá ông làm "Nam Hải tướng quân". Các tác giả Huỳnh Ngọc Trảng, Hồ Tường, Trương Ngọc

Tường, đã công bố sắc phong cá ông ở thời Minh Mạng mà các ông tìm thấy ở đình Lý Nhơn, phường 6, quận 4 thành phố Hồ Chí Minh, như sau :

"Sắc Nam Hải cự tộc ngọc (lân) chi thần, hộ quốc dân hiển trứ

công đức. (Tích) ngã (Thế) Tổ Cao Hoàng (Đế) (?) (?) Khánh bí (?) nhân tứ. Kim quang thiệu hồng (ân) (miễn) niệm thần hưu, hạp long ân điển, khả gia (tặng) (Phổ) Tế chi thần. Chuẩn hứa Trường Đà các đội (y) cựu

phụng sự thần. Kỳ hiệu linh lợi hữu du (tế). Khâm tai.

Minh Mạng ngũ niên thất nguyệt (?) nhật

(Sắc mệnh chi bảo).

Phỏng dịch :

Sắc phong cho thần Nam Hải cự tộc ngọc lân (tức cá voi) giúp nước phò dân công đức sáng tỏ. Xưa Thế Tổ Cao Hoàng Đế của trẫm, (tức vua Gia Long) (chẳng may bị nạn) đã gặp điềm lành là thần cứu kịp lúc. Nay được sự soi sáng của hồng ân, trẫm liên miên suy nghĩ đến công

ơn thần hợp với sách ghi ơn lớn, nên tặng thêm là Thần Phổ Tế. Chuẩn cho những đội Trường Đà (tức những đội canh giữ cửa sông) y như cũ mà thờ phụng thần. Còn thần thì linh ứng giúp ích (cho những người trên sông nước). Kính vậy thay.

Ngày.... tháng 7 năm Minh Mạng thứ năm (1825)

ấn : Sắc mệnh chi bảo" 2.

Thời điểm của sắc phong này là năm 1825. Vì thế, có thể nói quá

trình trở thành vật biểu trưng thần biển của cá voi có cả hai chiều tác động : niềm xác tín của người dân và sự dội xuống của vương triều nhà Nguyễn. Người dân tin tưởng, thờ phụng, triều đình phong chức cho cá voi để bắt dân phụng thờ. Dù là chiều tác động nào, niềm tin tưởng của

1 Gia Định thành thông chí, Sđd, tr.112.

2 Đình Nam Bộ, tín ngưỡng và nghi lễ, Nxb TP HCM, 1993, tr.269-270. Những chữ trong ngoặc

đơn là do sắc thần bị rách, các tác giả đoán thay những chữ đã mất.

Page 58: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

1366

cư dân sống bằng nghề biển, đã tạo ra quá trình thần thoại hoá và lịch sử hoá một con vật được phụng thờ./.

N.C.B

Page 59: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

101

Lễ hội Cầu an bản Mường

Quỳnh Chi

Lễ hội cầu an cho bản mường (xên bản, xên mường) của người

Thái, đặc biệt là người Thái Mai Châu, Thuận Châu, Mộc Châu; người

Mường... là một sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng rất quan trọng đối với

cộng đồng người ở Tây Bắc. Lễ hội thường được tổ chức vào cuối tháng

giêng, đầu tháng hai âm lịch hàng năm (dịp tết Nguyên đán), gắn với tục

giết trâu hiến sinh cầu và tạ thần linh, được biểu hiện qua tiếng sấm, tức

lời phán quyết của vua trời, qua hình tượng thủy thần, thuồng luồng... Lễ hội có liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần, tâm linh của cả bản

mường, đến mùa màng, sức khỏe và sự làm ăn của cộng đồng năm ấy,

nên được tổ chức rất trọng thể, vui vẻ, thu hút sự tham gia của đồng bào

ở địa vực lớn (bản, mường).

Lễ hội cầu an cho bản mường của một số tộc ít người sở dĩ thu hút

được sự tham gia tổ chức, đóng góp... của các bản, mường là bởi, trước

hết nó gắn với nghi lễ hiến sinh thờ thần nước, nguồn nước, vị thần gắn

bó chặt chẽ với đời sống tâm linh của cộng đồng. Thứ nữa, theo quan niệm lâu đời của người dân bản mường, nếu không tổ chức lễ cúng trong

toàn bản, toàn mường, không hiến lễ vật (trâu, cặp trâu) cho tổ tiên và

các vị thần linh thì cuộc sống vật chất và tâm linh của con người trong

cộng đồng sẽ gặp những trắc trở, không thuận lợi, thần không phù hộ cho

được nhân khang, vật thịnh, cộng đồng bình an. Chính vì thế mà để được

bình yên, cộng đồng người Thái, Mường... nơi Tây Bắc xa xôi này sử

dụng một thế ứng xử rất quen thuộc của các cư dân Việt và cư dân các tộc ít người trên đất Việt, là hiến tế lễ vật (trâu, bò, heo, gà... thảng hoặc

kể cả người nữa) cho thần linh, mà ở đây là thủy thần, thần nước, thần

nguồn nước... dưới dạng con thuồng luồng, con giải, con giao long... Các

nghi lễ này ngày càng nhạt dần đi, ngắn gọn thêm, nhường chỗ cho các

trò bách hý mang tính hội hè. Dù thế, qua nghi thức hiến sinh rất ngắn

gọn trên, những nhà khoa học, văn hóa thạo giải mã sẽ đọc được rất

nhiều biểu tượng gắn với cội nguồn văn hóa vốn có.

Page 60: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

102

Vậy là, để cầu bình an, cầu được mùa, mường bản tổ chức lễ hội

xên mường, xên bản 1. Thường thì người ta tổ chức lễ cầu an cho mường trước, sau đó lần lượt làm lễ hội cầu an cho bản hoặc liên bản. Lễ hội

này, như đã nói, không chỉ bộc lộ khát vọng an lành cho cuộc sống, mối

quan hệ khăng khít giữa thần và người mà còn biểu hiện khát vọng sinh

sôi qua sự mong muốn và cầu khẩn mùa màng bội thu, gia súc sinh sôi.

Dần dà, lễ hội này còn mang tính chất tạ ơn thần linh đã cho mùa màng

bội thu, đem sự no ấm đến cho mọi người. Chính vì thế, ngày nay, qui

mô lễ hội (to hay nhỏ, kéo dài hay thu gọn...) một phần lớn tùy thuộc vào

thời tiết liên quan đến sự được mất của mùa màng năm tới, nhưng còn phụ thuộc vào sự được mất, nhiều ít của mùa màng vừa rồi, sau khi thu

hoạch.

Lễ hội này thường được tổ chức tại một bãi rộng, nơi có nguồn

nước (mở nước), nhiều khi là nguồn nước thiêng, hoặc ở cạnh rừng (bìa

rừng) trong hai hoặc ba ngày. Tùy địa vực mà sự hiến sinh gắn với một

biểu hiện của thần linh hay bản thân thần linh (sấm, mưa, thuồng luồng,

thổ công, thổ địa...). Nhiều người cho biết, ở Mộc Châu, lễ hội này được

tiến hành ở đầu nguồn nước thuộc một bản được chọn (thường là bản Mòn). Đây là nguồn nước thiêng, gần rừng thiêng, nơi cư trú của thần

thuồng luồng đầy uy lực. ở người Thái Mai Châu, thì lễ hội lại được tổ

chức ở bãi rộng gần đình như các lễ hội ở châu thổ, đồng bằng. Có nơi,

người ta tổ chức lễ ở các miếu thờ thổ công, thổ địa của bản, của gia

đình, ở vườn và ở đầu ruộng. Thường thì ngay từ dịp tết Nguyên đán,

mọi thứ dùng cho lễ hội đã chuẩn bị xong.

Lễ hội thường kéo dài trong 3 ngày (có nơi hai ngày một đêm, có nơi một ngày một đêm). Nghi lễ cúng kiếng cơ bản là hiến sinh trâu (nơi

là một cặp trâu đực to, trắng - đen, nơi thì một con, nhiều nơi cúng cả gà,

lợn). ở Mộc Châu, trong lễ xên bản, xên mường, người ta hiến tế cặp trâu

đen - trắng cỡ từ mười tuổi trở lên. Hai trâu, nhưng trâu trắng mới thực

sự mang năng lượng thiêng để thành lễ vật tế thần (ở đây là thủy quái

thuồng luồng, con ma to nhất dưới nước mà bà con thường gọi là phi

ngược). Có lẽ nghi thức thờ, hiến sinh hai trâu là mới hơn nghi thức hiến

sinh một trâu mộng rất phổ biến. Bởi theo bà con cho biết, trước kia, dân một mường khác phải đem trâu trắng và các đồ cúng lên cúng tại bản

Mòn này. Từ đó nảy sinh lễ cúng liên mường (xên liên mường) mà đồ

1 Các tác giả Thạch Phương, Lê Trung Vũ trong 60 lễ hội truyền thống Việt Nam, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995 gọi là hội hoa ban, do hội mở định kỳ vào mùa hoa ban nở.

Cách gọi này, có lẽ, chỉ đúng về mặt hình thức, bởi, trong mùa hoa ban nở, không chỉ diễn

ra lễ hội xên bản, xên mường.

Page 61: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

103

cúng và trâu hiến sinh tăng thêm về số lượng. Suy tưởng này, thực ra,

mới chỉ là giả thiết.

Người chịu trách nhiệm chính trong tổ chức lễ hội cầu an bản

mường là a nha, nhưng người trực tiếp điều hành buổi lễ lại chính là ông

thầy cúng (mo mường). Dân chúng trong mường, ngoài bản, bất kể già

trẻ gái trai đều có nghĩa vụ tham gia, đóng góp tùy sức mình và được

quyền tham dự lễ hội của mường.

Nghi lễ giết trâu ở đây hết sức đơn giản, không quan trọng và hệ

thống như nghi lễ đâm trâu, ăn trâu ở Tây Nguyên. Trước ngày hội chính

thức, tức là khoảng 2-3 giờ chiều ngày hôm trước, người ta đã làm lễ giết trâu. Trước khi thịt trâu, ông mo mường và ông mò phăn (tức ông thầy

chém, được dân mường chọn ra) làm lễ vái thần linh, tổ tiên rồi cầm dao

nhọn làm động tác chém dứ (mang tính nghi lễ) vào cổ các con trâu dùng

tế lễ, miệng thì thầm những câu như thần chú (thực ra, nhiều người cho

rằng các ông chỉ nói lời kính báo với thần linh, tổ tiên: trâu tế thần đã

sẵn, dân bản, dân mường đã thịt trâu dâng các vị rồi đây nhé, xin các vị

về mà nhận lấy). Sau đó, các ông lui ra, dành chỗ cho các thanh niên

khỏe mạnh vào chém trâu, thịt trâu... Bắt đầu ngày hội, người ta làm nhiều mâm cỗ cúng (mỗi mâm cỗ tượng trưng cho một bản lớn, xưa, có

tạo bản đứng đầu, các bản nhỏ không được tượng trưng bằng mâm cỗ)

đặt cạnh nguồn nước thiêng của mường. Đặc biệt, mâm cỗ của ông a

nha, đặt ở giữa, dùng cúng tổ tiên (mâm cúng chính thức) phải đầy đủ

các bộ phận của con trâu hiến tế (đầu, đùi, thân, móng, đuôi...) cùng tất

cả các bộ phận của một con lợn. Những mâm còn lại của các bản, ngoài

thịt trâu, cơm rượu... còn phải có gà vịt, đặt ở hai bên mâm cúng chính, dành để cúng các vị thần khác. Khi buổi lễ bắt đầu, mo mường quì trước

các mâm cỗ, phía sau là a nha, tạo bản, dân mường quì lễ. Trong không

khí trang nghiêm, linh thiêng, ông mo trang trọng, xuất thần đọc bài cúng

đã thông thuộc, mời tổ tiên (ông cha bà cố nội ngoại tiếng Thái là Pao pu

pang cải), thần đất (Chau đỉn), chủ nguồn nước (Chau nặm bo), thổ công

thổ địa... về nhận lễ vật, dùng cỗ, vui vẻ với cộng đồng dân cư bản

mường; đồng thời cầu mong tổ tiên thần linh ban phúc, phù trợ cho bản

mường bình yên, làm ăn suôn sẻ, con người khỏe mạnh, ngô lúa sinh sôi, gia súc gia cầm đàn đàn, lớp lớp... Khấn xong, mo mường và các vị chức

sắc cùng dân bản mường vái lạy tổ tiên và các vị thần. Trong lúc đó, mo

mường ném hai quả trứng (một đỏ, một trắng) và một nắm cơm nhỏ

xuống nguồn nước. Cuộc lễ kết thúc, mọi người bắt đầu vào cuộc ăn

uống cộng cảm, vui chơi thể thao, văn nghệ...

Page 62: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

104

Cuộc ăn uống cộng cảm diễn ra hết sức vui nhưng đúng lễ nghi.

Các ông mo mường, a nha, tạo bản... ăn làm phép ở mâm cỗ chính, rồi đi từng mâm; ở mỗi mâm các ông ăn một miếng thịt, uống một hớp rượu.

Kế đó, cả bản mường ăn uống vui vẻ cho bằng hết các mâm, không được

bỏ thừa hay đem về.

Để chuẩn bị cho việc diễn ra những trò bách hý trong hội lễ, ngay

từ sáng tinh mơ của ngày đầu tiên, bên cạnh vị trí cúng lễ (mặt bằng, có

thể là bàn đá cạnh nguồn nước), người dân bản đã sửa sang, dọn dẹp mặt

bằng, rộng cách nơi hành lễ khoảng trên dưới 100m. Mọi hoạt động hội

hè, trò chơi, văn nghệ, thể thao...đều được diễn ra nơi đây. Trời về chiều, trong tiếng trống, tiếng chiêng dìu dặt lúc khoan lúc nhặt, dân làng tổ

chức xòe vòng, xòe đôi, xòe đơn thật hào hứng. Bên mâm rượu tập thể,

những nam thanh nữ tú hát giỏi múa hay, biết nhiều, nhanh nhẹn trong

ứng đối vừa ăn uống, chọc ghẹo, vừa hát đối đáp giao duyên. Họ hát giới

thiệu, khen ngợi nhau, bày tỏ chí hướng, tỏ lòng với nhau... trong men

rượu, men tình... Bên cạnh đó, dăm bảy đôi nam nữ (thường là những đôi

đã ngầm kết nhau, tổ chức múa sạp, thi bắn nỏ, bắn súng hỏa mai. Nhiều

nơi còn có tục đi săn tập thể vào ngày kết thúc lễ hội. Dưới sự chỉ huy của một thợ săn giỏi nhất mường, được dân bản bầu lên, mọi người lao

mình vào cuộc săn một cách hào hứng. Thú rừng săn được sẽ chia đều

cho mọi người cũng như lũ chó tham gia cuộc săn... Cứ như thế cuộc vui

kéo dài trong hai, ba ngày. Sau đó, bản nào về bản ấy. Bản nào giàu có,

nhiều khả năng vật chất thì mời mo mường, a nha về bản mình, tiếp tục

mổ lợn, giết gà tiệc tùng vui vẻ, hoặc tổ chức cầu an cho bản (xên bản).

Như vậy, các nghi lễ chính trong lễ hội cầu an bản mường vừa bộc lộ tín ngưỡng thờ phụng thủy thần (thần nước, thần nguồn nước, sấm báo

mưa) vừa thể hiện tín ngưỡng gắn với thời săn bắn, hái lượm nguyên

thủy. Tuy nhiên, bằng vào tục hiến sinh trâu, có thể thấy nghi lễ chính là

cầu thần nước, cầu tổ tiên cho làng bản bình an, làm ăn phát đạt, người

vật phát triển. Tục đi săn, nhiều khi, là hệ quả kéo theo, ngày càng mang

tính hội hè nhiều hơn. Vết tích nghi lễ tín ngưỡng qua tục săn bắn tỏ ra

rất mờ. Dù sao, đó cũng là sự kéo theo hay xếp lớp văn hóa, thường gặp

trong văn hóa dân gian.

Về lễ hội cầu an cho bản mường, có tư liệu khác cho rằng, đối

tượng thiêng được chú ý là tiếng sấm (bóng dáng của nhiên thần, thần

sấm, chớp - pháp lôi, pháp điện). Ngoài việc bộc lộ sự ngưỡng vọng,

khẩn cầu thần nước cho mùa màng sinh sôi, con người phồn thịnh, có lẽ

cũng còn những tín hiệu biểu trưng khác cần phải bóc tách và lý giải. Dù

sao, việc chú trọng đến tiếng sấm đầu năm, với tư cách bóng dáng hay

Page 63: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

105

bản thân một nhiên thần (đại diện cho trời), một mặt chứng tỏ sự gắn bó

đến mức nhiều khi lệ thuộc vào thiên nhiên, nhiên thần của cư dân và mùa màng tộc Thái, mặt khác cho thấy kinh nghiệm sống, kinh nghiệm

làm ăn phong phú của cư dân ở đây. Qua một vài chi tiết thoáng qua, có

tính gợi mở sau đây; "Người Thái Mai Châu cho rằng hễ năm nào nghe

tiếng sấm rền từ phía thượng nguồn sông Mã, thì năm đó ắt có đại hạn...

Người ta mổ ít lợn, gà làm lễ tế thần để cầu mưa, rửa lá lúa, xua đuổi

thần trùng... Ngược lại, hễ nghe tiếng sấm đầu năm rền ở phía thượng

nguồn sông Đà, thì mọi người đều phấn khởi, tươi vui. Họ tin rằng năm

đó sẽ mưa thuận gió hòa, triển vọng mùa màng sẽ bội thu, thóc ngô đầy bồ đầy kho, mọi người khỏe mạnh, ít ốm đau" 1, có thể thấy thần linh

cũng được phân loại tốt xấu gắn với hoàn cảnh cụ thể, sự vật cụ thể,

nguồn nước cụ thể (sông Mã, sông Đà...). Kinh nghiệm làm ăn thực tiễn

có tác động không nhỏ đến suy niệm và đời sống tâm linh cư dân miền

núi. Điều này gắn với việc thờ thủy quái đã nêu, song có vẻ gián tiếp

hơn. Tuy nhiên, về mặt diễn trình, lễ hội cầu an bản mường có khác nhau

ở một số chi tiết hội.

Như vậy, ngoài sự khác biệt đôi chút ở nghi lễ hiến tế, hầu như, các hoạt động của lễ hội cầu an bản mường đều giống nhau, ở chỗ đây là dịp

để mọi người tụ họp, gặp gỡ với tổ tiên, thần linh, gặp gỡ với nhau trong

cả sinh hoạt vật chất lẫn hành động tâm linh; vừa bộc lộ niềm thành kính,

ngưỡng vọng thánh thần, vừa thể hiện sức mạnh của con người; vừa cầu

phúc cho một cuộc đời hạnh phúc, an bình, vừa bộc lộ khả năng vui chơi,

thi tài... Có thể nói, lễ hội cầu an bản mường là một hoạt động văn hóa

tín ngưỡng đặc sắc của các tộc Thái, Mường...; một sinh hoạt văn hóa dân gian tổng thể; một nguồn vui không thể thiếu của cư dân ít người nơi

rẻo cao Tây Bắc xa xôi, mỗi khi mùa hoa ban trắng nở./.

Q.C

1 Thạch Phương, Lê Trung Vũ.Sđd. tr. 331-337.

Page 64: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

107

Lễ hội cúng rừng

Vàng Thung chúng

Hàng năm, cứ mỗi độ xuân về, cùng với hội tết nhảy của người

Dao; hội gầu tào - sải sán của người H’ Mông; hội xuống đồng của

người Giáy, Tày... người Nùng lại tấp nập mở hội cúng rừng.

Hội cúng rừng được tổ chức ở hai khu rừng cấm khác nhau, vào hai

thời điểm khác nhau: đó là hội cúng rừng ở đầu bản vào ngày 30 tháng

giêng và hội cúng rừng cấm giữa đồng vào ngày mồng 2 tháng 7 âm lịch.

Hội cúng rừng đầu xuân ngày 30 tháng giêng được tổ chức ở khu

rừng đầu bản. Đây là hội chính nên được tổ chức một cách chu đáo tỷ mỷ và chặt chẽ. Cách đây vài chục năm, hội này do các già làng đứng ra tổ

chức. Sau hội được giao cho ban quản trị hợp tác xã cùng đội sản xuất lo

liệu và hiện nay giao cho các trưởng phó thôn chủ trì, các thầy cúng thầy

mo chỉ làm các thủ tục lễ nghi.

Từ trước đó hàng tuần, các cụ ông và bà con dân bản tổ chức quyên

góp tiền nong mua lợn gà, vàng hương, gạo nếp làm rượu cẩm. Ban tổ

chức tập hợp bà con dân bản phân việc cho các bộ phận: hậu cần, tiếp tân lễ nghi phục vụ thầy cúng - thầy mo, bộ phận phát dọn cỏ làm sạch môi

trường khu rừng cấm. Đặc biệt, trong bộ phận hậu cần, người ta chọn

một bà già vừa đức độ vừa có kinh nghiệm làm hũ rượu cẩm để cúng

thần linh.

Từ sáng sớm ngày 30 tháng giêng, trong khi đợi các bộ phận phát

dọn, tiếp tân chuẩn bị, các thầy mo - thầy cúng xúc miệng bằng nước

muối, rửa mặt bằng nước trầm hương và điểm tâm ngụm rượu, mặc quần

áo dài mới, chân đi giày, đầu vấn khăn xếp chuẩn bị tiến hành các nghi lễ cúng rừng. Trong khi cúng, không được ai ăn uống, vệ sinh bừa bãi, ô uế

môi trường.

Bàn thờ cúng đặt ở hai gốc cây cổ thụ gọi là cây bố và cây mẹ

(tiếng Nùng là chapôq- chamêq). Thức ăn đặt trên lá chuối để trên một

cái giá hai tầng, mâm trên và mâm dưới.

Page 65: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

108

Cỗ mâm trên gọi là mâm đất nước gồm một con gà sống lông đỏ

đẹp; một con lợn đực đen tuyền; 7 chén rượu xếp hàng ngang- chén giữa đội đáy một chén khác; một bát nước; một nhúm muối, 7 con ngựa giấy

đen; một cái ô bằng giấy đen che lư hương (lư hương được bện bằng cỏ);

7 nén nhang; 7 bát cơm và 7 xâu thịt tổng hợp. Đặc biệt có một bát thịt

gồm thịt nạc, gan, tim, tiết, gọi là bát bảo hộ đất nước.

Cỗ mâm dưới gọi là mâm bảo vệ bản làng. Mâm này gồm một con

gà sống gáy, một miếng thịt lợn, 5 xâu thịt lợn tổng hợp; 5 chén rượu và

5 bát cơm. Chén giữa cũng đội đáy chén khác; 5 con ngựa bằng giấy.

Khác với mâm cỗ trên, mâm dưới có một bát thức ăn chay.

Có hai thầy cúng, thày mo thay mặt nhân dân thôn bản úp mặt vào

cây, quỳ lạy 4 phương trời, 2 lần mỗi lần 3 lạy, mang nghĩa đón nguồn

nước mẹ về phù hộ độ trì cho bà con dân bản an cư lạc nghiệp, mọi sự

bình yên.

Rượu để cúng là rượu nếp cẩm. Sau khi khai lễ lần thứ nhất, quỳ

lạy 4 phương trời, thì mổ lợn gà làm các thức ăn theo thủ tục để bày thờ,

hết hai lần cúng thì các thầy cúng và hai người tiếp tân cùng nhau ăn

uống điểm tâm, xem bói xương gà. Trong khi thày cúng quỳ lạy, khấn vái, những người khác có thể xem nhưng không được nói tiếng dân tộc

khác để pha tạp tiếng mẹ đẻ. Các thày cúng và người phục vụ không

được ăn uống gì cả, kể cả vệ sinh cũng phải ra ngoài khu rừng cấm. Sau

khi làm hết các thủ tục thờ cúng, xem bói xương gà, trưởng ban tổ chức

mới dùng loa đi mời toàn thể dân bản tới dự hội.

Hội được quy tụ ở ven khu rừng cấm và sinh hoạt tại chỗ. Người

đại diện gia đình đến dự hội phải là con trai, bất kỳ già trẻ đều được. Đến dự hội ai cũng phải ăn mặc chỉnh tề, không được để đầu trần chân đất và

tự đem bát đũa cơm rượu đóng góp theo nhu cầu của mình. Các gia đình

ở thôn bản khác và đồng bào dân tộc khác trong khu vực cũng được phép

dự hội miễn là tuân thủ các quy định chung của ban tổ chức mà tục lệ đề

ra như: phải có trách nhiệm đóng góp theo quy định chung, trong lúc dự

hội cũng như sau lễ hội phải tuân thủ các lệ làng trong phạm vi khu vực

như: không thả rông gia súc, gia cầm phá hoại mùa màng người khác;

không chặt phá cây rừng bừa bãi, khi làng bản có gia đình nào tai bay vạ gió đói rét, bệnh tật, thiên tai hạn hán hoặc cưới xin, tang gia đau buồn

phải có trách nhiệm giúp đỡ, đoàn kết lẫn nhau trong lúc hoạn nạn, khó

khăn. Mọi người ăn uống tập trung như một hội thề, không phân biệt già

trẻ, giàu nghèo vì tất cả thức ăn đều nấu chung thành một chảo (như chảo

thắng cố) và chia sẻ đều nhau. Các thầy cúng cũng cùng ăn uống với mọi

Page 66: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

109

người trong không khí chan hoà tình cảm gia đình. Mọi người vừa ăn

uống vừa chuyện trò vui vẻ. Giữa tiệc hội, thầy cúng trịnh trọng thông báo những điều hay, điều gở của xóm làng qua bộ xương gà, đầu gà,

chân gà cho dân bản hay để cùng nhau đề phòng, tránh những điều tai

bay vạ gió..., cầu chúc cho dân bản lao động sản xuất được mùa và sống

bình yên hạnh phúc. Các thầy kêu gọi mọi người hãy đoàn kết chung

lưng đấu cật thi đua sản xuất trên đồng ruộng, nương rẫy, phát triển chăn

nuôi đàn gia súc, gia cầm; cầu thần rừng phù hộ độ trì che chở cho mọi

người đều được thanh tịnh bình an, mùa màng tươi tốt, có cuộc sống an

khang thịnh vượng đồng thời yêu cầu mọi người thực hiện tốt các quy định về lệ làng đã được dân bản bàn bạc, nhất trí đề ra trong lễ hội. Cuối

buổi lễ hội, thầy cúng tuyên bố ăn tết 3 ngày không ai được vi phạm tục

lệ. Nếu ai mang vác cuốc cày, bừa, dao hay chị em phụ nữ có mang đội

nón qua làng trong những ngày tết sẽ bị phạt vạ.

Sau các thủ tục lễ nghi, các thày cúng ra về, dân bản vẫn còn rượu

chè ca hát linh đình. Có tốp thì chơi trò Leng hao tức là hai tốt gần giống

như “oẳn tù tì”; có đám thì hát Sán côx tức sơn ca nhưng chủ yếu là hát

dân ca Lưnx cha chinw (tiếng hát làm ăn) trong đó có đoạn:

Một năm 12 tháng

Tháng giêng lá mục(1)

tàn

Tháng hai lá mục nhú

Lá mục nhú mỏ quạ

Lá gianh ngọn lưỡi mác

Mọi lá cây đều mọc

Muôn thứ hoa đua nở

Chim rừng hát vang rừng

Chim rừng ca vang núi

Ve ở nương kêu nhiều

Đánh thức người ngủ muộn

Dậy lấy nước đựng bầu

Dậy lấy thóc tra nương

Báo làm ăn mùa mới

Kẻ có ngựa sửa chuồng (1)

Lá mục: Lá loại cây tên là “mayx mucq”

Page 67: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

110

Người chống loạn sửa súng

Kẻ làng chơi sửa nhị

Người làm ăn sửa đồ(2)

.

Tuy rượu chè ca hát say sưa, nhưng cuối hội không ai quên dành

một phần thức ăn về cho gia đình cùng vui hưởng phúc lộc của rừng. Sau

đó các gia đình làm các loại bánh trái đã chuẩn bị sẵn như bánh khúc,

bánh dày, bánh chưng rồi mổ gà cúng gia tiên, rủ con cháu họ hàng, mời làng xóm ngoài bản thân quen cùng xum vầy ăn tết ba ngày. Nam thanh

nữ tú, trẻ em thiếu nhi lại trưng diện những bộ quần áo mới lộng lẫy đi

tham dự các trò chơi xui xuân như đánh quay, đánh yến, đánh đu, làm

leng hao, chơi cờ gỗ. Từ khắp góc bản đến giữa làng chỗ nào cũng nhộn

nhịp, nghe thấy những tiếng con quay đôm đốp chạm nhau, đu quay kêu

kẽo kẹt tiếng vỗ tay cổ động ầm ĩ của những người thắng cuộc trong hội

leng hao, cờ gỗ... Sau 3 ngày chơi tết, ăn uống vui xuân thoả thích, nghe

tiếng chim ngủ muộn kêu vang động núi rừng, không ai bảo ban thúc giục, bà con dân bản tiếp tục một năm làm ăn mới vì sự sinh tồn của mỗi

con người, gia đình và cả làng bản.

Truyền thuyết của người Nùng kể lại rằng: con người vốn có tổ

tiên, sinh ra nhiều thế hệ con cháu nối tiếp nhau khai thiên lập địa, đoàn

kết bên nhau lập làng, dựng bản giữa trời đất thiên nhiên trù phú. Nhờ

rừng núi mênh mông, thời tiết thuận hoà, đất đai màu mỡ, cây cỏ hoa lá

xanh tươi con cháu mới xây dựng cho mình cuộc sống ấm no hạnh phúc. Cũng như con người, đất trời rừng núi là tổ tiên, linh hồn của vạn vật. Nó

bảo vệ, che chở cho thế giới thiên nhiên luôn tồn tại và phát triển. Vì vậy,

cùng với việc thờ cúng gia tiên trong các ngày lễ tết cổ truyền, để đền

đáp công ơn của tổ tiên thì cũng phải cúng núi rừng, cầu rừng phù hộ che

chở cho mùa màng, gia súc gia cầm luôn được phát triển tốt tươi không

bị mưa gió vùi dập, sâu bọ phá hoại, bệnh dịch giết hại gia súc; cầu núi

rừng và tổ tiên phù hộ cho người Nùng tránh khỏi mọi tai bay vạ gió,

loạn lạc lâm nguy. Rừng núi non nước được dân thờ cúng như tổ tiên dân tộc. Nguyên do của lễ hội cúng rừng là thế.

Hội cúng rừng còn được những gia đình gặp rủi ro, ốm đau, bệnh

tật, mùa màng thất bát tổ chức.

Lễ vật cúng rừng ở gia đình đơn giản hơn, gồm một con lợn, một

con gà sống gáy và một chai rượu. Thầy cúng phải khấn 3 bài cúng là:

(2)

Đồ: Đồ dùng lao động sản xuất

Page 68: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

111

- Mời thần rừng xuống trình tấu,

- Xin thần rừng giúp cứu dân độ thế,

- Mổ lợn gà nạp lễ.

Ví dụ trong bài cúng mời thần rừng trình tấu đề cứu giúp gia chủ có

đoạn:

Hỡi chủ gỗ sung, cội gỗ sâng!

Kính bốn phương trời bốn hướng đất

Dù ở phương đông phương nam

Cũng kính mời tới phương đông phương nam

... Ông ở xa, suối sâu không qua được

Khói hương này cũng đi qua

Ông ở xa, đường dốc không biết đi

Khói hương này đi báo phải về

Ông ở gần lời hoa tiếng ngọt

Nô tỳ này đi van mãi cũng về

Đi nói đến chỗ đứng, đi van đến chỗ nằm phải về

Nô tỳ này đi kính mời phải về

Thày mo này đi tìm phải gặp

Mời về dẫm trước bàn

Mời về ngồi lên ghế

Đừng để bàn này vắng

Không để ghế kia vẻ...

Sau khi cúng xong, gia chủ mời đại diện của bản cùng họ hàng ăn

uống. Trong ngày lễ này, những người trong gia tộc cũng phải tuân thủ

những điều cấm kỵ như trong hội cả bản.

Hội cúng rừng cấm giữa đồng hoặc ngay trước bản tổ chức vào ngày

mồng 2 tháng 7 âm lịch - đầu mùa lúa chín. Rừng cấm này chỉ bảo hộ vụ

lúa ở ruộng đồng.

Mâm lễ vật cúng ở rừng này cũng giống mâm cúng ở vùng rừng cấm

đầu bản, song có một điều khác là mâm cúng dưới ở rừng cấm này có

thêm một con vịt, vì bà con thường chăn vịt ở gốc cây lúa.

Page 69: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

112

Quá trình tổ chức hội này cũng giống như hội chính. Song trong quá

trình tổ chức, nếu nhà nào đang có ruộng lúa bị sâu hại hoặc bị úa vàng khô gọi là bị phạm thần lửa, tiếng Nùng gọi là Sriuw phay, thì cũng cúng

tại chỗ. Trong mâm cúng không có xâu thịt mà chỉ có bát thịt tinh chất và

xôi vàng, dùng rượu trắng chứ không phải dùng cơm nếp cẩm với nghĩa

chúc mừng và cầu mong lúa chín rộ.

Lúc ăn hội, chỉ có nam giới đi dự, bất kỳ già hay trẻ. Những người

có vợ chửa thì không được đi dự mà chia phần về nhà vì người ta tin rằng

nếu đi thì lúa sẽ bị mắc bệnh đốm lá. Những người đi dự không đội mũ thì

ruộng sẽ có sâu ăn lúa và ai đem theo ớt đi ăn ruộng lúa sẽ chết khô. Vì vậy, trong khi đi ăn cỗ, mọi người phải tuân thủ theo quy định chung của

lệ làng là không được nói tiếng dân tộc khác, không được để đầu trần chân

đất, không được ăn mặc quần áo rách, không được đem ớt, cơm cháy, rượu

khê. Nước chấm- món ăn cộng đồng chỉ có muối, mì chính, rau thơm. Lúc

ăn có thể nói tục chứ không được chửi bậy.

Như vậy, hội cúng rừng của người Nùng ngoài ý nghĩa là hội cầu

mùa, cầu đất trời thiên nhiên phù hộ cho con người một cuộc sống an

khang thịnh vượng, còn góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn bảo vệ cảnh thiên nhiên kỳ thú... của làng bản./.

V.T.C

Page 70: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

114

Hội Đoọc Moong người Mường

ở xã Phong Phú

Nguyễn Hữu Thức

Trước đây, rừng còn nhiều, sau tuần vui tết, người Mường ở xóm

Lý, xã Phong Phú, huyện Tân Lạc, tỉnh Hoà Bình lại chính thức bước vào một mùa làm ăn mới. Ngày ấy, người Việt gọi là ngày hạ nêu.

Nếu người Việt tổ chức nêu vào mồng 7 tháng giêng thì hạ nêu

của người Mường Tân Lạc là ngày 6 tháng giêng, bởi quan niệm trong

dân gian cách tính ngày của người Mường xưa lùi một ngày so với người

Việt. Ngày mồng 1 tết của người Việt coi là ngày 30 của người Mường,

thế nên, ngày hạ nêu của người Việt cũng là ngày hạ nêu của người

Mường mà chỉ khác nhau về cách gọi.

Ngày hạ nêu có lễ khai sơn (lễ mở cửa rừng). Sau lễ khai sơn mọi người bắt đầu vào rừng hái lượm và săn bắt thú.

Trong ngày này, một trong những sinh hoạt cộng đồng rất vui,

nhiều nơi tổ chức, đó là Hội Đoọc Moong. Tiêu biểu là hội đoọc moong

của người Mường xóm Lý.

Đoọc nghĩa đen là đâm, mở rộng nghĩa là săn. Ngôn ngữ Tày-

Thái cổ có một âm tương tự là toọc nghĩa là đóng, mở rộng nghĩa là

trồng. Moong còn gọi là Muông, là từ chỉ các loài thú 4 chân. Hội Đoọc Moong là hội đi săn các loài thú rừng.

Buổi sáng đó, người trong Mường hay Quềl (đơn vị cư trú) ở

Mường Lồ (xã Phong Phú ) không phân biệt trẻ già trai gái, ai có thể trèo

đồi, leo núi được cùng kéo nhau đi. Một người săn giỏi (trùm săn)của

mường cùng các cụ già có kinh nghiệm bàn định hướng xuất phát làm ăn

và chọn điểm săn. Sau đó, mọi người tưng bừng reo hò cùng ông trùm săn

theo hướng đã định đến một quả đồi hay một khu rừng. Mọi người toả ra

vây quanh khu rừng đó. Những thợ săn giỏi có súng kíp hoặc nỏ cứng, nhanh chân tìm chỗ đón lõng ở các khe, các lối mòn thú hay đi. Những

người khác khép kín dần vòng vây, họ hò, reo, hú đuổi thú, tay cầm cây

lao hoặc cầm một cây gậy nhỏ. Nhiều người cầm cồng (chiêng), loại cồng

nhỏ (chiêng boòng beeng) đánh theo điệu đi săn. Những chú chó săn của

Page 71: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

115

mường theo hiệu lệnh của cồng săn vượt lên sục sạo các bụi rậm đánh hơi

thú.

Tiếng cồng săn dập dồn, tiếng hò reo vang rộn, tiếng chó sủa chói

tai cuốn hút bước chân người, tất cả tạo thành một âm hưởng sôi động của cuộc sống cộng đồng bước vào mùa làm ăn mới.

Thú rừng bị vòng vây khép kín dồn dần vào một nơi. Trước là bị

chó tấn công sau là người ùa đến dùng gậy nhọn, cây lao chặn đánh.

Cũng có khi không đợi đến lúc bị dồn vào một chỗ những con thú ranh

mãnh phóng ngược lại hướng tiến của con người. Lúc ấy, mọi người

không bỏ vây mà chỉ số ít người tách ra đuổi theo con thú. Thường chỗ

con thú thoát được lại là chỗ đã có người nấp đón chỉ đợi thú chạy vào

tầm ngắm là nổ súng tiêu diệt.

Hội đoọc moong rất vui, thu hút nhiều người tham gia. Nếu buổi

săn hôm đó được thú, làng Mường vui mừng đánh cồng, gõ phách. Họ

khiêng con thú đến một miếu lớn bằng gỗ, dựng ở xóm Lý, thờ Đức Tản

Viên. Hậu cung có tượng người (Thánh Tản Viên) bằng đá. Mọi người

mổ con thú săn được dâng lễ tế Thánh Tản. Ông mo thay mặt dân xã,

mặc áo thụng, đội mũ tai én làm lễ khấn Thánh Tản phù trợ mùa màng

tươi tốt. Nhỡ không được thú gì, dân Mường tỏ ý buồn cho việc xuất

hành đầu năm mới không may. Dân làng đành phải chọn một con bò thay thú rừng tế Thánh Tản. ở miếu thờ Thánh Tản có tục không giết trâu để

tế thần. Có điều khi chọn nơi săn, các cụ đã tấu trình kỹ lưỡng, một khi

đã kéo dân chúng đi đoọc moong thì thế nào cũng phải săn bắn được thú.

Thế nên, khu rừng được chọn thường là nơi cấm săn bắt trong năm để

nhiều thú về ở. Sau lễ tế Thánh Tản, mọi người tự mang cơm và rượu cần

đến vui mừng suốt ngày tới tận đêm khuya.

Ngoài con thú được dâng lễ Thánh Tản, hễ phường săn có bắt thêm được con thú nào khác, làng có lệ chia phần như sau: Người nào

giết chết con thú sẽ được hưởng một đùi sau cùng đầu con vật, vị trí cắt

lấy đầu tính bằng cách tóm cái tai con vật vít xuống phía cổ, đầu nhọn tai

đến đâu thì cắt phần cổ đến đó.

Sau đấy, họ mổ con vật ra lấy thịt chia đều cho tổng số người và

chó. Mọi người quan niệm phần của một đầu người tương đương với

phần của một đầu chó.

Cũng có khi trong cuộc săn một con thú như lợn rừng, hoẵng, cheo cheo v.v... chạy ra liền bị mấy người đuổi đánh và đâm chết. Khi

con vật chết hẳn, một người hô to không đâm nữa, mọi người tự nguyện

Page 72: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

116

giơ cây lao của mình ra phía trước, căn cứ vào đầu con thú và đùi sau

chia đều cho những người đó. Nếu ai đó, dù rằng anh đánh con vật ngã

quị xuống, hiềm vì ngọn lao của anh không có máu thì vẫn coi là anh

không trực tiếp giết con vật đó. Lệ Mường quy định thế nên nhiều người chạy tới sau, tiếc công sức đuổi thú, cho dù con thú đã bị đâm chết, anh

ta cũng cố lao tới chấm đầu nhọn của mình cho có máu con vật để hưởng

vinh quang và phần thịt chia. Lệ này giúp chúng ta hiểu thêm cơ sở ra

đời câu phương ngôn của người đi săn là “Rây máu ăn phần”.

Người giết được con thú cốt yếu là nhận về sự ving quang, cảm

phục của người trong mường chứ lợi lộc chẳng là mấy, bởi lẽ khi nhận

phần đem về nhà, người giết được thú phải tốn kém nhiều rượu thịt để

khoản đãi dân mường đến chúc mừng anh ta. Có điều: sống ở làng sang ở nước, dù là tốn kém nhưng người giết được thú lấy làm vui mừng lắm,

cho là gia đình có phúc lớn, tin trong năm làm ăn gặp nhiều may mắn.

...Cuộc săn chấm dứt bằng hiệu lệnh cồng. Đã thành thói quen, hễ

nghe điệu cồng đó thì người và chó bỏ vị trí trở về mường. Càng gần làng

mường họ càng reo hò, chào đón thắng lợi đã giành được.

Hội đoọc moong ngày đầu năm mới không thuần tuý chỉ là ngày

Hội đi săn mà mở rộng ý nghĩa thành ngày hội văn hoá chứa đựng nhiều

yếu tố sinh hoạt cộng đồng hấp dẫn như đánh chiêng, leo núi, vui hò, uống rượu cần, thi tài bắn nỏ, bắn súng, đâm lao... giúp con người

Mường hiểu biết lẫn nhau và sống gắn bó với nhau hơn trong một cộng

đồng làng xóm chan chứa nghĩa tình./.

N.H.T

Page 73: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

117

lễ hội gầu tào

Mã A Lềnh - Lý Seo Chúng

Gầu tào là lễ hội quan trọng của người Hmông. Lễ hội mở ra

nhằm một trong hai mục đích cầu phúc hoặc cầu mệnh. Một gia chủ nào

đó không có con, thưa con hoặc sinh con một bề, sẽ làm lễ nhờ thày cúng

bói xin cho mở hội Gầu tào nhằm cầu mong có con - đó là hội cầu phúc.

Một gia chủ khác bị ốm đau bệnh tật, con cái yếu ớt, thậm chí có con bị

chết, mùa màng, vật nuôi lụi dần, cũng nhờ thầy cúng bói xin mở hội

Gầu tào - đó là hội cầu mệnh.

Ngay từ cuối tháng chạp, khi được thầy cúng bói xin mở hội, gia

đình mở hội cầu phúc phải nhờ anh trai, chị dâu (những người có con cả

trai, cả gái) chặt cây mai cao to, không cụt ngọn, ngọn dài có lá về dựng

nêu. Riêng gia chủ cầu mệnh, mong mọi người trong gia đình đều được

khỏe mạnh xin đuổi hết bệnh tật ốm đau, làm ăn tấn tới thì phải cử hai

thanh niên khỏe mạnh trong dòng họ chặt cây mai về dựng nêu. Lễ dựng

nêu được tổ chức từ ngày 26 đến ngày 29 tết. Địa điểm trồng cây nêu

(cũng là địa điểm mở hội) một quả đồi gần đường đi, tương đối bằng phẳng, đánh bớt gốc cây, dọn sạch các bụi cây lúp xúp. Cây nêu được

chôn ngay trên đỉnh đồi. Nếu lễ hội được chia làm ba năm (tổ chức suốt

ba năm liền) thì mỗi năm chỉ dựng một cây nêu bằng cây mai. Nhưng

nếu lễ hội chỉ tổ chức gộp một lần thì phải chôn dựng ba cây nêu theo

hình tam giác cân ở giữa đỉnh đồi. Trên gần ngọn nêu treo 3 miếng vải

lanh màu đen, trắng, đỏ khác nhau. ở Pha Long (Mường Khương) chỉ

treo một miếng vải đỏ và dải vải đen. ở Sa Pa lại chỉ treo một dải vải đỏ. Phía dưới sợi vải, treo lủng lẳng bầu rượu ngon và một dây tiền giấy

bằng giấy bản. Khi dựng xong cây nêu, gia chủ còn làm lễ cúng ở ngay

chân cột nêu mời tổ tiên các thần phù hộ cho có con, mọi thành viên đều

khỏe mạnh, bằng an kế tục việc làm ăn, làm mặc theo dòng họ. Khi cây

nêu được dựng lên, các làng gần, làng xa biết rằng tết năm nay sẽ mở hội

Gầu tào. Mọi người nô nức chuẩn bị dự hội. Thời gian mở hội thường

trong khoảng từ ngày mồng một đến ngày 15 tháng giêng. Nếu hội tổ

chức 3 năm liền thì mỗi năm tổ chức 3 ngày liền, hội làm gộp một năm sẽ tổ chức 9 ngày.

Page 74: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

118

ở Sa Pa, sáng ngày mồng một tết làm lễ mở hội. ở Mường Khương

mở hội vào ngày mồng 3 tết. Sau phần cúng khai hội của thầy cúng, mọi người cùng tham gia các cuộc thi trò chơi.

Sáng sớm ngày khai hội, mọi người tụ tập đến bãi mở hội. Khắp bãi

đã dựng thêm nhiều lều lợp lá cây cho người già ăn uống chúc tụng. Bãi

bằng nhất được dọn ra cho trẻ em đánh quay. Những dây ống hát được

chăng lên khắp triền đồi. Nơi bắn nỏ, bắn cung, sân múa khèn, đường

đua ngựa cũng được qui định và bài trí đơn giản. Mỗi sân bãi đều đã cắt

cử người quán xử (chủ sự). Gia chủ là người có quyền tối cao thống lĩnh

toàn hội. Bên cạnh gia chủ, sẽ có hai đến ba trung niên hay ông già thạo đường ăn nói thay mặt gia chủ giải quyết mọi sự. Nếu gia chủ là người ít

nói năng, chậm chạp thì có thể nhờ và ủy quyền cho một người thay mặt

mình. Ngoài ra cần có xừ quan (quản lý) chăm lo việc ăn uống, có hấu

pầu tờ (quản củi đuốc), hấu pầu giê (trông nom xay giã dần sàng) cùng

với xừ quan. Tại đây khi làm những thủ tục lễ bái, hầu hết là dùng những

từ hoa mỹ (pàng lỳ) thanh cao, những câu ví mỹ miều, những câu tục ngữ

(lù txà) khoa trương. Ngày nay rất ít người biết hết những câu, từ, bài sử

dụng trong hội.

Khách ngoài họ, khách đường xa đến, người thì ống gạo, người thì

thồ ngô, người thì hũ rượu, người xách đôi gà, ai mang đến đều phải vào

làm lễ cầu chúc cho mọi người yên vui khang đường, tiếp nữa là cầu

chúc cho mùa màng bội thu, lợn gà đầy chuồng, đầy sân. Chủ nhà nói lời

cảm tạ và biết ơn ghi sâu lòng hiếu thảo hào phóng của khách.

Khách gần khách xa, người già, người trẻ ai thích chơi trò gì thì

làm đến sân ấy. Đám hội nào cũng nườm nượp. Xừ quan, quan xử cùng gia chủ và các bậc triết nhân thánh hiền, thầy mo chữ sau những cuộc

đón khách trọng thể, họ công bố mở hội bằng một lễ nhẹ nhàng, rồi đến

khai mạc từng đám chơi.

Đám bắn thi cung nỏ qui định tiêu điểm bằng một lá nhỏ, hiện một

hột ngô, trước là tĩnh sau là động, di chuyển nhanh như chim bay hay sóc

lặn bụi. Lần lượt từng người một vào bắn, có thể dàn hàng ngang bắn

đồng thời, nhưng rồi vẫn phải từng người phân thắng bại. Người thiện xạ

sẽ được ban tổ chức ban thưởng một bầu rượu ngon.

Đám chọi quay thu hút hết các em nhỏ và cả những người vào tuổi

thanh niên. Quay to, quay nhỏ, đủ cỡ được trưng ra. Trò chơi trẻ em thì

nhiều vô kể ngay cạnh bãi quay, vặn gậy, nhảy sào, mimi nào tẩu si (như

trò bịt mặt bắt dê của nhiều dân tộc khác), chơi đu quay, nhảy ngựa, đánh

yến, đánh cầu. Song nổi bật nhất, hào hứng nhất vẫn là trò đánh quay.

Page 75: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

119

Con quay làm bằng gỗ cứng: đinh, lim, chò chỉ và có 2 loại quay. ở các

làng Hmông phía Tây sông Hồng (Bát Xát, Sa Pa) các bạn trẻ thường dùng con quay đẽo tròn, phần trên gọt tròn, nhắm và có núm, phần dưới

hơi nhọn, ngay đỉnh nhọn có đóng một chiếc đinh. Chiếc quay nặng từ

0,2 đến 0,5 kg. ở miền Đông sông Hồng, lại dùng quay to, nặng hơn, tùy

sức lực và ý thích từng người. Ai có những con quay từ nửa cân (0,5kg)

trở lên đều được mọi người trầm trồ thán phục, coi như loại siêu nặng.

Con quay ở miền Đông phần trên phẳng, phần dưới hơi nhọn, dáng thô,

nặng hơn quay miền Tây. Dây đánh quay thường được tết bằng sợi lanh,

dài 1 sải, sải rưỡi tùy theo chiếc quay to hay nhỏ.

Đánh quay có 2 hình thức chủ yếu: thi quay tít và chọi quay. Đầu

tiên các bạn trẻ thường thi quay tít. Một vòng tròn được vạch trên đất

bằng cách vạch người đứng thi từ 5 - 7m, mọi người đứng dàn hàng

ngang ở vạch thi đấu, khoảng cách vừa phải để khi vung tay khỏi va

chạm vào nhau. Chủ trò hô lên một tiếng, những con quay lao vút vào

vòng quay phát ra những tiếng kêu vo vo, vù vù quay tít, con quay nào

quay lâu nhất sẽ được mọi người trầm trồ khen ngợi. Con nào nhảy chồm

chồm vượt ra khỏi vòng tròn rồi đổ lăn chiêng ra là chưa đạt, chủ nhân của nó tiu nghỉu, có khi phải đẽo lại chiếc khác. Có nơi người chủ quay

còn dùng dây quất vào cạnh tròn của con quay, tạo ra một lực tiếp tuyến

để nuôi quay quay được tít lâu hơn. Loại quay tròn có núm, người ta có

thể hất lên cho quay trong lòng bàn tay.

Trò chơi quay bao giờ cũng thu hút được nhiều người chơi, nhiều

khán giả hâm mộ. Ai có con quay trước thì phải thả ra khoảng trống

trước mặt để làm mồi, con quay mồi đang nhảy nhót, quay vù vù. Một người khác vung tay lên, một con quay từ trên bổ xuống giáng mạnh vào

con quay mồi. Có con quay bị giáng mạnh còn bị vỡ toác. Tiếng xuýt

xoa khen ngợi nổi lên. Nếu chọi không trúng, thì con quay chọi lại phải

thay thế con mồi.

ở Bắc Hà - Lào Cai, chọi quay được tiến hành ở ba bậc (mỗi bậc

cách nhau 5m). Người thua cuộc ở bậc 1 sẽ làm mồi ở các bậc tiếp theo.

Chọi quay ở từng bậc, đòi hỏi người chơi vừa phải nhìn cho tinh, liệng

trúng đích, vừa phải khỏe để liệng quay ở độ nhất định xa.

Thi quay, chọi quay, tạo cho cánh tay thêm rắn chắc, con mắt thêm

tinh nhanh, làm cơ sở để khi đến tuổi trưởng thành, luyện tập môn võ

ném quả cân xa 15 - 25m vẫn trúng đích diệt kẻ thù.

Đám múa khèn thật là trịnh trọng, được coi như môn tài tử cao sang

nhất. Mọi người quây quanh người múa, buông tay, nghiêng mình kính

Page 76: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

120

cẩn chiêm ngưỡng những tài hoa xuất chúng. Người múa đi những

đường lượn, đường vòng, nước đi, nước lùi, khi thì như con nai in trên thảm cỏ, khi thì như cơn gió mát lướt nhẹ qua rừng cây, khi thì như con

công đứng chụm chân xòe cánh, lăn tròn, lộn nhào, quay tít ngón chân,

chân vỗ hoặc tay vỗ chân kia... Kết thúc bài, người múa lại thổi bài mời

mọc rồi người khác bước ra sân, bái chào, không để cho trang khèn bị

đứt quãng. Người vừa biểu diễn xong, bước ra khỏi sân bao giờ cũng

được đón những đôi chén rượu với một sự trọng vọng khâm phục đặc

biệt.

Đám hát gầu plềnh, hát tình ca, đối đáp, trao duyên, hát vui hội hè thường có mặt những thanh niên trai gái đang độ thanh xuân. Họ hát để

thi thố tài nghệ, và cũng nhân thể tìm hiểu nhau. Những bài hát thường

là sáng tác tức thì. Đám hát không thiếu những người đã định nơi chốn

bởi vì đã được luật hội cho phép và cấm kỵ không được ghen tuông, ích

kỷ; hơn nữa đám hát luôn có người kiểm soát nên ai có vô ý sắp lại gần

nhau sẽ có ngay chiếc gậy trúc của người kiểm soát trỏ vào giữa nhắc

luật, và hai người phải dãn cách. Song nhiều chiếc gậy thường mải xem

thổi khèn hoặc lử đử lừ đừ với bầu rượu nên có quên nhiệm vụ là điều dễ hiểu. Trong đám hát, những người đã định nơi chốn thường lui tới bên

những chiếc ống hát. Từ ống mai đầu này tới ống mai đầu kia cách

khoảng 100 - 200m là một sợi tơ tằm vàng óng nối liền, mỗi ống bắc trên

một cây cọc cao vừa tầm người đứng. Khi người đầu này hát thì người

đầu kia áp tai lắng nghe, giọng hát truyền qua nguyên vẹn trên sợi dây.

Những người chơi nhị thổi sáo bịt và sáo lưỡi đồng, gẩy đàn môi

thì tùy thích nhập đám hoặc chơi riêng một mình. Trên khắp các triền núi, tiếng kèn lá bay bổng vang trời gọi mời nhau. Các cụ bà cũng kéo

nhau ra hội móm mém kể chuyện này chuyện nọ hoặc chăm chút lời ăn

tiếng nói, bước đi đứng, nếp váy áo cho con cháu. Các cụ ông rạng rỡ

mặt mày bên những mâm rượu và chủ trì cho những cuộc lễ một cách

cung kính. Một ngày ba bữa ăn sắp cơm, nước đầy đủ. Xưa kia còn có

chum rượu cần to tướng, đặt ngay tại gốc cây nêu, vại to, vại nhỏ để

trong những căn lều, những gốc cây, bụi cỏ có chiếc vò thì đựng rượu

chua, chum thì rượu cân, có vại thì rượu nếp thơm, đều có cần, ai muốn uống bao nhiêu tùy thích (và không sợ bẩn vì nơi linh thiêng không ai

dám làm bậy làm bẩn). Đêm đến, khách xa, người cao tuổi được mời về

nhà gia chủ. Tại bãi hội, những đống lửa được đốt lên, mọi người tiếp tục

cuộc vui. Ngày đầu tiên, sau khi làm lễ khai hội, nếu nhà thày mo ở gần

thì mọi người kéo vào nhà thày làm lễ nhảy (đha thàng). Đám nhảy đồng

thời cũng sẽ tiếp diễn cho đến hết hội. Những năm không có hội, mọi

Page 77: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

121

người vẫn kéo đến nhà thày mo cùng nhảy đồng (nhảy tập thể tốp nam

hoặc tốp nữ).

Hình thức, động tác nhảy rất đơn giản, một tốp nam hoặc một tốp

nữ, thường là thanh, thiếu niên, đứng thành một hàng ngang trước bàn

thờ. Cuộc nhảy mở đầu do thày mo đánh chiêng. Chiêng đánh phía sau

lưng tốp nhảy. Khi cả tốp nhảy đã đồng loạt run rẩy, thày tránh ra, cả tốp

cùng nhảy lùi, rồi nhảy tiến theo 4 hướng. Tiến, lùi mãi đến lúc mệt, đối

với nam, lần lượt quì lạy trước bàn thờ, lạy 3 lạy theo 3 hướng. Đối với

nữ thì chạy ra ngoài hoặc ra phía bếp lò. Thông thường lúc đang nhảy, có

thể vồ bắt một người cùng nhảy cho vui. Cá biệt có người khi đánh chiêng, không run lên được, cứ đứng trơ ra. Thày mo sẽ phải ra tay bằng

cách đệm quẻ bói dưới chân, đốt một thẻ giấy, lấy tro hòa nước, phun

vào người, khi làm những động tác ấy, đều phải khấn theo bài cúng đến

phương sách ấy, buộc người đó phải nhảy, và đôi khi không thể dừng

được, thày phải khấn thì mới dừng. Đó là những người hay thích thách

đố thày.

Nhảy đồng mang tính chất của sa man giáo, dường như vô nghĩa,

song thực chất ý nghĩa của nó là cầu mong sức khỏe, sinh sản, cầu mong mùa màng tốt tươi, cầu mong đất trời thuận hòa, cầu mong thần linh ma

quái không gây ra những điều oan trắc. Nhảy đồng còn tựa như được thôi

miên, hồn được lìa khỏi xác, khiến người được bay bổng vào cõi mơ.

Hết thời hạn hội, gia chủ làm lễ kết thúc, cây nêu được hạ xuống.

Thày mo đốt thẻ giấy, hốt than cho vào gáo nước, vừa đi vừa cầu khấn.

Sau mỗi đoạn khấn vái, thày lại hấp một ngụm nước phun ra xung quanh.

Gia chủ cầm bầu rượu hạ từ trên cây nêu đi theo sau thày mo, cũng hẩy rượu ra khắp nơi. Mảnh vải đỏ thì mang về treo trong nhà cầu mong

hồng phúc đời đời. Trường hợp nếu là hội cầu phúc, ông chủ hội chọn

một đôi trai gái, một đôi nam nữ đứng tuổi đông con và họ hàng rước nêu

về gia chủ gác ở đằng sau nhà hoặc làm giát giường mong sớm có con.

Nếu mở hội cầu mệnh thì rước cây nêu đến gác ở chỗ vách đá khô ráo./.

M.A.L - L.S.C

Page 78: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

123

hội hát sắc bùa

ở người mường

vũ hoa

Sắc bùa1 là một hình thức sinh hoạt, một bộ phận trong hệ thống

những hoạt động cần có trong dịp chúc mừng năm mới từng gia đình và trong cả làng. Sắc bùa còn tham gia một số nghi lễ khác như đám cưới,

hội mùa (Xớc pông kơm c'lải lỏ). Khi các gia đình giàu có có việc vui

mừng lớn, họ cũng mời các đoàn cồng đến đánh cho thêm phần vui vẻ.

Nhưng trước hết, đối với tộc Mường nói chung và Mường ở Mường

Vang- Lạc Sơn nói riêng, sắc bùa gắn liền với mùa xuân. Đã một thời, nó

là phong tục đón mừng năm mới không thể thiếu được của họ.

Hằng năm, vào những ngày cuối cùng của năm cũ, trước khi vào một vụ cày mới, trong các làng người Mường nói chung và trong từng

gia đình Mường nói riêng đều nhộn nhịp chuẩn bị đón mừng cái Tết sắp

đến. Người ta quét dọn nhà cửa, sân ngõ, chuẩn bị quần áo đẹp, gạo,

rượu, thịt gà và gói bánh penhpang2. Trong ngày cuối năm, mỗi gia đình

đều soạn một lễ nhỏ gọi là wải hộp (tập hợp các vía lại) để tập trung một số vía của các thành viên trong gia đình đang lang thang vào thân chủ của

chúng để cầu khẩn trời phù hộ cho chúng và thông qua chúng, cho chủ

của chúng có một

sức khoẻ dồi dào1.

Ngày mồng một tết hàng năm là ngày thờ cúng tổ tiên của người

Mường. Mùng hai tết mới là ngày các phường bùa bắt đầu đi chúc tết.

1 Theo đồng bào, từ Sắc bùa có thể hiểu theo nghĩa là đánh cồng. Tuy nhiên, người ta chỉ

sử dụng từ trên trong trường hợp cồng được đánh một cách tập trung nhất, với một số lượng

cồng nhất định nào đó (mà trong đó, các loại cồng khác nhau được tập hợp lại theo một tỷ

lệ đã được quy ước) trong dịp tết đón mừng xuân mới. Nếu cồng được đánh một cách riêng

rẽ từng chiếc hoặc vài chiếc một thì người ta chỉ gọi là đánh cồng. 2 Giống bánh chưng của người Việt.

1 Theo quan niệm của đồng bào, mỗi người có 90 vía"bốn mươi wai bên đăm, năm mươi

wai bên chiêu" (bốn mươi vía bên phải, năm mươi vía bên trái). Những vía này nhiều khi

rời khỏi cơ thể để đi chơi. trong những ngày tết, phải tập trung chúng lại trong thể xác thì

con người mới khoẻ mạnh được.

Page 79: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

124

Gọi là phường bùa, nhưng thực tế đây chỉ là sự tập hợp những

người biết đánh cồng lại, tính chất phường hội chưa rõ ràng. Những

người có vợ có chồng cũng có thể tham dự. Tuy nhiên, trai thanh gái lịch

chưa vợ chưa chồng vẫn chiếm đa số. Phường không có quy chế: ngày thường không có đóng góp, hội họp, luyện tập. Sinh ra và lớn lên trong

các làng Mường, ngay từ nhỏ họ đã được nghe, được thấy, được đánh thử

tiếng cồng, sắc bùa đã ngấm vào tâm khảm để đến độ 15-17 tuổi, họ đã

bắt đầu gia nhập phường bùa để đi chúc tết trong làng và khắp làng trên

xóm dưới. Tuy nhiên, khi đi chúc tết những làng khác thì con gái thường

không tham gia. Nhìn chung, quy trình của một cuộc sắc bùa chúc tết

trong làng cũng tương tự như quy trình của một cuộc sắc bùa chúc tết

ngoài làng.

Phường bùa gồm có 12 người thạo đánh cồng (người Mường gọi

là chiêng). Ngoài ra, còn có hai người đi sau cùng đoàn, chuyên khiêng

một chiếc thúng để đựng gạo. Tuy nhiên, con số của phường bùa có thể

xê xích ít nhiều tuỳ theo số lượng cồng hiện có và số người muốn tham

gia. Trước tết ít hôm, họ tập trung những cồng tốt trong làng lại thành

một bộ, để ở một nhà chắc chắn, rộng rãi trong làng. Thông thường, một

bộ cồng gồm có những loại sau:

- Bốn chiêng dóng. Loại này thường phân cho những người thạo đánh cồng nhất sử dụng.

- Hai chiêng giàm (số lượng chiêng giàm không bắt buộc, có thể 3-

4 cái). Trong số này người ta chọn lấy cái có tiếng vang hay nhất để làm

chiêng cái (chiêng dẫn). Chiêng này thường được sử dụng ở các đầu bài

để lên con hay còn gọi là lên cái chiêng do thầy

thường1 đảm nhận.

- Ba chiêng đúc.

- Hai chiêng thau.

- Một thanh la.

Khi chiêng đã đủ bộ, thầy thường phân những chiếc chiêng đã

mượn cho từng người. Người được giao đánh thử xem chiêng tốt hay xấu và chịu trách nhiệm về chiếc chiêng được giao. Nếu làm hỏng chiêng sẽ

bị đền bằng trâu hoặc bò. Sau khi nhận chiêng, họ bắt đầu tiến hành việc

1 Thầy thường: Người có giọng hát tốt, hát nhiều bài hát và giỏi đặt lời khi hát đối đáp.

Page 80: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

125

luyện chiêng. Sáng và chiều ngoài vài tiếng đi bừa, họ tập trung lại ở nhà

giữ cồng. Buổi luyện tập kéo dài nhiều khi thâu đêm đến sáng.

Sáng mồng hai tết, phường bùa tập trung đông đủ ở nhà để cồng.

Ai nấy đều chỉnh tề trong những bộ trang phục truyền thống đẹp đẽ của dân tộc. Con gái bịt đầu bằng một mảnh khăn trắng (bít trốc); khoác một

chiếc áo chùng đen, phía trong mặc một chiếc áo ngắn không cúc, màu

trắng hoặc màu sáng (;) trong cùng là chiếc yếm màu xanh hoặc màu đỏ;

mặc váy màu chàm; cạp váy dệt hoa văn con rồng, đồng tiền hoặc quả

mê (quả và dây mây). Con trai thường mặc áo cánh ngắn sáng màu,

khoác áo chùng đen, mặc quần trắng, đầu quấn khăn nhiễu. Họ bàn nhau

xem ở trong làng sẽ đến nhà nào trước và sau đó nếu ra khỏi làng sẽ đến

làng nào trước. Sự lựa chọn đó là tuỳ hứng, không theo một quy định nào cả.

Phường bùa xuất phát từ nhà để cồng, theo thứ tự sau: thầy

thường đi trước, tiếp đến là những người cầm chiêng dóng, đến những

người cầm chiêng giàm, chiêng đúc, chiêng thau, thanh la, cuối cùng là

hai người khiêng thúng. Trước khi xuất phát, từ vị trí của mình trong sân

nhà để cồng, thầy thường đọc:

Từ đụn đi ra

Từ nhà đi đến

Đi hết bốn mươi khoảng ruộng

Ba mươi đồi tranh

Vùng ông đạo mường này

Vui lắm rồi lại vui nhiều.

Dứt lời, thầy thường vừa lên cái chiêng vừa dẫn đầu đoàn bùa

tiến ra cổng. Ra đến đường, họ có thể vừa đi vừa đánh bài cồng đi đường

hoặc do hứng thú, họ có thể đánh một trong những bài cồng khác như bài lên chiêng, bồng một, bồng hai, bồng ba, bồng bốn, lộn cồng. Nhìn

chung trong ngày hội này họ có thể đánh tuỳ hứng những bài có sẵn chứ

không bắt buộc phải đánh theo một quy định, bài bản nào.

Đến cổng ngôi nhà định vào, thầy thường lên cái chiêng. Cả đoàn

tiến vào sân. Thầy thường lên đứng ở hè nhà, cạnh chiếc cối đặt dưới

chân cầu thang. Cả đoàn bùa đi vòng từ bên tay phải sang phía bên tay

trái của ông (ngược chiều kim đồng hồ) và cuốn thành một vòng xung

quanh thầy thường. Hai người khiêng gạo đứng ở ngoài đội hình đó. Sau khi ổn định vị trí, họ dập chiêng sáu lần (ba lần lên, ba lần xuống). Tiếng

Page 81: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

126

chiêng vừa ngừng, thầy thường đọc bài Phát rác1. Cũng như toàn bộ các

bài hát khác trong sắc bùa, dựa trên một chủ đề đã được ước định từ

trước, Phát rác được sáng tác theo phương pháp ngẫu hứng. Tuỳ tài ứng

khẩu của thầy thường cao hay thấp, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể của gia

chủ mà độ dài ngắn, sự phong phú, chải chuốt của lời ca có khác nhau

nhưng nội dung của nó bao giờ cũng gồm những vấn đề: ca ngợi gia cảnh

(khang trang bề thế), đời sống sung túc, ăn nên làm ra của chủ nhà:

Phường bùa chúng tôi

Đi chúc đi chơi

Đi chơi đi nhởi

Đi đến đây chơi đây,

Đến đây dưới sân

Dưới xướng làm ăn nhà ông

Tôi ngồi dưới sân tôi trông

Trông đi ngó đi

Trông đi ngó lại

Nhìn thấy nhà ông

Khang khang ngút dậu

Không biết nhà ông,

Là ậu chẩu1 hay ậu vá2

Không biết nhà ông là cai xã3

Hay là cai đạo quyền anh4

Thấy rào xung quanh xỏ rộ5

Cột cổng nhà ông

Cột cổng có hình con cá

Má cổng nhà ông

Má cổng có hình con rồng

Không biết ông rước được thợ bên bắc

ở đâu khéo nhiều

Không biết ông rước được thợ bên đông

ở đâu khéo chạm

1 Phát rác: Phát: nghĩa đen là tung ra, phá ra, mở ra; rác: là nước. Từ phát rác có thể hiểu

theo nghĩa là : mở ra một khoảng thời gian mà trong đó mưa thuận gió hoà. 1, 2,3,4

Những chức vị do nhà lang đặt ra. 5 Một cách vào vườn có những đầu nhọn chĩa ra ngoài.

Page 82: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

127

Chạm thành tổ ong bò vẽ

Chạm thành bày ong miện6

Chạm nên kiến đen

Chạm nên kiến vàng

Chạm nên lợn lòi con hoãng

Đi ăn trái roỏng rẹch7

Chạm nên trống chim khiếu8

Mái chim kẹc9

Đi ăn trái mí, mùi xanh10

Chạm nên chim hoàng anh xuống tắm giá.

Chạm nên vẩy cá con rồng

Chạm nên hoa văn cánh xẻ.

Ông ở liếp sập, giường đồng1

Ông nhìn quần tiền trắng,

Dãy tiền đồng

Ông đem ra ông thưởng.

Phải năm được mùa ông thưởng quan bảy

Phải năm không được mùa ông thưởng quan ba Ông không cho chú nào ra không ra suông

Ra khôn, rủi ro mùa năm mới

Phát rác.

Khi thầy thường bắt đầu đọc Phát rác, chủ nhà đã ra đứng ở đầu

cầu thang và chăm chú lắng nghe. Nghe xong, nếu không mời đoàn bùa

hát thường thì chủ nhà trao cho thầy thường một thung thóc nhỏ. Thầy

thường trân trọng bưng ngửa chiếc chiêng giàm để đỡ lấy thóc do chủ

nhà trút vào: xong ông trao lại cho những người khiêng gạo. Những

người này đổ thóc vào chiếc thúng mà họ vẫn khiêng theo. Sau những

động tác trên, thầy thường đọc bài Phát rác tạ ơn gia chủ:

Tạ ơn, có lòng tạ ơn

6 Tên một loại ong rừng.

7 Tên một loại quả rừng mà chim thú thích ăn

8 Tên những loại chim rừng.

9 Tên những loại chim rừng.

10 Tên hai loại quả cùng loài cọ.

1 Liếp sập: Sập đan bằng cây sậy hay nứa tép. Giường đồng: Giường có màu giống như

màu đồng.

Page 83: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

128

Ơn bà cũng đã có công

Ơn ông cũng đã có phúc

Tôi chúc, tôi lại truyền

Chúc truyền cho ông cùng bà

Ăn lại ở lại ngày sau

Làm năm ăn, giàu có

Có chín bịch lúa nếp

Mười bịch lúa tẻ

Hết năm này, năm sau phường bùa chúng tôi lại đến.

Phát rác.

Dứt lời, phường bùa tiếp tục đến những nhà khác trong làng.

Nếu một gia đình nào đó muốn giữ đoàn bùa lại, hát thường thì sau bài Phát rác, chủ nhà bê ra và đặt ở ngoài cầu thang một chiếc mâm.

Trên mâm có một chai rượu, vài chiếc cốc, hai bát to đựng gạo, trên mỗi

bát có cắm bốn nén hương; một đĩa trầu cau. Chủ nhà nói: "nhân dịp

phường bùa đi mừng năm mới, mời phường bùa hát một bài thường cho

người già được nghe". Vẫn đứng ở vị trí cũ, giữa vòng tròn do đoàn bùa

tạo thành, thầy thường hát một bài thường tạ ơn.

Tiếp đó, thầy thường hát những bài thường kể lại chặng đường đã

qua của đoàn bùa, đồng thời khen ngợi gia thế của ông chủ.

Thầy thường dứt lời, chủ nhà lúc đó đứng ở đầu cầu thang, liền

hát thường đáp lại.

Từ lúc này, cuộc hát bắt đầu chuyển sang phần hát đối đáp. Hai

bên dò ý, thử lòng, thông qua rằng thường để ướm hỏi nhau.

Nam:

"ở dưới sân trông lên nhà

Thấy dăm ba chiếc nôi trẻ

Nghe sợ lắm hãi nhiều"

Nữ:

"Anh rằng trông lên nhà

Thấy dăm ba chiếc nôi trẻ

Nôi bên dưới, chiếc nôi chú nó,

Page 84: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

129

Nôi bên trong, nôi họ đấy thôi

Em còn ăn không ở rồi

Tìm đàng chơi nơi nhởi"

Cuộc hát đối đáp cứ như vậy mà tiếp diễn. Nếu bên trai hát kém, họ có thể bị "giam" ở dưới sân cho đến khi đói bụng mà vẫn chưa được

mời lên nhà. Hát cho đến kỳ cùng mà vẫn bị thua, phường bùa đành lặng

lẽ rút lui để tìm đối thủ khác ngang sức. Trong trường hợp phường bùa

thắng, nếu không muốn lên nhà đó, có thể rút quân một cách êm thấm

với niềm hãnh diện trước bà con đang đứng xem quanh đó:

Em nói thông điều tiếng ấy

Anh lên chơi cửa một lần

Lên chơi nhà một buổi

Nói không thông điều ấy

Cho anh xin gạo trắng gạo vàng

Về đàng xa xăm kẻo trời tối lại

Nếu muốn lên nhà để tiếp tục cuộc vui, thầy thường hát tiếp bài

thường xin lên nhà.

Chủ nhà đáp lời bằng bài hát thường mời phường bùa lên chơi.

Sau đó phường bùa bắt đầu bước chân lên nhà. Thầy thường lên

trước, mọi người lần lượt theo sau, vẫn theo đúng như vị trí khi đi đường. Họ được tiếp ở gian khách, trước chiếc cửa sổ của gian thứ nhất (tính từ

cầu thang chính lên). Thầy thường và chủ nhà ngồi đối diện với nhau, sát

cạnh cửa sổ. Những người còn lại ngồi tiếp theo, làm thành một vòng

tròn. Chiêng được xếp ở gian thứ hai. Trước cửa sổ của gian thứ hai này,

người ta xếp chiêng dóng, chiêng giàm và các loại chiêng khác làm hai

hàng dọc. Chiêng được xếp ngửa. Người ta rất cấm kỵ việc xếp cồng

chiêng vào nhau. Khi đã ổn định vị trí, thầy thường xin phép gia đình, bố mẹ, chồng (nếu có) để được đối đáp với bên gái.

Hát xin phép bố mẹ:

Thương thiết lại thương nồng

Thương không ở đồng năm vui tháng tốt

Ngày này đôi anh đi chúc đi chơi

Đến cửa bố thang mẹ

Chốn chỗ nơi này

Page 85: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

130

Thấy cây bằng lứa bằng đôi

Thấy cây hợp nơi vui đùa

Xin bố mẹ trong nhà

Bằng những câu ví von so sánh, bên trai dò ý xem bên gái có chồng chưa:

Cái này đôi anh thấy áo đẹp anh cũng muốn thay

Thấy áo sạch anh cũng muốn quàng

Thấy đàng sạch anh cũng muốn đi

Mà chỉ sợ chồng em mắng mỏ

Con gái trả lời:

Dù rằng em đã có cửa

Dù rằng em đã có nhà

Xếp cửa lại đồi gianh già

Xếp nhà lại đồi gianh non

Để làm đường cùng anh ăn chơi.

Nếu chưa chồng, cô gái có thể trả lời bằng câu hát:

Em đây vẫn chưa có chồng

Còn ăn không thoải mái

Rồi cô gái cũng hỏi lại chàng trai những câu tương tự. Sau đó bên

trai lần lượt hát tiếp những câu hỏi thăm ông chủ và toàn thể gia đình, hỏi thăm những người đứng đầu và các cụ ông, cụ bà, rồi hỏi thăm xem các

em bé có ngoan ngoãn chăm chỉ chăn trâu, chăn vịt hay không?

Hết đoạn hỏi thăm, thầy thường hát một câu để ngắt đoạn:

Hết tiếng ấy ta bỏ

Để bắt sang lời khác.

Bên gái mang trầu, nước, thuốc lào ra mời: bên trai hát khen ngợi

những thứ đó để đáp lễ.

Tiếp đó, gia chủ mang một bình rượu cần ra đặt vào giữa vòng

đoàn bùa đang ngồi. Khi được mời, thầy thường đáp lời: "Năm mới,

chúng tôi lên chúc mừng gia đình, mong gia đình phát đạt. Chủ nhà có vò

rượu cần cho chúng tôi uống, chúng tôi xin cảm ơn". Tiếp đó, thầy

thường hát một bài thường mô tả lại quá trình làm rượu cần và khen

ngợi bình rượu của chủ nhà.

Page 86: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

131

Khi uống rượu thì chủ nhà, thầy thường và những người cao tuổi

uống trước, phường bùa và những người khác uống tiếp đợt hai, đợt ba.

Ngồi cạnh vò rượu là chú trám, người chuyên cầm sừng trâu để tiếp nước

vào vò, liên tục, ứng với số rượu bị vơi đi trong vò. Khi ai nấy đã cầm cần trong tay, mọi người cùng đồng thanh "hù" lên một tiếng thật to rồi

mới bắt đầu uống. Sau những hiệp uống đông người, người ta bắt đầu

uống từng người một. Mỗi người phải uống một số rượu tương ứng với

một hoặc hai sừng trâu nước. Phải uống trong một khoảng thời gian đủ

để cho nước trong một chiếc sừng trâu (có thủng một lỗ nhỏ ở dưới đáy

vò) hết hai lượt. Nếu hết số thời gian quy định đó mà nước trong vò hãy

còn lấp xấp trên mặt lá thì người uống sẽ bị phạt. Số rượu phạt nhiều gấp

đôi số rượu phải uống lúc ban đầu. Xong cuộc rượu, gia đình nào muốn giữ phường bùa lâu hơn nữa thì làm cơm mời họ lại.

Mời các anh đi đường xa khá dài

Về đến cửa cùng nhà nhà em

Để em dọn bàn cơm cho anh ăn

Bên trai đáp lại:

Em anh có chín bụng thảo

Chín dạ lòng thương

Em dọn bàn cơm cho anh nhá

Bàn cá cho anh ăn

Em đừng nói điều tiếng ấy

Anh đây nghe phải ý thương nhiều.

Rồi họ hát thường khen mâm cơm vừa dọn.

Sau bữa cơm, cuộc hát chuyển sang phần hát giao duyên.

Bên trai mở đầu:

Thương thiết lại thương nồng

Thương không ở đồng bậu vỉ

Lý họ lại nói rằng

Lứa mình đôi anh em ta

Cùng ăn cùng chơi với nhau

Từ lúc cây si mới có một cành

Cây đa mới có một chồi

Page 87: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

132

Chúng ta như những đôi hoa cùng một cành

Chơi bên nhau khi chưa hé nụ

Em gái đẹp, tóc dài, da trắng.

Đang lớn lên vùn vụt

Còn mình lứa đôi anh

Cái mình còi còi, cái mình anh còn bé

Vậy nên anh không sánh nổi đường bừa

Không đưa nổi đường cày

Em đã bỏ anh lại một mình

Bỏ anh lại giữa mường

Để em đi chọn un đi giàu có

Chọn con lang đạo phó

Bởi nó giàu có hơn anh hỡi em.

Bên gái đáp:

Thương thiết lại thương nồng

Thương không ở đồng thiếng vỉ

Đàng mình đòi anh nói câu nhân nghĩa ấy

Mà phải năn nỉ lòng thương

Anh lớn nên trai giữa bãi

Em lớn lên gái giữa mường

Mà lứa đôi anh không mượn người đến mối

Không nhờ người già đến hỏi

Cho em được đến ở với bố trong cửa, mẹ trong nhà

Để lứa mình đôi ta được đi ra đồng từ cùng một nhà

Khi về vào cùng chung một cửa...

Nhìn chung, cuộc hát giao duyên này thường cũng gồm những

chặng như những cuộc hát ví giao duyên ở đồng bằng. Nó diễn ra theo trình tự: ướm hỏi, ngỏ lời, thổ lộ tình cảm, thề thốt ước hẹn hoặc nói lên

những nỗi niềm riêng khi tình duyên trắc trở, hát chia tay. Sau đó thường

bùa ra về. Trước khi về, thầy thường chào và chúc chủ nhà.

Dứt lời, thầy thường bước chân xuống trước, phường bùa lần lượt

theo sau. Khi người khiêng gạo đi cuối cùng. Đến chân thang, hai người

Page 88: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

133

này quay lại đỡ lấy vật tặng do chủ nhà trao cho (mà đầu buổi vẫn để ở

đầu cầu thang) và để vào thúng của mình. Đoàn bùa ra về, khi ra cổng,

họ không đánh chiêng. Họ có thể đánh chiêng lúc đã ra đến đường. Đến

cổng những nhà còn lại trong làng, trình tự cũ lại lặp lại.

Những cuộc sắc bùa này được tiếp diễn cho đến hết ngày mùng 7

tết. Sau đó, dân làng tiến hành nghi lễ cày luống đất đầu tiên trên ruộng

đất của mình. Trước đây, ậu châu- trong bộ y phục dân tộc đẹp đẽ: áo

chùng đen, quần trắng, đầu quấn khăn nhiễu- vác cày dắt trâu đi ra mảnh

rộng chuyên trồng lúa dùng cho việc thờ cúng của thổ lang. Ông thay

mặt thổ lang cày luống đất đầu tiên trong năm mới trên thửa ruộng đó.

Hành động trên còn có ý nghĩa lớn hơn: đây chính là luống cày đầu tiên

có tính chất nghi lễ của toàn thể dân làng trên ruộng đất của làng1. Sau

đó, tất cả mọi người đều bắt tay vào công việc cầy bừa. Một vụ sản xuất

mới lại bắt đầu.

*

* *

Nhìn lại toàn bộ cuộc sắc bùa: về thời gian, cách thức trình diễn và nội dung các lời ca trong buổi lễ, ta thấy có nhiều yếu tố liên quan đến

nông nghiệp.

Trước hết, chính sắc bùa đã mở đầu như một nghi thức cầu chúc,

cầu mong cho một năm, một mùa làm ăn thịnh vượng. Kế ngay sau đó là

một loạt những ngày lễ khác mang rất đậm tín ngưỡng nông nghiệp: lễ

rước bông cơm trái lúa, nghi lễ cày luống cày đầu tiên, rồi sau đó, mọi quy

trình sản xuất của vụ mùa mới chính thức bắt đầu. Ngay chính lời ca thường sử dụng trong sắc bùa cũng mang nhiều dấu tích của một nghi lễ

nông nghiệp. Nội dung chủ đạo của lời ca là cầu cho người an vật thịnh,

nhà nhà giàu có, làm ăn tấn tới: có "tiền trắng", "tiền đồng", nhà cửa

"khang trang ngút dậu", người người khoẻ mạnh sống lâu và mùa màng

bội thu. Muốn được như vậy, gia chủ phải trả ơn những người mang điều

cầu chúc đó đến cho gia đình mình. Tiếp đó, là hát đối đáp giao duyên

giữa hai bên trai gái.

Nhìn chung, trong mọi bước tiến hành, toàn bộ lời ca và cách thức tiến hành của sắc bùa, tư tưởng chủ đạo của ngày hội này đã bộc lộ khá rõ

1 Do cơ chế xã hội, người thổ lang được coi là đại diện của lang trong nhiều lĩnh vực (thần

quyền, tộc quyền, chính quyền). Chính vì vậy nên việc tiến hành nghi lễ trên mảnh đất của

nhà lang, đồng thời cũng đem lại hiệu quả cho ruộng đất các gia đình khác thuộc quyền

thổ lang cai quản.

Page 89: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

134

nét: người ta đã gửi gắm vào đó niềm cầu mong cho đất đai phì nhiêu, gắn

liền với quan niệm về sự phồn vinh của bản thân con người và khả năng

tái tạo của con người. Thông qua các biện pháp tiến hành, đồng bào mong

muốn làm tăng tác dụng của sức sinh sản truyền sang ruộng đất. Có lẽ chính vì bao hàm nội dung đó mà các yếu tố của sắc bùa (cơ cấu đoàn bùa,

số lượng chiêng, các bài bản) đã được lễ hội rước bông cơm trái lúa - một

nghi lễ nông nghiệp- sử dụng như một lễ thức không thể thiếu trong quá

trình tiến hành. Bởi vậy, tuy giờ đây, sắc bùa chỉ còn tồn tại như một hình

thức vui chơi, sinh hoạt văn nghệ dân gian nhân dịp đón xuân, nhưng ta

có những cứ liệu đáng tin cậy để có thể nghĩ rằng, trước đây nó đã từng là

một nghi lễ nông nghiệp quan trọng, có vai trò tác dụng như chính bản

thân ý nghĩa của từ phát rác, tên gọi của bài hát có tính chất khai trương ngày hội này, mở ra một khoảng thời gian, một năm mới, một vụ mùa mới

mà trong đó, thời tiết thuận lợi cho trồng trọt: mưa thuận gió hoà, mùa

màng, người và vật đều sinh sôi phát triển ./.

V.H

Page 90: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

136

Hội hoa ban

Thạch Phương - Lê Trung Vũ

Hằng năm, cứ vào dịp tháng 2 âm lịch, thời tiết nắng ấm, ở vùng

Tây Bắc hoa ban bắt đầu nở trắng núi, trắng rừng. Lúc này cũng là thời kỳ lúa chiêm gặp mưa xuân, xanh mơn mởn trên các cách đồng lúa nước.

Về loài hoa đặc trưng của núi rừng Tây Bắc, truyền thuyết của

người Thái kể rằng: Thuở ấy, có một chàng trai tên là Khum đem lòng

yêu cô gái tên là Ban. Khum vừa giỏi làm nương, lại có tài săn bắn. Ban

thì khéo tay dệt vải lại có giọng hát làm say đắm nhiều chàng trai. Thế

nhưng, cha nàng Ban vì ham giàu nên đã đem gả nàng cho con trai nhà

tạo mường, vốn là một thanh niên lười nhác, lại có tật gù lưng.

Mặc cho cô gái hết lời van xin, người cha vẫn không từ bỏ ý định,

và ông đã bàn bạc cùng với nhà tạo mường sửa soạn làm lễ cưới cho hai

người. Trong bước đường cùng, nàng Ban đã chạy sang bản của Khum

gặp chàng để cầu cứu. Nhưng chẳng may khi đến nhà Khum, thì được tin

chàng đã theo cha đi mua trâu ở bản xa. Nàng bèn lấy chiếc khăn piêu

của mình, buộc vào nơi cầu thang nhà người rồi bươn bả đi tìm chàng.

Nàng đi hết núi này, rừng khác, gọi tên người yêu đến khản cả giọng,

nhưng chàng ở xa nào có nghe thấy. Cuối cùng kiệt sức nàng ngã gục sau khi vượt qua một dãy núi cao. Nơi nàng nằm xuống sau đó mọc lên một

cây hoa mang búp trắng như búp tay người con gái. Và chẳng bao lâu,

loài hoa ấy mọc lan ra khắp núi rừng Tây Bắc, và hằng năm cứ mỗi độ

xuân về, hoa nở trắng như bông. Người ta đặt tên loài hoa đó là hoa ban.

Về phần Khum, sau khi về đến nhà, thấy chiếc khăn piêu của người

yêu vắt nơi cầu thang, biết là có chuyện chẳng lành, bèn vội vã đi tìm

nàng. Dò hỏi bà con bên bản người yêu, Khum biết được là nàng đã bỏ nhà ra đi, còn đi đâu thì không rõ. Thế là chàng trai lên đường đi tìm

người yêu, đi mãi hết mường này, bản khác mà vẫn không tìm thấy bóng

người yêu. Cuối cùng, chàng kiệt sức, ngã xuống. Sau khi chết, chàng

hoá thành con chim sống lẻ loi trong rừng, và cứ đến mùa hoa ban nở, lại

hót vang như tiếng gọi người yêu tha thiết từ năm nào.

Sơn La, cứ xuân sang, hoa ban nở trắng trên các sườn núi, thì nam

nữ thanh niên trong các bản mường lại rủ nhau đi hội chơi núi, hái hoa

Page 91: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

137

mừng xuân. Đây cũng là dịp nam nữ thanh niên vui chơi, ca hát, đánh

đàn tính, thổi kèn, múa xoè, trao và đón nhận tình yêu.

Từ sáng tinh mơ của ngày hội, tiếng trống, tiếng chiêng, âm vang

truyền lan núi rừng. Các bếp nhà sàn bập bùng lửa đỏ: đồ xôi, luộc gà,

thái măng; có nhà mổ lợn bày cỗ. Rượu cần từng vò lớn, nhỏ được bê ra

để chuẩn bị đãi khách. Đó là những công việc phần lớn thuộc về lớp

trung niên và người già. Còn những chàng trai, cô gái thì áo quần, khăn

váy chỉnh tề, gọi nhau í ới và cùng đổ ra đường dẫn đến những cánh rừng

có nhiều hoa ban nở. Họ chọn những cành hoa đẹp nhất, vừa hé nụ đều

nhất để tặng người yêu và biếu bố mẹ. Theo quan niệm của người Thái, hoa ban không chỉ tượng trưng cho tình yêu, mà còn là biểu tượng của

lòng hiếu thảo, biết ơn.

Cũng trong ngày hội này, trên dòng Nậm Na, thường diễn ra các

cuộc hát giao duyên của nam nữ trên thuyền. Thuyền trôi nhẹ trên dòng

nước; các cô gái duyên dáng che ô ngồi ở mũi thuyền, bên cạnh những

bó hoa ban tươi thắm vừa mới hái, cất lên tiếng hát những bài dân ca

mượt mà, giãi bày cảm xúc và tâm trạng riêng tư, trong khi các chàng trai

ngồi ở phía đuôi thuyền, vừa lái thuyền, vừa đánh đàn tính, thổi sáo.

Người Thái ở huyện Mai Châu (Hoà Bình) lại có thủ tục mở hội

Xên bản, xên mường. Hội mở vào dịp hoa ban nở, nên còn có tên là hội

Hoa ban. Hội tổ chức định kỳ hằng năm, nhưng quy mô to hay nhỏ còn

tuỳ thuộc vào thời tiết có liên quan đến sự được, mất của mùa màng năm

đó. Vào khoảng tháng giêng, người Thái rất chú trọng đến tiếng sấm đầu

năm. Theo quan niệm lâu đời của đồng bào ở đây, tiếng sấm là dấu hiệu

linh thiêng, là "lời phán quyết của vua trời" có liên quan đến cuộc sống của bản mường, của mùa màng năm đó.

Người Thái Mai Châu cho rằng hễ năm nào nghe tiếng sấm rền từ

phía thượng nguồn sông Mã, thì năm đó ắt có đại hạn; mọi người phải lo

tích nước để làm mùa cũng như cho sinh hoạt đời sống, lại phải chuẩn bị

phương tiện như cuốc, thuổng, gàu... để đào mương, đào giếng chống

hạn. Do đó hội Xên bản xên mường năm này chỉ tổ chức nhỏ và đơn sơ.

Người ta mổ ít lợn, gà làm lễ tế thần để cầu mưa, "rửa lá lúa" (xua đuổi

thần trùng). Các cuộc vui chơi, đàn hát coi như bị xếp lại. Các ngã đường dẫn vào bản đều có buộc cành cây xanh - dấu hiệu "cấm người ngoài vào

bản, kiêng người ngoài lên thang" - trong một số ngày "kiêng kỵ". Nhà

nào nhà nấy đóng cửa im ỉm và có cài lá xanh. Không khí sinh hoạt của

bản trong những ngày này chùng xuống, đượm vẻ lo âu, buồn tẻ.

Page 92: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

138

Ngược lại, hễ nghe tiếng sấm đầu năm rền ở phía thượng nguồn

sông Đà thì mọi người đều phấn khởi tươi vui. Họ tin rằng năm đó sẽ mưa thuận gió hòa, triển vọng mùa màng sẽ bội thu, thóc ngô đầy bồ đầy

kho, mọi người khỏe mạnh, ít ốm đau. Trẻ già cùng rủ nhau ra suối tắm,

giặt, gội đầu. Những đồ dùng nấu ăn hằng ngày như nồi, chõ đồ xôi cũng

được đem ra cạo rửa. Và tất nhiên, hội Xên bản xên mường của năm đó

cũng được tổ chức lớn hơn, rộn rịp hơn. Cả bản cùng mổ trâu, mổ heo, ăn

uống, vui chơi nhiều ngày.

Ngày thứ nhất, hội Xên bản xên mường mở đầu bằng đám rước,

tiếp theo là lễ hiến sinh cúng thần. Đám rước diễn ra từ nhà tạo mường ra đình. Dẫn đầu đám rước là các chức sắc trong mường với trang phục đẹp

may bằng the, lụa, có cờ, lọng, chiêng, trống, kèn, sáo, nhị đi kèm. Tiếp

đến, các cụ già đội khăn đỏ, mặc áo tơ tằm vàng, quần chàm sẫm, thắt

lưng xanh. Một số cụ mang theo cả cung nỏ. Một con trâu mộng to béo,

được tắm rửa sạch sẽ, da đen bóng được dắt theo, đôi sừng trâu bọc giấy

màu lấp lánh; ở giữa trán và hai bên mông có dán giấy trắng cắt hình hoa

ban to như miệng bát. Đi sau cùng là những chàng trai trong bản, mặc áo

đỏ viền xanh, quần vàng, đội mũ chóp sơn dầu, chân quấn xà cạp đen đến tận đầu gối, đeo gươm hoặc giáo bên vai.

Tại đình, vị đẳm già - thầy mo có uy tín - áo thụng xanh, mũ đuôi

én đỏ, quần chàm, đi hài, bước ra trước hương án làm lễ cầu thần. Lát

sau, vị đẳm già cầm chiếc chuông nhỏ rung lên một hồi báo hiệu là đã

cáo thần xong và lệnh cho dắt con trâu mộng ra làm lễ hiến sinh. Trâu

được dắt đến nơi bãi rộng cạnh đình để mổ thịt. Từ lúc này, các trò vui

của nam nữ thanh niên bắt đầu. Họ tổ chức múa xoè quanh nơi mổ trâu theo nhịp chiêng trống và cuộc vui chơi kéo dài cho đến khi pha xong

thịt trâu mới chịu dừng.

Khi những mâm cỗ được dọn lên, thì chiêng trống cùng các nhạc cụ

khác lúc này cũng được chuyển về đình. Từng đôi nam nữ luân phiên hoà

tấu cho tới lúc hạ cỗ. Đêm đến, nam nữ thanh niên vui chơi, ca hát cho

đến khuya mới chia tay.

Ngày thứ hai là ngày thi bắn súng hoả mai và cung nỏ. Mỗi thí sinh

phải bắn đủ cả hai mục tiêu tĩnh và động. Mục tiêu tĩnh thường đơn giản, bia đặt cách 50 mét. Mục tiêu di động là một quả bưởi đang lăn trên một

độ dốc nhất định. Phải là một tay thiện xạ, có kinh nghiệm bắn đón giỏi

mới mong đạt được giải. Nếu thí sinh bắn trúng mục tiêu di động cả 3

phát thì được hưởng một mâm cỗ đầy, có xôi, thịt, gọi là pàn han (có

nghĩa là cỗ dành cho người tài giỏi). Cỗ pàn han do chính tay tạo mường

chuẩn bị trước để tặng cho người đoạt giải trong cuộc thi tài. Tạo mường

Page 93: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

139

nhận khẩu súng hoả mai từ tay nhà thiện xạ và lấy thêm một con dao sắc

mới nguyên, chuôi bằng ngà voi, đem đặt chéo hai loại vũ này bên mâm cỗ nơi bàn thờ để cáo thần. Hết tuần hương, cỗ được bưng xuống để mời

người được giải ngồi vào mâm thưởng thức với tất cả niềm vinh dự. Tạo

mường lúc ấy đứng ra tuyên bố trước thần linh và các chức sắc, bô lão

cùng dân chúng trong toàn mường, từ nay người được giải nhận trọng

trách "Tuần mường" (người trông coi việc an ninh trong mường). Người

Thái có câu ngạn ngữ: Ruộng hoang quý trâu đực, mường loạn quý

người hùng.

Ngày thứ ba là ngày vui chơi tập thể, đó là ngày hội tự do, sôi động nhất, có người tham gia đông đảo nhất. Ai thích trò chơi gì thì hãy nhập

cuộc vào các nhóm: ném còn, ca hát, thổi kèn, sáo, thi chim hót, thi trâu

béo... (Tục lệ ở đây kiêng thi vật và cấm trâu bò húc nhau trong những

ngày này). Những bản đông dân, người ta chia cuộc vui chơi thành hai

nơi: Một ở đầu bản, một ở cuối bản để tránh tập trung quá đông một chỗ.

Đối với nam nữ thanh niên, đêm hội cuối là đêm vui nhất, để lại

nhiều kỷ niệm nhất. Dưới ánh trăng, màu trắng của hoa ban ánh lên trên

nền xanh thẫm của rừng, tạo nên một vẻ đẹp thanh khiết. Giữa khung cảnh đầy thơ mộng ấy, cuộc thi hát giao duyên hoà cùng tiếng kèn, tiếng

sáo giữa nam nữ diễn ra từ lúc trăng lên và kéo dài cho đến tận khuya.

Họ tặng cho nhau những tấm phà (mặt váy thêu công phu), vòng đeo tay

bằng bạc, trầu cau và những chai rượu nếp mang hương vị của rừng, của

suối. Từ cuộc vui này, có bao nhiêu mối tình chớm nở và biết bao nhiêu

đôi nên vợ nên chồng.

Tiếp theo hội là một ngày kiêng kỵ. Nhà nào nhà nấy đều đóng kín cửa, cài cành lá xanh, người trong nhà nghỉ đi rừng, đi rẫy và không tiếp

khách lạ.

Hội Xên bản xên mường mở vào mùa hoa ban nở là hội cầu mùa,

cầu phúc của người Thái. Họ gửi gắm vào đó những ước vọng lớn lao về

một cuộc sống bình yên, no ấm nơi bản mường, đồng thời cũng là dịp thi

tài, vui chơi, trai gái tìm hiểu, tâm tình qua tiếng hát, tiếng đàn ... ./.

T.P - L.T.V

Page 94: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

141

Lễ hội K'hô - igià - igià

Xuân mai - giàng xuấn Mùi

Người Hà Nhì đen ở tỉnh Lào Cai có gần 3.000 người. Họ giỏi làm

ruộng bậc thang, cấy lúa nước, thường ở tập trung từng khu vực, từng

thôn bản, không đan xen với dân tộc nào như: Bản San 1, Bản San 2, Suối Tẩy Hồ thuộc khu vực Trịnh Tường, Lao Chải, Tả Dì Thàng, Dì

Thàng, ả Lù khu vực Y Tý; Nậm Pung, Bản Sèn, San Chải khu vực

Mường Hum, huyện Bát Xát. Mỗi thôn bản có từ 15 đến 50 hộ. ở các khu

vực này, hầu như sương mù, gió tuyết quanh năm. Để đối phó với khí

hậu, việc xây dựng nhà ở cũng như mọi sinh hoạt đời thường đều có nét

riêng.

Hiện nay người Hà Nhì đen ở Lào Cai một năm có hai lễ hội dân

gian vào tháng giêng và tháng 6 âm lịch, nhưng lớn nhất là lễ hội tháng 6.

Lễ hội tháng 6 tổ chức ở rừng cấm, nơi trung tâm nhất của thôn

bản. Theo người già kể lại, từ xa xưa, khu rừng cấm đã được lưu giữ ở

một địa điểm có cây gỗ quý sống lâu năm. Bản nghiêm cấm không ai

được chặt phá cây cối ở khu này. Theo quan niệm của đồng bào, nếu ai vi

phạm sẽ bị thần linh chúa đất trừng phạt, gia đình sẽ ốm đau, chăn nuôi

lụn bại. Vì thế dân bản ai cũng sợ nên không dám chặt phá. Những ngày

thường cũng không ai được đặt chân lên khu rừng này. Ngày hội, cúng xong, dân bản mới được vào rừng cấm.

Lễ hội của tháng 6 được cúng ở hai điểm. Địa điểm thứ nhất là

cúng ở nhà ông thần linh thổ địa - ông táo bếp.

Những lễ vật cúng ở nhà gồm 5 cái bánh dày (clooc) một bát thịt

trâu luộc gồm 5 miếng, khoảng 2 đến 3 lạng nước lục, một bát nước

gừng pha lẫn nước đun sôi, 4 cái bát con úp xuống đất trước bàn thờ.

Bánh dày xếp trên một cái bát đặt trên bàn thờ, còn lại để trên một miếng gỗ thay cho mâm có đường kính 0,50m. Những món ăn trong mâm cỗ

phải trực tiếp do người vợ chế biến. Nếu vợ đi vắng, phải do con gái cả

làm, nếu con gái cả đã lấy chồng thì phải gọi về để giúp gia đình. Khi

chuẩn bị cỗ xong gia chủ khăn áo chỉnh tề vào lễ.

Page 95: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

142

Trước bàn thờ, ông chủ quỳ hai đầu gối xuống đất, đầu cúi gật gật

ba cái rồi đứng khom hai tay chắp ngửa trước mặt lạy ba lần, ý nói tâm của gia đình thể hiện lòng mong các quan ngài hưởng thụ rồi phát lộc cho

mọi người trong nhà.

Bài cúng Cooăăccoóc không phát thành lời, mà chỉ là tâm niệm:

Toàn gia qua 6 tháng

Gia đình đã gặp may

Hạt giống reo nở ngay

Mọi người đều hạnh phúc

Lòng thành một bát thịt "neéc"

Cuối năm sum vầy chung

Chúng con nhớ công ơn

Là nhờ thần đất mẹ.

(Vừ A Se dịch)

Khi chủ gia đình cúng tâm niệm xong, lần lượt các thành viên trong

nhà đều phải lên trước bàn thờ lễ ba lễ. Mở đầu là con trai út, lần lượt

cho đến con cả là người cuối cùng.

Mọi người lễ tạ xong, chủ gia đình lấy bát nước gừng chia cho từng thành viên mỗi người một hớp nhỏ (cũng lần lượt từ nhỏ đến lớn). Sau đó

bát thịt trâu thái nhỏ được chia cho từng người ăn tại chỗ. Tất cả khách

đến chơi cũng được mời ăn như gia đình, mục đích là hưởng lộc thần cho

mọi người khỏe mạnh, ăn nên làm ra, tất cả gặp nhiều điều lành, tránh

điều ác. Phần cuối là bánh dày, gừng rượu được chia cho táo quân, để

ngay trên đầu ông táo bếp. Xong phần lễ trong gia đình, các đồ dùng sử

dụng phải được cất riêng dưới bàn thờ, không được dùng trong ngày thường.

Bàn thờ trong nhà được xây dựng ngay cạnh bếp nấu ăn hàng ngày

vào gian cạnh về phía trái ngoài cửa vào. Đó là cái bàn đơn giản có chiều

cao khoảng 0,80m, rộng 0,4m, dài 0,60m có 4 chân đóng liền. Một điều

kiêng kỵ, kể cả gia đình và khách không được nằm, ngồi đưa chân và

mông quay về phía bàn thờ, vì họ cho là vô lễ và sẽ bị thần quở phạt.

Lễ cúng ngoài rừng cấm (Gahelờso) được thực hiện ở nơi trung tâm

của bản. Đó là khu rừng có một số cây lâu năm chịu được khí hậu của bốn mùa và có hai cây đã được chọn sẵn làm cây đu dây (a gừ) hàng

năm. Có một bãi rộng khoảng 100m để làm đu quay (a quý).

Hiện nay vẫn còn một số địa phương giữ được một lán hội có diện

tích từ 12 đến 14m2, cột làm bằng loại gỗ không mối mọt, chịu được

Page 96: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

143

nắng mưa. Mái lợp bằng tranh, hàng năm vào ngày hội phải sửa chữa;

phần sàn được lát bằng gỗ (có nơi lát bằng tre) có chiều cao khoảng 0,40m để trẻ con, người già ngồi ăn liên hoan, thưởng thức các trò chơi

trong ba ngày hội.

Dựng đu cây (a gừ)

Người ta lấy hai cây "Suúa" làm trụ có chiều cao từ 15 đến 20 mét,

đường kính 0,20m, dài 1m80 bắc ngang trên cao vào hai trãng của ngọn

cây trụ, luồn hai sợi dây rừng trên ngọn cây trụ xuống đất. Cách mặt đất

khoảng 0,40m buộc vào bàn đệm khoảng 0,80m để vừa cho hai người

đứng đối diện nhau.

Dựng đu quay (a quý)

ở giữa trung tâm trồng một cây có đường kính từ 0,30m, đến độ cao

cách mặt đất 1mét đục làm vam ở giữa dựng sóng cầu đu (soóc cua) cân

bằng hai bên. ở hai đầu sóng cầu đu có tay cầm để người chơi đu nắm

chắc khi chơi. Sóng cầu đu có chiều dài 6m40 chia đôi mỗi bên là 3m20.

Trước khi vào chơi đu cũng như các trò chơi khác phải làm lễ cúng

thần đất, thần gió để người chơi an toàn. Thầy cúng phải là người có độ

tuổi từ 50 trở lên, cả năm không gặp điều bất hạnh nào và được dân bản bầu. Không nhất thiết phải là thầy mo chuyên nghiệp.

Phần lễ quy định: mỗi gia đình phải có một mâm cỗ gồm 8 món,

phải có món rau quả + thịt v.v... Cỗ ông thầy có 10 món hoặc 12 món ăn.

Chủ gia đình đưa cỗ nhà mình ra "gahelờso", xếp thứ tự trên sàn lán từ cỗ

ông thầy trở xuống. Ông thầy cúng xong ở lán hội, cỗ được chuyển toàn

bộ xuống "a gừ" và "a quý" để cúng trước khi vào chơi.

Sắp xếp xong ông thầy lấy các món ăn trong cỗ của mình mỗi thứ một ít đặt vào một tàu lá chuối rừng để dưới trụ cột đu. ở ngoài đu cúng

xong, ông thầy quỳ hai chân xuống cúi đầu gật ba cái rồi lên chuyển từng

món ăn vào trụ cây đu, cứ thế lễ ba lần. Xong phần a gừ, chuyển sang a

quý. Sau đó thầy quay ba vòng của a gừ và a quý. Tất cả đều hướng về

phương bắc trước. Vì họ cho rằng ông tổ của người Hà Nhì từ phương

bắc đến nên phải nhớ tổ. Sau khi cúng thần xong thanh niên nam nữ

trong bản và khách bắt đầu chơi đu.

Bài cúng ở hai cây đu:

ở cây a quý:

Con cháu chơi đu quay

Thần đất che chở ngay

Lòng thành đâu đã đặt

Page 97: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

144

Vòng quay tít, tít vòng quay,

An toàn là hạnh phúc

Hạnh phúc có từ đây

ở cây a gừ:

Chòng chành hai sợi dây

Vắt qua hai hàng cây

Tung bay cao, cao vút

Bay vút 9 tầng mây

Sáu tuần trăng đã qua

Sáu tuần trăng lại đến

Pua roóc căăc đầy nhà

Là công ông thần địa

Khi cúng xong các trò chơi được tiếp diễn. Trong lúc đó ở lán hội

già làng và khách chúc tụng nhau uống rượu, ăn cỗ. Già làng dân bản

chúc nhau đợt một, sang đợt hai già làng mời khác cùng ngồi ăn liên

hoan. Đã ăn, phải ăn cho hết không được đem về nhà. Không khí ngoài

gahelờso thật vui vẻ1.

"... Lễ hội tháng 6, được tổ chức trong ba ngày. Ngày đầu, chọn vào ngày thìn, cúng ở ga khẽ cóc vào ban đêm. Làm ban đêm để thần đất,

thần gió yên tĩnh nghỉ ngơi. Họ hy vọng sẽ được soi xét một cách công

tâm để dân bản ai cũng được gặp may mắn, công bằng. Ngày thứ hai là

ngày tỵ Coòng nai nha, ngày vui chơi của dân bản, nam nữ rủ nhau vào

rừng u du na mỗi người lấy 6 cành củi nhỏ về nộp cho lễ hội. Ngày thứ

ba là ngày ngọ, tất cả dân bản tập trung ở ga khê la coóc để người cao

tuổi nhất, cắt da trâu chia cho từng gia đình. Nếu già làng cắt chia đủ cho mỗi gia đình 2 chiếc thì năm đó làm ăn không thuận lợi. Nhưng nếu già

làng chia đủ cho số dân trong bản mà lẻ một chiếc thì năm đó dân bản

làm ăn gặp rất nhiều may mắn, lúa, ngô đầy nhà; trâu, bò, gia súc đầy

đàn; trai gái lấy nhau cũng nhiều hơn những năm già làng cắt chia vừa

đủ.

Tết tháng 6, dân bản được mổ trâu, tuỳ theo số dân trong bản đó,

nếu số khẩu quá đông sẽ mổ 2 con. Lệ của dân tộc cứ 6 năm sẽ tổ chức lễ

hội một lần, tập trung toàn khu vực ở một điểm rộng rãi chứa được cả

1 Từ đây chúng tôi bổ sung tư liệu của Giàng Xuấn Mùi, đoạn "Lễ hội... đồng hồ" với nhiều

nét khác biệt, để nội dung hội phong phú hơn và xin ghép tên hai tác giả (BTC).

Page 98: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

145

các xã lân cận. Còn bình thường hàng năm vẫn tổ chức, nhưng địa điểm

chỉ hẹp trong từng thôn bản.

Địa điểm tổ chức lễ hội được quy định là một nơi trung tâm nhất

của bản. Nơi đó đã bảo tồn được một số cây gỗ quý đã sống lâu đời thành

cổ thụ, và một phiến đá cũng đã lâu đời được tôn tạo lại cho đẹp đẽ hơn

chiều rộng 2m, dài 2m, cao 1m, để làm bàn thờ cúng thần. Dân bản còn

phải làm một ngôi nhà đơn giản bằng gỗ quý, lợp bằng cỏ tranh, rộng

khoảng 12m2 để người già và trẻ con dưới 5 tuổi ngồi dự lễ hội.

Lễ hội tháng 6 âm lịch cúng thần đất, thần gió "La coóc loóc".

Người thầy cúng không nhất thiết phải là thầy mo. Những người có độ tuổi từ 50 trở lên, trước ngày tổ chức lễ hội được già làng mời đến trung

tâm tổ chức hội. Già làng đốt 6 nén hương, rồi người đủ tuổi 50 tập trung

xung quanh bàn thờ cúng đều giơ cao tay phải miệng hô: dì xủn xì (oẳn

tù tỳ). Người nào ra hiệu đúng sẽ được thay mặt dân bản cúng thần trong

cả năm.

Lễ hội tháng giêng âm lịch cũng chọn trong ba ngày: dần, thìn, tỵ.

Hội này được mổ chó, lợn, gà.

Ngày dần mổ chó, cúng thịt chó. Chó mổ ra chỉ lấy một cái đầu, bốn cái chân, một cái đuôi và một của quý của chúng (dái chó) để cúng

"tua tu muoa" - tức là chúa sơn lâm. Lập bàn thờ ở đầu bản, nơi có con

đường mà dân làng và mọi người thường đi lại vào bản mình. Nếu như

bản nào có 2 đường vào bản cũng phải lập 2 bàn thờ.

Ngày thìn: mổ gà trống, to nhỏ tuỳ theo. Gà không cúng cả con, mà

phải lột da để cả lông và đầu, và lấy một quả tim. Cổng vào bản dựng

một cột tre cao bằng đầu người rồi treo bộ da gà cả lông đó lên cột tre. Theo lệ, cột tre phải có 6 đốt. Ngoài ra là một đôi kiếm gỗ "mua gua",

một khẩu súng hoả mai giả. Tại đây sẽ cúng tổ tiên ngũ - lục đại, và

những người chết đường không nơi nương tựa cũng sẽ được mời về

hưởng thụ, để phù hộ cho dân bản ăn nên làm ra, con người, con vật khoẻ

mạnh.

Ngày tỵ, mổ một con lợn, làm lông sạch sẽ, luộc chín cả con. Có

một bát xôi nếp 6 màu, một bát nước gừng cay. Khi cúng xong mọi

người ở đó đều được mời vào ăn tại chỗ, và phải ăn cho bằng hết. Khi ăn xong, phần xương đầu lợn được chia nhiều phần, mỗi người lấy một

miếng đưa về nhà mình cúng ông táo ở gia đình.

Cùng lúc còn cúng ở ngoài cổng. Nơi chính của lễ hội già làng

đánh đàn "hoót tờơ", bà già nhảy múa, thanh niên nam nữ hát đối nhau.

Khi hát đối họ hát qua ống nghe làm bằng hai ống nứa, ở giữa luồn một

Page 99: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

146

sợi chỉ làm bằng dây móc, để hai bên liên hệ với nhau qua ống nghe này,

hễ đầu bên kia hát hoặc nói thì bên này đưa vào tai để nghe và ngược lại. Những đôi nam nữ đến tuổi tìm hiểu thì rủ nhau đi chơi, leo núi ngồi vào

phiến đá cạnh suối nước tâm tình biểu lộ tình cảm với nhau. Đôi nào tâm

tình đồng ý sẽ được người con trai trùm chăn kín đáo vác về nhà mình

báo cáo với bố mẹ tổ chức lễ cưới. Đôi nào chưa thành có thể ngồi khoác

chăn cho nhau chuyện trò suốt đêm cho đến sáng.

Trong lễ hội có các điệu múa rất đặc sắc:

- Múa K'hô igià igià hoặc là múa trùm chăn, phối hợp nam nữ.

- Múa oóc ga gừ: Một khuôn múa giao duyên giữa nam và nữ chưa thân thiết lắm. Nam ở trên phiến đá cao. Nữ một bên lạch nước gần phiến

đá.

- Múa Lu di mua: múa vui liên hoan, phối hợp cả nam nữ.

- Múa dua tu mú: nam nữ vỗ tay nhau.

- Khuôn múa kết thúc của lễ hội Du lua cuóu: Nam nữ đứng xen kẽ

nắm tay nhau, đi vòng tròn ngược chiều kim đồng hồ" 1.

Trong ngày hội còn có trò đu dây, đu quay và hát giao duyên.

Đu dây: Người đứng trên phiến đá có sẵn lấy đà, bước hai chân đứng lên bàn địa, dùng sức nhún hai chân đẩy người lên thẳng đu sẽ bay

cao. Khi lên cao cũng làm ngược lại. Muốn cho cao hơn vẫn liên tiếp

nhún lấy đà, và phải nhún đều đều, cứ như thế khi nào không muốn chơi

nữa thì hãm lại bằng cách đứng thẳng người, tự đu sẽ chậm lại. Đôi khác

lại tiếp tục chơi.

Phần đu quay "a quý": Mỗi bên bốn người đứng đối nhau quay theo

kim đồng hồ. Có hai cách chơi.

Cách thứ nhất: Tay bám vào sóng cầu đu, phần mềm của bụng dựa

vào sóng cầu đu. Cả hai bên đều dùng chân đẩy mạnh xuống đất từ 4 đến

6 bước miễn sao cho sóng cầu đu quay tròn. Một bên ghìm xuống thấp

bằng tầm chân, một bên ôm chặt sóng cầu đu bổng người lên cao. Khi

đẩy hết đà bên cao đổi xuống đất. Cứ vậy, hai bên đổi nhau. Nếu bên nào

cũng khoẻ như nhau thì sóng cầu đu thăng bằng quay tít như con quay.

Như vậy cả hai bên đều có tài và người ta cho rằng các thiên thần năm

nay sẽ tạo cho dân bản làm ăn gặp may mắn.

Cách thứ hai: Cả hai tốp ngồi trên sóng cầu đu, hai chân xoạc hai

bên ép vào sóng cầu đu, ôm thắt lưng nhau. Người số 1 cầm chắc tay cột

1 Xem thêm Giàng Xuấn Mùi, Lễ hội dân tộc Hà Nhì đen, Tạp chí Văn hóa dân gian, tháng

4/1995.

Page 100: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

147

an toàn, tốp con gái đứng dưới chân trụ cột cầu đu dùng hết sức đẩy cho

sóng cầu đu quay tròn theo hướng kim đồng hồ càng nhanh càng tốt. Nếu bên nào không chịu được phải xuống coi như chịu thua. Tốp con gái

đứng giữa đều kéo tai bên thua, bắt các cậu con trai phải thổi kèn

áppagùmy, một loại kèn cuốn bằng lá như con sâu có âm lượng rất trầm,

vang xa. Bài kèn áppagùmy có nội dung "Anh là người thua cuộc không

được hát trùm chăn với ai đâu". Ngoài hai bãi chơi a gừ và a quý còn có

nhiều tốp trai gái trong bản cũng như khách ở xa đến từng đôi, rủ nhau

đến bên các lùm cây, phiến đá ngồi hát trao đổi, tâm tình. Có nhiều đôi

đã quen nhau nắm tay nhau đi những chỗ vắng vẻ, trùm chăn cho nhau để tâm tình. Ngược lại cũng có đôi rất ưng nhau nhưng chưa làm thế nào để

gần nhau. Họ đến bên các phiến đá dưới gốc cây nói chuyện với nhau

qua ống giao duyên đã được bố trí sẵn của ban lễ hội.

Hát giao duyên

Có hai ống nứa dài khoảng 0,20m, một mặt bịt kín bằng da rắn

hoặc màng cây tre đực. Luồn một sợi dây moóc rừng dài khoảng 6 đến

10 mét qua hai đầu bịt kín.

Cách chơi: mỗi người một ống. Người bên A nói chuyện hoặc hát, người bên B đưa sát vào tài nghe rồi trả lời và ngược lại.

Loại chơi giao duyên này chỉ áp dụng cho những đôi mới quen biết

lần đầu chưa dám ngồi gần, chưa dám nhìn thẳng mặt nhau.

Nếu trong khi chơi đã hiểu ý nhau, người bên A thổi ba lần phù

phù, bên B cũng trả lời ba lần phù phù: có nghĩa là em đồng ý đi chơi với

anh, chúng ta hãy cũng nhau đến những nơi hẹn hò cùng các bạn. Hai

người lại kéo nhau đi và từ đó chiếc chăn mới được khoác cho bạn gái.

Ngày thứ hai - ngày thứ ba của hội vẫn tiếp diễn chơi a gừ, a quý.

Các đôi còn lại đã hiểu ý nhau. Từng đôi đưa nhau ra các mỏm đá, các

lùm cây, suối nước dưới sương mù. Cả hai mái đầu cùng trùm chung một

tấm chăn phủ kín. Họ hát hẹn hò, thổ lộ những gì thầm kín nhất, hát

những bài ca ước nguyện mà họ hằng mong muốn.

Nội dung bài hát của nữ:

Đêm nay em đi chơi hội

Không hẹn mà gặp anh

Chúng ta cùng tỏ tình

Mau mặt trời nhìn thấy ...

Nam hát:

Anh ở tận rừng xanh

Page 101: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

148

Về đây anh biết em

Cây xanh đứng một mình

Một mình thật đơn lẻ

Cả nam, nữ cùng hát:

Anh và em ở tận rừng xa đến

Không ai hề biết mặt một lần

Chỉ trong hội chúng mình mới biết

Cầu ước gì chúng mình chung

một bếp, một chăn.

(Dịch từ tiếng Hà Nhì: Vừ A Se)

Và cứ thế trong ba ngày lễ hội họ làm được nhiều điều mong ước,

có nhiều đôi thành vợ thành chồng, cũng có đôi chỉ là tình cảm ban đầu.

Những đôi đã hiểu nhau, họ choàng chăn kín mặt không cho ai nhìn thấy

và chàng trai vác cô gái đó về nhà mình làm vợ.

Như vậy, thanh niên nam nữ người Hà Nhì đen Lào Cai được

quyền lựa chọn tình yêu.

Song, những đứa con đầu lòng của người Hà Nhì thường ít được

chăm sóc yêu thương của người bố vì họ nghĩ rằng đứa con đó chưa phải thực sự là con họ. Từ đứa thứ hai trở đi mới chính thức là con của mình./.

X.M - G.X.M

Page 102: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

150

lễ hội xuân đình làng giàng

Quang Huynh

Hữu Lũng, vùng đất cửa ngõ phía Nam của xứ Lạng cũng có

những hội xuân náo nức, thu hút sự hội tụ của trai thanh, gái lịch và du khách bốn phương.

Hàng năm, cứ sau ba ngày Tết nguyên đán là mọi người đã náo

nức chuẩn bị và tổ chức hội. Hội làng này rồi đến hội làng khác: Mồng

sáu tháng giêng hội đình Đồng Lai; Mồng bảy hội đình làng Ngọc; Mồng

tám hội đình làng Bến; Mồng mười hội đình làng Giàng... Rồi hội đền

Bắc Lệ kéo dài từ đầu tháng giêng đến trung tuần tháng hai...

Trong số những hội xuân ấy, hội đình làng Giàng (xã Yên Thịnh) là một lễ hội có nhiều điều kỳ thú và đáng được quan tâm.

Hội được tổ chức vào ngày 10 tháng giêng, nhưng những công

việc chuẩn bị đã được tiến hành từ trước đó, nhất là việc ôn luyện, tập

dượt các tiết mục trò diễn trong ngày hội.

Ngày hội, từ sáng sớm, theo sự sắp đặt, cắt cử của Cai đám, lềnh

trưởng trong làng, từng hộ lo việc đóng góp công sức, lễ vật cho ngày

hội. Từng nhà đưa cỗ bàn lễ lạt đến đình làng. Trên một đám ruộng bằng

phẳng trước cửa đình, giữa bày hương án thờ thần, xung quanh dùng tre đóng giáo để bày cỗ. Cỗ bày theo từng hàng, phe và chia thành hàng

thượng, hàng hạ. Cờ thần, cờ phướn cắm theo từng hàng, từng lớp phấp

phới tung bay. Đến giờ, chiêng trống nổi lên. Những trai làng rước

hương án từ các đền miếu xung quanh cùng về tụ hội. Đi theo các đám

rước là những phường bát âm vang lên những bản nhạc lưu thủy, sinh

tiền. Hòa cùng tiếng trống, tiếng chiêng âm vang nhộn nhịp.

Khi hương án từ các nơi về đủ, tám ông già làng, mũ áo chỉnh tề, đứng ra kính cẩn cúng tế đất trời thần linh cầu mong cho đất nước thanh

bình "dân khang vật thịnh", "phong đăng hòa cốc",

mùa màng bội thu, mọi nhà đắc tài, đắc lộc".

Buổi trưa cỗ bàn bày ra, mọi người ăn uống vui vẻ. Sau đó

chuyển sang phần hội, tổ chức các trò diễn. Lúc này mọi người từ già trẻ

gái trai, du khách bốn phương đã tụ hội đông đủ.

Page 103: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

151

Mở đầu là trò "múa dậm" (múa gươm theo nhịp trống). Trò này

do một ông hát cái đánh trống giữ nhịp và tám chàng trai làng khỏe mạnh, hoạt bát biểu diễn. Những chàng trai này đã được luyện tập từ

ngày mồng ba Tết. Khi tập họ chỉ được dùng gươm gỗ, cho đến ngày

mồng chín mới được tập bằng những thanh gươm sắt báu vật của làng, để

hôm sau biểu diễn trong ngày hội. Trước ngày nhận gươm quí các chàng

trai này được đưa đến đầu nguồn suối "Mỏ Cả" nước trong và ấm tắm

rửa sạch sẽ, làm lễ khấn thần linh. Từ tối hôm đó họ đến ăn ngủ chung ở

nhà ông "hát cái", thực hiện "trai giới mộc dục", kiêng kỵ đàn bà cho

trong sạch và linh thiêng.

Vào trò, chiêng trống nổi lên. Ông "hát cái" giữ nhịp trống và

xướng lên một bài ca chữ Hán theo nhịp múa:

Thiên bồng, Cửu bồng

Đô tri thượng đế

..........

Thượng bộ kim cương

Thu tà sát mộc

Ta lại hề sát!

Tám chàng trai nai nịt gọn gàng, mắt hướng vào nhau, miệng hô

vang "Hề sát! Hề sát!', tay cầm gươm vung lên sáng loáng và múa theo

nhịp trống, nhịp chiêng lúc khoan, lúc nhặt, lúc rạo rực oai hùng, lúc

uyển chuyển duyên dáng... Điệu múa biểu thị một tinh thần thượng võ và

cầu mong sức khỏe, giữ gìn, xây dựng cuộc sống thanh bình.

Sau các điệu múa gươm, tám người chuyển sang diễn cảnh đánh

đồn. Họ vừa múa gươm, vừa chạy đến một "đồn" được quây kín bằng lá cót có tết hoa lá xung quanh. Tám người nhảy múa, biểu thị sự chiến đấu

gian nguy khó nhọc. Rồi một người xông được vào "đồn", một phát pháo

lệnh nổ vang. Từ trong "đồn" khói bụi mịt mù. Một lá cờ màu đen được

giương lên tung bay phấp phới. Mọi người reo hò hoan hỉ.

Tiếp đó là cảnh diễn "Cô gái nhà giàu kén chồng". Những chàng

trai được hóa trang thành "bố giàu", "mẹ giàu", "con gái nhà giàu" và bốn

người đại diện cho bốn nghề: sĩ, nông, công, thương.

Bố giàu được ăn mặc sang trọng. Mẹ giàu thì lại mặc váy vá chằng vá đụp can đủ trăm miếng vá bằng vải chàm, vải đen... chân bôi nghệ

vàng trông đến tức cười. Tương phản với mẹ là cô gái nhà giàu được mặc

Page 104: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

152

áo tứ thân, thắt lưng lụa đào, đầu đội nón thúng quai thao, ngực độn, má

phấn môi son... trông rất duyên dáng và ngộ nghĩnh.

Bố giàu tay gõ mõ, miệng hát lên:

Cốc cốc lao lao

áo dài mũ cao

Ai có lòng nào

Thì lên cho chóng...

Bốn chàng trai đại diện cho bốn nghề sĩ, nông, công, thương lần

lượt ra trình diễn, trổ nghề để cô gái nhà giàu kén chọn làm chồng.

Mở đầu là chàng "Sĩ" mặc áo chùng thâm, đầu đội khăn xếp, tay cầm bút nghiên, vừa đi vừa hát:

Sĩ là ta cơm cha áo mẹ

Bốn mùa xuân hạ làm bạn sách đèn.

Vua Thuấn, vua Nghiêu... ta đã từng quen

...........

Nông giàu năm lang tậu được con trâu

Sĩ có năm đồng tậu được cây bút

Hỏi con gái nhà giàu có lấy Sĩ ta?

Tiếp theo là chàng "Nông", đầu đội nón lá, tay cầm roi cày:

Nông là ta, giữ việc cấy cày

Điền viên thú ấy thực là vui thay

Ta lấy nhau về làm ruộng mùa màng

Được mùa thóc lúa chứa chan

Gà lợn, dê ngan, trâu bò đầy nái

Nhà bà có con gái có gả cho Nông tôi chăng?

Có gả thì rằng cho tôi được biết.

Sau đó là đến chàng "Công", vai gánh bễ lò rèn, tay cầm dao, búa:

Công là ta giúp việc đánh rào

Tiền bạc cấp dưỡng thiên hạ vô biên

...........

Hỏi con gái nhà giàu có lấy ta không?

Page 105: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

153

Sau một lượt cả bốn chàng trình diễn, cô gái vẫn tỏ ra e lệ, kén

chọn. Ông bố, bà mẹ làm động tác giục con nhận lời người này, chê người kia... trông rất buồn cười, vui vẻ.

Đến vòng thứ hai, khi chàng "Nông" lên hát, cô gái quyết định

chọn chàng "Nông" làm chồng, biểu thị sự trọng nông, "nhất nông nhì

sĩ". Hai người dẫn nhau bái lạy cha mẹ tỏ ý thuận tình. Một người đóng

vai quan làng đưa mâm cỗ to làm lễ tơ hồng kết duyên.

Sau đó là chuyển sang cảnh diễn:"Hái dâu, chăn tằm, bán kén". Lời

ca có đoạn:

Chúng ta là nàng Tô Thị

Con bà Hoàng Đế

ở núi Lịch San

ở núi Đại Ngàn

Cỏ dâu mọc tốt

Tình cờ gặp đoạn

Đôi kén nổ ra

Ta mang về nhà

Nở ra con mọn

Sắt dâu hòa trộn

Nho nhỏ được chăn

Tằm ăn một, tằm ăn hai

Nhớn lên thôi thổi...

..........

Lưu truyền vạn đại

Tích để cho làng ta đây

Bồ chị bồ bà ở nhà ra mà mua kén.

Những chiếc "kén tằm" được tết bằng lạt giang nhuộm màu ngũ sắc

tung ra. Mọi người tranh nhau lấy hưởng lộc.

Rồi đến cảnh diễn đi cày, gieo mạ, đi cấy, đi gặt, gánh lúa, say

rượu... rất ngộ nghĩnh. Mỗi cảnh diễn đều có điệu múa và lời ca phụ họa

cuốn hút người xem từ đầu đến cuối.

Page 106: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

154

Cũng lúc đó ở những điểm khác cạnh đấy có tổ chức những trò

chơi đu, đấu vật, kéo co... sôi động, đáp ứng nhu cầu chơi hội đa dạng của người xem.

Đêm đến, đóng đám hát hội. Những phường chèo, phường tuồng

diễn tích cổ, tiếng trống chèo vang lên suốt đêm tới sáng. Mọi người

được hưởng trọn vẹn một ngày hội vui tươi thoải mái.

Đến nay, những người dân vùng Tam Yên (Hữu Lũng) trên độ tuổi

bốn mươi mỗi khi xuân về vẫn còn bồi hồi nhớ tiếng trống, tiếng chiêng

nhịp múa dậm và những trò diễn của hội đình làng Giàng./.

Q.H

Page 107: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

155

lễ hội lập tịch

lê hồng lý

Người Dao Họ (thuộc bản Khe Mụ, xã Sơn Hà huyện Bảo

Thắng, Lào Cai) là một cộng đồng không lớn so với cư dân trong xã. Trong số 40 gia đình sống ở xã Sơn Hà thì người Dao Họ chỉ có 10 nóc

nhà (gia đình). Về địa vực cư trú, họ ở không sâu. Tới phố Lu, theo

đường sắt hoặc đường bộ (quốc lộ II), đến Khe Mụ chỉ còn khoảng 6 km,

người dân bản vẫn ra chợ phố Lu mua bán những nhu yếu phẩm cho

mình. Người Dao Họ ở Khe Mụ sống ven theo các triền núi thấp bên các

khe suối hoặc thung lũng hẹp. Khe Mụ trước kia gọi là Khe Lau, theo

dân bản vì trước đây có rất nhiều cây lau, sau này khi có nhiều người Kinh đến sinh sống và gọi là Khe Mụ. Nghĩa của từ này là gì không ai rõ.

Đây cũng không phải là đất ở lâu đời của người Dao Họ, mà những

người Dao Họ ở đây vốn gốc từ Gia Phú- Thái Niên do tránh sự o ép của

Pháp mà chạy về đây sinh sống. Lúc đầu chỉ có người Dao Họ ở đây, sau

này người Kinh ở miền xuôi lên sinh sống và cứ đông dần như ngày nay.

Trong kho tàng văn hoá của người Dao Họ, thì lễ lập tịch đóng

một vai trò quan trọng trong đời một con người. Lễ lập tịch (hay còn gọi

là cấp sắc) của người Dao Họ giống như lễ thành đinh của các dân tộc ở nước ta và trên thế giới. Đó là nghi lễ đánh dấu một giai đoạn của cuộc

đời con người, giai đoạn từ tuổi thiếu niên lên tuổi trưởng thành, được

cộng đồng công nhận có vị trí trong đời sống và sinh hoạt của người Dao

Họ. Hơn thế nữa, đó không chỉ là sự công nhận chính của cộng đồng, mà

còn là sự chấp nhận của thần linh cho chàng trai đó có đầy đủ mọi tiêu

chuẩn của một thành viên chính thức của cộng đồng.

Để làm được một lễ lập tịch cần phải chi phí khá tốn kém về mặt kinh tế, do đó không phải ai cũng có thể làm được, dù rằng đó là điều

mong ước của mọi gia đình. Bởi vì, khi chưa làm lễ này thì người đàn

ông cho đến khi chết vẫn chỉ là người thường, không có vai trò gì trong

cộng đồng. Đến những nơi thiêng liêng anh ta không được quyền vào,

không được coi trọng trong các buổi hội hè, ăn uống, mà chỉ là người

phục vụ bình thường.

Gia đình định làm lễ lập tịch cho con cần phải chuẩn bị gạo, thịt,

tiền để làm cỗ cúng thần, mời các thầy cúng và bà con dân làng. Tuy

Page 108: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

156

rằng mọi người đến đều có quà mừng, nhưng phần chủ yếu vẫn là do gia

đình tự lo.

Làm lễ lập tịch gồm có hai loại Tam Thanh và Tam Nguyên. Tam

Thanh đơn giản hơn Tam Nguyên, nhưng người làm Tam Nguyên xong sẽ ở thứ bậc cao hơn so với Tam Thanh. Làm Tam Thanh hay Tam

Nguyên là do truyền thống của từng gia đình. Nếu trước kia trong gia

đình ông bố làm Tam Thanh thì nay cũng chỉ làm Tam Thanh cho con.

Nếu bố trước kia đã làm Tam Nguyên thì nay con cũng phải làm Tam

Nguyên. Tam Nguyên đòi hỏi tốn kém và các nghi lễ phức tạp, do vậy

không phải ai cũng làm được, mà chỉ những người có điều kiện.

Con trai từ 13 tuổi trở lên, nếu gia đình có điều kiện, là làm được.

Có người đến chết vẫn chưa làm được thì lúc đó đình đám không được tham gia, không được vào lán thờ chỗ người ta đang làm nghi lễ mà chỉ

được ở ngoài rìa. Như vậy, việc làm hay không làm lễ lập tịch có một

ranh giới rất rõ ràng. Đó không chỉ với những người đang cùng chung

sống mà còn với thần linh của cộng đồng.

Khi gia đình đã quyết định làm lễ lập tịch cho con, phải lựa ngày

tốt đến gặp ông thầy để xem tuổi có được ngày, được tháng, được năm

hay không. Sau đó về nhà, 20 ngày sau tiếp tục xem chân giò, nếu chân

giò mà đẹp, tức là làm được - thần linh đã đồng ý. Gia đình lấy một tờ giấy, viết tên tuổi chàng trai, tên tuổi của thầy và ngày tháng gia đình sẽ

làm và mời thầy đến. Việc mời thầy phải trước ít nhất 7 ngày để thầy

chuẩn bị tìm những người giúp việc và xem sách dạy các bước làm, sắm

sửa các đồ trang trí để đến ngày đó mang tới gia đình. Điều này rất quan

trọng bởi vì đối với người Dao Họ, mỗi một bước làm trong mọi nghi lễ

đều có sách quy định. Vả lại việc trang trí trong một buổi lễ rất công

phu, nào là viết sớ, dán tranh thờ, trang trí bàn thờ, đồ thờ và các vật hành lễ. Do đó cần phải có sự chuẩn bị trước hết sức tỷ mỷ.

Về phía gia đình một mặt tiếp tục chuẩn bị lễ vật, mời anh em họ

hàng gần xa, mặt khác nhờ bà con anh em ở gần đến dựng lán thờ.

Lán thờ là nơi sẽ tiến hành các nghi thức chính thức cho lễ lập

tịch. Lán được xây dựng trên một khoảng đất bên cạnh hoặc ở ngoài xa

nhà ở một chút, theo đúng kiểu một ngôi nhà thu nhỏ. Đặc biệt là một

bên mái được khoét trống ở giữa nhưng thẳng từ vách lên chứ không

phải ở giữa mái. Nơi đó sẽ dựng một bàn thờ ngoài trời. Bàn thờ được dựng trên 4 cọc. Toàn bộ lán thờ được thưng kín bằng vách xung quanh,

chỉ để một cửa ra vào. Trên khắp bốn vách được dán kín bởi rất nhiều

Page 109: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

157

tranh thờ, giấy màu, các tờ sớ và những hình cắt dán rất công phu. Theo

chiều dọc của lán thờ có dựng 4 khối cọc thẳng nhau theo nóc lán, xung

quanh bốn khối cọc (mỗi khối gồm nhiều cọc tre nhỏ bó lại) được dán

kín bằng giấy màu, sớ .v.v ... Theo suy nghĩ của người Dao Họ, đó là nơi nhốt các ma để chúng không quấy phá con người trong ngày lễ. Có thể

nói hầu hết các nghi lễ quan trọng đều được tiến hành tại đây và nó là

trung tâm của những ngày lễ. Việc dựng lán thờ là một việc làm hết sức

công phu, nên gia chủ phải báo trước để thầy cúng chuẩn bị. Đến ngày

ông thầy đến trang trí lán thờ, mọi việc ông đều dựa trên luật tục đã quy

định mà bàn bạc, thoả thuận cùng gia chủ cho hợp lý, chứ không bao giờ

độc đoán bắt gia chủ phải nhất nhất tuân theo ý của mình. Đây cũng là

nét văn hoá đáng chú ý.

Làm lán thờ đã xong, nhà chủ chọn lấy vài người thân cận đi lấy

dây để đan võng. Đó là một tấm lưới được đan bằng những cây leo trong

rừng để đỡ chàng trai sau khi đã hoàn thành các nghi lễ Tam Nguyên từ

trên trời trở lại với cộng đồng. Người đi lấy dây làm võng không cần

phải lựa chọn kỹ, nhưng loại dây leo để làm võng phải được lựa chọn rất

kỹ. Đó là loại dây leo dài, dẻo và chỉ chọn những cây leo vắt qua ngòi

nước hoặc suối và thật xoắn. Loại cây leo đó gọi là tay thảy mảy, đã được

truyền từ đời nọ qua đời kia, dùng để bện võng. Thường thường những người đi tìm dây leo là những người đã rất thông thạo, biết ở chỗ nào có

nhiều loại dây đó. Người ta đến lấy và cuộn thành bó khiêng về bóc hết

vỏ, chỉ lấy ruột rồi tước ra để thành đống sẵn đó.

Làm bàn địa cũng là một việc quan trọng. Bàn địa là nơi thực

hành những nghi lễ cuối cùng của người lập tịch Tam Nguyên. Tại đây,

sau khi đã làm xong các nghi lễ, người thụ lễ sẽ buông mình rơi xuống

tấm lưới võng do mọi người cầm đỡ ở dưới, biểu tượng cho một cuộc thử thách dài, qua hết các đoạn đường và từ trên trời trở về với cộng đồng.

Nơi đặt bàn địa là vị trí cao ráo, thoáng ở đầu bản. Tại đó người

ta dựng 4 chiếc cọc bằng bốn đoạn gỗ to, khoẻ và chắc chắn. Trên đầu

bốn cọc ấy được đặt một chiếc bàn hướng về phía đông, đó cũng là nơi

người làm lễ lập tịch phải rơi xuống. Bàn gỗ được cột chặt vào bốn góc ở

độ cao từ 2,5 m đến 3 m. Một chiếc thang dài 3m được đặt phía tây gắn

vào mép bàn. Thang gồm 12 bậc, tượng trưng đường đi lên trời.

Trước khi làm bàn địa, người ta sắm một mâm lễ vật gồm hương, gạo, trứng, rượu. Thầy cúng đặt mâm lễ ấy trên chỗ đất sẽ làm bàn địa.

Trên mâm lễ còn có một con dao găm. Sau khi thầy cúng khấn vái xong

liền cầm con dao găm vạch ra mấy vạch ở chỗ sẽ chôn cọc, tựa như thần

Page 110: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

158

linh đã mách bảo chỗ phải đặt bàn địa. Sau đó, thầy cúng cầm chiếc rìu,

sẽ dùng để chặt cây làm cọc, dâng lên trước mâm lễ và khấn, rồi cầm rìu

ra chặt vào các cây đã để sẵn cạnh đó. Thầy cúng tiếp tục khấn một vài

lời nữa và lấy con dao găm trên mâm ra đo độ dài của cọc để lấy kích thước. Lấy xong ông thầy khấn tiếp vài lời nữa rồi mọi người bắt tay vào

việc.

Điều đáng chú ý ở đây là việc thực hành nghi lễ cúng này có hai

người. Một ông thầy đứng ở trước mâm lễ đọc tất cả những lời khấn, còn

một ông khác ngồi đối diện sát mâm thực hiện những bước đã kể trên

theo lời khấn của ông thầy đứng trước mâm. Khi xong các nghi thức,

những người đàn ông, mỗi người góp một tay để làm bàn địa, người đào

hố, người chặt cây, người buộc thang... Chẳng mấy chốc mà chiếc bàn địa đã dựng xong. Các thầy cúng kiểm tra lại độ chắc chắn của thang, của

bàn rồi mọi người dùng lá chuối phủ lên. Việc làm bàn địa kết thúc.

Trong lúc ở dưới đầu bản làm bàn địa thì trên nhà gia chủ, người

ta gây mối để đan võng. Mối gây như một chiếc chôn quang, xung quanh

chiếc võng tròn kiểu chôn quang này, cách đều từng đoạn, người ta buộc

sẵn các sợi dây dài ra các phía, để sau này cứ theo các đoạn dây ấy mà

đan tiếp vào làm thành một tấm lưới võng. Gây mối xong, người ta dồn

tất cả đống dây leo đã tước sẵn ấy thành một đống, buộc gọn lại, đợi đến lúc đem ra chỗ bàn địa để đan võng. Trong lúc mọi người gây mối để đan

võng, có nhạc của chiêng và trống kèm theo.

Lễ lập tịch của người Dao Họ ở Khe Mụ kéo dài tới ba ngày và có

thể hơn nữa. Nhiều nghi lễ và sinh hoạt tín ngưỡng được tiến hành trong

thời gian đó. Người ta thường kết hợp làm cả lập tịch cho Tam Thanh,

Tam Nguyên và làm chay (hay còn gọi là làm ma khô) vào cùng một lần.

Như vậy sẽ đỡ tốn kém hơn. Người ta quy định rõ cho từng ngày trong thời gian diễn ra lễ lập tịch phải làm những gì. Theo lời kể của các già

làng thì trước đây, thời gian làm lễ rất dài và gồm nhiều nghi lễ phức tạp.

Những nghi lễ mà chúng tôi quan sát được vào tháng 3 năm 1996 gồm

một số lớp như sau:

- Lễ trình trước bàn thờ tổ tiên.

- Các nghi lễ ở trong lán thờ.

- Các nghi lễ ở ngoài bàn địa.

Trong số này, dài nhất và phức tạp nhất là các nghi lễ diễn ra ở trong lán thờ. Đây là nơi hành lễ chính thức và gồm rất nhiều lễ như lễ

cúng cầu, lễ múa gà, lễ cân lợn, làm bùa, lễ dẫn đường cho Tam Thanh

Page 111: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

159

và Tam Nguyên .v.v... Về thời gian, trong ba ngày thì ngày đầu tiên thực

hiện những nghi lễ mở đầu cho lễ lập tịch, cúng tổ tiên, thần linh để báo

cho biết, mời họ về dự và giúp đỡ đuổi tà ma; đón khách đến thăm hỏi dự

lễ, chuẩn bị lán thờ. Ngày thứ hai tiếp tục trang trí lán thờ, dán tranh, viết sớ, yểm bùa trừ tà ma, làm bàn địa, đan võng và cúng lễ trong lán thờ

đến hết đêm. Sang ngày thứ ba thì từ lúc chưa sáng đã tiến hành múa gà,

cân lợn và kết thúc các nghi lễ trong lán thờ để sau đó thực hiện các nghi

lễ cuối cùng là nghi lễ nhảy võng từ trên bàn địa. Sau nhảy võng là kết

thúc lễ lập tịch. Nếu gia đình nào kết hợp làm chay thì sau lễ nhảy võng

một lúc người ta sẽ tiến hành làm chay. Chúng tôi xin trình bày ở đây lễ

nhảy võng của người làm Tam Nguyên. Đó cũng là giai đoạn kết thúc

của một lễ lập tịch của người Dao Họ.

Trước hết phải thưa rằng Nhảy võng là do chúng tôi tự đặt ra để

chỉ nghi lễ mà người con trai làm Tam Nguyên phải tiến hành ở giai đoạn

cuối của lễ lập tịch. Đó là khi anh ta buông mình rơi từ trên bàn địa

xuống tấm lưới to do nhiều người đàn ông khác từ dưới căng ra và đỡ.

Võng ở đây chính là một tấm lưới to được đan bằng loại cây leo, đã được

trình bày ở trên. Người Dao Họ quan niệm rằng việc họ hứng tấm lưới ấy

ra chờ đón người con của cộng đồng, sau khi đã trải qua mọi thử thách,

được thần đất, thần gió, được tổ tiên và các vị thần linh khác che chở, nay đã chính thức được làm một người con của gia đình, dòng họ, một

thành viên của cộng đồng với đầy đủ phẩm chất của nó.

Vào sáng ngày thứ ba, sau khi những nghi lễ đã kết thúc, tại lán

thờ lúc này, người ta choàng cho người làm Tam Nguyên một chiếc áo

dài đỏ, một chiếc khăn thêu trùm lên đầu. Hầu hết tất cả các thầy cúng có

mặt tại đây để tiến hành nghi lễ. Bảy ông thầy, một người cầm dao, một

số tay không, đi xung quanh Tam Nguyên, vừa vỗ tay vừa tung dao chém vào khoảng không. Sau đó, họ cầm mỗi người một ngọn nến đi vòng

quanh Tam Nguyên. Hết vòng, tất cả cùng chụm tay vào trán Tam

Nguyên, lầm rầm đọc thần chú, rồi cùng áp tay vào bụng, vào chân Tam

Nguyên đọc thần chú. Một ông thầy đứng bên ngoài đọc to các lời khấn.

Tiếp đến tất cả các ông thầy cùng nhau ngồi xuống trước bàn thờ để đọc

lời khấn. Đọc xong, một ông thầy trang phục giống như Tam Nguyên,

đầu đội mũ có đuôi, trán có đeo một bức tranh vẽ một vị thần, nối với

Tam Nguyên bằng một tấm vải ở trước bụng, dắt Tam Nguyên đi vòng quanh chiếc cột ở giữa lán thờ. Các thầy có mặt cùng nhau đọc những lời

khấn viết sẵn trên giấy và chuẩn bị đi xuống bàn địa.

Page 112: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

160

Đoàn người dẫn Tam Nguyên xuống bàn địa gồm có: Người đi

đầu tiên cầm hai kiếm, vừa đi vừa múa. Theo sau là một người cầm

thước, một người cầm kiếm và một người đeo mặt nạ. Rồi tiếp đến hai

người với những chiếc tua vải ở tay vừa đi vừa múa. Kế đến là một ông thầy dẫn Tam Nguyên đi. Ông này đi giật lùi, mặt đối mặt với Tam

Nguyên để dẫn đường. Lần lượt theo sau là một ông thầy đội mũ, mặc áo

đỏ, tay ôm sách; một người cầm hương, một người đọc lời khấn trong lúc

đi. Hai người khiêng võng cùng dàn nhạc và mọi người đi theo.

Đến bàn địa, tất cả đi quanh bàn địa thuận chiều kim đồng hồ.

Phía trước mặt bàn địa, về hướng đông, có đặt một chiếc bàn hương và

một bức tranh thánh, phía đối diện bàn này ở hướng tây, sau chân thang

lên bàn địa, cũng đặt một bàn hương như thế. Sau khi ba vòng đi quanh thang kết thúc, nến được thắp và cắm dọc hai bên của 12 bậc thang lên

bàn địa. Tam Nguyên cùng ông thầy dẫn đường bước lên bậc đó. Các

ông thầy cúng khác ngồi hết lên các bậc thang còn lại phía trên. Sau đó

tất cả các ông thầy trên đó từ từ đi xuống, một ông thầy khác từ dưới đất

bước lên thang vừa đi vừa khấn, vừa xua tay và gạt hết những cành lá

chuối che trên đó xuống. Một ông thầy đứng trước chân thang đọc lời

khấn. Một ông khác tiếp tục trèo lên thang. Khi lên tới bàn, ông ta đứng

dậy làm những động tác thần chú và múa ở trên đó. Một tay ông cầm tua vải, tay kia cầm một chiếc gậy bằng gỗ, một đầu vót nhọn, một đầu là

con dao. Sau khi múa xong, ông ta không đi xuống theo bậc thang, mà

nhảy xuống. Lúc đó ông thầy đang đứng đọc khấn trước chân thang tiếp

tục lên. Tay ông cầm con dao có đeo một vòng tiền xu ở cán, khi lên tới

bàn ông lấy tay vạch trên mặt bàn và thì thầm đọc lời niệm chú. Kết thúc

ông ta cũng nhảy xuống. Một điều đáng lưu ý là cả hai ông này mỗi khi

nhảy xuống đều vỗ hoặc xoa tay vào cột ở bàn địa rồi mới nhảy. Mặt bàn khá cao so với mặt đất nên các ông đều trèo thả chân rồi mới nhảy chứ

không nhảy thẳng từ trên mặt xuống.

Khi ông thầy cầm dao có vòng tiền kết thúc nghi lễ của mình thì

ông thầy dẫn Tam Nguyên bắt đầu lên. Hai thầy trò cùng lên cầu thang

song song với nhau, mỗi người một bên. Vừa đi vừa cúi xuống dùng tua

vải xua xua hai bên như để dẹp đường. Đến cạnh bàn, ông thầy cũng

niệm chú rồi đỡ Tam Nguyên lên mặt bàn. Ông ta lấy ra những mảnh vải

trắng và đen (do ông chủ nhà sắm sẵn và đưa lúc ông thầy còn đứng dưới chân cầu thang bắt đầu kẹp vào ba khe ngón tay giữa của Tam Nguyên,

mỗi khe ba cặp. Những tấm vải dùng quấn ở bụng của cả thầy lẫn trò

được cởi ra và luồn xuống khe thang. Ông thầy nhảy xuống khỏi thang

Page 113: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

161

vào bàn địa bị chặt đứt và thang được đem đi. Trên bàn lúc này chỉ còn

Tam Nguyên ngồi xuống, quay lưng về hướng đông (nơi sẽ rơi xuống,

mắt nhìn về hướng tây nơi ông thầy sẽ chủ huy cuộc nhảy võng. Ông

thầy cầm con dao khi nãy bây giờ ngồi cách bàn địa khoảng 5m, bắt đầu hành lễ. Ông ta hô lên hai tiếng ê, ê báo cho Tam Nguyên biết cuộc lễ bắt

đầu. Sau đó, ông ta hô tiếp một lần đồng thời nhổm người lên một ít, hô

lần thứ hai đứng khom và hô lần thứ ba đứng thẳng người lên. Xong việc

này, ông dang tay phải sang phải và cũng hô ba lần, mỗi lần hô là một lần

nâng dần lên, đến câu thứ ba thì giơ thẳng lên đầu. Hết bên phải chuyển

sang bên tay trái. Cứ mỗi lần hô và làm động tác này thì Tam Nguyên ở

trên bàn cũng nhìn mà làm theo, và xong một bên tay thì Tam Nguyên

thả một cặp hai miếng vải đen trắng ở một kẽ tay. Cứ như vậy sau sáu lần thì số mảnh vải kẹp ở tay cũng hết.

Xong việc thả các mảnh vải, theo lời hô của thầy, Tam Nguyên

đứng thẳng và ngồi xuống, hai tay bó vào gối. Lại ba lần hô, Tam

Nguyên theo đó mà chụm chân và xoay dần ra mép bàn phía đông. Trong

lúc đó, mọi người ở dưới cùng nhau trải võng cho căng ra. Trên mặt võng

trải 12 cái chăn đan chéo nhau, đồng thời lấy gạo vãi khắp mặt võng. Số

chăn phải xếp sao cho để lúc người Tam Nguyên nhảy xuống thì tất cả

các đầu chăn phải chụm lại phủ kín toàn bộ người nhảy võng.

Tam Nguyên cứ nhích dần, nhích dần. Đến lần hô thứ ba thì

buông mình rơi xuống võng theo đằng lưng xuống trước. Khi xuống tới

nơi, tất cả các chăn phủ kín Tam Nguyên. Anh ta không được động đậy

mà vẫn giữ nguyên tư thế ngồi bó gối. Chỉ đến khi các thầy xông vào, lấy

tay đập vào đầu gối, lúc ấy Tam Nguyên mới được bỏ tay ra và duỗi

thẳng người và chân. Các thầy cởi áo của mình ra đắp cho Tam Nguyên.

Người ta bắt đầu đọc những lời thần chú. Sau đó người ta nâng Tam Nguyên ngồi dậy, các thầy lần lượt vào dùng dấu bùa đóng (tượng trưng)

và niệm chú cho Tam Nguyên, bón trứng và cơm cho Tam Nguyên.

Người ta đem đến một cuộn vải và chiếc ống nứa để dốc tiền vào lòng

Tam Nguyên

để kiểm tra âm dương rồi xé cho Tam Nguyên hai đoạn vải.

Mọi thủ tục như vậy là xong. Giờ đây chàng trai ấy coi như đã

được cấp sắc là Tam Nguyên. Và anh ta đã trở thành một ông thầy Tam

Nguyên mới và hoà vào dòng các thầy múa ba vòng xung quanh bàn địa. Trong lúc vừa múa các thầy cùng nhau chặt võng ra nhiều mảnh và đem

vứt ra bốn phía. Lễ kết thúc, mọi người lại nhảy múa trở về nhà trong

tiếng nhạc rộn rã.

Page 114: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

162

Những người hôm qua dựng bàn địa nay lại tự tay phá nó ra,

ngoài những người đó không ai được làm. Lán thờ được dỡ và đem ra

khỏi khu vực nhà ở để đốt đi.

Lễ lập tịch của Dao Họ là một lễ hội vừa phong phú vừa phức tạp, trong đó chứa đựng rất nhiều các các phong tục, tín ngưỡng của dân tộc

Dao Họ. Nó là một hiện tượng văn hoá tổng hợp gồm nhiều loại hình

múa, nhạc, lễ và đặc biệt là số lượng lớn những bài cúng do các thầy

cúng đọc từ các sách đã được quy định từ lâu đời, có ý nghĩa rất quan

trọng đến đời sống vật chất vào tâm linh của tộc người này. Do hiểu biết

còn chưa được thấu đáo, cũng như việc quan sát còn chưa đầy đủ, nên

chúng tôi cố gắng dựng lên một phần nào đó để độc giả hình dung một

hiện tượng văn hoá khá độc đáo này. Đồng thời cũng là để thỉnh cầu những lời chỉ giáo của các bậc thức giả đã từng trải, với lòng mong muốn

được bổ sung mà dựng lại một cách đầy đủ tất cả những nghi lễ thú vị

này./.

L.H.L

Page 115: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

164

hội múa lông công vùng tu lý

Nguyễn hữu thức

Mỗi khi mùa xuân về, người Mường ở xã Tu Lý, huyện Đà Bắc,

tỉnh Hòa Bình lại tổ chức hội múa lông công. Hội này diễn ra hai lần

trong một năm, vào các ngày mồng 3 tháng giêng và ngày mồng 4 tháng

3. Tức là vào dịp tết Nguyên Đán và tết thanh minh.

Dịp tết Nguyên Đán, khoảng 3 giờ sáng ngày 3 tháng giêng, khi

tiếng trống ba hồi 9 tiếng từ tay một ông già làng Mu vang lên đĩnh đạc ở

đình, ấy là lúc hội múa lông công bắt đầu.

Tiếp theo tiếng trống là tiếng chiêng của làng Công. Làng Công nổi

cồng, tiếng cồng rộn rã lối ngõ gọi dân ra đình.

Sau đó, bất chợt vang lên tiếng xướng của người làng Riêng. tiếng

xướng vừa là lời kêu gọi vừa là lời chúc thúc giục dân chúng các làng

mau mau ra dự hội. Lời xướng bằng tiếng Kinh như sau:

Chiêng chiêng làng ơi

Hết năm cũ, bước ra năm mới

Có lễ tiệc thành hoàng,

Mồng ba tháng giêng

Cầu cho dân làm mùa làm màng

Làm ăn, làm uống,

Làm lúa, làm mạ, làm bông, làm vải

Có trâu, có bò

Có lúa có má

Con trẻ cho nó khỏe

Người già cho nó bạc đầu

Nghìn năm trăm tuổi

Con buôn kẻ bán

Đổ về dân làng ta ơi!

Lời xướng thỉnh thoảng lại cất lên suốt ngày trong ngày hội. Tiền

hô, hậu ủng sau lời xướng tất cả dân chúng reo hò hưởng ứng.

Page 116: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

165

Mọi người tụ tập ở một ngôi đình có 4 cột cái bằng gỗ trai to,

quanh thưng ván, trên lợp tranh, gian giữa là bàn thờ thành hoàng. Hai bên có hai bức cốn gỗ chạm hình con công. Kế đó là hai ống bương to

gồm nhiều bó lông công, mỗi bó 6 chiếc.

Buổi lễ bắt đầu. Trong ánh đèn, ánh đuốc sáng trưng, ông chủ tế họ

Sa người Mường ra tế. Tế xong, ông lấy từ ống ra mỗi tay một chiếc

lông công bắt chéo tay trước ngực và bắt đầu múa. Sau chủ tế múa là đại

diện các bản vào chầu. Mỗi lần hai người mặc áo thụng đội mũ đồng cân,

tay cầm lông công múa. Họ múa theo nhịp trống và chiêng. Mỗi lượt

người múa xong, người xóm Riêng lại xướng bài.

Chiêng chiêng làng ơi...

ở gian giữa đình ông cụ làng Công đứng bên hai chiếc chiêng lớn.

Ông cụ làng Mu đứng bên một chiếc trống to. Tiếng chiêng, tiếng trống

đánh xen kẽ nhau, thỉnh thoảng lại nhập vào nhau làm nhịp cho người

múa.

Mỗi cặp vào múa khoảng 20 đến 30 phút, điệu múa phỏng theo

điệu đàn công múa.

Sáng hôm đó trong không khí tưng bừng của ngày hội xuân, các nhà mang ra đình một mâm cơm trắng tinh và nhiều món ăn. Các mâm

để thành dẫy dài. Không có ai đứng ra chấm thi nhưng trong thâm tâm

mỗi nhà đây là nơi thi cỗ với nhau. Trưa các gia đình phá cỗ ăn ngay tại

chỗ.

Cùng với bày cỗ, hội tổ chức các trò chơi như đu giật dải lụa, ném

còn, kéo co lĩnh giải v.v...

Cũng buổi sáng đó, khi nào dân bản nghe tiếng trống từ xa tiến về bản thì mọi người vui mừng náo động. Họ dong cờ, nổi chiêng trống ra

đón người anh em từ Mường Máy vào dự hội. Tương truyền, ông tổ Sa

Quí Đa lập đất ở Tu Lý, còn em ruột ông đem một số dân đi lập đất ở

Mường Máy. Cho nên, nước anh Tu Lý làm gì đều báo cho nước em

Mường Máy biết để cùng làm. Nước anh phải ra đón nước em như thế

mới quí nhau.

Tầm một giờ chiều, dân làng và người dự hội mặc quần áo mới và

đẹp đi đến nhà chủ tế rước cỗ kiệu sơn son thếp vàng trong đựng sắc vua ban từ nhà chủ tế ra đình.

Tối mồng 3, các quan chức địa phương, người già bản múa chầu

xong thì mọi người tụ vào đình tham gia văn nghệ. Cũng như múa lông

công phần văn nghệ thu hút rất nhiều người đến xem. Mở đầu người chủ

Page 117: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

166

trò đánh 3 tiếng trống, bày mâm hát, một bên dành cho nam, một bên

dành cho nữ. Xong đâu đấy chủ trò dõng dạc xướng một bài rõ to bằng tiếng Mường:

Dân im lặng tôi xin thưa

Đất dân Mường ta có nghề

Quê dân Mường ta có tiệc

Lễ tiệc thành hoàng mồng ba tháng giêng

Nào gái hàng huyện

Nào trai hàng huyện

Nào gái hàng Mường

Ai có thường nói rằng thường 1

Ai có đang nói rằng đang 2

Trước là chầu bóng thần thánh

Sau là quí chức dân Mường nghe nhờ

Mùa cơm thì có, mùa lúa thì lên

Phong đăng, hòa cốc làng ơ...

Dân chúng hô ủng hộ theo. Lời hát ở đây không có bài bản gắn với

lễ hội mà tùy theo tình cảnh mà ứng tác, xen vào tiếng hát là tiếng trống đệm.

Tờ mờ sáng hôm sau hội vãn, ông chủ tế cầm lông công múa điệu

"Chầu én quẹn tha" (múa bái lui) đưa tiễn mọi người ra về.

Diễn biến ngày hội múa lông công vào ngày tết cái mồng ba tháng

giêng là vậy. Sang ngày mồng bốn tháng ba (dịp tết Thanh minh), hội tổ

chức lại, trình tự tiến hành gần như ngày ba tháng giêng chỉ có đôi chỗ

khác như sau:

- Bài xướng của làng Riêng có thay đổi đôi chỗ:

Chiêng chiêng làng ơi.

Hết mùa cũ bước sang mùa mới

Có lễ tiệc thành hoàng

Mồng bốn tháng ba

Cầu ruộng xuống đồng

1 Thường : Một loại hát đối đáp nam nữ của người Mường.

2 Đang: Một loại hát đối đáp nam nữ của người Mường.

Page 118: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

167

Cho dân làm mùa làm màng...

- Sáng ngày mồng bốn tháng ba dân chúng không mang cỗ ra bày mà mổ trâu, mổ lợn để dân làng ăn chung.

- Chiều hôm đó dân chúng không đi rước sắc vua mà rước ông "đẻ

đất, đẻ nước", nghĩa là ông đầu đất ở khu Mó Đông, khiêng linh hồn ông

ta về đình.

- Phần văn nghệ, chủ trò vẫn xướng bài cũ chỉ khác thay "lễ tiệc

thành hoàng mồng ba tháng giêng" bằng "lễ tiệc thành hoàng mồng bốn

tháng ba".

- Bài tế tháng giêng gọi tên đầu đất Tu Lý nhưng ở bài tế tháng ba gọi tên các đầu đất quanh vùng từ Tân Minh trở xuống.

*

Diễn biến của ngày hội múa lông công ở Tu Lý gợi cho chúng tôi

một số vấn đề như sau:

1. Hội múa lông công là ngày hội tưởng nhớ tổ tiên, một nghi lễ

nông nghiệp của dân tộc Mường vùng Tu Lý.

Xưa kia các cư dân nông nghiệp trước khi mở đầu một mùa mới

thường làm lễ thờ thần đầu đất để cầu mong sự phù trợ công việc làm ăn của làng gặp nhiều may mắn.

Theo một số cụ già vùng Tu Lý, ông tổ đất ở đây là ông cả Sa

Quí Đa, người Mường trước ở châu Mộc, sau đó dẫn con cháu xuôi

dòng sông Đà vào lập bản ở Tu Lý.

Truyền rằng hồi ấy thung lũng Tu Lý còn là rừng già có rất

nhiều cây chò mọc cao vút. Đến đây, ông cả Sa Quí Đa gặp đàn công

đang nhảy múa ở một bãi cỏ (cánh đồng Công bây giờ). Ông nghĩ đất lành chim đậu và bảo bà con dừng chân khai phá. Nào ngờ đất ở đây tốt,

làm ăn thuận lợi, đời sống dân chúng mỗi ngày một ấm no. Có người đến

ở chẳng những công không bay đi mà thường ngày vẫn xuống nhảy múa.

Với lòng yêu quí con vật, ông cả cho đó là điều tốt nên bảo dân chúng

không giết công mà bắt chước điệu công múa để vui chơi. Nơi ấy, ông

lập miếu thờ bản thổ. Sau ngày ông mất, dân chúng ghi nhận công lao

của ông lập ông làm thành hoàng của làng. Mỗi năm chuẩn bị làm đồng,

dân lại tổ chức một ngày hội tưởng nhớ tổ tiên. Ngày vui ấy họ múa lại điệu công múa để bày tỏ lòng biết ơn tổ tiên và con vật đã mang điều tốt

lành cho họ.

Page 119: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

168

2. Hội múa lông công phát triển có qui mô lớn, với trình độ tổ chức

cao được phô diễn thông qua các hình thức văn nghệ tổng hợp.

Về qui mô ngày hội thể diện khá rõ trong sự phong phú của các

hình thức văn nghệ. Ngày hội có múa, có hát, có thi trò, có rước hội, do

vậy thu hút rất đông người đến xem. Từ Phú Thọ xuống, từ Thạch Bi

sang, đồng thời con buôn kẻ bán cũng đổ về kiếm lời. Niềm tự hào qua

câu:

"Con buôn kẻ bán đổ về dân ta làng ơi".

Không phải vô cớ bài xướng của làng Riêng lại bằng tiếng Kinh.

Chắc nhiều người xuôi có mặt nên Ban tổ chức hội thấy cần phải nói bằng tiếng Kinh để thông báo mục đích của ngày hội.

Trình độ tổ chức cao ở chỗ có sự phân công rõ ràng minh bạch qua

câu ca:

Làng Mu đánh trống

Làng Công đánh chiêng

Làng Riêng xướng hò

Gò Pớ nói rang (đang)

Làng Chiềng đi vái

Nhờ sự phân công ấy nên các khâu diễn xướng khá ăn nhập nhau

thể hiện tài tổ chức, sự điêu luyện về chuyên môn.

Dưới bàn tổ tiên là những động tác múa lông công nhịp

nhàng, uyển chuyển thể hiện niềm vui sướng của những cư dân nông

nghiệp vừa qua một kỳ làm ăn vất vả giành ấm no và nỗi niềm say mê

của những con người chuẩn bị bước vào một mùa làm ăn mới. Người đến

hội chứng kiến tài năng múa của từng cặp các vị đại diện các bản đến chầu. Họ có quyền khen và chê ông này, ông nọ. Họ có quyền tự hào

người bản họ múa đẹp.

Xen vào đó là tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng thường, đang bay ra

từ mâm hát đối nhau vừa mặn mà tình nghĩa, vừa ý tứ duyên dáng. Còn

cuộc vui ngoài trời thực sự cuốn hút ánh mắt say mê của các chàng trai,

cô gái. Họ hát ví đúm. Tiếng hò reo của người xem khích lệ người đu với

tấm lụa tơ tằm. ở bãi ném còn, ai bảo trong quả còn kia không gói ghém

chút tâm tư tình cảm của những đôi lứa yêu nhau.

Vui nhất là đám kéo co. Một bên nam, một bên nữ co kéo nhau qua

sợi dây song dài. Một cuộc thi sức. Nếu bên nam thắng, năm ấy mọi

người tin rằng mùa lúa sẽ được. Nếu bên nữ thắng họ ra về với niềm tin

Page 120: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

169

mùa bông sẽ tốt. Ngày hội chuẩn bị cho họ niềm tin vào công việc họ sắp

làm.

Bài xướng gọi dân hướng mọi người hãy chú ý vào công việc làm

mùa:

Chiêng chiêng làng ơi

Hết mùa cũ bước sang mùa mới...

Bài xướng trong phần văn nghệ bên cạnh khích lệ các tài năng văn

nghệ trổ tài, họ không quên nhắc nhở:

Mùa cơm thì có, mùa lúa thì nên

Phong đăng, hòa cốc ơ v.v...

Hát đâu thì hát nhưng mục đích vẫn hướng vào công việc sản xuất

chính của người nông dân là sản xuất nông nghiệp. Nó thể hiện rất rõ

mục đích của văn nghệ đối với cuộc sống.

3. Hội chợ sơ khai, ngày hội thi tài.

Về mặt hình thức, ngày ba tháng giêng, dân làng chỉ góp một nén

cơm và ít cá khô cắt cử người làng Mu Công cân đều theo số hộ đặt lên

bàn thờ vị thành hoàng (chủ nghĩa bình quân kiểu công xã nguyên thủy).

Ngoài ra các gia đình còn mang mâm cơm của nhà bày ra. Họ đi xem cỗ người và tự chấm cỗ mình. Họ thi giầu thông qua số lượng các món ăn, thi

khéo tay (làm trứng trâu năm cánh, măng lấy cả tai xòe ra, cách giữ tim,

gan lợn hãy còn tươi nguyên...). Đây là hình thức hội chợ sơ khai của dân

tộc Mường nhằm giới thiệu đặc sản địa phương, thông qua đó thể hiện tài

năng chế biến sản vật nông nghiệp.

Ngày hội là dịp để dân chúng phô trương những bộ quần áo đẹp,

nhất là những bộ quần áo của phụ nữ Mường.

4. Sự chuyển dịch của ngày hội xuống đồng vào ngày hội đầu xuân

năm mới.

Chắc rằng khởi thủy ngày hội múa lông công được tổ chức vào

tháng ba. Bởi ngày hội này còn mang nhiều tàn dư của cộng đồng công xã

nguyên thủy. Về thời gian nó gắn liền với thời điểm mở đầu một mùa

(tháng ba là mùa phát rẫy làm nương, mùa đợi sấm tra hạt); hình thức sinh

hoạt thì cả làng cùng ăn chung. Đây là lối họp xưa của các tộc trưởng họp

cả tộc đến để hô hào sản xuất, truyền giảng kinh nghiệm, bày đặt cách làm ăn; cả làng tổ chức rước người tổ đất và bài văn tế bao quát tên đầu đất,

gọi vía lúa của cả một vùng thuộc huyện Đà Bắc...

Page 121: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

170

Sau đó, đến một giai đoạn lịch sử nhất định, làng công xã bị rạn nứt

tạo điều kiện cho từng nhà của làng phát triển, ngày hội lôi kéo được nhiều người đến xem thì nó không còn giữ nguyên vẹn các yếu tố của hội lễ

nông nghiệp nữa mà nhường chỗ cho các hình thức sinh hoạt văn nghệ dân

gian phát triển.

Hội phát triển có ảnh hưởng rộng ra vùng được nhiều người, nhiều

nơi biết đến. Cũng như các đình chùa, miếu mạo khác, vị thành hoàng Tu

Lý được vua phong sắc nhân dịp đầu xuân năm mới. Niềm tự hào của làng

trỗi dậy, dân làng mở hội đón sắc vua ban. Từ đấy, ngày hội múa lông

công được tái diễn ngược lại với thời gian khởi thủy của nó (4-3) sang ngày đầu xuân năm mới (3-1). Do vậy, ngày 3 tháng giêng không có tục

rước ông đầu đất từ Mó Đông về mà đi rước sắc vua, không có tục ăn

chung mà thi cỗ, lời xướng nặng về chúc tụng nhiều hơn là khích lệ sản

xuất.

Tuy nhiên, người dân Tu Lý không thể quên công lao ông tổ

lập đất của mình, mặc dầu lúc đó trên họ có một ông vua ngự trị. Một mặt

họ thờ vua mở hội đầu xuân, mặt khác họ thờ tổ tiên mở hội tháng ba. Hai

ngày hội về hình thức diễn xướng gần như nhau trong một mùa xuân. Hai hướng đối lập nhưng thống nhất về tư tưởng: "Đất có lề quê có thói".

*

Hội múa lông công là ngày hội mang nhiều nét riêng của người

Mường Tu Lý. Trong số nhiều nguyên nhân hình thành chúng tôi đặc biệt

lưu ý đến hai nguyên do:

1. Môi trường, cảnh quan, địa lý. Tu Lý là vùng đất tốt đảm bảo cho

bà con làm ăn khá giả, có điều kiện để tổ chức trong một mùa xuân hai lần diễn hội như vậy.

2. Chế độ chính trị ở Tu Lý không đến mức hà khắc, quản lý chặt

chẽ đến từng người một như các vùng Mường có chế độ lang đạo lâu đời.

Những người dân ở đây mang trong họ cái chất phóng khoáng. Họ vừa có

bản lĩnh cá nhân vừa có chất cộng đồng dân chủ cao. Vì lẽ đó văn hóa của

người Mường Tu Lý không thuần nhất. Văn hóa của một số dân tộc anh

em ảnh hưởng vào họ khá sâu và rõ. Ví dụ, tục cấm bựn của người Tày,

người Mường Tu Lý nhập vào từ thời ở Mộc Châu. (Tục cấm trong một số ngày nhất định, dân không ra khỏi bản, người ngoài bản không được vào.

Đường ra vào bản đều căng dây. ở Tu Lý nếu mổ trâu cấm 7 ngày, nếu mổ

bò cấm 5 ngày, mổ lợn cấm 3 ngày. Ba năm làm một lần).

Chính hai cái đó là nền tảng tạo ra ngày hội lớn có những hình thức

văn nghệ đặc sắc, nhất là múa lông công mà sau này ngành Văn hóa -

Page 122: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

171

Thông tin đã khôi phục phát triển thành điệu múa hay 1 bổ sung vào di sản

văn hóa độc đáo của người Mường tỉnh Hòa Bình./.

N.H.T

1 Năm 1976 múa lông công của đội văn nghệ xã Tu Lý do Đức Thọ đạo diễn đi dự hội diễn

tỉnh đã giành Huy chương vàng. Năm 1978, đạo diễn Khắc Tuân trên cơ sở múa lông công

thêm múa Dao, múa ống dựng vở "Vui xuân dựng hội" lại đoạt Huy chương vàng. Cũng vở

này đội văn nghệ huyện Kim Bôi dàn dựng đi hội diễn toàn quân cùng năm lại đoạt Huy

chương vàng.

Page 123: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

172

Lễ hội lượn hai

I Ly

Mỗi khi mùa xuân tới, khắp nơi trên đất nước ta lại bước vào

một mùa lễ hội. Trong không khí xuân tươi ấy, xin hãy đến với những người anh em tộc Tày để được chứng kiến những lễ hội đặc sắc của họ. Sau tết Nguyên đán đón xuân, người Tày nói chung, người Tày vùng Đông Khê, tỉnh Cao Bằng nói riêng “thường mở hội cầu mùa, cầu sức khoẻ cho mọi người và tổ chức vui chơi. Có thể đó là hội tung còn trong lễ xuống đồng (Lồng tồng), hoặc đó là hội mẹ Trăng, còn gọi là hội Trăng, hay hội Hai”1. Nghiêng về phía phần hội, chúng tôi gọi đây là hội Lượn Hai, hay hội hát mời Trăng. Đây là một lễ hội quan trọng của người Tày, thường được chuẩn bị hết sức chu đáo và kéo dài nhiều ngày, chủ yếu riêng trong từng bản, quá lắm là mời thêm một số người thân thích, quen thuộc ở một vài bản lân cận tham gia mà thôi. Vì thế, có thể thấy ngay đây là một lễ hội mang tính hướng nội trong phạm vi bản, có lẽ, nó biểu hiện sự rơi rớt của một tâm lý cát cứ, ít giao lưu, giữa các bản trước kia, hoặc giả một vấn đề gì đó mà các nhà nghiên cứu lễ hội chưa tìm ra được. Thế nhưng, đó là những chuyện về sau.

Như đã nói, hội hát mời Trăng thường được tổ chức dài ngày và

được chuẩn bị, sửa soạn khá công phu, ngay khi dân bản còn say sưa

trong tết Nguyên đán. Đúng vậy, ngay từ sáng mồng một tết Nguyên đán,

trong lễ cúng thổ công tại bản, một thanh nữ xinh đẹp, trong trắng được

dân bản lựa chọn, cử ra làm lễ xin phép thần linh cho mở hội Lượn Hai

(hát mời mẹ Trăng). Sau khi được thần linh đồng ý (mà thường thì thần

linh bao giờ cũng đồng ý với những ý định và hành động tốt đẹp của con

người), cô gái kính mời già bản ( hoặc hội đồng già bản) lựa chọn ngày

tốt để mở hội và kết thúc hội. Dung lượng thời gian và qui mô hội không

cố định mà tuỳ thuộc vào điều kiện vật chất, tinh thần, sự chuẩn bị cũng

như sự lựa chọn của từng bản. Chỉ có điều bất di bất dịch là: hội hát mời

Trăng phải tổ chức vào (và trong) dịp tết Nguyên đán. Đó là không/ thời

gian văn hoá tự nhiên của hội.

1 Thạch Phương- Lê Trung Vũ- 60 lễ hội truyền thống Việt Nam. Nxb KHXH, Hà Nội,

1995, tr.339.

Page 124: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

173

Sau khi lựa chọn được thời gian, ấn định thời lượng, địa điểm

diễn ra hội, một ban tổ chức hội, đứng đầu là các già bản được bầu ra để

lo việc chọn người, phân công các khâu, các công việc tổ chức lễ hội.

Gia đình nào, cá nhân nào được chọn vào lực lượng chuẩn bị hội đều rất

hãnh diện, vui mừng và vinh hạnh. Cả bản như bừng sôi trong không khí

tết thật vui vẻ, không khí chuẩn bị thật rộn rã. Mọi nhà, mọi người náo

nức chuẩn bị và dù không nói ra, ai cũng trong tâm trạng đón chờ thời

khắc mở hội. “Mọi nhà trong bản đều náo nức chuẩn bị nghĩa vụ đóng

góp phần mình. Lúc này mùa màng đã thu hoạch xong, thóc lúa đã vào

bồ, vào kho, lợn béo có sẵn trong chuồng. Nơi góc nhà, chum rượu đã

bốc men thơm dậy”. Tất cả đã sẵn sàng vào hội.

Công việc chuẩn bị đầu tiên là làm diễn trường ( nơi diễn ra hội),

dựng sàn cúng, giàn hoa...

Trước hết, những người khoẻ mạnh, khéo tay trong bản chọn một

khu đất trống hoặc một bãi trống rộng rãi, bằng phẳng, có địa thế tốt

trong bản để làm nơi tổ chức hội. Họ dùng các nguyên liệu đã chuẩn bị

sẵn như ván, tre, phên, dây, đinh...để dựng sàn cúng. Sàn cúng cao

khoảng 1,2m đến 1,4m, xung quanh thưng kín phên nứa, phên tre. Đó là

nơi đặt lễ vật và hương cúng thần linh của bản. Bên cạnh sàn cúng, người

ta dựng một giàn hoa ( tượng trưng cho vườn hoa), nơi mà, theo thỉnh

cầu của dân bản, mẹ Trăng và các thần linh ( nam và nữ) sẽ xuống hái

hoa, nghe hát, xem múa...

Trong khi đó, một số người khác, theo sự phân công của già

bản hoặc ban tổ chức, lo chuẩn bị vật chất ( cả thức cúng như

hương, hoa, trà, rượu..., cả thức ăn bình thường như bánh trái, gạo,

thịt...) cho lễ hội. Đây là công việc ít được chú ý tới, nhưng có vai

trò hết sức quan trọng cho sự thành công của lễ hội.

Trung tâm hơn cả, quan trọng hơn cả và vì thế cũng thu hút hơn

cả là những người được bình bầu, chọn lựa để đóng các vai, các nhân vật

trong lễ hội. Chính những người này quyết định sự sinh động và quyến rũ của lễ hội. Họ phải là những người tiêu biểu cho làng bản, vừa đẹp nết lại

vừa đẹp người, đồng thời lại phải thuộc các bài hát và giỏi ca múa. Thiếu

một yếu tố trong những gì đã nêu trên, thì họ khó có thể được lựa chọn

để nhập những vai quan trọng trong lễ hội hát mời Trăng. Kể từ sau khi

được lựa chọn, phân vai, số người này tự lo trang phục, tập dượt các vai,

ôn lại các bài hát điệu múa trong lễ hội và “tìm đến những bà mế giỏi văn

nghệ, thường gọi là Mế Cốc để học thêm những bài lượn Hai”.

Page 125: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

174

Mục đích của lễ hội hát mời Trăng là cầu khấn mẹ Trăng (qua

cuộc diễu hành đón và tiễn mẹ Trăng...) cho thần linh trên thượng giới, ban phát điều lành điều tốt, trừ bỏ điều dữ điều xấu, giúp cho mùa màng

bội thu; cây cối xanh tươi, gia súc thoát khỏi dịch bệnh, sinh đàn nở

đống, con người hạnh phúc, ấm no... Do ước mong những điều tốt đẹp đó

mà hình thức người làm lễ, các vật dụng tham gia lễ hội cũng như không

khí lễ hội đều phải đẹp và phù hợp trong sự giao cảm tiên- trần, thánh

thần- con người. Có lẽ vì thế mà các vai chính trong cuộc lễ như: hai mẹ

Trăng (cường hai), hai mụ Khoả (thiếp slở), và các thiếu nữ múa hát và

hai thanh niên bảo vệ...đều đẹp đẽ, khoẻ mạnh, phúc hậu...

Trong không khí huyền hoặc, như thực, như ảo, giữa người cõi

tiên và cõi trần; giữa người dự lễ và người nhập vai..., ai cũng có cảm

giác rằng mình đang được chứng kiến những gì hết sức quan trọng đối

với cuộc đời từng con người trong ngày xuân đầm ấm này, và ai cũng hồi

hộp chờ giây phút bắt đầu lễ hội hát mời Trăng...

Và cuối cùng, cái giây phút ấy cũng đến. Hội hát mời Trăng bắt

đầu bằng lễ dâng hoa, vừa có ý nghĩa chúc mừng những người đóng vai,

vừa như là nghi thức mở đầu cho hội.

Sau nghi lễ dâng hoa là diễn lượn Hai (tức ca hát mời Trăng), mọi

người hát những bài hát tiễn hồn đoàn người trần gian lên cung tiên đón

mời mẹ trăng xuống dự hội trần gian dưới nghi thức lễ diễu hành. Các

vai chính trong cuộc lễ diễu hành gồm: Hai người phụ nữ trung niên,

phúc hậu, đức độ, đẹp nết, vóc dáng đẹp đóng vai hai mẹ Trăng (tức là

để hồn mẹ Trăng nhập vào- được gọi là cường hai) hát đối đáp với người

trần.

- Hai phụ nữ khác, tiêu chuẩn như trên, có thể trẻ hoặc già hơn đôi

chút, đóng vai hai mụ Khoả (được gọi là thiếp slở) làm nhiệm vụ dâng

hoa và cầu nguyện.

- Một số thiếu nữ thanh tân, trẻ đẹp, tham gia múa hát, phụ việc

cho các thiếp slở.

- Hai thanh niên khoẻ mạnh (cầm hai cây nêu bằng trúc) đứng bảo

vệ trước cửa nhà mẹ Trăng.

“Tất cả các nhân vật nói trên đều hoá trang đẹp, trong đó mẹ Trăng rực rỡ nhất: áo lụa đỏ, quần hồng, khăn đỏ, tay cầm dải lụa hồng”1.

Hành trình diễu hành lên cung trăng bao gồm hai chặng:

1 ,2,3

Trích Thạch Phương- Lê Trung Vũ- Sđd- tr 339- 343.

Page 126: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

175

- Chặng thứ nhất qua thế giới nhân gian, “cõi người gồm đường

trong bản, vườn rau, vườn cây ăn quả, miếu thổ công, giếng nước, cánh đồng lúa, bãi dâu, phủ Thành Lâm, đình Tiên, đồng quạ, núi vượn, thế

giới ong ve, qua cầu Tam Quang”2.

- Chặng thứ hai qua thế giới thần linh, “đi vào không trung qua

nơi ở của những người chết yểu, chợ trai gái, chợ Tam Quang, mường tổ

tiên, phường những người làm quan ở hạ giới, cuối cùng đến cung

Trăng”3.

Vậy là, trải qua bao nhiêu chặng đường, cửa ải, cuối cùng đoàn

người trần gian cũng đón được mẹ Trăng xuống vui xuân. Khi đoàn người đón mẹ Trăng trở về hạ giới, thì có thêm hai mẹ Trăng và 14 vị

thần nam nữ hoà cùng dòng người đến với chốn nhân gian.

Khi đoàn rước về tới mặt đất, đặc biệt là khi mẹ Trăng xuất hiện,

mọi người reo mừng, ca hát, hái hoa, đón rước, làm lễ dâng hoa, cầu

chúc. Các nhân vật cùng mọi người đều bắt đầu cuộc hát mời Trăng vui

chơi. Sau những lời hát chào hỏi, chúc tụng, đưa đón là những cuộc hát

nguyện cầu, xin cho nhiều giống tốt, xin cho nước đủ phân nhiều, cầu

không có thiên tai thú dữ, cầu cho ngô lúa nặng bông, mùa màng trĩu hạt... Một trong những lời cầu khấn (tạm dịch) như sau:

“Lạy mẹ cho con lúa giống

Cho con giống lúa nương

Cho con giống lúa đồng

Giống lúa nếp gặt cuối vụ

Tháng năm cho nước để cày cấy...

Vụ này tốt hơn vụ xưa,

Mùa này tốt hơn mùa trước

Gốc lúa ở bờ trên

Bông trùm qua bờ dưới...”1

Sau những lời lượn Hai (ca hát dưới Trăng) vừa có tính chất giới

thiệu trần gian với thần linh (ở đây là Mẹ Trăng cùng các thiên thần), vừa

mang tính cầu nguyện nghi lễ (có gắn chút ít tới nghi lễ cầu mùa, nghi lễ

cầu mưa, mà biểu tượng là thuỷ triều, mặt Trăng), mọi người đều cảm

thấy yên tâm vì những gì mong ước đã được ca lên trước thần linh và thần linh cũng đã biết được khát vọng của con người. Và dường như để

hoà đồng với khát vọng đó, mẹ Trăng, sau khi nói lời cầu nguyện, lấy

Page 127: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

176

khăn che mặt “cũng tham gia hát đối đáp với người trần gian đi dự hội về

mọi chuyện, từ việc sinh sống, làm ăn, mùa màng, sức khoẻ, trừ tình yêu”2. Đến nay, cũng chưa có ai giải thích vì sao khi lượn Hai, mọi

người không đề cập đến chủ đề tình yêu? Do một cấm kỵ nguyên thuỷ?

Do mẹ Trăng chỉ liên quan tới mùa màng, thiên nhiên, bệnh tật con

người? Hoặc giả, bên cạnh mẹ Trăng, trong cuộc đời những con người

tộc Tày, ở những dịp như thế này còn có một vị thần linh chủ trì tình

yêu? Đó chỉ là những giả thuyết cần minh chứng thêm.

Dù sao thì lượn Hai cũng cứ như thế mà truyền lan; không khí hát

hò vui vầy, náo nức đó cứ kéo dài từ ngày này qua ngày khác, nơi hai ba ngày, bản một tuần liền, có chỗ tới gần nửa tháng mới dứt... Và, một

mảng không thể không nhắc tới là, trong khi nơi chính hội đang diễn ra

cuộc hát khi hoà thanh, lúc đối đáp giữa tiên và trần, thì ở những địa

điểm xung quanh đó, người ta xen kẽ tổ chức đánh yến (cầu lông gà),

đánh quay, chọi gà... “cho tới một hôm mọi người trong bản thấy cuộc

vui đã đủ, câu hát đã đã cạn, lời cầu đã xong, thì làm lễ kết thúc hội”1. Lễ

kết thúc hội (được gọi là slống hai, tức lễ tiễn mặt Trăng về trời) là ngày

lễ mở rộng, vui nhất của hội, với thành phần tham dự gồm bà con trong bản, người thân thuộc, khách mời và du khách vãng lai. Lúc này, ngoài

sàn cúng trong bản như đã tả phần trên, người ta phải dựng thêm một sàn

cúng nữa ngoài đồng rộng để có chỗ cho khách dự, cũng là nơi diễn ra

cuộc lượn (múa hát) mới để chia tay, tạm biệt giữa người trần và người

cõi trên, tiễn mẹ Trăng và các thần về trời. Dân chúng, người dự tập

trung ở sàn cúng trong bản rồi cùng kéo ra sàn cúng ngoài đồng. Hai

thanh niên bảo vệ nhà mẹ Trăng cầm nêu trúc đi song song dẫn đầu đoàn người đi, mang theo các đồ dùng, vật tượng trưng hình mặt trăng, thuyền,

hoa, mâm xôi và những hình thức khác. “Suốt bao ngày lễ hội, các nhân

vật (được thay đổi danh nghĩa) đã sống chan hoà cùng nhau, thông cảm

nhau sâu sắc, nay chia tay không khỏi bùi ngùi. Bài hát lượn lúc này

nặng nghĩa, lưu luyến tiễn đưa như chẳng muốn rời”2... Lúc này, mẹ

Trăng đã trần hoá, không còn là thánh thần xa lạ mà trở thành bạn thân

của con người, cùng con người bịn rịn, nức nở chia ly, hát tạm biệt và hát

hẹn hò gặp gỡ mùa lễ hội sau.

Xin nghe một đoạn lời hát của người trần:

“ Tình thương đôi ta như non cao núi cả

1,2

Trích Thạch Phương- Lê Trung Vũ- Sđd- tr 339- 343. 1 ,2

Theo Thạch Phương- Lê Trung Vũ- Sđd- tr 343.

Page 128: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

177

Chớ như chiếc lá gai nghiêng ngả lung lay,

Chớ như bông cỏ tranh bay theo chiều gió

Trăng về trời, lòng ta xiết nỗi nhớ thương...

Còn đây là một đoạn hát của Trăng nhắn người trần:

Nhắn ba ngày buồn hãy bẻ cành cây để trên phiến đá

Ngày vui hãy bẻ cành lá để trên cành cây

Để trăng trên thượng giới được nhìn, được thấy

Người trần buồn còn biết thêu thùa may vá,

Trăng buồn phải suốt đời ở goá trên tiên...”21

Và khi kết thúc câu cuối cùng của bài hát chúc tụng, thì hai người đóng mẹ Trăng ngã xuống, thiếp đi trong đôi phút. Khi đó mế Cốc phải

làm động tác thu hồn hai người (tức mẹ Trăng đã rời cõi trần). Sau đó,

hai người tỉnh lại, trở lại vai trò dân bản thường ngày của họ. Sự trở lại

này lâu hay mau tuỳ vào mỗi người.

Hội lượn Hai (hội hát mới Trăng) kết thúc trong niềm giao cảm

mạnh mẽ, thiêng liêng, thần thánh giữa con người và siêu nhiên. Hai sàn

cúng được dỡ đi. Mọi người tụ hội với nhau, lần lượt tổ chức ăn uống

mừng hội, mừng xuân, mừng du khách đã đến với lễ hội. Cả bản làng đều hân hoan hy vọng mẹ Trăng và các thần linh sẽ chấp thuận giúp đỡ

cho mùa màng tốt tươi, người vật mạnh khoẻ, để lễ hội mùa sau đông

hơn, phong phú hơn, chu đáo hơn...

Và, với tất cả những chi tiết sơ qua và tầng văn hoá tín ngưỡng

mới bộc lộ phần nào, rất cần được tiếp tục khai thác, có thể nói lễ hội hát

mời trăng là một sinh hoạt văn hoá- tín ngưỡng hấp dẫn và huyền diệu

với bất kỳ ai, đã - cũng như chưa- từng chứng kiến./.

I.L

1 Theo Thạch Phương- Lê Trung Vũ- Sđd.

Page 129: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

179

lễ tết mồng một tháng bảy

vàng thung chúng

Sau tết nguyên đán cổ truyền, đồng bào Nùng Mường Khương có một

lễ tết không kém phần linh đình, háo hức vui tươi, đó là tết mồng một tháng

bảy âm lịch.

Hàng năm, cứ đến hạ tuần tháng 6 (âm lịch), bà con người Nùng lại nô

nức phấn khởi chuẩn bị chào đón và tổ chức lễ tết mồng một tháng bảy

(tiếng Nùng gọi là chinw chetx). Khắp các gia đình, làng bản từ già đến trẻ,

kẻ mừng người lo bàn tán xôn xao, náo nức đua nhau chuẩn bị cỗ tết. Các bà mẹ, chị em nội trợ nào lo sắm gạo nếp làm xôi 7 màu, may mặc quần cao

mới, làm túi đựng còng gà cho trẻ em; nào lo gà, thịt và những thứ thực

phẩm cần thiết. Các ông bố, anh em trai thì lo chuẩn bị gọt đũa mới, rượu

chè, mời khách ngoại tộc, ngoài bản, hoa quả bánh trái. Đũa mới được gọt

bằng vầu già, gọt một nửa đoạn hình chữ nhật, một nửa đoạn tròn và gọt

trước từ 3 đến 4 ngày phơi khô để khi nhuộm đỏ mới đẹp và không bị mốc.

Rượu thường tự nấu bằng ngô nếp vì rượu ngô nếp uống ngọt hơn. Do đó khi

trồng ngô nhà nào cũng phải trồng một chút ngô nếp. Khách mời thì nhà nào cũng mời các anh em họ hàng, bạn bè thân thiết phương xa ngoài người

Nùng và mời trước hàng tuần để anh em có thời gian thu xếp công việc và

mua sắm quà cáp tới mừng và cảm tạ. Các nam nữ thanh thiếu niên thì rủ

nhau lấy củi khô, đổi công giã gạo, cắt cỏ trâu ngựa, lấy rau lợn dự trữ cho

những ngày tết để dành thời gian vui chơi.

Đến giáp tết, ngày 30 tháng 6 âm lịch, người nào kẻ ấy trong mỗi gia

đình, ai cũng tấp nập đua nhau làm các công việc của mình, phụ nữ cắt rửa lá

xôi, lá chuối, lá dong để nhuộm đũa đỏ, xôi 7 màu, lót xôi màu thờ gia tiên, gói xôi làm quà cho khách, xay đậu phụ làm thức ăn sẵn cho những ngày lễ

tết, ngả lợn con từ 20-25 kg làm thịt quay chuẩn bị thức ăn sẵn. Nhà khá giả

và mời nhiều khách thì mổ hẳn một con, không thì vài ba nhà chung nhau

một con. Các ông bà già, con trẻ cũng mỗi người một việc: rửa bàn ghế, ấm

chén, bàn thờ, chạn bát. Các em thiếu niên thì cắt cỏ ngựa, lấy rau lợn đủ ba

ngày tết. Mặc dù mỗi nhà có sự chuẩn bị cho tết khác nhau nhưng cứ đến

cuối chiều chập tối hầu như nhà nào cũng phải nhuộm xong đũa đỏ- công việc chuẩn bị bị chính thức đầu tiên cho lễ.

Đũa đỏ được nhuộm bằng lá xôi đũa (tiếng Nùng gọi là chămj thuj).

Loại lá xôi này chỉ dùng để nhuộm đũa đỏ và xôi đỏ. Kỹ thuật nhuộm đũa

Page 130: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

180

đỏ rất đơn giản: cho lá xôi một lượng vừa phải với số lượng đũa và nước

đun. Nếu số lượng đũa ít, lá xôi nhiều thì khi luộc sẽ bị quá độ ngả màu thâm, đũa không đỏ tươi. Ngược lại số lượng đũa nhiều mà lá xôi ít thì thiếu

độ và đũa đỏ nhạt cũng không đẹp. Bởi vậy, nhiều người phải nhờ những

người có kinh nghiệm nhuộm giúp.

Công việc cuối cùng trong ngày chuẩn bị tết là nhà ai nấy đều tắm giặt

thay quần áo sạch sẽ, nhà nào phải làm cỗ cúng trời thì chuẩn bị mâm cỗ

cúng. Mâm cỗ cúng trời được đặt ở trên sàn góc sân để đảm bảo sạch sẽ. Do

đó những nhà phải cúng trời phải làm một cái sàn góc sân nhà vào dịp tết

tháng 7, sau đó dùng phơi thóc, ngô, ngồi khâu vá và làm chỗ vui chơi cho trẻ em nhảy múa trong những đêm trăng sáng. Song có điều kỵ là người

mang thai không được làm, phải nhờ người khác làm giúp. Mâm cúng trời

tiếng Nùng gọi là “Pai chan- cungj phax”. Một cái bàn đặt quay hướng mặt

trời mọc và có một cây cầu trời bằng vầu cao hơn đầu người được căng bằng

lá chuối, đặt 5 cái bát, 5 cái chén làm bằng dóng cây sậy, một bát nước phép;

5 lư hương bằng thân chuối; có hàng giấy ngựa treo màu đỏ 5 con (có dòng

họ 3 con); chén rượu giữa cũng đội đáy một chén khác gọi là ta chanj như

cúng rừng; một bát nước lá xôi nhuộm đũa đỏ; một lọ ớt giã bằng vầu, có cả chày nhuộm đỏ. Bên cạnh mâm có bầy cả bã lá xôi nhuộm đũa. Vật cúng chỉ

có một con gà sống gáy to, đẹp, lông đỏ; 5 bát xôi màu tím và một miếng thịt

lợn nhỏ.

Gần như thành một quy luật tự nhiên, tết tháng 7 năm nào cũng vậy,

cùng với việc chuẩn bị tấp nập, nhộn nhịp thì ngày 30/6 hoặc chí ít cũng là

buổi chiều trời cũng tuôn mưa tầm tã, như trút nước. Đồng bào gọi cơn mưa

đó là mưa dội sàn. Mặc dù mưa vậy nhưng đồng bào vẫn thích vì nó rửa sạch tất cả mọi ô uế rác rưởi, khí trời tối tăm nóng nực để hôm tết trời quang

mây tạnh, không khí trong lành, chơi tết được thoải mái. Nếu không mưa thì

bà con lo lắng sợ tết sẽ mất vui và cầu mong

cho trời đỏ cơn giông. Vì vậy mà bà con chuẩn bị tết rất chu đáo.

Sáng mồng một tháng bảy là lễ chính của đồng bào; sau đó là vui chơi

ăn uống linh đình, hội hè tấp nập.

Sau một ngày trời đổ mưa dông, bầu trời trở lại quang đãng trong xanh,

bầu không khí trở nên trong lành như đã được cuốn hết mọi rác rưởi môi trường, phù hộ độ trì cho đồng bào Nùng ăn tết. Khi trời mới chuyển ngày

gà gáy canh ba, các gia đình làm sàn cúng trời đã thức dậy nhóm bếp thổi

xôi mổ gà cúng trời trước khi trời sáng. Thầy cúng mặc quần áo dài, vải đen,

đầu đội khăn xếp, chân đi giày, long trọng khấn lạy bốn phương, tám hướng

Page 131: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

181

trời đất, núi rừng, cây chuối làm lễ cúng tạ ơn trời đất, núi non... đã phù hộ

độ trì cho người Nùng chiến thắng giặc ngoại xâm, bảo tồn nòi giống dân tộc và mời thần trời, núi non, rừng chuối xuống dự lễ tết chiến thắng cổ truyền

dân tộc mà người Nùng không bao giờ quên. Nội dung bài khấn có đoạn:

Hỡi thần trời thánh đất

Hỡi ông thần trái đất

Hỡi mặt trời trên cao

Và rừng chuối nơi thấp

Hôm nay ngày một tháng bảy

Ăn tết thứ người Nùng1

Nô tỳ này họ Vương cháu gia

Con đời cháu thế hệ đời chắt người Nùng

Nô tỳ này đem miếng thịt lợn nhỏ, con gà sống gáy to lên kính

Đem đĩa xôi tím, ngụm rượu ngọt về mời

Mời đến thần trời thánh đất dự cỗ

Mời đến thần trái đất, mặt trời trên cao ngồi mâm

Cùng tổ tiên tộc Nùng chơi vui bữa cỗ

Cùng thế hệ cháu, hệ chắt người Nùng ăn tết tháng bảy

Ăn cỗ xong xin phù hộ độ trì người Nùng

Ban phước tộc Nùng thịnh trị bình an...

Sau một bài cúng, thầy cúng mổ gà nộp lễ. Con gà được làm lông tại

chỗ. Làm sạch gà, con gà không luộc chín mà bày thịt sống, cả lông rác gà

cũng được bày nguyên tại chỗ trên lá chuối đặt cạnh mâm và cúng cùng một

lúc với mâm cỗ. Sau khi làm sạch gà xong, gia đình bưng cả chõ xôi màu tím

xuống bày cúng cùng con gà, thịt lợn. Một điều đáng chú ý quan tâm là phải làm sớm, nhanh sao cho cúng xong, thu dọn trước khi trời sáng. Sau ba hồi

thờ cúng với ba hồi nhang tắt mới hoá vàng thu về nhà. Sau khi thu về nhà,

bã lá xôi và lông gà vẫn để nguyên trên sàn qua 3 ngày mới được dọn. Đồng

thời sàn cũng cấm bang ăn tết 3 ngày sau mới được sử dụng làm sân phơi

hoặc chơi bời.

Sau khi bày sàn thờ cúng xong lại tiếp tục mổ gà thờ cúng gia tiên. Gà

thờ cúng gia tiên không nhất thiết là gà sống gáy mà gà mái cũng được. Mâm

1 Tết tháng 7 là Tết thứ, sau Tết cả Nguyên đán.

Page 132: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

182

cỗ thờ cúng gia tiên chỉ có gà và các thức ăn phụ khác và nhất thiết phải làm

bát tiết canh gà. Thịt gà không bày cả con mà đem chặt từng miếng xếp gọn trong đĩa. Bài cúng trong mâm cỗ lễ gia tiên nội dung chủ yếu là kính mời

gia tiên xuống dự tết cổ truyền mồng một tháng bảy cùng với thần trời thánh

đất... cầu các ông bà tổ tiên tiếp tục phù hộ độ trì cho con cháu gia đình có

cuộc sống an khang thịnh vượng.

Cùng lúc với các ông làm lễ cúng gia tiên thì các bà, các chị cũng làm

xôi bảy màu, đó là màu đỏ tươi (đỏ cờ), màu đỏ thẫm, màu vàng, màu xanh

lá gừng, màu nâu, màu xanh nước biển, màu tím. Nguyên liệu làm xôi 7 màu

này cũng làm từ hai loại lá xôi đũa và xôi hoa (tiếng Nùng gọi là chămj thủ- chămj lai) và một loại hoa rừng thường nở vào tháng 2-3 âm lịch (tiếng

Nùng gọi là đoọc pfănj). Loại hoa này có mùi thơm lừng, khi nở rộ hái đem

về phơi khô cất dùng lúc nào cũng được. Loại hoa này nhuộm xôi vàng: đem

hoa khô luộc với một lượng muối vừa phải, nếu nhiều muối quá sẽ bị vàng

nhạt. Luộc xong lọc lấy nước để nguội rồi đem ngâm với gạo nếp. Gạo nếp

phải được vo sạch, ngâm nước từ tối hôm trước đến độ trương vừa phải, nếu

quá sẽ bị nhão. Thời gian ngâm chỉ độ một tiếng, khi sôi lên, xôi sẽ ngả màu

vàng rất đẹp và thơm.

Xôi đỏ thì dùng lá xôi đũa luộc kỹ, lọc lấy nước để nguội, cho vào

ngâm gạo nếp như xôi vàng, khi sôi lên sẽ có màu đỏ tươi (đỏ cờ).

Xôi tím cũng dùng lá xôi đũa nhưng đem giã với gio bếp. trước khi giã

đem đốt qua lửa cho héo. Lượng gio cũng cho vừa phải nhưng phải là gio

than củi, còn gio cỏ rác , rơm rạ thì không được vì không có độ mặn chất

mầu không ngấm sâu, sẽ bị bạc màu.

Xôi màu xanh nước biển thì dùng lá xôi hoa (chămj lai) giã với gio bếp rồi lọc ngâm gạo nếp xôi lên sẽ ra màu xanh nước biển. Nhưng lượng gio và

thời gian ngâm cũng vừa phải, làm sao khi vớt gạo ra có màu xanh lơ đến khi

xôi lên thì vừa đẹp, nếu khi vớt gạo ra mà đã có màu thì xôi lên sẽ ngả màu

quá đậm, chuyển sang màu chàm.

Xôi màu xanh lá gừng (tiếng Nùng gọi là khu looc bâuưw tsinhw) khi

làm phức tạp hơn. Phải dùng gạo nếp đã ngâm ra màu vàng rồi mới lại đem

ngâm nước lá xôi hoa loại màu xanh nước biển với lượng vừa phải. Nếu

thiếu nước gio lá xôi hoa thì sẽ ra màu xanh nõn chuối hoặc nếu nước xôi hoa quá nhiều thì cũng tạo màu xanh đậm, không đẹp.

Xôi màu nâu cũng phức tạp như xôi màu xanh lá gừng. Trước hết phải

ngâm gạo nếp màu đỏ cờ sau đó lại đem ngâm nước lá xôi đũa giã gio (nước

lá xôi màu tím), một giờ sau vớt ra sẽ ra màu nâu.

Page 133: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

183

Cuối cùng là xôi màu đỏ thẫm. Xôi màu này khó làm nhất nên rất ít

người làm, chỉ người có kinh nghiệm mới làm. Loại xôi này phải dùng gạo nếp đã nhuộm đỏ sau đó ngâm nước lá xôi hoa với một tỷ lệ rất ít, nhạt.

Thông thường ngâm nước lá xôi hoa lần thứ hai (tức là sau khi đã ngâm lại

màu xanh nước biển để hút hết độ màu chuẩn còn lại lượng màu rất nhạt).

Khi ngâm gạo nếp màu đỏ sẽ giảm màu cờ tạo thành màu đỏ thẫm không

phải màu nâu cũng

không phải màu tím mang sắc màu máu đông.

Các loại gạo nếp sau khi nhuộm xong màu phải đãi sạch rồi để ráo

nước mới đem xôi. Việc làm xôi 7 màu rất hấp dẫn nhưng không kém phức tạp, không khác gì người hoạ sỹ pha màu tài ba giàu kinh nghiệm. Khắp đầu

làng cuối bản chị em phụ nữ chỉ bàn tán về việc làm xôi màu và tíu tít mời

nhau về nhà mình thưởng thức xôi màu- chiêm ngưỡng tài nghệ của mình.

Sau khi nhuộm gạo nếp đủ 7 màu thì cho vào chõ gỗ mỗi thứ một góc

rồi đun sôi. Phải bỏ chõ trong chảo đun nước nóng vừa bốc hơi rồi mới cho

xôi vào để khỏi bị đọng nước lâu, tranh bết ở đáy chõ.

Cúng gia tiên xong, xôi 7 màu cũng vừa chín tới, khói bốc hương thơm

toả nghi ngút khắp gia đình làng bản. Anh em họ mạc, bạn hữu thân thiết ngoại tộc, ngoài bản cũng tấp nập đến mỗi gia đình dự lễ tết. Các gia đình ở

cuối bản phải cử con cháu đến đầu bản đón khách, nếu không sẽ bị tranh mất

khách vì trong ngày lễ tết ai cũng mong có khách đến chơi kể cả khách chưa

mời đến; khách đã vào nhà thì hầu như không ai cho ra khỏi nhà bắt phải dự

cỗ với gia đình để chia vui và ôn lại tháng năm gian khổ.

Trong lúc cha mẹ, anh chị thờ cúng gia tiên, làm xôi 7 màu thì các em

thiếu niên từ tờ mờ sáng đã gọi nhau í ơi rủ nhau đi thả trâu để khi trâu no cỏ cũng là lúc bố mẹ ở nhà đã thờ cúng làm xôi 7 màu xong; về đến nhà chỉ

việc thay quần áo mới, ăn tết xum vầy.

Ngoài việc chuẩn bị tiến hành thờ cúng, lễ cỗ ngày tết, gia đình nào

cũng đặc biệt chú ý đến “còng gà” cho trẻ em; không chỉ trẻ em trong nhà

mà cả con cháu anh em, khách khứa cũng phải biếu mỗi đứa cái còng. Đặc

biệt còng gà cho cháu trong ngày tết phải to gấp đôi mọi khi. Do đó gia đình

nào cũng phải mua rất nhiều gà. Có những nhà phải mổ tới 7-8 con gà để có

mười cái còng cho trẻ. Bà con cho rằng trẻ em tuy nhỏ nhưng cũng rất vất vả, nhất là những đứa trẻ chăn trâu. Các cháu đã cùng bố mẹ dãi nắng dầm

mưa chăn trâu, cắt cỏ lấy rau lợn, lấy củi góp phần giúp gia đình làm nên

cuộc sống ấm no. Nên ngày tết phải may quần áo mới, biếu còn gà to, mừng

tiền ăn quà bánh bù đắp công sức các cháu.

Page 134: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

184

Khách khứa, bạn bè thân hữu đến dự lễ tết với bà con rất hồ hởi, trưng

diện bộ quần áo mới, tay xách vai mang túi quà tặng phẩm. Quà tặng có thể là gói bánh kẹo, cân hoa quả rất giản dị để tặng cho ông bà và các cháu, góp

phần thêm vui ngày tết mà thôi.

Đến bữa cỗ gia đình từ già đến trẻ ai cũng mặc quần áo mới, chân đi

giày dép, tóc tai chải sạch sẽ cùng các quý khách vui cỗ. Mâm cỗ thường làm

8 món là thịt gà luộc, thịt lợn kho tàu, thịt lợn quay, đậu phụ bọc thịt lợn rán,

miến xào, đậu phụ sống, bát tiết canh gà và bát canh xương hầm. Không

phân biệt mâm người lớn, trẻ em. Khi ăn, thông thường là phát còng gà cho

trẻ em trước rồi gia chủ gắp bát tiết canh gà đỏ chói màu cờ khai cỗ; các thức ăn không quy định, cứ dùng hết lại lấy thêm, cả gia đình và khách khứa

cùng chúc rượu, ăn xôi 7 màu rất vui vẻ linh đình. Sau một hồi chúc tụng say

sưa, cả khách lẫn chủ đều thi nhau cất tiếng hát đối đáp chúc mừng bữa cỗ

trong đó có câu:

Đối không xứng bạn thần

Đãi không cân bạn hữu

Bốn góc (cỗ) uốn sừng bò

Trên cỗ toàn bát không.

Và khách đáp lại rằng:

Hỡi bạn thông thân hữu?

Cỗ say không biết chúc

Bốn góc (cỗ) uốn sừng trâu

Trên cỗ bầy tám bát.

Có gia đình sau bữa cỗ thì làm hồi leng hao, chơi bài gỗ chúc rượu cả

ngày. Các quý khách thân hữu đến dự lễ tết suốt ngày và ngủ qua đêm, sáng sau mới về. Song hào hứng nhất là các tầng lớp thanh thiếu niên nhi đồng.

Ăn cỗ xong thanh niên nam nữ rủ nhau đi chơi trò chơi đánh én, người ta

chơi bất kể chỗ nào ở ngoài sân hoặc trong nhà. Khi chơi mệt có gia đình

mời nước, ăn xôi 7 màu thậm chí còn mời uống rượu, vì đã góp phần vào

không khí vui tươi trong gia đình. Các thanh niên chơi én thường chơi đôi,

đôi nam với đôi nữ hoặc đôi nam nữ. Nếu đôi nào có quan hệ trao duyên thì

đôi én càng bay lượn không ngớt. Chơi đôi, thường có cách chơi chéo nam

nữ; nhưng phổ biến là chơi đôi đơn nam nữ nhưng thường lồng chéo hai con én vào nhau con lượn lên, con lượn xuống trông rất đẹp mắt. Các em thiếu

niên đánh nhau, nếu còng gà ai gãy (bị thua) thì mất một nửa. Bởi vậy, dù

khó khăn, các ông bà cha mẹ cũng cố gắng mua lấy 1-2 con gà sống to để

Page 135: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

185

xương cứng thịt dai, đánh còng gà cho chắc. Buổi tối các đôi nam nữ thanh

niên còn tổ chức tập trung tại một gia đình nào đó rộng rãi thuận lợi để hát đối giao duyên.

Lễ tết tháng 7 được thu xếp vui chơi ăn uống trong ba ngày; song qua

ngày mồng một, sang ngày mồng hai là các khách thân bạn hữu xin phép ra

về vì chơi hết tết sẽ không đẹp. Giữa gia đình và khách lại lưu luyến chia

tay. Gia đình nào cũng gói xôi 7 màu cùng với còng gà làm quà cho gia đình

thân khách, rồi lại hẹn gặp nhau trong dịp lễ tết năm tới rất nồng nhiệt chan

chứa lòng người . Mặc dù công việc đồng áng bề bộn nhưng là ngày tết cổ

truyền của dân tộc nên gia đình nào cũng thu xếp thời gian ăn tết 3 ngày, sau đó mới tiếp tục làm cỏ lúa, lên nương rẫy thu ngô, lao động một cách phấn

khởi, mang theo bao âm hưởng ngày tết.

Về lịch sử lễ tết mồng một tháng bảy không còn ai biết cụ thể. Các tư

liệu thành văn cũng chưa ai ghi chép mà chỉ truyền lại trong ký ức nhân dân

một huyền thoại lịch sử hào hùng đầy ý nghĩa. Theo các truyền thuyết dân

gian tuy chưa đầy đủ nhưng có thể phác ra rằng lễ tết mồng một tháng 7 gắn

liền với một trang sử hào hùng dân tộc Nùng được khái quát như sau:

Vào tháng 5 trong một năm đời nhà Hán, bọn giặc Hán phương Bắc cậy người đông muốn mở rộng khu vực cai quản đã xua quân đánh chiếm

vùng đất người Nùng Mường Khương. Bằng mọi cách chúng tìm người

Nùng giết chết tất cả. Nhiều người đã bị chúng vây bắt giết hại một cách

đẫm máu. Vùng đất Mường Khương vốn đã được người Nùng khai thiên lập

địa, tạo làng dựng bản, đổ bao mồ hôi xương máu để xây dựng cuộc sống

hạnh phúc giữa vùng “đất lành chim đậu” nên nhân dân ở đây đã tổ chức

chống lại quyết liệt để giữ mảnh đất nơi chôn rau cắt rốn của mình. Mặc dù quân giặc mạnh hơn gấp bội nhưng người Nùng cũng đã giao tranh cầm cự

giữ vững vùng đất được hàng tháng trời. Song, do thế mỏng, lực ít lại bị

động trước âm mưu của giặc, sau một tháng chống cự ác liệt lực lượng người

Nùng ngày càng thu hẹp và yếu thế. Để tránh những thiệt hại không cần

thiết, lực lượng còn lại của người Nùng tạm thời bí mật rút lui an toàn vào

các khu rừng chuối rậm rạp ven sông Chảy để bảo toàn và xây dựng lực

lượng chờ khi có thời cơ thì chớp lấy nổi dậy đánh lại giặc Hán giành lại quê

hương. Tưởng đã chiếm được vùng đất người Nùng, vì không thấy bóng dáng người Nùng đâu nữa nên giặc Hán hí hửng rút một bộ phận lực lượng

quay về chỉ để lại một bộ phận cai quản giữa vùng rừng núi hoang vu rậm

rạp. Sống giữa tình cảnh khó khăn gian khổ, phải chui lủi trong các khu rừng

chuối rậm rạp và hang hốc, “cái khó ló cái khôn”, đồng bào Nùng bỗng nghĩ

ra mưu kế chặt cây chuối lừa giặc Hán. Vì cây chuối mọc nhanh chỉ vài ngày

Page 136: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

186

đã cao bằng đầu người nên khi giặc Hán kiểm soát truy lùng thấy cây chuối

bị chặt lụi đã cao thành rừng tưởng người Nùng bỏ chạy đi nơi khác lâu rồi, nên mất cảnh giác.

Trong khi giặc Hán chủ quan, đồng bào Nùng đã tranh thủ ổn định tinh

thần, xây dựng củng cố lại lực lượng hạ quyết tâm đánh giặc Hán. Đúng như

mưu kế vạch ra, vào một ngày cuối tháng sáu âm lịch trời như muốn phù hộ

người Nùng, tự nhiên mưa tầm tã như trút nước, như muốn cuốn trôi tất cả

mọi nóng bức, ngột ngạt, rác rưởi để cảnh vật trở lại trong lành, khí trời

quang đãng. Giặc Hán mất cảnh giác đã đành lại còn an bài trong giấc ngủ

lều tranh. Lợi dụng lúc trời mưa, nghĩa quân và đồng bào Nùng đã bằng các thứ vũ khí trong tay như dao phát, mác, nỏ, cuốc thuổng gậy gộc cùng nhau

vùng dậy phân chia bí mật lẻn vào các lều lán của giặc và những nhà dân bị

giặc chiếm đóng đánh chém giết lại bọn Hán làm cho chúng không kịp trở

tay, đại bộ phận bị nghĩa quân người Nùng chém giết, đánh bị thương; một

bộ phận nhỏ xin đầu hàng bị ta bắt trói. Cuộc chiến diễn ra một cách thầm

lặng, giặc Hán ở phương xa không hề biết để tiếp viện.

Chỉ trong nửa đêm nghĩa quân đồng bào Nùng đã chiếm lại được quê

hương lúc trời còn chưa sáng. Khi nghe tin chiến thắng của nghĩa quân, đồng bào Nùng ở khắp nơi trong vùng nổi dậy hò reo đốt đuốc trở về, đến rạng

sáng mồng một tháng 7 đã về đến mảnh đất cũ Mường Khương của mình.

Để kỷ niệm chiến thắng vĩ đại này, người Nùng đã quyết định tổ chức ăn

mừng 3 ngày từ sáng mồng một đến hết ngày mồng 3 tháng 7.

Người Nùng cho rằng nhờ rừng chuối xanh thẳm che chở, nhờ ông trời

mưa to gió bão đã tạo nên thời cơ cho họ chiến thắng giặc xâm lược nên

rừng chuối, ông trời đã trở thành thần phù hộ- bảo mệnh, người Nùng phải mổ gà làm lễ cúng tạ ơn rừng chuối, ông trời ngay trước sân nhà. Vì thời

gian quá gấp, trời gần rạng sáng, không làm nhanh sẽ qua giờ phút lịch sử

trọng đại nên đã không cần luộc gà, cứ để tươi mà thờ cúng và cả lông gà

cũng không cần dọn dẹp, cứ để bày tại chỗ miễn sao tỏ lòng biết ơn là được .

Vui mừng ngày thắng lợi, người Nùng không quên những ngày tháng

đánh nhau đổ máu, ẩn dật gian khổ trong rừng nên cúng cả bát nước đỏ bằng

lá xôi tượng trưng cho bát máu tức là ăn cơm chan với máu. Còn đôi đũa

cũng dùng lá xôi nhuộm đỏ tượng trưng cho chiếc gậy đầu đỏ, đầu đen là vũ khí thô sơ người Nùng đã sử dụng đánh giặc Hán. Và phải tổ chức cúng sớm

trước khi trời sáng để tuyên bố chiến thắng của mình với bàn dân thiên hạ,

ông bà tổ tiên làm cho giặc Hán phương

xa bên kia không kịp ứng phó, chấp nhận thất bại.

Page 137: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

187

Sau khi thờ trời, cúng chuối, đồng bào ai cũng tiếp tục mổ gà làm xôi 7

màu cúng dâng chiến công lên gia tiên đồng thời mời các ông bà tổ tiên xuống dự hội ăn mừng chiến thắng.

Với ý nghĩa lớn lao đó người Nùng cho rằng làm xôi 7 màu là tượng

trưng cho chặng đường lịch sử 7 tháng đầy ý nghĩa trong một năm đất trời

xoay chuyển nhưng gắn liền lịch sử dân tộc là:

- Xôi màu xanh lá gừng là biểu trưng cho tháng giêng- màu xanh cây

cỏ đâm chồi nảy lộc.

- Xôi màu nâu là biểu trưng cho tháng hai- màu nâu của đất khi con

người bước vào mùa làm ăn mới khai phá đồi nương để gieo trồng.

- Xôi màu tím là biểu trưng cho tháng ba- màu tím thủy chung tưởng

nhớ tới ông cha, làm tết thanh minh tảo mộ.

- Xôi màu xanh nước biển là biểu trưng cho tháng tư đầu hè khí tiết

trong lành, mây trời trong xanh như nước biển.

- Xôi màu đỏ thẫm là biểu trưng cho tháng năm- là màu máu của dân

phải đổ khi đánh nhau với giặc Hán.

- Xôi màu vàng biểu trưng cho màu bất hạnh tháng sáu, đồng bào phải

ẩn dật gian nan vì phải tạm rút lui vào rừng để bảo toàn lực lượng chuẩn bị tinh thần tiếp tục chiến đấu.

- Và xôi màu đỏ tươi (đỏ cờ) biểu trưng cho màu chiến thắng giặc Hán

ngày mồng một tháng bảy.

Thật là những biểu trưng văn hoá đầy tính nhân văn.

Đó là toàn bộ nội dung, nguồn gốc cũng như ý nghĩa lịch sử văn hoá

của tết cổ truyền mồng một tháng bảy. Từ đó đến nay, lễ tết mồng một tháng

bảy trở thành lễ tết cổ truyền của dân tộc Nùng sau tết nguyên đán. Trải qua chặng đường lịch sử với biết bao thế hệ con cháu nhiều tập tục trong lễ tết đã

mai một không còn duy trì được (ví dụ như việc làm sàn cúng trời, rừng

chuối không còn phổ biến, chỉ có con trưởng mỗi dòng họ đại diện làm và

cúng mà thôi, xôi 7 màu cũng không làm đủ chỉ 3-4 màu, thậm chí có nơi

ngại làm còn dùng phẩm nhuộm một cách loè loẹt vừa mất ý nghĩa vừa kém

thơm ngon...). Song riêng bản thân lễ tết hầu như vẫn duy trì tồn tại từ thế hệ

này sang thế hệ khác, năm này đến năm khác. Đặc biệt đôi đũa đỏ và xôi 7

màu vẫn còn duy trì gắn liền với mỗi người dân người Nùng và chỉ có tết tháng bảy mới làm mà thôi. Đó cũng là hai di sản văn hoá vật chất phản ánh

những giá trị lịch sử và văn hoá của lễ mồng một tháng bảy của người

Nùng./.

Page 138: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

188

V.T.C

Page 139: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

190

hội mừng MùA măng mọc

Song Phạm

Mùa xuân tới, nơi núi rừng Tây Bắc, khi những cơn mưa rừng

trao nước cho dòng suối, khi cây lá đâm chồi, ra lộc, khi hoa ban nở

trắng rừng và khi con người khắp nơi hào hứng đón chào một năm mới

tốt lành, thì cũng chính là khi bà con dân tộc Khơ Mú, Thái đen, Mảng,

Xá, Kháng... tổ chức lễ hội mừng mùa măng mọc. Đây là một trong

những tục lệ không thể thiếu của người dân Khơ Mú cũng như của nhiều

tộc nhiều khác vào dịp năm mới nhằm vui chơi cho thoả những ngày

cặm cụi cuốc đất phá nương. Hơn nữa, lễ hội này còn là chốn để người

dân gửi đến thần linh lời khấn cầu, mong cho cuộc sống phồn thịnh, hoa trái tốt tươi, mùa màng trĩu hạt, con người an khang, vui vẻ... Với con

người nơi đây, mùa măng mọc là một sự kiện biểu hiện niềm vui và biểu

tượng đầy sức sống, sức vươn lên của cộng đồng.

Ngày lễ đến gần. Các bản được sang sửa sạch đẹp. Dân bản, già

trẻ, gái trai tươi mới, hớn hở trong trang phục ngày hội của dân tộc mình,

tíu tít rủ nhau đến bãi trống, bìa rừng hay ven suối, nơi dành cho hội họp,

vui chơi của bản làng. Không khí vừa trang trọng, vừa bâng khuâng,

khiến lòng người náo nức.

Trên bãi người ta đặt một bàn thờ lớn, nhiều khi là một khung thờ.

Giữa khung thờ là một cây tre cao, trạm trổ, trang trí rất đẹp mắt, gắn

đầy hoa (cây nêu). Cạnh cây nêu là một cây chuối chôn lộn ngược, củ

được đẽo tạc thành hình đầu linga (sinh thực khí nam). Dưới cây chuối là

những búi cỏ, xung quanh là những khóm sả, khóm khoai sọ lúc líu củ,

những khóm măng vầu và những quả bầu hình be rượu, (có nơi lại trồng

cây chuối lớn, quấn hoa, treo con giống bằng tre, những hạt giống, một cây vũ trụ tượng trưng cho sự giao hoà thiên nhiên - con người).

Bắt đầu cuộc lễ, ông chủ lễ mặc áo đỏ, quần đen, vấn khăn đầu,

thay mặt dân làng làm lễ tạ thánh thần, đọc lời khấn cầu thần linh ban

cho mưa thuận gió hoà, khoai lúa tốt tươi, con người và muôn vật sinh

sôi nảy nở, bình an, khoẻ mạnh ... Tất cả dân bản đứng thành kính xem

ông chủ lễ khấn, chỉ lẩm nhẩm theo chứ không có động tác lễ bái gì.

Khấn xong, ông chủ lễ rửa mặt bằng nước pha ớt để làm phép. Trong khi

Page 140: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

191

đó, phía trước khung thờ, cách nơi ông chủ lễ đứng khoảng vài mét, tám

cô gái đẹp, trinh bạch được chọn lựa kỹ càng, dàn hàng ngang. Mỗi cô hai tay cầm hai ống tre lớn, rỗng hai đầu, có độ dài khác nhau. Khi lễ

xong, các cô vừa hát dân ca dân tộc mình, vừa gõ các ống tre xuống một

tấm ván, tạo thành tiếng đệm bum bum nghe rất vui tai. Trong khoảng

trống giữa các cô và bàn thờ, một người đàn ông mạnh khoẻ, cởi trần,

mặc quần ngắn, đeo trước bụng một khúc gỗ tròn, dài khoảng 40 - 50cm

đẽo thành hình linga, nhảy múa trước mặt các cô gái. Theo từng bước

nhún nhảy của người múa, linga lúc thì dựng lên, lúc lại nằm song song

với chân người. Cứ chốc chốc, người đàn ông lại tiến gần đến các cô gái và khi gần cô nào thì cô đó chìa lòng ống tre ra để ông đưa mẩu gỗ lọt

sâu vào trong ống. Cứ như vậy, điệu múa giao đãi âm dương lặp đi lặp

lại trong tiếng hát dân ca, tiếng chiêng trống lúc đều nhịp, khi dồn dập

tưng bừng, trong tiếng reo cười sảng khoái của bà con dân bản. Trong

không khí vừa linh thiêng, vừa hồ hởi, không ai có cảm giác đó là những

hành động tục tĩu mà ngược lại, người ta cảm thấy mãn nguyện vì đó

chính là tượng trưng cho lời cầu mong mọi sự tốt đẹp, một nguyện vọng

phồn thực hồn nhiên và mộc mạc, cầu cho vạn vật sinh sôi, cầu cho măng mọc, hoa nở, cây trái đâm chồi nảy lộc.

Sau lễ tế thần và điệu múa giao đãi âm dương, mới thực sự là lúc

con người vui như hội. Trẻ, già, trai gái với những bộ trang phục dân tộc

đẹp nhất, mới nhất kéo nhau ra bãi dự hội. Gia đình nào cũng mang hũ

rượu cần của mình ra bãi trống, mời mọi người cùng uống, tạo thành một

không khí náo nhiệt hiếm có. Say men rượu, say men tình, say câu

chuyện, họ hàn huyên cởi mở với nhau, giải toả khúc mắc và giận hờn; cho qua những chuyện mà ngày thường không thể cho qua. Cuối cùng,

khi dàn tam chiêng và trống cái bắt đầu vào hội với âm hưởng độc đáo

của mình, mọi người tạo thành vòng tròn quanh bộ trống chiêng, cùng

nhau nhảy múa hát ca, nắm tay nhau trong một niềm hứng khởi và mối

đồng cảm vô biên. Người già say sưa nhớ lại tuổi tráng niên, con trẻ vui

chơi mặc sức, nam thanh nữ tú cùng nhau hát mưa rơi, múa điệu tăng bu,

hưn mạy, xe cắp ... quen thuộc. Và khi hoàng hôn buông xuống, một

đống lửa lớn được đốt lên, toả sáng bóng hình những người dân bản say sưa trong men rượu, cuộc tình, điệu múa, tiếng trống chiêng, say sưa với

một niềm tin không hề tắt vào kết thúc tốt đẹp của hội lễ, rằng một năm

mới tươi đẹp sẽ đến, như mùa màng sinh sôi nảy nở trên đất rừng Tây

Bắc xa xôi này. Cuộc vui lan từ rừng về bản, toả vào từng nhà, nơi, một

lần nữa, con người lại say trong men rượu, men tình bên bữa tiệc mừng

mùa măng mọc ...

Page 141: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

192

Hội mừng mùa măng mọc đã thể hiện một ước nguyện phồn thực,

một quan hệ sơ khai của người dân với thiên nhiên, coi thiên nhiên như người bạn tốt của mình và mong người bạn ấy ban cho nhân khang vật

thịnh. Đó là niềm tin, đồng thời cũng là niềm vui bất tận của người Khơ

Mú và bao tộc người khác nơi núi rừng Tây Bắc mà lễ hội mừng mùa

măng mọc, là nơi họ gửi gắm./.

S.P

Page 142: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

193

Hội mừng nhà mới

Thạch Phương - Lê Trung Vũ

Người Lô Lô hễ xây dựng gia đình thì phải làm nhà mới và ra ở riêng.

Tốt nhất là có nhà riêng khi chưa có con. Đây là công việc lớn, hết sức vất vả

cho đôi vợ chồng mới cưới. Mặc dầu vậy, theo phong tục, vợ chồng phải tự

đi tìm khu đất làm nhà, làm nương, chuẩn bị cho cuộc sống lâu dài, đồng

thời phải chuẩn bị cho lễ mừng nhà mới.

Theo tập quán, chủ nhân được thợ và trai tráng trong bản giúp đỡ làm

nhà. Ngày nhà hoàn thành, được coi là ngày hội, cả dân bản kéo đến dự. Nam thì mang rượu tới, nữ thì mang cơm, xôi, bánh... vừa là để mừng, vừa

để gánh bớt tổn phí cho chủ nhà. Thầy cúng (thầy mo) bao giờ cũng là người

được mời đầu tiên. Thoạt đầu, thầy bày những dụng cụ khai thác lâm sản để

làm nhà trước bàn thờ. Khấn xong, thầy cầm búa lần lượt gõ vào các cột

(mỗi cột ba cái), như để thử gỗ và kiểm tra toàn bộ ngôi nhà, cầu mong cho

mọi người trong ngôi nhà mới đều gặp may mắn, khỏe mạnh. Vừa gõ, thầy

vừa hát bài hát Thử gỗ, giới thiệu các loại gỗ và chúc tụng chủ nhà. Đi hết

một vòng quanh các cột nhà, bài hát cũng vừa kết thúc.

...

Cột nhà ta đã thử,

Gỗ rừng ta đã dùng,

Chín cột, mười cột cứng,

Nhà này thật là vững...

Nhà hợp nữ, hợp nam

Nhà hợp trời, hợp đất...

Sau khi thầy cúng thử cột nhà xong, chủ nhà bê ra một quả bầu to để

mời mọi người đập vỡ. Ai cũng hăm hở lấy tay đấm để vui cùng chủ nhà.

Quả bầu vỡ được đem đi nấu để mọi người cùng ăn. Theo truyền thuyết của

người Lô Lô, quả bầu do rồng sinh ra và là "nhà ở" đầu tiên của họ. Nay giữ

tục đập bầu trong hội mừng nhà mới là để nhớ lại một truyền thuyết xa xưa.

Chủ nhà đứng lên mời chào và khai mạc cuộc rượu:

Người tóc trắng ngồi trên,

Page 143: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

194

Người tóc đen ngồi dưới.

Mời người già nhắm rượu,

Mời người trẻ "gắp rau" 1

Ăn uống xong, một số nghệ nhân mang kèn, sáo tới hòa tấu thâu đêm,

suốt sáng. Cùng lúc ấy, quanh bếp lửa ở trung tâm ngôi nhà, các cụ già ngồi

hút thuốc, thưởng thức vẻ đẹp ngôi nhà mới, ca ngợi và chúc tụng theo trí

tưởng tượng phong phú của từng người. Trong khi đó, đám người trẻ cùng

nhau hát đối đáp. Chủ đề của cuộc hát tập trung miêu tả lại quá trình vất vả

của cặp vợ chồng để xây dựng nên ngôi nhà hôm nay.

Cuộc hát chậm rãi, vừa đối đáp, vừa tự sự, và nhấm nháp rượu cho đến khi trời sáng. Lúc này mọi người ra về và hẹn sẽ gặp nhau vào cuộc hát đêm

sau.

Đêm thứ hai là đêm hát giao duyên. Có thể nói đó là đêm hát của thanh

niên. Họ chia thành hai phe nam nữ. Nữ đóng vai chủ, nam đóng vai khách.

Chủ khách giao duyên qua những câu hát đối đáp.

Chủ : Đêm nay là đêm gì?

Mà sáng rừng, sáng núi.

Chúng ta mừng nhà mới...

Khách:Tối nay là tối gì?

Mà bếp lửa reo sáng.

Đêm nay là đêm gì?

Mà hát vui làng bản.

Cứ thế, ban đầu là những câu hát làm quen, rồi chuyển qua tự sự, cuối

cùng là những câu hát ngỏ lời. Càng về khuya, lời ca trữ tình càng thêm đằm

thắm.

Hội mừng nhà mới của người Lô Lô không chỉ là niềm vui lớn của một

gia đình, mà cũng là ngày hội chung cho xóm bản. Người ta coi ngôi nhà là

tượng trưng cho sự đoàn tụ, hạnh phúc của gia đình, một thành viên không

thể thiếu của cộng đồng. Mừng nhà mới là cơ hội biểu hiện một mỹ tục gắn

liền với nếp nghĩ, nếp sống truyền thống, ý thức tương thân tương ái của

người Lô Lô./.

T.P - L.T.V

1 Tức thịt, theo lối nói khiêm tốn của người Lô Lô.

Page 144: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

195

Page 145: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

196

hội múa sư tử

Lã Văn Lô

Múa sư tử là một trò chơi dân gian rất phổ biến trong đồng bào

Tày Nùng. Đồng bào, chủ yếu là thanh niên ra lập hội múa sư tử không

những để biểu diễn, vui chơi trong tháng tết, đặc biệt là trong các hội

lồng tồng để cầu mùa màng, mà còn để rèn luyện thân thể và học một số

môn võ nghệ để tự vệ, chống giặc cướp trước đây thường xảy ra ở các

vùng biên giới.

Hội múa sư tử thực chất là một hội quyền thuật. Trung bình mỗi hội múa sư tử có khoảng 15, 16 hội viên trong đó có một thày dạy võ (lạo

slay) một ngoại giao viên (tông cha). Thầy dạy võ có nhiệm vụ hướng

dẫn việc múa sư tử, dạy võ cho hội viên, đi lên rừng hái thuốc để hội

viên ngâm rượu uống để xoa bóp cho rắn gân rắn thịt, hoặc để chữa cho

hội viên trong khi luyện tập, đấu võ bị thương tích. Nghĩa là thày dạy võ

phải biết cả nghề thuốc nam, dạy cho hội viên biết một vài môn thuốc

thường thức cần thiết, đặc biệt là các môn thuốc chữa thương tích. Ngoại

giao viên thì chịu trách nhiệm giao dịch với bên ngoài để tổ chức các buổi múa sư tử, viết thiếp mời bà con đến xem biểu diễn.

Dụng cụ múa sư tử gồm có một trống nhỏ, một thanh la, một đôi

não bạt một đầu sư tử loại trung (gọn nhẹ để biểu diễn), một mặt nạ dười

ươi, hai mặt nạ khỉ, các thứ võ khí như gậy, đinh ba, mã tấu, song đao,

tay thước v.v... Con sư tử nào đã múa lâu năm đeo thêm một băng vải

đen ở cổ (để nói lên sự lão luyện trong nghề) và được các con sư tử đàn

em tôn trọng.

Muốn trở nên một hội viên múa sư tử ít ra phải được rèn luyện

qua một khóa võ nghệ, gọi là một "pùn" trong 40 ngày, dưới sự chỉ dạo

của một thầy dạy võ. Người nào muốn được thực sự tinh thông võ nghệ

thì tìm thầy giỏi đến dạy thêm vài ba khóa.

Đồng bào tổ chức học võ vào khoảng tháng mười âm lịch sau vụ gặt mùa, vùng học về đêm để khỏi ảnh hưởng đến công việc sản xuất. Món ăn bồi dưỡng sau buổi luyện tập là cơm nếp, đu đủ chín và rượu thuốc, tốt nhất là rượu ngâm tay gấu, tức là "hùng chưởng".

Page 146: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

197

Một buổi biểu diễn có hai phần, phần múa sư tử và phần biểu diễn quyền thuật, đấu võ, biểu diễn một số tiết mục xiếc như nhào lộn, nhảy cao, trồng cây chuối, đi bằng tay. Có hội luyện được môn "quá tu pịa" (vượt cửa dao), kỹ thuật rất cao. Trên bàn, người ta dùng dao gậy, đinh ba buộc vào nhau thành một chiếc cửa nhỏ vừa lọt thân người. Các võ sĩ thu mình gọn như chiếc thoi, hai tay chập vào nhau, dún mình phi thân nhảy băng qua cửa dao như con cá vượt sóng.

Múa sư tử cũng chỉ là một điệu múa võ, nhất là trong khi sư tử đùa nghịch với bộ ba đười ươi và hai khỉ. Đười ươi và khi tìm đủ mọi cách để trêu trọc sư tử. Con thú dữ này nhiều lúc phát khùng lên nhe răng ra định ngoạm đầu đười ươi và khỉ, nhưng lũ này dùng đủ miếng võ để né tránh một cách hết sức tài tình. Trong hội "lồng tồng", theo tục lệ, con sư tử nào đến trước giữ vai trò đàn anh, có quyền chủ trì các buổi biểu diễn. Con đến sau phải đeo vào cằm con đến trước một miếng vải đỏ gọi là "quá hồng" để thừa nhận quyền đàn anh. Trường hợp tranh chấp, người ta tổ chức đấu miếng giữa các con sư tử. Con nào quật ngã đối phương sẽ được nhận vai trò đàn anh. Trường hợp này, mỗi bên đều chọn một tay quyền thuật giỏi để múa đọ tài với đối phương. Nhiều khi, chính bản thân thầy dạy võ phải đứng ra đảm đương việc này.

Đồng bào Tày Nùng rất thích xem múa sư tử, không những vì nó lành mạnh, vui nhộn khỏe khoắn, mà vì đồng bào còn cho rằng, kỳ lân sư tử xuất hiện là một điềm lành, một cảnh tượng thái bình. Theo tín ngưỡng dân gian, múa sư tử diệt trừ được ma tà, quỉ quái, nhất là diệt trừ được ma ôn dịch, tránh được nạn toi gia súc.

Đồng bào Nùng có câu hát múa sư tử mừng xuân :

Tào mộc nư chu sầy hon hỉ

Kỳ lằn sáy chỉ hùng kha cai

(Cây cỏ khắp nơi đều vui vẻ

Phố phường rực ánh bóng kỳ lân!)./.

L.V.L

Page 147: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

198

Hội róng poọc

Sần cháng

Róng poọc cũng có thể mang nghĩa xuống đồng. Song đây là ngày

hội, do đó, chúng tôi muốn làm rõ hơn hai từ Róng poọc trong tiếng

Giáy.

Trong tiếng Giáy róng là xuống, nhưng poọc lại chưa phải hoàn

toàn nghĩa là đồng, mà mang nghĩa hội nhiều hơn, bởi vì poọc ở đây chỉ

đông người, như vậy, ta có thể hiểu hai từ róng poọc là hội (đã có hội ắt

phải đông người) được tổ chức ở cánh đồng.

Người Giáy ở Lào Cai, trong 12 tháng (tính theo âm lịch) chỉ trừ

tháng 11 là không có ngày ăn tết, còn lại 11 tháng, tháng nào cũng có

ngày ăn tết, nhưng để vui chơi thì chỉ có tháng giêng, tháng hai, tháng ba,

tháng sáu, tháng bảy. Vui chơi gần với ý nghĩa hội thì chỉ có tháng giêng, đó là hội róng poọc.

ở làng Giáy nào cũng có róng poọc và người ta tổ chức đúng vào

ngày Thìn trong tháng giêng (tháng tết). Người Tày ở Lào Cai, Lạng

Sơn, Cao Bằng, Hà Giang cũng tổ chức hội đó, song, về chi tiết có nét

khác nhau, cho nên ở đây, chỉ giới thiệu về róng poọc của người Giáy

Lào Cai.

Lào Cai có mười huyện, thị thì có bảy huyện, thị có người Giáy cư

trú, trong đó huyện Bát Xát là đông nhất, sau đó đến Mường Khương, Bảo Thắng, hai thị xã Lào Cai, Cam Đường rồi đến Sa Pa và Than Uyên.

Người Giáy cư trú thành luổng (làng), bán (bản), mướng (mường)

mỗi một làng, một bản, một mường đếu có thờ một vị thần riêng. Nơi cư

trú của người Giáy Lào Cai thường là ven sông, suối, thung lũng, đồng

bằng, ít khi ở sườn đồi, đỉnh núi. Nghề chính của họ là trồng lúa nước, vì

vậy, tất cả các ngày tết của các tháng đều theo sự phát triển của cây lúa

trong một vụ (ngày xưa một năm chỉ cấy một vụ lúa).

Hội Róng poọc của người Giáy được tổ chức ở trên cánh đồng

trước làng, (chúng tôi dùng từ làng để chỉ chung cho cả bản và mường).

Mỗi làng đều có một cánh đồng tương đối rộng đủ để tổ chức hội, cho

nên hàng năm cánh đồng đó gần như được làng quản lý để tổ chức cho

Page 148: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

199

ngày vui của làng, chủ của cánh đồng đó không được để nước vào hoặc

làm bất cứ một việc gì có thể cản trở đến tổ chức hội. Vì thế, người ta đã quen gọi hay đúng hơn là đặt tên cho cánh đồng đó là Ná róng poọc

(ruộng xuống đồng).

Hội róng poọc được tổ chức vào ngày Thìn tháng giêng (tháng tết);

còn đầu tháng, giữa tháng hay cuối tháng là tùy thuộc vào những yếu tố

kinh tế (có no đủ không), xã hội (có ổn định không)... và cả thời tiết nữa.

Thường là người ta thích tổ chức vào trung tuần của tháng hay cuối

tháng, bởi vì hội này có ý nghĩa là kết thúc tết, nghĩa là sau róng poọc

không còn ai vui chơi nữa, mọi người đều quay về nhà mình chuẩn bị các công cụ để làm vườn, lên nương, xuống ruộng.

Ngày hội róng poọc được chủ làng thông báo cho các gia đình

trước về thời gian, về sự đóng góp. Trước đây người đứng đầu một làng

của người Giáy được gọi là Srú hoặc pình và có một người làm rán đău

(người trong nhà người nhà quan) như liên lạc ở xã ngày nay, đi báo, đi

truyền mọi việc đến từng nhà và cũng có cả nhiệm vụ thu những thứ của

dân đóng góp.

Trước ngày róng poọc một ngày, những chức sắc của làng đến nhà chủ làng để đi mua gà, vịt, lợn (độ 30 đến 50 cân), làm vòng mặt trời.

Cách làm vòng mặt trời như sau: người ta lấy tre vót và uốn vòng tròn,

sau đó đán giấy xanh, đỏ, vàng và cắt mặt trời bằng giấy đỏ, mặt trăng

bằng giấy vàng dán vào giữa vòng, sau đó cắt con âm dương dán lên mặt

trăng. Vòng mặt trời còn có ba tua bằng hoa giấy xanh, đỏ, tím, vàng.

Ngày róng poọc, từ sáng sớm, những chức sắc trong làng đến nhà

chủ làng để cùng chuẩn bị các đồ cúng thần, cây treo vòng mặt trời v.v... Cây treo vòng mặt trời được gọi là Tòng Cón (cột còn), bằng cây mai dài

từ 10-12 sải tay, để cả ngọn, sau đó uốn cong ngọn để buộc vòng mặt

trời.

Tất cả những thứ chuẩn bị đó đều được đưa ra đồng từ khoảng bảy

giờ sáng. Việc đầu tiên phải làm là: đặt bàn thờ cúng thần, trên bàn thờ

gồm có: một bát gạo to đặt trên một tấm vải mộc trắng (vải tự dệt lấy)

cắm năm nén hương, (ba nén sau, hai nén trước), trước bát hương có năm

chén to úp miệng xuống bàn và năm chén con đặt lên trôn năm chén úp để rót nước chè hoặc rượu cúng, hai bên có hai đĩa trứng luộc nhuộm

phẩm đỏ, mỗi bên hai quả, có đĩa đồ trang trí bằng bạc (vòng cổ, vòng

tay), đĩa cá rán, hai củ măng vầu, xôi đỏ bảy bát con, bảy đôi đũa, bỏng

ngọt năm bát con, một bát nước lã, trong bát có năm hào bạc trắng, bát

Page 149: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

200

nước lã để làm phù phép, sáu quả còn, mỗi bên bàn cúng ba quả (những

quả còn này là của các cô gái chưa chồng). Đằng sau bàn cúng thần đặt một ghế băng, trên ghế băng có một chăn chiên gấp gọn đặt lên ghế, hai

đầu ghế thì một đầu có một gánh cỏ non độ một chét tay nhỏ, một đầu có

một gánh củi con chẻ nhỏ, cũng độ một chét tay nhỏ. Sau việc đặt bàn

cúng, người ta thắp hương vào bàn thờ và làm lễ chôn cột còn. Thắp ba

nén hương, đốt vàng mã, đào lỗ tại nơi thắp hương đó, sau đó thầy cúng,

chủ làng, vài người già và một số thanh niên bắt đầu nâng cột, đặt vào lỗ

và chôn chặt theo hướng của vòng mặt trời quay về đông.

Tiếp những công việc trên, thầy cúng bắt đầu khấn:

Vấn ní đi - Ngày này tốt

Pi ný lỳ - Tháng này lành

Đắp pi cẩu - Tắt năm cũ

Háu pi mỏ - Vào năm mới

Tò pướng Sró - Cả làng vui

Sính Srảy pướng táu nằng - Mời thần đến ngự trị.

Sằm văn Sró hún lai - Cùng ngày vui mọi người.

Tiếp theo xin âm dương. Vật dùng xin âm dương là một đoạn cành

đào dài độ ngón tay trỏ, chặt vát hai đầu, chẻ đôi, khi một mảnh sấp một

mảnh ngửa là được - nghĩa là thần đã đến; nếu không sẽ tiếp tục xin đến

khi được mới thôi. Mời được thần đến rồi thì lấy bát nước trắng trên bàn

cúng coi như đã được thần phù phép vào và đem tưới lên lợn, gà, vịt, rồi

mổ.

Sau khi lợn, gà, vịt được luộc chín, mâm cỗ cúng thần được bày lên gồm có: thủ lợn, bốn chân lợn, hai miếng thịt, mỗi miếng độ một cân, hai

bên là gà, vịt, một bát nước canh luộc thịt, năm lưng bát cơm trắng và

những chén nước chè cúng ban đầu đã được thay bằng rượu trắng.

Ngoài mâm cỗ chung ra, mỗi nhà - tùy theo điều kiện, không nhất

thiết phải có: một mâm cỗ, trên mâm gồm một con gà luộc, một đĩa cá

rán hoặc trứng rán, hai củ măng vầu nếu có, hai quả trứng vịt luộc nhuộm

phẩm đỏ, ba đến năm bát bỏng, hoa quả, bánh kẹo (nếu có) và một quả

còn. Tất cả các mâm cỗ đều hướng về nơi thờ thần làng, vị thần này được thờ ở trước làng hoặc bên sườn của làng, không bao giờ sau làng. Thần

làng được người Giáy thờ là vị thần không xác định, đều có tên gọi

Page 150: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

201

chung là: Srảy, pướng (quan làng). Và đã có làng (có người cư trú) thì

đều có thờ thần làng.

Ngoài mâm cỗ cúng trong ngày hội còn có đội kèn pí lè, có một

trống to làm hiệu thông báo, có các trò chơi khác như đánh mạt chược,

xóc đĩa (đánh bạc), thanh niên nam nữ thì đánh còn, đánh én, đánh quay,

chơi bập bênh...

Khi cúng tế trong ngày hội róng poọc, thày cúng phải mặc áo dài

cài khuy nách (như áo cổ của người đàn ông Trung Quốc), những người

khác được mặc bình thường. Thày cúng thắp ba nén nhang, vái ba lần rồi

cắm vào bát nhang, sau đó đọc bài cúng:

Vắn ný đi - Ngày này tốt.

Pi ný lỳ - Năm này lời

Đắp pi cẩu - Hết năm cũ

Háu pi mỏ - Vào năm mới.

Tò bán, tò pướng - Cả làng, cả bản

Róng poọc, ọc tòng - Xuống đồng, ra bãi.

Cuộc Sró riêu - Làm vui chơi

Sính Srảy pướng táu nằng - Mời thần làng về ngự.

Páo hắu bán luổng đi - Giữ cho bản, làng yên

Páo tắm pra, ná háu - Giữ ao cá, ruộng lúa

Chẹt bỏ đáy, cháy bỏ mý - Ôm không vào, đau không có.

Háu rim ná, pra rim tà - Thóc đầy ruộng, cá đầy sông....

Rồi lại gieo quẻ xin âm dương và cúng, nội dung chủ yếu là: Thịt

lợn, thịt gà, vịt béo ngon, có măng mới, có rượu ngon, thần ăn rồi ăn nữa, uống rồi uống thêm, rồi bảo vệ cho xóm làng bình yên, ngô lúa tốt tươi,

trâu bò, lợn gà đầy chuồng, cá đầy sông, người không đau ốm... Trong

bài cúng còn có đoạn: "Thần ăn xong còn xin dọn, thần ăn xong còn xin

cất và mời thần trở lại nơi thần đã ngự...". Sau đó, đốt vàng mã và thầy

cúng lấy tất cả các quả còn có trong ngày hôm đó đến vái trước bàn thờ

thần.

Làm xong thủ tục trên thì mời những người cao tuổi, nam đứng một

bên, nữ đứng một bên và lấy những chiếc còn đã được "ra mắt" thần ném tượng trưng ba lần giữa nam và nữ. Sau đó là thanh niên ném còn với

Page 151: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

202

mục tiêu làm thủng vòng mặt trăng mặt trời trên ngọn cột. Khi đã ném

thủng vòng mặt trời mặt trăng, người ta lấy chiếc còn ném vái ba vái, sau đó thầy cúng, chủ làng rót bốn chén rượu đỏ (có phẩm đỏ) mỗi đôi nam

nữ đó mỗi người hai chén và mỗi người được thưởng hai nào bạc trắng.

Xin lưu ý thêm điều này, năm nào mà ném không thủng là người ta phải

dùng súng bắn bằng thủng, nếu không năm đó sẽ không yên ổn. Tiếp

theo là lễ kéo co (gọi là kéo mây, tức dây mây) bằng dây song to, bền,

gốc của dây về hướng đông, ngọn về hướng tây. Lúc đầu kéo tượng trưng

mời những người có tuổi kéo trước, phía gốc của dây là nam, ngọn là nữ.

Kéo tượng trưng ba lượt đi ba lượt về, sau đó là thanh niên khỏe mạnh, nhưng không được kéo đứt dây, năm nào để đứt dây là năm đó sẽ không

yên ổn. Sau một hồi kéo, phía đằng ngọn giả vờ thua, phía gốc thắng và

một người kéo thẳng dây song đó về phía nhà chủ làng. Kéo mây xong,

thầy cúng thắp ba nén hương và ba tờ giấy vàng đến gốc cột khấn, cắm

hương rồi chặt hạ cột xuống. Ngay hội kết thúc và người ta chuẩn bị hai

con trâu khỏe với cày để cày khoảng ba đến năm đường cày tượng trưng

cho một vụ mùa mới bắt đầu.

Tiếp đó là việc ăn. Mâm cúng của nhà nào nhà ấy đem về, còn mâm cúng thần được ăn chung tại nơi tổ chức hội, nghĩa là mỗi nhà một

người, tự đem cơm, rượu... đến, còn thức ăn sau khi làm xong, các mâm

trải lá trên mặt đất, thức ăn sẽ được chia đều cho các mâm, mâm nào

không hết họ lại tự chia đều cho nhau đem về nhà. Trước lúc vào ăn, chủ

làng thông báo những việc mọi nhà phải nhớ và làm theo như: Cấm chặt

cây xanh ở rừng nào, rừng nào được lấy củi, thời gian thu, chăn thả gia

súc; làm đường đi, đào mương, đắp đập, ngăn suối; chống trộm cướp, giữ gìn trật tự, an ninh thôn bản... Ai làm trái hoặc không thực hiện sẽ bị phạt

lợn, gà, vịt, gạo, rượu, bạc trắng, làm đường... và, như vậy, cả năm chỉ có

một cuộc họp đó, nhưng mọi người nghiêm túc thực hiện, người vi phạm

không kể thân quen đều bị xử phạt như qui định. Ăn xong bữa cỗ cũng là

kết thúc hội, kết thúc một tháng ăn chơi và bước vào một năm mới lao

động vất vả.

Có thể nói thêm, sau khi ăn bữa ăn tập thể đó, các chức sắc có thể

kéo đến nhà chủ làng vui đến khuya, nhưng rượu thịt và người phục vụ là do chủ làng tự chịu.

Hội róng poọc của người Giáy là hội xuân. Ngày hội này, theo suy

nghĩa của người Giáy là: Hội để kết thúc một tháng vui chơi (tháng Tết):

Đươn xiêng đươn dủ vảng - Tháng giêng tháng nhàn rỗi

Page 152: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

203

Đươn tức chẳng có cú - Tháng đánh quay chơi bóng

Đươn phung lú pú nòi - Tháng tuổi trẻ phong lưu...

Đồng thời chính để mở đầu cho một năm mới lao động và, trong tư

tưởng (hạt nhân cơ bản của ngày hội) đây còn là một lễ cúng thần cai

quản địa bàn, để thần phù hộ cho ngô lúa tốt tươi, mùa màng phong

đăng, chăn nuôi phát triển, xóm làng bình yên, mọi người khỏe mạnh. Vì

vậy, với một lý do nào đó mà không tổ chức được, thì năm đó mọi nhà,

mọi người làm ăn thấp thỏm và hễ có một sự cố nào đó xảy ra của tự

nhiên, như lũ lụt, sạt lở ruộng nương, bệnh dịch.... người ta sẽ cho là do không "róng poọc".

Các tộc người khác sống xung quanh cùng chia sẻ, cũng mong đợi

như người Giáy. Cái "hội", cái vui chơi đó là của tất cả mọi người quanh

vùng làng Giáy.

Người Giáy quan niệm: Trời là cao nhất, trời sinh ra tất cả: lành,

dữ, tốt, xấu; "tiên" cũng ở trên trời, nhưng "tiên" chủ yếu làm ra điều tốt,

lành. "Thần" là ở dưới trần gian, người trực tiếp làm ra những điều lành,

dữ, tốt, xấu. Do đó lễ cúng thần trong ngày hội róng poọc cũng là cúng cả trời, cả "tiên", cả "thần". Hội "róng poọc" vừa là vui chơi, nhưng lại

vừa cầu trời đất, thánh thần phù hộ cho sản xuất, cho cuộc sống của cả

làng bình yên. Người Giáy nghĩ như vậy, luôn luôn mong được như

vậy./.

S.C

Page 153: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

205

hội xuống đồng

Trần Hữu Sơn

Hội xuống đồng - lễ hội cầu mùa đặc sắc của nhiều tộc người.

Qua miêu thuật hội xuống đồng của người Tày ở một bản cụ thể, bản

Làn xã Khánh Yên huyện Văn Bàn tỉnh Lào Cai, chúng tôi cố gắng lý

giải đôi điều.

Bản Làn có 68 hộ, với 363 nhân khẩu thuộc các dòng họ lớn như

Lục, La, Vi, Hoàng... Dân bản sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước.

Hằng năm, vào ngày 5 Tết, bản Làn lại tấp nập mở hội xuống đồng, nhưng thực ra, quá trình chuẩn bị hội diễn ra từ trong năm. Các dòng họ

trong bản đều phân công lo các phần việc như chọn dây song để kéo co,

chọn cây còn, lễ vật cúng chung ... Đêm 30 tết, khi gà gáy canh một, đại

diện các dòng họ cùng ông vua làm lễ rước nước thiêng về bản, nước

được lấy ở nơi mạch nước đang tuôn chảy ở đầu nguồn suối Hin đón.

Sau khi lấy đầy bầu nước chung của bản và các ống nước mới của từng

gia đình, nam nữ thanh niên còn vui vẻ té nước lên người nhau. Trong

tiếng chiêng rộn rã, một đôi nam nữ thanh niên cẩn thận khiêng quả bầu lớn đựng nước nguồn về làng. Quả bầu đựng nước được trịnh trọng đặt

trên bàn cúng của ông thầy mo. Sáng 5 tết, đoàn người đến đón ông mo

đi mở hội, đi đầu là mo và bầu nước nguồn, đi sau cùng là hai người

khiêng trống vừa đi, vừa đánh. Địa điểm mở hội là ở giữa cánh đồng Nà

Noi lớn nhất bản, lại gần bờ suối.

Chính giữa cánh đồng dựng một dàn cúng bằng tre, nửa cao

khoảng 1,2m, rộng 40 cm, theo hình chữ U. Phần trang trọng nhất là dàn cúng chính đặt ở hướng đông. Phía nam dàn cúng đan cài những cành lá

đao (cây báng họ cau cọ thường lấy bột làm lương thực, nấu rượu). Mâm

cúng của ông mo đặt ở giữa dàn cúng. Trên mâm có bát nước (lấy trong

bầu nước thiêng) đáy bát có một đồng bạc trắng, một đĩa xôi đỏ, một đĩa

xôi vàng, một con gà nhỏ luộc chín, một xâu cá nướng, một bát tiết, một

con dao nhọn, một bó vải mới dệt. Hình nộm hai con cá làm bằng giấy

bản màu vàng, hai con chim én làm bằng giấy bản màu đỏ, hai chùm hoa

bằng hạt gạo rang đều cắm trên những mảnh bẹ thân chuối để trang trọng trong mâm. Hai bên mâm cúng của thầy mo là hai chùm quả đao.

Tiếp theo hai bên mâm cúng của thầy mo là mâm của các chức dịch và

Page 154: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

206

dân làng, cuối dàn cúng là mâm của những người mới chuyển về bản

trong năm. Các mâm cúng của chức dịch và dân chủ yếu là các món ăn, không có bát nước, con dao, đĩa tiết.

Một hồi chiêng vang lên, lễ cúng mở hội bắt đầu. Thầy mo cung

kính đọc bài cúng mời thần bản, thần các con suối (nữ thần) thần các

ngọn núi (nam thần) về dự lễ cúng. Nội dung bài cúng cầu mong "lúa tốt

như cỏ lau, cỏ lác, hạt to như quả đao không có sâu cắn phá, cá nằm chật

suối, chật ao, trâu, lợn đầy đàn, gà vịt đầy sân, người người khoẻ mạnh,

nhà nhà đông con, bản thêm nhiều trẻ nhỏ, xóm không người yếu đau...".

Cúng xong, thầy mo một tay cầm bát nước, một tay cầm dao lia bốn lần trên bát nước, cắt ngang dọc theo bốn phương, tám hướng, thầy mo ngậm

nước phun bốn phương, tay cầm bạc trắng vẩy bốn hướng.

Cúng xong ở dàn cúng chính, thầy mo lại trịnh trọng đến cúng tại

cột cây còn. Cây còn là một cây mai dài, có lá, ngọn uốn cong thành hình

tròn đường kính khoảng 40cm. Một bên hình tròn (phía đông) dán giấy

đỏ (tượng trưng cho mặt trời), một bên dán giấy vàng (phía tây) tượng

trưng cho mặt trăng. Thân còn được kết thêm một cành lá đao. Dưới gốc

còn là mâm cúng chung của cả bản gồm có một con gà trống to luộc, một đầu lợn luộc, xâu cá nướng và hai đĩa xôi màu đỏ, màu vàng, hai quả còn

(trong nhồi thóc, hạt bông, cát) có tua màu đỏ. Sau khi cúng xong, thầy

cúng tung cao quả còn cho các chàng trai tranh cướp đầy náo nhiệt và vui

vẻ. Chàng trai nào cướp được quả còn của ông mo đầu tiên cũng là người

đầu tiên ném còn, mở cuộc vui. Các quả còn liên tiếp bay lên hạ xuống

hai bên nam nữ. Chàng trai ném qua phông còn cho thiếu nữ bắt. Các

thiếu nữ tung còn cho các chàng trai. Ai cũng náo nức thi nhau ném trúng phông còn. Phông còn thủng, người ném trúng sẽ được thưởng hai vuông

vải đỏ. Và, quả còn ném thủng phông còn sẽ được ông mo rạch ra, lấy

hạt bông, hạt thóc trộn với thúng thóc rang, tung lên đám đông người dự

hội. Mọi người chen lấn, xô đẩy nhau, ôm vạt áo hứng cho bằng được vài

hạt thóc rang, mong nhận được phần nhiều.

Hết trò ném còn là đến trò kéo co. Lúc đầu, kéo co còn mang tính

nghi lễ, thường chia làm các phe như phe những gia đình ở phía trên mỏ

nước dòng suối đá trắng kéo với phe đại diện những gia đình ở phía dưới của mỏ nước. Đại diện phía thượng nguồn phải dành phần thắng. Hoặc

thi kéo co giữa đại diện gia đình ở phía đông kéo với đại diện gia đình ở

phía tây bản. Tất nhiên phải dành cho phía đông thắng, năm đó mới được

mùa.

Page 155: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

207

Một số nam nữ thanh niên lại chơi trò đánh én - đánh cầu lông (cầu

bằng ống trúc cắm ba chiếc lông gà). Mở đầu trò chơi, ông mo thường đánh với một bà già đông con ở gần cột còn, đứng theo hướng ném còn:

đông - tây. Về sau, nam nữ thanh niên chọn nơi khuất gió để đánh được

thuận lợi. Ai để cầu rơi sẽ bị véo tai hoặc phải kỷ niệm cho đối thủ một

túi thổ cẩm, hoặc một tấm khăn, thậm chí cả vòng bạc.

Hết phần kéo co, đánh én mang tính nghi lễ, một bà già đông con

trai trực tiếp đánh trống làm nhịp cho các điệu múa. Theo nhịp điệu của

trống, một tốp 12 người, 6 nam, 6 nữ cầm mộc và kiếm ra trình diễn trò

múa kiếm. Khi tiếng trống "tùng" người cầm kiếm phải đâm mũi kiếm vào mộc, người múa buộc phải ưỡn phần thân dưới, đưa mộc đỡ. Múa

kiếm kết thúc, trống, chiêng, nổi lên rồn rập, gọi mọi người cầm tay nhau

vào điệu xoè vòng. Trống ở giữa vòng xoè, xung quanh vòng xoè ngày

càng nới rộng, vì có thêm nhiều người....

Như vậy, hội xuống đồng của người Tày Văn Bàn nói riêng và của

các tộc khác nói chung là một lễ hội cầu mùa. Cả phần lễ và phần hội đều

tập trung phản ánh ước nguyện của dân làng mong ước được mùa, người

người khoẻ mạnh, sinh nhiều con cháu. Mục đích chỉ có vậy, nhưng hội xuống đồng tập trung cả một hệ thống tín ngưỡng đan xen, hoà nhập vào

nhau khó mà tách bạch. Các tín ngưỡng thường bao quanh các yếu tố ảnh

hưởng đến nông nghiệp như: nước, mặt trời...

1- Hội xuống đồng là một hội mở đầu chu kỳ sản xuất nên nó luôn

phản ánh ước mong sinh sản. Vì vậy, tín ngưỡng phồn thực thể hiện bằng

các lễ thức, ma thuật, diễn xướng hằng xuyên các hành động hội.

Một số nhà nghiên cứu đã lý giải trò ném còn là hành động tượng trưng, diễn lại ý niệm nam nữ giao phối. Quả còn tượng trưng cho nam

tính, ném vào phông còn, phá vỡ phông còn (màng trinh) sẽ được mùa,

quả còn mang nam tính nên trong nghi lễ trao còn, ông mo trao quả còn

để trên mâm cúng đã được nạp năng lượng thiêng cho các trai tráng. Và

tất nhiên, khi ném còn nghi lễ mở đầu cuộc ném bao giờ cũng là nam

giới, còn bên nhận là nữ giới. Khi ném trúng phông còn, ông mo còn

tung hạt giống (có năng lượng thiêng, có sự sinh sản mạnh) cho mọi

người tranh nhau cướp. Đó là chuyển tính chất thiêng của hành động nam nữ tính giao sang hạt giống, nhằm chia thêm chất "thiêng" cho mọi thành

viên cộng đồng. Đặc biệt, tính phồn thực còn thể hiện rõ nhất ở điệu múa

kiếm và mộc với hành động chọc thanh kiếm vào mộc theo nhịp trống.

Khi đó, người cầm mộc cũng ưỡn nửa thân dưới ra phía trước. Đương

nhiên, không thể phủ nhận là điệu múa mang đầy đủ tính chất thượng võ.

Page 156: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

208

Nhưng thực ra, cốt lõi của điệu múa là diễn tả lại hành động tính giao.

Kiếm là biểu tượng của dương, còn mộc là âm. Trong trò đánh én, én là biểu tượng của dương, bàn đánh là âm. Đánh én là sự giao hoà nam tính

và nữ tính (âm dương) cho sự sống sinh sôi.

2- Trước đây, thời điểm tổ chức hội xuống đồng vào khoảng tháng

3, tháng 4 âm lịch, là thời điểm đón những cơn mưa đầu mùa ở vùng cao

phía Bắc. Về sau do ăn Tết Nguyên đán, hội mới mở vào tháng giêng.

Nước là yếu tố quyết định của nền nông nghiệp lúa nước. Vì vậy, dấu vết

cầu mưa phản ánh khá đậm nét trong hội này. Trong các thần linh về dự

hội, bên cạnh thần núi (nam thần) còn có thần mỏ nước (nữ thần) - biểu hiện của âm dương hoà hợp. Nước để cúng trong ngày hội phải là nước

nguồn mang tính chất tinh khiết, chảy mãi không cạn. Nước được người

dân đánh chiêng rước nước về đặt trên bàn thờ ông mo nạp năng lượng.

Ngay sau lễ cúng, ông mo còn niệm chú làm tăng chất thiêng rồi ngậm

nước phun bốn hướng. Đó là hành động mô phỏng cầu mưa, mong mưa

tưới khắp trần gian. Ngay lúc đó, một hồi trống đổ vang rền như tiếng

sấm đổ hồi. Trong trò kéo co có màn kéo giữa người thượng nguồn và

người hạ nguồn và phe thượng nguồn thắng thì năm đó sẽ mưa thuận gió hoà và được mùa "kéo lên nguồn - nguồn thắng - nước tràn bờ đầy khe".

3- Cũng như nước, mặt trời là yếu tố cực kỳ quan trọng đảm bảo

cho lúa nước được mùa. Trong lễ hội xuống đồng, ta cũng gặp những

biểu tượng mặt trời và tín ngưỡng liên quan đến mặt trời.

Đó là việc làm dàn cúng chính sắp các mâm cúng quan trọng nhất

của ông mo, các chức dịch làm ở hướng đông - hướng mặt trời mọc.

Mâm cúng của gia đình nào cũng có hai đĩa xôi, xôi đỏ tượng trưng cho mặt trời, xôi vàng tượng trưng cho mặt trăng. Mâm cúng của ông mo đặt

ở vị trí trang trọng nhất, màu đỏ gần như màu chủ đạo: đĩa xôi đỏ, hai

con chim én bằng giấy đỏ, đĩa tiết gà màu đỏ ... Mâm của ông mo lại đặt

trên khoanh giấy hình vuông đỏ ...

Ngay trong một trò chơi trong hội - trò chơi ném còn cũng cho ta

những liên tưởng đến tín ngưỡng thờ mặt trời. Một bên phông còn màu

đỏ tượng trưng cho mặt trời, quả còn được ném từ đông sang tây (hướng

đi của mặt trời). Trò chơi đánh én được mở đầu bằng nghi thức ông mo tung én (biểu tượng mặt trời) cho bà già theo hướng đông - tây. Trong trò

kéo co, bên thắng cuộc phải là hướng đông (mặt trời mọc).

Page 157: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

209

Ngay vòng xoè quanh cột còn cũng chuyển động từ phải sang trái -

chiều chuyển động ảo của mặt trời. Đường vòng tròn kín này còn có ý nghĩa là biểu tượng của mặt trời.

Tất cả những tín ngưỡng trên đều nằm một mục đích mong cây lúa

sinh sôi, nảy nở. Cây lúa và hạt thóc trở thành hình tượng trung tâm của

ngày hội.

Lễ đón ông mo và mâm cúng của ông mo diễn ra trang trọng. Ông

mo đi trước, theo sau là người đội mâm cúng và người bê rổ đựng thóc

rang thành bỏng. Thóc rang là một biểu tượng của hạt giống, nó còn trực

tiếp nhận năng lượng thiêng này sau đó sẽ được phân phát cho mọi thành viên qua nghi thức lãi hạt giống. Trên bàn thờ ông mo, bên cạnh rổ đựng

hạt giống là các chùm quả đao. Khi cúng, ông mo khẩn cầu "mong hạt

lúa to như quả đao". Tại sao có hiện tượng này ?

Cây đao, người Việt gọi là cây báng, một loại cây thuộc họ cau cọ,

một là cây lương thực của người Tày. Đồng bào thường lấy bột thân cây

báng nấu độn với gạo, hoặc nấu rượu. Có thể, trước khi tìm ra lúa, người

Tày sống chủ yếu nhờ bột báng. Khi đã có lúa họ vẫn không quên cây

báng. Và, cây báng đã đi vào hội xuống đồng như là một loại cây thiêng phù hộ cho lúa, truyền năng lượng thiêng cho lúa. Lễ hội xuống đồng còn

hé mở cả lịch sử tiền nông nghiệp của người Tày - lịch sử kinh tế hái

lượm mà cây đao là đại diện.

5- Trong hội xuống đồng có sinh hoạt xoè vòng. Trống xoè treo

ngay ở cột còn. Cây còn mang biểu tượng của cây lúa thiêng, cây vũ trụ

trong điệu múa này trở thành trung tâm điểm. Đội hình múa quanh cột

còn là đội hình hướng tâm. Nguồn gốc của nó là những sinh hoạt cộng đồng quanh đống lửa thời xa xưa. Mặt khác, đường vòng này không chỉ

được tạo bởi đội hình múa mà còn là một đường vòng của các âm thanh

trống chiêng. Từ tâm điểm là cột tròn, tiếng trống sẽ lan đều xung quanh.

Bao bọc bên ngoài đội hình múa hướng tâm lại là vòng tròn dân làng

xem hội.

Có thể ngày xưa, xã hội có mang tính chất dân chủ cộng đồng cao,

cây còn mới là trung tâm tiếp nhận năng lượng thiêng của ngày hội. Từ

tâm điểm này, năng lượng thiêng lan toả đều cho mọi thành viên. Tính dân chủ cộng đồng được đề cao, mọi người đều bình đẳng đón nhận năng

lượng thiêng. Về sau, xã hội đã phân hoá vị trí nhận năng lượng thiêng từ

còn chuyển sang bàn thờ (dàn cúng theo hình chữ U). Nhưng ở đây tính

chất bình quân, bình đẳng không còn nữa. Vị trí trang trọng nhất, có khả

Page 158: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

210

năng nhận năng lượng thiêng lớn nhất là phần đáy chữ U - nơi đặt bàn

thờ của ông mo, theo hướng mặt trời mọc. Sau mâm cúng của ông mo, đến mâm cúng các gia đình chức sắc, người dân bình thường và cuối

cùng mới đến các gia đình ngụ cư. Năng lượng thiêng không chia đều mà

đã mang tính chất "đặc quyền đặc lợi" cho một số người.

Hội xuống đồng như một bể trầm tích các lớp tín ngưỡng, văn hoá

phong phú và hấp dẫn. Có lẽ nào lại để cho hội này phai nhạt dần trong

đời sống người dân vùng núi phía Bắc hiện nay ?

________________ T.H.S

Ghi chú: Có nhiều tác giả quan tâm đến Hội xuống đồng của cư dân các tộc. Chúng tôi dẫn thêm một ít tư liệu để làm sáng rõ thêm về một

hội lễ rất phổ biến này.

+ ở châu thổ Bắc Bộ:

"...Xưa, dân thường làm hai vụ lúa: vụ mùa và vụ chiêm. Tuy phần

lớn làng xã đều làm hai vụ, nhưng có nơi lại mạnh về làm lúa mùa, được

gọi là các làng đồng mùa; có nơi lại mạnh về làm lúa chiêm, gọi là làng

đồng chiêm. Theo đó mà hội xuống đồng, tuỳ làng chiêm hay mùa, mà

được tổ chức vào những thời điểm khác nhau.

ở các làng đồng mùa, hội xuống đồng tiến hành vào mồng 1-6

(âm). Còn ở các làng đồng chiêm, hội được tổ chức vào mồng 1-11 (âm).

Nhiều làng, hội này được ghi vào lệ làng (hương ước) như là một tập tục

năm nào cũng phải có.

Ngày vào hội ngay từ sáng sớm, các quan viên kỳ mục hay già làng

đã đề tựu ở đình làng làm lễ tế thành hoàng và cáo yết thần nông, các vị

thần phù hộ cho nhân khang vật thịnh và mùa màng tươi tốt. Sau đó, mọi người mới tụ tập tại vị trí đã được chọn trước (thường là cách đình không

xa), để tổ chức hội xuống đồng. Nhiều làng, lễ cáo yết các thần được tổ

chức tại nơi mở hội. Đó là một mảnh ruộng công tốt nhất được cày xới

thật kỹ, ở giữa ruộng cắm một cây tre tươi đủ cành lá để làm cây nêu.

Trên ngọn thường buộc một đụn lúa nhiều bông, chắc hạt (có nơi buộc vỉ

tre đan hình tam giác, tượng trưng cho mong ước phồn thực, sinh sôi).

Sau lễ cáo yết thần nông, hội xuống đồng bắt đầu bằng nghi thức cấy lúa.

Những người thực hiện nghi thức này được gọi là chúa đồng. Có làng chỉ có một chúa đồng. Có làng lại chọn từ 3 đến 5 chúa đồng. Đó là những

người cao tuổi, thạo nghề cấy hái, am hiểu đồng đất, lại phải phúc hậu,

đông con, nhiều cháu, mạnh khoẻ, có uy tín và đặc biệt gia đình phải hoà

thuận và không vướng tang ma. Dân làng hy vọng rằng những đức tính

Page 159: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

211

tốt đẹp đó của chúa đồng sẽ hoà nhập vào cây lúa, truyền cho lúa sức

sinh sôi mãnh liệt. Sau khi làm lễ thần nông, thổ địa, chúa đồng bắt đầu lội xuống ruộng và cấy mạ vòng quanh chân nêu. Trong khi đó, ở trên

bờ, dân làng vừa đánh trống (giả tiếng sấm) vừa hò reo vui nhộn, té nước

(giả làm mưa), ném bùn đất (giả làm thiên tai)... vào chúa đồng. Nếu

chúa đồng vẫn vững vàng, vẫn cấy đẹp, ngay ngắn thì dân làng cho rằng

ước mong mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, con người khoẻ mạnh

nhất định sẽ thành hiện thực. Khung cảnh của hội xuống đồng thật là vui

vẻ. Sau khi chúa đồng cấy được một khoảng rộng, dân làng ùa nhau

xuống cấy tiếp trong không khí hào hứng, sôi nổi với mong muốn mình cũng được thạo việc và có nhiều đức tính đẹp như chúa đồng. Sau khi

cấy xong thửa ruộng công, dân làng trở về nhà mình, ai cấy của nhà nấy.

Họ tin rằng không khí sinh sôi ở nơi kia sẽ truyền cho cây lúa của riêng

mình...". Ngọc Lưu Ly1

+ ở người Tây Bắc xưa

"Từ sớm ngày 30 Tết, dân các bản Tày tụ về khoảng đất rộng tiện

lợi nhất do quan châu chọn, thường là gần trung tâm vùng và gần con

suối trong xanh nhất, bởi họ cho rằng: Thần bản thường ở gần suối. Những ai biết thổi kèn, đánh trống đánh chiêng đều mang theo nhạc cụ

của mình đến đây rồi lập thành một ban nhạc để phục vụ cho cuộc vui

sau cuộc lễ.

Quan châu chủ trì lễ hội, thày cúng (mo) đồng thời là người lo bàn

cúng và các vật cúng tế như gà trống to luộc chín, có tiết gà chín rải ở

trên, với lợn (hoặc đầu lợn), rượu, bát nước suối trong có đồng bạc,

hương thắp và tiền ma (làm bằng giấy bạc). Cùng với thày cúng, có thầy trợ giúp (Báo mo). Dưới bàn cúng chính, dân các bản còn đem về những

gà, thịt lợn, bánh tết, hoa trái, hương nhang ... để bày thêm hai dãy đồ

cúng. Bắt đầu cuộc lễ, ông mo với dáng vẻ đường hoàng, thần bí trong

thế đứng khoanh tay với bộ phục trang: áo giống áo dài nữ nhưng không

có viền, tóc thì búi đỉnh đầu, cúng mời Thần Nước ở bốn mỏ nước: Pak

Săt, PaK Só, Pak Zặt, Pak Lảng và Thần Núi cùng với bốn thần: Pú jăng

Sắng, Pú đan Tắng, Pú khả To và Pú Lềnh về dự lễ, nhận những vật hiến

tế để phù hộ cho dân bản năm tới được mùa, và mọi nhà yên vui khoẻ mạnh. Sau những bài cúng, ông mo một tay bưng bát nước có đồng bạc

trắng, một tay cầm dao đưa trên bát nước cắt ngang dọc bốn phương tám

1 Hội xuống đồng, Báo Hà Nội mới chủ nhật số 270, tháng 5/1994.

Page 160: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

212

hướng, rồi niệm thần chú, xong ông ngậm nước phun về các phía. Đây là

một hành động mô phỏng để cầu mưa, mong mùa màng không bị hạn.

Cúng xong, đồ cúng trên bàn chính chỉ có thầy mo, quan châu, thày

phụ mo và vài người phụ lễ được ăn. Đó là những đại diện cao nhất cho

dân bản đứng ra nhận năng lượng thiêng mà trời đất đã ban cho qua các

vật hiến tế. Còn những dãy đồ cúng mà mọi người đem đến được chế

biến chung để tất cả cùng ăn, không kể người đem đến ít hay nhiều. Đây

cũng là một biểu hiện của sinh hoạt cộng đồng mà người Tày còn giữ

được trong lệ ăn chung đồ cúng này.

Sau lễ cúng và niệm chú, hai già bản có uy tín nhất, được quan châu cử, đem tới những vốc ngô rang tung vãi ra bốn phía trên không.

Lúc này, lễ đã bớt phần trang trọng, gần như là sự chuyển tiếp sang phần

hội. Tất cả mọi người háo hức, xô đến hứng những hạt mưa ngô, mong

mình được phần nhiều để năm tới mùa màng bội thu (ở Bắc Hà, ngô

chiếm vị trí rất quan trọng trong lương thực, vì chỉ có một mùa lúa).

Xong trò vãi ngô, hai già bản khác phụ trách trò ném còn (gieo

đúm) xuất hiện cùng chiếc chiêng trong tay, chọn ba đôi chơi còn cân

xứng ra bãi. Nếu các già đồng ý ai, già sẽ đưa chiêng lên ngang vai họ gõ một tiếng ... Mỗi tốp chơi được ném ba lần. Quả còn là một bọc vải tròn

bằng cái bát ăn cơm, có tua. Cô gái được cầm trái còn ném trước, qua

một vòng tròn bằng dây mây uốn treo trên cột (cây dẻ). Các đôi trai gái

được phép ném qua ném lại ba lần, nếu trúng sẽ được thưởng và người

ném trúng đầu tiên bao giờ cũng được phần thưởng cao nhất, còn nếu mà

"nam vất đi không trúng, nữ ném vào không tin" qua ba lần thì các già

trưởng trò sẽ thay ba đôi khác. Trò chơi diễn ra liên tục cho đến khi trưởng trò thấy không còn các đôi cân xứng nữa.

Khác với trò ném còn, trò đu giật cờ là trò chơi không có thưởng.

Vòng đu được kết vào ba cột gỗ (cây dẻ) chôn hình tam giác đều, ngoài

xa các chân cột có hàng rào bằng dây mây uốn hình bán nguyệt ken lại

thành vòng tròn taọ ra một bãi đu có giới hạn. Lá cờ được treo trên đỉnh

chụm của các cột đu. Mỗi lần thi, trưởng trò chọn hai đôi nam hoặc hai

đôi nữ, vòng đu bắt đầu bay với sự cố gắng của các vận động viên cùng

tiếng reo hò của những ai ngoài cuộc, hoặc của bên nam nếu trên vòng đu là nữ hoặc ngược lại. Thời gian và cả không gian cùng bay, có thể nói trò

chơi này mang tính thể thao để rèn luyện sức khoẻ và lòng dũng cảm cho

thanh niên. Trò đu tuy không có thưởng mà vẫn thu hút nhiều bạn trẻ

tham gia thật vui vẻ.

Page 161: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

213

Góc bãi này đánh đu, góc kia kéo co, nơi đó thường là bên suối.

Một sợi dây mây dài và to được đưa đến làm vật co. Thanh niên các bản chia thành hai phe, đôi khi có cả người già và thiếu niên, đứng dọc bờ

suối theo cách tính đầu nước - cuối nước. Tiếng trống chiêng vang lên là

hiệu lệnh bắt đầu cho cuộc đua sức, thể hiện sự đồng tâm hiệp lực, bên

nào thắng, mùa màng năm đó sẽ tốt hơn, mọi người sẽ không ốm đau. Có

dịp, cuộc kéo co là sự đua sức giữa nam và nữ, khi nữ thắng, người già

bảo rằng "năm nay bọn gái sẽ khoẻ mạnh hơn đấy".

ở một góc bãi khác, mọi người quây thành một vòng xoè lớn, nhảy

múa liên tục theo điệu nhạc từ ban nhạc bốn người với trống, kèn, chiêng và một cặp chũm chọe. Ai thích "xoè" thì vào vòng, mệt thì ra, người

khác sẽ thay thế ... Hình thức sinh hoạt múa này đậm nét dân dã hơn vào

buổi đêm. Mọi người cho rằng xoè đêm mới là linh hồn của ngày hội.

Khuya, hội xoè được kết thúc trong chia tay đầy lưu luyến của mọi người

và hội "Lồng tồng" - mở đầu lễ hội mùa xuân đã kết thúc với ấn tượng

mạnh mẽ của đêm xoè...". (Lan Phương) 1.

+ ở người Tày Nùng - Việt Bắc:

"Lùng tùng (tiếng Tày: lồng tống = xuống đồng) không chỉ là ngày hội tưng bừng nhất có từ lâu đời mà còn là ngày hội bao hàm ý nghiã văn

hoá tộc người của cư dân Tày, Nùng ở Việt Bắc. Về bản chất, lùng tùng

là hội cầu mùa, được tổ chức như để tổng kết một năm sản xuất đã qua và

chuẩn bị cho công việc năm tới.

Phần lớn hội diễn ra trong tháng giêng âm lịch hàng năm, cá biệt

mới tổ chức vào tháng hai, nhưng cũng ít khi vượt quá hạ tuần.

Buổi sáng tinh mơ từ đình làng đã vang lên tiếng trống, gióng ba hồi một và vào khoảng 7-8 giờ sáng thì kèm theo tiếng chiêng, đan xen

nhau rộn ràng. Đám rước thần và thành hoàng nhịp cùng chiêng trống,

tiến vào đám đất, nơi diễn ra lễ hội (thường là thửa ruộng to nhất, gọi là

nà lồng tống: ruộng xuống đồng).

Ngày hội thường bày cỗ cúng ở ngoài đồng. Theo định lệ, mỗi hộ

mang một mâm cỗ, làm tuỳ theo khả năng, nhưng cũng có nơi quy định

tiêu chuẩn theo số tráng đinh trong hộ. Vì thế, nhiều khi mâm cỗ là bộ

mặt kinh tế của mỗi gia đình và họ thi nhau làm thật thịnh soạn. Nhà nào có nhiều con gái chưa chồng, lại giàu nữa, có khi làm tới 120 món (có cả

đồ chay), gọi là pác nhí vị. Những mâm ấy, món ăn phải xếp thành nhiều

1 Vài nét sinh hoạt xưa của người Tày ở Bắc Hà. Hoàng Liên Sơn. Tạp chí VHNT số

6/1990, tr 32,34.

Page 162: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

214

tầng, nhiều lớp, do hai người khoẻ mạnh khiêng. Khi thắp hương còn

phải dùng lá chuối đậy kỹ. Lúc ông trại cúng xong, đánh trống báo "hạ ban" mới được mở ra để ăn uống. Từ khi cúng đến lúc ăn, chỉ khoảng

hơn tiếng đồng hồ và không quá mười giờ trưa.

Sau đó cuộc vui thực sự bắt đầu. Trong tiếng chiêng trống rộn ràng,

người điều khiển (không nhất thiết là ông trại) tuyên bố và hướng dẫn

cuộc vui. Các trò chơi không phải nơi nào cũng giống nhau và thứ tự sắp

xếp theo tập quán mỗi vùng. Khi chuyển mục, có những bài ca, câu khấn

xin âm dương (dùng hai mảnh gỗ tung lên xem xấp ngửa) và xin thần

phật cho phép. Thực ra, mọi người chỉ chăm chú nghe lời khấn chứ không mấy ai để ý tới việc thần thánh đồng ý hay không. Thông thường

có một số trò chơi:

- Tung còn (tức còn, đỏn còn, tọt còn). Có hai loại, loại tung tự do

nhưng trực tiếp phục vụ nội dung cầu mùa: người ta dựng một cột

(thường là cây mai) cao 20-30 mét, đỉnh cột có vòng tròn dán giấy đỏ

điểm hồng tâm. Lối tung này đòi hỏi sức khoẻ và kỹ thuật. Chàng trai

nào tung còn thủng vòng giấy là được. Năm nào không có ai tung thủng,

làng bản mất vui vì cho rằng sẽ mất mùa, đói kém. Có nơi, sau ngày hội phải tổ chức tung lại cho được mới thôi. Bởi thế trong ngày hội, ai tung

được đầu tiên được coi như ngôi sao sáng trong năm, mọi người thán

phục và lĩnh phần thưởng của làng. Loại thứ hai: tung còn theo từng phe

nhóm, có khi là các đôi, các nhóm trai gái giữa các làng với nhau, tính

được thua bằng số lần ít nhiều để còn rơi xuống đất.

- Kéo co (xẻ thỏi, kẻo tỏi). Trò chơi này được thi theo làng, cũng có

khi theo khối dân cư ở vị trí địa lý đông, tây, nam, bắc. Trước khi thi, bao giờ cũng chia làm hai phe đông - tây, kéo lấy lệ để bên đông thắng liền

ba lần rồi mới thi chính thức. Người ta cho rằng, bên đông thắng là mặt

trời thắng sẽ giúp làm ăn được mùa.

- Múa võ, múa giáo (oóc quyền, oóc pảng). Múa võ có nhiều loại.

Có loại múa trong lễ cúng thánh thần, mang tính chất biểu diễn. Có loại

võ thi sức khoẻ tài nghệ cao thấp, phân được thua và có giải thưởng, như

đấu võ tay không, múa song dao, múa côn hoặc giáo.

- Múa sư tử (Kỳ lân, tủng kỳ lân): Có ở khắp các vùng Tày, nhưng vùng đông Việt Bắc đa dạng hơn. Có hội chỉ có một con sư tử để múa

vui, nhưng nhiều hội thi có hàng chục con tham gia để tranh giải (một

con sư tử có 7-10 người họp thành). Cuộc thi và chấm với nhiều mục: 1)

Tài biểu diễn đẹp mắt. 2) Vượt chướng ngại vật (nhảy qua bàn, qua lưỡi

Page 163: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

215

gươm ...). 3) Đấu vật để so tài sức giữa những người làm đầu trò của mỗi

con. Trong cuộc thi, tiếng chiêng, trống nổi lên náo động cả một vùng.

- Ra quân (tấu quân). Có sáu người cầm cờ đi đầu. Tiếp đến với hai

hàng 40 - 50 thanh niên trai tráng vận lễ phục, mỗi người cầm một cây

côn ngắn khoảng một mét bọc giấy mầu sặc sỡ, đan nhau ngang dọc

trông khoẻ và đẹp.

- Phát đường (phát tàng, tức tàng). Hàng mấy chục thanh niên nam

nữ với lễ phục rực rỡ tay dao, tay cuốc làm những động tác chặt cây, phát

cỏ, cuốc đất theo nhịp chiêng trống cùng bài ngâm rộn rã.

- Đánh quay (tức xáng), đánh cầu (tức yến: tương tự cầu lông, nhưng đánh bằng bàn tay). Cách đánh: theo đôi hay giữa các cặp với

nhau, đánh quay là trò của con trai, còn đánh yến chủ yếu của con gái ..."

(Phương Bằng). 1

+ ở người Tày Bắc Thái:

Chính giữa một bãi rộng, nơi được chọn làm địa điểm để tổ chức

hội, một cây mai dài từ gốc đến ngọn đang được người ta dựng, làm mốc

cho các trai làng thi tài đọ sức ném còn. Trên đỉnh cột, họ uốn ngọn cây

mai thành một vòng tròn, đường kính từ 50 đến 60 cm. Vòng tròn đó được dán kín bằng giấy mỏng màu trắng. Chính giữa vòng tròn, nổi lên

hai chữ "Nhật" "Nguyệt", một mặt tượng trưng cho mặt trăng, mặt kia

tượng trưng cho mặt trời. Mở đầu cuộc vui, chủ bản đứng trước các mâm

cúng đọc một bài mo, cầu mong các bậc thần thánh năm mới hãy ra tay

phù hộ độ trì cho dân làng được làm ăn khang thịnh, nhân dịp năm mới

xin dâng cỗ đến các người. Mâm cúng thể hiện sự khéo tay của các bà,

các chị nàng dâu, con gái. Mâm nào cúng đầy ắp bánh chưng, bánh bỏng, bánh khảo, chè lam, được sắp xếp một cách hài hoà cân xứng. Chính

giữa còn có mâm cao cỗ đầy của các họ khác đã đến khai khẩn lập làng

đầu tiên cùng với chủ bản. Các mâm này được xếp cao đến 4 hoặc 5 tầng

(tiếng Tày gọi là Tạy). Nói là 5 tầng, nhưng chỉ dùng một chiếc mâm gỗ.

Bốn bát đựng đầy các loại bánh dùng làm đế cho một miếng phên đan

thưa đặt lên trên, rồi 4 bát bánh khác lại dùng làm đế cho một miếng

phên khác, cho tới 4 lần phên. Tầng trên cùng bày một cỗ bánh hình hoa

(pẻng bjooc). Bánh này được làm bằng bột gạo giã nhuyễn như bánh dày, cán mỏng và cắt rời thành từng dải nhuộm đủ các màu sắc. Những dải

này được giăng lên 1 cái que cao từ 30 đến 50cm thành hình chóp nón.

Xung quanh cỗ bánh này còn bày nhiều loại bánh khác. Hai đôi quả còn

1 Đôi nét về hội lùng tùng và việc khôi phục nó - T/c Dân tộc học số 1/1990, tr 62-64

Page 164: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

216

treo ở hai góc mâm. Các quả còn được khâu bằng 4 miếng vải màu túm

lại, bên trong nhồi cát mịn. Cũng có lúc người ta nhồi bằng thóc, bằng hội bông, bằng đỗ xanh...

Chủ làng kết thúc bài mo, mời mọc, dâng lễ các thần xong, đoạn

quay mặt ra phía có cây mai cao vút vừa được dựng lên, tay xách 1 đôi

còn vung vẩy 3 lần, rồi trao cho một thanh niên đứng gần đấy, mở đầu

cho cuộc thi ném còn lấy giải. Số người tham dự thi ném còn không hạn

chế. Miễn sao phải nhớ người chơi với mình, để khi "còn" trúng vào

vòng tròn trên ngọn cây mai kia, thì cả hai đều được thưởng. Chơi còn

phỏng (tên gọi cây mai làm đích để ném còn) chỉ dành cho nam giới, vì nữ không đủ sức để ném lên cao hoặc cũng vì lý do kiêng kỵ nữa ! Sau

cuộc ném còn phỏng đó, trai gái mới được rủ nhau chơi ném còn riêng

cho mình. Đích của quả còn lúc này không phải một cái vòng trên cao,

mà lại là các nàng tiên từ khắp nơi xa gần đến dự hội. Người con trai cố

ném quả còn của mình sao cho chính xác: trúng vào đầu hoặc vào mình

cô gái. Bên gái lại trổ tài bằng cách bắt những quả còn do bên trai ném

tới, sao cho duyên dáng đẹp mắt. Chiều gần tối, họ còn trao cho nhau

nhẫn, vòng bạc và cả tiền nữa. Họ buộc quà tặng vào dây còn để hò hẹn dịp khác gặp lại. Trời về tối, khi các đôi nam nữ không còn nhìn rõ tua

còn, để mà đón bắt nữa, họ tiến lại gần nhau cất lên tiếng lượn truyền

thống. Trong khi đó, giữa sân hội lồng tổng đèn nến được thắp sáng

trưng, hàng chục chiếc chiếu hoa rải ngay ngắn, xôi thịt đầy mâm. Chủ

bản đứng ra mời và chủ trì bữa liên hoan đó. Người đến dự là đại biểu

của các gia đình trong bản. Gạo, thịt do chủ bản sắp đặt theo chế độ luân

phiên đóng góp từ họ này sang họ khác. Về sau (trước năm 1954) cả làng cùng gom góp. Kết thúc ngày hội lồng tổng làng Ninh (gọi tắt là tổng

Ninh) lại chờ đợi đến hội "xuống đồng 3 xã" (tổng slam xạ) được tổ chức

vào ngày 16 tháng 1 âm lịch" (Dương Kim Bội) 1.

1 Trích từ Hội xuống đồng, dân tộc Tày ở Bắc Thái T/c Dân tộc học số 1/1977, tr112-114.

Page 165: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

221

hội đình làng an cố

phạm minh đức – phạm thị nết

- phạm thị lan

Từ thị xã Thái Bình đi Diêm Điền, rẽ lên đê biển, hỏi vào thôn An

Cố, xã Thuỵ An, huyện Thái Thụy, chúng ta sẽ tới đình An Cố- ngôi đình có

kiến trúc đẹp nổi tiếng và cổ xưa nhất của Thái Bình.

Cũng như nhiều đình làng ở Thái Bình: Đình Đông La (Đông Hưng),

đình Hiệp Lực (An Khê), đình Đông Linh (Quỳnh Phụ), đình Tử Các (Thái

Thụy), đình Thượng Liệt Đông Tân (Đông Hưng)... đình An Cố là nơi thờ

thành hoàng làng và là trung tâm của những sinh hoạt văn hoá cộng đồng

làng.

Theo truyền thuyết thì đình An Cố xây dựng cùng thời với đình Cổ

Trai (Hải Phòng), khoảng những năm đầu của thế kỷ XVI.

Theo ngọc phả ở miếu An Cố (Thụy An, Thái Thụy) thì thành hoàng

làng An Cố tên là Phạm Hải. Ông sinh ra trong một gia đình giàu có và rất

trung hậu ở châu Bố Chính (Quảng Bình nay). Cha tên là Phạm Xuyến, mẹ

là Bùi Thị Nguyên. Vốn có lòng thương người nên ông bà thường mang của

nhà chia cho người nghèo. Ông bà chỉ băn khoăn một điều: tuổi đã cao mà

chưa sinh được một mụn con, 3,4 năm sau gia tài đã hết, ông bà thường phải đi nhặt củi, đánh lưới. Một hôm trời quang, trăng sáng, hai ông bà đang đánh

cá ở ngoài biển bỗng có một con cá nhảy vào thuyền rồi bay lên trời. Con cá

toả ánh hào quang xuống bà Nguyên, bà Nguyên về có thai. Sau 12 tháng,

ngày 10-2 bà sinh con trai đặt tên là Hải. Thuở nhỏ Hải rất thông minh; 13

tuổi đã thuộc làu kinh sách Khổng Mạnh, tinh thông võ nghệ, hiểu sâu cả

thiên văn, địa lý... Năm 21 tuổi, bố mẹ Hải lần lượt qua đời. Cũng lúc ấy,

Sơn Nam có dịch lệ, lụt lội, dân phải cầu đảo. Một đêm, nhà vua nằm mơ thấy thần báo mộng cho hay rằng: Phạm Hải có thể giúp nước an dân. Tỉnh

dậy, vua cho gọi Phạm Hải vào triều rồi hỏi han cặn kẽ, chàng đối đáp rành

mạch nên phong cho làm đại nguyên soái, cai quản cả vùng Sơn Nam.

Phạm Hải đi Sơn Nam đạo, Thụy Anh huyện, Thái Ninh phủ, lập đàn

ở cửa biển Bình Lạng (Thuỵ Xuân), lụt lội yên ả, dân ở trang An Cố mang lễ

mời ông về làng mình.

Phạm Hải về trang An Cố, thấy nơi đây phong cảnh hữu tình, ông bèn

cho quân lính xây hành cung để ở. Ông tích cực khuyến nông, trừ dịch hại, xin miễn tô thuế tạp dịch cho dân An Cố. Vua y cho...

Page 166: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

222

Khi giặc sang xâm lấn nước ta, vâng mệnh vua, ông bài binh bố trận

ở cửa biển, đánh cho quân giặc phải rút chạy về nước. Với công trạng đó, sau khi mất, ông được nhà vua phong : "Nam Hải Đại Vương thượng đẳng

thần", cho làng An Cố lập đền thờ. Bằng việc huyền thoại hoá, người dân đã

thiêng hoá nhân vật phụng thờ. Đằng sau lớp huyền thoại ấy, người dân

muốn khẳng định: Thành hoàng làng là Phạm Hải- người có công lớn trong

việc giúp dân chống lại thiên tai, địch hoạ, trừ dịch bệnh, khuyến khích trồng

lúa nước, trồng dâu nuôi tằm.

Trước năm 1950, Thụy An có hai đình (đình trong đình ngoài) và một

miếu. Hiện giờ làng vẫn còn lưu giữ được đầy đủ đồ thờ, võng lọng, ngọc phả, thần phả... Đình An Cố bây giờ là đình ngoài (đình trong đã bị thực dân

Pháp phá hỏng).

Đình An Cố trông về hướng tây, tiền thân đình thời Lê làm kiểu chữ

đinh. Đến đầu Nguyễn có xây thêm 9 gian tiền tế và hai toà bát giáp, trước

cửu đình xây một tam môn. Năm 1961, tất cả các toà tam môn, bát giáp và

nhà tiền tế đều bị phá. Hiện giờ đình còn giữ lại nguyên sơ phong cách thời

Lê.

Đình dài 26 mét, rộng 10 mét gồm 7 gian, không có móng vì thiết kế theo kiểu vì kèo chồng rường. Toàn bộ sức nặng của ngôi đình dồn vào 44

cột trong đó có 12 cột có đường kính 80 cm; 32 cột nhỏ có đường kính 60

cm. Sự lắp ráp toàn bộ chi tiết liên kết trong đình đều dùng mộng, không

dùng đinh. Bởi vậy, đình trở thành một hệ thống khung vững chắc có thể

nâng lên, đặt xuống, di chuyển đi một nơi nào khác, hoặc có thể tháo dỡ

toàn bộ khung

đình.

Đình An Cố không chỉ là công trình kiến trúc mà còn là một công

trình nghệ thuật trang trí nổi tiếng của Thái Bình, được xếp hạng di tích quốc

gia.

Hằng năm cứ vào ngày sinh (10-2) và ngày mất của thành hoàng làng

(15-11) đình An Cố lại rộn ràng. Nhìn chung, các nghi thức tế lễ, hội hè ở

đình An Cố không có gì khác so với các hội. Số ngày hội không cố định,

năm được mùa hội kéo dài hàng chục ngày, tế lễ linh đình, các trò rôm rả,

năm thất bát hội tổ chức bình thường theo nhị kỳ xuân - thu.

Gần đến ngày hội, làng chọn những chàng trai khoẻ mạnh, thanh lịch

để tham gia vào đám rước. Trước ngày lễ, người dự lễ phải ăn chay, sạch sẽ,

nghiêm túc, sắp xếp theo chức vị theo đúng thứ tự trong lễ rước.

Page 167: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

223

Buổi khai hội ở An Cố là rước vị thành hoàng làng từ miếu ra đình.

Đi đầu đám rước là đoàn nhạc công đánh chiêng trống, kèn, nhạc, đàn hát... Tiếp đó đến 10 chàng trai khôi ngô, mặc áo có thêu chỉ đỏ kèm sợi kim

tuyến, đầu đội mũ bồ nóc, đóng khố tua cơ, vác cờ, biển, giáo mác, súng

ống, khiêng nhang án, long đình, bài vị. Nối sau là đoàn người mặc áo lương

cấp, quần trắng thắt lưng xanh lục bỏ múi cạnh sườn khênh rước song loan,

kiệu võng. Cuối cùng là dân làng An Cố đi chậm rãi. Vào tế: người dự có thể

mặc áo xanh hoặc đen, đầu đội mũ, chân đi hia. Riêng 24 người chầu tế đầu

đội mũ da, chân đi hia, mặc áo giáo tay cầm gươm chỉ xuống đất. ở An Cố,

bình thường kiêng tên huý của thành hoàng làng, nếu người nào vi phạm sẽ bị phạt: rượu 1 hồ và 12 miếng cau trầu, nhưng trong lúc tế thì không kiêng

tên huý.

Trước đây đồ cúng tế đều bổ về 8 giáp trong làng. Mỗi giáp một lễ

gồm: 2 con lợn, 2 mâm xôi, 5 chai rượu. Tế xong, cỗ tế được chia về từng

giáp. Sau này, 8 giáp làm thành một lễ chung gồm: 2 con lợn, 2 mâm xôi, 5

chai rượu. Tế xong 8 giáp cùng thụ lộc.

Tế lễ trong đình vừa kết thúc thì ở ngoài sân đình các trò vui đã diễn

ra thật sôi nổi. Ban ngày có đánh cờ và đấu vật. Giải thưởng cho môn đấu vật thường từ hai đến ba quan tiền, thưởng cho đô nào thắng cuộc, giải thưởng

cho các "đô cờ" bằng các giải lụa điều. Đêm đến, trên sân đình, người xem

đứng chật ních, nhưng không có cảnh chen lấn ồn ào, họ chăm chú theo dõi

những làn điệu chèo, những tích tuồng cổ, cổ vũ động viên người diễn. Dưới

ánh sáng đèn mở ảo, cả người diễn và người xem đã bị cuốn hút bởi lời hát

cùng điệu múa, họ gần như quên hẳn những tháng ngày lao động mệt mỏi...

Hội làng An Cố trong hình mẫu hội làng cụ thể của tổ chức hội hè đình đám xưa kia ở nước ta. Hội được tổ chức với ba phương diện chính:

Những cuộc tế lễ, những cuộc giải trí, những tiệc tùng.

ý thức sùng bái vị thành hoàng thông qua hội tế thần, là biểu hiện ý

thức nghĩ về cội nguồn. Nếp nghĩ "uống nước nhớ nguồn" đã và đang là nếp

sống đẹp và phù hợp với tâm lý của dân tộc Việt Nam./.

P.M.Đ - P.T.N – P.T.L

Page 168: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

225

Hội đền an dương vương

Võ Hoàng Lan

Không biết từ bao giờ trong dân gian đã lưu truyền câu ca:

"Chết thì bỏ con bỏ cháu

Sống thì không bỏ mồng sáu tháng giêng".

Đó là ngày mở hội đền thờ An Dương Vương ở xã Cổ Loa thuộc

huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội. Hội mở, sắc xuân tưng bừng bao

phủ lên mọi cảnh vật, thấm đẫm tâm hồn du khách hành hương. Người ta

cảm thấy làn khói hương như dẫn tâm trí con người ngược thời gian trôi theo dòng lịch sử và truyền thuyết mà về một vùng đất cội nguồn.

Đền thờ An Dương Vương, còn gọi là đền Thượng, được xây dựng

trên một gò đất cao kề trong luỹ thành cũ ở góc Tây Nam, thuộc địa phận

xóm Chùa. Mở đầu là ba cây hương đá mang tư cách trục vũ trụ rất đẹp

được làm khoảng đầu thế kỷ XVIII. Từ đó bước nhiều bậc lên thềm cao,

hai bên có đôi rồng đá lớn, một điển hình của nghệ thuật đầu thế kỷ

XVIII, dẫn vào nghi môn. Theo bia ký còn ghi lại thì đền được xây dựng

năm 1687 và sửa lại năm 1893. Đây cũng có thể là niên đại của ngôi nghi môn xây bằng gạch Bát Tràng với lầu thượng cao. Sau nghi môn vào đến

sân lát gạch khá rộng, kẹp hai bên sân là hai dãy nhà tả hữu mạc để khách

thập phương dừng chân sửa soạn trước khi vào lễ. Tiền bái là một ngôi

nhà ba gian to, cao, cột lim đồ sộ, góc mái cong vút, hai đầu hồi liên kết

với hai dãy hành lang, rồi chạy vào nối với điện chính tạo thành một

khung kín ôm lấy một "sân vuông" mà ở giữa là một ngôi nhà trùng diêm

tám mái cao. Người ta như cảm thấy kết cấu ngôi nhà này ít nhiều chịu ảnh hưởng của dịch học. Rằng: cả toà nhà như tượng cho Thái cực, lớp

mái ở trên tượng cho dương, mái dưới tượng cho âm, bốn phía mái như

hiện thân của tứ tượng và tám lá mái cho bát quái. Tất cả hội lại nhằm nói

lên sự nảy sinh và phát triển. Ngôi nhà này có từ bao giờ hiện không rõ,

song trên ô cửa có trang trí mang phong cách nghệ thuật của cuối thế kỷ

XVI đầu thế kỷ XVII. Nơi đây, trên bàn thờ ngoài bát hương có tượng

Rùa bằng gỗ sơn son thếp vàng và một chiếc nỏ có tên, đó là bàn thờ thần

Kim Quy. Hậu cung cũng dựng ba gian có bàn thờ An Dương Vương đặt ở giữa, với pho tượng của Ngài bằng đồng, mặc triều phục, bên đông là

bàn thờ hoàng hậu và bên tây thờ Thái Thượng hoàng. Trên một gò đất

Page 169: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

226

cao phía tây đền là nhà bia, xưa kia là nơi vua lập miếu thờ thần Nông.

Đây là một nhà bia hai tầng tám mái, có thể coi là đẹp nhất nước ta cả về địa thế và cây cối, kiến trúc và ý nghĩa triết học. Cách cổng đền không xa,

phía trước mặt là một hồ tròn lớn, chính giữa có một cồn đất tròn và ở tâm

xây một giếng nhỏ bằng gạch, tương truyền đó là giếng Ngọc.

Am Bà Chúa ở cách đền không xa, cùng khuôn viên với đình, nơi

đây có cây đa cổ thụ toả bóng mát đã từ lâu lắm rồi. Tiền bái của am là

ngôi nhà nhỏ ba gian, ở giữa là bàn thờ. Qua một cái sân nhỏ là hậu cung

cũng gồm ba gian, gian giữa đặt bàn thờ công chúa, hai bên là 12 nàng

hầu. Vén bức màn sau bàn thờ sẽ thấy một khối đá lớn hình chiếc ngai, thường phủ vải vàng, ba bề khối đá được xây kín, theo lời truyền tụng của

dân gian, đó là tinh linh Mỵ Châu hội vào đó. Trong cụm di tích này còn

có đình Cổ Loa được xây trên đất mà người ta truyền lại từ xa xưa là nơi

vua ngự triều. Đình trông về hướng nam, phía trước có nghi môn (nay đã

bị phá), tiếp theo là một lớp cổng xây có ba cửa, ở giữa là cửa lớn đóng

kín. Hai bên cửa giữa xây trụ gạch có phượng lật, lồng đèn... cửa hai bên

kiểu tò vò đội mái giả, sau lần cửa là sân gạch khá rộng rồi tới đình. Đình

được làm với kết cấu cổ truyền gồm ba gian hai chái lớn. Theo lời truyền thì đình này được di chuyển từ nơi khác tới, với nghệ thuật đầu thế kỷ

XVIII. Nơi đây tập trung nhiều mảng chạm rất đẹp, với đường nét mạnh,

chắc tay, có thể coi như dấu vết nghệ thuật điển hình của đương thời.

Theo Lĩnh Nam chích quái, Thục Phán nối nghiệp các vua Hùng lên

ngôi, xưng là An Dương Vương, nhập hai tộc Âu Lạc và Lạc Việt thành

nước Âu Lạc, định đô ở Cổ Loa. Vua muốn xây thành nhưng mất rất

nhiều công sức, mà thành xây xong lại đổ, vua bèn lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần. Ngày mồng 7 tháng 3 có một cụ già từ phương Đông đi tới

trước cửa thành mà than rằng: "Xây dựng thành này biết bao giờ cho xong

được !". Vua đón vào trong điện hỏi rằng: "Ta đắp thành này đã nhiều lần

băng lở, tốn nhiều công sức mà không thành, thế là cớ làm sao ?". Cụ già

đáp: "Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng mới thành công".

Hôm sau, vua ra cửa đông chờ đợi, thấy một con Rùa vàng từ phương

Đông lại, nổi trên mặt nước, nói được tiếng người, tự xưng là sứ Thanh

Giang, thông tỏ việc trời đất, âm dương quỷ thần. Được sự giúp đỡ của Rùa vàng nên đã trừ được yêu quái, thành xây nửa tháng thì xong. Thành

rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc, cho nên gọi là Loa thành,

còn gọi là Quỷ Long thành. Trước khi trở về biển Đông, Rùa vàng trao

cho nhà vua vuốt thần, vua sai Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt rùa làm lẫy gọi là

"Linh Quang Kim Quy thần cơ". Khi Triệu Đà cho quân xâm lược phương

Page 170: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

227

Nam, vua lấy nỏ thần ra bắn, quân Đà thua lớn phải xin hoà. Sau đó, Triệu

Đà xin An Dương Vương cho con trai mình là Trọng Thuỷ được kết hôn cùng công chúa Mỵ Châu, vua vô tình đồng ý và còn cho Trọng Thuỷ ở

rể. Trọng Thủy được Mỵ Châu cho xem trộm nỏ thần, hắn đã ngầm đánh

tráo vuốt Rùa vàng, sau đó mang về phương Bắc cho Triệu Đà. Trước khi

chia tay, Mỵ Châu đã hẹn với chồng: Nếu sau này chẳng may gặp phải

cảnh biệt ly thì Trọng Thuỷ cứ theo dấu lông ngỗng sẽ tìm thấy mình.

Được nỏ thần, Triệu Đà cho quân sang đánh Âu Lạc, An Dương Vương

tin tưởng vào nỏ thần nên vẫn điềm nhiên ngồi đánh cờ, khi quân Đà tiến

sát vua mới cầm lấy nỏ, nhưng nỏ đã không còn thiêng vì đã bị mất lẫy thần, vua bèn đặt Mỵ Châu ngồi sau ngựa rồi cùng nhau bỏ chạy về

phương Nam. Ra tới biển (đời sau truyền rằng đó là đất Dạ Sơn, xã Cao

Phú, phủ Diễn Châu) thấy không có thuyền vua kêu lên rằng: "Trời hại ta,

sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu ta". Rùa vàng hiện lên nói: "Kẻ

nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó !", vua tuốt kiếm chém Mỵ Châu rồi

theo Rùa vàng xuống biển. Mỵ Châu chết, máu chảy xuống nước, trai sò

ăn phải đều biến thành hạt châu. Quân Đà và Trọng Thuỷ theo dấu lông

ngỗng đuổi tới nơi không thấy gì, chỉ còn lại xác Mỵ Châu. Trọng Thuỷ đưa xác Mỵ Châu về táng ở Loa thành, rồi lao đầu xuống giếng mà chết.

Người đời sau mò được ngọc ở biển Đông đem về rửa ở nước giếng này

thì ngọc trong sáng hơn.

Xã Cổ Loa gồm ba làng Đông, Đoài, Chùa với 12 xóm: Thượng,

Nhồi, Dõng, Gà, Lan Trì, Chùa, Chợ, Vang, Hương, Mít, Bãi và Trại. Từ

bao đời nay, nhân dân 12 xóm đã cùng nhau trông coi di tích này, cùng

nhau thờ phụng và mở hội hàng năm để tưởng nhớ đến An Dương Vương, đồng thời cũng nhớ đến một thời kỳ lịch sử bi hùng của đất nước. Xưa kia

hội bắt đầu mở từ mồng 6 cho đến hết 18 tháng giêng, theo truyền thuyết

dân gian thì ngày 6 tháng giêng là ngày Thục Phán nhập cung và ngày 9

tháng giêng là ngày ông lên ngôi và mở tiệc khao toàn bộ binh sĩ. Cổ Loa

còn kết chạ với 7 xã khác ở xung quanh cùng thờ An Dương Vương từ

ngày 6 tháng giêng, nên hội đền An Dương Vương đã trở thành hội lớn

trong vùng với sự tham gia rước kiệu của cả 7 xã đó. Tuy nhiên, có những

năm vì bị mất mùa hay vì một lý do nào đó mà làng chỉ mở hội trong 4 hay 6 ngày, thông thường những năm này làng không tổ chức rước, mà

chỉ tế lễ và dâng hương tại đền Thượng.

Việc chuẩn bị cho ngày hội được bắt đầu từ năm trước, theo các cụ

cao tuổi trong làng thì ngày xưa vào giữa tháng Tám, làng đã họp bàn việc

tổ chức mở hội. Làng Cổ Loa khi ấy chia làm 4 góc, mỗi góc sẽ cử 2

Page 171: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

228

người đàn ông vào ban điều hành của làng, hai người này gọi là lang cai.

Các lang cai phải là những người đàn ông đã có tuổi (ngoài 50 tuổi), có uy tín đối với dân làng, có khả năng tổ chức công việc và đặc biệt là gia đình

phải quang quẻ, thuận hòa, êm ấm ... Cùng với 8 vị lang cai, còn có 2 vị

dịch mục của làng sẽ là những người chịu trách nhiệm chính trong việc tổ

chức lễ hội. Trước hết, những người trong ban tổ chức sẽ quyết định thời

gian mở hội năm đó (6 ngày hay 12 ngày), sẽ chọn quân chần và quân cờ.

Mỗi xóm sẽ cử một số thanh niên nhất định khoẻ mạnh, đẹp trai, gia đình

không bị vướng vào các điều cấm kỵ, để cầm cờ và khênh kiệu, đó là

những quân chần. Quân cờ là những thanh nữ từ 13 đến 16 tuổi, chưa có chồng, xinh đẹp và gia đình cũng không bị vướng vào các điều cấm kỵ.

Khi tham gia đám rước, thanh niên mặc áo gấm thắt khăn đỏ ngang lưng,

thanh nữ mặc áo the, những quần áo này cũng như quần áo của các quan

viên đều do mỗi gia đình tự sắm lấy. Ngày 14 tháng Chạp làng sẽ tổ chức

kiểm tra mọi việc chuẩn bị đến lúc đó đã hoàn tất hay chưa, đó là ngày

nhập tịch. Trong ngày này có thể làng sẽ tổ chức tập duyệt các nghi thức

tế lễ, rước, hoặc bổ sung, thay thế các quân chần hoặc các quan viên vì lý

do nào đó không thể tham gia ngày hội được. Đền thờ, am thờ được quét dọn sạch sẽ, đồ thờ, đồ rước được lau chùi cẩn thận, sửa sang trưng bày.

Ngày 18 tháng chạp là ngày lễ gia quang, tức là ngày rước áo mũ của thần

về đến nơi thần đang ngự.

Chiều ngày 5 tháng giêng cả 8 xã tổ chức dâng hương tại đình làng,

tại đền Thượng các vị chức dịch, quan viên trong làng cũng làm lễ dâng

hương và ôn lại công lao, chiến công của nhà vua. Ngày chính hội (6

tháng giêng) được bắt đầu bằng các cuộc rước và đại tế.

Sáng sớm ngày 6 tháng giêng, một đám rước rất nghiêm trang và

lộng lẫy, rước bản văn từ nhà ông điển văn1 ra đền, dẫn đầu là một viên

chức mặc áo thụng xanh, đầu đội mũ tế cùng với dân làng mang cờ quạt,

long đình. Ra đến đền, ông cai đám ở đền Thượng phải ra nghênh tiếp bản

văn và rước vào đặt ở hương án. Ngoài sân đền, cờ hội, cờ đuôi nheo, lá

cờ đại cắm trên cột cờ lớn giữa sân, phấp phới bay theo làn gió xuân. Sát

hai bên cửa đền là đôi ngựa hồng, ngựa bạch bằng gỗ, to như ngựa thật, có

yên cương hình chim phượng, lại được trang trí bằng các ngù, đai thêu kim tuyến rất sặc sỡ, lộng lẫy. Dọc hai bên dũng đạo là hai hàng lỗ bộ và

bát bửu xếp cân xứng. Lúc này, kiệu của bảy xã kết chạ cũng đã được

rước tới đền Thượng và bày xung quanh sân, cuộc tế lễ bắt đầu. Lễ vật

1 Ông điển văn thường là người có tài văn chương, đỗ đạt cao, được phe tư văn trong làng

tín nhiệm, chọn viết chúc văn tế thần cho ngày hội năm đó.

Page 172: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

229

dâng lên thần gồm có hương, hoa, oản, quả, xôi thịt, và có cỗ bánh dầy, cỗ

bỏng, theo dân gian đó là hai thứ An Dương Vương đã dùng để khao quân. Lễ tế diễn ra đến quá Ngọ (12 giờ trưa) mới xong, và tế ở đây là tế

hội đồng, tức là 7 xã cùng Cổ Loa thay phiên nhau tế. Lẽ ra, Cổ Loa là

chủ nên được tế trước, nhưng người Cổ Loa cho rằng họ không phải là

dân gốc ở đây nên họ mời làng Quậy (Liên Hà) tế trước, vì dân làng Quậy

mới là dân gốc, khi làng Quậy tế xong, Cổ Loa mới cùng các xã khác lần

lượt tế. Các quan viên, kỳ mục làm lễ trước bàn thờ xong, tiếp tới dân

chúng lễ theo. Trong lúc đó, ở nội tự, một số kỳ mục đại diện các xóm cầu

nguyện nhà vua phù hộ cho dân làng được bình yên, thịnh vượng. Sau khi tế lễ xong ở đền Thượng, tất cả các quan viên cùng kỳ mục và dân chúng

cử hành lễ rước thần từ đền sang đình để thần xem hội, đây là đám rước

có quy mô lớn nhất với sự tham gia rước đồng thời của tất cả các kiệu.

Tuy đường rất ngắn chỉ từ đền Thượng đi vòng qua giếng Ngọc ra đến đầu

làng rồi vòng về ngự tại đình Cổ Loa, nhưng đám rước đi chậm. Đến nghi

môn, kiệu của làng nào trở về làng đó, trước khi về đều được nhận lễ ban

phúc, ông chủ tế làng Cổ Loa thắp hương, xóc thẻ rồi cắm cho mỗi kiệu

ba nén hương, hương này đủ cháy cho tới khi kiệu về đến từng xã. Đoàn rước và kiệu của Cổ Loa vào tế một tuần nữa tại đình, kết thúc nghi thức

tế lễ của ngày hội chính. Từ đó cho đến hết hội, tại đình và đền chỉ còn lễ

túc trực và lễ của các phe, giáp, các dòng họ và khách thập phương với

các lễ vật do họ đem tới.

Hội đền An Dương Vương còn có một lễ rước rất đặc sắc là lễ rước

vua giả làng Nhội. Trên núi Sái ở làng Nhội có đền thờ Trấn Vũ, theo

truyền thuyết là vị thần đã giúp vua trừ yêu quái, xây thành Cổ Loa. Thành xây xong, An Dương Vương đã tự mình đến núi Sái để làm lễ tạ

ơn, tại đây nhà vua đã cho xây dựng đền thờ và vào ngày 12 tháng giêng

hàng năm, nhà vua thường cùng văn võ bá quan sang đây tế lễ. Nhưng rồi

việc đi lại của nhà vua và đoàn tuỳ tùng quá cầu kỳ, tốn kém nên An

Dương Vương giao cho dân sở tại cử người thay mặt mình (đóng vua) và

tổ chức tế lễ giống như thật. Về sau người ta diễn lại tích đó. Làng sẽ chọn

một người cao tuổi, có đức độ đóng vai vua hành lễ. Tuy đây là một

phong tục riêng của làng Nhội nhưng nó cũng góp phần làm phong phú thêm các hoạt động của lễ hội Cổ Loa.

Ngày 18 tháng giêng, ngày giã hội, người ta sẽ tổ chức một đại lễ

giã đám tại đền, các nghi thức được tiến hành trong buổi lễ cũng giống

như ở ngày chính hội. Sau khi tế xong, thần vị được rước hoàn cung, dân

làng cùng nhau thụ lộc thánh với hy vọng một năm ấm no, thịnh vượng,

Page 173: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

230

dưới sự bảo trợ của thần linh, đang chờ đợi họ. Ngoài ngày hội chính vào

đầu mùa xuân, trong năm tại đền An Dương Vương còn có một số lễ hội khác, như ngày lễ thánh sinh (11.8 tục truyền là ngày sinh của Thục

Phán), ngày thánh hoá (7.3), lễ "ăn sêu bà Chúa" (13.8 là ngày ăn hỏi của

công chúa Mỵ Châu).

Không chỉ có phần lễ, dân chúng đi hội còn được tham dự vào nhiều

trò vui khác nhau, nhờ vậy, ngày hội không những đem lại cho người ta sự

thoả mãn, yên ổn về mặt tâm linh, mà còn là dịp để những người nông dân

xưa nghỉ ngơi, vui chơi thoải mái trước khi bước vào một chu kỳ lao động

mới, vất vả và nhiều âu lo.

Các trò vui diễn ra ngay tại sân đình và xung quanh các nơi thờ tự

khác, với những trò phổ biến ở tất cả các hội hè trên khắp các làng quê

Bắc Bộ như cờ người, đấu vật, chọi gà, đánh đu, leo dây, tổ tôm, hát chèo,

tuồng ...

Đấu cờ người là một cuộc thi khá thú vị, bởi những người cao cờ

nhất của mỗi làng mới được tham gia và giật được giải cờ là một niềm

vinh dự lớn cho làng. Trước khi vào cuộc, người đấu phải vào lễ Thánh

rồi mới ra đấu. Cứ lần lượt đấu loại nhau, ai giữ được cho đến cuối cùng thì được giải, đó là người phá giải cờ và là người giỏi cờ nhất của hội năm

đó.

Chơi đu là trò chơi thu hút khá nhiều trai thanh gái lịch tham gia.

Trước ngày mở hội, ban tổ chức đã trồng sẵn hai cây đu để các đôi nam

nữ thi tài. Giải thưởng thường chỉ là vài vuông lụa, nhưng những người

được giải vẫn rất sung sướng vì đã có dịp thể hiện tài năng và lòng dũng

cảm của mình.

Trò đấu vật diễn ra ở bãi đất ngoài đình, các chàng trai khỏe mạnh,

nhanh nhẹn của các làng đều có thể tham gia, bởi sới vật là nơi thể hiện

tinh thần tượng võ. Giá trị vật chất của giải thưởng không phải là lớn

nhưng giá trị tinh thần lại rất đáng kể, đây là dịp để các chàng trai phô bày

sức khoẻ và tài nghệ của mình trước dân làng, trước các thôn nữ trong

vùng. Đối với họ, đây cũng là một niềm vui, niềm vinh dự mà hội làng

mang lại.

Chọi gà là một trong những trò vui nổi tiếng ở hội Cổ Loa, vì vùng này cũng là vùng hay tổ chức đấu gà chọi và nuôi gà chọi, nên đến hội

người ta lại đem những cặp gà đã được nuôi nấng, luyện tập công phu để

tranh giải.

Page 174: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

231

Đáo đĩa là một kiểu đánh đáo đặc biệt, có một người làm cái. Người

này đặt một chiếc mẹt, trong mẹt để một cái đĩa nhỏ. Những người chơi đứng cách mẹt khoảng 2 thước, rồi đi những đồng trinh hoặc những đồng

xu vào cái đĩa, nếu trúng một sẽ được ăn năm, những đồng nào bắn ra mẹt

sẽ bị mất cho nhà cái, đồng nào không vào mẹt cũng không vào đĩa người

chơi được đi lại.

Ngoài ra còn không ít trò vui khác như tổ tôm điếm, đánh cờ bỏi...

Tối tại đình làng lại có hát chèo để thờ thần, có năm có cả hát tuồng ... Cứ

như vậy, những trò vui ấy kéo dài suốt từ ngày mở hội cho đến ngày giã

đám, mang lại cho làng quê một không khí náo nức, vui vẻ khác thường./.

V.H.L

Page 175: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

121 233

Lễ hội đền Ba Xã

vũ đức cường

Đến nay ở Minh Đức, huyện ứng hoà, tỉnh Hà Tây, người dân

vẫn có thói quen gọi con trâu là con nghé; cho dù con trâu đó đã làm

“cha” làm “mẹ”, chân đã bại, răng đã long không thể kéo cầy. Chẳng là theo như lời kể của các bậc cao niên: Xa xưa vùng này là rốn nước đồng

chiêm, nghiệp canh nông cả năm chỉ ở một mùa mà vẫn bấp bênh. Cư

dân đói nghèo xơ xác trên đồng trắng, nước trong. Cho tới khi có người

họ Mạc, tên gọi là Trâu Trắng ra dạy dân khoanh vùng ngăn nước và

trồng các giống lúa thích ứng theo từng mùa vụ. Kết cục là dân được ấm

no, quần cư trở nên phồn thịnh và trù phú. Khi ông qua đời, nhớ công ơn

ấy, nhân dân trong vùng quyên tiền, góp sức lập đền thờ và tôn ông làm

đức thành hoàng và cũng từ đấy người địa phương có thói quen kỵ huý tên gọi: Trâu.

Đền thờ đức thánh Mạc Trâu đặt ở nơi trung tâm của năm thôn:

Thịnh Cầu, Thịnh Bàng, Thịnh Thần, Thịnh Thượng và Thịnh Hạ. Mặt

đền nhìn về hướng đông, trông ra mặt hồ sen bát ngát. Hai bên tả hữu

đền, bên là chi lưu của dòng sông Nhuệ, bên là đường cái quan uốn khúc

như con rồng, con rắn lượn quanh. Đền có kết cấu mặt bằng theo kiểu

“nội công ngoại quốc”. Từ đường lớn đi vào qua tam quan là con đường

vỉa gạch nghiêng đưa ta đến sân chầu. Hai bên đường, dưới bóng cây cổ thụ, có bày nhiều trâu đá, ngựa đá, voi đá và chó đá trông vừa uy nghiêm

vừa dân dã. Chính diện khang trang chia làm ba lớp, nên thường được

gọi nôm là: tam cung. Trên các vì kèo, chắn gió, đặc biệt là cửa võng

được chạm trổ tinh vi bằng nhiều họa tiết như: tứ linh, hoa lá, cá vượt Vũ

Môn v.v... Nội cung bày bài vị đức thành hoàng và năm bát nhang thờ

của năm làng cùng nhiều đồ tế khí: tàn lọng, bát bửu, xà mâu và kiệu

rước v.v...

Hai bên chính điện, cùng trông ra sân chầu là hai dãy nhà năm

gian, ứng với năm thôn dùng làm nơi tiếp khách và nhận lễ trong mỗi kỳ

lễ hội v.v...

Đền Ba Xã tứ mùa bát tiết hương bay. Song nhộn nhịp tưng bừng

hơn cả là kỳ lễ hội thường niên 12 tháng sáu. Và như đã thành lệ cứ năm

Page 176: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

121 234

năm một kỳ mở lễ hội to. Để chuẩn bị cho mỗi kỳ lễ hội, người năm thôn

ở Minh Đức nuôi năm con nghé. Trước ngày lễ hội các con nghé được dắt đến thi: Con nào vào giải, được chọn để hôm sau mở hội giết thịt tế

thần và chia đều để năm thôn thụ lộc. Ngày khai hội 12 tháng 6, từ sáng

sớm, làng thôn đã rộn rã, tưng bừng. Người của năm thôn trống giong cờ

mở, kiệu rước đưa thần thánh thờ trong bản hạt thôn mình về đền dự hội.

Sau khi cả năm thôn, anh trước em sau đã tề tựu đông đủ, lễ rước nước

bắt đầu. Vẫn theo thứ tự anh trước em sau, năm đoàn rước ra sông Nhuệ

làm lễ rước nước. Đi đầu mỗi đoàn rước là đội cờ, tiếp sau là đội nhạc,

đội kiệu rước bát nhang hương án, và kiệu rước chum nước. Chum nước được quây quanh bằng vải trắng, miệng phủ vuông vải đỏ... Tới bờ sông

năm thôn, mỗi thôn dùng năm chiếc chải ra giữa giòng sông lấy nước về

làm lễ mộc dục.

Sau lễ mộc dục là lễ tế thần, lần lượt năm thôn làm lễ tế, tiếp sau là

lễ tế của các dòng họ, các gia đình và khách thập phương. Trong khi ở chính

đền long trọng diễn ra lễ tế, ở ngoài hồ ngoài bãi đền, diễn ra nhiều trò chơi

sôi động như múa rồng, múa lân, chọi gà, đấu vật. Sôi nổi và cuốn hút người

xem hơn cả là trò đập bị gạo và túm nước. Người ta treo nhiều bị gạo và túm nước lên một giá treo. Ai đập vào bị gạo thì được thưởng. Ai đập vào

túm nước, túm nước vỡ ra bắn tung toé vào người thế là những tiếng cười rộ

lên theo v.v...

Lễ hội đền Ba Xã đã từ lâu trở thành lệ của năm thôn: Thịnh Cầu,

Thịnh Bằng, Thịnh Thần, Thịnh Thượng, Thịnh Hạ và dân chúng thập

phương kéo về dự hội rất đông. Để phục vụ cho việc ăn ở của khách thập

phương, nhiều người địa phương quần tụ gần đền, dựng nhà, lập quán, thành một nơi buôn bán sầm uất thời xưa. Chính vì lẽ đó mà ở gần đền

Ba Xã ngày nay, có một địa danh được gọi là: Phố Cống Thần./.

V.Đ.C

Page 177: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

235

lễ hội đền bà tấm

lê hồng lý

Đền Bà Tấm nay thuộc xã Dương Xá, huyện Gia Lâm ngoại thành

Hà Nội, xưa kia thuộc trang Thổ Lỗi, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, tỉnh

Bắc Ninh. Dương Xá gồm ba thôn là Dương Đình, Dương Đá và Dương

Đanh (tam Dương), xa nữa là ba ngõ trong một làng, đền Bà Tấm nằm trên

đất của thôn Dương Đá. Trước đây riêng Dương Xá là một xã, nhưng nay

hợp với Thuận Quang và Yên Bình thành xã Dương Xá mới.

Trong hậu cung đền có tượng bà Tấm (Nguyên Phi ỷ Lan) và sáu tượng nữ khác gọi là lục bộ. Gian ngoài có đặt một số đồ thờ và chiếc

ngai, trên ngai có bài vị ghi "Lý triều đệ tam hoàng thái hậu" và một vài

bia ký ở hai gian bên cạnh. Đặc biệt có bộ khám long đình rất đẹp mang

niên đại thời Mạc.

Hàng năm ngày tiệc lệ chính là 19-2 âm lịch - ngày hội lớn là 25-7,

tương truyền là ngày giỗ bà. Ngoài ra vào các dịp xuân thu, những ngày

sóc vọng đều có lễ trong đền.

Xưa kia hội đền bà Tấm rất lớn, không phải chỉ có Dương Xá và Thuận Quang tổ chức, mà cả tổng Dương Quang cũ (gồm chín xã suốt từ

Sủi (Phú Thị) cho tới Văn Lâm (Hải Hưng) và những làng cấy ruộng hậu

của đền. Trong đền còn giữ được tấm bia ghi rõ tên các làng cấy ruộng

hậu của đền với số lượng cụ thể. Do hội khá lớn, nên thường phải năm

năm mới tổ chức một lần. Hội cuối cùng, theo trí nhớ của dân làng, được

tổ chức vào năm 1939, nhiều người còn nhớ cả tên người được giải cờ

người năm đó là ông Trần Nhật Tân.

Trước đây chính hội là từ 19 đến 22 tháng 2 âm lịch, nhưng thực

chất người ta đã rục rịch từ ngày 16 và đến tận 25 tháng 2 mới hết hội.

Ngay từ tiệc đầu xuân dân làng đã tụ hội tại đền để chuẩn bị hội xuân tế lễ

cẩn cáo với Bà, mong phù hộ cho làng. Dân làng chọn cử các tiên chỉ, tổng

cờ, ban tế cùng các việc khác cho ngày hội. Ngày 19-2 âm lịch tương

truyền là ngày sinh của bà Tấm.

Ngày hội được mở đầu bằng một đám rước long trọng - rước nước.

Đám rước khởi hành từ đền Bà Tấm lên tới giếng nước cạnh chùa làng Sủi (Phú Thị) cách đền khoảng 2km. Đi đầu đám rước là cờ ngũ hành, tiếp đến

Page 178: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

236

là Tổng cờ, rồi đến chiêng, trống, bát bửu. Liền sau đó là long đình rước

bà ỷ Lan (bài vị), có những người phục dịch theo kiệu. Đường đi từ đền theo đường 179 ngày nay lên Sủi. Sau kiệu Bà là kiệu đựng chóe dùng lấy

nước. Các cụ già còn nhớ trước kia trong đền có một chiếc chóe bằng sứ

Nhật Bản rất cao và to, nhưng nay đã bị mất. Ngoài ra là kiệu của các thôn

thuộc Dương Xá và tất cả các làng cấy ruộng nhà đền. Do vậy mà đám

rước rất lớn và dài, bởi vì ruộng đất lộc của bà trải rộng tới tận Nghĩa Trai,

Bình Trù, Liên Mỹ... Bà cũng được coi là Mẫu nghi thiên hạ. Do qui mô

của đám rước dài và lớn như vậy nên nó kéo dài tới bốn năm tiếng đồng

hồ mới rước được nước về tới đền.

Trong lúc diễn ra cuộc rước nước, thì từ các thôn cũng tiến hành

rước lễ vật ra đền để tế lễ. Sau khi kiệu Bà và nước được đưa vào đền yên

vị, cuộc tế lễ bắt đầu. Các bô lão năm thôn được cử vào ban tế tiến hành

kiểm tra lễ vật rất nghiêm ngặt. Lễ vật để tế lễ trong ngày hội hoàn toàn là

trầu, rượu. Từ thượng cổ năm nào cũng vậy có chăng thêm thì chỉ có bánh

gai, bánh mật mà thôi.

Tương truyền việc làm oản xôi thờ cũng phải rất tinh khiết. Phải

dùng nước ở giếng Quán Đôi, đầu thôn Dương Đình, gánh về nhà trước đó ba bốn ngày để thật trong, khi đó mới đem ra vo gạo và thổi xôi, như vậy

mới đảm bảo độ tinh khiết. Sau khi đã xem, xét lễ vật một cách kỹ lưỡng,

cuộc tế lễ bắt đầu.

Trong "Lý triều đệ tam hoàng đế" bản chữ Hán còn chép rõ bản văn

tế Hoàng thái hậu về mùa xuân ở đền. Chúng tôi xin ghi lại ở đây làm cứ

liệu tham khảo:

"Rằng: Năm nay là... tháng ... ngày mồng một.

Tỉnh-phủ-huyện-tổng-xã, toàn dân kính dâng lễ vật mong được chiếu

cố.

Triều Lý, Hoàng đế thứ ba, ỷ Lan linh ứng, dung mạo thơm tho, đức

hạnh đoan trang, trí hòa hiền hậu, trinh tiết phép lành, lừng danh nhân

hậu... giúp nước đầy phúc, nghĩa đẹp, một mực hiền hòa đôn hậu, dẹp hết

nạn, yêu nước; đoan trang điềm lành, cứu đời yên dân, giúp nước bảo vệ

sự nghiệp, gây dựng cơ đồ, vun trồng nền ơn, ban phúc, phát của... đức lớn

lừng danh, hành vi tao nhã, giữ nề nếp, yên dân giữ nước, lòng nhân đức mở rộng kéo dài không nghỉ.

Rất linh Hoàng thái hậu ngôi trên, rằng có lễ tế trong mùa xuân.

Kính mong Hoàng thái hậu xét đến chỗ tối tăm. Đoan trang thuần túy

công ơn ấy ghi lại ức năm, muốn kỷ. Nay gặp thời lành, tế mùa xuân, lễ

Page 179: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

237

mọn, tình thâm, kính cẩn, xin được chiếu cố, ban phúc, giúp nước thịnh

vượng, giúp cứu vớt dân cư ấm no.

Xin tâu trình"

Chắc chắn văn tế này được làm về sau, và tới nay không rõ vào ngày

hội nội dung bài tế có giống như trên không, song ít nhất đó cũng là cứ

liệu để thấy được niềm mong ước cầu xin của dân làng đối với Bà.

Sau cuộc lễ chính thức của các cụ trong hội đồng, ra vào không ngớt

là các cuộc dâng lễ của dân làng và khách thập phương. Ngày hội đầu tiên

kéo dài cho đến khuya trong không khí nghiêm trang tại đền cùng các cuộc

vui ngoài sân và khu vực xung quanh. Tương truyền sau khi tế lễ xong ngày hôm đó cũng như buổi hôm sau, lễ vật được chia ra làm đôi, riêng

Dương Đá (là nơi sinh ra Bà) được một nửa, nửa kia mới được chia cho

các thôn còn lại trong xã. Riêng ông chủ tế được biếu 60 phẩm oản và 60

quả chuối.

Những cụ già được chúng tôi hỏi đều khẳng định hội xưa không có

chi tiết về kiệu và võng lọng của ông bán dầu trong đám rước ngày hội

(người mà theo truyền thuyết đã báo trước cho ỷ Lan biết sẽ trở thành

hoàng hậu). Tuy nhiên theo Bắc Ninh dư địa chí của Đỗ Trọng Vĩ, (mục cổ tích) khi nói về miếu Lý Thái hậu lại nhắc đến chi tiết này như sau:

"Người con gái làng Dương Xá hái dâu trong nương. Có một ông lão

bán dầu trông thấy trên đầu cô có đám mây tía liền đến bảo cô ta đi gặp

vua. Người con gái từ chối nói: "Mẹ tôi sai tôi đi hái dâu chứ không sai đi

xem vua". Ông lão nài thêm, nói "sau này nếu quả cô được quí hiển thì cho

tôi võng lọng đi trước". Đến lúc đó, cô ta mới chịu nghe theo ông lão đến

chỗ vua ngự... Lý Nhân Tôn lên ngôi, tôn làm hoàng thái hậu. Nhớ lời ông bán dầu, mỗi khi ngự giá lại cho võng lọng (của ông - LHL) đi trước. Nên

về sau, dân vẫn giữ lệ cũ. Hàng năm ngày nhập tịch mở hội, vẫn rước một

cái kiệu đỏ để không và một đôi lọng xanh đi trước kiệu thần, không dám

thay đổi".

Ngày 20 tháng 2 hội cũng bắt đầu bằng những cuộc rước. Song lần

này là rước Thành hoàng và lễ vật của các thôn thuộc Dương Xá và

những nơi ăn lộc ruộng của đền bái vọng và dâng lễ. Trừ kiệu của bốn

thôn thuộc Dương Xá và Thuận Quang được vào trong đền, còn tất cả các kiệu của những làng khác đều phải đứng bên ngoài cổng đền (chỗ đường 5

bây giờ) bái vọng vào. Lễ vật được chuyển vào trong đền.

Tại sân đền còn có tục phất cờ tổng, truyền rằng nhất là vào những

năm trời âm u, múa cờ là để xua tan mây ám cho trời quang mây tạnh.

Page 180: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

238

Thuận Quang là làng được quyền lựa chọn tổng cờ cho hội hàng năm.

Tổng cờ cũng được lựa chọn cẩn thận, là người không tang chế, đẹp người, khỏe mạnh và nhanh nhẹn. Ngoài ra còn có hai thủ hiệu trống và

chiêng. Cả thủ hiệu cờ và thủ hiệu trống, chiêng đều mặc đẹp và phải tập

luyện từ trước. Các động tác và điệu múa của họ cũng giống như hiệu cờ,

hiệu trống và hiệu chiêng ở hội Dóng. Hiệu cờ cũng quì, nhảy, múa ba lần

như ba ván ở hội Dóng. Lá cờ cũng dài như ở hội Dóng, nhưng tổng cờ

phải tập luyện cẩn thận, thuần thục, tránh để cờ lùng nhùng mà cuốn vào

cán, như vậy sẽ bị phạt vạ rất nặng và có lỗi với Thánh. Do đó mà các tổng

cờ luôn luôn phải chú ý trong khi luyện tập.

Tại bãi Xây ở trong đền, ngày trước rất rộng và cây cối um tùm, mát

mẻ, là nơi diễn ra cuộc đấu cờ người. Người đẹp nhất được chọn làm

tướng. Mỗi quân cờ đều có một chiếc ghế đầu để ngồi. Riêng tướng cờ

được che thêm một chiếc lọng. Người chơi đánh nước nào thì người đóng

vai quân cờ chuyển chỗ theo nước đánh. Cứ như vậy ván cờ diễn ra căng

thẳng với sự đấu trí của người chơi, nhưng lại hấp dẫn người xem không

chỉ vì các nước cờ tài ba mà còn bởi các màu sắc và sự thanh tú của các

nam nữ đóng quân cờ. Cuộc đánh cờ phân thắng bại cho các địch thủ kéo dài cho tới hết hội. Đến cuối hội người ta mới xác định rõ người thắng và

trao giải cho người nhất cuộc.

Mỗi năm hội đều có phường hát ở các nơi đến đăng cai hát giữ cửa

đền, suốt từ 19-2 đến hết hội. Thường thường các phường hát đến xin, địa

phương tín nhiệm phường nào thì cho phép họ tới hát giữ cửa đền cho đến

khi rã đám mới thanh toán tiền cho họ. Ngoài ra các phường chèo, tuồng

khác cũng đến góp vui cho hội thêm sôi nổi.

Trong hội còn có các trò chơi khác như tổ tôm điếm, đấu vật, chọi

gà, đốt pháo và thời Pháp thuộc có cả hát cô đầu...

Cứ như vậy lễ hội đền bà Tấm kéo dài cho đến hết ngày 21 tháng 2

âm lịch. Ngày 22 tháng 2 là ngày tế rã đám và kết thúc hội. Cũng vào ngày

đó các giải vật, giải cờ mới phân ngôi nhất nhì và làm lễ trao giải.

Qua khảo sát lễ hội ở Dương Xá và những làng có liên quan ta thấy

một số điểm sau:

1. Trong các làng thờ Nguyên Phi ỷ Lan thì hội ở Dương Xá có qui mô lớn nhất. Hội có rước nước từ trên Sủi (Phú Thị) với đám rước lớn

gồm cả tổng Dương Quang xưa và các làng ăn lộc đền Bà Tấm. Nếu như ở

Như Quỳnh (Hải Hưng) hay chùa Dạm (Nam Sơn, Quế Võ, Bắc Ninh),

Phú Thị (Gia Lâm, Hà Nội) nhất mực mọi người đều cho chỉ thờ Nguyên

Page 181: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

239

Phi ỷ Lan, thì tại Dương Xá, bà Tấm và Nguyên Phi chỉ là một và có một

quá trình lịch sử dài từ một hình tượng cô Tấm lam lũ và thông minh đến vị nguyên phi tài ba, tháo vát. Chỉ có Dương Xá kiêng chữ Tấm gọi là bổi,

cám gọi là đớn.

2. Vào dịp hội, cả Dương Xá, Như Quỳnh và Phú Thị đều rước giao

hiếu và cả ba nơi đều trân trọng yêu quí thần tượng Mẫu nghi thiên hạ của

mình. Cũng dễ nhận ra điều đó vì Thổ Lỗi trang xưa bao gồm đất đai suốt

từ Sủi (Phú Thị) cho tới Văn Lâm, Văn Giang, Hải Hưng ngày nay. Cả ba

làng trên đều thuộc trang Thổ Lỗi ấy. Do vậy không lấy làm lạ khi xuất

hiện tâm thức kính trọng, cả ba làng đều coi Nguyên Phi ỷ Lan là người của quê mình.

3. Ghép các chi tiết hội ở cả ba làng ta sẽ có được một lễ hội trọn vẹn

với nội dung là toàn bộ truyền thuyết và sự thực lịch sử về Nguyên Phi ỷ

Lan. Đó là các tục lệ, nghi thức liên quan đến cô Tấm ở đền Bà Tấm. Chi

tiết ông bán dầu ở hội làng Ghênh (Như Quỳnh) nhắc đến đoạn cô Tấm

dựa bên khóm lan khi đi hái dâu và gặp vua để thành hoàng hậu sau này.

Tục bông sòng ở hội làng Phú Thị (Sủi) nhằm kể lại sự tích đầu thai của

vua Lý Nhân Tông và cuối cùng là những nghi thức và lễ vật của ngày hội nói lên quãng đời cuối cùng của Nguyên Phi chuyên tâm vào việc xây

dựng chùa chiền, chuyên tâm làm điều thiện, tu nhân tích đức nơi cửa

Phật. Toàn bộ lịch sử của một nhân vật được biểu tượng hóa trong các

nghi thức, tục lệ ở lễ hội của cả ba làng. Do vậy việc tổ chức tốt lễ hội ở

đây sẽ phát huy được tình đoàn kết, tương trợ lẫn nhau giữa các địa

phương như truyền thống tốt đẹp của các làng mạc Việt Nam vốn đã có từ

xa xưa.

4. Những năm gần đây, hội đền Bà Tấm ngày càng trở thành một lễ

hội lớn. Khu vực đền đã được tu sửa khang trang hơn, đẹp hơn. Ngày hội

được sự tổ chức khá chu đáo của chính quyền địa phương và nhân dân

trong xã. Nhiều trò vui dân gian được khôi phục lại như tổ tôm điếm, chọi

gà... Một số sinh hoạt mới được tổ chức... Trong một khu vực đền hơn hai

hécta, các trò chơi được bố trí hợp lý cho nên đã thu hút người xem rất

đông. Dương Xá lại là nơi gần thủ đô, nằm cạnh đường quốc lộ số 5, do đó

khách trẩy hội cũng rất tiện lợi. Vì vậy khách đến hội mỗi năm một đông thêm./.

L.H.L

Page 182: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

241

Hội thả diều Bá Giang

Minh Nhương

Làng Bá Giang, xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng có một ngôi

miếu cổ, thờ ông Nguyễn Cả. Hàng năm làng mở hội vào tháng ba âm

lịch thường có rước bánh dày, thổi cơm thi, thả diều thi... Hội thi thả diều

đông vui và hào hứng nhất. Theo thần phả và những câu chuyện truyền

miệng trong dân gian: Ngày xưa, trong làng có nhà hào trưởng, sinh

được cô gái xinh đẹp, nết na. Năm 18 tuổi mới đặt tên là Thị Trâm. Khi

đó ở đầu làng có một gò đất cao ráo, bằng phẳng. Giữa gò có một hòn đá xanh nhẵn nhụi. Xung quanh cây cối um tùm, cỏ hoa tươi tốt. Các loài

chim muông thường đến tụ tập ríu rít gọi bầy. Một hôm cô Trâm đi hái

củi về qua đó, nhân trời nóng bức bèn ngồi lên phiến đá để hóng mát.

Bỗng có một con khỉ từ trên cây chợt nhảy xuống ôm lấy cô... Cô Trâm

bàng hoàng ngất đi. ít phút sau con khỉ bỏ đi, cô Trâm dần dần tỉnh dậy

vội vã mang củi về nhà 1 . Từ đó, cô thấy trong người có cảm giác lạ rồi

mang thai. Đến ngày 16 tháng 2 năm Bính Thân, trời đất bỗng chuyển

động, mây mù kéo đến tối mịt cả một vùng. Cô Trâm trở dạ sinh ra một người con trai có dáng hình kỳ lạ. Khuôn mặt như võ tướng, tay dài quá

đầu gối. Một vết chàm đỏ ở lòng bàn chân như hình con dấu. Cô đặt tên

con là Kỳ. Người trong vùng gọi là Cả (ông lớn); năm 12 tuổi đã nổi

tiếng thông minh học giỏi. Văn chương quảng bác, võ nghệ cũng tinh

thông, trong vùng không ai sánh kịp. Trong thời gian ấy, thỉnh thoảng

con khỉ ra vào nhà. Mùa lúa chín, khỉ lại mang thóc lúa về cho cô Trâm

nuôi nấng con khôn lớn. Năm 20 tuổi, uy danh của Nguyễn Cả lừng lẫy khắp nơi. Ông lập doanh trại ở giữa ấp để làm nơi tụ tập anh tài. Đối với

dân, ông lại khoan nhân đức độ, luôn lấy điều nhân nghĩa để phủ dụ lòng

người. Ông được muôn dân hướng phục. Anh hùng hào kiệt kéo đến phù

trợ cho ông. Một lần bọn gian loạn của triều đình đến đánh úp ông (ví dụ

ông không được), giữa vòng vây bốn mặt, ông dùng một chiếc quần đen,

lấy cát đựng đầy hai ống quần rồi túm lại. Ông cầm quần đựng cát xông

thẳng vào đám giặc, tung cát bay mù mịt, làm cho chúng phải bưng mắt

chạy toán loạn.

1 Do truyền thuyết trên mà làng này không có tục "bắt vạ" những "phụ nữ không chồng mà

chửa".

Page 183: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

242

Lúc này vua Đinh Tiên Hoàng mở vận nước, dẹp 12 sứ quân. Nghe

tiếng ông giữ quyền bính một vùng, vua bèn sai ông Đinh Điền đến vời ông. Đêm ấy, ông nằm mơ thấy một cụ già râu tóc bạc, tươi cười vào

dinh đọc bốn câu rằng :

Ngày mai "người ruộng" đến chơi nhà

Vua Đinh thống nhất lại sơn hà.

Vua tôi gặp gỡ ngàn năm nghiệp

Trời đất định nên thế đó mà !

rồi biến mất. Tỉnh dậy thì trời đã sáng, ngoài sân, binh mã đã kéo đến ầm

ầm. Một người nói to: Tôi là Đinh Điền, bầy tôi của Đinh Tiên Hoàng, vâng lệnh nhà vua đến đón tướng quân về giúp nhà Đinh dựng nghiệp

lớn ! Ông bèn nhận lời, mở tiệc khao quân, thưởng dân và đem theo năm

trăm quân sĩ về Hoa Lư yết kiến Đinh Tiên Hoàng. Vua Đinh cả mừng

phong ông làm Phó súy tướng quân. Lập đàn tràng cáo tế trời đất, cho cả

hai mặt quân thuỷ bộ cùng tiến đánh thành sở của các sứ quân, thu giang

sơn về một mối.

Đinh Tiên Hoàng lên ngôi hoàng đế, mở tiệc lớn ăn mừng và

phong thưởng cho các công thần. Ông Nguyễn Cả được phong là Tổng súy thượng tế đại tướng quân. Thưởng cho xã Bá Giang là quí ấp sở tại.

Nhờ vậy mà họ hàng được quí hiển, làng xóm được vinh quang.

Ông làm quan trong triều chẳng được bao lâu thì triều đình suy

thoái, bọn gian thần gây nhiều cảnh làm oán hận lòng dân. Nhiều lần

Nguyễn Cả đã khuyên can, nhưng nhà vua không nghe. Cuối cùng ông

viết tờ sớ nói rõ mọi điều lợi hại và nêu cụ thể về những việc nên tránh

hoặc những việc nên làm dâng lên, những vẫn không được vua chấp nhận. Ông Cả bèn cáo ấn từ quan về hương ấp. Ông dạy dân làm ăn, vui

vầy cùng cảnh điền viên thôn dã. Lúc rảnh rỗi bày trò vui, chơi diều cùng

đám trẻ mục đồng. Rồi một hôm, trên gò đất năm xưa, ông lại thấy Hầu

Công (con khỉ) ngồi trên giữa hòn đá đó. Ông kính cẩn cúi đầu làm lễ.

Đột nhiên hiện ra một làn mây trắng từ từ nâng bổng hòn đá bay lên. Làn

mây bao bọc xung quanh biến thành mây ngũ sắc. Lại thấy cụ già đọc

bốn câu thơ :

"Giáng sinh trần thế tại gò này

Nay lại về trời tựa áng mây

Tìnhnghĩa cha con, cha xuống đón

Anh hùng sinh hoá thảy đều hay".

Page 184: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

243

Tiếng thơ vừa dứt thì sấm chớp ầm ầm, gió mưa mù mịt. Ông Cả

cũng hóa theo, hôm ấy là ngày 12 tháng 8. Lát sau, trời tạnh mây quang. Người trong vùng đổ ra phía gò, vô cùng nuối tiếc. Ai nấy đều hướng lên

trời như ngắm chiếc diều bay. Tưởng nhớ công ơn ông Cả, người dân lập

miếu thờ ngay trên gò đất ấy. Triều đình phong sắc với những mỹ tự.

Hiện nay trong miếu còn đôi câu đối :

"Sinh tiền tích trứ Đinh triều soái

Hóa hậu linh chiêu Bá ấp thần".

nghĩa là :

"Khi sống triều Đinh lừng tướng giỏi

Hóa rồi ấp Bá rạng thần thiêng".

Hội thi thả diều ở Bá Giang cũng được mở ra từ đất. Ngay từ

tháng 8, trong làng đã rục rịch làm diều. Người chọn tre, mua giấy, người

khoét sáo, vót dây... Công việc rất công phu, tỉ mỉ. Dây diều xưa làm

bằng tre đủ tuổi, vót đều nối dài rồi cuộn lại ngâm vào nước quả cây cúc

hột và muối. Cho vào nồi ba mươi đun một đêm, dây vừa mềm lại vừa

dai. Sáo diều cũng dùng nan tre đan thành ống, đun sơn gắn với miệng

sáo làm bằng gỗ vàng tâm. Tiếng sáo vừa thanh lại vừa ấm. Giấy dán diều lớn là loại giấy xi măng, diều nhỏ bồi bằng giấy bản. Ngày nay dây

diều được thay bằng dây ni lông, nhẹ diều càng dễ bay lên.

Ngày rằm tháng ba âm lịch, làng Bá Giang vào hội. Sau phần tế

lễ, rước bánh dày tưởng nhớ thần nhân, hội thi thả diều mở ra. Mỗi năm,

làng cử người khéo tay làm một chiếc diều to làm biểu tượng. Diều dài

5m, rộng 1m50 dán giấy hồng điều, có đề bài thơ :

Gió hát trăng thanh hồn non nước

Sải cánh diều bay nhạc sáo ngân

Khí thiêng tướng Cả lưu truyền thống,

Anh hùng rạng rỡ sáng lòng dân

Địa điểm thi thả diều là khu vực trước cửa miếu thờ ông Nguyễn

Cả đến đền Châu Trần thờ thần bản thổ. Cửa miếu nhìn ra một cánh đồng

thoáng rộng, bên con đê sông Hồng ôm ấp lấy xóm làng. Một dải hồ

trong xanh in bóng nước. Mở đầu là lễ trình diều, tất cả những người dự

thi đều mang diều đến lễ trình trước cửa miếu. Hàng năm, thường có từ 30 đến 60 diều dự thi. Diều to dài 3m, diều nhỏ dài 1m. Người thi đa số ở

trong làng, có thêm người ở Hạ Mỗ, Tân Hội, Liên Trung... cũng mang

diều đến dự. Buổi chiều quê, khi gió nồm nam lộng thổi, cánh đồng lúa

Page 185: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

244

đang thì con gái xao động rì rào. Trước cửa miếu Bá Giang, mấy chục

cánh diều nối tiếp bay lên, bầu trời xanh vi vu tiếng sáo... Đứng trên bờ đê, trong làng xóm, ngoài đồng ruộng, ở đâu cũng xem được diều bay.

Thỉnh thoảng lại có diều đứt dây bay mất ra phía sông. Có diều chao đảo

rồi rơi xuống nước. Lại có những diều đan chéo dây quấn vào nhau, cả

hai đều rơi,... gây thành những cuộc reo hò huyên náo và những chuỗi

cười sảng khoái của người xem. Lũ trẻ trong làng rủ nhau thả diều con

theo hội. Thế là có hàng chục, hàng trăm diều nhỏ dán đuôi bay khắp hội,

tạo thành mấy tầng diều cao thấp bay chấp chới trong gió xuân. Nghe

đâu đây ngân nga tiếng "chuông Bồng, cồng Bá". Hòa cùng tiếng sáo, tiếng vằng của hội diều. Cảnh sắc làng quê biết bao ngoạn mục.

Cuộc thi thả diều diễn ra một hoặc hai giờ do ban tổ chức qui định,

còn phụ thuộc vào sức gió của thiên nhiên. Những diều do đứt dây hoặc

đảo, tự loại khỏi cuộc thi. Số lượng diều bay giảm dần theo thời gian của

cuộc thi. Thường khi vào chung kết chỉ còn lại trên hoặc dưới 10 diều dự

chấm giải. Ban tổ chức thường trực ở đền Châu Trần. Người có diều dự

chấm lùa dây buộc vào hàng cột trước cửa đền. Sao cho diều ở trên cao

ứng với nóc miếu thờ ông Nguyễn Cả.

Giải thưởng của hội diều là cờ và tặng phẩm, xếp theo thứ tự nhất,

nhì, ba với tiêu chuẩn: Diều bay cao, không đảo và có tiếng sáo hay.

Người được nhận giải lần lượt vào tạ lễ thần và hội thi kết thúc, những

cánh diều vẫn tiếp tục bay, tiếng sáo vẫn ngân nga để "hầu thánh" cho

đến tận đêm khuya.

Trong ánh trăng thanh, dân làng Bá cứ nghe tiếng sáo véo von cũng

phân biệt được diều ấy là của ai thả. Mấy năm gần đây, diều chiếm giải nhất là của các cụ Thìn Ngọ (1992), Hồng Nhâm (1993) và Nguyễn Văn

Bồi (1994) đều ở làng Bá Giang. Ngày hội văn hóa huyện Đan Phượng

lần thứ nhất, xã Hồng Hà cử 10 người mang diều lên huyện dự liên hoan,

được người xem hoan nghênh. Ngày nay, miếu Bá Giang đã được nhà

nước xếp hạng di tích Lịch sử - Văn hóa. Người dân ở đây quan niệm

rằng, cứ năm nào hội diều mãn nguyện thì năm ấy dân làng được "hòa

cốc phong đăng". Di tích và hội diều đều được gìn giữ và kế thừa./.

M.N.

Page 186: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

246

hội Bạch Hạc toan ánh

*

Làng Bạch Hạc, (nay thuộc tỉnh Phú Thọ) hàng năm mở hai kỳ

hội Xuân, kỳ đầu từ mồng 3 đến hết mồng 5 tháng giêng, kỳ sau từ mồng

10 đến 13 tháng ba.

Bạch Hạc chính là Phong Châu, kinh đô nước Văn Lang đời Hùng Vương.

Hùng Vương đô ở Châu Phong

ấy nơi Bạch Hạc, hợp dòng Thao Giang.

Đặt tên là nước Văn Lang,

Chia mười lăm bộ bản chương cũng liền.

(Đại Nam quốc sử diễn ca)

Bạch Hạc nằm bên tả ngạn sông Lô, theo danh từ địa phương còn gọi là sông Thao, trông sang thành phố Việt Trì. Muốn tới Bạch Hạc, du

khách hoặc dùng xe lửa, đường Hà Nội đi Lào Cai, đến ga Bạch Hạc,

cách Hà Nội chừng bảy chục cây số, xe lửa sẽ ngừng nơi đây trước khi đi

qua cầu sông Lô để sang Việt Trì, hoặc du khách có thể đi theo đường

bộ, quốc lộ số 2 đường Hà Nội đi Tuyên Quang, Hà Giang, thẳng tới

Bạch Hạc, quốc lộ số 2 cũng đi qua cầu Việt Trì trên sông Lô như đường

sắt.

đình làng Bạch Hạc trông thẳng ra sông Lô, trên một khu đất cao vừa trang nghiêm vừa thanh tịnh. Nơi đây thờ Thổ Lệnh đại vương, một

vị thiên tướng đã xuất hiện xuống đất Phong Châu vào đời nhà Đường.

Thần tích ghi rằng về đời Đường khi Lý Thường Minh làm Thứ

sử Giao Châu, một hôm nhàn du đến đây ngắm phong cảnh, nằm mộng

thấy từ trên trời bay xuống hai thiên tướng.

Hai thiên tướng này là hai anh em ruột. Lý Thường Minh mời hai

vị thi tài, ai hơn sẽ ở lại hưởng hương khói của dân làng Bạch Hạc. Đức Thổ lệnh đại vương là anh, bước một bước qua sông và một bước nữa

thì lui về chỗ cũ. Ngài bước mạnh đến nỗi in hằn vết chân lên một tảng

đá, nơi đây khi hàng năm trong kỳ hội tháng ba có cuộc đua thuyền,

thuyền bắt đầu khởi hành.

* Có bổ sung tư liệu của một số tác giả khác.

Page 187: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

247

Theo lời dân chúng, ở bên kia sông cũng có một vết chân như

vậy, nhưng vì lâu năm bị đất phù sa che lấp đi. Tảng đá về mé sông Bạch Hạc, dân làng còn ghi được và cất giữ ở đình làng. Vết chân dài một

thước, rộng năm tấc.

Em đức Thổ lệnh đại vương là đức Thạch Khanh đại vương được

dân làng Thọ Sơn, huyện Hạc Trì tỉnh Phú Thọ thờ phụng.

Do sự liên hệ huynh đệ giữa hai vị thần linh, dân hai làng Bạch

Hạc và Thọ Sơn có tục giao hiếu với nhau trong những kỳ tế lễ hội hè

của hai làng.

Hội Bạch Hạc với hai kỳ tháng giêng và tháng ba mỗi năm, nhiều cổ tục được nhắc lại, nhưng đáng chú ý nhất, ở đây có cuộc thi thuyền

trên sông Lô và tục cướp cầu. Còn những tục khác như chơi cờ bỏi, tế lễ

thì cũng không khác gì ở những ngày hội Xuân, hội Thu khác miền Bắc.

Tục cướp cầu diễn ra trong thời kỳ hội mồng ba tháng giêng. Đây

là một thú vui đặc biệt của dân làng và hàng năm, trong ngày hội, dân

chúng các xã lân cận đã kéo nhau tới đây rất đông để xem và đôi khi

cũng tham dự cuộc cướp cầu.

Mỗi năm dân làng cử một người may bộ cầu để tung cho dân làng cướp trong dịp hội. Được cử may bộ cầu là một điều vinh dự trong dân

xã, thường là hương chức trong làng. Bộ cầu gồm một quả cầu mẹ và

tám quả cầu con. Mỗi quả cầu gồm một nắm bông bọc trong vải ngũ sắc

có thêu chỉ mầu sặc sỡ. Một sợi chỉ được đính vào quả cầu, một đầu chỉ

buộc vào một ngành tre. Mỗi quả cầu đều có dải buông thõng, dải hoặc

khâu bằng lụa màu, hoặc kết bằng chỉ sặc sỡ.

Sáng ngày mồng ba Tết, dân làng tới nhà vị Hương chức được chỉ định may cầu để rước bộ cầu ra đình. Đám rước long trọng có cụ Tiên

chỉ trong làng cầm hương, các nam nữ thanh niên đi theo, có phường bát

âm cử nhạc điểm theo tiếng chiêng trống rất oai nghiêm. Chín mẹ con

quả cầu bầy trên long đình do bốn thanh niên khiêng.

Rước tới đình, cả bộ cầu được kính cẩn đặt lên bàn thờ thay cho

bộ cầu năm trước. Kế đó là lễ tế cầu. Tế cầu xong là cuộc tung cầu để

dân làng và cả dân thiên hạ cùng chen nhau cướp.

Cầu tung từng ba quả một, mỗi lần tung đều do một vị hương chức hoặc một vị bô lão đảm nhiệm.

Đầu tiên là ông Tiên Chỉ, thời Pháp thuộc khi không có ông Tiên

Chỉ, do ông niên trưởng trong làng, - tung quả cầu Mẹ và hai quả cầu

Page 188: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

248

Con. Vị này trước hết phải đọc một bài văn chúc, đại khái ca tụng phong

cảnh của làng, dân phong và nhất là sự linh thiêng của Đức Thành Hoàng đã che chở cho dân được thịnh vượng, làng xã được yên bình. Sau bài

văn chúc ba cành tre được giơ cao theo nhịp trống thờ. Khi tiếng trống

dứt, dân làng hò reo ầm ĩ. Dứt hồi hò reo, vị Tiên Chỉ lại đọc một bài văn

chúc thứ hai cầu cho dân chúng trong xã gặp được mọi sự tốt lành. Tiếp

theo bài văn chúc thứ hai lại là một hồi trống và một loạt hò reo ầm ĩ.

Sau đó vị Tiên Chỉ hoặc niên trưởng tháo ba quả cầu buộc ở

ngành tre ra, buộc lại với nhau làm một rồi tung lên để dân chúng xô

nhau cướp. Bộ ba quả cầu không kịp rớt xuống đất đã có người đỡ, nhưng liền đó, người đỡ được ba quả cầu lại bị người khác chen đẩy

giằng mất. Họ xô lấn nhau, họ chen chúc nhau, họ cười, họ gọi nhau ơi

ới, người này ngã, người kia reo, cho đến khi một người nắm chặt được

bộ cầu, sự ồ ạt mới ngừng.

Sáu quả cầu sau đó do hai vị chức sắc hoặc bô lão khác mỗi người

tung ba quả, nhưng lần này, không còn hai bài văn chúc, chỉ có trống

đánh nhịp và mọi người hò reo.

Mọi người lại xô đẩy chen lấn nhau như lần thứ nhất. Họ tin rằng cướp được quả cầu sẽ gặp may mắn. Họ tranh nhau rất hăng hái, đàn ông,

đàn bà, thanh niên nam nữ đều dự cuộc, không phân biệt người thân kẻ

lạ, người gần kẻ xa, người sang kẻ hèn.

Cướp được cầu, dù một quả hay bộ ba quả, có thể đem về nhà làm

kỷ niệm, hoặc để thờ tại đình. Thường thường dân làng Bạch Hạc, cướp

được cầu, họ vẫn mang tới đình để thờ cho tới năm sau.

Tục cướp cầu, tuy chỉ là một cổ tục cử hành hàng năm theo nghi thức cổ truyền, nhưng đây chính là một cổ tục đề cao tinh thần thượng

võ, chứng tỏ người dân Việt Nam luôn luôn sẵn sàng bất khuất nó đã

khiến dân tộc Việt Nam được tự chủ với bốn nghìn năm lịch sử.

Cuộc thi thuyền hàng năm làng Bạch Hạc tổ chức vào ngày rã

đám trong kỳ hội từ mồng Mười đến Mười Ba tháng ba, tổ chức ngay

trên dòng sông Lô để dân xã và khách trẩy hội từ thập phương tới có thể

đứng hai bên bờ sông dự xem.

Làng có bốn giáp: Bộ Đầu, Tiểu Hạc, Đông Nam và Thần Chúc. Mỗi giáp có một chiếc trải dài bằng gỗ chò, dài hơn hai chục thước, rộng

chừng thước rưỡi, đóng bằng nguyên cả cây gỗ theo chiều dài. Chiếc trải

có năm chục bơi chèo ở hai bên; đầu trải uốn thành rồng và đuôi trải

cũng lượn khúc như đuôi rồng.

Page 189: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

249

Để dự cuộc bơi trải các giáp đều kén những dân đinh khoẻ mạnh

sung vào những tay bơi, mỗi giáp năm chục người cho chiếc trải, nhưng giáp nào cũng kén một số người dự khuyết. Ngoài những tay bơi, mỗi

giáp còn phải kén ba người, ba người này thường là các bậc đàn anh

trong giáp, một người đứng đầu thuyền cầm cờ hiệu, một người đứng

giữa gõ một chiếc trống khẩu để giữ nhịp cho những tay chèo, và ở cuối

thuyền, một người ngồi cầm lái. Mỗi bên mạn thuyền là hai mươi lăm tay

chèo, đây là những tay trai lực lưỡng đã được hàng giáp lựa chọn, và đã

có luyện tập cùng với ba vị đàn anh điều khiển chiếc trải. Trong lúc bơi,

họ vừa chèo vừa hò reo.

Người đứng đầu thuyền cầm cờ hiệu, và đồng thời cầm trịch cho

chiếc thuyền bơi. Người này trước hết phải luôn luôn đứng cho cân, tự

giữ lấy thăng bằng, đừng vì mình mà thuyền thiên lệch, gây khó khăn

cho các tay bơi. Đứng trên thuyền cho vững, mặc con thuyền lao đi vun

vút trên mặt nước theo đà các tay chèo, trong khi đó lại phải cầm trịch

cho chiếc trải, dùng cờ hiệu phất cho chiếc trải hoặc đi thẳng, hoặc tiến

trái, hoặc tiến phải, hoặc vòng theo một độ nào để quay đầu trở lại, quả

không phải là một việc dễ dàng. Chỉ cần một chút sơ ý có thể ngã lao xuống nước trong khi chiếc trải vẫn vun vút bơi đi.

Người cầm trống khẩu đứng giữa thuyền cũng phải giữ mình cho

cân, cho khỏi ngã như người cầm trịch, và tiếng trống phải sao cho đều

để khỏi lạc tay chèo những người đang bơi.

Người cầm lái đứng ở cuối, cầm cả vận mệnh của chiếc trải trong

tay, trải đi nhanh hay chậm là do nhiệm vụ người cầm lái. Phải giữ lái

cho trải đi thẳng, phải lựa tránh những chiếc trải khác mà vẫn vượt lên đầu. Lại còn lúc quay, khi lượn, phải lựa cho thuyền theo lái. Với từng ấy

khó khăn, người cầm lái lại phải đứng cho vững, cho cân trên cuối

thuyền, nếu vô ý ngã xuống sông, chiếc trải không lái sẽ bơi ngang bơi

ngửa...

Người cầm lái phải luôn luôn để ý tới người cầm trịch, theo hiệu

của người cầm trịch lái chiếc trải.

Năm chục tay chèo, đã ngồi xuống chiếc trải, phải chú ý hết đến

việc bơi, tai phải nghe tiếng trống, tay phải bơi cho đều đều, đừng sai nhịp với bạn cùng bơi. Một tay chèo bơi sai nhịp, có thể gây rối loạn cho

ba bốn tay chèo khác, có khi cho cả một mé chiếc trải.

Thật là khó khăn! Do đó phải có sự luyện tập hàng tháng trước.

Page 190: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

250

Lúc xuống bơi trải, các tay chèo đều mình trần trùng trục mỗi

người chỉ vận một chiếc khố, mỗi bọn một mầu khố đều nhau, trông thật đẹp, nhất là khi, mỗi hàng đoàn họ dắt nhau xuống từng chiếc trải trước

cuộc bơi, trông họ với thân hình nở nang, bắp tay rắn chắc, có thể ví họ

như những bức tượng đồng lực sĩ.

Lúc cuộc thi bắt đầu, bốn chiếc trải xếp hàng đều nhau ở ngay

trước cửa đình làng. Thật là một cảnh nhộn nhịp cho người xem và cả

cho người dự cuộc. Dân giáp nào cũng hồi hộp như chính những tay bơi.

Trên chiếc trải, ngoài những tay chèo mình trần đóng khố, ba

người đàn anh cầm trịch, đánh trống và giữ bánh lái, người nào cũng khăn áo đóng áo dài, thắt lưng đỏ buộc múi sang bên, trông có vẻ ung

dung bình tĩnh và rất tự tin.

Các chiếc trải khởi hành ở trước cửa đình làng và bơi cho tới ngã

ba sông nhánh chảy vào sông Lô. Theo lời truyền tụng đây là dân làng

diễn lại tích đức Thổ Lệnh đại vương, tiễn đức Tản Viên khi xưa, lúc đức

Tản Viên tới thăm ngài ra về.

Chiếc trải về tới đình trước nhất sẽ được giải thưởng và làm lễ đốt

mừng bánh pháo.

Dân làng Bạch Hạc giải thích cuộc bơi trải căn cứ trên một sự tích

huyền bí: Đức Thổ lệnh tiễn đưa đức Tản Viên, nhưng trên thực tế, dân

ta cần luôn luôn tập luyện cho quen sông nước, và đã hơn một lần chúng

ta thắng giặc trên mặt sông! Bạch Đằng Giang còn đó, Chương Dương

độ còn kia, và cả trận sông Lô năm 1947, khi toàn dân kháng chiến đã

khiến gần ba nghìn quân Pháp vong thân trôi theo dòng nước!

Gặp những năm dân làng làm ăn thịnh vượng, mùa màng được, nhân dịp hội tháng ba, dân làng tổ chức cờ người thay cho cờ bỏi, cờ

người cũng chơi như cờ bỏi chỉ khác quân cờ thay vì những biển cờ có

khắc chữ, là những nam nữ thanh niên mặc quần áo có thêu chữ mang

tên những quân cờ, chữ thêu ở trước ngực và ở sau lưng người đóng quân

cờ. Cũng có nơi, quân cờ mặc quần áo như thường, nhưng có thêm chiếc

biển khắc hoặc viết chữ theo bộ cờ, như vậy mỗi nước đi, nếu quân cờ di

chuyển phải mang theo chiếc biển của mình. Tại mỗi vị trí của bàn cờ

đều có một chiếc ghế để quân cờ ngồi.

Tại những xã lớn thịnh đạt, những nam nữ đóng quân cờ còn

mang theo khí giới, và khi quân bên nọ ăn quân bên kia, quân cờ ăn sẽ

múa một thế võ như hạ quân cờ bị ăn, y như trong một màn hát bội. Trên

đây là mấy cổ tục đặc biệt diễn ra hàng năm tại xã Bạch Hạc trong những

Page 191: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

251

ngày hội. Ngoài những cổ tục trên, hội còn nhiều trò vui khác như tổ tôm

điếm, đáo đĩa v.v./.

T.A

Page 192: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

1

lễ hội làng bạch trữ

Nguyễn ngọc thanh

Làng Bạch Trữ ngày nay thuộc xã Tiến Thắng, huyện Mê Linh,

tỉnh Vĩnh Phúc. Bạch Trữ xưa có tên Nôm là Kẻ Bạch thuộc tổng Bạch Trữ, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây 1.

Làng ở phía tây, cách thị xã Phúc Yên 3 km, ngay ven sông Nguyệt

Đức (địa phương gọi là Cà Lồ2). Làng nằm trải dài dọc theo ven đê, trong

mỗi xóm ngõ, nhà cửa thường có tường xây bao bọc, đường đi của xóm,

ngõ hẹp với nhiều đường ngang tắt, mật độ cư trú trong từng xóm dày đặc,

thường anh em họ hàng ở gần nhau, không khí "trong nhà ngoài làng" lúc

nào cũng đầm ấm.

Làng Bạch Trữ xưa có bốn xóm, xóm Rọ, xóm Nường, xóm Chì và xóm Gáo. Sau này do sự tăng dân số thêm một số xóm khác nữa xuất hiện

vào những thời điểm khác nhau, tuy nhiên diện mạo của làng cổ không

thay đổi nhiều lắm so với trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Dân làng

xưa chia thành tám giáp: giáp đông Rọ, giáp tây Rọ, giáp đông Nường,

giáp tây Nường, giáp đông Chì, giáp tây Chì, giáp đông Gáo, giáp tây Gáo.

Các giáp đều thờ chung thành hoàng ở đình. Đó là Mỵ Nương công chúa

(con vua Hùng Vương thứ 18, là vợ của Sơn Thánh Tản Viên) và Hoàng

Cống (tức Cống Sơn) quân sư và tướng của Hai Bà Trưng. Theo truyền thuyết và ngọc phả chép vào năm Hồng Phúc nguyên niên 1572, đời Lê

Anh Tông3 hiện đang còn lưu giữ có ghi: Mỵ Nương công chúa nhân một

lần đi chơi, tình cờ thấy nhiều cỏ trữ trắng mọc ở ven đường, hỏi tên làng,

dân không ai biết, nàng liền đặt tên gọi là làng Bạch Trữ, đồng thời lưu lại

dạy dân làng biết nghề dệt vải. Để tưởng nhớ công ơn, hàng năm làng mở

hội tung bông nhằm ghi nhớ lại sự việc này. Còn Hoàng Cống (Cống Sơn)

theo ngọc phả, ông quê ở động Hoa Lư (Ninh Bình) theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống quân Hán, lập nhiều chiến công được phong thực ấp ở

1 Viện Nghiên cứu Hán Nôm: Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX. Nxb KHXH, Hà Nội

1981, tr. 36-39. 2 Theo sách Đại Nam nhất thống chí, bản dịch, tập IV, Nxb KHXH, Hà Nội 1971, tr.208 có

ghi: sông Nguyệt Đức là chi lưu của sông Bạch Hạc (tức sông Hồng) đoạn từ Yên Lạc chảy

qua Thịnh Kỳ, Khả Do về Bắc Ninh gọi là Nguyệt Đức. 3 Cuốn ngọc phả này do Đông Các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn.

Page 193: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

2

Bạch Trữ và đóng đồn tại đây. Khi Hai Bà Trưng mất, ông vẫn tiếp tục

cuộc kháng chiến chống quân Hán ở xung quanh Bạch Trữ.

Đình làng được xây dựng trên một khu đất cao ráo ở giữa làng,

trước đình có một cái ao hình bán nguyệt. Nhìn chung đây là một công trình kiến trúc đồ sộ, mang dấu ấn của nhiều thời. Phong cách và truyền

thống kiến trúc cổ dân tộc thể hiện rõ qua các đầu đao, độ dốc thấp và

nặng của bộ mái, qua bố cục kiến trúc, hệ thống cốn, giá chiêng ở các đầu

hồi. Không những thế Bạch Trữ còn là một chứng cứ lịch sử, một công

trình tưởng niệm những người đã có công xây dựng và bảo vệ làng.

Ngày trước cũng như hiện nay, hàng năm dân làng lại tưng bừng

mở hội. Ngôi đình đã thực sự trở thành trung tâm của hội làng. Vào những

ngày đó, già trẻ, trai gái, lớn bé, tụ tập ngoài đình, quanh đình, bên bờ ao cùng vui hội.

Trong một năm ở Bạch Trữ có những hội lễ chính sau:

- Tháng giêng: ngày mùng 10, Đức Thánh Cống Sơn sinh nhật, có

hát chèo, đánh vật đến hết ngày 15, hàng ngày có tế lễ ở đình.

- Tháng hai: Khánh hạ đức Bà công chúa, từ ngày mùng 1 đến ngày

mùng 10 làng mở hội có các trò chơi, đánh cờ, bắt chạch trong chum, thả

vịt xuống sông để đuổi bắt, đánh đu. Có rước kiệu đức Bà từ miếu về đình.

- Tháng tám: Đức Bà công chúa sinh nhật, làng mở hội từ chiều mùng 9 đến hết ngày 15. Tổ chức rước kiệu từ miếu về đình để tế lễ vào

mùng 10, ngày 15 tế tạ rước kiệu về miếu, ở sân đình tổ chức tung bông.

- Tháng một: Đức Bà công chúa phụ hoá nhật, tám giáp làm tám cỗ

bánh dày mang ra đình thi.

- Tháng chạp1: Đức ông phụ hoá nhật, ngày 11 mở tiệc giỗ trận

tưởng nhớ đến chiến công của Hoàng Cống (Cống Sơn).

Dưới đây là bốn lễ hội chính.

A. Lễ hội vào tháng hai:

Xưa kia cứ mười năm mới mở hội một lần, hội bắt đầu từ ngày

mùng 1 đến hết ngày mùng 10.

Không khí trong làng trước ngày vào hội khá nhộn nhịp, nhà nào

cũng lo lễ vật sao cho chu tất để nếu được giáp cử mang lên đình cúng

thành hoàng cũng không hổ thẹn với các giáp bạn. Trong nhà ngoài ngõ

đều được dọn dẹp sạch sẽ.

1 Ngày tháng trong bài chúng tôi ghi theo cách tính âm lịch.

Page 194: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

3

Trong ba ngày đầu hội, mỗi giáp cử hai nam thanh niên khoẻ

mạnh, mặc quần áo mới, đầu chít khăn đỏ đi rước kiệu từ miếu về đình,

đến chiều lại rước kiệu từ đình về miếu.

Những ngày này các cụ hàng lão túc trực ngày đêm ở ngoài đình để đón tiếp khách từ các xã lân cận tới dự hội. Từ ngày mùng bốn làng tổ

chức các trò chơi.

a. Đánh cờ người.

Trên sân đình một bàn cờ tướng 32 quân được kẻ sẵn vôi sao cho

từ tướng đến quân đều là người thực có thể đứng vừa. Các quân cờ thường

là giai tân, do chủ tế đã chọn sẵn từ trước. Mỗi buổi sáng ông chủ tế dẫn

quân cờ đến bàn cờ, ở mỗi vị trí quân cờ có cắm biển tên các quân cờ bằng

chữ Hán, và gọi loa mời những người giỏi cờ đến khảo cờ.

b. Bắt chạch trong chum.

ở Bạch Trữ, người ta chỉ dùng một chiếc chum, đổ nước đến nửa

chum và bỏ chạch vào. Những người xin bắt chạch lần lượt ghi tên theo

thứ tự. Có thể chỉ là một người đàn ông bắt chạch. Nếu ai bạo dạn, "tán"

khéo thì rủ thêm một người phụ nữ cùng vào bắt chạch. Nhiều khi chạch

chẳng thấy đâu lại bắt nhầm phải tay nhau, lúc đó dân làng và đôi trai gái

cười vui vẻ, dí dỏm, tinh nghịch, hả hê.

Trò bắt chạch trong chum không những gắn liền với nghi lễ phồn thực của người Việt cổ từ thuở xa xưa mà còn thể hiện sự thông minh, nhanh nhẹn, tài trí của người lao động nông nghiệp, trong chừng mực nào đó còn có ý nghĩa giao duyên vì đã nhiều đôi trai gái nên vợ, nên chồng sau trò chơi này.

c. Thả vịt xuống sông.

Trò chơi này chỉ có nam giới tham gia. Vịt thả xuống sông, trai làng cùng một lúc nhảy ào xuống, người bơi, người ngụp săn bắt vịt. Ai bắt được vịt thì đem về đình lĩnh thưởng, giải thưởng tuỳ theo từng lần làng mở hội. Có năm phần thưởng bằng vải đủ may một bộ quần áo, có năm bằng tiền.

B. Lễ hội vào tháng tám (còn gọi là hội tung bông).

Đây là ngày hội vui nhất, tập trung dân bốn phương về dự hội, hội bắt đầu từ ngày mùng 10 đến hết ngày 15 tháng 8. Trước đó vài tuần các giáp đã phải lo đủ gạo nếp, đỗ, gà trống để biện lễ cúng thành hoàng.

Sáng mùng 10, các giáp mang lễ vật gồm thịt gà, xôi và chè ra đình. Buổi sáng hôm đó làng tổ chức lễ rước kiệu Đức Bà từ miếu ở đầu

Page 195: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

4

làng về đình. Đi đầu đám rước có đoàn người vác cờ, quạt rồi đến phường bát âm, tiếp đó đến kiệu Đức Bà do tám chàng trai khoẻ mạnh của tám giáp cắt cử khiêng. Đi sau kiệu là chủ tế và các cụ. Khi tiếng trống nổi lên, đám rước chậm rãi tiến về đình, hai bên đường dân làng đứng xem rước kiệu đông nghịt nhưng không hề cười đùa vì thế tạo cho đám rước không khí trang nghiêm.

Đám rước kiệu về tới đình, làng tổ chức khấn lễ, bên trong đình ngay gian giữa trải ba chiếc chiếu to, hai bên hàng cột đình mỗi bên có sáu người đàn ông mặc quần áo theo lối võ quan dưới các triều phong kiến xưa, tay cầm vũ khí (đao, kiếm). Dưới sân đình là hai hàng người xếp dọc tay cầm lễ vật (rượu và hương). Sau khi ông chủ tế đọc xong bài khấn, thứ tự hai người một đi vào trong đình tiến lễ dâng thành hoàng. Công việc tế thành hoàng tổ chức trong bốn ngày theo nghi thức trên.

Đến sáng ngày 15, phần khấn tế kết thúc, làng tổ chức rước thành hoàng về miếu, thành phần rước giống như hôm đầu, nhưng mọi người phải vừa đi vừa chạy. Sau lễ rước thành hoàng, làng tổ chức tung bông ngay tại đình. Giữa sân đình, người ta kê một chiếc bục cao, ông chủ tế đứng ở trên bục chuẩn bị tung bông. Dân làng chen chúc ở sân đình và bên ao đình ngóng đợi.

Bông được làm bằng một đốt tre non tước rất khéo, những mảnh xơ màu trắng muốt, mềm mại, mỏng manh, được buộc thành túm giống như một cuộn bông. Dứt tiếng trống, người chủ tế tung bông lên cao, khi bông chưa chạm đất dân làng đã xô nhau vào cướp. Người ta chen nhau, hò reo ầm ĩ, trống thúc liên hồi, có những năm chủ tế tung bông xuống ao đình, dân làng lội ào xuống ao giành bông. Theo lệ làng, ai cướp được bông mang về nhà, để lên bàn thờ tổ tiên, châm ba nén hương là được. Nhưng phần nhiều chẳng ai giành lấy bông mà còn nguyên vẹn, người nhiều được vài sợi, người ít chỉ được vài đoạn sợi. Song ai cũng vui vẻ, hể hả vì nghĩ rằng công việc làm ăn cả năm sẽ có thành hoàng giúp đỡ chở che.

C. Lễ hội mùng bốn tháng một.

Tương truyền đây là ngày Mỵ Nương công chúa mất vì vậy hàng năm làng làm lễ tiến cỗ bánh dầy lên đình đồng thời mở hội thi bánh dầy.

Lệ làng xưa, tám giáp phải có tám chiếc bánh dầy to, vừa là bánh để dâng tế thành hoàng vừa để dự thi. Ngày xưa, mỗi giáp có một thửa ruộng riêng chuyên cấy lúa nếp lấy làm bánh thi, đến vụ gặt, lúa nếp sau khi đập mang phơi khô, chọn lựa kỹ càng rồi mang về để ở nhà ông cai giáp, đến ngày 25 tháng 10 thóc mới được mang ra giã, gạo làm bánh cũng chọn khá cầu kỳ, hạt gạo phải đều nhau, không sứt mẻ hoặc bị gãy và phải

Page 196: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

5

giã trắng. Gạo giã xong nhưng chưa được làm bánh ngay mà đến sáng mùng hai tháng 10 mới đem ngâm. Khi giã gạo làm bánh phải giã theo một kỹ thuật cao, sao cho khi vắt bánh thì bánh mịn, dẻo và trắng. Tất cả các công việc để làm bánh hoàn thành trong ngày mùng ba. Chiều tối ngày mùng ba các giáp cử người mang bánh ra đình (bánh được đặt trên mâm đồng, và có phủ giấy hồng điều). Sáng ngày mùng bốn sau khi tế lễ xong, các mâm bánh của tám giáp hạ xuống để thi. Ban giám khảo chấm thi là các chức sắc trong làng, sau khi xem xét và bình phẩm, ban giám khảo sẽ hội ý để chọn bánh đạt giải nhất.

Ngày hội thi bánh dầy cũng là ngày cho các em trai từ ba tuổi trở lên ra nhập giáp hay còn gọi là vào làng, hôm đó gia đình chỉ cần có một cơi trầu trình cai giáp là được chia phần bánh dầy, nhưng từ năm sau, mỗi em phải nộp cho giáp một nồi gạo nếp cái (tương đương một thúng bánh dầy loại nhỏ) và nộp liên tục trong 10 năm. Có như vậy đến tuổi 25 mới được ra ăn cỗ ở đình làng.

D. Tiệc giỗ trận ngày 11 tháng chạp.

Theo ngọc phả thì ngày 11 tháng chạp năm 46 (sau CN) là ngày diễn ra trận quyết chiến giữa quân sĩ của Hoàng Cống với quân xâm lược Hán, vì tương quan lực lượng chênh lệch, Hoàng Cống cùng nhiều quân sĩ của ông đã ngã xuống. Tưởng nhớ đến ông hàng năm dân làng mở tiệc giỗ trận vào ngày 11, hôm đó kiêng hát xướng và các trò chơi.

Tiệc giỗ trận được tổ chức ở bãi đồng Sổ theo đồng bào đây là nơi Hoàng Cống luyện tập binh sĩ.

Trước ngày mở tiệc, tám giáp cử người ra bãi quét dọn sạch sẽ. Ông chủ tế (do các giáp rút thăm chọn ra) sẽ vạch thành tám ô đều nhau chia cho tám giáp. ở giữa bãi kê một chiếc bàn to dùng để lễ vật. Lễ vật là thịt lợn đen hoặc bò vàng do các giáp góp tiền mua.

Đến ngày mở tiệc, ngoài lễ vật kể trên, từng giáp mang theo hương, hoa đến bày lên trên bàn. Ông chủ tế đánh ba hồi, ba tiếng trống tất cả dân làng đều ra bãi đứng mặc niệm. Chủ tế đứng ở giữa bãi hướng mặt lên bàn bày lễ vật đọc bài văn tế.

Trên đây là vài nét phác hoạ về một số ngày hội lễ chính ở làng Bạch Trữ. Nhưng cũng như mọi làng quê khác, hội làng Bạch Trữ không chỉ mang tính chất tưởng niệm những người có công xây dựng cơ đồ, nặng về tế lễ mà còn có đủ các trò chơi đậm đà màu sắc dân gian.

Page 197: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

6

Hội làng Bạch Trữ còn bảo lưu các trò chơi cổ gắn với nghi lễ phồn thực của người Việt cổ (trò bắt chạch trong chum). Hội làng còn biểu hiện nghi lễ của cư dân làm nông dệt vải (hội tung bông).

Hội làng Bạch Trữ lấy đình làng làm trung tâm của các hành động hội chứng tỏ có sự đồng nhất giữa hội làng với tín ngưỡng thành hoàng./.

N.N.T

Page 198: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

258

hội làng bạt trung

và tục thi nấu cơm cần

nguyễn thanh

Làng Bạt Trung nằm ven đường quốc lộ 39B, km số 10 trên đường từ

thị xã về Tiền Hải, nay là xóm Việt Hưng xã Hoà Bình, huyện Kiến Xương.

Thuở xưa đình, đền, miếu thờ Triệu Quang Phục và tướng lĩnh của ông được

xây dựng thành một quần thể lớn, nay đã bị hư hao chỉ còn lại một ngôi miếu

cổ. Hàng năm làng mở hội hai kỳ vào 15 tháng giêng và 15 tháng 8, những

năm gần đây được tổ chức vào dịp 15 tháng 3. Xưa, hội làng Bạt Trung mở với nghi thức tưởng niệm Triệu Quang Phục cùng nhiều sự lệ, nhiều trò dân

gian như thi lợn lềnh, bắt gà đặc biệt là tục thi kéo lửa, leo cây chuối, chạy giải

lấy nước nấu cơm cần. Nay tục thi lợn lềnh không duy trì còn các trò dân gian

vẫn được duy trì, riêng trò thi kéo lửa nấu cơm cần thường thu hút nhiều thành

viên trong làng tham gia.

Tương truyền, vào thế kỷ VI, khi Triệu Quang Phục lui quân về Dạ

Trạch (Hưng Yên) có hai người làng Bạt Trung là Lý Chiêu Tường và Trần Hưng Trấn chiến đấu dưới cờ của ông. Nghĩa quân của Triệu Quang Phục trên

các chiến thuyền bị vây riết, trên đầm lầy không có lửa nấu cơm họ nghĩ ra

cách dùng dây thuyền kéo mạnh vào cọc thuyền tạo ra lửa, treo niêu trên sào

vừa lướt thuyền vừa nấu cơm. Thuở ấy vùng đất thuộc làng Bạt Trung ngày

nay cũng đang là một vùng đầm lầy đầy lau sậy, hai ông Lý Chiêu Tường và

Trần Hưng Trấn cũng đã được Triệu Quang Phục cho triển khai thế trận ở đây

và từng phải nấu cơm theo cách này. Sau này dân làng lập đền thờ Triệu

Quang Phục và hai ông. Theo định lệ cứ ba năm một lần vào các năm Tý- Mão- Ngọ- Dậu làng Bạt Trung tổ chức thi kéo lửa nấu cơm cần, còn tục thi

lợn lềnh và các trò bắt gà, bắt vịt, đấu roi... năm nào cũng được duy trì trong

ngày hội.

Tục thi lợn lềnh hàng giáp vốn là một tục lệ khá phổ biến ở nhiều làng

cổ ở Thái Bình. Các cố lão trong làng Bạt Trung gọi là tục nuôi nỉ (từ cách gọi

này chúng ta thấy tục nuôi lợn phân cho các đình trong giáp ở Bạt Trung vốn

có rất lâu đời bởi từ “nỉ” vốn là từ nôm cổ nay không còn thông dụng, chỉ thấy

tồn tại trong cụm từ cố định “nỉ lần, nỉ lượt”). Làng Bạt Trung có 4 giáp, hàng năm các giáp phân cho một hộ theo nhân đinh nuôi lợn. Nhà nào đến phiên

nuôi lợn lềnh được xem là một việc đại sự. Từ đầu năm phải lo chọn giống,

Page 199: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

259

làm chuồng. Con lợn để dự thi gọi là Ông lợn, được chăm lo nuôi dưỡng sạch

sẽ, chu đáo. Đến ngày khai hội, gia chủ phải lo làm xôi đãi làng, đãi giáp rồi chiêng trống rước lợn ra đình để dự thi. Lợn được đo bằng dây để tính vòng

vai, chiều dài, vòng bụng. Thước dây đo xong lại được kiểm tra lại trên thước

khác trên đá tảng ở đình. Lệ của mỗi làng về qui cách đo, tính thưởng khác

nhau. Riêng ở làng Bạt Trung nếu chiều dài lợn 1m10 là đủ lệ, 1m20 được

hưởng khoang (hay còn gọi là quán ưu), từ 1m30 được trừ phần con cái miễn

phải nuôi lợn theo lệ... Lợn tế thánh xong từng phần cơ thể con lợn chia theo

ngôi thứ trong làng, phần còn lại chia cho các xuất đinh đã vọng. Không ít nhà

bị khuynh gia bại sản vì lệ nuôi nỉ của làng. Mâu thuẫn trong làng cũng dễ nảy sinh khi chia phần theo tâm thức “miếng thịt làng hơn sàng thịt chợ”.

Tục thi nấu cơm cần của làng Bạt Trung là một cuộc thi mang sắc thái

độc đáo của cư dân nông nghiệp vùng châu thổ Bắc Bộ. Để có được bát cơm

dẻo cúng thần, phải qua các kỳ thi kéo lửa, leo cây chuối, chạy giải lấy nước

nấu cơm, nấu cơm chín, dẻo, vượt thời gian.

Cuộc thi đầu tiên là kéo lửa. Làng Bạt Trung có 4 giáp, mỗi giáp một

cối dự thi. Cối dùng để kéo lửa là một đoạn tre hoá gốc già, thẳng, dài chừng

1m20. ở đốt giữa đoạn tre đục thông một lỗ dài 20cm, rộng 1,5cm để đặt mồi, ở khoảng giữa được tạo thành hai rãnh để đặt dây kéo . Dây kéo lửa là loại lạt

tre dây dài chừng 80cm, dây phải vừa dẻo vừa bền, kéo không bị đứt. Mồi để

bén lửa là loại mạt rạ mục trên mái nhà lợp rạ được nghiền nhỏ rang, phơi kỹ

hoặc một ít bã sắn, dây, mạt cưa, vỏ bào, rơm rạ nghiền lẫn. Việc tạo ra cối,

dây, mồi, củi, là cả một kỹ nghệ bí truyền, khi kéo lửa là cả một nghệ thuật

tổng hợp của năm bảy nghệ nhân, từ người giữa cối đến người kéo không bị

đứt, giữ cối sao cho không bị nhấc khỏi mồi, kéo sao cho đủ nhanh, đủ mạnh tạo ra nhiệt thành lửa.

Khi có hiệu lệnh trống, các chàng trai của từng cối vào cuộc kéo lửa

chiêng trống và tiếng hò reo cổ vũ vang dậy. Cối nào kéo được lửa sớm sẽ

được chấm theo thứ tự. Khi kéo lửa xong sang phần thi leo cây chuối lấy niêu.

Bốn cây chuối hột loại to nhất nhì trong làng được phát hết lá, bóc lớp bẹ bên

ngoài, bôi bùn trơn nhẵn , trên ngọn chuối treo một chiếc niêu nhất. Mỗi giáp

cử một người leo. Giải cũng được chấm theo thứ tự thời gian lấy được niêu

của các giáp.

Lấy niêu xong là phần thi chạy vượt sông giữa cánh đồng để lấy nước

nấu cơm. Nước được đựng vào một chiếc đĩa cổ mang về, vượt thời gian là rất

khó khăn. Giải được chấm theo thứ tự giáp nào mang đĩa về đích sớm nhất.

Page 200: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

260

Khi đã có lửa, có niêu, có nước, cuộc thi nấu cơm cần bắt đầu. Niêu

cơm được treo trên cần một cây tre còn cả phần ngọn để trang trí, cây tre đường kính phần gốc chừng 3cm, dài chừng 5m, một người vác cần, một

người đỡ phần ngọn, bốn người cầm đuốc nấu cơm, một người vừa giữ cho

niêu thăng bằng vừa theo dõi khi cơm sôi phải ghế cho chín đều và điều chỉnh

lửa. Thuở trước, niêu nấu cơm là niêu nhất bằng đồng nấu chừng một bò gạo,

nay dùng xoong nhôm loại nhỏ. Trên mặt niêu cơm đặt một chiếc khăn thấm

nước sao cho rước được nhiệt lên mà không quá lạnh đến mức tốn nhiệt. Khó

khăn nhất là cả bốn cối đều phải chạy quanh sân theo hiệu lệnh của chủ khảo.

Người vác cần chạy sao cho niêu cơm không bị sánh nước, người cầm đuốc chạy sao đưa lửa đều vào niêu, người giữ niêu tính thời gian biết khi cạn nước

mở ra ghế mà đỡ mất nhiệt... Thông thường từ khi nấu đến khi cơm chín phải

chạy đều trong khoảng 15 đến 20 phút và phải duy trì đều đặn các thao tác sao

cho cơm chín sớm nhất, dẻo nhất, nếu khô, nhão, khê, sống bị trừ điểm.

Khi cả 4 cối đã hoàn tất việc nấu cơm, Ban giám khảo tính điểm. Điểm

tổng thể dành cho cối nào nấu cơm nhanh nhất, cơm dẻo ngon nhất được giải.

Còn các giải từng phần cũng được tính điểm để cộng tổng số như điểm kéo

lửa, điểm leo cây chuối, điểm lấy nước, điểm thời gian nấu cơm, điểm chất lượng cơm... Khi chấm điểm xong, các niêu cơm được xới mang vào lễ thánh.

Trong các phần thi mỗi giáp đều có mục riêng được coi là những bí

quyết không để lộ ra ngoài. Trước ngày khai hội nhiều ngày các trai tráng

được chọn phải tập luyện chu đáo từ việc kéo lửa đến các thao tác leo cây

chuối, chạy vượt sông lấy nước, nấu cơm cần... Giải tổng thể hay giải từng

phần tuy không lớn nhưng là điều may cho cả giáp trong năm.

Ngoài tục thi kéo lửa nấu cơm cần, hội làng Bạt Trung còn có tục thi bịt mắt bắt gà vui nhộn. Người ta dùng lưới quây một góc sân đình thả 4 con

gà của 4 giáp có đánh dấu riêng. Bốn chàng trai của bốn giáp được bịt mắt

vào bắt. Ông trọng tài vừa gõ trống vừa xua đuổi gà chạy toán loạn, ai bắt

đúng gà giáp mình thì được thưởng, ai bắt nhầm gà khác thì tiếng cười vang

dậy. Nay tục bắt gà đơn giản hơn, chỉ bắt một con.

Ngoài các trò dân gian truyền thống, những năm qua hội làng Bạt

Trung còn thêm nhiều trò vui mới./.

N.T

Page 201: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

262

lễ hội đền Bắc Lệ *

Võ Hoàng Lan

Tục thờ Mẫu có một vị trí khá đặc biệt trong đời sống tâm linh của

người Việt. Tín ngưỡng dân dã này đã phát triển cùng với lịch sử phát

triển của dân tộc Việt, các di tích thờ Mẫu cũng ra đời theo bước chân

của tộc người này, từ núi rừng cho xuống đồng bằng, và Bắc Lệ là một

trong những trọng điểm của loại hình di tích đó. Đền Bắc Lệ ở xã Tân

Thành huyện Hữu Lũng (Lạng Sơn), là nơi thờ Mẫu Thượng Ngàn - bà

chúa sáng tạo và cai quản vùng rừng xanh.

Đền Bắc Lệ không phải chỉ có một ngôi đền đứng độc lập, mà là

một quần thể di tích, gồm có đền chính, đền Chầu Bé và đền Đèo Kẻng.

Cho đến nay chưa tìm được một tài liệu nào cho biết chính xác thời điểm

ra đời của ngôi đền, chỉ biết rằng đền đã trải qua rất nhiều lần trùng tu

tôn tạo, có khu còn được xây lại mới hoàn toàn (như đền Chầu Bé chẳng

hạn), do vậy ngôi đền có dáng vẻ cổ truyền kết hợp với các yếu tố hiện

đại. Giờ đây đền chính vẫn nằm trên khu đất xưa kia, là một dãy nhà ba

tòa liền mái, xây bằng gạch, có các cột gỗ và được lợp bằng ngói tây. Ba tòa nhà này đồng thời cũng là ba cung. Từ ngoài vào: cung đệ nhất có

ban thờ Ngũ vị Tôn Ông và hạ ban thờ Ngũ Dinh. Sau cung đệ nhất là

cung đệ nhị có ba ban thờ: ban thờ Đức vua Cha Ngọc Hoàng ở giữa, ban

thờ Chúa Sơn Trang lùi về sau, phía bên trái, và ban thờ Đức Thánh Trần

ở đằng sau phía bên phải. Cuối cùng là cung cấm với hai ban thờ: ban thờ

Phật được đặt trong cùng, và ban thờ Tam Tòa Thánh Mẫu ở phía ngoài.

Cách đền chính khoảng 15m về bên phải là đền Chầu Bé mới được xây dựng lại. Đền Đèo Kẻng tuy cách đền chính 2 km nhưng vẫn được coi là

một bộ phận trong quần thể di tích này. Đền cũng có cấu trúc như đền

chính với ba cung thu nhỏ: đệ nhất, đệ nhị, cung cấm.

Trong Tam Tòa Thánh Mẫu, Mẫu Thượng Ngàn còn gọi là Mẫu Đệ

Nhị, truyền thuyết về bà được lưu truyền trong dân gian với rất nhiều dị

bản, nhưng đều trùng hợp ở những điểm chính như: nguồn gốc xuất thân

vương giả của bà (là con gái Hùng Vương, hoặc là con gái của Sơn Tinh

* Bài viết có sử dụng tư liệu của PGS, TS Ngô Đức Thịnh - Phạm Quỳnh Phương trong

Đạo Mẫu ở Việt Nam (tập I), Nxb Văn hóa thông tin, H, 1996.

Page 202: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

263

và Mỵ Nương..), bà có sắc đẹp và những tài năng hơn người do được

thừa hưởng từ các vị thần tiên, nhờ vậy bà đã đem lại cho muôn dân ở chốn rừng xanh một cuộc sống yên ấm và no đủ. Nhớ ơn bà, dân gian đã

tôn bà là Mẹ - Bà Mẹ Rừng Xanh, cai quản tất cả 81 cửa rừng cõi Nam

Giao và đã xây dựng đền Bắc Lệ để thờ phụng bà. Truyền thuyết còn cho

thấy Bà gắn liền với những sự kiện lịch sử cụ thể như Mẫu Thượng Ngàn

giúp đỡ các triều đại Lý, Trần đánh thắng quân xâm lược phương Bắc,

giúp đỡ Lê Lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Minh... Bên cạnh

những truyền thuyết này, người dân sở tại còn đồng nhất Liễu Hạnh công

chúa với Chúa Thượng Ngàn, nên cũng có người cho rằng đền Bắc Lệ thờ Mẫu Liễu. Tương truyền trong một lần chu du miền sơn cước, Liễu

Hạnh đã tới Bắc Lệ một thời gian. Trước đó, Bắc Lệ là nơi đất dữ nhưng

khi Liễu Hạnh xuất hiện đã qui phục được các loài thú dữ, cuộc sống của

người dân không bị đe dọa nữa..., và dân gian đã xây dựng đền Bắc Lệ để

bày tỏ lòng biết ơn và thờ phụng Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Thật ra thì Mẫu

Thượng Ngàn hay Mẫu Liễu Hạnh cũng đều là hóa thân của một Bà Mẹ

Khởi Nguyên, trong tư duy dân dã đó bà mẹ này đã sáng tạo ra xứ sở và

muôn loài, sáng tạo ra các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của tộc người Việt. Bởi địa bàn cư trú đầu tiên của tộc người Việt ở vùng rừng

núi nên bà mẹ khởi nguyên có dáng dấp của bà chúa rừng xanh.

Tuy vậy, cũng giống như tất cả mọi đền thờ Mẫu khác, đền Bắc Lệ

cũng thờ tất cả các vị thần linh trong hệ thống thần điện Mẫu, như Tam

Tòa Thánh Mẫu, Ngũ Vị Vương Quan, Tứ Phủ Chầu Bà, Vua Cha Ngọc

Hoàng... Chỉ có điều, người dân ở đây đặc biệt coi trọng những vị thần

linh gắn với địa phương họ như Mẫu Thượng Ngàn, Chầu Bé, Cô Bé. Theo niềm tin của người dân sở tại, Chầu Bé là một vị nhân thần quê ở

Bắc Lệ, nên còn gọi là Cô Bé Bắc Lệ. ở đây, Cô Bé Bắc Lệ có một quyền

uy vô cùng to lớn, có thể thay mặt Mẫu để ban phát mọi điều cầu xin của

con người.

Không biết từ bao giờ trong dân gian đã truyền tụng về sự linh ứng

của các vị thần linh được phụng thờ ở đền, nên đền Bắc Lệ đã thu hút

được một số lượng lớn khách hành hương, không chỉ là dân địa phương

mà còn ở rất nhiều vùng khác, cả Hà Nội, Hải Phòng... cũng có người lên tận đây lễ bái, nhất là vào những dịp lễ hội lớn của đền.

Đền Bắc Lệ trong một năm có 5 ngày lễ lớn mà những ai đã từng

đến lễ ở đây đều nhớ rõ, vì đó là những ngày hội tụ rất đông đảo khách

thập phương. Để mở đầu cho một năm là lễ Thượng nguyên, được tổ

chức vào khoảng từ mùng 2 đến 15 tháng giêng, rồi đến lễ vào hè (đầu

Page 203: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

264

tháng tư), lễ ra hè (đầu tháng tám), lễ Mẫu (20-9) và cuối cùng là lễ tất

niên (nửa cuối tháng chạp). Dù tổ chức vào những thời điểm khác nhau trong năm, nhưng nội dung chính của các lễ hội này đều để bày tỏ lòng

thành kính và biết ơn thần linh của con người, đồng thời cầu mong thần

linh che chở và ban phúc lành để có được cuộc sống bình yên, phồn

thịnh. Nếu nói rằng sự cầu cúng, lễ bái này sẽ làm cho con người có ý

thức ỷ lại, trông chờ vào sự may rủi và lười lao động thì thật là không

phải, bởi mỗi người đi lễ đều tin rằng mọi thành quả mà họ có được đều

do công sức lao động mà họ đã bỏ ra và nhờ vào sự giúp đỡ của thần linh

mà công sức ấy không bị uổng phí. Bởi vậy, có thể nói rằng, thực chất việc đi lễ chỉ để tạo ra một sự yên ổn về mặt tinh thần, nhờ có sự yên ổn

ấy mà người ta vững tin hơn khi bước vào một chu kỳ sản xuất mới.

Vì để dâng lên thần linh nên đồ cúng lễ thường được nhân dân

chuẩn bị rất chu đáo, từ các lễ vật (như cỗ chay, cỗ mặn, đồ mã...), đến

cách sắp xếp đồ lễ (các đồ lễ bày trên ban thờ phải theo một trật tự nhất

định), đến thứ tự các bài thỉnh: Phật - Thánh - Tứ Phủ Chầu Bà - Ngũ vị

quan lớn... Trong các ngày lễ này thì lễ tiệc Mẫu là lễ hội lớn nhất và thu

hút được nhiều sự chú ý nhất, cũng có thể xem đây là lễ hội chính của đền.

Lễ tiệc Mẫu được tổ chức vào ngày 20-9 hàng năm, theo dân gian

thì đây là ngày giỗ Mẫu, bởi ngày 3-4 là ngày Mẫu thác lần thứ nhất và

ngày 20-9 là ngày Mẫu thác lần thứ hai. Công việc chuẩn bị cho lễ hội đã

được bắt đầu từ trước đó nhiều ngày, những đồ lễ dâng lên Mẫu phải

được lựa chọn cẩn thận nên khâu chuẩn bị rất được coi trọng, đây là lúc

người ta nuôi gà vịt lợn, chọn gạo, làm đồ mã... Lễ hội được bắt đầu vào ngày 18 bằng lễ mở cửa đền. Các ban thờ trong đền, các đồ tế lễ được

dọn dẹp và lau chùi sạch sẽ, người ta làm lễ tắm ngai (ngai Vua Cha

Ngọc Hoàng và ngai Mẫu Thượng Thiên) bằng nước mưa, hoặc nước lấy

ở đầu nguồn suối Bắc Lệ từ sáng sớm, và nước trầm hương. Sang ngày

19 người ta phải chuẩn bị cỗ cúng, cỗ cho các ban cũng được qui định

chặt chẽ: cỗ tam sinh, cỗ mặn cho ban Công Đồng, Ngũ vị Tôn Ông; cỗ

chay (có khi cả cỗ mặn) cho ban Mẫu; cỗ trứng, thịt sống cho ban Ngũ

Hổ; cỗ có cua, ốc luộc cho ban Chúa Sơn Trang. Theo một số nhà dân tộc học mỹ thuật thì hình tượng hổ là tượng trưng cho sức mạnh của trần

gian, đại diện cho các thần linh ở dưới mặt đất, Ngũ Hổ là tất cả các thần

linh thuộc 5 phương của thế nhân, nên đem trứng sống tới cúng ở ban

này có nghĩa như những linh hồn của các kiếp đời đã qua được đưa tới

đây để cầu sự bảo trợ của sức mạnh thiêng liêng này. Tuy nhiên trong ý

Page 204: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

265

thức hồn nhiên dân dã thì hổ cũng được đồng nhất với Chúa Sơn Lâm

nên người ta còn đem thịt sống tới cúng như để thỏa mãn một nhu cầu phàm tục thuộc tự nhiên. Còn việc đem đồ biển đến lễ ở ban Chúa Sơn

Trang đã biểu hiện cho sự bổ sung cái thiếu của miền sơn cước, đồng

thời biểu hiện lòng thành kính của tín đồ và mặt nào phản ánh mối giao

lưu của thương mại đã phát triển. Đồ mã cũng được chuẩn bị hết sức

phong phú với hầu hết các kiểu loại, nhưng những thứ có tính chất bắt

buộc là 2 voi, 2 ngựa, 6 thuyền, 5 mũ quan, 6 hình nhân (mỗi hình có 3

đầu)... Ngày 20, chính hội, vào ngày này các nghi lễ trọng thể được diễn

ra tại đền chính. Đầu tiên là lễ mời Mẫu đi xem hội, rồi mới đến lễ rước. Sau khi hiệu lệnh do người cai đám phát ra, chiêng trống nổi lên, pháo

hiệu nổ vang, đoàn cờ kiệu bắt đầu xuất phát. Đi đầu tiên là 11 lá cờ,

gồm cờ tiết (cờ vua trao để làm tin), cờ mao, cờ ngũ hành vuông có đuôi

nheo, cờ tứ linh. Y phục của những người cầm cờ rất đẹp và thống nhất:

áo nâu nẹp đỏ, đội nón dấu... Sau hai người cầm biển dọn đường (một

biển có chữ "hồi tỵ" - tránh xa, và biển kia là "tĩnh túc" - yên lặng) là bốn

người khiêng trống và chiêng. Rồi đến kiệu những đồ mã (voi, ngựa...)

có che lọng, tiếp đó là phường nhạc bát âm và kiệu bát bửu. Một đoàn tùy tùng đội nón dấu, thắt lưng bó que, mang gươm hộ tống. Đỉnh trầm

hương và mâm ngũ quả được để trên kiệu long đình do bốn người khiêng

đi trước, tiếp theo là kiệu vua Cha Ngọc Hoàng, hai kiệu bát cống rước

Mẫu, Đức Trần Triều và kiệu võng rước hàng các Chầu. Sau cùng là

khách hành hương và dân trong vùng. Đoàn rước đi từ đền chính đến đền

Đèo Kẻng, quãng đường dài độ 2 cây số, nhưng không khí náo nhiệt,

đông vui của đám rước đã làm cho mọi người không ai cảm thấy đường xa và mệt nhọc, lòng tin đã cho người ta sức khỏe và niềm hưng phấn để

tham dự được hết mọi lễ nghi diễn ra trong hội. Khi đoàn rước đến nơi,

người ta bắt đầu cử hành đại tế. Buổi tế diễn ra trước ban thờ Đức Vua

Cha Ngọc Hoàng và kéo dài trong 2 giờ với các nghi thức: đón thần,

dâng rượu, đọc chúc và hóa, lễ tất, lễ hồi cung. Kết thúc đại tế ở đền Đèo

Kẻng là lễ hồi cung, mời Phật và các vị thần trở lại đền, đám rước được

tổ chức quay về theo đúng thứ tự như lúc đi. Về đến đền chính, lại tiếp

tục có một đại tế nữa, cũng giống ở đền Đèo Kẻng. Chiều tối 20, một cuộc phân phát lộc thánh diễn ra, tất cả mọi người đi lễ đều được nhận

lộc, bất kể đó là khách thập phương hay dân sở tại, dù đóng góp nhiều

hay ít vào lễ hội, bởi "lộc hòa đồng phân".

Lễ hội đền Bắc Lệ là lễ hội của tín ngưỡng thờ Mẫu, bởi vậy có

những giá trị văn hóa tín ngưỡng đích thực của nó./.

Page 205: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

266

V.H.L

Page 206: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

267

lễ hội chùa bi

Lê ngọc canh

Hội chùa là nơi tụ hội những sinh hoạt đậm bản sắc văn hóa của

người Việt. Quá trình phát triển Phật giáo cũng là quá trình hình thành, phát triển hội chùa, những dấu ấn tốt đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng

đồng người Việt.

Song, qua quá trình biến động phát triển của lịch sử và văn hóa

cộng đồng, hội chùa đã dần dần lui về dĩ vãng mà chỉ còn lại lễ chùa.

Tuy vậy, hội chùa không mất hẳn, điều đáng mừng là vùng đất Bắc Hà

vẫn còn tồn tại hội chùa Bi (thuộc Chân Đàm, huyện Tây Chân, trấn Sơn

Nam xưa). Đời Lê Trưng Hưng, huyện Tây Chân đổi là huyện Nam Chân, nay thuộc xã Nam Giang huyện Nam Ninh tỉnh Nam Định.

Chùa Bi. Chùa được xây dựng trên vùng đất rộng thuộc ba thôn

Vân Chàng, Giáp Ba, Giáp Tư. Chùa Bi xưa đã bị tàn phá khi nhà Minh

đô hộ nước ta (1407 - 1427), ngày nay chỉ còn lại một số tảng đá cổ là

vết tích của ngôi chùa được xây dựng trên mảnh đất này.

Theo lịch sử chùa Bi (Đại Bi tự), chùa có từ đời vua Lý Nhân

Tông. Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, từng giai đoạn chùa được

xây dựng lại và trùng tu với cấp độ khác nhau:

- Ngôi chùa đầu tiên được xây dựng từ thời Lý, năm Nhâm Tý

(1073).

- Thời Lê sơ, chùa được xây dựng lại trên nền đất cũ (1427-1527)

- Đời Lê Trung Hưng, tu sửa lớn, vào năm Chính Hoà thứ III

(1682).

- Năm Gia Long thứ 6 (1807) chùa Bi lại bị quân Bắc thành đốt phá

khi ông Vũ Đình Khánh tục gọi là lãnh Khếnh người thôn Giáp Ba chống lại nhà Nguyễn. Sự việc này có được chép trong sử sách 1. Sau này chùa

Bi được xây dựng lại theo phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Tuy vậy

còn những bóng dáng hoạ tiết lá lật, mây tản, rồng bay của thời Lê trung

hưng.

1 Đại Nam thực lục - tập III. Chính biên - Đệ nhất kỷ III - Nhà xuất bản Sử học, Hà Nội,

1963.

Page 207: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

268

Hiện nay chùa được kiến trúc theo kiểu "Nội công ngoại quốc" đối

xứng hai bên linh đạo, nguy nga đồ sộ, từ tiền sảnh đến thượng điện kết cấu theo nhiều lớp, chùa được nâng cao dần. Ngoài hệ thống chính của

chùa, hai bên còn có hai dãy hành lang dài và thấp, trải mái rộng, mỗi

dẫy 20 gian, càng làm tôn vẻ đẹp của chùa.

Đến chùa Bi, du khách và những nhà nghiên cứu không thể không

để ý đến gác chuông 2 tầng, 8 mái và những đầu đao uốn cong. Chùa có

quả chuông lớn, sớm sớm, chiều chiều ngân vang cả một vùng như nhắc

nhở chúng sinh cảnh tỉnh và giác ngộ. Năm Minh Mạng thứ 18 (1838)

chuông được đúc lại, cao hai mét, đường kính 1m60 nặng 1.800kg. Chùa còn 18 bia, văn bia cổ nhất được khắc năm Kỷ Mùi (1679) đời Lê Hy

Tông. Chùa Bi ngoài thờ Phật, còn có một gian thờ Đại pháp thiền sư Từ

Đạo Hạnh.

Theo thánh phả :"Đạo Hạnh thiền sư họ Từ, huý Lộ, cha là Từ Vinh

giữ chức Đô Sát tăng quan triều Lý, nhân trú ở làng An Lãng tức làng

Láng, kết duyên cùng bà Tăng Thị Loan mà sinh ra Thiền sư. Đô Sát

tăng quan vốn người cương trực, em vua Lý Nhân Tông là Diên Thành

hầu ghen ghét, tìm cách mưu sát, mượn pháp sư Đại Điên giết hại ông. Thiền sư đưa mẹ đi tìm nơi lánh nạn.

Lẻn đi về chốn Sơn Nam

Tây Chân huyện đó Chân Đàm xã tây

Gửi thân đương chốn am mây

Mẹ con mừng rỡ ở đây trụ trì

Sửa sang phong cảnh chùa Bi

Toà vàng rực rỡ, vườn Kỳ thanh u...

Kệ Thánh Tổ

Đạo Hạnh Thiền sư kết bạn với Minh Không th iền sư tu ở chùa

Không Lộ (Giao Thuỷ) và Giác Hải thiền sư trụ trì ở chùa Phúc Lâm

(Giao Thuỷ). Ba người nghiên cứu pháp môn Đà La Ni rồi cùng nhau đi

Tây Thiên được Phật tổ truyền cho tâm ấn, lục trí thần thông. Khi về

nước thiền sư trở lại chùa Bi, thì thân mẫu đã qua đời. Thiền sư dời lên

trụ trì ở chùa Thiên Phúc, núi Phật Tích, huyện Thạch Thất, trấn Sơn

Tây. Ngoài việc tu hành Thiền sư còn dậy nghề làm trò rối (ổi lỗi), nên nhân dân gọi Thiền sư là thầy. Ngọn núi Phật Tích mà thường ngày thiền

sư tĩnh tọa cũng gọi là núi thầy. Theo sự tích, vì còn nhiều tục luỵ, thiền

sư thác sinh làm con trai Sùng Hiền hầu để nối nghiệp vua Lý Nhân

Page 208: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

269

Tông tức là vua Lý Thần Tông. Đạo Hạnh thiền sư còn được suy tôn là

một trong ba vị thánh tổ Việt Nam (Việt Nam tam thánh tổ)1.

Sách Việt điện U linh viết thời Trần, có ghi chuyện Từ Đạo Hạnh,

Nguyễn Minh Không (Không Lộ) và Giác Hải sang Tây Trúc học được

thuật lạ.

Sách Hí phường phả lục của trạng nguyên Lương Thế Vinh, viết ở

giữa thế kỷ XV thì Từ Đạo Hạnh là tổ thứ 5 trong 7 vị tổ nghề chèo.

Thiền Uyển Tập Anh chép :Đạo Hạnh thiền sư là bậc chân tu đắc

đạo, vị tổ thứ 12 của thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi. Một trong chín vị

thành Phật được ghi trong Phật phả Việt Nam.

Từ Đạo Hạnh là một trong ba vị sinh sinh hoá hoá: Từ Đạo Hạnh,

Linh Lang đại vương và Vân Cát Thần Nữ, cùng với bốn vị không chết

(tứ bất tử) là Phù Đổng thiên vương, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh Công

chúa và Tản Viên Sơn thánh.

Hội chùa.

Đến hội chùa Bi, khách thập phương đều nhìn thấy lá cờ phướn dài,

tung bay trong gió. Cờ phướn là biểu tượng cho chốn tu hành, nơi thờ

Phật. Tương truyền rằng thuở xưa các nhà sư đi truyền đạo, khuyên giảng về đạo lý của Phật là hướng thiện, trừ tà, nhân ái, với từ tâm và tấm

lòng thành. Tại một gia đình nọ, gia đình tốt, hướng thiện, trong nhà có

một người con ngỗ ngược, ngang tàng, hung hăng, sau khi nghe truyền

giáo lý của đạo Phật, đã quy phục. Người con ngang ngược đó bèn lấy

dao mổ bụng lấy lòng mình để cúng Phật, và nói "Đó là tấm lòng thành

của tôi cúng Phật". Sau đó, các sư vãi đội cỗ lòng ấy về chùa, đi được vài

ngày mùi hôi thối không chịu được, bèn ném xuống sông. Bỗng có con quạ thiêng xuất hiện, tha bộ lòng đó về vái chùa. Bởi vậy trên cột cờ

phướn bao giờ cũng có hình con quạ tượng trưng cho quạ thiêng, quạ

thần. Cờ dài kiểu răng cưa và có dải dài hai bên là tượng trưng cho tấm

lòng thành của con người hướng về Phật, quy Phật 2.

1 Theo tư liệu của các cụ: Đoàn Văn Bàng, Đoàn Châu Uẩn. Đoàn Văn Quang, Đoàn Văn

Lĩnh. 2 Phướn (Phan) Đồ trang nghiêm, biểu dương oai đức nhà Phật, khi treo nhằm cầu phúc

đức - Quạ được coi là thiên sứ ngậm phan để ban phước, đem lệnh của tầng trên xuống nhà

chùa cho mở hội.

Page 209: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

270

Sự tích thôn Vân Chàng, Giáp Ba, Giáp Tư ở khu vực chùa Bi, theo

các cụ trong ban di tích kể rằng1: thuở xưa thiền sư Từ Đạo Hạnh về đây lập chùa Bi (Đại Bi tự), thiền sư có đi quyên góp để xây dựng chùa. Tại

thôn Giáp Ba ngày nay (trước là Cẩm Nang thôn), Từ Đạo Hạnh đến

quyên góp, dân làng người góp, người không, thiếu nhiệt tình. Thiền sư

đến thôn Vân Chàng, dân làng rất nhiệt tình, thành tâm đóng góp ngay.

Thiền sư đến thôn Giáp Tư (xưa là Kinh Lũng thượng thôn) quyên góp,

cũng được sự nhiệt tình đóng góp của dân làng. Về sau thôn Cẩm Nang,

tức thôn Giáp Ba cũng có đóng nên thiền sư xếp thôn Vân Chàng là anh

cả, thôn Giáp Tư là anh hai, thôn Giáp Ba là anh ba. Mặc dầu chùa được xây dựng trên đất của thôn Giáp Ba ngày nay. Do vậy việc thờ cúng, tổ

chức rước hội chùa Bi thôn anh cả Vân Chàng có vai trò quan trọng, đã

được lệ tục quy định ở phần rước, tế, lễ.

Hội chùa Bi hàng năm tổ chức vào ngày 20, 21, 22, 23, 24 tháng

giêng âm lịch.

Ngày 20 tháng giêng:

- Lễ phát tấu do các nhà sư đảm nhiệm, tiến hành theo nghi lễ nhà

Phật.

- Tối múa rối cạn chầu thánh Từ Đạo Hạnh và cúng lễ 12 đầu lộng

theo ý nghĩa, cấp độ khác nhau (đầu lộng là 12 đầu rối). Trong đó có 6

ông lộng, tượng trưng cho 3 thôn gọi là chúa lộng, như đầu tượng: Hoàng

hậu, 2 cô tiên, ông chàng, ông mãnh, ông chớp và 6 đầu tượng nhỏ khác.

Ngày 21 tháng giêng

Dân gian có câu:

Thứ nhất là hội Phủ Giày

Vui thì vui vậy chẳng tày chùa Bi

Buổi sáng các xóm thôn tưng bừng trong tiếng trống chiêng cồng

vui đi hội. Khởi đầu đám rước từ thôn Vân Chàng (thôn anh cả rước 2

kiệu, đi từ miếu Vân Chàng qua đình thôn Giáp Ba, đám rước và kiệu

của thôn Giáp Ba tiếp theo sau. Về đến chùa Bi cũng là lúc đám rước

kiệu của thôn Giáp Tư tới cửa chùa. Tập kết ba đám rước của ba thôn

trước chùa, rồi thứ tự kiệu thôn anh cả (Vân Chàng) đi trước, tiếp theo là

thôn anh hai (Giáp Tư), sau cùng là thôn anh ba (Giáp Ba).

1 Theo tư liệu của các cụ: Đoàn Văn Bàng, Đoàn Châu Uân, Đoàn Văn Quang, Đoàn Văn

Lĩnh.

Page 210: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

271

Đám rước của mỗi thôn đều theo trật tự đội hình như sau: Cờ ngũ

hành, múa sư tử, múa rồng, phường bát âm, múa sênh tiền, hàng bát bửu, kiệu, các quan tế, các nữ quan, Phật tử vừa đi vừa tụng kinh lần tràng hạt.

Tiếp theo là tế lên chùa, mỗi thôn chọn 6 người, coi như người nhà

thánh vào chùa tiến hành lễ Phật, theo nghi thức quy định, và đọc văn tế.

Sau tế lễ là các trò chơi dân gian như thi chọi gà, đấu vật, đánh đu, cờ

người. Sau này có trò chơi kéo chữ, tiến hành cả ban đêm và ban ngày.

Các quân cờ trên có thắp đèn dầu hoặc nến.

Tối hát múa rối bằng các đầu lộng, diễn tả sự tích, ca tụng cuộc

sống thanh bình an khang và khuyên nhủ mọi người học hành nấu sử sôi kinh, ơn cha nghĩa mẹ.

Giáo Ngũ Canh, có những lời mẹ khuyên con chăm học, có chí để

nên người.

...Khi con đi học nhà thầy

Sôi kinh nấu sử đêm ngày cho chuyên

Chớ thấy nhà khó mà phiền

Đông kia lạnh lẽo, có phen xuân về

... Đường đi chớ ngại là xa

Đất kia năng đắp, ắt là nên non

Ví dù đào giếng cho sâu

Đào cho thấy nước, mới hầu nên công

Giáo Chinh Phụ, ca ngợi người phụ nữ với tình cảm tiễn chồng đi

đánh giặc

Chàng vâng mệnh khâm sai ánh tuyết

Vợ ở nhà chực tiết phòng không

Chàng đi dẹp giặc khi nay

ở nhà thiếp chịu sầu tây hỡi chàng

... Chàng đi thiếp chịu nhường lo

Lọ là chàng phải dặn dò thiếp chi

Hoặc là:

... Có đêm thở vắn than dài

Hồ nằm lại dậy ngùi ngùi ngồi lo

Có đêm gà gáy o.o!

Page 211: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

272

Thương chồng gian khổ, đói no nhường nào

Có đêm nghe mõ truyền lao

Hồ nằm lại tưởng chiêm bao thấy chồng...

Trong đêm hội hát rối cạn, trước cửa chùa còn có đoạn trích chuyện

mô tả vẻ đẹp của cây lúa, ca ngợi tinh thần chiến đấu, đất nước hùng

cường, ca ngợi tình nghĩa vợ chồng, phản ánh cảnh chia ly, người đỗ

khoa bảng, học hành tới đích, đạo lý làm con đối với cha mẹ, khuyên con

gái đối với chồng... Có thể xem hát múa trong những đêm hội chùa Bi là

sinh hoạt diễn xướng rất sôi động hấp dẫn. Nét độc đáo của hội chùa Bi

là sinh hoạt diễn xướng (hát múa rối cạn, ca ngợi thần tích công đức, lẽ sống nhân sinh, cách ứng xử văn hóa của con người với cộng đồng).

Ngày 22 và 23 tháng giêng:

Sáng cúng Phật

Chiều đấu vật và các trò chơi dân gian

Tối hát múa rối chầu thánh

Ngày 24 tháng giêng:

Sáng cúng Phật

Chiều đấu vật và các trò chơi dân gian

Tối lễ tạ và đóng cửa chùa, kết thúc hội.

Ai đã đến chùa Bi và dự hội chùa không thể không ghi nhận những

nét độc đáo, những bản sắc văn hóa tốt đẹp mà hội chùa là một trong

những biểu hiện. Bản sắc ấy ở chùa Bi sẽ còn được bảo lưu và phát triển

lâu dài trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng làng xã của người Việt. Nơi

đây có hình thức diễn xướng múa rối cạn, với những tích trò sinh động,

hấp dẫn, nội dung phong phú, đa dạng truyền cảm, khuyên con người hướng thiện, nhân ái, hoà thuận phát huy thế ứng xử văn hóa truyền

thống của cộng đồng làng xã. Dù chỉ một lần vãng cảnh chùa Bi cũng

cảm nhận nét kiến trúc độc đáo của chùa từ thấp lên cao dần. Sự tích

thiền sư Từ Đạo Hạnh xây dựng và trụ trì tại chùa, lệ tục phân chia anh

cả, anh hai, anh ba để thờ phụng cúng lễ. Sự tích cờ phướn, chim quạ, là

một biểu hiện tâm tư, tình cảm của con người, của tăng ni Phật tử luôn

ngưỡng mộ và hướng tới tu nhân tích đức. Không những thế, chùa Bi còn

tồn tại cây đèn thờ Phật trăm ngọn thắp sáng.

Kiến trúc nghệ thuật, sinh hoạt văn hóa lễ hội chùa Bi xứng đáng

là điểm sáng của văn hóa chùa và văn hóa của cộng đồng người Việt./.

Page 212: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

273

L.N.C

Page 213: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

274

Hội đỡnh - đền bổng điền

Nguyễn

thanh

Bổng Điền, vốn là địa danh dựng để đặt cho một hương của một

vựng đất nằm kề tả ngạn sụng Hồng vào thời Lý; cỳ thời kỳ dựng làm địa

danh của một huyện sau đổi thành Thư Trỡ, xưa cỳ tờn là trang Bổng Điền. Vào thời Nguyễn làng Bổng Điền thuộc tổng Bổng Điền, huyện

Thư Trỡ, nay thuộc xú Từn Lập, huyện Vũ Thư, tỉnh Thỏi Bỡnh. Trung

từm của trang Bổng Điền xưa thuộc làng Hương Đường, nay thuộc xú

Việt Hựng, nơi đặt Lăng mộ Quế Hoa, nữ tướng thời Hai Bà Trưng.

Đỡnh Bổng Điền của làng Bổng Điền nay thờ nhị vị đại vương, hai vị

tướng thời Hựng, đền Bổng Điền thờ Quế Hoa cụng chỳa. Cư dừn làng

Bổng Điền xưa đa phần cỳ gốc gỏc từ Hương Đường xuống khai phỏ lập

làng cỏch ngày nay trờn dưới 300 năm. Lễ hội làng Bổng Điền cỳ liờn quan đến nhiều làng phụ cận mà đỏm rước từ đỡnh đền Bổng Điền về

lăng mộ bà Quế Hoa ở Hương Đường vẫn được gọi tờn là đỏm rước về

làng.

Hiện tại, ở Thỏi Bỡnh ớt nơi cũn lưu giữ được cả một quần thể đầy

đủ cỏc thiết chế liờn hoàn của làng là đỡnh- đền - chựa - văn chỉ như ở

làng Bổng Điền. Quần thể di tớch được xừy dựng trờn diện tớch 16000

một vuụng, thuở trước cũn cả một ao đỡnh rộng gần 10.000 một vuụng

nằm sỏt chừn đờ sụng Hồng đủ để mở hội với sức chứa hàng ngàn người tham gia hành lễ và cỏc hoạt động đua tài giải trớ trong ngày hội.

Theo truyền thống, hàng năm làng Bổng Điền mở hội vào mồng 10

thỏng 3, chớnh hội là hai ngày 14 và 15 thỏng 3.

Nghi lễ lớn nhất, được sự quan từm và chăm lo của cả làng Bổng Điền

và cỏc làng lừn cận là đỏm rước “về làng” vào ngày 15 thỏng 3.

Khai hội ngày 14 thỏng 3 là đỏm rước nước Kiệu thỏnh mang bài

vị thành hoàng làng được rước từ đỡnh ra đền vạn chài (cũn tờn là đền Hàng Vạn) với quúng đường chừng hơn 1km. Khi kiệu Thỏnh đến đền

Vạn chài thỡ hạ kiệu, dừn làng làm lễ bỏi vọng rồi đưa lọ nước xuống

thuyền cỳ đoàn thuyền hộ giỏ xuụi dũng đến Ngú ba sụng nơi sụng Hồng

đổ vào sụng Vị Hoàng thỡ làm nghi lễ đổ nước cũ xuống, mỳc nước mới

lờn đưa về đặt lờn kiệu rước về đỡnh thờ. Sau nghi lễ rước nước là cuộc

Page 214: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

275

đua trải vượt sụng Hồng của cỏc làng Bổng Điền, Vạn Chài, Đụng An.

Buổi chiều 14 cỏc trải được đưa về đua tại ao đỡnh. Cũng tại ao đỡnh, cuộc thi bơi của trai trỏng cỏc giỏp trong làng được tổ chức. Trờn sừn

đỡnh là cỏc trũ vật, chọi gà, đập niờu, cờ người... dưới ao đỡnh sau cuộc

đua chải, thi bơi là trũ bắt vịt. Tại Văn chỉ của làng là lễ tế lợn sống,

huyết mao của hội tư văn. Tại đỡnh là cuộc tế của từng giỏp theo lần lượt

12 giỏp của làng. Cũng vào chiều 14 cỏc làng Vạn Chài, Đụng An rước

kiệu từ làng mỡnh đến đền Bổng Điền làm cỏc nghi lễ tế thỏnh và chuẩn

bị đỏm rước vào sỏng hụm sau.

Sỏng 15 thỏng 3 đỏm rước với nghi thức trọng thể từ đỡnh Bổng Điền lờn lăng thờ Quế Hoa tại Hương Đường với quúng đường hơn 4km,

cả đi và về chừng gần 10km cuốn hỳt cư dừn cỏc làng Bổng Điền, Vạn

Chài, Đụng An, Hương Đường cựng tham gia. Ngoài kiệu Phật, kiệu

vừng là kiệu thỏnh của cỏc làng. Một đỏm rước khổng lồ từ mờ sỏng

ngày 15 được tổ chức xuất phỏt từ đỡnh - đền Bổng Điền dọc đờ sụng

Hồng tiến ngược lờn Hương Đường, dọc đường đi kiệu của cỏc làng

thường quay xuụi ngược dọc ngang, việc điều hành đỏm rước là cả một

nghệ thuật thống nhất cao theo hiệu lệnh chỉ huy. Riờng với làng Bổng Điền, để lo cử người vào phự giỏ phải chọn nữ đồng trinh sạch người,

sạch nết, sạch tang. Cỏc giỏp lo cử trai trỏng giỏp mỡnh vào phự giỏ.

Riờng hai nữ cầm lỏ soỏi và hai nam cầm cờ vớa phải là những người

đẹp nhất làng. Cỳ bốn người cầm lọng đi che cho người cầm lỏ soỏi và

cầm cờ vớa.

Khi đỏm rước tới địa phận làng Đụng An giữa khoảng cỏch làng

Bổng Điền và làng Hương Đường thỡ dừng kiệu. Theo tục xưa cả làng Đụng An nhà nào nhà nấy, giàu dày khỳ mỏng nấu xụi chố hoặc làm cỗ

để sẵn chờ những người đi rước vào ăn, khụng kể là cỳ thừn thiết hay

khụng. Nhà nào khụng cỳ người vào ăn coi như bị xỳi quẩy, bị dư luận

cười chờ cho nờn khi vừa dừng kiệu dừn làng Đụng An đú ra mời chào,

lụi kộo sợ nhà mỡnh ế cỗ. Khi rước đến lăng bà Quế Hoa tại Hương

Đường thỡ tổ chức tế lễ và rước từ đỳ về đỡnh đền. Đỏm rước thường

diễn ra cả ngày, cỳ năm tối xẩm mới rước về đến đỡnh đền Bổng Điền và

phải tổ chức tế đờm, sau đỳ cỏc làng Vạn Chài, Đụng An lại rước kiệu từ đỡnh đền Bổng Điền về đền làng mỡnh.

Do quy mụ rước tế trờn khụng gian rộng mấy làng như thế nờn lễ

hội đỡnh đền Bổng Điền cỳ ảnh hưởng rộng và mang tớnh chất của một

hội vựng.

Page 215: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

276

Những năm gần đừy, ao đỡnh bị lấp để quai đờ, tục đua chải khụng

được duy trỡ nhưng sự rước tế vẫn theo như lệ cũ. Vỡ trong xú Từn Lập cỳ ba làng đều mở hội nờn lễ hội Bổng Điền cứ ba năm mới rước “về

làng” một lần.

Tự thừn những hành động hội trong hội đỡnh đền Bổng Điền đú tạo

ra tớnh cộng đồng, cộng cảm của hàng vạn cư dừn cỏc làng xưa vốn

cựng trang Bổng Điền với từm thức chung một cội nguồn./.

N.T

Page 216: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

277

lễ hội đền cờn

yến ly

Đền Cờn là một ngôi đền cổ được xây dựng từ thế kỷ XIII nằm tại

thôn Phương Cần, xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An.

Ngày nay muốn đến đền Cờn du khách từ ngoài bắc vào theo đường 1A

đến thị trấn Hoàng Mai, rẽ tay trái, đi gần 10km là đến nơi. Đền nằm bên

cửa biển Lạch Cờn giữa một địa hình non nước hữu tình, bên dòng sông

Mai thơ mộng của huyện Quỳnh Lưu. Đền Cờn có hai đền gọi là đền

chính (đền Trong) ở phía trong cửa lạch và đền phụ (đền Ngoài) ở phía cửa biển.

Hiện nay, đền Ngoài bị hư hỏng, chỉ còn lại những tàn tích đổ nát,

được nhân dân tập hợp lại như lư hương bằng đá, tượng nghê đá, phỗng

đá...đền Trong cũng bị hư hỏng không ít, may còn giữ lại được đôi chút

kết cấu của kiến trúc.

Hầu hết các di vật còn lại ở đền được đưa vào đặt tại đền Trung.

Đó là bàn thờ, khám thờ, ngai, các tượng nghê, tượng phỗng cầm bát

hương, tượng người cầm tay thước, khám... trong đó có hai ngai cùng có tượng nữ mặc áo vàng. Phần kiến trúc còn giữ lại được ở đền Trung quả là

một công trình nghệ thuật lớn với những mảng chạm đều là những tác

phẩm điêu luyện.

Đền thờ tứ vị thánh, hiện còn ghi lại như sau: “Đại càn quốc gia

Nam Hải tứ vị thánh nương thượng đẳng thần ngọc bộ hạ”. Truyền thuyết

về các Bà đã dược ông Nguyễn Đổng Chi ghi trong Kho tàng truyện cổ

tích Việt Nam.

Lúc đầu, người dân Quỳnh Bảng lập đền thờ các Bà nên làm ăn rất phát đạt. Trước đây, người dân Phương Cần đẩy các Bà đi, sau nghĩ lại,

bèn họp nhau xuống cướp bài vị về thờ. Cuộc tranh dành kéo dài và bất

phân thắng bại, họ bèn đem việc này lên xin vua Bà xử kiện. Vua Bà báo

mộng bảo hai làng bốc bát hương đồng lên thờ, nếu bên nào bát hương

cháy từ dưới lên thì bên đó được chính vị thờ Người. Cuối cùng, dân

Phương Cần thắng, nhưng cũng từ đó cả hai làng đều thờ và thân thiện với

nhau. Vì vậy, hàng năm khi vào dịp hội đền Cờn lại có tục chạy ói để diễn lại sự tích ấy.

Hội chính đền Cờn xưa kéo dài từ 15 đến 21 tháng giêng âm lịch,

nhưng từ đầu tháng giêng dân làng Phương Cần đã chuẩn bị cho ngày hội.

Page 217: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

278

Làng có bốn giáp Nhất, Nhị, Tam, Tứ cũng là bốn tổ chức cơ bản tạo nên

ngày hội làng.

Ngày mồng sáu tháng giêng làng tiến hành cuộc tế xuân đầu tiên

để chuẩn bị vào hội chính thức. Cuộc tế diễn ra rất linh đình với đồ tế là

“lợn bồi trâu” tức là 5 con trâu thịt bỏ ruột, 5 con lợn cũng vậy nhưng

được đặt lên lưng 5 con trâu!

Sáng ngày mồng bảy tháng giêng, người ta tiến hành tế bánh dầy.

Bánh được làm to, cao, hết rất nhiều gạo. Mỗi giáp đều phải làm bốn

chiếc “bánh giống”. Bốn chiếc bánh này hết một thùng gạo (20 kg). Bánh

giống được đem ra đền thờ các vị thánh, sau đó riêng ông Seo (tên gọi người trưởng giáp) được biếu hai cái, còn lại hai cái chia phần cho cả

giáp. Ngoài ra giáp còn làm một chiếc bánh dầy to, cao, bằng cả một

thùng gạo nếp 20kg, gọi là bánh cọc. Bánh này được rước ra đền để lễ

thánh, rồi đồng dân cùng hưởng.

Sau hai ngày tế ấy là thời gian của các trai đi mừng, tức là chia

thành từng nhóm đi quyên tiền của bà con trong làng, thêm thắt cho ngày

hội. Họ có thể đi cả sang các làng bên quyên góp. Dù nhiều dù ít, nhà nào

cũng có dù tiền, gạo, hoặc vật gì đó góp chung, mong ngày hội được đông vui. Ai cũng nghĩ như một việc làm lấy may của đầu năm mới, đồng thời

tỏ rõ sự “sởi lởi” của mình để cầu sự ban ân trong năm được may mắn và

phát đạt.

Không khí hội hè kéo dài như vậy cho tới ngày rằm tháng giêng.

Dân ở đây thay câu “Lễ Phật quanh năm không bằng ngày rằm tháng

giêng” bằng câu:

Cả năm được rằm tháng bảy

Cả thẩy được rằm tháng giêng.

Ngày 15 tháng giêng làm lễ “nghiềm quân”, tức là rước tất cả các

đồ thờ tự như kiệu, tàn, lọng, chấp kích v.v... ra để kiểm điểm lại xem

thiếu hụt, hỏng như thế nào. Mọi thứ được bày biện, lắp ráp lau chùi bóng

loáng, cờ quạt được treo lên, được xỏ vào cán, tất cả xếp theo hàng lối rực

rỡ cả một khu đền. Ngày 16 tháng giêng người ta tổ chức rước một kiệu

có 4 tàn vàng che, lên chùa thăm sư ông, tượng trưng như thánh lên chùa

vấn an Phật. Ngày 17 tháng giêng rước một kiệu, được các nữ đảm trách có tám tàn che và các đồ thờ khác đặt ngoài chợ. Trong suốt ba ngày ba

đêm 17, 18 và 19 tháng giêng có tổ chức hát bội rất đông vui mỗi ngày

kiệu được một hoặc hai phường bán hàng ở chợ ủng hộ hương, đăng, trầu,

rượu. Thậm chí, họ còn có thể lo cả tối vui của ngày hôm đó. Cho nên vào

Page 218: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

279

những ngày này cả khu vực chợ là một sân khấu hội rất lớn và đông vui

không kể xiết. Tất cả diễn ra vui vẻ cho đến ngày 20 tháng giêng. Tất cả các kiệu cùng nghi trượng được rước tập trung tại đền vào ngày 20 tháng

giêng, chờ ở đây để chuẩn bị chạy ôi. Cả ngày 20 tháng giêng trong làng

cũng như ngoài đền không khí thật nhộn nhịp. Người ta nóng lòng chờ đợi

giờ phút linh thiêng của tục chạy ôi, tức chờ đợi đức thánh động ngự (dấu

hiệu biểu hiện cho phép chạy ôi). Các cụ già làm lễ thủ giò, xem chân gà

có nóng không, đó là dấu hiệu thánh động ngự. Chạy ôi tức là chạy xuống

hòn Ôi ở ngoài biển, nơi xác đức thánh mẫu và các công chúa trôi dạt ở

đó. Nay để diễn lại sự tích “hai làng tranh nhau bài vị” người ta diễn tục chạy ôi tượng trưng. Người tham dự là của bốn giáp Phương Cầu. Qua 12

giờ đêm 20 tháng giêng, sau khi các cụ xem xét thấy đã được phép chạy

ôi, thì người chủ tế ra lệnh để người của bốn giáp đã được phân công sẵn

ai cầm gì, rước gì, rầm rập chạy. Ai chạy đến trước thì giáp đó thắng cuộc.

Sáng ngày 21 tháng giêng, mọi thủ tục đã tiến hành xong. Trong

đền tiếp tục tế lễ. Các trò vui những hôm trước diễn ra chủ yếu ngoài chợ

thì nay dồn vào đền, mà nổi bật là đua thuyền trên dòng Mai Giang trước

đền.

Ngoài đua thuyền, tại sân đền và các bãi xung quanh còn có đu,

đấu vật, đấu cờ và những trò chơi khác. Ngày hội kết thúc trong không khí

tưng bừng của mùa xuân, báo hiệu một năm mới tốt lành./.

Y.L

Page 219: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

280

Lễ hội đền cuông

trần minh siêu

Do công lao dựng nước và giữ nước, ý chí bất khuất trước kẻ thù,

Thục An Dương Vương được lịch sử đánh giá là người anh hùng dân tộc,

đã nhiều lần lãnh đạo nhân dân đuổi Tần, đánh Triệu lập nên những

chiến công hiển hách, mở đầu cho việc tạo dựng nên truyền thống anh

dũng, kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Để tưởng nhớ công ơn to lớn của Thục An Dương Vương, nhân dân

vùng Diễn Châu (nay thuộc xã Diễn Trung) đã lập miếu thờ ở cửa Hiền.

Theo truyền thuyết mỗi khi màn đêm buông xuống, có những đốm lửa

lập loè trên sườn núi Mộ Dạ. Nhiều người nghĩ rằng - đốm lửa là linh

hồn vua Thục muốn yên ngự trên sườn núi, nên nhân dân đã lập đền và

rước linh hồn ngài về đó để thờ phụng. Đền thờ Thục An Dương Vương

có từ đó.

Đền Cuông nằm sát đường Quốc lộ 1A, là điểm cực nam huyện Diễn Châu cách thành phố Vinh 30 km về hướng bắc. Du khách đến di

tích có thể đi bằng đường bộ, đường biển hay đường sắt, đều thuận lợi.

Nếu đi bằng tầu hoả, dọc tuyến đường sắt Bắc - Nam, tới ga Mỹ Lý

(Diễn Châu), chỉ cần đi bộ 1 km nữa là tới đền. Nếu đi bằng đường biển,

chỉ cần neo thuyền ở cửa Hiền sau đó đi 3 km đường qua núi Mộ Dạ là

tới

Theo nhân dân truyền lại, hồi đó núi Mộ Dạ có rất nhiều chim

công, đến nỗi đương thời có người gọi là núi Công. Thế núi Mộ Dạ đứng xa trông giống hình con công (hoặc con chim hạc) khổng lồ đang múa,

đuôi xoè ra đến làng La Vân, hai cánh dang rộng với những ngọn núi lúp

xúp, đầu công chính là nơi dựng đền Vua Thục. Vì thế nhân dân thường

gọi đền thờ Thục An Dương Vương là đền Công, tiếng địa phương gọi là

đền Cuông.

Niên đại khởi dựng đền Cuông đến nay vẫn chưa xác định được

chính xác, nhưng đến thời Lê mạt, danh sĩ Phạm Đình Hồ (1768 - 1839) trong tác phẩm Vũ Trung tuỳ bút đã viết: “Nhân việc nhà tôi đi qua đền

Cuông, đứng trên đầu hạc nhìn xuống, đền Thục An Dương Vương nằm

trên sườn núi, nhìn thấy cổ hạc xanh rì đàn công múa rất đẹp, qua trung

điện, hạ điện mái lợp tranh, qua ba cấp là xuống núi”. Năm 1802, vua

Page 220: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

281

Gia Long đã cho tu sửa lại đền. Đến năm Giáp Tý (1864) dưới thời Tự

Đức, triều đình cho tu sửa và nâng cao như quy mô hiện nay, niên đại tu

sửa còn ghi rõ ở ván ấm nhà hạ điện. Việc tu sửa theo sắc chỉ của vua Tự

Đức phải chọn gỗ tốt, thợ giỏi về làm. Dựa trên biểu mẫu đã phê duyệt, hai hiệp thợ nổi tiếng ở Nam Đàn và Hưng Nguyên thi nhau làm. Khi

khánh thành vua Tự Đức đã ban thưởng một đồng tiền vàng mang nhãn

hiệu nhà vua để làm bảo vật của đền.

Đến năm Thành Thái thứ 10 (1897) nhà thượng điện được nâng cấp

cho phù hợp với nơi thờ phụng vị vua chủ. Năm Khải Định thứ 1 (1916)

phần ngoại thất được tu lý để hài hoà với nột thất của đền.

Đền Cuông là một công trình kiến trúc đẹp, vững chắc phù hợp với

điều kiện thiên nhiên ở xứ sở miền Trung có nhiều mưa to, bão lớn. Trên núi Mộ Dạ hiện nay là cả rừng thông bạt ngàn. Sau núi là biển cả mênh

mông ngày đêm rì rào sóng vỗ, mỗi sáng sớm mặt trời từ biển nhô lên,

tất cả cảnh vật được phủ hào quang rực rỡ. Về phía bắc dưới chân núi

Mộ Dạ là cửa Hiền lịch sử, nơi có huyền thoại khi An Dương Vương

cùng đường, thần Kim Quy đã hiện lên rẽ nuớc đưa ngài về cõi vĩnh

hằng, nơi có ngôi mộ của Mỵ Châu, một nạn nhân của thiên bi tình sử.

Bãi biển vùng cửa Hiền bằng phẳng, nước trong xanh là bãi tắm rất tốt,

đây là vùng tiểu khí hậu không có gió tây nam, những đợt gió nóng từ đất Lào trườn qua dãy Trường Sơn, về tới đây bị cây rừng của núi Mộ Dạ

chặn lại. Trên bãi biển nhô lên hàng ngàn hòn đá có hình thù giống như

những con cá biển nên nhân dân gọi là bãi đá Ngư Hải. ở đây có một

phiến đá to cao, bằng phẳng tương truyền những ngày đẹp trời, Thục An

Dương Vương thường dạo chơi và đánh cờ với tiên ở đó, nên gọi là đá

Bàn Cờ.

Khi bình minh thức dậy, cả bãi đá ánh lên vạn màu sắc rực rỡ. Có thể những hòn đá có màu sắc ở đây sẽ trở thành vật kỷ niệm cho những

ai là du khách đã từng đặt chân tới đây. Nửa chiều khi bóng núi Mộ Dạ

đổ xuống che hết cả bãi đá, thì nhiệt độ ở đây hạ xuống mát mẻ, dễ chịu,

thần kinh được thư giãn, thoải mái. Nếu con người biết gia công mỹ thuật

thì bãi đá Ngư Hải sẽ biến thành những bãi đá tự nhiên để du khách ngồi

hóng mát, giải khát, thưởng thức các đặc sản vùng quê Diễn Châu, tâm

hồn hoà quyện với biển, trời, non nước trong huyền thoại thần Kim Quy

với vua Thục, Mỵ Châu với Trọng Thuỷ...

Từ đền Cuông nhìn về phía tây chưa đầy một cây số là núi Mụa, có

dáng voi phục chầu về đền Cuông. Tục truyền rằng trên đỉnh núi này có

ngót 50 tướng sĩ của vua Thục đã tuẫn tiết. Sát chân núi Mụa có phiến đá

Page 221: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

282

đồ sộ, bề mặt phẳng phiu in đậm bàn chân các nàng tiên lúc du ngoạn

trần gian. Bên phải núi Mụa là núi Bạc có dáng hình con Kim Quy (Rùa

Vàng) đang nằm im, mơ màng nhìn về đền Cuông, nhớ tới một thời oanh

liệt của quá khứ. Không xa về phía tây có động Hồng Hoa với bao huyền thoại về việc tạo dựng quê hương vùng này. ở đó có đập nước Xuân

Dương, phong cảnh nên thơ, cá nhiều và ngon, có thể là nơi bơi thuyền

câu cá cho du khách đến nghỉ mát ở bãi biển cửa Hiền.

Từ đền Cuông ra phía bắc gặp núi Lưỡng Kiên (lèn Hai Vai), một

thắng cảnh, một di tích lịch sử gắn liền với thời tiền sử và cả thời hiện

đại, là nguồn cảm hứng đã sản sinh ra nhiều áng văn thơ nổi tiếng của

bao thi nhân mặc khách. Quanh chân lèn Hai Vai có sông Bùng như một

dải lụa uốn lượn giữa màu xanh của đồng lúa rộng thẳng cánh cò bay. Trên bờ sông Bùng tại làng Lý Trai, xã Diễn Kỳ có di tích lịch sử văn

hoá của phụ tử đồng khoa tiến sĩ Ngô Trí Tri, Ngô Trí Hoà thời hậu Lê,

thành Trãi ở xã Diên Hồng nơi tướng Đinh Lễ của Lê Lợi dùng kế mai

phục cướp được 300 thuyền lương của tướng giặc Minh là Trương Hưng,

buộc Tiết Phụ phải mở cửa ra hàng.

Cách đền Cuông về phía tây chừng 4km là làng Nho Lâm, nơi có

nghề rèn nổi tiếng do Lư Cao Sơn một tướng của Thục An Dương

Vương khởi tạo. Cũng tồn tại với đền Cuông, dưới chân phía tây núi Mộ Dạ, có dòng kênh uốn lượn do Lê Đại Hành đào vào thế kỷ thứ X.

Những lúc đẹp trời đứng trên đỉnh núi Mộ Dạ phóng tầm mắt ra

bốn phía, ta mới thấy được những điều kỳ thú của một vùng non nước

hữu tình, cứ ngỡ đây là nơi gặp gỡ của núi và biển, của sông ngòi và

kênh rạch của lịch sử và tình yêu.

Đền Cuông là một di sản vật chất quý giá đã được Bộ Văn hoá -

Thông tin ra quyết định số 9 QĐ/BT ngày 21/2/1975 xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá quốc gia.

Trước đây các triều đại phong kiến Việt Nam cũng đã ghi nhận,

khẳng định giá trị văn hoá quý báu, cao đẹp của di tích đền Cuông nên đã

có nhiều bản sắc phong và tổ chức trùng tu, tôn tạo. Riêng vua Tự Đức

đã tặng một đạo chiếu văn tôn vinh Thục An Dương Vương là “Nam

quốc đế Vương”, xếp đền Cuông vào hàng quốc tế.

Từ xa xưa, lịch lễ tiết hàng năm của đền Cuông thường được tổ

chức vào hai kỳ chính là ngày 15-2 (âm lịch) gọi là Xuân tế và 15-8 (âm lịch) gọi là Thu tế. Nhưng, lễ hội chủ yếu mở vào mùa Xuân trong các

Page 222: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

283

ngày 14,15,16 tháng 2 (âm lịch) tức là vào dịp Xuân tế 1. Xưa, ban phụng

sự tế lễ chuẩn bị cho lễ hội đền Cuông rất long trọng và chu đáo. Đền

Cuông là đền quốc tế, nhưng việc phụng sự tổ chức tế lễ lại do tổng Cao

Xá phủ Diễn Châu đảm nhiệm. Đền Cuông còn là đền thờ thành hoàng của 4 làng quanh đền: Tập Phúc (nay thuộc Diễn An), Cao Quan, Cao ái,

Yên Phụ (nay thuộc xã Diễn Trung) gọi chung là Tứ thôn. Lễ hội đền

Cuông xưa không chỉ bó hẹp trong phạm vi tổng Cao Xá, Tứ thôn mà

quy mô của nó mở rộng ra cả vùng Đông Thành (gồm Diễn Châu, Yên

Thành và một xã thuộc huyện Nghi Lộc hiện nay). Trước mấy ngày

chuẩn bị vào đại tế ở đền Cuông, các đình phải làm lễ cáo yết và xin thần

hoàng cho phép làng mở hội và rước kiệu thần về đền Cuông (vào các

ngày 12,13-2).

Ngày 13-2, tại đền Cuông, ban phụng sự đền Cuông của Tứ thôn

tiến hành làm các lễ:

Lễ rước nước: nước được lấy từ giữa sông hoặc ở giếng, rước về

đền Cuông và các đình làng. Sau khi đám rước đến giếng, người ta trịnh

trọng đặt kiệu long đình ở một nơi cao ráo, sạch sẽ. Hai thanh niên khoẻ

mạnh (đã được trai giới), khiêng chum từ kiệu long đình xuống, đặt sát

gần miệng giếng. Một cụ già được cắt cử trước, lấy gáo dừa có cán dài,

đưa gáo ra giữa giếng múc từng gáo một đổ từ từ qua miệng vải điều căng qua miệng chum sau đó khiêng lên kiệu rước về đền Cuông.

Lễ mộc dục: ngay sau lễ rước nước, làng cử hành lễ mộc dục, rửa

tượng thần, đồ tế khí, long ngai...

Tế gia quan: sau khi lau rửa, làm lễ khoác áo mũ cho tượng thần

(đốt vàng mã), sau đó bắt đầu tuần tế trước long kiệu (gọi là tế gia quan).

Ngày 15-2, tổ chức lễ tế thần (đại tế), mục đích thỉnh mời và đón

rước thần linh về dự hội để dân làng chúc tụng, tỏ lòng biết ơn đấng thần linh. Đây là nghi lễ trang trọng nhất trong hệ thống lễ. Sáng ra,

trống, chiêng gióng 3 hồi 9 tiếng. Mọi chức sắc, bô lão tề tựu đông đủ, lễ

phục trang nghiêm vào cuộc tế thần. Nói chung nghi thức tế lễ ở đền

Cuông cũng là nghi thức tế lễ cổ truyền như ở các nơi khác, nhưng xưa,

các vị về tế lễ ở đền Cuông đều là các quan về hưu và quan chức đương

triều, người nào cũng áo mũ cân đai, làm cho buổi tế thần càng uy

nghiêm, không khác gì một buổi thiết triều trước cung điện nhà vua. Chủ

tế trong lễ chính Xuân tế và Thu tế hàng năm là tổng đốc An Tĩnh. Năm

1 Tư liệu viết về phần lễ hội dưới đây, chúng tôi tham khảo Đền Cuông- di tích và lễ hội –

Luận án thạc sĩ khoa học văn hoá của Lương Khải Hoàn- Hà Nội 1997.

Page 223: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

284

đại lễ (4 năm một lần vào các năm Sửu, Tỵ, Dậu), chủ tế là quan đại thần

của triều đình là người trong vùng, đã hưu. Trước đây có Đông Các học

sỹ Cao Xuân Dục, Tế tửu hoàng giáp Đặng Xuân Thụy đã từng làm chủ

tế tại đền Cuông.

Buổi tế kéo dài thường là 2 tiếng đồng hồ, qua 40 lần xướng và

thực hiện, kể từ khi “khởi chinh cổ” tới “lễ tất”. Sau lễ tế thần là rức

kiệu. Đám rước thần ở đền Cuông xưa được tiến hành như sau: Đi đầu

đám rước là cờ tiết, cờ mao. Tiếp đến là 5 lá cờ ngũ hành, mỗi cờ một

màu tượng trưng cho một thứ vật chất (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ), tiếp

đến là 4 lá cờ tứ linh. Tiếp đến là lá cờ bát quái. Các chân cờ đội nón

dấu, áo nâu, nẹp đỏ, thắt lưng bó que. Tiếp sau đó là đám người mang

biển hồi ty, tĩnh túc, trống cái, chiêng vừa đi vừa đánh theo nhịp đã quy định.

Kế tiếp là một ngựa hồng, ngựa bạch bằng gỗ to như ngựa thật,

được trang trí rất đẹp đặt trên bệ gỗ có 4 bánh xe, mỗi bên có 2 người

kéo. Ngựa có tán lọng che và có người vác hiệu đao đi hộ vệ. Kế tiếp là

đoàn người vác chấp kích, đồ lỗ bộ, phường nhạc đồng, con đĩ đánh

bồng, đám người mặc trang phục nhà lính mang kiếm lệnh, rồi đến

phường bát âm, đám đô tuỳ khiêng long đình, long kiệu. Các bô lão,

chức sắc ăn mặc lễ phục, dân làng đủ mọi lứa tuổi đi sau đám rước.

Đám rước một vòng từ đền Cuông xuống các làng sau đó lại rước

về đền Cuông (hoàn cung):

Trong lúc đó, ở khu vực xung quanh đền, người trẩy hội kín cả một

vùng, các phe, giáp, phường hội náo nức đua tài. Buổi tối, các phường

tuồng, chèo, hát ca trù, hát giao duyên, ví phường vải, hát dặm... Ban

ngày có đánh đu, cờ người, đấu vật, chọi gà, kéo co, múa lân, rồng, nấu

cơm thi, làm nham (nộm).

Độc đáo của cuộc nấu cơm thi ở hội đền Cuông là theo hai thể loại:

nấu cơm cần và nấu cơm canh cóc, đã đi vào câu ca:

“Đi coi (xem) một bữa cơm cần

Bõ công nhớp áo (bẩn), nhớp quần cả năm”.

Hay: “Thôi đừng rầu rĩ nữa em

Sửa soạn khăn yếm đi xem cơm cần”.

Qua phần trình bày ở trên, có thể rút ra nhận xét là: lễ hội đền

Cuông, phần lễ chiếm nhiều hơn phần hội.

Lễ hội đền Cuông, trong mấy chục năm qua, do nhiều nguyên nhân,

Page 224: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

285

không tổ chức được. Năm 1993, UBND huyện Diễn Châu bắt đầu cho

khôi phục lại, xuân ất Hợi (1995) được sự đồng ý của tỉnh uỷ, UBND

tỉnh, Sở Văn hoá - Thông tin, Sở Thể dục thể thao phối hợp với UBND

huyện Diễn Châu tổ chức lễ hội đền Cuông nhằm phục hồi lại các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc và để góp phần thoả mãn nhu cầu

hưởng thụ văn hoá ngày càng cao của quần chúng nhân dân./.

T.M.S

Page 225: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

286

Rước bánh vía ở hội Bình Đà

Lê Trung Vũ

Xã Bình Minh thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây là một xã lớn.

Về đường bộ, xã nằm trên ngã ba đường 71 và 22. Về đường thủy, xã

nằm ven sông Đáy, gần ngã ba sông Đáy và sông Đỗ Động. Xã cách Trung tâm Hà Nội 24km, vẫn được coi là vành đai phía Tây, bảo vệ kinh

đô từ lâu đời.

Thôn Bình Đà thuộc xã Bình Minh có hai ngôi đình đẹp là đình Nội

- còn gọi là đình Trong và đình Ngoại gọi là đình Ngoài. Đình Nội thờ

Lạc Long Quân, theo truyền thuyết là thủy tổ người Việt. Làng còn giữ

được nhiều tài liệu quí của đình như thần phả, sắc phong, chiêng đồng,

đồ thờ, các bia thời Lê, Nguyễn, và một số bức giá tượng (phù điêu) lớn

rất giá trị. Năm 1985 đình Nội đã được xếp hạng là di tích lịch sử - nghệ thuật. Đình Ngoài ở bìa làng, giáp đường 22. Đình mở cửa hướng Nam,

đón gió mát, đứng trên thế đẹp "lục long triều hội" (6 rồng chầu về).

Đình thờ Lý Lang Công, con vua Lý Thái Tông (1028-1054). Ông trở

thành thành hoàng làng, có công đánh giặc Tống và cứu hạn cho dân.

Hội Bình Đà mở ngày 6 tháng 3 (âm lịch), chính hội, chung cho cả

hai đình. Mồng 5: giáp hội, từ sáng sớm cửa đình đã rộng mở để cử hành

lễ mộc dục Thánh vị (lau bụi và lau nước thơm ngũ hương). Trống

chiêng nổi ba hồi chín tiếng báo cuộc thi xôi chè làm vật phẩm dâng thánh. Cỗ nhất làm lễ phẩm đình Trong, cỗ nhì: lễ phẩm đình Ngoài.

Tiếp theo là hóa mã và đại tế. Sang giờ mùi (13 giờ-15 giờ) trống chiêng

lại nổi âm vang. Mọi người sửa soạn cuộc rước kiệu "giao hoàn". Đây là

việc rước sắc từ đình Trong ra đình Ngoài rồi trở về. Sắc của bố (Lạc

Long Quân: Quốc tổ) gửi con đi đánh giặc giữ nước. Con (Linh Lang) là

biểu tượng của thế hệ tiếp nối dòng dõi Quốc tổ. Đám rước có đội múa

rồng, múa lân lượn lên, lượn xuống như đón như đưa.

Hoàng hôn, cuộc rước đuốc mới từ đình Ngoài quay về đình Trong.

Đây là đám rước lớn nhất. Trống chiêng "tùng dinh" cùng nhạc phường

bát âm râm ran bầu trời lễ hội trong buổi chiều tà cuối xuân. Cờ đủ loại,

đủ màu rực rỡ khắp nẻo đường dẫn về hội: cờ ngũ hành, cờ tứ linh, cờ

hàng giáp. Múa xênh tiền có, tiếng trống cơm hòa nhịp. Rồi giá trống giá

chiêng, bát bửu, đèn lồng sáng mờ một màu vàng mát.

Page 226: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

287

Nhà dân hai bên đường đều kê bàn thờ ra cổng đón hội lễ vọng.

Trời tối hẳn, các xóm đều có đuốc, nối tiếp nhau "bật hồng" sáng rực trời đêm. Hòa vào chiêng trống, xênh tiền, đàn sáo là tiếng reo hò rào rạt của

dân làng dự hội, vừa dân dã vừa linh thiêng: vừa ồn ào vừa hùng tráng

tất cả đồng thời dấy lên trong không khí tràn đầy tươi vui mà cổ sơ, như

muốn lôi con người về quá khứ xa, tưởng như đây là cuộc hành hương

của đoàn người ngoan đạo thành tín trở về đất tổ của mình.

Giờ Tuất (19-21 giờ) đám rước lớn tới cổng đình Trong. Đám rước

lớn tạm dừng, chào đón đám rước của các chùa vừa tới. Đám rước nhà

chùa không ồn ào mà đầy vẻ tôn kính nghiêm nghị với những lá phướn dài - cờ nhà Phật - cùng đoàn sư sãi trầm lặng, khiêm nhường, vừa đi vừa

lần tràng hạt trong đồng phục nâu sồng đồng nội thân quen. Vật phẩm

nhà chùa đều là cỗ chay xếp ngăn nắp trên những mâm đồng do các sãi

đội: 100 phẩm oản, 100 quả chuối, 100 miếng cau đậu, 100 ghế chéo (1).

Đại lượng giống nhau giữa các loại vật phẩm mang tính biểu tượng gợi

nhớ tới vị quốc tổ của nòi giống Lạc Hồng. ấy là hình ảnh 100 quả trứng,

100 con trai như cái vốn ban đầu của dân số, tộc người.

Năm gian đình Nội đèn nến sáng trưng khói hương nghi ngút ngan ngát thỏa thơm. Vật phẩm dâng trình vừa xong thì mâm bánh trôi thờ gọi

là bánh vía, bánh thủy cùng vừa rước tới. Chủ tế nhận đưa ngay vào hậu

cung dành cho nghi lễ đặc biệt ngày mai, mồng 6, chính hội.

Cửa đình lần lượt đóng lại. Sự yên lặng bên trong tạo thành không

khí thiêng. Chỉ còn hai chủ tế, bốn trùm, bốn giải quán tiến hành lễ thỉnh

bách thần về phù hộ cho dân làng, làm ăn phấn chấn, mùa màng thịnh

vượng.

Còn phía ngoài, sân đình rộng lớn là thế mà như không sao chứa

hết người, với tiếng cười nói, reo hò từng đợt vang dậy trong trò đêm

tràn đầy sức sống.

Pháo bông đã phát sáng lấp lánh đủ màu với nhiều trò vui trên mỗi

tầng của cây pháo: người đi cầy, người múa côn, cảnh đấu vật... hoặc các

trò như Thạch Sanh đánh trăn tinh, cô Tấm đi chơi hội... Mỗi tích trò

thường kèm theo một loại pháo. Và cuối cùng, ở tầng cao nhất thường là

tầng pháo thăng thiên vút lên, đồng thời lóe đủ bảy màu, gọi là "thất tinh", được người xem tấm tắc là may mắn, hoàn thiện. Vì đó là bảy sắc

cầu vồng, màu của trời đất, đại lượng đầy đủ của cảnh sắc thiên nhiên.

(1)

Ghế mã, để 100 con trai Lạc Long Quân - Âu Cơ về hưởng lộc, dự lễ, an tọa.

Page 227: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

288

Trời - Đất - Người hòa hợp, theo triết lý phương Đông, ý là hạnh phúc

trọn vẹn, đầy đủ.

Ngày Chính hội: mồng 6. Trong đình chỉ có chủ tế cùng bốn trùm

cai nội đang kính cẩn bày biện xem xét lễ vật cho đám rước vía, gồm:

nước trong (1 bát), trầu cau (1 tráp), tiền mã (100 tờ), oản lớn (12 phẩm),

bánh thủy (bánh vía 3 viên) đậy kín trong đài.

Sáng rõ mặt người, trống chiêng gọi hội ba hồi chín tiếng dõng dạc

vang lên lan rộng như nhắc nhở, lại như giục dã dân làng tới. Chủ tế,

trùm cai xem xét từng mâm, đặt vào đúng nơi thờ như ngọc phả qui định.

Rồi, cửa đình đóng lại. Lễ cầu cúng diễn ra như đêm qua.

Khoảng một giờ sau, lễ tất, cửa đình mở rộng, chiêng trống, đàn nhị

nổi lên hòa tấu, báo hiệu nghi lễ mới: lễ múa cờ, múa bông: đón mời và

cầu nguyện quốc tổ. Cuộc tế đã sửa soạn sẵn, tiếp ngay sau hai lễ múa

trên. Tế trong đình Nội đồng thời cầu ở Thiên Quan, ở đài tế trời, đất,

trước đình, phía bên trái. Các giáp mang lễ lợn (lợn cả con, sạch lông,

sạch lòng) bày la liệt quanh đài. Mỗi nơi một chủ tế đảm nhiệm.

Chủ tế tới đàn trời đất đọc văn, lời thiết tha, giọng trầm bổng xúc

động lòng người, cảm hóa trời đất: "Thiết nghĩ âm dương đều cảm, giời đất lưu thông, u hiển tuy khác, thành tâm như một. Ngày này, giờ này,

nước Đại Việt, phủ ứng Thiên, huyện Thanh Oai, xã Bảo Đà, quan viên,

chức sắc kỳ mục, lý dịch cùng trên dưới, già trẻ mười sáu giáp, hàng năm

mở tiệc cầu phước vào ngày mồng 6 tháng 3, kính mời..."

Nghi thức đặc sắc nhất của hội sắp bắt đầu: lễ Rước Bánh Vía.

Sau một hồi trống chiêng âm vang kéo dài, kiệu bánh vía được rước

vào cầu Thiên Quan trước. Bánh ba cái, chỉ được biết như vậy, không ai trông thấy bao giờ, để trong đài đậy kín. Kiệu có lọng, tàn, quạt hầu hai

bên. Trống khẩu đi theo đám rước giữ nhịp và giữ thăng bằng. Sau kiệu

là hai ông chủ tế đình Nội, đình Ngoại cùng Tiên chỉ, hai ông từ, hai ông

trùm thôn cai và đại diện gia đình làm bánh vía.

Bà con chen chúc nhau quanh giếng chùa Cả chờ đợi. Nhạc trống

chiêng "tùng dinh" cùng phường bát âm reo vui đưa đám rước tới bên

giếng. Viên cầm đuốc dẫn đường (mặc dầu lúc này vào giờ ngọ - 12 giờ

trưa). Tàn, cờ, quạt, vải phủ kín đài bánh. Ba người yên lặng, thành kính, chậm rãi bước tới sát mép nước. Tại đây đã quây sẵn một khung cót tròn.

Đọc mật khẩu xong, chủ tế mở đài lấy từng chiếc bánh bóp nát thả xuống

nước (trong khung cót). Bánh chìm hết mới tốt và người hành lễ mới tròn

trách nhiệm. Ba người yên lặng đi lên. Đám rước về đình Nội làm lễ.

Page 228: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

289

Buổi chiều có cuộc rước "hoàn cung". Rước cả sáu kiệu từ đình

Trong ra đình Ngoài. Đến nơi lễ cáo trình Thánh xong, để lại ba kiệu, còn ba kiệu rước trả về đình Trong (hoàn cung).

Hết hội, người dân Bình Đà đều tin Đức thánh quốc tổ Lạc Long

Quân và Đức Thành hoàng Lý Lang Công sẽ phù hộ cho dân làng như

lời ghi trong Ngọc Phả: Cầu cho con người bình yên, mạnh khỏe, sống

lâu, lúa tốt, của nhiều, muôn đời sung sướng. Và con người Bình Đà,

luôn nghĩ tới sự hài hòa âm dương, hòa hợp con người với vũ trụ, biểu

hiện ở quan niệm "thiên thời - địa lợi - nhân hòa" để hạnh phúc trọn vẹn

trong cuộc sống./.

L.T.V

Page 229: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

290

Chùa và hội bối khê

Trần lâm biền

Đông tàn! Nhà sư vừa đi vừa bấm đốt tay- ngày hội đã đến gần-

Một tiếng chuông trong veo như hoà mênh mông vào cát bụi đem nguồn

vui nhắc nhở muôn nhà. Như lệ thường, các lão ông, vãi bà theo tiếng gọi

truyền kiếp mà lên chùa, lòng già như trẻ lại, hăng hái tham gia vào các

công việc chuẩn bị cho hội. Vừa lao động các cụ vừa ôn lại sự tích và các

mặt văn hoá của chùa.

Nằm trên địa phận xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, được xây dựng từ thời Trần, đã qua nhiều lần trùng tu, Chùa ở ngay đầu

làng Bối Khê. Từ ngoài vào, trước chùa là một bãi rộng. Qua bãi rộng sẽ

đến một cổng gạch, là cổng chùa mà đồng thời cũng là cổng làng. Sau

cổng là con ngòi nhỏ, dấu tích của dòng sông Đỗ Động thuở xưa, có nhịp

cầu nhỏ vắt ngang. Qua cầu sẽ tới tam quan của chùa- một kiến trúc ba

gian, hai tầng tám mái; tầng trên là gác chuông. Chùa làm theo kiểu “nội

công ngoại quốc”: phía trước là nơi thờ Phật, phía sau là nơi thờ thánh,

hai bên là hai dãy hành lang, mỗi dãy bảy gian, bày tượng tổ truyền đăng; quây quanh bốn phía, bao bọc lấy thượng điện. toà này dựng trên nền

cao, cột to và thấp, đầu đao góc mái uốn cong thanh thoát; các bộ phận

kiến trúc bằng gỗ chạm trổ khá công phu, mang dấu ấn nghệ thuật điêu

khắc trang trí thời Trần, nhất là những đầu bẩy chạm rồng ở hàng hiên,

đặc biệt có một đầu bẩy ở góc mái bên trái, ngoài hình rồng còn chạm

hình chim thần. Trong chùa còn giữ được nhiều di vật và đồ thờ quý.

Phía trong cùng của toà thượng điện đặt một bệ đá thờ Phật có từ thời

Trần, thuộc loại lớn. Bệ chia làm nhiều tầng, trên cùng là đài hoa sen; thân bệ tạc hình rồng, thú, hoa lá; bốn góc bệ tạc hình chim thần. Chùa

còn có bốn cây đèn gốm thời Mạc, trang trí hình cánh sen và hình rồng

đắp nổi. Đặc biệt có “đôi cây thiêng”, trồng trong chậu đắp núi giả, tất cả

đều bằng gỗ, sơn son thếp vàng, rất đẹp. Quá trình xây dựng chùa và sự

tích đức thánh Bối thờ ở chùa được ghi lại trên nhiều tấm bia, trong đó cổ

nhất là bia “Bối Động thánh tích bi ký” có niên đại giữa thế kỷ XV.

Trong khuôn viên chùa có nhiều cây cổ thụ, vườn hoa cây cảnh xen giữa những cụm kiến trúc, làm tôn thêm vẻ thanh nhã, u tịch của chốn thiền

lâm.

Hồi ấy, vào khoảng cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV, nhà sư đạo

sĩ Nguyễn Bình An, một người có công xây dựng lên ngôi chùa này. Ông

Page 230: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

291

thường đi lại giữa Sở (Trăm Gian) và Bối Khê, dùng tâm từ bi mà kết chạ

hai làng. Truyền rằng, mẹ ông dẫm vào vết chân người khổng lồ trên đá mà sinh ra ông. Và vết chân ông cũng đã để lại những ao nhỏ trên bước

đường đi từ làng nọ tới làng kia. Ông đi guốc trên nóc nhà để trông coi

thợ, dùng một niêu cơm và vài quả cà mà thợ ăn mãi không hết. Thế rồi,

khi ông viên tịch, dân làng chịu ơn đã ướp xác ông thành tượng để thờ.

Tới khi quân Minh sang, chúng đốt tượng ông, bị một trận mưa máu mà

tan tác. Rõ ràng là Nguyễn Bình An đã trở thành một nhân vật được xây

dựng từ những mảnh vụn huyền thoại để thành vị thánh mang hình bóng

của anh hùng văn hoá. Một quan niệm chung, rất xưa, về bước đi của loai người, cho rằng: Khởi thuỷ, con người mang thân hình to lớn, song

không được linh lợi, họ như một sản phẩm không hoàn chỉnh của tạo

hoá. Như vậy cần phải tạo lập lại- một trận đại hồng thuỷ đã cuốn sạch

họ khỏi thế gian- Sau đó, giống người như hiện nay đã dần thành hình.

Giống người khổng lồ đó thường để lại dấu vết trên đá, và người đàn bà

nào vô tình dẫm vào vết tích này sẽ thu hút lấy cái tinh khí của họ mà

sinh ra thánh nhân... Có lẽ truyền thuyết về sự ra đời của đức thánh Bối

đã phần nào mượn từ sự tích Phù Đổng (?), để rồi con đường dài khoảng 20km, với ngài chỉ còn vài bước. Song, cũng như vậy chúng ta gặp vết

chân của ngựa Phù Đổng trên đường lên núi Sóc, vết chân của Nguyễn

Minh Không ở Nam Định và Thái Bình. Thực ra, đó là những ao nước

cứu hạn nằm rải rác trên khắp các ruộng mùa (không thấy ở ruộng

chiêm), những ao này vô cùng cần thiết với cư dân Việt sử dụng nước tại

chỗ cho nông nghiệp (nước mưa). Chúng được linh thiêng hoá trong sự

bảo trợ của thần linh. Sự kiện này có gì liên hệ với việc nhà sư khâu Đà La cho man Nương, hay một vị thần linh ngoài biển cho Chử Đồng Tử

chiếc gậy để cắm xuống đất thì nước mới phụt lên cứu dân chống hạn...

Một sự kiện đáng lưu tâm về thánh Bối còn như có nét bắt nguồn từ

truyện Thạch Sanh trong sự tích niêu cơm. Tất cả đã hội lại thành đức

thánh linh thiêng quyền năng vô lượng, có hơi hướng của tối thượng thần

Siva, nguồn sinh lực vĩnh cửu, tạo mọi của cải nông nghiệp. Truyền lại,

pho tượng của ngài mang màu cánh dán đậm gần gũi với màu tượng Phật

Tứ Pháp. Sau này tượng thánh được đúc bằng đồng, song vẫn giữ màu đậm. Màu sắc ấy gắn với Siva thuộc đạo Bà la môn và phần nào gắn với

nguồn nước.

Với vị thánh đặc biệt này mới có ngôi chùa đặc biệt. Cũng như

chùa Keo (Thái Bình), chùa Thày (Hà Tây)..., chùa Bối Khê vừa thờ Phật

vừa thờ Thánh, với các điện thờ riêng. Đó là một ngôi chùa gỗ mít mang

nhiều dấu vết của kiến trúc vào thế kỷ XIV xưa nhất còn lại ở nước ta-

Page 231: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

292

Trên đó, những chiếc cột, chiếc xà, đầu bảy nặng nề bằng gỗ mít đã hằn

lên những đường gân thời gian, rồi nhiều mảng chạm rồng phượng hoa lá vô cùng đẹp của đương thời, còn làm rung động tâm hồn người hoài cổ-

một điện thánh hai tầng mái, với các “đấu củng” không xa cách ở gác

chuông chùa Keo nổi tiếng- Trong hai nơi ấy còn lưu giữ một mang

nhang án đá lớn (dài hơn 3m) đầy nét nghệ thuật (của yếu tố phương

nam) có niên đại 1382; một tượng Quan Âm Thiên Thủ lớn điển hình của

nghệ thuật thế kỷ XVI, nhiều bia đá thế kỷ XV- XVII, rồi tượng đức

Thánh, nhiều đồ thờ gỗ rất quý và những viên gạch hòm sớ trang trí linh

vật... Tất cả đã tạo cho ngôi chùa có một giá trị tự thân đích thực đáng tự hào. Và, hơn hết neo trong ý thức mọi khách hành hương vẫn là ngày hội

cùng các lễ tiết riêng của chùa, điển hình là lễ cầu mưa.

Người Việt là một cư dân nông nghiệp lúa nước. ở châu thổ Bắc bộ,

phần nào được thiên nhiên ưu đãi, nên trong sản xuất họ chưa có nhu cầu phổ

cập về mương- phai, (thuỷ lợi) như một số cư dân khác quanh vùng. Nguồn

nước chủ yếu là nước tại chỗ, tức nước mưa.

Lạy trời mưa xuống

Lấy nước tôi uống

Lấy nước tôi cày

Lấy đầy bát cơm

Lấy rơm đun nước

ý thức cầu nước từ trên trời luôn thường trực, thông qua các nghi

lễ cầu mưa. Hiện tượng này cũng phổ biến trong cư dân Việt ở khắp các

vùng. Tại chùa Bối Khê (Thanh Oai- Hà Tây), việc cầu mưa có lẽ là một

trong những nơi còn giữ được nhiều tập tục hơn cả.

Nơi đây, ngôi chùa là một trung tâm văn hoá làng xã chứ không

phải đình, song chùa lại lấy việc thờ thánh là chính. Các chùa dạng này không có sư mà chỉ có ông Thống lo việc đèn hương. Trong nhiều nghi lễ

cầu mưa ở Bối Khê trước đây, vị thánh và ông Thống có vai trò quan

trọng với dân và với hội.

Dân quanh vùng Bối Khê tôn thờ, sùng kính Thánh tuy không

mấy người được chiêm ngưỡng tượng Ngài. Pho tượng này luôn được

dấu kín ở hậu cung; vào những ngày nhất định trong năm, chỉ một vài

người được vào làm lễ “mộc dục” (tắm tượng) hoặc thực hiện những “

Hèm” nào đấy.

Page 232: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

293

Rất may mắn, trong một lần đi khảo sát điền dã, chúng tôi đã

được vào hậu cung xem tượng. Đây là một pho tượng lớn, kích thước gần bằng người thật. Tượng có trang phục theo lối phổ biến của những nhà

quyền quý thế kỷ XVII- XVIII. Đầu đội khăn Thanh Cát ôm sát đầu rồi

rủ dài xuống lưng, áo quần và da thịt được tạo màu sẫm. Khuôn mặt có

vẻ dữ tợn, như thường thấy ở các tượng loại này, (tượng Minh Không ở

chùa Keo, tượng Từ Đạo Hạnh...) mắt đau đáu nhìn sâu vào tâm, vào cõi

mông lung. Tượng được tạc theo thế “kiết già phụ tọa” như các tượng

Phật.

Khi trời đổ nắng mãi mà không mưa, mọi thứ cầu cúng khác đều không linh nghiệm, thì các già làng ăn chay, cầu niệm, cùng ông Thống

vào lễ thánh. Các cụ vào lễ phải “quang quẻ” (không vướng tang trở,

không gặp chuyện gì xấu- rủi, gia đình hoà thuận…). Cỗ cúng xong,

tượng thánh được rước ra phơi nắng ngoài sân. Hành động có vẻ “phạm

thượng” như mâu thuẫn với việc tôn sùng Thánh này, được tư duy dân

dã, chân chất của người nông dân lý giải một cách đơn giản đến ngây

thơ: Ngồi trong khám kín ở hậu cung, có lẽ Đức Thánh không biết trời

đang hạn. Dưới cái nắng thiêu đốt, Ngài sẽ đồng cam cộng khổ thông cảm với khao khát của người nông dân mà làm mưa xuống. Lễ thức cầu

mưa còn diễn ra ở tục “tróc rồng”.

Vào một ngày thiêng được chọn, ông Thống và dân làng bện rơm

thành năm con Rồng lớn (+), đặt ở sân chùa, tượng trưng cho năm

phương, mỗi con hướng về một phía, con giữa chầu vào chùa. Miệng mỗi

rồng ngậm một ống đu đủ, cắm vào siêu nước trong tiếng trống ầm ĩ, ông

Thống cầm kiếm đứng trên thềm chùa múa võ “loạn xạ” theo một bài chỉ mình ông biết. Đồng thời, ông la hét và lảm nhảm đọc thần chú, toàn

những lời chẳng ai nghe kịp hay không hiểu nổi. Cuối cùng, ông xá dài

vào chùa. Toàn dân chờ đợi, hương khói nghi ngút cho đến lúc những hạt

mưa đầu tiên rơi xuống.

Nhưng cũng có khi trời vẫn không mưa được. Ông Thống lại

đứng lên múa võ, bắt quyết, niệm chú, cuối cùng hét lớn và vung kiếm

chặt vào đầu một con Rồng để ra oai. Con Rồng “ương ngạnh” bị trừng

phạt thường là con Rồng hướng Bắc, vì dân gian dã nghiệm rằng: “cơn đằng Bắc chưa chắc đã mưa” (?) đồng thời đó là hướng hắc ám.

Từ bao đời, người Việt tin rằng Rồng là chủ nguồn nước. Con vật

linh thiêng và huyền thoại này luôn là đề tài chính trong điêu khắc cổ ở

chùa- đình... như một biểu tượng cho hạnh phúc nông nghiệp. Vì vậy khi

có hạn hán người ta viện tới Rồng. Tư duy dân dã vùng Bối Khê trong

Page 233: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

294

giai đoạn muộn mằn đã ít nhiều chịu ảnh hưởng của việc cầu đảo kiểu

Trung Hoa khi phân không gian làm năm phương. Năm con rồng rơm từ Đông- Tây- Nam- Bắc và Trung phương sẽ hút nước các biển (tượng

bằng năm siêu nước) để làm mưa.

Ông Thống lúc đó được coi là hóa thân của thánh. Bản thân thánh

Bối (hay Từ Đạo Hạnh, Minh Không...) xưa kia tu hành theo lối Mật

tông, thông phù chú nên cũng thường hành phép ấn- quyết, cầu đảo giúp

dân. ở ông Thống cũng còn thấy bóng dáng của ông mo Mường được

Việt hoá và phức tạp hoá trong sự hỗn dung giữa tín ngưỡng dân gian

Phật giáo và yếu tố Đạo Trung Hoa.

Hai nghi lễ cầu mưa kể trên được tổ chức như những “liệu pháp

cấp cứu” tức thời. Để mong mưa thuận gió hoà, dân vùng Bối Khê còn lễ

Mẫu và có tục đốt pháo đầu xuân.

- Lễ Mẫu được tổ chức vào các ngày Sóc- Vọng hàng tháng (lịch

Trăng) trong điện Mẫu – một ngôi đền riêng trong khuôn viên chùa Bối

Khê. Đây là một điện Mẫu nông dân vì Tam Toà chỉ có Mẫu Thiên- Mẫu

Thoải- Mẫu Địa. Mẫu Thượng Ngàn thờ riêng ở một ban thờ khác.

(Nhiều điện Mẫu ở thành phố đặt Mẫu Thượng Ngàn ở vị trí Mẫu Địa, nhằm cầu xin “tiền rừng- bạc biển”, bàn thờ kiểu này đã bị tầng lớp

thương nhân chi phối làm biến đổi). Tư duy nông nghiệp mong mẫu

Thiên ban cho sự thuần hoà về khí tiết, xin mẫu Địa sự phì nhiêu cho đất

đai, và cầu ở mẫu Thoải (Thuỷ) nguồn nước đầy đủ để trồng cấy. ở nhiều

nơi, mẫu “Thủ Điện” là Mẫu Thoải. Dân làng Bối Khê bầy tượng Tam

Toà ngang hàng, nhưng năm nào ít mưa họ rước Mẫu Thoải nhô hơn về

phía trước như để Mẫu nghe rõ hơn những lời câù cúng.

- Hội Pháo đầu xuân không chỉ có ở Bối Khê, nhưng như ở Đồng

Kỵ (Hà bắc) thì tổ chức ở sân đình và chùa với việc thi pháo lớn. ở hội

Pháo Bối Khê, thì tư duy liên tưởng về các hiện tượng tự nhiên đã rõ nét

và phong phú hơn qua tục thi đốt pháo màn than. Tục này đã lâu không

làm nên chỉ còn trong ký ức của mọi người.

- Khoảng gần trưa ngày 12 tháng giêng âm lịch hàng năm, các

thôn trong làng Bối Khê thi đốt pháo. Người ta đặt trên ngọn một cây tre

(cao khoảng 15- 17m) một khung giấy tròn (đường kính 40- 50cm) quét dày thuốc pháo dễ bắt lửa, xung quanh gắn nhiều pháo con và ở giữa có

một quả pháo đại. Cách đốt bằng Nhị Thanh hay Thăng Thiên đặt dưới

đất, cắt thuốc vừa đủ, sao cho khi châm lửa nó bay lên vừa tới màn than

thì nổ, tạo lửa gây cháy màn, rồi dẫn nổ đến pháo con và pháo đại. Mỗi

Page 234: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

295

thôn chọn một số người ra đốt pháo, những người này phải hoàn toàn

trong sạch, lý lịch rõ ràng, gia đình không có điều xấu, không tang ma... Lệnh gọi thôn cả vào trước, một người trung niên, mặt thành kính bước

lên, hai tay nâng chiếc pháo xá dài vào chùa, miệng lầm rầm những lời

cầu nguyện, sau đó bước ra, đặt pháo chiếu lên màn than- Ông chỉnh đi

chỉnh lại chiếc pháo trong sự hồi hộp của mọi người, giờ quyết định đã

tới, ông thổi lửa bùi nhùi, châm vào đóm, tay run run đưa vào ngòi pháo.

Một tiếng xèo (hay tiếng nổ) khô khốc, và, chiếc pháo bay lên... Bao con

mắt nhìn theo với một thoáng cầu mong. Nếu ngay từ chiếc pháo đầu mà

màn than đã cháy nổ, thì được coi là một báo hiệu tốt lành cho cả vùng, còn nếu không, thì, thôn thứ hai, thứ ba... thay nhau vào đốt, mọi nghi

thức được lặp đi lặp lại cho tới khi một thôn nào đó làm cháy được màn

than.

Có khi sự việc đốt pháo phải quay tới hai ba “vòng” và cuối cùng

mọi việc đều tốt đẹp. Cuộc đốt pháo chỉ có người thắng mà không có ai

thua, người thắng được dân thôn reo hò công kênh tới trước cửa Phật tạ

ơn và lĩnh thưởng. Người ta tin phúc lớn do Thánh ban sẽ đến với mọi

nhà trong thôn người đốt được màn than.

“Đệm đàn” cho pháo màn than là pháo tràng và các thứ pháo khác

tạo niềm xúc cảm- Có thể hiểu được ý nghĩa tục đốt pháo này như sau:

Màn than đen sẫm thuốc pháo được nhìn nhận như một bầu trời

mây đọng nước. màn than bắt cháy ngoằn ngoèo theo vệt thuốc là hình

ảnh những tia chớp. Rồi râm ran pháo con là tượng của sấm rền. Tiếng

nổ lớn cuối cùng là sấm đại. Tất cả làm nên một tiếng vọng của cơn mưa

như nhắc nhở đất trời thực hiện nhiệm vụ- hãy theo sự gợi ý của chúng tôi đây, mà nổi sấm lên gọi mây mưa về cho mọi miền no ấm. Rồi sau

hội người ta như cảm thấy đó đây những chồi non thập thò trên mọi nẻo,

gọi ngọn xuân phong và thời gian chuyển động để hạt mưa bay và mùa

màng xanh tươi mát mắt người trồng. ý nghĩa cầu mưa theo cách diễn và

nhại lại tự nhiên để rồi “gợi ý” cho Trời Đất thuận theo ước vọng của con

người còn được thấy trong nghi lễ đánh trống Thiêng. Thực ra, đây

không hẳn là một nghi thức riêng, mà nó thường đi kèm các nghi lễ trên.

ở chùa Bối Khê trước đây có một chiếc trống đại treo trên giá chạm rồng và đao lớn. Viền quanh mặt trống người ta vẽ hoa văn hình chữ S, hình

tượng nghệ thuật hoá của chớp. Giữa mặt trống là hình tròn “Lưỡng

Nghi” với hai nửa Âm- Dương trong thế đối đãi, vận hành.

Trong chỉnh thể này, hình Rồng tượng trưng cho bầu trời mây với

các tia chớp (đao), tiếng trống đồng nhất với tiếng sấm. Tiếng rung- vang

Page 235: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

296

của trống (sấm) như tạo cho Âm- Dương giao hoà, sinh sôi, vạn vật nảy

sinh và phát triển.

Chỉ với một ngôi chùa Bối Khê, các hình thức lễ cầu mưa đã hội

tụ thành một hiện tượng văn hoá dân gian đặc sắc. Chỉ với một nội dung

cầu mưa, nguồn hạnh phúc nông nghiệp, của cư dân lúa nước, văn hoá cổ

truyền Việt đã thể hiện các nghi lễ phong phú và đa dạng. Tâm thức dân

gian mang nhiều nét đẹp bất ngờ. Giải mã được các nghi lễ cổ truyền để

vừa loại bỏ hủ tục vừa giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc là điều mà

chúng ta luôn nghĩ tới./.

T.L.B

-------------

Chú thích

(+) Một phần bài viết theo tài liệu của Nguyễn Hồng Kiên.

(*) Kích thước không nhất định, thường dài từ 1m đến 2m.

Page 236: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

298

Lễ hội làng Canh Hoạch

Nguyễn Hữu Thức

Canh Hoạch tên xưa là Cổ Hoạch, tên Nôm là làng Vạc hay làng

Vác thuộc xã Dân Hoà, huyện Thanh Oai tỉnh Hà Tây.

Đó là một làng quê trù phú từng được dân trong vùng biết tới về nghề

làm đồ chơi (đèn kéo quân) cho trẻ em, làm quạt giấy, những năm gần đây

phát triển thêm nghề làm lồng chim. Ngày nào cũng có hàng trăm lồng

chim mỹ thuật, kiểu dáng to nhỏ, chạm khảm trai lóng lánh chuyển lên thủ

đô Hà Nội.

Canh Hoạch nổi tiếng trong vùng là đất văn vật, nơi xuất hiện hai

trạng nguyên thời phong kiến tự chủ.

Sách Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919 chép “Nguyễn Đức

Lượng, người xã Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, con tiến sĩ Nguyễn Bá

Ký, cha tiến sĩ Nguyễn Khuông Lễ. Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất

danh (trạng nguyên) khoa Giáp Tuất niên hiệu Hồng Thuận 6 (1514) đời

Lê Tương Dực. Thi đỗ năm 50 tuổi. Lúc đầu tên là Hề được vua phê cho

đổi tên là Đức Lượng. Làm quan đến chức Lễ bộ Tả thị lang. Sau khi mất được tặng Thượng thư”. Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng có người em

gái là Nguyễn Thị Hiền lấy công tử Nguyễn Doãn Toại con ông Nguyễn

Doãn Địch đỗ thám hoa khoa Tân Sửu niên hiệu Hồng Đức 12 (1481) đời

Lê Thánh Tông, sinh cậu con trai đặt tên là Nguyễn Thiến. 6 tuổi mẹ cho

Nguyễn Thiến theo học cậu là Nguyễn Đức Lượng. Sau đi thi Nguyễn

Thiến đỗ trạng nguyên. Dân gian gọi là Trạng Cậu, Trạng Cháu. Cuộc đời

Trạng nguyên Nguyễn Thiến được tóm tắt trong sách Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919 như sau: “Nguyễn Thiến, người xã Canh Hoạch,

huyện Thanh Oai, 38 tuổi đỗ Hội Nguyên, được ban Đệ nhất giáp tiến sĩ

cập đệ đệ nhất danh (trạng nguyên) khoa Nhâm Thìn niên hiệu Đại Chính

3 (1532) đời Mạc Đăng Doanh. Ông làm quan nhà Mạc đến chức Lại bộ

Thượng thư, ngự sử đài đô ngự sử, Đông các đại học sĩ, Nhập thị kinh

diên, tước Thư quận công. Sau vì bất mãn với nhà Mạc, ông cùng với

thông gia là đại tướng Thái tể Phụng quốc công Lê Bá Ly dẫn quân chúng

trốn vào Thanh Hoá quy thuận triều Lê Trung Hưng. Vua Lê Trung Hưng

Page 237: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

299

ban thưởng, cho giữ nguyên các chức tước, đảm trách việc tuyển bổ quan

lại cho nhà Lê trong khoảng 8 năm. Mất năm Thiên Hựu (1557) đời Lê Anh Tông, thọ 63 tuổi”.

Nguyễn Thiến hiệu là Cảo Xuyên, danh sĩ có tiếng ở thế kỷ

XVI. Ông đỗ trạng nguyên trước Nguyễn Bỉnh Khiêm 1 khoa, sau đó hai

vị trạng nguyên này thường xướng hoạ thơ văn với nhau. Hiện còn một số

bài thơ của Nguyễn Thiến chép trong Toàn Việt thi lục và Bạch Vân am

thi tập. Nguyễn Thiến là cha của Nguyễn Quyện một danh tướng lỗi lạc

thời nhà Mạc.

Nhắc đến văn hiến làng Canh Hoạch không thể không nhắc tới Nguyễn Quyện. Vốn là tuớng giỏi của nhà Mạc, do cha bất mãn, ông giữ

trọn chữ hiếu theo cha quy thuận nhà Lê. Sau khi cha chết Nguyễn Quyện

và em ông là Nguyễn Miễn trở lại nhà Mạc. Dân gian thời ấy có câu đề cao

công lao của Nguyễn Quyện đối với triều Mạc:

Quyện tồn Mạc tại

Quyện bại Mạc vong

Sau những năm ở với triều Lê - Trịnh (1551-1557), Nguyễn Quyện trở về với nhà Mạc cầm quân đánh một số trận lớn thắng ròn rã đã làm

thanh thế quân nhà Mạc cường mạnh hẳn. Nguyễn Quyện còn mang một

bộ phận quân về xây dựng căn cứ quân sự lớn và mở mang thương nghiệp

ở trang Cổ Hoạch từ ngã tư Vác đến hết làng Tảo Dương. Đại bản doanh là

khu nhà để sắc hiện nay ở làng Canh Hoạch. Thời bấy giờ dân gian có câu:

Thứ nhất Cổ Bi

Thứ nhì Cổ Loa

Thứ ba Cổ Hoạch

Cổ Bi ở huyện Gia Lâm, thế kỷ XVIII chúa Trịnh Cương chọn đất ấy

xây dựng Phủ đệ. Cổ Loa thuộc huyện Đông Anh kinh đô thời Thục An

Dương Vương. Với câu tục ngữ trên, qua con mắt của người dân, Cổ

Hoạch được coi là một trong ba nơi có vị trí quân sự quan trọng và là nơi

cư dân sầm uất, kinh tế phát triển ở vùng ngoài kinh thành Thăng Long.

Chiến công của Nguyễn Quyện lẫy lừng đất nhà Mạc, vua Mạc phong ông

lên bậc Thường quốc công rồi Thái bảo. Nhờ thanh thế của ông dân chúng

quê hương ông rất tự hào. Thời ấy có câu ca:

Gái thì bẩy huyện xứ Đông

Trai thì Gạo, Vác cháu ông già Thường

Page 238: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

300

Bẩy huyện xứ Đông là quê hương của nhà Mạc, còn Gạo (làng Tảo

Dương), Vác (làng Canh Hoạch) là quê quán và trú quán của Thường quốc công Nguyễn Quyện. Trai gái ở những nơi trên giỏi giang trung thành với

nhà Mạc.

Dĩ nhiên vai trò cá nhân Nguyễn Quyện không thể cưỡng lại được xu

thế tất yếu của lịch sử, khi nhà Mạc tuy có nhiều yếu tố tiến bộ nhưng đối

ngoại làm mất lòng dân nên không quy tụ được nhân tâm tạo thành sức

mạnh bảo vệ triều đình. Năm 1592, Nguyễn Quyện bị thua trận ở Cầu Dền,

bị bắt và chết trong ngục. Các học giả Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú soạn

sách đều đánh giá cao tài năng quân sự của Nguyễn Quyện.

Lễ hội làng Canh Hoạch có liên quan mật thiết với Trạng nguyên

Nguyễn Đức Lượng và Thường quốc công Nguyễn Quyện. Chính hội của

làng tổ chức vào ngày 12 tháng 3 âm lịch tại đình Canh Hoạch, xưa kia có

tên là đình Đụn, nơi sinh hoạt chung cho cả 5 giáp của làng. Đình nằm ở

thế đất cao gần giữa làng, với lối kiến trúc hoành tráng, khoẻ khoắn và bay

bổng, cửa đình trông hướng tây. Cái khoẻ khoắn thể hiện ở độ thấp của bộ

cột kèo đỡ mái, kẻ tiền kéo dài ra, sự to ngang mở rộng của lòng nhà tiền tệ. ấy nhưng lại rất thoáng và bay là kiểu kiến trúc của ống muống và nhà

hậu cung từ đấy bất ngờ nhô lên một toà nhà chồng diêm tám mái, các góc

đao cong mũi rồng tựa như một bông hoa trên toà đài vậy.

Người làng Vác rất tự hào về ngôi đình làng mình, truyền ngôn câu

chuyện về bà Hậu, tức bà Nguyễn Thị Ngọc Cẩm con trạng nguyên

Nguyễn Thiến, năm 1551 cùng thông gia Lê Bá Ly quy thuận vua Lê, theo

gia phả thời gian này, Nguyễn Thiến đã gả bà cho chúa Trịnh Tùng (?).

Sau khi nhà Mạc bị đẩy lên chiếm cứ Cao Bằng, bà ra ở kinh đô Thăng Long. Bà Hậu có truyền sai người làng Gạo (Tảo Dương) nguyên quê nội

của cha bà và người làng Vác nơi trú quán và là quê ngoại của cha, lên dỡ

dinh cơ của bà chuyển gỗ về quê. Làng Vác lên trước chọn dỡ căn nhà nhỏ.

Làng Gạo lên sau phải dỡ ngôi nhà to hơn. Khi số gỗ đã mang về hai làng

hết, bà chúa mới bảo số gỗ ấy bà cung tiến để hai làng làm đình. Làng Gạo

nhờ số gỗ nhà to nên làm đình lớn. Làng Vác có số gỗ của nhà nhỏ nên

đình bé hơn, thay vì đất thợ nên đình tuy bé nhưng kiểu cách lại thanh và

đẹp.

Câu chuyện dí dỏm trên thay đủ giải thích sự ra đời của ngôi đình ít

nhất cũng có từ thời Lê- Mạc đồng thời ca tụng cái đẹp của ngôi đình gắn

với nghiệp của những người thợ thủ công mỹ thuật làm quạt “khéo tay hay

Page 239: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

301

mắt” biến những cái thô trở thành cái đẹp trang sức cho làng mình. Đó

cũng là một nét văn hoá của làng Vác.

Đình Canh Hoạnh thờ ba vị thần. Hai vị thần tên là Trình Lý, Cao

Hàn tương truyền là tướng thời Hùng Vương thứ 18 đem quân đi đánh giặc

bảo vệ bờ cõi nước Văn Lang khi dẫn quân qua đất Canh Hoạch thấy đất

có thế đẹp, một mặt trông ra sông Đáy, cạnh làng lại có khe nước thay hào

rất thuận lợi lập đồn luỹ liền đóng quân ở lại. Đến thời nhà Trần có tướng

Trần Uất con thứ hai tướng quân Trần Hưng Đạo đã sát cánh bên cha

chống giặc Nguyên-Mông, thấy Canh Hoạch là nơi đắc địa cũng đem quân

về lập đồn binh ở làng. Sau đó, ba vị tướng Trình Lý, Cao Hàn thời Hùng Duệ Vương và Trần Uất tên hiệu Minh Lang đại vương ở thời Trần được

dân làng tôn thờ làm phúc thần - thành hoàng bảo trợ làng.

Diễn biến lễ hội làng Canh Hoạch từ ngày 11 đến 13 tháng 3 âm lịch.

Xưa kia hình thức tổ chức lễ hội tiến hành như sau: Ngày 11/3 dân làng tổ

chức rước ba cỗ kiệu thành hoàng, kiệu Đức Thánh Cả Trình Lý đi trước,

tiếp kiệu Đức Thánh Hai Cao Hàn và kiệu Đức Thánh Ba Trần Uất từ đình

xuống cổng Dinh vào đình sắc rước sắc các vị thành hoàng ra đình. Sau đó, làng dùng kiệu đốn xuống rước bát nhang Trạng nguyên Nguyễn Đức

Lượng từ Nhà thờ Trạng nguyên họ Nguyễn và lại rước bát nhang Thường

quốc công ở đình Sắc về đình Đụn phối hưởng tế cộng đồng. Ngày 13/3

dân làng tổ chức rước sắc, rước bát nhang trạng nguyên và Thường quốc

công hoàn cung.

Xưa là vậy, còn nay kể từ năm 1991 khi đình làng được nhà nước

công nhận là di tích lịch sử văn hoá thì làng mở lại hội và trình tự hội được

làng nhất trí diễn ra như sau:

- Ngày 11 tháng 3 âm (tương truyền ngày sinh của vị thành hoàng

Trần Uất) cả làng cùng ra đình sửa sang đồ lễ, dựng cổng chào và các cây

nêu, thân nêu cắm bông tre nhuộm màu đẹp mắt. Sáng hôm đó dân làng tổ

chức tế nghênh (tế mời) sang buổi chiều, khoảng 3 giờ dân làng mới cất vai

kiệu tổ chức rước ra, đám rước lớn có đội cờ, đội trống, đội bát âm, bát

bửu, gươm hầu, đội múa xênh tiền (12 đến 16 em gái), làng có 4 xóm rước

4 cỗ kiệu, theo trình tự sau:

+ Đi đầu là kiệu đốn (kiệu cỗ) rước quan Trạng.

+ Tiếp kiệu bát cống rước bài vị Đức Thánh Cả, choàng áo đỏ.

+ Tiếp kiệu rước bài vị Đức Thánh Hai, choàng áo vàng.

+ Tiếp kiệu rước bài vị Đức Thánh Ba, choàng áo vàng.

Page 240: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

302

Ngoài ra, các xóm lẻ và xóm chợ của phố Vác có các cỗ kiệu nhỏ

rước cỗ, rước lẵng hoa đi kèm đám rước. Đặc biệt người làng Vác còn tạo đội hình rước quạt, một sản phẩm độc đáo của nghề làng, trong đó có 1

chiếc quạt thờ đặt trong hậu cung của đình làng được làm vào đầu thế kỷ

XX. Quạt dài 83 cm, khi xoè tạo thành nửa vòng tròn, đường kính 158cm.

Hai nan cái bằng sừng trâu đánh bóng đen nhánh, hình mái chèo, chỗ rộng

nhất của bản nan là 7,3cm. Đầu quạt to bằng trứng ngỗng. Mặt nan cái

bằng sừng, chạm hổ phù và hình rồng cuốn thuỷ. Mặt quạt bằng vải lụa.

Phù giá mỗi cỗ kiệu thánh có 2 người vác quạt tre. Hai đội múa rồng

biểu diễn dẹp đám từ đầu đám đến cuối đám.

Đoàn rước từ đình là đường 22 đi qua ngã tư Vác đến ngõ vào Nhà

thờ Trạng Nguyên họ Nguyễn thì kiệu đốn tách ra rước cỗ vào nhà thờ còn

các cỗ kiệu khác đi tiếp xuống đầu làng và quay ngược lên.

Kiệu đốn được hạ xuống đặt trước sân nhà thờ Trạng nguyên. Đó là

nơi thờ kế tiếp 3 đời đỗ Đại khoa của dòng họ Nguyễn là tiến sĩ Nguyễn Bá

Ký, Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng, tiến sĩ Nguyễn Khuông Lễ.

Nhà thờ kiến trúc chữ nhị, không to tát mà khiêm tốn trên một gò đất cao trông ra ao rộng. Duy chỉ có hai cột đồng trụ búp hoa tựa hai ngọn bút

vươn cao lên trời như một ký hiệu báo cho khách xa gần biết đó là nơi thờ.

Hậu cung nhà thờ họ Nguyễn có bức đại tự: “Trạng nguyên từ”.

Trong nhà thờ Trạng nguyên có đôi câu đối rất hay:

Phiên âm:

Cựu trạng nguyên, sanh trạng nguyên, nhất giáp khoa danh quang sử

bút

Phụ tiến sĩ, tử tiến sĩ, bát truyền chung đỉnh dụ Gia khương

Dịch nghĩa:

Cậu trạng nguyên, cháu trạng nguyên, khoa danh đỗ đầu sáng danh

sử sách

Cha tiến sĩ, con tiến sĩ, tám đời quyền quý phúc đầy nhà.

Các lão làng Canh Hoạch dâng tiến lễ vào nhà thờ quan Trạng, sau

một tuần tế ông trưởng họ và các lão làng mang bát nhang quan Trạng ra

đặt lên kiệu Đốn và dân làng cùng rước kiệu và cờ biển của Trạng nguyên

ra đường cái lớn nhập vào đoàn rước của làng đang đợi ở đó, vẫn theo trình tự kiệu rước quan Trạng đi đầu. Đoàn rước đi qua cửa đình xuống cổng

Page 241: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

303

Dinh ở cuối làng thì một kiệu đi lối cửa đình vào rước bát nhang ông

Thường quốc công ở nhà Sắc.

Nhà Sắc hay đình Sắc dưới danh nghĩa của làng nhưng thực chất là

nơi thờ Nguyễn Quyện và là nơi ghi công trạng của gia đình Trạng nguyên

Nguyễn Thiến.

Hiện diện nhà Sắc kiến trúc kiểu chữ nhất, ba gian, hai bên có tả hữu

mạc. Gian giữa đặt long ngai bài vị Thường quốc công Nguyễn Quyện,

gian bên phải để hòm sắc của các triều đại phong kiến phong cho các vị

thành hoàng, gian bên trái đặt bài vị bà Hậu, tức bà Nguyễn Thị Ngọc

Cẩm, con Trạng nguyên Nguyễn Thiến, làng Vác tục gọi là Bà Chúa Thuận. Dân làng rước bát nhang Thường quốc công ra cổng Dinh và nhập

vào đoàn rước quay trở lại đình làng để tế cộng đồng.

Các cỗ kiệu được sắp đặt ngăn ngắn ở sân đình và các cụ lần lượt

rước 3 long ngai bài vị, các Thánh và bát nhang quan Trạng, quan võ

Thường quốc công đặt lên hương án trong hậu cung đình để dân chúng vào

lễ Thánh.

Tục hèm của làng Canh Hoạch là dân đi tế và rước việc nhà Thánh không mặc áo đỏ, vàng mà mặc

áo màu đen nẹp đỏ.

- Ngày 12 tháng 3 âm lịch (chính hội), các cụ tổ chức tế, dân làng

dâng 1 lễ mặn gồm mặt lợn và ván xôi đầy.

- Ngày 13 tháng 3 âm lịch, các xóm trong làng ra đình lễ tạ, mâm lễ

chỉ làm đồ chay (hương hoa, oản quả...) tổ chức các trò chơi dân gian như

đấu cờ, đánh gậy hát chèo sân đình; đến chiều, sau tuần tế tiễn thì dân làng

tổ chức rước kiệu đốn đưa bát nhang quan Trạng và quan võ Thường quốc công về yên vị, gọi là rước hoàn cung Thánh giá. Dân gian có câu: “Mười

một rước ra, mười ba rước về” là vậy.

Hội làng Canh Hoạch là một hội lớn ở trong vùng. Việc cả làng đi

rước trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng và quan võ Thường quốc công

Nguyễn Quyện là một hiện tượng văn hoá độc đáo đề cao truyền thống

hiếu học và tinh thần thượng võ của làng. Ngoài ra, những yếu tố trong lễ

hội tưởng nhớ các vị Thành hoàng thời Hùng Vương - thời Trần và yếu tố

rước quạt tôn vinh nghề làng là những nét văn hoá đặc sắc khiến cho lễ hội làng Canh Hoạch trở nên sinh động, hấp dẫn dân chúng trong vùng./.

N.H.T

Page 242: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

304

Page 243: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

306

Lễ hội đền Côn Giang

Lý Linh Hoàng

Đền Côn Giang còn gọi là đền Cống Cun hay đền Đức Thánh là

một ngôi đền lớn nằm ẩn mình dưới những tán lá bàng cổ thụ, cạnh ngã

ba sông Cun thuộc địa phận làng Phúc Khê, huyện Thanh Lan nay là xã

Thiền Quan, huyện Thái Thụy, cách thị xã Thái Bình khoảng 12 km.

Truyền thuyết về vị thần được thờ ở đền kể rằng vào cuối thế kỷ

XV ở làng Phúc Khê có hai anh em nhà họ Quách nổi tiếng là thông

minh, học rộng, tài cao, đã đạt giải cao trong các kỳ thi. Người anh là Quách Đình Bảo đỗ thám hoa, người em là Quách Hữu Nghiễm đỗ

hoàng giáp, đều được các triều Lê Thánh Tông rồi Lê Hiến Tông tin cậy,

giao giữ nhiều trọng trách. Hai ông còn nổi tiếng là những người đức độ,

đặc biệt trên lĩnh vực giáo dục và ngoại giao, được các quan đồng triều

và dân làng kính trọng. Sử sách còn ghi rằng năm Nhâm Tuất (1502)

Quách Hữu Nghiễm được cử làm quan chánh sứ, đi sứ nước Minh để làm

lễ tạ ơn vua nhà Minh đã ban mũ và áo cho vua Lê Hiến Tông, để tiếp

tục "bồi đắp hòa khí", "dập tắt muôn đời họa chiến tranh". Quách Hữu Nghiễm đã làm tròn sứ mệnh và tỏ rõ là một vị chánh sứ tài giỏi, khéo

léo. Nhà sử học Phan Huy Chú (thế kỷ XIX) đã đánh giá Quách Hữu

Nghiễm là "nhà ngoại giao đầy mưu chước chính trị". Từ những bài biểu

lời lẽ mềm mại, bay bướm đến những bài thơ vịnh cảnh tạ ơn tài tình mà

Quách Hữu Nghiễm dâng lên khiến vua Minh rất hài lòng, phải khen là

"nhân tài đời tam đại" và ban cho ông một chiếc thuyền lớn, đầu thuyền

chạm trổ hình con chim ích, một loài chim to, khỏe, vượt biển nhanh. Vào một ngày thu đẹp trời, quan thượng thư họ Quánh dong thuyền theo

dòng sông Trà Lý về thăm quê. Nhưng, lạ thay, khi đến ngã ba sông thì

thuyền đột nhiên dừng lại. Thấy vậy, dân chúng tập trung tới xem rất

đông. Lính trên thuyền bỏ neo. Vài ba người lên bờ tìm gặp quan viên sở

tại. Họ báo gấp rằng quan thượng thư họ Quách không bệnh tật mà tự

nhiên chết, hôm đó là ngày 9 tháng 9 (âm lịch) năm Giáp Tý (1504).

Nhận được tin dữ, vua Lê bèn cử người mang tiền bạc về làm lễ an táng

ông theo nghi thức trọng thể. Dân làng Thiền Quan lập đền thờ ông làm thành hoàng làng. Vua Lê phong cho hoàng giáp Quách Hữu Nghiễm -

Page 244: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

307

thượng thư bộ lại kiêm đô ngự sử làm "Tối linh thượng đẳng thần", cắt

52 mẫu ruộng gần đó để dân làm lễ phụng sự hàng năm.

Kể từ đó đến nay, đời nọ nối đời kia, năm này qua năm khác, cứ

đến ngày giỗ ông, dân làng Thiền Quan tổ chức tế lễ lớn, có quan đại

thần trong triều về dự. Người, ngựa, xe cờ, quạt, võng lọng chật kín sân

đền. Ngày giỗ thành hoàng làng trở thành ngày hội lớn trong vùng từ bao

giờ không rõ. Ngoài phần nghi lễ tế, rước bắt buộc, dân còn tổ chức các

trò chơi khác như đánh cờ, đánh gậy, chọi gà, thi vật, hát chèo v.v...

Mỗi lần mở hội, người người tin rằng thần hoàng làng - họ Quách

luôn đem phúc lành đến cho dân làng : trẻ già khỏe mạnh, làm ăn thịnh vượng, ra khơi vào lộng an toàn./.

L.L.H

Page 245: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

308

Hội đền Chèm

Minh Thắng

Hội Chèm là một trong những hội lớn của thủ đô Hà Nội. Dân

Hà thành thường có câu:

Thứ nhất là hội Cổ Loa

Thứ nhì hội Gióng, thứ ba hội Chèm.

Làng Chèm thuộc xã Thụy Phương (xưa còn gọi là Thị Điềm, rồi Thụy Hương), huyện Từ Liêm, Hà Nội, nằm bên tả ngạn sông Hồng. Từ

trung tâm thủ đô đi theo đê Yên Phụ, hoặc xuôi theo đường Cầu Giấy về

phía cầu Thăng Long, đến chân cầu, hướng theo đê đi ngược lên khoảng

hơn 1 km là tới làng.

Đứng trên đê sông Hồng, có thể nhìn bao quát được toàn bộ diễn

trường của lễ hội Chèm. Nói đến hội Chèm không phải chỉ riêng có làng

Chèm mà là hội của dân "tam làng": làng Chèm, làng Hoàng, làng Mạc.

Môi trường lễ hội diễn ra trong một không gian rộng lớn, có đình, có bến chợ và một quãng sông dài trên 3km.

Ngôi đình nằm dưới những rặng cây xanh nhô ra giữa dòng sông

trông như một bán đảo nhỏ. Đình Chèm được xây dựng từ thời Bắc thuộc

(603-939), đến nay đã qua nhiều lần trùng tu, nhưng vẫn mang một dáng

vẻ cổ kính tiêu biểu cho lối kiến trúc ở thế kỷ XVII. Việc nâng cao ngôi

đình lên 2,4m so với ban đầu quả là một kỳ công lớn của nhân dân nơi

đây. Mặt chính của đình nhìn ra sông. Toàn bộ khu đình được chia làm

hai phần:

Phần ngoài là Tầu Tượng (nơi để voi ngựa) là một ngôi nhà ba

gian, hai dĩ, cao 10 m, có bốn mái lớn với các hình Long, Ly, Quy,

Phượng. Trước cửa Tàu Tượng có bốn cột đồng trụ cao từ 12 đến 14 m

tạo cho đình một dáng thanh thoát trang nghiêm.

Có hai văn bia ở lầu mộc dục. Bên phải ghi công đức của người

đóng góp, bên trái ghi việc kiệu đình.

Khu trong là khi chính cung. Chính cung được thiết kế theo hình chữ công, có tiền cung, trung cung và hậu cung.

Tiền cung có long sàng cỗ ngai, hương án. Hai bên là giá ngự

đựng bát bảo lộ bộ.

Page 246: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

309

Trung cung có 5 bàn thờ, với các đồ thờ như chĩnh, lư hương,

đèn, nến...

Hậu cung có tượng Lý Ông Trọng (đối tượng suy tôn) tượng phu

nhân và hai nàng hầu. Hai bên tả và hữu và tượng sáu người con đứng. Hậu cung có bài vị của đức ông, đức bà.

Có rất nhiều truyền thuyết về Lý Ông Trọng, nhưng qua sự chọn

lọc, chúng tôi thấy truyền thuyết dưới đây có lẽ phù hợp với lịch sử hơn:

Thời Hùng Vương thứ 18, Tuấn Công (người xã Thụy Phương)

thông minh tuấn tú, kết duyên với Hà Nương (xã Đa Lộc) nhan sắc tuyệt

vời. Họ sống với nhau hạnh phúc, nhưng mãi tới năm 32 tuổi mà vẫn

chưa có con. Hai người bàn đem một phần của cải bố thí cho thiên hạ để

cầu phúc. Một hôm Hà Nương đang dạo chơi ở vườn hoa, bỗng trông thấy một vết chân rất to, nàng ướm thử vào chân mình. Vừa ướm xong

thì thấy toàn thân sực nức hương thơm. Nàng có mang từ đấy. Đến tháng

thứ 13, năm bính tuất, Hà Nương sinh được một cậu bé. Tuy còn nhỏ

nhưng cậu bé có tư thế tuấn chỉnh, mặt mũi khôi ngô, cao lớn lạ thường.

Hai vợ chồng vô cùng sung sướng cho là trời ban phúc lành nên đặt tên

là Trọng. Lớn lên Trọng cao 20 thước, sức lực hơn người, trí dũng siêu

quần, thông minh xuất chúng. Lưng có 28 nốt ruồi giống như 28 ngôi

sao, ở rốn lại có cái lông. Năm 18 tuổi, khi vua hạ chiếu cầu hiền tìm người văn hay võ giỏi, mỗi huyện phải cử một người đến kinh ứng tuyển.

Phủ Quốc Oai chọn Lý Ông Trọng. Khi đến yết kiến, vua trông thấy hài

lòng bèn phong cho là chỉ huy sứ coi việc bảo vệ cung đình. Tính Trọng

nóng nảy, thẳng thắn nên nhiều lần quá tay đã giết kẻ phạm tội nhưng

vua mến tài nên vẫn trọng dụng. Mỗi khi có giặc Chiêm Thành, Ai Lao,

vua sai Trọng ra quần là giặc bị đánh tan tác. Sau đó vua ra lệnh cho ông

Trọng ra trấn thủ ở Lâm Thao. Các dân tộc ở biên thùy đều mến phục. Ông thường nói "làm người nên có chí hăng hái như chim phưưọng

hoàng bay muôn dặm xa, làm sao chịu làm tôi tới người để cho người

mắng phạt". Ông cầu học, cầu tiến rồi làm tướng cho An Dương Vương

Thục Phán.

Thời ấy nước ta đã bình yên. Bên Trung Quốc, Tần Thuỷ Hoàng

đã thống nhất đất nước, nhưng quân Hung Nô vẫn ngày đêm quấy phá

vùng biên ải. Vua Tần ép An Dương Vương phải cống nạp người tài sang

Trung Quốc. Lý Ông Trọng được cử đi sứ cho nhà Tần. Mặc dù Tần Thủy Hoàng đã cho xây vạn lý trường thành nhưng vẫn không ngăn nổi

sự quấy phá của Hung Nô. Vua Tần nhớ Lý Ông Trọng ra quân. Ông đi

trận nào thắng trận đó, quân Hung Nô không dám xâm phạm cửa ải nhà

Page 247: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

310

Tần nữa. Lý Ông Trọng được bổ nhiệm là quan Tư Lệ hiệu uý và được

gả công chúa Bạch Tính Cung.

Về già, ông được vua Tần cho về nước. Sau đó, quân Hung Nô lại

tới uy hiếp, vua Tần lại cho mời ông sang. Ông từ chối không được, không muốn xa Tổ quốc một lần nữa nên ông đã tự sát. An Dương

Vương cho ướp xác ông gửi sang Trung Quốc để làm bằng chứng. Tần

Thủy Hoàng cảm kích nên đã tổ chức lễ tang ông rất long trọng. Sau đó

Tần Thủy Hoàng cho tạc tượng ông bằng đồng dựng ở cửa Hàm Dương.

Và, mỗi lần có sứ giả sang, vua Tần ngầm sai người làm cho tượng cử

động. Quân Hung Nô ngỡ ông Trọng vẫn còn ở đất Tần, nên rút chạy.

Dân làng nơi ông sinh ra kính trọng tài năng đức độ và oai linh

của ông nên đã lập bàn thờ tạc tượng ông và phu nhân, suy tôn ông làm thành hoàng; tôn là Đức Ông và Đức Bà, cùng thờ chung trong một ngôi

đền của làng.

Hàng năm hội Chèm mở 3 ngày từ 14 đến 16 tháng 5 âm lịch để

tưởng niệm ông.

Ngày 14 đền và đình mở cửa để nhân dân đến dâng hương. Có lễ

nghinh thuỷ trên sông Hồng, lễ tấn phát cúng Phật, cả ba làng tế cỗ tại

nhà. Ngày 15 là ngày chính hội; các lễ rước được lần lượt cử hành.

Mở đầu là lễ rước nước, thường được tiến hành vào buổi sáng, đây là cuộc rước nước lớn và uy nghi nhất, lấy nước làm lễ mộc dục.

Những người tham gia, quần áo đủ sắc màu mang theo đồ tế lễ đi

bộ ngược bờ đê cách đình 3 km rồi xuống ba chiếc thuyền rồng loại lớn

xuôi theo dòng sông đến trước cửa đình Chèm. Tại đây diễn ra nghi thức

lấy nước. Ba thuyền cùng chèo chống làm sao cho cùng quay ba vòng.

Trong lúc thuyền quay, một người lấy gáo múc nước sông đổ vào chĩnh

và đánh phèn cho nước trong. Tất cả mọi việc phải tiến hành xong khi thuyền quay hết vòng thứ ba. Khi thuyền quay, chiêng trống nổi lên cùng

với tiếng hò ù óc- ù óc vang dội cả khúc sông vọng từ bờ nam sang bờ

bắc tạo âm hưởng lạ tai. Theo các cụ giải thích: Tiếng ù óc là sự mô

phỏng tiếng hô đuổi giặc Hung Nô phát ra từ pho tượng của ông ở cửa

Hàm Dương mà Tần Thuỷ Hoàng đã dùng kế nghi binh quân giặc.

Lấy nước xong, đoàn thuyền xuôi về bến Ngự, tức nhà mã cách

đền khoảng 1 km thì dừng lại, lấy đồ tế lễ và cuộc rước nước, rước mã ở

trên bộ bắt đầu. Đi đầu đám rước là xe, voi, ngựa choé nước, tất cả đều có lọng che và được nhiều người kéo. Sau đó đến kiệu mũ, áo, kiệu bát

Page 248: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

311

cống. Đám rước đi theo nhịp chiêng trống của ông thủ hiệu, ông đại hiệu,

nhịp nhàng về tới sân đình để làm lễ mộc dục (tắm Thánh).

Chiều tối tiến hành rước văn (văn tế). Cuộc rước được cử hành

long trọng như rước nước. Văn tế đặt trên kiệu (gọi là long đình). Văn được rước từ nhà ông trưởng văn ra đền. Hai bên đường làng nhiều ống

hương được cắm thành tiêu, tạo không khí tôn nghiêm. Cùng lúc, lễ rước

văn; lễ phát tấu được tiến hành.

Đội ngũ tế gồm 12 người mặc áo thụng màu xanh lam, mũ quan

văn, thắt lưng đai. Các ông trợ tế mang rượu, mang nến hồng thắp sáng

tiến vào cung, ba tuần dâng rượu, một tuần ẩm thực, một tuần tiến hồ.

Hàng tế đi giữa các ông già tay cầm cờ nheo dài 2m màu xanh, màu hồng

quay tít. Cuối cùng chủ tế đọc văn tế rước từ chùa Chèm trở về (gọi là Mỹ tự Đức Thánh Cả) người dự lễ im phăng phắc, trầm hương bay nghi

ngút. Tiếng ông chủ tế sang sảng vang lên:

“Uy mãnh oanh liệt thụ tín giản ý

Khâm đức trang tĩnh tuyển văn hiển hựu

Tương túc anh nghị

Trung hiếu thuần chính”.

Tạm dịch:

“Ngài uy linh anh hùng tiếng tăm vang dội Nam bang

Cử chỉ trang nghiêm văn võ toàn tài

Đạo đức toàn vẹn với nước với dân”.

Sau phần hội, nhân dân được xem nhiều trò chơi như bắt vịt, thả

chim câu, thả diều, bơi trải...

Ngày 16, ngày cuối hội, sáng có lễ nghinh thuỷ trên sông Hồng.

Chiều rước văn từ chùa Chèm về đình. Xen kẽ trong ngày là các trò chơi

giải trí như: đánh cờ, đấu vật, hát chèo... Chiều tối tan hội, ba làng làm lễ hậu hội tại nhà.

Ba ngày của hội làng Chèm đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong

lòng người dân, đó là sự kính trọng niềm tự hào về con người về nơi đây.

Mộ số nghi thức, tập tục của lễ hội như: lễ rước nước, lễ tắm tượng (đầm

mình trong nước giữa dòng sông Hồng) cùng với tục đua thuyền (trên

mặt nước), tục thả chim bồ câu (trên không) gợi lên cho chúng ta nhiều

điều suy nghĩ. Phải chăng đây là dư ảnh mờ nhạt của các nghi lễ cầu mùa

(cầu mưa và cầu tạnh, cầu mưa thuận gió hoà) của cư dân nông nghiệp từ

Page 249: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

312

thuở xa xưa, mà nay chỉ còn hiện diện như một nếp sống thượng võ và

thú chơi tao nhã?./.

M.T

-----------------

Có sử dụng tư liệu của: Thạch Phương, Lê Trung Vũ trong Lễ hội

truyền thống Việt Nam - Nxb KHXH, 1995; Và sử dụng bản viết tay: Lễ

hội đình Chèm của Văn Hậu, Hội VNDG Hà Nội, 1991.

Page 250: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

313

Lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn

Song Phạm

ở nước ta, cú nhiều lễ hội gắn với con trõu hay biểu tượng trõu,

một con vật quen thuộc với cuộc sống của cư dõn nụng nghiệp. Riờng về

chọi trõu, cỏc ụng Thạch Phương, Lờ Trung Vũ cho biết rằng "ở nước ta,

một số nơi, trong dịp hội hố cú tổ chức chọi trõu, như chọi trõu ở Bạch

Lưu (huyện Lập Thạch), ở Chu Hoỏ, Phự Ninh (huyện Phong Chõu), ở Hoàng Cương (huyện Thạch Hoà) tỉnh Vĩnh Phỳ ( nay là tỉnh Phỳ Thọ,

Vĩnh Phỳc -SP). Chọi trõu ở đõy được coi như là một trũ vui bờn cạnh

cỏc trũ vui khỏc, hơn là một tập tục cú quy củ"1. Nếu đỳng vậy, thỡ chọi

trõu ở đõy chỉ mang ý nghĩa một hành động hội, chứ chưa bộc lộ nột tõm

linh, tức lễ nghi qua việc chọi trõu. Cũng cú thể, ở đú, dưới những lớp

văn hoỏ sõu hơn, sau này, người ta cú thể đọc được đụi nột nghi lễ, tớn

ngưỡng ỏnh lờn qua hành động chọi trõu đú chăng.

Vậy mà cú một nơi, lễ hội chọi trõu đó trở thành một tục lệ ngàn đời, gắn với tớn ngưỡng thờ thuỷ thần của cư dõn vựng biển, thu hỳt sự

quan tõm của dõn chỳng và du khỏch cả nước. Nơi đú nay là thị trấn Đồ

Sơn, thành phố Hải Phũng, vốn là Tổng Đồ Sơn gồm 3 xó Đồ Sơn, Đồ

Hải, Ngọc Xuyờn. Từ một hội làng, lễ hội chọi trõu Đồ Sơn dần biến

thành lễ hội liờn làng, vựng và dần dần mang tớnh quốc gia. Nhờ cú bói

biển cỡ quốc gia, nhờ cú hội chọi trõu nổi tiếng mà bỏn đảo rộng hơn 20

km2 nằm ở phớa đụng nam, cỏch trung tõm thành phố Hải Phũng khoảng

20 km này trở thành nơi được nhiều người quan tõm:

Dự ai buụn đõu bỏn đõu

Mồng chớn (mười) thỏng tỏm chọi trõu thỡ về

Dự ai buụn bỏn trăm nghề

Mồng chớn (mười) thỏng tỏm thỡ về chọi trõu.

Chẳng ai cũn nhớ cõu ca này cú từ bao giờ, thế nhưng nú cứ da

diết, thụi thỳc lũng người phương xa, khiến họ, dự đi đõu, cũng khú quờn

ngày về dự hội.

1 Thạch Phương - Lờ Trung Vũ: 60 lễ hội truyền thống Việt Nam. Nxb KHXH, Hà Nội,

1995, tr.269.

Page 251: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

314

Di tớch ở lễ hội này, cho đến nay, chưa thấy ai miờu tả một cỏch kỹ

càng. Do thế, cú lẽ đành bằng lũng với vài dũng sơ sài, ngắn ngủi được

ghi trong sỏch Đại Nam nhất thống chớ như sau: "ở chõn nỳi Đồ Sơn,

huyện Nghi Dương cú đền thuỷ thần. Tương truyền cú người bản thổ đi qua, đến đờm thấy hai con trõu chọi nhau dưới đền, nờn hàng năm, đến

ngày 10 thỏng 8 cú tục chọi trõu để tế thần"1. Đõy cú lẽ cũng khụng nằm

ngoài cỏch nhỡn huyền thoại trờn tinh thần thiờng hoỏ một ngụi đền thờ

thuỷ thần, thần biển. Một tài liệu khỏc cho biết "Lỳc đỏm ngư dõn mới

lập đền thờ, đõy chỉ là một ngụi đền lợp lỏ, nhưng sau này đền được xõy

gạch với đầy đủ vẻ tụn nghiờm. Đền toạ lạc đối diện sụng Hồng Giang,

phớa trước nơi thần linh đó xuất hiện"2. Rừ ràng ở nơi đõy, huyền tớch,

huyền thoại cú vai trũ rất lớn trong việc làm linh thiờng lễ hội, làm nhõn hoỏ, linh hoỏ nhõn vật được thờ phụng (thuỷ thần), dự rằng hỡnh thức,

động tỏc, tiến trỡnh chọi trõu ngày càng đậm tớnh chất thể thao trong khi

vẫn giữ được những nghi lễ tối thiểu cuả một lễ hội thờ thuỷ thần, thờ

nước với mụ tớp Trăng-Trõu-Biển (gắn với thuỷ triều).

Về mặt thần tớch, thần phả, sự tớch... cỏc vị thần được thờ ở đền

thuỷ thần cũng như nguồn gốc tục chọi trõu, cũng cú những điểm khỏc

nhau ở cỏc tài liệu khảo cứu. "Theo cỏc ụng Nguyễn Văn Liờm, Thỳ Y

Sĩ và Ngụ Quốc Cụn, nguyờn tri phủ Kiến Thụy mà tập san Indochine nhắc lại trong số 7, xuất bản ngày 17-9-1942, nguyờn do như sau: Cỏch

đõy 18 thế kỷ, với giú mựa Đụng Nam, một số ngư phủ nguyờn quỏn ở

Thần Hoà trụi giạt tới chõn nỳi Thỏp Sơn của bỏn đảo Đồ Sơn... Sống ở

đõy, những cư dõn này liờn tiếp chịu mọi thiờn tai bóo tố nối tiếp trời

hạn hỏn. Trước mọi tai nạn, họ chỉ cũn biết ngày đờm ngưỡng lờn trời

van vỏi và cầu khẩn xin chư vị thần linh miền ven duyờn hải thương họ.

Cho tới một hụm, trời trong sỏng dưới ỏnh trăng thỏng 8, một số người trụng thấy ngoài biển, dưới ỏnh trăng vàng đang đựa súng gợn,

một lóo nhõn đầu túc bạc phơ ngự trờn một chiếc sập đỏ, tay cầm một

chiếc gậy dài ngắm nhỡn một đụi trõu chọi nhau. Hỡnh ảnh này hiện rồi

biến. Sau đú, một trận mưa độ lượng đó tưới mỏt mặt đất. Qua hỡnh ảnh

xuất hiện bất ngờ trờn mặt biển, ngư dõn hiểu thần linh giỏng hạ bỏo cho

dõn chỳng biết mà thờ phụng.

Để làm hài lũng thần nhõn, họ đó tổ chức những cuộc chọi trõu và

tục này đó được lưu truyền mói mói. Một tấm hoành khắc vào đời Vua

1 Dẫn theo Lễ hội cổ truyền, Viện Văn hoỏ dõn gian, NXBKHXH, Hà Nội, 1992.

2 Chuyển dẫn từ Toan ỏnh- Nếp cũ hội hố đỡnh đỏm (quyển hạ)- Nxb tp HCM, 1992, tr.

169.

Page 252: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

315

Lý Thỏnh Tụng (1054-1059) gắn trờn chớnh điện ngụi đỡnh xó Đồ Sơn,

chứng tỏ cổ tục đó cú từ lõu lắm"1.

Thạch Phương và Lờ Trung Vũ lại dẫn lời cỏc bụ lóo và Lễ hội cổ

truyền-sđd, cho rằng "ở đõy cũn lưu giữ một tục cổ gắn liền với huyền thoại xưa. Trước kia, sau ngày hội, sỏng ngày 11, cả tổng làm lễ tế thần.

Rồi người ta chở con trõu đoạt giải nhất ra Hũn Độc (nơi cú vực xoỏy)

nộm xuống biển đỳng nơi Bà Đế ngày xưa đó bị dỡm chết để hiến sinh,

thỡ làng mới yờn"2.

Theo cắt nghĩa của nhiều tài liệu, Bà Đế là một trinh nữ xinh đẹp

tờn Đế, kết duyờn với vua thuỷ tề (Thủy thần), cú thai, dõn làng phạt vạ,

bọn hào lý đem cụ dỡm chết ở biển (ở Hũn Độc). Cụ chết oan, hiển linh

và được lập đền thờ.

Lại cú tài liệu gắn chọi trõu với sự tớch người anh hựng nụng dõn

Quận He (quận Hẻo) đời Hậu Lờ, phất cờ khởi nghĩa chống lại nhà nước

phong kiến. Hội mỳa cờ, chọi trõu là để tưởng nhớ ụng 3.

Như vậy, trong lớp sương mờ huyền thoại, ta vẫn cú thể thấy lễ hội

chọi trõu bao chứa nhiều lớp văn hoỏ chồng xếp lờn nhau, mà cho tới

nay, khụng phải ai cũng cú thể lý giải, búc tỏch được. Đõy là một lễ hội

cần tiếp tục chỳ ý giải mó qua việc đọc những biểu tượng văn hoỏ bộc lộ

trong tiến trỡnh lễ hội, đặc biệt là cỏc nghi lễ tớn ngưỡng1.

Lễ hội chọi trõu thường diễn ra trong một ngày, thậm chớ chỉ trong

một buổi. Cũn hành động chớnh, mà người ta dựng để gọi tờn lễ hội, quỏ

trỡnh chọi trõu, nhiều khi chỉ kết thỳc trong khoảnh khắc. Nhưng để cú

được những khoảnh khắc đú, việc chuẩn bị cho lễ hội đó bắt đầu trước đú

hàng dăm bảy thỏng trời. Ngoài những cụng việc cần thiết cho một lễ hội 1 Toan ỏnh- Sđd, tr.168.

2 Thạch Phương- Lờ Trung Vũ- Sđd.tr.275.

3 Xin xem cỏc tài liệu của Toan ỏnh, Thạch Phương- Lờ Trung Vũ, Lễ hội cổ truyền ...đó

dẫn trong bài. 1 - Toan ỏnh cũn cho rằng nhõn vật được thờ là Điểm Tước Đại vương hay Bỏt Bộ tụn thần

(tỏm vị thần linh - khụng rừ tờn). Xin xem Toan ỏnh, sđd, tr.169-170. Lễ hội cổ truyền,

Sđd, tr 291 cho rằng nhõn vật được thờ là Điểm Tước Đại Thần Vương.

- Phạm Lợi, khi viết về nhõn vật được tụn thờ, đó khẳng định: "Thần Thành hoàng của

tổng Đồ Sơn được thờ tại đền Nghố. Tương truyền, xưa, đất này đang đụng vui, bỗng một

con thuỷ quỏi đến phỏ hoại xúm vạn, bắt dõn mỗi năm phải cỳng cho nú một "thiện nam"

tại vụng Mỏt. Một đờm hố giụng bóo nổi lờn, xỏc thuỷ quỏi bị giết giạt vào bói biển nơi

mỏm Nghố, chõn nỳi Ngọc; cư dõn lập đền thờ tại đú, tức là đền Nghố. Được thần linh giỳp

đỡ, xúm vạn trở lại yờn vui, cư dõn Đồ Sơn tiến hành lễ cầu duệ hiệu của thần. Sau 5 đờm

7 ngày hương khúi, một nốt chõn chim xuất hiện trờn mõm bột và thần Điểm Tước trở

thành thần thành hoàng của tổng" (VHDG-2/1995).

Page 253: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

316

bỡnh thường, thỡ ở lễ hội chọi trõu Đồ Sơn, trõu chọi là vấn đề được chỳ

trọng bậc nhất. Quỏ trỡnh chuẩn bị cho lễ hội chọi trõu gồm cỏc giai

đoạn và cụng việc: kộn chọn-mua trõu; trỡnh trõu với thần, chăm súc,

luyện tập trõu; đấu loại chọn trõu vào hội và lễ hội chọi trõu . Nhiều tỏc giả, trong cỏc cụng đoạn trờn, khụng chỳ ý tới một nghi thức rất đỏng

nhấn mạnh: đú là lễ trỡnh trõu. Bởi, đến nay nghi thức này bị lẩn khuất,

cú khi triệt tiờu đi trờn thực tế. Song, trong hệ thống nghi lễ của lễ hội,

nú cú vai trũ rất quan trọng2, bởi, ngay từ trước khi nuụi và luyện tập,

trõu chọi đó được thần linh ghi nhận, khụng thể thay thế hoặc đỏnh trỏo.

Bõy giờ, chỳng ta đi lướt qua cỏc giai đoạn và cụng việc chuẩn bị.

Trước hết là kộn chọn-mua trõu. Hội mở thỏng Tỏm, nhưng như đó

núi, từ thỏng hai, ba (õm lịch), thậm chớ từ sau tết Nguyờn đỏn, cỏc làng đó lo cử người đi kộn chọn để mua trõu chọi. Tiền mua trõu là tiền đấu

thầu cỏc đỏy, khẩu săm đỏnh bắt tụm, cỏ trờn biển hoặc kết hợp với sự

đúng gúp của dõn làng. Người được giao trọng trỏch đi mua trõu phải là

người được thụn, làng tớn nhiệm, thành thạo tướng trõu, thụng thuộc chợ

bỳa, tận tõm tận lực với cụng việc chung. Lại phải là người trong sạch,

gia đỡnh hoà thuận vui vẻ, khụng mắc tang chế... Nhiều người trong thụn

làng cũng như cỏc nhà nghiờn cứu đều đỏnh giỏ đõy là cụng việc cú ý

nghĩa quyết định đối với cuộc chọi trõu và cũng là với lễ hội chọi trõu, liờn quan tới uy tớn thụn làng và ở mức độ cao hơn, là sức khỏe, vận

may trong sinh hoạt làm ăn của mọi người. Vỡ thế, họ đi nhiều nơi, kộn

chọn rất kỹ, đỳng tiờu chuẩn thỡ mới mua.

Theo kinh nghiệm nhiều đời, người thành thạo sẽ chọn trõu chọi

(tức trõu cũn nhiều thỳ tớnh) theo 10 tướng mà cỏc cụ đó đỳc kết (và cỏc

tài liệu dẫn trờn cũng đó ghi nhận) là: thõn trắng, ức rộng, hỏng to, cổ cũ,

đuụi chai, đớt nhọn, lưng tụm, sừng cỏnh cung, trường đựi, ngắn quản. Tỏc giả Phạm Lợi cú những miờu tả kỹ càng hơn: "Nếu tiờu chuẩn chọn

trõu cày kộo là khoẻ mạnh, dẻo dai và hiền lành thỡ yếu tố hàng đầu đối

với trõu chọi là sự hung dữ, gan lỡ và cú bộ đồ - đụi sừng - tốt. Đụi sừng

được coi là tốt khi khoảng cỏch giữa hai đỉnh sừng rộng từ 40-48 cm và

chiều cao đạt 24-26 cm, sừng phải đen mịn, cong đều và hơi "hướng

tiền". Độ gan và sự hung dữ của trõu phụ thuộc vào trũng mắt, mớ mắt

và một số khoang khoỏy... Trõu cú cặp mớ dày, trũng mắt vằn đỏ, độc

2 Cú lẽ chỉ cú Toan ỏnh và Phạm Lợi chỳ ý tới hỡnh thức này khi ghi nhận lễ trỡnh trõu của

14 thụn tại đỡnh làng Đồ Hải (xem Toan ỏnh, sđd, tr. 172-173 và Phạm Lợi, Tạp chớ đó

dẫn, tr.17).

Page 254: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

317

khoang, cú khoỏy sũ và khoỏy tam tinh, da dầy, lụng múc... thuộc loại

này. Phớa dưới cổ trõu nếu chỉ cú một vệt trắng vắt ngang là trõu "độc

khoang"; khoỏy đúng giữa hai mắt là khoỏy "tam tinh", đúng giữa đỉnh

đầu, cỏch đều hai chõn sừng là "khoỏy sũ". Trõu muốn giành chiến thắng trờn sới chọi cũng phải khoẻ mạnh, dẻo dai, số đo vũng ngực trõu phải

đạt 1,80m trở lờn và cú từ 9 đến 12 năm tuổi. Trõu chọi phải "cao võy,

rộng ức, hỏng to, cổ cũ, đớt ngút, lưng tụm bà, tiền cất, hậu hạ, sườn kớn,

bụng cheo, trường đựi, ngắn quản, nhỏ khoeo" hay "mỡnh cỏ trắm, bụng

teo, bốn chõn múng thũ, nhỏ khoeo, kớn múng", "thẳng múng con, trũn

múng to"1... Thường trõu chọi phải từ bảy, tỏm tuổi trở lờn thỡ mới đủ

sức thi đấu. Theo mọi người cho biết thỡ trõu chọi thường được mua ở

Hải Phũng, Hải Dương, Hà Đụng, Nam Định, Thỏi Bỡnh, Tuyờn Quang, Yờn Bỏi, Thanh Hoỏ, Nghệ An...

Thứ đến là lễ trỡnh trõu với Thần. Như đó núi, đõy là một lễ tiết

ngoài hội nhưng lại hết sức quan trọng khi đặt nú trong hệ thống nghi lễ

của hội. Cú thể coi đõy là lễ tiết đầu tiờn mà nhờ đú, trõu chọi khỏc

(thiờng hơn) trõu bỡnh thường. Lễ trỡnh trõu cũng hết sức ngắn gọn:

“Sau khi tất cả mười bốn thụn, mỗi thụn đó kộn chọn tậu được con trõu,

dõn làng tổng làm lễ trỡnh trõu với đức tụn thần. Tất cả đàn trõu của

mười bốn thụn đều được dắt tới sõn đỡnh làng Đồ Hải, con đứng con nằm ngổn ngang, con miệng đang nhai lại đỏm cỏ ăn lỳc sỏng. ở trong

đỡnh quan viờn hàng tổng hội họp để làm lễ khấn trỡnh với thần linh. Lẽ

tất nhiờn cú những lễ vật như hương đăng trà quả rượu trầu. Vị đại diện

hàng tổng thắp hương khấn vỏi lễ thần rồi xin một quẻ õm dương để

được biết ý thần hài lũng về những con trõu đó chọn. Rồi lần lượt cỏc

quan viờn khỏc trong hàng tổng đều vào lễ, sau cựng là những dõn thụn

đó được hàng tổng uỷ nhiệm việc nuụi trõu.

Lễ trỡnh trõu xong, thụn nào dắt trõu về thụn đú, và kể từ ngày đú,

một người được hàng thụn cử nuụi trõu phải săn súc con trõu sao cho

khoẻ mạnh và nhất là tinh khiết” 2. Tài liệu khỏc chộp: "khi đó chọn

được trõu, cư dõn Đồ Sơn chuẩn bị đi dắt trõu về làm lễ trỡnh thành

hoàng. Trước khi đi dắt trõu, cỏc giỏp phải làm lễ xin phộp thành hoàng

tại đỡnh Cụng và đỡnh Nghố, phải cỳng thổ thần, thành hoàng ở địa

phương cú trõu, nếu nghỉ đờm lại dọc đường thỡ lỳc ra đi người dắt trõu

cũng phải cỳng lễ” 3.

1 Phạm Lợi - T/c đó dẫn, tr. 17.

2 Toan ỏnh, Sđd, tr.172-173.

3 Phạm Lợi - T/c đó dẫn, tr. 17.

Page 255: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

318

Sau lễ này, những con trõu đú mặc nhiờn đó được thần linh ghi

nhận vào danh sỏch trõu dựng để chọi trong lễ hội (kể cả vũng đấu loại).

Kế đến là khõu nuụi, chăm súc, luyện tập trõu. Đõy là loại trõu chọi

và hiến tế thần, người được giao cho nuụi trõu cũng phải lựa chọn theo tiờu chuẩn riờng của từng làng, nhưng thường là người cú tiếng tăm,

được làng tin cậy, khụng mắc tang chế, thạo nghề nuụi trõu và trong thời

gian nuụi trõu nhất thiết phải thanh tịnh. Trõu được nuụi theo chế độ

riờng (ăn uống, kiờng khem, làm quen dần với khụng khớ sới chọi cũng

như khụng gian lễ hội với đủ tiếng trống chiờng, hũ reo, quần ỏo, cờ quạt

ngũ sắc...). Sau khi thử trõu (tức hai con trõu được đưa đến đối mặt nhau

ở hai bờn một chiếc cổng sắt khoỏ chắc chắn, chỳng sẽ lao vào nhau

bằng nhiều cỏch"1, thỡ cụng việc nuụi, luyện tập coi như đó hoàn thành. Thời gian để mua, nuụi, luyện trõu chọi cú thể kộo dài hai, ba, bốn thỏng

tuỳ làng.

Vũng đấu loại chọn trõu dự lễ hội chọi trõu (tức vũng chọi chọn

trõu vào chung kết như ngày nay chỳng ta thường gọi). Trước đõy, tổng

Đồ Sơn cú 3 xó, 14 giỏp (Toan ỏnh viết là 14 thụn), mỗi giỏp (thụn) gúp

một trõu chọi, đấu loại với nhau để chọn 6 trõu vào hội. Vũng đầu vào

trung tuần thỏng 5, vũng hai vào đầu thỏng 6, sao cho cả 3 xó đều cú trõu

vào dự hội2. Thường thỡ Đồ Sơn cú 3 trõu, Đồ Hải 2 trõu và Ngọc Xuyờn 1 trõu vào dự lễ hội chọi trõu, cỏc trõu bị loại vẫn được nuụi để

làm lễ vật hoặc sau này mổ thịt, trõu của xó nào, xó đú hưởng thịt.

Cuối cựng thời gian lễ hội chớnh thức cũng đến. Thường thường

cụng chỳng lễ hội chỉ nhớ về lễ hội chọi trõu qua cõu ca dao, vào ngày

mồng 9 (hay mồng 10 ) thỏng tỏm. Thực tế, đú là một ngày trọng đại,

đầy nỏo nức trong lũng người dõn sở tại và du khỏch hiện đại. Tuy

nhiờn, theo Phạm Lợi, thỡ ngày vào đỏm, mở đầu lễ hội chọi trõu cổ truyền của cư dõn Đồ Sơn là ngày 30 thỏng 7 và kết thỳc vào ngày 16-

8"3. Nghĩa là thời gian chớnh thức của lễ hội diễn ra trong suốt hơn nửa

thỏng". Sỏng 30 - 7 ở đỡnh Cụng và ngày 8-8 ở đỡnh cỏc thụn, xó là thời

điểm diễn ra nghi thức lễ rước, lễ mộc dục và lễ yờn vị... Chiều 30-7 cư

dõn Đồ Sơn tiến hành lễ rước thần thành hoàng từ đền Nghố về đỡnh

Cụng... Ngày 9-8 cư dõn Đồ Sơn tiến hành tục chọi trõu tế thần"1. Ngày

1 Phạm Lợi - T/c đó dẫn, tr.17.

2 Toan ỏnh chộp cú khỏc về thời điểm đấu loại: "Cuộc đấu loại bắt đầu trong những ngày

mồng 8 và mồng 9 thỏng 6 rồi lại tiếp tục vào ngày 30 thỏng 7 õm lịch" (xem Sđd, tr.175). 3 Phạm Lợi -T/c đó dẫn, tr.18.

1 Phạm Lợi - T/c đó dẫn. tr.18 .

Page 256: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

319

xưa, hội thường kộo dài trờn chục ngày, trong hội cú nhiều nghi lễ, trũ

vui, cỏc sinh hoạt văn hoỏ dõn gian, mà nổi bật là trũ chọi trõu và nghi lễ

hiến tế trõu cho thần biển. Hiện nay nghi lễ hiến tế (vứt trõu xuống biển)

đó khụng cũn hoặc được biểu trưng hoỏ, nờn cú lẽ vỡ thế mà sự đặc sắc quy tụ vào nghi thức chọi trõu. Như vậy là ngày 9-8 (nhiều tài liệu và thư

tịch ghi là ngày 10-8) lễ hội chớnh thức được bắt đầu. Mở đầu là nghi lễ

rước cỏc trõu chọi đi dự hội. Khoảng 1-2 giờ sỏng, chủ tế cỏc đỡnh làm

lễ xin phộp thành hoàng đưa trõu đi. "Người rước trõu thần phải tắm rửa

để thanh khiết, mặc ỏo dài, thắt lưng đỏ, đội nún lỏ dứa. Trõu thần cũng

được trang trớ, lưng trựm vải đỏ, ngà buộc những dải lụa điều" 1. Đi đầu

đỏm rước là cờ ngũ phương, trống chiờng, long đỡnh, long kiệu, bỏt

bửu..., tiếp là cỏc vị bụ lóo, chức sắc, cụng chỳng và...trõu chọi theo thứ tự xếp hạng vũng loại. Đi hai bờn là hai chàng trai mỳa cờ mỗi giỏp, tức

cú 28 chàng mỳa cờ 2. Sới chọi cỏch cửa đỡnh khoảng 70 -80 một, mỗi

cạnh xấp xỉ 200 một 3, cú hào nước bao quanh (để trỏnh nguy hiểm khi

trõu thua phỏ rào, nhưng cũng gợi đến yếu tố nước, yếu tố hào bao quanh

cú tớnh thần linh-thành hoàng), trong cú hai dóy lỏn tre cho trõu đứng,

ngoài cú cỏc lỏn phục vụ người dự hội. Rước trõu tới sới khoảng 10-11

giờ trưa, nghi thức chọi trõu tế thần bắt đầu. Trước mỗi khỏp đấu đều cú

mỳa cờ, tức nghi lễ mở trận cho 2 trõu vào sới đua tài. 28 chàng trai khoẻ mạnh ỏo đỏ, thắt lưng xanh, hai tay cầm cờ đuụi nheo đỏ... tiến lựi, mỳa

cờ theo nhịp trống, dàn thế trận như đang giao chiến, rất vui mắt và hào

hứng4 .

Những người mỳa cờ vừa vào nước chào, thỡ trống lệnh nổi lờn,

hai trõu chọi vào sới. Hai quản trõu dắt trõu vào đứng dưới chõn hai cột

cờ ngũ phương. Hiệu trống thứ hai, hai trõu tiến lờn gần cỏch nhau

khoảng 15-20 một. Hiệu trống thứ ba, hai người dắt trõu rỳt dõy mũi. Hai trõu chọi tự do lao vào giao đấu. Kiểu cỏch giao đấu để phõn thắng bại

cú nhiều, chỳng tụi trớch một tư liệu khỏc: " Những con trõu sừng vũng

rõy xụng vào đối phương, cỳi xuống lấy cỏng là sừng cắm ngay vào mắt

đối phương, rồi quỳ xuống khụng cho đối phương gỡ ra. Đoạn nú nhanh

chúng khộp mỡnh quật một cỏi là đối phương ngó. Đấy là lối đỏnh "giỏp

lỏ cà", đầu trõu nọ liền sỏt với đầu trõu kia, đỏnh giữ rịt khụng cho để hở

cỏch nhau. Đối với trõu cú sừng dóng, hơi hướng về phớa trước thỡ cỏch

1 Lễ hội cổ truyền-sđd. tr. 295.

2 Sỏch Lễ hội cổ truyền, tr.295 ghi là 24 thanh niờn mỳa cờ (nay là 16 cụ gỏi mỳa cờ).

3 Thạch Phương - Lễ Trung Vũ, sđd, chộp là sới được căng dõy trờn bói rộng khoảng 6 mẫu

(20.000m2 = 2ha), khụng núi sới rộng bao nhiờu.

4 Mỳa cờ cũn được gắn với lễ ra quõn của quận He (quận Hẻo) trước lỳc xuất quõn.

Page 257: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

320

đỏnh lại khỏc hẳn. Đối phương càng tiến sỏt thỡ nú cứ lựi thật nhanh để

tạo một khoảng cỏch rồi dựng cặp sừng to chắc phang vào mặt mũi đối

phương; cú những cỳ phang rất mạnh làm dập cả lỏ mớa, mỏu chảy lờnh

lỏng, khiến đối phương chỉ cũn cỏch là phải bỏ chạy. Lại cú những đụi trõu ghỡm nhau rất lõu, hai đầu sỏt nhau, hai cổ vươn dài đố ấn xuống,

hai mũi sỏt đất, bốn mắt chũng chọc nhỡn nhau, bốn chõn trước chống

xuống vững chắc, bốn chõn sau choói ra, giữ thế để dũ tỡm sơ hở của đối

phương mà tấn cụng giành thắng lợi. Đụi cặp sừng trõu rập vào nhau

cỏch cỏch. Đầu sừng rạch vào da nhau kờu soàn soạt. Mặt đất nỏt nhóo,

cỏt tung bụi mự, cứ thế đụi trõu chọi dun đi đẩy lại hơn một tiếng đồng

hồ mà khụng phõn thắng bại.

Trong trận đấu, con trõu nào khoẻ, và lấy được nhiều cỏng (nghĩa là đỏ được nhiều miếng hay, miếng hiểm, làm tổn thương cho trõu đối

phương) thỡ chắc chắn là thắng cuộc. Cú những con trõu bị thương tớch

đầy mỡnh: rỏch da, mỏu chảy, mắt sưng nhưng vẫn gan lỳ, chờ sơ hở của

đối phương đỏnh đũn hiểm húc hoặc con bị đối phương lấy cỏng nhưng

đó khụn khộo gỡ cỏng rồi lấy cỏng đối phương được người xem hoan

nghờnh, cổ vũ nhiệt liệt. Nhưng đang chọi mà con nào chỉ cần bỏ chạy

1,2 bước là thua cuộc.

Hội chọi trõu kết thỳc bằng một cuộc rước giải trõu nhất về làm lễ tạ thần. Mọi người thoải mỏi, phấn khởi kể cả xó cú trõu thua, dự vào

đỏm rước này để biểu thị sự đoàn kết, vụ tư mừng ngày

hội vui thắng lợi.

Trõu nhất hàng tổng, ngoài việc được thưởng một số tiền, cũn cú

phần thưởng đặc biệt: một lỏ cờ vúc hồng thờu hai chữ: "Thượng đẳng"

bằng chỉ kim tuyến, một bỏt hương bằng đỏ xanh, đem theo đỏm rước trở

về. Hội làng tiếp tục đến ngày 9-8 õm lịch mới kết thỳc.

Ngày hụm sau, mồng 10-8, tất cả 14 giỏp trõu dự giải (sơ khảo và

chung kết) dự trõu thắng hay trõu thua đều giết thịt để trước là tạ thần

linh, sau là chia cho hương ẩm liờn hoan cựng hưởng" 1.

Sau đú, lễ hội chớnh thức kết thỳc, nhưng hội làng cũn kộo dài tới

tận mười rằm hoặc mười sỏu thỏng 8 mới kết thỳc 2.

1 Trịnh Minh Hiờn- Hội chọi trõu Đồ Sơn- Tạp chớ VHNT số 3/1990, tr 35-38.

2 Phạm Lợi cũn viết rằng, vào chiều ngày 16-8, cú lễ tống thần, gió đỏm, kết thỳc hội. Nghi

lễ được thực hiện ở biển (trước) hoặc cỏc giếng đỡnh (nay) bằng cỏch cỏc hương sư hai tay

bờ đĩa mao tiết hụ to hai ba tiếng, vỏi ba vỏi và hất xuống nước trong bối cảnh khụng được

ai đi lại ngoài đường để cản trở thành hoàng về Nghố (xem Phạm Lợi - T/c đó dẫn, tr.20).

Page 258: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

321

Lễ hội chọi trõu là một lễ hội làng (tổng, vựng) cú tớnh chất tổng

thể nguyờn hợp với sự chồng xếp lờn nhau của nhiều lớp văn hoỏ cần

được tiếp tục giải mó. Dự sao, cú thể thấy, đõy là một tập tục lõu đời của

người Việt, khụng chỉ bộc lộ dấu vết nghi lễ hiến sinh cho thuỷ thần để cầu bỡnh an, cầu nhõn khang vật thịnh, cầu súng yờn bể lặng, được mựa

tụm cỏ... mà cũn là sự biểu dương sức mạnh của con người, sự trỡnh bày

cỏch thức hoà nhập và dần dần chinh phục tự nhiờn của cư dõn ven biển

Đồ Sơn; là cỏch thức tự làm phong phỳ đời sống tinh thần, tõm linh của

mỡnh trờn một nền tảng nghi lễ-huyền thoại... Dự gỡ đi nữa, lễ hội chọi

trõu Đồ Sơn đó bảo toàn được nghi lễ hiến sinh cổ xưa của loài người 1.

Và từ xưa đến nay, trong tõm thức khỏch gần xa, mỗi khi đến kỳ, thỡ dự

"buụn đõu, bỏn đõu", họ cũng khụng thể quờn rủ nhau về miền biển Đồ Sơn quyến rũ để...chọi trõu ./.

S.P

1 Xem thờm Lễ hội cổ truyền , Sđd, tr 298.

Page 259: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

323

Lễ hội Đền Chiêu Trưng

ThảoNnguyên

Lê Khôi, thụy là Võ Mục, con ông Lê Trừ, anh thứ hai của Lê Lợi.

Cha mẹ mất sớm, Lê Khôi ở với chú là Lê Lợi, tham gia nghĩa quân Lam

Sơn từ ngày đầu khởi nghĩa đến lúc kháng chiến chống Minh thành công.

Ông từng tham gia hội thề Lũng Nhai và có tên trong 35 công thần khởi

nghĩa. Ông tham gia dự nhiều chiến dịch, lập nhiều công lớn. Sau kháng

chiến thắng lợi, ông làm quan trải ba triều: Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, lên đến chức Khâm sai tiết chế thuỷ bộ Lục dinh, Hộ vệ

thượng tướng quân. Năm 1443, ông được phái vào làm tổng trấn Hoan

châu (Nghệ Tĩnh). ở đây ông chú trọng phát triển nông nghiệp, đào kênh,

đắp đập, khai hoang lập làng. Năm Đại Hoà thứ 3 (1446), phụng mệnh

vua Nhân Tông, ông cùng Nguyễn Chích, Nguyễn Xí (Đại Việt sử ký

toàn thư chép là Lê Thu, Lê Khả, Lê Khắc Phục) đi đánh Chiêm Thành ở

châu Thuận Hoá, bắt được chúa Chiêm là Bí Cai. Trên đường trở về, bị bệnh nặng, ngày 3-5 bính dần, đoàn chiến thuyền về đến cửa Sót, chân

núi Nam Giới thì ông mất. Triều đình làm quốc tang, thi hài ông an táng

ở núi Long Ngâm và cho lập đền thờ ông ở đây, hàng năm quốc tế, truy

phong Nhập nội kiểm hiệu tư không. Năm Quang Thuận thứ tư (1463),

Lê Thánh Tông ngự giá thăm đền, viếng mộ, ngự chế bài thơ quốc âm để

vịnh, sắc cho Đô Uý Bảng nhãn Nguyễn Như Đỗ soạn bia dựng tại đền.

Năm Hồng Đức thứ 18 (1487) lại phong Chiêu Trưng đại vương. Đời Lê

Thần Tôn, năm tân tỵ, quan Hữu ty xin lập một đền mới ở thôn Nguyễn Phúc, xã Triều Khẩu, huyện Hưng Nguyên (Nghệ An) để tiện việc tế tự.

Đền ở cửa Sót giao lại cho ba xã Mai Phụ, Vĩnh Tuy và Kim Đôi trông

nom, phụng thờ.

Đền Chiêu Trưng còn gọi là đền Võ Mục, thuộc xã Kim Đôi nay

thuộc địa phận xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Đền dựng

ở trên núi Long Ngâm, ngọn núi cuối cùng của dãy Nam Giới.

Đền Chiêu Trưng được xây dựng theo kiểu tiền miếu hậu lăng, phía

sau là lăng mộ Chiêu Trưng đại vương, phía trước là đền thờ, gồm ba toà, thượng, trung và hạ điện. Đền điện dựng xong vào năm Đinh Mão

(1447), một năm sau khi Lê Khôi mất. Mặc dù trải nhiều gió bão, qua

nhiều lần trùng tu, nhưng đền Chiêu Trưng cơ bản vẫn giữ được phong

Page 260: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

324

cách kiến trúc cổ truyền. Đền Chiêu Trưng đẹp cả về quy hoạch kiến trúc

lẫn trang trí nghệ thuật.

Các mảng chạm trổ ở đền Chiêu Trưng, nhất là ở trung điện hết sức

điêu luyện, tinh tế. Ngoài các đề tài bát tiên quá sơn, bát tiên quá hải, tứ linh, bát bảo quen thuộc còn có nhiều đề tài khác mang đậm chất dân

gian như nữ công đánh đàn nguyệt, nữ công thổi sáo, vũ nữ, các hình con

giống như voi, hươu. Đáng chú ý là ở trung điện còn có tượng hai võ sĩ

Chàm (phải chăng đây là một dấu hiệu của giao lưu văn hoá Việt Chàm

trước đây). Đền Chiêu Trưng là một trong bốn ngôi đền đẹp nhất ở xứ

Nghệ:

Đền Cờn, đền Quả, Bạch Mã, Chiêu Trưng.

Ngoài đền chính ở núi Long Ngâm, cả ba xã Vĩnh Tuy, Mai Phụ, Kim Đôi đều có đền thờ vọng.

Hàng năm đền Chiêu Trưng có hai lễ chính. Lễ thưởng xuân vào

ngày 4 tháng giêng và hội đền vào các ngày 2 và 3 tháng 5 âm lịch.

Lễ thưởng xuân: Vào khoảng giờ thìn (7-9 giờ), các xã Vĩnh Tuy,

Kim Đôi bắt đầu tổ chức đám rước về đền vọng ở xã Mai Phụ. Sau đó

hình thành các đám rước bằng hầu hết thuyền của cả ba xã về đền chính.

Sau khi đoàn thuyền đến cách đền chính khoảng 500 m thì toàn bộ đoàn

rước và những người dự lễ dừng lại và đám rước đi bộ về đền. Vào khoảng bắt đầu giờ ngọ (11 giờ) thì lễ tế được tiến hành. Lễ tế kéo dài

khoảng 2 giờ bao gồm 3 tuần tế. Sau khi tế xong, dân các xã lại rước kiệu

về đền vọng xã mình. Lễ thưởng xuân khá đông người tham gia. Ngoài

dân của ba xã còn có dân của nhiều xã, nhiều vùng tới hành lễ, du xuân.

Lễ thưởng xuân ngoài ý nghĩa tưởng nhớ công đức của Chiêu Trưng đại

vương Lê Khôi, đây còn là dịp du xuân đầu năm mới của dân trong vùng,

dịp gặp gỡ đầu năm của mọi người, nhất là thế hệ trẻ. Có thể nói đây là một hình thức hội xuân của nhân dân vùng cửa Sót.

Hội đền Chiêu Trưng đại vương được tiến hành vào dịp giỗ ông

hàng năm (2-3/5 âm lịch). Vào chiều hoặc tối ngày 1-5 ở vùng này

thường có một trận mưa dông. Dân trong vùng bảo đó là mưa “dội

tượng”, mưa “rửa đền” để chuẩn bị cho ngày hội đền. Thực ra, cũng vào

khoảng thời gian này người ta tiến hành lễ mộc dục, lau chùi tượng

Chiêu Trưng đại vương (ở đền có pho tượng Lê Khôi được tạc bằng gỗ

trầm hương khá đẹp).

Từ giờ ngọ ngày 2/5, dân các xã Kim Đôi, Vĩnh Tuy bắt đầu tiến

hành rước kiệu (đựng bát hương, đồ ngũ sự), tàn, lọng, cờ và đồ tế khí từ

Page 261: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

325

đền vọng xã mình về đền vọng xã Mai Phụ. Cũng như lễ thưởng xuân

vào dịp đầu năm, đoàn rước của ba xã hợp thành một đoàn rước từ đền

vọng xã Mai Phụ (ở sát bờ sông Sót) về đền chính. Bắt đầu từ ngày mồng

1, hầu hết dân của ba xã đã nghỉ việc làm ăn để dự hội, vì thế đám rước rất đông. Hàng trăm chiếc thuyền có trang trí cờ hoa tham gia rước. Con

gái mặc áo tứ thân, đầu chít khăn mỏ quạ ở phía trong, ngoài còn có một

lớp khăn bọc. Nam giới mặc quần áo nâu có chỉ nẹp, đội nón gỗ sơn (gỗ

gõ ghép thành nón, phết sơn ta). Con gái đội mâm ngũ sự, đàn ông và

thanh niên trai tráng gánh kiệu và mang đồ tế khí, trong đó có hai thanh

niên mang kiếm ngũ sự, những người có tang không được tham gia đợt

rước kiệu. Trong đoàn rước còn có phường bát âm cử nhạc lễ. Thuyền

của dân các làng lân cận, của ngư dân các nơi (thường ra vào cửa Sót) cũng tham gia đoàn rước. Ngoài ra còn có đoàn thuyền rồng tham gia

cuộc thi bơi cũng diễu hành cùng đám rước. Sau khi về đền, bắt đầu làm

lễ yết. Buổi tối mồng 2, dân chúng và khách thập phương ở lại đền rất

đông. Tại đây, họ vừa dâng hương nhân ngày giỗ Đại Vương đồng thời

có dịp du ngoạn cảnh sơn thủy (núi Long Ngâm ở sát cửa sông, một mặt

là biển, cảnh hết sức hữu tình). Ban đêm trên núi dưới sông, dưới biển

đèn sáng lung linh. Khi bắt đầu về khuya, trai thanh nữ tú bắt đầu tổ

chức hát ví dặm. Có nhiều tốp hát khác nhau, trên núi dưới thuyền hát với nhau và các thuyền hát với nhau. Trong lúc đó ở trong đền hương

khói nghi ngút, ánh nến lung linh, những người cao niên, các bà các cô

lại hát các bài chầu văn ca ngợi công đức Chiêu Trưng đại vương. Cả

một vùng Cửa Sót, núi Long Ngâm như không có đêm mồng 2/5 vì hầu

như không có ai ngủ, mọi người bị cuốn hút vào một không khí hội hè

đầy sinh động.

Ngày 3/5, khoảng giờ tỵ, bắt đầu cử hành lễ tế. Lễ vật có hương hoa, xôi, gà, rượu do dân ba xã dâng cúng. Tiến hành lễ tế gồm có một

người điều hành gọi là điểu; một chủ tế (đại mạnh), chủ tế phải là người

cao tuổi, vợ chồng song toàn, gia thất yên ấm, do ba xã luân phiên cử ra;

2 bồi tế, 1 đọc văn, 1 tiểu hưu (đánh mèn- một loại nhạc cụ để điều hành

lễ), 1 tiểu cổ (đánh trống con), 1 đại cổ (đánh trống lớn), 1 đại chinh

(đánh chiêng); 1 thượng hương (đưa hương cho chủ tế); 3 tiến tửu (tiến

rượu- sở dĩ 3 người vì đền có 3 toà).

Lễ tiến hành 3 tuần tế, kéo dài khoảng 2 giờ. Sau đó, dân làng và khách thập phương dâng hương ở lăng mộ Đại vương.

Sau lễ tế là hội chèo giải- hội thi bơi thuyền. Cuộc thi thuyền được

tiến hành ở ngay cửa Sót, phía trước đền. Tham gia cuộc thi không chỉ có

Page 262: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

326

dân 3 xã mà còn có cả các làng, xã lân cận. Số thuyền tham gia không ấn

định. Nhiều ít tuỳ năm, nhưng năm ít nhất cũng có tới vài chục thuyền.

Thuyền dự hội neo chật cửa sông. Trên bờ, dưới chân đền hàng vạn

người đứng xem và cổ vũ.

Thuyền thi được trang trí kiểu thuyền rồng, mỗi thuyền có 17

người, 14 tay chèo, 1 người cầm lái, 1 người chỉ huy, 1 người bắt nhịp.

Các tay chèo đóng khố, mình trần. Người ta thả 2 chiếc phao có cắm cờ

tiêu cách nhau khoảng 700-800 mét để giới hạn đường bơi. Các thuyền

thi phải bơi 3 vòng qua quãng sông giữa 2 điểm này. Thuyền nào về

trước là thắng và giật giải. Những năm có nhiều thuyền thi, phải tổ chức

thành 2-3 tốp để thi. Khi đoàn thuyền bơi, cả người thi lẫn người xem, cổ

vũ thường hò động viên:

“Mấy khi ba xã hội đồng

Trên phụng nghi Đức thánh, dưới thuyền rồng chèo bơi.

Dô hò! là hò dô hò...”

Qua khảo sát, cho thấy, hội thi chèo giải này là một hình thức sinh

hoạt văn nghệ thể thao của dân ba xã vùng biển này. Thứ nữa, Lê Khôi

về đến cửa Sót là đi bằng đường biển từ Thuận Hoá ra. Vì vậy, nhân

ngày giỗ của ông, nhân dân cửa Sót đã tổ chức cuộc thi này nhằm diễn tả

lại chiến tích của ông.

Do nhiều biến động lịch sử, từ khoảng những năm 1940-1980, hội

đền Chiêu Trưng không được tổ chức với quy mô và hình thức cũ. Từ

năm 1981 trở lại nay, huyện Thạch Hà và hai xã Kim Đôi, Mai Phụ (xã

Vĩnh Tuy sáp nhập với xã Mai Phụ thành xã Thạch Bắc, nay đổi thành xã

Mai Phụ) đã tiến hành tôn tạo, sửa chữa đền và phục hồi đền Chiêu

Trưng. Các nghi lễ, cách thức tổ chức cơ bản phục hồi theo hội xưa. Tuy

vậy, hội hàng năm hiện nay đã bổ sung thêm một số hình thức sinh hoạt văn hoá khác như giới thiệu nhân vật lịch sử Lê Khôi và giá trị kiến trúc,

nghệ thuật của ngôi đền, rồi biểu diễn văn nghệ, chiếu phim vào các tối

mồng 1, mồng 2/5: ngoài thi bơi thuyền rồng còn có thêm thi bơi thuyền

thúng, đấu bóng chuyền bãi biển... ở Hà Tĩnh hiện nay đã phục hồi lại

một số lễ hội nhưng hội đền Chiêu Trưng cùng với hội chùa Hương là có

quy mô nhất, khai thác được nhiều yếu tố hội lễ truyền thống nhất. Việc

tổ chức và đưa các hình thức mới vào lễ hội cơ bản phù hợp với nghi lễ

truyền thống, đặc điểm tập quán sinh hoạt của dân cư. Thêm một điều đáng nói là ở đây phục hồi (có cải tiến, bổ sung) hội lễ truyền thống mà

hầu như không có các biểu hiện của hoạt động mê tín dị đoan. Hội đền

Page 263: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

327

Chiêu Trưng ngày nay thực sự là một sinh hoạt văn hoá tinh thần bổ ích,

nó không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh mà thực sự là

ngày hội tưởng nhớ đến các vị tiền bối có công với dân với nước, rất cần

thiết để góp phần giáo dục truyền thống yêu nước cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ./.

T.N

Page 264: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

328

Hội chợ làng Chuông

PhượngVũ

Làng Chuông là tên nôm của xã Phương Trung, huyện Thanh Oai,

tỉnh Hà Tây.

Xã Phương Trung có 7 thôn hợp lại thành một làng, như thế đủ biết

làng Chuông thuộc loại làng lớn ở trong vùng.

Làng Chuông nổi tiếng về nghề làm nón. Nón Chuông đẹp dáng lại

bền, từng là kỷ vật tạo ra vẻ dịu dàng của bao cô gái bước lên xe hoa về

làm dâu nhà chồng. Cả xứ Bắc Kỳ không mấy nơi là không biết tới nón làng Chuông.

Làng Chuông không chỉ nổi danh nghề nón mà từ xa xưa đã nức

tiếng về hội chợ nữa.

Hội chợ làng Chuông tổ chức vào ngày mồng mười tháng giêng là

hội chợ lớn nhất của tỉnh Hà Đông cũ. Sự khao khát muốn đi chợ

Chuông của cô con gái được bà mẹ cảm thông đồng tình, thể hiện qua

đoạn ca dao lưu truyền phổ biến trong vùng:

Mồng chín ta chả đi đâu

ở nhà têm trầu mồng mười chợ Chuông

Bố đánh thì mẹ lại nuông

Dù cho chớ bỏ chợ Chuông mồng mười

Bố đánh thì mẹ lại cười

Dù cho chớ bỏ mồng mười chợ Chuông

Cớ sao mà hội chợ Chuông lại hấp dẫn cô gái đến vậy?

Ngược trở lại cội nguồn của lịch sử chúng ta biết rằng, xa xưa chợ không thuần túy là nơi trao đổi hàng hóa, chợ còn là nơi qui tụ và diễn ra

các sinh hoạt văn hóa ở trong vùng. Điều này còn tồn tại ở nhiều chợ

phiên trên các vùng núi cao. Yếu tố trao đổi hàng hóa và yếu tố giao lưu

tình cảm song song tồn tại. Một khi đã gọi là hội chợ thì các yếu tố văn

hóa ở trong chợ cũng nổi trội hơn.

Điều này càng chứng tỏ qua việc xem xét lịch chợ diễn ra ở trong

vùng nửa đầu tháng giêng. Chúng ta thấy chợ Chuông không phải là chợ

Page 265: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

329

họp sớm. Trước đó hai ngày có phiên chợ Đình ở thị trấn Vân Đình,

nhưng chợ Đình lại không được gọi là hội chợ.

Dân chúng đã giải thích tính chất hội ở chợ Chuông bằng một câu

ca dao rất ngắn gọn:

Mồng mười đi chợ Chuông chơi

Xem đánh cờ người xem thổi cơm thi.

Rõ ràng câu ca dao trên đã phản ánh chợ Chuông mồng mười chỉ là

nơi để du khách đi "chơi". Điều người ta quan tâm là đến chợ để xem hai

trò diễn mang tính văn hóa độc đáo là đánh cờ nghệ thuật và thổi cơm

thi.

Đánh cờ người ở chợ Chuông được tổ chức ngay trước cửa đình

trên khu đất họp chợ. Đánh cờ người thực hiện tài trí của con người.

Cuộc đấu trí giàu tính văn hóa giữa hai đối thủ trên một bàn cờ tướng mà

các quân cờ đều bằng người thật. Một bên 16 quân cờ là nam giới ăn mặc

sang trọng, phía trước áo in chữ Hán thể hiện chức năng của quân cờ đó.

Bên kia, 16 quân cờ do nữ giới sắm vai. Riêng tướng ông và tướng bà

của hai bên được ngồi trên ghế có lọng che, người sắm vai quân cờ khác

phải đứng. Tục truyền người làm tướng ông, tướng bà ngồi trên ghế ở bàn cờ được làng chọn lựa rất kỹ càng, vừa đẹp về hình thức lại phải ăn ở

phúc đức, trong năm gia tộc không có vận áo xám (việc tang). Sau cuộc

thi đánh cờ người, các vị tướng ông, tướng bà sẽ mời quân cờ về nhà mở

tiệc cau trầu chè nước. Gia chủ hãnh diện được làng chọn vào vị trí

tướng cờ năm đó.

Du khách tới hội chợ Chuông là dịp xem những trai thanh nữ tú của

đất Phương Trung phô bày vẻ đẹp trên bàn cờ tướng. Đánh cờ người âu cũng là một nghệ thuật chơi cao cấp của cha ông ta được cả cộng đồng

làng hưởng ứng.

Tục thổi cơm thi ở hội chợ Chuông giành cho cả hai phái

nam và nữ. Đây là một trò diễn thi tài nấu nướng. Các cô gái của làng

ứng thí sẽ đứng vào một vòng tròn vôi đường kính khoảng 1,5m, có 1

đứa trẻ chừng 6, 7 tháng không phải con mình đẻ ra, và 1 con cóc cùng

các đồ nấu nướng. Các cô phải lấy lửa từ bùi nhùi rơm, tước mía làm củi,

nhóm bếp trông trẻ con không khóc, trông con cóc không cho nhảy ra ngoài vạch vôi. Theo một số cụ già địa phương, thì:

Hình thức vẽ một vòng tròn bằng vôi trắng là tượng cho trời, con

cóc là cậu ông trời, tượng cho mưa (trên trống đồng có nhiều cóc đã

Page 266: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

330

mang nghĩa này). Giữ cóc trong vòng tròn được đồng nhất với ý thức cầu

mưa, cầu một dòng sinh lực cho cây trồng, đảm bảo nguồn hạnh phúc. Trước đây, người con gái đi dự nấu cơm thi còn phải ăn chay và khi nấu

không được nói cười, phải chăng để đồng nhất với bà mẹ Đất. Các cô gái

vất vả vượt qua những điều kiện làng đặt ra còn để thử thách sự nhanh

nhẹn, tháo vát của con cô gái làng Chuông. Nồi cơm của cô nào chín

trước, dẻo ngon sẽ được làng thưởng.

Tục thổi cơm thi giành cho nam giới xưa tổ chức trên một cái đầm

cạnh chợ. Chàng trai dự thi mỗi người ngồi trên một thuyền nan câu,

trong lòng thuyền chứa sẵn gạo, nước, củi, bùi nhùi giữ lửa. Khi có hiệu lệnh của các bô lão, các chàng trai bơi tay đưa thuyền từ bờ bên kia sang

bờ bên này. Trong thời gian đó dẫu là tay ướt cũng phải tìm cách lấy lửa,

nhóm bếp, vo gạo nấu cơm. Mọi việc diễn ra trên chiếc thuyền câu vừa

bơi vừa nấu cơm thật khó. Làm sao giữ thuyền không chòng chành, bơi

tiến về đích và nấu cho kịp nồi cơm thơm ngon. Đây cũng là một thử

thách đối với các chàng trai làng Chuông.

Cũng cần lưu ý là đằng sau sự đi chơi chợ, xem trò, bản thân mỗi

người đến hội đều có một nhu cầu giao lưu tình cảm. Chẳng phải đương nhiên mà cô gái lại:

Mồng chín ta chẳng đi đâu

ở nhà sắm sửa trầu cau mồng mười.

Các cô gái xưa ở trong vùng chuẩn bị đi hội chợ Chuông là như vậy

đó. Mỗi cô đều bọc theo một túi trầu cau. Miếng trầu là đầu câu chuyện.

Miếng trầu nên nghĩa nên tình. Gặp nhau ở giữa chợ mở gói trầu ra mời

bạn bè miếng trầu do chính tay cô gái têm, hẳn là trong số các bạn nhận trầu có người bạn trai mà cô gái đem lòng thương nhớ, sau đó họ nên

nghĩa vợ chồng. Trong bối cảnh xã hội phong kiến ngày xưa trói buộc

người con gái vào khuôn phép gia đình, bố mẹ đặt đâu con ngồi đó thì

khát vọng của cô gái được têm trầu đi chơi chợ, giao thiệp rộng rãi với

bạn bè mới chính đáng làm sao. Và, chỉ có người mẹ mới hiểu hết tâm

trạng sâu kín của con gái mình.

Hội chợ Chuông thực chất là ngày hội sinh hoạt văn hóa nông

nghiệp của một vùng đất. Văn hóa làng nghề cũng nhân dịp này thể hiện trong ngày hội chợ.

Trong tuần đầu của tháng đầu năm "tháng giêng là tháng ăn chơi"

ấy thì mồng mười tháng giêng có ý nghĩa khép lại ngày cuối của kỳ

thượng tuần (từ mồng một đến mồng mười) chuyển sang kỳ trung tuần

Page 267: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

331

(từ 11 đến 20); cũng có ý nghĩa là khép lại một tuần chơi đón mừng

xuân mới (sau này chu kỳ tuần rút ngắn còn 7 ngày, nên ngày mồng 7 tết là ngày hạ nêu, bắt đầu làm đồng, lịch người Mường ngày lùi tháng tiến

nên ngày động thổ, mở cửa rừng là ngày mồng 6 tết), để bước vào tuần

thứ hai con người chú tâm vào việc làm ăn mưu sinh. Do vậy, hội chợ

Chuông còn thêm ý nghĩa nữa là hội chợ mua bán lấy may giành cho

những người làm nông nghiệp kiêm thủ công. Người làng Chuông có

nghề cổ truyền làm nón, từ rất xa xưa họ đã làm các loại nón đội đầu,

trong đó phổ biến nón thúng quai thao, sau năm 1930 mới chuyển sang

làm nón Xuân Kiều hay còn gọi là nón Ba Đồn như ngày nay. Nghề làm nón là nghề thích hợp với nữ giới và nữ giới cũng là đối tượng chính

mua nón. Chính vì lẽ đó, hội chợ Chuông thu hút rất đông các bà, các cô

tới chợ. Ngày nay con gái làng Chuông mang nón ra chợ bán lấy phước,

đắt rẻ không thành vấn đề miễn là có người mau mồm miệng chân tay

mua cho mình. Còn các cô gái trong vùng về hội chợ cuối buổi thường là

mua về cho mình một chiếc nón mới coi đó như là kỷ vật của ngày đi hội

mà xưa kia rất hiếm hoi các cô mới có một ngày thư thái được cha mẹ

cho đi chơi như thế.

Sau nữa cũng phải nói tới không gian làng Chuông mở hội chợ.

Làng Chuông họp chợ ngay trước cửa đình và chùa. Đình Phương Trung

sau nhiều lần tu sửa được xây dựng to đẹp vào cuối thế kỷ XIX. Mặc dù

bị bom đạn quân Pháp hủy hoại nhưng đến nay làng vẫn giữ được nghi

môn hai tầng đăng đối uy nghi, sau nghi môn là đại bái đồ sộ 5 gian

trong bài trí nhiều đồ thờ tự, thuộc loại quí hiếm ở các làng xã trong

vùng.

Đình thờ người anh hùng dân tộc Phùng Hưng, dân ngưỡng kính

gọi là Bố Cái đại vương. Phùng Hưng dẫn binh sĩ từ quê hương ông ở

Đường Lâm theo dòng sông Đáy xuống tới trang Thời Trung (tên xưa

của làng Chuông) thì đóng đồn binh luyện quân sĩ ở đó. Từ làng Chuông,

Phùng Hưng dẫn quân qua Thạch Bích đến làng Triều Khúc (Hà Nội)

đánh thẳng vào thành Tống Bình lật đổ ách thống trị phong kiến nhà

Đường ở thế kỷ VII giành quyền tự chủ cho đất nước.

Sau này dân làng nhớ ơn lập đền thờ và tôn Phùng Hưng làm thành hoàng của làng. Làng mở hội tưởng niệm Phùng Hưng vào ngày mồng

mười tháng ba, có quốc tế, và ngày 25 tháng mười, làm lễ tế cờ ăn mừng

chiến thắng của quân sĩ Phùng Hưng hạ được thành Tống Bình.

Kề liền đình là chùa Phương Trung. Đó là một chùa cổ, kiến trúc

kiểu chữ đinh ( ) với hệ thống tượng phật trên 100 pho. Điều đáng lưu

Page 268: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

332

ý là chùa Phương Trung bài trí hệ thống tượng thờ theo kiểu "Tiền thần

hậu phật". Phía trước Phật đài, nhà chùa đặt vị trí trang trọng thờ tướng Đỗ Huệ và công chúa Phương Dung. Truyền rằng, Đỗ Huệ người làng

Chuông đã dẫn 50 trai tráng của làng trong đó có các con trai và người

trong họ gia nhập đoàn quân của Phùng Hưng tham gia đánh thành Tống

Bình, Phùng Hưng phong Đỗ Huệ làm tướng chỉ huy. Còn công chúa

Phương Dung là vợ của Phùng Hưng, bà đã "xuất gia tòng đạo phật"

chọn đất Phương Trung xây dựng chùa chiền, mở mang cõi phật. Sau

ngày bà mất dân làng gọi bà là Đức Thánh Bà và thờ ở chùa.

Điều đáng nói là hội chợ ở cạnh một ngôi chùa cổ thờ Phật nên xuất hiện một tầng văn hóa sâu hơn cái ta thường thấy ấy là hội chợ

Chuông phảng phất tín ngưỡng hội chùa. Đi hội chợ Chuông du khách

vừa tham gia sinh hoạt chợ búa vừa đồng nghĩa với việc hành hương

vãng cảnh chợ Chuông và đi lễ Phật.

Hội chợ lại ở cạnh một ngôi đình cổ thờ vị anh hùng dân tộc lừng

danh Phùng Hưng Bố Cái đại vương, cho nên đi hội chợ Chuông cũng là

dịp để nhân dân bày tỏ lòng tôn kính với vị anh hùng dân tộc.Chắc hẳn

có một số rất đông du khách sẽ vào thăm viếng mái đình cây đa làng Chuông và thành kính thắp nén nhang tưởng niệm vị thành hoàng làng.

Có thể nói, hội chợ Chuông là sự hỗn dung rất nhiều lớp văn hóa

trong tiến trình phát triển của lịch sử. Những trầm tích của văn hóa chùa

chiền, của tín ngưỡng thành hoàng làng, của các sinh hoạt gắn liền với

nền nông nghiệp trồng lúa nước và những biểu hiện của văn hóa nghề, tất

cả tạo thành một tổng thể hòa quyện vào nhau vì thế hội chợ Chuông có

sức sống lâu dài trong tâm trí nhân dân và đang có cơ hội thực thi trong đời sống xã hội hiện đại./.

P.V.

Page 269: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

334

Hội Đền Chử Đồng Tử

Nguyễn Minh San - Nguyễn Chí Bền

Đa Hòa là tên làng, xưa thuộc tổng Mễ Sở huyện Đông An tỉnh

Hưng Yên,nay thuộc xã Bình Minh huyện Châu Giang, tỉnh Hưng Yên.

Từ Hà Nội, du khách có thể xuôi dòng sông Hồng chừng 20 km, tới

bãi Tự Nhiên, bến Bình Minh hoặc có thể đi đường bộ, qua cầu Chương

Dương rẽ phải, theo đường đê chừng 25 km là tới nơi (đi bằng ôtô hay xe

máy, xe đạp rất thuận tiện).

Khách thập phương tới đây không chỉ để đứng trên con đê sông Hồng thưởng ngoạn một vùng quê với những con đường lát bê tông tới

tận cổng từng ngôi nhà của nhân dân đã ngói hóa, ngắm nhìn một dải phù

sa chạy tít tắp theo triền đê sông Hồng từ lâu đã là nơi trồng cây dược

liệu quí như địa tiền, bạc hà, sinh địa, ngưu tất, bạch truật... mà để được

đắm mình trong chốn Bồng lai tiên cảnh của đền Chử Đồng Tử ở thôn

Đa Hòa và dâng hương bái vọng ở chính nơi thờ đức thánh Chử Đồng Tử

- người đã được nhân dân bao đời nay tôn là một trong Tứ Bất Tử của

thần linh Việt cùng nhị vị phu nhân tên là Tiên Dung công chúa, con gái Vua Hùng thứ 18 được phong tặng là Thượng tôn thần đẳng thiên tiên

tôn thần và Tây Sa công chúa được phong tặng là Nội trạch Tây cung

công chúa huyền diệu tôn thần.

Đã hàng ngàn năm nay, người ta truyền rằng: Vua Hùng thứ 18 có

người con gái tên là Tiên Dung. Năm mười tám tuổi, nhan sắc tuyệt trần,

nhưng nàng không có ý định lấy chồng, chỉ thích du ngoạn những nơi

danh lam thắng cảnh của đất nước. Vua cha chiều con, để cho nàng thỏa chí. Bấy giờ tại làng Chử Xá (nay thuộc huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà

Nội) có ông Chử Cù Vân, vợ là Bùi Thị Gia chẳng may mất sớm, để lại

cảnh gà trống nuôi con. Một ngày nọ, hỏa hoạn thiêu cháy toàn bộ gia

sản, hai cha con chỉ còn độc một cái khố vải. Vì thế, chỉ khi ai đi đâu,

mới dùng khố. Một ngày kia, người cha ốm nặng, trước khi chết dặn con

rằng: "Khi nào cha chết, con cứ chôn mình trần, giữ cái khố mà mặc".

Người cha qua đời, Chử Đồng Tử không đang tâm để cha thân trần, lấy

khố quấn cho cha trước khi chôn. Còn mình, đành mình trần chịu rét và đói. Hàng ngày, chàng ra bờ sông, cho nước ngập tới nửa người để che

Page 270: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

335

phần dưới trần trụi, đợi các thuyền buôn qua lại để xin bố thí, hoặc bán

vài con cá mà chàng bắt được. Một hôm, công chúa Tiên Dung du ngoạn đến bến sông nơi Chử Đồng Tử đang sinh sống. Cồng chiêng nổi lên, đàn

sáo hòa nhịp, cờ lọng rợp trời, tùy tùng hộ tống nàng đông đảo. Chử

Đồng Tử thấy thế sợ quá, chạy trốn lên một bãi cát lúp xúp những bụi

cây. Chàng bới một cái hố, vùi mình xuống cát. Nàng công chúa dừng lại

chính nơi đó. Thấy cảnh tươi đẹp, trên đầu có một vầng mây ngũ sắc,

nàng bước đến mô cát để ngắm cảnh rõ hơn. Cảm thấy là nơi sạch sẽ,

nàng quyết định tắm mát. Thế là màn được che lên bốn phía, cho Tiên

Dung ở trong đó. Trút bỏ xiêm y, nàng dội nước lên tấm thân ngọc ngà và ngất ngây thưởng thức sự dịu mát do dòng nước đem lại. Nước chảy

làm trôi cát đi để lộ ra thân hình cường tráng của Chử Đồng Tử. Giữa

cảnh thanh thiên bạch nhật, nàng công chúa đang độ trăng tròn, trong

như ngọc, trắng như ngà với chàng trai phơi phới tuổi xuân. Cả hai đều ở

trong tư thế tự nhiên lúc lọt lòng. Công chúa bàng hoàng, xấu hổ, lo sợ

hỏi rằng: "Người là ai, sao lại ở chốn này?" Chử Đồng Tử kể lại với nàng

về cuộc đời khổ cực của mình. Nghe xong, công chúa cảm động mà rằng:

- "Ta nguyện không lấy chồng, nhưng nay cơ sự thế này, chắc là nguyệt lão muốn xe duyên cho chúng ta". Nói xong, nàng sai người lấy

quần áo rồi mời chàng lên thuyền mở tiệc vui. Đồng Tử không dám chấp

nhận cuộc hôn nhân, Tiên Dung bảo: "Chúng ta gặp nhau như thế là do ý

trời, sao dám cưỡng lại?". Chàng đành phải thuận. Chuyện đến tai vua

Hùng. Hùng Vương nổi cơn thịnh nộ: " - Tiên Dung không biết trọng

danh giá. Nó đi lang thang để lấy một đứa cùng đinh, còn mặt mũi nào để

nhìn thấy ta nữa".

Tiên Dung sợ không dám trở về, ở lại cùng chồng mở một hiệu

buôn. Vùng đó ngày càng thịnh vượng, dân cư tập trung đông đúc, dần

dần trở thành một cái chợ lớn là chợ Thám (hay chợ Hà Lương, nay là

chợ Đa Hòa). Khách buôn ngoại quốc đều xem nàng như người đứng đầu

trong vùng. Có một nhà buôn khuyên Chử Đồng Tử nên đi các vùng biển

xa làm ăn buôn bán. Đồng Tử đi theo.

Tới vùng Quỳnh Lãng, chàng trèo lên ngắm cảnh và vào thăm một

chiếc am sơ sài dựng tít trên đỉnh núi. Thấy Đồng Tử có dáng người tiên cốt, nhà sư bèn truyền cho đạo pháp. Chử Đồng Tử nhận ở lại học đạo,

sau một năm mới về. Phật Quang (có tài liệu ghi là Ngưỡng Quang) cho

chàng một cái gậy, một cái nón và dặn: "Những quyền phép mầu nhiệm

ở cả trong gậy và nón này". Đồng Tử nhận quà và cáo biệt. Về nhà,

chàng truyền đạo cho vợ. Tiên Dung giác ngộ, bỏ nghề buôn bán. Hai vợ

Page 271: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

336

chồng lại cùng nhau đi học đạo. Một ngày kia, đang giữa chặng đường xa

không nhà cửa thì trời tối. Đồng Tử đành cắm chiếc gậy chụp nón lên để trú tạm. Nào ngờ, vào khoảng canh ba thấy hiện lên thành quách lâu đài

bằng đá quí, dát châu báu, giường chạm trổ, màn trướng che dày cùng

tướng sĩ thị vệ, văn võ bá quan như một triều đình riêng. Sớm sau, dân

trong vùng thấy sự lạ, kính cẩn đua nhau mang lễ vật dâng cho cả hai vợ

chồng Chử Đồng Tử.

Tin đồn về kinh đô, vua Hùng cho là Tiên Dung và Chử Đồng Tử

là những kẻ phản loạn. Vua sai đem binh mã đến hỏi tội. Binh lính nhà

vua gần tới nơi, những người thân cận khuyên công chúa cho quân ra chống cự. Tiên Dung mỉm cười nói: "Ta có gây nên cơ sự này đâu. Mọi

việc đều do ý trời cả. Ta sống hay chết cũng nhờ trời. Làm sao ta dám

chống lại vua cha. Nếu cha ta phán quyết, ta cũng cam chịu". Khi binh

lính của nhà vua kéo gần tới nơi, thì trời tối, đành hạ trại đóng quân. Vào

lúc nửa đêm, bỗng nổi lên một trận cuồng phong. Chỉ trong khoảnh khắc,

cả tòa thành cùng người, vật đều bay lên trời. Hôm sau người ta thấy một

dải cát trơ trọi giữa đám đầm lầy mênh mông.

Người đời sau gọi nơi này là bãi Tự Nhiên (nay thuộc địa phận xã Tự Nhiên, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây) và đầm lầy ấy là đầm Nhất

Dạ (đầm được hình thành trong một đêm), hay là đầm Dạ Trạch. Truyền

thuyết ở vùng Khoái Châu cũng do Nguyễn Bính soạn vào thế kỷ XVI

còn có một đoạn nữa 1. Sau khi truyền đạo cho Tiên Dung, hai người đi

chu du, một hôm đến địa đầu Ông Đình thuộc địa phận huyện Đông An,

bỗng gặp một người con gái khoảng 18, 19 tuổi, có nhan sắc tuyệt trần,

người làng Đông Tảo (nay là xã Đông Tảo, huyện Châu Giang, tỉnh Hưng Yên). Tiên Dung bảo chồng: "Người đó có phải chàng định lấy

làm vợ bé chăng?". Đồng Tử mỉm cười, Tiên Dung hiểu ý bèn đến nói

với cô gái rằng: "Nàng là tiên hay là trần? Lang quân ta là người tài mạo

tuyệt vời, nàng làm thiếp cũng thật xứng thay, ta tuy là con vua nhưng

không hề đố kỵ, ta với nàng làm chị em cũng chẳng vui lắm sao". Người

con gái nói: "Tôi chính là tiên nữ Tây Cung, không hẹn mà gặp, do trời

hay do người". Tiên Dung nói: "Do trời thôi", rồi kết làm chị em, đến

chỗ Đồng Tử làm lễ giao kết, mở yến tiệc vui vẻ. Rồi ba người đi vân du. Lúc đó, ở ấp Ông Đình có 5, 6 người chết vì dịch, Đồng Tử dùng gậy chỉ

vào, những người chết liền sống lại, ăn nói như thường. Tây Cung lấy

một tờ giấy trắng viết một chữ nào đó, đốt lên, lấy tàn cho những người

bị bệnh dịch uống, hàng trăm người đều khỏi cả. Già trẻ làng Ông Đình

1 Theo truyền thuyết ở làng Đông Tảo, người con gái này có tên là Ngải Hòa.

Page 272: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

337

kéo đến bái tạ. Rồi Chử Đồng Tử lại dùng gậy, nón hóa phép ra đền miếu

trao cho dân đèn hương về sau. Ba người đi qua các vùng Kim Động, Tiên Lữ đều hóa phép ra lâu đài, nhà cửa như vậy. Sau, cả ba người đều

trở về trời.

Truyền thuyết về mối tình giữa nàng công chúa lá ngọc cành vàng

với một chàng trai nghèo nhưng rất mực hiếu thảo từ lâu đã trở thành

thiên tình sử đẹp nhất trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Chử

Đồng Tử - Tiên Dung - những con người không ham danh vọng, không

màng phú quí vinh hoa, suốt đời chỉ tìm những cái đẹp trong thiên nhiên,

khai phá tạo dựng những bãi bồi phù sa, đã đi vào cõi bất tử.

Đền Đa Hòa đã được Nhà nước xếp hạng vào năm 1962, là di tích

lịch sử văn hóa nổi tiếng. Đây không chỉ là một di tích lưu truyền và lan

tỏa về một thiên tình sử hàng ngàn năm nay mang ý nghĩa nhân văn cao

đẹp mà còn có giá trị đặc biệt về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời

Nguyễn. Đền do tiến sĩ Chu Mạnh Trinh (tự là Cán Thần, hiệu là Trúc

Vân người làng Phú Thị, tổng Mễ Sở, huyện Đông Yên, phủ Khoái

Châu, tỉnh Hưng Yên, nay thuộc huyện Châu Giang tỉnh Hưng Yên)

đứng ra vận động nhân tài vật lực của nhân dân tám thôn tổng Mễ Sở cùng thập phương công đức để xây dựng, tôn tạo năm 1894 trên nền một

ngôi đền cổ. Hiện chưa tìm được tài liệu nào chính xác cho biết ngôi đền

cổ này được xây dựng từ thời gian nào, bằng vật liệu gì, qui mô to nhỏ ra

sao và, điều quan trọng hơn là ngôi đền này thờ ai. Đây là một đề tài hấp

dẫn cho các nhà nghiên cứu văn hóa tín ngưỡng dân tộc khai thác.

Đền Đa Hòa hiện nay là một kiến trúc qui mô lớn, mặt quay hướng

chính Tây, nhìn thẳng sang bãi Tự Nhiên thuộc địa phận huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây mà kế đó, có ngôi đền Ngự Dội để ghi dấu nơi Tiên

Dung dừng thuyền tắm thủa nào.

Tổng thể kiến trúc đền nằm trên một khu đất cao, rộng, bằng

phẳng, hình chữ nhật có tổng diện tích 18.720m2, bao gồm 18 nóc nhà

lớn nhỏ. Con số này là sự gởi gắm ý tưởng của người xây dựng nhằm

nhắc nhở người đời sau nhớ tới thiên tình sử của nàng Tiên Dung vừa

tròn 18 tuổi, diễn ra vào đời Hùng Vương thứ 18.

Di tích được chia làm hai khu. Khu ngoài rộng chừng 7.200m2 không có tường cao, nổi bật là nhà bia cửa trổ ra 4 hướng, 2 tầng 8 mái

cong chịu ảnh hưởng của triết lý dịch học dưới bóng đa cổ thụ, và trước

mênh mông sông nước. Trước cửa phía Tây treo bức đại tự, ba chữ Trấn

Giang Lâu - bút tích của tiến sĩ Chu Mạnh Trinh. Đây là kiến trúc mới,

Page 273: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

338

được xây dựng sát cạnh nền cũ của ngôi nhà bia đã bị thực dân Pháp phá

dỡ. Từ nhà bia giữa hai hàng cây gạo - một loài cây bất tử, cây thiêng, có tuổi đời sánh ngang với tuổi đời của ngôi đền là con đường lát gạch rộng

6m dẫn tới cổng chính vào khuôn viên đền. Tại đây, hai cột trụ vút cao

ngự trên đỉnh là hai con lân quay mặt vào lối đi, ngày đêm canh giữ ngôi

đền. Trên cột trụ có hai câu đối:

Phượng giá hồng sơn kim đỉnh đan thành phong vũ dạ

Hạc qui hoa biểu ngọc tuyết linh bí thủy vân gia.

sẽ hướng tâm hồn du khách vào chốn linh nghiêm.

Con đường lát gạch rộng 8m dưới những tán đa - cũng là một loài cây bất tử, cây thiêng và những vòm nhãn thẳng tới nghi môn. Hai bên

con đường này là nhà chuông và nhà khánh đá. Cả hai nhà có kiến trúc

giống nhà bia. Chuông cao 1,5m, đường kính 0,8m. Khánh dài 1,2m, cao

0,8m. Cả chuông và khánh đều được làm vào thời Nguyễn.

Ngọ môn gồm có 3 cửa. Cửa chính là tòa nhà 3 gian cao, rộng, trên

đỉnh nóc đắp lưỡng long chầu nguyệt, trước cửa có treo bức đại tự lớn 4

chữ nho sơn sơn thếp vàng Bồng lai cung quyết. Cách cửa bằng gỗ lim

thượng song hạ bản, chấn song con tiện chỉ mở vào những ngày đại lễ. Còn hai bên cửa thường xuyên rộng mở đón khách xa gần.

Qua một khoảng sân lớn, lát gạch (sân Đại) là các nhà Đại tế, tòa

Thiên Hương, cung Đệ nhị, cung Đệ Tam và cuối cùng là Hậu cung. Nối

liền các cung, các nóc là hai Thảo xá, hai Thảo bạt, hai nhà ngựa, hai nhà

pháo đối diện nhau qua sân Đại và sân chầu.

Đền Đa Hòa được xây dựng vào đời Nguyễn. Song, kiến trúc nơi

đây có được những nét rất riêng vô cùng độc đáo của nó. Trước hết phải kể đến kiểu dáng nóc của 18 ngôi nhà lớn, nhỏ. Đỉnh của tất cả nóc đều

là hình con thuyền, loại thuyền dùng thi bơi chải mũi cong được đỡ bởi

hai con vật có mặt rồng, mình sư tử (nhân dân địa phương quen gọi là

con vác). Nếu đứng trên cao nhìn xuống sẽ thấy 18 nóc nhà - cái ngang

cái dọc, cái cao, cái thấp như 18 con thuyền đang quần tụ dập dềnh trên

biếc lá. Lúc đó chắc hẳn trong ta sẽ sống động hình ảnh đoàn thuyền của

công chúa Tiên Dung về bến sông này thuở nào.

Nét đặc sắc của nghệ thuật kiến trúc khu đền được dồn cho tòa Thiên Hương. Tòa nhà có kiến trúc cao, thoáng, trang nghiêm. Toàn bộ

phận mái 2 tầng 8 mái cong gửi gắm triết lý dịch học, ngói vẩy cá, đầu

đao cong được đỡ bởi 8 cột gỗ vuông ở 4 góc nhà. Các đấu kê xà ngang,

xà đùi được cách điệu là những con lân mặt hình rồng, mình sư tử. Bụng

Page 274: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

339

các xà ngang, ngay dưới các đấu là các búp sen bằng gỗ chúc xuống như

thể Trời ban hương xuống cho chúng sinh. Những đầu đao, bờ nóc chạm trổ tinh vi, đắp gọt tỉ mỉ, màu sắc rực rỡ. Đập ngay vào mắt ta khi bước

lên thềm tòa nhà này là bức đại tự 3 chữ lớn sơn son thếp vàng Giao

Quang Các (nơi ánh sáng hội tụ), ở trong tòa này có treo đôi câu đối;

nhắc đến một cách cô đọng truyền thuyết về Tiên Dung và Chử Đồng Tử

ở nơi này: Hóa cảnh thị hà niên, Tự nhiên vi châu, Nhất dạ thành trạch.

(Cảnh đẹp được hóa ra bên bờ sông, bãi cát thành châu ngọc, một đêm

thành đầm nước).

Kỳ duyên khoáng thiên cổ, nhân gian phu phụ, thiên thượng thần tiên. (Ngàn năm trước có mối duyên kỳ ngộ, dưới trần gian là vợ chồng,

ở trên đời là thần thánh).

Nghệ thuật điêu khắc ở đây nổi bật là cửa võng ở cung đệ nhị và

các bức y môn viền xung quanh cửa vào Ngọ Môn tòa Thiên Hương và

các cung. Các điêu khắc gỗ này đều được chạm lộng hình chim phượng,

hoa cúc mãn khai và các hoa quả thiêng biểu hiện ước vọng cầu phúc,

được sơn son thếp vàng lộng lẫy. Bộ cửa 12 cánh từ tòa Thiên Hương

vào cung đệ nhị trên chạm lồng hoa lá, hạ bản có vẽ thông, mai, cúc, trúc (tứ quí). Cũng với bàn tay đầy mỹ cảm đã làm nên những tác phẩm

điêu khắc lại dâng tặng những hương án chạm lộng tứ linh, những cỗ

ngai, bài vị và những cỗ kiệu bát cống được chạm khắc, tỉa tót tinh vi.

Các cỗ ngai được chạm thủng tinh xảo, độc đáo với kỹ thuật chạm lộng

bong kênh, các cột ngai chạm rồng quấn quanh. Các tay ngai cũng chạm

hình đầu rồng làm cho ta phảng phất bóng dáng ngai vàng Huế.

Thu hút sự chú ý của khách hành hương là ở các pho tượng, đặc biệt là các pho tượng đức thánh Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân. Tượng

được đúc bằng đồng, mặt tượng được sơn màu da, kẻ mắt. Các pho đều

có độ cao, ngang bằng nhau. Ngồi giữa là pho tượng Chử Đồng Tử đầu

đội mũ có chữ Vương, nét mặt thông minh thuần phác. Nhị vị phu nhân

ngồi hai bên, đầu đội mũ nữ hoàng, khuôn trăng sáng, nhân hậu, hiền

thục. Hiện nay trong đền có 6 pho tượng đặt làm hai hàng cân xứng nhau

đều là tượng Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân. Ba pho không để trong

ngai và làm bằng gỗ. Sở dĩ có thêm ba pho này nữa là vì, trong thời gian thực dân Pháp chiếm đóng vùng này, sau khi phá phách, chúng đã lấy ba

pho tượng bằng đồng đem đi. Nhân dân địa phương đã tạc ba pho bằng

gỗ này giống như những pho bằng đồng đã bị cướp. May là một thời gian

sau, do đấu tranh của nhân dân, chúng đã phải trả tượng lại cho đền, trở

lại vị trí cũ của nó nơi chính điện. Ba pho tượng bằng gỗ kia đã sống

Page 275: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

340

trong tâm linh mọi người vì vậy được giữ lại để tiếp tục cuộc sống của

nó, đồng thời để ghi dấu một thủa nơi đây giặc ngoại xâm đã tàn phá quê hương, phá bỏ chùa chiền.

Toàn bộ kiến trúc trên càng được tôn nghiêm thêm vẻ đẹp cổ kính

bởi nó được nằm trong một không gian thẩm mỹ với sông nước bao la,

cổ thụ bốn mùa xanh tốt. Cây cối nơi đây cũng được chọn lọc để tập

trung vào chủ điểm khẳng định sự bất tử của đức thánh Chử Đồng Tử

cũng như mối tình tuyệt mỹ của Ngài. Đó là những cây do sức sống

mãnh liệt của nó được nhân dân gọi là những cây bất tử các cây thiêng

thường được trồng trong các nơi thờ tự như đa, gạo, si...

Ngoài ra, nó còn được làm đẹp bởi những lời hay, ý đẹp, ca ngợi

cảnh đẹp và tình yêu bất tử của con người toát lên qua mỗi lời, mỗi chữ

của những hoành phi, câu đối của những tao nhân mặc khách mọi thời.

Thực là chốn Bồng Lai tiên cảnh vậy.

Hiện nay di tích còn bảo tồn được nhiều di vật quí, hiếm, trong đó

đặc biệt phải kể đến đôi lọ Bách thọ (một trăm chữ thọ không chữ nào

giống chữ nào viết, khắc trên thành lọ bằng gốm), một cổ vật vô giá của

dân tộc.

ở đền Đa Hòa diện mạo điện thần xưa được bố trí như sau:

Trung tâm điện thần là Hậu cung với ban thờ lớn trên ngự ba pho

trí tuệ đồng trong các cỗ ngai sơn son thếp vàng chạm rồng. Ngồi nơi

chính điện là tượng đức thánh Chử Đồng Tử, bên tả là Tiên Dung, bên

hữu là Tây Sa công chúa. Phía ngoài ban thờ này, hai bên là ban thờ thân

mẫu và thân phụ của Chử Đồng Tử, bà Bùi Thị Gia và ông Chử Cù Vân.

Cùng hướng chính điện, bên ngoài ban thờ đức thánh Chử Đồng Tử là ban thờ Công Đồng. Hai bên tường của gian thờ này, hướng vào trục

chính điện là hai ban thờ Thánh bản thổ. Xưa Đa Hòa là đền hàng tổng

nên trên các ban này có đặt 8 bát nhang, của 8 thôn thuộc tổng Mễ Sở

xưa là Hoàng Trạch, Phú Trạch, Nhạn Tháp, Mễ Sở, Phú Thị, Thiết Trụ,

Bằng Nha, Đa Hòa. Xế ra phía ngoài, ở hai bên tường, hai ban thờ cũng

hướng vào trục chính điện, một bên là ban thờ các quan, một bên là ban

thờ tiến sĩ Chu Mạnh Trinh. Trên ban thờ ông không có tượng, chỉ có

ngai, bên cạnh để một cây đàn tranh ngụ ý nhắc rằng sinh thời ông là người hay thơ, hay nhạc, thích đàn hát.

Tại đây, người dân thập phương đã bao đời hương khói trong niềm

tin tưởng cầu Phúc, Lộc, Sức khỏe mùa màng tươi tốt cho mình và cho

Page 276: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

341

cả đất nước. Việc thờ phụng theo tín ngưỡng dân gian ở đây diễn ra hàng

năm, nhằm những dịp sau (theo âm lịch):

- 4/Giêng là ngày sinh công chúa Tiên Dung.

- Ngày 10/2 ngày sinh nàng Nguyễn (Tây Sa).

- Ngày 1/4 công chúa Tiên Dung về tắm ở bãi Tự Nhiên.

- Ngày 2/5 ngày giỗ quan thành hoàng bản thổ.

- Ngày 12/6 ngày giỗ thân mẫu Chử Đồng Tử.

- Ngày 12/8 là ngày thi cỗ mừng sinh nhật Chử Đồng Tử.

- Ngày 10/10 ngày giỗ thân phụ Chử Đồng Tử .

- Ngày 17/11 ngày Tam vị hóa, tức là ngày Chử Đồng Tử cùng nhị vị phu nhân bay về Trời.

Xưa, thành lệ, cứ 3 năm một lần, đền Đa Hòa mở hội hàng tổng từ

10-15 tháng 3 âm lịch gọi là hội Kỳ Yên (lễ cầu mát). Trong ngày hội,

đoàn rước kiệu của 8 làng đưa thánh bản thổ của làng mình về trình Đức

Thánh và dự hội, làm cho một quãng đê và các ngả đường về đền đông

vui, nhộn nhịp, cờ xí rợp trời. Giã hội, các làng lại rước kiệu làng mình

trở về.

Tiêu biểu và đông vui nhất trong năm tại đền là ngày hội rước nước tổ chức vào tháng Giêng, sau Tết âm lịch. Lễ hội này do nhân dân địa

phương tiến hành, có sự tham dự cộng cảm của các làng lân cận và khách

thập phương. Lễ diễn ra trong ba ngày, thật tưng bừng nào nhiệt, nhất là

vào ngày rước nước. Tất cả dân làng quanh vùng đều tập trung về đền dự

hội. Không những thế, những người con của quê hương sinh cơ lập

nghiệp ở nơi khác hoặc những người đi công tác và làm việc ở nơi xa vào

những ngày này cũng về vui chung cùng bà con dân làng.

Mở đầu hội là lễ khai mạc. Mọi người cùng nhau ôn lại truyền

thuyết về mối thiên duyên Chử Đồng Tử và Tiên Dung công chúa cùng

Tây Sa công chúa. Sau lễ khai mạc là lễ rước nước, tức là lễ lấy và mang

nước ở sông Hồng về đền. Theo tục lệ thì nước dùng trong việc Thánh ở

đền trong cả năm như làm lễ mộc dục (lau tượng), nước cúng phải là

nước được lấy ở giữa dòng sông Hồng. Lực lượng tham gia lễ này gọi là

giai đồ, có tới hàng trăm người, được biên chế thành các đội như: đội tế

nam gồm các vị trung niên trở lên, đội tế nữ gồm các bà trung niên trở lên, đội múa sênh tiền (múa tiên) gồm các thiếu nữ tuổi chừng 13, 14,

ban nhạc lễ, đội múa rồng, đội khiêng kiệu Thánh, đội khiêng kiệu chóe

đựng nước, lực lượng chèo thuyền... các đội này có trang phục ngày hội,

Page 277: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

342

kiểu cách riêng. Đi đầu đám rước là hai con rồng vàng lộng lẫy uy nghi

được đám rước đến hơn mười người múa, uốn lượn theo nhịp trống phách dồn dập. Múa rồng là một nghệ thuật, làm sao cho giống "rồng

bay". Dẫn đoàn rước kiệu là hai hàng các bà, các cô trong đội tế nữ trong

những bộ xiêm y, dài đủ màu xanh, đỏ, vàng, trắng. Sau đám rước rồng

là ban nhạc lễ, sau đó đến kiệu Thánh có lọng che hai bên, cùng bát bửu,

chấp kích do trai thanh gái lịch trong làng rước. Kiệu chóe sứ có bệ đỡ,

có lọng che, treo trên 4 dải lụa đỏ buộc dưới đít kiệu, luôn luôn được 2

cụ già đi 2 bên giữ cho cân bằng. Hàng đoàn người trong trang phục

ngày hội nối tiếp nhau theo đám rước tới bờ sông. Bên kia sông, trên bãi cát trắng Tự Nhiên, nơi Chử Đồng Tử và Tiên Dung gặp gỡ buổi đầu

cũng cờ xí rợp trời. Đó là đám hội của làng Ngự Dội chờ tham gia đoàn

rước về trình Thánh. Đoàn rước đến bến Tuần thì dừng lại. Tại đây, hai

con rồng được đưa xuống 2 chiếc thuyền chở những đồ với nguyên cờ xí

và những đồ tế tự trên tay. Trong tiếng trống náo nức, tiếng đàn nhị, sáo

sôi động đoàn thuyền rước bắt đầu bơi sang bãi Tự Nhiên. Lúc này cảnh

đẹp nên thơ và trữ tình. Trên sông, hai con rồng đang "bay" cùng hàng

chục chiếc thuyền kết đầy cờ hội đang du ngoạn trên mặt nước như cảnh đoàn thuyền Tiên Dung thuở nào. Chiếc thuyền mang chóe từ chỗ đang

được dòng nước cuộn chảy đẩy xuôi dòng đã được những cánh tay trải

khỏe mạnh lại xoay ngang giữa dòng. Cùng lúc, những con thuyền chở

đoàn đi theo cũng bẻ lái cho thuyền quây quần thành vòng tròn quanh

chiếc thuyền mang chóe. Cuộc múc nước được tiến hành. Người được

chọn ra múc nước là một người già đức độ, khỏe mạnh, mặc lễ phục, tay

cầm chiếc gáo dừa sơn đỏ cúi xuống múc từng gáo đổ vào chóe tới khi đầy. Xong việc, đoàn thuyền quay vào bờ trong tiếng trống, chiêng, tiếng

mái chèo làm náo động cả lòng người. Đám rước lại tiến hành theo thứ tự

như lúc đi theo sau hai con rồng vàng trở về đền. Lễ rước nước trong lễ

hội Chử Đồng Tử đưa ta trở về không khí của những hội làng thuở xưa.

Trong bản chất, lễ hội này mang rõ nét tín ngưỡng cầu nước của những

cư dân nông nghiệp. Lễ rước nước hình thành như một hành động thiêng

liêng biểu trưng cho lòng cầu mong trời cho nước và trở thành một nghi

lễ mở đầu cho rất nhiều hội làng vùng đồng bằng và Trung du Bắc Bộ. Tất cả các hành động của buổi lễ này hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đều

tập trung nói về nước, như hoạt động của đội rồng múa lượn và trong

hành động chèo thuyền khuấy động nước, và các trò diễn khác...

Do đó có thể nói, lễ rước nước ở đây là một sinh hoạt văn hóa dân

gian tổng hợp. Sau lễ dâng hương là các trò chơi diễn ra ở trước sân tòa

Thiên Hương và sân Đại tế, thu hút mọi người tham dự. Chỗ này thì vật,

Page 278: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

343

võ, đánh gậy, chỗ kia đánh cờ người (nhà nào có con gái đẹp được có

mặt trong bàn cờ là vinh hạnh lắm), múa rồng, múa sư tử. Ban ngày có hát cô đầu, đêm có hát chèo. Ngoài ra, khách hành hương còn được thỏa

mãn nhu cầu tâm linh của mình trước điện thánh.

Để thỏa mãn nhu cầu tâm linh, từ lâu người Việt Nam đã sáng tạo

một thế giới huyền thoại, trong đó tồn tại những vị thần có nguồn gốc

thuần Việt. Trong số các vị thần linh ấy, có bốn vị được tôn vinh là

Thánh Bất Tử - Tứ Bất Tử. Đó là Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đồng Tử,

Thánh Gióng và Mẫu Liễu Hạnh.

Nếu như Tản Viên Sơn Thánh là biểu tượng cho sức mạnh cố kết của cộng đồng và khẳng định nó trước tự nhiên, chế ngự những sức

mạnh tàn phá của tự nhiên như mưa, gió, lũ, lụt; Thánh Gióng là biểu

tượng cho sức mạnh đoàn kết nhân tài vật lực của cộng đồng trong cuộc

chiến đấu chống xâm lăng bảo vệ lãnh thổ và quyền làm chủ bất khả xâm

phạm của mình; Mẫu Liễu Hạnh là khẳng định quyền sống của con

người, quyền tự do và bình đẳng với nam giới của phụ nữ thoát khỏi

những ràng buộc của xã hội, của lễ giáo phong kiến đã lỗi thời, khát

vọng vươn tới để đạt được những ước vọng của hạnh phúc gia đình thì Chử Đồng Tử là biểu tượng của tình yêu đôi lứa vượt lên trên tiền tài và

địa vị, của ước muốn xây dựng một xã hội ổn định, cân bằng, của nghĩa

cử cứu độ chúng sinh đảm bảo sự trường tồn của cộng đồng.

Chử Đồng Tử đi vào tâm thức dân gian và trường tồn qua năm

tháng, không chỉ là con người hiếu thảo, nhân ái, thuần hậu chinh phục

được lòng người mà còn là biểu tượng của một chí hướng phát triển của

cả cộng đồng, mở mang khai phá đồng bằng lầy trũng thành cánh đồng tốt tươi, trồng dâu, chăn tằm, dệt lụa, phát triển các ngành nghề, đặc biệt

là nghề buôn bán. ở Chử Đồng Tử nhân dân ta còn học được ý chí tự lực,

tính hồn nhiên, tâm hồn phóng khoáng, thơ mộng và một tình yêu mãnh

liệt, thủy chung. Chính những đức tính này là phẩm chất đạo lý truyền

thống mà con người Việt Nam hằng có và quí trọng. Vì vậy mà Chử

Đồng Tử trở thành Bất Tử. Việc thờ phụng Chử Đồng Tử biểu hiện

khuynh hướng tôn thờ anh hùng văn hóa, tôn thờ những người có công

với dân với nước vốn là truyền thống của nhân dân ta. Mặt khác, Ngài còn được tôn thờ như ông tổ của Đạo thờ tiên - Chử Đạo Tổ - Tiên, theo

quan niệm của dân gian là những người ở cõi trời giáng trần hoặc là

người trần giới có đạo cốt, tài năng và đức độ, qua thời kỳ tu luyện trở

thành tiên, sau đó dùng phép lạ của mình cứu nhân độ thế, được dân gian

tôn thờ, ngưỡng mộ. Chử Đồng Tử và Tiên Dung tuy thấm nhuần triết lý

Page 279: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

344

vô vi của Đạo Lão nhưng cuộc đời của họ vẫn toát lên tính nhân bản sâu

sắc gần gũi với tất cả những gì tự nhiên nhất, họ là thần tiên nhưng không hề cách biệt với thế giới người trần.

Truyền thuyết về thiên tình sử Chử Đồng Tử và Tiên Dung ngoài

việc phản ánh một cảm quan huyền thoại về việc Người, việc Đời nơi

dương thế của nhân dân ta trong tiến trình lịch sử của mình, còn là bức

tranh phản ánh hiện thực lịch sử của nhân dân vùng đồng bằng và trung

du Bắc Bộ trong việc khai phá vùng đầm lầy phù sa ven sông Hồng buổi

bình minh của đất nước.

Chử Đồng Tử và Tiên Dung đã bay về trời nhưng tình yêu của họ vẫn còn mãi mãi với thời gian và bất tử trong tâm linh các thế hệ người

Việt Nam. Đền Chử Đồng Tử ở xã Bình Minh và nhân dân nơi đây đã là

một trong những điểm tựa cho sức sống bất tử ấy. Bây giờ cứ ba năm

người dân tổng Mễ xưa lại mở lễ hội một lần bắt đầu từ ngày 10/2 âm

lịch đến hết ngày 12/2 âm lịch. Thời gian đi qua, truyền thống văn hóa

của dân tộc, như thế, vẫn được lưu giữ một cách trọn vẹn nhất./.

N.M.S - N.C.B

Page 280: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

347

Lễ hội Chử Xá Đỗ Lan Phương

Chử Xá, còn có tên nôm là làng Sứa, là “anh cả” của 72 làng thờ Đức

Thánh Chử ở vùng châu thổ sông Hồng bởi đây là quê hương của Ngài.

Chử Xá là một trong ba làng của xã Văn Đức (Trung Quan, Chử Xá và

Sơn Hô) huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Từ Hà Nội (trung tâm thành phố),

qua cầu Chương Dương, xuôi dọc theo đường đê sông Hồng xuống phía nam

hơn chục cây số, qua làng gốm Bát Tràng, đi tiếp 3 km rồi rẽ phải xuống chân

đê qua địa phận xã Xuân Quan, Kim Lan sẽ gặp bến đò Văn Đức (thuộc làng

Trung Quan) thì rẽ trái đi thêm 2 km sẽ tới làng Chử Xá, như vậy, chúng ta phải

đi khoảng 20 km.

Chử Xá được biết đến từ thế kỷ XV, là vùng đất cổ và có bề dày văn hoá lâu đời. Đối với người dân Chử Xá, nếu như Tết Nguyên Đán là Tết Niên lịch,

tết của một chu kỳ mùa màng, thì hội đình mới thực sự là Tết của cả cộng đồng

làng để tạ ơn và cầu ước tổ tiên (Đức Thánh Chử) cùng các vị thần Càn Hải Đại

Vương Tứ Vị Thánh Nương, hai thần Đương Niên- Đương Cảnh giúp dân làng

có cuộc sống ấm no hạnh phúc.

Lễ hội làng Chử Xá có một nét đặc biệt là, nghi lễ được tổ chức ở hai nơi:

Đình Chử Xá và Lăng Thân Phụ- Thân Mẫu của Chử Đồng Tử. Xưa kia, Hội làng được tổ chức trong ba ngày từ 17 đến 19 tháng Giêng (âm lịch). Dân làng

phải chuẩn bị bắt đầu ngay sau những ngày Tết năm mới. Ngay ngày đầu tiên

của năm mới, khi cụ Tiên chỉ ra đình thắp hương cúng năm mới đã khấn cầu các

vị thần cho con cháu trong làng (các giáp) chuẩn bị lo ngày hội và lo lễ dâng

thánh. Sau đó, hội đồng trưởng giáp (7 giáp) họp, do cụ Tiên chỉ chủ trì, bàn về

các việc như chọn lựa những người được đứng trong ban tế (gồm 18-24 người,

tuổi từ 40 trở đi), bầu chọn người làm Đông xướng, Tây xướng, cử người làm

phụ tế (phụng văn) trong số những người tế; chọn lựa những người thực hiện lễ Mộc dục. Những người được chọn này sẽ phải trai giới một tuần trước ngày

hội;bàn việc làm cỗ cúng ở đình và để đãi khách và những người hầu lễ (ban tế,

ban nhạc, đội trống, đội sinh tiền, các vị chức sắc trong làng...). Theo quy định,

mỗi giáp góp cỗ 7 cân xôi, 7 cân thịt, nếu giáp nào đăng cai phục vụ lễ (thay

phiên thường niên) chỉ góp rượu. Giáp đăng cai hầu lễ làng phải trực ở đình từ

một vài hôm trước hội để quét dọn đình và sân đình sạch sẽ. Năm nào khách

đông (thường là “đại biểu” từ 72 làng thờ Chử Đồng Tử tới tế và dự lễ) làng

phải lo nhiều cỗ thì ngoài số lượng đóng góp chung của các giáp, số lượng

Page 281: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

348

lương thực thực phẩm thiếu, làng sẽ giao cho các gia đình khá giả đảm trách,

nhưng tất cả đều được gọi là cỗ làng. Cuối cùng, hội đồng trưởng giáp điểm qua tình hình chuẩn bị các nghi thức hầu lễ như múa trống xếp chữ, múa sinh tiền,

múa con đĩ đánh bồng, phân công người đi cờ, đội rước chấp kích và bát bửu,

điểm số thuyền dùng trong ngày hội (dùng trong lễ rước nước, đua thuyền).

Ngày 16 tháng Giêng (âm lịch), các gia đình bắt đầu chuẩn bị làm cỗ cúng

ở đình. Cỗ cúng có hai loại: Cỗ chay (trai lễ) gồm: trầu cau, oản xôi, chuối, cam,

mía (chặt tấm khoảng 30 cm, hai đầu bọc giấy điều), chè đường, chè kho, xôi

vò, bánh gai, bánh cốm (làm giả từ thóc nếp ngâm nước rồi rang chín); Cỗ mặn

(sinh lễ) gồm các món: thịt lợn luộc, thịt lợn xào (thái mỏng, to bản), canh thịt (thịt cắt vuông nấu loãng nước với nước mắm), đặc biệt có món “dừ” là một loại

canh xột xệt dùng để chấm khi ăn với oản xôi. Canh “dừ” được chế biến từ xôi

giã nấu với thịt mỡ cho nhừ, khi múc ra bát sẽ bày lên trên các miếng gan luộc.

Cơm cúng được nấu bằng gạo tám, ngoài ra còn có bánh chưng, thịt gà (cúng cả

con đã luộc chín, thường là từ cỗ các gia đình mang ra cúng để thụ lộc thánh).

Ngày 17 tháng giêng, làng bắt đầu vào hội. Hôm đó là ngày làm lễ Rước

nước và Mộc dục. Một mâm cỗ chay bày cúng trên bệ Thánh Chử Đồng Tử và

nhị vị phu nhân, hai mâm cỗ mặn bày cúng trước điện của Đức Càn Hải Đại Vương Tứ vị Thánh Nương và trước bàn thờ hai vị thần Đương Niên Đương

Cảnh. Khi bày cúng Thánh Đức Càn Hải Đại Vương, cỗ mặn ở đây có 4 bát to

cơm gạo tám (1 kg gạo nấu chín rồi chia bốn) với bát canh thịt (múc 16 miếng

thịt) và đĩa thịt xào (cũng 16 miếng). Còn bên bàn thờ thần Đương Niên Đương

Cảnh chỉ cần bày cúng xôi và chân giò luộc. Ngoài các gian Đại bái và Tiền tế

bày cúng hoa quả, oản xôi.

Đúng giờ chọn, ông Tiên chỉ chỉnh tề trong bộ áo lễ vào thắp hương trong đình và vào lễ ở hậu cung xin các chư Thánh cho dân làng rước kiệu đưa choé đi

lấy nước để làm lễ Mộc dục. ở Lăng cũng tiến hành một nghi lễ tương tự.

Đoàn rước nước bắt đầu khởi hành từ đình, đi về hướng lăng để đón choé

của Thánh Phụ Thánh Mẫu ở đó, rồi hướng ra bờ sông. Đi đầu đoàn rước là

những nam thanh niên cầm cờ hội, cờ ngũ sắc, tiếp đến là các chàng trai rước

bát bửu (trường đao, kiếm, bút, quạt, khánh, bàn cờ...), rồi đến đội trống chiêng

của các ông trung niên. Tất cả những người này đều mặc áo dài lễ, thắt lưng

xanh đỏ. Tiếp theo là đội múa sinh tiền của 12 em gái (8-12 tuổi), được làng chọn là nhũng em ngoan nết, con cháu các gia đình hoà thuận. Các em đều trong

trang phục áo tứ thân màu đỏ, quần trắng, thắt lưng vàng, khăn dài choàng vai

màu xanh. Các em vừa đi vừa múa sinh tiền tạo tiếng nhạc nghe thanh nhẹ, vui

tai, những đôi tay kẹp khăn choàng đưa lên, vòng xuống tạo thành những cánh

lượn uyển chuyển, các cụ còn gọi đó là điệu múa tiên. Có hai chàng trai đóng

Page 282: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

349

giả nữ múa điệu con đĩ đánh bồng, cũng đi liền đây. Cụ Tiên chỉ đi tiếp sau, bốn

thanh niên khiêng hương án có hương nhang và hoa quả rồi đến các chàng trai khiêng kiệu đặt choé nước, họ đều mặc áo dài trắng với thắt lưng màu đỏ. Cuối

đoàn rước là các bô lão, chức sắc, tư văn và dân làng.

Đến bờ sông (cách làng khoảng 3 km), những chiếc thuyền đã chờ sẵn và

đón đoàn rước ra sông. Mỗi thuyền chở một kiệu có choé nước, những người

khiêng và một ông được phân công múc nước. Cụ Tiên chỉ ở trên thuyền với

choé nước của Chử Đồng Tử- Tiên Dung và Tây Sa, đi kèm theo là đội trống

chiêng, tù và.... Các đội múa sinh tiền và đĩ đánh bồng ở các thuyền sau. Còn

một vài thuyền chở các vị chức sắc và một số dân làng. Đoàn thuyền rồng được cụ Tiên chỉ hướng dẫn bơi vòng hai vòng theo hướng ngược dòng về đầu nguồn,

trông xa giống những con rồng thật đang quấy nước theo nhịp trống chiêng, tù

và và tiếng nhạc sinh tiền. Sau đó, đoàn thuyền dừng ở giữa sông để chọn một

luồng nước trong làm lễ lấy nước.

Hương án lúc nào cũng nhang khói thơm ngát. Cụ Tiên chỉ đọc bài văn lễ

hà bá rồi ném vàng thoi (đồ mã) xuống nước (500 thoi). Xong nghi thức này,

những người được chỉ định lấy nước sẽ dùng gáo (sơn son thiếp vàng) múc nước

dưới sông lên và mỗi vị Thánh chỉ cần lấy 4 gáo nước. Như vậy, choé của Đức Thánh Chử và nhị vị phu nhân cần 12 gáo nước, choé của Càn Hải Đại Vương

Tứ Vị Thánh Nương cần 16 gáo và choé của bố mẹ Chử Đồng Tử cần 8 gáo.

Lấy nước xong, các thuyền đưa đoàn rước về bến rồi theo đường cũ trở về

lăng và đình. Các choé nước được đưa vào lăng và đình để chờ lễ Mộc dục, cụ

Tiên chỉ lại khấn trình Thánh các choé nước. Nghi lễ Rước nước kéo dài tới 4-5

tiếng đồng hồ.

Chiều cùng ngày (17-1 âm lịch), cụ Tiên chỉ thắp hương dâng thánh các lá phiếu dùng để bốc thăm chọn người trong ban lễ Mộc dục xem ai là người thực

hiện lễ này ở lăng hay đình. Lễ Mộc dục được tiến hành vào đầu giờ chiều. ở

đình lễ Mộc dục được làm ngay tại hậu cung. Ngai và bài vị được đưa ra khỏi bệ

lau chùi sạch sẽ và khoác xiêm y mũ mão. Còn ở lăng, hai bức tượng Thánh

Phụ, Thánh Mẫu được lau rửa sạch sẽ và thay khăn choàng. Dân làng cho rằng

ai được làm lễ Mộc dục thì năm đó cả gia đình được nhờ lộc thánh, con cháu sẽ

khoẻ mạnh, làm ăn dễ dàng.

Đêm ngày 17-1, các giáp tiếp tục làm cỗ làng cho ngày chính hội (18-1), cỗ làng cũng được chế biến như ngày hôm trước, với hai loại: cỗ chay (trai lễ) ;

cỗ mặn (sinh lễ). Ngoài cỗ làng, các giáp còn phải làm cỗ thi (bánh dầy) tại nhà

các ông trưởng giáp. Gạo nếp nấu xôi làm bánh dầy thi được tuyển chọn rất kỹ

từ nếp quýt (nếp thơm) và được ngâm bằng nước mưa. Có khoảng 40 kg gạo

Page 283: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

350

nếp đã chọn, đã ngâm nước từ đêm hôm trước, vớt ra để ráo rồi cho vào hai chõ

thùng (gỗ) đồ chín rồi đem ra giã làm bánh. Cối và chày giã được bảo quản rất kỹ, các chày giã được thay đầu bịt mỗi năm một lần (chày làm bằng tre già bịt

đầu bằng mo nang). Thường mỗi giáp có 2 cối 8 chày, các cối giã xôi thường do

các thanh niên khoẻ đảm nhiệm. Xôi giã nhuyễn được để vào mâm đồng thật

sạch rồi đưa vào nơi “tạo” bánh - thường là buồng riêng được dọn dẹp sạch sẽ.

Trước khi “bắt” (véo) bánh, các ông phải “lộn” đi “lộn” lại xôi đã giã xem còn

sót hạt xôi nào không, nếu có thì dùng tăm gẩy ra để bánh được đảm bảo nhuyễn

mịn hoàn toàn. Khi “bắt” bánh người ta xoa tay bằng lòng trắng trứng gà cho

khô để khỏi dính tay. Bánh “bắt” xong được để ướm vào khuôn rồi mới đặt vào những miếng là chuối tây non (được rửa sạch và lau khô), lại có người khác chỉ

chuyên ngồi dùng miếng vải chúc bâu nõn dúng vào nước chanh vắt trong chậu

nước rồi xoa vào mặt bánh cho nõn trắng và bóng. Sau khi bánh được hoàn

thiện, người ta xếp những chiếc bánh đó lên một sập gỗ (giường) và quây màn

kín xung quanh để giữ không cho một hạt bụi vương vào. Mỗi chiếc bánh to

bằng chiếc đĩa nhỡ (đường kính khoảng 17 cm) và nặng gần cân gạo. Như vậy,

mỗi giáp làm được khoảng gần 40 chiếc bánh. Họ sẽ chọn ra 22 chiếc bánh đều

và đẹp để bày cỗ thi. Mâm bày bánh hình vuông được sơn son và chạm trổ hình hoa lá rất đẹp (nay làng thay bằng mâm bồng lớn, hình tròn). Lòng mâm bày

bánh đã đục sẵn các lỗ tròn cho vừa bánh, mỗi mâm có 22 lỗ. Cỗ bàn làm xong

thì trời cũng sáng, mọi người chuẩn bị quần áo chỉnh tề và đem cỗ lên đình.

Sáng ngày 18 (tháng Giêng-âm lịch), người ta đã đưa sẵn long ngai và bài

vị của Đức Thánh Chử và nhị vị phu nhân được đặt trên các kiệu ra ngoài sân

đình để làm lễ. Hương án cũng được đặt ra ngoài sân đình, ngay chính giữa cửa,

trước hương án người ta trải những tấm chiếu, các ông Đông xướng Tây xướng đứng hai bên. Sau các ông là phường trống. Hai ông Đông xướng Tây xướng là

người điều hành các nghi thức lễ, sau mỗi lệnh xướng của hai ông là một hồi

trống. Mở đầu là việc trình văn tế các Đức Thánh do ông chủ tế (Tiên chỉ) đọc,

đứng cạnh ông chủ tế là hai ông phụ tế (hay còn gọi là phụng văn). Sau bài văn

tế, cả ban tế (18 người, trang phục áo dài lễ màu lục, quần trắng và đi hài thêu

rồng) vào tế và làm lễ dâng hương, dâng rượu, ông chủ tế nâng khay chén, còn

hai ông phụ tế nâng hai be rượu. Sau các bước “cung, bái” các ông rót rượu đưa

lên hương án để dâng Thánh. Ngày nay còn có thêm ban tế nữ (cũng 18 bà trong trang phục áo dài màu vàng, quần trắng, thắt lưng xanh, khăn vành dây màu

vàng có đính kim sa) vào tế, theo điều khiển của Đông xướng Tây xướng, ban tế

nữ vào dâng trà và hoa. Trong khi các ban tế của làng làm nghi thức tế lễ thì

đằng sau họ là đội múa sinh tiền biểu diễn, hết bài thì đến hai cậu con trai giả nữ

ra múa điệu con đĩ đánh bồng.

Page 284: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

351

Khi tế xong, ông chủ tế điều khiển đoàn rước các kiệu Thánh Chử và nhị

vị phu nhân có mũ, áo, đai, hia ra lăng lễ trình Thánh Phụ-Thánh Mẫu. Đi theo đoàn rước cũng đủ cờ, trống, các đội tế, đội múa, v.v...

ở ngoài lăng, người ta cúng cỗ mặn nhưng vẫn có hương, hoa, trà, quả. ở

lăng cũng làm nghi thức như vừa trình ở đình, hai ông Đông xướng và Tây

xướng cũng điều hành cuộc tế, có một bài văn tế để tạ ơn cha mẹ. Sau khi lễ cha

mẹ xong, đoàn rước quay trở lại đình, long ngai và bài vị của Đức Thánh Chử và

nhị vị phu nhân được đưa vào hậu cung. Cỗ mặn, cỗ chay được bày vào bệ thờ

để cúng ngâm nga. Hai gian Đại bái và Tiền tế, người ta bày các mâm cỗ thi

(bánh dầy) của 7 giáp.

Buổi sáng 18-1 (âm lịch) này, nghi thức tế lễ rất long trọng và thiêng liêng.

Các làng thờ Chử Đồng Tử ở khắp nơi tới tế trong ngày hội ở Chử Xá. Các làng

đó lập các đội tế nhỏ (6- 8 người) do các ông Tiên chỉ của các làng đó làm chủ

tế, đây gần như là một cuộc hành hương về lễ tổ. Các làng thờ Đức Thánh Chử

cũng có ý muốn lễ trình trước khi làng họ mở hội tế lễ Ngài (làng Chử Xá mở

hội đầu tiên). Cuộc tế lễ có khi kéo dài đến hết ngày bởi các làng xa gần đến rải

rác. Chử Xá đảm bảo tiếp khách chu đáo đúng như một người anh cả (làng xưa

kia đã làm cả một con đường chạy dài suốt rìa làng, phía ngoài sông- được gọi là “đường khách” để tiếp rước các đoàn lễ ở các nơi đến).

Sau khi làng tế xong, hội đồng đại biểu các giáp và các chức sắc tổ chức

cuộc bình xét về các cỗ bánh dầy của các giáp. Giải nhất sẽ thuộc về mâm cỗ mà

bánh có chất lượng: trằng đều, mịn, nhuyễn, bóng và bánh không bị khô. Giải

thưởng chỉ là một be rượu (đã cúng thánh), chục miếng cau khô và trầu têm

hoặc có thêm bánh pháo, nhưng đó là một vinh dự vô cùng cho giáp giật giải

năm đó. Họ cho rằng, giáp nào được giải nhất sẽ làm ăn thịnh vượng và mọi người đều khoẻ mạnh. Sau khi được giải, giáp được phép rước kiệu bánh đi

vòng quanh làng.

Phía ngoài các ban tế, các đội múa sinh tiền, múa con đĩ đánh bồng thay

nhau múa hầu Thánh. Đặc biệt, phải kể đến điệu múa trống xếp chữ “Thiên hạ

thái bình” của 22 em trai (tuổi từ 10-15). Đây là điệu múa rất đẹp và nổi tiếng

trong vùng, dân làng còn gọi là nghi thức lễ chữ.

Tuy nhiên, sau khi làng “anh” (Chử Xá) tế lễ xong, các làng khách (em)

đến tế, người ta đã bắt đầu tổ chức các trò chơi (từ đầu giờ chiều) ở các bãi đất được san sửa phẳng ngoài sân đình.

Trước hết phải kể đến trò đánh gậy (còn gọi là múa gậy) của nam thanh

niên- trung niên. Các cặp chơi với nhau phải cùng tuổi, thi thoảng có các cặp

chơi mang tính thi thố thì có lệch tuổi. Muốn chơi được, họ phải tập luyện từ

Page 285: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

352

trong năm vào mỗi dịp nông nhàn và được các võ sư hướng dẫn. Chử Xá rất nổi

tiếng về trò đánh gậy và trở thành ngón võ của trai làng. Xưa kia, vào năm 1370 đời Trần Nghệ Tôn, vua đi theo đường sông Đà vào Thăng Long dẹp loạn Hôn

Đức Công Dương Nhật Lễ, trai làng Chử Xá đã hưởng ứng và mang theo gậy

tre, theo sau thuyền vua về Thăng Long, giúp vua dẹp loạn. Sau này, trai làng

Chử Xá cũng với cây gậy đã giúp nghĩa quân Nguyễn Thiện Thuật. Gậy múa

(đánh) được chọn từ các cây tre đực già, các mắt ở đốt tre có 3 dễ, loại tre này

làm gậy đánh khó dập, thân gậy không to dễ cầm, gậy có độ dài khoảng 2 m.

Sau khi đã chuốt hết các mắt tre, người ta hơ qua lửa để nắn cho thẳng, rồi đánh

bóng nhẵn, hai đầu được sơn đỏ. Các gậy tre này được dựng trước hương án cúng Thánh trước khi mang ra chơi.

Trò chơi đánh gậy thu hút mọi người từ già, trẻ, gái, trai bởi sự hồi hộp với

tiếng gậy đập vào nhau nghe chát chúa cùng với tiếng trống điều khiển thúc dồn

mỗi khi trận đấu ở bước quyết định. Các đường gậy múa tít, quấn vào nhau,

không phân biệt được tay người nào với người nào, tiếng các bước chân nhảy

lên nhảy xuống thình thịch... Các ngón võ được thay đổi làm sinh động cuộc

chơi, lúc thì đánh năm cửa (ngũ môn), khi thì đánh ba cửa (tam môn). Tất cả đều

là lối đánh trước- sau, trên- dưới, phải- trái phối hợp lại tạo thành các ngón võ. Có các cặp chơi quá mạnh mẽ đến gẫy gậy, người ta lại thay gậy khác và chơi

tiếp.

Ngoài ao đình cũng có trò chơi khá hấp dẫn, đó là thi bơi thuyền (nhỏ) với

mái chèo ngắn. Thanh niên các giáp có tài điều khiển thuyền lập thành các đội

để thi với nhau. Mỗi thuyền chỉ cần 6 hoặc 8 người. Mỗi lần thi chỉ cần hai

thuyền, và số người trên thuyền phải bằng nhau. Vì không phải bơi trên sông có

đường thẳng mà là trong ao nên mọi người trong nhóm phải phối hợp với nhau thật khéo léo sao cho thuyền vừa đi nhanh mà vẫn có thể lượn theo vòng ao,

không đâm phải bờ ao và không đâm phải nhau. Số vòng bơi do ông trưởng trò

(thường là một người được làng bầu là người bơi giỏi và chèo thuyền giỏi nhất

làng) đặt ra. Cứ hai đội thi với nhau rồi sau đó đảo đội thi. Trò chơi làm cho

không khí hội thêm nhộn nhịp bởi tiếng trống thúc giục trên bờ, tiếng hò reo của

mọi người cộng với tiếng khua nước oàm oạp. Nói là thi nhưng lại không có

giải, đội nào thắng sẽ được dân làng truyền danh cả năm.

Một góc bãi khác, trò chơi chém mía (đất trồng của người Chử Xá trước đây vốn là bãi trồng một vụ mía) cũng sôi động không kém tuy không được tổ

chức chính thức như các trò trên. Trò chơi này thể hiện sự khéo léo và có nhiều

người tham gia. Rất nhiều mía từ các gia đình được mang vào hội để vừa chơi

vừa phục vụ (bán) “giải khát” luôn. Các cây mía cần được chặt ra thành tấm và

tự nhiên từ lúc nào, hình thành những người thi chặt mía nhanh và đều tấm. Ai

Page 286: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

353

đó có thể đứng ra làm trọng tài và hô “một-ba”, có nghĩa là một nhát dao chặt

được 3 tấm mía hoặc “hai-năm” là hai nhát dao chặt thành 5 tấm mía. Để làm được, người tham gia chơi dựng cây mía lên, tay cầm phía ngọn mía vít nó

xuống làm cho cây mía cong đi. Người đó dùng một con dao dài lưỡi hơi to bản

và rất sắc chém thật mạnh một nhát từ trên xuống. Đường dao đó đi qua hai

đoạn của cây mía cong (một phía ngọn, một phía gốc), thế là một nhát chia cây

mía ra thành ba. Muốn chặt thành 5 tấm người ta cũng làm như vậy, trò chơi này

đòi hỏi người tham gia phải có động tác khéo léo khi uốn cong thân cây mía, bởi

cây mía mềm dễ uốn thì cũng dễ trượt gốc phía dưới đất, do vậy người ta thao

tác rất nhanh và vung dao chặt mạnh, dứt khoát. Có nhà thua mất cả ôm mía mà vẫn vui vẻ. Những cây mía của người thắng cuộc được đem chia cho mọi người

vây quanh ăn thoả thích.

Một trò chơi khác nghe cũng rất lạ, là trò cắt đậu phụ (Chử Xá là đất trồng

màu nên có rất nhiều đậu tương, và đây là món ăn thường ngày của họ). Những

bìa đậu phụ (hình chữ nhật) to gần bằng bàn tay ngay từ khi sản xuất người ta đã

đưa vào đó những que tre vót nhỏ bằng cái tăm và đặt dọc hoặc ngang bìa đậu.

Nhìn hình bìa đậu rất khó đoán cái que nằm ở đâu, thế mà vẫn có người có ngón

tay nhạy cảm, người nhận lời đố tranh thủ lướt nhẹ các ngón tay trên bìa đậu trước khi cắt, cũng dùng tre vót que hình dẹt mỏng, rồi hạ tay cắt. Kết quả cũng

khá hồi hộp, dù đoán trúng hay không thì cả người thi lẫn người đố đều phá lên

cười mỗi khi kết quả “hiện ra”. Trò chơi cắt đậu là một trò chơi giải trí nhẹ

nhàng, cả nam cả nữ, cả người già trẻ con đều có thể đố và giải đố.

Suốt chiều ngày 18, dân Chử Xá chạy qua chạy lại tham gia vào các sinh

hoạt cộng đồng (xem hoặc dự cuộc) vừa trò chuyện cùng nhau, chúc tụng cho

nhau vụ mùa mới. Trong ngày hội, một số cô gái bày bán nước và trầu cau cho người chơi hội uống cho đỡ khát, ăn miếng trầu cho thơm miệng và mình thì có

thêm chút lộc đầu năm. Các cô cố thể hiện sự khéo léo của mình qua miếng trầu

têm cánh phượng mong các chàng trai tới mua. Các chàng thanh niên thường tụ

nhau lại rồi kéo đi lần lượt các bàn của các cô xem trầu, bình phẩm, trêu chọc

các cô. Lời qua lại đối đáp dễ gây cảm tình và đoán tính cách nhau để kết thân.

Đây mới là ý muốn đích thực của các cô... Ngoài ra, còn một số trò chơi khác

như đấu vật, chọi gà được nhóm họp thành hội chơi trên bãi..

Các trò chơi kéo dài suốt buổi chiều và riêng các bàn trầu nước của các cô thì bày bán cả tối, bởi tối làng có trò diễn chèo. Xưa kia,Chử Xá có phường nhạc

rất giỏi và có nhiều kép chèo nổi tiếng như gánh hát của kép Viêu, Quản Giá với

những nghệ nhân như ông Câu, bà Muộn... Buổi tối ngày mười tám này, các

phường chèo thường diễn các vở Lưu Bình-Dương Lễ, Phạm Công Cúc Hoa,

Nhị Độ Mai, các tích trong Tam Quốc... Đã có năm họ diễn tích (phường chèo

Page 287: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

354

tự soạn) về cuộc đời của Đức Thánh Chử, tích diễn kéo dài nhiều đêm, bắt đầu

từ đêm mười sáu. Không hiểu sao, về sau tích diễn này mất.

Ngày thứ ba của lễ hội làng (19 tháng Giêng), ngày cuối cùng được gọi là

ngày Lễ Tạ hay còn gọi là ngày lễ Giải Y (cởi áo). Đồ cúng của ngày hôm đó

chủ yếu dùng đồ chay (trai lễ): bánh dầy, oản xôi, hoa, quả, trà, rượu. Nhưng

đặc biệt, ngày hôm đó, làng có một hũ (chĩnh) mắm cá Mòi mang ra đình cúng

dâng thánh. Hũ mắm cá này được các giáp bầu chọn ra một giáp chuẩn bị lo lễ

vật từ năm trước. Giáp nào được chọn làm mắm Mòi sẽ không phải đóng góp

vật chất trong hội làng. Cá Mòi trông giống cá mè, thơm ngon và chắc thịt, hũ

mắm Mòi được chuẩn bị từ năm trước- sau hội làng năm đó. Vào mùa cá Mòi (tháng 2-3 âm lịch) người ta đánh cá và chọn ra 100 con cá Mòi to bằng bàn tay

(khoảng 2-3 lạng) rồi lấy ruột rửa sạch, để ráo nước rồi xếp vào hũ, cứ một lớp

cá người ta rải một lớp muối và thính gạo rang vàng, trên cùng hũ cá người ta đổ

vào một chén tống rượu gạo thơm ngon rồi đậy kín nắp đến năm sau mới mở ra

cúng. Cá muối phải đảm bảo có màu đỏ, thơm và khô. Hũ sành muối cá không

được dùng lại lần hai.

Đến chiều, cụ chủ tế (Tiên chỉ) ra đình làm lễ xin Giải Y (cởi áo) cho các

Đức Thánh và đồng thời làng cũng xin Thánh cất các đồ: trống con, trống lớn, trống bồng, chiêng, thanh la, tù và (ốc biển, sừng trâu), sinh tiền. Lễ hội coi như

kết thúc tuy một số trò chơi vẫn còn tiếp tục như đánh gậy, đấu vật, chọi gà,

nhưng dường như không còn sôi nổi như hôm trước. Các phường chèo cũng

diễn thêm đêm cuối.

Hội làng kết thúc, mọi người đều cảm thấy phấn chấn trước ngày mới vì đã

nhận được ở hội sự phù hộ của các vị thần cho mình và cho vật nuôi, cây trồng.

ở Chử Xá ngày nay, hội làng không còn quy mô lớn như xưa, chỉ kéo dài trong hai ngày. Các nghi thức tế lễ được rút gọn lại, số làng “em” đến lễ ít đi,

chủ yếu là các làng ở xã Bình Minh (Yên Vĩnh- Châu Giang- Hưng Yên), làng

Gòi (Tự Nhiên-Thường Tín-Hà Tây) đến tế. Nghi thức lễ hũ mắm cá mòi hiện

nay không còn (trước năm 1945, tục này vẫn còn) vì Chử Xá đã hết nghề chài

lưới trên sông và sông cũng không còn nguồn cá mòi, tục thi cỗ bánh dầy cũng

đã mất, dân làng phải sang Vạn Phước, làng bên kia sông để đặt bánh dày bày

cúng, một số các trò chơi như đua thuyền, chém mía, cắt đậu không còn bởi dân

không còn trồng mía, cả làng chỉ còn 1-2 nhà làm đậu phụ...

Điều kiện tự nhiên môi trường tác động tới cơ cấu kinh tế, từ đó lại ảnh

hưởng tới đời sống xã hội, con đường đi của lễ hội cũng có những thay đổi. Tuy

nhiên, ý nghĩa của các hình tượng tâm linh của người dân không thay đổi. Tất cả

Page 288: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

355

các Đức Thánh đều là các vị thần bảo trợ cho xóm làng và cuộc sống của người

dân nơi đây./.

Đ.L.P

Page 289: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

358

Hội đền Hóa Dạ Trạch

Nguyễn Chí Bền - Nguyễn Minh San

Cách Hà Nội non 20km, theo đường chim bay, về phía nam, nằm

ven dòng sông Hồng là xã Dạ Trạch, huyện Châu Giang, tỉnh Hưng Yên.

Ngược dòng lịch sử, ngày xưa, vùng đất thuộc Chu Diên, đời Lý, đất Chu

Diên gọi là Châu Khoái, đời Trần, gọi là lộ Khoái. Năm 1289, vua Trần

Nhân Tông đem đất này cho tướng quân Nguyễn Khoái làm thang mộc

ấp 1. Đời nhà Lê, đầu niên hiệu Quang Thuận, vùng Dạ Trạch, đất Khoái

Châu thuộc Thiên Trường Thừa tuyên. Đến niên hiệu Hồng Đức, đổi thành Sơn Nam Thừa tuyên. Khi đất Sơn Nam được chia thành hai lộ,

nơi đây thuộc thượng lộ. Nhà Nguyễn Tây Sơn đổi Sơn Nam thượng lộ

thành trấn Sơn Nam. Năm 1831, nhà Nguyễn đặt tỉnh Hưng Yên, thì Dạ

Trạch thuộc huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu của tỉnh này. Nhìn lại sự

thay đổi ranh giới địa lý, để thấy vùng đất Dạ Trạch có lịch sử lâu đời.

Dù ranh giới có thay đổi theo từng bước đi của lịch sử, làng Yên Vĩnh,

tức xã Dạ Trạch hôm nay, vẫn là vùng đất ghi dấu anh linh của tiền nhân.

Vào thế kỷ thứ VI, Dạ Trạch "chu vi không biết là bao nhiêu dặm, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở giữa có thớ đất cao có thể ở được,

chung quanh bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc

mộc nhỏ chống bằng sào đi lướt trên cỏ nước mới có thể đến được.

Nhưng nếu không quen biết đường lối mà vào, lỡ sa xuống nước thì bị

rắn cắn chết. Quang Phục thuộc rõ đường lối, mới đem hơn hai vạn

người vào đóng trong nền đất chằm, ban ngày thì tuyệt không để lộ khói

lửa dấu người, ban đêm thì dùng thuyền độc mộc ra đánh Bá Tiên - tức tướng nhà Lương, giết và bắt được rất nhiều, lấy được lương thực, làm kế

cầm cự lâu dài. Bá Tiên theo hút mà đánh nhưng không đánh được.

Người trong nước gọi là Dạ Trạch Vương" (Đại Việt sử ký toàn thư).

Như thế, vùng đất Dạ Trạch là vùng đất gắn bó với người anh hùng đánh

giặc Lương: Triệu Quang Phục. Là căn cứ của nghĩa quân, bởi địa thế

hiểm trở, nhưng còn một nguyên cớ nữa là lòng người. Nếu người dân

thuở ấy không ủng hộ nghĩa quân, cuộc chiến khó lòng mà đạt được

chiến thắng.

1 Thang mộc ấp: đất dành cho một vị công thần nào đó hưởng các quyền lợi.

Page 290: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

359

Rồi đến phong trào Cần Vương chống Pháp, cụ Đổng Quế cũng

lấy ngôi đền làm trụ sở để tuyển mộ nghĩa quân.

Mặt khác, Dạ Trạch còn là vùng đất của người dân khai phá.

Những giọt mồ hôi của con người đã biến vùng đất hoang vu thành ruộng

bãi tốt tươi. Đại Nam nhất thống chí chép: "Chằm Nhất Dạ ở địa phận

các xã thuộc các tổng Mễ Sở, Khóa Nhu, Bình Dân, Yên Vĩnh, Yên

Cảnh, Yên Lịch, Đại Quan vùng Đông Kết, nay thành ruộng sâu, trong

địa bạ đều chép là xứ Dạ Trạch".

Hơn hết, Dạ Trạch là vùng đất gắn liền với thiên tình sử đẹp nhất

của văn chương dân gian Việt Nam. Không hiểu sao, lịch sử trôi chảy lại chọn Dạ Trạch làm nơi lắng đọng một truyền thuyết, qua thời gian, vẫn

làm xao xuyến, thổn thức con người bao thế hệ1.

Cả truyền thuyết cũng như các dị bản đều nhằm vẽ lên chân dung

một con người, một vị thánh. Trong tâm thức dân gian, Việt Nam có 27

vị thần sinh ra hay đã từng sinh sống trên đất nước ta. Lại cũng trong số

ấy có bốn vị được suy tôn thành Tứ Bất Tử là :

- Đức Thánh Tản

- Chử Đạo Tổ

- Đức Thánh Gióng

- Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh

Trong số ấy, Chử Đồng Tử là người, sinh ra ở một gia đình lao

động. Bình sinh, Chử Đồng Tử cùng cha chăm chỉ nghề mò cua bắt cá,

sống vui vầy với sông nước. Với cha, chàng là một người con hiếu thảo.

Sau thành chồng của công chúa Tiên Dung, chàng làm ăn buôn bán để

sinh sống. Học đạo, rồi truyền đạo cho vợ, ngài cùng nhị vị phu nhân đi các nơi cứu nhân độ thế. Với đất nước, ngài linh hiển đúng lúc, giúp

những anh tài của đất nước đánh thắng giặc ngoại xâm. Vì thế, Chử

Đồng Tử là biểu tượng của một cộng đồng, với những khát vọng nhân

bản. Cuộc chinh phục đầm lầy cần có và đã xuất hiện những anh hùng

văn hóa của cộng đồng, kết tinh những ước mơ của người dân khai phá

đầm lầy, biến hoang vu thành màu xanh tươi tốt. Hơn nữa, Chử Đồng Tử

còn là người đi tiên phong trong việc mở mang buôn bán với nước ngoài.

Trong văn hóa dân gian Việt Nam, nhân vật đầu tiên tạo ra sự giao lưu giữa dân tộc và cộng đồng bên ngoài là Chử Đồng Tử.

1 Truyền thuyết này xin xem ở lễ hội đền Chử Đồng Tử.

Page 291: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

360

Lắng đọng trong tâm thức bao thế hệ con người như mật ngọt nơi

đầu môi lại là thiên tình sử diễm lệ của Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Mối tình không phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo mãi mãi là tấm gương sáng, là

khát vọng nhân bản của con người. Dòng chảy của truyền thuyết khi định

vị ở vùng Khoái Châu có thêm những tình tiết mới, vẫn không làm phai

nhạt vị ngọt ngào của thiên tình sử ấy.

Vì thế, từ chàng trai nghèo đánh cá, Chử Đồng Tử trở thành vị

thánh bất tử trong tâm thức dân gian Việt Nam.

Tại Dạ Trạch, đền được xây dựng khi nào, khó mà đoán định

được niên đại. Thần phả do Nguyễn Bính soạn vào đầu thế kỷ XVI ghi rằng, sau khi Chử Đồng Tử cùng nhị vị phu nhân về trời, Hùng Tuệ (Duệ

?) vương, xa giá tới tận bờ đầm, xem xét sự tình, cảm động đã xuống

chiếu cho dân lập đền ở đây cũng như nhiều nơi khác. Lĩnh Nam chính

quái, tác phẩm tương truyền được viết trong khoảng thế kỷ XIII-XIV, ghi

rằng, sau khi Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân về trời thì “dân lập đền

thờ, bốn mùa cúng tế gọi chằm là chằm Nhất Dạ”. Thế kỷ thứ VI, khi

Triệu Quang Phục cầu đảo, phải chăng đã có đền thờ? ! Thế kỷ XV, theo

truyền thuyết Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đến nơi này cầu mộng, chắc chắn rằng ở đây đã có miếu (đền) thờ. Qui mô vật liệu xây cất đền

không có tài liệu nào ghi chép, nên khó xác định. Truyện Trạng Lợn ghi

rằng, sau khi biết người giúp mình thành đạt là Chử Đồng Tử, Trạng Lợn

đã tâu lên vua Lê Thánh Tông sự việc, vua đã ban tiền cho ông để sửa

sang đền thờ Chử Đồng Tử. Các tác giả của Hội Tao Đàn thế kỷ XVI,

khi làm thơ vịnh Chử Đồng Tử cũng khẳng định khi ấy đã có miếu thờ:

Anh linh miếu dõi lừng hương khói

Đại Nam nhất thống chí của nhà Nguyễn khi chép về các đền

miếu của tỉnh Hưng Yên có đoạn: “Đền Dạ Trạch ở huyện Đông Yên...

Đền Chư linh thần ở huyện Đông Yên thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung

công chúa...”.

Như thế, lịch sử biến thiên theo từng bước đi nhưng đền thờ Chử

Đồng Tử và nhị vị phu nhân vẫn được duy trì cho tới nay đã mấy ngàn

năm. Nhà nước ta đã công nhận đền Dạ Trạch là di tích lịch sử văn hóa

năm 1989.

Ngôi đền với kiến trúc như hiện tại là được trùng tu vào năm

1890, hướng của đền quay về phía đông. Từ ngoài đường ngự, khách

hành hương sẽ thấy lầu chuông. Lầu có một chiếc chuông được đúc từ

năm Thành Thái thứ 14 (1902), mang tên Dạ Trạch từ chung (chuông

Page 292: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

361

đền Dạ Trạch), chuông dài 1,5m, rộng 0,8m, ngoài ra còn có hai bia dựng

đối diện với nhau, một bia đã vỡ. Bia có niên đại từ năm Gia Long thứ 17 (1819). Bia làm bằng tảng đá lớn, mài nhẵn, bia cao 1,6m, rộng 0,8m,

dày 0,17m. Kế tiếp là hai dãy nhà chín gian, xưa để chín chiếc kiệu.

Trước đền có hồ hình bán nguyệt, nước trong xanh không bao giờ cạn.

Ngày trước, nơi góc hồ là hai cây đại tươi tốt. Giữa hồ có hai ụ đất lớn,

đó là mộ hai ông thần đồng. Truyền thuyết kể rằng: Xưa kia ở trên thiên

đình có hai ông thần đồng. Theo lệ, mỗi khi nghe tiếng trống ở dưới trần

gian vọng lên thì hai ông biết đó là dấu hiệu không tốt đối với mùa màng.

Hai ông xuống trần gian giúp dân để trừ hạn hán, lụt lội hay sâu rầy. Một lần nghe tiếng trống, hai ông đang bận việc trên thiên đình nên không

xuống ngay được. Khi tới nơi, mùa màng đã bị thiệt hại nặng nề. Hối

hận, hai ông ở lại trần gian biến thành hai mô đất lớn. Hai mô đất còn

đến ngày nay, trên có hai cây xương tiêu. Qua hồ bán nguyệt là sân đền.

Trước đây, mỗi khi làng mở hội, người dân mới bắc cầu gỗ (hay tre) để

vào sân đền, nay dân làng đã xây chiếc cầu bằng bê tông. Hai bên cửa là

hai tượng đức ông đứng canh. Ngày xưa muốn vào đền, phải leo 19 bậc.

Khi đê Văn Giang vỡ 18 năm liền đất phù sa lấp đi 15 bậc, chỉ còn lại 4 bậc. Đền được xây theo kiểu chữ công (I), có ba tòa lộng lẫy. Trên mái

đền tạc những hình long phượng chạm trổ tinh vi, rất đẹp. Gian ngoài

cùng, nơi cửa vào là bàn thờ, trên có một bài thơ của Chu Mạnh Trinh.

áp vào các xà những bức đại tự :

- Nam thiên tứ vị (Bốn vị thần trời Nam)

- Hải thướng tam thần (Ba vị thần về trời tại biển này)

- Sở quá giả hoá (Tự làm quá đi, phải hóa thành cái khác)

- Âm dương hợp củng (Âm dương cùng hòa hợp)

- Danh cao thiên cổ (Danh cao thiên cổ)

- Uất thông giai khí (Khí đọng lại, dần tăng lên)

Nơi tòa thứ hai là một ban thờ các quan. Tòa thứ ba là phần chuôi

vồ, trên mái là vòm cuốn tam cấp với những hình thuyền hẳn là gợi nhớ

hình ảnh của một thời vị thánh sống bằng nghề sông nước. Giữa gian là

ban thờ công đồng. Gian hậu cung, bên phải từ ngoài vào là ban thờ thổ

công miếu đình, tượng quan võ, bên trái từ ngoài vào là một con cá chép bằng gỗ sơn son thếp vàng óng ánh. Đó là Bế ngư thuyền quan, mà người

dân quen gọi là ông Bế. Hai con ngựa, một đỏ, một trắng cũng đặt trong

gian này. Tương truyền, đó là hai con ngựa mà đức Thánh và nhị vị phu

Page 293: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

362

nhân đã cưỡi khi đi chữa bệnh cho muôn dân. Sát gian này còn một gian

thờ Phật mới được phối tự gần đây.

Nơi hậu cung bên phải là ban thờ các vị thân sinh của đức Chử

Đồng Tử, bên trái là ban thờ Triệu Việt Vương. Trước đây, cách đền này

chừng một trăm mét về phía tây là miếu thờ người anh hùng họ Triệu,

sau miếu hư hỏng, người dân phối tự lại đền này. Chính giữa hậu cung là

ba bài vị, ba pho tượng thờ Chử Đồng Tử cùng nhị vị phu nhân.

Nhìn ở điện thần, nét riêng của đền Dạ Trạch là sự xuất hiện của

ông Bế. Tín ngưỡng thờ cá nguyên thủy của cư dân chinh phục đầm lầy

còn lại với hình tượng ông Bế. Nét độc đáo của nghệ thuật kiến trúc thể hiện ở những chiếc kiệu sơn son thếp vàng. Bàn tay tài hoa của người thợ

đã chạm trổ những chiếc kiệu đẹp đẽ, tinh xảo để phụng thờ các vị thánh

trong hàng Tứ bất tử.

Tín ngưỡng thờ cúng vị thánh trong hàng Tứ bất tử của người dân

nơi ngài hóa, vùng Dạ Trạch, vùng Khoái Châu thể hiện qua những điều

kiêng kỵ. Người ta không dám gọi Tiên Dung, mà gọi chệnh ra là Tơn

Dong, không gọi Bế mà gọi ẵm, kiêng kỵ việc úp nón lên gậy, cán cuốc

hay cành cây. Ai đó lỡ ra làm như vậy sẽ bị coi là chế nhạo thần, sẽ bị thần phạt.

Mặt khác, các ngày lễ tại đây là dấu vết của tín ngưỡng thờ cúng

này. Tại đền Hóa Trạch, việc thờ cúng được tiến hành với các ngày:

- 4/tháng giêng ngày sinh của công chúa Tiên Dung

- Lễ hội chính mở vào các ngày 10, 11, 12 tháng 2 âm lịch.

- 12/8 ngày sinh Chử Đồng Tử

- 17/11 ngày cả ba vị bay về trời.

Mỗi ngày lễ ấy có một bản văn tế riêng, nhưng nghi thức thì

giống nhau. Đặc sắc nhất là lễ hội để tưởng nhớ đức Thánh và nhị vị phu

nhân tổ chức vào tháng 2 âm lịch. Chính lễ hội này tàng ẩn nhiều nét văn

hóa của cư dân nông nghiệp.

Vào ngày hội, nơi này thật tưng bừng náo nhiệt. Khách tứ phương

kéo về nườm nượp xung quanh khu đền. Mở đầu là nghi lễ rước nước,

tức là lấy nước ở sông Hồng về đền. Đi đầu đám rước là con rồng vàng

lộng lẫy uy nghi, uốn lượn theo nhịp trống phách dồn dập. Dẫn đầu đoàn người rước kiệu là hai hàng các bà các cô trong làng mặc những chiếc áo

xiêm áo dài đủ màu sắc. Trên chiếc kiệu đầu tiên đặt chiếc gậy, nón úp

trên đầu gậy. Tất cả các biểu tượng gợi nhớ uy linh của thánh được trang

Page 294: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

363

trí rực rỡ. Sau đó là bát bửu, chấp kích, kiệu thánh. Ba cặp con đĩ đánh

bồng đi sau vừa đánh trống, vừa múa rất dẻo. Đoàn người đi rước nước sẽ đi qua đầm Dạ Trạch, qua đê, ra bãi để xuống sông Hồng. Bên kia

sông, trên bãi Tự Nhiên, nơi dấu vết còn lại của Thánh cùng nhị vị phu

nhân sau khi hóa, đầy cờ xí rợp trời. Hàng vạn người chờ đợi như tưởng

nhớ lại phút giây giông tố, bão bùng để cả tòa thành, người ngựa bay về

trời. Cả rồng và đoàn người đi rước nước đều xuống thuyền để ra giữa

dòng sông lấy nước. Bên kia sông, con rồng của xã Tự Nhiên cũng bắt

đầu xuống nước. Sông nước mênh mông, cờ xí rợp trời, rồng bay lượn

nơi bến sông, đón chào những chóe nước trong sạnh như mối tình của hai người hiếm có thuở xưa. Những gáo nước được múc giữa dòng đem

đựng vào những cái chóe có nắp đậy. Đoàn thuyền của xã Dạ Trạch, xã

Tự Nhiên cùng cập bến, trong tiếng trống giòn giã, bập bùng, tiếng mái

chèo cắt nước khẩn trương, tiếng pháo nổ ran, mùi hương trầm thơm

thoảng trong lòng gió, với sự hồ hởi, náo nức của người đi dự hội.

Tới đền, lễ dâng hương được cử hành trước ban thờ lớn. Đi đầu là

một cụ ông đẹp lão, một cụ bà cao tuổi cùng các cô đội mâm nhang đèn

oản quả vào dâng thánh. Sau đó, nhóm các bà hệ trong những chiếc áo dài bằng vải thâm biết tụng niệm kinh Phật, thuộc kinh đều đồng thanh

hát bài "Quang minh tu đức", "Nam mô Chử Đồng Tử tiên ông chí đức

đại thiên tiên ngọc bệ hạ". Tiếp đó là múa sinh tiền do các em gái chừng

13, 14 tuổi thực hiện. Người dân trong vùng gọi điệu múa này là múa

tiên hay múa cánh tiên. Bởi lẽ, người múa trang phục sắc màu rực rỡ,

trên vai mỗi em vắt một chiếc khăn lụa dài có tua ở hai đầu. Khi các em

múa, dải lụa lượn lờ như hình cánh tiên. Cô tiên đi đầu đặt trên hai vai hai bầu nước và đầu đội một đĩa trầu cau, trong tiếng nhạc sinh tiền rộn

rã.

Xung quanh đền, quanh hồ nước hình bán nguyệt, quanh gác

chuông là những trò chơi dân gian: nào chọi gà, nào bắt vịt, múa gậy,

múa sư tử, múa con đĩ đánh bồng v.v...

Ngày hôm sau, một hồi trống rộn rã thúc giục mọi người cùng

tham gia đám rước phát du, nghĩa là rước thánh đi du ngoạn nơi cảnh cũ.

Đám rước được bắt đầu từ đền. Bao giờ con rồng cũng múa lượn, dẫn đầu đám rước, rồi đến cờ, trống, bát âm, sinh tiền, long đình, nhang án,

ngựa, chấp kích, bốn cô huyền lư1 , rồi đến kiệu ông, bát bửu, kiệu bà

Tiên Dung, bát bửu và kiệu bà Hồng Vân. Đám rước đi tới làng Đông

1 Huyền lư: các cô gánh lư trầm.

Page 295: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

364

Kim, quê hương bà thứ, rồi vòng qua những bờ ngô, bãi mía xanh tươi,

vòng qua khu đầm Nhất Dạ, dừng lại nơi lâu đài thành quách cũ của vợ chồng Tiên Dung. Dưới đáy đầm nước trong vắt, mọi người nhìn rõ cả

tóc tiên dập dờn trong sóng nước. Các cụ già cao tuổi trong làng kể rằng

đó là tóc nàng công chúa Tiên Dung. Khi về trời, nàng vẫn còn lưu luyến

cảnh cũ, nên đã gởi lại món tóc của mình.

Ngày thứ ba của lễ hội, người dẫn vẫn tiếp tục mang hương hoa,

oản quả vào đền lễ thánh, và để được nhận lộc thánh.

Diễn biến của lễ hội theo trình tự như trên, chứng tỏ có khá nhiều

lớp văn hóa đã lắng đọng trong lễ hội. Mở hội là để dân làng tưởng nhớ vị thánh bất tử cùng nhị vị phu nhân, nhưng thực chất là để tưởng nhớ

một anh hùng văn hóa, một ân nhân của làng quê, để ngưỡng mộ một

thiên tình sử diễm lệ. Thực chất đường dây tín ngưỡng để qui tụ các hành

động hội của lễ hội này chính ở phương diện ấy. Có thể có sự đan xen

hòa nhập của đạo Lão, đạo Nho trong truyền thuyết về vị thánh bất tử,

nhưng người dân mở hội để tưởng nhớ tổ tiên, người đã có công lao với

người dân trong vùng, với nước nhà. Âu đó cũng là một nét ứng xử văn

hóa của người hôm nay với người đi trước, cũng là đường dây liên kết giữa hiện tại và quá khứ. Niềm cộng cảm cộng đồng được tái hiện trong

một không gian rộng lớn: khu vực đền, sông nước, đầm Nhất Dạ, bãi cát

dài dặc, các làng lân cận, với những nghi thức cổ sơ. Những hành động

hội ban đầu có lẽ là sự cầu nước của cư dân nông nghiệp. Điệu múa rồng

với hình ảnh con rồng uốn lượn dẫn đầu đám rước cũng là một biểu

tượng của nước, thần nước, bóng dáng đã bị khúc xạ của tục cầu mưa

thời xa xưa. Khác với nhiều lễ hội dân gian của các làng quê trên đất nước Việt Nam, lễ hội Dạ Trạch vừa muốn phản ánh câu chuyện tình say

đắm, thơ mộng, kỳ lạ trong kho tàng truyền thuyết Việt Nam, vừa muốn

tưởng nhớ công đức của Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân. Diễn biến của

hội, vừa gắn bó với truyền thuyết, vừa mang dấu vết quen thuộc của hội

làng. Lễ hội Dạ Trạch vừa có cái chung, nhưng lại có cái riêng khó lẫn.

Cũng khó mà phân biệt được rành mạch đâu là lớp văn hóa gắn với câu

chuyện tình diễm lệ, đâu là lớp văn hóa cổ xưa của cư dân nông nghiệp

tàng ẩn trong trò diễn. Là hội làng nhưng lại là hội để tưởng nhớ một mối tình say đắm, một anh hùng văn hóa, diễn ra trong mùa xuân, với những

dấu vết nơi cõi trần rất thực mà rất ảo, rất thiêng. Sức hấp dẫn của lễ hội

Dạ Trạch chính ở phương diện ấy. Vượt ra ngoài ranh giới của làng, lễ

hội Dạ Trạch trở thành nơi thu hút khách thập phương. Ai chả mong

mình có dịp sống lại niềm cộng cảm cộng đồng của người xưa, chả mong

Page 296: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

365

mình được sống những phút giây thần tiên của khát vọng nhân bản, ẩn

chứa trong mình những biểu tượng đẹp đẽ vĩnh hằng của tình yêu thơ mộng, phóng khoáng, với niềm ngưỡng mộ của các thế hệ sau đối với

một vị thánh bất tử, lễ hội Dạ Trạch sẽ còn sức sống mãnh liệt với thời

gian, trong tâm linh người dân Việt./.

N.C.B -

N.M.S

Page 297: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

367

Hội Chùa Dâu

Lê Trung Vũ

Hội chùa là một lễ hội của đạo Phật. Lễ hội tôn giáo, hiểu nội

dung theo duy danh và quan niệm thông thường là những sinh hoạt mang

tính tôn giáo: đề tài, giáo lý, tổ chức tiến trình lễ thức tưởng niệm Giáo

chủ hoặc Thần, Thánh thuộc diện tôn giáo đó, theo giáo lịch riêng và do

những tu sĩ cử hành phục vụ tín đồ của mình.

Những nội dung trên của lễ hội tôn giáo, ứng vào hội chùa ở Việt

Nam từ 2000 năm nay trong không gian đồng bằng và trung du Bắc Bộ

và với người nông dân Việt cổ lại không hoàn toàn đúng như vậy. Phật

giáo là một tôn giáo ngoại nhập, vào Việt Nam từ rất sớm. Từ ấn Độ đạo

Phật truyền vào nước ta có thể trước cả Trung Quốc, bằng đường bộ, qua

đất Phù Nam, dọc theo bờ biển Trung Bộ, rồi đến Bắc Bộ. Sách sử Việt

Nam Cổ Châu Pháp Văn bảo hạnh ngữ lục chép: "Khâu Đà La và Ma Ha

Kỳ Vực đã cùng nhau tới Luy Lâu, trị sở của Sĩ Nhiếp, cuối đời Hán Linh đế (khoảng 168-169). Khi đến Giao Châu thì Khâu Đà La ở lại"1.

Được biết, Phật phái có ảnh hưởng sâu sắc đối với xã hội Việt Nam

thời cổ là Thiền Tông (Nam tông của Lục tổ Huệ Năng) 2, với một vài

đặc điểm như, Phật giáo Thiền Tông bàn nhiều về phong cách tu hành

(tông phong) hơn là lý luận. Thiền Tông chủ trương đưa niết bàn về trần

thế “đặt nó trong lòng con người, tâm thị Phật” (Niết bàn vô trụ xứ) .

Thiền Tông lại coi lao động như một điều kiện tu hành "nhất nhật bất tác,

nhất nhật bất thực" (một ngày không làm, một ngày không ăn). Như vậy, Thiền Tông coi sự chịu đựng bần khổ trong sinh hoạt cũng là một cách

1 Các sách sử cổ Trung Hoa như Cao tăng truyện, Phật tổ lịch đại thông chí cũng ghi như

vậy. Dẫn theo Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb KHXH, H.1986.

+ Hoặc như Thiền sư Trí Không đời Lý, trong khi đàm đạo với hoàng hậu ỷ Lan đã dẫn lời

sư Đàm Thiên đời Tuỳ nói rằng: "Xứ Giao Châu có đường thông sang Thiên Trúc - Khi Phật

giáo chưa vào Trung Quốc, chưa phổ cập tới Giang Đông mà ở vùng Luy Lâu của xứ ấy đã

xây dựng hơn 20 bảo sát, độ được 500 ni tăng và dịch được 15 bộ kinh rồi. Thế là xứ ấy

theo đạo Phật trước ta....." (Thiền Uyển tập anh, truyện Thông Biện. Dẫn theo Hà Bắc

ngàn năm văn hiến, Tập I, Ty Văn hoá Hà Bắc, 1973.

2 Sách đã dẫn trang 156-157.

Page 298: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

368

rèn luyện của người chân tu. Hơn thế, những tư tưởng bình đẳng, nhân ái,

không thừa nhận đẳng cấp của Phật giáo là một điểm rất đáng lưu ý đối

với người Việt đương thời. Bởi vì, cũng vào thời điểm ấy, sức sống bên

ngoài và sức mạnh bên trong của làng và người Việt cổ (tinh thần cố kết cộng đồng, tinh thần bình đẳng, dân chủ thời công xã) cùng với các tín

ngưỡng dân gian bản địa hình thành trong nền văn minh Việt cổ - văn

minh sông Hồng- đã tồn tại như một giá trị, một bản sắc, nên khi cộng

đồng này tiếp xúc với Phật giáo đã không xảy ra phản ứng đối kháng,

song lại tạo ra sự hoà nhập hay hỗn dung tôn giáo. Đạo Phật đã được

"bản địa hoá", "dân gian hoá", nghĩa là từ khi ấy đã được người tiểu nông

Bắc Bộ coi là người bạn đồng hành tư tưởng của mình, Đức Phật trở

thành gần gũi, "hoá" thành ông "Bụt"(Bouddha) quen thuộc trong tâm linh dân làng. Bụt thành thần linh thiêng, hiền lành ("hiền như Bụt"),

chuyên làm việc thiện, khuyên điều thiện, hay xuất hiện trong truyện cổ

tích thần kỳ để giúp người nghèo khổ, bất hạnh.

Ngược lại, Phật giáo khi nhập vào Việt Nam cũng bám ngay vào

mảnh đất đầy sinh khí của tinh thần công xã, kết hợp với tín ngưỡng dân

gian địa phương, với nền kinh tế nông nghiệp, sinh hoạt văn hoá bản địa,

tạo cho bản thân một biến dạng mới, phong phú về biểu hiện và đa dạng

về hoạt động sùng tín. Nhà sư và ngôi chùa thành những hiện thân vật chất có sức cuốn hút mạnh mẽ trong đời sống hàng ngày của dân làng.

Như vậy, Phật giáo đã bắt rễ vào làng, vào tư tưởng và tình cảm người

làng, lệ làng để tồn tại. Ngôi chùa, giáo đường nhà Phật được xây dựng

ngày càng nhiều từ rất sớm tại các làng quê Bắc Bộ1. Nhà chùa không bỏ

qua những lễ thức nông nghiệp và các tín ngưỡng liên quan đến trồng

trọt, chăn nuôi của các làng quê.

Và Man Nương - cùng huyền tích - người làng Mèn (Mãn Xá, xã Hà Mãn, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh), với tàn dư mẫu quyền trong xã

hội Việt cổ đã nhanh chóng nhập vào Phật điện (ở Luy Lâu, đất khởi

nguyên của đạo Phật ở Việt Nam), trở thành Phật mẫu (cũng như ỷ Lan

phu nhân sẽ thành quan âm nữ về sau) rồi lại sinh ra - một cách gián tiếp-

tứ pháp: Pháp Vân (mây), Pháp Vũ (mưa), Pháp Lôi (sấm, sét), Pháp

Điện (chớp)2, tạo ra huyền thoại Tứ pháp1 và bộ tượng Tứ pháp ra đời là

1 Theo Giao châu bát huỵện ký thì ở đồng bằng Bắc Bộ hồi thuộc Đường (thế kỷ VII-VIII)

đã có 88 ngôi chùa nổi tiếng. (Mùa xuân và phong tục Việt Nam, NXB Văn hoá,H,1976). 2 Hệ thống Tứ pháp này từ Dâu - Luy Lâu- đã truyền đi các địa phương khác như chùa Tứ

Pháp xã Lạc Hồng (huyện Mỹ Văn, Hưng Yên), chùa Tứ Pháp - Văn Giáp (huyện Thường

Tín, Hà Tây).

Page 299: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

369

dựa trên hoàn cảnh lịch sử đó. Ai cũng có thể thấy đây là mối quan hệ

chặt chẽ giữa thời tiết và nghề nông, để rồi biến Phật đài và nhà chùa

thành nơi thực hiện hai chức năng song hành: cầu Phật và cầu phúc thần

nông nghiệp. Ngoài ra, để có sức sống bền vững hơn, dân dã hơn, đạo Phật - ngôi chùa, trên bệ thờ Tam bảo - đã tiếp nhận những tín ngưỡng cổ

địa phương như tục thờ giới tự nhiên (tục thờ đá...) hoặc tín ngưỡng phồn

thực2. Gần gũi và quen thuộc hơn là tín ngưỡng thờ tổ tiên (Tứ Ân) hoặc

có nhu cầu để "hậu" được nhà chùa dành cho bệ thờ những bình hương

"ký kỵ". Hoặc nữa, trên Phật đài còn suy tôn cả thần bản mệnh của làng,

thần văn hoá, hoặc một ông vua.....(mô hình "Tiền Phật hậu Thánh",

"Tiền thần hậu Phật"3). Hoặc nữa, nhà chùa sẵn sàng tiếp nhận cả Đạo

Tứ phủ, lập riêng điện thờ Mẫu....

Hàng năm, sau Tết Nguyên đán vào xuân hoặc cả sang thu, chùa lại

mở hội - Hội Chùa - nhưng lại mang nội dung và chức năng hội làng, để

dân làng thực hiện mọi kỳ vọng và vui chơi. Ngay ở nơi tôn nghiêm với

giáo lý "diệt dục" này, trai gái vẫn súng sính áo quần ngày hội, kéo nhau

tới đây, trên sân chùa, hoặc ngoài cửa chùa, hát giao duyên suốt thời kỳ

hội mở!

Chúng ta theo dõi hội chùa Dâu để thấy rõ hơn những đặc điểm

trên.

Dâu chính là Luy Lâu (Liên Lâu), nơi hai nhà sư Khâu Đà La và

Ma Ha Kỳ Vực, từ ấn Độ tới và truyền giảng đạo Phật. Nơi đây cũng là

trị sở của Sĩ Nhiếp, thái thú Giao Châu hồi đầu Công nguyên. Dâu còn cả

dấu tích thành cổ, trung tâm của chính quyền đô hộ đương thời.

Chùa Dâu thuộc thôn Khương Tự, xã Thanh Khương, huyện Thuận

Thành, Bắc Ninh. Tháp Hoà Phong ở sân chùa cao, được coi là mốc của

1 "Tứ Pháp luôn giúp dân làm mưa nắng thuận hoà. Đời vua Lý Nhân Tông (1072-1128)

trong nước "Ba năm mưa gió đùng đùng đã ran", vua sai rước Phật Pháp Vân về chùa Báo

Thiên ở Thăng Long để cầu, mùa màng liền phong đăng hoà cốc. Rồi lại một lần "3 thu đại

hạn theo hành khó khăn", Phật Pháp Vân lại được rước về chùa Khẩu Sơn ở phía tây điện

Rồng để vua làm lễ cầu, thì "Trời liền mưa xuống đùng đùng bốn phương"...Như vậy, cứ

mỗi lần trong nước gặp hạn, các vua...lại cầu đảo và bao giờ cũng ứng nghiệm". Tứ Pháp

còn giúp dân giữ nước, chống ngoại xâm. Trong cuộc chống quân Tống xâm lược thời Lý,

Phật Pháp Vân được rước lên Thái Nguyên và đã tham gia chiến đấu, giành thắng lợi vẻ

vang". (Hà Bắc ngàn năm văn hiến. Tập I. Ty văn hoá Hà Bắc, 1973). 2 Tại chùa Dâu, bên cạnh tượng Phật Thích Ca, Bồ Tát Pháp Vân, còn thờ đá, gọi là đức

Thạch Quang. Hiện vật gợi biểu tượng lin-ga, tín ngưỡng phồn thực (Sách vừa dẫn, tr.168).

Hoặc như chùa Bà Đá (Hà Nội). Khởi điểm dựng chùa là đào được ở đây bức tượng bằng

đá. Tượng được đem thờ khi dựng xong chùa và lấy tên tượng làm tên chùa. 3 Như chùa Bối Khê (Hà Tây), chùa Keo (Thái Bình)...

Page 300: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

370

chùa, ai đi hội cũng hướng về đó. Xưa, chùa có tên là Cổ Châu tự, rồi

Thần Định tự, nay là Diên ứng tự, thờ Pháp Vân.

Có thể ban đầu chùa chỉ dựng bằng tre nứa, mái lợp tranh. Còn kiến

trúc chùa hiện nay là gạch, gỗ, ngói, với nhiều công trình chạm khắc ghi dấu ấn rất cổ.

Dù ai đi đâu về đâu

Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về

Dù ai buôn bán trăm nghề

Nhớ ngày mồng 8 thì về hội Dâu.

Hội Dâu mở ngày mồng 8 tháng tư, là hội hàng tổng. Dự hội Dâu

không chỉ là hành hương về đất Phật, mà người ta gặp ở đây những sinh

hoạt văn hoá của cư dân nông nghiệp. Năm ngôi chùa thờ năm mẹ con bà Man Nương quây quần trong năm làng. Hội tưng bừng và mang nhiều ý

nghĩa là nhờ các đám rước: rước chào, rước đón, rước đưa. Người rước

kiệu là trai, gái tuyển chọn trong 12 làng (cả tổng), mỗi làng góp từ 20

đến 50 người:

1- Bà Man Nương (Phật Mẫu) trụ ở Chùa Tổ (Mãn Xá).

2- Bà Dâu (Pháp Vân - con cả) ở chùa Dâu (Thiền định Diên ứng)

ở Thanh Khương.

3- Bà Đậu (Pháp Vũ- con thứ hai) ở chùa Đậu (làng Hành Đạo).

4- Bà Tương (Pháp Lôi - con thứ ba) ở chùa Phú Tương (Thanh

Tương).

5- Bà Dàn (Pháp Điện - con út) ở chùa Phương Quan.

Mồng 8 tháng tư, các làng rước tượng ba bà Pháp Lôi, Pháp Điện,

Pháp Vũ về chùa Dâu hội với chị cả. Người dự hội quá đông, không

rước được, bà Dàn cho đánh gậy. Ba mươi hai (32) gậy trao cho các

tráng đinh múa một vũ khúc mạnh, đẹp mắt, để "dẹp đám", mở lối cho đám nhao lên đường.

Đúng ngọ (12 giờ trưa), bà Dâu lại cùng bà Đậu thi cướp nước. Khi

lệnh phát ra, dân hai làng Phương Quan, Hành Đạo rước kiệu hai bà chạy

từ cửa chùa Dâu ra tam quan (khoảng 300m). Đặt kiệu xuống, mỗi kiệu

một đô tuỳ (người khiêng) cầm bình múc nước ở giếng rồi thì nhau về

trước, lĩnh thưởng. Khi bốn chị em hội ngộ rồi thì đám rước Tứ Pháp về

chùa Mãn Xá bái vọng mẹ là Mẫu Man Nương. Mồng 9 hội cũng diễn ra

như vậy. Rồi cả đám rước lớn đi quanh tổng một vòng (từ chùa Dâu lại

Page 301: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

371

về chùa Dâu). Đám rước tới Thanh Tương, bà Tương (Pháp Lôi) chào

chị, chào em rồi về chùa Pháp Lôi. Đến Phương Quan bà Điện chào hai

chị Vân, Vũ để về chùa mình. Đến chùa Dâu, hai bà Vân, Vũ chào nhau

ai về chùa nấy.

Ngoài trò cướp nước, dâng nước, đánh gậy trên bãi chùa Dâu, còn

có múa sư tử, múa hoa trang rùa và hạc, múa trống, đấu vật, cờ người và

đốt cây bông. Người hành hương và dự hội đêm ngày lui tới không lúc

nào ngớt. ý nghĩa của nghi lễ rước không chỉ là tình Mẹ - Con, Chị -

Em - biểu hiện đức độ truyền thống, mà đám

rước còn được hiểu là sự giao hoà thời tiết.

Rõ ràng ở đây gọi là đất Phật tổ mà đạo Phật đã nhường cho tín

ngưỡng dân gian với nghi thức nông nghiệp được cử hành vào ngày 8 tháng tư, tức lễ Phật đản. Liên tưởng về hội Dóng (mồng 9 tháng tư)

càng làm sáng tỏ đó là nhịp cầu mùa phổ biến của ngươì Việt vùng trung

châu này1. Hơn nữa, ngày Phật đản, mà chính Pháp Vân là một hoá thân

của Phật lại cũng là biểu tượng của tín ngưỡng nông nghiệp và tôn giáo

bản địa. Ngày Phật đản gốc ấn Độ, tới chùa Dâu, đất Việt đã trở thành

ngày sinh Pháp Vân. Như vậy, đạo Phật đã hoà nhập vào tín ngưỡng bản

địa.

Thật là hiền hoà, dân dã, mang màu sắc địa phương và thấm nhuần chất lễ hội nông nghiệp để hội làng vẫn là hội chùa. Nói cách khác, ở

thời điểm này, hội chùa đã thu nhận chức năng của hội làng.

Như vậy, hội chùa cho thấy rõ, từ hàng ngàn năm qua đã mở rộng

nội hàm. ở đây vẫn là một lễ hội tôn giáo, đồng thời cũng là một sinh

1 Câu ca lịch hội cùng lịch thời tiết từng hội:

Mồng 7 hội Khám, mồng tám hội Dâu

Mồng 9 đâu đâu trở về hội Dóng.

Và: Lâm râm hội Khám

U ám hội Dâu

(Nắng) Vỡ đầu hội Dóng.

Page 302: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

372

hoạt văn hoá dân gian của cộng động làng xóm người Việt. Đạo Phật đã

hoà nhập vào cuộc sống nông thôn Việt Nam để tồn tại và phát huy tác

dụng./.

L.T.V

Page 303: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

373

Lễ hội làng Diềm

NguyễnMinh Hoàng - Đặng Mai Hồng

Đền đức Vua Bà, cũn gọi là đền Vương Mẫu nằm ở làng Viờm Xỏ

(tờn cổ là làng Diềm), xó Hoà Long (tức tổng Chõm Khờ), huyện Yờn

Phong (ngày xưa là huyện Vừ Giàng), tỉnh Bắc Ninh. Đền thờ một người

phụ nữ, tương truyền là người đầu tiờn cú cụng sỏng tỏc (đặt chuyện) và

dạy cho dõn làng hỏt quan họ cỏch đõy hàng thế kỷ. Triều đỡnh phong

tặng, nhõn dõn tụn sựng là đức Vua Bà, tức Bà Vua sinh ra điệu hỏt quan họ Bắc Ninh. Thể hiện rừ nhất ở hai cõu đối trước cửa đền thờ Bà:

“Trung liệt hiển hồi hương vạn cổ cương thường hoành vũ trụ

Thần linh hưng viờm ấp lũy triều phong tặng đối càn khụn”.

Ngày mồng 6 thỏng hai hàng năm cả làng Diềm cỳng giỗ đức Vua

Bà. Ngày này từ lõu cũng đó trở thành ngày lễ hội làng Diềm, tưng bừng

nỏo nhiệt. Họ chuẩn bị nhiều ngày trước đú với những thứ đặc sản, cầu

kỳ như bỏnh dợm, bỏnh khỳc, bỏnh chưng... để cỳng tại nhà. Trước khi cỳng tại nhà, họ soạn một mõm hoa quả, vàng hương đem lờn để cỳng

đức Vua Bà và dõng tiền cụng đức, ớt nhiều tuỳ tõm. Bỏnh dợm làm

bằng bột nếp trắng tinh, chớnh giữa cú nhõn bằng đỗ xanh màu vàng

thơm, vừa đẹp, vừa ngon. Bỏnh khỳc làm bằng xụi nếp quyện vào những

lỏ khỳc được gió nhỏ. Bỏnh chưng màu xanh như lỏ lỳa, xanh từ trong

ruột bỏnh, vỡ họ gió lỏ gừng trộn vào nếp, trụng đẹp, thơm ngon, độc

đỏo. Ăn một miếng, nhớ mói khụng quờn.

Bạn bố, bà con, liền anh, liền chị hẹn nhau hỏt đối đỏp quan họ vào ngày giỗ này. Cỏc gia đỡnh chuẩn bị đún khỏch liền anh, liền chị cỏc nơi

đến chơi nhà nhộn nhịp đường trờn ngừ dưới.

ở đõy, cú 4 điểm di tớch văn hoỏ, lịch sử: Đền Cựng - Bà Chỳa,

chựa thờ Phật, đền Vua Bà và đỡnh làng Diềm... như một quần thể tuyệt

đẹp, hài hoà cỏch nhau khoảng năm chục một. Giữa cú sõn vận động và

một hồ nước rộng, con sụng nhỏ uốn khỳc quanh làng và xa xa là dóy nỳi

nhấp nhụ như một bức tranh sơn thuỷ hữu tỡnh.

Đền Cựng - Bà Chỳa cú từ rất lõu, được xõy ở vị trớ cao rỏo, mỏt mẻ. Lưng đền tựa vào nỳi, cửa đền hướng về phớa nam. Trước đền cú

giếng Ngọc, cũn gọi là giếng Tiờn, nước uống tinh khiết, trong lành,

Page 304: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

374

hiếm thấy ở nơi nào cú loại nước như vậy, đặc biệt khi nấu chố xanh, cú

màu sắc, mựi thơm đặc biệt. Giếng được bao bọc thường xuyờn vỡ búng mỏt của cỏc cõy cổ thụ trựm lờn, đỏng chỳ ý là cõy duối to, cao, xum

xuờ. Dưới giếng cú hai con cỏ vàng, một đực, một cỏi, sống với nhau đó

bao đời này, độ lớn rất chậm, khụng đỏng kể. Người dõn ở đú chứng kiến

những năm lụt to, nước tràn trờn giếng nhiều ngày mà đụi cỏ vẫn khụng

đi nơi khỏc.

Hàng năm, người làng này thắp hương, tỏt giếng một lần. Tỏt giếng

mỳc kiệt nước, từ mạch ngầm dưới đỏy nước lại ựn lờn như cũ, vẫn rất

trong và xanh lơ.

Đỡnh làng Diềm là một cụng trỡnh kiến trỳc cổ nổi tiếng, cột lim

to, khụng cú mộng, con xỏ, chạm trổ rất tinh tế, tỷ mỉ, cụng phu. Cho

nờn bao đời nay đó cú cõu:

“Thứ nhất là đỡnh Đụng Khang

Thứ hai đỡnh Bảng, vẻ vang đỡnh Diềm”

Bắc Ninh là trung tõm điểm của vựng văn hoỏ Kinh Bắc, cú 49

làng quan họ, trong đú huyện Yờn Phong cú 17 làng. Trong ngày hội

làng Diềm dõn quanh vựng tập trung về đõy để dõng hương, cỳng tế và thi tài hỏt đối đỏp với nhau. Khụng chỉ huyện Yờn Phong mà cũn cú cỏc

huyện khỏc như Hiệp Hoà, Tiờn Sơn cũng về dự thi hỏt.

Trong ngày hội, nhõn dõn nhiều nơi trong tỉnh, nhiều cơ quan

Trung ương và Hà Nội, khỏch thập phương và cả khỏch nước ngoài nữa

về dự rất đụng. Từ thị xó Bắc Ninh vào làng Diềm khoảng 5km, đường

sỏ khú khăn, nhưng khỏch thập phương vẫn hối hả, hào hứng đến dự.

Mọi người núi vui với nhau: Đức Vua Bà linh thiờng phự hộ. Dõn ở đõy kể rằng: Mồng 6 thỏng hai năm nào thời tiết cũng tốt khụng cú mưa.

Mở đầu lễ hội là màn trỡnh diễn của đức Vua Bà và một dàn mỳa

nộm cầu cho nhau trong ngày xuõn trẩy hội. Đức Vua Bà dự hội thấy

vui, nhưng muốn cho dõn làng ngày xuõn trai gỏi được vui hơn, Bà đó

nghĩ ra việc dạy cho mọi người hỏt quan họ đối đỏp. Những ngày Tết,

thường “hỏt canh” qua đờm. Đức Vua Bà mặc ỏo màu vàng, thờu thựa

cụng phu, đầu đội khăn xếp vàng, tay cầm quạt lụng tiờn, kiểu hoàng

hậu. Người đúng vai đức Vua Bà cú dỏng người cõn đối, rất đẹp, mắt hiền, mặt trũn trỏi xoan, phỳc hậu do dõn làng Diềm họp bỡnh chọn rất

nghiờm tỳc từ mấy thỏng trước, đầu tiờn là cụ này phải là con gia đỡnh

mấy đời nội ngoại trong sỏng về đạo đức, mẫu mực về cuộc sống, siờng

Page 305: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

375

năng trong lao động, sỏng tạo trong làm ăn, kinh tế khỏ giả. Sau đú mới

là tới tiờu chuẩn thanh tõn, xinh đẹp.

Sau màn trỡnh diễn nộm cầu là đến tiết mục rước cỏc kiệu vàng. Đi

đầu là kiệu đức Vua Bà. Trờn kiệu cú hương hoa, cũn đức Vua Bà thỡ đi

bộ, bờn cạnh cú hai vệ nữ, đằng sau cú một đoàn nữ tỳ đi hàng đụi, ăn

mặc quần ỏo toàn màu vàng, đớnh kim tuyến. Thứ ba là một kiệu cú lẽ là

kiệu của một tướng đi hậu vệ. Xen vào kiệu đầu tiờn là đoàn cỏc cụ ăn

mặc ỏo dài xanh cỏnh sả, đầu đội khăn xếp, cầm cờ ngũ sắc, tượng cho

ngũ hành: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Điều đú muốn núi cuộc sống con

người luụn phải hài hoà trong vũ trụ. Xen vào sau kiệu đức Vua Bà là đoàn quõn ăn mặc đồ chiến trận, cầm vũ khớ kiểu cổ, sơn son thiếp vàng.

Những vũ khớ đú đều chạm trổ: long, ly, quy, phượng, thể hiện bốn con

đú gắn bú mật thiết với con người để chiến thắng cỏc thế lực ỏc quỷ, tàn

bạo.

Đỏm rước dài dằng dặc. Điểm dừng chõn đầu tiờn là trước sõn đền

đức Vua Bà. Mọi người dõng hương, hoa, mõm cỗ tiến cỳng đức Vua

Bà, mời đức Vua Bà đi vón cảnh ngày xuõn, tượng trưng bằng việc đưa

bài vị đức Vua Bà từ đền lờn kiệu, rước đến đền Cựng - đền Bà Chỳa để thắp hương viếng tổ tiờn của làng và mỳc một lọ nước từ giếng Ngọc đưa

về đền Vua Bà. Sau đú đoàn rước đi tiếp về sõn đỡnh Diềm dõng hương

và kết thỳc cuộc rước.

Khi đỏm rước kết thỳc là cỏc cuộc vui chơi, thi hỏt, đỏnh cờ, đỏnh

đu...

Lễ hội làng Diềm, một sự kiện văn hoỏ đậm đà bản sắc dõn tộc,

cũng là ngày giỗ đức Vua Bà, thủy tổ dõn ca quan họ Bắc Ninh đó gõy dấu ấn sõu đậm trong tõm hồn mọi người dõn làng Diềm và khắp cỏc

huyện Yờn Phong, Tiờn Sơn, Hiệp Hoà và khỏch thập phương.

Sau lễ hội, ai cũng cảm thấy trong lũng thanh thản, tinh thần hướng

về cội nguồn đẹp đẽ để phỏt huy tớch cực trong đời sống của mỗi người.

Bởi, “uống nước nhớ nguồn” là đạo lý của người Việt Nam./.

N.M.H - Đ.M.H

Page 306: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

377

Hội Dô Kiều Thu Hoạch

Hội Dô, tức hội hát Dô, là một lễ hội gắn liền với những lễ nghi

phong tục thờ Đức Thánh Tản ở xã Liệp Tuyết (nay là xã Tuyết Nghĩa,

huyện Quốc Oai).

Xã Liệp Tuyết nằm ven bờ sông Tích, là một vùng đất cổ, tương truyền Tản Viên sơn thánh đã có lần qua đây, thấy phong cảnh tươi đẹp, bèn

dừng lại chơi. Khi ấy, trai gái dưới đồng ruộng vừa cày cấy, vừa ví von trêu

ghẹo nhau. Đức Thánh Tản thấy vậy rất hứng thú, bèn cho xây dựng Xuân

Ca cung (hoặc còn gọi đền Khánh Xuân), rồi gọi đám trai gái tới dạy họ hát

múa. Các bài ca thánh dạy đều được ghi lại trong sách Quốc nhạc diễn ca1.

Do sự tích này, mà Liệp Tuyết có hội múa hát để ghi nhớ công ơn Đức

Thánh.

Lại có truyền thuyết kể rằng, có lần đức Thánh qua chơi xã Liệp

Tuyết, đã dạy cho dân biết cách chọn hạt lúa giống và cách làm ruộng. Sau

đó, Đức Thánh Tản đi chơi nơi khác, hẹn ngày lúa chín sẽ quay lại. Nhưng

nhân dân địa phương đã mỏi mắt chờ trông mà chưa thấy ân nhân trở lại.

Mãi 36 năm sau, Thánh Tản mới tới, thấy dân đã no đủ, bèn tập hợp trai gái

trong làng để dạy họ múa hát, mừng dân no ấm được mùa. Thế là từ đó, dân

làng xây đền thờ Đức Thánh Tản, và cứ 36 năm, dân làng theo lệ, lại mở hội

ca múa tưng bừng, gọi là hội hát Dô, để nghi nhớ công ơn Đức Thánh Tản đã dạy dân làm ruộng và ca hát.

Hội Dô vào đám từ mồng 10 đến 15 tháng giêng âm lịch thì kết thúc.

Nhưng việc sửa sang đền thờ và may sắm lọng cờ thì phải chuẩn bị từ trước

đó hàng năm. Việc tập ca hát cũng được dân làng bắt đầu từ sau rằm Trung

thu năm trước, hoặc có khi còn sớm hơn. Tối tối, trai gái các thôn xóm đều

náo nức tập luyện để còn đua tài với nhau. Vì thế, tuy hội chưa mở mà không

khí trong làng đã thấy rộn rịp khác thường. Cuộc tập luyện kéo dài đến tháng Chạp thì ngừng, để chuẩn bị quần áo và các vật dụng cho ngày vào đám.

1 ở xã Liệp Tuyết hiện còn văn bản Quốc nhạc diễn ca, bằng chữ nôm do Trúc Hiên Hải Hàm

sao năm Khải Định I (1916), từ một bản sao năm Tự Đức 29 (1875). Nghe nói bản gốc có từ

thời Lê, do một ông cống người địa phương sưu tập các bài ca truyền miệng trong dân gian,

chỉnh lý và ghi chép thành văn bản như hiện nay còn thấy.

Page 307: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

378

Từ chiều mồng 9 tháng giêng, bắt đầu cuộc rước kiệu của toàn xã từ

đình miếu ra đền. Việc rước kiệu cũng có những tục lệ và nghi thức chặt chẽ.

Trai tráng khoẻ mạnh, trong sạch, mới được chọn khiêng kiệu. Cứ 4

người khiêng một kiệu, người này mỏi thì người khác thay. Đi trước kiệu là

các chức sắc trong xã; hai bên kiệu có người vác cờ, vác lọng đi kèm. Những

người trong các Ban hát gồm Cái hát (người con trai dẫn đầu) và các Con

hát (đều là con gái, còn gọi là Bạn nàng ) cũng được đi trước kiệu, mỗi

người đều có ô che đầu. Người con trai làm Cái, được chọn lựa khá kỹ, đó là

một chàng trai khôi ngô và có giọng hát trong trẻo. Còn Bạn nàng thì chọn

gái trinh, tuổi từ 13 đến 17. Cả Cái và Bạn nàng đều phải “quang quẻ” (nhà không có tang, bản thân trong sạch, chay tịnh...).

Đám rước gồm nhiều thôn nối dài theo thứ tự vai vế. Đại phu là thôn

anh cả của xã Liệp Tuyết được đi đầu, sau đó đến thôn Vĩnh Phúc là anh hai,

rồi tiếp theo là các thôn Bái Nội, Bái Ngoại... Cả đám rước là một rừng cờ,

đủ màu xanh, đỏ, hoa lý... bằng lụa, uốn lượn trong tiếng trống tưng bừng,

rộn rịp.

Những thanh niên cầm cờ, vác lọng, khiêng kiệu thì đầu quấn khăn

lượt, mặc quần trắng áo the đen, chân quấn xà cạp hoặc đi giầy vải. Cái cũng

ăn bận tương tự, nhưng chân không quấn xà cạp. Các bạn nàng thì mặc áo

năm thân, bên trong là áo đỏ, giữa là áo xanh, ngoài cùng là áo the đen, chân

đi dép cong, cổ đeo chuỗi hạt vòng, tay đeo nhẫn, cầm khăn đỏ, quạt và túi

múi cam nhiều màu sặc sỡ.

Khi đám rước kiệu đã tề tựu trước đền Khánh Xuân rồi, mọi người lại

về nhà. Sáng hôm sau, mồng 10 tháng giêng, thực sự bắt đầu vào hội,bắt

đầu cử hành đại lễ tại đền. Thôn anh cả Đại Phu

phải đến sớm và được vào hát trước tiên.

Trình tự cuộc hát lễ như sau: Cái dẫn các Bạn nàng vào trước đền, rồi gõ nhịp sênh làm hiệu cho các Bạn nàng vào trước bàn thờ. Tất cả đều đi theo hình chữ “chi”. Khi nghe sênh báo hiệu cho các Bạn nàng bỏ dép, bước vào chiếu, rồi bắt đầu cất tiếng hát theo các bài như đã ghi trong văn bản cổ.

Sau khi hát xong một chầu, thì Cái và các Bạn nàng được nghỉ, và bấy giờ cuộc tế lễ mới bắt đầu. Khi tế lễ thì riêng Cái và Bạn nàng thôn Bái Nội được ở lại để hát bỏ bộ. Tiếp đó, các thôn lần lượt thay nhau vào hát. Cuộc hát thờ diễn ra từ sáng đến xế chiều mới xong. Các ngày sau cũng vẫn diễn ra như vậy.

Trong khi ở đền cử hành tế lễ và hát thờ trang nghiêm, thì ở ngoài sân đền, lại là một bãi hội tưng bừng náo động với các trò vui dân dã như đánh

Page 308: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

379

đu, chọi gà, cờ người, múa rối nước1... thu hút người hàng tổng, người của mọi miền Xứ Đoài cùng đông đảo khách thập phương tới xem.

Đến chiều ngày 15 tháng giêng thì hết hội. Nhân dân các thôn lại rước kiệu từ đền về miếu của thôn mình, để rồi 36 năm sau mới lại có một lần mở hội tiếp.

Tuy mấy chục năm mới mở hội một lần, song Hội Dô vẫn để lại ấn tượng sâu sắc trong nhân dân Xứ Đoài. Nội dung của hội có tế lễ, có rước kiệu, có các trò vui dân gian, nhưng nổi bật và chủ yếu vẫn là phần ca hát. Vì thế, có phần trái với thông lệ là lấy tên làng để gọi tên hội, ở đây người ta lại lấy tên ca khúc để gọi tên hội. Chẳng hạn, do trong bài hát Chèo thuyền tới đoạn kết thúc những tiếng đệm “huầy dô, huầy dô” rồn dập, sôi nổi, mà nhân dân đã gọi hội làng Liệp Tuyết là Hội Hát Dô.

Đặc biệt, trong hát Dô còn có cả múa, do đó cuộc hát khá sinh động và gây được nhiều hứng thú cho người xem.

Như khi hát phần Lời ca chính, thì có động tác đi vào đi ra khỏi bàn thờ theo hình chữ “chi”, hoặc có những động tác chèo thuyền, do các Bạn nàng dùng quạt giấy tượng trưng cho mái chèo, miệng hát tay chèo, chân cũng bước lên lùi xuống nhịp nhàng trông rất đẹp mắt.

Nhất là khi hát sang phần hát Bỏ bộ, thì càng nhiều “điệu bộ” hơn. Ví

như hát đến câu:

Ngồi rồi lấy chỉ ra xe,

Lấy kim ra xỏ, ngồi hè vá may.

Các Bạn nàng đều ngồi xuống và làm các động tác xe chỉ, luồn kim,

may vá... thật thú vị.

Theo kết quả bước đầu của giới nghiên cứu âm nhạc, thì Hát Dô có tới trên 20 làn điệu, vừa mang những nét độc đáo của Xứ Đoài, vừa có

những âm điệu chung của dân ca nghi lễ vùng trung du và đồng bằng Bắc

Bộ.

Còn về mặt lời ca, thì ngoài những bài hát trữ tình giao duyên, phản

ánh tình yêu nam nữ, hạnh phúc lứa đôi, chắc chắn xuất hiện vào giai đoạn

muộn, những bài dân ca nghi lễ còn lại ngôn từ đều rất cổ, rất mộc mạc,

nghe như âm vang của những lời ca khẩn nguyện nguyên sơ của các thị tộc ở dưới chân núi Tản:

1 Hiện còn dấu tích ao rối cổ truyền ở thôn Đại Phu.

Page 309: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

380

Bước chân vào tôi chầu Thánh Cả,

Bước chân ra tôi tạ thiền quan

Đức Thánh Cả vâng chạ cho an,

Tả hữu thiền quan,

Vâng lấy chúng tôi an lành...

Điều đó chứng tỏ cội nguồn cổ xưa của Hội Hát Dô. Điều đó cũng

ứng hợp với những lễ tục và huyền tích mà nhân dân Liệp Tuyết đã coi thần

núi Tản như một anh hùng khai sáng, anh hùng văn hoá./.

K.T.H

Page 310: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

381

Hội Tế cá Dương Xá

Phạm Minh Đức – Phạm Thị Nết

- Phạm Thị Lan

Làng Dương Xá tỉnh Thái Bình nằm ở bên trái đường 39 thuộc

địa phận xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà ngày nay.

Bảy trăm năm trước, Dương Xá thuộc đất làng Thái Đường, huyện Ngự Thiên, phủ Long Hưng, nơi phát tích, "chốn thiêng" của

vương triều Trần. Vì vậy, những sinh hoạt văn hoá (hội hè, rước lễ) trước

đây ở Dương Xá cũng như ở các làng phụ cận phần lớn liên quan chặt

chẽ đến nhà Trần. Có thể nói, hội tế cá được tổ chức hàng năm vào ngày

mồng 5 và mồng 6 tháng giêng ở Dương Xá là biểu hiện cụ thể cho mối

quan hệ ấy.

Nhà Trần lên ngôi, chọn vùng Tức Mạc (Thiên Trường - Nam

Định) quê hương tổ bốn đời làm nơi xây dựng hành cung, nơi nghỉ ngơi vui chơi cho các thượng hoàng1; chọn huyện Ngự Thiên (Long Hưng-

Thái Bình) làm nơi đặt mộ tổ, lăng tẩm. Nên các lăng: Thọ lăng, Chiêu

lăng, Dụ lăng, Đức lăng, an táng Thái Thượng hoàng Trần Thừa và các

vua Thái Tôn, Thánh Tôn, Nhân Tôn đều được đặt ở đây2.

Việc lựa chọn này được tiến hành vào thời kỳ hưng thịnh và vẻ

vang nhất của triều Trần. Đó không chỉ là chỗ ở: nhà Trần nhận thấy rõ

cái lợi thế về kinh tế, chính trị, quân sự của vùng đất Long Hưng (tiện

đường giao thông, xa cửa ngõ biên giới phía Bắc, nằm sâu trong vùng hậu phương, dân đông, vật lắm...) mà còn là tập tục cổ truyền của dân tộc

là muốn trở về, gửi xác nơi quê cha đất tổ (giống như các vua Lý chọn

Tiên Sơn, vua Lê chọn Lam Kinh).

Nhưng Thái Đường (tức Dương Xá, Tây Nha, Tam Đường sau

này) không hẳn chỉ là khu lăng tẩm, xen trong đó còn có những hành

cung đền miếu lớn, lộng lẫy như: điện Thiên An, điện Diên Hiên, thềm

Thiên Trì.v.v... Hai đội quân lớn mang tên Hải Khẩu và Hổ Dực ngày đêm bảo vệ khu vực này.

Đất Long Hưng được các vua Trần coi là đất tổ. Quân dân vùng

Long Hưng được xem như con em thân thuộc. Các đội quân: Thiên

1 Tính đến đời Trần Thừa.

2 Riêng vua Trần Hiếu Tôn được an táng ở An Lăng (Kiến Xương) tức Đồng Thanh (Vũ

Thư nay).

Page 311: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

382

Thuộc, Thích Chương, Chương Thánh, Củng Thần (quân cấm vệ) của

nhà Trần đều là con em vùng Long Hưng. Cai quản những đội quân này là những người quốc thích hoặc tướng giỏi của triều đình. (Tướng quốc

Trần Nhật Hiệu quản quân Tinh Cương, tướng Phạm Ngũ Lão quản

quân Thiên Thuộc).

Vây quanh khu lăng tẩm, đền, miếu là các điền trang thái ấp lớn

của các vương hầu, quý tộc nhà Trần. Thái ấp của tướng quốc Trần Nhật

Hiệu chính là làng Dương Xá, thuộc xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà ngày

nay.

Dương Xá nằm chạy dài chừng ba cây số, ôm lấy phía đông khu lăng tẩm với diện tích khoảng chừng 250 mẫu. Tại đây, Trần Nhật Hiệu

đã cho xây dựng một hành cùng lớn được gọi là Đầu đài sứ và thành lập

một đội quân riêng- Đó chính là một trong số những đội quân mạnh nhất

của nhà Trần sau này - Quân Tinh Cương.

Sau khi Trần Nhật Hiệu mất, dân làng Dương Xá tôn ông làm

thành hoàng.

Miếu thờ ông được đặt ở thôn Lê. Đình thờ ông được đặt ở thôn

Trung. Chỗ cao nhất, đẹp nhất trên cánh đồng làng Dương Xá là nơi đặt mộ ông. Theo ghi chép của Lê Quý Đôn thì mộ Trần Nhật Hiệu rộng

chừng 5 sào, nằm cạnh một ngôi mộ không rõ của ai cũng rộng chừng 5

sào. Trên đó có rùa đá, bia đá và 8 mẫu tự điền1.

Cho đến trước khi nhà Trần di chuyển hài cốt của các vua Trần ở

Long Hưng về Yên Sinh (Đông Triều, Quảng Ninh), nhân dân ở đây

không chỉ được tham dự những buổi mai táng, tế tự long trọng của các

vua và hoàng hậu nhà Trần mà còn được chứng kiến và tham dự những sự kiện có ý nghĩa chính trị quốc gia. Đó là những cuộc viếng thăm,

những buổi làm lễ mừng chiến thắng mà các vua Trần đích thân đứng ra

tổ chức để tạ ơn tổ tiên đã phù hộ cho cháu con giữ vững cơ nghiệp tổ

tông đất nước .

Trong những ngày ấy, khi "nghi trượng kéo qua nghìn cửa đón

chào nghiêm túc, áo mũ các quan đủ cả bảy phẩm" thì nhân dân Long

Hưng coi đó là ngày hội lớn của mình. Ngoài khu lăng tẩm làm lễ lớn

trong làng, tại các đình chùa nổi chiêng, trống lễ thành hoàng và lễ Phật. Các thiện nam tín nữ kéo nhau lên chùa, các nhà thờ họ và nhà nhà đều tổ

1 Theo nhân dân thì tự điền là 8 mẫu 4 sào. Năm 1983, Sở Văn hoá và Phòng Văn hoá

huyện Hưng Hà có khai quật một ngôi mộ ở trong khu vực này, phải chăng đó chính là mộ

Trần Nhật Hiệu.

Page 312: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

383

chức lễ ăn mừng chiến thắng. Trên các sân đình trai tráng tổ chức đánh

gậy; dưới sông thi bơi trải, thi bắt vịt... nơi nơi tổ chức vui chơi ca hát: rước thần, múa kỳ lân sư tử, sênh tiền... làng Dương Xá 700 năm trước

sống trong không khí vui vẻ và long trọng ấy...

Sau này, hàng năm, làng Dương Xá vẫn mở hội- Hội tế cá để

tưởng nhớ công đức của tướng quốc Trần Nhật Hiệu- thành hoàng làng

và để nhớ về một thời oanh liệt của nhà Trần trên đất Long Hưng.

Vào ngày hội tế cá, mỗi giáp sắm sửa lễ vật cho ngày hội- đó là

những con cá trắm. Cá lễ được tính theo vòng ngực thường là ba vổ (mỗi

vổ bằng bốn ngón tay đặt sít).

Từ chiều mùng 5 tết, đình Dương Trung cờ xí phấp phới, khói

hương nghi ngút. Cả làng Dương Xá trong không khí vừa trang nghiêm,

vừa náo nức chuẩn bị cho việc nướng cá, làm bánh dầy.

Trong mâm cỗ cá lễ thần, ngoài món cá nướng, còn có cá kho,

canh cá, cá luộc nước gừng lọc nấu với ngồng cải thái nhỏ và bánh dầy.

Người ta làm sạch cá rồi tẩm mỡ, nướng vàng. Cơm nấu bằng gạo tám

xoan nước lọc qua giấy bản.

Trong khi chuẩn bị làm cỗ cá, làng tổ chức rước tượng Trần Nhật Hiệu từ ngôi miếu thờ ông ở thôn Lê về đình Dương Trung. Đám rước

linh đình có kiệu sơn son thiếp vàng, cờ thần đủ sắc hoà trong âm thanh

kèn, la, trống phách náo động cả vùng. Đám rước như làm sống lại những

sinh hoạt văn hoá, những lễ thờ cúng mai táng và những buổi dâng lễ

mừng chiến thắng 700 năm trước.

Buổi tối, tổ chức hát chầu văn hầu Thánh. Hết ngày mùng 6 làng

tế tạ và trao giải cho giáp nào có cá to nhất, sắp cỗ ngon nhất.

Kết thúc hội, mọi người ra về trong niềm luyến tiếc. Hò hẹn nhau

3 tháng sau lại về với Hội thi diều ở chùa Bà (24 tháng 4 âm lịch).

Ngày ấy, trong chùa thì lễ Phật, ngoài sân chùa rộng hàng trăm

cánh diều thi nhau đọ sức đua tài. Cả vùng ven sông Hồng dậy vang tiếng

sáo và tiếng hò reo náo nhiệt.

Diều nào bay cao, dây đứng, tiếng sáo hay sẽ được giải. Ai thắng

cuộc, năm ấy làm ăn sẽ gặp nhiều may mắn.

Đình Dương Xá đến nay không còn nữa và hội lễ tế cá đầu xuân cũng mất đi nhưng lớp cao tuổi trong làng vẫn còn nhớ rõ. Có người cho

rằng, sở dĩ có lệ tế cá trong hội làng Dương Xá là vì để nhớ về dòng họ

Trần - một dòng họ có công lao với dân tộc mà Tổ của họ Trần làm nghề

Page 313: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

384

chài lưới trên sông1. Lại có người cho rằng tế cá thuộc về hội lễ nông

nghiệp. Ngoài những hội lễ gắn một cách trực tiếp với nghề nông như rước nước, tế thần nông, hạ điền, thượng điền.v.v... Hội lễ nông nghiệp

còn bao gồm cả những hội săn chim quốc, săn hổ, cáo, đánh bắt cá ở

sông, hồ, ao, thi hái lá, măng, nấm.v.v...

Dù nhìn nhận dưới góc độ nào thì hội làng Dương Xá mà lễ tế cá

đầu xuân là trung tâm cũng là một hình thức sinh hoạt văn hoá khá độc

đáo liên quan trực tiếp đến nhà Trần./.

P.M.Đ - P.T.N

– P.T.L

1 Có tài liệu cho rằng họ Trần đã lấy tên các loài cá để đặt tên cho con cháu mình, chẳng

hạn: Trần Kinh tên cũ là Kình (cá Kình), Trần Hấp là Trắm, Trần Lý là Chép; Trần Thừa là

Dưa, Trần Tự Khánh là Ngạnh; Trần Liễu là Nheo; Trần Cảnh là Lành Canh. Khi thành

nghiệp lớn mới bỏ bộ Ngư bên cạnh mà đọc theo tên chữ.

Page 314: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

385

Hội làng Đa Sĩ

Lê Ngọc Canh

Đình làng Đa Sĩ không rõ được xây dựng từ bao giờ, nhưng theo

các bô lão, đình được trùng tu vào năm 1802 (Nhâm Tuất) niên hiệu Gia

Long thứ nhất. Sân đình này đã từng diễn ra những vở chèo, vở tuồng,

những cảnh hát ca trù đặc sắc suốt thời gian hội làng.

Nhìn toàn cảnh đình làng Đa Sĩ, cho ta một cảm giác đó là bức tranh, một mảng màu của đồng quê luôn sống động, xanh tươi với cây đời.

Trước cửa đình là ao nước trong xanh, bốn góc có đa, si tỏa bóng

mát. Giữa ao có một gò nổi hình vuông, cỏ xanh như tấm thảm, bốn góc

gò trồng bốn cây cau. Dân làng gọi là bàn cờ (có lẽ thuở xưa đây là bàn cờ

người).

Cửa đình là hai cột Bộc Mã cao, phần đỉnh đắp hai nghê chầu bốn

phía cột có câu đối chữ Hán.

Tiếp đến là sân đình rộng, với tả hữu đều dựng nhà 5 gian dọc.

Cuối sân là ngôi đình lớn, cao rộng, bộ khung được làm bằng gỗ

lim, với 16 cột. Chân tảng cột bằng đá khối được đục theo luật âm dương.

ốp vào cột là các câu đối sơn son thếp vàng. Đình còn có những bức

hoành phi lớn chạm khắc tinh sảo.

Hậu cung có án hương, là nơi thờ thành hoàng làng.

Cùng với đình, không biết tự bao giờ, dân làng Đa Sĩ đã khéo chọn

địa thế xây miếu, chùa, làm cho cụm kiến trúc này thêm trang nghiêm cổ

kính.

Miếu Đa Sĩ xây dựng bên bờ sông Nhuệ, ẩn sau những đại cổ thụ,

đó là không gian tự nhiên của miếu.

Từ ngoài vào qua hai cây Bộc Mã đến Văn chỉ, có bia khắc tên và

học vị những danh nhân làng Đa Sĩ. Tiếp liền Văn chỉ là sân lát

gạch rồi đến miếu.

Miếu cấu trúc theo kiểu cổ của người Việt. Tiền cung (cung trước)

có 8 cột gắn câu đối, trên cao treo hoành phi sơn son thếp vàng. Nơi đây đặt hương án, lư hương hạc chầu.

Page 315: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

386

Trung cung (cung giữa) cũng bố trí như tiền cung. Song hai bên,

trước hương án, còn bổ sung hai hàng bát bửu, giá quạt, giá cờ.

Hậu cung có các hoành phi, câu đối, và bàn thờ chính thờ thành

hoàng làng Hoàng Đôn Hòa với ngai, bài vị chạm khắc tinh vi.

Kiến trúc miếu cấu tạo 3 tầng theo hình tháp. Các góc mái uốn cong,

đều đắp rồng và nghê. Đỉnh miếu có rồng chầu mặt nguyệt.

Hai bên miếu là hai dãy nhà ngang, mỗi dãy 5 gian.

Dân làng Đa Sĩ đã tạo dựng tượng và tôn thờ cụ Hoàng Đôn Hòa

làm thành hoàng làng. Tượng ngài phản ánh rõ nét mặt hiền từ phúc hậu,

thông minh trí tuệ.

Về hình thức, tượng Hoàng Đôn Hòa là một tác phẩm điêu khắc

nghệ thuật có đường nét, hình khối, ánh sáng, tư thế, dáng kiểu hài hòa

trong thể thống nhất.

Phía phải miếu, là một tấm bia có niên hiệu Phúc Thái thứ 6 thời vua

Lê Chân Tông (l648).

Các mặt bia ghi "Đa Sĩ xã bi" hoặc "Thượng hạ đại tiêu đăng".

Bia cho biết: Chính phu nhân Hoàng Thị Lộc, hiệu là Tư Nhuận, có

công với quê huơng được "tọa vị hậu thần". Các hiện vật trong miếu, đáng kể là bộ kiệu do tổng trấn Ngọc Hầu Nguyễn Bá Xuyến vẽ theo mẫu kiệu

của nhà vua và nghệ nhân đóng kiệu là Lê Công La cùng họ hàng ngày

đêm dồn tâm, dồn chí làm cho kiệu trở nên đẹp đẽ, rực rỡ. Trong đó, kiệu

Ông tạc tám con rồng, kiệu Bà tạc tám phượng đều sơn sơn thếp vàng.

Khi rước kiệu lúc đi nhanh, đi chậm, lúc lùi, lúc xoay là tượng trưng

rồng cuốn, rồng lượn.

Kiệu Ông để rước thành hoàng làng Hoàng Đôn Hòa, kiệu bà để rước phu nhân thành hoàng làng là Phương Dung công chúa.

Hội làng Đa Sĩ lấy ngày mất của thần Hoàng Đôn Hòa làm ngày hội

làng.

Hàng năm mở hội vào 12 tháng giêng và đến ngày 15 tháng giêng dã

đám.

Hội tổ chức rất trọng thể theo nghi thức cổ truyền:

Tế, lễ dâng hương. Rước. Vui chơi (vui hội)

- Tế, một nghi thức để tưởng nhớ công đức của thành hoàng làng, ơn cao đức dầy, nhắc nhở con cháu luôn uống nước nhớ nguồn.

Page 316: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

387

Những người tham gia tế gồm có: Một chủ tế, ba bồi tế, thượng

hương (người dâng hương), âm phúc (người dâng rượu). Bắt đầu là trống chiêng, báo hiệu cuộc hành lễ. Đầu tiên Đông xướng, Tây xướng, rồi chủ

tế đứng ra hô, làm hiệu điều khiển lễ. Phần quan trọng là đọc văn tế (đọc

công đức của thành hoàng làng). Kết thúc tế là dâng hương, dâng rượu,

dâng hoa (hương, hoa, đăng, trà, quả, thực). Tiếp đến là rước.

- Rước: qui tụ, tổng hợp các loại hình văn hóa nghệ thuật, là cốt lõi,

trung tâm của qui trình hội, gồm: rước kiệu, long đình, hương án và các

loại hình nghệ thuật múa sênh tiền, mõ, trống, sư tử, rồng, mặt nạ, cờ

v.v...

- Vui chơi: kế tiếp là các trò chơi làm cho hội thêm vui tươi. Hội

thường có các trò chơi dân gian như: Đánh đu, chọi gà, đánh cờ người,

vật, chèo sân đình, hát ca trù, diễn tuồng đồ v.v...

Từ thuở xa xưa, hội Đa Sĩ đã lừng vang một vùng. Ngày này, Hà

Đông, Hà Trì đổ xuống, Sa La, Văn Quán đò sang, Mậu Lương ngược lên,

Xốm qua đồng để đến.

Trước cửa miếu, đình, chùa, cắm lá cờ thần lớn tung bay trong gió,

trống chiêng rồn vang mở đầu cho một ngày hội. Kiệu Ông , kiệu Bà, long đình, lọng, tán, cờ, quạt, phướn, gươm đao, bát bửu đèn hoa đã sẵn sàng.

Những âm thanh náo nức báo hiệu việc rước thành hoàng bắt đầu với

trình tự sau: mở đầu là hai hàng cờ, rồi trai làng thổi tù và, lưng đeo

thước, đeo kiếm; đội trống chiêng và múa sư tử mở đường, ông hiệu

trống, hiệu cờ dẫn kiệu ông và đội múa trống ngũ lôi, múa mõ; theo kiệu

là các lão ông, tiếp theo là đội nữ sênh tiền vừa đi vừa múa, bà hiệu

chiêng, hiệu cờ dẫn kiệu Bà; rồi các cụ cầm cờ phướn... Hai bên đường là dân làng, khách thập phương đến dự hội. Lệ làng xưa, quân kiệu phải là

những gái làng xinh đẹp, trai làng tuấn tú, được chọn lựa và tập luyện

công phu (chưa vợ, chưa chồng, có đức tính tốt, phẩm hạnh ngoan ngoãn,

không tang, không tiếng xấu).

Được chọn làm quân kiệu, hiệu cờ, hiệu trống, hiệu chiêng là vinh

dự của gia đình họ hàng thân tộc.

Ngày đầu của hội rước kiệu từ miếu đi quanh ao đình về đình, mặc

dầu đoạn đường chỉ ngắn khoảng 500 mét nhưng phải từ sáng đến quá trưa đám rước mới tới nơi. Theo tục lệ cổ rước kiệu phải đi từng bước một

theo nhịp trống lệnh (trống khẩu), cứ 3 bước tiến 1 bước lùi. Hoặc có lúc

đi bước dồn, lùi bước dồn hoặc quay kiệu.

Page 317: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

388

Ngày cuối, 15 tháng giêng lại rước kiệu từ đình đi quanh ao về miếu.

Ao này được coi là viên "ngọc quí" của làng.

Hội làng Đa Sĩ đã làm giảm bớt đi những ưu phiền, đem lại sự hòa

đồng, niềm tươi vui, phấn khởi cho mọi người. Tục rước kiệu của làng Đa

Sĩ đã biểu hiện sự tôn kính người có công với nước, với dân, với làng

xóm, tôn kính bề trên và trân trọng bề dưới, mỗi khi rước kiệu ra khỏi cửa

miếu là kiệu Ông dừng lại để kiệu Bà đi trước. Khi rước về đến cửa miếu,

thì kiệu Ông lại nhường kiệu Bà. Đó cũng là thế ứng xử văn hóa truyền

thống, một nét độc đáo của lệ tục làng Đa Sĩ.

Trong hội, sân đình là nơi diễn các tích chèo, tuồng, trình diễn ca trù suốt cả thời gian hội. "Ca trù có mặt trong các cuộc tế lễ tiên thánh tiên hiền... Từ rất sớm nó đã có một bộ phận hát, múa mang tính chất tôn giáo, thờ cúng phục vụ cho phường, hội, làng, chạ trong các dịp ăn mừng được mùa, lễ tạ trời đất, hoặc tế các vị tổ nghề. Như tổ nghề lò rèn, tổ nghề đúc..." 1

Cứ liệu trên cho ta nhận biết ca trù cùng một lúc có hai mối quan hệ: quan hệ với tôn giáo và quan hệ với việc thờ các tổ nghề. Đa Sĩ đã có hai ông tổ lừng danh, là tổ nghề thuốc được tôn thờ làm thành hoàng làng và tổ nghề rèn.

Có lẽ vì thế mà ca trù được trình diễn trong hội làng? (12 tháng giêng là ngày giỗ tổ thành hoàng làng). Đó cũng là ngày hội truyền thống của làng Đa Sĩ.

Thời điểm diễn ra ca trù phục vụ cho tế từ lúc phù giá (rước kiệu) đến lúc lễ tạ, rồi vào cuộc hát cửa đình. Khi diễn ca trù thì ả đào vừa hát vừa múa theo nhịp đàn, trống, phách, song loan.

Khi tế, ả đào hát múa theo nội dung tiết mục hành lễ, ăn nhịp với các động tác của người tế.

Hát ca trù trong tế gồm có chín khúc, theo thứ tự sau:

- Nguyên hòa khúc (dâng rượu)

- Thái hòa khúc (thần vào vị)

- Thọ hòa khúc (tuần rượu thứ nhất)

- Dự hòa khúc (tuần rượu thứ hai)

- Minh hòa khúc (tuần rượu cuối)

- Hài hòa khúc (uống rượu nhận phúc thần ban)

- An hòa khúc (cáo biệt thần)

1 Tuyển tập thơ ca trù, NXB Văn học, Hà Nội 1987, tr. 11.

Page 318: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

389

- Thuần hòa khúc (chờ mong thần ban phúc thêm mãi)

- Ung hòa khúc (lễ xong)

Hát ca trù cửa đình tuy có nội dung thờ thần, nhưng vẫn góp phần làm cho mọi người cùng hưởng, cùng vui, nó gắn với tính quần chúng, tính nhân dân.

Đa Sĩ là một làng nghề. Bởi vậy, lễ hội làng, bên cạnh những nét chung vẫn có những nét riêng của mình. Đặc điểm văn hóa ấy chính là nhân tố khiến hội làng Đa Sĩ tồn tại đến hôm nay./.

L.N.C

Page 319: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

390

Hội làng Đăm

Lờ Hồng Lý

Làng Đăm nay là xó Tõy Tựu, huyện Từ Liờm, Hà Nội. Tõy Tựu

trước kia thuộc phủ Hoài đức, tỉnh Hà Đụng. Đõy là một làng cổ cú

truyền thống văn hoỏ và sản xuất từ lõu đời. “Bơi Đăm, rước Giỏ, hội

Thầy” hay “Làng La canh cửi, làng Đăm đua thuyền” là những cõu ca

dao quen thuộc vang đến tận kinh thành Thăng long xưa.

Từ cầu Giấy, theo đường Hà Nội- Sơn Tõy, đến Nhổn rẽ tay phải,

chỉ đi vài cõy số là tới làng Đăm. Vào mựa xuõn khi đến dịp hội làng, từ đằng xa du khỏch đó cú thể nhận biết bằng màu sắc của cờ hội nổi bật

trờn một thảm xanh của những ruộng rau, dưa đủ cỏc loại đang độ kết

trỏi đợi mựa thu hoạch. Rau và dưa Tõy Tựu đó quỏ quen thuộc với đất

Hà Thành.

Hội làng Đăm diễn ra trong ba ngày, từ mồng 9 đến 11 thỏng ba

õm lịch. Xưa kia hội kộo dài tới năm ngày và cứ năm năm mới tổ chức

đua thuyền, bởi để chuẩn bị cho một cuộc đua đũi hỏi sự tốn kộm khụng

ớt thời gian, tiền của và sức lực con người. Theo cỏc cụ già cao tuổi cho biết hội được tổ chức lần cuối vào năm 1940. Kể từ đú khụng mở hội

nhưng đội thuyền đua làng Đăm vẫn luụn được mời về dự đua trong

những dịp lễ hội lớn của đất nước tại hồ Thuyền Quang, hồ Gươm, hồ

Bảy Mẫu. Khoảng những năm 1972- 1973 làng cú tổ chức bởi nhõn đún

Quốc trưởng Cămpuchia sang thăm nước ta, nhưng cuộc đua đú chưa

phải là hội. Những năm gần đõy, xu thế khụi phục dần dần những truyền

thống xưa đang được chỳ ý. Bằng chứng là sau 54 năm, năm 1994, hội

được tổ chức lại một cỏch cụng phu và trang trọng.

Theo sỏch Làng xó ngoại thành Hà Nội thỡ Tõy Tựu xưa vốn gọi

là Tõy Đàm, vỡ kiờng tờn huý vua Lờ Thế Tụng (1573 – 1600) nờn đổi

gọi là Tõy Đăm; đến nhà Nguyễn, vỡ kiờng quốc huý đổi gọi là Tõy Tựu

cũng là tờn một trong 13 tổng thuộc phủ Hoài Đức cũ. Tổng Tõy Tựu

gồm bảy xó, nay thuộc đất Tõy Tựu, huyện Từ Liờm và Tõn Hội huyện

Đan Phượng (Hà Tõy). Phớa bắc Tõy Tựu giỏp hai xó Liờn Mạc và

Thượng Cỏt, phớa đụng và đụng nam giỏp hai xó Phỳ Minh và Xuõn Phương, phớa tõy giỏp xó Tõn Lập huyện Đan Phượng và xó Dị Trạch

huyện Hoài Đức(1).

(1)

Bựi Thiết: Làng xó ngoại thành Hà Nội, 1985, tr. 231.

Page 320: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

391

Tõy Tựu gồm ba thụn là thụn Thượng hay cũn gọi là miền

Thượng, thụn Trung hay gọi là miền Trung và thụn Hạ cũn gọi là miền Hạ. Hàng năm, vào dịp hội ba miền cựng nhau tổ chức hội và thi bơi

thuyền.

Những di tớch liờn quan đến hội cũn lại cho đến nay chủ yếu nằm

xung quanh đỡnh và đoạn sụng, nơi diễn ra cuộc đua thuyền.

Đỡnh làng Đăm thờ đức thỏnh Tam Giang, dõn gian gọi là Bạch

Hạc Tam Giang(1). Vào ngày hội trong đỡnh cú đặt ba cỗ ngai. Một cỗ

trong hậu cung, lớn và được “mặc” ỏo trắng. Ngai thứ hai tiếp theo ngai

ở hậu cung, được đặt ở gian giữa đỡnh, nhưng chỗ đú lại thấp hẳn xuống so với hai bờn theo chiều dọc của đỡnh. Ngai thứ ba được đặt ở ngoài

cựng và là ngai để rước ra ngự ngoài thuỷ tạ lỳc thi bơi thuyền. Cả hai

ngai thứ hai và thứ ba đều được “mặc” ỏo vàng. Đỡnh bị hư hỏng nhiều,

khụng cú gỡ đặc biệt và đang được tu sửa dần dần.

Ngay cửa giữa của đỡnh nhỡn thẳng ra là liờn tiếp hai nhà thuỷ

đỡnh cỏch nhau khoảng bảy tỏm một, được gọi chớnh ngự trong và

chớnh ngự ngoài. Vào những ngày hội, kiệu của đức Thỏnh rước về được

đặt ở chớnh ngự ngoài, cũn chớnh ngự trong là nơi diễn ra cỏc cuộc tế lễ và sau đú là điểm xuất phỏt để rước ngai Thỏnh ra ngự xem bơi.

Bờn trỏi và bờn phải khoảng trống giữa chớnh ngự trong và chớnh

ngự ngoài cũn cú hai nhà thuỷ đỡnh nhỏ khỏc. Cạnh hai nhà thuỷ đỡnh

ấy là những dóy nhà dài được gọi là dóy muống. Phớa bờn phải nhỡn từ

cửa đỡnh ra cú hai dóy muống, cũn phớa bờn trỏi chỉ cú một dóy, cạnh

dóy đú là Từ Vũ. Trong Từ Vũ cú đặt một bia đỏ hỡnh trụ, bờn cạnh bia

là hai ụng phỗng ngồi canh bia.

Thuỷ tạ được xõy dựng trờn bờ sụng vươn ra mặt nước. Nú chia

thành ba phần rừ rệt. Phần trung tõm là nơi ngự giỏ của kiệu Thỏnh, bờn

(1)

Giang Quõn trong bài “Vựng đất cổ thượng vừ và hội bơi Đăm” Bỏo Hà Nội mới ngày

3.5.1994, tr2 cú ghi truyền thuyết về Bạch Hạc Tam Giang như sau: “Vốn trước làng chưa

cú đỡnh, miếu. ễng cõu ếch họ Vũ người thụn Hạ đi theo triền sụng Cỏi lờn mói vựng trờn,

thường hay đến nghỉ nhờ đền Bạch Hạc. Một hụm, cụ từ đi vắng nhờ ụng Vũ đốn hương

hộ. ễng thấy trờn đền cú tới ba bài vị thờ mà làng mỡnh lại chưa cú thành hoàng bốn làm lễ

xin õm dương để đún một vị về đăm. Đú là Thổ Lệnh Bạch Hạc Tam Giang. về làng gặp

lỳc đang cú dịch chết người và gia sỳc, ụng Vũ sợ đem giấu ở giàn mướp. Mựa lũ năm ấy

cú lũ lớn, nước tràn vào đồng, cú một mũi thuyền gỗ chạm vào đầu hạc trụi dạt vào cửa

miếu. ễng cõu ếch nhận ra đỳng là đầu thuyền đua ở đền Hạc. Dõn làng bốn cử người lờn

đền chớnh thờ thần Tam Giang xin mẫu thuyền, hỏi thể thức bơi trải rồi về làng đúng

thuyền, xõy nhà thuỷ tạ, tổ chức thi bơi. Hội Đăm bắt nguồn từ đú, đến nay đó khoảng 600

năm.

Page 321: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

392

trỏi là chiếu dành cho cỏc bụ lóo cao tuổi và trong hội đồng tế lễ, bờn

phải dành cho quan khỏch. Tất cả nhỡn ra hướng mặt sụng. Đõy là một nhỏnh của sụng Nhuệ mà vốn xưa kia cỏc cụ già núi rằng nú nối sụng

Hồng từ Gối xuống với sụng Nhuệ, nhưng nay đó bị cắt nờn cũn gọi là

đầm Đăm. Khỳc sụng dài khoảng 1000m và cuộc đua thuyền diễn ra tại

đú, với vị trớ xuất phỏt là nhà thuỷ tạ và điểm cuối cựng là đoạn sụng

trước cửa miếu thờ đức Thỏnh Tam Giang. Gọi là miếu nhưng đõy thực

chất là một ngụi đền lớn trong đú cũn giữ được khỏ đầy đủ bia ký và cỏc

đồ tế khớ cựng hoành phi cõu đối. Đõy là đất của thụn Thượng nờn miếu

cũn gọi là Thượng miếu.

Đối diện với miếu này phớa bờn kia bờ sụng chếch về phớa phải

cú một bệ thờ được gọi là làn tế. Làn tế, theo nhõn dõn địa phương là nơi

xưa kia rước Thỏnh về đặt tạm tại đú, trước khi đưa ngài ngự vào miếu.

Ngày ấy làn tế khỏ bề thế và nằm sõu trong trường kỹ nghệ ở đú nờn

người ta dịch chuyển làn tế ra sỏt bờ sụng và mới xõy thành một bệ thờ

như vậy.

Mọi sự chuẩn bị cho ngày hội được tiến hành từ trong năm. Ngày

mồng 9 thỏng ba là ngày mở đầu cho lễ hội của làng. Nghi thức quan trọng nhất của ngày hụm ấy là đỏm rước Thỏnh từ miếu xuống đỡnh.

Sau khi tế lễ ở đỡnh, làm lễ cỏo yết ở miếu, người ta tiến hành

rước Ngai của Thỏnh về đỡnh. Đỏm rước long trọng với đủ lệ bộ và nghi

trượng cựng những vị cú trọng trỏch trong ngày hội với đụng đảo dõn

làng. Đỏm rước đi từ miếu Thượng theo đường làng đi về đỡnh. Tới

đỡnh kiệu rước Ngài được đặt ở chớnh ngự ngoài. Sau đú cỏc tay đụ

cựng bụ lóo rước Ngai của Ngài vào đỡnh và ngự tại đú. Tiếng phỏo nổ vang cựng tiếng nhạc rộn ró làm khụng khớ ngoài đỡnh nỏo nhiệt trong

muụn màu sắc của cờ, đồ tế khớ và hương khúi nghi ngỳt.

Ngoài sụng, cỏc thuyền đua của ba thụn cũng tiến hành bơi dạo.

Vừa để chào mừng ngày hội chào mừng Thỏnh đồng thời cũng là để

duyệt lại toàn bộ cỏc bước chuẩn bị của mỡnh xem từ vị trớ ngồi của

từng trai bơi đó hợp lý chưa, cỏc tay chốo cú điều gỡ phải sửa sang cho

tốt và đều, nhịp bơi cú đồng đều ăn ý với nhau khụng; người chỉ huy,

người chống sào, tỏt nước, v.v... Tất cả gần như một cuộc duyệt lại từng chi tiết chuẩn bị cho cuộc đua ngày hụm sau. Đồng thời đõy cũng là lỳc

thăm dũ trước luồng lạch sao cho tiết kiệm được thời gian nhất mà lại đạt

hiệu quả cao nhất.

Page 322: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

393

Cú thể núi, suốt đờm 9-3 mọi người đều nỏo nức chờ đợi. Cỏc trai

bơi hồi hộp chuẩn bị cho cuộc thi đấu ngày mai. Dõn làng ra thắp hương lễ bỏi ngoài đỡnh miếu. Cỏc cụ trong ban khỏnh tiết thay nhau tỳc trực

nhang khúi thờ Thỏnh. Sõn đỡnh rộn ró khụng khớ ngày hội làng, đốn

đuốc sỏng trưng, kẻ ra người vào tấp nập.

Mồng 10 thỏng ba là ngày chớnh hội. Bảy giờ sỏng mọi chuẩn bị

cho ngày hội phải được hoàn tất. Ngày hội bắt đầu bằng cuộc tế lễ long

trọng của hội đồng bụ lóo trong làng. Mọi nghi thức tế lễ được thực hiện

từ chớnh ngự trong qua quóng sõn trước cửa đỡnh và vào đến trong

đỡnh. Cỏc bước tế của mỗi tuần tế đều bắt đầu từ chớnh ngự trong vào đỡnh. Đồ chấp kớch, chiờng trống, cờ quạt được xếp ngay ngắn suốt dọc

hai bờn từ chớnh ngự trong vào cửa đỡnh cũn ở giữa được trải chiếu.

Cỏc nghi thức tế lễ ở làng Đăm khụng cú gỡ khỏc biệt với những

nơi khỏc, duy chỉ cú đụi điểm đỏng chỳ ý. Thứ nhất, trước cửa đỡnh cú

hai thanh niờn mặc quần ỏo màu xanh, chõn quấn xà cạp đầu đội mũ cú

chúp nhọn cựng màu xanh, trờn chúp cú một tỳm lụng gà hoặc lụng

chim, tay cầm roi song đỏ đứng hai bờn cửa giữa đỡnh. Trong lỳc tế lễ

hai thanh niờn ấy đứng nghiờm trang tại đú. Thứ hai, ở hội làng Đăm cũng tế ba tuần, nhưng người ta lại đọc chỳc ở trước tuần cuối cựng của

cuộc tế. Sau đú tế thờm một tuần nữa rồi mới đốt chỳc văn. Chỳc văn

được một cụ già cầm trờn tay, sau khi vỏi lạy thỏnh rồi chõm lửa đốt. Cụ

già phải xoay trờn tay sao cho tờ chỳc phải chỏy hết mà khụng được rơi

xuống đất. Chỳc văn phải được đốt chỏy hết ngay trước bàn thờ Thỏnh.

Trong lỳc cỏc bụ lóo tiến hành tế lễ, trong đỡnh ở hai gian cạnh

cú trải sẵn chiếu để khỏch thập phương và bà con dõn làng chuẩn bị dõng lễ lờn bàn thờ Thỏnh. Người ra vào nườm nượp với đủ loại lễ vật, tuy

vậy khụng hề ảnh hưởng gỡ tới cụng việc tế lễ của cỏc cụ.

Khi cuộc tế kết thỳc, chiờng trống nổi lờn rộn ró, bỏo hiệu cuộc

rước sắp bắt đầu, đồng thời là hiệu lệnh để những người cú trỏch nhiệm

chuẩn bị. Nghe hiệu lệnh cỏc trai kiệu chuẩn bị. Nghe hiệu lệnh cỏc trai

kiệu và những người cầm cờ quạt, chấp kớch từ khắp cỏc ngả của hội lần

lượt kộo về chung quanh cửa đỡnh. Kiệu rước Thỏnh được chuyển từ

chớnh ngự ngoài vào chớnh ngự trong.

Một hồi chiờng trống nổi lờn một số trai kiệu cựng cỏc cụ rước

ngai Thỏnh từ trong đỡnh ra chớnh ngự trong. Theo hiệu lệnh của một cụ

già mặc ỏo tớm, cầm trống khẩu mọi người từ từ đặt ngai Thỏnh vào

kiệu. Cỏc cụ xem xột lại tỉ mỉ xem việc đặt ngai đó vững chưa, cú

Page 323: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

394

nghiờng ngả gỡ khụng, lọng che trờn ngai đó kớn chưa rồi bắt đầu xếp

sắp đội hỡnh. Thứ tự đỏm rước như sau:

Hai thanh niờn quần ỏo xanh, quấn xà cạp mũ chúp nhọn xanh,

lỳc trước đứng ở cửa đỡnh với roi song đỏ trờn tay, nay đi đầu làm nhiệm

vụ dẹp đường. Tiếp đến cỏc nam nữ trẻ quần ỏo trắng, thắt lưng đỏ và

đầu quấn khăn đỏ cầm cờ và đồ chấp kớch. Sau đú là hai cụ già mặc quần

ỏo tế màu xanh đi giật lựi, mặt hướng vào kiệu Thỏnh. Theo sau hai cụ là

một cụ già khỏc mặc quần ỏo tớm, tay cầm trống khẩu làm hiệu lệnh cho

đỏm rước. Rồi đến kiệu Thỏnh với một cụ già mặc ỏo đỏ (là cụ từ giữ

đỡnh) đi sỏt kiệu để trụng nom, sửa sang bước đi cho cỏc đụ kiệu, chỉ bảo người cầm lọng đi sau kiệu che cho đỳng ngai Thỏnh... Hai bờn kiệu

là hai thanh niờn mặc kiểu vừ tướng (đầu đội mũ, thắt đai, đi ghệt...) cầm

gươm bảo vệ kiệu. Đi sau kiệu là cỏc cụ già trong ban tế, cỏc bụ lóo đến

tuổi thượng thọ với ỏo đỏ, ỏo vàng theo lớp tuổi cựng dõn làng đi rước

Thỏnh. Hai bờn lối kiệu đi người làng, khỏch thập phương chen chõn

đứng xem đỏm rước với khụng khớ vụ cựng phấn chấn.

Kiệu đi thẳng từ chớnh ngự trong qua chớnh ngự ngoài tới đường

làng trước mặt ao đỡnh. Từ chớnh ngự trong và chớnh ngự ngoài kiệu được nõng trờn tay của cỏc trai kiệu nhưng khi ra khỏi chớnh ngự ngoài,

theo hiệu lệnh của người cầm trống khẩu, kiệu được đặt lờn vai cỏc trai

kiệu để rước đi. Khi đi ra tới đường làng, đoàn rước rẽ sang tay phải tiến

về phớa thuỷ tạ. Đỏm rước đi nhịp nhàng, khoan thai trong tiếng nhạc,

tiếng phỏo nổ và dưới sự điều khiển chặt chẽ của cụ già mặc ỏo tớm. Cứ

như vậy, đỏm rước đi trong vũng một tiếng từ cửa đỡnh đến thuỷ tạ.

Khi tới trước cửa thủy tạ, kiệu được hạ xuống, cỏc trai kiệu cựng cỏc bụ lóo rước kiệu vào đặt tại bệ giữa nhà thuỷ tạ, cờ quạt, chấp kớch

được đặt trước mặt kiệu Thỏnh, hướng ra mặt sụng. Một hồi chiờng trống

nổi lờn, phỏo ở thuỷ tạ, hai bờn bờ sụng và trong đỡnh được đốt nổ rũn

ró cựng một lỳc, bỏo hiệu Ngài đó an vị. Cỏc cụ trở về chiếu của mỡnh ở

gian cạnh, trai kiệu và thanh niờn cầm cờ và đồ tế khớ nhanh chúng tản

ra khắp nơi tỡm chỗ thuận tiện để xem bơi.

Trong khi ngoài đỡnh tiến hành rước kiệu thỡ ở cỏc thụn những

bước kiểm tra cuối cựng cho cuộc đua thuyền được tiến hành. Từ chi tiết

nhỏ được kiểm tra và thống nhất giữa cỏc trai bơi và người chỉ huy. Từng

thụn làm lễ tiễn đoàn thuyền đua của cỏc thuyền của từng thụn được

khiờng ra sụng dạo quanh đợi hiệu lệnh tập trung về thuỷ tạ.

Page 324: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

395

Hiệu lệnh chuẩn bị đua thuyền là khi tiếng chuụng trống và tiếng

phỏo nổ rũn ró lỳc kiệu Thỏnh đó yờn vị ở nhà thuỷ tạ. Cỏc thuyền đua

từ cỏc ngả từ từ tiến vào gần nhà thuỷ tạ trong tiếng reo hũ vang dậy của

người ba thụn cổ vũ cho thuyền đua của mỡnh. Mọi người sung sướng và

hồi hộp chờ cuộc đua bắt đầu.

Ba thụn Thượng, Trung và Hạ mỗi thụn cú hai thuyền đua. Xưa

kia cú thờm một thuyền thứ bảy gọi là thuyền Quan. Thuyền Quan khụng

đua mà chỉ làm nhiệm vụ bơi theo quan sỏt cuộc đua. Thuyền đua dài tới

15m gồm 18 trai bơi và sỏu người khỏc. Sỏu người đú là: ụng lỏi (người

lỏi thuyền), ụng dụ (là người bắt nhịp, chỉ huy), ụng phất cờ (người cầm

cờ phất sang phải sang trỏi để cổ vũ anh em bơi); ụng cầm lạng (là người

cầm sào, một đầu cú múc sắt hỡnh chữ U để chống và đẩy thuyền khi

thuyền sỏt vào thuyền khỏc một người tỏt nước (cầm gỏo hoặc thứ gỡ

tiện lợi để hắt nước ra khỏi thuyền) và một trọng tài cú nhiệm vụ chỉ ngồi

theo dừi cỏc trai bơi và những người trong thuyền khụng được phạm vi

cỏc luật lệ quy định. Trai bơi được chọn trong độ tuổi từ 20 đến 35 tuổi

cú kinh nghiệm và khoẻ mạnh.

Đầu thuyền của mỗi thụn đều gắn đầu của ba loài đỉa, ly, hạc.

Riờng con hạc luụn luụn gắn với hai thuyền của thụn Thượng vỡ thụn

Thượng cú miếu của Bạch Hạc Tam Giang. Cũn hai đầu đỉa và ly là của

hai thụn dưới. Trong hai thuyền của mỗi thụn lại chia ra một thuyền đụng và một thuyền tõy, cũn sỏu thuyền được đỏnh số thứ tự cho dễ nhớ. Việc

đúng thuyền và tập luyện cho cuộc đua là cả một quỏ trỡnh lõu dài và tốn

kộm. Tuy vậy thụn nào cũng cố gắng hết sức để dành được chiến thắng.

ở đõy ngoài sự ganh đua về giải, người ta cũn thi đua cả về danh tiếng

cao cả khi được giải nhất. Nú gúp phần cổ vũ cho cả thụn trong năm mới.

Cuộc đua thuyền được tiến hành bơi sỏu vũng. Sỏng ngày 10- 3

bơi hai vũng, chiều một vũng. Ngày 11- 3 cũng bơi ba vũng như vậy sau

đú kết thỳc hội.

Sau hồi chiờng trống bỏo hiệu ngai Thỏnh đó yờn vị, cỏc thuyền

đua tập trung trước thuỷ tạ. Dưới sụng cỏch Thuỷ tạ vài một cú một cột

cờ treo lỏ cờ đại thật to. Đồng thời cũng cỏch đú vài một, một sợi dõy

được căng từ bờ sụng bờn này sang bờ sụng bờn kia, trờn dõy được treo

cờ đủ màu sắc, đú cũng là mốc để cho cỏc thuyền xếp hàng bơi. Hai cụ

già mặc ỏo quần ngày hội đứng ở bờn bờ phải của Thuỷ tạ làm nhiệm vụ

hiệu lệnh. Sau khi cỏc thuyền đó tập trung vào vị trớ, cờ lệnh được phất,

cuộc bơi dạo bắt đầu. Đõy chỉ là bơi biểu diễn do đú cỏc thuyền khụng

Page 325: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

396

ganh đua và vội vó mà cố bơi cho thật đẹp, thật nhẹ nhàng, ngoạn mục để

lụi cuốn người xem. Tuy vậy, khụng khớ trờn bờ cũng rất sụi động, tiếng

chiờng trống, tiếng phỏo nổ mừng nổi lờn khắp nơi. Bơi dạo một vũng

theo đường đua vừa là bơi biểu diễn, vừa là bơi thử để cỏc tay chốo quen

tay mà bắt đầu cuộc đấu. Sau khoảng 15- 20 phỳt cỏc thuyền đều trở về

đụng đủ để bắt đầu cuộc bơi chớnh thức.

Cỏc thuyền đua hướng mũi vào nhà thuỷ tạ. Ba hồi chiờng trống

bỏo hiệu cỏc thuyền chuẩn bị vào lễ thỏnh để thi bơi. Sau đú theo hiệu

trống cỏc thuyền lần lượt cử người bước lờn thuỷ tạ làm lễ thỏnh. Một

tiếng trống: Thượng đụng, Thượng tõy vào; hai tiếng trống; Hạ đụng, Hạ Tõy vào. Từng cặp một sau khi làm lễ xong, chủ tế gọi: Thượng đụng,

Thượng tõy, cỏc trai bơi trờn thuyền nhất loạt dạ ran. Cũng như vậy với

thuyền của thụn Trung và thụn Hạ.

Sau lễ bỏi yết Thỏnh, cỏc thuyền được ba trọng tài xuống kiểm tra

rất kỹ lưỡng từ số người, dụng cụ trờn thuyền như dầm lỏi, đồ mỳc nước,

nhất là sào chống. Bởi vỡ sào chống là phải thống nhất, do ban tổ chức

phỏt, khụng được đổi sào vỡ chỉ cần dài hơn một chỳt là thuyền đú rất cú

lợi trong việc đẩy và chống. Cũng lỳc này cỏc thụn được phộp cử người lờn thuyền uý lạo cỏc trai bơi bằng thuốc lỏ và cỏc thứ khỏc để cổ vũ tinh

thần cho cỏc đội. Khi mọi việc đó hoàn tất tiếng chiờng trống, thanh la,

tự và dồn dập vang lờn bỏo hiệu cuộc thi sắp đến giờ xuất phỏt. Bằng

hiệu cờ và loa cỏc trọng tài đưa cỏc thuyền vào vị trớ cho cú trật tự và

bằng nhau ở đớch xuất phỏt. Thuyền của ba thụn được xếp xen kẽ nhau

sẵn sàng chờ lệnh. Một tràng phỏo dài được đốt bỏo hiệu phỳt quyết định

sắp đến, tất cả cỏc chỉ huy và trai bơi trờn thuyền đều hướng sang phớa hai cụ già cầm cờ lệnh, mọi người cỳi rạp xuống và khi lỏ cờ được chộm

mạnh xuống là lỳc cỏc thuyền bật lờn lao đi. Tiếng chiờng trống đổ hồi,

người trờn bờ cũng nhoài người ra hụ hào để cổ vũ và nhắc nhở cỏc

thuyền đua.

Điều thỳ vị ở đõy là cỏc thuyền đua sắp hàng bằng nhau trờn một

quóng sụng khụng rộng, thuyền lại to và dài chứ khụng xuất phỏt so le

như ở hội đua thuyền ở một vài nơi khỏc, chẳng hạn như ở Đồng Xõm...

Do vậy khi xuất phỏt, do sự bật lờn khỏ mạnh của cỏc tay bơi, vỡ vội

vàng muốn bứt lờn khỏi thuyền khỏc để lấy khụng gian và đụi khi khụng

trỏnh khỏi lỳng tỳng mà cỏc thuyền đó tỳm tụm vào nhau. Thậm chớ lỳc

đầu chưa chỉnh được tay bơi nờn khụng tạt nước đều tay, người lỏi chưa

định hướng vỡ tầm nhỡn chật nờn cỏc thuyền cú thể bị xiờn ngang, quay

cuồng ở một điểm. Vỡ thế qui định của cuộc đua cho phộp cỏc thuyền

Page 326: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

397

chen nhau để tỡm lối thoỏt nhưng khụng được va chạm. Vai trũ của

người chống (lạng) lỳc này là vụ cựng quan trọng. Anh ta ngồi ở đầu mũi

thuyền cầm lạng ngang ra mắt chăm chăm nhỡn hai bờn để đẩy và chốn

bất cứ thuyền nào ỏp sỏt vào thuyền anh ta. Thuyền đối diện cũng trong

tư thế như vậy, do đú đó tạo ra một cuộc tranh giành quyết liệt để bứt

lờn. Song người chống chỉ được phộp chen đẩy vào mạn thuyền hoặc

mũi thuyền của đối phương chứ khụng được phộp làm bất cứ điều gỡ xấu

ảnh hưởng đến thuyền bạn. Anh ta phải chốo chống sao cho thuyền của

anh ta cú được khụng gian mà bứt lờn. Do đú, phỳt hồi hộp nhất chớnh là

lỳc này, vỡ chen chỳc nhau nờn cú thuyền vội vàng nghiờng ngả làm lật

ỳp, song cỏc trai bơi vẫn khụng bỏ cuộc mà nhảy lờn dốc nước, chốo

thuyền tiếp tục cuộc đua. Tiếng hụ hào của chỉ huy, tiếng trống, tiếng

phỏch cựng tiếng cổ vũ của hàng ngàn người đứng kớn hai bờ đó làm

cuộc đua mỗi lỳc một nỏo nức. Người cỏc thụn rầm rập chạy hai bờn bờ

sụng cổ vũ cho thuyền thụn mỡnh.

Việc đẩy, chen và chống cỏc thuyền bờn cạnh để bứt lờn theo dõn

gian ở đõy gọi là bỳng. Cũn khi đến điểm mốc cuối ở đoạn sụng trước

cửa miếu Thỏnh, cỏc thuyền bơi cũng phải vũng qua một cột cờ (vũng từ

trỏi sang phải), cả người lỏi và người lạng (chống sào) phải lướt sao cho

khộo đường “cua” tiết kiệm đường đua và thậm chớ vượt lờn thuyền

phớa trước mỡnh. Cỏi đú người ra gọi là dúc và vút gúc. Dúc và vút gúc

càng điờu luyện thuyền đi càng nhẹ và nhanh, cũn khụng khộo sẽ va vào

cột mốc hoặc đường cua quỏ rộng mà mất thời gian. Ngay cả khi cỏc

thuyền đó rón ra nếu người lỏi và lạng khụng khộo lộo, cỏc trai bơi

khụng đều thuyền vẫn bơi chậm và cú trường hợp nước tràn vào thuyền

làm đắm hoặc người bơi vội tạt nước lộn nhào xuống sụng. Khi đú cả

thuyền bỏm sau nều khụng nhanh xử lý trỏnh thuyền trước mà vượt lờn

thỡ cũng đắm nốt, như vậy sẽ cản trở tốc độ rất nhiều. Người ta tớnh

điểm từng thuyền về đớch trước sau mà xếp hạng cộng điểm cho cả đội.

Sau một vũng đua cỏc thuyền bơi được nghỉ ngơi khoảng mười lăm phỳt

để hồi sức và rỳt kinh nghiệm. Người cỏc thụn xụ đến thuyền của mỡnh

mà nhận xột, nhắc nhở, gúp ý cho cỏc trai bơi. Để rồi lại hỏo hức chờ

vũng đua mới.

Sau khi giải lao trống giục gọi cỏc thuyền đua vào vị trớ. Lần này

người ta lại đổi vị trớ đua của mỗi thuyền. Cứ như vậy trong sỏu vũng

đua của hai ngày mỗi thuyền được đứng ở một vị trớ khỏc nhau từ bờ bờn này sang bờ bờn kia một cỏch cụng bằng.

Page 327: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

398

Trong hai ngày đua thuyền, những lỳc ngừng cuộc đua dưới sụng

trờn mặt đất diễn ra những trũ thả chim, thi cờ bỏi và nhất là chọi gà. Đõy là một vựng cú truyền thống nuụi gà chọi rất nổi tiếng, cú những cặp

gà được đưa đi đấu ở nhiều nơi. Đõy cũng là một nơi cú truyền thống vật

với cỏc đụ vật lừng danh như Hương Thỡn, Bếp Quý, Ba Oe... ban đờm

cú đốt phỏo bụng, hỏt chốo.

Ngày 11- 3 buổi sỏng bơi tiếp hai vũng nữa, và buổi chiều kết

thỳc trao giải. Thuyền được giải cũn cú vinh dự chở ngai của Thỏnh về

miếu Thượng. Bởi vỡ theo phong tục từ xưa Thỏnh đi bộ về thuỷ, do vậy

hai thuyền giật giải được đưa Thỏnh về cung của Ngài vào buổi chiều ngày 11- 3. Sau khi đua thuyền xong, dõn làng tế lễ tạ ơn thỏnh rồi rước

Thỏnh xuống thuyền về miếu của Ngài. Ngày hội kết thỳc trong khụng

khớ vui mừng phấn khởi của toàn thể dõn làng. Tối đú lại đốt phỏo hoa

mừng ngày hội, tiếng hỏt chốo lại vang lờn tại sõn đỡnh. Lời ca, tiếng

đàn, tiếng phỏo quyện vào hương khúi trong ỏnh sỏng của muụn vàn

ngọn đốn nến tạo nờn một khụng khớ khú quờn đối với mỗi người dự

hội, để năm sau du khỏch lại nhớ mà tỡm đến.

Đua thuyền là một tục lệ phổ biến ở Việt Nam, nhưng mỗi nơi tuỳ theo hoàn cảnh địa lý và phong tục mà lại cú những khớa cạnh riờng của

nú. Cỏi quyết liệt của đua thuyền làng Đăm khụng phải ở độ dài của

đường đua và đua liờn tục nhiều vũng trong một lần như ở hội bơi chải

Đồng Xõm. Khụng phải ở sự khú khăn , khốc liệt như bơi ngang dũng

sụng Hồng nước chảy mạnh như ở Sa Lóng (Liờn Hà) gần đú hoặc sụng

nước chảy xiết, thuyền phải bơi ngang trong khi đó bị đục thủng sẵn từ

trước, nếu khụng bơi nhanh sẽ đắm như ở Gia Lương Hà Bắc. Hay chỉ là bơi thuyền nghi lễ nhằm ụn lại cuộc luyện quõn của nữ tướng thời hai Bà

ở Hạ Cỏt Từ Liờm, v.v... Cỏi quyết liệt ở đõy là bước xuất phỏt cuộc đua

phải bỳng thuyền (đẩy, chen thuyền bạn mà lấy chỗ cho thuyền mỡnh);

dúc thuyền (lướt, vuốt gúc để thuyền bứt lờn mà khụng va chạm, gõy cản

trở lật thuyền, chậm thời gian); là lạng thuyền (chống, đẩy thuyền bạn

cho khụng chạm vào ngăn cản thuyền mỡnh), là vuốt gúc ở đoạn cuối cột

mốc sao cho thuyền lướt nhanh khụng bị lỳng tỳng tại đú, v.v... Cỏi

quyết liệt ấy biểu hiện ở sự mau lẹ, quyết đoỏn và tớnh toỏn điều khiển thuyền để đạt được tốc độ tối đa mà chỉ mất một sức lực tối thiểu. Điều

đú đũi hỏi cả một kinh nghiệm dày dạn và sự từng trải lớn của một cư

dõn sụng nước chuyờn nghiệp.

Cũng dễ hiểu khi nhỡn địa dư của Tõy Tựu xưa vốn nằm trong

một khu vực chằng chịt sụng ngũi. Bản thõn đầm Đăm là một nhỏnh từ

Page 328: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

399

sụng Hồng qua vựng Gối sang sụng Nhuệ. Từ Gối tới Hỏt Mụn, nơi cú

đoạn sụng Hỏt nối với sụng Hồng là một đoạn khụng xa. Cả một khu vực từ Hỏt Mụn Phựng, Gối, Diễn ngày nay vốn xưa cú nhiều sụng ngũi

chằng chộo nhau. Bằng chứng là những đoạn sụng cụt như đầm Đăm,

những con đờ nay khụng cũn giỏ trị ngăn nước sụng nữa và cỏc con sụng

tồn tại cho đến bõy giờ. Sống trong một mụi trường địa lý như vậy, nghề

sụng nước ắt phải được đề cao và phỏt triển.

Xột về mặt hỡnh dỏng của thuyền đua, với những con quy con đỉa

ta cũng thấy chỳng gắn với nước. Cũn hai con hạc ở đõy ẩn chứa những

điều gỡ mà ta chưa biết được? Đú là điều đỏng lưu ý. Hai con hạc ấy với đức thỏnh Bạch Hạc Tam Giang và một truyền thuyết huyền ảo kốm theo

tờn gọi của ba thụn cựng với từ miền (miền Thượng, miền Trung, miền

Hạ) cú gỡ liờn quan đến nhau khụng? Lại nữa, đường đi của đức Bạch

Hạc Tam Giang đi bộ về thuỷ. Cú gỡ chăng giữa Trời- Đất- Nước, giữa

Nỳi- Sụng hay đú là sự xoay vần là cừi mờnh mụng của vũ trụ trong quan

niệm của người xưa?

Và như đó núi ở trờn, lũng đỡnh ở giữa thấp hẳn xuống so với hai

bờn theo kiểu lũng thuyền, nếu đú là nguyờn trạng của thời xa xưa thỡ cũng cú thể liờn tưởng tới cỏi đỡnh hỡnh thuyền mà cỏc nhà khảo cổ học

đó nhắc tới.

Những dự cảm ban đầu, những nghi vấn chưa cú đầy đủ chứng

cớ để thuyết phục, song dự sao chỳng tụi cũng cố gắng trỡnh bày ra đõy

theo một trật tự nhất định để độc giả cựng xem xột, vả lại cũng là để

người viết suy ngẫm và tiếp tục hoàn thiện trong tương lai./.

L.H.L

Page 329: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

400

Page 330: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

402

Lễ hội Đào Xá

Bùi Xuân Đính

Làng Đào Xá, nay thuộc xã Đào Xá, huyện Tam Thanh, tỉnh Phú

Thọ. Đây là một làng rất cổ, nằm ven con đầm, vốn là dòng sông cổ, nối

liền sông Hồng với sông Đà vào thuở xa xưa. Làng nằm trong một vùng

có nhiều địa điểm khảo cổ học thời đại đá mới và đồ đồng như Gò Bông,

Xuân Lộc. Ngay tại Đào Xá cũng đã phát hiện được nhiều di vật của các

thời đại khảo cổ trên, trong đó, đáng lưu ý có chiếc trống đồng loại Hêgơ

I muộn lần đầu tiên được phát hiện ở Vĩnh Phú. Cư dân Đào Xá sống chủ yếu bằng một vụ lúa chiêm, ngoài ra còn có nghề trồng sơn và khai thác

các sản phẩm tự nhiên.

Đào Xá thờ Hùng Hải Công, một bộ tướng của Hùng Vương thứ 18

và ba người con của ông làm thành hoàng. Theo truyền thuyết địa

phương và bản thần phả (chép năm Hồng Phúc thứ hai 1558), hiện còn

lưu ở đền làng thờ thời Hùng Vương vùng Đào Xá, Hưng Hóa, Thọ

Xuân, Dị Nậu (vùng chiêm trũng của huyện Tam Thanh) bị Thủy Tinh

dâng nước làm ngập lụt. Hùng Vương phái Hùng Hải Công cùng vợ là bà Trang phu nhân đi thuyền rồng từ Đào Xá lên Thọ Xuyên. Giữa cảnh

sông nước hữu tình, bà Trang phu nhân mơ sinh ra quí tử. ít lâu sau, bà

thụ thai và sinh ra ba người con trai đặt tên là Đạt Linh Long, Mãn Linh

Long và Uyên Linh Long. Khi ba người con khôn lớn, Hùng Vương phái

Hùng Hải Công về nhậm trị ở Hưng Hóa, phái người con út là Uyên Linh

Long nhậm trị ở Thọ Xuyên, Dị Nậu, còn hai người kia ở lại giữ Đào Xá.

Dân Đào Xá thường gọi Hùng Hải Công là Đức thánh phụ, bà Trang phu nhân là Đức thánh mẫu còn ba người con là tam vị đại vương và cùng

thờ họ ở đình và ở đền. Ngoài ra trong đền còn thờ bà Quế Hoa công

chúa là người mua vui cho bà Trang phu nhân trong những ngày bà mang

thai.

Với các vị thành hoàng được thờ trên đây, lễ hội Đào Xá trong một

năm được tiến hành theo lịch sau đây:

- Tháng giêng: ngày 3 múa trâu diễn tả lại việc Quế Hoa mua vui

cho bà Trang phu nhân, lễ thức được tổ chức tại đền. Từ 27 đến 29: Cầu tháng giêng. Rước thành hoàng từ đình về đền để tế lễ, mở hội múa voi,

thổi cơm thi ở sân đình.

Page 331: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

403

- Tháng hai: Chọn ngày tốt tổ chức tế xuân. Ngày lo lễ lập đền thờ

bà Quế Hoa, cũng là ngày làm thượng điền kết thúc một vụ cấy cầy.

- Tháng ba: Ngày 12 Đức thánh phụ hóa nhật cũng là lễ nhà Lý

phong sắc cho thành hoàng làng, lễ Chạ Dậu (lễ kết nghĩa với làng Dậu

Dương).

- Tháng tư: Chọn ngày tốt làm lễ cầu yên ở đình.

- Tháng năm: Ngày 5 Đức thánh phụ sinh nhật, nhân kết thúc vụ

gặt chiêm làm lễ treo hái.

- Tháng bảy: Từ 9 đến 15, lễ hiền thần phù vua nhà Lý đánh giặc

Tống, tổ chức bơi trải giữa các giáp, diễn lại sự tích thành hoàng giúp Lý Thường Kiệt đánh giặc.

- Tháng chín: Ngày 9, tổ chức lễ hạ điền mở đầu vụ cấy chiêm.

- Tháng chạp: Ngày 12, lễ mừng vua Trần phong sắc cho thành

hoàng, cầu cúng ở đền. Ngày 15, lễ Đức thánh mẫu hóa cầu cúng ở đình.

Ngày 30, lễ bàn giao giáp đăng cai.

Sau đây chúng tôi trình bày một số lễ chính thức:

1. Lễ mồng 2 tháng giêng: Múa trâu: Theo truyền thuyết, trong

những ngày bà Trang phu nhân mang thai, Quế Hoa bày các trò chơi để mua vui cho bà. Lễ thức chính được tổ chức ngày 2 Tết. Đến giờ động

thổ, chủ đền hay thủ từ xin âm dương, nếu được thì ra cửa đền đốt pháo,

giáp đăng cai nổi ba hồi trống rồi khắp thôn xóm hò reo. Sau khi khấn

thành hoàng bằng 12 cỗ tế, giáp đăng cai đến nhà người được làm bánh

trâu rước lồng bánh về đền. Mỗi lồng bánh là một con trâu làm bằng bột

gạo nếp dìn (nếp đen) trị giá 6 đấu gạo, một con trâu phủ giấy bạc. Trên

mình mỗi con có khắc chữ xuân ngưu, trên bàn thờ có đặt hai bát nước, một bát đựng quả trứng, bát kia đựng chiếc gầu dai bằng giấy cốt bằng

tre. Hai người (một nam đại diện giáp đăng và bà đồng) nâng lồng bánh

trâu múa đối diện nhau. Sau đó chủ tế vảy nước ở hai bát vào hai người

múa. Lễ thức này thực ra gắn với hình thức sinh hoạt đầu mùa.

2. Cầu tháng giêng: Sáng 27, giáp đăng cai biện trầu cau, chủ tế

kính lễ động thổ đình, cắt cử người soạn đồ kính tế, cùng các đồ chấp

kích quạt, tàn, lọng. Người được phân công đọc văn tế năm đó vào đình

đọc văn. Quan viên trong làng và trai đinh các giáp rước văn, đem kiệu vào đền. Chủ tế (cụ chủ) vào cáo yết ở đền rồi đem bài vị ra làm lễ mộc

dục ở một bể trong sân đền. Sau đó rước bài vị, bát hương, hòm sắc và

một buồng cau về đình. Giáp đăng cai mang hương án, đồ kính tế về

Page 332: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

404

đình. Bốn giáp biện lễ trầu rượu. Quan viên làm lễ cáo tế, các giáp lại

dâng lễ vật để làm lễ chính tế (lễ gồm: ba nải chuối, ba bát lênh lang, một thứ bánh trôi không nhân, ba con cá chép tượng trưng cho tam vị đại

vương theo giấc mộng của vợ Hùng Hải Công).

Sáng 28, tiến cỗ thờ (bốn cỗ của giáp đăng cai, mỗi cỗ gồm bốn

đồng chè kho, bốn đồng bánh mật, ngoài ra có chuối, phật thủ, chanh

yên, cam, quít, cau, trầu, một con gà trống luộc...) cỗ này để ở đình đến

sáng 29. Bốn giáp chọn mổ lợn đực đen làm cỗ tế như ngày mồng ba

tháng giêng. Trước khi đi vào đại tế, phải rước kiệu, bát hương, buồng

cau từ đình ra điếm trung quân cách đó chừng 200 mét, để kiệu hướng về phía đông một lúc (cầu vọng, tiễn Đức thánh phụ về nhậm trị xứ Hải

Dương). Đám rước rất cầu kỳ, trọng thể. Hành trình của đám rước chỉ có

200 mét nhưng phải đi ít nhất trong hai tiếng. Trước khi quay trở về đình

thì đốt pháo, gióng ba hồi chiêng trống. Sau đó, đám rước tập kết ở sân

đình, quan viên hàng xã vào tế. Từ lúc đám rước khởi hành, đến khi tế

xong mất khoảng sáu tiếng đồng hồ. Buổi tối hôm đó ở đình có tổ chức

thi hát. Trước khi hát, phải làm lễ mời ông tổ mười hai đến Đào Xá lập

nghiệp sớm nhất về nghe hát.

Ngày 29, các nghi thức tiến hành gần như ngày 28, chỉ có khác

không tiến cỗ thờ, không chào các ông tổ. Đến ngày 30, các giáp biện

trầu cau, chủ tế làm lễ xin hoàn cung.

Trong các ngày cầu này, có một số tục đáng lưu ý:

a. Múa voi: Theo truyền thuyết xưa kia mỗi lần Hùng Hải Công đi

kinh lý từ Đào Xá lên Thọ Xuyên, dưới nước có thuyền rồng, trên bộ có

voi đi hộ giá. Vì vậy, dân làng làm hai "ông voi" để "phục vụ" Hùng Hải Công. Voi được tạo ra với cốt tre đan theo kiểu đặc biệt mà hiện nay chỉ

có một số cụ còn nhớ. Da voi được bọc bằng vải màu của xã (Lâm Thao)

nhuộm đen. Ngoài ra còn có ngà, mắt, trên lưng có đai giả. Kích thước

của voi to như voi thật. Hai người chui vào trong điều khiển cho voi hoạt

động dưới sự chỉ huy của quản tượng. Trong các đám rước, voi làm

nhiệm vụ dẹp đám để bảo vệ trật tự và trang nghiêm. Khi tế ở đình, hai

voi nằm phủ phục canh giữ ở cổng đình.

b. Thổi cơm thi: Tổ chức sáng 29 tại sân đình, thi tài giữa trai đinh bốn giáp với nhau, mỗi giáp là một bếp đặt ở góc đình. Mỗi bếp có bốn

người (một người cướp gà, một người kéo lửa, một người gánh nước,

một người xay giã gạo - mỗi người thắt một chiếc khăn đỏ ngang lưng).

Dụng cụ được phép của mỗi bếp gồm: một nồi đất nấu cơm, một nồi

Page 333: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

405

đồng để luộc gà, một bếp kiềng, một cối xay lúa, một cốc con để giã

bằng gỗ nhãn, chày tay, một bó củi (có năm chỉ được dùng bã mía, hoặc tre tươi già), dao thớt. Thứ tự cuộc thi như sau: Có ba hồi trống phát ra,

những người cướp gà phải nhanh chân lên thềm đình cướp một con gà

sống mang về, người đi gánh nước (ở giếng Vuồng, cách đình 300m),

người kéo lửa, và người làm gạo, tất cả vào việc. Khó khăn nhất là việc

của người kéo lửa, không được đánh diêm mà phải lấy hai, ba sợi dây

giang để kéo lửa, kéo trên mặt cây nứa khô, hoặc nhùn tre hoặc trên cây

gỗ bồ đề, trảu, trám trắng, loại gỗ dễ bắt lửa. Việc làm gạo cũng khó vì

cối xay để ở góc sân không giăng cối. Cuộc thi kéo dài trong khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ trong không khí nhộn nhịp vì tiếng hò reo cổ vũ của

dân làng. Khi có hồi trống ở đình, các bếp phải đem cơm và gà lên để

ban giám khảo duyệt (Cơm nấu chín thì đập vỡ nồi đất để cơm vào đĩa

còn gà đặt lên một đĩa khác rồi để cả hai thứ lên một chiếc khay gỗ. Bếp

nào có cơm trắng đều, không khê nát, gà thịt trắng, sạch lông là được

giải.

3. Cầu tháng bảy: Sáng mồng 9 giáp đăng cai biện lễ trầu cau giao

cho thủ từ và chủ tế làm lễ cáo yết ở đền, rước bài vị ra bệ lau rửa rồi rước vào vị trí thờ chính. Giáp đăng cai sửa soạn đồ kính tế, cỗ bàn như

ngày mồng ba tháng giêng. Sau đó quan viên vào tế, khi tế, chỉ dùng kèn,

không khua chiêng trống, buổi tối cả làng không được khua động ầm ĩ.

Tế xong, làm lễ hạ chải. Để tổ chức bơi chải ở đầm nước trước cửa đền,

trai tân các giáp phải đi hạ chải. Có tục bơi chải vì theo truyền thuyết và

ghi chép trong thần phả, vào thời Lý, trên đường đi kinh lý các nơi xem

xét địa thế để bố trí phòng tuyến và phương án tác chiến với giặc Tống, Lý Thường Kiệt đã ngược sông Hồng theo dòng sông Cổ nối sông Hồng

với sông Đà (nay được cải tạo thành vùng chiêm trũng) vào cầu khẩn tại

đền Đào Xá, thần linh phù trợ giúp nước đuổi giặc Tống. Lý Thường

Kiệt vừa khấn xong thì thần hiện lên đọc bốn câu thơ mà nội dung có

nhiều nét giống bài "Nam quốc sơn hà Nam đế cư":

Nam thiên dĩ định tế Nam quân

Đại đức giai do đức nhật tân

Thất quân sơn hà đô nhất thống

Tống binh bất miễn tản như vân

Lược dịch:

Trời Nam đã định vua Nam ta

Đức lớn ngày thêm đức mới ra

Page 334: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

406

Bảy quận non sông thu một mối

Binh Tống tan tành tựa mây sa

Vừa dứt lời thì từ phía ngoài đầm xa hiện lên hai chiếc thuyền rồng,

mỗi thuyền có hàng trăm người hò reo, bơi thẳng vào cửa đền. Lý

Thường Kiệt tưởng quân Tống đến, liền cho thuyền ra nghinh chiến thì

trên thuyền kia có tiếng gọi "thuyền quân thần linh đến cùng ông đánh

giặc Tống, xin đừng ngại". Đoạn quân tướng tiến vào đền, cùng với quân

tướng Lý Thường Kiệt làm lễ cầu với thần linh xuất quân đánh giặc. Giặc

tan, Lý Thường Kiệt trở về, tâu vua xin phong Hùng Hải Công và Tam vị

đại vương làm "thượng đẳng phúc thần". Dân làng Đào Xá mở hội ăn mừng, tổ chức bơi chải để diễn lại cảnh Lý Thường Kiệt cùng quân

tướng đón thuyền của thần linh. Hai giáp giữ một chải (giáp Đông và

giáp Bắc: Chải đực, giáp Tây và giáp Nam: Chải cái). Mỗi chải có 27

người (24 người ở 24 khoang, 1 người gõ mõ 1 người giữ đầu chải, 1

người bẻ lái, tất cả đều đội khăn đỏ, mặc áo đỏ, đóng khố). Khi hạ chải,

bơi ra từ cửa đền, êm ả, nhẹ nhàng, không động hiệu. Đến dãy đồi Gọc

thì quay về, lúc này các chải mới nổi trống, mõ và bơi nhanh. Chải nào

về tới cửa đền trước sẽ thắng cuộc. Cứ như thế ba lần các ngày 10, 11, 12, 13, 14, 15 lễ thức cầu cúng và bơi chải diễn ra như ngày 9. Chiều 15

lập đàn làm lễ tế hạ ở đền.

Qua diễn trình hội trên, chúng tôi có mấy nhận xét sau:

1. Hội lễ ở Đào Xá, lấy việc thờ thành hoàng là vị thần có công trị

thủy làm trung tâm rất phong phú về lịch thờ cúng và chủ đề: Hội lễ nông

nghiệp (múa trâu, bơi chải) thi tài (thổi cơm thi) luyện quân đánh giặc

(bơi chải) v.v... Song yếu tố nông nghiệp và sông nước trong hội làng nổi lên rất rõ. Điều này phản ánh đặc điểm sinh hoạt văn hóa và hội lễ của

cư dân vùng chiêm trũng.

2. Tính chất "nông nhàn" của hội lễ ở vùng chiêm trũng nổi lên rất

rõ, các lễ chính thức đều tập trung vào tháng giêng (lúa đã cấy xong) và

tháng 7 (nước ngập).

3. Các lễ thức trong hội lành mạnh, có tác dụng giáo dục sâu sắc,

đáp ứng được yêu cầu thưởng thức văn hóa của dân làng nên được bảo

lưu dai dẳng (cho tới ngày nay, hàng năm, vào các ngày cầu việc tế vẫn duy trì, từ năm 1983 tới nay, múa voi và rước được phục hồi và đã đi

phục vụ hội Đền Hùng, dân làng lại đang mong mỏi được phục hồi bơi

chải, đình làng Đào Xá đã được xếp hạng). Điều đó càng khẳng định giá

Page 335: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

407

trị tích cực của hội làng và là tư liệu tham khảo cho cơ quan văn hóa

trong việc phục hồi một số yếu tố tích cực của hội lễ./.

B.X.Đ

Page 336: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

408

Hội Đình Bảng *

Lờ Văn Kỳ

"Hỡi cụ thắt lưng bao xanh

Cú về Đỡnh Bảng với anh thỡ về

Đỡnh Bảng cú lịch cú lề

Cú ao tắm mỏt, cú nghề nhuộm thõm"

Đấy là cõu ca dao cổ ca ngợi cảnh sống trự phỳ của một miền quờ quanh năm nhộn nhịp hội hố mà chỳng ta đang núi tới.

Đỡnh Bảng tờn nụm là làng Bỏng (xưa là rừng bỏng), cựng nhiều tờn gọi khỏc như Cổ Lóm (thời nhà Đinh); Thiờn Đức (thời nhà Lý); Đụng Ngàn (thời nhà Trần) v.v... Đỡnh Bảng nổi tiếng cũn do đõy là quờ hương nhà Lý - một dũng họ với 8 đời vua cú cụng lớn trong sự nghiệp phục hưng nước Đại Việt.

Nhờ thiờn thời địa lợi, nhờ chịu khú làm ăn, từ lõu Đỡnh Bảng đó trở thành một trong những làng trự phỳ.

Đỡnh Bảng hiện là một xó lớn gồm 13 thụn thuộc huyện Tiờn Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ngoài nụng nghiệp là nguồn sống chớnh, dõn làng cũn biết nhiều nghề thủ cụng nổi tiếng như sơn then, sơn mài, dệt mành, dệt vải, v.v...

Xưa, làng được cả vựng biết tới vỡ mỗi năm cú tới tỏm mươi lễ hội lớn nhỏ và việc ăn uống thỡ đều mõm cao cỗ đầy, chu đỏo, sang trọng.

Hội Đỡnh Bảng thường mở vào mựa xuõn, trong đú hai hội lớn chỳng ta sẽ khảo sỏt là hội đền và hội đỡnh.

I. Hội đền Lý Bỏt Đế:

Đền Lý Bỏt Đế cũn gọi là đền Đụ (tức đền Cổ Phỏp) được xõy dựng vào thế kỷ XI trờn đất làng Đỡnh Bảng (Tiờn Sơn, Bắc Ninh) cỏch thị xó Bắc Ninh khoảng 15 km theo quốc lộ 1A. Đền Đụ nằm

giữa địa phận Hà Nội và Bắc Ninh.

Theo cỏc cụ già kể lại, đền Đụ do Lý Thỏi Tụng xõy dựng năm 1030 để thờ Lý Thỏi Tổ. Vào thế kỷ XV, giặc Minh khi sang xõm lược nước ta đó phỏ hủy làng Đỡnh Bảng và đền Đụ. Năm 1602 vua Lờ Kớnh Tụng đó cho quan điện chớnh Vũ Kỳ Sĩ cựng dõn làng xõy dựng lại đền

* Bài đó in trong Lễ hội cổ truyền (Viện Văn húa dõn gian - Nxb Khoa học xó hội, Hà Nội,

1992), ở đõy cú biờn tập lại và bổ sung một số tư liệu.

Page 337: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

409

Đụ. Năm 1952, đền Đụ bị chiến tranh phỏ hủy. Thời gian qua, nhõn dõn Đỡnh Bảng đó tiến hành tu dựng lại cỏc cụng trỡnh xứng đỏng là nơi tụn thờ của nhõn dõn cả nước với cụng đức của cỏc vị vua nhà Lý.

Đền Đụ được bao bọc bằng một bức tường xõy bằng gạch rộng bản. Tường mặt rộng 0,9m, cao 2,3m. Kiến trỳc đền Đụ cõn xứng, hài hũa, được đắp vẽ, chạm khắc tinh xảo, tài nghệ gồm 20 hạng mục cụng trỡnh. ở chớnh giữa nhà là điện thờ - nơi đặt bài vị và tượng tỏm vị vua nhà Lý. Qui mụ của đền Đụ bề thế, cột, khung nhà và cỏc cỏnh cửa đều bằng gỗ lim, bằng vàng tõm cổ thụ. Phớa trước đền cú hồ bỏn nguyệt với diện tớch 9.500m2.

Đến thăm Đền Đụ, chỳng ta sẽ thấy cỏc cửa rồng được chạm khắc hỡnh mõy bay, hỡnh rồng chầu mặt nguyệt. Trờn cửa rồng, cú đao rồng cong vỳt. Qua cửa rồng là đến nhà vuụng tỏm mỏi, chồng diờm, đõy là một kiến trỳc mang đậm nột thời Lờ, sau nhà vuụng tỏm mỏi chồng diờm là đến nhà tiền tế gồm bảy gian, là nơi diễn ra cỏc hoạt động tõm linh và lễ hội. Trong đền Đụ cú hai bức đại tự "Bỏt diệp trựng quang" (tức tỏm vua đều sỏng) và "Cổ Phỏp triệu cơ" (tức là đất Cổ Phỏp là nền múng để dựng lờn cơ nghiệp nhà Lý). Dưới nữa là hương ỏn thờ tỏm vị vua Lý theo thứ tự thời gian kế tiếp trị vỡ:

- Lý Thỏi Tổ (Lý Cụng Uẩn) (1010 - 1028)

- Lý Thỏi Tụng - Lý Phật Mó (1028 - 1054)

- Lý Thỏnh Tụng - Lý Nhật Tụng (1054 - l072)

- Lý Nhõn Tụng - Lý Càn Đức (1072 - 1128)

- Lý Thần Tụng - Lý Đương Hoàn (1128 - 1138)

- Lý Anh Tụng - Lý Thiờn Tộ (1138 - 1175)

- Lý Cao Tụng - Lý Long Cỏn (1175 - 1210)

- Lý Huệ Tụng - Thỏi Tử Sõm (1210 - 1224)

Ngoài ra cũn thờ thờm thõn mẫu Lý Cụng Uẩn và tỏm vị hoàng hậu. Hai bờn hương ỏn là là tượng Đỏ Rói cởi trần đúng khố. Theo tương truyền dõn gian, hai ụng Đỏ Rói đó cú cụng lớn cựng vua Lờ đi dẹp giặc. Sau khi hai ụng chết, được tạc tượng thờ để tỏ lũng trung thành với vua. Dõn gian cú cõu:

Tướng quõn Đỏ Rói đứng kia

Ngàn năm chung thủy canh bia giữa đền.

Phớa sau hương ỏn là tượng Lờ Phụng Hiểu và Tụ Hiến Thành. Qua nhà chuyển bồng, thỡ vào hậu đụ gồm bảy gian, cũng là nơi đặt bài vị tỏm vị vua nhà Lý.

Page 338: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

410

Tất cả những cụng trỡnh này cựng với nhà thủy tọa, văn chỉ, vừ chỉ, nhà đinh đương, binh cựu, nhà ghi cụng cỏc vua Lý hài hũa cựng những cõy cảnh, dũng sụng Tiờu Tương tạo nờn một cảnh quan thơ mộng và thiờng liờng cho đền Đụ. Bờn kia sụng Tiờu Tương là Thọ Lăng Thiờn Đức, nơi an nghỉ của cỏc vua triều Lý:

Đền Đụ kiến trỳc tuyệt vời

Thăng Long đẹp đất đẹp người ngàn năm.

Hỡnh ảnh thủy đỡnh của Đền Đụ đó được chọn làm biểu tượng để in trờn giấy năm đồng tiền vàng thời trước. 1

Lý Cụng Uẩn cú người mẹ họ Phạm ở đỡnh Sấm 2; ụng là con nuụi Lý Khỏnh Võn, con đẻ của họ Lý ở Cổ Phỏp 3. Truyền thuyết dõn gian lại khẳng định Lý Cụng Uẩn chớnh là con trai của thiền sư họ Lý người Đỡnh Bảng là Lý Khỏnh Võn tu ở chựa Tiờu, hồi quan sau chuyển về chựa Rận. Lỳc thiếu thời, Lý Cụng Uẩn cũng là tiểu ở chựa Rận. Khi lớn lờn, Lý Cụng Uẩn khụi ngụ tuấn tỳ thụng minh và cú sức khỏe phi thường được dõn chỳng mến phục. ễng tham gia triều chớnh nhà tiền Lờ, làm quan tới chức tả thõn vệ điện tiền chỉ huy sứ. Chớnh trong thời gian này, ụng được cỏc thiền sư Vạn Hạnh, Đa Bảo và quan lại như Đào Cam Mộc tạo ra sấm ký, chuẩn bị dư luận đưa ụng lờn ngụi vua mở nghiệp đế vương của dũng họ Lý, Lờ Ngọa Triều mất, quần thần suy tụn Lý Cụng Uẩn lờn làm vua năm 1009. Năm 1010 Lý Thỏi Tổ xa giỏ về quờ đó ban phỏt cho cỏc bụ lóo tiền, lụa theo cỏc thứ bậc khỏc nhau và sau đú đó phong thực ấp cho dõn làng. Cứ mỗi xuất đinh được cấp 5 sào, 3 cụ phụ lóo được cấp 1 mẫu, 32 giỏp trong làng được cấp mỗi giỏp 8 mẫu cụng điền để lo việc chung của dõn làng trong năm.

Để tưởng nhớ tới Lý Cụng Uẩn (Lý Thỏi Tổ) và cỏc đời vua Lý tiếp theo đó cú cụng với nước, với dõn làng, nhõn dõn làng Đỡnh Bảng chọn ngày 15 thỏng 3 õm lịch, ngày Lý Cụng Uẩn lờn ngụi vua làm lễ đăng quang vua Lý 4. Từ đú thành lệ, hàng năm dõn làng mở hội vào ngày 15 thỏng ba õm lịch và kết thỳc ngày 18 cựng thỏng. Do vậy, mà hội cũn cú tờn là "Lễ hội Đăng quang". Dịp nào được mựa ba năm liền thỡ làng mở hội lớn (hội Đại).

Mở hội, việc đầu tiờn là bầu Cai đỏm.

1 Phần mụ tả di tớch theo Nguyễn Hoàng Long:Di tớch lịch sử đền Đụ (Nhõn dõn, ngày

9.3.1998). 2 Nay là thụn Dương Lụi, xó Tõn Hồng, huyện Tiờn Sơn.

3 Lịch sử Hà Bắc tập I, Hội đồng lịch sử Hà Bắc xb, 1986.

4 Theo Ngụ Hữu Thi : Hội Đỡnh Bảng xưa và nay, (Hội xứ Bắc - tập II, Sở VHTT Hà Bắc -

1989).

Page 339: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

411

Cai đỏm là người thay mặt làng đảm nhiệm toàn bộ việc hội, 32 vị giỏp trưởng phải họp trước để cõn nhắc người xứng đỏng rồi sau đú mới đưa ra làng lựa chọn. Cai đỏm phải là người cú uy tớn với làng, gia đỡnh hũa thuận, con cỏi đầy đủ nếp tẻ, kinh tế khỏ giả, khụng cú khuyết tật. Người cú tang khụng được bầu.

Bầu xong Cai đỏm, làng phải cú cơi trầu, nậm rượu đến mừng và đưa trống Đại vào tận nhà rước Cai đỏm ra đền trỡnh Thỏnh trước khi vào hội. Ngay hụm đú, Cai đỏm cũng mổ lợn, biện cỗ cỏo gia tiờn. Nếu cha mẹ cũn thượng tại thỡ Cai đỏm phải mặc ỏo thụng đỏ, sắm riờng một cỗ để "mừng cố".

Cai đỏm biểu trưng cho sự tốt đẹp, trong sạch của xúm làng, thay vua Lý Thỏi Tổ ra đền làm lễ tạ ơn Đức Thỏnh Mẫu, tạ ơn tổ tiờn nờn rất được mọi người trọng vọng, tin tưởng. Vỡ vậy mà kể từ khi nhận chức, Cai đỏm phải sống chay tịnh, ăn riờng một mõm, khụng đến nhà người cú tang và khụng tham gia những việc cú tớnh dơ bẩn...

Sau khi làng rước ra đền, Cai đỏm sẽ là người cai quản việc tế lễ và chớnh bản thõn ụng làm chủ tế trong suốt 4 ngày.

Nghi lễ:

Từ ngày 15 đến ngày 18: ngày nào cũng tế hiến sinh - mỗi ngày một con trõu mộng thui chớn và một bưng xụi to. Tế xong thỡ ăn tại chỗ một phần, phần cũn lại chia về gia đỡnh để mọi người cựng được hưởng lộc hội.

Sỏng sớm ngày 15: Cai đỏm ra chựa Rận (tức chựa Cổ Phỏp) bỏch bỏi Đức Thỏnh Mẫu, Đức Thỏnh Văn, Đức Thỏnh Tam Bảo...

Sỏng 16 cũng ra chựa dõng oản, chuối rồi mới về tế lễ ở đền và chuẩn bị bước vào ngày hội chớnh.

Lệ định phải hành lễ ở chựa trước vỡ Lý Cụng Uẩn vốn sinh ở chựa này.1

Mõm cỗ ngày hội do cỏc giỏp biện sắm theo lứa lượt. Đỡnh Bảng cú 32 giỏp, mỗi giỏp được chia 8 mẫu ruộng cụng dựng cho hội hố, giỗ chạp quanh năm nờn dõn làng khụng phải đúng gúp thờm gỡ, mặc dự "việc ăn uống ở đõy hiếm nơi sỏnh được", mặc dầu mỗi năm làng mổ 12 con trõu mộng để tế lễ (bốn con dựng cho hội đền, tỏm con dựng vào tỏm ngày giỗ tỏm vị Hoàng đế nhà Lý).

1 Theo truyền thuyết thỡ xưa kia cú một bà làm cụng trong chựa Cổ Phỏp nằm ngủ ngoài

sõn chựa. Một nhà sư bước qua, bà thụ thai, đẻ ra một cậu bộ tuấn tỳ. Bà ta để lại đứa bộ

cho nhà chựa rồi bỏ đi. Cậu bộ ấy chớnh là Lý Cụng Uẩn.

Page 340: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

412

ở Bắc Ninh, tế trõu thui là một tục độc đỏo chỉ riờng Đỡnh Bảng mới cú. Nú được bắt nguồn từ sự tớch Khổng Minh Khụng chữa khỏi bệnh húa hổ cho vua Lý Thần Tụng. Nhà vua quớ trọng thầy thuốc và đó giả ơn thầy bằng cỏch cho dõn làng thui trõu cỳng khi thầy qua đời. Từ đú mà biến thành tục lệ.

Rước kiệu:

ở hội đền Lý Bỏt Đế, rước kiệu là nghi lễ long trọng nhất, là hành động chớnh của ngày hội thu hỳt rất nhiều người. Làng đó chuẩn bị việc này khỏ chu đỏo. Trước khi vào đỏm ba thỏng phải tuyển ba ụng "Thế tướng" với tiờu chuẩn: khỏe, khụi ngụ; cú đức độ. Sau ba Thế tướng là 16 tướng nam và 16 tướng nữ cũng là những người xinh đẹp, trẻ trung, chưa cú chồng, chưa cú vợ. Tiếp nữa là chọn phường nhạc cú tớn nhiệm; chọn người cầm cờ (thường là người cú chõn trong tư văn); chọn trỏng đinh đi khiờng kiệu, kộo ngựa, v.v... Đỡnh Bảng cũn cú tục đắp đường rước kiệu từ đền Đụ lờn chựa Cổ Phỏp gọi là "đường rước kiệu" dành riờng cho hội đền. Đường rộng rói, quang đóng nhưng lại hơi gồ ghề với dụng ý là để cho nhịp độ đỏm rước chậm rói nhằm tăng thờm phần long trọng của nghi lễ và thỏa món lũng tụn kớnh, ngưỡng mộ của dõn chỳng.

Tỏm cỗ kiệu trang hoàng lộng lẫy được rước từ đền Đụ lờn chựa Cổ Phỏp để nghe tăng ni tụng kinh rồi lại rước về chỗ cũ. Trước khi rước, ba ụng Thế tướng vào đền thắp hương làm lễ. Thế tướng lễ xong, lui ra rồi dẫn đầu đỏm rước lờn đường.

Thế tướng cởi trần, đúng khố vàng, mỗi ụng vỏc một cỏi dựi (nguyờn thờ ở trong đền) gọi là "dựi trỏi dành". Họ được xem là Thỏnh do vua Lý ứng vào trong ngày hội.

Sau Thế tướng là phường nhạc. Tiếp phường nhạc là hương ỏn tiền gồm 4 kiệu, 4 ngựa chiến bằng gỗ do cỏc trỏng đinh cởi trần, đúng khố bao, đội mũ quai rỡu, khiờng kộo.

Sau hương ỏn tiền là Cai đỏm mặc ỏo thụng xanh, quần trắng, đội mũ y quan, đi hia, che lọng. Tiếp theo là hương ỏn hậu cũng cú 4 kiệu, 4 ngựa và cỏc trỏng đinh phục dịch. Sau hương ỏn hậu là chức sắc, hương lóo và dõn chỳng. Theo lệ, đỏm rước phải cú 32 cõy cờ to, đẹp (của 32 giỏp) do thanh niờn từ 13 đến 18 tuổi của từng giỏp vỏc đi. Đi theo hương ỏn, cũn cú bỏt bửu, cú 8 tướng nam mặc ỏo màu lam và 8 tướng nữ mặc ỏo dài đỏ, tất cả đều cú lọng che. Phụ giỏ cho kiệu là 24 người do làng chọn. Đú là những dõn đinh mạnh khỏe, trong sạch, cú nhiệt huyết cộng đồng.

Cú thể núi: Rước kiệu ở hội đền Lý Bỏt Đế là một đỏm rước khổng lồ, hoành trỏng, mang tớnh hoàn thiện về nghi thức lẫn thẩm mỹ. Khụng

Page 341: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

413

chỉ riờng Đỡnh Bảng mà là người hàng tổng kộo về cuồn cuộn đi theo đỏm rước như tượng trưng cho một cuộc diễu hành biểu dương sức mạnh Đại Việt và thể hiện lũng biết ơn sõu sắc đối với cỏc bậc tiền bối đó cú cụng trong lịch sử nước nhà.

Đền Lý Bỏt Đế đó bị giặc Phỏp phỏ hủy từ năm 1946 và hội đền từ đấy cũng mai một dần.

Trũ chơi:

Ngoài nghi lễ thiờng liờng, hội đền cũn cú những trũ chơi vui khoẻ cuốn hỳt nhiều người tham gia như đấu vật, đỏnh cờ, chọi gà, hỏt chốo, diễn tuồng, v.v... Nhưng ở hội này, trũ chơi được lưu ý nhất là cờ người. Đõy là một trũ chơi truyền thống, qui củ nờn việc chuẩn bị cho hội cờ thật là chu đỏo, nghiờm tỳc.

32 quõn cờ là người thật, cho nờn cờ tướng ở đõy cũn gọi là "cờ người". Mười sỏu nam đúng quõn đỏ, mười sỏu nữ đúng quõn đen. Tướng ụng, tướng bà, phải là những người khụi ngụ, tuấn tỳ, cú đạo đức. Cỏc vai tướng, sĩ đều cú lọng che. Cỏc "Quõn cờ" phải khăn ỏo chỉnh tề, trang phục thống nhất, cử chỉ đứng đắn "quần trắng, ỏo dài the, giày Gia Định, khăn xếp, thắt lưng điều". Người cầm quõn phải chấp hành nghiờm chỉnh luật lệ của hội và được một người theo hầu để sai bảo khi cần thiết (như trầu, thuốc, lệnh chộm quõn, lệnh chiếu tướng, v.v...). Hội cử một người đỏnh trống bỏi để khớch lệ tinh thần chiến đấu của hai bờn, đồng thời cũng là hiệu lệnh để nhắc nhở cỏc đấu thủ lỳc phạm qui. Thời gian dành cho từng nước cờ được qui định sẵn chứ khụng tựy tiện theo người cầm quõn.

Cờ tướng Đỡnh Bảng nổi tiếng từ lõu đời và giải cờ ở đõy bao giờ cũng to nhất vựng. Ai đoạt được giải quả là kiờu hónh, vinh quang nhưng điều đú khụng dễ. Muốn dành được giải cao nhất thỡ phải vượt qua ba "cửa ải" - nhất thắng, nhị thắng; tam thắng rồi mới vào vũng chung kết để đấu trớ, đọ tài.

So với cỏc nơi khỏc, cờ tướng ở đõy cú nhiều nột độc đỏo. Nú khụng chỉ là một trũ chơi giải trớ đơn thuần mà cú thể núi là sự tổng hợp của lý trớ, mưu lược, thời cơ, và sự "hơn thua" cay cỳ này dường như cú liờn quan đến thế thỏi nhõn tỡnh. Từ hun đỳc, chuẩn bị đến cỏch chọn tướng, tuyển quõn, thời gian, luật lệ, nếp nghĩ, lối đỏnh cũng như thỏi độ, cử chỉ của người chơi đều thể hiện một cỏi gỡ hệ trọng, nặng nề, hoài cảm, u uất, khiến người xem cú quyền suy diễn: Phải chăng thế cờ cũng là thế sống, là vận nước, là cuộc đấu trớ chớnh trị của một thời mà dư õm cũn vang vọng?

Page 342: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

414

Mỗi dịp vào đỏm, trũ chơi này như gợi lờn trong lũng người địa phương một thỏi độ vừa kiờu hónh, tự hào, vừa lạnh lựng, thương cảm về một dũng họ đầy oanh liệt, vẻ vang nhưng hậu vận khụng lấy gỡ làm may mắn. Sự lờn ngụi của nhà Trần là tất yếu lịch sử nhưng sự đối đói của nhà Trần đối với nhà Lý cú nhiều điều đỏng chờ trỏch. Cỏi đú trở thành niềm mặc cảm nặng nề và hỡnh như sự mặc cảm đú đó đi vào đời thường (ngay cả lỳc vui chơi) mà cờ tướng là một biểu hiện cụ thể.

II. Hội đỡnh:

Hội đỡnh tổ chức tại đỡnh làng. Đõy là một ngụi đỡnh tuyệt đẹp xõy dựng vào giữa thế kỷ XVIII và cho đến nay vẫn cũn y nguyờn.

Hệ thống thần thành hoàng trong đỡnh này khỏ phức tạp. Lỳc đầu, đỡnh chỉ thờ cú ba vị là thần nỳi (Cao Sơn đại vương); thần nước (Thủy bỏ đại vương); thần trồng trọt (Bỏch Lệ đại vương). Sau đú, đỡnh cũn thờ thờm sỏu vị "lục Tổ" cú cụng xõy dựng lại làng (tức là sỏu người con trai của Đỡnh Bảng sống sút lại sau vụ "sỏt phu, hiếp phụ" của giặc Minh), rồi đến khi đền Lý Bỏt Đế bị Phỏp phỏ hủy thỡ đỡnh lại thờ thờm tỏm vị vua nhà Lý từ đền chuyển về. Vỡ vậy, mà hội Đỡnh Bảng cú nhiều yếu tố đan xen khú phõn biệt (thiờn thần; nhõn thần; tụn giỏo sơ khai và chớnh thống v.v...). ở đõy cú thể thấy: Hội đỡnh cú mục đớch tưởng niệm ba lớp thần ứng vào ba lớp thời gian phự hợp với thực tế lịch sử mà làng Đỡnh Bảng đó trải qua.

Xưa kia, hội được mở từ ngày 12 đến 16 thỏng hai õm lịch hàng năm. Hội diễn ra theo tiến trỡnh:

1. Nghi lễ:

Việc tế lễ được cử hành trong 4 ngày. Cỏc ngày 12, 14, 16 tế thần bằng một mõm xụi, một con lợn. Tế xong, hạ mõm cỗ ăn tại đỡnh theo bốn gốc dõn (mỗi gốc cú 8 giỏp và đứng đầu 8 giỏp là một "Đầu vệ tướng"). Đờm 13, cú tục tế thần bằng hai con lợn sống (một đực, một cỏi). Tế xong mổ lợn chia cho cỏc Hiệu mang về từng nhà. Kinh phớ dựng cho hội lấy từ hoa lợi ruộng cụng do 32 giỏp thay nhau đảm nhiệm.

2. Đún Chạ:

Trong 5 ngày hội đỡnh, làng dành riờng cho một ngày để đún Chạ anh từ làng Cẩm Giang đến, vỡ hai làng này kết nghĩa với nhau rất khăng khớt, giỳp đỡ nhau tận tỡnh những lỳc khú khăn. Theo tục kết Chạ thỡ mỗi làng vào đỏm đều phải mời đại biểu của Chạ đến dự. Cẩm Giang được tụn là Chạ anh.

Sỏng ngày 15 thỏng hai: đoàn đại biểu Chạ anh sang Đỡnh Bảng dự hội. Cuộc đún tiếp được diễn ra rất long trọng. Đến gần cổng làng Đỡnh

Page 343: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

415

Bảng thỡ Chạ anh dừng lại. Dõn Đỡnh Bảng cử một số hương lóo, chức sắc khăn ỏo chỉnh tề cựng một số trai đinh cầm cờ lọng và phường õm nhạc ra đún - sau đú rước Chạ anh về làng mỡnh dự hội. Khi đoàn Chạ anh đến, dõn Đỡnh Bảng từ già chớ trẻ đều tỏ ra quớ mến, trọng vọng ngay cả trong lời núi và cử chỉ.

Chạ anh vào đỡnh làm lễ rồi được mời đến nơi sang trọng nhất của làng để tiếp nước và xơi cỗ. Những mõm cỗ tiếp Chạ anh phải sắp sửa tươm tất để tỏ lũng tụn kớnh của Chạ em khi anh đến.

Lỳc tiễn Chạ anh ra về cũng rất tỡnh nghĩa. Trong khụng khớ chia tay quyến luyến, họ chỳc tụng nhau những lời tốt lành và hẹn hũ nhau đến hội lần sau.

Đõy là một tục đẹp, cú truyền thống ở đất Kinh Bắc, thật đỏng quớ.

3. Trũ chơi:

Hội đỡnh cũng cú những trũ chơi hấp dẫn như ở hội đền. Nào đấu vật, chọi gà, thả chim cõu, tuồng, chốo... được nhiều nơi biết đến.

a. Đấu vật: Là trũ chơi thượng vừ phổ biến nhất của hội. Cỏc triều đại nhà Lý rất khuyến khớch trũ này. Trong cỏc cuộc thi vừ và tuyển chọn tướng vừ đều cú mụn vật. Vỡ vậy mà lũ vật Đỡnh Bảng sớm nổi tiếng, được cỏc lũ vật sừng sỏ như Gia Lương, Hải Dương (cũ), Hà Nội, Hà Đụng (cũ), Nam Định (cũ) v.v... tỡm đến đọ sức, thi tài nhõn ngày hội. Đỡnh Bảng thành lập một phường vật gồm những người vật giỏi và cả những người kinh tế khỏ giả yờu thớch mụn vật, tự nguyện đúng gúp cho phường những quyền lợi vật chất. Phường cú nhiệm vụ giỳp hội lo chuẩn bị cuộc đấu về mọi mặt như đún tiếp đụ bạn, cử người cầm chịch, sắm sửa xới vật, lo giải thưởng v.v...

Đấu vật ở hội Đỡnh Bảng được qui định theo thể thức sau đõy:

- Đụ nào bị lấm lưng, trắng bụng là thua.

- Cú một người cầm chịch chỉ huy bằng trống; một người giỏm sỏt; một ban giỏm khảo.

- Cú ba giải chớnh thức là giải ba, giải nhỡ, giải nhất - ngoài ra cũn cú một giải lốo (giải khuyến khớch) để đụng đảo mọi người cựng tham gia.

- Thắng giải lốo mới được vào tranh giải ba; thắng giải ba mới được tranh giải nhỡ; thắng giải nhỡ mới được tranh giải nhất.

- Giải thưởng to hay nhỏ tựy theo từng năm, nhưng đó đoạt giải nhất thỡ thế nào cũng được thưởng hiện vật (ngoài bỏnh phỏo, gúi chố, vuụng nhiễu, cũn được hai chiếc mõm thau, một nồi đồng - cú năm thỡ thay mõm thau, nồi đồng bằng con bờ hay con nghộ).

Page 344: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

416

Thụng thường thỡ cỏc lũ vật đều cử cỏc đụ đàn em vào trước để thử sức, thăm dũ đối thủ. Sau đú cỏc đụ sừng sỏ mới vào tranh giải cao.

Đấu vật ở hội Đỡnh Bảng tuy hăng say, quyết liệt nhưng khụng thụ bạo, hiểm độc. Phần lớn cỏc đụ đều sử dụng phong cỏch mềm mại, uyển chuyển, ăn nhau ở cỏc miếng độc đỏo nờn được nhiều người khen là Đỡnh Bảng cú kiểu vật "rồng bay, phượng mỳa, hổ vờn", kể cả khi vào miếng, đấu miếng và phỏ miếng.

Hội Đỡnh Bảng đó bồi dưỡng được nhiều đụ nổi tiếng trong đời và cả trong giai thoại, sỏch vở như ụng Cản Ngũ, ụng Cả Lẫm, Quỏn Đen, Tý Chõu, v.v... Vỡ tức chớ "hơn, thua", họ đó quờn mỡnh tập luyện và khi cú giặc gió, họ đó trở thành những người hữu ớch cho đất nước, quờ hương.

b. Chọi gà: Cũng là một trũ chơi cú tiếng ở hội Đỡnh Bảng được nhiều người hưởng ứng, mờ say. Trũ chơi này thật là cụng phu và cú thể núi là "một nghệ thuật" nữa. Muốn cú gà chọi thỡ phải tuyển chọn rồi tập luyện rất dày cụng theo những "thủ thuật" nhất định. Chọi gà trước hết là chọn giống rồi mới đến tướng mạo theo quan điểm dõn gian:

Mỡnh chụng, mỏ quắp, cỏnh vỏ chai

Quản ngắn, đựi dài, chả sợ ai.

Chọi gà được tổ chức tại sõn đỡnh - nơi khoảng đất bằng phẳng nhất và khụng cú cỏ dõy để gà khỏi ngó vỡ vướng phải cựa. Một hiệp chọi là một hồ (một hồ khoảng 15 đến 20 phỳt). Khi gà mệt phải nghỉ thỡ gọi là "khuya hồ". Những con gà khỏe cú thể chọi được 20 hồ như con "tớa xũe" xưa kia của ụng Quang (Đỡnh Bảng) chẳng hạn. Nú vừa khỏe, đỏnh hầu hay lại trỏnh giỏi nờn đi đõu là thắng đấy và đó từng mang lại niềm kiờu hónh cho cả làng.

Chọi gà cũng cú giải thưởng, cú luật lệ và cú ban giỏm khảo để phõn thắng bại trong những trường hợp phức tạp mà hai ụng chủ khụng thỏa thuận được với nhau. Thụng thường thỡ con nào bỏ chạy trước hoặc bị những miếng đỏnh nguy hiểm chết tại chỗ là thua. Đú là trường hợp gà Hầu gặp gà Đấm hay gà Đấm gặp gà Dọc 1.

Cũn như gà Mộ gặp gà Lối; gà Lối gặp gà Lỳ 2 thỡ chuyện thắng bại cú khi kộo dài hàng buổi vẫn chưa phõn. Vỡ vậy mà khi đưa gà ra bói 1 - Gà Hầu: chuyờn nhằm vào yết hầu mà đỏnh làm đối thủ hoang mang, mất tinh

thần bỏ chạy dự đang cũn sức.

- Gà Đấm: gặp đối thủ là đỏnh quyết liệt, cấp tập thắng hay thua chỉ diễn ra trong

một thời gian ngắn.

- Gà Dọc: chuyờn đỏnh vào đầu đối thủ theo hướng thắng hoặc mang tớnh ỏp đảo. 2 - Gà Mộ: lỏch bờn mộ rồi đỏnh từ hai bờn vào như người ta hay núi "luồn trỏnh,

Page 345: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

417

chọi thỡ cỏc ụng chủ phải chọn đỳng đối tượng; phỏn đoỏn được khả năng của đối phương mới cú thể dành được kết quả. Đõy cũng là việc khú, đũi hỏi phải dày kinh nghiệm.

Chọi gà là một hoạt động bản năng của động vật nhưng do con người tổ chức, điều khiển. Vỡ vậy mà vai trũ của chủ gà hết sức quan trọng trong cỏc trận đấu cũng như quỏ trỡnh lựa chọn, tập luyện vật nuụi. Cỏi thỳ vị của trũ chơi này chớnh là ở chỗ đú.

Vào dịp hội đỡnh, nhiều nơi đó đưa gà về đõy để đọ sức thi tài và học hỏi kinh nghiệm như Hải Dương (cũ), Hà Nội, Sơn Tõy (cũ) và xa hơn nữa là Hải Phũng, Thanh Húa làm cho ngày hội thờm vui.

Chỉ thế thụi cũng cú thể thấy lễ hội ở Đỡnh Bảng rất phong phỳ, đa dạng. Nú phản ỏnh đỳng hiện thực cuộc sống của một miền quờ trự phỳ, cú lịch sử lõu đời và truyền thống văn húa tốt đẹp mà chỳng ta đó từng ghi nhận./.

L.V.K

đỏnh mộ".

- Gà Lối: luụn chui dưới bụng đối phương, chờ khi đối phương mệt mới xụng lờn

đỏnh quyết liệt dành luụn phần thắng. Loại gà này trờn hai năm mới được đấu giải.

- Gà Lỳ: gan lỳ, cú sức chịu đựng tốt dự đau đớn vẫn khụng chịu bỏ cuộc, chờ thời

cơ thuận lợi đỏnh trả đối thủ khi đối thủ đó tung hết cỏc miếng vừ của mỡnh.

(Núi chung, tờn của cỏc loại gà chọi được người ta đặt theo cỏch đỏnh, sở trường

của nú).

Page 346: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

419

Hội đình trên sông

Lê Ngọc Canh

ở làng chài người dân cả cuộc đời, bao thế hệ nối tiếp nhau sinh

sống, vật lộn trên sông nước để lao động, chiến đấu và tồn tại. Trong

điều kiện thực tế ấy, dân chài sáng tạo, xây dựng cho mình những sản

phẩm văn hóa mang đặc tính văn hóa sông nước.

Đình trên sông của làng chài mà chúng tôi được biết không nhiều,

chưa được phổ biến rộng khắp ở cư dân sông nước, mới chỉ tồn tại ở một số làng chài trên sông Hồng, sông Đáy. Như đình trên sông vùng Việt

Trì, Hát Môn, Vạn Dâu, Thanh Trì, Hoài Đức, Đan Phượng. Nhưng tiêu

biểu hơn cả là đình trên sông làng chài Vạn Vĩ, xã Trung Châu huyện

Đan Phượng.

Vạn Vĩ (Vạn Chài) đã từng quen thuộc với dân chài trên sông Hồng

vùng Đan Phượng. Có lẽ do phải vật lộn với sóng gió, sông nước mà dân

chài xưa đã đặt tên làng chài của mình là Vạn Vĩ.

Vạn là sóng, mạnh

Vĩ là đại, lớn

Vạn Vĩ là “sống lâu”, “sóng lớn”. Vạn Vĩ xưa có một địa bàn khá

rộng trên vùng sông Hồng thuộc Đan Phượng. Gồm các xóm chài Yên

Dâng (gần cầu Phùng), Vạn Chài nay là Đại Thần, Vạn Vĩ.

Làng chài thường tụ cư trên một vùng sông nhất định với những

thuyền nhà tương đối ổn định, còn các thuyền nhỏ thường lưu động trên

sông để đánh cá theo mùa, theo luồng cá, và hướng nước. Những thuyền

nhỏ, nhỡ là những thuyền đi đánh cá và thông thương.

Nỗi niềm khôn nguôi của dân chài là “sống không có chỗ ở, chết

không có chỗ chôn”.

Bởi vậy làng chài nào cũng phải kết nghĩa với những làng người

Việt trên đất để khi chết có chỗ chôn, xem đó là làng, là quê thứ hai của

mình, hàng năm lên vùng đất ấy để lễ cúng và tạ ơn.

Làng Vạn Vĩ, từ lâu đã kết nghĩa với làng Lại Tự Châu là làng thứ

hai của mình. Nhân dân Lại Tự Châu với nhân dân làng Vạn Vĩ (Vạn Chài) trở nên gắn bó thân thương đằm thắm tình cộng đồng, tình làng

xóm.

Page 347: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

420

Những ngày lễ, tết, hội của làng Lại Tự Châu là dân Vạn Vĩ (Vạn

Chài) đem hương hoa đến cúng lễ. Đặc biệt, Vạn Vĩ còn khiêng kiệu đến để tham gia rước hội.

I. Tục thờ thần Hà Bá

Hầu hết các làng chài trên sông Hồng cũng như làng Chài Vạn Vĩ

đều có tục thờ Hà Bá linh thần, Lạc Long Quân (Lạc Long Vương), thần

Linh Thông, thần Linh ứng, thần Ngư phụ tiên sư,...

Hội Vạn Vĩ tổ chức vào ngày 9 tháng ba âm lịch hàng năm.

Kể từ ngày 20 đến ngày 22 tháng 2 âm lịch tiến hành lễ xuống lưới,

từ 23 đến 25 tháng 2 âm lịch dong thuyền đi đánh cá. Trong thời gian này, mọi ngư dân đều phải để lại con cá lớn nhất trong ngày để chọn

cúng Hà Bá linh thần.

Có khi phải đến ngày trước hội mới đánh bắt được cá to. Gia đình

nào có cá to nhất làng được chọn làm vật cúng thần, thì gia đình đó, dân

chài năm đó được ấm no, hạnh phúc. Gia đình đó được vinh dự nhất làng

chài.

Ngoài tục tế lễ các Hà Bá linh thần, Lạc Long Vương (thủy quan),

Linh Thông thần, Linh ứng thần, Ngư Phụ Tiên Sư thần, thì cũng như nhiều làng khác Vạn Vĩ và Đại thần còn thờ cúng thần có công đức với

dân với nước, như Võ Duệ (Trung Ngãi Đại Vương).

II. Đình trên sông

Đình được xây dựng trên chiếc thuyền rồng rộng lớn nhất vùng.

Thuyền đình được tạo dáng theo hình rồng bay, rồng phục, dài 12

mét, rộng 5 mét, cao 3 mét 50, chia thành 3 khoang:

Khoang 1 (phí đầu rồng) là đình

Khoang 2 là đại bái

Khoang 3 để hương án

Đình gồm 4 cột gỗ, 4 xà lớn, 4 xà nhỏ đỡ 8 mái uốn cong, mái trên

nhỏ hớn mái dưới. Mái đình không có ngói mà làm bằng phên ép, lá cọ,

hoặc nứa khô. Cũng có trường hợp mái phên ép ở giữa uốn thành một

mái, 4 phía là những tấm ván gỗ liên kết lại với nhau tạo thành 3 mặt cửa

đình (mặt tiền, hữu, tả). Đình được neo giữa dòng sông.

Sân đình gồm từ 3 đến 5 thuyền hoặc nhiều hơn ghép lại với nhau, muốn rộng thì ghép nhiều thuyền.

Page 348: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

421

Không gian hội làng chài thường tập hợp từ 21 đến 23 thuyền lớn.

Hội rước thường có khoảng 7 đến 8 can thuyền chính (ba thuyền ghép thành một can).

4 can để kiệu và tế lễ.

Can thuyền đình xếp theo hàng dọc:

Can I (3 thuyền):

- Thuyền 1: có đình

- Thuyền 2: có giá hương

- Thuyền 3: có hương án.

Can II: liên kết theo hàng ngang với các kiệu sơn son thếp vàng:

- Thuyền 1: để kiệu bát cống rước giá văn, cờ, quạt, trống, chiêng.

- Thuyền 2: để kiệu bát cống (kiệu rước Hà Bá linh thần) để rước

5 bát hương (5 vị thần).

- Thuyền 3: để kiệu bát cống, cờ quạt trống chiêng.

Can III: Liên kết theo hàng ngang:

- Thuyền 1: Đông xướng và phường bát âm

- Thuyền 2: Hương án, chủ tế, trống tế

- Thuyền 3: Tây xướng

Can IV: bố trí theo hàng dọc:

- Thuyền 1 và 3: Để chấp kích, bát bửu, trùy đồng, cờ, và 3 phướn

- Thuyền 2: Thuyền đuốc cờ thần và bình nước

Can V: Xếp theo hàng ngang:

- Thuyền 1 và 3: có cờ, đuốc

- Thuyền 2: hát ả đào

Can VI: Cũng theo hàng ngang:

- Thuyền 1 và 3: đặt trống nhạc và nơi của chức sắc

- Thuyền 2: múa sư tử, múa rồng

Can VII: theo hàng ngang:

- Thuyền 1 và 3 của quan viên

- Thuyền 2: quan khách

Các thuyền khác đến dự hội đều quây thành vòng tròn ở giữa sông

Hồng hướng vào thuyền đình và các can thuyền.

Page 349: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

422

Thuyền đình trên sông cứ 10 năm lại được làm mới. Trước và sau

khi làm lại thuyền đình đều phải tiến hành các thủ tục nghi lễ theo phong tục cổ truyền.

III. Lễ hội

Trên các thuyền đều cắm cờ, phướn, đèn, hoa, đuốc đốt sáng rực cả

mặt sông, mỗi thuyền như một “lâu đài”, đèn hoa óng ánh sắc màu,

nhuộm không gian như huyền thoại thủy tiên.

Theo luật tục cổ truyền mỗi giáp có một thuyền riêng trên thuyền

để hương án và các vật tế, một cờ thần (cờ đuôi nheo) và hai cờ vuông,

các cờ có đường viền ngũ sắc, đường ngoài theo hình răng cưa và những bó đuốc lớn (đuốc thần).

Cờ thần lớn nhất của hội là cờ đuôi nheo dài 12m80, cờ làm bằng

vải tơ tằm màu ngà, màu trắng (có lẽ tượng trưng cho màu nước, (sông

nước), xung quanh có đường viền ngũ sắc, phía ngoài là đường viền hình

răng cưa, và có các dải lụa màu dài khoảng 14 mét.

Trên lá cờ có các hình quân sĩ, bảy con nhạn, voi, rồng, thuyền

rồng, chim, cá...

Cột cờ làm bằng thân cây gỗ, hoặc tre, trên đầu cột có con cá bằng gỗ - biểu tượng của nghề ngư nghiệp gắn với nước và có

thể cả mặt trăng nữa. Đế cột cờ là mui rùa - biểu hiện của sự vững chắc.

Ngoài cờ đuôi nheo còn có một số ít cờ thần (cờ vuông).

Tất cả các đầu cột cờ đều có hình cá bằng gỗ.

Hội lớn thường có:

3 kiệu bát cống

6 quạt đại

6 tán

3 bộ bát bửu đơn hoặc kép

2 phủ việt

2 trùy đồng

Không kể cờ đại theo qui định, còn có các loại cờ:

- Hai bộ cờ ngũ phương

- Hai bộ cờ ngũ hành

- 10 cờ đuôi nheo

Page 350: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

423

- 10 cờ vuông

Hai bên bờ sông có cờ, đèn, hoa, đuốc và nhân dân khắp vùng đến xem hội rước.

Hội hàng năm bắt đầu từ đêm ngày 9 tháng 3 âm lịch đến hết ngày

10 tháng 3 âm lịch. Hội lớn kéo dài tới 7 ngày.

Mở đầu cho hội trống, chiêng, tấu bát âm, múa sư tử, rồi tiến hành

nghi lễ.

Các vật phẩm để cúng tế gồm có hoa, hương, đăng, trà, quả, thực.

Ngoài ra nhất thiết phải có con cá to nhất đặt trên mâm lót tấm vải điều

để cúng Hà Bá linh thần (thủy thần) rồi từ đó mới tiến hành nghi thức khác.

Lễ hội gồm có 2 phần:

Tế: Chủ tế đứng giữa hướng vào bài vị. Phía sau 2 bên là 2 người

bồi bái, tiếp theo là 8 người đứng thành 2 hàng hành hương, hành tửu

(mỗi bên 3 người đứng dâng đài rượu, một người Đông xướng, một

người Tây xướng). Khởi lễ: bắt đầu từ nửa đêm gọi là tế Phụng Linh, đến

sáng là tế Yên vị: đọc những công đức của thành hoàng làng và cầu

mong Hà Bá thần linh phù hộ cho dân chài mọi điều tốt lành, hạnh phúc ấm no, quanh năm được mùa cá...

Hội rước

Khởi đầu bằng pháo nổ ầm trời, trống chiêng rền vang cả một vùng.

Thuyền cờ thần (đuôi nheo) đi đầu, trống chiêng, nhiều đuốc nhỏ và 3 bó

đuốc lớn sát chụm vào nhau tạo thành bó đuốc lớn gọi là cây Đình Liệu.

Tiếp đến là các thuyền 2, 3 của can I và theo thứ tự thuyền 1, 2, 3

của các can II, III, IV, V, VI, VII. Các thuyền của nhân dân trong vùng đến dự hội, xem hội đều đi theo hai bên các thuyền hội. Ba thuyền có

kiệu hát cồng đều do thanh niên đứng trên thuyền khiêng kiệu. Những

người chèo thuyền đều mặc trang phục như những người chấp kích.

Trên các thuyền hội được mọi người chú ý là cảnh múa sư tử rất

đẹp, rất hấp dẫn. Tiếp đến là cảnh múa tiên, hát ca trù. Thuyền rước kéo

dài như những rừng cờ, rừng hoa, rừng đuốc lấp lánh trên dòng sông

Hồng, thật là một cảnh ngoạn mục và độc đáo của hội rước làng chài.

Đám rước đến khúc sông sâu đã chọn trước, thì đoàn thuyền rước nối đuôi nhau lượn tròn để tiến hành thủ tục nghi lễ múc nước, sau đó

bình nước được rước về đình trên sông.

Page 351: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

424

Khi đám rước trở về đến đình sông cũng là lúc ánh bình minh trải

những tia nắng ban mai trên mặt nước sông Hồng long lanh.

Đến đây hội rước trên sông tiến hành nghi thức tế lễ yên vị.

Tiếp đến là các trò chơi trên sông như đua thuyền rồng, bơi chải,

diễn chèo, múa sư tử, hát ca trù... cả khúc sông Hồng tưng bừng rộn vang

trong ngày hội của dân chài.

Đình, hội, rước trên sông của dân chài Vạn Vĩ nói riêng, vùng sông

Hồng Đan Phượng nói chung là di sản văn hóa độc đáo, hiếm và khác

biệt với những vùng văn hóa khác. Nó góp vào nền văn hóa cộng đồng

người Việt những tinh hoa sáng tạo trong tổng thể văn hóa Việt Nam./.

L.N.C

Page 352: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

425

Lễ hội Đền Đông bộ đầu

Nguyễn Hữu Thức

Từ thủ đô Hà Nội, du khách theo đường 1A về phía nam chừng

26,5 km thì gặp một đường đất nhỏ, rải đá răm trắng, chạy xiên qua cánh

đồng bãi bạt ngàn những mía, để lên mặt đê sông Hồng lộng gió thuộc

địa phận xã Thống Nhất, huyện Thường Tín (Hà Tây).

Đến đó, du khách bị ngợp xanh giữa vùng đất bãi, xanh của mía,

của ngô, của lạc, của đỗ, xanh của lá chuối trong vườn, của rặng tre đầu

ngõ, dập dờn sen xanh chạy dài theo các hồ nước ven chân đê. Lửng lơ xanh mây chầm chậm trôi theo dòng sóng bạc sông Hồng. Và, nổi lên

giữa đồng xa kia là một khu vườn xanh sẫm cây cổ thụ, dưới đó ẩn một

di tích cổ là đền Đông Bộ Đầu.

Đền đã có từ rất xưa, từng nổi tiếng trong vùng. Sử quan triều

Nguyễn soạn sách Đại Nam nhất thống chí xếp đền Bộ Đầu là một trong

số 36 đền miếu cổ tích của tỉnh Hà Nội. ở thế kỷ XVII, sách Công dư

tiệp ký (ghi chép nhân khi rỗi việc quan) của tác giả Vũ Phương Đề đã

chép sự tích ứng Thiên đại thánh Thiên Vương thần thờ ở đền Bộ Đầu. Một số sách Hoàng Việt địa dư chí, Nam Việt địa dư chí đều có chép

danh thắng đền Bộ Đầu.

Chuyện kể rằng, ở thời Hùng Vương dòng sông Hồng xuất hiện

nhiều thuồng luồng chuyên ăn thịt người. Ngày kia có bà mẹ ở một làng

ven sông ra bến đò Giấp gánh nước thì đột ngột hai con thuồng luồng lao

tới cuốn bà xa ra bờ. Bà mẹ thảng thốt kêu cứu. Chẳng một bóng người.

Tuổi già sức đuối chống đỡ yếu ớt bà bị con thuồng luồng cái nuốt dần vào bụng. Bấy giờ bà mới ngẩng mặt lên trời ta thán:

- Trời ơi! Người ta sinh con mong để cậy nhờ, còn tôi có con mà

cũng như không thế này!

Lời bà mẹ thấu tới trời. Bỗng người con từ trên mây cao xanh sà

xuống. Thế nhưng thuồng luồng đã nuốt nhẹ chàng vào bụng. Chàng căm

giận đứng choai chân sang bên bờ sông, lưng gập xuống, đưa hai tay

khoắng nước từ ngã ba Bạch Hạc đến ngã ba Tuần Vường. Vợ chồng

thuồng luồng thấy có bàn cào khổng lồ, cào đi quét lại ở lòng sông, sóng nổi dữ dội, bùn sục đỏ ngầu thì lẩn lách tìm chỗ giấu thân. Chàng trai đã

Page 353: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

426

kịp tóm cổ nó mang lên bờ, vuốt ngược bụng con thuồng luồng cái lấy

xác mẹ ra. Sau đó, chàng đưa cả hai con thủy quái xuống lòng bàn chân nhấn sâu xuống bùn đen.

Chàng trai táng mẹ vào lòng bàn tay để Mẫu bất ly thân. Xong đâu

đấy, chàng bước lên bãi ven sông rồi bay về trời. Sau này, dòng sông

Hồng từ ngã ba Bạch Hạc đến ngã ba Tuần Vường không còn gặp thuồng

luồng quấy nhiễu nữa. Bên sông làng Giấp để lại 3 vết chân lõm sâu

xuống đất. Chỗ vết chân cuối chàng "xung thiên" hóa dân lập đền chính

còn hai vết chân kia dân lập miếu thờ. Làng Giấp có tên gọi là xã Bộ Đầu

(nghĩa là bước chân) vì lẽ đó. Chàng trai hóa thần có tên là Huyền Thiên đại thánh Thiên Vương (có sách gọi là ứng Thiên).

Truyền rằng, thời Thánh tổ Triết Vương Trịnh Tùng (1570 - 1623)

đem đi đánh quân nhà Mạc, khi thuyền qua đền Bộ Đầu, Trịnh Tùng có

lên khấn xin thần linh phù trợ. Dẹp loạn xong, Trịnh Tùng mộng một

người cao lớn tới xưng công bèn sai thợ tu sửa đền thờ, cho tạc một pho

tượng Thánh bằng gỗ cao đến 21 thước ta (= 8,4m), chân đạp lên đầu con

thuồng luồng. Sách Công dư tiệp ký chép tạc tượng thần cao 3 trượng 6

thước (= 14,4m). Hàng năm ngày 19 tháng 9 âm lịch, sau kỳ lũ cuối sông Hồng, dân mở đại hội tế thần, tương truyền là ngày hóa của Đức Thiên

Vương.

Câu chuyện kể trên phản ánh cuộc đấu tranh quyết liệt của cư dân

Việt gian lao vất vả chinh phục đồng lầy Bắc Bộ đồng thời phản sánh

quan niệm đạo đức của nhân dân về người anh hùng dân tộc.

Như chúng ta đã biết, ở thời Hùng Vương, các cư dân Lạc Việt

buổi đầu từ miền trung du tràn xuống đồng bằng đã phải đấu tranh rất gian nan với tự nhiên để sinh tồn. Những truyền thuyết buổi đầu dựng

nước đã phản ánh phần nào điều đó. Kẻ thù họ phải đương đầu là Hồ

Tinh, Mộc Tinh, Ngư Tinh... cũng như thú dữ ở trên cạn, thú dữ ở dưới

nước đã gây cho họ biết bao khó khăn. Có thể một người mẹ nào đó ở

bến Giấp kia đã bị thủy quái bắt. Thương xót mẹ nên người con trai mưu

trí và dũng cảm đã tìm cách diệt thủy quái. Từ hiện thực lịch sử đó kết

hợp với dấu tích ao đầm ven sông có hình thù lạ dần dần câu chuyện qua

trí tưởng tượng được hư cấu đồng nhất với mẩu chuyện thần thoại thời tiền sử ca ngợi chiến công diệt thủy quái của người khổng lồ có tên là

ông Đùng, một nhân vật có nhiều chiến công trong việc khai thiên lập

địa, diệt đại bàng, dời núi ngăn sông... Người khổng lồ đã nhập vào

chàng trai làng Giấp và hệ quả là ra đời một sản phẩm tinh thần dung nạp

nhiều ý nghĩa mới phản ánh ý thức hệ thời phong kiến mà điều cốt yếu là

Page 354: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

427

trung và hiếu. Phù trợ giúp vua dẹp loạn ấy là vị thần trung. Trừ họa thủy

quái cho làng ấy là vị thần có nghĩa. Cứu giúp mẹ lúc nguy nan ấy là vị thần có hiếu.

Con đường hình thành câu chuyện như trên phải trải qua nhiều thời

kỳ, trầm tích nhiều lớp văn hóa. Từ chỗ thờ thần tự nhiên (thờ dấu chân

ông Đùng), tiếp đến thờ ông Đùng, sau là đồng nhất ông Đùng với chàng

trai làng Giấp.

*

* *

Ngày 6-2-1979 đền Đông Bộ Đầu được UBND tỉnh xếp hạng là di tích lịch sử. Hội đền cũng được mở lại từ năm đó và làng đặt lệ chính hội

vào mùa xuân, ngày 8 tháng giêng, tương truyền ngày sinh của Đức

thánh.

Hội chú ý phát triển những hình thức sinh hoạt văn hóa truyền

thống ở địa phương mà cái đặc sắc nhất, hấp dẫn nhất là múa gậy.

Hầu hết các trai đinh của làng dự hội đều tham dự múa gậy. Gậy

múa là đoạn tre dài 2,5m đến 2,8m. Tay cầm ôm nửa vòng thân gậy để lỡ

đối phương có đánh róc gậy trượt trên mặt thân tre không và vào ngón tay người đỡ. Gậy trang trí thành từng vòng xanh, đỏ, trắng trông đẹp

mắt.

Đầu tiên từng cặp đấu đầu quấn khăn rìu, eo thắt dải đỏ, chân buộc

xà cạp ra đứng chống gậy trước cửa đền. Khi có hiệu lệnh họ cùng dùng

chân đá gậy tung lên, tay đón gậy múa đi ra, rồi lại múa vào. Ba lần múa

vòng tròn chào thần, chào người xem. Sau đó thao diễn các bài cơ bản,

người múa càng đông càng tốt, cây gậy xoay tít trên tay.

Các bài múa cơ bản như sau:

- Múa vớt: Bước lên ba bước, lui ba bước. Tay gậy đưa hớt trước

mặt.

- Múa ráo đất: Tay cầm gậy giơ phía trước rồi đưa vào nách quay

người lại phía sau.

- Múa vắt khăn: Đưa gậy xuống ba lần rồi chuyển gậy ra sau gáy,

vào thế đưa gậy ra đỡ.

- Múa quét chợ: Đưa gậy lùa qua đầu, đánh gậy quét qua chân. Đối phương nhận hiệu lệnh báo đánh phải nhảy lên.

Page 355: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

428

- Múa đánh lá lật: Múa tròn gậy trên đầu, đánh gậy xuống, quay

180 độ đánh thuận, đánh nghịch từ trái sang phải. Đây là bài khó nhất.

Nhìn chung, trong quá trình thao diễn, mọi người múa các bài cơ

bản từ đơn giản đến phức tạp.

Thao diễn xong các tay gậy thăm thử tài trí của nhau để vào đấu.

Lúc đầu được vận dụng tất cả các bài cơ bản nhưng cấm chọc táo (chọc

ngược gậy), quét chợ phải làm hiệu gậy báo trước, cấm bất thình lình

đánh bổ thượng. Người thua là do đỡ không kín, không phán đoán nổi ý

đồ của đối phương bị gậy dính người hoặc đỡ không chắc bị rơi gậy khỏi

tay.

Tay gậy nào thắng liền ba hiệp sẽ đứng giữ chủ gậy. Người vào phá

thắng hai hiệp coi là được cuộc. Người giữ gậy tới hết buổi hội qui định

không ai phá nổi là người giật giải. Năm ấy làng tôn là chủ soái múa gậy.

Múa gậy ở hội đền Đông Bộ Đầu là một trò diễn hay, độc đáo, hấp

dẫn có truyền thống lâu đời và là trò diễn giữ vai trò chủ đạo của ngày

hội nêu cao tinh thần thượng võ ở địa phương.

*

* *

Đến ngày hội Đông Bộ Đầu du khách có dịp thưởng ngoạn phong

cảnh vùng đất bãi ven sông Hồng. Đi trên mặt đê cao 8-9m như đi trên

lưng một con rồng đất. Bên này nước sông Hồng mùa xuân lắng trong

lặng lẽ con tàu kéo một đoàn xà lan dài ngược Hà Nội. Còn sát chân đê

kia là đình làng Thượng Giáp với kiến trúc nghệ thuật đậm phong cách

thời Nguyễn. Từ mặt đê chính theo con đường thẳng, mịn đất sa bồi, dẫn

ta vào đền. Cả một khu đất xanh tre, xanh chuối, nổi lên rõ nhất là cây gạo có đến mấy trăm tuổi, to đến mấy người ôm, ngọn vươn cao chừng

40-50m, cành lên mốc trắng, rậm rì những búi tầm gửi treo lơ lửng lưng

trời. Trước đây vườn đền có tên là ổ Gà. Tên ấy là do một lần quạ tha gà

chẳng may để mồi rơi xuống. Con gà thoát chết lúc cúc kiếm ăn. Lớn lên

gà sinh con đẻ cái thành một họ nhà gà mấy chục con. Xa xưa bãi ổ Gà

chỉ có quán thờ lộ thiên bên một vũng nhỏ hình tựa vết chân người khổng

lồ.

Hiện nay đền phân thành hai phần, phần trước; 5 gian nhà tiền tế rộng rãi xây theo hình chữ nhất, trông về hướng bắc. Trong nhà có chạm

đại tự chữ Hán "Thiên nhân" (người trời). Và, nổi bật nhất là bức cốn sơn

son thếp vàng "xung thiên hộ quốc" (bay thẳng lên trời giúp nước). ở

gian giữa ngôi nhà tiền tế vút lên 4 cột đá lớn cao 6-7m, đường kính

Page 356: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

429

0,30m, đỡ lấy mái. Cột là khối đá nguyên, thân chạm nổi các mẫu hoa

văn thời Nguyễn, có ngõng cối lắp vào bệ đá ở dưới. Khi dựng cột làng phải bắc giáo dùng dây treo cột kéo ngược lên.

Phần sau: Hậu cung. Vào đó ta bất chợt gặp một bức tượng to cao

đứng uy nghi choáng hết cả gian nhà. Đấy là tượng Thiên Vương. Tượng

tạc thế đứng thẳng cao 5,5m, bờ vai rộng 1,5m, đầu đội mũ tướng giữa

có mặt nguyệt, hai dải mũ đăng vân thả sau vai, mặc áo dài kiểu võ tướng

chạm nổi hoa văn mây có mặt hổ phù ở đai lưng, chân đi hia dẫm lên hai

con thuồng luồng đầu rắn, mắt cá, chân chim, mình trăn. Tay phải nâng

long đao trên thắt lưng, lưỡi đao đưa thẳng phía trước. Tay trái xòe hoa nâng lăng chồng diêm tám mái. áo phía trước có lưỡng long chầu mặt

nguyệt, giữa bụng là một mặt rồng to. Sắc mặt Thiên Vương trắng hồng,

miệng hơi ngậm. Mắt nhìn thẳng, mở to buồn rầu...

Bức tượng thể hiện trạng thái giận dữ của Thiên Vương đối với

thủy quái đã hại mẹ mình, đồng thời cũng thể hiện tâm trạng nuối tiếc

của Thiên Vương không kịp về cứu mẹ. Tầm cỡ to lớn của bức tượng

phần nào nói lên khát vọng của người xưa mong cái thiện có sức mạnh

vô song đè bẹp thế lực ác bá đe dọa cuộc sống của con người.

Ngôi đền hiện nay làng đã đại tu vào năm Bính Ngọ (1906). Kiến

trúc trước đây gồm nhà tiền tế 5 gian, gian giữa chồng diêm 8 mái để

chuông đồng. Hậu cung 2 tầng. Tầng trên ba bề ghép kính. Dân chúng đi

trên đê sông Hồng đều nhìn thấy mặt Thiên Vương nhô lên ở tầng lầu.

Do hậu cung hư nặng tượng thánh đã phải tạc đắp lại so với tượng trước

thấp đi nhiều, bỏ tầng trên hậu cung và xây kín các mặt.

Hậu cung đền Đông Bộ Đầu còn trưng bày 8 tượng kim cương độc đáo chạm mũ áo tướng cao từ 2,9m đến 3,1m, mỗi vị một vẻ không vị

nào giống vị nào.

Tám vị kim cương có nhiệm vụ diệt ác phục thiện, bảo vệ điều tốt

lành của con người. Sự có mặt 8 bức tượng trên đã giúp cho chúng ta

hiểu rõ thêm tài năng nghệ thuật của các nghệ sĩ dân gian thời trước.

Du khách về nơi đây, giữa cái mới, cái đẹp của ngày hôm nay sẽ

bắt gặp sinh khí của người xưa trên mảnh đất lịch sử này./.

N.H.T

Page 357: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

431

Hội làng Đông Linh

Nguyễn Thanh

Làng Đông Linh (có tên nôm là làng Nghìn) là một làng cổ nằm

cận kề đường quốc lộ số 10 bên dòng sông Hóa, tiếp giáp với Hải Phòng

bằng nhịp cầu Nghìn. Sử sách xưa và nay đã nhắc nhiều đến địa danh

Đông Linh. Đình làng Đông Linh hiện còn lưu giữ được dãy bia khắc ghi

truyền thống văn hóa văn hiến của vùng đất này. Tại vị trí trung tâm của

tòa đại bác còn giữ được bức đại tự Địa linh nhân kiệt. Trong truyền

thống, Đông Linh được xem là làng khoa bảng với 4 vị đỗ từ tiến sĩ đến

hoàng giáp và hàng chục cử nhân với học phong nổi trội qua nhiều đời.

Đình làng Đông Linh, với nghệ thuật chạm khắc gỗ, chạm khắc đá

nguy nga, lộng lẫy từng được xem là một trong những ngôi đình đẹp vào

bậc nhất hiện còn ở phía bắc tỉnh Thái Bình. Điều đáng quí là ngoài quần

thể kiến trúc còn giữ được khá nguyên vẹn những nét chạm khắc cổ,

những tấm bia đá cổ, thì đồ tế khí, hoành phi, câu đối của đình Đông

Linh còn khá phong phú. Đặc biệt, tại ngai thờ ở hậu cung còn có những

đồ thờ biểu trưng của tính phồn thực như đôi hạc, đôi đèn thờ được xem là "độc nhất vô nhị" trên địa bàn Thái Bình ngày nay. Đình làng Đông

Linh thờ Tướng quốc Thái Bảo Phạm Bôi. Tương truyền Phạm Bôi sinh

ra và lớn lên tại vùng đất này, khi giặc Minh xâm lược đã cùng 6 anh em

dấy nghĩa sau đó vào Lam Sơn chiến đấu dưới cờ của Lê Lợi và được

ban quốc tính.

Theo định lệ, hàng năm cứ vào dịp trung tuần tháng 2 âm lịch làng

Đông Linh mở hội, cuốn hút đông đảo du khách trong vùng về trảy hội.

Ngoài nghi thức rước, tế như nhiều hội làng trong vùng,hội làng Đông Linh còn nhiều trò chơi, trò diễn dân gian như múa kéo chữ, vật võ, cờ

người... Những năm gần đây, hội làng Đông Linh khôi phục tục gói chiếc

bánh chưng nặng chừng hơn 70kg, vốn xa xưa đã đi vào câu phương

ngôn "cây xôi làng Lày, bánh dày làng Lý, bánh chưng làng Nghìn".

Tương truyền hội làng Lày thường có tục thi cây xôi, xôi được dồn vào

các cốt chồng cao ngang nóc đình, hội làng Lý thường có tục thi giã bánh

dày cỡ lớn, làng Đông Linh có tục cúng bánh chưng ở miếu xóm với

những tấm bánh chưng khổng lồ. Ba làng này vốn thuở xa xưa cùng nằm trong một tổng, thuộc huyện Phụ Dực (cũ). Nay các miếu xóm không

Page 358: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

432

còn, tục gói bánh chưng được duy trì trong hội làng với sự tham gia hào

hứng của cả làng.

Tương truyền, tục gói bánh chưng cỡ lớn trong hội làng Đông Linh

vốn xuất phát từ việc gói bánh chưng làm lương ăn cho quân sĩ đánh giặc

thuở xưa (có thuyết cho rằng từ thời vua Hùng, có thuyết cho là từ thời

Hai Bà Trưng, có thuyết cho là từ thời chống Nguyên - Mông, lại có

thuyết cho là từ thời Phạm Bôi dấy nghĩa chống Minh, hiện chưa khảo

cứu được chính xác). Dù thế nào thì từ việc chuẩn bị binh lương bằng

việc gói chiếc bánh chưng đủ cho hàng trăm người ăn và đưa vào nghi

thức hội làng cũng là sự lý giải có thể chấp nhận được.

Theo truyền ngôn của một số cố lão trong làng thì tục gói bánh

chưng lớn trong hội làng để chia phần cho cả làng khi số nhân đinh trong

làng còn ít. Khi cư dân Đông Linh đông đúc thì tục gói bánh chưng được

duy trì ở xóm gắn với tục cúng miếu xóm, ngày 6 tháng giêng hàng năm.

Tùy theo số nhân đinh ở từng xóm, xóm ít thì gói 2-3 tấm, xóm nhiều 4-5

tấm, 6 xóm trong làng vào ngày 6 tháng giêng đều rộn rã với tục rước

bánh chưng ra miếu, cúng miếu xóm và chia phần râm ran cả làng.

Lệ gói bánh chưng hàng năm, các xóm phân cho từng nhân đinh của mỗi gia đình theo nghĩa vụ "cơm lần cháo lượt". Gia đình năm sau

đến lượt gói bánh thì mọi việc đều phải chuẩn bị từ năm trước với các

việc chọn giống lúa nếp thơm để cấy, chọn giống lợn để nuôi, trồng dong

lấy lá, phơi bẹ chuối hột làm dây, chuẩn bị gia vị, mượn nồi luộc bánh,

tích trữ củi đun... và mọi việc chuẩn bị tấp nập, hối hả vào những ngày

cuối năm. Khi lúa nếp mùa chín, gặt về nhặt hết những bông cời, bông

lẫn phoi già, rẽ sạch, xay giã cẩn thận rồi đổ ra nong, nia nhặt hết hạt lẫn, hạt gẫy. Đỗ xanh làm nhân cũng được chọn kỹ không còn hạt kẹ, hạt đen.

Bẹ cây chuối hột bánh tẻ được phơi đủ độ dẻo, tách thành dây để xe

thành dây gói bánh. Trước và sau tết Nguyên đán, những gia đình được

làng phân công gói bánh coi đó là việc đại sự trong năm, kẻ vào người ra

tấp nập, người thì đến giúp việc này, việc kia, người thì đến thăm hỏi,

chuyện trò. Gia chủ thì thao thức, lo toan sao cho có tấm bánh to, bánh

ngon, bánh rền để được tiếng với xóm với làng, để khỏi mang tiếng kẻ

cười người chê.

Thông thường mỗi tấm bánh chưng theo lệ bánh chưng cúng miếu

xóm cần chừng 30 đấu gạo (mỗi đấu tương đương với 1,2kg). Khoảng 10

đến 12 đấu đỗ xanh, chừng 7 đến 10 kg thịt lợn mông sấn và nhiều thứ

gia vị khác trong đó không thể thiếu hồ tiêu và hành củ. Để gói được tấm

bánh chưng khổng lồ này thường phải dùng tới hơn 1000 chiếc lá dong,

Page 359: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

433

mà muốn bánh ngon phải dùng lá dong trồng ở vườn chứ không dùng lá

dong rừng và dây gói phải dùng dây bẹ chuối phơi khô xe như kiểu dây chão cày chịu lực và lạt tre bánh tẻ. Khi bắt tay vào gói bánh có hàng

chục người tham gia, từ vo gạo, đãi đỗ, mổ lợn, rửa lá và 8 người sành

gói bánh trực tiếp gói. Trên chiếc nong đại, bốn chiếc lạt tre dài khoảng

2m được xếp theo chữ tỉnh (#) trên đó các nghệ nhân thao tác nhịp nhàng

từ việc đan cài lá dong thành một tấm phên đến việc tết dây, gây mối.

Sau khi đổ gạo dàn đều nhân như gói những chiếc bánh chưng thường, 8

người cầm 8 đầu lạt, bốn người ở bốn cạnh vuôn dần chiếc phên lá dong

lên, khi bốn cạnh tiếp giáp, gối chồng lên nhau thì rít lạt buộc lại. Những người xe dây chuối vừa xe xoắn lại vừa tết thành chiếc rọ bó chặt lấy tấm

bánh, đồng thời từ những mối dây giao nhau hợp về một mối kết thành

một óc quang vừa đủ để luồn chiếc đòn khênh đưa bánh vào nồi luộc.

Khi luộc bánh, người ta vẫn để ngang chiếc đòn khiênh qua mặt nồi,

chiếc bánh được treo lơ lửng trong nồi tránh sao tấm bánh không sát đáy

nồi để khi luộc nhiệt tỏa đều, bánh rền không bị bấy.

Chiếc nồi đồng dùng để luộc những tấm bánh chưng khổng lồ này

là loại nồi đồng cỡ đại, người dân Đông Linh có thể dùng thay thuyền để vượt sông Hóa. Khi luộc bánh, người ta đào một chiếc hố, trên mặt hố

đặt nồi luộc bánh. Chiếc hố được đào gần giống hình cây thập ác, tính

toán sâu nông, ngang, dọc sao cho khi luộc nhiệt toả đều, đỡ tốn củi, đỡ

khói, dễ cời than ra, dễ tiếp củi vào... Sau khi luộc chín, bánh được khênh

ra vỗ lại cho vuông vức dùng lá dong gói thêm lượt ngoài cho đẹp, đưa

lên kiệu rước ra miếu xóm để cúng tôn thần. Ngày mồng 6 tháng giêng,

cả làng nhộn nhịp từ việc cúng tế ở miếu các xóm đến việc chia phần, nhận phần bánh chưng cho dù dư âm hương vị bánh chưng ngày tết trong

các nhà vẫn còn nhưng miếng bánh chưng "giữa làng" vẫn thiêng liêng,

được dư luận trong làng chú ý.

Để chia đều phần bánh cho từng nhân đinh, người ta dùng dây cắt

ngang tấm bánh chưng theo mặt phẳng ngang giữa bánh lật thành hai nửa

đều nhau, dùng bàn xoa, xoa đều cho nhân bánh phủ kín mặt và độ dày

đều nhau rồi cắt chia từng phần đều nhau. Bánh ngon, bánh rền được

tiếng khen cả xóm, bánh không ngon thì tiếng để đời.

Các cụ gì làng Đông Linh kể rằng, khi bóc bánh, cắt bánh, chia

bánh là thời điểm đáng nhớ nhất của dân làng này thuở trước vì hương

thơm của bánh chưng lan tỏa khắp làng. Những gia đình làm bánh xóm

lại tất tả hơn vì phải mang phần đó biếu những người thân thuộc trong

họ, ngoài làng như một hình thức báo hỷ.

Page 360: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

434

Từ sau năm 1954, tục gói bánh chưng khổng lồ để cúng miếu xóm

ở làng Đông Linh vào ngày 6 tháng giêng không được duy trì. Ngày hội làng Đông Linh năm 1998, một chiếc bánh chưng nặng chừng 70 kg

được gói, đưa lên kiệu rước trong ngày hội và chia đều cho các gia đình

trong làng với niềm vui cộng đồng, cộng cảm./.

N.T

Page 361: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

435

Hội làng Đông Quang

Toan Ánh

Trong các hội hè về kỷ niệm lịch sử, hội Chùa làng Đông Quang là một

hội đặc biệt hơn cả, ngày hội được dân Việt Nam gọi là ngày Giỗ trận Đống Đa.

Theo định nghĩa của ngày giỗ, đây là ngày kỷ niệm của một người chết

qua đời, những Giỗ trận Đống Đa tuy là ngày kỷ niệm lịch sử liên quan tới vua

Quang Trung, nhưng chính ra không phải là ngày nhà vua qua đời, mà là ngày

kỷ niệm cái chết của gần 20 vạn quân Thanh đã bị quân của nhà vua giết chết

tại gò Đống Đa thuộc địa phận làng Đông Quang vào ngày mồng 5 tháng Giêng

năm Kỷ Dậu (1789).

Làng Đông Quang thuộc quận Đống Đa (Hà Nội).

Hàng năm vào ngày thắng trận của nhà vua, dân làng Đông Quang mở hội

tại chùa làng, trước là để mừng Xuân, sau là để tụng kinh siêu độ cho mười

mấy vạn quân Thanh đã bỏ mình vì chiến trận, và đồng thời cũng tụng kinh cầu

nguyện cho các chiến sĩ Việt Nam đã bỏ mình trong trận chiến thắng của dân

tộc này.

Chùa Đông Quang trên con đường Hà Nội đi Hà Đông. Ai có dịp đi từ

Thái Hà ấp tới các làng Mọc, lẽ tất nhiên phải nhận thấy những mô đất thấp nhô ở cánh đồng: Đó là những di tích cuối cùng của quân nhà Thanh, sau khi thất

trận đã được vùi nông dưới nấm cỏ khâu, không kể những quân sĩ đã bỏ mình

theo giòng nước sông Hồng khi Tôn Sĩ Nghị chặt cầu qua Kinh Bắc.

Hội chùa Đông Quang không phải là lễ kỷ niệm một vị thần linh, đây chỉ

là lễ kỷ niệm một sự kiện lịch sử, dưới đây là sơ lược:

Sau khi tướng Tây Sơn và Vũ Văn Nhậm đánh chiếm Bắc Hà, vua Lê

Chiêu Thống, bà Hoàng Thái Hậu và một số các bầy tôi tòng vong sang cầu cứu vua Càn Long nhà Thanh.

Năm Mậu Thân (1788), mượn cớ cứu nhà Lê, Vua Thanh Càn Long phái

quân sang chiếm giữ Thăng Long, có ý muốn thôn tính nước Nam.

Quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị, Tổng Đốc Lưỡng Quảng chỉ huy, gồm quân

bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quí Châu và Vân Nam.

Page 362: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

436

Tôn Sĩ Nghị chia quân làm ba đạo kéo sang nước Nam, một đạo do lối

Tuyên Quang, một đạo do đường Cao Bằng và một đạo do ngả Lạng Sơn. Dưới trướng Tôn Sĩ Nghị có đề đốc Hứa Thế Hanh, tri phủ Điền châu Sầm

Nghi Đống và một số các tướng lĩnh tài giỏi.

Đoàn quân này hùng hổ kéo sang Thăng Long như đàn cọp dữ.

Tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở đóng quân ở Thăng Long, được tin quân

Thanh sang, liền một mặt rút quân về đèo Tam Điệp, tức là đèo Ba Dội thuộc

địa phận tỉnh Ninh Bình giáp Thanh Hóa ngày nay, một mặt cáo cấp về Phú

Xuân. Quân Ngô Văn Sở rút đi, quân Thanh chiếm đóng Thăng Long.

Vua Quang Trung lúc đó mới là Bắc Bình Vương, được tin giặc đã chiếm Thăng Long liền hội họp các tướng sĩ để bàn việc ra quân.

Theo lời yêu cầu của chư tướng, trước khi ra quân, Vương đắp đàn ở quận

Bàn Sơn và lên ngôi Hoàng đế vào ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân.

Sau đó Ngài thống lĩnh đại binh ra đánh quân Tàu. Quân ta gồm tất cả

mười vạn và 100 voi.

Ngày 20 tháng Chạp, đại quân kéo tới đèo Tam Điệp. Ngô Văn Sở và

Ngô Thời Nhiệm trình bày cùng nhà Vua thế mạnh của quân Thanh. Ngài cười

nói rằng:

- Chúng nó sang phen này là mua lấy cái chết! Ta ra chuyến này, thân coi

việc quân, đóng, giữ, đã định mẹo rồi, đuổi quân thù chẳng qua mười ngày là

xong việc, nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp bội mười lần nước ta, sau khi

chúng thua một trận, tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, như thế thì

đánh mãi không thôi, dân ta hại nhiều, ta sao nỡ thế. Vậy đánh xong trận này, ta

phải nhờ Thời Nhiệm dùng lời nói khéo để đình chỉ việc chiến tranh. Đợi 10

năm nữa, nước ta nuôi được sức phú cường, ta không cần sợ chúng nữa.

Vua Quang Trung truyền cho chiến sĩ ăn Tết Nguyên Đán trước ngày để

đến hôm trừ tịch thì cất quân đi, định ngày mồng 7 tháng Giêng sẽ vào Thăng

Long mở tiệc ăn mừng.

Nhà Vua chia binh làm 5 đạo tiến ra Bắc: Ngô Văn Sở đem quân ra làm

tiền phong có Hô Hổ Hầu đốc chiến. Đại Đô Đốc Lộc đem thủy quân vượt biển

qua sông Lục Đầu, kéo về vùng Lạng Giang, Phượng Nhỡn, Yên Thế để chặn

đường quân Tàu. Đô đốc Tuyết cũng đem thủy quân vượt bể, kinh lược mặt Hải

Dương, tiếp ứng xuống mé sông. Đô đốc Mưu đem quân đi xuyên qua huyện Chương Đức, này là huyện Chương Mỹ, kéo thẳng tới làng Nhân Mục huyện

Thanh Trì, đánh quân Sầm Nghi Đống. Đại Đô Đốc Bảo thống xuất quân tượng

mã, kéo ra làng Đại áng, huyện Thanh Trì tiếp ứng cho mặt tả.

Page 363: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

437

Quân của vua Quang Trung cứ kéo theo kế hoạch đúng đêm hôm trừ tịch

kéo quân ra Bắc như vũ như bão, đánh tan quân Lê ở bến đò Giản Thủy, Ninh Bình, bắt sống hết toán quân Thanh đóng ở Phú Xuyên, tỉnh Nam Hà Nam

Ninh ngày nay. Ngày 5 tháng Giêng, vây đồn Hạ Hồi, kéo thẳng tới Thăng

Long, giết quân giặc chết như rạ ở Gò Đống Đa. Các tướng lĩnh nhà Thanh là

đề đốc Hứa Thế Hanh, tiên phong Trương Sĩ Long, tả dực Thương Duy Thăng

đều tử trận. Tri phủ Điền Châu là Sầm Nghi Đống đóng quân ở Đống Đa bị bao

vậy phải thắt cổ tự tử.

Tôn Sĩ Nghị nửa đêm được tin báo hoảng hốt, không kịp thắng yên ngựa

và mặc áo giáp, đem mấy tên lính kỵ chạy qua sông sang Bắc. Quân Tàu hay vậy cũng xô nhau chạy trốn sang cầu, cầu bị Tôn Sĩ Nghị sai chém đứt, và sông

Hồng Hà đã là mồ chôn mấy vạn quân Thanh.

Quân Thanh tan, từ đó về sau tại chùa Đông Quang hàng năm có mở hội

gọi là ngày Giỗ Trận Đống Đa. Có lẽ dân làng cũng muốn kỷ niệm chiến công

oanh liệt của nước nhà, nhưng qua một hình thức của ngày hội và đây là ngày lễ

cầu siêu cho tướng sĩ quân nhà Thanh đã từng bỏ mình tại nơi đây trong trận mùa

Xuân năm Kỷ Dậu.

Hội mở ra để dân làng nhân dịp Xuân mua vui, nhưng điều chính yếu của ngày hội là tụng kinh cầu nguyện cho những vong hồn chết trận. Ngày xưa nhà

chùa có lập đàn chay tụng niệm, và dân làng cùng nhau tới lễ đàn, giúp tiền

giúp gạo để nhà chùa lo việc bố thí chúng sinh.

Trong ngày hội, dân chúng Hà Nội trước đây dự đông lắm, tới đây để nhớ

lại một giai đoạn hùng hào của lịch sử, nhưng cũng tới đây để tham dự những

cuộc lễ bái cầu cúng cho đám cô hồn tướng sĩ nhà Thanh và đồng thời cả một

số Việt quân đã bỏ mình trong trận này. Gò Đống Đa có mộ Sầm Nghi Đống, ngày hội người Trung Hoa kéo nhau lũ lượt tới viếng chùa và viếng mộ.

Các bà già, dân làng Đông Quang và cả khách trẩy hội, mang vàng hương

tới đốt trước những ngôi mộ vô thừa nhận của quân Tàu. Riêng về Sầm Nghi

Đống, người Trung Hoa có lập đền thờ tại Hà Nội ở ngõ Sầm Công.

Đọc tới đây có lẽ một vài bạn đọc phải ngạc nhiên, tại sao dân ta đối với

quân thù lại có thái độ bao dung lạ lùng như vậy.

Thấm nhuần nền đạo đức Đông phương, dân ta lấy chữ nhân làm trọng.

Quân Tàu, khi sống chúng xâm lăng đất nước chúng ta, nhưng một khi đã chết, ta không kể đây là những kẻ thù nữa, họ không còn làm hại được ta chúng ta

nhìn họ bằng một con mắt khác. Họ là những chiến sĩ đã chiến đấu theo mệnh

lệnh của triều đình, chết đi họ là chiến sĩ trận vong. Chúng ta phải kính trọng

họ, họ là những người đã chết vì quốc gia, chúng ta phải thương hại họ, họ đã

Page 364: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

438

chết ở đất lạ quê người họ là những vong hồn không ai cúng vái, phải chịu đói

khát. Các người già cả, nhân ngày hội Đống Đa đốt vàng hương cho họ, và trong chùa tụng kinh cầu nguyện cho họ, chính là mong cho họ không chịu

cảnh khổ sở của những ma đói khát, cầu cho họ được siêu sinh tịnh độ. ở đây

vừa là lòng nhân từ, vừa là cử chỉ rộng rãi với kẻ thù, lại vừa thể hiện được sự

tôn kính đối với chiến sĩ trận vong.

Song song với những cuộc lễ bái, cầu nguyện và đốt vàng

hương cúng cho các vong hồn, tại hội chùa Đông Quang còn có những trò vui

khác cho khách đi xem Hội thưởng Xuân: Cờ bỏi, múa hát và đánh vật.

Riêng về Sầm Nghi Đống, người Trung Hoa có lập đền thờ ở ngõ Sầm Công, sau phố Hàng Buồm Hà Nội. Tục truyền rằng ngôi đền này linh thiêng

lắm và vong hồn Sầm Nghi Đống thường tác yêu tác quái với dân chúng Hà

Thành, mãi cho tới khi nữ sĩ Hồ Xuân Hương qua đó, vì ghét mặt một tên

tướng tử trận còn làm oai làm phách, có đề bài thơ sau:

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,

Kìa đền Thái thú đứng cheo leo.

Vì đây đổi phận làm trai được,

Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!

Theo lời truyền lại, sau bài thơ trên của nữ sĩ họ Hồ, đền họ Sầm hết linh

thiêng! Có lẽ vong hồn quan tri phủ đã biết thẹn.

Kể từ khi vua Gia Long lên ngôi, mặc dầu nhà Tây Sơn bị gọi là ngụy

triều, mồ mả nhà Tây Sơn bị khai quật và ai nhắc nhở tới nhà Tây Sơn đều bị

tội nặng, nhưng nhân dân quận Bình Khê, tỉnh Bình Định (quê của Nguyễn

Huệ, Nguyễn nhạc, Nguyễn Lữ), nay thuộc huyện An Khê (tỉnh Gia Lai) vẫn

cất một ngôi đền tại nơi nhà cũ của Ba Vua để thờ phụng, để che mắt vua quan nhà Nguyễn, người ta phải nói dối là đền thờ thần. Mỗi năm, Xuân Thu nhị kỳ,

dân làng có tế lễ rất long trọng, điều đặc biệt, có tế lễ nhưng không có văn tế,

dân làng chỉ khấn vái thầm.

Rất tiếc đền thờ này, lập tại thôn Kiên Mỹ, xã Bình Khê, năm 1947 đã bị

phá hủy, cho tới năm 1955, nhân dân Bình Khê, mới lại cùng nhau gom góp

xây một ngôi đền tráng lệ hơn xưa, và hàng năm nhân ngày giỗ trận Đống Đa,

tại đây cũng có cử hành lễ kỷ niệm chiến công oanh liệt năm Kỷ Dậu. Sau năm

1975, khu di tích này được khôi phục, trùng tu theo mẫu hình thuở xưa, và nhân dân Bình Định cũng như Gia Lai đều tổ chức rất trọng thể lễ hội này./.

T.A

Page 365: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

439

Page 366: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

440

Hội đền Tướng quân Đoàn Thượng

Toan Ánh

Ai đã có dịp đi từ Hà Nội tới Hải Dương ắt biết thị trấn Bần Yên

Nhân.

Bần Yên Nhân là một thị trấn sầm uất và có đền thờ tướng quân

Đoàn Thượng, còn được tôn là Đông Hải Đại Vương (1), một trung thần và là một dũng tướng đời vua Lý Huệ Tôn.

Tướng quân Đoàn Thượng người làng Hồng Thị, huyện Đường Hào,

tỉnh Hải Dương (Hải Hưng) là một người rất khoẻ có sức địch muôn người,

được vua Lý Huệ Tôn giao cho trọng trách trấn giữ đất Hồng Châu, một

khu vực ven sông Hồng .

Sau khi vua Lý Huệ Tôn đi ở chùa, Lý Chiêu Hoàng làm vua được ít

lâu rồi nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh tức là vua Trần Thái Tôn. Đoàn Thượng không phục nhà Trần, vua Trần cho người chiêu dụ, nhưng

tướng quân nhất quyết không chịu theo nhà Trần. Tướng quân chỉ biết có

nhà Lý, không biết tới nhà Trần, mặc dầu vua Trần hứa phong vương và gả

công chúa.

Trước ý chí cương quyết của tướng quân, Trần Thủ Độ cho quân đến

đánh nhưng không thắng, phải tìm kế giảng hoà rồi ngầm sai quân đánh dồn

hai mặt để phá quân của Ngài.

Bị đánh bất thần, lại bị lưỡng đầu thụ địch, quân của Ngài bị thua, và chính Ngài bị một tướng nhà Trần chém một nhát vào cổ gần đứt đầu tại địa

hạt thôn Đông Đạo xã Yên Phú tỉnh Hưng Yên (Hải Hưng) bây giờ.

Bị chém, Ngài liền cởi dây lưng buộc cổ cho khỏi rơi đầu rồi hầm

hầm tế ngựa đánh giết quân Trần, ngựa Ngài đi tới đâu, quân Trần sợ hãi

phải tránh tới đó.

Khi ngựa Ngài chạy tới làng Yên Nhân, Bần Yên Nhân ngày nay,

Ngài gặp một ông cụ già mũ áo chững chạc, đứng bên đường chào Ngài và

nói rằng:

(1)

Hưng Nhượng Vương, con trai Hưng Đạo Vương cũng được tôn là Đông Hải Đại Vương.

Page 367: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

441

Tướng quân trung dũng lắm. Thượng đế đã kén tướng quân làm thần

xứ này. Có một cái gò ở bên cạnh làng kia, chính là nơi hương hỏa của tướng quân, xin tướng quân để tâm cho.

Nghe cụ già nói, Đoàn tướng quân vâng lời, cho ngựa đi thẳng tới

chỗ gò đó, xuống ngựa, nằm gối đầu lên mác một lúc thì chết. Liền ngay đó,

mối đùn đất lên thành ngôi mộ của Ngài.

Nơi đó là làng Yên Phú. Dân làng này lập miếu thờ Ngài có tô tượng

tạc bia, nhưng về sau nước lụt, đền miếu bị cuốn đổ. Tượng của Ngài trôi về

xã Yên Nhân, xã này lập đền bên bờ sông Hồng để thờ Ngài.

Ngài hay hiển linh giúp đỡ dân chúng, dân chúng rất ghi ơn Ngài.

Triều Nguyễn, Ngài được phong là Bảo Quốc hà dân nhất đẳng

thần.

Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, có đôi câu đối treo ở đền Ngài:

Thanh miếu tuế thời hương, lăng cốc bất khai canh hoàn cục.

Hồng châu kim cổ lộ, cương thường sức khởi vãng lai nhân;

Đôi câu đối này Nhật Nham Trịnh Như Tấu trong Hưng Yên địa chí

đã dịch:

Khói hương thanh miếu ngạt ngào, trời trăng gió cao nêu nền tiết nghĩa.

Đường sá Hồng châu đi lại, khách gần xa trông rõ cột cương

thường.

* *

*

Nhất niên nhất lệ, hàng năm ngày 11 tháng 4 âm lịch, tại đền thờ

Ngài có mở hội. Dân chúng Bần Yên Nhân nô nức đi xem hội và làng Yên Phú năm nào cũng cử một nhóm người thay mặt dân xã tới yết lễ trong dịp

này.

Hội có tế lễ rước xách theo tục lễ cổ truyền. Có đánh cờ bỏi và cũng

như ở các đền miếu khác, có các ông Đồng bà Bóng tới lên đồng hầu bóng.

Khách trẩy hội, lễ thần rồi xin thẻ.

Dân chúng các nơi kéo nhau tới hội này đông lắm, nhất là dân chúng

vùng Hưng Yên./.

T. A

Page 368: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

442

Page 369: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

443

Lễ hội Đền Đồng Bằng

Bùi Ngọc Dũng

Là một trong những hội làng mùa thu có tiếng, lễ hội đền Đồng

Bằng, tỉnh Thái Bình xứng đáng được người dân vùng châu thổ Bắc Bộ

truyền đời nhắc với nhau ghi nhớ:

Dù ai buôn xa bán xa

Hai mươi tháng tám giỗ cha thì về

Dù ai buôn bán trăm nghề

Hai mươi tháng tám thì về Đào Thôn.

Hội đền Đồng Bằng mở hàng năm, từ ngày 20 đến 26 tháng tám âm

lịch, thu hút hàng vạn người trong tỉnh và khách thập phương về dự. Ngôi

đền nằm cạnh một bến sông mang tên là sông Đồng Bằng; đất xưa thuộc

thôn Đào Động tổng Vọng Lỗ, huyện Phụ Phượng (nay là xã An Lễ, huyện

Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình). Ngoài tên Đồng Bằng, đền còn có tên là đền

Đức Vua, đền Bát Hải... Điều đáng quan tâm là tục đua thuyền, bơi trải là

hoạt động nổi bật trong các ngày hội .

*

* *

Tục đua thuyền đã xuất hiện từ nhiều thế kỷ, gắn với việc quần tụ cư

dân ở vùng này. Những truyền thuyết dân gian và một quần thể các di tích

lịch sử, cảnh quan văn hóa - địa lý đã hé mở phần nào cho ta thấy tính chất

cổ xưa của tục này.

Dân làng Đào Động thường truyền ngôn rằng: Vào thời Trần, có hai

người trong đội quân đánh giặc ở vùng cửa biển, khi giặc tan, họ chia tay nhau tại một quán nước làng Nuồi (thuộc Phủ Nội, Thanh Miện, Hải

Dương). Một người ở lại Phủ Nội chiêu dân lập ấp, một người trở về Đào

Động mở làng, lập nên tám trang Đào Động. Sau này dân hai làng kết

nghĩa giao chạ với nhau và hàng năm tổ chức đua thuyền vui chạ. Một

người được thờ ở đình làng Nuồi, một người được thờ ở đền Đồng Bằng.

Tục lệ ấy được tiếp nối cho đến những năm 40 của thế kỷ này. Sông Đồng

Bằng và sông Nuồi trở thành đường đua truyền thống của hai làng. Mỗi lần

tổ chức đua, dân Đào Động rước thần được thờ ở đền Đồng Bằng ra đình

Page 370: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

444

bơi (nay là khu chợ Đồng Bằng). Làng Nuồi cũng có lệ đua thuyền từ lâu

đời và tổ chức vào ngày 10 tháng tám âm lịch hàng năm.

Các cụ già đều cho rằng chính hai người bạn trong đội quân nhà Trần

là ông tổ của tục lệ này và quả quyết rằng, khi chia tay nhau, hai người đã

có lời nguyền khắc vào tấm bia đồng ở ngã ba Rách; đáng tiếc là đình làng

Nuồi bị phá từ lâu, sắc phong, thần tích, bia ký không còn nữa.

Hai nhân vật trên không có sử sách nào ghi lại tên tuổi, hành trạng.

Theo sắc phong ở đền Đồng Bằng thì khoảng cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ

XV có một danh tướng nhà Trần tên là Trần Nhân Huệ đã về khẩn đất

vùng này và lập ra Đào Động trang, ông được coi là thành hoàng nơi đây. Liệu ông có liên quan gì với làng Nuồi thì chưa rõ. Chỉ biết là, trong mấy

lần kháng chiến chống quân Nguyên thì cả vùng rộng lớn này là địa bàn

chiến lược của nhà Trần.

Mặc dầu vậy, việc thờ cúng trong dân lại theo hai quan niệm khác.

Người theo quan niệm thứ nhất thì cho rằng đền thờ Đức Bát Hải Động

Đình, một thủy thần, nên đền có tên là đền Bát Hải Động Đình. Còn quan

niệm thứ hai thì cho rằng vị thần được thờ trong đền là Đức Thánh Trần.

Lại thêm cách đây khoảng 450 năm (vào thế kỷ XVI) một họ lớn của Đào Động là họ Đinh đã lưu tán sang làng Nuồi và bây giờ những người

cùng dòng họ ấy vẫn có mối quan hệ chặt chẽ. Như vậy tục đua thuyền

giữa hai làng như là hệ quả của mối quan hệ cư dân có truyền thống lâu

đời. Khảo sát diễn trường đua cùng quần thể di tích, ta có thể hiểu thêm bề

dày văn hóa của tục này.

Về địa lý môi trường, trên địa bàn Đào Động có con sông mang tên

Đồng Bằng, hiện nay đã bị lấp dòng chỉ còn lại dấu tích từng đoạn của một con cừ nhỏ, có đoạn biến thành sông cụt hay đầm lầy. Khảo sát thì thấy

sông dài gần 4 km, chảy theo hướng đông bắc - tây nam, phát nguyên từ

cửa Ba Mỹ (xã An Quí) nối với sông Đào Động, vòng qua thôn Đồng Ông

gặp sông Cô tại đập Hệ rồi ra sông Hóa. Trước năm 1954 sông còn rất

rộng, có đoạn rộng tới 500m và sâu hàng chục mét, thuyền bè tấp nập, đây

là con đường thủy quan trọng làm gạch nối giữa hai trục đường thủy bắc và

đông nam tức sông Diêm và sông Lục. Xa hơn nữa, trước đây sông Đồng

Bằng, sông Đào Động có vai trò quan trọng trong đời sống cư dân vùng này, là ngư trường thu hút nhiều tay chài lưới giỏi bơi lội, đánh cá.

Trên hai bờ sông Đồng Bằng, có thể gặp những phế tích. Đây là

những mộ gạch có niên đại thuộc thiên niên kỷ I như Đống Sự, Đống He,

Đống Đồng Hưng. Nhân dân giải thích tên Đống He là do trước đây cá he

Page 371: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

445

từ biển vào rất nhiều. Đó là những bằng chứng cho thấy cư dân ở đây đã

quần tụ từ lâu đời, muộn nhất cũng là từ đầu công nguyên và kéo dài suốt mười thế kỷ Bắc thuộc. Có lẽ đây là nơi dân chài lưới đến hợp cư. Vậy, địa

bàn Đào Động là vùng thổ nhưỡng hình thành sớm và sớm được dân khai

thác. Về mặt địa hình, An Lễ là vùng tương đối trũng, có sông lớn, đầm lầy

bao bọc nên việc đánh cá là nghề sống quan trọng trong đời sống cư dân.

Sông Đồng Bằng và Đào Động nối liền miền biển với vùng nội địa phía

bắc ven sông Luộc, sông Hóa của Quỳnh Phụ. Chính các sông này có thể

hợp lưu hay phân lưu với sông Cô, sông Lẫm, Diêm Hộ đổ về các vùng

cửa biển Diêm Điền, với sông Luộc, sông Hóa đổ ra cửa Thái Bình rất thuận lợi.

Theo tài liệu kiểm kê di tích của bảo tàng Thái Bình, địa bàn vừa nêu

có liên quan đến ba lần kháng chiến chống quân Nguyên của nhà Trần.

Suốt thời kỳ kháng chiến và cả sau này, thủy quân là một lực lượng trọng

yếu của quân đội nhà Trần, góp phần đắc lực vào thắng lợi chung. Theo

các nhà nghiên cứu, vùng bắc Quỳnh Côi, Phụ Dực là vùng hiểm yếu, là

căn cứ của quân đội nhà Trần. Khu vực bắc Thái Bình, nam Hải Phòng là

khu căn cứ được hình thành sau khi nhà Trần rút khỏi Long Hưng, Thiên Trường và tồn tại tới khi tổ chức chiến dịch Bạch Đằng. Từ đây ngày 10

tháng hai năm 1288 thủy quân nhà Trần tiến lên tiêu diệt địch ở vùng cửa

biển Đại Bàng (nam Đồ Sơn) và hai tháng sau Trần Hưng Đạo dẫn quân

vượt sông Hóa tiến lên chuẩn bị chiến dịch Bạch Đằng Giang lịch sử. Là vị

trí chiến lược vừa có thế thủ vừa có thế tiến công cơ động theo đường thủy,

vùng bắc Quỳnh Côi, Phụ Dực đã trở thành địa bàn quan trọng trong cuộc

kháng chiến lần thứ ba - chiến dịch "đại thủy chiến" - mà rất có thể Đào Động là một trung tâm vì ở đây có đầm rộng lớn, kín đáo, sông sâu thuận

tiện cho việc luyện quân và tập dượt thủy chiến. Vì vậy, đua thuyền ở Đào

Động thành một hoạt động thường xuyên, một hình thức rèn luyện thể lực,

kỹ chiến thuật của quân sĩ nhà Trần, đồng thời là hình thức hoạt động văn

hóa được nuôi dưỡng, phát triển trên cơ sở lịch sử đã nêu. Khi việc đua

thuyền trở thành trò diễn trong lễ hội thì nó mang đặc trưng của lễ hội cổ

truyền, một hình thức sinh hoạt văn hóa của một dân tộc giỏi thủy chiến

trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.

*

* *

Bơi trải được tiến hành vào các ngày 22, 23 và 24 tháng tám âm lịch.

Page 372: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

446

Trải được đóng bằng gỗ giổi, một loại gỗ nhẹ, chắc và dẻo, thớ mịn,

khi thành tấm ít nứt, có thể cất giữ qua nhiều năm, do đó độ an toàn của trải cao. Sang hơn, người ta cũng có thể đóng trải bằng gỗ vàng tâm. Trải

được ghép mộng, chốt vít và ém sơn chặt chẽ. Ván trải để mộc, không sơn,

không trang trí vẽ hoặc khắc. Thông thường trải dài từ 20 - 25 thước ta

(khoảng 8 - 10m).

Làng Đào Động có ba trải, mỗi trải gọi là một "tích" do người "cai

mạn" đứng đầu. Cai mạn là người có uy tín, có kỹ thuật bơi cao nhất và

tinh thông luật lệ. Trải không cùng một kích cỡ, cụ thể như sau:

- Trải Trung Toán (tích Trung) dài 20 thước

- Trải Đông Đào (tích Đông) dài 25 thước

- Trải Thượng Thắng (tích Thượng) dài 22 thước.

Tuy vậy, chúng lại hoàn toàn giống nhau về cấu tạo và cách bố trí,

trang bị. Khúc giữa trải phình, đầu và đuôi thót lại. Nếu cắt ngang trải được

một thiết diện mà khoảng giữa rộng gần 3 thước (1,1m) thon dần xuống

đuôi là gần 2 thước (0,7m) giống dáng con cá chép hoặc cái lá mây vậy.

Mũi trải cao 2 thước (0,8m) so với mặt nước, không vát nhọn mà ngang

bằng, được đai một vòng kim loại bảo vệ chắc chắn, tránh bị vỡ khi húc vào bờ hoặc chướng ngại. Đầu mũi trải có gắn với một đầu rồng tượng

trưng bằng gỗ gọi là "ống réo". Lòng trải rộng vừa phải, đáy hơn 1 thước

(0,5m) phần tiếp nước không phẳng, mà như một cung tròn hình bán

nguyệt khiến trải lướt nhanh dễ dàng. Đuôi trải cao so với mặt nước chừng

2 thước rưỡi (1m) vát tạo với đáy một góc 40o sau đó xòe hình "đuôi tôm"

song song với đáy khiến toàn bộ hình dáng chiếc trải, theo các cụ từng là

trai bơi kể lại, là "đầu rồng đuôi tôm".

Bố trí cấu tạo trên trải như sau: chính giữa lòng trải có một đường

"ruột rồng" rộng gần 1 thước (30-40cm) chia trải làm hai phần dọc bằng

nhau, cao ngang bằng với bề mặt hai mạn trải và phía gắn sát đáy có đục

các lỗ thông nước. Hai bên "ruột rồng" có chỗ cho hai người làm nhiệm vụ

tát nước ngồi. Mỗi trải gồm 12 "phách" tức là các xương ngang, mỗi

"phách" cách nhau một thước, hai đầu ghép với thành mạn trải, ở giữa

ghép với "ruột rồng" được bắt vít chặt chẽ với ốc kim loại hình hoa thị.

Các mép trên của "phách" bằng bặn với mép trên thành mạn và "ruột rồng".

Dưới mỗi "phách" là một ván bưng dày 2cm để gia lực cho "phách".

Các ván bưng cũng được làm theo hình bán nguyệt khớp khít với lòng trải

và hai mạn, chúng giống các cung tròn mà phách là dây cung. Ván bưng

Page 373: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

447

được nối với hai đầu "phách" chắc chắn cũng bằng các ốc vít và phần tiếp

sát đáy trải của nó được đục ba lỗ, đường kính 8-10cm để thoát nước. Ngoài ra từ phách thứ 4 và 6 có hai thanh gỗ dài 2 thước, rộng 0,5 thước

được ghép bằng và dọc sát hai bên "ruột rồng" làm nơi đứng cho người

chấp hiệu. Người chấp hiệu đứng cân giữa trải, hai chân đặt hai bên "ruột

rồng", trên hai tấm ván đó.

Dầm bơi nếu cùng loại gỗ như trải là tốt nhất nhưng cũng không nhất

thiết bắt buộc phải như vậy mà có thể bằng gỗ thông dụng như xoan, bạch

đàn. Dầm bơi có hình lưỡi mai dài 3 thước (1,2m) trong đó phần cán dài 2

thước (0,7m), phần mái dầm hơn 1 thước. Dầm của "tích" nào mang màu sắc riêng của "tích" ấy. Ví dụ:

Dầm bơi của trải Trung Toán có màu trắng và khắc chìm chữ "Toán";

dầm bơi của trải Đông Đào màu đỏ cùng chữ "Đông" khắc chìm và dầm

Thượng Thắng màu xanh cùng chữ "Thượng".

Bánh lái có dáng gần như bánh lái các thuyền ngày nay, phần cán

tròn sơn màu đỏ và phần ngập nước dẹt và sơn trắng.

Trên mỗi trải có khoảng 30 người có sức vóc khỏe mạnh, nếu trung

bình mỗi người là 60kg thì trải có sức chở là 1,5 đến 1,8 tấn. Trong tổng số người ấy gồm một người chấp hiệu (đánh mõ), hai người lái, một người

phất cờ, hai người tát nước và hai mươi tư trải bơi.

Để vào đua, người ta phải tập luyện trước hàng tuần để thành thục

hiệu lệnh, động tác, vị trí đến nội qui. Do hàng năm có thay đổi về nhân sự

nên việc tập luyện lại càng cần thiết.

Trải được cất giữ, trông nom trong nhà để trải mà người ta gọi là

"xiểng trải" hay "quán trải". Ba quán trải của Đào Động ở cách đình bơi 50m và làm thành một dãy thông nhau tương tự như nhà ống ngày nay,

theo thứ tự quán Trung Toán thứ nhất, ở giữa là quán Đông Đào và cuối

cùng là Thượng Thắng. Quán trải gồm 7 gian, mỗi gian dài 5 thước ta và

lòng chỉ rộng hơn trải một ít sao cho mỗi bên dôi ra cách hai mạn trải

khoảng một gang tay. Khung quán có hai hàng cột gỗ song song đối xứng

nhau và tra lỗ để gác các then ngang. Với cách kiến trúc ấy, việc cất trải rất

tiện lợi. Lúc cất trải, người ta tháo bánh lái, lật úp nguyên trải xuống, đẩy

vào đến đâu lắp then ngang đến đó để đỡ. Gầu và dầm để riêng. Lúc lấy trải ra thì thao tác theo trình tự ngược lại.

Đứng đầu các trải là người "cai mạn" được hội đồng kỳ mục giao phó

trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ với "tích" của mình như tư cách một

chủ thuyền.

Page 374: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

448

"Cai mạn" phải trông nom, coi sóc tài sản của "tích" mình: quán trải

hư hỏng, dột nát phải được khắc phục, thuyền nứt hỏng phải sửa chữa ngay, thiếu thứ gì phải bổ sung thứ đó. Mỗi "tích" được làng Đào Động cấp

cho một mẫu ruộng công để canh tác. Hoa lợi, sản phẩm thu hoạch sẽ dành

để giải quyết các khâu từ tu sửa thuyền quán, may sắm cờ quạt, vật phẩm

tế lễ thần thánh.

Tất cả chuẩn bị xong xuôi, ngày 22 tháng tám là ngày hạ trải, tiến

hành cuộc đua đầu tiên. Các trai bơi cả ba "tích" đã được tuyển chọn hợp

sức cùng nhau khiêng trải ra khỏi quán đưa xuống điểm xuất phát. Việc

này không phân biệt "tích" nào với "tích" nào, công việc là chung của cộng đồng. Cả ba trải Thượng Thắng, Đông Đào và Trung Toán được lần lượt

đưa ra và xếp một hàng ngang tại điểm xuất phát. Lúc này các dòng người

đổ về hai bên bờ sông xem đông chật như nêm cối. Ba tiếng cồng nổi lên

tập trung các "tích" vào cuối giờ Ngọ (một giờ chiều), người ta kiểm tra lại

số người, trang bị và bắt đầu xuống trải của "tích" mình. Người chấp hiệu

xuống trước, tiếp đó là người phất cờ ở khoang trống giữa phách thứ hai và

phách thứ ba nhưng đứng dưới sàn, rồi tới hai người cầm lái và hai người

tát nước. Chấp hiệu, phất cờ và cầm lái đều mặc áo chẽn loe phần dưới, đầu thắt khăn mỏ rìu đỏ, thắt lưng bao tượng đỏ hoặc vàng có bỏ mối. Cuối

cùng là hai mươi tư trai bơi đi hàng đôi xuống trải theo các vị trí hai bên từ

"phách" một đến "phách" thứ 12. Họ phải vào vị trí một cách trật tự, không

nhầm lẫn hay lộn xộn. Trang phục của trai bơi có màu sắc riêng để dễ phân

biệt các "tích". Trang phục được may sẵn rồi phân phát.

- Trai Đông Đào khăn mỏ rìu đỏ, áo trắng, quần trắng

- Trai Trung Toán khăn đỏ, áo xanh, quần trắng

- Trai Thượng Thắng khăn đỏ, áo đỏ, quần trắng.

Tất cả vào chỗ được phân công từ trước và ở tư thế sẵn sàng.

Trên đầu các trải bày tượng "ông mó" (tượng con phượng hoàng bằng

gỗ sơn son thếp vàng rực rỡ) cùng mâm cúng lễ gọn nhẹ là trầu rượu. Tới

13 giờ rưỡi, trên bờ có cuộc tế Nhị vị do hội đồng kỳ mục gồm các bô lão

và những chức sắc có uy tín (mười người cả thảy) tiến hành. Một tràng

pháo nổ giòn đanh vừa báo giờ tế vừa là hiệu lệnh xuất phát cuộc bơi. Các

trải đồng loạt hất Ông Mó cùng đồ tế xuống sông (người cai mạn sẽ có trách nhiệm vớt chúng) và xuất phát. Động tác của những người hiệu lệnh

(người lãnh trách nhiệm chỉ đạo trải) lúc này phải nhanh gọn, mạnh mẽ và

chính xác. Người chấp hiệu giậm chân, miệng hô "Giai bơi! Giai khỏe!"

Người phất cờ phải phất đúng nhịp hô của người chấp hiệu. Các giai bơi da

Page 375: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

449

bánh mật, cơ bắp cuồn cuộn, một chân ép sát mạn, một chân tỳ lên phách

phía trước. Họ có tư thế vững chãi để bổ dầm bơi. Đáp lại tiếng hô của người chấp hiệu, các trai bơi đồng thanh đáp "Dô huậy!" vang động khúc

sông. Tiếng hô kết hợp chặt chẽ với động tác. "Dô!" là lúc đưa dầm lên.

"Huậy!" là lúc đổ dầm xuống. Động tác, hô hiệu và hiệu cờ đều tăm tắp

đẩy con thuyền lao vun vút đi. "Tích" nào cũng muốn giật giải về cho giáp

mình. Tiếng trống thúc đổ hồi trên bờ, tiếng reo hò cổ vũ náo nhiệt của

người xem đua ngùn ngụt bốc thôi thúc các trai bơi dốc toàn lực cho sự

chiến thắng của trải mình. Đúng là:

Trai ơn vua lúc đua thuyền rồng

Gái ơn chồng lúc bồng con trẻ.

Xuất phát từ đình bơi (nay là chợ Đồng Bằng) các trải sẽ thực hiện

một vòng tới thẻ Thượng (Đồng Đống) rồi tới thẻ Hạ (tức Cống Đôi và nay

còn gọi là Cầu Vật, dân gian còn có câu Thượng Đồng Đống, hạ Cống

Đôi) và trở về đình bơi. Thẻ là một cây tre dài 8 đến 10m ngọn tre có một

lá cờ đỏ và nhỏ được cắm ở giữa sông. Tại thẻ Hạ và thẻ Thượng đều có

một người làm nhiệm vụ giám sát chặt chẽ việc tuân thủ thực hiện các qui

định đã trở thành luật thi của các trải. Tới thẻ Thượng trải phải vòng theo tay phải mới được nhổ thẻ (thẻ Thượng cách đình bơi khoảng 2km) nếu

vòng theo tay trái mà nhổ thẻ bị gọi là "hớt" thẻ và là phạm luật, và bị loại

khỏi giải. Việc nhổ thẻ rất khó. Nó đòi hỏi hành động của các thành viên

trên trải phải nhịp nhàng nhanh gọn và dứt khoát sao cho nhổ thẻ lên mà

trải vẫn thăng bằng, không bị triềng (chòng chành), lật. Đến thẻ Hạ, người

ta cũng phải nhổ thẻ và mang về đình bơi. Hai giám sát viên là những

người do làng bầu ra, trung thực với nhiệm vụ không thiên vị trải nào. Cuộc thi sau 3 giờ (đến khoảng 16 giờ rưỡi) thì kết thúc. Trải nào về nhất,

không phạm luật là giật giải. Lễ trao giải diễn ra trước đình bơi. Giải

thưởng gồm một bánh pháo dài 1,2m, một mâm xôi và một thủ lợn do hội

đồng kỳ mục trao.

Cần chú ý là trong hai ngày 22 và 23 tháng tám mới là giải "thăm

thẻ" chỉ do ba trải của Đào Động đua với nhau.

Ngày 24 tháng tám là ngày chính tịch (hóa thần) cuộc đua, ngoài ba

trải của Đào Động còn có thêm ba trải của làng Nuồi là "tích" Tây Đô, "tích" Thủy Mã và "tích" Đông Thắng tham gia. Trước tiên, ba trải của

Đào Động cùng thi bơi lên Nuồi trước, mang tính chất mời chạ và chịu sự

giám sát của làng Nuồi. Sau đó trải làng Nuồi bơi xuống Đào Động dự đua.

Vẫn đường đua hôm trước nhưng lần này cả sáu trải dàn hàng ngang xuất

Page 376: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

450

phát. Trải nào thắng cuộc trong lần này được thưởng từ 20 đến 30 (vuông)

lụa điều, một bánh pháo, 10 quan tiền xanh (sau này, những năm 30-40 của thế kỷ được thay bằng 5-10 đồng Đông Dương).

Dưới sông thì không khí tranh đua, song lên bờ lại bao trùm một

không khí chan hòa, thân ái, cùng chia sẻ niềm vui với nhau, một truyền

thống đẹp đẽ của cộng đồng, của tục "nước nghĩa" anh em.

Cuộc đua kéo dài đến hết ngày 24 tháng tám thì kết thúc trong niềm

hân hoan, đầy sảng khoái và lành mạnh của người xem và những lời chúc

mừng, hứa hẹn về cuộc đua trong lễ hội năm sau. Chiều 25, trải bơi lại tập

trung làm lễ cất trải, đưa ba trải vào quán trải giữ gìn.

Có thể nói tục đua thuyền ở Đào Động là một sinh hoạt văn hóa dân

gian hàm chứa trong nó nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp: giá trị thể thao,

văn hóa, truyền thống thượng võ và tinh thần cố kết cộng đồng./.

B.N.D

Page 377: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

452

Hội Đồng Kỵ

Toan Ánh - Nguyễn Thu Minh

Làng Đồng Kỵ có tên nôm cổ là làng Cời xưa thuộc thôn Tam Trang,

tổng Nghĩa Lập, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc, nay thuộc xã Đồng Quang, huyện

Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đó là một làng trù phú nằm trong vùng đồng bằng tỉnh Bắc Ninh, bên dòng Ngũ Huyện Khê thơ mộng.

Từ Hà Nội theo đường quốc lộ số 1A Hà Nội - Lạng Sơn tới thị trấn Từ

Sơn rẽ tay trái lối qua trường Đại học Thể dục thể thao Từ Sơn là tới làng

Đồng Kỵ. Xưa kia dân làng Đồng Kỵ làm nghề nông là chủ yếu, chỉ có một số

rất ít làm nghề thủ công (thợ mộc, đánh cá và tiểu thương) nhưng sau này và

nhất là bây giờ ở đây đã phát triển nhiều nghề đặc biệt là nghề mộc làm đồ

khảm trai trên các tủ chè, sập gụ, bàn, ghế v.v... rất nổi tiếng trong nước và

xuất khẩu.

Đồng Kỵ xưa vốn là một làng cổ, ở đây đã hình thành nhiều tập quán tốt

đẹp của một cư dân trồng lúa, hầu hết những phong tục ấy còn giữ được cho

tới ngày nay. Cơ sở vật chất của các di tích văn hóa như đình, chùa, đền, miếu

trải qua năm tháng ở đây vẫn còn giữ được gần như nguyên vẹn. Đồng Kỵ vốn

là một làng lớn của xã Đồng Quang. Xưa kia làng chia thành năm xóm là xóm

Đình, xóm Bằng, xóm Tư, xóm Giếng, xóm Nghề. Làng có chợ họp ngay cạnh

đình, một tháng 6 phiên vào những ngày 1 và ngày 6. Đình làng Đồng Kỵ là

một ngôi đình khá đồ sộ và đẹp, đình nhìn ra dòng Ngũ Huyện Khê dưới những bóng cây cổ thụ tự bao đời. Đình xây theo kiểu chữ Tam, nhìn ra hướng

Tây. Trong đình còn giữ được nhiều đồ thờ, bàn thờ được chạm trổ tỉ mỉ,

những điêu khắc và qui mô của một ngôi đình cổ kính. Tại đây hàng năm dân

làng tụ tập để tế lễ thờ thành hoàng làng và mở hội tưởng niệm công lao to lớn

của ông.

Thành hoàng làng Đồng Kỵ là ông Cương Công được vua phong là

Thiên Cương, một vị tướng có công lớn dẹp giặc Xích Quỉ thời Hùng Vương.

"Theo thần tích làng Đồng Kỵ, ông Cương Công - con trai ông Kinh Bắc

quận vương thời Hùng Vương thứ 4, có công dẹp loạn "Xích Quỉ" đã được

vua phong làm Thiên Cương. Tục truyền rằng Thiên cương trong khi phụng

mệnh triều đình đề binh đánh giặc có trở về nơi sinh trưởng (tức thôn Đồng Kỵ

ngày nay) để tuyển binh chọn tướng. ở đây ông cho lập trường thi võ, tập trận

để chọn tướng tiên phong. Vào ngày mồng bốn tháng giêng, ông ra lệnh xuất

Page 378: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

453

quân đánh giặc. Thiên Cương chia quân làm 4 tốp và giao cho bốn tướng dưới

quyền chỉ huy. Trong buổi lễ xuất quân ấy, mọi người tổ chức đốt pháo, hò reo rộn rã tạo một không khí náo nhiệt, anh hùng. Khi dẹp xong giặc "Xích Quỉ",

Thiên Cương trở về làng cùng nhân dân mở hội ăn mừng" 1.

Sau này, để ghi nhớ công ơn của ông, làng đã tôn ông làm thành hoàng

và hàng năm mở hội nhân dịp ngày mồng 4 tháng giêng với các tục đốt pháo

và tranh cột Thái Bạch để nhắc lại sự tích đã kể trên.

Lại truyền rằng trước kia làng mở hai hội kéo dài gần hết tháng giêng và

hội cầu phúc từ mùng mười đến hai mươi hai tháng giêng. Sau làng giữ lại hội

Xuân Đài, tiến hành từ mùng bốn đến mùng sáu tháng giêng mà đặc điểm là thi pháo đại, nên hội được gọi là hội pháo Đồng Kỵ hay hội pháo đình Cời.

Ngày chính hội của làng là vào ngày mùng 4 tháng giêng, song sự chuẩn

bị và một số phong tục phải được tiến hành từ trước đó. Ngoài việc chuẩn bị

các đồ tế lễ, dọn dẹp chuẩn bị lau chùi đồ tế khí ở trong đình, bô lão và chức

dịch trong làng phân công nhau trong các ban tế lễ và phục dịch ngày hội. Các

gia đình trong thôn tổ chức làm pháo. Việc này được tiến hành trên cơ sở tự

nguyện tự giác tùy theo khả năng kinh tế của mỗi nhà, không bắt buộc.

Tục lệ đầu tiên trong ngày hội đó là tục tranh cột Thái Bạch. Đây là tục diễn ra trước ngày hội để nhắc lại sự tích Thiên Cương kén tướng tiên phong đi

dẹp giặc. Truyện kể rằng, vào ngày 30 tháng chạp năm ấy, ngài được lệnh

mang binh đi đánh giặc. Ngài lập tức triệu tập các tướng lĩnh dưới cờ để kén

tướng tiên phong. Các tướng ai nấy đều náo nức, ai cũng muốn quả ấn tiên

phong về tay mình. Cuộc đua tài sức ấy diễn ra hết sức quyết liệt.

Sau này, hàng năm trước khi vào hội, đêm 30 tết, sự tích tranh ấn ấy lại

được diễn ra bằng tục tranh cột Thái Bạch (hay còn gọi là tục ôm cột).

Cột Thái Bạch là chiếc cột cái bên phải nhìn từ cửa đình vào phía trước

bàn thờ thần.

Đồng Kỵ có 4 giáp là: Tiên, Thượng, Đông, Đoài. Đêm 30 Tết vào lúc

giao thừa, bốn giáp cử bốn ông cụ già nhất của giáp ra tranh cột. Thường có

sự thỏa thuận trước giữa các giáp nhường nhau luân phiên giữ cột một năm.

Song cũng có năm các giáp tranh nhau kịch liệt.

Các cụ đều ăn mặc trang phục chỉnh tề. Mũ ni, quần sồi đỏ, áo lụa hồng.

Đúng giao thừa bốn cụ lần lượt vào tế thần, xong là bước vào cuộc tranh cột. Dân các giáp vây quanh, hò reo cổ vũ cho cụ già giáp mình. Không khí đua

tranh thật náo nhiệt. Vì có một cột mà cụ nào cũng tranh ôm, nên các cụ giằng

1 Nguyễn Thu Minh: Hội pháo Đồng Kỵ và việc cải tạo, xây dựng mô hình mới. Trong "Hội

xứ Bắc", Hà Bắc, 1988, tr. 85.

Page 379: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

454

nhau, lôi kéo nhau, thậm chí cả vật nhau. Không ai ôm cột được lâu, cứ như

vậy mà kéo dài cho đến 6 giờ sáng thì dân làng phân xử. Cụ nào giữ được lâu và nhiều lần nhất khỏe nhất là được giải.

Đến ngày mồng 3 Tết, dân làng rước thánh từ miếu lên đình nhập tịch.

Đám rước rất long trọng. Người đi rước ăn mặc quần áo ngày hội, có sự phân

công nghiêm ngặt. Đi đầu đám rước là cờ thần, cờ hội, tiếp đến là trống,

chiêng và phường bát âm. Kiệu rước hương án, chóe nước. Sau đến hậu bành

trên để các đồ thờ bằng đồng. Rồi tới long đình để hòm sắc vua ban. Cuối cùng

là cỗ thờ, các quan đám và các cụ phụ lão. Dân làng đổ ra hai bên đường xem

và kéo theo đám rước. Tiếng kiệu, tiếng nhạc, tiếng người xen lẫn nhau tạo thành không khí nhộn nhịp vui vẻ. Thần được trịnh trọng rước lên đình để hôm

sau dự hội làng.

Trước ngày hội, làng đã cử ra ban khánh tiết gồm 16 người do 4 giáp

chọn, 4 ông quan đám nhất, 4 ông quan đám nhì, 4 ông khảo và 4 ông quan

ngoại để lo việc tế lễ rước xách. Những người này đều ở tuổi 51, lệ làng bắt

buộc phải làm.

Ngày xưa đặc sắc nhất của hội làng Đồng Kỵ là thi đốt pháo tràng, pháo

đại 1. Tương truyền rằng, tiếng pháo nổ là tượng trưng cho tiếng súng của Thiên Cương đánh giặc. Theo sự tích kể lại thì ngày mùng 4 là ngày xảy ra

trận giao tranh ác liệt giữa quân của Thiên Cương và quân giặc. Quân của

Thiên Cương đại thắng, do đó tiếng pháo ngày hội còn là tiếng súng mừng

thắng trận.

Làm pháo: Pháo thi gồm pháo đại và pháo tràng. Pháo đại chia làm pháo

nhất, pháo nhì, pháo ba... do các giáp gắp thăm về cử người làm. Quan niệm

của nhân dân cho đây là pháo thờ thần nên phải làm cẩn thận. Khi quấn pháo phải quét sạch sân, giã gừng hòa với nước mưa đun sôi rẩy khắp sân để tẩy uế.

Nguyên liệu dùng làm pháo cũng được rẩy bằng nước gừng. Những nhà làm

pháo to phải nhờ người thì những người đó tuổi từ 18 đến 50, không tang trở,

người tán thuốc pháo phải chay tịnh. Trước đây có sự cạnh tranh giữa các gia

đình làm pháo nên việc làm pháo phải hết sức bí mật. Ai cũng muốn pháo của

mình to hơn pháo người khác nên họ thi đua nhau. Vì thế khi chuyển pháo ra,

có nhà phải phá vách.

Có thể dẫn ra đây một vài kích thước: Năm 1923 quả pháo dài nhất là 15m, đường kính tới 1,52m, năm 1974 quả dài nhất là 6m, đường kính 1m.

Những năm sau đó pháo thường dài 4-5m, đường kính từ 50-70cm.

1 Chúng tôi ghi lại một phong tục xưa để nhằm nghiên cứu. Hiện tại, chấp hành nghiêm túc

chủ trương của Chính phủ, người dân Đồng Kỵ không tổ chức đốt pháo nữa (Ban biên tập).

Page 380: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

455

Bọc lấy thuốc trong pháo là giấy xi măng, rơm, cót, lớp ngoài cùng trang

trí hoa mỹ, bọc bằng giấy đỏ có các hình hoa lá, long, ly, qui, phượng bằng giấy trang kim nổi hoặc chìm trong thân pháo. Con rồng bằng giấy ngũ sắc bồi

nổi uốn khúc quanh quả pháo miệng rồng đồng thời là phun lửa và bắt lửa cho

ngòi pháo để quả pháo nổ. Nhìn xa trông quả pháo đại ta thấy cả một công

trình nghệ thuật đồ sộ, công phu nổi bật lên giữa muôn vàn màu sắc đẹp của

ngày hội xuân.

Rước pháo: Vào ngày hội, gia đình có pháo đại dự thi coi là một may

mắn lớn. Người ta tin rằng năm ấy sẽ làm ăn phát đạt, con cháu đề huề, mùa

màng bội thu. Vì vậy làm pháo xong, người ta còn ăn uống mời mọc họ hàng bè bạn cùng chia xẻ niềm vui.

Sáng mùng bốn tết, khoảng 9 giờ, làm lễ xong, tiến hành rước pháo ra

đình dự thi. Pháo được đặt lên kiệu, thanh niên trong giáp rước và hộ tống. Khi

cất pháo lên vai, người ta đốt một tràng pháo dài và cứ đi vài mét lại nổ tiếp

bánh khác. Thanh niên trong giáp vừa rước vừa reo hò. Đám rước có đủ lệ bộ

như cờ, quạt, chiêng, trống đi cùng. Thỉnh thoảng một người lại hô to: "Mừng

cho pháo ta một tiếng này i... a!" tất cả đồng thanh hô to "i... a!". Khi pháo hạ

xuống sân đình, người ta đốt một tràng pháo cuối cùng, rồi gia đình có pháo mang trầu cau mời bà con đến hội xem pháo.

Pháo rước ra tập trung trước cửa đình. Các chủ pháo thắt lưng nhiễu

điều, chít khăn lụa đỏ đứng bên quả pháo của mình đợi lệnh.

Đốt pháo: Trong lúc các giáp lần lượt rước pháo của mình đến thì trong

đình các quan đám và dân làng tế lễ. Cuộc tế kéo dài cho tới 10 giờ sáng thì

xong, bắt dầu cuộc đốt pháo.

Tiếng trống đánh ba hồi báo hiệu. Pháo tràng nổ trước, pháo đại nổ sau. Trước khi đốt, chủ pháo cầm hương quay vào đình làm lễ, tiến lên ba bước vái

thần, vái các quan đám và bô lão năm vái rồi châm lửa.

Pháo nổ từ 10 giờ cho đến khi hết các quả pháo dự thi. Trước khi đốt

pháo đại, người ta thường đốt pháo tràng. Pháo tràng thường dài từ 150 -

200m, phải vắt qua tường đình, cuốn vào cành cây cao mãi lên ngọn hoặc vắt

qua nhà tám mái. Mỗi tràng pháo nổ trên dưới một giờ. Tiếp đó là chuyển sang

đốt pháo đại. Trống cắt, pháo nổ và cứ sau một quả pháo nổ thì trong xuân đài

lại có bốn hồi trống lệnh của bốn giáp đánh lên. Tiếng pháo đại của từng giáp mỗi lần nổ xong, thanh niên trong giáp liền lao ngay vào chỗ pháo nổ ôm xác

pháo tung lên, reo hò mừng pháo nổ to và tan hết xác. Người ta tin rằng như

vậy trong năm sẽ gặp nhiều may mắn.

Tiếng pháo "hấp hiệu" (tức là quả pháo lớn nhất nổ sau cùng) tượng

trưng cho lệnh thu quân chiến thắng hoàn toàn. Vì pháo to nên ngòi chính của

Page 381: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

456

pháo được nối với một pháo đại, đó là miệng rồng hoặc từ miệng rồng phun

lửa bén sang ngòi. Đây là cả một nghệ thuật thú vị. Trong khi đó người đốt và người xem có điều kiện tránh ra xa. Pháo đại nổ to, rung chuyển khắp làng, có

năm bay cả ngói đình. Pháo tốt là pháo nổ to, có tiếng vang âm, xác tan hết.

Còn pháo tràng phải nổ rền, giòn, đanh tiếng, ít pháo xịt, pháo rụng, như thế là

đạt. Mà chỉ châm lửa một lần, nổ cho tới hết tràng pháo.

Giải thưởng rất đạm bạc. Pháo nhất được một dây bánh dầy, một quả

cam, một tấm mía và một miếng trầu. Phần thưởng chỉ mang ý nghĩa tượng

trưng, thiêng liêng bởi ai cũng cảm thấy tự hào vì đã được tham dự ngày hội

pháo. Người ta tin rằng gia đình được giải sẽ gặp may mắn lớn và mùa màng năm đó bội thu. Sau khi thao pháo xong, dân làng tổ chức dô ông đám (tung

ông đám trước cửa đình) tượng trưng cho khí thế chiến thắng. Những ông đám

được các trai giáp rước, múa, nổi lên giữa đám đông như những bông hoa, nên

còn gọi là múa hoa. Song trò diễn này cốt đề cao tinh thần thượng võ, phô

trương sức khỏe và ý thức quần thể.

Từng giáp một, đám thanh niên mình trần đóng khố đỏ cùng nhau kiệu

trên vai ông đám của giáp họ. Ông đám mặc quần màu hồng thắm bằng nhiễu,

vóc hay lụa tùy theo khả năng của từng ông. Các ông được kiệu lên vai trai đinh đi quanh đình ba vòng giữa tiếng chiêng, trống lẫn tiếng reo hò của dân

làng. Sau ba vòng các ông được ngồi vào chiếu cạp điều trải ở giữa đình, ngay

trước bàn thờ thần. Ông đám thường là người cao niên trong giáp.

Ngày mùng năm thi đấu vật. Trai các giáp sẽ nô nức ra đua tài đua sức

giành giải cho giáp mình. Xới vật diễn ra vô cùng náo nhiệt và hấp dẫn. Ngoài

ra còn có các đô vật ở nơi khác về đây giành giải với trai Đồng Kỵ.

Thi bánh dầy: ngày 6 tháng giêng, tục truyền là ngày Thánh khao quân. Theo lệ làng, chỉ các cụ ông cụ bà từ 52 tuổi trở lên mới được dâng lễ vật.

Muốn vậy mỗi cụ phải đem ra đình năm nong, năm nia, năm mẹt, năm mâm

hoặc năm đĩa bánh dày. Nhiều ít, to nhỏ tùy tâm, tùy cảnh nhà, nhưng nhất

thiết phải là năm.

Gạo là loại nếp cái đều hạt, thơm nõn. Bánh phải được giã có kỹ thuật

sao cho khi vắt bánh phải mịn, dẻo, trắng. Khuôn to nhỏ tùy theo ý định của

người làm. Trên mặt mỗi bánh đều dán miếng giấy đỏ tròn, có chữ thọ cắt

bằng giấy trang kim lóng lánh. Xong xếp ra nong, nai, mẹt, mâm hay đĩa.

Sáng mùng 6 rước bánh ra đình. Kèm theo còn có mười quả cam ngọt,

mười đoạn mía dài róc vỏ và tiện sẵn, một con gà trống được luộc thật khéo,

được uốn nằm trong tư thế đẹp, miệng ngậm bông lựu hoặc bông hồng.

Khi cỗ mang ra được bình chấm và cúng thần. Sau đó chia đều cho các

xuất đinh từ lọt lòng cho đến thượng cụ.

Page 382: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

457

Ngoài những phong tục đặc biệt đã kể trên, cũng như bao hội làng khác

ở nước ta, hội làng Đồng Kỵ còn có nhiều trò vui phổ biến như đấu cờ người, chọi gà, bịt mắt bắt dê, đu v.v... Tất cả những trò chơi ấy góp phần làm cho hội

làng phong phú và hấp dẫn.

Có thể nói rằng, dưới lớp vỏ bọc của ngày hội pháo hôm nay, ta vẫn thấy

ẩn tàng những dấu tích của một nền văn hóa xa xưa của người Việt cổ, một cư

dân trồng lúa nước của vùng Đông Nam á. Cũng như tất cả các dân tộc làm

nông nghiệp trên thế giới, người Việt cổ xưa luôn cầu mong một mùa màng

bội thu, một cuộc sống sung túc, sinh sôi nảy nở. Dấu tích của tín ngưỡng phồn

thực, tế bánh dầy, thi gà béo... chính là thể hiện niềm ao ước đó. Và hiển nhiên, đối với cây lúa nước, yếu tố nước đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Không

phải ngẫu nhiên mà tục ngữ Việt Nam có câu "Nhất nước, nhì phân, tam cần,

tứ giống". Vì thế, để có một mùa màng thịnh vượng thì mưa thuận gió hòa là

vô cùng cần thiết. Tiếng pháo ngày hội chính là tượng trưng cho tiếng sấm để

đem lại những trận mưa đầu mùa. Tiếng sấm làm cho:

Lúa chiêm lấp ló đầu bờ

Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên.

Có lẽ cội nguồn sâu xa của ngày hội pháo tưng bừng là ở những ý nghĩa đó của tín ngưỡng phồn thực.

Đương nhiên, cũng như tất cả các yếu tố văn hóa khác của một dân tộc,

hội Đồng Kỵ cũng là một quá trình tiếp thu và loại trừ. Tiếp thu những yếu tố

văn hóa phù hợp, hợp thời đại và loại trừ những cái cũ, không hợp thời. Việc

chấp hành chỉ thị của Chính phủ trong việc dùng pháo nổ của người dân nơi

đây, cũng chính là thái độ ấy. Hình ảnh vị thần Thiên Cương chống giặc giữ

làng, giữ nước là một sự tiếp thu tích cực của ngày hội, phù hợp với nhu cầu của lịch sử và phù hợp với truyền thống của dân tộc Việt Nam./.

T.A - NTM

Page 383: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

459

Hội đền Đồng Nhân

Hà My

Làng Đồng Nhân thuộc quận Hai Bà Trưng, ở về phía nam thành

phố Hà Nội. Làng này có đền thờ Hai Bà Trưng Trắc và Trưng Nhị. Đền

thờ Hai Bà ở ngay trước cửa nhà máy rượu, cách đường Nguyễn Công

Trứ chừng trên, dưới 500 thước.

Theo truyền thuyết, khi dân làng Đồng Nhân vớt được tượng Hai Bà liền báo lên triều đình, thì vua Lý Anh Tông lập tức cho lập đền thờ

Hai Bà vào năm 1142. Nhưng theo Toàn thư, thì đền được xây dựng vào

năm 1160. Đền được dựng trên bãi Đồng Nhân cạnh bờ sông Hồng. Đến

năm 1819, khi sông Hồng chuyển dòng, bãi bồi sụt lở thì đền được dời

vào trong thôn Hương Viên cũng thuộc làng Đồng Nhân. Đền toạ thế

trên nền đất cạnh chùa làng thuộc khu Võ Sở (nơi luyện võ thời Lê) từ

lúc đó cho đến nay.

Trước đền có một hồ bán nguyệt. Một hàng cột có nhiều câu đối nhưng nay đã bị vỡ nhiều. Tiếp đến là một cái sân rộng. Trước kia bên

phải sân có một cây đa cổ thụ, cành lá tươi tốt. Ngày hội nhân dân

thường treo những đôi giày và những bó hương để tưởng nhớ đến những

người hầu cận của Hai Bà. Vì qua những lần tu sửa cây đa đã bị chết và

bây giờ đã được trồng bằng cây đa mới. Gần cây đa có một tấm bia khá

lớn. Đó là bia Trưng Vương sự tích bia ký do tiến sỹ Vũ Tông Phan soạn

năm 1840. Nội dung văn bia biểu dương sự nghiệp của Hai Bà cũng như

việc dời đền từ bãi vào làng như thế nào!

ở nhà tiền tế, bên trên có hai thớt voi sơn đen. Sát tường bên trái

có một tấm bia do cử nhân Dương Duy Thanh soạn năm 1848 cũng mang

tên Trưng Vương sự tích bia ký. Nội dung bia này giống như văn bia của

tiến sỹ Vũ Tông Phan soạn năm 1840.

ở hậu cung có tượng Hai Bà đặt trên bệ cao. Tượng không đội

mũ, hai tay đưa ra phía trước (tất nhiên không được đúng với

truyền thuyết).

Tích truyện kể rằng1 sau trận chiến bại cuối cùng, Hai Bà gieo

mình xuống sông Hát thì hoá thành hai pho tượng đá từ ngoài sông Nhị

1 Xem thêm về Hai Bà trong bài Hội làng Hạ Lôi.

Page 384: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

460

xuôi dòng dạt đến bãi Đồng Nhân. Một hôm, ở làng chài Bố Lính (tức

bãi Đồng Nhân) khi đi đánh cá về cắm sào xuống sông để cột thuyền vào

bờ, ngay tối đó, cụ Tiên Chỉ được người báo mộng rằng: "Cắm sào vào

tay Mẹ rồi!" Sáng hôm sau cụ triệu tập dân làng lại, báo tin này cho mọi người biết. Làng liền phân công một người lặn giỏi lặn xuống sông thì

thấy có hai pho tượng vừa trôi đến đầu bãi Đồng Nhân, dân làng định

kéo vớt lên nhưng không sao vớt được. Sau đó làng làm lễ xin vớt hai

pho tượng lên thì lại được báo mộng là muốn vớt được tượng phải dùng

dây hồng điều chứ không được dùng dây thừng. Dân làng làm y như lời

báo mộng và rước được hai pho tượng lên. Đó là tượng Hai Bà Trưng.

Tượng đá lớn và nặng, đầu đội mũ trụ, thân mặc áo giáp, hai tay

chỉ lên trời, một chân quỳ, một chân ngả. Nghe các cụ kể lại: hai pho tượng oai phong lẫm liệt như đang còn ra sức vẫy vùng trong đám ba

quân, và, từ hai pho tượng ánh hào quang toả sáng lung linh. Có thể là do

khí anh linh của Hai Bà kết thành.

Trở lại hậu cung của đền Đồng Nhân, bên tượng Hai Bà còn có

tượng 12 nữ tướng. Điều đáng chú ý là ở nhà tiền tế cũng như ở hậu cung

có nhiều câu đối hay như:

"Nhân miếu, tôn tượng túc thanh cao, hào khí như sinh, Bắc có

mục trung vô Hán quốc.

Hán thuỷ môn, nộ đào thời chấn đãng anh phong bất tử, Nam âm

sử thượng hữu Bà Vương".

(Khuyết danh)

Tạm dịch là:" Miếu Đồng Nhân, tượng báu trang nghiêm, hào khí

như còn, ngoảnh ngó Bắc phương không nước Hán.

Cửa sông Hát sóng hờn sôi sục, anh phong không dứt, tiếng vang

Nam sử có Vua Bà".

Hoặc một câu đối khác:

"Khả liên Hán đế xương Quang Vũ

Bất để thoa quần khởi nghĩa binh"

(Khuyết danh)

Tạm dịch là: "Khá thương vua Hán phô văn mẽ

Khôn đọ quần thoa dấy nghĩa binh".

Ngoài những điểm đã nói ở trên, còn một điều chú ý nữa phía bên

phải đền thờ Hai Bà là ngôi đình và bên trái là chùa của làng này. Chùa

Page 385: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

461

có tên là Viên Minh tự (chùa Viên Minh). Tên này bắt nguồn từ một sắc

phong năm 1533. Vào năm đó - năm Nguyên Hoà thứ nhất đời vua Lê

Trung Tông - có sắc phong cho Hai Bà là Quảng Giáo Viên Minh Linh

Thạch Trưng Vương phật (chữ Viên Minh lấy từ pháp hiệu này).

Qua sự tích đền Đồng Nhân kể trên, có thể hiểu rằng từ đời Lý, từ

hai vị anh hùng cứu nước, Hai Bà Trưng đã được vương triều này tôn lên

là hai nữ thần bảo hộ nông nghiệp. Từ đời Lê Trung Hưng, hai Bà lại

được rước tôn lên làm Phật.

Hội đền Đồng Nhân kéo dài bốn ngày, từ mùng ba tới mùng 6

tháng 2. Nhưng ngày hội chính là ngày mùng 6 tháng 2. Trong những

ngày hội có tế lễ rước xách, múa đèn theo nhịp trống của con đĩ đánh

bồng; mở cuộc đánh bờ bỏi, và xưa kia thường có hát chèo để đồng dân mua vui.

Lễ rước nước sông Hồng: lễ này được coi như điểm chốt của lễ

hội, và đây có lẽ là hình thức hội nước (thờ nước cầu mưa), một lễ tiết tín

ngưỡng nông nghiệp nguyên thuỷ mà ở đây trộn lẫn với chủ đề lịch sử

(tưởng niệm Hai Bà).

Từ 8 giờ sáng, những người được phân công đã đưa voi, kiệu, cờ

quạt.v.v... ra sân đến để cử hành đám rước. Đám rước diễu hành một

cách uy nghi giữa tiếng đàn, tiếng sáo, tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng tụng niệm của các cụ già. Đi theo đám rước còn có hàng trăm dân làng

hay người dân phố. Đặc biệt các thôn ở hai bên đường đám rước đi qua

đều bày hương án bái vọng. Đám rước đi theo một lộ trình nhất định, khi

đến bờ sông Hồng thì dừng kiệu lại, rước kiệu xuống thuyền. Thuyền này

ra giữa dòng sông, chỗ có nước trong sạch, lấy gáo múc nước vào đôi

choé. Làng đã chọn hai bà lão goá chồng đức hạnh làm công việc tắm và

thay áo mới cho tượng. Số nước còn lại sẽ dùng để cúng quanh năm.

Sau khi đám rước quay trở về đền thì bắt đầu làm lễ tế. Có năm

còn tổ chức tế nữ quan, tức là mọi thủ tục tế lễ đều do phụ nữ hoàn toàn

đảm nhiệm từ chủ tế, bồi tế cho đến các chấp viên. Nghi thức lễ cúng

giống như khi do các quan viên trong làng cử hành.

Múa đèn và con đĩ đánh bồng: Trong buổi hành lễ, sau đám lễ, tại

đền có đoàn vũ công múa đèn theo nhịp trống của con đĩ đánh bồng...

Đây cũng là một tiết mục sinh hoạt văn hoá dân gian hấp dẫn trong lễ hội

này. Đội múa đèn gồm 10 thiếu nữ mặc áo dài đen, thắt lưng đỏ buộc ở ngoài áo, múi buộc chéo cạnh sườn. Đèn là những đài hoặc đĩa chung

quanh cắt giấy hình cánh hoa dán vào, giữa đài là một ngọn nến đang

Page 386: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

462

cháy. Người múa hai tay cầm hai đèn đi thành hai hàng, lượn qua lượn

lại trước ban thờ, khi thì đi nối đuôi nhau, khi thì đi theo hàng lối khác,

khi chéo, khi thẳng, khi vòng tròn, khi kẻ trước gặp người sau, khi xếp

thành một hàng, khi tách thành hai hàng đối diện nhau trước ban thờ. Động tác múa rất nhịp nhàng, đan lượn nhau, tay đưa lên đưa xuống,

dưới ánh sáng chập chờn, khi tỏ khi mờ của những ngọn nến mà không

để nến tắt hoặc cháy lan ra cánh hoa giấy. Đó là nét đặc sắc và cũng là sự

thể hiện khéo léo cái đẹp độc đáo của điệu múa đèn.

Dẫn đầu đội hình của điệu múa đèn này có một nhân vật mà nhân

dân ta thường gọi là "con đĩ đánh bồng" nhưng lại do một người đàn ông

đóng. Người này mặc áo dài thâm, quần trắng, khăn lượt, trên vai có

quàng những dây vải ngũ sắc, vai đeo một cái trống cơm, sau lưng có cắm chéo lên hai vai từ 2 đến 4 lá cờ đuôi nheo nhỏ. Người này làm ra bộ

dáng điệu mềm mại, ẻo lả, vừa đi vừa vỗ hai tay vào cái trống cơm với

nhịp "bập bùng, bập bùng" giữ nhịp và làm cho điệu múa càng thêm rộn

ràng, linh hoạt.

Cờ bỏi và hát chèo: ở một thửa ruộng bên cạnh đền, xưa kia có

một bàn cờ bỏi để dân làng hoặc các tay danh kỳ tới đánh cờ góp vui cho

ngày hội.

Buổi tối, trước đền có ban chèo đến để hát thờ thần và phục vụ dân làng giải trí.

Thường thì vào ngày mùng 6 dân làng Đồng Nhân cùng với một

số làng (những nơi có đền thờ Hai Bà) như: làng Hạ Lôi, Hát Môn,

Phụng Công, cùng đến dâng hương tế lễ. Tuỳ theo tình hình của từng địa

phương nhưng mỗi làng thường cử khoảng 60 cụ về dự lễ.

Trong mấy ngày lễ, các đồ cúng lễ thường gồm: cúng chay, cúng

xôi thịt, cúng bánh dày...

Hội làng Đồng Nhân cũng như nhiều hội của các làng khác giữa

yếu tố lịch sử và yếu tố tín ngưỡng dân gian thường đan xen hoà quyện.

ở đây ngoài tưởng nhớ đến công lao to lớn của Hai Bà cùng các tướng

lĩnh, còn có lễ rước nước, múa con đĩ đánh bồng, cúng bánh dày, phải

chăng là những tín ngưỡng nguyên thuỷ của cư dân nông nghiệp còn

đọng lại cho đến ngày nay./.

H.M

------------

Bài có sử dụng tư liệu của:

Page 387: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

463

1, Trần Tiến, bản viết tay, 1991.

2, Lê Hồng Lý, bản đánh máy.

3, Toan ánh, Nếp cũ hội hè đình đám- quyển thượng, tái bản, Nxb thành

phố HCM, 1992.

Page 388: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

464

Lễ hội Đồng Xâm

Phạm Minh Đức- Phạm Thị Nết

- Phạm Thị Lan

Theo thần tích, đền Đồng Xâm do Triệu Vũ Đế xây dựng năm

214 (trước CN). Đến năm 137 (trước CN) sau khi vua Triệu chết (thọ 120

tuổi), ngôi miếu ở Đường Thâm (Đồng Xâm) chính thức được coi là chính

từ 1. Năm tháng qua đi, ngôi đền cổ đó đã bị mục nát cùng thời gian. Cho

đến năm 1920- 1925, nhân dân ở 13 làng của tổng Đồng Xâm cũ (gồm

Hồng Thái, Trà Giang và một phần xã Quốc Tuấn, huyện Kiến Xương

ngày nay) đã tiến hành cuộc vận động xây dựng lại ngôi đền theo kiến trúc thời Nguyễn.

Đền Đồng Xâm được xây dựng trên một địa bàn rộng, thoáng từ

bờ đông sang bờ tây sông Đồng Giang, thuộc đất của hai làng Đường

Thâm và Vân Cước cũ. Nhìn chính diện từ cửa đền: bờ phía tây là toà các

lâu năm cửa, cao gần 20 mét. Dưới sông gần bờ phía đông, là toà thuỷ tạ

hình lục lăng. Trên sông xây hai cầu gạch lớn, làm thành hai đường đưa

khách tham quan vào hai khu đền chính. Một công trình điêu khắc hoành

tráng, lưỡng long ngũ hổ trên dãy giả sơn, tất cả đều hướng vào toà đại bái.

Bên tả, bên hữu là hai dãy hành lang được tôn cao nối liền mỗi bên

hai cổng vọng lâu, đối xứng qua sân tế ở chính giữa. Qua toà đại bái tới

toà trung đình rồi đến hậu cung nơi đặt tượng đức thánh Triệu và bà Trình

Thị. Phía sau khu đền là khu chùa Duông và am thờ vị tổ nghề kim hoàn.

“Ông tổ”nghề kim hoàn ở Đồng Xâm (Hồng Thái) là Nguyễn Kim

Lâu. Ông quê ở châu Bảo Lạc Tuyên Quang (sau này thuộc huyện Bảo Lạc tỉnh Cao Bằng). Trong quá trình làm nghề, xuống đến Đồng Xâm ông

đã có công dạy cho dân ở đây biết nghề kim hoàn. Để ghi nhớ người có

công khai sáng ngành nghề, những người thợ bạc Đồng Xâm đã tôn ông là

ông tổ của nghề này ở làng mình. Hiện nay ở Đồng Xâm vẫn còn lưu giữ

một tấm bia nói về công trạng của Nguyễn Kim Lâu như sau: “Hoàng

triều Chính Hoà thập niên, tổ phụ hành nghề “bổ chữ đồng ngoa”, Thượng

châu Bảo Long tụ lạc học nghệ đáo Đồng Xâm xứ, kiến lập thập nhị

1 Thần tích đền Đồng Xâm xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình, Phạm Đức

Duật dịch.

Page 389: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

465

phường kim hoàn truyền nghệ”. (Triều vua Chính Hoà thứ 10 (1689), tổ

phụ Nguyễn Kim Lâu làm nghề kim hoàn ở châu Bảo Long đến xứ Đồng Xâm lập 12 phường truyền nghề).

Hiện nay ngôi chùa thờ Nguyễn Kim Lâu vẫn được gìn giữ, tu bổ,

sửa sang lại. Chùa Đường cùng đền Đồng Xâm đã tạo nên một quần thể

kiến trúc vừa mang tính tráng lệ nguy nga vừa mang vẻ thâm u nơi linh địa.

Nơi đây, hàng năm cứ đến ngày 1 tháng 1 âm lịch lại diễn ra hội lễ sôi

động, thu hút hàng vạn khách thập phương.

Cho đến nay, người dân ở Hồng Thái cũng chưa lý giải được vì sao

hội đền Đồng Xâm lại mở vào ngày 1 tháng 4 hàng năm. Phải chăng hội

đền Đồng Xâm cũng nằm trong lịch hội phổ biến của các hội vùng, hội

làng khác: xuân- thu nhị kỳ. Nghiên cứu hành trạng của “Hoàng hậu

Phương Dung Trình Thị đại vương” người được đặt tượng thờ tại hậu

cung của đền, thì ngày 1 tháng 4 là sau 100 ngày mất của Bà (20 tháng

12). Rất có thể hội mở ra vào ngày này để tưởng nhớ đến người con gái họ

Trình của quê mình đã từng làm hoàng hậu của nhà Triệu, và nhờ đó mà

khu di tích này mới có điều kiện tu bổ, sửa chữa và được lưu giữ.

Xưa kia, hội đền Đồng Xâm kéo dài trong 3 ngày (từ ngày 1 tháng

4 đến ngày 3 tháng 4 âm lịch).

Để có hội tháng 4 thì ngay từ cuối tháng 3, các chức sắc trong xã

thôn đã họp bàn chọn người giữ chức mạnh bái, chức đọc văn và chức

thông xướng. Thường thường người giữ chức mạnh bái thuộc thôn Cả-

thôn Thượng Gia; người đọc văn của thôn Tả Phụ hoặc Hữu Bộc; các thôn

khác chọn người vào phụ tế. Cuộc họp bàn cũng dự kiến các tế viên và

đặc biệt bàn tổ chức thi bơi trải- hoạt động chủ yếu của lễ hội ở đây.

Ngày 26- 3 làng làm lễ mở cửa đền. Mọi việc chuẩn bị được kết

thúc bằng lễ tế mộc dục (lễ tắm tượng) do các vị mạnh bái, đọc văn, thông

xướng tiến hành tại đền chính vào ngày 30- 3.

Cũng như nhiều hội làng khác, hội đền Đồng Xâm được chia thành

hai phần lễ và hội rất rõ rệt cả về thời gian và địa điểm.

Sáng mùng 1 tháng 4: lễ rước Thánh Bà từ đền Thượng Hoà ra đền

chính được tổ chức thật uy nghiêm và độc đáo. Đoàn rước gồm toàn gái đồng trinh và là con cháu các vị chức sắc trong xã. Những người trong

đoàn rước ăn mặc đồng phục trang phục ngày hội, tay cầm chấp kích, bát

biểu, một số được chọn khiêng kiệu võng. Đối với hội lễ Đồng Xâm, lễ

rước Thánh Bà được coi là lễ trang nghiêm và trang trọng nhất.

Page 390: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

466

Sau khi đám rước đã về đến đền chính, trên sàn tế chính giữa đền,

lễ tế cũng được bắt đầu và cùng thời điểm này, tại các điểm: chùa Đường, chùa Tả Phụ, đền Thượng Hoà cũng diễn ra lễ tế thật uy nghiêm. Nhìn

chung các năm, lễ tế, rước được diễn ra vào sáng mùng 1 tháng 4 và kết

thúc vào chiều 3 tháng 4 bằng cuộc rước Thánh Bà từ đền chính về đền

Thượng Hoà, kết thúc ba ngày hội.

Khoảng thời gian còn lại: từ chiều mùng 1, ngày mùng 2 và sáng

mùng 3 tháng 4 dành cho hoạt động hội thật phong phú và sôi động, trong

đó cuộc đua trải trên sông Đồng Giang trước cửa đền đã thu hút hàng vạn

người đi hội.

Từ trước đến nay đua trải đã trở thành hoạt động chủ yếu trong

ngày hội ở Đồng Xâm. Bởi vậy ngay từ rất sớm, ban tổ chức đã lo chuẩn

bị cho cuộc đua này thật chu đáo. Ngay trong cuộc họp bàn của các vị

chức sắc vào ngày 20- 3 đã giành một thời gian khá dài bàn về cuộc đua

trải. Thông thường tổng Đồng Xâm có 7 trải: Thượng Gia, Tả Phụ, Hữu

Bộc, Thượng Hoà, Thuyền Định, Lãng Đông (Trà Giang); Đắc Chúng

(Quốc Tuấn).

Nếu trải nào không tham dự cuộc đua trong hội hàng năm thì ngay trong cuộc họp này phải báo cáo cụ thể, nếu không làng sẽ phạt lỗi và sau

3 năm mới được tham dự giải.

Ngày 23- 3, ngày mở cửa đền chính, cũng là ngày làng làm lễ hạ

trải. Lễ hạ trải thường là thủ lợn, mâm xôi (có năm một con gà và mâm

xôi). Lễ này do mạnh bái sắm và đặt ngay tại đầu trải để lễ Thánh và lễ

Hà Bá. (Ngoài ra trong mỗi ngày đua đều có lễ riêng). Sau lễ hạ trải người

ta tổ chức bơi tập để chọn và luyện giai bơi. Khi đã chọn đủ số giai bơi chuẩn bị cho cuộc đua, làng giao cho ông mạnh bái chọn trong số giai bơi

đó lấy người cầm lái, lo nuôi giai bơi ăn, ngủ tập trung từ 26-3 đến ngày

vào đua. Nguồn kinh phí này dựa vào thu sản phẩm trên ba mẫu ruộng hậu

của đền và các làng, các gia đình ủng hộ.

Ngoài việc lo tập luyện cho giai bơi, trong ba ngày 28, 29, 30

tháng 3 làng chọn ngày tổ chức bốc thăm bơi. Khác với các cuộc đua trải

ở các địa phương, ở Hồng Thái phải bốc hai loại thăm: thăm phân bảng và

thăm đường bơi. Trong 7 trải bơi phân bảng làm hai loại: loại 1 (4 trải) và loại 2 (3 trải) đồng thời bốc thăm đường bơi, (vì bơi trải ở Đồng Xâm có

điểm xuất phát lệch nhau). Thăm đường bơi cũng có hai loại: 2 trải chạy

(1 chạy thượng lưu và 1 chạy hạ lưu) và 2 trải đuổi (1 đuổi thượng lưu và

1 đuổi hạ lưu). Với cách đua này nên lúc nào trên sông cũng có trải đua.

Page 391: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

467

Sau thời gian tích cực chuẩn bị, hội đua trải ở Đồng Xâm được bắt

đầu vào chiều ngày 1-4. Ngay từ 11, 12 giờ trưa người đi hội đã nườm nượp đổ về đứng kín hai bên bờ sông Đồng Giang nối dài mấy cây số.

Trên toà lục lăng các quan chức đã có mặt đông đủ. Dưới sông, trên mỗi

trải các giai bơi mặc quần áo đồng phục với 7 trải là 7 màu quần áo khác

nhau nên rất dễ phân biệt. Trên mỗi chiếc trải gỗ dài 11 mét, rộng 1,1 mét

người xem thấy 6 cặp bơi tay cầm những chiếc dầm bơi dài 60cm, một

người đánh mõ, một người tát nước, tất cả gọn gàng trong trang phục: áo

ngắn tay đóng nẹp, quần đùi đóng nẹp có thắt lưng, đầu chít khăn màu và

ông lái- với áo dài the, quần trắng, đầu khăn xếp và đội nón dứa. Các trải đã trong tư thế sẵn sàng.

Sau ba hồi chuông, tiếng người dịch loa từ toà lục lăng dõng dạc:

“Giai bơi nghe cho lọt, rạp lưng xuống...” và sau một tiếng trống, gọn

cũng phát đi từ toà lục lăng, từ các điểm xuất phát các trải vun vút lao đi.

Trên hai bờ sông Đồng Giang cũng diễn ra “cuộc đua” của các cổ động

viên. Trên lối giành riêng cho cổ động viên, người xem thấy xuất hiện rất

nhiều người của các làng có trải dự đua, tay gõ chiêng, trống, lệnh, chạy

theo động viên trải của làng mình làm cho không khí cuộc đua càng sôi động trong không gian 1500 mét từ tiêu hạ (chùa Lãng Đông) đến tiêu

thượng (đền Thượng Hoà).

Sau ba vòng bơi, trải nào về nhất, nhì, ba được làng thưởng tiền và

đặc biệt trải nào giành giải nhất cả ba buổi đua được nhận thêm giải (ở

Đồng Xâm gọi là giải lèo). Giải thưởng cho đua trải thường bằng tiền,

ngoài ra còn có quà tặng của những người đi dự hội trao tận tay các giai

bơi.

Ngày mùng 3-3 trải nào thắng cuộc được làng tổ chức rước trải và

rước giải về làng mình rất linh đình.

Hội đền Đồng Xâm ngoài bơi trải còn có nhiều trò vui khác: múa

rối nước, đấu cờ người, tổ tôm điếm, đấu vật và đặc biệt là hát chèo, hát

ca trù. Có thể nói hội đền Đồng Xâm đã trở thành tụ điểm của những nghệ

nhân và những người ưa thích môn nghệ thuật này.

Xưa kia gần đền Đồng Xâm còn có một ngôi đền có tên là đền Ca

Công. Tại đây còn giữ lại một văn bản Hán nôm chép rằng: Khi xưa Triệu Vũ Đế đi tuần thú đến làng Đường Thâm (sau đổi là Đồng Xâm) lấy bà

Trình Thị phong làm hoàng hậu và lập hành cung ở đấy. Khi Bà mất, nhà

vua cho con cháu 36 thỏi vàng. Sau con cháu bán vàng lấy tiền mua 36

Page 392: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

468

mẫu ruộng làm tự điền. Đời sau con cháu Trình hoàng hậu chuyên giữ

việc ca công và cũng có nhiều đào kép hay nổi tiếng.

Ngày nay ở Đồng Xâm vẫn còn lưu truyền một bài ca trù có tên

Đồng Xâm chính từ phong cảnh ca. Bài ca không chỉ nói đến cảnh quan

cùng không khí ngày hội mà còn khẳng định đền Đồng Xâm như một

chứng tích lịch sử:

“ Đồng Giang địa thế.

Chốn hành cung thánh đế dựng ra...

... Xinh kính thay, buổi xuân rồi sáng hạ.

Gió hiu hiu hương xạ thoảng bay.

Gái thuyền quyên quạt ngọc đan tay

Trai tráng sĩ buổi này tranh giải nhất.

Trên bãi nhạn lệnh hồi cờ phất.

Dưới dòng quyên, thuyền dắt trải lên...”1

Xưa kia ở Đồng Xâm, khi ba ngày hội đã kết thúc, riêng hát chèo

và hát ca trù văn còn kéo dài hàng tuần và có năm kéo dài hàng tháng.

Điều này đã nói lên sự hâm mộ của nhân dân nơi đây với bộ môn nghệ

thuật truyền thống này.

Ngày nay, về dự hội đền Đồng Xâm, chúng ta không chỉ trở về

một vùng quê có nghề chạm bạc nổi tiếng, nơi có phong cảnh hữu tình

cùng công trình kiến trúc khá nổi tiếng của vùng Kiến Xương và của Thái

Bình; mà còn như được sống lại không khí của lễ hội cổ truyền./.

P.M.Đ - P.T.N – P.T.L

---------------------

Phụ bản: Nguyễn Thanh - Đào Hồng, khi quan tâm đến lễ hội này, có ít

nhiều chi tiết khác, xin được dẫn như sau (từ Tạp chí VHDG số 4/97 trang

34- 36): “...Cho đến nay, trong tâm thức của nhiều người, nghĩ đến hội

đền Đồng Xâm thường chỉ nghĩ đến nơi thờ Triệu Đà (Triệu Vũ Đế) mà

chưa hiểu hết rằng đền Đồng Xâm nằm trong một quần thể kiến trúc có

quy mô hoành tráng, rộng lớn trong đó có đền thờ Trình Thị hoàng hậu

(vợ vua Triệu Vũ Đế) gắn với một làng chèo, làng ca trù nổi tiếng và đền

1 “Đồng Xâm chính từ phong cảnh ca, Phạm Đức Duật sưu tầm và phiên dịch.

Page 393: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

469

thờ Nguyễn Kim Lâu (thế kỷ XV), vị tổ nghề chạm bạc cổ truyền và hệ

thống đền chùa nằm kề sông Vông gắn với tục đua thuyền trong ngày hội.

Nếu không kể đến ngôi chùa Lãng Đông (nay thuộc xã Trà Giang)

và hệ thống đền chùa thờ Trình Thị hoàng hậu nằm dọc theo trục uốn

vòng của đường đua thuyền thì khu trung tâm của cụm di tích đền Đồng

Xâm đã là một tổng thể kiến trúc đồ sộ với gần 1.000 mét vuông xây

dựng, gồm các công trình kiến trúc chính như:

1. Vọng lâu

2. Cầu xây gạch cuốn vòm bắc qua sông Vông.

3. Nhà Thuỷ tạ (tọa)

4. Hoành mã

5. Hệ thống tả vu- hữu vu

6. Sân tế

7. Toà tiền tế

8. Phương đình

9. Toà điện thờ

10. Hậu cung nơi Thánh Triệu Đà và Trình Thị hoàng hậu hậu ngự

11. Hệ thống chùa Kim Tiên

12. Nhà thờ Tổ sư nghề chạm bạc.

Cho đến nay vọng lâu và cây cầu gạch dẫn đường vào đền không

còn. Sự nguy nga bề thế của tổng thể kiến trúc này có thể tính từ nhà thuỷ

tạ độc đáo nằm trên mép nước sông Vông trước cửa di tích. Thuỷ tạ là

một ngôi nhà xây cao chất ngất hình lục lăng xây cuốn vòm gồm sáu cửa

vòm quay ra các hướng. Nhà thuỷ tạ nằm án ngữ ngay trên đường trục

thần đạo của đường vào di tích. Ngồi trên nhà thuỷ tạ, du khách có thể quan sát toàn cảnh những hoạt động trong sân tế và đường thuyền đua tấp

nập trên sông.

Kề sau thuỷ tạ là một dãy kiến trúc đắp vữa choán phía trước cửa

ngôi đền bao gồm hoành mã tạo dáng lưỡng long ngũ hổ xen với các chậu

hoa, cây cảnh và nhang án thờ được đắp vẽ bằng vữa. Đôi rồng khổng lồ

và năm con hổ dữ tợn được đắp vẽ công phu dường như để tượng trưng

cho quyền lực và sức mạnh của các bậc đế vương và tạo sự uy nghi, linh

thiêng của ngôi đền. Hai dãy tả vu cùng bốn toà vọng lâu xây gạch được đặt ở bốn góc của sân đền. Mặt bằng các công trình kiến trúc này được

xây cao so với mặt đất là 1,5m với nguyên liệu chủ yếu bằng đá vôi. Bốn

Page 394: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

470

toà vọng lâu kiến trúc theo lối chồng diêm cổ các, tầng dưới cuốn vòm

làm đường ra vào, hai tầng trên vươn cao tới 15 mét gợi cho khách trảy hội cảm giác như đang đứng dưới chân các toà thành thuở xưa. Những

mảng phù điêu đắp vữa hình đầu rồng, mặt hổ phù trừng trừng nhìn ra bốn

phía và hệ thống câu đối được kéo dài suốt theo chiều cao của vọng lâu

càng tăng thêm vẻ thâm nghiêm, cổ kính của ngôi đền.

Toà tiền tế của ngôi đền là một toà đại đình gồm năm gian rộng với

quy mô đồ sộ có chiều cao tới 13 mét và kiểu dáng kiến trúc bề thế, ít gặp

ở các di tích khác. Phần hiên của toà tiền tế đủ rộng để khách sắp lễ vào

đền hoặc ngủ lại vào ban đêm thoáng mát. Nội thất toà tiền tế là cả một nghệ thuật bài trí độc đáo. Vòm điện cao và rộng với hệ thống cột lim to

cao sừng sững chống đỡ hai tầng xà lim có kích thước 5m x 0,5m x 0,6m

gánh chịu sức nặng của mái đình. Hệ thống đại tự, cuốn thư có kích cỡ

cực lớn với 3,5m x 1,5m được chạm khắc gỗ công phu chữ chân có, chữ

triện, chữ thảo có. Dưới tầm cao của các đại tự, cuốn thư là hệ thống y

môn, cửa võng được chạm trổ tinh xảo hoàn mĩ với các đề tài tứ linh, tứ

quý đan xen với các mảng chạm cảnh long cuốn thuỷ, long quần, long vân

cùng hoa lá cách điệu nho sóc, chim trĩ- phù dung... phần chạm khắc gỗ của đền Đồng Xâm phong phú, đa dạng có thể xem là một trong những

tập đại thành thâu tóm các đề tài của nghệ thuật chạm khắc gỗ của Việt

Nam thời Nguyễn.

Phía hiên sau của toà tiền tế với hậu cung là toà điện trung tế được

kiến trúc theo kiểu phương đình mà mỗi cạnh bằng ba gian của toà tiền tế

khớp với các toà ống muống dẫn từ toà tiền tế đến hậu cung. Mặt bằng

xây dựng ở khu vực này được các nghệ nhân xử lý một cách cực kỳ tài hoa. Từ ba gian tiền tế được rút lại một gian chính giữa làm nền của toà

phương đình. Hai gian bên cạnh được bố trí nằm xen giữa hai gian ống

muống phía ngoài để xây thành giếng chứa nước mưa từ các mái đền đổ

xuống theo kiểu kiến trúc thức thiên tỉnh (giếng trời) trong kiến trúc đền,

chùa cổ của Việt Nam. ánh sáng trời chiếu vào làm cho cả khu vực này

sáng sủa , thông thoáng. Sự bài trí chậu hoa, cây cảnh với nhiều kiểu dáng

cầu kỳ như tạo được mối giao thoa giữa thiên- địa- nhân, gây cảm xúc

mới lạ trong lòng du khách khi họ bước tới hậu cung.

Toà hậu cung của đền được cấu trúc thành hai bộ phận liên hoàn là

toà điện năm gian nối với gian trung tâm là phần chuôi vồ được tôn cao

mặt bằng để đặt khám gian.

Phía hiên ngoài của toà hậu cung được bài trí hài hoà bằng những

đại tự cuốn thư, câu đối cùng hệ thống y môn gỗ chạm. Nhiều bài thơ, câu

Page 395: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

471

đối ở khu vực này còn lưu bút danh bái đề của những danh sĩ trong lịch sử

văn học Việt Nam như Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ, Tiến sĩ Doãn Khê, Phó bảng Vũ Tuân... Hệ thống cánh cửa khay soi chỉ kép ở ba gian

trung tâm của toà điện hậu cung được chạm thủng với đề tài bát bửu, hoa

văn, dây lá, chữ triện trên 12 ô cửa của hậu cung tạo cảm giác lâng lâng,

thoát tục cho du khách trước khi bước qua ngưỡng cửa vào đây.

Khám gian đặt tại hậu cung là một tác phẩm độc đáo mang nét đặc

thù của làng nghề chạm bạc, đồng, sắt. Khám gian được phong kín bằng

những lá đồng chạm thủng các đề tài tứ linh, tứ quý, lưỡng long chầu

nguyệt... ánh sáng của những ngọn nến chạm trổ toả ra một quầng sáng huyền ảo, linh thiêng buộc du khách phải tĩnh tâm ở chốn thâm cung tĩnh

mịch hoàn toàn trái ngược với cảnh nhộn nhịp, huyên náo phía ngoài

trong thời gian có hội. Trong khám thờ đặt tượng Triệu Vũ Đế và hoàng

hậu Trình Thị. Cả hai pho tượng đều được đúc bằng đồng khảm vàng,

thiếp bạc. Cỡ tượng to tương đương với người thật ở tư thế ngồi. Tượng

Triệu Vũ Đế dáng mặt người Hán to lớn đường bệ uy nghi. Tượng Trình

Thị mang dáng người phụ nữ Việt Nam thon thả với nét mặt đôn hậu,

nhân từ, phảng phất nét đoan trang, trinh thục của cô thôn nữ Việt Nam. Trong khám thờ còn bảo lưu được kiến trúc vàng, búa sắt, theo truyền

ngôn đó là bảo vật của Triệu Vũ Đế được lưu truyền (?).

Nằm trong tổng thể kiến trúc của đền Đồng Xâm là đền thờ hoàng

hậu Trình Thị, đền thờ tổ nghề chạm bạc Nguyễn Kim Lâu và chùa Kim

Liên có quy mô kiến trúc nhỏ hơn làm nền cho ngôi đền thêm nguy nga,

lộng lẫy.

Các tư liệu từ thần tích, sắc phong, câu đối đại tự kết với nguồn tư liệu từ truyền thuyết dân gian lưu truyền trong vùng cho thấy Triệu Vũ Đế

(207- 136 tr. CN) đi tuần thú đến làng Đường Thâm (sau đổi là Đồng

Xâm) thấy nàng Trình Thị nhan sắc, nết na, đàn giỏi, hát hay bèn lấy làm

vợ, phong làm hoàng hậu và cho lập hành cung ở đây. Họ Triệu ở làng

Đồng Xâm đến nay từng vẫn tự hào là một dòng họ có nhiều người hiển

đạt. Ngôi đền Đồng Xâm được xây dựng chính trên đất hành cung xưa.

Con cháu hoàng hậu Trình Thị chuyên phụ trách cầm ca chốn cung đình

và sau khi hoàng hậu mất thì dân làng có dựng một ngôi đền thờ những người ca công tại đây. Hàng năm khi làng vào hội thường tổ chức thi hát

chèo, hát ca trù. Dân làng Đồng Xâm vốn có truyền thống đàn giỏi, hát

hay, nhiều người đã trở thành những nghệ sĩ chèo có tiếng ở thời hiện đại.

Riêng ngôi đền thờ tổ sư nghề chạm bạc của làng thì thần tích, sắc

phong và tấm bia đá thời Lê có niên hiệu Thuận Thiên nhị niên (1429) (?)

Page 396: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

472

cho biết rằng: Nguyễn Kim Lâu người thôn Thượng Gia làng Đồng Xâm

sống vào thời thuộc Minh (1407- 1427) đã lưu lạc lên châu Bảo Lạc, tỉnh Tuyên Quang học được nghề kim hoàn. Khi trở về quê, ông truyền nghề

lập ra phường làm kim hoàn. Từ đó ở làng Đồng Xâm dân khang, vật

thịnh, dân làng lại toả đi làm nghề ở nhiều vùng trong nước và ở đâu cũng

thịnh đạt. Khi ông qua đời, dân làng lập đền thờ ông. Sản phẩm chạm bạc

của làng Đồng Xâm từ thời Pháp thuộc đến nay không chỉ nổi danh trong

nước mà còn được ngoài nước biết đến và ưa chuộng.

Từ xa xưa, lễ hội đền Đồng Xâm thường có nhiều lễ thức, nhiều

trò chơi, trò diễn, đua tài được tổ chức. Trong các nghi thức

rước tế ở hội thì lễ rước Thánh Bà được coi là một nghi lễ được dân làng

quan tâm vào bậc nhất. Sáng mồng một tháng tư (âm lịch) nghi lễ rước

Thánh Bà từ đền Thượng Hoà ra đền chính. Đoàn rước gồm toàn nữ đồng

trinh đẹp người, đẹp nết được dân làng bình chọn tham gia cầm đồ tế khí

và khiêng kiệu. Khi kiệu rước Thánh Bà đến sân tế ở đền Đồng Xâm thì

các nghi thức tế lễ ở các điểm phụ cận cũng bắt đầu. Hôm rã hội, nghi

thức tế lễ cũng kết thúc bằng việc rước Thánh Bà từ đền chính trở về đền

Thượng Hoà. Ngoài nghi thức lễ Thánh, các trò đua tài giải trí ở hội Đồng Xâm có sức cuốn hút đông đảo các du khách trảy hội như hát chèo, hát ca

trù, đấu roi, vật võ... và nổi bật nhất là trò đua trải”...

Page 397: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

474

Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân

Minh Nhương

ở xã Đồng Tháp huyện Đan Phượng có làng Đồng Vân (xóm

Đồng Lạc và xóm Vân sáp nhập) bên dòng sông Đáy. Nhân dân sinh sống

bằng cấy lúa, trồng màu và có đan lát rổ, rá. Làng có ngôi đình ẩn mình

dưới cây gạo cổ thụ, bên giếng nước trong xanh. Đình thờ ông Vãng Vị,

tương truyền có dáng người cao lớn, râu tóc bạc phơ và tấm lòng nhân

hậu. Vào một năm Mão ở đời Lê, nước sông lên to làm đê vỡ, nhân dân ra

sức cứu đê nhưng không được. May có ông Vãng Vị đi vãng cảnh qua

đây, thấy vậy ông liền nhảy xuống chặn đứng dòng nước chảy, cứu giúp

dân tình khỏi cảnh lầm than, lụt lội. Nhưng rồi ông cũng bị dòng nước

cuốn trôi luôn. Dân làng thương tiếc người anh hùng, bèn lập đền và

hương khói phụng thờ ông.

Hàng năm, cứ đến ngày rằm tháng giêng, làng Đồng Vân thường

mở hội rước nước, hát chèo và thổi cơm thi. Hội thổi cơm thi ở đây có nét

độc đáo về cách lấy lửa và đậm màu sắc hài hước của dân gian. Khác với

hội thổi cơm thi trên cạn ở Liên Hà, Liên Trung... Cũng không giống thổi

cơm thi trên thuyền của làng Hạ Mỗ và Hạ Hội...

Hội thổi cơm thi của làng Đồng Vân diễn ra như sau: Trên sân

đình người ta trồng sẵn 4 cây chuối hột cao 4m thẳng tắp như cột đình.

Phần ngọn chặt bỏ lá, cắm mỗi cây một nén hương thơm. Dưới chân để 4

cối đá, 4 rá thóc và 4 mảnh tre già. Người dự thi được tuyển chọn từ các

xóm trong làng. Xóm Đình, xóm Trại, xóm Quán và xóm Miếu, mỗi xóm

thành một đội dự thi gồm 5 người nam thanh, nữ tú tuổi từ 18 đến 30. Mỗi

đội có thêm một anh hề đánh trống khẩu thúc giục. Trang phục cũng mỗi

đội một màu sắc khác nhau. Làng cử ra ban giám khảo gồm 9 vị là người

trong ban khánh tiết và khách đến dự hội, để việc chấm thi được công

minh. Bắt đầu vào hội thi, trống chiêng điểm 3 hồi, các đội hình dự thi

xếp hàng trang nghiêm thành kính làm lễ dâng hương trước cửa đình để

tưởng nhớ vị thần thành hoàng làng có công cứu dân, hộ quốc. Hội thi bắt

đầu từ việc lấy lửa từ trên ngọn cây chuối cao. Khi ba tiếng trống hiệu vừa

dứt, bốn thanh niên của bốn đội nhanh thoăn thoắt leo lên thân cây chuối

rất trơn vì đã bôi mỡ. Có người leo lên, tụt xuống, lại leo lên... Có người

Page 398: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

475

phải bỏ cuộc, người khác lại leo lên, quang cảnh hết sức vui nhộn. Khi lấy

được nén hương mang xuống, ban tổ chức phát cho 3 que diêm châm vào

hương cháy thành ngọn lửa. Người trong đội vót mảnh tre già thành

những đũa bông châm lửa đốt vào những ngọn đuốc. Trong khi đó, người

trong nhóm dự thi nhanh tay giã thóc, dần sàng thành gạo, lấy nước và bắt

đầu thổi cơm. Những nồi cơm nho nhỏ treo lơ lửng dưới cần cong hình

cánh cung được cắm khéo léo từ dây lưng uốn về trước mặt. Tay cầm cần,

tay cầm đuốc đung đưa cho ánh lửa bập bùng. Các đội thổi cơm đan xen

nhau uốn lượn trên sân đình trong sự cổ vũ nồng nhiệt của người xem hội.

Những chú hề lém lỉnh luôn thúc trống khẩu liên hồi bên tai người thổi

cơm. Nghe nói có năm hội thi còn thêm tiết mục tranh nhau mặc quần áo.

Ban tổ chức sẵn một đống quần áo, cả váy áo phụ nữ lẫn lộn ở giữa sân

đình. Người dự thi nghe hiệu lệnh chạy đến tranh nhau nhận quần áo,

khăn mũ, giày dép... Ai nhặt được gì phải dùng thứ ấy. Nên có cảnh đàn

ông mặc phải váy áo của đàn bà, và ngược lại, gây nên những trận cười

"chảy nước mắt". Tạo không khí hài hước sôi động trước lúc vào thi thổi

cơm.

Khoảng sau một giờ rưỡi, những nồi cơm lần lượt được đem trình

trước cửa sân đình. Ban giám khảo mở nồi cơm chấm theo ba tiêu chuẩn:

Gạo trắng, cơm dẻo và không có cơm cháy. Các nồi cơm được đánh số

ứng với người dự thi, để giữ bí mật với ban giám khảo. Hội cơm thi ở

Đồng Vân là sinh hoạt văn hóa cổ truyền được bắt nguồn từ các cuộc trẩy

quân đánh giặc của người Việt cổ bên dòng sông Đáy xưa. Phương tiện

của hội là sản vật "cây nhà, lá vườn". Những cây chuối, hạt gạo từ vườn

ruộng, những mảnh tre, bó đuốc, đan lát của làng nghề truyền thống. Hội

thi là dịp đua tài của trai tráng trong làng về sức khoẻ, thông minh khi lấy

lửa. Là dịp thể hiện bàn tay khéo léo của gái làng để có gạo trắng, cơm

dẻo tiếp tế binh lương. Hội còn vang lên những trận cười hồn nhiên, sảng

khoái của người nông dân sau những ngày lao động mệt nhọc. Hội tỏ lòng

biết ơn vị thần từ thuở hồng hoang mở nước. Hội giữ gìn nét văn hóa dân

gian đặc sắc tiềm ẩn ở mỗi làng quê hôm nay./.

M.N

Page 399: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

477

Hội làng Động Phí

Nguyễn Hữu Thức

Làng Động Phí thuộc xã Phương Tú, huyện ứng Hòa (Hà Tây).

Trước năm 1945, Động Phí là tên gọi một xã gồm ba thôn Động Phí,

Nguyễn Xá, Ngọc Động thuộc tổng Đạo Tú huyện ứng Hòa. Nay các

thôn trên thuộc xã Phương Tú.

Lễ hội làng Động Phí là một lễ hội lớn trong vùng với sự tham gia

của hai thôn Nguyễn Xá và Ngọc Động. Việc kết nghĩa ba thôn cùng tổ

chức lễ hội xuất phát từ cội nguồn lịch sử như sau: Truyền rằng, ở vùng Hoan châu có gia đình tộc trưởng Bạch Lân, vợ là Nghiêm Thị sống phúc

đức, dân trong vùng ai cũng kính trọng. Hiềm nỗi vợ chồng muộn đường

con cái. 49 tuổi bà Nghiêm Thị mới mang thai và sinh nhất bào thai hai

người con trai. Người anh đặt tên là Bạch Tượng, người em là Bạch Địa.

Lớn lên hai anh em tướng mạo uy nghi, thân thể cường tráng thông minh

hơn người.

Bấy giờ, sau khi Ngô Quyền mất, đất nước lâm vào cảnh 12 sứ

quân cát cứ. Hai em Bạch Tượng và con bà dì là Đô Đài bèn đi kinh lý

khắp miền đất nước tìm anh tài mưu việc lớn.

Họ đến huyện Sơn Minh (một phần đất của huyện ứng Hòa xưa),

phủ ứng Thiên dừng ở đó tụ tập dân chúng lập nên trang Nguyễn Xá về

sau phát triển lập tiếp trang Động Phí, Ngọc Động, gọi là Tam Khu, lấy khu đất Động Phí làm trung tâm.

Lúc này, ở động Hoa Lư sứ quân Đinh Bộ Lĩnh tài giỏi sáng suốt

hơn nguời nghe tin ở phủ ứng Thiên có ba anh em Bạch Tượng thanh thế

nổi tiếng trong vùng, bèn sai công thần Nguyễn Bặc, Đinh Điền triệu về

triều giao chức tước, thống lĩnh quân thủy bộ đi dẹp hai sứ quân cát cứ ở

vùng Sơn Tây. Dẹp xong loạn 12 sứ quân, thống nhất non sông về một

mối, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế ban thưởng công lao cho các tướng

lĩnh. Hai anh em Bạch Tượng cùng Đô Đài được Đinh Tiên Hoàng đế cho ăn thực ấp ở xã Động Phí và cai quản vùng từ Sơn Tây đến miền

Đông Hải.

Sau ngày các ông mất dân khu Động Phí lập miếu thờ anh cả Bạch

Tượng, dân khu Ngọc Động thờ Bạch Địa còn dân khu Nguyễn Xá thờ

Đô Đài. Lệ tục quy định ba thôn cộng đồng tổ chức lễ hội luân phiên ở

Page 400: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

478

từng thôn, vì vậy hội làng Động Phí ba năm mới mở đại hội. Do Động

Phí thờ anh cả làm Thành hoàng làng, lại là khu đất trung tâm của hàng xã nên thường lễ hội ở làng Động Phí to hơn hai thôn Nguyễn Xá và

Ngọc Động.

Chính hội làng Động Phí tổ chức vào ngày 4 tháng giêng, tương

truyền là ngày huynh công Bạch Tượng xuất trận dẹp loạn. Tuy nhiên,

hội làng được tổ chức tưng bừng từ chiều mồng 3 tết. Hôm đó làng tổ

chức nghiềm quân, biểu dương lực lượng tham gia rước Thành hoàng.

Tất cả quân rước tụ tập đông đủ ở sân trước nhà đại bái của đình Động

Phí, dưới sự chỉ huy của ban khánh tiết, đoàn rước theo trình tự lần lượt rước kiệu Thành hoàng từ đình ra đầu làng, xuống cuối làng.

Đội hình nghiềm quân có đội cờ, đội rước bát bửu, đội nhạc bát âm,

đội múa sênh tiền 12-16 em gái, đội trống nữ, đội múa rồng phù giá kiệu.

Đáng chú ý hội rước làng Động Phí có bốn cỗ kiệu:

1. Kiệu tam tự (1 đỉnh đồng và 2 cây nến bằng đồng).

2. Kiệu ngũ sự (1đỉnh, 2 cây nến bằng đồng và 2 lọ lộc bình).

3. Kiệu long đình đặt long ngai bài vị đức bản thổ.

4. Kiệu bát cống, 16 người khiêng trên kiệu đặt long ngai bài vị

huynh công Bạch Tượng đại vương.

Rước kiệu Thánh một vòng quanh làng thì hồi giá

trở lại đình, xếp các cỗ kiệu trước cửa nhà đại bái. Buổi tối các cụ tổ

chức tế Thành hoàng. Việc tế rất nghiêm cẩn. Tục xưa đến nay làng

Động Phí nhất thiết phải sửa một cỗ chay dâng lễ nhà Thánh.

Mâm cỗ chay gồm: 3 bát cơm, 3 bát chè, 3 bát canh đậu và 6 đĩa

(đĩa cùi dừa, đĩa lạc, đĩa bí, đĩa vừng, đĩa giá đậu, đĩa đậu ván) cũng gọi là lục cúng.

Sáng mồng 4 tết là ngày chính hội, dân làng Động Phí tề tựu

nghênh đón hai đoàn rước của làng Nguyễn Xá từ trên xuống, của làng

Ngọc Động từ dưới lên. Theo quy định nếu đám rước của làng Nguyễn

Xá đến trước thì phải dừng trước nghi môn đợi đám rước làng Ngọc

Động tới và nhường kiệu Thánh Ngọc Động vào trước vì Thành hoàng

Ngọc Động là Tượng Địa đại vương thuộc thứ bậc hàng trên của Thành

hoàng làng Nguyễn Xá là Đô Đài đại vương.

Lúc này là thời điểm tưng bừng nhất của hội làng Động Phí. Cuộc

hội nhập đám rước của ba làng nghênh đón tiếp nhau. Các đội múa sư tử

tự do trình diễn, tiếng trống hội náo nhiệt phá vỡ trật tự nghiêm chỉnh

Page 401: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

479

của đám rước kiệu, nhiều khi có cả kiệu quay, kiệu bay. Cờ xí bát bửu

rợp trời. Múa sênh tiền, múa trống... bộc lộ tài năng đa dạng.

Sau những màn trình diễn ngoạn mục các trò dân gian, các cỗ kiệu

Thánh được đón rước qua nghi môn vào đặt ngay ngắn ở trước cửa đình.

Bấy giờ các cụ ba thôn cùng vào thực hiện các nghi lễ tế cộng đồng.

Cuộc tế kéo dài nhiều tuần. Buổi trưa dân làng tổ chức ăn chay kết nghĩa

với nhau. Cuối buổi chiều dân làng Nguyễn Xá và Ngọc Động rước kiệu

về. Các thôn tiếp tục nghi lễ tế đêm hôm đó tại đình làng mình.

Hội làng Động Phí thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn,

tưởng niệm các vị anh hùng có công với đất nước, thắt chặt tình nghĩa giữa các thôn cùng chung một tín ngưỡng, từ đó tăng cường sự đoàn kết

giúp đỡ nhau trong cuộc sống và góp phần bảo lưu những giá trị văn hóa

đặc sắc ở địa phương.

* *

*

Cũng tại làng Động Phí, trước năm 1945, đã từng diễn ra một lễ hội

đảo vũ có diễn trò cướp cầu nổi tiếng ở phủ ứng Thiên xưa.

Thời điểm tổ chức đảo vũ - cướp cầu vào tháng ba tháng tư âm lịch.

Hễ năm nào nắng nóng khô hạn sang đến tháng ba mà trời vẫn không có

mưa thì bô lão sáu xã, thôn (Hậu Xá, Văn Nâu, Động Phí, Dương Khê,

Ngọc Động, Nguyễn Xá) quyết định tổ chức đảo vũ, cắt cử dân các thôn

chuẩn bị công việc cho ngày hội lễ. Trừ Văn Ông thuộc xá Tảo Dương

Văn còn lại 5 thôn kia thuộc xã Phương Tú.

Cả 6 thôn trên cùng tụ tập theo đám rước các cỗ kiệu Thánh của

làng Động Phí và Ngọc Động về miếu Cò, còn gọi là quán Cò có xây bàn

thờ lộ thiên bằng gạch, là nơi hai anh em Bạch Tượng, Bạch Địa và

người em con dì Đô Đài, thời loạn 12 sứ quân, từ đất Hoan châu tìm đến

vùng đất ứng Hòa, đã dừng chân ở đó để chia dân đi mở đất ở 3 khu

Nguyễn Xá, Động Phí, Ngọc Động. Kiệu Thánh của các thôn được bầy

hàng trước cửa quán Cò, bô lão các thôn vào “công đồng” cầu mưa. Sau

một tuần lễ thì mỗi thôn cử hai cụ ra vật lão, còn gọi là vật thờ chầu

Thánh ở quán Cò. Đến buổi chiều cùng ngày 6 thôn rước kiệu về đình

Đụn thôn Động Phí.

Đình Đụn là đình của lục thôn, kiến trúc 15 gian bổ dọc thành hình

chữ nhất, cửa đình trông về hướng mặt trời lặn. Hàng bô lão tế đảo vũ ở

cửa đình Đụn còn dân 6 thôn tổ chức cướp cầu ở ngoại đình.

Page 402: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

480

Bãi cướp cầu chia thành hai khu lấy cổng nghi môn của đình làm

ranh giới; sân trong (khoảng đất bên trong cổng đình) và sân ngoài

(khoảng đất bên ngoài cổng đình). Sân trong (hướng đông) dân làng đào

một hố đất sâu 0,80 m, đường kính mặt hố 0,60m còn sân ngoài (hướng

tây) đào một hố và chính giữa cổng nghi môn Đụn đào một hố kích cỡ

tương tự sân trong. 3 hố này thẳng hàng nhau và hai hố bên cách đều

nhau so với hố giữa.

Quả cầu bôi phẩm đỏ, đường kính khoảng 0,40m. Trước ngày cướp

cầu dân thôn cử người đến làng Phùng Xá, huyện Mỹ Đức tìm cây chuối

hột có củ to nhất thì đào lấy củ đẽo tròn mang về. Tục truyền cư dân ở đó

thấy người đi tìm củ chuối làm cầu thì nhà nào cũng săn đón dẫn người

đào vào vườn chuối nhà mình. Củ chuối nhà nào được chọn làm cầu thì

chủ hộ rất mừng tâm niệm trong năm làm ăn may mắn.

Hai người khiêng quả cầu về nhà phải qua sông Đáy. Các đò ngang,

đò dọc ở bến sông đều muốn chở người đi đào cầu và quả cầu qua sông.

Dân kiêng không đi chung đò chở cầu sợ không may.

Quân tham gia cướp cầu ở 6 thôn không hạn chế, miễn là dân đinh

khỏe mạnh, chia ra như sau:

- Quân thôn Động Phí gọi là quân chạy gậy, quân bản từ, mặc quần

áo lương dài, thắt lưng đỏ, đầu chít khăn đỏ.

- Quân cướp cầu cởi trần đóng khố. Quân thôn Hậu Xá, Văn Ông

gọi là quân tổng thượng tụ tập ở sân trong và quân các thôn Dương Khê,

Ngọc Đường, Nguyễn Xá gọi là quân tổng hạ tụ tập ở sân ngoài.

Trò cướp cầu diễn biến như sau: Trước tiên mỗi bên tổng thượng

và tổng hạ cử một người đến trước cửa đình Đụn vật thờ trước nhà

Thánh. Nếu bên nào thắng thì bên ấy cướp quả cầu đưa ra sân ngoài bỏ

cầu vào hố bên tây, bên nào thua thì phải cướp cầu đưa vào sân trong bỏ

vào hố bên đông.

Tổng thượng cử một cụ già mặc quần áo đỏ, quấn khăn lưng đỏ,

chít khăn đầu đỏ, tay cầm cờ đỏ có nhiệm vụ phất ngọn cờ về phía hố

quân mình phải đem quả cầu đến bỏ. Tổng hạ cũng như vậy, chỉ khác cụ

già cầm cờ xanh phất về phía hố quân mình phải bỏ cầu. Đứng cạnh hai

cụ là người đánh trống khẩu, người đánh kẻng bằng đồng làm hiệu lệnh

thúc giục quân cướp cầu.

Khi có hiệu lệnh của chủ đám, quân chạy gậy chạy ra hố giữa ở

nghi môn, tay cầm gậy bẩy quả cầu lên thả lăn trên mặt đất và rút gậy

Page 403: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

481

chạy ra ngoài dẹp đám vòng quanh sân bãi. Liền đó, quân hai bên xô tới,

cứ theo hiệu lệnh trống, kẻng và hướng cờ chỉ giằng cướp bằng được quả

cầu về phía đã được làng chỉ định. Cuộc giằng cướp cầu quyết liệt, có keo

quân hai bên tranh cướp cầu vài ba giờ đồng hồ mới đưa được cầu vào hố

của bên mình. Mỗi ngày quân tổng thượng và tổng hạ phải tranh cướp cầu

ba keo. Bên nào hai lần cướp được cầu bỏ vào hố trong ngày là thắng

cuộc. Trò cướp cầu diễn ra ba ngày liên tiếp, cả thảy là 9 keo.

Cướp cầu diễn ra rất sôi động trong tiếng trống, tiếng kẻng thúc

giục. Quân hai bên ham cướp cầu không e ngại gì sự va chạm. Người ta

bảo rằng nếu có sự va chạm xây xát da thịt thì chỉ cần lấy đất bùn ở hố

giữa xoa vào là ắt sẽ mau lành.

Ngày thứ ba sau khi cướp cầu đủ 9 keo thì đại diện ban khánh tiết

lục thôn công bố bên thua, bên được. Quân bên được reo mừng còn dân

hàng tổng thì tin rằng mặt trời đã bị đánh động nên không gây nắng nóng

khô hạn với con người nữa mà trời sẽ mang nước

đến tưới cho đồng ruộng để dân cày cấy.

Công bố thua được xong, quân cướp cầu về sân riêng của tổng còn

quân chạy gậy mang quả cầu từ hố lên mặt đất lăn cầu đi vòng quanh bãi, gọi là dắt cầu đi chơi. Quân chạy gậy tinh nghịch lăn quả cầu vào đám

đàn bà, con gái đi xem hội tạo ra những trận cười vui sảng khoái. Sau vài

vòng dắt cầu đi chơi, quân chạy gậy dắt cầu thả xuống giếng làng Động

Phí. Cầu củ chuối nổi trên mặt nước đợi khi nào trời mưa to thì vớt lên

bỏ đi.

Ngoài sân tổ chức cướp cầu, ấn định 3 ngày, còn trước cửa đình các

cụ lục thôn tế cầu đảo vũ, tế đến khi nào trời đất thay đổi có mưa mới thôi.

Nếu trường hợp mới cướp cầu được một ngày mà trời đã đổ mưa

thì dân lục thôn tâm niệm thành hoàng làng Động Phí thiêng phù trợ cho

dân toại ý nguyện nên dân thôn phải tế tạ Thánh vài ngày.

Ngày nay, không còn nghi lễ tế đảo vũ và cướp cầu, nhưng ký ức

về trò cướp cầu vẫn in đậm trong tâm trí các cụ ở làng Động Phí. Dân

làng đang có kế hoạch gây dựng lại trò vật lão, cướp cầu, coi đó là sinh

hoạt văn hóa độc đáo của địa phương, phục vụ cho ngày lễ hội tam thôn 3 năm tổ chức một lần vào ngày mồng 4 tết ở làng Động Phí./.

N.H.T

Page 404: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

482

Làng Động Phí thuộc xã Phương Tú, huyện ứng Hòa (Hà Tây). Trước năm 1945, Động Phí là tên gọi

một xã gồm ba thôn Động Phí, Nguyễn Xá, Ngọc Động thuộc tổng Đạo Tú huyện ứng Hòa. Nay các thôn trên

thuộc xã Phương Tú.

Lễ hội làng Động Phí là một lễ hội lớn trong vùng với sự tham gia của hai thôn Nguyễn Xá và Ngọc

Động. Việc kết nghĩa ba thôn cùng tổ chức lễ hội xuất phát từ cội nguồn lịch sử như sau: Truyền rằng, ở vùng

Hoan châu có gia đình tộc trưởng Bạch Lân, vợ là Nghiêm Thị sống phúc đức, dân trong vùng ai cũng kính trọng.

Hiềm nỗi vợ chồng muộn đường con cái. 49 tuổi bà Nghiêm Thị mới mang thai và sinh nhất bào thai hai người

con trai. Người anh đặt tên là Bạch Tượng, người em là Bạch Điện. Lớn lên hai anh em tướng mạo uy nghi, thân

thể cường tráng thông minh hơn người.

Bấy giờ, sau khi Ngô Quyền mất, đất nước lâm vào cảnh 12 sứ quân cát cứ. Hai em Bạch Tượng và con

bà dì là Đô Đà bèn đi kinh lý khắp miền đất nước tìm anh tài mưu việc lớn.

Họ đến huyện Sơn Minh (một phần đất của huyện ứng Hòa xưa), phủ ứng Thiên dừng ở đó tụ tập dân

chúng lập nên trang Nguyễn Xá về sau phát triển lập tiếp trang Động Phí, Ngọc Động, gọi là Tam Khu, lấy khu đất

Động Phí làm trung tâm.

Lúc này, ở động Hoa Lư sứ quân Đinh Bộ Lĩnh tài giỏi sáng suốt hơn nguời nghe tin ở phủ ứng Thiên

có ba anh em Bạch Tượng thanh thế nổi tiếng trong vùng sai công thần Nguyễn Bặc, Đinh Điền về triều giao chức

tước, thống lĩnh quân Đinh thủy bộ đi dẹp hai sứ quân cát cứ ở vùng Sơn Tây. Dẹp xong loạn 12 sứ quân, thống

nhất non sông về một mối, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế ban thưởng công lao cho các tướng lĩnh. Hai anh em

Bạch Tượng cùng Đô Đài được Đinh Tiên Hoàng đế cho ăn thực ấp ở xã Động Phí và ai quản ở vùng từ Sơn Tây

đến miền Đông Hải.

Sau ngày các ông mất dân khu Động Phí lập miếu thờ anh cả Bạch Tượng, dân khu Ngọc Động thờ

Bạch Địa còn dân khu Nguyễn Xá thờ Đô Đài. Lệ tục quy định ba thôn cộng đồng tổ chức lễ hội luân phiên ở từng

thôn vì vậy hội làng Động Phí ba năm mới mở đại hội. Do Động Phí thờ anh cả làm Thành hoàng lại là khu đất

trung tâm của hàng xã nên thường lễ hội ở làng Động Phí to hơn hai thôn Nguyễn Xá và Ngọc Động.

Chính hội làng Động Phí tổ chức vào ngày 4 tháng giêng, tương truyền là ngày huynh công Bạch

Tượng xuất trận dẹp loạn. Tuy nhiên, hội làng được tổ chức tưng bừng từ chiều mồng 3 tết. Hôm đó làng tổ chức

nghiềm quân, biểu dương lực lượng tham gia rước Thành hoàng. Tất cả quân rước tụ tập đông đủ sân trước nhà đại

bái của đình Động Phí dưới sự chỉ huy của ban khánh tiết đoàn rước theo trình tự lần lượt rước kiệu Thành hoàng

từ đình ra đầu làng, xuống cuối làng.

Đội hình nghiềm quân có đội cờ, đội rước bát bửu, đội nhạc bát âm, đội múa sênh tiền 12-16 em gái,

đội trống nữ, đội múa rồng phù giá kiệu. Đáng chú ý hội rước làng Động Phí có bốn cỗ kiệu:

1. Kiệu tam tự (1 đỉnh đồng và 2 cây nến bằng đồng).

2. Kiệu ngũ sự (1đỉnh, 2 cây nến bằng đồng và 2 lọ lộc bình).

3. Kiệu long đình đặt long ngai bài vị Đức bản thổ.

4. Kiệu bát cống, 16 người khiêng trên kiệu đặt long ngai bài vị huynh công Bạch Tượng đại vương.

Rước kiệu Thánh một vòng quanh làng thì hồi giá trở lại đình xếp các cỗ kiệu trước cửa nhà đại bái.

Buổi tối các cụ tổ chức tế Thành hoàng. Việc tế rất nghiêm cẩn. Tục xưa đến nay làng Động Phí nhất thiết phải sửa

một cỗ chay dâng lễ nhà Thánh.

Mâm cỗ chay gồm: 3 bát cơm, 3 bát chè, 3 bát canh đậu và 6 đĩa (đĩa cùi dừa, đĩa lạc, đĩa bí, đĩa vừng,

đĩa giá đậu, đĩa đậu ván) gọi là lục cúng.

Page 405: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

483

Sáng mồng 4 tết là ngày chính hội, dân làng Động Phí tề tựu nghênh đón hai đoàn rước của làng

Nguyễn Xá từ trên xuống, của làng Ngọc Động từ dưới lên. Theo quy định nếu đám rước của làng Nguyễn Xá đến

trước thì phải dừng trước cửa tam quan đợi đám rước làng Ngọc Động tới và nhường kiệu Thánh Ngọc Động vào

trước vì Thành hoàng Ngọc Động là Tượng Địa đại vương thuộc thứ bậc hàng trên của Thành hoàng làng Nguyễn

Xá là Đô Đài đại vương.

Lúc này là thời điểm tưng bừng nhất của hội làng Động Phí. Cuộc hội nhập đám rước của ba làng

nghênh đón tiếp nhau. Các đội múa sư tử tự do trình diễn, tiếng trống hội náo nhiệt phá vỡ trật tự nghiêm chỉnh

của đám rước kiệu thay thế vào đó là những biểu diễn kiệu quay, kiệu bay. Cờ xí bát bửu rợp trời. Múa sênh tiền,

múa trống bộc lộ tài năng...

Sau những màn trình diễn ngoạn mục các trò diễn dân gian, các cỗ kiệu Thánh được đón rước qua cửa

tam quan vào đặt ngày ngắn ở trước cửa đình. Bấy giờ các cụ ba thôn cùng vào thực hiện các nghi lễ tế cộng đồng.

Cuộc tế kéo dài nhiều tuần. Buổi trưa dân làng tổ chức ăn chay kết nghĩa với nhau. Cuối buổi chiều dân làng

Nguyễn Xá và Ngọc Động rước kiệu về đình làng. Các thôn tiếp tục nghi lễ tế đêm hôm đó tại đình làng mình.

Hội làng Động Phí thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn, tưởng niệm các vị anh hùng có công

với đất nước, thắt chặt tình nghĩa giữa các thôn cùng chung một tín ngưỡng, từ đó tăng cường sự đoàn kết giúp đỡ

nhau trong cuộc sống và góp phần bảo lưu những giá trị văn hóa đặc sắc ở địa phương.

* *

*

Cũng tại làng Động Phí, trước năm 1945, đã từng diễn ra một lễ hội đảo vũ có diễn trò cướp cầu nổi

tiếng ở phủ ứng Thiên xưa.

Thời điểm tổ chức đảo vũ - cướp cầu vào tháng ba tháng tư âm lịch. Hễ năm nào nắng nóng khô hạn

sang đến tháng ba mà trời vẫn không có mưa thì bô lão sáu xã, thôn (Hậu Xá, Văn Nâu, Động Phí, Dương Khê,

Ngọc Động, Nguyễn Xá) quyết định tổ chức đảo vũ cắt cử dân các thôn chuẩn bị công việc cho ngày hội lễ. Trừ

Văn Ông thuộc xá Tảo Dương Văn còn lại 5 thôn kia thuộc xã Phương Tú.

Cả 6 thôn trên cùng tụ tập theo đám rước các cỗ kiệu Thánh của làng Động Phí và Ngọc Động về miếu

Cò, còn gọi là quán Cò có xây bàn thờ lộ thiên bằng gạch, là nơi hai anh em Bạch Tượng, Bạch Địa và người em

con dì Đô Đài thời loạn 12 xứ quân từ đất Hoan châu tìm đến vùng đất ứng Hòa đã dừng chân ở đó để chia dân đi

mở đất ở 3 khu Nguyễn Xá, Động Phí, Ngọc Động. Kiệu Thánh của các thôn được bầy hàng trước cửa quán Cò,

bô lão các thôn vào cộng đồng cầu mưa. Sau một tuần lễ thì mỗi thôn cử hai cụ ra vật lão, còn gọi là vật thờ chầu

Thánh ở quán Cò. Đến buổi chiều cùng ngày 6 thôn rước kiệu về đình Đụn thôn Động Phí.

Đình Đụn là đình của lục thôn, kiến trúc 15 gian bổ dọc thành hình chữ nhất, cửa đình trông về hướng

mặt trời lặn. Hàng bô lão tế đảo vũ ở cửa đình Đụn còn dân 6 thôn tổ chức cướp cầu ở ngoại đình.

Bãi cướp cầu phân thành hai khu lấy cổng tam quan của đình làm gianh giới; sân trong (khoảng đất bên

trong cống đình) và sân ngoài (khoảng đất bên ngoài cổng đình). Sân trong (hướng đông) dân làng đào một hố đất

sâu 0,80 m, đường kính mặt hố 0,60m còn sân ngoài (hướng tây) đào một hố và chính giữa cổng tam quan đình

Đụn đào một hố kích cỡ tương tự sân trong. 3 hố này thẳng hàng nhau và hai hố bên cách đều nhau so với hố giữa.

Quả cầu bôi phẩm đỏ, đường kính khoảng 0,40m. Trước ngày cướp cầu dân thôn cử người đến làng

Phùng Xá, huyện Mỹ Đức tìm cây chuối hột có củ to nhất thì đào lấy củ đẽo tròn mang về. Tục truyền cư dân ở đó

thấy người đi tìm củ chuối làm cầu thì nhà nào cũng săn đón dẫn người đào vào vườn chuối nhà mình. Củ chuối

nhà nào được chọn làm cầu thì chủ hộ rất mừng tâm niệm trong năm làm ăn may mắn.

Hai người khiêng quả cầu về nhà phải qua sông Đáy. Các đò ngang, đò dọc ở bến sông đều muốn chở

người đi đào cầu và quả cầu qua sông. Dân kiêng không đi chung đò chở cầu sợ không may.

Quân tham gia cướp cầu ở 6 thôn không hạn chế, miễn là dân đinh khỏe mạnh, chia ra như sau:

- Quân thôn Động Phí gọi là quân chạy gậy, quân bản từ, mặc quần áo lương dài, thắt lưng đỏ, đầu chít

khăn đỏ.

- Quân cướp cầu cởi trần đóng khố. Quân thôn Hậu Xá, Văn Ông gọi là quân tổng thượng tụ tập ở sân

trong và quân các thôn Dương Khê, Ngọc Đường, Nguyễn Xá gọi là quân tổng hạ tụ tập ở sân ngoài.

Trò cướp cầu diễn biến như sau: Trước tiên mỗi bên tổng thượng và tổng hạ cử một người đến trước

cửa đình Đụn vật thờ trước nhà Thánh. Nếu bên nào thắng thì bên ấy cướp quả cầu đưa ra sân ngoài bỏ cầu vào hố

bên tây, bên nào thua thì phải cướp cầu đưa vào sân trong bỏ vào hố bên đông.

Page 406: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

484

Tổng thượng cử một cụ già mặc quần áo đỏ, quấn khăn lưng đỏ, chít khăn đầu đỏ, tay cầm cờ đỏ có

nhiệm vụ phất ngọn cờ về phía hố quân mình phải đem quả cầu đến bỏ. Tổng hạ cũng như vậy, chỉ khác cụ gìa

cầm cờ xanh phất về phía hố quân mình phải bỏ cầu. Đứng cạnh hai cụ là người đánh trống khẩu, người đánh kẻng

bằng đồng làm hiệu lệnh thúc giục quân cướp cầu.

Khi có hiệu lệnh của chủ đám, quân chạy gậy chạy ra hố giữa ở tam quan, tay cầm gậy bẩy quả cầu lên

thả lăn trên mặt đất và rút gậy chạy ra ngoài dẹp đám vòng quanh sân bãi. Liền đó, quân hai bên xô tới, cứ theo

hiệu lệnh trống, kẻng và hướng cờ chỉ giằng cướp bằng được quả cầu về phía đã được làng chỉ định. Cuộc giằng

cướp cầu quyết liệt, có keo quân hai bên tranh cướp cầu vài ba giờ đồng hồ mới đưa được cầu vào hố của bên

mình. Mỗi ngày quân tổng thượng và tổng hạ phải tranh cướp cầu ba keo. Bên nào hai lần cướp được cầu bỏ vào

hố trong ngày là thắng cuộc. Trò cướp cầu diễn ra ba ngày liên tiếp, cả thảy là 9 keo.

Cướp cầu diễn ra rất sôi động trong tiếng trống, tiếng kẻng thúc giục. Quân hai bên ham cướp cầu

không e ngại gì sự va chạm. Người ta bảo rằng nếu có sự va chạm xây xát da thịt thì chỉ cần lấy đất bùn ở hố giữa

xoa vào là ắt sẽ mau lành.

Ngày thứ ba sau khi cướp cầu đủ 9 keo thì đại diện Ban khánh tiết lục thôn công bố bên thua, bên được.

Quân bên được reo mừng còn dân hàng tổng thì tin rằng mặt trời đã bị đánh động nên không gây nắng nóng khô

hạn với con người nữa mà trời sẽ mang nước đến tưới cho đồng ruộng để dân cày cấy.

Công bố thua được xong, quân cướp cầu về sân riêng của tổng còn quân chạy gậy mang quả cầu từ hố

lên mặt đất lăn cầu đi vòng quanh bãi, gọi là dắt cầu đi chơi. Quân chạy gậy tinh nghịch lăn quả cầu vào đám đàn

bà, con gái đi xem hội tạo ra những trận cười vui sảng khoái. Sau vài vòng dắt cầu đi chơi, quân chạy gậy dắt cầu

thả xuống giếng làng Động Phí. Cầu củ chuối nổi trên mặt nước đợi khi nào trời mưa to thì vớt lên bỏ đi.

Ngoài sân tổ chức cướp cầu, ấn định 3 ngày, còn trước cửa đình các cụ lục thôn tế cầu đảo vũ, tế đến

khi nào trời đất thay đổi có mưa mới thôi.

Nếu trường hợp mới cướp cầu được một ngày mà trời đã đổ mưa thì dân lục thôn tâm niệm thành

hoàng làng Động Phí thiêng phù trợ cho dân toại ý nguyện nên dân thôn phải tế tạ Thánh vài ngày.

Ngày nay, không còn nghi lễ tế đảo vũ và cướp cầu nhưng ký ức về trò cướp cầu vẫn in đậm trong tâm

trí các cụ ở làng Động Phí. Dân làng đang có kế hoạch gây dựng lại trò vật lão, cướp cầu, coi đó là sinh hoạt văn

hóa độc đáo của địa phương phục vụ cho ngày lễ hội tam thôn 3 năm tổ chức một lần vào ngày mồng 4 tết ở làng

Động Phí./.

N.H.T

Page 407: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

483

Hội Giỏ

Nguyễn Chí Bền

"Bơi Đăm, rước Giỏ, hội Thầy" là cõu phương ngụn quen thuộc

chỉ những trũ diễn lễ hội cuốn hỳt lũng người của xứ Đoài xưa. Bơi Đăm

là một trũ diễn của lễ hội làng Đăm (nay là xó Tõy Tựu, huyện Từ Liờm,

ngoại thành Hà Nội), hội Thầy tức là hội chựa Thầy và rước Giỏ là một

trũ diễn của lễ hội làng Giỏ.

Làng Giỏ, thời trước cú tờn là Kẻ Sở, rồi đổi Cổ Sở và bấy giờ

bao gồm cả đất xó Đắc Sở và xó Yờn Sở. Nằm ven bờ sụng Đỏy và trục

đường bộ từ kinh kỳ lờn xứ Đoài thủơ xưa, Kẻ Giỏ, với vị thế địa - văn

hoỏ, địa - chớnh trị của mỡnh, trở thành một thị tứ sầm uất. Bến Giỏ, chợ

Giỏ, Bến Lụa v.v..., từ lõu đó nổi tiếng khắp xứ Đoài1. Nhưng kẻ Giỏ

cũng đi vào lịch sử như một làng chiến đấu lõu đời và oai hựng. Lịch sử

xõy dựng và bảo vệ quờ hương làng Giỏ đó thấm đượm mồ hụi và xương

mỏu của bao nhiờu thế hệ, được ghi vào sử sỏch, vào ký ức dõn làng bằng

những truyền thuyết, và những chứng tớch vật chất như Mả Thỏnh, Rừng

Cấm, Gũ Gio, Mả Gạo, Quỏn Giỏ, chựa Bến .v.v....

Nhõn vật trung tõm của lễ hội làng Giỏ chớnh là một người con

của làng: anh hựng Lý Phục Man. Truyền thuyết về nhõn vật này được ghi

rất sớm vào sử sỏch. Thế kỷ XIV, Việt điện u linh chộp:"Bấy giờ thiờn hạ

gặp buổi mờ tối, người hào kiệt phải giấu họ tờn. Đại Vương cũn trẻ tuổi,

phong tư và tài nghệ khỏc thường, cưỡi ngựa bắn cung đều giỏi, cú uy đức

lại cú sức trị được voi. Vương giỳp vua Lý Nam Đế (cựng thời vua Vũ Đế

nhà Lương), vua thấy tài mạo, biết là bậc đại trượng phu, cú thể đảm

đương một mặt trận, bốn cho theo việc binh, lập được nhiều cụng to. Sau

thấy đất Đỗ - động ở biờn giới, một nơi xa và hiểm, phi Đại Vương khụng

ai cai trị nổi, vua mới cho Vương làm Đại tướng ra trấn thủ nơi đú. Một

hiệu lệnh của Vương ban ra, những kẻ hựng trưởng đều phải nớn hơi,

trộm cướp về hàng phục, dõn trong hạt rất yờn vui, già trẻ đều cảm ơn

đức.

1 Về sự hỡnh thành của làng, xin xem Nguyễn Chớ Bền bài Làng xưa xanh ngắt búng dừa in

trong Hà Tõy, những làng nghề làng văn tập 2, Sở Văn húa Thụng tin Hà Tõy, 1993 , tr.

238-249

Page 408: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

484

Quõn Lõm ấp (tức là Chiờm Thành) vào cướp quận Cửu - Đức.

Được tin bỏo cấp, triều đỡnh họp bàn việc đi đỏnh, cỏc quan đều núi:

"Tất phải Đỗ động tướng quõn mới dẹp được giặc này". Vua bốn cử Đại

Vương đốc xuất cỏc tướng đem binh vào Nam, phỏ tan quõn Lõm ấp ở

Cửu Đức. Tin thắng trận bỏo về kinh đụ, vua khen ngợi hồi lõu, bảo cỏc

quan rằng: "Tre già mới biết dao sắc, nghĩa là cú gặp lỳc gian nguy mới

biết người tài giỏi. Nay Đỗ động tướng quõn bắn vài phỏt tờn mà phỏ tan

quõn giặc dữ, thật là một người hào kiệt đất Sơn Tõy, dẫu bậc danh tướng

đời xưa cũng khụng hơn được, cần phải trọng thưởng". - Vua bốn nhõn

Vương cú nhiều cụng chinh phục cỏc rợ, đặt tờn là Phục Man, cho theo họ

nhà vua là họ Lý lại gả cụng chỳa Lý Nương cho Vương và thăng chức

Thỏi uý, giữ chớnh quyền đứng đầu cỏc quan, Thỏi uý cú tớnh trung hậu

thanh liờm, phàm bàn định việc gỡ cũng theo lẽ cụng bằng ngay thẳng,

mạnh bạo can ngăn vua, khụng dung tha kẻ cú lỗi, đàn hặc kẻ lộng quyền,

khụng e sợ gỡ cả. Trong ngoài ai cũng kớnh phục và gọi Phục Man tướng

cụng".

Tại Yờn Sở, truyền thuyết dõn gian kể Phục Man tướng cụng đó lấy

cụng chỳa Lý Nương, con gỏi Lý Nam Đế. Đồng thời, trong Gúp phần vào

việc nghiờn cứu vị thành hoàng Lý Phục Man, tiến sĩ Nguyễn Văn Huyờn

cũn ghi lại truyền thuyết về một người vợ của Lý Phục Man ở làng này. Bà

tờn là ỏ Nương, dõn làng coi vị thần này là người vợ thứ hai của ụng. Vốn

là một cụ đầu hỏt, bà đến đõy để hỏt chầu vị thần thành hoàng trong lễ hội,

bỗng nhiờn biến mất, để lại quần ỏo ở làng. Sau đú, trong làng Yờn Sở cú

nhiều người chết, người ta bốn đi búi rựa và xem chõn giũ, được biết là

trong làng đó cú một vị thần mới. Đỏng chỳ ý ở làng quờ của ỏ Nương, cú

một cỏi gũ rất thiờng mà khụng ỏi dỏm vi phạm, ở thụn Thượng Khờ, cú

một thửa ruộng mà ở phớa tõy của thửa đất này cú một hũn đỏ hỡnh con

rựa mà người dõn gọi là đất rựa, dài 2 thước sỏu tấc, rộng 1 thước tỏm tấc.

Tương truyền, thửa đất và hũn đỏ linh thiờng này thuộc

quyền sở hữu của ỏ Nương (phỳc thần Yờn Sở).

Toàn bộ truyền thuyết về người anh hựng Lý Phục Man đó lắng

đọng tại Yờn Sở, sống với thời gian và tõm thức dõn gian trong di tớch và

lễ hội ở đõy. Núi cỏch khỏc, người dõn Yờn Sở đó thờ cỳng một vị anh

hựng dõn tộc. Đú là tớn ngưỡng hay lũng biết ơn tổ tiờn, thật khú mà tỏch

bạch được rừ ràng.

Page 409: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

485

Sự thể hiện của tớn ngưỡng này là ngụi đỡnh và quỏn Yờn Sở. Đú

vừa là thiết chế vật chất của tớn ngưỡng, vừa là khụng gian của lễ hội Kẻ

Giỏ, tức xó Yờn Sở và Đắc Sở hụm nay.

Ngụi đỡnh làng Kẻ Giỏ thờ Lý Phục Man, hiện tại khụng cũn nữa

nhưng là một ngụi đỡnh đặc biệt: đỡnh khụng xà. Năm 1947, thực dõn

Phỏp đó đốt nú. Bởi vậy, " chỳng ta chỉ cũn cú thể tiếp cận vẻ đẹp qua sự

miờu tả của tiến sĩ Nguyễn Văn Huyờn trong cụng trỡnh Gúp phần vào việc

nghiờn cứu một vị phỳc thần An Nam Lý Phục Man (Contribution à l'ộtude

d'un Gộnia Tutộlaire Annamite Lý Phục Man). "Chiều ngang của đỡnh là

34m, chiều sõu 13m50, mặt đỡnh day ra lũng sụng về phớa tõy nam. Núc

đỡnh kiểu 4 mỏi to lớn khỏc thường, đặt trờn những cột bằng gỗ rất to. Bốn

gúc được uốn cong thành đao đầu rồng. Bờ núc chạy suốt chiều ngang ngụi

đỡnh xõy bằng loại gạch hoa làm bằng đất nung, hai đầu cú hai con rồng

giương vuốt. Đỡnh chia làm năm khoang lớn và hai khoang đầu hồi cú thể

gọi là hai chỏi. Mỗi khoang cú hai vỡ kốo sỏu cột đặt trờn đỏ tảng. Hai cột

giữa được nối với nhau bằng một xà cõu đầu. Những cột giữa hay cột cỏi

được nối liền với những cột con ở mặt tiền hay mặt hậu bằng những kốo

chạm hoa lỏ hay long, ly, qui, phượng. Chớnh những kốo này gỏnh hết sức

nặng của mỏi. Hai vỡ kốo gian giữa là gian ban thờ khỏc với cỏc vỡ kốo

khỏc ở chỗ chắp nối với những cột con ở mặt hậu. Như vậy, ta thấy rằng,

ngụi đỡnh được dựng bằng những vỡ kốo biệt lập, chỉ được nối với nhau

bằng phần núc và những gỗ đũn tay ngoài riềm mỏi đỡnh. Cỏc cột khụng

được nối với nhau theo chiều dọc. Và chớnh đõy là đặc điểm của nú, khiến

nú khỏc hẳn với cỏc ngụi đỡnh làng khỏc ở chõu thổ Bắc Bộ. Kiến trỳc của

cỏc bộ phận trong đỡnh mang tớnh mỹ thuật rất cao. Những hoa văn hỡnh

rồng quấn trỳc, rồng chầu một vầng thỏi dương rực lửa, khiến cho ngụi

đỡnh cú một vẻ đẹp cú một khụng hai ở xứ Đoài" 1.

Thiết chế vật chất cũn lại là quỏn Giỏ. Nú hưởng một vị trớ thật

đẹp. Ngày trước, bao quanh ba mặt quỏn là một khu rừng cấm, toàn bộ

quỏn và sõn nằm trờn diện tớch chừng 6000 một vuụng. Trong hàng cổng

ngoài, hai bờn con đường trung đạo cú xõy hai trụ vuụng bằng gạch, trờn

đầu trụ cú trang trớ đầu rồng và đỡnh trụ là hỡnh bốn con phượng kết

cỏnh chổng lờn trời làm thành một cỏi hoa to cú hỡnh bốn cỏnh kộp. Bức

1 Toàn bộ phần miờu tả đỡnh Giỏ, quỏn Giỏ và đỏm rước của hai làng, chỳng tụi sử dụng kết

quả điền dó, nghiờn cứu của tiến sĩ Nguyễn Văn Huyờn trong cuốn sỏch đó dẫn, qua bản

tiếng Việt của Trịnh Hữu Ngọc.

Page 410: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

486

tường thứ hai được trang trớ bằng gạch đỏ cú hỡnh chạm nổi. Tường phớa

đụng cú 23 viờn, tường phớa tõy cú 26 viờn. Cỏc hỡnh chạm trờn cỏc

viờn gạch khụng giống nhau. Đú là hỡnh cỏc con vật như rồng, phượng,

voi, hỡnh người đỏnh cờ, hỡnh ụng chài, chàng thư sinh. Đỏng lưu ý hũn

thứ 11 cú lời chỳc già trẻ trong làng được phỳ, thọ, khang, ninh. Dải bờn

đụng kết thỳc bằng một loạt cảnh sinh hoạt, dải bờn tõy kộo dài bằng một

dóy hỡnh 12 quả trỏm. Nhỡn nhận cỏc hoạ tiết này, người ta đỏnh giỏ

khụng giống nhau, cú người coi đú là cảnh sinh hoạt, cú người lại cho đú

là những tớch trong Phật thoại. Dự thế nào, những viờn gạch cú hỡnh

chạm này vẫn là những hoạ tiết được tạo ra bằng một bàn tay khộo lộo, tài

hoa. Qua nghi mụn hai bờn là hai dóy hành lang, ở giữa là một sõn cỏ

rộng chừng 22m2. Kế tiếp là một sõn gạch trờn nền tam cấp rộng 15m70,

dài 12m25. Chớnh diện gồm cú ba ngụi đỡnh song hành từ ngoài vào

trong là hạ đỡnh, trung đỡnh và thượng đỡnh. Hạ đỡnh là một ngụi đỡnh

rộng 16m30, sõu 8m80, bờ núc được trang điểm bằng hai con rồng lớn

đang tiến đến vừng dương làm bằng một miếng kớnh trũn màu đỏ, chung

quanh đắp thành hỡnh những ngọn lửa đang rực sỏng. Mặt tiền của ngụi

đỡnh được che bằng hàng liếp đan. Giữa hạ đỡnh và trung đỡnh là một

khoảng cỏch đủ chỗ cho một cỏi mỏng bằng đồng hun, để hứng nước

mưa. Hai ngụi trung đỡnh và thượng đỡnh chỉ cú 6m40 chiều sõu và

12m60 chiều rộng. Giữa trung đỡnh cú một bệ vuụng xõy bằng gạch

dựng làm chỗ bày lễ vật ngày khỏnh tiết. Sau cỏi bệ là một cỏi bàn bày lư

hương, nến, và hai bỡnh hương. Sau cỏi bàn này là một cỏi bàn nhỏ và

thấp hơn đặt ba đài rượu. Rồi đến một bàn thờ cú ba chiếc ngai lớn mang

bài vị phủ nhiễu điều. Hai bờn tả hữu là tượng quan hầu của thần. Trong

thượng đỡnh là một cung cấm cú một bàn thờ và năm pho tượng: ba pho ở

giữa là tượng Lý Phục Man (chớnh giữa), Lý nương và ỏ nương ở hai

bờn. Phớa ngoài tả và hữu là hai thị nữ.

Hai ngụi thượng định và trung đỡnh được núi với nhau bằng một

hàng hiờn đúng kớn. Toàn bộ hợp thành hỡnh chữ cụng. Tường ngoài của

ngụi đỡnh chạy theo hỡnh vuụng của chữ quốc. Như vậy, quỏn Yờn Sở

được xõy dựng theo kiểu nội cụng ngoại quốc. Sỏt tường bờn tõy của hạ

đỡnh là một bể nước mưa hứng từ mỏng đồng hun. Sau bể nước mưa là

nhà bia.

Tại nhà bia này cũn năm tấm bia đỏ, tấm cổ nhất cú niờn đại năm

1620, sau đú là tấm cú niờn đại 1663, rồi tấm thứ ba cú niờn đại 1728,

Page 411: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

487

tấm thứ tư cú niờn đại 1803 và tấm thứ năm cú niờn đại 1855. Nội dung

văn bia là những tư liệu vụ cựng quớ giỏ ghi lại sự tớch của Lý Phục Man

một số sự kiện lịch sử của làng cựng với việc tu tạo đỡnh quỏn, chộp lại

một số qui ước, tập quỏn, lệnh chỉ, sắc phong của cỏc triều đại cho Lý

Phục Man. Khắp chõu thổ Bắc Bộ, khụng phải đỡnh nào cũng cú một số

lượng bia đỏ quớ giỏ như vậy.

Đối xứng với nhà bia, ở phớa đụng là nhà để con ngựa bằng đồng

hun, con ngựa này được đỳc năm Vĩnh Thịnh thứ ba (1707), ngày nay

được sơn trắng.

Đằng sau thượng đỡnh là một cỏi sõn con ở giữa cú một bỡnh

phong với một hũn non bộ. Thực ra, quỏn/ đền Giỏ đó qua nhiều lần trựng

tu. Văn bia tại quỏn Giỏ cũn ghi rừ cỏc niờn đại này. Theo truyền thuyết,

năm 1026, Lý thỏi Tổ lập đền. Năm 1257, đền được sửa lại, năm 1608

xõy lại hai hành lang, năm 1672 dựng nghi mụn năm 1682 xõy hai cột

đỡnh trụ, năm 1682 khắc nhiều bia, xõy thờm thềm đỏ và nghi mụn. Tuy

thế, điện thần của quỏn Giỏ vẫn khụng thay đổi. Cũng khụng rừ từ khi

nào, người dõn thờ cỳng anh hựng Lý Phục Man với nhị vị phu nhõn như

hiện nay, nhưng việc trựng tu được tiến hành dưới thời vua Thành Thỏi

(1889-1907).

Việc thờ cỳng Lý Phục Man "cỏc làng Yờn Sở và Đắc Sở đều

được tổ chức theo lối khỏc nhau", hai làng Yờn Sở, Đắc Sở của làng Kẻ

Giỏ xưa chỉ tổ chức chung ngày hội để tưởng nhớ Lý Phục Man.

Những ngày đầu thỏng ba, kỳ mục của hai làng bắt đầu họp để

phõn cụng cỏc việc của lễ hội.

Lễ hội được tổ chức từ ngày mồng mười đến ngày 26 thỏng ba

hàng năm và cú hai phần rất rừ: phần rước và phần tế.

Nghi thức rước là nghi thức đặc sắc nhất, riờng biệt nhất của hội

làng Kẻ Giỏ.

Ngày 10 thỏng 3, cỏc giỏp của hai thụn Yờn Sở, Đắc Sở, cựng

thụn Diễn Xỏ, Đại Đồng, Yờn Thỏi mang lễ vật đến đỡnh Yờn Sở.

Khoảng 10 giờ là nghi thức xin phộp thần cho trang trớ lại ngụi đỡnh. Cỗ

kiệu lớn của Thành Hoàng được lắp rỏp lại, con ngựa bằng đồng hun được

kộo vào sõn. Chiều ngày 10/3, cả hai làng đi rước bài văn tế ở văn chỉ

thuộc địa phận làng Yờn Sở, ở đõy chỉ là đỏm rước văn tế. Hai làng Yờn

Sở lại tiến hành những đỏm rước khỏc nhau. Đỏm rước của làng Đắc Sở

Page 412: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

488

vào ngày lẻ. Xuất phỏt từ đỡnh, đỏm rước của làng Đắc Sở đi theo con đờ,

đi đầu là người vỏc giỏo, rồi người cầm tự và. Kế tiếp là một hàng dài

gồm 20 lỏ cờ vuụng, cờ ngũ hành, hai lọng vàng, hai tàn vàng, một chiờng

và một trống cỏi. Bốn người khiờng một cỏi bàn trờn đú đặt cỏc thứ tế

khớ, lư trầm, nến, đốn, hai con hạc và hai bỡnh hoa. Sau cỏi bàn này là 8

người mang bộ bỏt bửu dàn thành hai hàng. Theo sau là người mang phủ

việt, dựi đồng, 12 người mang hồng trượng, hai người mang tỏn thờu. Kế

đú là phường nhạc với ba nhạc cụ: nhị, sỏo và cảnh, rồi cỗ kiệu văn. Đằng

trước kiệu là 4 đốn lồng, hai tỏn và hai quạt đi theo che cho kiệu. Đi sau

kiệu là hai vị bụ lóo: một vị mặc ỏo thụng xanh, đi hia đội mũ, một vị

mặc ỏo thụng thõm, đội khăn thõm đi hia đội mũ. Kế hai vị là hai lỏ cờ.

Tất cả những người khiờng vỏc này đều mặc ỏo đỏ, cú cổ cao, ống

tay dài. Trong đỏm rước cũn cú 36 em mặc ỏo dài thõm, khăn thõm và

mặc quần trắng, đi chõn đất, ngoài ỏo dài cú một cỏi thắt lưng đỏ, được tết

mỳi phớa bờn trỏi. Cỏc em này được chọn trong trẻ em của làng, khụng

phõn biệt con nhà ai, miễn rằng cỏc em khụng cú tật nguyền gỡ, hay trong

nhà khụng cú tang chế. Cỏc em cầm một lỏ cờ nhỏ màu vàng hay vàng

sẫm trờn tay. Người làng gọi cỏc em là tổng cờ. Cỏc tổng cờ này được đặt

dưới quyền chỉ huy của một ụng trạc bốn mươi tuổi, gọi là ụng thủ hiệu.

ễng này chỉ huy 36 em tổng cờ bằng một cỏi chiờng con. Khi ụng ta đỏnh

chiờng thỡ tất cả cỏc em đều đồng thanh kờu to: Lai rộ hố rộ . Sau khi

rước được văn tế, người ta quay trở lại đỡnh quỏn Yờn Sở, qua đỡnh Đắc

Sở. Khi về tới cửa quỏn, sau ba tiếng trống, đỏm rước lại tiến bước, tới nơi,

tất cả những người vỏc cờ và tế khớ đều đứng ở ngoài, hai bờn tả, hữu sỏt

nghi mụn. ễng thủ hiệu và cỏc tổng cờ tiếp tục vào sõn tế.

Trong khi đú, đỏm rước của làng Yờn Sở lại tiến hành vào ngày

chẵn, xuất phỏt từ quỏn đến văn chỉ. Những người tham gia đỏm rước

này phải là người làng Yờn Sở. Những người khiờng vỏc đồ tế khớ đều ăn

mặc như ở Đắc Sở. Riờng cỏc tổng cờ lại tới 48 em. Đỏm rước của làng

Yờn Sở khỏc đỏm rước của làng Đắc Sở ở chỗ cú những cụ già trong làng

giữ vai quan hầu của thần. Cỏc cụ hạ lóo và trung lóo của hội đồng kỡ

mục mặc ỏo đỏ cú ống tay rộng trựng xuống tận đầu gối, khuy ỏo đều ở

phớa bờn phải, ỏo bú chặt lấy người bởi một thắt lưng màu lục mà mỳi

thỡ được tết ở phớa bờn hụng phải. Cỏc cụ đều đội một cỏi nún rơm cú

vành rất rộng (xưa kia nún này làm bằng gỗ). Quần của cỏc cụ là màu

trắng. Trong tay mỗi cụ cầm một cõy roi dài một đầu sơn son thếp vàng.

Page 413: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

489

Mười cụ chia thành hai hàng đi trước hương ỏn, mười cụ chia hai hàng đi

trước kiệu văn. Một cụ khỏc cũng ăn mặc y như vậy, cầm chiờng chỉ huy

cỏc em tổng cờ, mỗi khi cụ đỏnh chiờng, cỏc em lại đồng thanh la lờn bốn

tiếng: Lai rộ hố rộ. Đỏm rước đi theo hàng lối nhất định, với trật tự: đi

đầu là người mỳa sư tử, sau đú là tuần đinh mang roi, giỏo, tự và, rồi 20 lỏ

cờ thần. Tiếp sau là chiờng, trống cỏi cú lọng che, dựi đồng, phủ việt,

hương ỏn, phường nhạc, tàn, hai tấm bảng sơn son thếp vàng với hai dũng

chữ: thanh linh, uy viễn, bỏt bửu, rồi đến cỏc tổng cờ chia hai hàng dưới

quyền chỉ huy của ụng thủ hiệu. Cũng nằm trong đội hỡnh rước cũn cú

hai lỏ cờ vuụng, bốn đốn lồng, hai cỏi tàn, hai cỏi quạt vả vẽ rồng, một

phường bỏt õm, một cỗ kiệu, một trống cỏi. Đi sau cựng là bốn lỏ cờ

vuụng.

Khi đến văn chỉ, cũng chỉ cú cỏc tổng cờ, cỏc quan hầu của thần và

cỗ kiệu là được vào sõn, cũn lại ở bờn ngoài, đứng hai bờn đường. Xong

nghi thức này, người ta lại rước trở về con đường cũ với trật tự đội hỡnh

như lỳc ra đi.

Đỏng lưu ý nhất trong lễ hội của Yờn Sở là lễ tế cờ rất trang

nghiờm, thiờng liờng. Nơi sõn quỏn là đội hỡnh thanh niờn, trai trỏng

trong làng đụng tới hàng trăm người, sau lễ tế cờ là trũ diễn "nghiềm

quõn". Tất cả đội hỡnh được sắp xếp tài tỡnh mỳa theo hỡnh xoỏy trụn ốc,

người tướng cầm lỏ cờ đại phỏ vũng võy rất tài tỡnh.

Trũ diễn, trờn lỏt cắt đồng đại thể hiện cuộc phỏ võy của người

tướng, cũng như sự luyện quõn, nhưng tầng sõu của trũ diễn chớnh là tớn

ngưỡng thờ mặt trời. Màu ỏo đỏ, việc mỳa lượn theo vũng xoỏy trụn ốc,

ngược kim đồng hồ, chớnh là những tớn hiệu folklore cho ta hiểu những

tớn ngưỡng xa xưa đó bị khuất lấp bởi thời gian và cỏc lớp sa bồi văn hoỏ

- lịch sử. Những tiếng la là lạ của cỏc em nhỏ làm nhiệm vụ tổng cờ, ngay

thời làm cuốn sỏch về Lý Phục Man, tiến sĩ Nguyễn Văn Huyờn đó

khẳng định là tiếng thể hiện hốm của thần, phải chăng là ảnh xạ của khỏt

vọng cầu mưa của cư dõn nụng nghiệp. Sự đan xen cỏc lớp văn hoỏ tớn

ngưỡng trong lễ hội thờ cỳng vị thành hoàng của người dõn Kẻ Giỏ khiến

hụm nay chỳng ta khú nhận ra từng yếu tố. Cũng khú mà tỏch bạch đõu là

thỏi độ kớnh trọng ngưỡng mộ của người dõn cỏc thế hệ với người anh

hựng, đõu là tớn ngưỡng thờ cỳng thành hoàng, đõu là tớn ngưỡng thờ

mặt trời, đõu là nghi thức cầu mưa của cư dõn nụng nghiệp. Dự sao, núi

đến lễ hội làng kẻ Giỏ, là phải núi tới trũ diễn rước. Hựng trỏng, trang

Page 414: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

490

nghiờm, linh thiờng, từ số lượng cờ đụng đảo, tới trũ "nghiềm quõn" rước

Giỏ như một bản sắc văn hoỏ của làng Yờn Sở, làm thành một gương mặt

văn hoỏ khú lẫn so với cỏc làng quờ bỡnh dị khỏc.

Cựng nghi thức rước là việc tế lễ. Lễ vật trong ngày hội của làng

Kẻ Giỏ được dành cỳng Thành hoàng là xụi, gà, oản, chố kho và bỏnh

cuốn. Cú một số ngày người ta cỳng bũ. Đỏng lưu ý là những con bũ này

đều được thui cả con ở bờ mỏng nước chảy phớa đụng ngụi đỡnh, sau đú

đặt trờn bàn để cỳng thần.

Việc tế lễ diễn ra theo nghi thức chung của nghi thức cỳng tế cỏc

thành hoàng ở đỡnh làng quờ xưa. Đỏng chỳ ý là lời văn tế. ở Kẻ Giỏ, mỗi

dịp tế lễ cú một lũng văn khỏc nhau, phần đầu và phần cuối của bài văn tế

khụng thay đổi. Chẳng hạn, lũng văn của bài văn tế mồng một tết:

Đại vương

Dỏng điệu thụng minh

Tớnh tỡnh quả cảm

Cụng nhiều giỳp nước, độ dõn

Sức lớn trừ tai, hóm hoạ

Trăm điều tốt đều nờn

Mọi việc may đều đạt

Cho dõn con được sống cảnh thanh bỡnh.

Hoặc bài văn để xin mở hội:

Cỳi mong Thần rộng lũng chứng giỏm

Để thấu hiểu tấm lũng thành kớnh của dõn con

Để độ cho cả làng được ấm no hạnh phỳc

Muụn điềm lành dồn lại nơi đõy

Để mọi nhà vuụng trũn mĩ món.

Như vậy, gạt đi lớp văn hoỏ Nho giỏo đọng vào lễ hội ở cỏc nghi

lễ thưa gửi, xin lạy, õm hưởng chớnh của phần lễ nghi là người xưa muốn

gửi gắm ở Lý Phục Man sự phự hộ độ trỡ cho một cuộc sống bỡnh yờn,

thịnh vượng.

Đường dõy tớn ngưỡng để qui tụ cỏc hành động hội chớnh là sự

thờ cỳng người anh hựng, như lời văn khắc trờn bia đỏ Thuật thần từ bi:

Page 415: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

491

"Từng nghe: cú cụng với nước thỡ được thờ cỳng. Cú đức với dõn thỡ

được thờ cỳng. Dẹp yờn tai họa thỡ được thờ cỳng, dẹp bỏ nguy nan thỡ

được thờ cỳng"1 .nếu chưa tớnh cỏc lớp văn hoỏ khỏc lắng đọng trong lễ

hội thỡ chỉ riờng yếu tố tớn ngưỡng này của lễ hội làng Kẻ Giỏ đó là một

thỏi độ văn hoỏ đỏng trõn trọng.

Tuy nhiờn, nhiều lớp tớn ngưỡng như tục thờ mặt trời, tục cầu mưa

v.v... đó đọng lại trong cỏc hành động ở lễ hội này, khiến nú cú diện mạo

như chỳng ta thấy hụm nay.

Dự thế nào, lễ hội làng kẻ Giỏ vẫn cú một nột riờng khú trộn lẫn

trong diện mạo lễ hội xứ Đoài. Tớnh hoành trỏng, đồ sộ của trũ diễn rước,

chớnh là nột riờng ấy./.

N.C.B.

1 Văn bia Hà Tõy, Bảo tàng tổng hợp Sở Văn húa thụng tin thể thao Hà Tõy, 1993, tr.136.

Page 416: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

497

Hội rước thành hoàng tổng Hà Hồi

Chu Huy

Tổng Hà Hồi cũ thuộc huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, tỉnh

Hà Đông (nay thuộc Hà Tây) là một vùng quê nằm cách phía Nam thủ đô

Hà Nội chừng 20km. Nơi đây từ xa xưa đã từng nổi danh trong câu

phương ngôn: “Phía nam nhất chợ Bằng, Vồi”. Bằng là chợ xã Bằng Vọng

(Bình Vọng) nay thuộc xã Văn Bình, còn Vồi chính là tên nôm làng Hà

Hồi nay thuộc xã Hà Hồi. Chỉ với một câu phương ngôn ấy đủ nói lên sự

giàu có về sản vật, sự thịnh vượng về chợ búa, mua bán của một vùng cư

dân trù phú. Nhưng Hà Hồi lại được lịch sử ghi nhớ sâu đậm hơn trong chiến tích của vua Quang Trung mồng 3 Tết Kỉ Dậu (1789) trong chiến

công đại phá quân Thanh.

Trước cách mạng tháng Tám-1945, tổng Hà Hồi bao gồm các làng

(cũng gọi là xã) Hà Hồi, Phú Cốc, Hoà Lương, Khê Hồi (nay thuộc xã Hà

Hồi), Đức Trạch (nay thuộc xã Quất Động), Bạch Liên, Phương Quế (nay

thuộc xã Liên Phương). Ngày hội rước thành hoàng của cả tổng là ngày

16- 3 âm lịch, tương truyền là ngày sinh của vị thành hoàng Cao Sơn đại vương, đã được các triều đại phong tặng thượng đẳng tối linh. Cả 7 ngôi

đình của 7 làng trong tổng đều thờ thành hoàng Cao Sơn đại vương, thành

hoàng Cao Sơn, trong cuốn sách Đường phố Hà Nội có ghi như sau: Về

lai lịch thần này có nhiều thuyết kể khác nhau, nhưng đều thống nhất ở

một điểm: Cao Sơn là một bộ tướng thân cận của Sơn Tinh (thánh Tản

Viên).

Ngày lễ thánh là ngày 16-3 (Ngày đản sinh). Ngày 12-8 là ngày

thánh hoá. Ngày 6-11 là ngày “khánh hạ”.

Nơi đây còn thần phả viết ngày mồng một đầu xuân năm Hồng

Phúc nguyên niên (1572) người soạn là quan Lễ bộ Hàn lâm viện Đông

các đại học sĩ Nguyễn Bính. Người viết là quan quản giám bách thần tri

điện Hùng lĩnh Thiếu khanh Nguyễn Hiền chép y bản chính vào ngày lành

tháng 8 năm Vĩnh Hựu thứ 5 (1739). Bản cuối cùng được chép lại vào

ngày mồng một đầu đông năm Nhâm Tuất Hoàng triều Khải Định năm

thứ 7 (1922).

Page 417: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

498

Ngoài cuốn thần phả, các tài liệu thư tịch còn gìn giữ được đến

ngày nay gồm 20 đạo sắc phong của các triều vua Lê Trung Hưng, Tây Sơn và nhà Nguyễn.

Qua các tài liệu thư tịch, đặc biệt là sắc phong Cao Sơn quốc chủ, có

thể khẳng định Miếu Tổng hay Phương Quế từ xa xưa đã được trông nom

hương khói hết sức chu đáo. Nội dung sắc phong cho biết công lao to lớn của

các vị thần, đặc biệt là Cao Sơn Quốc Chủ trong việc “hộ quốc tý dân”.

Thánh thần từ nguồn gốc xuất xứ thế nào, dù nhân thần hay thiên thần khi có

công lao đều được thờ phụng.

Như vậy theo thần tích, thì Cao Sơn có họ tên là Cao Hiển, sống vào khoảng cuối thế kỷ 13 và thế kỷ 14, có cha là Cao Khánh và mẹ là

Trần Thị Tố. Tuy nhiên lần theo thần tích ta thấy có nhiều chi tiết không

xác minh được và mẫu thuẫn với lịch sử. Chẳng hạn những chi tiết về địa

danh nơi cư ngụ của Cao Khánh khó đối chiếu với địa danh ở Thanh Hoá

hiện nay, còn địa danh về nơi ở của Trần Thị Tố thì có thể xác minh được:

xã Quang Liệt trước thế kỷ 19 thuộc tổng Nam Bạn huyện Tống Sơn, phủ

Hà Trung nay là huyện Hà Trung tỉnh Thanh Hóa. Rất có thể Cao Khánh

cư ngụ ở vùng Trường Yên, Tam Điệp thuộc Ninh Bình hiện nay, song những địa danh như An Mạc, Giả Ca, Phú ốc, không tồn tại trong địa chí

lịch sử trước thế kỷ 19 nên chưa thể xác minh. Vì vậy chi tiết về quê quán

thực sự của nhân vật Cao Sơn vẫn chỉ là ước đoán, giả định mà thôi. Và

đương nhiên, nhân vật Cao Hiển phải chăng cũng có thể là không có thật,

mà nếu có thật nhân vật này cũng đã được nhân dân hư cấu và huyền thoại

hoá qua quá trình lưu truyền từ địa phương naỳ đến địa phương khác

trong trường kỳ lịch sử của dân tộc.

Mặc dầu vậy vị thành hoàng này vẫn được thờ phụng hết sức tôn

kính ở nhiều đền đình miếu, được nhiều triều đại nối tiếp nhau sắc phong

những mỹ hiệu cao quý. Riêng ở tổng Hà Hồi thì vị thành hoàng Cao Sơn

trở thành vị vua tinh thần qua nhiều thời được thờ phụng hết sức tôn kính.

Ngày đản sinh 16 tháng 3 âm lịch hàng năm trở thành ngày hội làng của

cả tổng hết sức linh đình trọng thể, hội rước thành hoàng tổng Hà Hồi đã

trở thành một hội rước lớn của cả vùng Thường Tín xưa kia. Trình tự lễ và

trình tự rước bắt đầu từ ngày 14 tháng ba âm lịch. Ngày 14 các làng đều có tế ở đình và tổ chức rước kiệu quanh làng có tính chất làm quen và tập

dượt nghi thức. Ngày 15 tế trọng ở đình buổi sáng rồi buổi chiều cả tổng

hội kiệu ở đình Hà Hồi. Sân đền Hà Hồi rộng hàng mẫu dất rực rỡ cờ hội,

hoa, đèn, kiệu, lọng, voi, ngựa, trống, phách... của cả tổng đi rước về, vì

tuy cùng thờ vị thành hoàng Cao Sơn, nhưng làng Hà Hồi vẫn được coi là

Page 418: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

499

làng anh cả. Tối ngày 15 có cuộc tế lễ long trọng tại đình Hà Hồi, mà chủ

tế là cụ cao tuổi nhất có đức độ của làng Hà Hồi, còn bồi tế là đại biểu của cả 6 làng còn lại. Sáng ngày 16 cả tổng lại rước kiệu lên Miếu tổng tức

đền Phương Quế. Đây là một hội rước lớn có số kiệu từ 10 đến 14 chiếc,

với số người tham gia nghi thức đến hàng nghìn, đi trên một đoạn đường

dài từ làng Hà Hồi vòng ra quốc lộ số 1 rồi đi theo đường tỉnh lộ 71 sau

đó rẽ lên Bạch Liên, Phương Quế. Trình tự, đi đầu là đám rước hội của

hai làng Bạch Liên, Phương Quế với ý nghĩa hai làng sở tại, rồi đến đám

rước kiệu của các làng Khê Hồi, Phú Cốc, Hà Hồi, Hoà Lương và Đức

Trạch. Đi đầu mỗi đám rước của mỗi làng thường là đôi cờ tuyết mao, 5 hoặc 4 cờ đuôi nheo, hoặc cờ góc vuông bằng dạ hoặc nỉ, 5 cờ ngũ hành

xanh, đỏ, vàng, trắng, đen, 4 cờ tứ phương xanh, đỏ, trắng, đen, 4 cờ tứ

linh long, ly, quy, phượng, 8 cờ bát quái kiền, khảm, cấn, chấn, tốn, ly,

khôn, đoài. Người cầm cờ đội nón dấu, thắt lưng bó que, đeo một cái cối

con ở trong ngực để đỡ đốc cờ cho nhẹ. Tiếp đó là trống cái lớn hai người

khiêng, một người che lọng, một người đánh trống, ăn mặc theo quy ước.

Tiếp đó là chiêng cũng khiêng giống như trống hoặc có xe kéo. Sau đó là

voi rút mây hoặc ngựa gỗ có che tán lọng, có người vác khiên đi kèm hai bên. Đi liền với voi ngựa là đội vệ sĩ, còn gọi là đội chấp kích mang

gươm, bát bửu, dùi đồng, phủ việt, tay văn, tay võ, biển tĩnh túc, biển bồ

dục đề thượng đẳng tối linh thần hoặc lịch triều phong tặng để thể hiện uy

phong danh vị của vị thành hoàng. Người cầm các loại biển mặc áo thụng

xanh, có lọng che. Tiếp đó là phường đồng văn đánh trống ba nhịp, một

vài trống khẩu, một thanh la, hai sinh tiền, tám người mặc áo nẹp đỏ, đeo

trống bản ngang lưng. Hai người nam giả dạng nữ đeo trống cơm gọi là con đĩ đánh bồng, múa điệu cà rồng theo nhịp trống. Tiếp đó đến cờ lệnh,

cờ vía của thần vị và ba người mang kiếm lệnh của vị thần. Phường bát

âm tám người chơi hai bài lưu thuỷ, ngũ đối. Rồi mới đến kiệu long đình

bày hương hoa, mâm ngũ quả, có bốn đô tuỳ đi kèm ngoài. Có hai người

cầm trống khẩu hoặc cầm cảnh gióng hiệu. Có tàn lọng che kiệu long đình

cho tôn nghiêm. Tiếp đó đến kiệu rồng (kiệu bát cống) rước bài vị thành

hoàng Cao Sơn. Đi bên kiệu có 8 đô tuỳ nam để thay thế tuỳ đang khiêng.

Đi theo kiệu là các bô lão, viên chức làng xã mặc áo có bố tử, che cả lọng xanh, có vài người đầy tớ cắp tráp, điếu theo hầu để tỏ ra đó là người danh

giá. Đám rước to còn có phường tuồng vẽ hề đeo mặt nạ đi đón đường.

Hội rước tổng Hà Hồi thường chỉ có đám rước của làng Hà Hồi là có đủ

mọi nghi thức vì làng to đông dân, kinh tế khá. Còn đám rước của các

làng khác trong tổng thường gia giảm ở số lượng nghi thức và số lượng

người tham gia. Nhưng dù có gia giảm đến mức nào thì cũng vẫn có kiệu

Page 419: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

500

rồng, có phường trống, phường bát âm và cờ lọng nghiêm chỉnh. Năm

1964 hội rước tổng Hà Hồi đã kết hợp với triển lãm sản phẩm nông nghiệp, diễn ra vào ngày 16 tháng 3 âm lịch còn để lại khá nhiều dư vị của

một vùng quê trù phú. Hôm ấy thủ tướng Phạm Văn Đồng có về dự và nói

chuyện với đồng bào. Nhiều tấm ảnh chụp hồi ấy hiện còn ghi lại được

cảnh hoành tráng của một lễ hội làng quê, hiện đang lưu trữ tại UBND xã

Hà Hồi. Vài năm gần đây các làng trong tổng Hà Hồi cũ đang khôi phục

lại hội rước truyền thống. Chắc chắn sẽ có dịp hội rước truyền thống tổng

Hà Hồi lại được tổ chức đông vui và hấp dẫn như những năm xưa, thoả

mãn nhu cầu văn hoá giao tiếp của một vùng quê đang đổi mới.

Sau hội rước của các làng trong tổng lên Miếu tổng Hà Hồi, tức

đền Phương Quế, thì bắt đầu nghi thức đại tế diễn ra ở Miếu tổng. Mỗi

làng trong tổng cử 2 người tham gia vào ban hành lễ, chủ tế lúc đầu là

người thôn Khê Hồi, tả văn là người của thôn Phương Quế sở tại. Nghi

thức đại tế diễn ra theo đúng quy định chung. Sau khi tế lễ xong dân làng

xem các trò diễn như cờ bỏi, múa gậy, thi bơi, hội thuỷ chiến. Buổi tối có

văn nghệ hát chèo, diễn tuồng. Cho đến tối 17 tháng 3 hội rước mới rã

đám.

Qua hội rước thành hoàng tổng Hà Hồi và lai lịch vị thành hoàng

Cao Sơn đại vương có thể rút ra mấy nhận xét sau đây:

Hội rước hay lễ hội làng quê là một hoạt động văn hoá tổng hợp

đáp ứng nhu cầu giao tiếp, thưởng thức, trình diễn văn hoá của làng quê

Việt Nam. Làng này và làng nọ, xã này với xã khác chỉ có dịp hội rước,

hội lễ mới có thể gặp gỡ phô diễn những cái gì là tinh hoa nhất của làng

xóm mình, mới có dịp cùng lo lắng, cùng chuẩn bị, cùng hợp đồng và cùng thưởng thức những giá trị cao đẹp của cộng đồng làng xã. Vì vậy hội

rước, hội lễ là một nhu cầu tất yếu của những người nông dân quanh năm

làm ăn vất vả, vốn ít có dịp gặp gỡ vui chơi cùng nhau.

- Thành hoàng Cao Sơn đại vương mặc dù có nguồn gốc hư ảo vẫn

được người dân thờ phụng tôn kính. ở đây Cao Sơn đại vương không còn

là một nhân vật cụ thể nữa mà là vị vua tinh thần với lòng quảng đại, bác

ái, nhân từ, hiếu thuận phù hợp với chuẩn mực đạo đức và sự hướng tới

cõi cao cả của nhân dân. Họ thờ phụng thành hoàng như chính họ đang thờ phụng những điều thiện, những điều tốt đẹp nhất của tâm linh con

người. Việc thờ phụng vị thành hoàng này hay vị thành hoàng khác không

quan trọng bằng chính những ước muốn cao cả đó.

Page 420: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

501

Hiện nay, nhu cầu khôi phục hội rước, hội lễ của các làng trong

tổng Hà Hồi cũ là một nhu cầu chính đáng. Mặc dù một số di tích cổ truyền trong đó có đình thôn Phú Cốc, đình Đức Trạch, Miếu tổng Hà Hồi

đã bị phá huỷ, song tâm linh của người dân vẫn còn đấy, hội vẫn sống với

những giờ khắc huy hoàng của quá khứ và họ đang tạo dựng cơ hội mới

để khôi phục lại những giá trị tinh thần của làng xã cổ truyền. Làng quê

Việt Nam dù đang trên đà đổi mới, song vẫn phải tiếp nối truyền thống

của nó. Những làng xã của tổng Hà Hồi cũ đang vận động theo xu hướng

như vậy.../.

C.H

Page 421: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

502

Lễ hội Đền Hả

Nguyễn Minh Hoàng

Đền Hả còn gọi là Từ Hả, là ngôi đền cổ tọa lạc trên ngọn núi

Kỳ Lân (còn gọi là Kỳ Sơn) thuộc địa phận làng Hả Hộ xưa, nay là

làng Kép xã Hồng Giang huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang. Đền xây

kiểu chữ tam (chữ Hán) gồm 3 tòa: đền Hạ có 5 gian, đền Trung (có 5

gian), đền Thượng (có 3 gian mang tư cách như tòa hậu cung).

Tương truyền, đền có từ thời Lý - Trần, song dấu vết kiến trúc

xưa đó hiện nay không còn ngoài một số di vật cổ như: gạch ngói,

mảnh gốm... Ngôi đền hiện tại được xây vào cuối thời Lê đầu thời

Nguyễn. Lần tu tạo cuối cùng vào những năm 1929 - 1930. Trong đền

hiện còn lưu giữ nhiều đồ thờ, ngựa thờ, bát bửu, bát tiên, vò, bát, đĩa

và nhiều hoành phi câu đối có giá trị văn hóa cao. Đền đã được Nhà

nước công nhận là Di tích lịch sử văn hóa. Cạnh đền Hả là ngôi chùa

cũng có tên là chùa Hả, góp phần tạo nên một tổng thể kiến trúc nghệ

thuật hài hòa với cảnh trí thiên nhiên, phía trước là con sông Lục Nam,

sau là núi của làng Hả Hộ xưa.

Đền Hả thờ tướng quân Vũ Thành 1 và 6 nhân vật thời Lý (thế kỷ

XI) là:

1. Thánh phụ thần, Thân tướng quốc, Thái truyền tả bộc xạ Vũ

Tỉnh tôn thần, thần vị.

2. Thánh Mẫu quốc: Quốc Mẫu Thiên Thành, Thái đường thái

trưởng Lý Thị Cảnh công chúa thần vị.

3. Thánh di: Thụy Thiên công chúa Lý Thị Dược, hiệu diệu văn

thần vị.

4. Thánh di: Bình dương công chúa Lý Thị Giám, hiệu diệu

Minh thần vị.

5. Thánh di: Yến Hoa công chúa Lý Thị Kiên, hiệu diệu Linh

thần vị.

1 Có tài liệu nói thần Vũ Thành chính là Thân Cảnh Phúc, phò mã nhà Lý.

Page 422: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

503

6. Thánh phi: Truy phong trinh minh, trinh tĩnh Giám Thị Tuấn,

gia tặng Trình Mỹ phu nhân, diệu thục chi thần thần vị.

Hiện trong đền còn giữ được pho tượng tướng quân Vũ Thành

được tạc từ thời Lê. Tượng sơn son thếp vàng lộng lẫy, uy nghi, đặt ở

đền Thượng. Qua các bản thần tích và hơn 20 đạo sắc phong của các

thời Lê, Nguyễn, sự tích võ tướng quân Vũ Thành có thể tóm tắt như

sau:

Vào thời Lý, ở thôn An Khánh xã Tòng Lệnh huyện Na Ngạn có

quan tả bộc xạ Vũ Tỉnh được vua gả công chúa Lý Thị Cảnh cho. Hai

người sinh ra Vũ Thành, một trang nam tử khôi ngô tuấn tú, văn võ

song toàn, đã đậu giải cao trong một cuộc thi ở triều đình. Song, hiềm

nỗi, khi vinh qui bái tổ thì chẳng may người cha đột ngột qua đời, ông

phải ở nhà chịu tang. Giữa lúc ấy, giặc phương Bắc tràn sang xâm

lược nước ta, giết hại dân lành. Nghe theo tiếng gọi của non sông, ông

đã cầm quân đi dẹp giặc. Trải qua 9 trận chống giặc ở phòng tuyến dọc

sông Lục Nam, ông bị thương, chạy về đến núi Kỳ Lân thì mất. Vô

cùng thương tiếc, nhân dân hai bên bờ khúc sông này đã lập đền thờ

ông. Và hàng năm, vào ngày mồng 8 tháng Giêng, lễ hội tưởng niệm

tướng Vũ Thành đã được tổ chức linh đình, và nhằm diễn lại chiến

công đánh giặc oai hùng thủa xưa của ông và nhân dân Đại Việt.

Chính hội là ngày mồng 8 nhưng ngay từ ngày mồng 6, 7, đền Hả đã

đông đúc người trong vùng và khách thập phương đến cúng bái.

Ngày mồng 8 làm lễ tế thành hoàng, tổ chức các trò chơi như

đấu vật, nhiều phường chèo trong vùng thay nhau biểu diễn (vì thế,

hội đền Hả còn được gọi là hội phường chèo). Dân làng góp gạo thịt

nuôi mỗi phường chèo và sau khi biểu diễn xong, lại có phần thưởng

nhỏ, gọi là "lộc thánh". Đặc sắc nhất trong lễ hội đền Hả là đám rước

và diễn lại sự tích tướng quân Vũ Thành đánh giặc. Hôm đó theo hiệu

lệnh các đội quân được ăn mặc chỉnh tề, xe ngựa, khí giới trong tay từ

từ tiến vào khu đánh trận đặt tại Bãi Dược. Tại đây, đã có một đội

quân ém sẵn. Khi có gió đông bắc nổi lên, hiệu lệnh phát ra, đội quân

này reo hò, từ các nơi mai phục xông ra. Hai bên giao tranh "quyết

liệt". Sau đó làm lễ tế cờ thắng trận rồi thu quân về đền.

Qua sự tích vị thần được thờ cũng như qua các hành động,

chúng ta phần nào hiểu được chính sách đoàn kết dân tộc, chính sách

bảo vệ biên cương vùng núi của nhà Lý. Lễ hội đã làm sống lại cái

Page 423: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

504

không khí hào hùng của cuộc kháng chiến chống ngoại xâm xưa của

cha ông./.

N.M.H

Page 424: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

505

Hội đền Hạ Lôi

Hà My

Làng Hạ Lôi (xưa còn có tên là Cổ Lôi, rồi Cổ Lai) thuộc xã Mê

Linh, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc, tương truyền đây chính là quê

hương của Hai Bà Trưng. Làng nằm ngay bên tả ngạn của sông Hồng, từ

Hà Nội theo đường đê Yên Phụ ngược lên phía tây bắc, qua cầu Thăng

Long, theo đê sông Hồng đi ngược lên 14 km, du khách sẽ gặp đền Hai

Bà. Ngôi đền cổ kính nằm gần chân đê sông Hồng, ở phía đông nam của

làng.

Đền được xây trên một khu đất cao, rộng, thoáng, giữa cánh đồng,

nhìn ra đê sông Hồng. Cổng đền đẹp. Trên cửa chính có bức hoành mang

dòng chữ “Ly chiếu tứ phương” (tức: ánh sáng chiếu toả bốn phương).

Sau cổng là một khoảng sân rộng. Cuối sân có hồ bán nguyệt. Bên hồ là

nhà tiền tế. Tại đây có một tấm bia và một quả chuông. Bia có tên là:

“Cải chính miếu hướng bi ký” (bia về việc sửa lại cho đúng hướng miếu),

được khắc năm 1899. Chuông có dòng niên đại đúc năm 1803. Như vậy,

đền được xây dựng từ rất lâu rồi, còn hướng và diện mạo của đền như hiện nay là có từ năm 1899.

Phía trong nhà Tiền Tế là hậu cung. ở cả nhà tiền tế và hậu cung có

một số hoành phi, câu đối mang đầy ý nghĩa tự hào là hai bức hoành:

Nam quốc sơn hà và Hoàng đế từ. Đôi câu đối có niên đại xưa nhất của

Vĩnh Tường - tri phủ Nguyễn Thái - cung tiến năm 1881 có nội dung:

“Bất thế anh hùng vương tỷ muội

Nhưng tiền cơ chở tuế xuân thu”

Tạm dịch là:

“Vua chị, vua em, hào kiệt thế gian khó sánh còn nền, còn móng

xuân thu hương lưu dài lâu”

Một câu đối khác cũng khá hoàn chỉnh của huấn đạo Phạm Quang

Tiến (cùng với đồng trị phủ sa Thương biên phủ Vĩnh Tường) soạn năm

Canh Tuất 1910:

“Số thiên niên Diên quân cố đô,

uất uất thông thông giang sơn ngộ thổ”

Page 425: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

506

“Thập bát thế Lạc Hùng di trụ, oanh oanh, liệt liệt, tỷ muội nhất

môn”

Tạm dịch là: “Mấy ngàn năm Diên quân cố đô, đất nước nhà ta vẻ

vang rực rỡ”

“Mười tám đời Lạc Hùng, dòng cũ, chị em một cửa hiển hách vang

lừng”.

Phía trong hậu cung, trước kia trên bệ thờ có đặt tượng bà Trưng

Trắc và tượng ông Thi Sách ngang hàng nhau. Theo tờ khai của hương lý

làng này (tháng 4-1938) thì hai pho tượng này làm bằng đất luyện. Đến

năm Gia Long thứ 11 (tức năm 1822) mới thay bằng tượng gỗ. Đặt bên ngoài tượng là bài vị Bà Trưng Nhị, bài vị tạc bằng đá. Hai pho tượng và

bài vị này đã bị phá huỷ trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1947-

1948).

Sau khi hoà bình lập lại (1954), dân làng mới nhờ người vẽ lại hai

pho tượng Hai Bà giống như ở đền Đồng Nhân, rồi đem về treo ở Hậu

cung.

Trong dân gian cũng như trong sử sách còn lưu giữ và ghi chép

nhiều về sự tích Hai Bà. Nhưng ở đây, chúng tôi muốn ghi lại bản truyền thuyết về Hai Bà còn lưu lại trong trí nhớ của nguời dân Hạ Lôi, trên cơ

sở đó cộng thêm với những chuyến đi thực tế và những tư liệu quý giá

của các đồng nghiệp:

Mười tám đời nhà Hùng đều xưng là Hùng Vương. Tới Hùng Duệ

đế không có con trai nên nhường ngôi cho Thục Phán, thủ lĩnh bộ Nam

Cương. Thục Phán lên ngôi, đổi tên nước và dời đô về thành Cổ Loa,

xưng là Thục An Dương Vương, nước Âu Lạc. Năm Duệ chết, sau đó có tin đồn truyền rằng Thục Phán sợ người họ Hùng không thuần phục nên có

ý ngầm muốn diệt. Người nhà họ Hùng rất lo sợ....

Một chi họ Hùng đổi thành họ Trưng tìm về vùng Thiên Sớ (Thái

Nguyên?) để ẩn. Chi này truyền đến đời Hùng Điệp (Trưng Điệp) thì sinh

ra Hùng Định (Trưng Định).

Trưng Định không ở Thiên Sớ mà chuyển về trang Hạ Lôi, huyện

Mê Linh làm nghề dạy học và lấy Trần Thị Đoan con gái ông Trần Minh,

trang Cổ Lai.

Năm thứ 14 đầu công nguyên, bà Đoan sinh đôi được hai người con

gái (vào ngày 1.8 năm Giáp Tuất). Hai người xinh đẹp, tư chất thông minh

khác thường, đặt tên là Trắc Nương và Nhị Nương.

Page 426: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

507

Thời ấy nhà Hán cai trị nước ta, cử Tô Định làm quan thái thú, nổi

tiếng tàn ác.

Năm thứ 31, một hôm hai chị em tập võ ngoài vườn nghe tiếng la ó,

Trưng Trắc bảo Trưng Nhị ra xem, dân làng kể về Ngụy Húc (một tên

quan nhà Hán) đến đòi cống nạp, đánh đập dân rất tàn ác.

Trưng Nhị về kể với chị, hai chị em rất uất ức và cùng đến tận nơi để

xem. Thấy hai cô gái trẻ, Ngụy Húc đùa cợt, trêu ghẹo. Trưng Nhị rút tên

bắn qua đầu Ngụy Húc cảnh cáo, hắn sợ quá xin tha tội chết mà rút về.

Ngụy Húc đem chuyện kể với Tô Định, Tô Định nghe xong đem Ngụy

Húc ra chém liền lấy uy lực cho quân. Sau đó cử Tích Lâm đi trừng trị chị em Trưng Trắc. Tích Lâm bị Trưng Trắc chém làm ba mảnh, còn quân sỹ

của hắn bị Trưng Nhị đánh cho tan tác.

Lại nói ở huyện Chu Diên có gia đình ông Đặng Tập sinh được Đặng

Thi Sách. Sách khôn lớn được đi học, nhận ông đồ Lỗ Sinh Tú ở Thanh

Tước làm thầy. Thấy nước nhà cơ cực lầm than, Sách thường bày tỏ với

thầy chí hướng và xin đi chu du đây đó tìm người cứu nước. Gần một năm

trời đi mà không gặp ai, mãi đến khi về Mê Linh thì nghe tài trí của hai chị

em Trưng Trắc, bèn đem lòng khâm phục, viết thư bày tỏ nỗi lòng. Trưng Trắc bèn phúc đáp ngay. Thi Sách rất vui vẻ và cảm động liền tìm gặp hai

chị em. Dần dần giữa Thi Sách và Trưng Trắc đem lòng mến phục và ngỏ

lời với nhau. Sau khi cưới nhau, Thi Sách lại đi chiêu mộ người tài. Song

cũng không có kết quả. Lúc đó Trưng Trắc liền bàn: chàng là con quan

Lạc tướng, nên lấy danh hiệu là huyện lệnh mà chiêu nạp mọi người cho

thuận. Quả vậy, Thi Sách làm theo danh tiếng nổi nhanh khắp nơi.

Vợ chồng Thi Sách giao cho Trưng Nhị rèn luyện quân sỹ ở thành Cơ Triền (Tam Đồng). Thành được xây đắp rất cẩn thận, có đào giếng cho

quân lấy nước, có ao cho quân tắm giặt, thần tích gọi là Tam Kha hay

thành Dền. Sau khi hoàn thành, Trưng Trắc sai Trần Nang đến giữ thay để

Trưng Nhị lên Bạch Hạc luyện quân thuỷ.

Giặc Hán ngày càng tàn bạo, điên cuồng. Thi Sách căm phẫn viết thư

cho Tô Định kể tội và cảnh cáo hắn. Biết không thể giết được Thi Sách dễ

dàng, Tô Định lập mưu mời Thi Sách đến dự yến để bàn chuyện. Đang

giữa bàn tiệc Tô Định liền mở thư của Thi Sách kể tội hắn, biết tình thế nguy ngập Thi Sách liền nhanh trí rút gươm của một tên lính đứng hầu

định chém Tô Định, nhưng đã bị chúng bắt trói lại. Trên đường bị dẫn ra

pháp trường để hành hình, Thi Sách đã nhảy xuống một cái hồ tự tử. Xác

ông bị Tô Định treo lên cổng huyện đường.

Page 427: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

508

Hành vi bạo ngược của Tô Định không làm cho Hai Bà nhụt chí, mà

trái lại, Hai Bà đã quyết tâm tiến hành khởi nghĩa để “Đền nợ nước, trả thù nhà”. Tiến đàn thờ trước đông đảo binh sỹ, Bà Trưng đã nêu rõ 4 mục tiêu

của cuộc khởi nghĩa:

“Một xin rửa sạch nước thù

Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng

Ba xin oan ức lòng chồng

Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này”

Tháng 3 năm 40, Hai Bà phát động khởi nghĩa ở cửa sông Hát.

Người yêu nước ở khắp nơi rầm rập kéo về tụ nghĩa ở Mê Linh. Từ Mê Linh nghĩa quân tiến công vào thành Luy Lâu thủ phủ của chính quyền

Đông Hán ở Giao Chỉ. Trong thời gian ngắn khởi nghĩa liên tiếp xảy ra ở

nhiều địa phương, Tô Định hoảng sợ bỏ trốn về nước. Nghĩa quân thu

được 65 thành. Khởi nghĩa thắng lợi, nền độc lập dân tộc được phục hồi.

Trưng Trắc lên làm vua. Trưng Nhị được phong là Bình Khôi công chúa.

Hán Quang Võ uất ức, sau hai năm nuôi chí phục thù sai Mã Viện

và Lưu Long mang ba vạn quân cùng 2000 thuyền sang đánh lại nước ta.

Cuộc chiến đấu ngày càng ác liệt, quân Mã Viện liên tiếp được ứng cứu, còn quân Hai Bà cứ hao tổn dần. Sau trận Lãng Bạc Hai Bà rút về Cẩm

Khê xây dựng doanh trại, tự nhiên thấy gió làm gãy cột cờ, cho là điều

chẳng lành.

Ngày 8/3/44 Hai Bà gieo mình xuống dòng Hát Giang tự vẫn sau

những trận chiến đấu một mất một còn với kẻ thù.

Đây là một trong những truyền thuyết mang tính lịch sử đậm đặc và

cũng rất giầu chất thơ. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà là biểu hiện cao của một tinh thần đoàn kết chiến đấu, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng tập

thể và ý chí quật cường không chịu khuất phục trước kẻ thù của dân tộc

ta.

Để tưởng nhớ đến công lao của Hai Bà, sau này ở rất nhiều nơi đã

lập đền thờ cúng và mở hội:

Theo một số tài liệu cũ chép lại rằng hội đền Hạ Lôi xã Mê Linh

xưa mở vào rằm tháng giêng âm lịch hàng năm. Song các cuộc khảo sát

gần đây cho thấy, cho đến nay hội vẫn được mở vào 6 tháng giêng âm lịch. Câu ca vẫn còn in đậm trong tâm trí người dân nơi đây:

“Có về thăm hội Hạ Lôi

Tháng giêng mồng sáu cho tôi đi cùng

Page 428: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

509

Kiệu bà đi trước kiệu ông

Nữ binh hộ giá khăn hồng hài hoa”

Tương truyền ngày mồng 6 tháng giêng là ngày Hai Bà mở tiệc

khao quân, cho nên sau này dân làng mở hội để kỷ niệm sự kiện đó. Mỗi

năm, tới ngày hội, người ở các nơi kéo đến rất đông. Hội có lệ cúng bánh

dầy và những trò vui cổ truyền như đấu cờ, nhún đu... Những năm gần

đây còn có đấu vật rất sôi nổi. Song đặc sắc nhất của hội đền Hai Bà là tục

rước kiệu hội đồng hay còn gọi là đám rước tập trận.

Từ giữa tháng chạp, làng đã chọn cử xong 150 cô gái xinh đẹp và 70 chàng

trai tuấn tú làm chân kiệu, chân cờ, chân lọng... và cho tập luyện, rước xách hàng tuần rất chu đáo. Đền có ba cỗ kiệu: hai kiệu rước thánh vị Hai Bà, kiệu thứ ba

rước thánh vị ông Thi Sách, chồng bà Trưng Trắc.

Sáng ngày mồng 6 tháng giêng, sau tiệc tế ba tuần rượu, trống chiêng nổi

ba hồi chín tiếng sửa soạn cuộc “rước hội đồng”.

Tất cả những người tham gia rước tập trung trước sân đền để sắp xếp hàng

lối. Như nhiều đám rước khác đi đầu bao giờ cũng là các loại cờ hội, cờ thần. Từ

trong đền ba kiệu được sắp xếp theo thứ tự, đầu tiên là kiệu Thi Sách, tiếp đến là

kiệu Trưng Trắc, cuối cùng là kiệu của Trưng Nhị. Khi xuất phát kiệu Thi Sách do 32 chàng trai khiêng, kèm theo là 32 thanh niên khác dự bị đi bên cạnh để

thay đổi cho nhau. Những người này đều mặc quần áo đồng phục ngày hội: áo

dài đen, quần trắng, thắt lưng màu buộc thành múi ở sườn bên trái, đầu chít khăn

lượt. Còn kiệu Hai Bà do các cô gái đồng trinh, cũng với số lượng như kiệu Thi

Sách. Họ mặc đồng phục áo dài tứ thân màu nâu, hai vạt thắt lưng màu buộc ra

sau, đầu chít khăn màu hồng, chân đi hài.

Khi đã sắp xếp cẩn thận, tất cả đã sẵn sàng, đám rước bắt đầu trong tiếng chiêng, tiếng trống vang động, tiếng nhạc của phường bát âm rộn rã cùng tiếng

người dự hội tạo nên một không khí sôi động và nhộn nhịp. Qua khỏi cổng đền

ra tới đường Trống Quân thì kiệu của Thi Sách dừng lại nhường cho hai kiệu kia

lên trước. Tục này gọi là tục giao kiệu với ý nghĩa “hội gia huynh đệ, ngoại quốc

quân thần” (Trong nhà là anh em, ra ngoài việc nước là vua tôi). Một cử chỉ lễ

nghĩa trong truyền thống ứng xử Việt Nam.

Đám rước đi trên đường trống quân ra đường cái lớn, rồi tiến về đình để

“Hội đồng” với bốn vị thành hoàng là: Đô, Hồ, Bạch, Hạc và ông thánh Cốt Tung... Theo lời kể của cụ Hương Đệ năm 1985 - khi ấy cụ 86 tuổi - thì ngày còn

nhỏ, cụ thấy lúc đám rước từ đền theo đường Trống Quân ra đình, các đô uý và

cả những người đi theo đều hát một bài rất cổ.

Page 429: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

510

Tương truyền bài hát này do chính Hai Bà đặt ra để cổ vũ nhân dân

và quân lính:

“Ta lên núi

Ta lên núi

Đuổi đàn hươu,

đuổi đàn hươu,

Chị em năm ba mặt cũng rầu rầu

Ta lên núi,

ta lên núi

Đuổi đàn nai

Đuổi đàn nai

Nỗi niềm tâm sự than thở cùng ai?

Đoái trông phương Đông: nước rộng mênh mông

Đoái trông phương Tây: đá trắng gồ ghề

Đoái trông phương Nam: mây che đầu ngàn

Đoái trông phương Bắc: núi cao ngất”

Sau các phần nghi thức tế lễ và rước xách là các cuộc vui nhân dịp đầu

xuân. Đặc biệt, ở hội đền Hai Bà những năm sau này luôn luôn tổ chức giải vật rất đều đặn. Và điều thú vị khác là giải cao hầu hết rơi vào tay các đô vật của hai

làng Hoàng Kim và Tráng Việt (ở bên cạnh Hạ Lôi). Vì vậy hội xuân ngày càng

thêm náo nức bởi các cuộc tranh tài ấy.

Cũng vào khoảng thời gian này, ngoài lễ hội ở đền Hai Bà của Hạ Lôi còn

có một số hội khác về Hai Bà ở các làng bên cạnh. Đó là hội làng Đông Cao

(Đông Kiêu), xã Tráng Việt. Nội dung của nó cũng kể về những chi tiết của cuộc

chiến đấu ác liệt giữa Hai Bà và quân Hán. Để phục vụ quân sỹ của Hai Bà, chiều chiều dân làng lại nhộn nhịp sửa soạn cối chày để làm bánh dầy bó sẵn vào

mo cau cho quân đi đánh giặc. Còn làng Tráng Việt, cùng xã với Đông Cao thì

do ban ngày bận rộn đánh giặc đến mức không có thì giờ mà ăn uống, mãi đến

đêm mới được ăn nên phải đốt đèn đuốc mà ăn. Vì thế mà ở đây còn lưu truyền

câu ca:

“Đông Kiệu có hội bó mo

Tráng Việt đốt đuốc đi mò ăn đêm”./. H.M

Page 430: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

511

Page 431: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

512

Hội làng Hạ Thái

Phạm Vũ Dũng

Có một hội làng, nhỏ thôi, không diễn ra như thường thấy vào

tiết "Xuân - Thu nhị kỳ" mà chính hội lại nhằm vào những ngày chớm

đông - ấy là hội làng Hạ Thái.

Hạ Thái là một trong ba thôn thuộc xã Duyên Thái (gồm các thôn

Duyên Trường, Phúc Am và Hạ Thái), huyện Thường Tín, giáp với địa

phận Hà Nội.

Xa xưa, Hạ Thái còn có tên là Hạ Tràng Trang, thuộc châu

Thượng Phúc. Đến cuộc chia làng lập xã vào thế kỷ XV, được gọi là Hạ

Thái xã, lúc đó thuộc huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Nam Sơn

Thượng. Đến thời Minh Mạng, xã thuộc huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Nội.

Đầu những năm 60, xã được sát nhập thành một bộ phận của huyện

Thường Tín, tỉnh Hà Tây.

Những ngày vào hội, người ở các nơi khác cũng đổ về vui chung

với dân làng, chủ yếu là người Hà Nội. Chỉ cần đi dọc quốc lộ 1A

khoảng 15 km, đến Ngọc Hồi, rẽ trái hơn 2 km nữa là đã đặt chân vào

trung tâm của hội làng với những di tích và cảnh quan đẹp.

Nét riêng của thôn Hạ Thái, của hội làng, là cụm di tích lịch sử đã

được xếp hạng, hội tụ trong một phạm vi không lớn lắm, gồm đình Hạ

Thái (còn gọi là đình Bà Lạy1 , tên tục của nhân vật dân gian được thờ

phụng); chùa Hạ Thái (hay Thái Phúc Tự), nghè thôn Hạ Thái (còn gọi

là miếu Năm Cửa). Chính vị trí gần kề nhau của các di tích là điểm thuận

tiện cho sự ngưỡng vọng và hành hương.

Đình làng Hạ Thái không biết xây dựng từ năm nào bởi không

còn tìm thấy vết tích niên đại xây đình. Nhưng theo lời kể lại thì đình

được xây trên nền nhà của bà Đinh Thị Trạch (bà Lạy) người nguyện

hiến mình cho cọp ăn thịt để cứu dân làng. Đình được dựng theo kiểu

chữ Tam, gồm có tòa đại bái, nhà thiêu hương, hậu cung và hai bên tả

1 . Có ý kiến cho rằng, cụm từ Bà Lạy nảy sinh từ Play, nghĩa là ngôn từ chỉ làng của người

thuộc hệ Mã Lai, Gia Rai, Êđê. Có lẽ cũng như Ba La Bông Đỏ, Bà Tề, Bà Già... nơi mà, đã

một thời, triều đình cho tù binh Chàm cư ngụ, rồi dần Việt hoá thành tên làng.

Page 432: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

513

mạc, hữu mạc. Trải qua nhiều biến cố, hiện nhà thiêu hương và bên hữu

mạc đã không còn nữa, chỉ còn những dấu vết chứng tỏ chúng đã từng

hiện diện. Phía trước có sân đình rất rộng, được xây bao, ngỏ hai cửa tả,

hữu. Gần giữa sân là một hàng cột to và cao, đỡ mái vảy, tạo một hiên

đình rộng rãi. Phía trước, ngoài sân đình là một giếng đình cổ (không có

tên riêng), tròn, đường kính trên dưới 10m, xây đá bao quanh. Nước

giếng trong, đầy và có ít nhiều hoa sen, hoa súng. Có thể nói toàn bộ ngôi

đình, sân đình, hàng cột, giếng nước và những con đường làng xung

quanh đã tạo nên một cảnh trí đẹp mắt và hài hoà.

Tuy không tìm được dấu tích niên đại xây đình, nhưng bằng vào

kiến trúc tinh xảo và có tính nghệ thuật ở trong và ngoài đình, nhất là nhà

đại bái và các hàng cột, nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng, đình Hạ Thái

được dựng vào khoảng thời Lê Trung Hưng.

Đình làng Hạ Thái thờ nhị vị thành hoàng, một nam, một nữ (một

chính sử, một dã sử). Đó là ông Bùi Sĩ Lương - một quan võ thời Lê, có

công phù Lê diệt Mạc và bà Đinh Thị Trạch (tục gọi là bà Lạy) đã tự

nguyện nộp mình cho cọp tinh để giải cho dân làng cái hạn phải cống

nộp người hàng năm. Một thần phả, một truyền thuyết nhưng quyện vào

nhau bởi tinh thần cứu độ dân làng. Công đức của hai vị thành hoàng đã

được truyền tụng từ lâu đời và có lẽ còn mãi mãi ngàn sau :

"Đức Ông vì nước cứu dân

Đức Bà vì nghĩa hiến thân cứu làng"

Về Đức Ông Bùi Hữu Lượng, theo thần phả còn lưu lại và theo

lời truyền của dân địa phương, thì ông không phải là người làng Hạ Thái,

được thờ phụng nơi đây chỉ do một sự ngẫu nhiên. Là một người thuộc

đất Chí Linh (Hải Dương cũ), lúc nhỏ thông minh dĩnh ngộ, lớn lên văn

võ toàn tài, ông theo nhà Lê làm đến chức Thái sư kiêm Điện tiền chỉ

huy sứ. Đến khi nhà Mạc cướp ngôi Lê, ông giữ quyền chỉ huy 10 vạn

quân tinh nhuệ diệt Mạc phò Lê, giữ yên đất nước, đem lại thái bình cho

thiên hạ. Sau đó, gặp lúc nhàn tản ông có qua Hạ Thái, thấy đây là nơi có

thế đất tốt rồng chầu hổ phục, cảnh đẹp, người đông, ông bèn bỏ tiền

mua đất, dựng điện và miếu ngay bên bờ sông Tô. Sau khi mất, ông được

vua Lê phong làm Trung đẳng thần, cho làm thành hoàng cả một vùng

rộng lớn, không chỉ ở Hạ Thái mà ở thôn Duyên Trường cạnh đó, ông

cũng được thờ làm thành hoàng cùng tên gọi Đức Ông.

Page 433: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

514

Theo lời các cụ già kể, thì trong tâm thức dân làng, vị thành

hoàng quan trọng hơn, có sức nặng hơn, lại là vị nữ thần Đinh Thị Trạch

(bà Lạy). Lý do có phải vì Đức Ông ngụ ở đây một cách ngẫu nhiên, hay

vì Đức Ông vốn xuất thân không phải người làng, hoặc người có công

với làng vẫn thiết thân hơn, hoặc giả cái họa thú dữ, trong con mắt dân,

vẫn đáng sợ hơn họa giặc giữ,... mà xảy ra sự lựa chọn trên, nhưng rõ

ràng có một sự thật tâm lý như vậy. Vì thế, dù đến với Hạ Thái vào bất

cứ lúc nào, chính hội hay ngày thường, bạn cũng có thể được nghe các cụ

hào hứng kể về một truyền thuyết vừa như xa xôi, vừa như mới xảy ra.

Kể rằng : không rõ vào thời nào, chỉ biết thuở đó, vùng đất này

còn là một nơi hoang vu, cây cối um tùm, nhà cửa thưa thớt, dân cư và

gia súc chưa lấy gì làm đông đúc lắm. Người dân ở đây vẫn nơm nớp lo

thiên tai và thú dữ dọa dẫm. Lúc đó, trong rừng có một con hổ vằn dữ,

gọi là hổ lang (trong mắt người dân thì đó là một con cọp đã thành tinh)

thường về làng bắt người và gia súc để ăn thịt. Dân làng lo sợ không biết

làm sao, đành phải thần phục cọp dữ, chịu cống mỗi năm một người cho

cọp vào ngày 10 tháng 1 âm lịch thì nó mới để yên cho làm ăn sinh sống.

Cứ vậy, thành lệ, như là một việc không làm không được. Lúc đó, bà Lạy

đã già lại không có chồng con, một mình mở ngôi quán nhỏ bán nước

cho người qua đường. Quá thương xót cho số phận dân làng, không đành

lòng trước cảnh tang tóc của các gia đình đến phiên có người nộp mạng

cho hổ. Năm ấy, vào ngày 10 tháng 1 âm lịch (là hạn phải nộp người cho

hổ), bà Lạy tình nguyện xin với dân làng cho mình được thế mạng với

một tâm nguyện rằng cái hạn hàng năm đó, từ nay sẽ được chấm dứt.

Đúng hạn, hổ lang đến vồ và tha bà đi từ Hạ Thái qua Văn Hội, Nhị Khê

rồi Phượng Công, để lại trên quãng đường dài nhiều vết máu. Đến

Phượng Công, hổ bỏ lại cái đầu và biến mất. Dân các làng trên thương

xót con người trượng nghĩa đã hy sinh thân mình để trừ họa cho cộng

đồng, nên đã đắp thành gò đống những nơi có vệt máu của bà. Dân làng

Phượng Công đã chôn cất chu đáo phần đầu của bà và lập miếu thờ. Dân

làng Hạ Thái ghi ơn, tôn bà làm thành hoàng làng và phối thờ cùng Đức

Ông Bùi Sĩ Lượng. (Hiện, trước cửa đình Hạ Thái còn một cái gò to, theo

lời kể, đó là dấu vết một vũng máu, nơi hổ vồ và tha bà đi). Không hiểu

do tâm nguyện của bà linh ứng hay vì lý do gì mà từ ngày ăn thịt bà Lạy,

con hổ lang bỏ đi biệt tích và dân làng Hạ Thái thoát được cái nạn phải

cống nộp người. Tâm nguyện ấy đã được truyền lại bằng một bài thơ,

Page 434: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

515

viết trên một bức họa vẽ cảnh hổ lang sắp ăn thịt bà Lạy; treo ở giữa đình

làng:

"Cái hẹn hàng năm quá nhiễu nhương

Làm sao cho hết hận thiên trường

No người một bữa vui thế đấy

Uất ức muôn lòng xót với thương

Cái nghiệp trần gian ta đã mãn

Giúp đời qua khổ hãy hiên ngang

Này thôi người nhé, từ nay hết

Cái hẹn hàng năm quá nhiễu nhương".

(Lời Đức Thánh Bà)

Từ đó đến nay, hằng năm, cứ đến ngày bà tịch 10 tháng một âm

lịch dân làng lại mở hội tưởng nhớ công đức của bà. Ngày hội thờ Bà

cũng đồng thời rước cả kiệu ông. Trong đình hiện còn giữ nhiều đồ vật

chạm khắc tinh xảo: kiệu Đức Ông hình trụ kép, kiệu Đức Bà là thuyền

mui luyện hình rồng, 2 lọng đều sơn son thếp vàng kim tuyến, bộ trống

gồm 1 trống cái 6 trống con, trống múa bồng, các cột chạm khắc hình

rồng...

Bên phải đình, cách một con đường nhỏ lát gạch là chùa Hạ Thái

(hay Thái Phúc tự). Trước kia chùa ở gần bờ sông, trong vườn bàng. Sau

này, các cụ trong làng muốn tiện việc cúng tế, mới xin rời chùa vào gần

đình. Thời gian rời chùa còn được khắc rõ trên cột ở Tam bảo: đó là ngày

15 tháng 5 năm Thành Thái thứ 10 (tức 1898). Từ đó đến nay, chùa đã

được trùng tu nhiều lần bằng công của của dân làng. Hiện, chùa cũng

đang được tiếp tục sửa chữa.

Thái Phúc tự xây theo kiểu chữ đinh với nghệ thuật chạm khắc

truyền thống. Ngoài hai bức cốn "Lưỡng long chầu nguyệt", trong chùa

còn lưu giữ một bộ tượng tròn phong phú và đa dạng gồm 21 pho: Tượng

Tam thế, (quá khứ, hiện tại, vị lai), Tam tôn (A di đà, Quan thế âm Bồ

tát, Đại thế chí Bồ tát), Ngọc Hoàng Thượng đế, Nam Tào, Bắc Đẩu, ông

khuyến Thiện, ông trừng ác, Mẫu Liễu, Bạch Hoa, Liên Hoa, Mai Hoa

công chúa, Đức Thánh Trần và các vị thần khác. Trước kia, chùa còn có

Tam quan rất đẹp, nhưng qua nhiều lần trùng tu, mái Tam quan đã bị dỡ

bỏ (do nứt, vỡ) mà không được chú ý xây lại. Điều này làm giảm đi

không ít giá trị kiến trúc của ngôi chùa.

Page 435: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

516

Cách đình và chùa Hạ Thái một quãng khoảng 500m là Nghè thôn

Hạ Thái (còn gọi là miếu Đức Ông hoặc miếu Năm Cửa). Hiện nghè này

chỉ là một phần của ngôi miếu cũ thờ Đúc Ông (Bùi Sĩ Lượng) và vợ là

Phương Anh phu nhân. Miếu mang tên Năm Cửa không phải do có 5 cửa

mà do được xây trên cánh đồng năm cửa. Theo lời kể, miếu này được

xây trước đình và chùa rất lâu, to, đẹp gồm hậu cung, nhà thiêu hương

tám mái. Nay nhà thiêu hương đã mất, chỉ còn lại hậu cung (chính là

miếu bây giờ), gồm ba gian, gian giữa thờ vợ chồng Đức Ông. Đây là nơi

thờ vọng Đức Ông của cả hai làng Duyên Trường và Hạ Thái. Đến ngày

sóc vọng (ngày 10 tháng ba âm lịch - ngày sinh - và ngày 10 tháng 8 âm

lịch - ngày hoá của Đức ông) miếu được mở cửa để bà con đến thắp

hương ngưỡng niệm, đồng thời kết tình giao hảo giữa hai làng.

Sở dĩ, có chuyện hai, ba làng cùng thờ vọng Đức Ông (ở đình và

miếu), ngoài lý do Bùi Sĩ Lượng được phong làm thành hoàng một vùng

(có lẽ gồm Hạ Thái và Duyên Trường), còn có lý do khác. Truyền thuyết

kể rằng: Trước kia trong miếu có thờ tượng Đức Ông bằng đồng đen rất

thiêng. Đêm đêm, ngài hiển linh đi tuần bảo vệ xóm làng khiến bọn trộm

cắp căm lắm. Một lần chúng chờ ngài hiển linh rời miếu rồi bê tượng

quảng xuống sông. Tượng trôi đến Duyên Trường thì dừng lại, dạt vào

bờ. Một người đàn bà Duyên Trường thấy vật đen trôi đến thì sợ quá,

tiện tay cầm chổi khua đẩy ra xa. Tượng trôi tiếp đến làng Phượng Dực

thì được đám trẻ chăn trâu vớt lên. Tối đó, dân làng thấy cả khoảng đất

ấy sáng rực thì ra rước tượng về thờ. Dân làng Hạ Thái biết tin đến rước

ngài về miếu nhưng bao nhiêu người khiêng cũng không nổi. Sau đó Đức

ngài hiển linh báo cho dân Hạ Thái rằng ngài không muốn về và dặn khi

nào Hạ Thái có việc, cứ đốt ba ống pháo lệnh và khấn, ngài sẽ về. Vì thế

ngày nay mỗi khi mở hội, làng Hạ Thái phải đốt ba quả pháo lệnh để mời

ngài về trước khi rước. Còn làng Duyên Trường, nơi người đàn bà xua

tượng đi thì cả làng sau đó toét mắt, phải ra miếu cầu cúng, thờ vọng mãi

mới khỏi...

Đình làng Hạ Thái thờ 2 vị thành hoàng nhưng lễ hội lại chủ yếu

mở vào ngày hóa của bà Lạy (10 tháng 1 âm) nghĩa là phần của Bà (trong

tâm người dân) vẫn hơn phần Ông. Còn việc thờ chính Đức Ông lại là ở

Duyên Trường, với chính hội là 10 tháng 8 âm, ngày ông hoá. Ngày đó,

dân Hạ Thái chỉ mở cửa đình thờ vọng, thắp nhang, chứ không mở lễ hội.

Mặc dù có nhiều ngày sóc vọng, cúng tế, song ngày hội lớn nhất,

hội chính của Hạ Thái được tổ chức vào ngày 10 tháng 1 âm lịch, tức

Page 436: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

517

ngày bà Lạy tự nguyện thế mạng, hiến mình cho cọp dữ. Điều đó chứng

tỏ rằng trong lòng người dân ở đây, nhân vật dân dã đã có ảnh hưởng

mạnh hơn nhân vật lịch sử. Hành động trượng nghĩa của một người đàn

bà bình thường, đơn độc đã được đánh giá cao hơn. Nhân dân rất công

bằng và có lý khi đưa ra sự lựa chọn (một cách không chính thức) này. ở

Hạ Thái, bóng dáng Đức Bà đậm nét hơn Đức Ông, mặc dù, trong hội, họ

không chỉ tế rước riêng bà, mà các nghi lễ đều được tiến hành song song

cho cả hai vị thành hoàng. Các thế hệ dân làng sùng kính bà tới mức, sau

này, triều đình cũng phải công nhận ơn đức của bà bằng đạo sắc phong

(niên đại Cảnh Hưng bốn mươi bốn), trong đó có viết : "Bà là người có

đức sáng thuần nhã... đạo theo lẽ trời, đức hợp với đất. Giúp nước giữ vẻ

thanh bình, có sức ngầm giúp giữ dân yên, mở mang sáng tốt... Xin ghi

chép lại nơi điển sách để lưu mãi muôn đời...". Từ những căn nguyên ấy,

ta có thể hiểu hơn vị đậm dân gian của lễ hội làng Hạ Thái.

Hội làng được tổ chức trong ba này, từ ngày 9 đến ngày 11 tháng

một âm lịch. Mùng 10 là chính hội. Không khí hội làm nhộn nhịp các

làng lân cận và ít nhiều khách thập phương cùng dân Hạ Thái đi làm ăn

xa, cũng nhớ ngày trở về để đoàn tụ với gia đình, họ mạc và để dự hội

làng.

Trước ngày khai hội khoảng nửa tháng, một tháng, ban tổ chức lễ

hội đã được dân làng lựa chọn, chủ yếu là các cụ trong hội thọ và các vị

chức sắc. Các lễ thức được tập dượt sẵn sàng, lễ vật phải được chuẩn bị

chu đáo, đặc biệt cây nêu phải được cắm cạnh giếng đình từ nửa tháng

trước hội. Xưa, cứ sắp vào hội, giếng đình bị cấm dùng nước để giữ cho

trong sạch, dành nước cho cúng tế và lễ rước nước. Ngày nay, nước ở

dây không được tinh khiết như xưa, nên dân làng đã dùng nước mưa để

thay thế, nhưng các lễ thức vẫn không thay đổi. Các cụ thay nhau quét

dọn, lau chùi đồ thừa tự ở đình, chùa, nghè. Mùng 9 tháng một treo cờ và

làm lễ mộc dục. Mọi gia đình quét dọn sạch đường làng, ngõ nhà, đi chợ

mua sắm để sáng mai làm lễ cúng tại gia, sau đó ra đình dự hội. Hân

hoan nhất là ngày 10 chính hội. Từ sớm tinh mơ, các cụ ông đã ra đình,

các cụ bà ra chùa để hoàn tất công việc chuẩn bị, các vị chức sắc kiểm tra

lần cuối mọi công việc để có thể bắt đầu cuộc tế lễ. Khi ngoài đình đã

đông người, các vị chức sắc chuẩn bị tuyên bố phần chính của lễ hội bắt

đầu. Trong không khí hồ hởi của người dự hội, trong sự trang nghiêm

của ban tổ chức, dưới bóng lá cờ đại và cờ ngũ sắc tung bay trong gió, cụ

chủ tế thắp hương khấn nhị vị thành hoàng, đồng thời đốt ba ống pháo

Page 437: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

518

lệnh mời Đức Ông về đình, chứng kiến sự ngưỡng vọng của bà con dân

làng. Tiếp đó là lễ rước nước (trước, nước được múc ở giếng đình, nay là

nước mưa) đặt lên bàn thờ. Kế theo là lễ dâng hương nghiêm cẩn để tế

thành hoàng, còn gọi là lễ lục cúng. Dù nhiều hay ít, lễ vật trong lễ dâng

hương phải đủ 6 thức, bao gồm: hương, hoa, nến (đăng), trà (chè hoặc

rượu), quả (các loại hoa quả), thực (oản, xôi nén, cơm).

Theo giọng xướng của người chủ xướng, chủ tế, bồi tế, phường

bát âm... cứ thế mà hành động theo đúng thứ tự vừa trang trọng, vừa chặt

chẽ, vừa trịnh trọng, vừa nhịp nhàng. Ví dụ, khi người chủ xướng hô:

"Khởi chinh cổ" thì chiêng trống bắt đầu nổi lên, hô "Thiên pháo"1 thì

pháo bắt đầu nổ ròn, hô "Củ soát tế vật" thì các cụ kiểm soát lại các vật

cúng tế xem thừa thiếu thế nào để còn bổ khuyết kịp thời. Cứ thế, lễ thức

của lễ dâng hương vừa trang trọng, vừa đẹp mắt, như một buổi trình diễn

nghệ thuật hô ứng, tạo một cảm giác đặc biệt linh thiêng. Cả người hành

lễ và người xem đều hòa nhập vào không khí trang trọng đến mê người.

Khi lễ lục cúng (dâng hương) xong xuôi, mới là lúc lễ hội bắt đầu với

không khí nhộn nhịp của nó bằng lễ rước kiệu từ đình ra miếu.

Kiệu Ông hình trụ đứng, kiệu Bà, hình thuyền rồng mui luyện

khảm khắc tinh tế, sơn son thếp vàng được khiêng ra cửa đình. ở quê

hương của nghề vàng mã và sơn thếp, các kiệu được những bàn tay thạo

nghề làm cho óng mướt, lấp lánh đầy vẻ quyến rũ.

Quãng đường từ đình ra miếu dài khoảng 500m, đường hẹp. Kiệu

Đức Ông là kiệu Long Đình do bốn thanh niên khiêng. Kiệu Đức Bà là

kiệu Bát Cống do tám cô gái khiêng. Những người khiêng kiệu (quân

kiệu) phải được chọn lọc, là những người khỏe mạnh, đạo đức tốt, chưa

vợ, chưa chồng, không vướng tang ma... Trên kiệu để bát hương, thanh

bông hoa quả.

Một đội múa sư tử đi trước dọn đường, kế là phường bát âm, đoàn

người mang cờ, đồ bát bảo, chủ tế và bồi tế. Tiếp đến là kiệu Ông, rồi

đến kiệu Bà. Nhiều khi đám rước kéo dài đến 2-3 trăm mét dọc con

đường hẹp từ đình ra miếu. Không khí rước xách thật hồ hởi, tưng bừng

trong tiếng trống sư tử, tiếng nhạc của phường bát âm, tiếng pháo và

tiếng reo hò. Đến miếu, chủ tế và bồi tế đem lễ vật vào bàn thờ làm lễ

1 Thiên pháo (Thiên: thiên lôi): Tiếng sấm cầu phúc, là tiếng gợi ý cho Thiên lôi gọi mây về

cho mưa xuống để có nước cày cấy, muôn loài sinh sôi. Sau này cũng gọi Thiên pháo, chỉ

mang nghĩa là đốt pháo khai thác buổi lễ.

Page 438: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

519

cáo yết, sau đó, các vãi, dân làng và du khách dâng thức cúng, thành tâm

cầu khấn. Xong cuộc khấn, hai kiệu lại được rước từ miếu về đình trong

không khí chẳng kém phần nào nhiệt so với lúc rước đi.

Có một hiện tượng đặc biệt, năm nào cũng diễn ra theo ba dạng

khi rước kiệu. Đó là kiệu bay : kiệu đang đi từ từ theo nhịp trống phách

bỗng chạy như bay về phía trước, người khiêng không sao dừng lại được;

kiệu dừng: kiệu đang đi bỗng dừng im một chỗ, và kiệu lùi: kiệu bỗng

chạy giật lùi rất nhanh làm cho người khiêng vô cùng vất vả. Các hiện

tượng này (và hiện tượng kiệu xoay ở một số đám rước khác) chưa thể

giải thích được1. Nhưng theo dân làng cho biết thì dù vậy, chưa bao giờ

có hiện tượng kiệu đổ hoặc quân kiệu bị thương, và bình hương, hoa quả

cũng không bị đổ. Mọi người cho rằng kiệu bay là ngài vui, kiệu dừng và

kiệu lùi và ngài giận vì đường đi còn uế tạp hoặc có người thất lễ. Lúc đó

sư tử phải múa bái tạ hoặc đốt pháo để tẩy uế, sau đó sự việc trở lại bình

thường. Lễ hội vừa rồi chỉ có kiệu Ông được quang dầu lại. Khi rước,

thường thì kiệu Ông đi trước, kiệu Bà đi sau, nhưng lần này kiệu Bà luôn

vượt lên trước kiệu Ông ngoài ý muốn. Dân làng giải thích rằng Bà giận,

nên mới "bay" lên trước Ông để "phản đối". Một ví dụ để thấy tính dân

gian của thần linh, cũng "đỏng đảnh" như con người.

Trong lúc đám rước diễn ra như vậy thì tại chùa, các cụ bà đang

tấp nập têm trầu pha nước mời khách và chia lộc cho khách thập phương

cùng thiện nam tín nữ. Lộc chỉ là một phẩm oản, một miếng trầu, một

quả chuối, nhưng ai cũng nâng niu, trân trọng. Xung quanh địa điểm hội

và trên sân đình, các trò diễn dân gian đang được trình tấu. Đông nhất là

đám múa sư tử với ông địa béo ục bụng to, tay che mặt nạ, tay cầm quạt,

õng a õng ẹo. Kia là múa xinh tiền, chỗ khác là xới vật, chỗ này là chọi

gà, nơi kia tấu nhạc. Dân làng kể rằng trước kia còn có múa con đĩ đánh

bồng, trò chạy chữ, trò tổ tôm điếm và những đêm chèo sân đình, nhưng

bây giờ chưa có điều kiện phục hồi lại. Ngày 11 là ngày tổ chức lễ tạ tại

đình. Đến chiều, đồ tế lễ được thu gọn. Lộc cúng được phát cho tất cả

mọi người. Lễ hội kết thúc trong một tâm trạng thoải mái và phấn khởi

Đến với hội làng Hạ Thái, dù không phải dịp xuân thu nhị kỳ, bạn

cũng sẽ được đắm mình trong niềm vui hội hè, được chiêm ngưỡng

những cảnh quan đẹp đẽ, được hòa mình trong niềm ngưỡng vọng cao

1 Theo một số nhà nghiên cứu, hiện tượng bất thường (bay,quay, lùi, đứng...) của rước kiệu

là biểu hiện một sự xuất thàn tập thể. Kiệu bay gắn với thần vui, quay: thần chào nhau,

cũng có khi chưa vừa ý; lùi và dừng: thần giận...

Page 439: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

520

thượng, biểu tượng là hành động trượng nghĩa của nữ thần hoàng làng,

người đã hiến thân cho sự an vui của dân làng, người đã tạo nguồn cho

sự hình thành một lễ hội làng đông, vui và đầy ý nghĩa. Và, có lẽ, đó

cũng là sức cuốn hút khôn cùng của hội làng Hạ Thái./.

P.V.D

Page 440: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

528

Hội hát Chèo tầu

Nguyễn Xuân Kính

Trước kia, Tân Hội có tên là Cối Sơn thuộc huyện Quốc Oai tỉnh

Sơn Tây. Về sau, Cối Sơn đổi thành Gối Sơn, Gối Thượng. Năm 1905, vùng đất này được chia thành ba xã: Vĩnh Kỳ, Thúy Hội và Thượng Hội (riêng xã Thượng Hội chia làm hai thôn Phan Long và Vân Hội). Ba xã này là một bộ phận của tổng Thượng Hội thuộc huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức tỉnh Hà Đông cũ. Từ sau cách mạng tháng Tám (1945) đến trước Cải cách ruộng đất (1955), Tân Hội bao gồm các thôn: Phan Long, Thượng Hội, Thúy Hội, Vĩnh Kỳ, Ngọc Kiệu, Đan Hội, Hạnh Đàn, Hạ Hội. Sau Cải cách ruộng đất, Tân Hội lại chia thành xã Tân Hội và Tân Lập 1. Xã Tân Hội hiện nay thuộc huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây, bao gồm bốn thôn: Thượng Hội, Thúy Hội, Phan Long và Vĩnh Kỳ. Bốn thôn (làng) này nằm quây xung quanh một cái chợ như ca dao địa phương đã ghi nhận:

Bốn làng thì ở bốn bên

ở giữa có chợ trên đền thờ vua.

Do dân số đông, ruộng đất canh tác ít, ở Tân Hội, việc làm ruộng chỉ là một nghề bên cạnh nhiều nghề khác như nghề dệt, rèn, mộc, đan lát. Không chỉ lao động tại địa bàn cư trú, người dân Tân Hội còn tỏa đi làm việc ở nhiều nơi khác (trong số đó có Thăng Long xưa và Hà Nội ngày nay). Dần dần do các nghề thủ công phát triển và do việc đi làm ở những nơi khác đem lại thu nhập cao hơn, nghề làm ruộng được coi như một nghề phụ; người dân nơi đây cũng ít khi trực tiếp làm việc ở đồng ruộng vì thuê nhân công ở nơi khác2.

Khi nhắc đến vốn văn hóa, văn nghệ dân gian cổ truyền ở Tân

Hội người ta không thể nào quên hội hát chèo tầu (một loại diễn xướng

nghi lễ, thường được gọi là dân ca nghi lễ).

I. Những giải thích khác nhau về nguồn gốc hát chèo tầu

Có ba truyền thuyết giải thích nguồn gốc của hội hát chèo tầu.

1 Xin xem: 40 năm chiến đấu, xây dựng của Đảng bộ và nhân dân xã Tân Hội. - Hà Nội:

Ban chấp hành Đảng bộ xã Tân Hội xuất bản, 1985, trang 5-6. 2 Theo lời các đồng chí lãnh đạo xã Tân Hội trong buổi làm việc với chúng tôi ngày 19

tháng 10 năm1993, sản xuất nông nghiệp hiện nay chiếm 25% tổng thu nhập của xã.

Page 441: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

529

Truyền thuyết thứ nhất kể rằng ngày xưa khi Hai Bà Trưng kéo

quân qua tổng Gối để đánh quân nhà Hán, thuyền bè qua lại trên sông

Nhuệ, sông Hồng hết sức nhộn nhịp. Để tưởng nhớ công ơn của Hai Bà,

dân địa phương thực hiện hình thức diễn xướng này.

Truyền thuyết thứ hai cho biết, sau khi đánh đuổi quân nhà Lương

ra khỏi bờ cõi, Triệu Quang Phục (thế kỷ VI) lên ngôi vua. Lý Phật Tử

không chịu thần phục nên cuộc tranh chấp giữa hai bên đã xảy ra và kéo

dài nhiều năm. Triệu Quang Phục hiểu rằng nếu hai bên cứ tiếp tục xung

đột thì rất bất lợi cho nền độc lập của đất nước. Ông đã viết thư cho Lý

Phật Tử đề nghị hội quân ở bãi Quân Thần (một địa điểm ở gần xã Tân

Hội ngày nay) để thương lượng về việc phân chia vùng đất cai quản của

mỗi bên. Trong cuộc hội quân ấy, Lý Phật Tử đi thuyền, còn Triệu

Quang Phục thì cưỡi voi. Hội hát chèo tầu là hình thức diễn lại cuộc gặp

gỡ ấy.

Truyền thuyết thứ ba kể rằng vào đời Trần, Văn Dĩ Thành là một

nho sinh học giỏi, chưa lấy vợ. Một hôm, trời mưa gió, ông đi học về qua

cánh đồng (nay là khu lăng) tự nhiên hóa. ở chỗ ông mất, mối đùn lên

thành một gò đất lớn. Dưới cõi âm, ông được Diêm Vương phong làm

tướng Dạ Xoa. Ông thường giúp dân quanh vùng tránh được dịch bệnh.

Dân làng nhớ ơn ông, tôn thờ ông là Thần Thành Hoàng và hội hát chèo

tầu có nguồn gốc từ việc thờ cúng Văn Dĩ Thành 1 .

Trên đây là những truyền thuyết do các nhà sưu tầm, nghiên cứu

đi trước đã công bố.

Trong chuyến đi khảo sát vào tháng 10 năm 1993, chúng tôi xác

nhận ở Tân Hội có ba truyền thuyết đã nêu. Do trình độ dân trí đã phát

triển, các cụ già ở địa phương đều đã đọc các tài liệu đã công bố nói trên.

Có một điều các cụ muốn bổ sung rằng, về công đức của Văn Dĩ Thành,

ông không chỉ là một phúc thần giúp dân tránh dịch bệnh, ông còn là

người yêu nước chống giặc Minh ngay khi còn trai trẻ. Các cụ đã đọc cho

chúng tôi nghe một bài vè dài trong đó có đoạn Văn Dĩ Thành đối đáp

với tướng giặc Minh Tư. Biết Văn Sĩ Thành là người tài cao học giỏi, có

1 Xin xem:

a. Nguyễn Hữu Thu Hát chèo tầu; in trong tập sách nhiều tác giả: Tục ngữ ca dao dân ca

Hà Tây. - Sở Văn hóa thông tin Hà Tây tái bản, 1993.

b. Trần Bảo Hưng, Nguyễn Đăng Hòe: Hát dô, hát chèo tầu Ty Văn hóa thông tin Hà Sơn

Bình xuất bản, 1978.

Page 442: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

530

uy tín trong dân chúng, Minh Tư muốn trọng dụng ông để thu phục lòng

dân:

"Làm người mà muốn vẫy vùng

Bay cao ngang dọc ông ưng chim nào?"

Văn Dĩ Thành đáp:

"Thưa rằng lời nói thanh tao

Làm con hồng yến bay cao trên đầu

Ngày đêm nó hót đôi câu

Quê hương xứ sở mong cầu yên vui".

Trước lý lẽ "đại bàng chim lớn" của Minh Tư, Văn Dĩ Thành cho

rằng:

" Đại bàng trong gió vẫy vùng

Nằm trong biển cả anh hùng độc thân

Gặp cơn mưa bão ào ào

Bay ra cụt cánh bay vào bất yên."

Trước sự dọa dẫm của bạo quyền:

"Yến hồng mi chớ khoe hay

Đại bàng không để cho mày hót đâu"

Văn Dĩ Thành bình tĩnh trả lời tướng giặc:

"Yến hồng đang ở bụi lau

Đại bàng ở bể gặp nhau cũng kỳ

Bàng cụp cánh bàng đi xuống đất

Bắt làm sao cho nổi yến hồng?

Kẻo mà cụt cánh gẫy lưng

Đất bằng yến cũng chẳng dung đại bàng" 1

Dấu tích về Văn Dĩ Thành còn lại đến ngày nay là ngôi đền thờ và

khu lăng. Theo nhà nghiên cứu Trần Bảo Hưng ngôi đền được xây dựng

từ hồi nhà Lê, đã được trùng tu nhiều lần (lần cuối cùng vào đầu thế kỷ

1 Theo lời kể của các cụ Phạm Bình Gia (80 tuổi), Nguyễn Vĩ Bảo (78 tuổi), Ngô Văn Cúc

(84 tuổi).

Page 443: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

531

XX). Tại ngôi đền này, còn lưu giữ được bốn mươi sắc phong của các

triều vua từ nhà Lê đến nhà Nguyễn, sắc phong xưa nhất vào năm Vĩnh

Tộ thứ hai (1620) và sắc phong muộn nhất vào năm Khải Định thứ chín

(1924). Nhiều câu trong lời ca của hội hát chèo tầu đã ghi nhận việc triều

đình bao phong Văn Dĩ Thành:

"Đại vương đức hậu công cao

Long chương phượng cách lịch trào sắc phong.

Bảo dân hộ quốc trừ tai

Tư dân xích tử nhờ ngài bình yên"

Cũng ở thôn Thượng Hội, còn có lăng Văn Dĩ Thành; nơi đây có

đôi câu đối:

"Trần đại hiển linh quan cổ lục

Lê gia triều tự diễn kim truyền"

Nghĩa là:

"Xưa chép rõ ràng đời Trần hiển thánh

Nhà Lê lập đền thờ truyền đến ngày nay" 1

Do nhiều lý do, đã bảy mươi năm qua hội hát chèo tầu không

được tổ chức. (Lần cuối cùng là vào năm 1922). Chỉ ra một cách chính

xác về nguồn gốc của loại diễn xướng nghi lễ này là một điều rất khó

thực hiện. Chỉ biết rằng, dù để tưởng niệm Hai Bà Trưng, dù để diễn lại

cuộc hội quân của Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử, dù để ca ngợi công

đức của Văn Dĩ Thành thì những mục đích trên không hề xa lạ với truyền

thống dân tộc: uống nước nhớ nguồn, ghi nhớ và biết ơn các vị tiền bối

có công với dân, với nước. Một mặt chúng ta ghi nhận rằng theo lời kể

dân gian, con sông mà Hai Bà Trưng đi qua còn đây và đền thờ, khu

lăng, sắc phong Văn Dĩ Thành vẫn còn đang được gìn giữ. Mặt khác,

cũng như nhiều nhà nghiên cứu, chúng ta thừa nhận rằng ngày nay, trên

địa bàn Tân Hội, truyền thuyết và những di tích về Văn Dĩ Thành được

lưu truyền phổ biến hơn và còn được bảo tồn đậm nét hơn.

II. Hội hát chèo tầu

1 Xin xem Trần Bảo Hưng, Nguyễn Đăng Hòe, sách đã dẫn, tr. 132.

Page 444: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

532

Khoảng 25 hoặc 30 năm người ta mới mở hội hát chèo tầu. Điều

kiện để mở hội là:

1. Thời tiết thuận lợi, mùa màng bội thu;

2. Được cả tổng đồng ý. (Trong số bốn thôn Thượng Hội, Thúy

Hội, Phan Long, Vĩnh Kỳ, nếu một thôn không tán thành thì hội cũng

không được mở:

"Mừng nay cảnh vật hy minh

Bốn dân định hội đóng đinh chèo tàu".

Nếu không mở hội, hàng năm từ ngày rằm tháng giêng âm lịch

cho đến hết ngày 23 tháng này, dân hàng tổng vẫn tiến hành tế lễ.

Nếu mở hội (vào bảy ngày nêu trên), từ rằm tháng tám (Tết Trung

thu) năm trước, dân làng bắt đầu các công việc chuẩn bị luyện tập.

Đối với Thượng Hội và Thúy Hội, mỗi thôn làm một chiếc thuyền

rồng bằng gỗ, ở giữa thuyền có mui bồng trông như một cái lầu nhỏ.

Thuyền dài khoảng bốn năm mét, rộng hai mét, có tám bánh xe cho nên

người ta có thể đẩy đi đẩy lại trên cạn một cách dễ dàng. Vào hội, mỗi

thuyền sẽ chở một chúa tầu, hai cái tầu và mười con tầu. Chúa tầu do một

phụ nữ đứng tuổi (từ 50 tuổi trở lên) đảm nhiệm, sẽ ra lệnh cho các con

tầu ca hát. Cái tầu gõ sênh giữ nhịp dẫn câu hát. Cái tầu và con tầu do các

cô gái từ 13 đến 16 tuổi sắm vai. Những cô gái này phải có thanh sắc,

phải đạt những tiêu chuẩn nhất định về phẩm hạnh. Trên thuyền có một

lá cờ và 13 cái lọng để che cho chúa tầu, cái tầu và con tầu.

Đối với Vĩnh Kỳ và Phan Long, mỗi thôn làm một con voi đan

bằng tre hoặc cốt gỗ, bên ngoài phết giấy. Voi cao khoảng hai mét rưỡi,

dài hơn ba mét, được đặt trên bệ gỗ có bánh xe để di chuyển. Mỗi con sẽ

có hai quản tượng đều do các cô gái từ 13 đến 16 tuổi đóng giả trai.

Về trang phục, chúa tầu (còn gọi là mẹ chiêu quân) đầu đội mũ

thêu bảy con chim phượng, mặc áo hồng, tay cầm gương soi bằng ngà,

chân đi hài song phượng. Quản tượng đội mũ đâu mâu thần võ, mặc áo

hồng bào, tay thụng ngắn, khoác cổn chiến y. Người quản tượng ở phía

trước che lọng xanh, tay cầm búa ngọc, đeo loa đồng. Người quản tượng

ở phía sau cũng có lọng và búa như thế, chỉ khác ở chỗ đeo kim giác.(1)

(1)

Về trang phục của chúa tầu, cái tầu, con tầu và quản tượng, Nguyễn Hữu Thu và Nguyễn

Page 445: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

533

Khi mở hội, vào đúng rằm tháng giêng, dân bốn thôn rước kiệu ra

khu đại dinh (khu lăng Văn Dĩ Thành hiện nay). Đám rước bắt đầu từ

thôn Thượng Hội, có trống, chiêng, cờ, lọng, xe loan, kiệu, có hương án,

có hai tầu (thuyền) và hai tuợng (voi). Ngoài số lượng chúa tầu, cái tầu,

con tầu và quản tượng như đã nêu ở trên, bốn thôn còn chọn lựa 50 thiếu

nữ xinh đẹp và 200 hàng đô (nam thanh niên) để cầm cờ, cầm lọng, đánh

trống, khiêng kiệu...

Sau khi rước, đến tối có lễ yên vị.

Vào những ngày tiếp theo, ngày nào cũng có hát chèo tầu.

Trình tự một ngày hát gồm bốn bước:

1. Người chủ tế hoặc bô lão của từng thôn dẫn chúa tầu, cái tầu,

con tầu vào làm lễ trình. Lúc này họ chỉ đi người không chứ không đem

theo thuyền. Chúa tầu, con tầu và chủ tế hát mở đầu bằng một bài lễ

trình, một bài dâng hương, một bài dâng rượu. Thí dụ, đây là một đoạn

của lời hát trình:

"Tháng giêng ngày võng tiệc lầu

Cứ trong giai tiết phải cầu giai nhân

Mỗi làng bốn mẹ chiêu quân

Năm mươi mỹ nữ thanh tân mỹ miều

Tướng cờ, tướng kiệu, chúa tầu

Hai đội liệt nữ cưỡi đầu hai voi

Hàng đô kén đủ trăm đôi

Tám viên thể sát dẹp voi đám này

Sắp hàng giăng mái đông tây

Cờ bay phượng múa quạt bay rồng chầu".

2. Con tầu và quản tượng hát xướng họa, sau đó chuyển sang hát

bỏ bộ. Đây là lời hát bỏ bộ:

+ "Đường xa Kẻ Chợ xem voi

Kìa bãi tập trận, nhà chòi bắn cung

Đăng Hòe miêu thuật có những chi tiết khác nhau (các sách đã dẫn). Những vật làm bằng

ngọc, bằng vàng được nhắc đến ở đây chỉ là tượng trưng, không phải là ngọc, vàng thật.

Page 446: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

534

Bắn con ngựa hồng báo tiền báo hậu

Các quan võ thần mặc áo nâu thắt lưng xanh

Khẩu súng vác vai chân anh quì đạp

Anh đánh trận này, anh đuổi trận này giả nợ nhà vua

Bõ công dãi nắng dầm mưa".

(...)

+ "Ngồi buồn xe chỉ, chỉ xe

Mua kim về xỏ ngồi hè vá may

Mất kim ta lại tìm kim

Khêu đèn cho tỏ ta nhìn mặt nhau

Nhìn qua chớ có nhìn lâu

Thoáng qua một tí bán sầu mua vui".

Qua hai thí dụ trên, chúng ta thấy lời hát bỏ bộ tương đối hoàn

chỉnh về mặt nội dung. Khi hát, nghệ nhân thường múa kèm theo hoặc

làm động tác (bắc cung, dệt vải) minh họa nội dung lời hát.

3. Các quản tượng hát chúc:

"Chắp tay vào lạy long trì

Chúng con quản tượng nữ nhi lễ trình

Xin chúc vua hách hách minh minh

Dạ Xoa súy mệnh thiên đình sắc phong

Xin chúc vua kiến cựu cư trung

Lễ minh đức hiệp bàn long tượng phù

Xin chúc vua niệm phúc dụng phu

Niên niên ca vũ Đường Ngu thái hòa

Mấy lời dâng suốt cao xa

Trình rồi xin bước chân đà lên voi".

4. Sau khi ra khỏi khu vực bàn thờ, các con tầu và quản tượng

đứng trên thuyền và ngồi trên voi hát đối đáp giao duyên. Thí dụ, tượng

hát:

"Cậu ở trong Quảng cậu ra

Page 447: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

535

Đồn rằng có hội cậu ra ve tầu

Môi son má phấn một màu

Thi nhau bẻ lá đua nhau cậy tài

Lạ lùng tôi biết cậy ai

Má hồng xin gửi một vài câu thơ

Nên chăng để tượng tôi thờ

Kẻo đêm xuân muộn, ngày ngơ ngẩn lòng".

Tầu đáp:

"Đồn rằng hai xã có voi

Vượt qua cửa biển xem voi thế nào

Voi kia vừa lớn vừa cao

Có hai chú quản ra điều gió giăng

Gió giăng thì mặc gió giăng

Kìa như chú quản không bằng tầu đây".

Cuộc hát kéo dài một ngày.

Sang ngày hôm sau, trình tự trên được lặp lại. Đáng chú ý, trong

khi làn điệu âm nhạc được giữ nguyên, lời ca các bài lễ trình, dâng

hương, dâng rượu, lời ca các bài hát của tầu, tượng thay đổi từng ngày.

Ngoài ra, mỗi thôn cũng lại có bài hát riêng. Khi hát trước bàn thờ, mọi

người đều nghiêm trang, thành kính; còn khi hát ở ngoài thì hát thoải

mái, tự do hơn.

III. Vai trò đặc biệt của người phụ nữ trong việc tham gia hội hát

chèo tầu

Tân Hội có truyền thống khoa cử. Theo sách Hà Nội tự điển của

Nguyễn Bắc, Bùi Hạnh Cẩn và Nguyễn Vinh Phúc, trong mục "Những

ông nghè..." chỉ riêng thôn Vĩnh Kỳ đã có bốn vị khoa bảng: Đỗ Bá

Lược, Nguyễn Quang Hiền, Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn Nhân An (thi

đỗ vào các năm 1463, 1475, 1523, 1555 (1). Còn ở thôn Phan Long, năm

1665, cụ Nguyễn Duy Minh thi đậu Tam tràng. Ngoài ra, ở Tân Hội xưa,

(1)

Hà Nội tự điển, Nxb Hà Nội, 1990. Sách này xếp những người đỗ Trạng nguyên, Bảng

nhãn, Thám Hoa, Hoàng Giáp, Tiến sĩ, Phó bảng vào mục "Những ông nghè...".

Page 448: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

536

những người đậu Cử nhân, Tú tài không hiếm; số người theo Nho học

(kể cả những người không đi thi hoặc thi không đỗ) lại càng nhiều.

Những điển tích, những câu chữ Hán trong lời ca hát chèo tầu và ba tập

chữ nôm Đại hội tầu tượng ca khúc ghi chép nghi thức của hội hát chèo

tầu chứng tỏ các nhà nho nơi đây đã có vai trò rất quan trọng đối với dân

ca nghi lễ này.

Nói đến Nho học, bên cạnh những giá trị tích cực, chúng ta không

quên quan niệm trọng nam khinh nữ mà các nhà nho chủ trương: "nữ

nhân nan hóa" (phụ nữ khó giáo dục), "nhất nam viết hữu, thập nữ viết

vô" (người nào dù chỉ có một con trai cũng là có con, còn nếu không có

con trai mà có đến mười con gái thì cũng coi như không có con). Đối với

nhà nho, trong ba điều bất hiếu thì không có con trai nối dõi là điều bất

hiếu lớn nhất ("bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại").

ở chốn cung đình và khi chế độ phong kiến thịnh thời, quan niệm

trọng nam khinh nữ thường tỏ rõ sức mạnh. Còn ở các làng quê nước

Việt, dù rằng ở làng nào cũng có người theo đòi cửa Khổng, sân Trình,

quan niệm trên không ít khi chỉ nằm gọn trong sách vở "thánh hiền".

Trong sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian ở các thôn làng, người phụ

nữ thường được nam giới rất trân trọng:

"Đêm nay mây trắng trời xanh

Mời bên em lên giọng trước, bên anh xin đáp lời"

(Hát ghẹo Nghệ Tĩnh)

ở Hà Bắc, trong các cuộc hát ví, các cô gái tuyên bố:

"Nam phải tòng nữ chàng ơi

Nam không tòng nữ, chúng tôi ra về".

ở Tân Hội, người ta không lưu truyền những giai thoại về các nữ

danh ca địa phương có tài bẻ chuyện, kể vè. Song ở nơi đây, người ta

cũng đã bộc lộ việc trân trọng phụ nữ bằng cách của riêng mình.

Thứ nhất, trong lời các bài hát chèo tầu, không hiếm những câu ca

ngợi phụ nữ, đề cao phụ nữ:

+ "Mỗi làng bốn mẹ chiêu quân

Năm mươi mỹ nữ thanh tân mỹ miều"

+ "Ngày nay bạn gái tầu rồng

Page 449: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

537

Nữa mai cá nước vẫy vùng biển đông"

+ "Tôi quản nữ lên ngồi đầu tượng

Khăn nhiễu điều đổi dáng nam nhi

Quần hồng vén bức nhung y

Tay cầm búa ngọc, miệng thì gọi loa".

+ "Xưa Cửu Chân có bà Triệu ẩu

Bậc thao quần mà dấu vận nhau

Trên đầu voi xung phá Ngô quân

Cờ vàng chỉ phong vân biến thái

Anh việt nhất trường xưng Lệ Hải

Anh hùng vạn cổ nổi xưng vương

Thân bồ liễu, chí bồng tang

Sử xanh còn tỏ biển vàng chưa phai

Rõ ràng nữ kiệt anh tài

Một niềm ưu ái đội vai sơn hà

Chị em ta cùng trong nữ giới

Dẫu voi lồng chẳng ngại phong trần

Sao cho đáng bậc hồng quần" (1)

Thứ hai, như đã trình bày ở trên, trong việc sắm vai ở hội hát, bên

cạnh việc đóng chúa tầu, cái tầu, con tầu do phụ nữ đảm nhiệm, các vai

quản tượng cũng do con gái đóng giả trai. Điều này thật là độc đáo. Nếu

chúng ta nhớ lại, trong nhiều thế kỷ, tại cung điện triều Nguyễn, trong

các đội tuồng, vai phụ nữ bao giờ cũng do nam diễn viên đóng thì việc

phụ nữ Tân Hội không chỉ đóng các vai nữ mà còn giả trai để đóng các

vai quản tượng thật có ý nghĩa biết bao. Về hiện tượng này, có ý kiến giải

thích rằng do nam giới trong làng đi làm ăn nơi xa, phụ nữ gắn với khung

cửi ở nhà nên có điều kiện tham gia hội hát chèo tầu. ý kiến này chưa đủ

sức thuyết phục bởi vì trong thời gian mở hội, bốn thôn vẫn cử ra được

(1)

Những lời của các bài hát chèo tầu đều được trích từ Nguyễn Hữu Thu, Trần Bảo Hưng,

Nguyễn Đăng Hòe, sách đã dẫn.

Page 450: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam - phần 1

Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

538

200 (hai trăm) nam thanh niên (gọi là hàng đô) tham gia như dân địa

phương đã ghi nhận:

"Hàng đô kén đủ trăm đôi

Tám viên thể sát dẹp coi đám này".

Từ sự phân tích như vậy, chúng ta thấy trong hội hát chèo tầu,

những người phụ nữ đóng vai trò rất quan trọng.

*

* *

Đã bảy thập kỷ đi qua, hội hát chèo tầu chưa được mở. Song có

nhiều tiền đề thuận lợi để chúng ta tin rằng nó sẽ được phục hồi trên

mảnh đất văn hóa, văn vật này./.

N.X.K