149
A. CÂU HỎI THAM KHẢO ÔN THI KHỐI KIẾN THỨC I (Tài liệu chỉ lưu hành nội bộ khóa 32 Phù Cát) Câu 1. Giai cấp và đấu tranh giai cấp Câu 3. Vấn đề sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân Câu 4. Dân chủ XHCN và bản chất của dân chủ XHCN. Quá trình thực hiện dân chủ ở Việt Nam Câu 5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Câu 6. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc Câu 7. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc. Vận dụng trong thực tiễn như thế nào để giữ vững và phát triển đất nước? Câu 8. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc Câu 9. Phát huy tư tưởng đại đoàn kết toàn dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới Câu 10. Làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Đảng ta đã quán triệt và vận dụng quan điểm đó trong công cuộc xây dựng đất nước ra sao? Câu 11. Những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về nguyên tắc xây dựng Đảng CSVN. Sự vận dụng trong công cuộc chỉnh đốn Đảng hiện nay Câu 12. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân Câu 13. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý ở Việt Nam Câu 14. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Câu 15. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực và con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Ngày nay, việc vận dụng những luận điểm trên trong công cuộc đổi mới đất nước ta như thế nào? Câu 16: Có ý kiến cho rằng chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc duy nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo đồng chí đúng hay sai? Vì sao? Câu 17: Tại sao Đảng phải đổi mới, tự chỉnh đốn? Câu 18: Quan điểm của Hồ Chí Minh nhà nước kiểu mới. Trong tình hình hiện nay, làm thế nào để xây dựng, nâng cao hiệu lực pháp lý ở nước ta? Câu 19: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc. Vận dụng nhận thức trong thực tiễn như thế nào để giữ vững và phát triển đất nước? Câu 20. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng Câu 21. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về tôn giáo

Khoi kien thuc 1

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Khoi kien thuc 1

A. CÂU HỎI THAM KHẢO ÔN THI KHỐI KIẾN THỨC I(Tài liệu chỉ lưu hành nội bộ khóa 32 Phù Cát)

Câu 1. Giai cấp và đấu tranh giai cấp

Câu 3. Vấn đề sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân

Câu 4. Dân chủ XHCN và bản chất của dân chủ XHCN. Quá trình thực hiện dân chủ ở Việt Nam

Câu 5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản

Câu 6. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc

Câu 7. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc. Vận dụng trong thực tiễn như thế nào để giữ vững và phát triển đất nước?

Câu 8. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc

Câu 9. Phát huy tư tưởng đại đoàn kết toàn dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới

Câu 10. Làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Đảng ta đã quán triệt và vận dụng quan điểm đó trong công cuộc xây dựng đất nước ra sao?

Câu 11. Những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về nguyên tắc xây dựng Đảng CSVN. Sự vận dụng trong công cuộc chỉnh đốn Đảng hiện nay

Câu 12. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân

Câu 13. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý ở Việt Nam

Câu 14. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Câu 15. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực và con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Ngày nay, việc vận dụng những luận điểm trên trong công cuộc đổi mới đất nước ta như thế nào?

Câu 16: Có ý kiến cho rằng chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc duy nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo đồng chí đúng hay sai? Vì sao?

Câu 17: Tại sao Đảng phải đổi mới, tự chỉnh đốn?

Câu 18: Quan điểm của Hồ Chí Minh nhà nước kiểu mới. Trong tình hình hiện nay, làm thế nào để xây dựng, nâng cao hiệu lực pháp lý ở nước ta?

Câu 19: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc. Vận dụng nhận thức trong thực tiễn như thế nào để giữ vững và phát triển đất nước?

Câu 20. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng

Câu 21. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về tôn giáo

Page 2: Khoi kien thuc 1

NỘI DUNG THAM KHẢO THI KHỐI KIẾN THỨC I

Câu 20: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – lênin về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp, dân tộc, nhân loại và sự vận

dụng của Đảng ta vào Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay? 

. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – LêNin về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp, dân tộc nhận loại

+ Giai cấp: những tập đoàn to lớn, những tập đoàn này khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống

sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử.(khác về: đối với tlsx ; vai trò trong tổ chức lao động ; cách hưởng

thụ )+ Đấu tranh g/c : là cuộc đấu tranh giữa các g/c có lợi ích cơ bản đối lập nhau và không thể điều hoà được. Đỉnh cao của đấu tranh g/c là CM xã hội. 

Đấu tranh g/c nảy sinh do sự đối lập về lợi ích căn bản và không điều hoà được của các g/c có địa vị khác nhau trong hệ thống SX xã hội nhất định. Thông qua đấu tranh g/c mà mâu thuẫn llsx và

qhsx được giải quyết. Trên cơ sở đó thúc đẩy xã hội phát triển.

Dân tộc: là khái niệm chỉ hầu như tất cả các hình thức cộng đồng người trong lịch sử.

Quan hệ giai cấp - dân tộc: - Vai trò g/c đối với dân tộc:

+ Quan hệ g/c xét cho cùng quy định sự hình thành dân tộc, xu hướng, bản chất xá hội , tính chất quan

hệ giữa các dân tộc.+ Áp bức g/c là cơ sở , nguyên nhân của áp bức dân

tộc.+ Nhân tố g/c là nhân tố cơ bản trong phong trào

giải phóng dân tộc.- Vai trò dân tộc đối với g/c:

+ Vấn đề dân tộc là vấn đề hàng đầu của cmvs.+ Áp bức dân tộc tác động mạnh mẽ tới áp bứcg/c,

nuôi dưỡng áp bức g/c, làm sâu sắc thên áp bức g/c.

Page 3: Khoi kien thuc 1

+ Đ tranh dân tộc tác động mạnh mẽ tới đấu tranh g/c.

+ Dân tộc là cơ sở của g/c, nuôi dưỡng đấu tranh g/c, tạo cơ sở sức mạnh g/c.Quan hệ g/c - nhân loại : 

Nhân loại là khái niệm chỉ toàn thể công đồng người sống trên trái đất, không phân biệt dân tộc, chủng

tộc, tôn giáo, g/c.+ Các nhà tư tưởng trước Mác họ chư được tính lịch

sửcủa khái niệm nhân loại, mà chỉ thấy mặt tự nhiên, mặt sinh vật của tính thống nhất nhân loại.+ CNM cho rằng con người là sinh vật có bản chất

xã hội, do đó nhân loại là cộng đồng của những thực thể xã hội.

+ Trong XH có g/c, vấn đề g/c không phải vấn đề riêng của 1 g/c, 1 tầng lớp nào đó, mà là vấn đề của toàn nhân loại. Đấu trnh giải phóng g/c, giải phóng dân tộc bị áp bứclà nội dung cơ bản của quá trình

giả phóng con người, đưa nhân loại tiến lên. Do vây, không thể tách rời vấn đề g/c với vấn đề nhân loại.+ GCCN-sản phẩm của phương thức SX tbcn, đại

diện cho llsx tiên tiến, có tính chất xã hội hoá cao-do vậy gccn có bản chất cm và có tính chất quốc tế.

Lợi ích của gccn phù hợp với lợi ích nhân loại. 2. Sự vận dụng của Đảng ta vào Việt Nam trong giai

đoạn cách mạng hiện nay- Nhân tố quan trọng đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi vẻ vang đó là ĐCSVN đứng đầu là HCM đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại trong từng điều kiện lịch sử cụ thể. Nét đặc biệt nhất của việc giải quyết mối quan hệ đó là gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Mối

liên hệ này xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, chi phối các mặt khác của cuộc cách mạng.- Để tận dụng thời cơ, đẩy lùi thách thức, đưa sự

nghiệp cách mạng Việt Nam tiến lên, vấn đế quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại ở Việt Nam cần đảm bảo

Page 4: Khoi kien thuc 1

những nội dung sau:+ Giải quyết tốt mối quan hệ giai cấp với đoàn kết

dân tộc.+ Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường với đoàn kết dân tộc

+ Giải quyết mối quan hệ giữa giữ vững độc lập tự chủ với mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, phát huy

sức mạnh nội lực của dân tộc với tranh thủ sức mạnh của thời đại.

Câu 1. Giai cấp và đấu tranh giai cấp* Giai cấp:Trước khi triết học Mác ra đời, đã có nhiều quan điểm khác nhau về sự phân chia xã hội thành

giai cấp, nhưng đều chưa khoa học và chưa đưa ra được nguyên nhân thực chất của sự khác nhau về giai cấp. Đến khi chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời, mới đưa ra được nguyên nhân thực chất của sự khác nhau về giai cấp.

Quan điểm mátxít về giai cấp được thể hiện tập trung ở định nghĩa giai cấp của Lênin. Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, Lênin định nghĩa: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội; và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”.

Như vậy, sự ra đời, tồn tại của các giai cấp gắn với những hệ thống sản xuất xã hội nhất định. Sự khác nhau về địa vị của giai cấp trong hệ thống sản xuất là do:

Thứ nhất, khác nhau về quan hệ của họ đối với việc sở hữu những tư liệu sản xuất của xã hội.Thứ hai, khác nhau về vai trò của họ trong tổ chức quản lý sản xuất, tổ chức quản lý lao động

xã hội.Thứ ba, khác nhau về phương thức sản xuất và quy mô thu nhập những sản phẩm lao động của

xã hội.Trong đó, quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất là quan trọng nhất, quyết định các quan hệ khác,

quyết định địa vị các giai cấp trong một hệ thống sản xuất nhất định. Tập đoàn người nào nắm tư liệu sản xuất sẽ trở thành giai cấp thống trị xã hội và tất yếu sẽ chiếm đoạt những sản phẩm lao động của các tập đoàn khác. Đó là bản chất của những xung đột giai cấp trong các xã hội có giai cấp đối kháng.

Trong các xã hội có giai cấp, bao giờ cũng có 02 giai cấp cơ bản. Một giai cấp nắm toàn bộ hoặc phần lớn ngoài giai cấp thống trị và giai cấp bị trị còn có những tầng lớp và giai cấp trung gian khác. Bộ phận này không có vị trí cơ bản trong phương thức sản xuất, nó thường xuyên bị phân hoá. Nhân tố chi phối sự phân hoá của các tầng lớp trung gian là lợi ích. Các giai cấp và tầng lớp trung gian ngả về phía giai cấp thống trị hay bị trị là tuỳ thuộc vào vị trí lợi ích của họ.

Giai cấp là một phạm trù kinh tế - xã hội có tính lịch sử. Nó luôn luôn vận động biến đổi cùng với sự biến đổi của lịch sử.

* Nguồn gốc hình thành giai cấpTrong xã hội có nhiều nhóm xã hội khác nhau. Sự khác nhau ấy được phân biệt bởi những đặc

trưng khác nhau như giới tính, nghề nghiệp, chủng tộc, dân tộc... Những khác biệt ấy tự nó không tạo ra sự đối lập về mặt xã hội. Chỉ có những giai cấp xuất phát từ sự khác biệt căn bản về lợi ích mới tạo ra những xung đột xã hội mang tính chất đối kháng. Mác chỉ ra rằng: “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với các giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất”. Sự phân chia một xã hội thành giai cấp trước hết là do nguyên nhân kinh tế.

Page 5: Khoi kien thuc 1

Trong xã hội nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất chưa phát triển, năng suất lao động rất thấp, sản phẩm làm ra chưa đủ nuôi sống người nguyên thuỷ. Để tồn tại họ phải sống nương tựa vào nhau theo bầy đàn, lệ thuộc nhiều vào tự nhiên, giai cấp chưa xuất hiện. 

Sản xuất ngày càng phát triển với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Công cụ sản xuất bằng kim loại ra đời thay thế công cụ bằng đá, năng suất lao động nhờ đó tăng lên đáng kể phân công lao động nhờ đó từng bước được hình thành, của cải dư thừa xuất hiện, những người có chức quyền trong các thị tộc, bộ lạc đã chiếm đoạt của cải dư thừa làm của riêng; chế độ tư hữu ra đời, bất bình đẳng về kinh tế nảy sinh trong nội bộ công xã, đó chính là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp.

Do có của cải dư thừa, tù binh bắt được trong các cuộc chiến tranh không bị giết như trước. Họ được sử dụng làm nô lệ cho những người giàu và có địa vị trong xã hội, chế độ có giai cấp hình thành kể từ đó. Như vậy, sự xuất hiện chế độ tư hữu là nguyên nhân quyết định trực tiếp sự ra đời giai cấp. Sự tồn tại các giai cấp đối kháng gắn với chế độ chiếm hữu nô nệ, chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản phát triển cao lại tạo tiền đề cho sự thủ tiêu chế độ tư hữu, cái cơ sở kinh tế của sự đối kháng giai cấp trở thành xu thế khách quan trong sự phát triển xã hội. Đó là lôgic khách quan trong tiến trình phát triển của lịch sử.

* Kết cấu xã hội - giai cấpCác xã hội có đối kháng giai cấp lần lượt thay thế lẫn nhau trong l/sử. Mỗi kiểu xã hội có kết

cấu xã hội - giai cấp riêng của nó. Mỗi kết cấu xã hội - giai cấp của một xã hội nhất định bao gồm hai giai cấp cơ bản đối lập nhau. Đó là chủ nô và nô nệ trong chế độ nô nệ, địa chủ và nông nô trong chế độ phong kiến, tư sản và vô sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Hai giai cấp cơ bản của mỗi chế độ kinh tế - xã hội là là sản phẩm đích thực của chế độ kinh tế - xã hội đó, đồng thời là giai cấp quyết định sự tồn tại, sự phát triển của hệ thống sản xuất trong xã hội đó. Giai cấp thống trị là giai cấp tiêu biểu cho bản chất của chế độ kinh tế - xã hội đang tồn tại.

Ngoài hai giai cấp cơ bản, mỗi kết cấu xã hội - giai cấp còn bao gồm một số tầng lớp không cơ bản và tầng lớp trung gian. Trong những tập đoàn xã hội này có tập đoàn là tàn dư của phương thức sản xuất cũ (như nô lệ trong buổi đầu của xã hội phong kiến), có tập đoàn là mầm mống của phương thức sản xuất trong tương lai (như giai cấp tư sản và giai cấp công nhân công trường thủ công trong giai đoạn cuối của xã hội phong kiến). Ngoài ra bất cứ xã hội có giai cấp nào cũng có một số tầng lớp trung gian là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống trị, là kết quả của quá trình phân hoá xã hội không ngừng diễn ra trong xã hội. Đó là tầng lớp bình dân trong xã hội nô lệ, các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn trong xã hội tư bản. Xã hội có giai cấp nào cũng tồn tại một tầng lớp xã hội có vai trò quan trọng về kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, đó là tầng lớp trí thức.

* Đấu tranh giai cấpTrong xã hội có giai cấp tất yếu nảy sinh đấu tranh giai cấp. V.I.Lênin định nghĩa đấu tranh

giai cấp là “cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”.

Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa quần chúng bị áp bức, vô sản đi làm thuê chống lại giai cấp thống trị, chống lại bọn đặc quyền, đặc lợi, những kẻ đi áp bức bóc lột.

Đấu tranh giai cấp có nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang tính xã hội hoá ngày càng sâu rộng của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Biểu hiện của mâu thuẫn này về phương diện xã hội: Mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ, đại diện cho phương thức sản xuất mới, với một bên là giai cấp thống trị bóc lột đại biểu cho những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu.

Đấu tranh giai cấp - động lực phát triển của xã hội có giai cấpĐỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế phương

thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương thức sản xuất mới ra đời mở ra địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội. Sản xuất phát triển sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. Dựa vào tiến trình phát triển của lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng đỉnh cao của đấu  tranh giai cấp là cách mạng xã hội. Cách mạng xã

Page 6: Khoi kien thuc 1

hội như là đòn bẩy thay đổi các hình thái kinh tế xã hội vì vậy “đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp của lịch sử các xã hội có giai cấp”.

Đấu tranh giai cấp góp phần xoá bỏ các thế lực phản động, lạc hậu đồng thời cải tạo cả bản thân giai cấp cách mạng. Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới, giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng. Thành tựu mà loài người dạt được trong tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học và công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội không tách rời cuộc đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp tiến bộ chống các thế lực thù địch, phản động.

Đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng trong lịch sử xã hội có giai cấp. Nó là cuộc đấu tranh khác về chất so với so với các cuộc đấu tranh trước đó trong lịch sử. Bởi vì, mục tiêu của nó là thay đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội.

Trước khi giành được chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị. Sau khi giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản, mục tiêu và hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi. V.I.Lênin viết “Trong điều kiện chuyên chính vô sản, những hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản không thể giống như trước được”.

Trong cuộc đấu tranh này, GCVS phải biết cách sử dụng mọi nguồn lực, vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh. Mục tiêu của cuộc đấu tranh này là giữ vững thành quả cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền của nhân dân; tổ chức quản lý sản xuất, quản lý xã hội, bảo đảm tạo ra một năng suất lao động xã hội cao hơn, trên cơ sở đó thủ tiêu chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã hội mới, công bằng, dân chủ, văn minh. Đó vừa là mục tiêu, đồng thời vừa là nhân tố bảo đảm thắng lợi cho cuộc đấu tranh của GCVS chống lại GCTS.

* Đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay:Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong giai đoạn quá độ hiện nay cũng là một tất yếu. Do bối

cảnh lịch sử của quá trình hình thành giai cấp và điều kiện mới của xu hướng quốc tế hoá, đấu tranh giai cấp ở Việt Nam có những đặc điểm riêng. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Đồng thời Đảng ta cũng khẳng định: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.

Page 7: Khoi kien thuc 1

Câu 3. Vấn đề sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân:Câu hỏi: V.I.Lênin khẳng định: “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”

(V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1980, t 23, tr.1)Hoặc: Từ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng chí hãy làm rõ: Giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có khả năng tự giải phóng mình và giải phóng các giai cấp lao động khác thoát khỏi chế độ áp bức, bóc lột, xây dựng thành công CNXH, CNCS.

Liên hệ thực tiễn cách mạng Việt Nam?Trả lời :

Vấn đề giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của GCCN. GCCN Việt Nam trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH gắn liền với kinh tế tri thức

GCCN là 1 tập đoàn xã hội ổn định hình thành và phát triển với nền phát triển công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của LLSX có tính chất xã hội hóa ngày càng cao, là LLSX cơ bản tiên tiến trực tiếp hoặc tham gia sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội, là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ CNTB lên CNCS.

Giai cấp công nhân là giai cấp lao động bằng phương thức công nghiệp; là LLSX hàng đầu của nhân loại, lao động của họ quyết định sự tồn tại của xã hội hiện đại và là nguồn gốc của sự giàu có của giai cấp tư sản.

Vì vậy, GCCN có những đặc điểm:- Là giai cấp của những người lao động sản xuất vật chất là chủ yếu (với trình độ trí tuệ ngày

càng cao, đồng thời cũng ngày càng có những sáng chế, phát minh lý thuyết được ứng dụng ngay trong sản xuất). Vì thế, GCCN có vai trò quyết định nhất sự tồn tại và phát triển xã hội.

- Có lợi ích cơ bản đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản (giai cấp công nhân: xóa bỏ chế độ tư hữu, xóa bỏ áp bức bóc lột, giành chính quyền và làm chủ xã hội. Giai cấp tư sản không bao giờ tự rời bỏ những lợi ích cơ bản đó). Do vậy, giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để.

- Là “giai cấp dân tộc” - vừa có quan hệ quốc tế, vừa có bản sắc dân tộc và chịu trách nhiệm trước hết với dân tộc mình.

- Có hệ tư tưởng riêng của giai cấp mình: đó là chủ nghĩa Mác-Lênin phản ánh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đồng thời hệ tư tưởng đó dẫn dắt quá trình giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình nhằm giải phóng xã hội, giải phóng con người. Giai cấp công nhân ở Đảng tiên phong của mình là Đảng CS (Đảng Mác-Lênin).

- GCCN là giai cấp được tuyển mộ trong tất cả các giai cấp của dân cư. Lịch sử đã chứng minh rằng khi nền công nghiệp ngày càng phát triển thì GCCN luôn tăng lên cả về số lượng lẫn chất lượng, do đó, nó được bổ sung từ giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, học sinh, tiểu chủ, tiểu thương, dân nghèo thành thị,..

Ngoài những đặc điểm cơ bản trên, GCCN còn có một số đặc điểm riêng là:- Trong chế độ TBCN GCCN không có TLSX, do đó phải bán sức lao động làm thuê cho giai

cấp tư sản và bị bóc lột giá trị thặng dư, GCCN không có chính quyền.

Page 8: Khoi kien thuc 1

- Trong chế độ XHCN, GCCN cùng toàn dân làm chủ các TLSX chính của xã hội, đảng của GCCN lãnh đạo xã hội, lãnh đạo Nhà nước.

Từ những đặc điểm đó đã làm cho GCCN có những tính chất cơ bản, đó là:- Tính tổ chức kỷ luật cao, do gắn với yêu cầu của nền sản xuất hiện đại, do hoạt động có tổ

chức của mình, nhất là Đảng CS.- Tính tiên phong về phương thức sản xuất, về hệ tư tưởng, về tổ chức.- Tính triệt để cách mạng, do đại diện PTSX mới khác về bản chất với các chế độ tư hữu, do

mâu thuẫn và đối lập lợi ích với GCTS và mọi thế lực tư hữu áp bức bóc lột để vươn lên tự giải phóng bản thân và giải phóng toàn nhân loại.

Sứ mệnh lịch sử của một giai cấp là trách nhiệm của một giai cấp đại diện cho PTSX tiến bộ, tiến hành đấu tranh, xóa bỏ hình thái kinh tế - xã hội cũ xây dựng thành công một hình thái kinh tế - xã hội mới.

Điều kiện để 1 giai cấp đảm nhận sứ mệnh lịch sử là giai cấp đại diện cho PTSX tiên tiến, có lợi ích đại diện cho nhiều giai cấp, giai tầng trong xã hội, có hệ tư tưởng riêng phản ánh quy luật vận động của lịch sử và tổ chức được chính đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giai cấp.

* Có thể khái quát nội dung cơ bản SMLS của GCCN qua mấy điểm sau:- Một là, ngay trong CNTB hàng thế kỷ nay, cũng như trong CNXH, GCCN trước hết được

đảm nhận sứ mệnh trực tiếp là chủ thể lao động sản xuất công nghiệp, là giai cấp giữ vị trí trung tâm của sản xuất công nghiệp tạo ra của cải vật chất, làm giàu cho xã hội, nếu tách rời sản xuất công nghiệp thì GCCN không còn sứ mệnh lịch sử ở những nội dung khác tiếp theo. Những thành tựu to lớn về sản xuất của CNTB hàng thế kỷ nay và những thành tựu bước đầu trong xây dựng CNXH đều có sự đóng góp to lớn và quyết định nhất của GCCN. Số lượng và chất lượng GCCN ngày càng tăng. Như Mác và Ăngghen đã đề cập: GCCN vừa là tập đoàn người lao động làm thuê đông đảo nhất, cơ bản nhất trong trong nền công nghiệp TBCN, đồng thời là sản phẩm của nền công nghiệp ấy. Từ đó mới có thể xảy ra tình trạng bóc lột và bị bóc lột giá trị thặng dư, và do đó cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại GCTS đã được diễn ra ngay từ khi GCVS mới ra đời, tức là sứ mệnh lịch sử của GCCN không phải bắt đầu với nội dung giành chính quyền mà trái lại có nội dung rộng lớn hơn kể cả trước khi giành chính quyền.

- Hai là, thông qua đảng tiền phong của mình, GCCN lãnh đạo và tổ chức quá trình giành chính quyền về tay mình và nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ TBCN, xóa bỏ GCTS, giải tán chính quyền nhà nước của chế độ cũ, thành lập chính quyền mới của GCCN và nhân dân lao động, do đảng của GCCN lãnh đạo.

- Ba là, GCCN thông qua đảng của mình lãnh đạo, tổ chức thực hiện quá trình củng cố, bảo vệ chính quyền, bảo vệ đất nước, đồng thời tổ chức xây dựng đất nước theo định hướng XHCN trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, con người… để từng bước hình thành xã hội XHCN và CNCS trên thực tế ở mỗi nước và trên toàn thế giới. đây là nội dung cơ bản nhất, quyết định nhất, phức tạp và lâu dài nhất trong sứ mệnh lịch sử của GCCN. Không thể nhận thức và hoạt động chủ quan, duy ý chí, giản đơn, nóng vội,… cũng không thể mơ hồ, hữu khuynh dẫn đến tự phát TBCN.

- Bốn là, GCCN ở mỗi nước luôn mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế của GCCN và nhân dân lao động các nước trên thế giới để tăng cường sức mạnh và thực hiện nghĩa vụ quốc tế của mình vì hòa bình, độc lập, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đây là nội dung thể hiện bản chất quốc tế của GCCN.

- Năm là, GCCN và đảng CS thường xuyên đấu tranh chống mọi thứ chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại, đấu tranh chống mọi thế lực thù địch với CNXH, với nhân dân.

Chúng ta có thể diễn đạt một cách khái quát nhất, cơ bản nhất những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN là tiến hành nền sản xuất hiện đại và thủ tiêu chế độ TBCN, chế độ áp bức bóc lột cuối cùng trong lịch sử loài người đấu tranh cách mạng để giải phóng con người, xây dựng thành công CNXH, CNCS trên phạm vi từng quốc gia và trên toàn thế giới.

* Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của GCCN:- Xét về những điều kiện kinh tế kỹ thuật thì nền công nghiệp hiện đại đã quy định cho GCCN

những đặc điểm, tính chất cơ bản mà những giai cấp, tầng lớp xã hội như nông dân, trí thức,.. không

Page 9: Khoi kien thuc 1

thể có được và chính từ những tính chất đặc điểm cơ bản ấy mà GCCN có sứ mệnh lịch sử nêu trên. Xét về mặt kinh tế GCCN gắn liền với LLSX tiên tiến nhất dưới CNTB, do đó nó là nhân tố quyết định phá vỡ QHSX TBCN, là nguồi duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một PTSX mới. cùng với nền sản xuất hiện đại ngày càng phát triển và cùng với sự phát triển của phong trào công nhân. GCCN luôn được bổ sung thêm lực lượng trí thức mới và những tầng lớp lao động xã hội khác làm cho nó trở thành một lực lượng xã hội đông đảo, hùng mạnh.

Tính khách quan mang ý nghĩa cơ bản nhất và tổng hợp cả về địa vị kinh tế lẫn chính trị xh đối với sự mệnh lịch sử của GCCN là ngay từ khi chế độ TBCN mới ra đời thì ngay trong lòng nó đã xuất hiện một mâu thuẫn cơ bản biểu hiện ở hai mặt: Về kinh tế, đó là mâu thuẫn giữa LLSX với QHSX, về chính trị, đó là mâu thuẫn giữa GCCN với GCTS. Cả hai mặt của mâu thuẫn này không thể giải quyết triệt để trong khuôn khổ CNTB, và để giải quyết triệt để mâu thuẫn này thì cách mạng xã hội đó là cách mạng XHCN, cách mạng vô sản nổ ra là một tất yếu.

* Điều kiện chủ quan:Sứ mệnh lịch sử của GCCN xuất hiện một cách khách quan, song để biến khả năng khách quan

đó thành hiện thực thì phải thông qua những nhân tố chủ quan. Trong những nhân tố chủ quan ấy, việc thành lập ra Đảng CS, chính đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giai cấp, lợi ích của GCCN là yếu tố quyết định nhất đảm bảo cho GCCN có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng Đảng là sự kết hợp phong trào công nhân với CNXHKH. Những nhân tố đảm bảo cho ĐCS là nhân tố chủ quan đảm bảo cho GCCN thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình: đó chính là ĐCS là một bộ phận của GCCN, đó là bộ phận gồm những người ưu tú nhất, tiên tiến nhất, giác ngộ nhất, đóng vai trò tiên phong lãnh đạo công nhân, chính vì lẽ đó Đảng mang bản chất của GCCN, điều này mang ý nghĩa sống còn đối với Đảng. ĐCS là đại biểu trung thành cho lợi ích của GCCN, toàn thể nhân dân lao động và dân tốc. ĐCS là đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu, là lãnh tụ của GGCN, do đó, phải thực sự vững vàng, kiên định và sáng suốt, phải có đường lối chiến lược, sách lược, phương pháp cách mạng đúng đắn để lôi cuốn GCCN, nhân dân lao động theo Đảng thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN.

* Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam:+ Thuận lợi:- Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm của quá trình khai thác thuộc địa của thực dân

Pháp, vừa chịu ách bóc lột của CNTB vừa chịu ách nô lệ của người dân mất nước. Cũng vì vậy giai cấp công nhân Việt Nam có ý thức sâu sắc về sự gắn bó lợi ích của giai cấp và lợi ích của dân tộc.

- Được Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn dắt, sớm có tổ chức Đảng, giai cấp công nhân tuy còn non trẻ nhưng đã sớm trưởng thành và trở thành giai cấp lãnh đạo dân tộc giành được nhiều thắng lợi trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Sự trưởng thành của giai cấp công nhân VN cả về số lượng và chất lượng. Từ 3,7 triệu công nhân năm 1986 đến nay là 9,5 triệu (chưa kể gần 0,5 triệu công nhân xuất khẩu lao động) và đang không ngừng tăng lên. Trong đó công nhân doanh nghiệp nhà nước chiếm 22%, các doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm 61%, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 16,5% và tỷ lệ công nhân nữ chiếm 43,6% quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động theo hướng CNH,HĐH đã khiến cho giai cấp công nhân nước ta có mặt trong hầu khắp các lĩnh vực kinh tế và các thành phần kinh tế (đóng góp 70% GDP và 60% ngân sách nhà nước) cả về chính trị-xã hội.

- Quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử trong những năm đổi mới g/c công nhân nước ta có những chuyển biến quan trọng, đã hình thành và phát triển bộ phận công nhân trí thức đang tiếp tục phát huy vai trò là g/c lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng CS Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng CNXH, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, lực lượng nòng cốt trong liên minh công - nông - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, đóng góp trực tiếp vào sự phát triển của đất nước.

+ Hạn chế:- Sự phát triển giai cấp công nhân chưa đáp ứng cả về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn,

chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, thiếu các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề. Một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường, giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị chưa đồng đều, việc làm, đời sống vật chất và tinh thần có nhiều khó khăn, bức xúc.

Page 10: Khoi kien thuc 1

- Đảng có chú trọng xây dựng giai cấp công nhân nhưng chưa quan tâm đầy đủ, chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ mới. Chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế, bất cập. Tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động chưa cao.

Thực trạng GCCN VN. Phương hướng xây dựng giai cấp công nhân VNSứ mệnh lịch sử của GCCN là phạm trù cơ bản nhất của CNXHKH. Phát hiện ra SMLS của

GCCN là một trong những cống hiến vĩ đại nhất của CN Mác. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, GCCN mang hai thuộc tính cơ bản: Về phương thức lao động, PTSX, đó là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao; về vị trí trong QHSX TBCN, đó là những người lao động không có TLSX, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư.

GCCN có đặc điểm chung nhất đó là ra đời từ nền sản xuất công nghiệp và được tuyển lựa trong các giai cấp, tầng lớp dân cư trong xã hội; cùng với sự phát triển, tiến bộ của khoa học công nghệ, sự phát triển của LLSX thì xu hướng công nhân kỹ thuật cao, công nhân trí tuệ ngày càng tăng lên; Xét trong QHSX TBCN thì lợi ích cơ bản của GCCN là đối lập với lợi ích của; GCCN là một giai cấp có bản chất quốc tế và bản sắc dân tộc; với tư cách là một giai cấp tự giác, GCCN có hệ tư tưởng riêng của mình đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và có tổ chức ĐCS lãnh đạo. Bên cạnh những đặc điểm chung, tùy theo những đặc điểm, hòan cảnh cụ thể GCCN còn có đặc điểm riêng đó là trong CNTB, GCCN không có TLSX, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư; trong CNXH, GCCN cùng với nhân dân lao động làm chủ TLSX chính của xã hội, cùng nhau hợp tác lao động cho bản thân mình và xã hội từ đó địa vị chính trị GCCN cũng thay đổi; ở những nước quá độ lên CNXH, xét tòan bộ giai cấp thì giống đặc điểm riêng của CNXH, tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, phát triển theo cơ chế thị trường thì có một bộ phận công nhân làm thuê cho tư bản, cho nên về kinh tế phụ thuộc tư bản nhưng những mặt khác thì hưởng những quyền lợi như tòan bộ GCCN.

GCCN có những tính chất cơ bản đó là giai cấp có tính tiên phong; là giai cấp có tính tổ chức kỷ luật cao; là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để.

Phạm trù SMLS của GCCN là phạm trù phản ánh tính tất yếu của quá trình hình thành và phát triển của GCCN từ trong lòng chế độ TBCN, tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNCS trên phạm vi tòan thế giới với vai trò lịch sử của GCCN trong quá trình đó; là phạm trù cơ bản nhất, phạm trù trọng tâm của CNXHKH; là phạm trù được xem là một trong những một trong những cống hiến vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mác. Có thể diễn đạt một cách khái quát nhất, cơ bản nhất những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về sứ mệnh lịch sử của GCCN là tiến hành nền sản xuất hiện đại và đấu tranh cách mạng để giải phóng con người.

Học thuyết Mác-Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của GCCN là sự luận chứng khoa học về địa vị kinh tế - xã hội và vai trò lịch sử của GCCN, về những mục tiêu và con đường để giai cấp đó hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Học thuyết ấy chứng minh rằng, sứ mệnh lịch sử của GCCN được quy định bởi những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan.

Xét về những điều kiện kinh tế kỹ thuật thì nền công nghiệp hiện đại đã quy định cho GCCN những đặc điểm, tính chất cơ bản mà những giai cấp, tầng lớp xã hội như nông dân, trí thức... không thể có được và chính từ những đặc điểm, tính chất cơ bản ấy mà GCCN có SMLS nêu trên. Xét về mặt kinh tế GCCN là giai cấp gắn liền với LLSX tiên tiến nhất dưới CNTB, do đó nó là nhân tố quyết định phá vỡ QHSX TBCN, là người duy nhât có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một PTSX mới. Cùng với nền sản xuất hiện đại ngày càng phát triển và cùng với sự phát triển của phong trào công nhân, GCCN luôn được bổ sung thêm lực lượng trí thức mới và những tầng lớp lao động xã hội khác làm cho nó trở thành một lực lượng xã hội đông đảo, hùng mạnh; đặc biệt trong quá trình đó một số trí thức giác ngộ đã giúp cho GCCN hoàn thành hệ tư tưởng của mình, hiểu rõ về sứ mệnh lịch sử của mình, từ đó hình thành chính Đảng tiên phong của mình đó là ĐCS.

Tính quy định khách quan mang ý nghĩa cơ bản nhất và tổng hợp cả về địa vị kinh tế lẫn chính trị - xã hội đối với sứ mệnh lịch sử của GCCN là ngay từ khi chế độ TBCN mới ra đời thì ngay trong lòng nó đã xuất hiện một mâu thuẫn cơ bản biểu hiện ở hai mặt: Về kinh tế, đó là mâu thuẫn giữa LLSX với QHSX; về chính trị - xã hội, đó là mâu thuẫn giữa GCCN với GCTS. Cả hai mặt của mâu

Page 11: Khoi kien thuc 1

thuẫn này không thể giải quyết triệt để trong khuôn khổ của CNTB và để giải quyết triệt để mâu thuẫn này thì cách mạng xã hội đó là cách mạng XHCN, cách mạng VS nổ ra là một tất yếu.

Sứ mệnh lịch sử của GCCN xuất hiện một cách kquan, song, để biến khả năng kquan đó thành hiện thực thì phải thông qua những nhân tố chủ quan. Trong những nhân tố chủ quan ấy, việc thành lập ra ĐCS trung thành với sự nghiệp, lợi ích của GCCN là yếu tố quyết định nhất đảm bảo cho GCCN có thể hòan thành sứ mệnh lịch sử của mình.

Chỉ khi nào GCCN đạt tới trình độ tự giác bằng việc tiếp thu lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin thì phong trào cách mạng của nó mới thực sự là một phong trào chính trị, trình độ lý luận đó cho phép GCCN nhận thức được vị trí, vai trò của mình trong xã hội, nguồn gốc tạo nên sức mạnh và biết tạo nên sức mạnh đó bằng sự đoàn kết, nhận rõ mục tiêu, con đường và những biện pháp giải phóng giai cấp mình, giải phóng xã hội và giải phóng nhân loại. Các nhà sáng lập CNXHKH khẳng định rằng thông qua cuộc đấu tranh chống GCTS, GCCN phát triển từ trình độ tự phát lên trình độ tự giác, chuyển từ giai cấp “tự nó” thành giai cấp “vì nó”. Quá trình đó tất yếu phải diễn ra ở mọi phong trào công nhân. Thế nhưng quá trình đó diễn ra nhanh/chậm, thuận lợi/khó khăn thì việc đó phụ thuộc vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin diễn ra như thế nào? chủ nghĩa đó có chiến thắng được các trào lưu xã hội - dân chủ và cơ hội chủ nghĩa trong phong trào công nhân hay không. Nếu phong trào chỉ dừng ở trình độ “tự nó”, thì phong trào công nhân mới mang ý thức công liên chủ nghĩa mà thôi. Phải có Chủ nghĩa Mác soi sáng, GCCN mới đạt tới trình độ nhận thức lý luận về vai trò lịch sử của mình. Chính vì lẽ đó, giáo dục rèn luyện cho GCCN nhận thức được về bản thân mình, về mục tiêu, lý tưởng là công việc cần phải làm để biến khả năng thành hiện thực.

Phải nói rằng, không có một giai cấp nào khi giữ vai trò lãnh đạo xã hội mà lại không thông qua chính đảng của mình. Đảng chính trị đó là tổ chức cao nhất, đại biểu tập trung cho trí tuệ và lợi ích của tòan thể giai cấp. Đối với GCCN đảng đó là ĐCS. Chính sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân dẫn đến sự hình thành chính đảng của GCCN. Lênin chỉ ra rằng, Đảng là sự kết hợp phong trào công nhân với CNXHKH. Những nhân tố đảm bảo cho ĐCS là nhân tố chủ quan đảm bảo cho GCCN thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình đó chính là: ĐCS là một bộ phận của GCCN, đó là bộ phận gồm những người ưu tú nhất, tiên tiến nhất và giác ngộ nhất, đóng vai trò tiên phong lãnh đạo phong trào công nhân, chính vì lẽ đó đảng mang bản chất của GCCN, điều này mang ý nghĩa sống còn đối với Đảng; ĐCS là đại biểu trung thành cho lợí ích của GCCN, tòan thể nhân dân lao động và dân tộc; ĐCS là đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu,là lãnh tụ của GCCN do đó phải thật sự vững vàng, kiên định và sáng suốt, phải có đường lối chiến lược, sách lược, phương pháp cách mạng đúng đắn để lôi cuốn GCCN, nhân dân lao động theo Đảng thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN. Tóm lại, Đảng vừa là sự tất yếu khách quan trong quá trình hình thành vừa là nhân tố chủ quan cơ bản quyết định nhất trong quá trình thực hiện nhiệm vụ lịch sử của GCCN.

Sự đòan kết thống nhất của GCCN và phong trào công nhân cũng chính là một trong những nhân tố chủ quan đảm bảo cho GCCN thực hiện hoàn thành sứ mệnh lsử của mình. Nội dung này cấn phải được hết sức chú trọng nhằm ngăn ngừa sự chia rẽ, lợi dụng của kẻ thù CNXH và những kẻ cơ hội, xét lại...nhằm làm suy yếu GCCN và phong trào công nhân.

Tựu trung lại, chỉ có sự kết hợp đầy đủ những điều kiện khách quan với những nhân tố chủ quan trong một bối cảnh “chín muồi”; GCCN mới có thể thực hiện được SMLS của mình. GCCN Việt Nam có đầy đủ những đặc điểm, tính chất của GCCN nói chung, bên cạnh đó còn có những đặc điểm riêng do điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể Việt Nam quy định đó là:

Với chính sách khai thác thuộc địa của thực dân pháp ở Việt Nam, GCCN Việt Nam đã ra đời từ đầu thế kỷ XX. Đặc điểm này nói lên: Ngay từ khi mới ra đời GCCNVN chưa phải là sản phẩm trực tiếp của nền sản xuất công nghiệp hiện đại; ngay từ đầu, kẻ thù của GCCN là tư bản thực dân Pháp, đồng thời kẻ thù của dân tộc là thực dân Pháp, chính vì vậy trong quá trình đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản thực dân Pháp đó cũng là quá trình đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc, GCCN vươn lên trở thành người đại diện dân tộc chống kẻ thù của dân tộc; GCCN Việt Nam ra đời trước GCTS Việt Nam cho nên ít ảnh hưởng của tư tưởng tư sản và CN cải lương dẫn đến nhanh chóng giác ngộ. GCCN Việt Nam, mà tuyệt đại bộ phận là xuất thân từ nông dân lao động và những tầng lớp lao động khác, cho nên một mặt có mối liên hệ tự nhiên như máu thịt với đông đảo nhân dân lao động bị mất nước, sống nô lệ - đây là điều kiện thuận lợi để thực hiện khối liên minh công nông vững chắc và khối

Page 12: Khoi kien thuc 1

đại đoàn kết dân tộc rộng rãi, bảo đảm cho sự lãnh đạo của GCCN trong suốt quá trình cách mạng ở nước ta; mặt khác, đó cũng là mặt hạn chế do tư tưởng, phong cách, tâm lý, suy nghĩ và thói quen của nông dân, sản xuất nhỏ.

GCCN VN có truyền thống yêu nước và đoàn kết, đó là sự tiếp thu truyền thống của dân tộc. ĐCSVN ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng đã đem yếu tố tự giác vào phong trào công nhân, làm cho phong trào cách mạng nước ta có một bước phát triển nhảy vọt về chất. GCCN VN lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng tiên phong của mình là ĐCSVN. Tuy ra đời muộn, ít về số lượng, trình độ nghề nghiệp thấp, còn mang nhiều tàn dư của tâm lý và tập quán nông dân, nhưng GCCN VN đã nhanh chóng bước lên vũ đài chính trị, đảm đương vai trò lãnh đạo cách mạng, nắm vững ngọn cờ cách mạng dân tộc và CNXH. Trải qua gần một thế kỷ ra đời và phát triển, GCCN VN đã trưởng thành về nhiều mặt và góp vai trò quyết định to lớn trong tiến trình lịch sử cách mạng nước ta.

Về lý luận (Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta) cũng như trên thực tiễn (lịch sử đã minh chứng) cho thấy GCCN VN với tư cách là người lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng tiên phong của mình là ĐCSVN; là động lực cách mạng đó chính là người thực hiện tiến trình cách mạng.

Trong bối cảnh mới hiện nay gắn liền với quá trình đổi mới thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam đang có sự biến đổi to lớn cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu đội ngũ. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 6 (Khóa X) khẳng định: đội ngũ công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển “bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công và hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”; thuộc các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, hay thuộc tư nhân, hợp tác đầu tư với nước ngoài. Họ hình thành giai cấp thống nhất đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đang lãnh đạo công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.

- Địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ. Giai cấp công nhân còn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều; sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân còn thấp. Một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội. Đặc biệt, tỷ lệ công nhân là đảng viên trong tổng số đảng viên của Đảng những năm gần đây đang giảm dần là một xu hướng rất đáng lo ngại. Do công tác phát triển Đảng trong công nhân chưa thực sự được quan tâm, nên ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước, có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), tỉ lệ doanh nghiệp có tổ chức cơ sở Đảng rất thấp.

- Tuy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đời sống của đội ngũ công nhân trong các thành phần ngày càng được cải thiện, những lợi ích của một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với những thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của chính mình; việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân đang có nhiều khó khăn, bức xúc, đặc biệt là ở bộ phận công nhân lao động giản đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sự an toàn đối với người lao động chưa được bảo đảm. Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, từ năm 2005-2010, cả nước đã xảy ra hàng chục nghìn vụ tai nạn lao động dẫn đến những thiệt hại rất lớn về người và vật chất.

Theo guồng quay của nền kinh tế thị trường, người công nhân ngày càng chịu nhiều áp lực hơn. Công việc khiến họ không còn có thời gian để quan tâm nhiều tới đời sống tinh thần, chính trị xã hội. Nếu những công nhân trí thức làm quản lý, làm chủ doanh nghiệp có mức thu nhập cao có điều kiện để tiếp xúc với các phương tiện truyền thông, các dịch vụ giải trí thì những công nhân lao động phổ thông với mức lương thấp phải làm thêm mới đủ sống dường như không có điều kiện. Tại Việt Nam hiện nay theo số liệu thống kê, tỷ lệ công nhân tập trung đông nhất là ở Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Một thực tế đặt ra là hầu hết họ là những công nhân từ các tỉnh lẻ lên làm thuê với mức lương thấp mà chi phí cho cuộc sống ở hai thành phố này rất đắt đỏ do lượng người tập trung đông. Với mức lương từ 1,5 đến 2 triệu đồng/tháng rất khó khăn trong việc duy trì một cuộc sống vật chất tối thiểu của mình.

Page 13: Khoi kien thuc 1

Những hạn chế, yếu kém trên đây do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác xây dựng đội ngũ còn nhiều bất cập, quan tâm chưa đầy đủ, chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ mới. Mặc dù giai cấp công nhân luôn được coi là giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn khẳng định: Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân nhưng trong thực tế từ trước khi có Đại hội VII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị chưa có nghị quyết, chỉ thị chuyên đề về xây dựng giai cấp công nhân. Từ sau Đại hội VII, đặc biệt thực hiện triển khai Nghị quyết Đại hội X, lần đầu tiên Đảng ta đã ban hành được nghị quyết chuyên đề về giai cấp công nhân, nhưng việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng, đặc biệt việc triển khai thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa X “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” trong thực tiễn hiện nay còn chậm, do còn thiếu cơ chế đồng bộ để thực hiện, hoặc do nhận thức của các cấp các ngành về các giải pháp thực hiện xây dựng giai cấp công nhân trong tình hình mới vẫn còn có sự khác nhau. Sự lãnh đạo của một số cấp ủy Đảng địa phương chưa được quyết liệt sát sao; chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với người lao động chưa được thực hiện nghiêm túc; vai trò, trách nhiệm của tổ chức Công đoàn chưa được phát huy đầy đủ; sự phối kết hợp của cả hệ thống chính trị đối với việc xây dựng giai cấp công nhân, chăm lo đến đời sống chưa đạt hiệu quả cao; chưa thường xuyên quan tâm tổ chức các cuộc tiếp xúc, gặp gỡ và đối thoại trực tiếp giữa cán bộ của Đảng, Nhà nước với công nhân lao động; ít có hình thức tôn vinh người lao động tiêu biểu, nhằm kịp thời động viên những người lao động trực tiếp làm ra của cải vật chất cho đất nước. Hệ thống cơ chế, chính sách đối với giai cấp công nhân chưa đồng bộ, có những chủ trương chính sách không còn phù hợp, nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung kịp thời, v.v... Tình trạng người sử dụng lao động vi phạm pháp luật lao động vẫn còn diễn ra phổ biến nhưng chưa được xử lý nghiêm. Công tác đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ công nhân lao động, đào tạo cán bộ xuất thân từ công nhân ưu tú, công tác phát triển đảng trong công nhân lao động, nhất là trong công nhân lao động tại khu vực kinh tế ngoài nhà nước cũng chưa được quan tâm đứng mức. việc thu hút, tập hợp người lao động tham gia các tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp còn khó khăn, v.v...

Vì thế, để xây dựng GCCN vững mạnh, xứng đáng là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm cơ sở xã hội, chỗ dựa vững chắc cho Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc:

Một là, đẩy mạnh CNH, HĐH gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, cũng là tiền đề cơ bản phát triển gccn theo hướng trí thức hóa.

Hai là, Đảng và Nhà nước sớm thể chế hoá những quan điểm, chủ trương lớn đã được thể hiện trong nghị quyết của Đảng thành cơ chế chính sách cụ thể, nhằm giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân, tạo chuyển biến mạnh mẽ và rõ rệt trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động tương xứng với những thành quả của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và những đóng góp của giai cấp công nhân. Trước mắt, cần giải quyết những bức xúc hiện nay đối với công nhân như: Nhà ở, nhà trẻ tại các khu công nghiệp, tiền lương và thu nhập bảo hiểm xã hội, nơi sinh hoạt văn hoá, an toàn vệ sinh lao động và bảo vệ môi trường.

Ba là, quan tâm lãnh đạo sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật có liên quan trực tiếp tới người lao động và tổ chức Công đoàn, nhất là Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn, Luật Bảo hiểm xã hội. Việc sửa đổi, bổ sung các luật trên vừa phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, vừa phải tạo điều kiện để tổ chức Công đoàn năng động, tự chủ và sáng tạo trong hoạt động, thực sự trở thành người đại diện tin cậy, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động - đối tượng yếu thế nhất trong quan hệ lao động. Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật lao động, xử lý nghiêm những vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền lợi người lao động, không vì thu hút đầu tư mà xem nhẹ người lao động, yếu tố có tính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, nhằm xây dựng quan hệ lao động hài hoà, tiến bộ trong doanh nghiệp.

Bốn là, cần đầu tư mạnh hơn cho đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề cho công nhân, đặc biệt là công nhân trẻ, công nhân xuất thân từ nông dân, công nhân nữ, nhằm phát triển về số lượng, nâng cao về chất lượng, hợp lý về cơ cấu ngành nghề, học vấn, chuyên môn kỹ thuật...

Page 14: Khoi kien thuc 1

Năm là, chỉ đạo kiểm tra các doanh nghiệp trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế dân chủ; tăng cường các hoạt động đối thoại, thương lượng giữa người sử dụng lao động và người lao động nhằm xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ. Các cấp chính quyền tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn việc thực hiện quy chế dân chủ trong các doanh nghiệp. Tiến hành rà soát, bổ sung quy hoạch các khu, cụm công nghiệp thêm hướng gắn với phát triển các khu đô thị mới, trong đó chú trọng xây dựng nhà ở và các công trình phúc lợi thiết yếu phục vụ chăm sóc sức khỏe, nhu cầu sinh hoạt tinh thần cho công nhân và nhân dân. Trong từng doanh nghiệp phải có quy hoạch bố trí quỹ đất để xây dựng nơi sinh hoạt văn hóa cho công nhân.

Sáu là, Đảng cần quan tâm bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc cho công nhân lao động, để họ luôn gắn bó với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, có ý chí vươn lên thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tinh thần phấn đấu vươn lên trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế; xây dựng tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động, lương tâm nghề nghiệp. Muốn vậy, cần phải tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng với hoạt động của tổ chức Công đoàn trong công tác tuyên truyền, giáo dục công nhân lan rộng, đảm bảo định hướng thống nhất nội dung và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục từ Trung ương đến cơ sở, nhằm tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với công nhân và công đoàn. Nhà nước cần đầu tư và có chính sách ưu đãi đầu tư xây dựng thiết chế văn hóa và tổ chức hoạt động của các nhà văn hoá lao động, câu lạc bộ công nhân, hệ thống truyền thông đại chúng, tạo môi trường lành mạnh để xây dựng đời sống văn hóa trong công nhân lao động, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Bảy là, vấn đề cấp bách hiện nay là phải xem công tác xây dựng Đảng, củng cố các đoàn thể quần chúng là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với phong trào công nhân hiện nay. Để làm được điều này chúng ta phải thẳng thắn trả lời một câu hỏi lớn. Vì sao Đảng của giai cấp công nhân, Công đoàn của công nhân, Đoàn Thanh niên là tổ chức chính trị của tuổi trẻ công nhân, nhưng một bộ phận công nhân chưa thiết tha vào Đảng, vào Đoàn, chưa hoàn toàn xem công đoàn là tổ chức của họ. Thực tế cho thấy công tác xây dựng đảng và tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên chưa theo kịp yêu cầu phát triển của sự nghiệp đổi mới. Một mặt do áp lực của những điều kiện khách quan, mặt khác bản thân các tổ chức đảng, công đoàn cũng bộc lộ những bất cập yếu kém, tự thân không theo kịp yêu cầu của sự phát triển, nhưng không có những chấn chỉnh kịp thời. Đã đến lúc không chỉ dừng lại ở những chỉ thị, nghị quyết mà nên có những văn bản pháp luật thể chế rõ chỉ thị nghị quyết thành những quy định cụ thể. Đảng ta là Đảng cầm quyền, hoạt động của các tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên phải được hình thành trong từng doanh nghiệp bất kỳ thuộc thành phần kinh tế nào. Tuy nhiên hoạt động của các tổ chức trên đây phải góp phần làm cho doanh nghiệp phát triển, sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. Đời sống vật chất, tinh thần và các quyền lợi khác của người công nhân phải được bảo đảm tốt hơn. Các chủ trương đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải được thực thi và chấp hành nghiêm túc.

* Phát triển giai cấp công nhân Việt Nam để xứng đáng giai cấp đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH trong phát triển kinh tế tri thức:

Quan điểm chỉ đạo:1. Kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền

phong là Đảng CS Việt Nam.2. Giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất, là lực lượng nòng cốt trong liên

minh công - nông - trí thức và đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. 3. Chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát

triển kinh tế - xã hội, CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế.4. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt. Đặc biệt quan tâm xây dựng thế hệ trẻ, công

nhân trẻ có học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, ngang tầm khu vực và quốc tế.5. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã

hội và sự nỗ lực vươn lên của mỗi người công nhân, sự tham gia đóng góp tích cực của người sử dụng lao động. Trong đó, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước có vai trò quyết định, Công đoàn có vai trò quan trọng trực tiếp trong chăm lo xây dựng giai cấp công nhân.

Nhiệm vụ, giải pháp:

Page 15: Khoi kien thuc 1

- Nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, pháp triển lý luận về giai cấp công nhân qua đó đề ra chủ trương, giải pháp xây dựng giai cấp công nhân phát triển toàn diện trong thời kỳ mới.

- Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước tri thức hóa giai cấp công nhân để nước ta có một đội ngũ công nhân có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp ngày càng cao đáp ứng nhu cầu năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh.

- Quan tâm bồi dưỡng, ý chí vươn lên thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.Quyết tâm xây dựng tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động, lương tâm nghề nghiệp… cho công nhân.

- Xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật để đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của công nhân, chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân tương xứng với năng suất lao động và những đóng góp của họ.

- Đề cao trách nhiệm, tính tự giác của người sử dụng lao động, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Nhà nước, tổ chức Công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác. Có chế tài xử lý nghiêm các tổ chức và cá nhân vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động.

Page 16: Khoi kien thuc 1

Câu 4. Dân chủ XHCN và bản chất của dân chủ XHCN. Quá trình thực hiện dân chủ ở Việt Nam như thế nào?

Theo quan niệm của Lê-nin: Dân chủ là sự thống trị của đa số.Với nghĩa này có thể hiểu dân chủ được nhìn nhận như một quyền lực mà tất cả quyền lực

thuộc về đa số người dân chứ không phải của một nhóm người, quyền lực này được nhân dân giao cho nhà nước của mình, là người đại diện cho mình. Theo Lê-nin dân chủ được nhìn nhận như là một hình thức tổ chức nhà nước, trong đó thừa nhận sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân vào công việc quản lý nhà nước để thực hiện sự thống trị đối với thiểu số những kẻ vi phạm dân chủ của nhân dân. Mức độ, phạm vi tham gia thật sự của quần chúng nhân dân vào công việc quản lý nhà nước phản ánh trình độ phát triển của nền dân chủ, phản ánh những vấn đề cốt lõi nhất của dân chủ.

Trong lịch sử phát triển với tư cách là một nhà nước một chế độ chính trị thì có ba nền dân chủ đó là: nền dân chủ chủ nô, gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ; nền dân chủ tư sản, gắn với chế độ tư bản chủ nghĩa; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn với chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên muốn biết một nhà nước dân chủ có thực sự dân chủ hay không phải xem xét nhà nước ấy dân là ai và bản chất của chế độ xã hội ấy như thế nào. Như vậy thuật ngữ dân chủ chỉ xuất hiện khi trước đó đã tồn tại ba yếu tố: nhân dân, quyền lực công cộng và mối quan hệ giữa chúng. Thực ra các yếu tố cấu thành nội dung của khái niệm dân chủ đã tồn tại suốt chiều dài lịch sử (trừ chế độ nguyên thuỷ), nhưng bản chất của dân chủ không nằm trong các yếu tố đó mà nằm trong mối quan hệ xác định giữa chúng: quan hệ sở hữu và chi phối quyền lực công cộng từ phía nhân dân.

Ngoài các nghĩa trên dân chủ còn được hiểu là một nguyên tắc tổ chức, phương thức sinh hoạt của một tổ chức chính trị - xã hội, một cộng đồng dân cư, theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số.

Khi xã hội phân chia thành giai cấp và có nhà nước thì không có dân chủ chung chung, dân chủ phi giai cấp, siêu giai cấp, dân chủ thuần tuý. Trái lại, dân chủ mang bản chất giai cấp thống trị xã hội. Dân chủ còn là một phạm trù chính trị vì nó thể hiện bản chất của chế độ chính trị, của giai cấp thống trị mà ở đó nó tồn tại, phản ánh bản chất và lợi ích của giai cấp thống trị.

1. Bản chất của dân chủ XHCNDân chủ mang những giá trị nhân văn, nhân đạo. Thành quả của dân chủ đạt được trong xã hội

trước hết tuỳ thuộc vào thành quả đấu tranh của nhân dân, do đó những giá trị dân chủ đạt được trong các cuộc đấu tranh đều mang tính nhân dân.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ được xác lập sau khi giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của mình là Đảng CS giành được chính quyền, tiến hành cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

- Là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó đối với toàn xã hội, nhưng có sự thống nhất giữa tính giai cấp công nhân với tính dân tộc và tính nhân dân, do lợi ích của giai cấp công nhân phù hợp với lợi ích của dân tộc và của đại đa số nhân dân lao động.

- Do Đảng CS lãnh đạo đây là yếu tố quan trọng để đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, bởi vì Đảng CS đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Với ý nghĩa này dân chủ xã hội chủ nghĩa mang tính nhất nguyên về chính trị. Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng CS đối với toàn xã hội về mọi mặt mà Lênin gọi là sự thống trị chính trị.

- Nhân dân lao động là những người làm chủ mọi quan hệ chính trị trong xã hội. Họ có quyền giới thiệu các đại biểu tham gia váo bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật, xây dựng bộ máy và cán bộ nhân viên nhà nước. Mục đích của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, tạo điều kiện cho nhân dân làm chủ xã hội chủ nghĩa. Quyền được tham gia rộng rãi vào công việc quản lý nhà nước chính là nội dung dân chủ trên lĩnh vực chính trị.

- Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu đáp ứng sự phát triển cao của lực lượng sản xuất hiện đại nhằm thoả mãn ngày càng cao nhu cầu vật chất và

Page 17: Khoi kien thuc 1

tinh thần của nhân dân. Trước hết đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu; quyền làm chủ trong quá trình sản xuất kinh doanh, quản lý và phân phối.

- Dưới góc độ kinh tế dân chủ xã hội chủ nghĩa được biểu hiện là sự đảm bảo về lợi ích kinh tế, phải coi lợi ích của người lao động là động lực cơ bản nhất có sức thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Thực chất của việc tổ chức, quản lý nền kinh tế - xã hội chính là sắp xếp sao cho hài hoà các quan hệ lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp và của những người lao động. Lợi ích kinh tế phải thực hiện bỡi lao động, mọi người đều có quyền lao động và đều có quyền được hưởng thành quả lao động của mình.

Bản chất chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một quá trình phát triển ổn định về kinh tế và chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Mác-Lênin và sự quản lý, hướng dẫn của nhà nước xã hội chủ nghĩa; là sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu mà nhân loại đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời lọc bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm hãm của các chế độ kinh tế trước, nhất là bản chất tư hữu, áp bức bóc lột, bất công đối với đa số nhân dân lao động.

- Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác-Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm nền tảng; đồng thời là sự kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hoá thuyền thống các dân tộc; tiếp thu những giá trị tiến bộ, văn minh mà nhân loại đã đạt được. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân được làm chủ những giá trị văn hoá tinh thần; được nâng cao trình độ văn hoá, có điều kiện để phát triển các nhân.

Ở khía cạnh văn hoá, sự phát triển của dân chủ xã hội chủ nghĩa và những thành quả đạt được trong công cuộc đấu tranh cho dân chủ được coi như một quá trình sáng tạo văn hoá, một thành tựu văn hoá của loài người.

2. Quá trình thực hiện dân chủ ở Việt NamNền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta được xây dựng trong điều kiện có có Đảng CS do Chủ

tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt nam, là đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Kế tục tư tưởng vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh Đảng ta chủ trương xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, nhà nước của nhân dân do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước ta thừa nhận nhân dân là cội nguồn của quyền lực, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Chúng ta có hệ thống chính trị vững mạnh, đây là cơ sở đảm bảo cho việc xây dựng nền dân chủ XHCN nền dân chủ thực chất.

Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới.

Hiện nay ở nước ta thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa phát huy quyền làm chủ của nhân dân được tiến hành dưới nhiều hình thức, nhiều cấp độ, trong đó thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở có ý nghĩa quan trọng và cấp bách, nó mang tính chất cơ bản và lâu dài bởi vì việc thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân ở xã, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nông dân và nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, tăng cường đoàn kết nông thôn, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở xã trong sạch, vững mạnh ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu tham nhũng, góp phần vào sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Việc thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở còn làm tăng niềm tin của quần chúng nhân dân lao động vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước vào tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, tạo nên những điều kiện thuận lợi và những động lực to lớn trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Việc thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở cần quán triệt những quan điểm chỉ đạo sau:

- Đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cấp cơ sở trong cơ chế tổng thể của hệ thống chính trị: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí, nhân dân làm chủ”. Trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở thì cần phải coi trọng cả ba mặt nói trên.

- Vừa phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp, vừa thực hiện tốt chế độ, dân chủ trực tiếp ở cấp cơ sở để nhân dân bàn bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan trọng, thiết thực gắn liền với lợi ích của mình.

Page 18: Khoi kien thuc 1

- Phát huy dân chủ phải gắn liền với phát triển kinh tế, xã hội nâng cao dân trí, tạo điều kiện mở rộng dân chủ có chất lượng hiệu quả.

- Nội dung các Qui chế phát huy dân chủ ở cấp cơ sở phải phù hợp với Hiến pháp, pháp luật, thể hiện tinh thần dân chủ đi đôi với kỉ cương, trật tự quyền hạn gắn liền với trách nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ, chống quan liêu mệnh lệnh, đồng thời chống tình trạng vô chính phủ, lợi dung dân chủ vi phạm pháp luật.

- Gắn quá trình xây dựng và hoàn thiện qui chế dân chủ với công tác cải cách hành chính, sửa đổi những cơ chế, chính sách về thủ tục hành chính không phù hợp.

Cùng với việc ban hành nhiều văn bản pháp lí, tháng 5/1988 chính phủ đã ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã (phường, thị trấn). Qui chế đã qui định một cách cụ thể những vấn đề dân cần được biết, được bàn, được làm và được kiểm tra.

Để đánh giá những thành tựu của nước ta trong quá trình mở rộng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nhận xét: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy trên nhiều lĩnh vực, dân chủ về kinh tế ngày càng được mở rộng đã tác động tích cực đến việc giải phóng sức sản xuất, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống nhân dân. Dân chủ về chính trị có bước tiến quan trọng thể hiện ở việc bầu các cơ quan dân cư, ở chất lượng sinh hoạt của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, tại các cuộc thảo luận của nhân dân tham gia ý kiến xây dựng các dự án luật, trong hoạt động của báo chí”.

Cùng với những thành tựu trong việc mở rộng dân chủ trên phạm vi cả nước, đối với cấp cơ sở việc mở rộng dân chủ cũng có những biến đổi quan trọng trên tất cả các lĩnh vực.

* Trong lĩnh vực chính trị:Quá trình thực hiện dân chủ trực tiếp của nhân dân đã có những bước tiến rất đáng quan tâm,

các cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp ngày càng thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia và đem lại kết quả ngày càng cao, nhân dân ngày càng đóng vai trò to lớn trong việc đóng góp các ý kiến để xây dựng các dự án luật và hoạch định các chính sách phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Việc thực hiện: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã có những chuyển biến tích cực và giành được sự quan tâm chú ý của toàn dân, của Đảng, của chính quyền, mặt trận tổ quốc, các đoàn thể, các hội quần chúng.

Kết quả khảo sát ở Bình Định cho thấy 89,6% số người được hỏi trả lời là cần biết về nghĩa vụ, quyền lợi của công dân, 84,1% cần biết về hoạt động của mặt trận tổ quốc và các đoàn thể ở xã, 81,6% cần biết về chủ trương của Đảng bộ xã, 78,3% cần biết về hoạt động của chính quyền xã, 72,0% cần kiểm tra việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân: 69,0% cần kiểm tra về thu nộp thuế; 66,8% cần kiểm tra việc chấp hành chính sách; 65,6% cần kiểm tra việc xây dựng cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm….); 50,8% cần kiểm tra việc bầu cử các cơ quan dân cử…".

Kết quả khảo sát trên cho thấy sự tham gia của quần chúng nhân dân vào đời sống chính trị ngày càng gia tăng.

* Trong lĩnh vực kinh tế:Cùng với việc mở rộng sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, các thành phần kinh tế ngày càng

được phát huy, đặc biệt là kinh tế hộ gia đình đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế của đất nước, nhân dân được giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và tự do lựa chọn các loại cây trồng, vật nuôi đem lại lợi nhuận cao, người dân có quyền liên kết trong hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật.

* Trong lĩnh vực văn hoá - tư tưởng:Cùng với việc ổn định về kinh tế, đời sống của nhân dân ngày một tăng cao đặc biệt về trình độ

dân trí và năng lực của cán bộ. Đảng viên ở cấp cơ sở đáp ứng phần nào sự nghiệp đổi mới đất nước. Bên cạnh đó, người dân được tự do tranh luận công khai được nói ra những suy nghĩ của mình đề đạt ý kiến với các cấp lãnh đạo. Điều đó đã kích thích tính chủ động, sáng tạo của nhân dân trong việc đóng góp ý kiến để xây dựng và hoạch định các chính sách phát triển kinh tế xã hội ở cấp cơ sở…

* Trong lĩnh vực xã hội:Cùng với việc đổi mới các hình thức sinh hoạt, các tổ chức chính trị, xã hội ở cấp cơ sở như

Mặt trận tổ quốc, Đoàn thanh niên CS Hồ Chí Minh… phần nào cũng thể hiện được vai trò của mình

Page 19: Khoi kien thuc 1

trong việc vận động quần chúng nhân dân xây dựng lối sống mới (xây dựng khối đoàn kết trong cộng đồng dân cư, mở rộng các hình thức tự quản ở khu phố, thôn, làng…).

Đặc điểm kể từ khi Chính phủ ban hành qui chế thực hiện dân chủ ở xã, ở nhiều nơi, nhiều địa phương đã xây dựng được những mô hình thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và tạo nên một bầu không khí dân chủ mới trong đời sống nhân dân, thu hút ngày càng nhiều quần chúng nhân dân tham gia vào công tác quản lý, đáp ứng một cách rộng rãi nhu cầu dân chủ của nhân dân trong thời kỳ mới.

Những hạn chế:Trải qua 30 năm đổi mới kể từ khi chúng ta thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần

theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh thành tựu đó chúng ta còn gặp phải rất nhiều khó khăn và hạn chế trong việc thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở.

- Tình trạng dân chủ hình thức còn xảy ra ở một số nơi trong bầu cử, đề bạt, bố trí cán bộ, huy động sức dân dẫn đến mất khả năng vận động giáo dục, thuyết phục nhân dân. Vì thế, “quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực, tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn đang phổ biến và nghiệm trọng mà chúng ta chưa ngăn chặn, đẩy lùi được…”.

- Ở nhiều nơi, các cấp uỷ Đảng hoạt động chưa có hiệu quả, đảng viên chưa thật sự đoàn kết dẫn đến tính trạng chia bè, kéo cánh, một số cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân bị kẻ địch lợi dụng, có hành vi lôi kéo tụ tập, gây rối làm vô hiệu hoá sự lãnh đạo của Đảng, của chính quyền, một bộ phận tỏ ra hoài nghi, dao động mất phương hướng chính trị. Sinh hoạt Đảng ở nhiều nơi diễn ra chưa đều đặn, đấu tranh phê bình và tự phê bình còn mang tính hình thức do nể nang sợ mất lòng cho nên không dám nói thẳng ra sự thật…

Chính vì thế việc thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chưa có hiệu quả, các mệnh lệnh chủ yếu được ban hành từ trên xuống, ít có thông tin phản hồi từ dưới lên. Những vấn đề được bàn, được làm là những vấn đề chủ yếu liên quan đến nghĩa vụ hơn là quyền lợi của nhân dân, vì thế nó không đáp ứng được nhu cầu dân chủ của nhân dân.

- Về phía quần chúng nhân dân, do trình độ văn hoá còn hạn chế, lại thiếu tuyên truyền giáo dục thường xuyên, do đó họ thiếu sự hiểu biết về chính sách của Đảng và Nhà nước. Mặt khác, do đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở một số vùng còn khó khăn đặc biệt với các khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, sự chênh lệch giàu nghèo ở một số nơi còn lớn. Mức chênh lệch giàu nghèo càng lớn, từ những nguyên nhân đó cho thấy một bộ phận quần chúng nhân dân có tâm lý suy bì, so sánh, tự ti… dẫn đến những hành động tự phát, phản ứng mang tính chất tự do vô chính phủ làm vi phạm pháp luật nghiêm trọng .

Cùng với đó, yếu tố dòng họ cũng có ảnh hưởng không nhỏ làm cho tình trạng dân chủ (đặc biệt là ở nông thôn) mang tính cục bộ, bởi vì thế cho thấy có những xã, những làng, một vài dòng họ chiếm số đông trong nhân dân). Điều đó dẫn đến tình trạng thiếu khách quan trong việc lựa chọn cán bộ vào trong hội đồng nhân dân xã cũng như trong việc bầu các trưởng thôn, trưởng xóm.

Tóm lại, xây dựng và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết là thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đây là một chủ trương lớn của Đảng. Để thực hiện tốt Qui chế dân chủ ở cấp cơ sở thì các giải pháp phải được tiến hành một cách đồng bộ và thường xuyên. Việc thực hiện tốt các quy chế dân chủ là điều kiện để chúng ta tiến hành thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở cấp cơ sở một cách có hiệu quả theo chủ trương của Đảng và Nhà nước đã đề ra, làm cho Qui chế dân chủ trở thành một nề nếp, một nguyên tắc sinh hoạt thường xuyên của quần chúng nhân dân và các cấp chính quyền thể hiện bản chất tốt đẹp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Page 20: Khoi kien thuc 1
Page 21: Khoi kien thuc 1

Câu 5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sảnCâu hỏi: Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.

Phân tích luận điểm trên và liên hệ với thực tiễn cách mạng Việt Nam.?Trả lời:

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng XHCN; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa, nhân nghĩa và thực tiễn cách mạng Việt Nam với tinh hoa văn hóa nhân loại, được nâng lên tầm cao mới dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Tư tưởng về ĐCSVN là một trong những tư tưởng chủ yếu của hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.

Là người sáng lập ĐCSVN, Hồ Chí Minh đã xây dựng và rèn luyện ĐCS thành một đảng cách mạng chân chính, bộ tham mưu sáng suốt và kiên cường của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, để lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và đưa cả nước đi lên CNXH. Trong những di sản tư tưởng mà Người để lại, những luận điểm của Người về ĐCS, về xây dựng Đảng, đặc biệt trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, là một phần cực kỳ quan trọng. Quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người nhằm chỉnh đốn và đổi mới Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch vững mạnh, xứng đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo toàn xã hội, là một trong những nhiệm vụ chủ yếu nhất của toàn Đảng, toàn dân ta. Đây thực sự là vấn đề then chốt đảm bảo thắng lợi cho công cuộc đổi mới đang được triển khai rộng khắp trên cả nước ta hiện nay.

Những luận điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về ĐCS Việt Nam: ĐCS là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi; ĐCSVN là sản

phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; ĐCSVN - “Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam”; ĐCSVN phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm cốt”; ĐCSVN phải được xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản; Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đảng lãnh đạo, dân làm chủ. Phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân; và Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.

ĐCSVN phải được xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản là một trong những luận điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về ĐCSVN

Đây chính là những nguyên tắc mà Lênin đã đề ra, để phân biệt với những đảng cơ hội của Quốc tế II, những đảng đó đã biến thành tôi tớ của giai cấp tư sản, phản bội chủ nghĩa Mác và quyền lợi của giai cấp vô sản. Nếu khái quát những luận điểm của Hồ Chí Minh, có thể thấy Người đã đề cập những nguyên tắc xây dựng Đảng sau:

Tập trung dân chủ: Đây là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng ĐCS thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa

phát huy sức mạnh của mỗi người, vừa phát huy sức mạnh của tất cả những ai đã tự nguyện gắn bó với nhau trong một tổ chức. Vì vậy, Hồ Chí Minh gọi tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau trong một nguyên tắc. Dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung, chứ không phải là dân chủ theo kiểu phân tán, tùy tiện, vô tổ chức. Tập trung là tập trung trên cơ sở dân chủ, chứ không phải tập trung quan liêu theo kiểu độc đoán, chuyên quyền.

Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách: Theo Hồ Chí Minh, đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm

việc, Người đã phân tích rất rõ về nguyên tắc này: một người dù tài giỏi đến mấy cũng không thể thấy hết mọi mặt của một vấn đề, càng không thể thấy hết được mọi việc, hiểu hết được mọi chuyện. Vì

Page 22: Khoi kien thuc 1

vậy, cần phải có nhiều người cùng tham gia lãnh đạo. Nhiều người thì nhiều kiến thức, người thấy mặt này, người thấy mặt kia, do đó hiều được mọi mặt, mọi vấn đề. Về cá nhân phụ trách, Người đã chỉ rõ việc gì đã được tập thể bàn bạc kỹ lưỡng, kế hoạch đã được định rõ thì cần giao cho một người phụ trách, nếu giao cho một nhóm người thì cũng cần có một người phụ trách chính. Như thế công việc mới chạy, như thế mới tránh được thói dựa dẫm, người này ỷ vào người kia, ỷ vào tập thể. Không xác định rõ cá nhân phụ trách, thì giống như “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”.

Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn đi đôi với nhau. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung.

Tự phê bình và phê bình: Hồ Chí Minh rất coi trọng nguyên tắc này. Người coi đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là

luật phát triển của Đảng. Mỗi đảng viên trước hết tự mình phải thấy rõ mình, để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm. Hơn nữa, nếu biết tự phê bình tốt thì mới phê bình người khác tốt được. Tự phê bình và phê bình là nhiệm vụ thường xuyên chứ không phải là giải pháp nhất thời, là vũ khí để rèn luyện đảng viên, nhằm làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn và tăng cường đoàn kết nội bộ. Đó cũng chính là vũ khí để nâng cao trình độ lãnh đạo của Đảng, để Đảng làm tròn sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, làm tròn trách nhiệm trước giai cấp và dân tộc.

Thực hiện tự phê bình và phê bình thật đúng đắn, nghiêm túc không phải là việc dễ dàng. Tự phê bình và phê bình không những là một vấn đề của khoa học cách mạng, mà còn là nghệ thuật của cách mạng; cán bộ càng cao, tr/nhiệm càng lớn, càng phải gương mẫu tự phê bình và phê bình. Muốn thực hiện tốt ng/tắc này, đòi hỏi mỗi người phải trung thực, chân thành với bản thân mình cũng như với người khác. Phải phê phán những thái độ lệch lạc, sai trái thường xảy ra trong phê bình và tự phê bình như thiếu trung thực, che dấu khuyết điểm của bản thân, sợ phê bình, không dám phê bình, nể nang né tránh, dĩ hòa vi quý, hoặc ngược lại lợi dụng phê bình để nói xấu, bêu nhọ, vùi dập, đả kích người khác...

Kỷ luật nghiêm minh và tự giác: Cùng với nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác làm cho

Đảng thực sự là một tổ chức chiến đấu chặt chẽ để giành thắng lợi cho sự nghiệp độc lập dân tộc và CNXH. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh và tự giác trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng: Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm minh của cán bộ, đảng viên. Nghiêm minh là thuộc về tổ chức Đảng, vì đó là kỷ luật đối với mọi cán bộ, đảng viên, không phân biệt cán bộ lãnh đạo cao hay thấp, là cán bộ lãnh đạo hay đảng viên thường, mọi cán bộ, đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng. Tự giác là thuộc về mỗi cán bộ, đảng viên đối với Đảng, một tổ chức của những người tự nguyện đứng trong một hàng ngũ để cùng chiến đấu cho độc lập dân tộc và CNXH. Nếu việc vào Đảng không phải là việc ép buộc đối với bất cứ đảng viên nào, thì việc tuân thủ kỷ luật của Đảng cũng như vậy.

Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt Đảng, các nguyên tắc xây dựng Đảng. Có như vậy, Đảng mới là một khối thống nhất về tư tưởng và hành động. nếu không có kỷ luật, không thống nhất về tư tưởng và hành động, “Đảng sẽ xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bế tắc”. Từ việc tuân thủ kỷ luật của Đảng, mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, mỗi cấp ủy dù ở cấp bộ nào cũng phải nghiêm túc chấp hành kỷ luật của các đoàn thể, pháp luật của Nhà nước, tuyệt đối không ai được cho phép mình coi thường, thậm chí đứng trên tất cả. Ý thức kỷ luật đó là ý thức của giai cấp công nhân, ý thức của Đảng của giai cấp công nhân. Việc đề cao ý thức kỷ luật đó đối với mọi cán bộ, đ/viên từ trên xuống dưới chỉ làm tăng thêm uy tín của Đảng; ngược lại, ý thức kỷ luật đó càng thấp, nếu cán bộ, đảng viên càng có nhiều vi phạm kỷ cương phép nước, tự cho mìnhlà người lãnh đạo, coi thường kỷ luật của các đoàn thể nhân dân, thì uy tín của Đảng càng giảm thấp, càng đưa đến những nguy cơ cho Đảng.

Đoàn kết thống nhất trong Đảng: Trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài và gian khổ, toàn đảng phải đoàn kết thành một khối

vững chắc, toàn Đảng phải thống nhất ý chí và hành động, mọi đảng viên phải bảo vệ sự đoàn kết thống nhất của Đảng như bảo vệ con ngươi của mắt mình. Đây là một nguyên tắc quan trong của Đảng kiếu mới của Lênin.

Page 23: Khoi kien thuc 1

Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng cũng như khối đại đoàn kết toàn dân. Phải xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng để làm nòng cốt cho việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong nhân dân. Tư tưởng đoàn kết toàn Đảng, toàn dân là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh. Quán triệt tư tưởng này trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng và nhân dân ta đã xây dựng nên khối đoàn kết vững chắc, đảm bảo cho việc giành được những thắng lợi ngày càng to lớn hơn. Cơ sở để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng chính là đường lối, quan điểm của Đảng và Điều lệ Đảng. Đây là cơ sở để tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, về tổ chức, từ đó có sự thống nhất về hành động của toàn Đảng, nhằm đưa đường lối, quan điểm của Đảng vào cuộc sống, biến các chủ trương của Đảng thành hành động cách mạng của quần chúng nhân dân. Sự đoàn kết thống nhất thật sự, lành mạnh, chân chính trong Đảng chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở này.

Tình hình càng phát triển, nhiệm vụ càng nặng nề, càng đòi hỏi phải củng cố và tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo; bởi lẽ sự đoàn kết thống nhất của cán bộ lãnh đạo có ảnh hưởng lớn đến sự đoàn kết thống nhất của nhiều cán bộ, đảng viên, đến toàn Đảng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐCS là tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng ĐCSVN thực sự là một đảng mácxít-lêninnít chân chính, là Đảng của Hồ Chí Minh để làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang và trách nhiệm nặng nề trước dân tộc, đồng thời có những đóng góp tích cực vào phong trào cách mạng thế giới.

Trong nhiều thời kỳ, tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐCS đã được quán triệt trên cả 03 mặt xây dựng Đảng: chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho Đảng trở thành bộ tham mưu sáng suốt lãnh đạo sự nghiệp cách mạng. Từ đó Đảng lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc giành thắng lợi ngày càng to lớn hơn cho độc lập dân tộc và CNXH.

Về chính trị, đó là đường lối chính trị đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng trong mọi tình huống phức tạp, mọi bước ngoặc hiểm nghèo, mọi giai đoạn cách mạng khác nhau. Trên cơ sở kiên định mục tiêu lâu dài là độc lập dân tộc và CNXH, Đảng biết tập trung giành thắng lợi cho từng bước đi lên của cách mạng.

Về tư tưởng, đó là tư tưởng cách mạng triệt để, tư tưởng cách mạng tiến công, luôn đề phòng và kịp thời khắc phục những lệch lạc “tả - hữu”, chống cơ hội, xét lại, chống giáo điều bảo thủ, đồng thời dự báo các chiều hướng có thể xảy ra. Đó là tư tưởng cách mạng khoa học lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng, lấy thực tiễn Việt Nam làm điểm xuất phát, lấy cải tạo hiện thực Việt Nam làm việc tiêu, để vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời làm giàu thêm trí tuệ của mình bằng việc kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, thâu hóa những tinh hoa văn hóa nhân loại, để giành thắng lợi cho cách mạng.

Về tổ chức, đó là một tổ chức chính trị trong sạch vững mạnh; một tổ chức chiến đấu kiên cường, khi tiến đánh thì trăm người như một; một tổ chức với một đội ngũ cán bộ, đảng viên coi trọng việc tu dưỡng đạo đức, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, nâng cao năng lực, luôn gắn bó máu thịt với dân, dám hy sinh xả thân vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc. Đó là một tổ chức trọng chất lượng hơn số lượng, lấy việc nâg cao vai trò và sức chiến đấu của Đảng làm nhiệm vụ thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên và của toàn Đảng.

Sau các phong trào yêu nước 30 năm đầu thế kỷ XX, năm 1930 ĐCSVN ra đời, đánh dấu bước ngoặc của cách mạng Việt Nam. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi vĩ đại: thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập Nước VNDCCH; thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên CNXH. Tuy nhiên trong quá trình lãnh đạo cách mạng, có lúc Đảng đã phạm khuyết điểm sai lầm, một bộ phận cán bộ, đảng viên đã thoái hóa biến chất, làm tổn hại đến uy tín và thanh danh của Đảng. Với tinh thần cách mạng của một Đảng cách mạng, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, dám công khai thừa nhận khuyết điểm sai lầm trong công tác lãnh đạo, công khai vạch rõ những tệ nạn đã có ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, từ đó đề ra những biện pháp cần thiết để sửa chữa, khắc phục. Tình hình mới đòi hỏi Đảng ta phải trưởng thành hơn, vượt lên chính bản thân mình, đồng thời cũng làm bộc lộ rõ những điều bất cập. Những thành tựu và yếu kém trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gắn

Page 24: Khoi kien thuc 1

liền với trách nhiệm lãnh đạo của Đảng và những ưu điểm, khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng. Từ Đại hội VIII đến nay, Đảng ta đã có nhiều cố gắng tiến hành nhiệm vụ then chốt là xây dựng, chỉnh đốn Đảng và nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế. Hội nghị TW 6 (lần 2) đã ra Nghị quyết về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng; mở cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tiến hành tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng. Qua gần 2 năm thực hiện, cuộc vận động đã thu được một số kết quả và kinh nghiệm bước đầu nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu đề ra. Trong công tác xây dựng Đảng, bên cạnh những ưu điểm, đang nổi lên một số mặt yếu kém và khuyết điểm, nhất là khuyết điểm về công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, chưa ngăn chặn và đẩy lùi được sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống. Một số tổ chức Đảng ở các cấp chưa được chỉnh đốn, dân chủ bị vi phạm, kỷ luật, kỷ cương lỏng lẻo, nội bộ không đ/kết. Công tác tư tưởng, công tác lý luận còn yếu kém, bất cập. Công tác tổ chức, cán bộ còn một số biểu hiện trì trệ. Tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng và p/luật của nhà nước còn yếu.

Nguyên nhân trực tiếp và chủ yếu của những tồn tại trên là do nhiều cấp ủy và tổ chức Đảng, kể cả BCHTW và Bộ Chính trị chưa chỉ đạo tập trung và kiên quyết công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chủ trương, biện pháp thiếu đồng bộ; chưa chỉ đạo kết hợp tiến hành tự phê bình và phê bình với kiện toàn tổ chức, đổi mới cơ chế, chính sách, chỉnh đốn các khâu quản lý kinh tế tài chính và tăng cường công tác giáo dục cán bộ, đảng viên. Trong những năm tới, toàn Đảng phải tiếp tục thực hiện có hiệu quả các nghị quyết về xây dựng Đảng, nhất là TW 6 (lần 2) khóa VIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản, về nguyên tác xây dựng Đảng đã chỉ đạo cho việc xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam thật sự là một Đảng Macxit-Leninit chân chính, Đảng của Hồ chí Minh đã làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang và trách nhiệm nặng nề trước dân tộc, đồng thời có những đóng góp tích cực vào phong trào cách mạng thế giới.

Sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo 30 năm qua đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng: chính trị - xã hội ổn định, an ninh quốc phòng giữ vững, kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân được cải thiện, quan hệ của Việt nam với thế giới được mở rộng, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Việt nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội kéo dài, vượt qua chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ để bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những thành tựu của công cuộc đổi mới gắn liền với sự trưởng thành của Đảng, những tồn tại, yếu kém trên nhiều lĩnh vực đòi hỏi phải khắc phục.

Đã có nhiều Nghị quyết đặt ra những yêu cầu trong công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm vẫn tồn tại không ít khuyết điểm, đáng chú ý là những khuyết điểm về công tác giáo dục rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, sự suy thoái về chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên ở mọi cấp mọi ngành lại đang có chiều hướng trở thành phổ biến hơn, nghiêm trọng hơn. Tham những trở thành quốc nạn. Bệnh quan liêu với nhiều biểu hiện khác nhau đã làm tổn thương không nhỏ đối với mối quan hệ của Đảng, Nhà nước với dân. Vì vậy, hội nghị lần thứ sáu (lần hai) Ban chấp hành trung ương khóa VIII đã ra Nghị quyết “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”. Nghị quyết đã đề cập nhiều vấn đề lớn: quan điểm tư tưởng chính trị, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình, phê bình trong đảng,, vấn đề giáo dục chính trị, đạo đức, lối sống, chống tham những, quan liêu... Hội nghị chủ trương phát động “Cuộc xây dựng chỉnh đốn Đảng” trong hai năm 1999-2001. Qua hai năm thực hiện cuộc vận động thu được một số kết quả và kinh nghiệm bước đầu song chưa đạt yêu cầu đề ra. Nghị quyết đại hội đai biểu trung ương lần IX đã nêu: Trong những năm tới, toàn Đảng tiếp tục thực hiện các nghị quyết về xây dựng Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, tập trung làm tốt những công tác quan trọng sau đây:

Trên cơ sở tổng kết hai năm thực hiện cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, tiếp tục đưa việc tự phê bình và phê bình trong các cấp ủy và tổ chức Đảng từ Trung ương đến cơ sở thành nề nếp thường xuyên và theo định kỳ.

Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu làm trong sạch đội ngũ đảng viên. Cán bộ đảng viên ở bất cứ cương vị nào đều phải chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết của đảng và pháp luật của Nhà nước. Thi hành kỷ luật nghiêm khắc mọi vi phạm về nguyên tắc, nhất là đối với những vấn đề quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.

Page 25: Khoi kien thuc 1

Xây dựng đội ngũ cán bộ trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, vững vàng về chính trị gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiển, gắn bó với nhân dân. Đến hết năm 2005, phần lớn cán bộ lãnh đạo chủ chốt từ cấp huyện trở lên học xong chương trình cao cấp về lý luận chính trị và có trình độ đại học về một chuyên ngành nhất định.

Tất cả các Đảng bộ, chi bộ ở cơ sở đều nắm vững và thực hiện đúng chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị đối với chính quyền, đoàn thể, các tổ chức kinh tế, sự nghiệp, các mặt công tác và các tầng lớp nhân dân ở cơ sở, nâng cao tính chiến đấu, khắc phục tình trạng thụ động, ỷ lại, buông lõng vai trò lãnh đạo.

Phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy ở cơ sở đến Ban chấp hành Trung ương. Chống dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan hoặc lợi dụng dân chủ để mưu cầu lợi ích riêng, cục bộ, bản vị.

Từng đảng bộ giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong tập thể lãnh đạo. Đối với những cấp ủy, tổ chức đảng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, cán bộ lãnh đạo độc đoán, chuyên quyền, léo bè, kéo cánh gây mất đoàn kết nội bộ, cấp ủy cấp trên phải chỉ đạo kiểm điểm làm rõ đúng sai, xử lý nghiêm những người có khuyết điểm, kiện toàn tổ chức cán bộ; nơi không có khả năng khắc phục khuyết điểm thì giải tán về tổ chức, lập tổ chức mới theo quy định của Điều lệ Đảng. Tăng cường chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với việc phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân.

Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp ủy, của ủy ban kiểm tra các cấp, tập trung vào các nội dung chủ yếu: thực hiện các Nghị quyết, chủ trương, chính sách của đảng và Nhà nước, chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; củng cố đoàn kết nội bộ, giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.

Nội dung Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu (lần hai) và cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng đã quán triệt những tư tưởng lớn của Hồ chủ tịch về Đảng cộng sản. Xây dựng chỉnh đốn đảng là nhằm thực hiện câu nói của chủ tịch Hồ chí Minh: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Đảng phải là đảng của trí tuệ tiên phong ngang tầm thời đại thì mới đưa dân tộc vững bước tiến vào thế kỷ XXI, mới giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa, mới giành được thắng lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn soi sáng cho công tác xây dựng Đảng ta hôm nay và lâu dài về sau. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân Là người sáng lập Đảng CSVN, Hồ Chí Minh không ngừng chăm lo xây dựng, rèn luyện Đảng

ta thành Đảng Mác xít thật sự vững mạnh để lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi..., lý tưởng cách mạng. Từ nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Người xác định mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân và cán bộ, công tác cán bộ của Đảng. Trong hệ thống các quan điểm có tính quy luật, về xây dựng Đảng CSVN, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân và cán bộ, công tác cán bộ của Đảng là sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin về chính Đảng vô sản vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam.

Đối với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh không chỉ nhận thức sáng tỏ thêm về vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân là người sáng tạo nên lịch sử, động lực của cách mạng, mà còn phát hiện được rằng sức mạnh của quần chúng chỉ có thể phát huy đầy đủ, đúng đắn khi có sự lãnh đạo của "Đảng cách mệnh" chân chính. Đảng CSVN ra đời chính là do yêu cầu nội tại của phong trào cách mạng nước ta.

Hồ Chí Minh cho rằng: nhân dân là những người có lòng yêu nước, tán thành độc lập dân tộc, xây dựng đất nước giàu mạnh, ấm no, tự do, hạnh phúc. Trong tập hợp rộng lớn ấy, Hồ Chí Minh thường hướng chú ý vào lực lượng nòng cốt là công nhân, nông dân, trí thức. Như vậy, quan niệm về dân của Hồ Chí Minh mang tính chất giai cấp. Quan niệm đó khác hẳn với quan niệm về dân của phong kiến, vô sản. Đó là quan điểm về dân hoàn toàn theo chủ nghĩa Mác-Lênin.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Đảng phải gắn bó máu thịt với dân. Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhân dân là lực lượng che chở cho Đảng, Đảng muốn tồn tại được thì phải ở trong lòng dân, việc Đảng dựa chắc vào dân để đánh đổ ách ngoại xâm giành chính quyền cách mạng là lẽ tự nhiên, ai cũng nhận được. Trong thời kỳ Đảng cầm quyền, quan hệ giữa Đảng với nhân dân càng phải được chú ý đặc biệt, bởi vì nó có thể có nhiều căn bệnh để nảy sinh làm tổn hại đến mối

Page 26: Khoi kien thuc 1

quan hệ vốn đã gắn bó giữa Đảng vớ dân trong thời kỳ trước. Vì vậy, để quan hệ máu thịt “ý Đảng, lòng dân” thì mỗi cán bộ, đảng viên phải “biết lấy ý kiến của dân chúng”, tiếc là phải lắng nghe ý kiến của nhân dân để xây dựng đường lối, chính sách của Đảng; phải “học dân chúng”, khiêm tốn học hỏi quần chúng, nhân dân Đảng và cán bộ, đảng viên, phải “nâng cao dân chúng”, nâng tầng trí tuệ và sức mạnh của nhân dân, nhưng không theo đuổi quần chúng; vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân.

Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh là một tấm gương về gần dân, hiểu dân và vì dân. Người có ham muốn tột bậc là làm cho nước ta hoàn toàn được độc lập, dân ta có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Người cho rằng: “Nếu nước đã được độc lập mà dân không có tự do thì độc lập cũng chẳng làm gì”. Vì vậy, Trong di chúc, Hồ Chí Minh căn dặn Đảng ta phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.

Có thể khẳng định rằng, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, giữ gìn mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng, là nhân tố quyết định tạo ra sức mạnh của Đảng, là một trong những vấn đề cốt lõi của công tác xây dựng Đảng. Trong nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập, Đảng muốn qua mọi thách thức, cán bộ, đảng viên của Đảng phải luôn luôn nhận thức đầy đủ mối quan hệ đó, phải luôn gắn bó với nhân dân, hết sức tránh bệnh quan liêu, xa rời nhân dân, phải dựa vào quần chúng, đi sâu sát cơ sở, lắng nghe tiếng nói, nguyện vọng của quần chúng, kiên trì phục vụ quần chúng, làm cho các quyết sách và công tác phù hợp với thực tế và yêu cầu của quần chúng nhân dân đối với cán bộ và công tác cán bộ.

* Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân:Bất kỳ đảng phái nào muốn thực hiện được ý đồ chính trị của mình thì cũng đều phải huy

động, tập hợp nhân dân. Nhưng sự khác nhau căn bản giữa phương pháp của ĐCS so với các Đảng tư sản là việc tập hợp quần chúng nhân dân nhằm thực hiện những công việc vì chính bản thân quần chúng. ĐCS không có mục đích tự thân mà Đảng ra đời nhằm phục vụ nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo là nhằm “lấy tài dân, sức dân để làm những công việc có lợi cho dân” chứ không phải vì lợi ích của người lãnh đạo. Mục tiêu lãnh đạo của Đảng chính là vì độc lập và tự do của dân tộc, hạnh phúc và dân chủ của nhân dân. Với ý nghĩa đó, sự lãnh đạo của Đảng đồng nghĩa là “đầy tớ” của nhân dân.

Toàn bộ hoạt động của Đảng đều xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước. Để tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, Đảng ta đã yêu cầu mỗi đảng viên phải làm công tác vận động quần chúng, hoạt động tích cực trong các đoàn thể, các tổ chức xã hội và các cấp ủy; tổ chức Đảng phải có nội dung thích hợp để nhân dân tham gia công tác xây dựng Đảng. Đảng ta còn yêu cầu cán bộ, đảng viên, công chức phải xây dựng và thực hành phong cách trọng dân, gần dân, hiểu dân và có trách nhiệm với nhân dân; nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin. Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng, mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời gian qua còn nhiều hạn chế và cần được tiếp tục giải quyết. Biểu hiện của sự hạn chế này là mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng trước những thách thức mới; lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận nhân dân chưa vững chắc; nhiều tổ chức Đảng, chính quyền còn coi nhẹ công tác dân vận...

Cách mạng Tháng Tám 1945 đã cho chúng ta nhiều bài học vô cùng quý báu. Một trong những bài học đó là: cách mạng là sự nghiệp của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để lãnh đạo cách mạng thành công, Đảng phải dựa vào nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu và phục vụ, luôn luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, phát huy cao độ sức mạnh của nhân dân. Bài học về sức mạnh to lớn của nhân dân và sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân có ý nghĩa sâu sắc không chỉ đối với cách mạng Tháng Tám 1945, đối với hơn 30 năm chiến đấu gian khổ bảo vệ nền độc lập và thống nhất Tổ quốc, mà còn cho cả ngày nay trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là một chân lý lớn của cách mạng Việt Nam, một nội dung quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh khi Người nhấn mạnh và thực hiện nhất quán: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.

Bài học đó nhắc nhở chúng ta rằng “Dễ mười lần không dân cũng chịu; khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Trong sự nghiệp đổi mới mấy chục năm qua, cùng với việc đề ra đường lối và các chính sách đổi mới đúng đắn, Đảng luôn luôn giương cao ngọn cờ ĐĐK toàn dân, phát huy sức mạnh toàn

Page 27: Khoi kien thuc 1

dân tộc, gắn liền với sức mạnh thời đại, tạo ra nguồn lực to lớn, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, phát triển kinh tế với nhịp độ khá nhanh, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Mục tiêu kinh tế - xã hội mà toàn Đảng và toàn dân ta đang ra sức phấn đấu là đến năm 2020 đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

* Vì sao phải lấy dân làm gốc:Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ CNXH đã ghi: “Sự nghiệp cách mạng là

của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính người dân là người làm nên thắng lợị lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”.

Điều lệ ĐCSVN, ngay phần mở đầu đã nhấn mạnh: “ĐCSVN là Đảng cầm quyền. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào dân để xây dựng Đảng”. Trong Di chúc bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho Đảng ta và nhân dân ta, Người đặc biệt nhấn mạnh, tăng cường quan hệ giữa Đảng với nhân dân: “Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những quan niệm sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử và mối quan hệ mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Người không chỉ khẳng định dân là gốc của nước, mà còn tôn vinh nhân dân: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Người còn nói, nhân dân là người xây dựng, là người đổi mới, làm nên sự nghiệp lớn, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nhân dân.

Quán triệt Điều lệ Đảng và thấm nhuần sâu sắc Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Lấy dân làm gốc”, chúng ta càng thấm thía rằng: mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân, nếu Đảng xa dân, tách khỏi dân thì Đảng không thể tồn tại được. Không có sự tham gia giám sát của nhân dân thì cán bộ, đảng viên dễ trở thành “ông quan”, “bà quan” cách mạng chứ khó trở nên “Người lãnh đạo, Người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Không có sự giám sát chặt chẽ của quần chúng nhân dân thì tổ chức Đảng khó tránh khỏi tệ quan liêu - một trong những nguy cơ lớn của Đảng cầm quyền, biến sứ mệnh cầm quyền cao cả của Đảng thành ''Đảng lạm quyền", thậm chí còn dẫn đến thoái hóa, biến chất. Do vậy, sự giám sát cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng của nhân dân trong việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay đang trở nên bức bách và có ý nghĩa sống còn của Đảng ta. Đó là bài học ''Lấy dân làm gốc" để xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Lịch sử đã từng chứng minh, một chế độ chính trị - xã hội chỉ tồn tại được khi nào có khả năng tập hợp, đoàn kết được quảng đại quần chúng nhân dân. Trong những giai đoạn cách mạng trước, sở dĩ Đảng ta luôn luôn giữ vững được vai trò lãnh đạo của mình, bởi nhờ có sự ủng hộ, che chở, bảo vệ của nhân dân. Ngày nay, đứng trước cuộc đấu tranh bài trừ các tệ nạn xã hội, trước hết là làm trong sạch các tổ chức đảng, bộ máy Nhà nước, khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng và sự tha hóa đạo đức, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên chỉ có thể thực hiện đạt hiệu quả khi nào các tổ chức đảng, các cấp ủy đảng thực sự tin ở dân, dựa vào sự tham gia kiểm tra, giám sát của nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tham gia giám sát cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng còn là quyền và nghĩa vụ của nhân dân đối với Đảng. Đối với một Đảng cầm quyền, Đảng có sứ mệnh lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội tiến hành công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN. Do đó, toàn bộ cuộc sống từ vật chất đến tinh thần, văn hóa của mỗi người dân trong xã hội đều gắn với sự lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng có trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên có tiên phong gương mẫu thì mới bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước, và cũng nhờ đó mà cuộc sống của nhân dân được đảm bảo, cải thiện và nâng cao. Trái lại, cán bộ, đảng viên tiêu cực, tha hóa, tổ chức đảng không trong sạch, vững mạnh thì không chỉ làm cho tổ chức đảng bị rệu rã, dẫn đến mắc sai lầm, thất bại mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống, cuộc sống của nhân dân. Do vậy mà việc giám sát cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng vừa là một quyền cơ bản không thể thiếu của công dân, vừa là nghĩa vụ, trách nhiệm vẻ vang của nhân dân đối với Đảng. Nhân

Page 28: Khoi kien thuc 1

dân giám sát cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng là một nội dung về quyền làm chủ của nhân dân nhằm xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh và từ đó cũng nhằm bảo vệ lợi ích thiết thân, chính đáng, hợp pháp của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Dân chủ là bản chất của chế độ và của Đảng ta. Bác Hồ đã khẳng định: “Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân... Làm cho mọi công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý Nhà nước”.

85 năm qua, chính nhờ bắt rễ sâu rộng trong quần chúng, đường lối chính trị được lòng dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ, cho nên Đảng và nhân dân ta đã kết thành một khối vững chắc, quan hệ máu thịt với nhân dân là cội nguồn sức mạnh to lớn của Đảng ta. Ở đâu và lúc nào, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên thường xuyên chăm lo lợi ích của nhân dân, sống đồng cam cộng khổ với dân, mọi việc làm đều vì lợi ích của dân, thì ở đó Đảng và dân có mối quan hệ tốt đẹp; cán bộ, đảng viên được dân tin, dân phục, dân theo. Trái lại, ở đâu và lúc nào tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên xa dân, quay lưng lại với dân, quan liêu, thậm chí trù dập, ức hiếp dân thì ở đó sẽ bị dân oán ghét, chê trách, bất hợp tác. Qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, với việc phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống, mở mang dân trí, dân chủ trong xã hội, Đảng ta ngày càng củng cố được niềm tin của nhân dân, khơi dậy được những tiềm năng, tạo ra được những nguồn sinh lực của cách mạng. Ý Đảng, lòng dân là sức mạnh vô tận.

Bài học “Lấy dân làm gốc” để xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được tiến hành đồng bộ trên nhiều mặt cả về kinh tế, chính trị, tư tưởng... để cùng tác động đến đời sống, tâm lý, tư tưởng các tầng lớp nhân dân, tạo nên sự chuyển biến tích cực trong thái độ, tình cảm, tâm lý, ý thức của từng người dân. Đời sống vật chất và đời sống tinh thần của các tầng lớp nd không ngừng được cải thiện và nâng cao, dân chủ XHCN được củng cố, mở rộng; tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực bị ngăn chặn và đẩy lùi; Đảng vững mạnh, nâng cao được sức chiến đấu, bộ máy nhà nước trong sạch, thật sự của dân, do dân, vì dân, nâng cao được hiệu lực quản lý, thì sẽ được lòng dân. Đảng vì dân, dân tin ở Đảng, ra sức góp phần xây dựng Đảng và bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ XHCN của chúng ta.

Ngày nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN của toàn dân ta đã có những thuận lợi mới, thời cơ mới, thực lực và sức mạnh mới, đưa dân tộc lên vị thế chưa từng có. Bạn bè tăng lên, thù giảm bớt, đói nghèo lạc hậu từng bước được đẩy lùi, đời sống vật chất, tinh thần, văn hoá không ngừng được cải thiện. "Lấy dân làm gốc" ngày nay được kế thừa và phát huy trong điều kiện, vẫn đất nước mình, dân tộc mình, nhưng kết cấu dân cư, thành phần giai cấp, xã hội đã có nhiều đổi mới. Do đó, phải phát huy được hiệu quả của mọi thành phần kinh tế, trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trong cuộc trường chinh chống đói nghèo và lạc hậu, phát huy được sức mạnh Việt Nam, trí tuệ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai câp công nhân

Vào những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã sớm xác định, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam chỉ có thể giành được thắng lợi khi đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới.Tư tưởng đó tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện đầy đủ hơn trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Xác định sự cần thiết phải có tổ chức Đảng Cộng sản, Hồ Chí Minh nêu rõ “phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”; Trong kháng chiến chống chủ nghĩa đế quốc thực dân, tư tưởng Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình thành ba tầng Mặt trận: Mặt trận đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào; Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đó là sự phát triển rực rỡ nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.

Như vậy, những luận điểm trên đây tạo thành nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Những luận điểm ấy đã được hình thành, từng bước được hoàn chỉnh trong tiến trình cách mạng Việt Nam và đã được thực tiễn cách mạng kiểm nghiệm. Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã dày công xây dựng, vun đắp cho sự lớn mạnh và phát triển của Mặt trận dân tộc thống nhất, tăng cường sự ảnh hưởng của Mặt trận đối với cách mạng Việt Nam.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 00 năm qua đã chứng minh hùng hồn sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Từ chổ là tư tưởng của lãnh tụ,

Page 29: Khoi kien thuc 1

đại đoàn kết dân tộc đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng XHCN. Tư tưởng đó đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của tất cả những người Việt Nam yêu nước và biến thành hành động cách mạng của hàng triệu, hàng triệu con người, tạo thành sức mạnh vô địch trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tính chất rộng rãi của khối đại đoàn kết dân tộc thể hiện qua việc mở rộng biên độ tập hợp mọi giai tầng xã hội, mọi ngành giới, lứa tuổi, tôn giáo, dân tộc, chính kiến, đảng phái, tổ chức và cá nhân vào Mặt trận dân tộc thống nhất. Tính bền vững của khối đại đoàn kết dân tộc biểu hiện qua việc củng cố khối liên minh công nhân - nông dân - lao động trí óc và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Lịch sử cách mạng Việt Nam trong hơn nữa thế kỷ qua cho thấy, lúc nào, nơi nào tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được quán triệt và thực hiện đầy đúng, thì khi đó, nơi đó cách mạng phát triển mạnh mẽ và giành được thắng lợi; lúc nào, nơi nào xa rời tư tưởng đó thì khi đó, nơi đó cách mạng bị trở ngại và tổn thất. Nhờ sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; kháng chiến thắng lợi, lập lại hoà bình ở Đông Dương và giải phóng miền Bắc 1954, xây dựng miền Bắc đi lên CNXH; đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc 1975. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đoàn kết toàn dân tộc bước vào giai đoạn cách mạng mới - giai đoạn cả nước quá độ lên CNXH. Đánh giá vai trò của Mặt trận không phải chỉ trong quá khứ, mà còn xa về tương lai, Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam”.

+ Từ khi cả nước Việt Nam thống nhất bước vào giai đoạn cách mạng XHCN, bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc phù hợp với tình hình mới. Đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Đảng coi là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, V, VI, VII, VII, IX và nhiều nghị quyết của BCH TƯ Đảng đều toát lên những tư tưởng chủ đạo, đó là: Phải khơi dậy và phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc, đặt lợi ích chung của dân tộc, của đất nước và của con người lên hàng đầu, lấy đó làm cơ sở để xây dựng các chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội nhằm chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu. Phải xuất phát từ lợi ích dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi khả năng có thể tranh thủ được để xây dựng, phát triển đất nước.

Nhận thức tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề đại đoàn kết dân tộc, Bộ chính trị BCH TW Đảng (khoá VII) đã ra Nghị quyết 07/NQ-TW ngày 27/11/1993 “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất”. Nghị quyết đã phản ánh tập trung sự kế thừa và phát triển tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp đổi mới. Đại hội VIII, IX của Đảng tiếp tục khẳng định và đặt vấn đề đại đoàn kết dân tộc ở một tầm cao mới, nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân trong công cuộc CNH, HĐH đất nước. Tiếp đó, Hội nghị lần thứ 7 BCH TW Đảng (khoá IX) đã ra Nghị quyết về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” với chủ trương mở rộng MTTQ Việt Nam về tổ chức, nâng cao vai trò MTTQ Việt Nam trong việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc.

Ngày 26/6/1999, lần đầu tiên Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được ban hành. Luật đã khẳng định MTTQ Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.Đây thực sự là bước phát triển mới của Mặt trận dân tộc thống nhất, của khối đại đoàn kết toàn dân để đẩy nhanh công cuộc xây dựng đất nước.

Những tư tưởng chủ đạo đó đã được thể hiện nhất quán trong các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước ta trong những năm đổi mới:

Page 30: Khoi kien thuc 1

- Về chính trị, tư tưởng: Đảng nêu cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, mở rộng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, chủ trương xoá bỏ mọi thiên kiến, mặc cảm, hận thù trong quá khứ; tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng, mọi người Việt Nam ở trong nước và định cư ở nước ngoài vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, lấy liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc.

- Về kinh tế - xã hội: Đảng ta chủ trương đoạn tuyệt với nền kinh tế quan liêu bao cấp, chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, xác lập quyền làm chủ của người lao động trong lĩnh vực kinh tế, khuyến khích làm giàu chính đáng theo pháp luật, đồng thời thực hiện tốt các chính sách “Đền ơn đáp nghĩa”, “Xoá đói giảm nghèo”.

- Về đối ngoại: thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế theo phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.

Câu 7. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc. Vận dụng nhận thức trong thực tiễn như thế nào để giữ vững và phát triển đất nước?

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng XHCN; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.Trong hệ thống quan điểm đó, tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Về cách mạng thuộc địa trong thời đại đấu tranh đòi quyền bình đẳng, đòi độc lập tự do của các dân tộc bị áp bức.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng: Dân tộc là sản phẩm của qúa trình phát triển lâu dài của lịch sử. Khi đề cập đến sự

Page 31: Khoi kien thuc 1

phát triển của các dân tộc, V.I. Lênin đã nêu lên 2 xu hướng phát triển của vấn đề dân tộc trong điều kiện của CNTB:

- Sự thức tỉnh của ý thức dân tộc, của phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc sẽ dẫn tới việc thành lập các quốc gia dân tộc độc lập.

- Việc tăng cường và phát triển các mối quan hệ giữa các dân tộc sẽ dẫn tới việc phá hủy hàng rào ngăn cách dân tộc, thiết lập sự thống nhất quốc tế của CNTB, của đời sống kinh tế, chính trị, khoa học,... nói chung. Tuy nhiên, Mác, Ăngghen, Lênin đều đề cập đến vấn đề dân tộc xuất phát từ các dân tộc tư sản, còn Hồ Chí Minh đứng ở vai rò là người dân của 1 nước thuộc địa. Người đã tiếp thu đầy đủ nhất truyền thống của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam mà lịch sử mấy ngàn năm kết đọng. Mặt khác, do nung nấu ý thức giải phóng dân tộc, hiểu biết cụ thể về hoàn cảnh, nguyện vọng các dân tộc thuộc địa nên người dể dàng tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, còn vận dụng sáng tạo và phát triển những quan điểm về vấn đề dân tộc trong thực tiễn đấu tranh cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản được thể hiện trong mấy luận điểm cơ bản:

1- Quyền dân tộc:- Tất cả các dân tộc trên thế giới đều dược bình đẳng, tự do, có quyền sống,...mà cốt lõi có

được những quyền này thì dân tộc đó phải được độc lập. - Có độc lập dân tộc thì mới có tự do, bình đảng, mới có điều kiện pháp triển đất nước. - Độc lập dân tộc là quyền cơ bản nhất, lớn nhất của các dân tộc trên thế giới. Nền độc lập này

phải thực sự, phải độc lập hoàn toàn. Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc: Những năm

cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhiều dân tộc Á, Phi, Mỹ La tinh dần dần rơi vào ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, từ đó đã tạo ra sự đối lập, bất bình đẳng lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Đó là sự bất bình đẳng giữa các dân tộc đi áp bức và các dân tộc bị áp bức.

Riêng Hồ Chí Minh thấy được cội nguồn của mọi sự đau khổ của các dân tộc bị áp bức: Mất độc lập, sự bất bình đẳng lớn nhất của thời đại giữa các dân tộc áp bức và bị áp bức trên thế giới. Năm 1919, Hồ Chí Minh gửi đến hội nghị Véc xây yêu sách của nhân dân An Nam yêu cầu phe đồng minh thực hiện quyền tự do, dân chủ được giới hạn trong 8 điểm cho nhân dân An Nam. Tuy nhiên những yêu sách tối thiểu ấy không được phe đồng minh đáp ứng. Sau sự kiện ấy không lâu, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn, mở ra bước ngoặc trong sự nghiệp đấu tranh dành quyền bình đẳng và độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam

Trên con đường tiếp cận chân lý cứu nước Hồ Chí Minh đã tìm hiểu tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp và tiếp thu những nhân tố có giá trị trong 2 bản tuyên ngôn này. Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống quyền sung sướng và tự do. Ngày 2/9/1945, giữa quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh đã khẳng định trước Quốc dân đồng bào và thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và sự thật đã trở thành 1 nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam sẽ quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”

Độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình. Trong chánh cương vắn tắt cũng như lời kêu gọi sau khi thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng là: Đánh đổ Pháp và bọn phong kiến, làm cho đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập.

Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh, mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, Hồ Chí Minh đã đưa ra chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Hồ Chí Minh cho rằng, muốn có quyền bình đẳng thật sự thì các dân tộc bị áp bức phải tự đứng lên đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược dành lại độc lập cho dân tộc mình. Người quan niệm về một nền độc lập hoàn toàn và độc lập thật sự là nền độc lập phải gắn liền với chính quyền quốc gia, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Nền độc lập không phải do cầu xin mà có được, nền độc lập ấy phải do toàn dân đó tự mình đứng lên đấu tranh đánh đổ sự thống trị nô dịch của đến quốc xâm lược. Và dân tộc đó phải độc lập về tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh toàn vẹn lãnh thổ, do đó trước hết và quan trọng nhất là độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn về chính trị. Mọi vấn đề

Page 32: Khoi kien thuc 1

thuộc chủ quyền quốc gia phải do chính nhân dân của dân tộc đó tự quyết định, không có sự can thiệp của nước ngoài.

Độc lập cũng gắn với dân tộc, độc lập dân tộc phải gắn với chủ quyền dân tộc.Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với hạnh phúc, tự do của nhân dân, Ngưòi từng

nói; Nước nhà đã độc lập, nhưng người dân chỉ biết đến độc lập tự do khi dân được ăn no, mặc ấm. Giành được độc lập tự do không phải cái đích cuối cùng, sau khi giành được độc lập tự do phải mang lại tự do hạnh phúc cho nhân dân. Tự do hạnh phúc cho nhân dân là một tiêu chí quan trọng của một nền độc lập dân tộc trong thời đại mới. Nếu nước nhà được độc lập mà dân không được hưởng tự do thì độc lập đó cũng chẳng có nghĩa lý gì.

* Mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế:

- Mác, Ăngghen, Lê nin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, đặt nền móng lý luận và phương pháp luận cho việc xác định chiến lược, sách lược của Đảng cộng sản về vấn đề dân tộc và giai cấp ở các nước TBCN. Ở đó mâu thuẫn cơ bản là giữa GCTS (bóc lột) và GCVS (bị bóc lột), mâu thuẫn giữa các đế quốc không gay gắt bằng mâu thuẫn giai cấp. Do đó giải phóng giai cấp được ưu tiên hàng đầu, khi ách áp bức giai cấp không còn thì mâu thuẫn giữa các giai cấp cũng mất theo.

- Hồ Chí Minh đã giải quyết sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Riêng ở các nước thuộc địa, mâu thuẫn dân tộc là cơ bản, nó chi phối các mâu thuẫn khác. Do vậy, ưu tiên số một là giải phóng dân tộc, giải quyết được vấn đề dân tộc thì vấn đề giai cấp sẽ được giải quyết dễ dàng. Trong giải phóng dân tộc đã thực hiện từng phần giải phóng giai cấp, giải phóng giai cấp phụ thuộc vào giải phóng dân tộc.

Đây là điểm khác nhau của 2 quan điểm vì xét về thực tế thì cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước phương Đông không giống các nước phương Tây.

Vì vậy muốn dành được độc lập dân tộc, phải khơi dậy chủ nghĩa dân tộc, đó là chủ nghĩa dân tộc chân chính dựa trên cơ sở: Phải đặt trên lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin; Chủ nghĩa dân tộc phải đi theo lập trường quốc tế.

Với Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc được tiến hành dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lênin, giành độc lập dân tộc để tiến lên xay dựng CNXH. Hồ Chí Minh từ một người yêu nước, đang tìm đường cứu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin đã tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình, theo con đường của cách mạng vô sản, tức là đã tiếp thu lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lênin, Người chỉ ra rằng: Các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức của chính mình, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động trên thế giới để trước hết phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc. Qua đó có thể khẳng định rằng, ngay từ khi trở thành người cộng sản, Hồ Chí Minh đã thực hiện được sự kết hợp đúng đắn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế. Theo Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là 1 động lực lớn của đất nước. Chủ nghĩa dân tộc mà người đề cập năm 1924, chính là chủ nghĩa yêu nước chân chính, nó đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, gắn liền với chủ nghĩa quốc tế và sẽ trở thành chủ nghĩa quốc tế. Đây là thứ chủ nghĩa dân tộc hướng tới chủ nghĩa cộng sản.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và CNXH, vừa phản ánh qui luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa gánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đây là quan điểm sáng tạo và dũng cảm của Hồ Chí Minh trước quan điểm của cộng sản quốc tế lúc bấy giờ. Chủ nghĩa dân tộc ở đây khác về chất so với các nước Sô vanh nước lớn, chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, hẹp hòi. Về độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, Người đã khẳng định: “Chúng ta phải đấu tranh cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như tranh đấu cho dân tộc ta vậy”. Ngay trong việc hợp nhất của các tổ chức cộng sản trong nước lại, Hồ Chí Minh đề nghị đặt tên là Đảng cộng sản Việt Nam thể hiện thái độ đúng đắn trước vấn đề dân tộc. Theo Người, mỗi Đảng cộng sản là thuộc về 1 dân tộc, trước hết phải chịu trách nhiệm trước dân tộc

Page 33: Khoi kien thuc 1

mình. Bởi theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, đã chủ trương dân tộc tự quyết thì cách mạng ở mỗi nước không thể do Đảng cộng sản của nước khác áp đặt, làm thay. Nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh vẫn không quên nhiệm vụ quốc tế của mình trong việc giúp đỡ thành lập các đảng cộng sản anh em ở một số nước Đông Nam Á đầu thế kỷ XX. Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào, Cam Pu Chia, đề ra khẩu hiệu: “giúp bạn là tự giúp mình” và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.

2- Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc: a. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách mạng vô

sảnSau nhiều năm bôn ba khắp thế giới, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: - Muốn cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, phải đi theo con đường cách mạng vô sản. - Giành độc lập dân tộc xong phải đi liền lên CNXH; Độc lập dân tộc là tiền đề để đi lên

CNXH, chỉ có CNXH mới bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc. - Hồ Chí Minh đã đặt quỹ đạo giải phóng dân tộc trong quỹ đạo cách mạng vô sản, giữa 2 cuộc

cách mạng này không có bức tường ngăn cách. Thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở nước ta là do chưa có

đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn khi chủ nghĩa đế quốc đã thành một hệ thống thế giới. Cuộc đấu tranh tự giải phóng, giai cấp vô sản ở chính quốc và nhân dân các dân tộc thuộc địa có chung một kẻ thù, vì vậy phải phối hợp hành động và cổ vũ lẫn nhau.Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: Chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, phải xem cách mạng ở thuộc địa như là “Một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”, phát triển nhịp nhàng với cách mạng vô sản; mặt khác cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản, tức là phải đi theo đường lối Mác-Lênin.

b. Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát huy tính chủ động, đứng lên giành độc lập tự do bằng chính sức mạnh của mình và trong 1 điều kiện nào đó cách mạng giải phóng dân tộc thực hiện trước cách mạng vô sản

- Quan điểm của Mác-Lênin: Coi trọng vấn đề giải phóng giai cấp, cách mạng vô sản hơn là cách mạng giải phóng dân tộc (đối với các nước tư bản, đế quốc); có quan điểm cho rằng những dân tộc thuộc địa không đủ sức làm cuộc cách mạng dân tộc (vì không thể đối đầu với các nước đế quốc hùng mạnh) vì vậy, họ chỉ làm cuộc cách mạng vô sản.

- Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa sánh ngang với cách mạng vô sản ở chính quốc (đây là luận điểm mới của Hồ Chí Minh).

Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngay từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã sớm cho rằng: “Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước”, và “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn rất to lớn, một cống hiến rất quan trọng vào kho tàng lý luận Mác-Lênin, đã được thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.

c. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo

Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân, Đảng đó phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác-Lênin. Các lãnh tụ yêu nước tiền bối Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng đã bước đầu nhận thức được tầm quan trọng và vai trò của chính đảng cách mạng. Dù đã thành lập hay chưa thì các đảng kiểu đó cũng không thể lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thành công, vì nó thiếu một đường lối chính trị đúng đắn và một đường lối

Page 34: Khoi kien thuc 1

tổ chức chặt chẽ; lại không có cơ sở rộng rãi trong quần chúng, nên sớm muộn cũng rơi vào tan rã và thất bại.

d. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông

Cách mạng giải phóng dân tộc như Nguyễn Ái Quốc viết: “là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”. Vì vậy, phải đoàn kết toàn dân, “Sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Nhưng trong sự tập hợp rộng rãi đó. Người nhắc nhở không được quên cái cốt của nó là công - nông. Phải nhớ: “Công nông là người chủ cách mệnh... công nông là gốc cách mệnh”. Trong phạm vi của cách mạng giải phóng dân tộc mà đối tượng cần đánh đổ trước hết là bọn đế quốc và đại địa chủ phong kiến tay sai nhằm giành lại độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân, trước hết là nông dân, nên Nguyễn Ái Quốc chủ trương cần vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước, đang bị làm nô lệ trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc, đấu tranh giành độc lập, tự do.

đ. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực - Các nhà kinh điển nói nhiều đến bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng. Bản

chất của giai cấp thống trị không bao giờ từ bỏ vị trí thống trị của mình, vì vậy phải dùng bạo lực. Bạo lực trong cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh: + Bạo lực cách mạng tổng hợp: Nhằm phát huy mọi năng lực cách mạng để tiến hành cách

mạng giải phóng dân tộc (Mọi tầng lớp nhân dân, mọi điều kiện cơ sở vật chất,...). Đây là bí quyết của 1 dân tộc nhỏ, yếu để đứng lên đấu tranh gải phóng dân tộc.

+ Dùng 2 lực lượng: Lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; Lực lượng chính trị quyết định lực lượng vũ trang; đấu tranh chính trị quyết định đấu tranh vũ trang; đấu tranh vũ trang phải phục tùng đấu tranh chính trị.

+ Bạo lực kết hợp giữa hòa bình và nhân đạo: Hồ Chí Minh kế thừa tư tưởng xưa của dân tộc, đó chính là tính nhân đạo trong bạo lực (khi địch đã đầu hàng), Hồ Chí Minh không bao giờ cố chấp với kẻ thù. Bác chống Pháp nhưng tôn trọng văn hóa Pháp, chống đế quốc Mỹ nhưng lại đoàn kết với nhân dân tiến bộ Mỹ,...

- Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, cách mạng giải phóng dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta hiện nay:

Tinh thần này đã được Đảng quán triệt rất cụ thể trong đường lối cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là cội nguồn cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam, nó không chỉ có giá trị của dân tộc mà còn là giá trị của thời đại; là động lực để các nước thuộc địa đấu tranh giải phóng dân tộc, đồng thời báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới trên phạm vi toàn thế giới.

Ngày nay các dân tộc có xu hướng hội nhập thế giới, cùng tồn tại và phát triển; các nước lớn đang vươn vòi bạch tuộc sang các nước khác, sự đô hộ của CNTB với các nước yếu theo hình thức khác.

Vấn đề xây dựng đất nước, giữ vững độc lập dân tộc trong tình hình hiện nay đòi hỏi:Cần phải chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, dân chỉ yên tâm khi đời sống vật

chất tinh thần được nâng cao.Muốn bảo vệ độc lập dân tộc phải giữ vững con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chỉ có CNXH

mới tạo ra nhân tố và giữ vững độc lập dân tộc.Muốn giữ vững độc lập dân tộc - CNXH cần phải chủ động cách mạng: Chủ động xây dựng

đất nước xây dựng lối cách mạng.Chủ động hội hội nhập chủ động chống lại sự chống phá của các thế lực nước ngoài, thế lực

phản động, giữ vững độc lập.Tháng 5/1941, Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương khoá I do Người chủ trì đã

đưa ra nhận định: Cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, mở đầu có thể là bằng một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương...mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn. Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng chỉ đạo xây dựng các tổ chức chính trị của quần chúng, lập ra các đội du kích vũ trang, chủ

Page 35: Khoi kien thuc 1

động đón thời cơ, chớp thời cơ, phát động Tổng khởi nghĩa Tháng Tám và giành được chính quyền cả nước chỉ trong có hơn 10 ngày.

Tóm lại, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, sáng tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã chứng minh hùng hồn tính khoa học đúng đắn, tính cách mạng sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay:Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã khẳng định rằng chúng ta cần phải nghiên

cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm tạo ra những nguồn lực mới, đưa sự nghiệp đổi mới vững bước đi lên. Sự vận dụng ấy được thể hiện như sau:

a. Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc - Nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ đất nước

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định cần phải phát huy tối đa các nguồn nội lực. Nội lực hiểu một cách toàn diện bao gồm con người, trí tuệ, truyền thống dân tộc, truyền thống cách mạng, đất đai, tài nguyên vốn liếng... nhưng yếu tố quan trọng và quyết định nhất vẫn là nguồn lự con người.

Con người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, gắn kết cộng đồng, ý chí kiên cường bất khuất, không chịu làm nô lệ, không cam phận nghèo hèn... Trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, tinh thần yêu nước ấy đã được phát huy cao độ, biến thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng vô song và làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 và Đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, truyền thống quý báu ấy đang được khơi dậy mạnh mẽ, trở thành nguồn lực vô tận để vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

b. Nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm giai cấpTrong phong trào cách mạng thế giới có lúc có những khuynh hướng nhấn mạnh một chiều

quan điểm giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc. Gần đây lại chuyển sang mộtk cực đoan khác: chỉ nhấn mạnh yếu tố dân tộc, yếu tố nhân loại, coi nhẹ hoặc vứt bỏ yếu tố giai cấp, từ bỏ đấu tranh cách mạng, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế vô sản. Khi xã hội còn đấu tranh mà từ bỏ quan điểm giai cấp, chỉ nhấn mạnh bảo vệ lợi ích, sự sống còn của nhân loại... thì sẽ làm suy yếu phong trào cách mạng thế giới, khuynh hướng chỉ nhấn mạnh lợi ích dân tộc, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế chân chính dẫn đến phát triển chủ nghĩa dân tộc sôvanh, để kẻ thù lợi dụng, kích độnh gây mất ổn định ở nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới.

Ở Việt Nam, quan điểm xem xét vấn đề dân tộc tách rời vấn đề giai cấp cũng bộc lộ dưới nhiều hình thức. Chẳng hạn: cho rằng đi theo con đường, chế độ nào cũng được, miễn là có cuộc sống sung sướng, tự do... Mặt khác, cũng phải khắc phục những quan điểm giáo điều trong việc nhìn nhận vấn đề giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thoát ly bối cảnh và điều kiện lịch sử cụ thể của dân tộc. Cần phải thấy rằng, hiện nay nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm mục tiêu “dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, nhân dân ấm no, hạnh phúc... Mục tiêu đó không chỉ là vấn đề giai cấp mà vừa là giai cấp, vừa là dân tộc.

c. Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân tộc anh em trong cộng đồng dân tộc Việt Nam

Hiện nay, Đảng ta tiếp tục giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, củng cố, tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, lấy mục tiêu độc lập, thống nhất và tiến lên dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm mục tiêu chung đồng thời chấp nhận điểm khác nhau nhưng không trái với lợi ích chung của dân tộc... Chủ trương đó hiện nay đã đi vào cuộc sống và đang phát huy tác dụng tích cực.

Đại đoàn kết các dân tộc anh em trên toàn cầu lãnh thổ Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Lịch sử đã ghi nhận những công lao đóng góp to lớn của

Page 36: Khoi kien thuc 1

các dân tộc thiểu số trong việc đánh thắng quân xâm lược. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, nhiều khu vực cư trú chủ yếu của đồng bào các dân tộc thiểu số trở thành căn cứ địa vững chắc của cách mạng như Việt Bắc, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên... Đảng ta luôn đặc biệt chú ý đến việc củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và chăm lo giải quyết tốt các mối quan hệ giữa các dân tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.

Hiện nay mối quan hệ giữa các dân tộc anh em ở nước ta rất tốt đẹp. Tuy nhiên, không phải là không có những cơ sở để cho các thế lực thù địch khai thác, lợi dụng để gây ra tình trạng căng thẳng trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Những yếu tố đó một phần do lịch sử để lại, một phần do kẻ thù gây ra trước đây nhưng cũng có một số vấn đề do sai lầm của cán bộ ta trong việc thi hành chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước. Để loại trừ những nguyên nhân này, chúng ta phải thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã đặt ra đối với các vùng miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và phải đặc biệt quan tâm đến đồng bào các dân tộc đang ở vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và phải tiếp tục thực hiện chính sách ưu tiên đào tạo bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số, chống sự kỳ thị, chia rẽ dân tộc.

Câu 8. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộcThắng lợi của chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản do chính

Người sáng lập trong hơn 75 năm đã qua cho phép chúng ta có thể khẳng định rằng: Trong một quốc gia dân tộc, bao giờ cũng có các giai cấp, tầng lớp xã hội, các tộc người, các tôn giáo khác nhau, song bao giờ cũng có lợi ích chung và cao cả của cả dân tộc. Dân tộc Việt Nam dù có nhiều giai cấp xã hội, tộc người và tôn giáo khác nhau song người Việt Nam đều là con Hồng, cháu Lạc có lịch sử hình thành dân tộc lâu đời, có một cội nguồn văn hoá chung, có chủ nghĩa dân tộc truyền thống vững bền, có lợi ích cao cả là độc lập, tự do.

Việt Nam là một quốc gia dân tộc đã hình thành sớm trong quá trình dựng nước và giữ nước. Nhân dân Việt Nam có ý thức sâu bền về quyền tự chủ quốc gia dân tộc. Quá trình dựng nước và giữ nước đã tạo dựng và phát triển cho dân tộc Việt Nam một nền văn hoá tư tưởng rực rỡ, trong đó chủ nghĩa dân tộc, ý chí độc lập và khát vọng tự do là dòng chủ lưu của lịch sử. Đó là nền tảng văn hoá tư tưởng của sự hội tụ và đoàn kết dân tộc, là động lực vĩ đại và duy nhất của nhân dân Việt Nam trong lịch sử xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Trên cơ sở giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh đã khảo sát, nghiên cứu, tiếp biến, tổng hoà và phát triển biện chứng tinh hoá văn hoá của phương Đông và cuộc cách mạng ở các

Page 37: Khoi kien thuc 1

nước phương Tây thế kỷ XVII, XVIII, đặc biệt là thế giới quan và phương pháp duy vật biện chứng của học thuyết Mác-Lênin và kinh nghiệm của cuộc cách mạng vô sản trên thế giới thế kỷ XX để xây dựng một hệ thống quan điểm toàn diện và sáng tạo về tư tưởng giải phóng và phát triển dân tộc, trong đó cốt lõi là tư tưởng độc lập tự do làm kim chỉ nam cho cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì nhu cầu phát triển của đất nước theo xu thế tiến bộ của thời đại mới. Hệ thống quan điểm cách mạng của Hồ Chí Minh là cơ sở của tư tưởng và chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Người trong cuộc đấu tranh giải phóng và phát triển đất nước trong thế kỷ XX.

Độc lập, tự do và tư tưởng cách mạng vĩ đại của Hồ Chí Minh là chìa khoá để mở đường hội tụ thắng lợi của chiến lược: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.

1. Để thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc, trước hết phải có cương lĩnh đúng đắn phù hợp với thực tiễn của đất nước qua các thời kỳ cách mạng khác nhau. Ngay từ ngày đầu mới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, được hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930 thông qua, trong đó đã nêu cao khẩu hiệu “Việt Nam độc lập”, Việt Nam tự do và chính sách đoàn kết dân tộc rộng rãi, uyển chuyển. Cương lĩnh nêu rõ: trên cơ sở coi công nông là gốc cách mạng, Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, tập hợp, lôi kéo phú nông, tư sản, trung và tiểu địa chủ về phía cách mạng. Thực tiễn cao trào cách mạng 1930-1931 ở Nghệ An và Hà Tĩnh, không chỉ có công nông đông đảo mà còn có phần lớn trí thức, một số sĩ phu, trung tiểu địa chủ cũng có xu hướng theo cách mạng rõ rệt. Sự thật lịch sử đó sớm minh chứng giá trị khoa học và thực tiễn cách mạng của tư tưởng độc lập tự do và chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh.

Tình hình đất nước và thế giới càng biến chuyển, chiến lược và đường lối chủ trương cách mạng càng sát hợp với nhu cầu phát triển của dân tộc thì sức mạnh hội tụ và đoàn kết dân tộc càng rộng lớn, cách mạng càng giành được thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử vĩ đại và tính thời đại sâu sắc.

Sự thay đổi chiến lược cách mạng tư sản dân quyền có tính chất phản đế và phản phong kiến thành chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh (được Hội nghị lần thứ VIII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhất trí thông qua tháng 5 năm 1941) có sức mạnh cuốn hút cả dân tộc đứng lên tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa thắng lợi. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời tháng 8 năm 1945 đã mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.

Với đường lối kháng chiến và kiến quốc (1945-1954), đặc biệt là Chính cương Đảng Lao động Việt Nam (tháng 2 - 1951), tiếp đến là đường lối chiến lược tiến hành đồng thời cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc với cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, nhân dân ta đã tiến hành cuộc kháng

chiến chống Mĩ cứu nước với quyết tâm “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Vì đại nghĩa của dân tộc, vì lương tâm và danh dự của nhân loại tiến bộ, Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh đứng đầu đã huy động sức mạnh quá khứ và hiện tại của dân tộc, kết hợp với sức mạnh tiến bộ của thời đại mới đưa dân tộc Việt Nam giành được những thắng lợi vĩ đại trong 30 năm kháng chiến chống xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.

Đường lối Đổi mới được đề ra trong Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế của thế giới trong giai đoạn hiện nay đã đóng vai trò quyết định đưa đất nước vượt qua khủng hoảng, giành được những thành tựu to lớn trong chặng đường 30 năm đã qua, tạo niềm tin của quần chúng, động viên sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc và trí tuệ của mọi người Việt Nam thành một quốc gia dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.

Thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn 80 năm qua trước hết là thắng lợi của Cương lĩnh, chiến lược đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo, là thắng lợi của tư tưởng cách mạng cao cả và vĩ đại của Hồ Chí Minh - tư tưởng độc lập, tự do.

Page 38: Khoi kien thuc 1

2. Khối quần chúng đông đảo chỉ trở thành sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu cao cả, được tổ chức lại thành một khối vững chắc trên cơ sở của Mặt trận dân tộc thống nhất, được hình thành và phát triển ngày càng hoàn thiện trong tiến trình cách mạng.

Năm 1941, cùng với chủ trương thay đổi chiến lược cách mạng, Hồ Chí Minh đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh giữa lúc nhân dân Việt Nam đang sống quằn quại trong cảnh nước sôi, lửa nóng, lúc quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, ai cũng muốn độc lập, tự do.

Thành lập Mặt trận Việt Minh là một điển hình sáng tạo của Hồ Chí Minh về chiến lược đại đoàn kết dân tộc đưa đến thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, một nhà nước của dân tộc, do dân tộc và vì dân tộc.

Tiếp đến trong thời kỳ kháng chiến kiến quốc 1945-1954, mặt trận dân tộc thống nhất tiếp tục được củng cố và mở rộng. Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam đã ra đời, thực hiện sự đoàn kết quốc dân để làm cho nước Việt Nam được độc lập, thống nhất, dân chủ, phú cường. Hội ra đời tạo điều kiện mới để đoàn kết và tranh thủ những ai có thể tranh thủ được nhằm thống nhất lực lượng quốc gia dân tộc, chống chia rẽ. Lúc này, bao nhiêu thành kiến giai cấp, bao nhiêu phân tranh Đảng phái, bao nhiêu đố kỵ về tôn giáo và nòi giống phải hất văng ra khỏi con đường tiến triển của dân tộc Việt Nam. Thống nhất dân tộc là một vũ khí sắc bén chống lại kẻ thù dân tộc. Vũ khí ấy, ta phải giữ lấy như một của báu…Lúc này bí quyết của sự thành công là ở tinh thần đoàn kết. Đây là mặt sáng tạo mới về đại đoàn kết dân tộc, dân chủ được thành lập trong cả nước, song lại đứng trước một tình thế hiếm nghèo như “ngàn cân treo sợi tóc” và phải bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trong tương quan đối sánh lực lượng giữa ta và địch như ''châu chấu đá voi”, nhưng cuối cùng ta đã thắng, địch đã thua.

Trong cuộc chiến đấu chống Mĩ cứu nước, Hồ Chí Minh đã giương cao ngọn cờ “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và chiến lược đại đoàn kết dân tộc để đẩy mạnh cuộc cách mạng ở miền Nam, thống nhất đất nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ra đời, kế tục sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc của Mặt trận Liên Việt.

Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đã được thành lập nhằm tạo điều kiện để mở rộng khối đoàn kết dân tộc dưới ngọn cờ của Mặt trận. Đầu năm 1968, Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình miền Nam Việt Nam ra đời. Đây là một tổ chức thích hợp để thu hút các tầng lớp trung gian và thượng lưu ở thành thị miền Nam vào khối đại đoàn kết dân tộc chống Mĩ cứu nước.

Trải qua hơn 20 năm chiến đấu, cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã thắng lợi hoàn toàn. Non sông đã thu về một mối. Năm 1976, các tổ chức Mặt trận trong cả nước đã được thống nhất lại thành một mặt trận chung lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện sứ mạng đại đoàn kết dân tộc, cùng nhau xây dựng lại đất nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, làm cho Việt Nam thành một quốc gia dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

3. Sau khi cách mạng thành công, nhà nước của dân, do dân tộc và vì dân tộc được thành lập, chiến lược đại đoàn kết quốc gia dân tộc không chỉ được thực thi bằng cách tập hợp lực lượng quần chúng rộng rãi, phong phú về nội dung và hình thức tổ chức mà còn phải liên hiệp quốc dân ở trong Quốc hội, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan hành chính cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Hồ Chí Minh đề xuất và tổ chức thành công Quốc dân đại hội Tân Trào, lập ra Uỷ ban Giải phóng Dân tộc tháng 8 năm 1945 trong đêm trước cuộc Tổng khởi nghĩa, đặc biệt là tổ chức cuộc Tổng tuyển cử toàn dân vào tháng 1 năm 1946, để bầu ra quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Quốc hội của độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và của đại đoàn kết toàn dân, và quốc hội đã lập chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà 1à một chính phủ chung của cả dân tộc chứ không phải là chính phủ riêng của một đảng phái, một giai cấp nào. Đây cũng là một điển hình thành công sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong tổ chức nhà nước Pháp quyền của dân tộc, do dân tộc và vì dân tộc, là một bài học vô cùng quý báu của việc thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực xây dựng, tổ chức nhà nước.

Để khối đại đoàn kết dân tộc được vững bền, Hồ Chí Minh chủ trương sau khi có chính quyền, chính phủ phải triển khai mới hoạt động của mình trên tất cả các lĩnh vực của chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.

Page 39: Khoi kien thuc 1

“Chính phủ tỏ rõ một ý muốn duy nhất làm sao đem lại cho dân chúng được tự do độc lập hoàn toàn và để cho tất cả mọi phần tử quốc dân được hưởng tự do, độc lập ấy như muôn vật được hưởng ánh mặt trời”.

Khi một chính phủ, một Nhà nước thực sự là của dân tộc, do dân tộc và vì dân tộc phấn đấu vì lợi ích tối cao của quốc dân là độc lập, tự do và sớm mang lại quyền lợi cho toàn dân trước mắt và cả mai sau thì toàn dân sẽ gắn bó đại đoàn kết thành một khối để bảo vệ sự trường tồn của nhà nước, của dân tộc và cũng là bảo vệ lợi ích chân chính của mình và con cháu mình mai sau.

Chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp lực lượng quần chúng rộng rãi trong các hội quần chúng và Mặt trận dân tộc thống nhất qua các thời kỳ lịch sử khác nhau được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hồ Chí Minh cũng nêu rõ: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình mà phải tỏ rõ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thành nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.

Hồ Chí Minh đã thực thi thắng lợi chiến lược đại đoàn kết dân tộc do Đảng Cộng sản là người lãnh đạo duy nhất chính vì Người đã thành công trong việc sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam thành một Đảng đạo đức và văn minh, một “Đảng hiện thân cho trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc, một Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam”.

Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngoài đều luôn luôn tiềm ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và phát triển đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt Nam, thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở lấy liên minh công nông và trí thức làm nòng cốt do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.

Page 40: Khoi kien thuc 1

Câu 9. Phát huy tư tưởng đại đoàn kết toàn dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới

I. Đoàn kết toàn dân - một nội dung lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình cách mạng

1. Hồ Chí Minh phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc lên một tầm cao mớiLịch sử phát triển hàng năm của dân tộc Việt Nam từ thuở Hùng Vương dựng nước, đến các

thế hệ bảo vệ và xây dựng đất nước là lịch sử đoàn kết toàn dân phát huy sức mạnh đoàn kết của từng dân tộc. Đoàn kết dân tộc đã thấm vào máu thịt của mỗi người Việt Nam, là một truyền thống ăn sâu vào đời sống của dân tộc Việt Nam.

Là một quốc gia dân tộc nhỏ luôn bị ngoại xâm đe dọa, từng mất nước hàng năm thuở xưa và hàng trăm năm thời cận đại ,ịch sử hình thành và phát triển của dân tộc ta là lịch sử của quá trình toàn dân đoàn kết chung sức, chung lòng khi Tổ quốc lâm nguy. Tổng kết quá trình lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra một quy luật: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”.

Kế thừa di sản đoàn kết của cha ông, Chủ tịch Hồ Chí Minh chăm lo xây dựng khối đoàn kết toàn dân, chăm lo việc tập hợp lực lượng không phân biệt địa vị xã hội, xu hướng chính trị, tín ngưỡng cân tộc, giới và tuổi, mời gọi ai có lòng yêu nước vào Mặt trận Việt Minh, lấy mục đích giành độc lập, tự do cho dân tộc làm nhiệm vụ trọng tâm.

2. Trong sự nghiệp cách mạng, sau khi đề ra đường lối chiến lược của cách mạng, vấn đề tập xây dựng lực lượng cách mạng là một vấn đề chiến lược quyết định thành bại của cách mạng

- Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta quan tâm đến tập hợp, giác ngộ, tổ chức quần chúng thành một khối đoàn kết vững chắc để thực hiện những mục tiêu chiến lược và những mục tiêu cụ thể của từng thời kỳ. Có sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, cách mạng vừa giành được thắng lợi.

Để xây dựng khối đoàn kết toàn dân, Đảng ta đã thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ trí tuệ tài ba, phương pháp cách mạng độc lập khoa học, đạt đến trình độ nghệ thuật và có nhiều sáng tạo độc đáo. Đó là vận dụng linh hoạt nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể nước ta, đề ra đường lối giai cấp đúng đắn, giải quyết một cách sáng tạo vốn để liên minh các lực lượng và tập hợp được tối đa những lực lượng có thể đoàn kết được, triệt để phát huy và cô lập kẻ thù, làm cho đội ngũ cách mạng ngày càng đông đảo, lực lượng cách mạng từ không đến có, từ ít thành nhiều, từ yếu thành mạnh. Đây là một thành tựu có ý nghĩa làm phong phú thêm những trang lịch sử vùng chống ngoại xâm của dân tộc ta.

Để tập hợp lực lượng cách mạng đông đảo, trong từng thời kỳ, Đảng ta đã linh hoạt, nhạy bén đề ra khẩu hiệu đấu tranh và thành lập các tổ chức phù hợp với đặc điểm, yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng của từng giai đoạn. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đoàn kết dân tộc trong Mặt trận dân

Page 41: Khoi kien thuc 1

tộc thống nhất là nhiệm vụ chiến lược lâu dài. Mặt trận dân tộc thống nhất là tập hợp tinh thần đoàn kết và phát huy sức mạnh toàn dân, thông qua các tổ chức của Mặt trận vì sự nghiệp và lợi ích chung: giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng đất nước. Trong từng giai đoạn cách mạng Đảng đã đề ra những chủ trương, đường lối, chính sách phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể, phù hợp với lợi ích của các tầng lớp xã hội, làm cho mỗi người xác định được vị trí vai trò của mình trong xã hội nhằm đoàn kết toàn dân, phấn đáu vì mục tiêu và chương trình hành động thống nhất của tất cả các giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo. Tư tưởng của chính sách đại đoàn kết trong chương trình hành động của Mặt trận, lấy lợi ích cơ bản của dân tộc làm nền tảng, kết hợp với giải quyết hài hoà lợi ích của dân tộc với lợi ích của từng giai cấp, lợi ích của tập thể và lợi ích cá nhân. Đảng ta đã đề ra khẩu hiệu đấu tranh thích hợp, không cứng nhắc, lựa chọn các hình thức tổ chức linh hoạt và tên gọi Mặt trận phù hợp với đặc điểm từng thời kỳ cách mạng như: Hội phản đế đồng minh (1930) , Mặt trận dân chủ Đông dương (1936-1939), Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế (1939) Mặt trận Việt Minh (1941), Mặt trận Liên Việt (1951), Mặt trận Việt Minh (1941), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (ở miền Bắc từ 1955-1976), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (từ 1960 đến 1975), Liên minh các lực lượng dân tộc thống nhất không ngừng phát triển chứng tỏ sự phát triển và củng cố khối đoàn kết dân tộc Việt Nam.

- Để thực hiện đại đoàn kết toàn dân, trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta không ngừng chăm lo xây dựng và củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất. Đảng ta luôn luôn giữ vai trò lãnh đạo trong mặt trận, luôn luôn kiên trì nguyên tắc đấu tranh chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi; coi nhẹ việc tranh thủ các lực lượng có thể tranh thủ được, đồng thời chống khuynh hướng đoàn kết một chiều, đoàn kết nhưng phải có đấu tranh đúng mức trong nội bộ Mặt trận.

- Muốn tăng cường đoàn kết toàn dân, củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất , phải không ngừng củng cố khối liên minh công dân, nông dân và trí thức, đồng thời thu hút mọi giai tầng xã hội, thông qua các hình thức tổ chức để ập hợp quần chúng ngày càng phong phú, đa dạng, thích hợp vói đặc điểm của từng đối tựơng.

3. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta coi phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, thực hiện chính sách kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, lãnh đạo Mặt trận dân tộc thấp nhất phải gắn liền với việc động viên các tầng lớp nhân dân hăng hái thi đua lao động sản xuất thực hiện tốt các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm cho nhân dân được tự do làm ăn theo luật pháp, đồng thời phải thực hiện tốt việc phân phối lợi ích một cách tương đối công bằng, quan tâm đáp ứng mọi nhu cầu hợp pháp về dân sinh dân chủ, dân trí, đặc biệt là chú trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân đi đôi với giữ vững kỷ cương xã hội. Kinh nghiệm cho thấy rằng, muốn tăng cường khối đoàn kết toàn dân và phát huy vai trò Mặt trận thì trong xã hội phải có dân chủ và kỷ cương. Có kỷ cương mới bảo đảm được dân chủ, có dân chủ mới đảm bảo được sự đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Chính sách đại đoàn kết dân tộc và chính sách Mặt trận lúc này là phải bảo đảm lợi ích cả về vật chất và tinh thần của mỗi giai cấp trong xã hội, phát triển kinh tế đồng thời phải coi trọng đời sống tinh thần, mà trọng tâm là dân chủ và công bằng xã hội; nâng cao đời sống vật chất và phải coi trọng đời sống văn hoá vì người Việt Nam vốn có truyền thống văn hoá lâu đời.

- Đại đoàn kết toàn dân là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện đường lối đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, các thành phần kinh tế, mọi thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam là sống trong nước hay ở nước ngoài. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân ta, truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng.

Theo tinh thần đo phải phát huy dân chủ trong đời sống xã hội, xây dựng đồng bộ các chính sách kinh tế - xã hội, đúng đắn, phát huy mọi khả năng, sáng tạo của nhân dân; đổi mới và hoàn thiện các chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, đổi mới và tăng cường các hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, khắc phục tình trạng hành chính

Page 42: Khoi kien thuc 1

hoá, phô trương, hình thức, quan liêu, xa dân, mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân.

II. Đại đoàn kết toàn dân trong giai đoạn hiện nay1. Quá trình đổi mới đất nước cũng là quá trình Đảng ta chăm lo củng cố và xây dựng khối

đoàn kết dân tộcViệc thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị

trường có sự quản lý của nhà nước đã tạo nên một động lực mới. Trong sự phát triển kinh tế xã hội đất nước từng bước ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, và tạo ra những tiền đề cần thiết để Đại hội Đảng lần thứ VIII quyết định đưa đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu đến 2020 đất nước ta trở thành một nước công nghiệp.

Để tạo động lực cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta ngày càng nhận thức vai trò to lớn của khối đoàn kết dân tộc. Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá VI đã thảo luận và thông qua nghị quyết đổi mới công tác quần chúng; tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân Đại hội VII đã tổng kết thực tiễn Việt Nam từ 1930 đến 1991 và rút ra bài học kinh nghiệm là: “Không ngừng củng cố, tăng cương đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lớn của cách mạng nước ta”.

Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ 9 (tháng 11- 1995) đã tổng kết 10 năm đổi mới và rút ra 6 bài học kinh nghiệm trong đó có kinh nghiệm mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc phát huy tinh thần tự lực, tự cường và sức mạnh của toàn thể dân tộc.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII chủ trương, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Chủ trương của Đảng là đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi người trong đại gia đình Việt Nam dù sống trong nước hay nước ngoài.

Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc vì mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, lấy mục tiêu đó làm điểm tương đồng, đồng thời chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của Dân tộc, cùng nhau xoá bỏ mọi định kiến, mặc cảm, hướng tới tương lai, xây dựng tinh thần đại đoàn kết, cởi mở, tin cậy lẫn nhau. Đại hội đề ra nhiệm vụ của xây dựng khối đoàn kết trong thời gian tới là: Bằng mọi chính sách cụ thể đối với các giai cấp, tầng lớp, các Dân tộc trong nước, tạo ra động lực mới htucs đẩy phong trào cách mạng của nhân dân; xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, tiếp tục đổi mới tổ chưcs và các đoàn thể chính trị - xã hội; mọi cán bộ, đảng viên đều phải làm công tác dân vận theo chức trách của mình. Mọi cấp bộ Đảng chăm lo công tác dân vận, đổi mới phương thức lãnh đạo đối với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân các hội quần chúng.

Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành trung ương khoá IX khẳng định: Đại đoàn kết toàn dân lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của TQ vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiên, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.

Để thực hiện mục tiêu trên, Đảng ta cho rằng việc kết hợp hài hoà của lợi ichs là một điều kiện để phát huy sức mạnh đại đoàn kết Dân tộc. Việc đề cao lợi ích nhà nước, tập thể, không chú trọng đến lợi ích cá nhân, hoặc ngược lại, đề cao lợi ích cá nhân cao hơn lợi ích tập thể, lợi ích nhà nước là những khuynh hướng sai lầm, làm suy yếu khối đại đoàn kết trong Đảng đến ngoài xã hội.

2. Tuy nhiên, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng nảy sinh những nhân tố dẫn đến phá vỡ khối đoàn kết dân tộc. Đó là sự phân hoá giàu nghèo, sự xung đột về lợi ích trước hết là lợi ích kinh tế ở các vùng miền, bộ phận và cá nhân khác nhau.

Ngoài những nguyên nhân nội tại cho quá trình phát triển kinh tế xã hội, còn nhiều nguyên nhân khách quan khác ảnh hưởng đến khối đoàn kết Dân tộc. Đó là âm mưu của chủ nghĩa đế quốc lợi dụng ván đề Dân tộc, tôn giáo để chia rẽ Dân tộc, chúng lợi dụng khoét sâu những mâu thuẫn nội bộ để làm suy yếu khối đại đoàn kết Dân tộc; diễn biến của tình hình quốc tế cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tâm tư tình cảm của cán bộ với nhân dân, nảy sinh xu hướng hướng ngoại. Ngoài ra còn có những nguyên nhân khách quan do chủ trương chính sách của Đảng chưa thật phù hợp; tệ nạn quan

Page 43: Khoi kien thuc 1

liêu, tham nhũng của đội ngũ cán bộ, làm cho lòng tin của nhân dân vào cán bộ, vào Đảng giảm sút. Đó là những nguy cơ phá vỡ khối đoàn kết dân tộc, ảnh hưởng đến sự tổn vong của dân tộc mà Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (1994) và các Đại hội VIII, IX luôn luôn cảnh báo.

Để khắc phục những nguyên nhân ảnh hưởng đến khối đoàn kết dân tộc, , Đảng ta khẳng định cần phải đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội... là những yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn Dân tộc.

Phát triển kinh tế thị trường xuất hiện những nhân tố có khả năng tạo dựng tiêu cực đến khối đại đoàn kết toàn đân tộc. Nghị quyết Hội nghị BCHTW 7 Khóa 9 nhận định: Khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng trước những thách thức mới. Trong những thách thức đó có yếu tố khách quan do hoàn cảnh kinh tế - xã hội gây ra, cũng có những yếu tố do sai lầm khuyết điểm chủ quan mà chúng ta chưa khắc phục được.

- Phát triển thị trường xã hội chủ nghĩa làm cho sản xuất kinh doanh phát triển, xã hội trở nên năng động hơn, nhưng cũng không tránh khỏi làm nảy sinh những nhân tố có khả năng tác động tiêu cực đến cố kết xã hội.

Mục tiêu xây dựng Đảng một xã hội dân giàu, nước mạnh được mọi người thừa nhận, đó là cơ sở cho sự đoàn kết, thống nhất, tập hợp mọi lực lượng trong xã hội. Nhưng làm giàu cho bản thân gia đình và đất nước không phải lúc nào cũng tập hợp. Làm giàu chính đáng được khuyến khích, nhưng không phải ai cũng có khả năng làm giàu. Một bộ phận gia đình chính sách, đồng bào Dân tộc miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn đứng vững nghèo khổ. Trong lúc đó một bộ phận giàu lên - điều đó tạo nên mâu thuẫn trong xã hội ta.

Kinh tế thông thường tạo ra tâm lý chung theo đồng tiền làm phai nhạt truyền thống tình nghĩa, tương thân tương ái trong cộng đồng Dân tộc. Kinh tế thị trường cũng gây ra những tệ nạn xã hội: buôn lậu, móc ngoặc, trốn thuế...

- Dân chủ bị vi phạm, người lao động chưa phải là người chủ của xã hội , những oan ức của người dân không kịp thời được giải quyết làm xong xã hội có nguy cơ tăng lên - đe doạ sự bền vững của khối đại đoàn kết dân tộc.

Tình trạng mất dân chủ, hoặc dân chủ hình thức là môi trường cho bất công xã hội có chiều hướng gia tăng.

Sự gia tăng bất công trong xã hội, cộng với những sai lầm khuyết điểm trong việc đề ra và thực thi đường lối chính sách đã giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Chính quyền, làm rạn nứt niềm tin của nhân dân đối với chủ trương đại đoàn kết toàn dân của Đảng.

Sự thái hoá của một bộ phận cán bộ đảng viên, những người có chức, có quyền trong tay là nguyên nhân dẫn đến những bất bình xã hội, tạo kẻ hở cho kẻ thù lợi dụng, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.

Vấn đề toàn dân do lịch sử để lại là một vấn đề tế nhị và phức tạp, và đầy nhạy cảm. Bọn phản động trong nước và ngoài nước luôn luôn khai thác, lợi dụng.

Mặt khác, do những hạn chế sai lầm của ta trong việc thi hành chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước: như chưa quan tâm đầy đủ đến việc của thiên và nâng cao đời sống vật chất văn hoá cho đất nước, vi phạm phong tục, tập quán tín ngưỡng của độc lập dân tộc thiểu số để kẻ thù khai thác xuyên tạc, gây ra những xung đột, bạo loạn đáng tiếc.

Vấn đề tôn giáo ở Việt Nam cũng là một vấn đề lớn. Tôn giáo tín ngưỡng là vật chất tinh thần của một số bộ phận nhân dân. Nước ta là một nước có nhiều tôn giáo, mỗi tôn giáo đều có mặt tich cực khuyến khích các ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện, góp phần xây dựng đạo đức và văn hoá dân tộc. tuy nhiên trong sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng hiện nay đang nảy sinh những vấn đề mới, có ảnh hưởng trực tiếp đến khối đại đoàn kết dân toọc. Nhiều giáo phái mới. Trong đó không ít tà giáo, đang du nhập vào Việt Nam phá vỡ truyền thống tốt đẹp của Văn hoá dân tộc. KTTT đi liền với hiện tượng “buôn thần, bán thánh”. lợi dụng mê tín dị đoan để tuyên truyền chính trị với ý đồ xấu. Các thế lực thù địch, những phần tử chống ối chưa từ bỏ âm mưu lợi dụng vấn tôn giáo và mục đích chống phá N2 xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nêu cao ở Việt Nam chưa có tự do tôn giáo L/d tôn giáo để thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình (bạo lực ở tôn giáo).

Page 44: Khoi kien thuc 1

Như vậy: Những nhân tố mất ổn định, tác động tiêu cực đến khối đại đoàn kết dân tộc đang ở nơi này, nơi khác và còn diễn biến phức tạp. Nghị quyết Trưng ương 7 khoá IX đã đánh giá những thành tựu và những thách thức mới đang đặt ra cho việc phát huy sức mạnh Dân tộc trong thời kỳ hiện nay; chỉ ra những nguyên nhân yếu kém và đề ra các giải pháp tăng cùng khối đại đoàn kết Dân tộc. Trong tình hình mới, trong đó có việc phải quán triệt và vận động sáng tạo hơn nữa tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh phù hợp với tình hình mới.

3. Các giải pháp để củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, chúng ta cần giải quyết tốt các vấn đề sau:

- Phát huy tinh thần yêu nước lòng tự tôn dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, tranh thủ vận hội, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thách thức,nhanh chóng đưa đất nước vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, để sớm có vị trí tự xứng đáng trong khu vực và thế giới, để có thể sánh vai với các cường quốc năm châu. Xây dựng Việt Nam thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

- Mở rộng sự tập hợp nhằm đoàn kết mọi tầng lớp, mọi Dân tộc tôn giáo, người Việt Nam trong nước hay định cư ở nước ngoài, thu hút vào mặt trận Dân tộc rộng rãi.

Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc phải có chính sách nhân ái khoan dung.Xây dựng trở thành một đảng cầm quyền thật sự trong sạch vững mạnh; xây dựng chế độ ta là

chế độ dân chủ nhân dân do nhân dân làm chủ, xây dựng chính quyền thật sự là chính quyền của dân, do dân và vì dân, trong đó cán bộ, đảng viên là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.

Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động chỉnh đốn xây dựng Đảng, chống tệ tham nhũng quan liêu, mất đoàn kết, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.

- Quan tâm đến lợi ích của nhân dân, trước hết là lợi ích vật chất.Cần có những chính sách, pháp luật để gây mâu thuẫn nẩy sinh giữa thành thị và nông thôn,

giữa chủ và thợ, đồng bằng và miền núi... Có chính sách chiêu hiền, đãi sĩ đào tạo nhân lực, trọng dụng nhân tài, có chính sách thu hút nhân tài ở nước ngoài về xây dựng Tổ quốc.

- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng, thông qua các đoàn thể nhân dân, các hội nghề nghiệp, các tổ chức từ thiện, nhân đạo, câu lạc bộ, các phong trào, các cuộc vận động có tổ chức toàn dân như “đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo”, bài trừ mê tín dị đoan, giữ gìn thuần phong mỹ tục, giữ gìn bản sắc văn hoá Dân tộc... làm cho các hình thức đó mang lại lợi ích thiết thực cho các tầng lớp nhân dân, trước hết là đồng bào trong diện chính sách, gia đình nạn nhân chiến tranh, đồng bào vùng thiên tai, lũ lụt, vùng sâu, vùng xa...

Page 45: Khoi kien thuc 1

Câu 10. Làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Đảng ta đã quán triệt và vận dụng quan điểm đó trong công cuộc xây dựng đất nước ra sao?

Trong suốt cả cuộc đời hoạt động của mình, để đạt đến mục tiêu lý tưởng cách mạng, cùng với việc khẳng định trước tiên phải có “đảng cách mạng” để lãnh đạo, dắt dẫn con thuyền cách mạng, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân nhằm tập hợp, huy động mọi lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để giành thắng lợi.

Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh trước hết thể hiện tư tưởng nhân văn của Người; là sự kế thừa truyền thống yêu nước, tinh thần cộng đồng dân tộc Việt Nam, của nền văn hoá Việt Nam, của tư tưởng đoàn kết quốc tế của chủ nghĩa Mác-Lênin; được xây dựng, bổ sung và phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, thể hiện ở các nội dung sau:

1- Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng

Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết bao giờ cũng là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành bại của cách mạng, chứ không phải là vấn đề có ý nghĩa sách lược. Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh: “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”, “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công”. Đoàn kết là điểm mẹ, “điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt…”. Điều đó nói rõ rằng, đoàn kết là vấn đề sống còn của cách mạng. Nếu có khác chăng là ở những thời kỳ cách mạng khác nhau cần có phương pháp tổ chức, bố trí lực lượng cho phù hợp với những yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể của thời kỳ đó.

2- Đại đoàn kết không chỉ là phương pháp tập hợp, tổ chức lực lượng cách mạng, mà cao hơn, đó là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng

Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Hồ Chí Minh khẳng định, mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể tóm gọn trong 8 chữ “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Như vậy, đại đoàn kết phải là điểm xuất phát và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả đường lối, chủ trương của Đảng. Điều đó đòi hỏi Đảng phải xây dựng được một đường lối chiến lược khoa học phù hợp với nguyện vọng, quyền lợi của đại đa số dân chúng, và chỉ như vậy Đảng mới có thể thu hút và phát huy triệt để sức mạnh của quần chúng vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng.

Đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của bản thân quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện

Page 46: Khoi kien thuc 1

thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.

3- Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dânTrong tư tưởng Hồ Chí Minh, các khái niệm dân, nhân dân có nội hàm rất rộng. Người dùng

các khái niệm này để chỉ “mọi con dân đất Việt”, không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín ngưỡng, không phân biệt “trẻ, già, trai, gái, giàu nghèo, quí tiện”. Như vậy, dân, nhân dân vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa được hiểu là mỗi người Việt Nam cụ thể, cả hai đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc. Nói đến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa là phải tập hợp được mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nêu rõ “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà”. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam.

Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người. Hồ Chí Minh cho rằng ngày đối với những con người lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, chúng ta vẫn kéo họ về phía dân tộc, vẫn đoàn kết với họ, mà hoàn toàn không định kiến, khoét sâu cách biệt. Người đã nhiều lần nhắc nhở “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù người đó trước đây có chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Với tấm lòng độ lượng, bao dung, Người tha thiết kêu gọi tất cả những người thật thà yêu nước, không phân biệt tầng lớp nào, tín ngưỡng nào, chính kiến nào và trước đây đứng về phe nào; chúng ta hãy thật thà cộng tác vì dân vì nước. Để thực hiện được đoàn kết, Người căn dặn “Cần xóa bỏ hết thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân”.

Sở dĩ Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm đại đoàn kết dân tộc một cách rộng rãi như trên là vì Người có lòng tin ở nhân dân, tin rằng ở mỗi người “ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước” tiềm ẩn bên trong. Mẫu số chung để qui tụ mọi người vào khối đại đoàn kết dân tộc chính là nền độc lập thống nhất của Tổ quốc, là cuộc sống tự do và hạnh phúc của nhân dân.

Người đã xác định nền tảng của khối đoàn kết dân tộc “trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, cái gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”. Người còn phân tích sâu hơn, đâu là những lực lượng nòng cốt tạo nên nền tảng ấy: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”, Người khẳng định lấy liên minh công - nông - lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng có thể mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.

4- Ở Hồ Chí Minh, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi, mà được cụ thể hóa thành một chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, của dân ta

Nó được biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất có tổ chức, đó chính là tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất. Cả dân tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh vô địch khi được giác ngộ mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức thành một khối vững chắc và họat động theo đường lối chính trị đúng đắn. Ngay từ khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý đến việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai tầng, từng giới, từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tôn giáo; hơn nữa còn phù hợp với từng bước phát triển của phong trào cách mạng. Hồ Chí Minh đã chủ trương thành lập các hội ái hữu, công hội, nông hội, đoàn thanh niên, phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng, hội phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc,… Và bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất, nơi qui tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi con dân nước Việt, không phải chỉ ở trong nước mà còn bao gồm cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù ở bất cứ phương trời nào, nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước, về Tổ quốc Việt Nam.

Page 47: Khoi kien thuc 1

Tuỳ theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Mặt trận dân tộc thống nhất có thể có những tên gọi khác nhau, như Hội phản đế đồng minh (1930), Mặt trận dân chủ (1930), Mặt trận nhân dân phản đế (1939), Mặt trận Việt minh (1941), Mặt trận Liên Việt (1946), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955) ở miền Bắc và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1976) trong cả nước, nhưng thực chất cũng chỉ là một - đó là tổ chức chính trị rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do hạnh phúc của nhân dân. Mặt trận đã có cương lĩnh và điều lệ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ, từng giai đoạn của cách mạng.

Theo Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc sau đây:

- Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng của liên minh công - nông (về sau Hồ Chí Minh phát triển là liên minh công - nông - lao động trí óc), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, từ đó mở rộng Mặt trận, làm cho Mặt trận dân tộc thống nhất thực sự qui tụ được cả dân tộc, tập hợp được toàn dân, kết thành một khối vững chắc.

- Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng.

- Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành; thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.Giữa các thành viên của khối đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương đồng vẫn có

những điểm khác nhau cần phải bàn bạc để đi đến nhất trí, bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có những nhân tố tiêu cực cần phải khắc phục. Để giải quyết vấn đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị”, lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; mặt khác, Người nêu rõ “Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết”. Người thường xuyên căn dặn mọi người phải khắc phục tình trạng đoàn kết xuôi chiều, phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết nội bộ: “Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”; trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng ta luôn đấu tranh trên hai mặt trận chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh thủ tất cả các lực lượng có thể tranh thủ được; đồng thời chống lại khuynh hướng đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong nội bộ Mặt trận.

5- Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, lại vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc

Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam không phải chỉ là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân, mà còn cả với phong trào yêu nước Việt Nam. Những người tham gia Đảng Cộng sản không phải chỉ là những người tiên tiến thuộc giai cấp công nhân, mà số đông là những người tiên tiến thuộc giai cấp nông dân, tiểu tư sản, các tầng lớp lao động chân tay và trí óc, kể cả những người vốn thuộc các giai cấp bóc lột đã từ bỏ hệ tư tưởng và lợi ích của giai cấp mình, giác ngộ lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là Đảng của giai cấp công nhân, lại vừa là đảng của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Luận điểm này của Hồ Chí Minh hoàn toàn khác với luận điểm về “đảng toàn dân” của những người theo chủ nghĩa xét lại đưa ra trong những năm 60 của thế kỷ XX. Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân vì Đảng ta mang bản chất giai cấp công nhân và “lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt”; là đảng của nhân dân lao động và của cả dân tộc, vì Đảng ra đời trong lòng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đại biểu cho lợi ích của cả dân tộc. Hơn nữa, trong cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng lại đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết và trước hết, vì nếu không giành được độc lập cho dân tộc thì lợi ích của giai cấp công nhân “ngàn vạn năm cũng không giải quyết được”. Để thực hiện được sứ mệnh của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam phải xem đại đoàn kết dân tộc, tập hợp toàn dân trong cuộc đấu tranh cách mạng là vấn đề sống còn, là máu thịt của Đảng.

Hồ Chí Minh khẳng định, muốn qui tụ được toàn dân tộc, Đảng phải “vừa là đạo đức, vừa là văn minh”. Người thường nhắc lại “Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại”.

Page 48: Khoi kien thuc 1

Là tổ chức chính trị to lớn nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất, là bộ tham mưu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc, Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời cũng là thành viên của Mặt trận. Quyền lãnh đạo Mặt trận không phải do Đảng tự phong cho mình, mà là được nhân dân thừa nhận. Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng giai đọan, từng thời kỳ cách mạng. Hồ Chí Minh nêu rõ “Chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Công tác Mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng”.

Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ. Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết phải thực hiện sự lãnh đạo theo nguyên tắc đó, Đảng phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khêu gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, hết sức tránh gò ép, quan liêu, mệnh lệnh, không thể và không được lấy quyền uy của mình để buộc các thành viên khác trong Mặt trận phải tuân theo. Đảng phải thực sự tôn trọng các tổ chức, thành viên của Mặt trận, nếu Đảng muốn giành được sự tôn trọng thực sự của họ. Hồ Chí Minh đã căn dặn cán bộ, đảng viên về công tác Mặt trận “Phải thành thực lắng nghe ý kiến của người ngoài Đảng. Cán bộ và đảng viên không được tự cao tự đại, tự cho mình là tài giỏi hơn mọi người; trái lại phải học hỏi điều hay điều tốt của mọi người...Cán bộ đảng viên có quyết tâm làm như thế thì công tác Mặt trận nhất định sẽ tiến bộ nhiều”. Muốn lãnh đạo Mặt trận, lãnh đạo xây dựng khối đoàn kết toàn dân, Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí. Sự đoàn kết của Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết của toàn dân.

6- Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai câp công nhân

Vào những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã sớm xác định, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam chỉ có thể giành được thắng lợi khi đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới.Tư tưởng đó tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện đầy đủ hơn trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Xác định sự cần thiết phải có tổ chức Đảng Cộng sản, Hồ Chí Minh nêu rõ “phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”; Trong kháng chiến chống chủ nghĩa đế quốc thực dân, tư tưởng Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình thành ba tầng Mặt trận: Mặt trận đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào; Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đó là sự phát triển rực rỡ nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.

Như vậy, những luận điểm trên đây tạo thành nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Những luận điểm ấy đã được hình thành, từng bước được hoàn chỉnh trong tiến trình cách mạng Việt Nam và đã được thực tiễn cách mạng kiểm nghiệm. Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã dày công xây dựng, vun đắp cho sự lớn mạnh và phát triển của Mặt trận dân tộc thống nhất, tăng cường sự ảnh hưởng của Mặt trận đối với cách mạng Việt Nam.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 00 năm qua đã chứng minh hùng hồn sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Từ chổ là tư tưởng của lãnh tụ, đại đoàn kết dân tộc đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng XHCN. Tư tưởng đó đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của tất cả những người Việt Nam yêu nước và biến thành hành động cách mạng của hàng triệu, hàng triệu con người, tạo thành sức mạnh vô địch trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tính chất rộng rãi của khối đại đoàn kết dân tộc thể hiện qua việc mở rộng biên độ tập hợp mọi giai tầng xã hội, mọi ngành giới, lứa tuổi, tôn giáo, dân tộc, chính kiến, đảng phái, tổ chức và cá nhân vào Mặt trận dân tộc thống nhất. Tính bền vững của khối đại đoàn kết dân tộc biểu hiện qua việc củng cố khối liên minh công nhân - nông dân - lao động trí óc và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Lịch sử cách mạng Việt Nam trong hơn nữa thế kỷ qua cho thấy, lúc nào, nơi nào tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được quán triệt và thực hiện đầy đúng, thì khi đó, nơi đó cách mạng phát triển mạnh mẽ và giành được thắng lợi; lúc nào, nơi nào xa rời tư tưởng đó thì khi đó, nơi đó cách mạng bị trở ngại và tổn thất. Nhờ sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, nhân dân ta đã làm

Page 49: Khoi kien thuc 1

Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; kháng chiến thắng lợi, lập lại hoà bình ở Đông Dương và giải phóng miền Bắc 1954, xây dựng miền Bắc đi lên CNXH; đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc 1975. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đoàn kết toàn dân tộc bước vào giai đoạn cách mạng mới - giai đoạn cả nước quá độ lên CNXH. Đánh giá vai trò của Mặt trận không phải chỉ trong quá khứ, mà còn xa về tương lai, Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam”.

+ Từ khi cả nước Việt Nam thống nhất bước vào giai đoạn cách mạng XHCN, bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc phù hợp với tình hình mới. Đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Đảng coi là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, V, VI, VII, VII, IX và nhiều nghị quyết của BCH TƯ Đảng đều toát lên những tư tưởng chủ đạo, đó là: Phải khơi dậy và phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc, đặt lợi ích chung của dân tộc, của đất nước và của con người lên hàng đầu, lấy đó làm cơ sở để xây dựng các chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội nhằm chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu. Phải xuất phát từ lợi ích dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi khả năng có thể tranh thủ được để xây dựng, phát triển đất nước.

Nhận thức tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề đại đoàn kết dân tộc, Bộ chính trị BCH TW Đảng (khoá VII) đã ra Nghị quyết 07/NQ-TW ngày 27/11/1993 “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất”. Nghị quyết đã phản ánh tập trung sự kế thừa và phát triển tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp đổi mới. Đại hội VIII, IX của Đảng tiếp tục khẳng định và đặt vấn đề đại đoàn kết dân tộc ở một tầm cao mới, nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân trong công cuộc CNH, HĐH đất nước. Tiếp đó, Hội nghị lần thứ 7 BCH TW Đảng (khoá IX) đã ra Nghị quyết về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” với chủ trương mở rộng MTTQ Việt Nam về tổ chức, nâng cao vai trò MTTQ Việt Nam trong việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc.

Ngày 26/6/1999, lần đầu tiên Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được ban hành. Luật đã khẳng định MTTQ Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.Đây thực sự là bước phát triển mới của Mặt trận dân tộc thống nhất, của khối đại đoàn kết toàn dân để đẩy nhanh công cuộc xây dựng đất nước.

Những tư tưởng chủ đạo đó đã được thể hiện nhất quán trong các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước ta trong những năm đổi mới:

- Về chính trị, tư tưởng: Đảng nêu cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, mở rộng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, chủ trương xoá bỏ mọi thiên kiến, mặc cảm, hận thù trong quá khứ; tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng, mọi người Việt Nam ở trong nước và định cư ở nước ngoài vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, lấy liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc.

- Về kinh tế - xã hội: Đảng ta chủ trương đoạn tuyệt với nền kinh tế quan liêu bao cấp, chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, xác lập quyền làm chủ của người lao động trong lĩnh vực kinh tế, khuyến khích làm giàu chính đáng theo pháp luật, đồng thời thực hiện tốt các chính sách “Đền ơn đáp nghĩa”, “Xoá đói giảm nghèo”.

- Về đối ngoại: thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế theo phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.

Page 50: Khoi kien thuc 1

Trong 15 năm (1986-2001) tiến hành đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, những giá trị lý luận và thực tiễn trong tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh đã được Đảng ta vận dụng một cách triệt để và nâng lên tầm cao mới, thể hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong nhiều chính sách, biện pháp và chủ trương của đảng, đặc biệt là trong các văn kiện lớn qua các kỳ Đại hội của đảng. Bài học về phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc là bài học xuyên suốt từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của đảng. Quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia quản lý nhà nước, xã hội đã từng bước được phát huy, góp phần tích cực động viên nhân dân phấn khởi đẩy mạnh sản xuất, thực hiện các nhiệm vụ phát triển văn hoá kinh tế xã hội, củng cố an ninh quốc phòng. Việc tập hợp nhân dân với các hình thức đa dạng có bước phát triển mới. Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên được mở rộng, vai trò và vị trí xã hội được nâng cao, nội dung hoạt động phong phú, thiết thực hơn, đã động viên lội cuốn được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia cac cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước (Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” tiếp tục được triển khai và nâng cao chất lượng tại các khu dân cư. Các phong trào đoàn kết phát huy truyền thống tương thân, tương ái; các hoạt động đền ơn đáp nghĩa được đẩy mạnh. Năm 2004 quỹ đền ơn đáp nghĩa thu được: 1.323.832.000 đồng. Trong đó cấp tỉnh: 231.767.000 đồng; cấp huyện 389.923.000 đồng, cấp xã 702.142.000 đồng; đã xây dựng và sửa chữa 180 nhà tình nghĩa trị giá 1.345 triệu đồng; thăm hỏi tặng quà cho 36.622 gia đình chính sách, có công với số tiền 1.988 triệu đồng... Đến nay toàn tỉnh đã công nhận 134/150 xã, phường, thị trấn làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa chiếm 89,4% trong đó 52 xã, phường tiêu biểu chiếm 34,7%. Ngoài ra, tiếp tục đẩy mạnh phong trào giúp đỡ đồng bào tỉnh bạn, UBMTTQVN các cấp trong tỉnh đã chuyển 150.000.000 đồng giúp đồng bào Lai Châu, Điện Biên xây dựng 15 nhà tình thương chia sẽ với tinh thần tương trợ giúp nhau vượt qua những lúc khó khăn. Phong trào xây dựng gia đình văn hóa, khu dân cư tiên tiến, thôn, làng, bản, tổ dân phố văn hóa luôn được sự hưởng ứng của các gia đình và khu dân cư. Đến nay có 164.486 gia đình đăng ký gia đình văn hóa, đạt 77,3%. Trong đó có 108.286 gia đình đạt chuẩn văn hóa (đạt 50,9%); 906 Khu dân cư tiên tiến/1.317 KDC (tăng 227 khu dân cư so với năm 2003); Có 376 thôn, làng, bản được công nhận đạt chuẩn văn hóa, 503 cơ quan đạt chuẩn văn hoá, 1.152 thôn, làng, bản đăng ký xây dựng đơn vị văn hóa 87,5%. Tiếp tục triển khai cuộc vận động “Ngày vì người nghèo” và sử dụng “Quỹ vì người nghèo” năm 2004 trong phạm vi toàn tỉnh đạt hiệu quả cao. “Quỹ vì người nghèo” năm 2004 ở cả 3 cấp đã thu được 3.525.838.796 đồng. Đặc biệt, trong năm nay Quỹ vì người nghèo có sự ủng hộ của các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế đang hoạt động trên địa bàn…. )

Tuy nhiên, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng trước những thách thức mới. Lòng tin vào Đảng, Nhà nước, chế độ của một bộ phận nhân dân chưa vững chắc, phần vì đời sống còn nhiều khó khăn, phần vì bất bình trước những bất công xã hội và tình trạng tham những, quan liêu, lãng phí còn khá phổ biến, kỷ cương phép nước nhiều lúc nhiều nơi không nghiêm, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp, trật tự an toàn xã hội còn phức tạp. Các vụ khiếu kiện đông người còn nhiều, có nơi có lúc còn gay gắt (Thái bình). Việc tập hợp nhân dân vào mặt trận, đoàn thể, các tổ chức xã hi còn hạn chế.

+ Trong điều kiện mới ngày nay, khi mà những thời cơ và thách thức đan xen nhau đang thường xuyên tác động đến khối đại đoàn kết dân tộc. Hơn lúc nào hết, thực tiễn đất nước đòi hỏi chúng ta phải quán triệt những quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc; phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển những quan điểm ấy, phù hợp với những biến đổi của tình hình mới.

Đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ hiện nay phải được củng cố và phát triển để khắc phục tình trạng đói nghèo, lạc hậu, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, về khoa học, kỹ thuật và công nghệ; nhằm khơi dậy tinh thần tự tôn dân tộc, quyết tâm chấn hưng đất nước, tận dụng thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua mọi thử thách.

Đại đoàn kết dân tộc trong điều kiện thực hiện một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đòi hỏi, một mặt, phát huy được tính năng động của mọi người, mỗi bộ phận để mọi việc từ lãnh đạo, quản lý, sản xuất kinh doanh, học tập và lao động đều có năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao; mặt khác, phải khắc phục được những tiêu cực của kinh tế thị trường, đặc biệt là tâm lý chạy

Page 51: Khoi kien thuc 1

theo đồng tiền, cạnh tranh không lành mạnh, làm phai nhạt truyền thống đoàn kết, tình nghĩa, tương thân tương ái của dân tộc và của Đảng.

+ Đại đoàn kết đòi hỏi phải xây dựng một Đảng lãnh đạo thật sự trong sạch vững mạnh, một chế độ do nhân dân làm chủ, một Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân, một hệ thống chính trị tiên tiến có hiệu quả, hiệu lực. Phải chống cho được các tệ nạn xã hội, nạn tham nhũng, quan liêu, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Tiếp tục đổi mới chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; chính sách đối với trí thức, chính sách đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, tập hợp đến mức rộng rãi nhất nhân tài vật lực cho sự nghiệp CNH,HĐH đất nước.

Luật MTTQ Việt Nam phải được triển khai thực hiện nghiêm chỉnh, để Mặt trận xứng đáng là một lực lượng to lớn, mạnh mẽ của hệ thống chính trị. Tiếp tục đổi mới bộ máy và sự hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng.

Đoàn kết dân tộc trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế ngày càng phát triển, đòi hỏi phải củng cố sự đoàn kết với phong trào cách mạng các nước, đồng thời phải nắm vững bài học đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh, luôn luôn giương cao ngọn cờ hoà bình, độc lập, hợp tác và phát triển.

Tóm lại, tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh là rất sâu sắc độc đáo, đúng đắn, sáng tạo. Tư tưởng đó đã thực sự chuyển thành chiến lược đại đoàn kết, thành chính sách mặt trận của Đảng ta, đã được đảng ta vận dụng đúng đắn, sáng tạo, toàn dân ta hưởng ứng. Tư tưởng đó đã tạo sức mạnh to lớn của dân tộc ta, nhân đân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách giành thắng lợi to lớn trong sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách mạng XHCN. Tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là hiện thân của khối đại đoàn kết dân tộc, là ngọn cờ quy tụ sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho toàn đảng toàn dân tộc tiếp tiếp vững bước.

Page 52: Khoi kien thuc 1

Câu 11. Những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về nguyên tắc xây dựng Đảng CSVN . Sự vận dụng trong công cuộc chỉnh đốn Đảng hiện nay

Là người sáng lập Đảng cộng sản Việt nam, Hồ chí Minh đã xây dựng và rèn luyện Đảng cộng sản thành một đảng cách mạng chân chính, bộ tham mưu sáng suốt và kiên cường của giai cấp công nhân và dân tộc Việt nam.Trong những di sản tư tưởng mà người để lại, những luận điểm của người về Đảng cộng sản, về xây dựng đảng đặc biệt trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền là một phần cực kỳ quan trọng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng CSVN bắt nguồn từ học thuyết của Mác về Đảng CS và trực tiếp từ học thuyết của Lênin về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Nhưng xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể của Việt nam, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết ấy để đưa đến việc thành lập ĐCSVN vào năm 1930.

Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Người đã kết hợp chặt chẽ các vấn đề dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản không những trong nhận thưc lý luận mà còn ở trong hoạt động thực tiển cách mạng rất phong phú. Người đã sáng lập Đảng cộng sản Việt nam, đó là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm cốt”, Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng Việt nam đi đến thắng lợi.

Đảng CSVN được xây dựng theo những nguyên tắc của đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Hồ chí Minh đã đề cập những nguyên tắc xây dựng Đảng như sau:

1. Tập trung dân chủĐây là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng cộng sản thành một tổ chức chiến đấu chặt

chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi người, vừa phát huy sức mạnh của tất cả những ai đã tự nguyện gắn bó với nhau trong một tổ chức.

Theo Hồ Chí Minh, dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn bó và thống nhất vơí nhau trong một nguyên tắc.

Dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung, chứ không phải là dân chủ theo kiểu phân tán, tùy tiện vô tổ chức. Tập trung là trên cơ sở dân chủ, chứ không phải tập trung quan liêu theo kiểu độc đoán chuyên quyền.

Về tập trung, Người nhấn mạnh: phải thống nhất về tư tưởng, tổ chức, hành động. Do đó thiêủ số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, mọi đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Từ đó làm cho “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”.

Người đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hiện và phát huy dân chủ nội bộ, vì nếu không có dân chủ nội bộ thì sẽ làm cho nội bộ của Đảng âm u. Hơn nữa có dân chủ trong Đảng, mới có thể nói đến

Page 53: Khoi kien thuc 1

dân chủ trong xã hội, mới định hướng cho việc xây dựng một chế độ dân chủ triệu lần hơn chế độ tư bản chủ nghĩa.

2. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ tráchTheo Hồ chí Minh đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Theo Người một người dù tài giỏi

đến mấy cũng không thể thấy hết mọi mặt của một vấn đề, càng không thể thấy hết được mọi việc, hiễu hết được mọi chuyện. Vì vậy, cần phải có nhiều người cùng tham gia lãnh đạo. Nhiều người thì nhiều kiến thức, người thấy mặt nầy, người thấy mặt kia, do đó hiễu được mọi mặt, mọi vấn đề. Ý nghĩa của tập thể lãnh đạo rất đơn giản: dại bầy hơn khôn độc.

Về cá nhân phụ trách, Người chỉ rõ việc gì đã được tập thể bàn bạc kỹ lưỡng, kế hoạch đã được định rõ thì cần giao cho một người phụ trách, nếu giao cho một nhóm người thì cũng phải có một người phụ trách chính. Như thế công việc mới chạy, mới tránh được thói dựa dẫm, người nầy ỷ vào người kia, ỷ vào tập thể. Không xác định rõ cá nhân phụ trách, thì giống như nhiều sãi không ai đóng cửa chùa.

Đối với nguyên tắc nầy Người đã kết luận: Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc.

Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc.

Tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau.3. Tự phê bình và phê bìnhHồ chí Minh coi nguyên tắc nầy là nguyên tác sinh hoạt của Đảng, là luật phát triển của Đảng.

Người cho rằng mỗi đảng viên trước hết tự mình phải thấy rõ mình, để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, cũng giống như phải tự soi gương rửa mặt hàng ngày. Hơn nữa, biết tự phê bình tốt thì mới phê bình người khác tốt được.

Người xem tự phê bình và phê bình là vũ khí để nâng cao trình độ lãnh đạo của đảng. Người đã thẳng thắn vạch rõ một đảng mà dấu diếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng. Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ khuyết điểm, nguyên nhân và hoàn cảnh đưa đến khuyết điểm rồi tìm cách sữa chữa khuyết điểm đó. Như thế mới là một đảng tiến bộ, mạnh dạn chắc chắn và chân chính. Người lưu ý, muốn thực hiện tốt tự phê bình và phê bình đòi hỏi mỗi người phải trung thật, chân thành với bản thân mình cũng như với người khác. Người đã phê phán những thái độ lệch lạc, sai trái thường xẩy ra trong tự phê bình và phê bình như thiếu trung thực, che dấu khuyết điểm của bản thân, sợ phê bình, không dám phê bình, nể nang, né tránh, dĩ hòa vi quý, hoặc ngược lại lợi dụng phê bình để nói xấu, bôi nhọ, vùi dập, đả kích người khác…

4. Kỷ luật phải nghiêm minh và tự giácHồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh và tự giác trong Đảng để

tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng. Nghiêm minh là thuộc tổ chức Đảng, vì đó là kỷ luật đối với mọi cán bộ đảng viên, không

phân biệt cán bộ lãnh đạo cao hay thấp, là cán bộ lãnh đạo hay đảng viên thường, mọi cán bộ đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng.

Tự giác là thuộc về mỗi cá nhân cán bộ, đảng viên đối với Đảng, là do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với đảng.

Yêu cầu cao nhất của kỹ luật Đảng là chấp hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt Đảng, các nguyên tắc xây dựng Đảng. Có như vậy, Đảng mới là một khối thống nhất về tư tưởng và hành động. Nếu không có kỷ luật, không thống nhất về tư tưởng và hành động, Đảng sẽ xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẽo, công việc bế tắt.

Từ việc tuân thủ kỷ luật của Đảng, mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, mỗi cấp ủy dù ở cấp bộ nào cũng phải nghiêm túc chấp hành kỷ luật của các đoàn thể và pháp luật của Nhà nước, tuyệt đối không ai được cho phép mình coi thường, thậm chí đứng trên tất cả.

5. Đoàn kết thống nhất trong ĐảngHồ chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong đảng cũng như

khối đại đoàn kết toàn dân. Phải xây sự đoàn kết thống nhất trong Đảng để làm nòng cốt cho việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong nhân dân. Cơ sở để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng chính là đường lối, quan điểm của Đảng và điều lệ Đảng. Đây là cơ sở để tạo nên sự thống nhất về tư

Page 54: Khoi kien thuc 1

tưởng, về tổ chức, từ đó có sự thống nhất về hành động của toàn Đảng nhằm đưa đường lối, quan điểm của Đảng vào cuộc sống, biến các chủ trương của đảng thành hành động cách mạng của quần chúng nhân dân.

Để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, Người thường nêu những yêu cầu như: phải thực hiện và mở rộng dân chủ nội bộ để cán bộ đảng viên có thể tham gia bàn bạc đến nơi đến chốn những vấn đề hệ trọng của Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, tình thương yêu đồng chí, chống chủ nghĩa cá nhân, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng,...

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản, về nguyên tác xây dựng Đảng đã chỉ đạo cho việc xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam thật sự là một Đảng Macxit-Leninit chân chính, Đảng của Hồ chí Minh đã làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang và trách nhiệm nặng nề trước dân tộc, đồng thời có những đóng góp tích cực vào phong trào cách mạng thế giới.

Sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo 30 năm qua đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng: chính trị - xã hội ổn định, an ninh quốc phòng giữ vững, kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân được cải thiện, quan hệ của Việt nam với thế giới được mở rộng, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Việt nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội kéo dài, vượt qua chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ để bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những thành tựu của công cuộc đổi mới gắn liền với sự trưởng thành của Đảng, những tồn tại, yếu kém trên nhiều lĩnh vực đòi hỏi phải khắc phục.

Đã có nhiều Nghị quyết đặt ra những yêu cầu trong công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm vẫn tồn tại không ít khuyết điểm, đáng chú ý là những khuyết điểm về công tác giáo dục rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, sự suy thoái về chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên ở mọi cấp mọi ngành lại đang có chiều hướng trở thành phổ biến hơn, nghiêm trọng hơn. Tham những trở thành quốc nạn. Bệnh quan liêu với nhiều biểu hiện khác nhau đã làm tổn thương không nhỏ đối với mối quan hệ của Đảng, Nhà nước với dân. Vì vậy, hội nghị lần thứ sáu (lần hai) Ban chấp hành trung ương khóa VIII đã ra Nghị quyết “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”. Nghị quyết đã đề cập nhiều vấn đề lớn: quan điểm tư tưởng chính trị, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình, phê bình trong đảng,, vấn đề giáo dục chính trị, đạo đức, lối sống, chống tham những, quan liêu... Hội nghị chủ trương phát động “Cuộc xây dựng chỉnh đốn Đảng” trong hai năm 1999-2001. Qua hai năm thực hiện cuộc vận động thu được một số kết quả và kinh nghiệm bước đầu song chưa đạt yêu cầu đề ra. Nghị quyết đại hội đai biểu trung ương lần IX đã nêu: Trong những năm tới, toàn Đảng tiếp tục thực hiện các nghị quyết về xây dựng Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, tập trung làm tốt những công tác quan trọng sau đây:

Trên cơ sở tổng kết hai năm thực hiện cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, tiếp tục đưa việc tự phê bình và phê bình trong các cấp ủy và tổ chức Đảng từ Trung ương đến cơ sở thành nề nếp thường xuyên và theo định kỳ.

Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu làm trong sạch đội ngũ đảng viên. Cán bộ đảng viên ở bất cứ cương vị nào đều phải chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết của đảng và pháp luật của Nhà nước. Thi hành kỷ luật nghiêm khắc mọi vi phạm về nguyên tắc, nhất là đối với những vấn đề quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.

Xây dựng đội ngũ cán bộ trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, vững vàng về chính trị gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiển, gắn bó với nhân dân. Đến hết năm 2005, phần lớn cán bộ lãnh đạo chủ chốt từ cấp huyện trở lên học xong chương trình cao cấp về lý luận chính trị và có trình độ đại học về một chuyên ngành nhất định.

Tất cả các Đảng bộ, chi bộ ở cơ sở đều nắm vững và thực hiện đúng chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị đối với chính quyền, đoàn thể, các tổ chức kinh tế, sự nghiệp, các mặt công tác và các tầng lớp nhân dân ở cơ sở, nâng cao tính chiến đấu, khắc phục tình trạng thụ động, ỷ lại, buông lõng vai trò lãnh đạo.

Phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy ở cơ sở đến Ban chấp hành Trung ương. Chống dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan hoặc lợi dụng dân chủ để mưu cầu lợi ích riêng, cục bộ, bản vị.

Page 55: Khoi kien thuc 1

Từng đảng bộ giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong tập thể lãnh đạo. Đối với những cấp ủy, tổ chức đảng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, cán bộ lãnh đạo độc đoán, chuyên quyền, léo bè, kéo cánh gây mất đoàn kết nội bộ, cấp ủy cấp trên phải chỉ đạo kiểm điểm làm rõ đúng sai, xử lý nghiêm những người có khuyết điểm, kiện toàn tổ chức cán bộ; nơi không có khả năng khắc phục khuyết điểm thì giải tán về tổ chức, lập tổ chức mới theo quy định của Điều lệ Đảng. Tăng cường chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với việc phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân.

Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp ủy, của ủy ban kiểm tra các cấp, tập trung vào các nội dung chủ yếu: thực hiện các Nghị quyết, chủ trương, chính sách của đảng và Nhà nước, chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; củng cố đoàn kết nội bộ, giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.

Nội dung Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu (lần hai) và cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng đã quán triệt những tư tưởng lớn của Hồ chủ tịch về Đảng cộng sản. Xây dựng chỉnh đốn đảng là nhằm thực hiện câu nói của chủ tịch Hồ chí Minh: "Đảng ta là đạo đức, là văn minh". Đảng phải là đảng của trí tuệ tiên phong ngang tầm thời đại thì mới đưa dân tộc vững bước tiến vào thế kỷ XXI, mới giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa, mới giành được thắng lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn soi sáng cho công tác xây dựng Đảng ta hôm nay và lâu dài về sau.

Page 56: Khoi kien thuc 1

Câu 12. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân Là người sáng lập Đảng CSVN, Hồ Chí Minh không ngừng chăm lo xây dựng, rèn luyện Đảng

ta thành Đảng Mác xít thật sự vững mạnh để lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi..., lý tưởng cách mạng. Từ nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Người xác định mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân và cán bộ, công tác cán bộ của Đảng. Trong hệ thống các quan điểm có tính quy luật, về xây dựng Đảng CSVN, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân và cán bộ, công tác cán bộ của Đảng là sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin về chính Đảng vô sản vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam.

Đối với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh không chỉ nhận thức sáng tỏ thêm về vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân là người sáng tạo nên lịch sử, động lực của cách mạng, mà còn phát hiện được rằng sức mạnh của quần chúng chỉ có thể phát huy đầy đủ, đúng đắn khi có sự lãnh đạo của "Đảng cách mệnh" chân chính. Đảng CSVN ra đời chính là do yêu cầu nội tại của phong trào cách mạng nước ta.

Hồ Chí Minh cho rằng: nhân dân là những người có lòng yêu nước, tán thành độc lập dân tộc, xây dựng đất nước giàu mạnh, ấm no, tự do, hạnh phúc. Trong tập hợp rộng lớn ấy, Hồ Chí Minh thường hướng chú ý vào lực lượng nòng cốt là công nhân, nông dân, trí thức. Như vậy, quan niệm về dân của Hồ Chí Minh mang tính chất giai cấp. Quan niệm đó khác hẳn với quan niệm về dân của phong kiến, vô sản. Đó là quan điểm về dân hoàn toàn theo chủ nghĩa Mác-Lênin.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Đảng phải gắn bó máu thịt với dân. Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhân dân là lực lượng che chở cho Đảng, Đảng muốn tồn tại được thì phải ở trong lòng dân, việc Đảng dựa chắc vào dân để đánh đổ ách ngoại xâm giành chính quyền cách mạng là lẽ tự nhiên, ai cũng nhận được. Trong thời kỳ Đảng cầm quyền, quan hệ giữa Đảng với nhân dân càng phải được chú ý đặc biệt, bởi vì nó có thể có nhiều căn bệnh để nảy sinh làm tổn hại đến mối quan hệ vốn đã gắn bó giữa Đảng vớ dân trong thời kỳ trước. Vì vậy, để quan hệ máu thịt “ý Đảng, lòng dân” thì mỗi cán bộ, đảng viên phải “biết lấy ý kiến của dân chúng”, tiếc là phải lắng nghe ý kiến của nhân dân để xây dựng đường lối, chính sách của Đảng; phải “học dân chúng”, khiêm tốn học hỏi quần chúng, nhân dân Đảng và cán bộ, đảng viên, phải “nâng cao dân chúng”, nâng tầng trí tuệ và sức mạnh của nhân dân, nhưng không theo đuổi quần chúng; vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân.

Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh là một tấm gương về gần dân, hiểu dân và vì dân. Người có ham muốn tột bậc là làm cho nước ta hoàn toàn được độc lập, dân ta có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Người cho rằng: “Nếu nước đã được độc lập mà dân không có tự do thì độc lập cũng chẳng làm gì”. Vì vậy, Trong di chúc, Hồ Chí Minh căn dặn Đảng ta phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.

Page 57: Khoi kien thuc 1

Có thể khẳng định rằng, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, giữ gìn mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng, là nhân tố quyết định tạo ra sức mạnh của Đảng, là một trong những vấn đề cốt lõi của công tác xây dựng Đảng. Trong nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập, Đảng muốn qua mọi thách thức, cán bộ, đảng viên của Đảng phải luôn luôn nhận thức đầy đủ mối quan hệ đó, phải luôn gắn bó với nhân dân, hết sức tránh bệnh quan liêu, xa rời nhân dân, phải dựa vào quần chúng, đi sâu sát cơ sở, lắng nghe tiếng nói, nguyện vọng của quần chúng, kiên trì phục vụ quần chúng, làm cho các quyết sách và công tác phù hợp với thực tế và yêu cầu của quần chúng nhân dân đối với cán bộ và công tác cán bộ.

* Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân:Bất kỳ đảng phái nào muốn thực hiện được ý đồ chính trị của mình thì cũng đều phải huy

động, tập hợp nhân dân. Nhưng sự khác nhau căn bản giữa phương pháp của ĐCS so với các Đảng tư sản là việc tập hợp quần chúng nhân dân nhằm thực hiện những công việc vì chính bản thân quần chúng. ĐCS không có mục đích tự thân mà Đảng ra đời nhằm phục vụ nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo là nhằm “lấy tài dân, sức dân để làm những công việc có lợi cho dân” chứ không phải vì lợi ích của người lãnh đạo. Mục tiêu lãnh đạo của Đảng chính là vì độc lập và tự do của dân tộc, hạnh phúc và dân chủ của nhân dân. Với ý nghĩa đó, sự lãnh đạo của Đảng đồng nghĩa là “đầy tớ” của nhân dân.

Toàn bộ hoạt động của Đảng đều xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước. Để tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, Đảng ta đã yêu cầu mỗi đảng viên phải làm công tác vận động quần chúng, hoạt động tích cực trong các đoàn thể, các tổ chức xã hội và các cấp ủy; tổ chức Đảng phải có nội dung thích hợp để nhân dân tham gia công tác xây dựng Đảng. Đảng ta còn yêu cầu cán bộ, đảng viên, công chức phải xây dựng và thực hành phong cách trọng dân, gần dân, hiểu dân và có trách nhiệm với nhân dân; nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin. Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng, mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời gian qua còn nhiều hạn chế và cần được tiếp tục giải quyết. Biểu hiện của sự hạn chế này là mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng trước những thách thức mới; lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận nhân dân chưa vững chắc; nhiều tổ chức Đảng, chính quyền còn coi nhẹ công tác dân vận...

Cách mạng Tháng Tám 1945 đã cho chúng ta nhiều bài học vô cùng quý báu. Một trong những bài học đó là: cách mạng là sự nghiệp của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để lãnh đạo cách mạng thành công, Đảng phải dựa vào nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu và phục vụ, luôn luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, phát huy cao độ sức mạnh của nhân dân. Bài học về sức mạnh to lớn của nhân dân và sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân có ý nghĩa sâu sắc không chỉ đối với cách mạng Tháng Tám 1945, đối với hơn 30 năm chiến đấu gian khổ bảo vệ nền độc lập và thống nhất Tổ quốc, mà còn cho cả ngày nay trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là một chân lý lớn của cách mạng Việt Nam, một nội dung quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh khi Người nhấn mạnh và thực hiện nhất quán: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.

Bài học đó nhắc nhở chúng ta rằng “Dễ mười lần không dân cũng chịu; khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Trong sự nghiệp đổi mới mấy chục năm qua, cùng với việc đề ra đường lối và các chính sách đổi mới đúng đắn, Đảng luôn luôn giương cao ngọn cờ ĐĐK toàn dân, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, gắn liền với sức mạnh thời đại, tạo ra nguồn lực to lớn, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, phát triển kinh tế với nhịp độ khá nhanh, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Mục tiêu kinh tế - xã hội mà toàn Đảng và toàn dân ta đang ra sức phấn đấu là đến năm 2020 đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

* Vì sao phải lấy dân làm gốc:Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ CNXH đã ghi: “Sự nghiệp cách mạng là

của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính người dân là người làm nên thắng lợị lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của

Page 58: Khoi kien thuc 1

Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”.

Điều lệ ĐCSVN, ngay phần mở đầu đã nhấn mạnh: “ĐCSVN là Đảng cầm quyền. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào dân để xây dựng Đảng”. Trong Di chúc bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho Đảng ta và nhân dân ta, Người đặc biệt nhấn mạnh, tăng cường quan hệ giữa Đảng với nhân dân: “Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những quan niệm sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử và mối quan hệ mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Người không chỉ khẳng định dân là gốc của nước, mà còn tôn vinh nhân dân: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Người còn nói, nhân dân là người xây dựng, là người đổi mới, làm nên sự nghiệp lớn, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nhân dân.

Quán triệt Điều lệ Đảng và thấm nhuần sâu sắc Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Lấy dân làm gốc”, chúng ta càng thấm thía rằng: mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân, nếu Đảng xa dân, tách khỏi dân thì Đảng không thể tồn tại được. Không có sự tham gia giám sát của nhân dân thì cán bộ, đảng viên dễ trở thành “ông quan”, “bà quan” cách mạng chứ khó trở nên “Người lãnh đạo, Người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Không có sự giám sát chặt chẽ của quần chúng nhân dân thì tổ chức Đảng khó tránh khỏi tệ quan liêu - một trong những nguy cơ lớn của Đảng cầm quyền, biến sứ mệnh cầm quyền cao cả của Đảng thành ''Đảng lạm quyền", thậm chí còn dẫn đến thoái hóa, biến chất. Do vậy, sự giám sát cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng của nhân dân trong việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay đang trở nên bức bách và có ý nghĩa sống còn của Đảng ta. Đó là bài học ''Lấy dân làm gốc" để xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Lịch sử đã từng chứng minh, một chế độ chính trị - xã hội chỉ tồn tại được khi nào có khả năng tập hợp, đoàn kết được quảng đại quần chúng nhân dân. Trong những giai đoạn cách mạng trước, sở dĩ Đảng ta luôn luôn giữ vững được vai trò lãnh đạo của mình, bởi nhờ có sự ủng hộ, che chở, bảo vệ của nhân dân. Ngày nay, đứng trước cuộc đấu tranh bài trừ các tệ nạn xã hội, trước hết là làm trong sạch các tổ chức đảng, bộ máy Nhà nước, khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng và sự tha hóa đạo đức, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên chỉ có thể thực hiện đạt hiệu quả khi nào các tổ chức đảng, các cấp ủy đảng thực sự tin ở dân, dựa vào sự tham gia kiểm tra, giám sát của nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tham gia giám sát cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng còn là quyền và nghĩa vụ của nhân dân đối với Đảng. Đối với một Đảng cầm quyền, Đảng có sứ mệnh lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội tiến hành công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN. Do đó, toàn bộ cuộc sống từ vật chất đến tinh thần, văn hóa của mỗi người dân trong xã hội đều gắn với sự lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng có trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên có tiên phong gương mẫu thì mới bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước, và cũng nhờ đó mà cuộc sống của nhân dân được đảm bảo, cải thiện và nâng cao. Trái lại, cán bộ, đảng viên tiêu cực, tha hóa, tổ chức đảng không trong sạch, vững mạnh thì không chỉ làm cho tổ chức đảng bị rệu rã, dẫn đến mắc sai lầm, thất bại mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống, cuộc sống của nhân dân. Do vậy mà việc giám sát cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng vừa là một quyền cơ bản không thể thiếu của công dân, vừa là nghĩa vụ, trách nhiệm vẻ vang của nhân dân đối với Đảng. Nhân dân giám sát cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng là một nội dung về quyền làm chủ của nhân dân nhằm xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh và từ đó cũng nhằm bảo vệ lợi ích thiết thân, chính đáng, hợp pháp của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Dân chủ là bản chất của chế độ và của Đảng ta. Bác Hồ đã khẳng định: “Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân... Làm cho mọi công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý Nhà nước”.

85 năm qua, chính nhờ bắt rễ sâu rộng trong quần chúng, đường lối chính trị được lòng dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ, cho nên Đảng và nhân dân ta đã kết thành một khối vững chắc, quan hệ máu thịt với nhân dân là cội nguồn sức mạnh to lớn của Đảng ta. Ở đâu và lúc nào, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên thường xuyên chăm lo lợi ích của nhân dân, sống đồng cam cộng khổ với dân, mọi việc làm đều vì lợi ích của dân, thì ở đó Đảng và dân có mối quan hệ tốt đẹp; cán bộ, đảng viên được

Page 59: Khoi kien thuc 1

dân tin, dân phục, dân theo. Trái lại, ở đâu và lúc nào tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên xa dân, quay lưng lại với dân, quan liêu, thậm chí trù dập, ức hiếp dân thì ở đó sẽ bị dân oán ghét, chê trách, bất hợp tác. Qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, với việc phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống, mở mang dân trí, dân chủ trong xã hội, Đảng ta ngày càng củng cố được niềm tin của nhân dân, khơi dậy được những tiềm năng, tạo ra được những nguồn sinh lực của cách mạng. Ý Đảng, lòng dân là sức mạnh vô tận.

Bài học “Lấy dân làm gốc” để xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được tiến hành đồng bộ trên nhiều mặt cả về kinh tế, chính trị, tư tưởng... để cùng tác động đến đời sống, tâm lý, tư tưởng các tầng lớp nhân dân, tạo nên sự chuyển biến tích cực trong thái độ, tình cảm, tâm lý, ý thức của từng người dân. Đời sống vật chất và đời sống tinh thần của các tầng lớp nd không ngừng được cải thiện và nâng cao, dân chủ XHCN được củng cố, mở rộng; tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực bị ngăn chặn và đẩy lùi; Đảng vững mạnh, nâng cao được sức chiến đấu, bộ máy nhà nước trong sạch, thật sự của dân, do dân, vì dân, nâng cao được hiệu lực quản lý, thì sẽ được lòng dân. Đảng vì dân, dân tin ở Đảng, ra sức góp phần xây dựng Đảng và bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ XHCN của chúng ta.

Ngày nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN của toàn dân ta đã có những thuận lợi mới, thời cơ mới, thực lực và sức mạnh mới, đưa dân tộc lên vị thế chưa từng có. Bạn bè tăng lên, thù giảm bớt, đói nghèo lạc hậu từng bước được đẩy lùi, đời sống vật chất, tinh thần, văn hoá không ngừng được cải thiện. "Lấy dân làm gốc" ngày nay được kế thừa và phát huy trong điều kiện, vẫn đất nước mình, dân tộc mình, nhưng kết cấu dân cư, thành phần giai cấp, xã hội đã có nhiều đổi mới. Do đó, phải phát huy được hiệu quả của mọi thành phần kinh tế, trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trong cuộc trường chinh chống đói nghèo và lạc hậu, phát huy được sức mạnh Việt Nam, trí tuệ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Page 60: Khoi kien thuc 1

Câu 13. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý ở Việt Nam

Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải tìm tòi, giải quyết hàng loạt vấn đề về đường lối chiến lược của cách mạng, về giành chính quyền và giữ chính quyền.

Nếu vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề cơ bản của một chính quyền là ở chỗ nó thuộc về ai, phục vụ cho quyền lợi của ai.

Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm Đường cách mệnh, Hồ Chủ tịch đã chỉ rõ: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. Sau khi nước ta giành được độc lập, Người khẳng định: Nước ta là nước dân chủ.

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.Bao nhiêu quyền hạn đều của dân...Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra...Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Đó chính là nhà nước của dân, do dân và

vì dân, là điểm khác nhau về bản chất giữa nhà nước của nhân dân với các nhà nước của giai cấp bóc lột đã từng tột tại trong lịch sử.

Nhà nước của dân, như điều thứ 1- Hiến pháp năm 1946 do Người làm trưởng ban soạn thảo đã khẳng định rõ: “Nước Việt nam là một nước dân chủ cộng hòa, tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.

Trong nhà nước của dân thì dân là chủ, Nhà nước phải hình thành được các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Cũng trên ý nghĩa đó, các vị đại diện của dân, do dân cử ra, chỉ là thừa ủy quyền của dân, chỉ là “công bộc” của dân theo ý nghĩa đúng đắn của từ nầy.

Nhà nước do dân, đó là nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình, nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt động. Người yêu cầu: Tất cả các cơ quan nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.

Nhà nước vì dân, đó là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền, đặc lợi, thật sự trong sạch, cần kiệm liêm chính.

Theo tư tưởng Hồ chí Minh, một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, trước hết phải là một nhà nước hợp hiến. Ngay sau khi giành được chính quyền trong cả nước, chủ tịch Hồ chí Minh đã thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và với thế giới về sự khai sinh của nhà nước Việt Nam mới. Nhờ đó, Chính phủ lâm thời do cuộc cách mạng của

Page 61: Khoi kien thuc 1

nhân dân lập nên có được địa vị hợp pháp và Việt nam có vinh dự là một trong rất ít quốc gia sau cách mạng, có được một bản Tuyên ngôn nổi tiếng về quyền của các dân tộc, có giá trị đóng góp vào sự phát triển nền pháp lý tiến bộ của loài người.

Tiếp đó, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt nam dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ: “Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu” để sớm có một nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra.

Mặc dù nhiều khó khăn dồn dập do thù trong, giặc ngoài gây ra, cuộc tổng tuyển cử trong cả nước đã được tiến hành chỉ bốn tháng sau ngày độc lập. Trong hoàn cảnh Nam bộ đã bước vào cuộc kháng chiến chống lại gây hấn của thực dân Pháp, Bắc bộ phải đối phó với những yêu sách và hoạt động gây rối của quân đội Tưởng và bè lũ tay sai.

Cuộc tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử dân tộc đã thành công tốt đẹp với hơn 90% cử tri đi bỏ phiếu, ba trăm ba mươi ba đại biểu trúng cử. Quốc hội họp phiên đầu tiên đã nhất trí bầu Chủ tịch Hồ chí Minh làm chủ tịch Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Đây là chính phủ hợp hiến đầu tiên do đại biểu của nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết mọi vấn đề nội trị và ngoại giao của Nhà nước Việt nam mới.

Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ chí Minh, một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh là nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Trong một nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật luôn đi đôi với nhau, nương tưạ vào nhau mới đảm bảo được chính quyền trở nên mạnh mẽ. Trong Việt nam yêu cầu ca, Người đã khẵng định vai trò của pháp luật bằng câu: Trăm điều phải có thần linh pháp quyền.

Một mặt chăm lo hoàn thiện hiến pháp và hệ thống pháp luật của nước ta, mặt khác Người hết sức chăm lo đưa pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ chế đảm bảo cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành đó trong các cơ quan nhà nước và trong nhân dân.

Để pháp luật đi vào đời sống thì phải coi trọng việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực công dân, khuyến khích nhân dân tham gia vào công việc nhà nước, khắc phục mọi thứ dân chủ hình thức. Người thường nhắc nhở cán bộ phải lo “làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”. Đồng thời Người cũng thường xuyên nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật, mà trước hết là cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp phải nêu cao gương “phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” cho nhân dân noi theo.

Người thường không hài lòng trước việc pháp luật của ta không được thực hiện nghiêm minh, xét xử thiếu công bằng, thưởng có khi quá rộng mà phạt thì không nghiêm, lẫn lộn giữa công và tội. Có công thì được hưởng, có lỗi thì phải phạt, không vì công mà quên lỗi, vì lỗi mà quên công.

Để tiến tới một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh mẽ, chủ tịch Hồ chí Minh đã thấy rõ phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành nột đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, một tiêu chuẩn cơ bản cho người cầm cân nẩy mực cho công lý.

Cán bộ nhà nước phải biết quản lý nhà nước. Người quyết định đẩy mạnh việc đào tạo như mở trường huấn luyện cán bộ Việt nam, thành lập khoa pháp lý tại Trường đại học Việt nam. Một mặt mạnh dạn sử dụng những viên chức, quan lại đã được đào tạo về nghiệp vụ và kỷ thuật hành chính dưới chế độ cũ; mặt khác, Người đăng báo “tìm người tài đức”, kêu gọi ai có tài hãy ra giúp nước nhà.

Trong việc dùng cán bộ, Người nhắc nhở phải tẩy sạch óc bè phái, phải đảm bảo công bằng, dân chủ trong vấn đề tuyển dụng cán bộ nhà nước, Người ký sắc lệnh ban hành Quy chế công chức.

Khác với những cán bộ của các cơ quan dân cử, công chức theo chế độ chức nghiệp, vì vậy, phải trải qua một kỳ thi tuyển để bổ nhiệm vào các ngạch bậc hành chính. Nội dung thi tuyển yêu cầu khá toàn diện, bao gồm 6 môn thi: Chính trị - Kinh tế - Pháp luật - Địa lý - Lịch sử - Ngoại ngữ (tự nguyện).

Người dự thi tuyển phải qua một lớp huấn luyện để bổ túc học vấn. Tùy theo kết quả thi cử và năng lực, trình độ, phẩm chất của mỗi người mà sắp xếp vào ngạch bậc và bổ dụng theo thứ tự trên dưới.

Page 62: Khoi kien thuc 1

Đối với cán bộ, đặc biệt là cán bộ quản lý nhà nước, điều quan tâm thường xuyên của chủ tịch Hồ chí Minh vẫn là phẩm chất đạo đức và tinh thần phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc.

Đối với Hồ Chủ tịch, cán bộ quản lý nhà nước khó tránh khỏi xu hướng quan liêu hóa nên luôn luôn nhắc nhở họ phải thân dân, gần dân, trọng dân, không được lên mặt “quan cách mạng” với dân, phải lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Kể từ sau cách mạng tháng tám thành công, chính quyền về tay nhân dân đến nay đã qua mấy chục năm xây dựng và đổi mới phương thức tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, tuy nội dung và nhiệm vụ của nhà nước có khác nhau, song về bản chất vẫn là nhà nước của dân, do dân và vì dân, được xây dựng trên những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh.

Ngày nay với công cuộc đổi mới, từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, trong điều kiện mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, làm ăn với nước ngoài...đã có sự thay đổi rất nhiều, từ nội dung nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động, cho đến yêu cầu về phẩm chất năng lực của con người vận hành bộ máy nhà nước.

Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994), Đảng ta đã xác định nhiệm vụ và phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Vận dụng tư tưởng Hồ chí Minh, liên hệ với tình hình hiện nay, có thể thấy nỗi lên mấy vấn đề cấp bách cần tập trung giải quyết để không ngừng hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.

- Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.

Chính khát vọng dân chủ đã tạo nên sức mạnh kiên cường đấu tranh cho độc lập, tự do. Trong điều kiện khó khăn phức tạp của tình hình đất nước hiện nay thì mở rộng dân chủ là một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết để khai thác sức mạnh vô tận của nhân dân ta trong sự nghiệp đổi mới, mở cửa. Thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn. Qua thực tế hơn 15 năm đổi mới, Đảng ta đã chỉ ra rằng nơi nào thực hiện được dân chủ, phát huy được trí tuệ của đông đảo cán bộ và nhân dân thì nhất định thành công. Ngược lại, nơi nào để mất dân chủ, gây ra sự bất mãn trong quần chúng thì nơi đó không tránh khỏi khó khăn và dẫn tới những hậu quả đáng tiếc. Phát huy dân chủ phải kết hợp với tăng cường pháp chế, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật, đảm bảo cho mỗi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được xét xử nghiêm minh, đúng người, đúng tội, không phân biệt người đó là ai, để đem lại niềm tin cho nhân dân vào tính nghiêm minh của pháp luật của nhà nước ta.

- Cải cách và kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh.

Hiện nay nền hành chính của ta còn nhiều yếu kém: quan liêu, xa dân, xa cơ sở, phân tán, thiếu trật tự kỷ cương, nạn tham nhũng và lãng phí của công, bộ máy cồng kềnh, nặng nề, kém hiệu lực, đội ngũ cán bộ, công chức còn yếu về kiến thức, năng lực, một bộ phận không nhỏ kém phẩm chất thậm chí hư hỏng.

Cải cách hành chính để có một nền hành chính dân chủ, trong sạch, phục vụ đắc lực nhân dân, giữ vững trật tự kỷ cương xã hội theo pháp luật. Nó phải phục vụ tận tụy, công tâm, đáp ứng yêu cầu hàng ngày về quyền lợi hợp pháp của nhân dân.

Cần phải làm cho đội ngũ cán bộ, viên chức quán triệt nhận thức: Nhà nước là một tổ chức công quyền thể hiện quyền lực của nhân dân, nhân viên nhà nước là công bộc của nhân dân.

- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước; gắn liền xây dựng, chỉnh đốn Đảng với cải cách bộ máy hành chính.

Những năm gần đây, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết về củng cố và tăng cường bộ máy nhà nước, đấu tranh chống các tệ nạn làm suy giảm uy tín và hiệu lực của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tham nhũng quan liêu, cửa quyền, trù dập, ức hiếp nhân dân... đang đòi hỏi Đảng ta một sự lãnh đạo tập trung hơn nữa, quyết tâm cao hơn, có kế hoạch và biện pháp triệt để hơn nữa. Cuộc đấu tranh để khắc phục những khuyết tật của bộ máy nhà nước không thể tách rời

Page 63: Khoi kien thuc 1

cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Để chỉnh đốn lại bộ máy nhà nước, Đảng phải tự chỉnh đốn, phải nêu gương về mặt trong sạch, vững mạnh. Đó là nhân tố cơ bản và then chốt. Chỉ có sự lãnh đạo của một Đảng trong sạch vững mạnh mới đưa cải cách bộ máy nhà nước đi đến thành công.

Tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn soi sáng cho chúng ta xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân hôm nay.

Câu 14. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu của cách mạng Việt nam nghĩa đồng thời cũng là nội dung cốt lỏi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy sau thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước theo con đường CNXH là sự phát triển tất yếu của cách mạng Việt nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội có nguồn gốc sâu xa từ chủ yêu nước, truyền thống nhân ái và tinh thần cộng đồng làng xã Việt nam, được hình thành từ lâu đời trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, kết hợp với những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội khoa học.

Chúng ta có thể khái quát những nét đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và con người.

- CNXH là một chế độ do nhân dân làm chủ. Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng CNXH.

- CNXH có một nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.

- CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú.

- CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng, các dân tộc đều bình đẳng.

- CNXH là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Theo Hồ Chí Minh, CNXH là một chế độ xã hội ưu việt nhất trong lịch sử, một xã hội tự do và nhân đạo, phản ánh được khát vọng thiết tha của loài người. Người nói: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do độc lập cũng không làm gì”.

Những đặc trưng bản chất của CNXH theo tư tưởng Hồ Chí Minh sau khi được nhận thức đều trở thành những mục tiêu cơ bản cần đạt tới trong quá trình xây dựng và hoàn thiện chủ nghĩa xã hội ở Việt nam.

Chế độ chính trị mà chúng ta xây dựng là chế độ do nhân dân làm chủ. Nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo

Nền kinh tế mà chúng ta xây dựng là một nền kinh tế với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải được tạo dựng trên cơ sở chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu. Tuy nhiên trong TKQĐ, nền kinh đó còn tồn tại bốn hình thức sở hữu chính:

- Sở hữu nhà nước tức là của toàn dân.- Sở hữu của hợp tác xã tức sở hữu tập thể của nhân dân lao động.

Page 64: Khoi kien thuc 1

- Sở hữu của người lao động riêng lẻ.- Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản. Về văn hóa: Hồ chí Minh rất coi trọng vai trò của tư tưởng, văn hóa, đạo đức lối sống.... Nền

văn hóa mà đảng ta và Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng là một nền văn hóa lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở, văn hóa phải sữa đổi được tham những, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ độc lập tự do. Nói như Bác là văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.

Về quan hệ xã hội: xã hội mà chúng ta xây dựng là một xã hội công bằng dân chủ, có quan hệ tốt đẹp giữa người với người. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Hồ chí Minh đặt lên hàng đầu mục tiêu xây dựng con người.

Con người xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của Hồ chí Minh phải là con người có tinh thần và năng lực làm chủ; có đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, có kiến thức khoa học kỹ thuật, nhạy bén với cái mới, có tinh thần sáng tạo, dám nghĩ dám làm... Đó là nguồn lực quan trọng nhất để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Để hoàn thành mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, điều quan trọng theo Hồ Chí Minh là phải nhận thức, vận dụng và phát huy tất cả các động lực của chủ nghĩa xã hội đồng thời phải biết triệt tiêu những trở lực.

Hệ thống động lực trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú. Xét đến cùng, các động lực muốn phát huy được tác dụng đều phải thông qua con người, do đó, bao trùm tất cả vẫn là động lực con người, con người trên cả hai bình diện: cộng đồng và cá nhân.

- Phát huy sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc- động lực chủ yếu để phát triển đất nước.

Theo Hồ Chí Minh để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, phải ra sức phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, bởi xây dựng chủ nghĩa xã hội không phải chỉ là vấn đề giai cấp mà còn là vấn đề dân tộc, không phải là sự nghiệp riêng của công nông mà là sự nghiệp chung của toàn dân tộc.

- Phát huy sức mạnh của con người với tư cách cá nhân người lao động.+ Tác động vào nhu cầu và lợi ích của con người.Trong đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã huy động được sức mạnh lý tưởng như

tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc... cũng như đem lại lợi ích vật chất như ruộng đất, cơm áo... cho cả cộng đồng và mỗi cá nhân. Đi vào chủ nghĩa xã hội theo Người cũng phải biết kích thích những động lực mới, đó là lợi ích cá nhân chính đáng của người lao động.

+ Tác động vào động lực chính trị tinh thần.- Phát huy quyền làm chủ và ý thức làm chủ của người lao động.Theo Người nếu quần chúng thật sự có quyền dân chủ, cán bộ đảng viên xung phong gương

mẫu thì mọi kế hoạch sản xuất sẽ thục hiện thắng lợi. Nói cách khác là phải thực hành dân chủ, Người coi đó là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn.

- Thực hiện công bằng xã hội: Người nhắc nhở trong công tác phân phối lưu thông có hai điều luôn luôn nhớ:

Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng.Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên.Công bằng, theo Hồ chí Minh không phải là cào bằng một cách bình quân, giỏi kém như nhau

làm triệt tiêu mất động lực kinh tế, xã hội.+ Sử dụng vai trò điều chỉnh của các nhân tố tinh thần khác: chính trị, văn hóa đạo đức pháp

luật để tác động vào tính tích cực của con người.Để xây dựng chủ nghĩa xã hội đồng thời với việc phát huy động lực thì phải triệt tiêu các trở

lực. Người yêu cầu:+ Phải đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Người cho rằng chủ nghĩa cá nhân là kẻ địch hung

ác của chủ nghĩa xã hội, người cách mạng phải tiêu diệt nó.+ Phải đấu tranh chống tham ô lãng phí, quan liêu vì nó là bạn đồng minh của phong kiến, nó

phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính.

Page 65: Khoi kien thuc 1

+ Phải chống chia rẽ bè phái, mất đoàn kết, vô kỷ luật vì những hành động ấy làm giảm uy tín và ngăn trở bước tiến của cách mạng.

+ Phải chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng không chịu học tập cái mới...Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hộiHồ Chí Minh đã chỉ ra đặc điểm to lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm đó đã đặt ra hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiển mà chúng ta cần

nhận thức và giải đáp một cách đúng đắn để tìm ra con đường với những hình thức bước đi và cách làm phù hợp với đặc điểm Việt nam.

Về độ dài của thời kỳ quá độ, lúc đầu dựa theo kinh nghiệm của Liên xô và Trung quốc, Hồ Chí Minh cũng dự đoán chắc sẽ đòi hỏi ba, bốn kế hoạch dài hạn, nếu nhân dân ta cố gắng thì có thể rút ngắn hơn. Nhưng chỉ sau đó ít lâu đã được Người điều chỉnh lại. Người nói: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”.

Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ. Người chỉ rỏ là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỷ thuật của chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến.

Về nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi CNXH ở Việt nam, Người chỉ rõ:Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước.Phát huy tính tích cực chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội.Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức tài đáp ứng yêu cầu của cách mạng.Về bước đi và phương thức, biện pháp. Người cho rằng ta xây dựng CNXH từ hai bàn tay

trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều và lâu dài, phải làm dần không thể một sớm một chiều, phải đi nhiều bước đi bước nào vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần.

Về phương pháp, biện pháp và cách thức tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt nam, Người luôn nhắc nhở phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ sáng tạo, chống giáo điều, rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài, phải suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo ra cách làm phù hợp với thực tiển Việt nam.

Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã mở ra một bước chuyển biến cơ bản cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những thành tựu và kết quả đạt được sau gần 30 năm đổi mới đã khẳng định đường lối, chính sách đổi mới của Đảng ta là đúng đắn và đang tiếp tục phát huy. Để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Đảng ta đang kiên trì vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm giải quyết tốt các vấn đề sau:

- Trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Độc lập dân tộc và CNXH là mục tiêu bất biến mà nhân dân ta đã kiên trì phấn đấu suốt hơn 80 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trải qua gần 100 năm dưới chế độ thực dân, nửa phong kiến, nhân dân ta bị kìm hãm trong vòng nghèo đói, lạc hậu, đời sống vật chất và văn hóa rất thấp kém. Muốn biến đổi tình hình nghèo nàn, lạc hậu ấy, sau khi giành lại độc lập dân tộc, chúng ta không còn con đường nào khác là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thực hiện được ham muốn tột bật của Bác Hồ và cũng là mong muốn nghìn đời của nhân dân ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc.

- Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do đó cần phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là nguồn lực nội sinh, để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Page 66: Khoi kien thuc 1

CNH,HĐH đất nước là một yêu cầu có tính quy luật đối với các nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên CNXH chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.

Để CNH,HĐH thành công ta cần phát huy tất cả các nguồn lực bên trong và bên ngoài nhưng chủ yếu lấy nguồn lực bên trong làm gốc, có phát huy mạnh mẽ nguồn lực trong nước mới sử dụng tốt, có hiệu quả nguồn lực bên ngoài. Phải quán triệt sâu sắc quan điểm Hồ Chí Minh chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng, phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân. Muốn khơi dậy nguồn nội lực mạnh mẽ của dân thì phải phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân, tạo không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội. Đồng thời phải nhất quán thực hiện chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, trên cơ sở lấy liên minh công nhân nông dân, trí thức làm nòng cốt, tranh thủ sự đóng góp, ủng hộ của tất cả những ai tán thành đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.

- Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.Công cuộc đổi mới của nhân dân ta diễn ra vào lúc cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên

thế giới đang phát triển mạnh, xu thế toàn cầu hóa đang ảnh hưởng đến nhịp độ phát triển và cuộc sống của các dân tộc. Chúng ta phải tranh thủ tối đa mọi cơ hội tốt, phát huy hiệu lực và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phải có cơ chế, chính sách để thu hút vốn đầu tư, điều chỉnh cơ cấu đầu tư nhằm khai thác và sử dụng tốt nhất các nguồn lực bên ngoài, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Giao lưu hội nhập đồng thời phải không ngừng trau dồi bản lãnh và bản sắc văn hóa dân tộc. Chỉ có bản lãnh và bản sắc dân tộc sâu sắc, mới tạo ra bộ lọc tốt để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời có sức đề kháng tốt để chống lại mọi yếu tố văn hóa độc hại từ bên ngoài tràn vào.

- Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, thực hiện cần kiệm xây dựng CNXH.

Để phát huy được quyền làm chủ của nhân dân, trước hết cán bộ Đảng và Nhà nước phải trong sạch, liêm khiết, phải thực sự là người đầy tớ trung thành và tận tụy với dân như Bác Hồ mong muốn. Phải không ngừng chăm lo tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân, phải quyết tâm làm trong sạch bộ máy Nhà nước, loại trừ những phần tử thoái hóa biến chất, làm cho Nhà nước ta thật sự là của dân, do dân vì dân. Chính tệ quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ, tác phong hách dich, cửa quyền, lối sống xa hoa, lãng phí, thiếu đạo đức... của một bộ phận cán bộ có chức có quyền đã gây nên những vụ bất bình trong dân, làm giảm sút niềm tin của quần chúng vào chủ nghĩa xã hội. Hiện nay nước ta còn rất nghèo vì vậy phải thực hành tiết kiệm vì tiết kiệm không chỉ là một nếp sống đạo đức mà là một chính sách kinh tế, là vấn đề chính trị. Phải làm cho khẩu hiệu “cần kiệm xây dựng nước nhà” của Hồ Chí Minh đi vào đời sống, trở thành một nét đẹp văn hóa của người Việt nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam thật sự là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho sự nghiệp đổi mới của chúng ta hiện nay. Vấn đề là phải tiếp tục quán triệt tư tưởng ấy trong cơ chế chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước, trong tổ chức và hành động của mỗi cán bộ đảng viên. Chỉ có bằng hiệu quả thực tế trong công cuộc đổi mới, đem lại sự cải thiện vật chất và tinh thần cho nhân dân mới củng cố được niềm tin của quần chúng đối với con đường chủ nghĩa xã hội mà Bác Hồ đã chọn.

Page 67: Khoi kien thuc 1

Câu 15. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực và con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Ngày nay, việc vận dụng những luận điểm trên trong công cuộc đổi mới đất nước ta như thế nào?

Định hướng cách mạng Việt Nam đã được khẳng định ngay từ nhg năm đầu của thế kỷ XX khi Nguyễn Ái Quốc tìm thấy con đường giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là mục tiêu của cách mạng Việt Nam đồng thời cũng là nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, sau thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước theo con đường của CNXH là logic phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam.

CNXH là công trình tập thể của nhdân, do nhdân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng. Theo Hồ Chí Minh, CNXH là 1 xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, đạo đức và văn minh; 1 chế độ xã hội ưu việt nhất trong lịch sử, 1 xã hội tự do và nhân đạo, phản anhs được khát vọng tha thiết của loài người.

1. Mục tiêu CNXHNhững đặc trưng bản chất của CNXH theo Hồ Chí Minh sau khi đưọc nhận thức đều trở thành

những mục tiêu cơ bản cần đạt đến trong quá trình xây dựng và hoàn thiện CNXH ở Việt Nam.a. Chế độ chính trị mà chúng ta xây dựng là chế độ do nhân dân làm chủ. Người nói: nhà nước

của ta là nhà nước dân chủ nhdân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do gcấp công nhân lãnh đạo. Nhdân thực hiện sự lãnh đạo của mình chủ yếu bằng nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Người yêu cầu: nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sáng tạo của nhdân, làm cho mọi người công dân VN thực sự tham gia quản lý công việc nhà nước, ra sức xây dựng CNXH.

Mặt khác, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh mối quan hệ giữa quyền làm chủ với nghĩa vụ và tính năng động của người làm chủ, đó làm mọi công dân trong xã hội đều có nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc, tôn trọng và chấp hành pháp luật, tôn trọng, bảo vệ của công, có nghĩa vụ học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt để xứng đáng vai trò người chủ.

b. Nền kinh tế mà chúng ta xây dựng là một nền kinh tế XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến và trên cơ sở kinh tế XHCN ngày càng phát triển, cách bóc lột theo CNTB được xóa bỏ dần, đời sống vật chất và văn hóa của nhdân ngày càng được cải thiện.

Nền kinh tế XHCN phải được tạo lập trên cơ sở chế độ sở hữu công cộng về TLSX. Tuy nhiên ở thkỳ quá độ, nền kinh tế đó còn tồn tại các hình thức sở hữu chính bao gồm:

* Sở hữu nhà nước của toàn dân, sở hữu HTX của tập thể nhdân lao động, sở hữu riêng lẻ của người lao động và một ít TLSX thuộc sở hữu của nhà tư bản, trong đó kinh tế quốc doanh - sở hữu toàn dân - lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và nhà nước phải tạo điều kiện cho nó phát triển.

Page 68: Khoi kien thuc 1

c. CNXH gắn liền với nền văn hóa là giai đoạn phtriển cao hơn CNTB về mặt giải phóng con người khỏi sự áp bức, bóc lột. Theo Hồ Chí Minh, văn hóa - tư tưởng không phụ thuộc 1 cách máy móc vào điều kiện sinh hoạt vật chất, vào mức sống, mà có khi cách mạng tư tưởng - văn hoá phải đi trước 1 bước để dọn đường cho cách mạng công nghiệp.

d. Xã hội mà chúng ta xây dựng là 1 xã hội công bằng, dân chủ, có quan hệ tốt đẹp giữa người với người, các chính sách xã hội được quan tâm thực hiện, đạo đức, lối sống xã hội phát triển lành mạnh. Muốn xây dựng CNXH trước hết cần có con người XHCN. Theo Hồ Chí Minh, con người XHCN là con người có tinh thần cvà năng lực làm chủ; có đạo đức cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư; có kiến thức khoa học kỹ thuật, nhạy bén với cái mới; có tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm... Đó là nguồn lực quan trọng nhất để xây dựng thành công CNXH.

2. Động lực CNXH:Để hoàn thành mục tiêu CNXH, điều quan trong theo Hồ Chí Minh là phải nhận thức, vận

dụng và phát huy tất cả các động lực của CNXH, đó là tất cả nhg nhân tố góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội thông quan hoạt động của con người, đồng thời còn phải biết triệt tiêu những trở lực. Hệ thống động lực của CNXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú. Các động lực muốn phát huy tác dụng phải thông qua con người, do đó bao trùm lên tất cả là động lực con người trên cả 2 bình diện: cộng đồng và cá nhân, bao gồm:

a. Phát huy sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc - động lực chủ yếu để phtriển kinh tế

- Con người trên bình diện cộng đồng bao gồm tất ảc các tầng lớp nhdân, các tổ chức, đoàn thể, các dân tộc, tôn giáo, đồng bào trong và ngoài nước, ...trong đó, gcấp tư sản dân tộc cũng là 1 lực lượng tham gia xây dựng CNXH vì họ có xu hướng chống đế quốc, có lòng yêu nước.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần, của toàn xã hội”.

b. Phát huy sức mạnh của con người với tư cách cá nhân người lao độngSức mạnh công đồng được hình thành từ sức mạnh của cá nhân, thông qua sức mạnh của từng

cá nhân. Do đó, muốn phát huy được sức mạnh của công đồng thì phải tìm ra biện pháp khơi dậy, phát huy động lực của mỗi cá nhân.

c. Tác động vào nhu cầu và lợi ích của con ngườiLà nhà duy vật mác-xít, Hồ Chí Minh hiểu hành động của con người luôn luôn gắn liền với

nhu cầu và lợi ích của họ. Trong đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã huy động được sức mạnh lý tưởng cũng như đem lại lợi ích vật chất cho cả cộng đồng và mỗi cá nhân. Đi vào phát triển CNXH, phải biết kích thích nhg động lực mới, đó là lợi ích cá nhân chính đáng của người lao động.

d. Tác động vào các động lực chính trị - tinh thầnCác đòn bẩy kinh tế chưa phải là phương thuốc bách bệnh để giải quyết được tất cả, có những

lĩnh vực hoạt động xã hội - tinh thần đòi hỏi những hy sinh, thiệt thòi mà không lợi ích vật chất nào bù đắp được. Trong những hoàn cảnh khó khăn của cách mạng và kháng chiến khi các điều kiện vật chất còn thiếu, Hồ Chí Minh đề lên hàng đầu việc phát huy động lực chính trị - tinh thần của nhân dân.

e. Phát huy quyền làm chủ và ý thức làm chủ của người lao động, bao gồm quyền làm chủ sở hữu, làm chủ quá trình sản xuất và phân phối,...

Hồ Chí Minh gọi là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn. Người nhắc nhở phải quan tâm bồi dưỡng ý thức làm chủ, tâm lý làm chủ cho người lao động mới. Hồ Chí Minh cho rằng do thiếu công bằng và dân chủ mà dẫn tới hậu quả bùng nổ những xung đột xã hội. Công bằng theo Hồ Chí Minh, không phải là cào bằng 1 cách bình quân, giỏi kém như nhau, làm triệt tiêu động lực kinh tế, xã hội.

f. Sử dụng vai trò điều chỉnh của các nhân tó tinh thần khác: chính trị, văn hóa, đạo đức, pháp luật

- Trước hết là lý tưởng chính trị. Muốn xây dựng thành công CNXH, cần có ý thức giác ngộ XHCN cao, một lòng một dạ phấn đấu cho CNXH, thứ đến nhân loại đang bước vào kỷ nguyên văn

Page 69: Khoi kien thuc 1

minh trí tuệ trong đó khoa học - công nghệ phát triển như vũ bão, do đó phải phát triển dân trí, phải coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu và con người được giáo dục về đạo đức thì nhu cầu hưứong thượng lại àng cao, càng muốn theo đuổi những giá trị cao đẹp như chân lý, chính nghĩa, tự do, công bằng...

g. Khắc phục các trở lực kìm hãm sự phát triển của CNXHKhai thông những động lực phát triển của CNXH có hiệu quả, đồng thời phải nhận diện để

khắc phục nhg trở lực trong quá trình xây dựng CNXH. Hồ Chí Minh đã chỉ ra những căn bệnh có thể dẫn đến nguy cơ thoái hóa, biến chất của 1 đảng cầm quyền, đến sự an nguy của chế độ XHCN, Người yêu cầu:

- Phải đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là căn bệnh mẹ đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm.- Phải đấu tranh chống tham ô lãng phí, quan liêu vì nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí

của cán bộ ta, nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần kiệm, liêm chính...- Phải chống chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết, vô kỷ luật vì những hành động ấy làm giảm sút uy

tín và ngăn cản bước tiến cách mạng.- Phải chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng, không chịu học tập cái mới...Trong hệ thống các động lực của CNXH ngoài nhg nội dung trên, Hồ Chí Minh còn nói đến

vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực cơ chế chính sách của nhà nước, vai trò các tổ chức tahnhf viên khác trong hệ thống chính trị...

3. Thời kỳ quá độ:Theo quan điểm các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, có 2 con đường quá độ lên

CNXH: một con đường quá độ trực tiếp lên CNXH từ những nước TBCN phát triển cao, và một con đường phát triển ở nhữngg nước tiền TBCN, đó là quá độ gián tiếp lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin. Hồ Chí Minh đã chỉ ra 2 phương thức quá độ chủ yếu: phương thức quá độ trực tiếp và phương thức quá độ gián tiếp từ nghèo nàn lạc hậu tiền TBCN qua chế độ dân chủ nhân dân đi lên CNXH.

Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Sau năm 1954, miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ trong bối cảnh quốc tế tương đối thuận lợi. Về tình hình trong nước, ta phải tiến hành đồng thời 2 nhiệm vụ chiến lược, vừa có hoà bình, vừa có chiến tranh... nhưng bao trùm lên to nhất là đặc điểm từ một nước nông nghiệp lac hậu tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai đoạn phát triển TBCN. Đăc điểm này, bao gồm đây đủ nhg mâu thuẫn, khó khăn, phức tạp, chi phối toàn bộ tiến trình quá độ lên CNXH ở nước ta. Nó đặt ra hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn mà chgta cần nhận thức và giải đáp 1 cách đúng đắn để tìm ra con đường với những hình thức bước đi và cách làm phù hợp với đặc điểm của Việt Nam.

- Về độ dài của thời kỳ quá độ, Người nói: Xây dựng CNXH là 1 cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài. Chúng ta phải xây dựng 1 xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử của dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống thói quen ý nghĩ và thành kiến có gốc. Chúng ta phải thay đổi QHSX cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng QHSX mới... phải dần dần biến nước ta từ 1 nước nông nghiệp lạc hậu thành 1 nước công nghiệp.

- Về nhiệm vụ lịch sử của TKQĐ, Người chỉ rõ: … phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH, đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến,... cải tạo nền kinh tế cũ, xây dựng nền kinh tế mới mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài.

- Về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi CNXH ở Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải:+ Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.+ Nâng cao vai trò quản lý của nhà nước.+ Phát huy tính tích cực sáng tạo chủ đông của các tổ chức chtrị-xã hội.+ Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng XHCN.c. Về bước đi và phương thức, biện pháp xây dựng CNXH ở Việt Nam:- CNXH có mục tiêu, nguyên lý chung giống nhau nhưng mỗi nước có đặc diểm lịch sử cụ thể

khác nhau, nên phương thức, biện pháp, bước đi, cách làm... CNXH không giống nhau.

Page 70: Khoi kien thuc 1

- Về bước đi của thời kỳ quá độ, do vấn đề còn quá mới, Hồ Chí Minh chưa có điều kiện làm rõ nó sẽ gồm mấy chặng đường với nhg nội dung cho từng chặng, nhưng qua thực tế một số năm, Người đã chỉ rõ: Ta xây dựng CNXH từ hai bàn tay trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều và lâu dài, phải làm dần dần, không thể một sớm một chiều, ai nói dễ thì chủ quan và sẽ thất bại.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bước đi của thkỳ quá độ ở Việt Nam là phải qua nhiều bước, bước ngắn, bước dài tùy theo hoàn cảnh nhưng chớ ham làm mau, ham rầm rộ.. Đi bước nào chắc bước ấy, cứ tiến dần dần.

- Về phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành xây dựng CNXH ở Việt Nam, Người luôn nhắc nhở phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tao, chống giáo điều, rập khuôn... tạo ra cách làm phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, cụ thể:

* Ở miền Bắc phải kết hợp giữa 2 nhiệm vụ chiến lược: xây dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam.

* Khi giặc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, ta có khẩu hiệu: vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa chống Mỹ cứu nước, vừa xây dựng CNXH được thế giới coi là 1 kinh nghiệm sáng tạo của cách mạng Việt Nam.

* Xây dựng CNXH từ 1 nước nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá… phải kết hợp cải tạo với xây dựng trên tất cả các lĩnh vực mà xây dựng là chủ chốt và lâu dài.

* CNXH là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân, vì vậy, cách làm là đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân.

III. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường quá độ lên CNXH vào công cuộc đổi mới hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam là 1 hệ thống, bao gồm các luận điểm về bản chất, mục tiêu và động lực của CNXH, về tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ và các hình thức, biện pháp bước đi trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.

Ngày nay, chúng ta đang xây dựng và đổi mới CNXH trong một bối cảnh, điều kiện trong nước và quốc tế đã có nhiều thay đổi so với sinh thời của Hồ Chí Minh, tuy nhiên những luận điểm này của Người vẫn là cơ sở lý luận và phương pháp luận chỉ đạo chúng ta tiếp tục suy nghĩ, sáng tạo để tìm ra nhg hình thức, bước đi, cách làm trong tình hình mới. Những thành tựu đạt được trong 30 năm qua đã khẳng định đường lối, chính sách đổi mới của Đảng ta là đúng đắnvà đang tuếp tục phát huy. Để tận dụng thời cơ, vượt qua thử thách, tiếp tục đẩy mạnh công tác đổi mới, Đảng ta đang kiên trì vận dung tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm giải quyết tốt các vấn đề sau:

1. Trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh

ĐLDTộc và CNXH là mục tiêu bất biến mà nhdân ta đã kiên trì phấn đấu hy sinh, theo đuổi suốt hơn 80 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hồ Chí Minh đã dạy rằng: “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Chỉ có CNXH mới thực hiện được ham muốn tột bậc của Bác Hồ và cũng là mong muốn ngàn đời của nhân dân ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở để bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.

Ngày nay Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới nhằm mục tiêu Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh cũng chính là để hoàn thành mục tiêu lý tưởng của Hồ Chí Minh và của nhân dân ta trong hoàn cảnh mới. Đổi mới đối với chgta không bao giờ thay đổi mục tiêu. Dù rằng lợi dụng sự khủng hoảng, đổ vỡ của mô hình XHCN ở Liên xô và các nước Đông Âu, các thế lực thù địch ở bên ngoài cùng một số người dao động ở trong nước đã yêu cầu chúng ta phải từ bỏ sự lựa chọn con đường XHCN.

Tuy nhiên cũng phải thấy rằng xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN là 1 sự nghiệp khó khăn, phức tạp. Kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập...có mặt tích cực và mặt tiêu cực của nó, đó là thông qua các quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hóa nó kích thích sản xuất phát triển, làm cho đời sống kinh tế, con người trở nên năng động, nâng cao năng suất, hiệu quả... đồng thời cũng đẻ ra các tệ nạn buôn gian bán lận, lừa đảo, chạy theo đồng tiền, ma túy, tham nhũng, phân hóa giàu nghèo, thất nghiệp, làm tha hóa biến chất 1 số cán bộ, công chức có chức có quyền biến họ thành những phần tử

Page 71: Khoi kien thuc 1

phá hoại từ bên trong thành chỗ dựa cho những âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch bên ngoài.

Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể sử dụng các hình thức, phgtiện của CNTB nhằm phục vụ đắc lực cho CNXH mà không đi chệch hướng sang TBCN, làm sao cho tăng trưởng ktế luôn đi đôi với công bằng xã hội với sự lành mạnh về đạo đức, tinh thần. Điều này không có sẵn trong tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng Người đã chỉ cho ta phương hướng và phương pháp suy nghĩ để tìm ra những giải pháp hữu hiệu mà không đi chệch bản chất, mục tiêu của CNXH.

2. Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do đó, cần phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là nguồn lực nội sinh để thực hiện CNH, HĐH đất nước

CNH, HĐH là 1 yêu cầu có tính quy luật đối với các nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên CNXH chưa qua giai đoạn phát triển TBCN. Chúng ta phải tranh thủ thành tự của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, của điều kiện giao lưu hội nhập quốc tế đang mở rộng để nhanh chóng biến nước ta thành 1 nước công nghiệp hiện đại trong những thập niên đầu thế kỷ XXI.

Muốn CNH, HĐH thành công, chúng ta cần phát huy tất cả các nguồn lực bên trong và bên ngoài, trong đó nguồn lực bên trong làm gốc để phát huy nguồn lực bên ngoài. Phải quán triệt sâu sắc quan điểm của Hồ Chí Minh: CNXH là công trình tập thể của nhưng dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng, phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân.

Để vậy, chúng ta phải phát huy cao độ quyền làm chủ của người dân, tạo nên không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội. Muốn thế, phải nâng cao dân trí, bồi dưõng văn hóa chính trị, cung cấp thông tin đúng đắng cho dân, phải thưc hiện cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra tạo điều kiện cho người dân thạm gia giám sát công việc nhà nước; đồng thời thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.

3. Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đạiCông cuộc đổi mới của nhân dân ta diễn ra vào lúc cuộc cách mạng khoa học và công nghệ

trên thế giới đang phát triển mạnh, xu thế toàn cầu hóa đang ảnh hưởng đến nhịp độ phất triển và cuộc sống của các dân tộc. Chúng ta phải ra sức tranh thủ tối đa mọi cơ hội tốt do xu thế nói trên tạo ra, phát huy hiệu lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế với nhg chính sách, cơ cấu đầu tư nhằm thu hút tốt nhất các nguồn lực từ bên ngoài.

Tuy nhiên, nói chung không có khoản viện trợ lớn nào hoàn toàn vô tư, không kèm theo những điều kiện nhất định. Vì vậy, tranh thủ hợp tác phải đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần độc lập dân tộc; đồng thời phải không ngừng trau dồi bản lĩnh và bản sắc văn hóa dân tộc là bọ lọc tốt để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loạivà là sức đề kháng tốt để chống lại mọi yếu tó văn hóa độc hại từ bên ngoài.

4. Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy manh đấu tranh chống quan liêu tham nhũng, thực hiện cần kiệm xây dựng CNXH

Để phát huy quyền làm chủ của người dân, trước hết cán bộ Đảng và nhà nước là nhg người thừa hành công vụ phải trong sạch, liêm khiết, phải thực sự là ngwoif đầy tớ thật trung thành và tận tụy của người dân như Bác Hồ mong muốn. Dù Đảng và nhà nước có đường lối, chính sách đúng đắn, nhưng đội ngũ cán bộ thừa hành không tận tụy, mẫn cán, thạm nhũng, cửa quyền... thì chẵng những họ không làm cho đường lối chính sách đó đi vào cuộc sống xã hội mà có khi họ trở thành nguyên nhân trực tiếp gây nên nhg điểm nóng có thể dẫn đến bùng nổ xã hội. Vì vậy, bài học vô giá mà Hồ Chí Minh đã dày công giáo dục nhắc nhở chgta là phải không ngừng chăm lo tăng cưòng mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với dân, muốn thế phải quyết tâm làm trong sạch bộ máy nhà nước, loại trừ nhg phần tử thoái hóa biến chất, làm cho nhà nước ta thực sự là của dân, do dân, vì dân. Chính tệ quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ, tác phong hách dịch, cửa quyền, lối sống xa hoa, lãng phí, thiếu đạo đức của 1 bộ phận cán bộ, công chức có quyền đã gây nên những bất bình trong nhân dân, làm đổ vỡ niềm tin của quần chúng vào tương lai của CNXH.

Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa cũng đang kích thích lòng tham muốn vật chất và lối sống tiêu dùng trong 1 bộ phận cán bộ và nhân dân. Do vậy, tiết kiệm không chỉ là 1 nếp sống đạo đức mà còn là 1 chính sách ktế, phải làm cho khẩu hiệu Cần kiệm xây dựng nước nhà của Hồ Chí Minh đi vào cuộc sống, trở thành 1 nét đẹp của văn hóa Việt Nam.

Page 72: Khoi kien thuc 1

Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam thực sự là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho sự nghiệp đổi mới của chgta hiện nay. Vấn đề là phải tiếp tục quán triệt những tư tưởng ấy trong cơ chế, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước, trong tổ chức và hành động của mỗi cán bộ đảng viên. Chỉ có bằng hiệu quả thực tế trong đổi mới kinh tế và chính trị đem lại sự cải thiện vật chất và tinh thần cho nhân dân thì chúng ta mới củng cố được trong nhân dân niềm tin mà Hồ Chí Minh đã khẳng định: Con đường tiến tới CNXH của các dân tộc là con đường chung của thời đại, của lịch sử, không ai ngăn cản nổi.

CNXH trong bản chất của mình đã đề ra mục tiêu là triệt để giải phóng con người. Đặt con người vào vị trí trung tâm. Xã hội XHCN là một xã hội tạo ra mọi điều kiện để phát huy năng lực con người. Đó là mục tiêu cao nhất của mọi hoạt động ktế, chtrị, văn hoá, xã hội. Khẳng định mục đích của CNCS, Ănghen viết: “Đó là xã hội mà mỗi thành viên của nó có thể phát triển hoàn toàn tự do và phát huy hết tài năng, sức lực của mình, đồng thời không xâm phạm đến nhg điều kiện cơ bản của xã hội”.

CNXH hiện thực trong quá trình tồn tại đã đạt được nhg thành tựu to lớn, đó là đã giải phóng hàng tỷ người lao động thoát khỏi tình trạng bị áp bức bóc lột về giai cấp dân tộc, về vậth chất và tinh thần. Xây và thực hiện từng bước nền dân chủ XHCN trên các lĩnh vực chtrị, ktế, văn hoá, xã hội... Bước đầu đã có được sự cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhdân lao động. Tuy nhiên CNXH hiện nay đang lâm vào toái trào do mắc phải một số sai lầm trong quá trình vận dụng. Đây là khuyết điểm trong xu hướng đi lên, trong sự trưởng thành. Vì thế, cùng với quá trình đổi mới, vấn đề con người sẽ từng bước được giải quyết đúng với bản chất của chế độ xã hội XHCN.

1. Mục tiêu của cách mạng XHCN:Sau mấy thế kỷ tồn tại và phtriển, CNTB không thực hiện được đầy đủ điều mà gcấp TS hứa

hẹn trong buổi đầu của cuộc cách mạng tư sản là: Tự do-Bình đẳng-Bác ái. Đã vậy, nó còn đem lại tình trạng nhg người lao động bị áp bức, bóc lột nặng nề, sự phân hóa gcấp sâu sắc...

Vì vậy, các nhà sáng lập CNXH khoa học đã khẳng định mục tiêu cách mạng XHCN là giải phóng giai cấp bị áp bức, bóc lột, các đan tộc bị nô dịch, đồng thời giải phóng xã hội khỏi sự trì trệ để tiếp tục phát triển ngày càng tiến bộ, văn minh. Cách mạng XHCN được các ông đề cập trên lập trường của chủ nghĩa nhân đạo tiệt để nhằm giải phóng con người. Chủ nghĩa nhân đạo đặt vấn đề giải phóng con người không chỉ là vấn đề nhận thức mà còn là vấn đề chủ yếu là vấn đề thực tiễn cải tạo toàn diện và triệt để xã hội TBCN thành xã hội CSCN. Chỉ trong xã hội đó thì con người mới hoàn toàn đựoc giải phóng, bởi vì, về thực chất, xã hội đó là một thể liên hiệp “trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự tự do của tất cả mọi người”.

Tóm lại, ở giai đoạn thứ nhất, mục tiê của cách mạng XHCN là giành chính quyền về tay gcấp cgnhân và nhân dân lao động; tiếp đó, ở giai đoạn thứ hai, mục tiêu cách mạng XHCN là “xóa bỏ mọi chế độ người bóc lột người... nhằm đưa lại đời sống ấm no cho toàn dân”.

2. Động lực của cách mạng XHCN:Cách mạng XHCN nhằm giải phóng tất cả nhg người lao động và do chính nhg người lao động

thực hiện dưói sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính đảng của nó.Tiêu biểu cho phương thức sản xuất mới, giai cấp công nhân có hệ tư tưởng tiên tiến và lý luận

khoa học, cách mạng đồng thời là đại biểu cho lợi ích của tất cả nhg người lao động. Điều đó làm cho giai cấp công nhân trở thành động lực và là lực lượng lãnh đạo cách mạng. Về thực chất, cách mạng XHCN là sự thực thi một phương án tổ chức xã hội mới dưói sự lãnh đạo của gcấp cgnhân thông qua chính đảng của nó.

Cách mạng XHCN đáp ứng nguyện vọng nhu cầu cả gcấp nông dân mong muốn được giải phóng. Sự tham gia của giai cấp nông dân vào tiến trình cách mạng XHCN có ý nghĩa quan trọng đối với sự hiện thực hóa vai trò lãnh đạo của gcấp cgnhân và là một bảo đảm cho sự thắng lợi của cách mạng.

Tầng lớp trí thức không phải là một giai cấp và không bao giờ là đại biểu cho một PTSX riêng, càng không đại diện cho PTSX mới để lãnh đạo cách mạng XHCN. Nhưng trí thức là bộ phận tiêu biểu cho trí tuệ của đất nứơc, có nhiều khả năng để tiếp cận với nhg thành tựu của khoa học và công nghệ mới nhất của thời đại. Vì vậy, cách mạng XHCN không thể thiếu sự tham gia của trí thức. Việc giành chính quyền về tay những người lao động phụ thuộc một phần rất lớn vào việc giai cấp công

Page 73: Khoi kien thuc 1

nhân thông qua chính đảng của mình có thu hút được bộ phận trí thức đó đi theo cách mạng hay không và đây là một trong nhưng lực lượng có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng.

Cách mạng XHCN do phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội, cho nên mọi lực lượng tiến bộ trong xã hội được liên kết chặt chẽ đã tạo thành một động lực tổng hợp của cách mạng.

Sự xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng giữa các dân tộc bị áp bức cũng là một xu hướng khách quan và tạo thêm mọt động lực mạnh mẽ đưa cách mạng XHCN đến thắng lợi.

ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã xác định rõ trg thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN thì “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa với các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành kinh tế, của toàn xã hội”.

3. Thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam:Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã mở ra gđoạn mới trong lịch sử dân tộc ta. tổ quốc thống

nhất, cả nứoc hòa bình và đi vào xây dựng cuộc sống mới với nhg thuận lợi và khó khăn nhất định:+ Miền Bắc đã có trên 20 năm cải tạo xã hội cũ và từng bước xây dựng các mặt của xã hội

mới. Chg ta đang sống trong thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới mở đầu bằng cách mạng XHCN tháng Mười Nga, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ được triển khai trên toàn thế giới, sự giúp đỡ có hiệu quả về vật chất, tinh thần của các nước XHCN anh em cũng như sự cổ vũ cảu các phong trào đấu tranh của nhân dân tiến bộ trên thế giới... Sự kết hợp những nhân tố bên trong và bên ngoài đó tạo ra khả năng cho phép chúng ta bỏ qua chế độ TBCN để tiến lên CNXH. Song xã hội nước ta còn nhg khó khăn khác:

- Nền kinh tế nước ta chưa thoát khỏi tình trạng kém phát triển, chủ yếu là sản xuất nhỏ.- Miền Nam trước khi giải phóng đã đi vào quỹ đạo TBCN làm nảy sinh gcấp tư sản, tư tưởng

tư sản trong điều kiện một nước thuộc địa nửa phong kiến.- Khuynh hướng phtriển TBCN tồn tại trong hầu hết các nhân tố, nó thâm nhập và tồn tại ngay

trong hầu hết các yếu tố xã hội, chúng tạo hành khả năng khách quan cho sự phtriển của CNTB.Như vậy, xét trên nhiều phương diện, ở nước ta hiện nay có sự đan xen, thâm nhập lẫn nhau

của nhiều yếu tố và khuynh hướng khác nhau, đối lập nhau: Khuynh hướng TBCN và khuynh hướng XHCN. Trạng thái đó của xã hội được khái quát là “thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta” và sự liên hệ tác động qua lại giữa những khuynh hướng đối lập trên tạo thành bản chất của toàn bộ thkỳ quá độ ở nước ta.

Page 74: Khoi kien thuc 1

Câu 16: Có ý kiến cho rằng chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc duy nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo đồng chí đúng hay sai? Vì sao?

- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ta khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đó là sự tổng kết lịch sử, vạch rõ nguồn gốc sâu xa mọi thắng lợi của cách mạng nước ta trong thời gian qua, đồng thời chỉ rõ cơ sở lí luận và thực tiễn của sự nghiệp đổi mới. Có ý kiến cho rằng chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc duy nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhận định trên sai: vì hình thành tư tưởng Hố Chí Minh có nhiều nguồn gốc. Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ là một trong những nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.

- Trước hết cần hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh là gì? Trong báo cáo chính trị của ban chấp hành TW Đảng khóa VIII thông qua tại Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng năm 2001 ghi rõ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”.

- Theo định nghĩa thì nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh có nhiều yếu tố.Thứ nhất: Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thể hiện qua các giá trị căn

bản sau đây:+ Chủ nghĩa yêu nước là ý chí bất khuất, tự lực tự cường để dựng nước và giữ nước được hun

đúc qua hàng ngàn năm. Dân tộc và nhà nước ở nước ta hình thành sớm và không phải chỉ duy nhất là từ sự phân hóa giai cấp sâu sắc, mà căn bản là do nhu cầu của cuộc đấu tranh chống lại xâm lăng và yêu cầu sản xuất trước môi trường thiên nhiên nghiệt ngã mà tổ chức lại thành dân tộc, nhà nước. Trải qua hàng ngàn năm hun đúc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là giá trị tinh thần cao nhất của dân tộc ta, nhưng có đặc điểm sâu sắc là nó mang trong mình một giá trị kép: yêu nước - thương dân, thương dân - yêu nước. Vấn đề dân tộc, vì thế, gắn liền với vấn đề con người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống con người Việt Nam.

+ Từ đó, tinh thần cộng đồng, đoàn kết, ý thức dân chủ xuất hiện và được nuôi dưỡng trong quá trình dựng nước, giữ nước và trở thành giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. những giá trị này được biểu hiện trong kinh tế như trong chế độ ruộng đất công điền; về xã hội là vấn đề dân chủ và tự chủ trong tổ chức làng xã, xây dựng hương ước; trong văn hóa là sự tôn vinh các giá trị anh hùng, thờ phụng những người có công dựng nước, giữ nước, xây dựng làng xã, nghề nghiệp và trọng người hiền tài. Những giá trị tốt đẹp đó làm cho mối quan hệ Cá nhân - Gia đình - Làng - Nước trở nên bền chặt và nương tựa và nhau để tồn tại và phát triển. Nước mất dựa vào làng để khôi phục nước. từ liên kết Gia đình để giữ Lang, liên kết làng để giữ Nước. Các mối quan hệ đó có cơ sở kinh tế và theo đó là băn hóc, chính trị, đặc biệt thể hiện trong chính sách của Nhà nước, trong hương ước và tổ chức làng, xã. Con người cá nhân trong lịch sử Việt Nam quan hệ chặt chẽ với cộng đồng làng xã và dân tộc.

Page 75: Khoi kien thuc 1

+ Cùng với những truyền thống dũng cảm, càn cù, thông minh, sáng tạo trong lao động sản xuất, chiến đấu, dân tộc Việt Nam luôn rộng mở đón nhận những giá trị văn minh của nhân loại để bảo tồn dân tộc và phát triển đất nước. Thâu nhận cái hay để tồn tại và phát triển đã tạo ra và tư duy mở, mềm dẻo của con người Việt Nam.

Một dân tộc sau hàng ngàn năm là nô lệ, bị cưỡng bức đồng hóa về thể chất và tinh thần - giết đàn ông, đốt sách, nô dịch, đồng hóa về văn hóa, phong tục tập quán nhưng vẫn không khuất phục, kiên nhẫn chịu đựng và nuôi dưỡng ý thức độc lập dân tộc để rồi lại đứng lên giành lấy độc lập, xây dựng một quốc gia là sự thật lịch sử của dân tộc Việt Nam. Sức mạnh ấy là những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp.

Sức mạnh của văn hóc truyền thống đó với những giá trị căn bản nêu trên duy trì và tồn tại trong cơ sở kinh tế, hiện thân vào văn hóc và tổ chức xã hội của làng xã đã vượt qua một ngàn năm nô lệ của thời kì Bắc thuộc để bảo tồn được dân tộc với một nền văn hóc riêng và đã thành công trong xây dựng nhà nước độc lập vào thế kỉ X cũng như bảo vệ được nền độc lập của mình trước các cuộc xâm lăng của các thế lực phong kiến phương Bắc ở những thế kỉ sau đó.

Chính chủ nghĩa yêu nước - nhân văn Việt Nam là cội nguồn, là giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, là điểm xuất phát, là động lực lên đường cứu nước và là bộ lọc các học thuyết để Hồ Chí Minh lựa chọn và tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại mà đỉnh cao của nó là chủ nghĩa Mác-Lênin. Người nói: “Lúc đầu, chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.

Thứ hai: Tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây:Phật giáo vào Việt Nam từ đầu thiên niên kỉ thứ nhất và có ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa Việt

Nam. Đặc biệt là ở thời kì đầu xây dựng nhà nước độc lập của nhà Lý, Trần, Phật giáo được coi như là quốc giáo và cũng đã có nhiều đóng góp vào công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hình thành nên những nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam với chủ trương gắn bó với dân tộc và đất nước.

Những tư tưởng căn bản của Phật giáo ảnh hưởng tích cực tới văn hóa Việt Nam là tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân; nếp sống có đạo đức, trong sạch giản dị, chăm lo làm điều thiện… Vì vậy, Phật giáo đã ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành và phát triển của văn hóa, tư tưởng và lối sống Việt Nam.

Nho giáo trung Hoa và Việt nam do nhu cầu của sự thống trị nhưng trong quá trình đó đã được Việt hóa thành Nho giáo Việt Nam, thể hiện những giá trị về lòng yêu nước, thương dân, nhân văn, dung hòa con người các nhân với cộng đồng trên lợi ích cá nhân, gắn lợi ích của cá nhân với lợi ích của dân tộc. Nho giáo Việt nam lấy yêu nước - nhân văn Việt Nam là đạo lý làm người. Trong điều kiện lịch sử của dân tộc, Nho giáo Việt nam đã đáp ứng yêu cầu của dân tộc trong dựng nước, giữ nước, xây dựng đất nước cũng như trong xây dựng gia đình và con người.

Nho giáo Trung Hoa đặt mối liên hệ vua - tôi ở vị trí cao nhất. Nho giáo Việt Nam cũng nhấn mạnh vấn đề náy nhưng đòi hỏi nhà vua trước hết phải trung thành với Tổ quốc, nhân hậu với nhân dân, cũng phải lấy tu thân làm gốc. ca ngợi vua hiền quan tâm đến dân chúng và ủng hộ việc gạt bỏ những ông vua bất lực để lập nên nhưng triều đại mới quan tâm tới đất nước và nhân dân là nội dung tích cực của Nho giáo Việt Nam.

Bên cạnh đó, những yếu tố tích cực của Nho giáo như triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp đời; tư tưởng về một xã hội bình trị, an ninh hòa mục, thế giới đại đồng; triết lý nhân sinh tu thân, dưỡng tính… cũng được việt hóa thành các giá trị văn hóa Việt Nam, phù hợp với các giá trị gốc của dân tộc.

Những tác động tích cực của Phật giáo và Nho giáo Việt Nam đã tác động tới Hồ Chí Minh ngay từ khi còn nhỏ ở trong môi trường van hóa Việt của làng xã Việt Nam và dưới sự dạy bảo của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.

Sau này, trở thành nhà cộng sản, Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục tìm hiểu văn hóa phương Đông, đặc biệt là những trào lưu tư tưởng mới ở Ấn Độ và Trung Hoa mà điển hình là chủ nghĩa Găngđi và chủ nghĩa nhân dân Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh đã tìm thấy trong chủ nghĩa nhân dân của Tôn Trung Sơn “những điều thích hợp cho điều kiện nước ta” - đó là dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc mà sau này, người đã đưa vào đó nội dung xã hội chủ nghĩa thành tiêu chí độc lập - tự do - hạnh phúc.

Page 76: Khoi kien thuc 1

Khi học ở Huế, những tư tưởng tiến bộ của cách mạng Pháp “tự do, bình đẳng, bác ái” đã ảnh hưởng mạnh đến Hồ Chí Minh và là một trong những yếu tố tác động mạnh đến hướng đi tìm đường cứu nước của người. Ba mươi năm sống, học tập, lao động, học tập làm trong môi trường văn hóa phương Tây, Hồ Chí Minh đã có điều kiện tìm hiểu, nghiên cứu và trực tiếp trải nghiệm các hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội ở đây. Người đã trực tiếp tìm hiểu tư tưởng dân chủ của các nhà khai sáng (Vônte, Rútxô, Môngtétxkiơ…) qua các tác phẩm của họ. Người đã tới Pháp, Mỹ, Anh và trực tiếp khảo sát mọi mặt tại những nơi khơi nguồn cho ba cuộc cách mạng tư sản điển hình trên thế giới. Tư tưởng cách mạng tiến bộ của các cuộc cách mạng này đã tác động mạnh mẽ tới Hồ Chí Minh. Đó là những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa dân tộc và nhân văn trong cách mạng tư sản Mỹ và Pháp với quyền dân tộc, quyền con người và tư tưởng dân chủ mà nội dung của nó là Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Đây là những điểm mới về tư tưởng trong tinh hoa văn hóa phương tây đã tác động mạnh mẽ đến suy nghĩ, hành động và tư tưởng của Hồ Chí Minh.

Sống trong môi trường dân chủ và thông qua các hoạt động dân chủ trong làm việc, sinh hoạt và các tổ chức lao động, xã hội và chính trị oqr phương Tây. Hồ Chí Minh đã học được cách làm việc dân chủ là hình thành phong cách dân chủ ở người.

Thứ ba: Chủ nghĩa Mác-LêninVới hành trang giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dana tộc (chủ yếu là chủ nghĩa yêu

nước - nhân văn với những giá trị về giải phóng dân tộc và con người) để so sánh, đối chiếu, chọn lọc và tiếp thu giá trị văn hóa đương đại của nhân loại và trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh đã có điều kiện đến và thâu nhận một cách tự nhiên, về cả lý trí và tình cảm, học thuyết giải phóng con người triệt để nhất của thời đại là chủ nghĩa Mác-Lênin. Tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã từ một người yêu nước trở thành người cộng sản khi trở thành người tham gia sáng lập Đảng Cộng Sản Pháp.

Với thế giới quan và phương pháp luận mácxít, Hồ Chí Minh có sự chuyển biến về chất tư tưởng cách mạng của mình để có thể tiếp tục hấp thụ và chuyển hóa được những giá trị tích cực và tiến bộ của truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, giúp cho Người tổng kết thực tiễn, đúc rút lý luận và hình thành nên một hệ thống những quan điểm cơ bản về cách mạng Việt Nam, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Vì vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin chính là một nguồn gốc lý luận, là cơ sở chủ yếu nhất hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại mới.

Trên cơ sở năng lực trí tuệ cao và được trang bị những giá trị văn hóa tinh túy của dân tộc và nhân loại mà cơ bản là vấn đề độc lập cho dân tộc tự do, hạnh phúc cho nhân dân, Hồ Chí Minh đã thâu nhận và đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin một cách tự nhiên. Đến với chủ nghĩa Mác từ đòi hỏi của thực tiễn giải phóng dân tộc và con người Việt Nam, từ nhu cầu chung của nhân loại về quyền dân tộc, quyền con người, Hồ Chí Minh đã vận dụng lập trường quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để nghiên cứu thực tiễn và tìm ra con đường cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Chính vì vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở làm cho Hồ Chí Minh vượt lên trước những nhà yêu nước đương thời, khắc phục được sự khủng khoảng về con đường tiến lên của dân tộc Việt Nam.

Như vậy, các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc được nâng lên tầm thế giới với việc thâu nhận tinh hoa của văn hóa nhân loại và chủ nghĩa Mác-Lênin đã hình thành và tạo ra bước phát triển mới phù hợp với tiến hóa của nhân loại trong thời đại mới của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Có thể nói về văn hóa, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa các giá trị tốt đẹp của cảu văn hóa dân tộc và nhân loại trên một trình độ mới về chất phù hợp với thời đại mới.

Thứ tư: Trí tuệ và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí MinhTại sao có nhiều người đi tìm đường cứu nước nhưng chỉ có Hồ Chí Minh mới nhận thức được

con đường mới và phù hợp với yêu cầu của dân tộc và xu thế phát triển của thời đại?Trước hết phải nói tới những phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh mà nổi bật là ý chí quyết

tâm của một người yêu nước, một chiến sĩ cộng sản với tấm lòng yêu nước, thương dân và đồng loại khổ đau, sẵn sàng hiến dâng cuộc đời cho dân tộc độc lập, cho tự do hạnh phúc của con người Việt Nam.

Đó là tài năng trí tuệ của Hồ Chí Minh mà biểu hiện trước hết ở sự kiên trì học tập tiếp thu vốn tri thức phong phú của dân tộc và nhân loại; là tư duy độc lập tự chủ trong tiếp thu, phê phán, chọn

Page 77: Khoi kien thuc 1

lọc các giá trị văn hóa dân tộc và nhân loại, trí tuệ của thời đại để trên cơ sở đó sáng tạo và phát triển thành những giá trị tư tưởng mới vì mục tiêu ĐL dân tộc và giải phóng triệt để con người.

Đó là năng lực hoạt động thực tiễn phong phú của Hồ Chí Minh đã giúp Người phân tích và rút ra được nhiều kết luận chính xác từ thực tiễn lịch sử của phong trào cách mạng thế giới và trong nước.

Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn và được hình thành từ các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại là đỉnh cao là chủ nghĩa Mác-Lênin thông qua hoạt động trí tuệ và thực tiễn của Người. Chính vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh thấm đậm sâu sắc các yếu tố dân tộc, nhân loại và thời đại.

Câu 17: Tại sao Đảng phải đổi mới, tự chỉnh đốn?Tại vì: Để xứng đáng là một Đảng chân chính lãnh đạo sự nghiệp cách mạng to lớn của giai

cấp và của dân tộc, một Đảng “vừa là đạo đức vừa là văn minh “một Đảng tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại, Đảng phải thường xuyên chăm lo đến việc chỉnh đốn và đổi mới bản thân mình. Chỉnh đốn và đổi mới Đảng là nhằm làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh cả về ba mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng .Đây chính là yêu cầu tự thân của một đảng chân chính cách mạng.

Hồ Chí Minh đã nhận định, bên cạnh số đông đảng viên xứng đáng với danh hiệu của mình thì vẫn có một số “thấp kém về tinh thần và đạo đức cách mạng… Họ hững hờ như những người không có lý tưởng, đến đâu hay đó, qua tháng qua ngày… Họ ít gắn bó với tổ chức, không tin vào lực lượng và trí tuệ của tập thể. Họ sống và làm việc một cách riêng rẽ, không đoàn kết và hợp tác với người khác. Hễ có đôi chút hiểu biết, đôi chút thành công thì tự cao tự đại, vênh vang kiêu ngạo, tự cho mình tài giỏi hơn người. Ở cương vị phụ trách thì tự cho mình có quyền hơn hết thảy, định đoạt mội việc; ở ngành nào, ở địa phương nào thì coi đó như một giang sơn riêng, không biết đến lợi ích toàn cục. Họ coi thường những quyết định của tổ chức, họ là những “ông quan liêu”, chỉ thích dùng mệnh lệnh đối với đồng chí và nhân dân… Số người đó coi Đảng như một cái cầu thang để thăng quan phát tài. Họ không quan tâm đến đời sông của nhân dân mà chỉ lo nghĩ đến lợi ích của riêng mình. Họ quên rằng, mỗi đồng tiền, hạt gạo đều là mồ hôi nước mắt của nhân dân, do đó mà sinh ra phô trương, lãng phí. Họ tự cho mình có quyền sống xo hoa hưởng lạc, từ đó mà đi đến tham ô, trụy lạc, thậm chí sa vào tội lỗi”. Phải chỉnh đốn để tẩy rửa tất cả những lỗi lầm, sai trái ấy.

Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, vì Đảng sống trong xã hội, mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu ảnh hưởng của xã hội, cả cái tốt lẫn cái xấu, cái hay và cái dở. Chỉ có thể phát huy được cái tốt, cái hay, loại bỏ được cái xấu, cái dở bằng việc rèn luyện thượng xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên, thường xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn Đảng.

Trước lúc đi xa, Người còn để lại những lời tâm huyết, căn dặn toàn Đảng: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phụ vụ nhân dân”.

Người đã nhìn thấy rất rõ hai mặt của quyền lực. Một mặt, quyền lực có sức mạnh rất to lớn để cải tạo cái cũ và xây dựng cái mới trong tất cả các lĩnh vực . Mặt khác, nó cũng có sức phá hoại rất ghê gớm, vì con người nắm quyền lực có thể thoái hóa biến chất rất nhanh chonhs, khi đã có đặc quyền đặc lợi dễ đi vào con đường ham muốn quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh giành quyền lực…Vì vậy, chỉnh đốn và đổi mới Đảng để hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi và tẩy rửa mọi tệ nạn do thái hóa biến chất gây ra.

Hồ Chí Minh đã nói: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Đó mãi là lời cảnh tỉnh có ý nghĩa rất sâu sắc đối với Đảng Cộng sản cầm quyền, đối với mỗi đảng viên cộng sản.

Page 78: Khoi kien thuc 1

Chúng ta thấm thía lời dạy của Bác “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu  mến và ca ngợi nếu lòng dạ không trong sáng, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.

Thực tế cho thấy trong những năm qua không ít cán bộ, đảng viên trong đó có những người giữ chức vụ cao, đã được rèn luyện thử thách trong hai cuộc kháng chiến, đã bị những “viên đạn bọc đường” của thời kinh tế thị trường đánh gục, họ đã không chịu đựng được sung sướng như Bác dạy. Bác đã đưa ra một luận điểm nổi tiếng: Muốn thức tỉnh một dân tộc, trước hết phải thức tỉnh thanh niên. Trong Di chúc Người nhắc lại: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”. Ngày nay thế hệ trẻ Việt Nam đang sống trong điều kiện kinh tế hết sức phức tạp của thời kỳ hội nhập và cơ chế thị trường, trước hết là về tư tưởng và lối sống. Nếu Đảng buông lơi sự giáo dục lý tưởng cách mạng, buông lơi định hướng chính trị cho thanh niên, những thế hệ nối tiếp sự nghiệp ông cha sẽ có nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể nói những điều mà Bác đã từng lo lắng, bức xúc, nhắc nhở, giáo dục chúng ta trong quá trình cách mạng cũng như trước lúc đi xa đã 40 năm về trước, nhưng chúng ta thực hiện chưa nghiêm túc và hiệu quả chưa cao. Chúng ta chưa làm tốt việc giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh trong cán bộ, đảng viên và toàn xã hội. Mới đây, Hội Nghị Trung ương Đảng lần thứ 9 - Khoá X (1/2009) vẫn nhận định: “Số đông cán bộ vẫn kiên định, giữ được phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, gần gũi với nhân dân. Tuy nhiên tình trạng suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ vẫn diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn và xử lý kịp thời. Tình trạng tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng diễn biến phức tạp, tình trạng nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ công chức gây bức xúc trong nhân dân”.

Ngoài xã hội môi trường đạo đức cũng bị huỷ hoại như tệ nạn ma tuý, mại dâm, tội phạm phát triển. Những chuyện tày trời như chồng giết vợ, mẹ giết con, con giết cha, người thân trong gia đình chém giết lẫn nhau, thanh thiếu niên phạm tội ngày càng nhiều, chứng tỏ gốc rễ đạo đức xã hội đang bị lung lay, các giá trị đạo đức nền tảng đang bị xói mòn. Vì vậy, một lần nữa chúng ta cần khẳng định: Việc giáo dục đạo đức, xây dựng lối sống tốt đẹp theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vừa là yêu cầu nhiệm vụ thường xuyên của sự nghiệp cách mạng, vừa là yêu cầu nhiệm vụ cấp bách hiện nay. Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương lần thứ khoá X là cách tốt nhất nhằm tiếp tục thực hiện Di chúc của Bác Hồ vô vàn kính yêu.

Page 79: Khoi kien thuc 1

Câu 18: Quan điểm của Hồ Chí Minh nhà nước kiểu mới. Trong tình hình hiện nay, làm thế nào để xây dựng, nâng cao hiệu lực pháp lý ở nước ta?

Nhà nước Cộng Hoà XHCN Việt Nam là nhà nước kiểu mới được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một nhà nước đại đoàn kết toàn dân, dựa trên nền tảng liên minh gcấp cgnhân với gcấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng CSVN lãnh đạo. Một nhà nước khác về chất so với nhà nước pháp quyền tư sản chứa đựng thuộc tính bất bình đẳng, áp bức, bất công.

Lúc sinh thời, Hồ Chí Minh từng khẳng định: Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích là vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, chính quyền từ xã đến chính phủ Trung ương đều do dân cử. ý tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân của Hồ Chí Minh được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng và nhà nước ta ở giai đoạn trước cũng như trong giai đoạn hiện nay.

A. Lý luận:

I. Nhà nước pháp quyền:

Qua nghiên cứu sự hình thành, phát triển và các quan điểm lý luận về nhà nước pháp quyền hiện nay, có thể xác định nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước do pháp luật quy định và thừa nhận tính tối cao của pháp luật; bao hàm việc xác định rõ ràng quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhdân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội, nhất là việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân.

Từ đó, có 4 tiêu chí chung của nhà nước pháp quyền như sau:

- Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước phải do pháp luật quy định.

- Nhà nước và công dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật (các đảng phái, tổ chức, tôn giáo,... phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật).

- Quyền lực Nhà nước được xác định gồm: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.

Page 80: Khoi kien thuc 1

- Có hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhdân để điều chỉnh nhg quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội, đặc biệt là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân.

Nhà nước pháp quyền, nói một cách khái quát là hệ thống các tưu tưuởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và đề cao quyền của con người, quyền của công dân. Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhdân, bảo đảm mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đó là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ các quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân, ngăn ngừa mọi sự tuỳ tiện lạm quyền từ phía cơ quan nhà nước và cán bộ, viên chức nhà nước, ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhà nước. Đó là nhà nước mà tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức, kể cả tổ chức Đảng đều phải hoạt động theo pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trwosc nhdân về các hoạt đông cảu mình. Mọi công dân đều có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật, phải sống và làm việc theo pháp luật.

Trên cơ sở các tiêu chí chung về nhà nước pháp quyền nhưng nhà nước pháp quyền XHCN khác với nhà nước pháp quyền tư sản ở chỗ:

- Bản chất và nội dung pháp luật về tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy của 2 nhà nước trong các quy phạm của hiến pháp và pháp luật về tổ chức, cơ cấu nhân sự, xây dựng, vận hành bộ máy quyền lực; sự thừa nhận quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân hay cá nhân...

- Bản chất pháp luật nhà nước pháp quyền là bảo vệ lợi ích cho người lao động hay gcấp tư sản

- Tổ chức, vận hành bộ máy quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập trung thống nhất có sự phân công, phối hợp hay hoàn toàn độc lập với nhau trong việc thực thi quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

- Tính chất pháp lý của các quy phạm pháp luật: côngnhận các quy phạm pháp luật khi nó được xác lập và thông qua theo một trình tưh, thủ tục nhất định hay là “án lệ’, “tập quán”.

II. Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý:

1. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước có pháp lý mạnh mẽ, trước hết phải là một nhà nước lập hiến

Sau khi giành được chính quyền trong cả nước, Hồ Chí Minh đã thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và thế giới về sự khai sinh của Nhà nước Việt Nam mới, qua đó biểu dương lực lượng và ý chí của toàn thể dân tộc Việt Nam quyết tâm giữ vững nền tự do, độc lập của mình.

Tiếp đó, ngày 03.09.1945, Hồ Chí Minh đề ra với chính phủ một trong 6 nhiệm vụ cấp bách là: Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đàu phiếu để sớm có một nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra.

Mặc dù với những khó khăn dồn dập do thù trong, giặc ngoài gây ra, cuộc Tổng tuyển cử trong cả nước đã được tiến hành chỉ 4 tháng sau ngày độc lập, ngày 02.03.1946, Quốc hội họp phiên đầu tiên và bầu Hồ Chí Minh làm chủ tịch chính phủ liên hiệp kháng chiến. Đây là chính phủ hợp hiến đầu tiên do đại biểu của nhdân bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết mọi vấn đề của nhà nước Việt Nam mới.

Page 81: Khoi kien thuc 1

2. Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh là nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Trong một nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật phải luôn luôn đi đôi với nhau, nương tựa vào nhau mới bảo đảm được cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Không thể có dân chủ ngoài pháp luật, pháp luật là bà đỡ của dân chủ. Mọi quyền dân chủ của người dân phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật và ngược lại hệ thống phluật phải bảo đảm cho quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế. Xây dựng một nền pháp chế XHCN đảm bảo được việc thực hiện quyền lực của nhdân là mối quan tâm suốt đời của Hồ Chí Minh. Điều này được thể hiện:

- Ngay từ năm 1919, khi đưa ra bản Yêu sách 8 điểm đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đòi thực dân Pháp phải cải cách nền pháp lý ở Đông Dương, phải bãi bỏ chế đọ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế bằng các đạo luật.

- Là người sáng lập nhà nước dân chủ mới Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng là người có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp. ở cương vị chủ tịch nước, Người đã hai lần đứng đầu Uỷ ban soạn thảo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, đã ký lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác...

- Một mặt chăm lo hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật của nước ta, mặt khác Người hết sức chăm lo đưa pháp luật vào đời sồng, tạo ra cơ chế bảo đảm pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành đó trong các cơ quan nhà nước và trong nhân dân. Theo Người, công bố luật chưa phải là mọi việc đã xong, phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt. Người rất coi trọng việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển ván hoá chính trị và tính tích cực công dân, khuyến khịc nhân dân tham gia vào các công việc nhà nước, khắc phục mọi thứ dân chủ hình thức. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh: Lúc dân biết và dám phê bình người lãnh đạo, lúc đó dân đã biết nắm quyền của dân, tức là đã đến mức dân chủ hóa khá cao.

- Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhdân phê bình, giám sát công việc của Chính phủ, đồng thời không ngừng nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật, trước hết là cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp.

3. Để tiến tới một nhà nước pháp quyền mạnh mẽ có hiệu lực, Hồ Chí Minh đã thấy rõ phải nhanh chóng đầo tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ cán bộ viên chức nhà nước có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần kiệm liêm chính chí công vô tư- một tiêu chuẩn cơ bản của người cầm cân nảy mực cho công lý. Để vậy, Hồ Chí Minh đã mở trường Huấn luyện cán bộ Việt Nam, thành lập khoa Pháp lý học tại trường Đại học Việt Nam; mạnh dạn sử dụng quan lại, viên chức thành thạo nghiệp vụ. kỹ thuật trong chế độ cũ, đăng báo tìm người tài đức để phục vụ nước nhà.

Trong việc dùng cán bộ, Người nhức nhở phải tẩy sạch óc bè phái, ban hành quy chế công chức. Các công chức theo chế độ chức nghiệp phải qua một kỳ thi tuyển để bổ nhiệm vào các ngạch, bậc hành chính.

Trong vấn đề cán bộ, đặc biệt với cán bộ quản lý nhà nước, điều quan tâm thường xuyên của Hồ Chí Minh vẫn là phẩm chất đạo đức và tinh thần phục vụ nhdân, phục vụ Tổ quốc, bởi thiếu điều cơ bản này thì dù có năng lực mấy cũng không sử dụng được.

B. Làm thế nào để xây dựng, nâng cao hiệu lực pháp lý... ở nước ta hiện nay:

* Thực trạng:

Page 82: Khoi kien thuc 1

- Về lĩnh vực hành pháp, dù Đảng và nhà nước đã có nhiều nỗ lực đổi mưói và cải cách nhưng tổ chức và hđộng của bộ máy hành chính nhà nước của nước ta còn bộc lộ không ít nhược điểm, còn nhiều mặt chưa theo kịp và đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.

Tổ chức hành pháp chưa thông suốt, còn nhièu hạn chế trong việc xử lý nhg mội liên kết dọc và ngang, thậm chí còn có hiện tượng cục bộ, bản vị. Chế độ phân cấp trách nhiệm còn thiếu rành mạch làm trầm trọng thêm tác phong làm việc quan liêu và dựa dẫm. Thẩm quyền và trách nhiệm cá nhân chưa được qui định chặt chẽ, phong cách làm việc và trách nhiệm trước dân của đội ngũ công chức, viên chức còn là vấn đề bức xúc.

- Về lĩnh vực tư pháp, nhìn chung, sự quan tâm cảu Đảng và NN đối với khâu này chưa ngang tầm về mặt tổ chức, cán bộ cũng như điều kiện của hệ thống tư pháp. Hạt động của các cơ quan tư pháp còn nhiều bất cập, sai sót.

* Nguyên nhân:

III. Giải pháp:

1. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế XHCN, đảm bảo thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân

Để vượt lên tình trạng thấp kém của nền kinh tế, rút ngắn khoảng cách về trình độ phtriển giữa nước ta với nhiều nước trên thế giới trong điều kiện cạnh tranh quốc tế quyết liệt hiện nay, chúng ta không có con đường nào khác là phải phát huy cao độ nội lực của dân tộc” mà một trong những nhân tố cơ bản làm nên nội lực đó là phát huy dân chủ.

Khi giành được chính quyền về tay nhdân thì quyền làm chủ thật sự của người dân là nội dung đích thực của độc lập, tự do. Khi chuyển sang hòa bình, xây dựng, trong điều kiện khó khăn phức tạp của tình hình đất nước hiện nay thì mở rộng dân chủ là một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết để khai thác được sức mạnh vô tận của nhdân ta trong sự nghiệp đổi mới, mở cửa, hội nhập với thế giới. Qua nhiều năm đổi mới, Đảng ta đã chỉ ra rằng: Nơi nào thực hiện được dân chủ, phát huy được trí tuệ của đông đảo cán bộ và nhdân thì nhất định thành công; ngược lại, nơi nào để mất dân chủ, gây ra sự bất mãn trong quần chúng thì nơi đó không tránh khỏi khó khăn và dẫn tới nhg hậu quả đáng tiếc.

Điều cần chú ý là trong tư duy Hồ Chí Minh về dân chủ thì dân chủ của ta phải là dân chủ thực sự. Nhiều lần Người nhắc đi nhắc lại hai chữ thực sự như là một thuộc tính cơ bản không thể thiếu của nền dân chủ chế độ ta mà nó vốn xa lạ với thứ dân chủ trừu tượng, dân chủ hình thức trong xã hội TBCN.

Để người dân hưởng quyền dân chủ trong thực tế, Hồ Chí Minh còn tạo điều kiện vật chất và tinh thần để người dân nâng cao năng lực làm chủ: nâng cao dân trí, bòi dưỡng văn hóa chính trị, phát triển tính tích cực công dân, mở mạng kinh tế, cải thiện đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, khuyến khích nhân dân tham gia giám sát công việc của các cơ quan nhà nước từ dưới lên trên.

- Phát huy dân chủ phải kết hợp chặt chẽ với tăng cường pháp chế, thhiện quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật. Nhà nước ta phải tiếp tục thể chế hóa bằng pháp luật các quyền dân chủ của người dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Đồng thời phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật, đảm bảo cho mỗi công dân đều được bình đẳng trước pháp luật, đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được xét xử nghiệm minh, đúng người đúng tội, không phân biệt người đó là ai, để đem lại niềm tin cho nhân dân vào tính nghiêm minh của pháp luật nhà nước ta.

Page 83: Khoi kien thuc 1

2. Cải cách và kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh:

Đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng, pháp luật của nhà nước là điều kiện tiên quyết, song nếu không có một nền hành chính mạnh, có hiệu lực thì chính sách, luật pháp dù đúng cũng không thể đi vào cuộc sống. Nền hành chính yếu kém là một trở lực lớn cho đổi mới và phát triển. Do đó, cải cách và kiện toàn bộ máy hành chính đang là một yêu cầu bức xúc. Một nền hành chính dân chủ trong sạch, phục vụ đắc lực nhân dân, giữ vững trật tự kỷ cương xã hội theo pháp luật. Nó phải phục vụ tận tuỵ, công tâm, đáp ứng yêu cầu hàng ngày về quyền lợi hợp pháp của nhdân. Muốn thế, bản thân nó phải trong sạch và có kỷ cương, phải thanh toán được nhg căn bệnh mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra như: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo...

Cải cách và kiện toan bộ máy hành chính là một quá trình lâu dài phải tiến hành đồng bộ trên nhiều mặt. Những vấn đề bức xúc nổi lên hiện nay thường biểu hiện tập trung ở các cơ quan hành chính hàng ngày có quan hệ tiếp xúc trực tiếp với nhdân. Cần phải làm cho đội ngũ cán bộ, công chức quán triệt nhận thức: Nhà nước là một tổ chức công quyền thể hiện quyền lực của nhân dân, nhân viên nhà nước là công bộc của nhdân. Để nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân, cần thiết phải:

- Cải cách thủ tục hành chính, ban hành và hoàn thiện chế độ công cụ.

- Đề cao trách nhiệm giải quyết khiếu kiện của nhdân, sao cho thủ tục khiếu kiện đơn giản, nhanh chóng, đúng pháp luật, không để nhdân phải tốn quá nhiều thời giờ, công sức đi lại do tình trạng đùn đẩy vòng vo.

- Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn, thực hiện tinh giản biên chế; xử lý nghiêm minh, kịp thời nhg người vi phạm pháp luật.

3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước; gắn liền xây dựng, chỉnh đốn Đảng với cải cách bộ máy hành chính

- Đảng ta là Đảng cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, nhà nước ta đã hoàn thành được nhiệm vụ lịch sử vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.

Những năm gần đây, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết về củng cố và tăng cường bộ máy nhà nước, đấu tranh chống các tệ nạn làm suy giảm uy tín và hiệu lực của nhà nước. Tuy nhiên, yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, trù dập, ức hiếp nhdân... đang đòi hỏi ở Đảng ta một sự lãnh đạo tập trung hơn nữa, quyết tâm cao hơn nữa, kế hoạch và biện pháp triệt để hơn nữa.

Cuộc đấu tranh để khắc phục nhg khuyết tật của bọ máy nhà nước không thể tách rời cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng. Đảng mạnh thì nhà nước mạnh. Không thể có một Đảng mạnh mà nhà nước và hệ thống hành chính của nó lại yếu kém. Để chỉnh đốn lại bộ máy nhà nước, khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, Đảng phải tự chỉnh đốn, phải nêu gương về mặt trong sạch, vững mạnh. Đó là nhân tố cơ bản và then chốt. Chỉ có một sự lãnh đạo của một Đảng trong sạch, vững mạnh mới đưa cải cách bộ máy nhà nước đi đến thành công.

Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân bảo đảm thực hiện quyền làm chủ cảu nhân dân là một cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp, vừa phải chống tư tưởng bảo thủ, vừa phải chống tư tưởng cực đoan và phải đi từng bước vững chắc, giữ vững ổn định chính trị. Với quyết tâm thực hiện CNH,HĐH đất nước trong nhg năm đầu của thế kỷ XXI vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; với sự lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm của Đảng CSVN, chúng

Page 84: Khoi kien thuc 1

ta tin tưởng nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân sẽ tiếp tục giành được những thành tựu mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN.

Câu 19: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc. Vận dụng nhận thức trong thực tiễn như thế nào để giữ vững và phát triển đất nước

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng XHCN; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.Trong hệ thống quan điểm đó, tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng thuộc địa trong thời đại đấu tranh đòi quyền bình đẳng, đòi độc lập tự do của các dân tộc bị áp bức.

Vấn đề dân tộc mà Hồ Chí Minh đề cập đến đây là vấn đề quốc gia chứ không phải là tộc người. Vấn đề dân tộc mà Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo, là vấn đề dân tộc thuộc địa, được đặt ra trong bối cảnh những thập niên đầu thứê kỷ XX, khi cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân bước vào thời kỳ mới, thời kỳ có chủ nghĩa Mác-Lênin soi đường, có thực tiễn cách mạng tháng Mười Nga.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng: Dân tộc là sản phẩm của quía trình phát triển lâu dài của lịch sử. Khi đề cập đến sự phát triển của các dân tộc, VI.Lênin đã nêu lên 2 xu hướng phát triển của vấn đề dan tộc trong điều kiện của CNTB:

Xu hướng thứ nhất là sự thức tỉnh của ý thức dân tộc, của phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc sẽ dẫn tới việc thành lập các quốc gia dân tộc độc lập.

Xu hướng thứ hai là với việc tăng cường và phát triển các mối quan hệ giữa các dân tộc sẽ dẫn tới việc phá hủy hàng rào ngăn cách dân tộc, thiết lập sự thống nhất quốc tế của CNTB, của đời sống kinh tế, chính trị, khoa học, ... nói chung. Tuy nhiên, Mác, Ăngghen, Lênin đều đề cập đến vấn đề dân tộc xuất phát từ các dân tộc tư sản, còn Hồ Chí Minh đứng ở vai rò là người dân của 1 nước thuộc địa. Người đã tiếp thu đầy đủ nhất truyền thống của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam mà lịch sử mấy ngàn năm kết đọng. Mặt khác, do nung nấu ý thức giãi phóng dân tộc, hiểu biết cụ thể về hoàn cảnh, nguyện vọng các dân tộc thuộc địa nên người dể dàng hấp thụ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, hơn nữa còn vận dụng sáng tạo và phát triển những quan điểm về vấn đề dân tộc trọng thực tiễn đấu

Page 85: Khoi kien thuc 1

tranh cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản được thể hiện trong mấy luận điểm cơ bản sau:

- Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc: Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thé kỷ XX, nhiều dân tộc Á, Phi, Mỹ La tinh dần dần rơi vào ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, từ đó đã tạo ra sự đối lập, bất bình đẳng lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Đó là sự bất bình đẳng giữa các dân tộc đi áp bức và các dân tộc bị áp bức. Các dân tộc đi áp bức gọi là các nước chính quốc, các dân tộc bị áp bức gọi là các dân tộc thuộc địa. Để che đậy dã tâm xâm lược và bóc lột, bọn thực dân cho rằng nhân loại có dân tộc thượng đẳng và dân tộc hạ đẳng. Cho nên các nước tư bản phương tây không phải đi xâm lược, nô dịch mà là “khai hóa văn minh” cho các dân tộc hạ đẳng, vì các dân tộc này không tự mình vươn lên được.

Riêng Hồ Chí Minh thấy được cội nguồn của mọi sự đau khổ của các dân tộc bị áp bức: Mất độc lập, sự bất bình đẳng lớn nhất của thời đại giữa các dân tộc áp bức và bị áp bức trên thế giới. Năm 1919, Hồ Chí Minh gửi đến hội nghị Véc xây yêu sách của nhân dân An Nam yêu cầu phe đồng minh thực hiện quyền tự do, dân chủ được giới hạn trong 8 điểm cho nhân dân An Nam. Tuy nhiên những yêu sách tối thiểu ấy không được phe đồng minh đáp ứng. Sau sự kiện ấy không lâu, hycm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn, mở ra bước ngoặc trong sự nghiệp đấu tranh dành quyền bình đẳng và độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam.

Đối với một người dân mất nước cái quí nhất là độc lập của tổ quốc, tự do của nhân dân. Trên con đường tiếp cận chân lý cứu nước Hồ Chí Minh đã tìm hiểu tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp và tiếp thu những nhân tố có giá trị trong 2bản tuyên ngôn này. Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống quyền sung sướng và tự do. Ngày 2/9/1945, giữa quãng trường Ba Đình Hồ Chí Minh đã trang trọng khẳng định trước Quốc dân đồng bào và thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và sự thật đã trở thành 1 nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam sẽ quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”.

Độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình. Trong chánh cương vắn tẳt cũng như lời kêu gọi sau khi thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng là: Đánh đổ Pháp và bọn phong kiến, làm cho đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập.

Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Hồ Chí Minh khẳng định: “chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh, mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, Hồ Chí Minh đã đưa ra chân lý bất hủ: “Không có gì qúi hơn độc lập tự do”. Hồ Chí Minh cho rằng, muốn có quyền bình đẳng thật sự thì các dân tộc bị áp bức phải tự đứng lên đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược dành lại độc lập cho dân tộc mình. Người quan niệm về một nền độc lập hoàn toàn và độc lập thật sự là nền độc lập phải gắn liền với chính quyền quốc gia, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Nền độc lập không phải do cầu xin mà có được, nền độc lập ấy phải do toàn dân đó tự mình đứng lên đấu tranh đánh đổ sự thống trị nô dịch của đến quốc xâm lược. Và dân tộc đó phải độc lập về tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh toàn vẹn lãnh thổ, do đó trước hết và quan trọng nhất là độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn về chính trị. Mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia phải do chính nhân dân của dân tộc đó tự quyết định, không có sự can thiệp của nước ngoài. Theo Hồ Chí Minh, nền độc lập của dân tộc Việt Nam phải được thực hiện một cách triệt để theo nguyên tắc: Nước Việt Nam của người Việt Nam, mọi vấn đề chủ quyền quốc gia Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam tự quyết định, không có sự can thiệp của nước ngoài, mọi sự đồng tình ủng hộ giúp đỡ nhân dân Việt Nam hoan nghênh và ghi nhớ.

Page 86: Khoi kien thuc 1

Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với hạnh phúc, tự do của nhân dân, Ngưòi từng nói; Nước nhà đã độc lập, nhưng người dân chỉ biết đến độc lập tự do khio dân được ăn no mặc đủ. Giành được độc lập tự do không phải cái đích cuối cùng, sau khi giành được độc lập tự do phải mang lại tự do hạnh phúc cho nhân dân. Tự do hạnh phúc cho nhân dân là một tiêu chí quan trọng của một nền độc lập dân tộc trong thời đại mới. Nếu nước nhà được độc lập mà dân không được hưởng tự do thì độc lập đó cũng chẳng có nghĩa lý gì. Hồ Chí Minh đã nói: Tôi chỉ có 1 ham muốn, ham muốn đến tột bậc là nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, làm sao dân ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.

- Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội , chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế:

Mác, Ăngghen, Lê nin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, đặt nền móng lý luận và phương pháp luận cho việc xác định chiến lược, sách lược của Đảng cộng sản về vấn đề dân tộc và giai cấp ở các nước TBCN. ở đó mâu thuẫn cơ bản là giữa GCTS (bóc lột) và GCVS (bị bóc lột), mâu thuẫn giữa các đế quốc không gay gắt bằng mâu thuẫn giai cấp. Do đó giải phóng giai cấp được ưu tiên hàng đầu, khi ách áp bức giai cấp không còn thì mâu thuẫn giữa các giai cấp cũng mất theo. Hồ Chí Minh đã giải quyết sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Người cho rằng ở các nước thuộc địa, kẻ thù áp bức từ bên ngoài và đang chạm đến quyền lợi của tất cả các giai cấp, cho nên mâu thuẫn dân tộc với các đế quốc gay gắt hơn mâu thuẫn giai cấp. Riêng ở các nước thuộc địa, mâu thuẫn dân tộc là cơ bản, nó chi phối các mâu thuẫn khác. Do vậy ưu tiên số một là giải phóng dân tộc, giải quyết được vấn đề dân tộc thì vấn đề giai cấp sẽ được giải quyết dễ dàng. Trong giải phóng dân tộc đã thực hiện từng phần giải phóng giai cấp, giải phóng giai cấp phụ thuộc vào giải phóng dân tộc.

Với Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc được tiến hành dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lênin, giành độc lập dân tộc để tiến lên xay dựng CNXH. Hồ Chí Minh từ một người yêu nước, đang tìm đường cứu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin đã tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình, theo con đường của cách mạng vô sản, tức là đã tiếp thu lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh viết “sự ghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với sự nghiệp vô sản toàn thế giới, mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút ít thắng lợi ở 1 nước nào đó... thì đó cũng là thắng lợi cho người An Nam”. Cũng chính từ đó, Người chỉ ra rằng: Các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức của chính mình, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động trên thế giới để trước hết phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc. Qua đó có thể khẳng định rằng, ngay từ khi trở thành người cộng sản, Hồ Chí Minh đã thực hiện được sự kết hợp đúng đắn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế. Theo Hồ Chí Minh: chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là 1 động lực lớn của đất nước. Chủ nghĩa dân tộc mà người đề cập năm 1924, chính là chủ nghĩa yêu nước chân chính, nó đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, gắn liền với chủ nghĩa quốc tế và sẽ trở thành chủ nghĩa quốc tế. Đây là thứ chủ nghĩa dân tộc hướng tới chủ nghĩa cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và CNXH, vừa phản ánh qui luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa gánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đây là quan điểm sáng tạo và dũng cảm của Hồ Chí Minh trước quan điểm của cộng sản quốc tế lúc bấy giờ. Chủ nghĩa dân tộc ở đây khác về chất so với các nước Sô vanh nước lớn, chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, hẹp hòi. Về độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Là 1 chiến sỹ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Việt Nam yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, Người đã khẳng định: “Chúng ta phải đấu tranh cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như tranh đấu cho dân tộc ta vậy”. Ngay trong việ hợp nhất của các tổ chức cộng sản trong nước lại, chủ nghĩa đề nghị đặt tên là Đảng cộng sản Việt Nam thể hiện thái độ đúng đắn trước vấn đề dân tộc. Theo Người, mỗi Đảng cộng sản

Page 87: Khoi kien thuc 1

là thuộc về 1 dân tộc, trước hết phải chịu trách nhiệm trước dân tộc mình. Bởi theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin, đã chủ trương dân tộc tự quyết thì cách mạng ở mỗi nước không thể do Đảng cộng sản của nước khác áp đặt, làm thay. Nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh vẫn không quên nhiệm vụ quốc tế của mình trong việc giúp đỡ thành lập các đảng cộng sản anh em ở một số nước Đông Nam Á đầu thế kỷ XX. Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào, Cam Pu Chia, đề ra khẩu hiệu: “giúp bạn là tự giúp mình” và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.

Tóm lại, tư tưởng chủ nghĩa về vấn đề dân tộc vừa mang tính khoa học đúng đắn vừa có tính chất cách mạng sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa yêu nước trong sáng, độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc khác. Quan niệm đó đã trở thành mục tiêu, lý tưởng thành khẩu hiệu động viên, cổ vũ nhân dân Việt Nam làm nên kỳ tích oai hùng đánh thắng mọi kẻ thù đưa đến độc lập, thống nhất toàn vẹn đất nước, đồng thời cũng là cơ sở lý luận để hoạch định chính sách dân tộc đúng đắn của Đảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc thân yêu của chúng ta. Chính vì lẽ đó trong cách mạng ngày nay, hơn bao giờ hết, chúng ta cần phải hiểu một cách sâu sắc hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong thời kỳ mới, để...

Về cách mạng giải phóng dân tộc 1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách mạng

vô sản.Thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở nước ta là do chưa có

đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn khi chủ nghĩa đế quốc đã thành một hệ thống thế giới. Cuộc đấu tranh tự giải phóng, giai cấp vô sản ở chính quốc và nhân dân các dân tộc thuộc địa có chung một kẻ thù, vì vậy phải phối hợp hành động và cổ vũ lẫn nhau.Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: Chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, phải xem cách mạng ở thuộc địa như là “Một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”, phát triển nhịp nhàng với cách mạng vô sản; mặt khác, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản, tức là phải đi theo đường lối Mác-Lênin.

2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo

Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân, Đảng đó phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác-Lênin. Các lãnh tụ yêu nước tiền bối phan bội châu, phan chu trinh cũng đã bước đầu nhận thức được tầm quan trọng và vai trò của chính đảng cách mạng. Dù đã thành lập hay chưa thì các đảng kiểu đó cũng không thể lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thành công, vì nó thiếu một đường lối chính trị đúng đắn và một đường lối tổ chức chặt chẽ; lại không có cơ sở rộng rãi trong quần chúng, nên sớm muộn cũng rơi vào tan rã và thất bại.

3. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông

Cách mạng giải phóng dân tộc như Nguyễn Ái Quốc viết: “là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”. Vì vậy, phải đoàn kết toàn dân, “Sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Nhưng trong sự tập hợp rộng rãi đó. Người nhắc nhở không được quên cái cốt của nó là công - nông. Phải nhớ: “Công nông là người chủ cách mệnh... công nông là gốc cách mệnh”. Trong phạm vi của cách mạng giải phóng dân tộc mà đối tượng cần đánh đổ trước hết là bọn đế quốc và đại địa chủ phong kiến tay sai nhằm giành lại độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân, trước hết là nông dân, nên Nguyễn Aùi Quốc chủ trương cần vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước, đang bị làm nô lệ trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc, đấu tranh giành độc lập, tự do.

Page 88: Khoi kien thuc 1

4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc

Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngay từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã sớm cho rằng: “Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước”, và “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn rất to lớn, một cống hiến rất quan trọng vào kho tàng lý luận Mác-Lênin, đã được thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.

5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng, vũ trang trong nhân dân.

Tháng 5/1941, Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương khoá I do Người chủ trì đã đưa ra nhận định: Cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, mở đầu có thể là bằng một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương...mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng chỉ đạo xây dựng các tổ chức chính trị của quần chúng, lập ra các đội du kích vũ trang, chủ động đón thời cơ, chớp thời cơ, phát động Tổng khởi nghĩa Tháng Tám và giành được chính quyền cả nước chỉ trong có hơn 10 ngày.

Tóm lại Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, sáng tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã chứng minh hùng hồn tính khoa học đúng đắn, tính cách mạng sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.

Liên hệ: Ngày nay, vấn dề dân tộc luôn luôn được đặt ra cho sự nghiệp cách mạng nước ta. Đất nước ta đang thực hiện công cuộc đổi mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Những thành tựu đạt được trong những năm đổi mới là to lớn và rất quan trọng, làm cho thế và lực nước ta lớn mạnh lên nhiều. Song sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước cũng đang đứng trước những thời cơ và thách thức to lớn mà chúng ta phải chủ động đón lấy và sang suốt vượt qua. Ngày nay sự phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn, đồng bào miền núi đang còn khó khăn ở cái ăn, cái mặc, chổ ở và học hành. Nền độc lập của dân tộc đang đặt ra trước những thử thách lớn, đó là kẻ thù của chúng ta thì đa dạng, nó không đánh ta bằng vũ khí mà tìm cách đánh ta trên các mặt trận: chính trị, tôn giáo, kinh tế, văn hóa, dân tộc... có thể làm tổn hại đến nền độc lập dân tộc. Về kinh tế, với cơ chế thị trường, huy động vốn nước ngoài, nếu chúng ta không khôn khéo để mình luôn luôn là ông chủ mà chỉ một chút sơ xuất lệ thuộc kinh tế; hội nhập văn hóa không chọn lọc, không biết nêu cao văn hóa truyền thống dễ dẫn đến nguy cơ lệ thuộc văn hóa. Một khi đã lệ thuộc kinh tế, văn hóa sẽ dẫn đến nguy cơ lệ thuộc về chính trị. Trên đà hội nhập quốc tế, nếu chúng ta không biết cách giữ gìn một nền kinh tế của người Việt Nam đễ có nguy cơ “tái thuộc địa hóa”, đây chính là nạn nhân của chủ nghĩa thực dân kiểu mới, các tổ chức tài chính, qũi tín dụng quốc tế, tổ chức thương mại quốc tế

Page 89: Khoi kien thuc 1

dần dần lấn át các tổ chức hoạt động thương mại, kinh tế trong nước dẫn đến chúng ta sẽ lệ thuộc hoàn toàn vào nền kinh tế nước ngoài. Bên cạnh đó chúng ta còn có nguy cơ diễn biến hòa bình. Các thế lực thù địch vẫn dùng chiêu bài tự do, dân chủ, dân quyền, tôn giáo mà trong thực tế những năm vừa qua chúng ta đã phải chứng kiến như vụ đòi thành lập nhà nước Đề ga hồi tháng 02/2001 ở Tây Nguyên, đó là hình thức chia rẻ dân tộc; hoặc vụ Tôn giáo ở TT-Huế, gây xôn xao dư luận, một số phần tử xấu lợi dụng tình hình để “đục nước béo cò” trong khi nhân dân ta chưa phân biệt những âm mưu của bọn phá hoại, hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân.Trong qúa trình đó chúng ta phải nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH nhằm tạo nguồn lực mới, đưa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước vững bức tiến lên CNXH.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay:Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã khẳng định rằng chúng ta cần phải

nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm tạo ra những nguồn lực mới, đưa sự nghiệp đổi mới vững bước đi lên. Sự vận dụng ấy được thể hiện như sau:

a. Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc - Nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ đất nước

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định cần phải phát huy tối đa các nguồn nội lực. Nội lực hiểu một cách toàn diện bao gồm con người, trí tuệ, truyền thống dân tộc, truyền thống cách mạng, đất đai, tài nguyên vốn liếng...nhưng yếu tố quan trọng và quyết định nhất vẫn là nguồn lự con người.

Con người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, gắn kết cộng đồng, ý chí kiên cường bất khuất, không chịu làm nô lệ, không cam phận nghèo hèn... Trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, tinh thần yêu nước ấy đã được phát huy cao độ, biến thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng vô song và làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 và Đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, truyền thống quý báu ấy đang được khơi dậy mạnh mẽ, trở thành nguồn lực vô tận để vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

b. Nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm giai cấpTrong phong trào cách mạng thế giới có lúc có những khuynh hướng nhấn mạnh một chiều

quan điểm giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc. Gần đây lại chuyển sang mộtk cực đoan khác: chỉ nhấn mạnh yếu tố dân tộc, yếu tố nhân loại, coi nhẹ hoặc vứt bỏ yếu tố giai cấp, từ bỏ đấu tranh cách mạng, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế vô sản. Khi xã hội còn đấu tranh mà từ bỏ quan điểm giai cấp, chỉ nhấn mạnh bảo vệ lợi ích, sự sống còn của nhân loại...thì sẽ làm suy yếu phong trào cách mạng thế giới, khuynh hướng chỉ nhấn mạnh lợi ích dân tộc, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế chân chính dẫn đến phát triển chủ nghĩa dân tộc sôvanh, để kẻ thù lợi dụng, kích độnh gây mất ổn định ở nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới.

Ở Việt Nam, quan điểm xem xét vấn đề dân tộc tách rời vấn đề giai cấp cũng bộc lộ dưới nhiều hình thức. Chẳng hạn: cho rằng đi theo con đường, chế độ nào cũng được, miễn là có cuộc sống sung sướng, tự do... Mặt khác, cũng phải khắc phục những quan điểm giáo điều trong việc nhìn nhận vấn đề giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thoát ly bối cảnh và điều kiện lịch sử cụ thể của dân tộc. Cần phải thấy rằng, hiện nay nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm mục tiêu “dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, nhân dân ấm no, hạnh phúc... Mục tiêu đó không chỉ là vấn đề giai cấp mà vừa là giai cấp, vừa là dân tộc.

c. Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân tộc anh em trong cộng đồng dân tộc Việt Nam

Hiện nay, Đảng ta tiếp tục giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, củng cố, tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, lấy mục tiêu độc lập, thống nhất và tiến lên dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm mục tiêu chung đồng thời chấp nhận điểm khác nhau nhưng không trái với lợi ích chung của dân tộc... Chủ trương đó hiện nay đã đi vào cuộc sống và đang phát huy tác dụng tích cực.

Page 90: Khoi kien thuc 1

Đại đoàn kết các dân tộc anh em trên toàn cầu lãnh thổ Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Lịch sử đã ghi nhận những công lao đóng góp to lớn của các dân tộc thiểu số trong việc đánh thắng quân xâm lược. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, nhiều khu vực cư trú chủ yếu của đồng bào các dân tộc thiểu số trở thành căn cứ địa vững chắc của cách mạng như Việt Bắc, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên... Đảng ta luôn đặc biệt chú ý đến việc củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và chăm lo giải quyết tốt các mối quan hệ giữa các dân tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.

Hiện nay mối quan hệ giữa các dân tộc anh em ở nước ta rất tốt đẹp. Tuy nhiên, không phải là không có những cơ sở để cho các thế lực thù địch khai thác, lợi dụng để gây ra tình trạng căng thẳng trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Những yếu tố đó một phần do lịch sử để lại, một phần do kẻ thù gây ra trước đây nhưng cũng có một số vấn đề do sai lầm của cán bộ ta trong việc thi hành chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước. Để loại trừ những nguyên nhân này, chúng ta phải thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã đặt ra đối với các vùng miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và phải đặc biệt quan tâm đến đồng bào các dân tộc đang ở vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và phải tiếp tục thực hiện chính sách ưu tiên đào tạo bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số, chống sự kỳ thị, chia rẽ dân tộc.

Câu 20. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạngTư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu

sắc của người về những chuẩn mực (tiêu chuẩn, quy tắc, quy phạm…) và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới, khác về chất so với nền đạo đức cũ, nhằm phát triển toàn diện con người trong thời đại mới. Đạo đức cách mạng là đạo đức của giai cấp công nhân. Các tiêu chuẩn đạo đức hướng tới chân, thiện, mĩ, thực chất là hướng tới cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN, hướng tới phục vụ Đảng, phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Đó là 1 nền đạo đức đối lập về chất so với nền đạo đức phong kiến và đạo đức tư sản.

Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của chủ nghĩa cách mạng, đạo đức cách mạng tạo ra động cơ hành động đúng đắn, tạo ra ý chí quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của con người. Từ đó Hồ Chí Minh coi đạo đức cách mạng là nguồn gốc của con người cách mạng. Người viết “cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì người tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Vai trò nền tảng của đạo đức cách mạng được Hồ Chí Minh khẳng định: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là 1 sự nghiệp rất vẻ vang nhưng nó cũng là 1 nhiệm vụ rất nặng nề, 1 cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài và gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Do đó, đạo đức trở thành nhân tố quyết định sự thành bại của mọi công việc và là phẩm chất của mỗi con người. Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao cả 2 mặt đức và tài ở mỗi con người. Trong mối quan hệ giữa đạo đức với tài năng, người khẳng định đạo đức là gốc, nó quyết định sức mạnh tinh thần to lớn của con người, sức mạnh của đoàn kết dân tộc. Nhờ đó mà đạo đức góp phần to lớn vào việc quyết định sự thành bại của cách mạng nước ta. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cho con người, trước hết là cho cán bộ đảng viên. Nhìn chung, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cm có thể khái quát thành 4 nội dung cơ bản, được xem là những chuẩn mực đạo đức cần phải thường xuyên phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện của mỗi người, trước hết là cán bộ, đảng viên.

Thứ nhất: trung với nước, hiếu với dânPhẩm chất trung, hiếu là những chuẩn mực đạo đức truyền thống: trung với vua, hiếu với cha

mẹ. Trên tinh thần phủ định biện chứng, Hồ Chí Minh sử dụng khái niệm trung, hiếu nhưng nội hàm đã đổi mới: tận trung với nước, tận hiếu với dân. Tận trung với nước là chuẩn mực có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp cách mạng, với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nước ở đây là nước của dân, còn dân chính là chủ nhân đích thực của nước. Hay nói cách

Page 91: Khoi kien thuc 1

khác: tận trung với nước cũng chính là tận trung với đảng, với sự nghiệp cách mạng do đảng lãnh đạo, quyết tâm đưa đất nước phát triển theo con đường đọc lập dân tộc và CNXH. Bởi vì, đảng là người đại diện cho nước cho dân, “ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, đảng ta không còn có lợi ích gì khác”. Tận hiếu với dân nghĩa là thấy rõ sức mạnh, vai trò thực sự của nhân dân. Dân là gốc của nước, là những người sáng tạo làm nên lịch sử. Do đó phải gắn bó với dân, kính trọng và lắng nghe ý kiến của dân, hòa mình vào dân, tổ chức vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước. Việc gì có lợi cho nhân dân thì ta phải làm, bất cứ việc gì có hại cho dân thì ta phải tránh. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trung với nước, với đảng và hiếu với dân là 2 mặt thống nhất của 1 vấn đề, gắn bó chặt chẽ hữu cơ với nhau.

Thứ hai: yêu thương và giúp đỡ con người, sống có nghĩa, có tình. Những chuẩn mực này bắt nguồn từ quan niệm về con người của Hồ Chí Minh. Người viết:

“chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người. Đó là những con người cụ thể, có đời sống tình cảm riêng và do đó mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng”. Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh không chung chung, trừu tượng mà rất cụ thể, sâu sắc và bao dung. Hồ Chí Minh chẳng những yêu thương tất cả những người lao động mà còn đặc biệt thương yêu những người bị áp bức, bóc lột, bị đọa đày đau khổ, bị nô dịch giai cấp và dân tộc. Tình yêu thương của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở lòng “trắc ẩn” mà còn nâng lên ở tầm cao của nhận thức tư tưởng. Người muốn tìm rõ nguyên nhân xã hội gây ra cảnh khổ đau, bất hạnh cho con người và đã tìm thấy. Đó chính là bọn tà ác, bọn việt gian bán nước,phát xít, thực dân mà người vô cùng căm ghét và kêu gọi phải tiêu diệt chúng để cứu giúp con người thoát khỏi cảnh cơ cực lầm than.

Sống có nghĩa có tình, giúp người, cứu người, hướng tới giải pháp triệt để con người là động cơ mạnh mẽ, là mục tiêu lý tưởng cao cả của Hồ Chí Minh. Theo người, để giải phóng triệt để con người, ko chỉ đánh đổ bọn thực dân xâm lược giải phóng dân tộc mà còn xóa bỏ tình trạng người bóc lột người. Người yêu cầu đảng và chính phủ phải chịu trách nhiệm trước nhân dân: nếu dân đói, dân rét, dân dốt, dân ốm là đảng và chính phủ có lỗi. Thật vậy, trước khi từ giã cõi đời, Hồ Chí Minh vẫn ko quên “để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn dân”.

Thứ ba: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tưCần là thường xuyên cố gắng, luôn chăm chỉ trong suốt cả cuộc đời. Cần còn là biết chủ động,

sắp xếp công việc có kế hoạch, có sáng tạo tăng năng suất công tác, chống bệnh chây lười, biếng nhác, ỷ lại. thụ động, vô kỉ luật.

Kiệm là tiết kiệm công sức, tiền của và thời gian, sử dụng chúng sao cho có ích nhất, hiệu quả nhất, không xa xỉ, không hoang phí, ko bừa bãi trong sản xuất và đời sống. Người nói: “Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc thì dù hao bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của cũng vui lòng”.

Liêm là “không tham địa vị, tiền tài, không tham sung sướng, không tham người khác tâng bốc mình”. Không đem của công dùng vào việc tư, luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của nhân dân.

Chính là không tà, là thẳng thắn và đứng đắn. Theo Hồ Chí Minh: “trong xã hội, tuy có trăm công nghìn việc, song những công việc ấy có thể chia ra làm 2 thứ: việc chính và việc tà. Làm việc chính là người thiện, làm việc tà là người ác”. Chính tức là việc gì có lợi cho nhân dân thì làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng hết sức tránh.

Chí công vô tư là khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước. khi hưởng thụ thì mình nên đi sau, tức là lo trước thiên hạ. Người nhấn mạnh: thực hành chí công vô tư cũng có nghĩa là phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân.

Thứ tư: tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chungTrong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế chính là quan hệ hữu nghị, hợp tác,

giúp đỡ, tương tự với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, với những ngừoi yêu hòa bình, công lý và tiến bộ trên thế giới. Chủ nghĩa quốc tế chỉ có thể tốt đẹp khi mỗi quốc gia phải phát huy tinh thần chủ động, tự lực, tự cường và phải hoàn thành nghĩa vụ quốc tế của mình, chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, nước lớn. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế trong sáng phải gắn liền, thống nhất với chủ nghĩa yêu nước chân chính.

Thực trạng về đạo đức cách mạng trong đội ngũ cán bộ đảng viên:

Page 92: Khoi kien thuc 1

Trong tình hình đất nước hiện nay (sự nghiệp đổi mới đất nước): đa số cán bộ, đảng viên là những người gương mẫu, đi đầu trong mọi công tác, phát huy vai trò tiên phong, năng động, sáng tạo, giữ gìn phẩm chất đạo đức. Tuy nhiên vẫn còn 1 bộ phận nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về đạo đức, chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ, cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí: những suy thoái này còn kéo theo những suy thoái về đạo đức trong gia đình, nhà trường và trong xã hội. Những sự suy thoái đó đang là “nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ”.

Nguyên nhân khách quan: Mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự bùng nổ thiếu kiểm soát thông tin trên internet và giao

lưu quốc tế (mặt tiêu cực của văn hóa và lối sống), là tàn dư của đạo đức phong kiến, thực dân và âm mưu “diễn biến hòa bình” của kẻ thù.

Nguyên nhân chủ quan: Có biểu hiện buông lỏng việc giáo dục, đạo đức, lối sống cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí

Minh trong 1 thời gian khá dài do chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của đạo đức cách mạng.Xử lý chưa nghiêm minh đối với những cán bộ xa rời đạo đức cách mạng.Liên hệ: Nâng cao đạo đức cách mạng gắn với cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương

đạo đức Hồ Chí Minh. Gần gũi quần chúng, giữ nghiêm kỉ luật đảng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, chống tham nhũng, lãng phí.

Luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, tự phê bình và phê bình.Kỷ luật nghiêm minh những ai có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, coi thường và lợi

dụng pháp luật để tham nhũng, sa hoa, lãng phí, vô cảm trước khổ đau của nhân dân.Biểu dương, khen thưởng những tấm gương người tốt, việc tốt về đạo đức.Là cán bộ đảng viên, cần………………

Page 93: Khoi kien thuc 1

Câu 21. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về tôn giáoChủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho đời sau những di sản tư tưởng quý báu, trong đó có vấn đề

về tôn giáo, không chỉ thể hiện qua những lời nói, cử chỉ hành động và cách ứng xử của Người đối với quần chúng tín đồ, nhà tu hành các tôn giáo mà còn là cơ sở cho việc hình thành chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta trong các giai đoạn của cách mạng Việt nam.

Nước ta là một quốc gia đa tín ngưỡng tôn giáo, có trên 11 tôn giáo trong đó có 6 tôn giáo lớn là Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo, Cao đài, Hòa hảo và Tin lành. Hiện có khoảng gần 20 triệu tín đồ chiếm gần 1/3 dân số cả nước và phân bố ở những vị trí quan trọng. Phật giáo và Thiên chúa giáo là hai tôn giáo có đông tín đồ hơn cả và nằm rải rác từ bắc đến nam. Hiện nay, cả nước có ba học viện Phật giáo, một viện nghiên cứu và 30 trường Phật học, có 44 Ban trị sự ở 44 tỉnh, thành. Giáo hội Thiên chúa giáo có 25 giáo phận, có 73 dòng tu và 6 đại chủng viện. Các tôn giáo Tin Lành, Hòa hảo, Cao đài và Hồi giáo chủ yếu hoạt động ở miền Nam. Các tôn giáo Việt nam phát triển và hình thành phạm vi ảnh hưởng không giống nhau. Do vậy cùng với quá trình đổi mới toàn diện của đất nước ta thì việc đổi mới về nhận thức, đánh giá đúng để có những chính sách phù hợp với tôn giáo cần được đặt ra. Quan điểm và chính sách đúng đắn về tôn giáo phải dựa trên nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Quan điểm Hồ chí Minh về tôn giáo được chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất từ năm 1945 trở về trước, khi đất nước ta còn bị thực dân xâm lược, nhân

dân ta bị nô lệ thì chủ tịch Hồ chí Minh chủ yếu lên án sự cấu kết của chủ nghĩa thực dân với giáo hội trong quá trình xâm lược và nô dịch nhân dân Việt nam.

Giai đoạn thứ hai từ 1945 trở đi đến khi bác qua đời. Giai đoạn nầy Hồ chí Minh đề cập vấn đề tôn giáo phong phú và đa dạng, chủ yếu trên ba mặt sau:

Một là, Hồ chí Minh đã tìm thấy điểm tương đồng giữa chủ nghĩa Mác lênin và đạo đức của tôn giáo đó là giá trị nhân văn nhân bản sâu sắc. Người ca ngợi chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là một xã hội tốt đẹp, một xã hội không còn áp bức, bóc lột. bên cạnh đó Người cũng không quên ca ngợi các giá trị đạo đức của tôn giáo, Người cho rằng: đạo đức của Thích ca là từ bi hỷ xã; đạo đức của Giê-su là bác ái; đạo đức của Khổng tử là nhân nghĩa. Người cho rằng nếu các vị ấy còn sống cùng với Mác, Lênin ngồi lại nột chỗ thì sẽ tìm ra được điểm chung là mưu cầu hạnh phúc cho con người. Người luôn luôn quan tâm đến tôn giáo. Đối với tôn giáo, với đồng bào nói chung Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần đoàn kết giữa đồng bào lương giáo, giữa đồng bào các tôn giáo, tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn trọng niềm tin và đức tin..., Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận, ấm no, xây dựng Tổ quốc”.

Page 94: Khoi kien thuc 1

Hai là, Hồ Chí Minh cho rằng giữa tôn giáo và tổ quốc, giữa đạo và đời, giữa đức tin và lòng yêu nước không tách rời nhau, không hề có sự mâu thuẫn mà có sự thống nhất hòa quyện vào nhau, tác động hổ trợ lẫn nhau là tốt đời, đẹp đạo, là kính chúa yêu nước. Để động viên lòng yêu nước của chức sắc, giáo dân Hồ chủ tịch cho rằng: một tín đồ ngoan đạo thì phải là công dân gương mẫu. Vì vậy mốn thong dong phần hồn theo nghi lễ tôn giáo thì phải hoàn thành nghĩa vụ công dân. Nếu Tổ quốc không được độc lập thì tín ngưỡng tôn giáo sẽ không được tự do. Vì vậy, phải chiến đấu hy sinh cho cho nền độc lập tự do đó.

Ba là, bên cạnh việc đề cao giá trị nhân văn, nhân bản, sự kết hợp đức tin với lòng yêu nước, tính tích cực của đạo với đời của tôn giáo. Hồ chí Minh còn phê phán gay gắt những hạn chế tiêu cực, bất cập của tôn giáo như Hồ chí Minh phê phán một bộ phận chức sắc giáo dân do nhẹ dạ cả tin bị mua chuộc, một số chức sắc thiếu hiễu biết để các thế lực chính trị phản động lợi dụng, phục vụ cho mưu đồ chính trị của chúng. Người còn phê phán sự cấu kết giữa thực dân và giáo hội trong việc xâm lược, cướp bóc Việt nam... Hồ Chí Minh còn vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa của những mật thám đội lốt thầy tu, Người chỉ cho mọi người thấy những kẻ mang danh chúa để khai sáng văn minh, những giáo sỷ phương Tây truyền đạo bị thực dân lợi dụng biến thành những kẻ dọn đường cho quá trình xâm lược: “Chính những tên giáo sỹ đã vẽ bản đồ An Nam cho quân đội xâm lược. Chính bọn họ đã đưa tin cho gián điệp, dẫn đường cho đội quân viễn chinh và tố giác những người yêu nước”. Đồng thời Người cũng chỉ rõ có những linh mục, nhiều anh chị em công giáo người Pháp cũng kịch liệt phản đối chiến tranh xâm lược ở Việt nam. Đó mới thực sự là những người tuân theo lòng bác ái của Chúa.

Sở dĩ tôn giáo có những mặt tiêu cực nhất định như trên theo Người là do âm mưu xảo quyệt của kẻ thù, mặt khác.do nhân dân ta thiếu hiểu biết. Người cũng thừa nhận trong đó có một phần trách nhiệm của Chính phủ. Người cho rằng cán bộ, đảng viên cần học tập, nghiên cứu phong tục, tập quán, pháp luật nhằm tăng cường tuyên truyền, giáo dục giác ngộ nhân dân.

Theo chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định vấn đề tôn giáo, công tác tôn giáo và đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt, đã đề ra nhiều chủ trương chính sách tôn giáo với những nguyên tắc nhất quán là: tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đoàn kết gắn bó đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân, vì sự nghiệp độc lập tự do của tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ, vì cuộc sống ấm no hạnh phúc của nhân dân. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định quan điểm: “Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo. Chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, nâng cao đời sống của đồng bào. Đồng bào theo đạo và chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống “tốt đời, đẹp đạo”, phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa và đạo đức của tôn giáo. Từng bước hoàn thiện luật pháp về tín ngưỡng tôn giáo.

Nghiêm cấm lợi dụng vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ các dân tộc, xâm phạm an ninh quốc gia”.

Đảng và Nhà nước ta đã đề ra hàng loạt chính sách cụ thể nhằm đảm bảo cho đồng bào các tôn giáo thực hiện được quyền tự do tín ngưỡng theo đúng pháp luật, thực sự bình đẳng về mọi mặt. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là tôn trọng niềm tin, nghi thức thờ phụng, những sinh hoạt tôn giáo phù hợp với giáo lý, với truyền thống của dân tộc. Đồng thời luôn đề cao việc giữ gìn và phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những người có công với tổ quốc, dân tộc và nhân dân.

Tuy nhiên, những năm gần đây, hoạt động của các thế lực thù địch chống phá lại cách mạng với chiến lược “Diễn biến hòa bình” đang diễn ra rất phức tạp. Chúng thường lợi dụng vấn đề tôn giáo và dân tộc để chống phá cách mạng nước ta, như ra sức phát triển đạo ở những nơi hẻo lánh, dân tộc ít người, sát vùng biên giới, chúng luôn tìm cách gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, xuyên tạc một số khuyết điểm, thiếu sót trong việc thực hiện chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, của Nhà nước để bôi nhọ chế độ ta, để kích động giáo dân gây ra những cuộc biểu tình, gây rối chống chế độ như vụ biểu tình của Phật giáo ở Huế, vụ linh mục Thiên chúa giáo Nguyễn văn Lý cũng tại Thừa

Page 95: Khoi kien thuc 1

thiên Huế. Và gần đây bọn chúng đã lập ra cái gọi là Tin lành Đề ga ở Tây nguyên để kích động, lôi kéo những người nhẹ dạ, cả tin nhằm thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình, chia rẽ dân tộc, tôn giáo ...

Đảng ta đã vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để có những quan điểm và chính sách đúng đắn đối với tôn giáo trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết 7 ban chấp hành Trung ương khóa IX, về chính sách tôn giáo, Đảng ta đã xác định một số quan điểm cơ bản sau:

1. Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.

2. Đảng và Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc.Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không

theo tôn giáo. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.

3.Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.Công tác vận động quần chúng các tôn giáo là phải động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu

nước, ý thức bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn giáo. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

4. Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Tổ

chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo có trách nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và kiện toàn. Nhà nước quản lý đối với công tác tôn giáo, đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ, chống lại tổ quốc và chia rẽ nhân dân.

5. Vấn đề truyền đạo.Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và ở cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định

của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, được xuất bản kinh sách và giữ gìn sữa chữa xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật.

Không được lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Để thực hiện tốt tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về tôn giáo phải:1. Nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã

hội về vấn đề tôn giáo.Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến các quan điểm, chủ trương, chính sách về tôn giáo

của đảng và Nhà nước trong cán bộ, đảng viên, nhân dân nhất là trong chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo

2. Tăng cường công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng chính trị ở cơ sở.Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, đổi mới nội dung phương thức công tác vận động đồng

bào các tín đồ tôn giáo, phù hợp với đặc điểm của đồng bào có nhu cầu luôn gắn bó với sinh hoạt tôn giáo và tổ chức tôn giáo.

Mặt trân Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân phải sâu sát, tăng cường tuyên truyền chủ trương chính sách đối với chức sắc, nhà tu hành và các tín đồ tôn giáo.

3. Tăng cường quản lý Nhà nước về tôn giáo.

Page 96: Khoi kien thuc 1

Đẩy mạnh phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân vùng khó khăn đặc biệt là vùng đông tín đồ tôn giáo và vùng dân tộc miền núi còn nhiều khó khăn.

Tăng cường quản lý bằng pháp luật đối với các hoạt động tôn giáo.Ban hành Pháp lệnh về tôn giáo và các văn bản hướng dẫn thực hiện., tiến tới xây dựng Luật về tín ngưỡng, tôn giáo.

Nâng cao cảnh giác cách mạng, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo để kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.

4. Tăng cường công tác tổ chức cán bộ làm công tác tôn giáo.Củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức làm công tác tôn giáo của Đảng, Chính quyền, Mặt trận tổ

quốc và các đoàn thể.Xây dựng và thực hiện tốt công tác quy hoạch đào tạo bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ trực tiếp

làm công tác tôn giáo có năng lực, nhiệt tình, am hiễu tôn giáo, sử dụng và đảm bảo chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, quan tâm đúng mức đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Là một đất nước có nhiều tôn giáo với những đặc điểm hết sức phong phú, lại phải luôn đối phó với âm mưu kẻ thù lợi dụng chiêu bài tôn giáo, dân tộc để chia rẽ khối đoàn kết dân tộc. Đảng và Nhà nước ta luôn quán triệt tư tưởng Hồ chí Minh về tôn giáo, đó là tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết, đoàn kết giữa các tôn giáo, đoàn kết giữa người theo tôn giáo và người không tôn giáo với phương châm tốt đời, đẹp đạo để cùng nhau phấn đấu xây dựng đất nước dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.

CHÚC MAY MẮN