21
KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MT PHT THÍCH CA 1 KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT - Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến (05/14/2010) (download từ: www.thuvienhoasen.org) KINH KIM CANG Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải Nhà xuất bản: Tôn Giáo PL. 2550 – DL. 2006 Tôi nghe nhƣ thế này. Khi Phật ở thành Xá-vệ, vƣờn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng với các vị đại tỳ-kheo là một ngàn hai trăm năm mƣơi vị. Đến giờ thọ trai, đức Thế Tôn đắp y mang bát vào thành Xá-vệ khất thực. Vào trong thành, theo thứ tự khất thực, rồi trở về tinh xá. Thọ trai xong, thu dọn y bát, rửa chân tay, trải tòa ra ngồi. Lúc ấy Trƣởng lão Tu-bồ-đề từ chỗ ngồi trong đại chúng đứng dậy, bày vai bên phải, quỳ gối phải, cung kính chắp tay bạch Phật rằng: “Thế Tôn, thật ít có! Nhƣ Lai khéo hộ niệm các vị Bồ Tát, khéo dặn dò các vị Bồ Tát. “Thế Tôn! Nếu có những kẻ nam ngƣời nữ có lòng lành phát tâm cầu đạo Vô Thƣợng Bồ-đề, nên trụ tâm nhƣ thế nào? Hàng phục tâm nhƣ thế nào?” Phật dạy: “Lành thay! Lành thay! Tu-bồ-đề, đúng nhƣ ông vừa nói. Nhƣ Lai khéo hộ niệm các vị Bồ Tát, khéo dặn dò các vị Bồ Tát. Nay ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì các ông mà giảng thuyết. “Nếu những kẻ nam ngƣời nữ có lòng lành phát tâm Bồ-đề, nên trụ tâm nhƣ thế này, nên hàng phục tâm nhƣ thế này.” “Bạch Thế Tôn! Chúng con nguyện đƣợc lắng nghe.” Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm nhƣ thế này: „Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra, hoặc có hình sắc, hoặc không có hình sắc, hoặc có tƣ tƣởng, hoặc không có tƣ tƣởng, hoặc chẳng phải có tƣ tƣởng cũng chẳng phải không có tƣ tƣởng, ta đều độ cho nhập vào Vô dƣ Niết-bàn. Nhƣ vậy diệt độ vô số chúng sinh, nhƣng thật không có chúng sinh nào đƣợc diệt độ. “Vì sao vậy? Tu-bồ-đề, nếu Bồ Tát có các tƣớng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, thì chẳng phải là Bồ Tát. “Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ Tát theo đúng pháp, nên lấy tâm không chỗ trụ mà làm việc bố thí. Nghĩa là chẳng nên trụ nơi hình sắc mà bố thí, chẳng nên trụ nơi âm thanh, hƣơng thơm, mùi vị, cảm xúc, pháp tƣớng mà bố thí.

KINH KIM CANG BÁT NHà BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA · kinh kim cang bÁt nhà ba la mẬt phẬt thÍch ca 2 “tu-bồ-đề!

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: KINH KIM CANG BÁT NHà BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA · kinh kim cang bÁt nhà ba la mẬt phẬt thÍch ca 2 “tu-bồ-đề!

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA

1

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT - Đoàn Trung Còn -

Nguyễn Minh Tiến

(05/14/2010) (download từ: www.thuvienhoasen.org)

KINH KIM CANG

Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

Nhà xuất bản: Tôn Giáo PL. 2550 – DL. 2006

Tôi nghe nhƣ thế này. Khi Phật ở thành Xá-vệ, vƣờn Kỳ Thọ Cấp

Cô Độc cùng với các vị đại tỳ-kheo là một ngàn hai trăm năm mƣơi

vị.

Đến giờ thọ trai, đức Thế Tôn đắp y mang bát vào thành Xá-vệ khất

thực. Vào trong thành, theo thứ tự khất thực, rồi trở về tinh xá. Thọ

trai xong, thu dọn y bát, rửa chân tay, trải tòa ra ngồi.

Lúc ấy Trƣởng lão Tu-bồ-đề từ chỗ ngồi trong đại chúng đứng dậy,

bày vai bên phải, quỳ gối phải, cung kính chắp tay bạch Phật rằng:

“Thế Tôn, thật ít có! Nhƣ Lai khéo hộ niệm các vị Bồ Tát, khéo dặn

dò các vị Bồ Tát.

“Thế Tôn! Nếu có những kẻ nam ngƣời nữ có lòng lành phát tâm

cầu đạo Vô Thƣợng Bồ-đề, nên trụ tâm nhƣ thế nào? Hàng phục

tâm nhƣ thế nào?”

Phật dạy: “Lành thay! Lành thay! Tu-bồ-đề, đúng nhƣ ông vừa nói.

Nhƣ Lai khéo hộ niệm các vị Bồ Tát, khéo dặn dò các vị Bồ Tát.

Nay ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì các ông mà giảng thuyết.

“Nếu những kẻ nam ngƣời nữ có lòng lành phát tâm Bồ-đề, nên trụ

tâm nhƣ thế này, nên hàng phục tâm nhƣ thế này.”

“Bạch Thế Tôn! Chúng con nguyện đƣợc lắng nghe.”

Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm nhƣ thế

này: „Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc

sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra, hoặc

có hình sắc, hoặc không có hình sắc, hoặc có tƣ tƣởng, hoặc không

có tƣ tƣởng, hoặc chẳng phải có tƣ tƣởng cũng chẳng phải không có

tƣ tƣởng, ta đều độ cho nhập vào Vô dƣ Niết-bàn. Nhƣ vậy diệt độ

vô số chúng sinh, nhƣng thật không có chúng sinh nào đƣợc diệt

độ.

“Vì sao vậy? Tu-bồ-đề, nếu Bồ Tát có các tƣớng ngã, nhân, chúng

sinh, thọ giả, thì chẳng phải là Bồ Tát.

“Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ Tát theo đúng pháp, nên lấy tâm không chỗ

trụ mà làm việc bố thí. Nghĩa là chẳng nên trụ nơi hình sắc mà bố

thí, chẳng nên trụ nơi âm thanh, hƣơng thơm, mùi vị, cảm xúc, pháp

tƣớng mà bố thí.

Page 2: KINH KIM CANG BÁT NHà BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA · kinh kim cang bÁt nhà ba la mẬt phẬt thÍch ca 2 “tu-bồ-đề!

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA

2

“Tu-bồ-đề! Bồ Tát nên bố thí nhƣ vậy đó, không trụ nơi tƣớng.

“Vì sao vậy? Nếu Bồ Tát bố thí với tâm không trụ tƣớng, phƣớc

đức ấy chẳng thể suy lƣờng.

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Hƣ không phƣơng đông có thể suy

lƣờng đƣợc chăng?”

“Bạch Thế Tôn, chẳng thể đƣợc.”

“Tu-bồ-đề! Hƣ không các phƣơng nam, tây, bắc, bốn phƣơng phụ,

phƣơng trên, phƣơng dƣới có thể suy lƣờng đƣợc chăng?”

“Bạch Thế Tôn, chẳng thể đƣợc.”

“Tu-bồ-đề! Bồ Tát bố thí với tâm không trụ tƣớng, phƣớc đức cũng

nhƣ vậy, chẳng thể suy lƣờng.

“Tu-bồ-đề! Bồ Tát chỉ nên trụ tâm theo nhƣ chỗ đã chỉ dạy.

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Có thể dùng thân tƣớng mà thấy Nhƣ

Lai chăng?”

“Bạch Thế Tôn, chẳng thể đƣợc. Chẳng thể dùng thân tƣớng mà

thấy Nhƣ Lai. Vì sao vậy? Nhƣ Lai dạy rằng thân tƣớng vốn thật

chẳng phải là thân tƣớng.”

Phật bảo Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tƣớng đều là hƣ vọng.

Nếu thấy các tƣớng chẳng phải tƣớng tức là thấy Nhƣ Lai.”

Tu-bồ-đề bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Liệu có chúng sinh nào nghe

lời thuyết dạy này mà sinh lòng tin chân thật chăng?”

Phật bảo Tu-bồ-đề: “Chớ nên nói thế! Nhƣ Lai diệt độ rồi, sau năm

trăm năm sẽ có những ngƣời tu phƣớc giữ theo giới luật, đối với lời

thuyết dạy này thƣờng sinh lòng tin, nhận là chân thật. Nên biết

những ngƣời này chẳng phải chỉ ở nơi một, hai, ba, bốn, năm đức

Phật gieo trồng căn lành, mà vốn thật là đã từng ở nơi vô số ngàn

vạn đức Phật gieo trồng căn lành.

“Nhƣ có chúng sinh nào nghe lời thuyết dạy này, dù chỉ một niệm

sinh lòng tin trong sạch, Tu-bồ-đề, Nhƣ Lai ắt sẽ thấy biết rằng

những chúng sinh ấy đƣợc vô lƣợng phƣớc đức. Vì sao vậy? Những

chúng sinh ấy không sinh khởi lại các tƣớng ngã, nhân, chúng sinh,

thọ giả, không khởi pháp tƣớng, cũng không khởi phi pháp tƣớng.

“Vì sao vậy? Những chúng sinh ấy nếu tâm chấp giữ tƣớng, tức

mắc vào ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Nếu giữ lấy pháp tƣớng tức

mắc vào ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Vì sao vậy? Nếu giữ lấy

phi pháp tƣớng, tức mắc vào ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả.

“Vì thế, chẳng nên chấp giữ lấy pháp, cũng chẳng nên chấp giữ lấy

phi pháp.

“Do nơi nghĩa này, Nhƣ Lai thƣờng nói: Các vị tỳ-kheo nên biết,

pháp Phật thuyết dạy nhƣ cái bè qua sông. Pháp còn nên xả bỏ,

huống chi những gì chẳng phải pháp?

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Nhƣ Lai có đƣợc pháp Vô thƣợng

Chánh đẳng Chánh giác chăng? Nhƣ Lai có chỗ thuyết pháp

chăng?”

Tu-bồ-đề thƣa: “Theo nhƣ chỗ con hiểu nghĩa Phật đã dạy, không

có pháp xác định gọi là Vô thƣợng Chánh đẳng Chánh giác, cũng

không có pháp xác định nào Nhƣ Lai có thể thuyết.

Page 3: KINH KIM CANG BÁT NHà BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA · kinh kim cang bÁt nhà ba la mẬt phẬt thÍch ca 2 “tu-bồ-đề!

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA

3

“Vì sao vậy? Chỗ thuyết pháp của Nhƣ Lai thảy đều chẳng thể chấp

giữ lấy, chẳng thể nói ra, chẳng phải là pháp, cũng chẳng phải là phi

pháp.

“Vì sao vậy? Tất cả các bậc thánh hiền đều dùng pháp vô vi, nhƣng

có chỗ sai biệt nhau.”

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Nếu có ngƣời làm đầy cõi Tam thiên

đại thiên thế giới với bảy món báu, rồi dùng mà bố thí, đƣợc phƣớc

đức nhiều chăng?”

Tu-bồ-đề thƣa: “Bạch Thế Tôn, rất nhiều. Vì sao vậy? Phƣớc đức,

thật chẳng phải là tánh phƣớc đức, nên Nhƣ Lai nói là nhiều phƣớc

đức.”

“Nếu lại có ngƣời thọ trì chỉ bốn câu kệ trong kinh này,vì ngƣời

khác mà giảng nói, phƣớc này hơn hẳn phƣớc bố thí kia.

“Vì sao vậy? Hết thảy chƣ Phật và giáo pháp Vô thƣợng Chánh

đẳng Chánh giác của các ngài đều từ nơi kinh này mà ra.

“Tu-bồ-đề! Vì vậy mà nói rằng: pháp Phật tức chẳng phải là pháp

Phật.

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Vị Tu-đà-hoàn có đƣợc khởi niệm: „Ta

đƣợc quả Tu-đà-hoàn‟ chăng?”

Tu-bồ-đề thƣa: “Bạch Thế Tôn, chẳng thể đƣợc. Vì sao vậy? Tu-đà-

hoàn gọi là nhập vào dòng, nhƣng thật không có chỗ nhập. Chẳng

nhập vào hình sắc, âm thanh, hƣơng thơm, mùi vị, cảm xúc, pháp

tƣớng, nên mới gọi là Tu-đà-hoàn.”

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Vị Tƣ-đà-hàm có đƣợc khởi niệm: „Ta

đƣợc quả Tƣ-đà-hàm‟ chăng?”

Tu-bồ-đề thƣa: “Bạch Thế Tôn, chẳng đƣợc. Vì sao vậy? Tƣ-đà-

hàm gọi là một lần trở lại, nhƣng thật không có trở lại, nên mới gọi

là Tƣ-đà-hàm.”

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Vị A-na-hàm có đƣợc khởi niệm: „Ta

đƣợc quả A-na-hàm‟ chăng?”

Tu-bồ-đề thƣa: “Bạch Thế Tôn, chẳng đƣợc. Vì sao vậy? A-na-hàm

gọi là không trở lại, nhƣng thật chẳng phải là không trở lại, nên mới

gọi là A-na-hàm.”

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Vị A-la-hán có đƣợc khởi niệm: „Ta

đƣợc đạo A-la-hán‟ chăng?

Tu-bồ-đề thƣa: “Bạch Thế Tôn, chẳng đƣợc. Vì sao vậy? Thật

không có pháp gọi là A-la-hán. Thế Tôn! Nếu vị A-la-hán khởi

niệm rằng: „Ta đƣợc đạo A-la-hán‟, tức là vƣớng mắc vào ngã,

nhân, chúng sinh, thọ giả.

“Thế Tôn! Phật bảo rằng con đƣợc phép Tam-muội Vô tranh cao

quý nhất trong loài ngƣời, là bậc A-la-hán cao quý nhất lìa bỏ tham

dục. Thế Tôn! Con chẳng khởi niệm này: „Ta là bậc A-la-hán lìa bỏ

tham dục‟.

“Bạch Thế Tôn! Nếu con khởi niệm này: „Ta đƣợc đạo A-la-hán‟,

Thế Tôn tất chẳng nói: „Tu-bồ-đề ƣa thích hạnh A-lan-na.‟ Vì con

đây thật không vƣớng mắc ở chỗ làm, nên mới nói rằng: Tu-bồ-đề

ƣa thích hạnh A-lan-na.”

Phật bảo Tu-bồ-đề: “Ý ông nghĩ sao? Nhƣ Lai trƣớc kia ở nơi Phật

Nhiên Đăng có chỗ đƣợc pháp chăng?”

“Bạch Thế Tôn, không có. Nhƣ Lai ở nơi Phật Nhiên Đăng thật

không có chỗ đƣợc pháp.”

Page 4: KINH KIM CANG BÁT NHà BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA · kinh kim cang bÁt nhà ba la mẬt phẬt thÍch ca 2 “tu-bồ-đề!

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA

4

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Bồ Tát có trang nghiêm cõi Phật

chăng?”

“Bạch Thế Tôn, không có. Vì sao vậy? Việc trang nghiêm cõi Phật

đó, thật chẳng phải trang nghiêm nên gọi là trang nghiêm.”

“Tu-bồ-đề! Vì vậy mà các vị đại Bồ Tát nên sinh tâm thanh tịnh

nhƣ thế này: „Chẳng nên trụ nơi hình sắc sinh tâm, chẳng nên trụ

nơi âm thanh, hƣơng thơm, mùi vị, cảm xúc, pháp tƣớng sinh tâm.

Nên ở nơi không chỗ trụ mà sinh tâm.

“Tu-bồ-đề! Nhƣ ngƣời kia có thân hình nhƣ núi chúa Tu-di. Ý ông

nghĩ sao? Thân ấy là lớn chăng?”

Tu-bồ-đề thƣa: “Bạch Thế Tôn, rất lớn. Vì sao vậy? Phật thuyết

chẳng phải thân, gọi là thân lớn.”

“Tu-bồ-đề! Nhƣ trong sông Hằng có bao nhiêu cát, mỗi hạt lại là

một sông Hằng. Ý ông nghĩ sao? Số cát trong tất cả những sông

Hằng ấy có nhiều chăng?”

Tu-bồ-đề thƣa: “Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Chỉ số sông Hằng nhƣ

thế còn nhiều không kể xiết, huống chi là cát trong những con sông

ấy!”

“Tu-bồ-đề! Nay ta dùng lời chân thật bảo cho ông biết. Nhƣ có

những kẻ nam ngƣời nữ lòng lành, dùng bảy món báu để làm đầy cả

số Tam thiên đại thiên thế giới nhiều nhƣ số cát của những sông

Hằng ấy, rồi mang ra bố thí, đƣợc phƣớc nhiều chăng?”

Tu-bồ-đề thƣa: “Bạch Thế Tôn, rất nhiều.”

Phật bảo Tu-bồ-đề: “Nếu có những kẻ nam ngƣời nữ lòng lành, thọ

trì dù chỉ bốn câu kệ trong kinh này, vì ngƣời khác giảng nói,

phƣớc đức này hơn cả phƣớc đức bố thí kia!

“Lại nữa, Tu-bồ-đề! Theo nhƣ kinh này mà thuyết dạy, cho đến chỉ

bốn câu kệ, nên biết là nơi ấy hết thảy thế gian, trời, ngƣời, a-tu-la

đều nên cúng dƣờng nhƣ tháp miếu Phật. Huống chi có ngƣời đem

hết sức mà thọ trì, đọc tụng! Tu-bồ-đề! Nên biết là ngƣời này thành

tựu đƣợc pháp cao quý bậc nhất ít có!

“Nếu kinh điển này ở tại nơi nào, tức nhƣ có Phật hoặc bậc đệ tử

cao quý đáng tôn trọng ở đó.”

Lúc ấy Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Kinh này gọi tên

là gì? Chúng con phải vâng giữ nhƣ thế nào?”

Phật bảo Tu-bồ-đề: “Kinh này gọi tên là Kim Cang Bát-nhã Ba-la-

mật. Nên theo nhƣ tên kinh mà vâng giữ. Vì sao vậy? Tu-bồ-đề!

Phật thuyết Bát-nhã Ba-la-mật tức chẳng phải Bát-nhã Ba-la-mật.

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Nhƣ Lai có chỗ thuyết pháp chăng?”

Tu-bồ-đề bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, Nhƣ Lai không có chỗ thuyết

pháp.”

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Số vi trầntrong Tam thiên đại thiên thế

giới có nhiều chăng?”

Tu-bồ-đề thƣa: “Bạch Thế Tôn, rất nhiều.”

“Tu-bồ-đề! Những vi trần ấy, Nhƣ Lai thuyết chẳng phải vi trần,

gọi là vi trần. Nhƣ Lai thuyết thế giới chẳng phải thế giới, gọi là thế

giới.

Page 5: KINH KIM CANG BÁT NHà BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA · kinh kim cang bÁt nhà ba la mẬt phẬt thÍch ca 2 “tu-bồ-đề!

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA

5

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Có thể dùng ba mƣơi hai tƣớng để thấy

Nhƣ Lai chăng?”

“Bạch Thế Tôn, chẳng thể đƣợc. Chẳng thể dùng ba mƣơi hai tƣớng

để thấy Nhƣ Lai. Vì sao vậy? Nhƣ Lai thuyết ba mƣơi hai tƣớng tức

chẳng phải tƣớng, gọi là ba mƣơi hai tƣớng.”

“Tu-bồ-đề! Nếu có những kẻ nam ngƣời nữ lòng lành, dùng thân

mạng nhiều nhƣ số cát sông Hằng để bố thí. Lại có ngƣời thọ trì

kinh này, cho đến chỉ bốn câu kệ, vì ngƣời khác giảng nói, phƣớc

ấy vƣợt hơn rất nhiều.”

Bấy giờ, Tu-bồ-đề nghe thuyết kinh này, hiểu sâu đƣợc nghĩa lý và

ý hƣớng, cảm động đến rơi lệ, bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Thật ít có

thay! Phật thuyết kinh điển này rất sâu xa, con từ khi đạt đƣợc mắt

huệ cho đến nay chƣa từng đƣợc nghe kinh nào nhƣ thế này.

“Bạch Thế Tôn! Nếu có ngƣời cũng đƣợc nghe kinh này, đem lòng

tin tƣởng trong sạch, liền khởi sinh tƣớng chân thật. Nên biết là

ngƣời ấy thành tựu đƣợc công đức cao quý bậc nhất ít có.

“Bạch Thế Tôn! Tƣớng chân thật ấy tức là chẳng phải tƣớng, nên

Nhƣ Lai gọi là tƣớng chân thật.

“Thế Tôn! Nay con đƣợc nghe kinh điển này, tin hiểu thọ trì chẳng

lấy chi làm khó. Nhƣng nếu năm trăm năm sau nữa có chúng sinh

nào đƣợc nghe kinh này, tin hiểu thọ trì, ngƣời ấy quả là bậc nhất ít

có. Vì sao vậy? Ngƣời ấy không có các tƣớng ngã, nhân, chúng

sinh, thọ giả.

“Vì sao vậy? Tƣớng ngã chẳng phải là tƣớng; tƣớng nhân, chúng

sinh, thọ giả cũng chẳng phải là tƣớng. Vì sao vậy? Lìa hết thảy các

tƣớng, gọi là chƣ Phật.”

Phật bảo Tu-bồ-đề: “Đúng vậy, đúng vậy! Nếu có ngƣời đƣợc nghe

kinh này mà chẳng thấy kinh sợ hoảng hốt, nên biết ngƣời ấy rất là

ít có.

“Vì sao vậy? Tu-bồ-đề! Nhƣ Lai dạy rằng bậc nhất Ba-la-mật, tức

chẳng phải bậc nhất Ba-la-mật, gọi là bậc nhất Ba-la-mật.

“Tu-bồ-đề! Nhẫn nhục Ba-la-mật, Nhƣ Lai nói là chẳng phải nhẫn

nhục Ba-la-mật.

“Vì sao vậy? Tu-bồ-đề! Nhƣ ta xƣa kia bị vua Ca-lỵ cắt xẻo thân

thể từng phần. Lúc bấy giờ, ta không có các tƣớng ngã, nhân, chúng

sinh, thọ giả. Vì sao vậy? Trong lúc ta bị cắt xẻo từng phần thân

thể, nếu có các tƣớng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, tất phải sinh

lòng sân hận.

“Tu-bồ-đề! Lại nhớ đến quá khứ năm trăm đời trƣớc, ta là một vị

tiên nhẫn nhục. Lúc ấy ta cũng không có các tƣớng ngã, nhân,

chúng sinh, thọ giả.

“Bởi vậy, Tu-bồ-đề, Bồ Tát nên lìa hết thảy các tƣớng mà phát tâm

Vô thƣợng Chánh đẳng Chánh giác. Chẳng nên trụ nơi hình sắc

sinh tâm, chẳng nên trụ nơi âm thanh, hƣơng thơm, mùi vị, cảm

xúc, pháp tƣớng sinh tâm. Nên sinh tâm không có chỗ trụ. Nếu tâm

có chỗ trụ tức là chẳng trụ.

“Vì thế Phật dạy các vị Bồ Tát chẳng nên trụ tâm nơi hình sắc mà

bố thí. Tu-bồ-đề! Bồ Tát vì lợi ích cho tất cả chúng sinh, nên bố thí

nhƣ vậy.

“Nhƣ Lai dạy rằng hết thảy các tƣớng tức chẳng phải tƣớng. Lại

dạy rằng hết thảy chúng sinh tức chẳng phải chúng sinh.

Page 6: KINH KIM CANG BÁT NHà BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA · kinh kim cang bÁt nhà ba la mẬt phẬt thÍch ca 2 “tu-bồ-đề!

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA

6

“Tu-bồ-đề! Lời nói của đấng Nhƣ Lai là chân chánh, đúng thật, nhƣ

nghĩa, không hƣ dối, không sai khác.

“Tu-bồ-đề! Nhƣ Lai có chỗ đƣợc pháp, pháp ấy không thật không

hƣ.

“Tu-bồ-đề! Nếu Bồ Tát trụ tâm nơi pháp làm việc bố thí, cũng nhƣ

ngƣời vào chỗ tối, không thể nhìn thấy. Nếu Bồ Tát chẳng trụ tâm

nơi pháp làm việc bố thí, nhƣ ngƣời có mắt, khi ánh sáng mặt trời

chiếu soi thấy đủ các màu sắc.

“Tu-bồ-đề! Về sau nếu có những kẻ nam ngƣời nữ lòng lành,

thƣờng hay thọ trì đọc tụng kinh này, Nhƣ Lai dùng trí huệ Phật

thấy biết những ngƣời này đều đƣợc thành tựu vô lƣợng vô biên

công đức.

“Tu-bồ-đề! Nếu có những kẻ nam ngƣời nữ lòng lành, vừa lúc đầu

ngày dùng thân mạng nhiều nhƣ cát sông Hằng mà bố thí, đến giữa

ngày lại dùng thân mạng nhiều nhƣ cát sông Hằng mà bố thí, đến

cuối ngày cũng lại dùng thân mạng nhiều nhƣ cát sông Hằng mà bố

thí. Cứ nhƣ vậy trong vô lƣợng trăm ngàn ức kiếp, dùng thân mạng

bố thí. Nếu có ngƣời nghe kinh điển này, trong lòng tin theo chẳng

nghịch, đƣợc phƣớc nhiều hơn cả những ngƣời dùng thân mạng bố

thí kia. Huống chi là sao chép, thọ trì, đọc tụng, vì ngƣời khác giảng

giải!

“Tu-bồ-đề! Nói tóm lại một lời quan trọng nhất: Kinh này có vô

lƣợng vô biên công đức, chẳng thể suy lƣờng. Nhƣ Lai vì ngƣời

phát tâm Đại thừa mà thuyết dạy, vì ngƣời phát tâm Tối thƣợng

thừa mà thuyết dạy. Nếu có ngƣời thƣờng hay thọ trì, đọc tụng,

rộng vì ngƣời khác mà thuyết giảng, Nhƣ Lai tất sẽ thấy biết những

ngƣời này đều đƣợc thành tựu công đức vô lƣợng vô biên chẳng thể

suy lƣờng. Những ngƣời nhƣ vậy có thể đảm đƣơng gánh vác đạo

Vô thƣợng Chánh đẳng Chánh giác của Nhƣ Lai.

“Vì sao vậy? Tu-bồ-đề! Nếu kẻ ƣa pháp nhỏ, vƣớng mắc vào những

kiến giải ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, tức chẳng thể thọ trì đọc

tụng, vì ngƣời khác mà giảng giải kinh này.

“Tu-bồ-đề! Bất cứ nơi nào có kinh này, hết thảy thế gian, các hàng

trời, ngƣời, a-tu-la đều nên cúng dƣờng. Nên biết nơi ấy tức là tháp

Phật, nên cung kính đi quanh lễ bái, dùng các thứ hƣơng hoa rải lên

nơi ấy.

“Lại nữa, Tu-bồ-đề! Những kẻ nam ngƣời nữ lòng lành, thọ trì đọc

tụng kinh này, nếu bị ngƣời khác khinh chê, thì ngƣời trì kinh ấy dù

cho đời trƣớc đã tạo ác nghiệp lẽ ra phải đọa vào các đƣờng dữ, nay

nhân bị ngƣời khinh chê, ác nghiệp đời trƣớc liền tiêu diệt, đƣợc

thành tựu quả Vô thƣợng Chánh đẳng Chánh giác.

“Tu-bồ-đề! Ta nhớ thuở quá khứ vô lƣợng a-tăng-kỳ kiếp trƣớc

Phật Nhiên đăng, ta đã đƣợc gặp tám trăm lẻ bốn ngàn vạn ức na-

do-tha đức Phật, và đều cung kính phụng sự không chút lỗi lầm.

Nếu có ngƣời đời mạt pháp sau này thƣờng thọ trì tụng đọc kinh

này. Ngƣời ấy đƣợc công đức so với công đức cúng dƣờng chƣ

Phật của ta vƣợt hơn bội phần, trăm phần ta chẳng theo kịp một,

ngàn vạn ức phần, cho đến tính toán, thí dụ cũng chẳng thể theo kịp

đƣợc.

“Tu-bồ-đề! Những kẻ nam ngƣời nữ lòng lành vào đời mạt pháp thọ

trì đọc tụng kinh này đƣợc nhiều công đức, nếu ta nói ra đầy đủ sẽ

có ngƣời nghe qua sinh tâm cuồng loạn, nghi ngờ chẳng tin.

“Tu-bồ-đề! Nên biết rằng, nghĩa kinh này không thể nghĩ bàn, quả

báo cũng không thể nghĩ bàn.

Bấy giờ, Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Những kẻ nam

ngƣời nữ lòng lành phát tâm Vô thƣợng Chánh đẳng Chánh giác,

nên trụ tâm nhƣ thế nào? Hàng phục tâm nhƣ thế nào?”

Page 7: KINH KIM CANG BÁT NHà BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA · kinh kim cang bÁt nhà ba la mẬt phẬt thÍch ca 2 “tu-bồ-đề!

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA

7

Phật bảo Tu-bồ-đề: “Những kẻ nam ngƣời nữ lòng lành phát tâm

Vô thƣợng Chánh đẳng Chánh giác, nên khởi tâm nhƣ thế này: Ta

nên diệt độ hết thảy chúng sinh; diệt độ hết thảy chúng sinh, nhƣng

thật không có chúng sinh nào diệt độ.

“Vì sao vậy? Tu-bồ-đề! Nếu Bồ Tát có các tƣớng ngã, nhân, chúng

sinh, thọ giả, tức không phải Bồ Tát.

“Vì sao vậy? Tu-bồ-đề! Thật không có pháp phát tâm Vô thƣợng

Chánh đẳng Chánh giác.

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Nhƣ Lai ở chỗ Phật Nhiên Đăng có

đƣợc pháp Vô thƣợng Chánh đẳng Chánh giác chăng?”

“Bạch Thế Tôn, chẳng có. Nhƣ con hiểu theo nghĩa Phật thuyết,

Nhƣ Lai ở nơi Phật Nhiên Đăng trƣớc kia không có đƣợc pháp Vô

thƣợng Chánh đẳng Chánh giác.”

Phật nói: “Đúng vậy, đúng vậy! Tu-bồ-đề, thật không có pháp Nhƣ

Lai đƣợc Vô thƣợng Chánh đẳng Chánh giác.

“Tu-bồ-đề! Nếu nhƣ có pháp Nhƣ Lai đƣợc Vô thƣợng Chánh đẳng

Chánh giác, Phật Nhiên Đăng hẳn đã không thọ ký cho ta: „Ông về

sau sẽ thành Phật hiệu Thích-ca Mâu-ni.‟ “Vì thật không có pháp

đƣợc Vô thƣợng Chánh đẳng Chánh giác, nên Phật Nhiên Đăng

mới thọ ký cho ta rằng: „Ông về sau sẽ thành Phật, hiệu Thích-ca

Mâu-ni.‟

“Vì sao vậy? Nói Nhƣ Lai đó, tức là nghĩa nhƣ của các pháp.

“Nếu có ngƣời nói: „Nhƣ Lai đƣợc Vô thƣợng Chánh đẳng Chánh

giác.‟ Tu-bồ-đề! Thật không có pháp Phật đƣợc Vô thƣợng Chánh

đẳng Chánh giác.

“Tu-bồ-đề! Nhƣ Lai có chỗ đƣợc Vô thƣợng Chánh đẳng Chánh

giác. Trong chỗ ấy không thật, không hƣ.

“Vì thế, Nhƣ Lai dạy rằng: Hết thảy các pháp đều là Phật pháp.

“Tu-bồ-đề! Nói là hết thảy các pháp, tức chẳng phải pháp, vì thế gọi

là hết thảy các pháp.

“Tu-bồ-đề! Ví nhƣ thân ngƣời dài lớn.”

Tu-bồ-đề nói: “Bạch Thế Tôn, Nhƣ Lai nói rằng thân ngƣời dài lớn

tức chẳng phải là thân lớn, gọi là thân lớn.”

“Tu-bồ-đề! Bồ Tát cũng lại nhƣ vậy. Nếu nói rằng: „Ta đang độ cho

vô lƣợng chúng sinh, tức chẳng gọi là Bồ Tát.‟

“Vì sao vậy? Tu-bồ-đề! Thật không có pháp gọi là Bồ Tát. Vì thế

Phật thuyết hết thảy các pháp đều không có các tƣớng ngã, nhân,

chúng sinh, thọ giả.

“Tu-bồ-đề! Nếu Bồ Tát nói rằng: „Ta đang làm trang nghiêm cõi

Phật‟, nhƣ vậy chẳng gọi là Bồ Tát. Vì sao vậy? Nhƣ Lai dạy rằng,

trang nghiêm cõi Phật tức chẳng phải trang nghiêm, gọi là trang

nghiêm.

“Tu-bồ-đề! Nếu Bồ Tát thông đạt pháp vô ngã, Nhƣ Lai gọi đó thật

là Bồ Tát.

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Nhƣ Lai có nhục nhãn chăng?”

“Bạch Thế Tôn, đúng vậy. Nhƣ Lai có nhục nhãn.”

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Nhƣ Lai có thiên nhãn chăng?”

“Bạch Thế Tôn, đúng vậy. Nhƣ Lai có thiên nhãn.”

Page 8: KINH KIM CANG BÁT NHà BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA · kinh kim cang bÁt nhà ba la mẬt phẬt thÍch ca 2 “tu-bồ-đề!

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA

8

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Nhƣ Lai có huệ nhãnchăng?”

“Bạch Thế Tôn, đúng vậy. Nhƣ Lai có huệ nhãn.”

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Nhƣ Lai có pháp nhãnchăng?”

“Bạch Thế Tôn, đúng vậy. Nhƣ Lai có pháp nhãn.”

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Nhƣ Lai có Phật nhãn chăng?”

“Bạch Thế Tôn, đúng vậy. Nhƣ Lai có Phật nhãn.”

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Trong sông Hằng có cát, Phật nói đó là

cát chăng?”

“Bạch Thế Tôn, đúng vậy. Nhƣ Lai nói đó là cát.”

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Nhƣ trong một con sông Hằng có bao

nhiêu cát, lại có số sông Hằng nhiều nhƣ số cát ấy, lại có số cõi

Phật nhiều nhƣ số cát trong tất cả những con sông Hằng đó, nhƣ

vậy là nhiều chăng?”

“Bạch Thế Tôn, rất nhiều!”

Phật bảo Tu-bồ-đề: “Hết thảy chúng sinh trong số cõi Phật nhiều

nhƣ vậy, nếu khởi tâm suy nghĩ, Nhƣ Lai đều biết. Vì sao vậy? Nhƣ

Lai dạy rằng, các tâm đều là không phải tâm, nên gọi là tâm.

“Vì sao nhƣ thế? Tu-bồ-đề! Tâm quá khứ chẳng thể nắm bắt. Tâm

hiện tại chẳng thể nắm bắt. Tâm vị lai chẳng thể nắm bắt.

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Nếu có ngƣời dùng bảy món báu làm

đầy cõi Tam thiên đại thiên thế giới rồi dùng để bố thí. Do nhân

duyên ấy, đƣợc phƣớc nhiều chăng?”

“Bạch Thế Tôn, quả đúng nhƣ vậy. Do nhân duyên bố thí, ngƣời ấy

đƣợc phƣớc rất nhiều.”

“Tu-bồ-đề! Nếu phƣớc đức có thật, Nhƣ Lai chẳng nói là đƣợc

nhiều phƣớc đức. Vì phƣớc đức không, nên Nhƣ Lai nói là đƣợc

nhiều phƣớc đức.

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Có thể lấy sắc thân đầy đủ thấy đó là

Phật chăng?”

“Bạch Thế Tôn, chẳng đƣợc. Chẳng nên lấy sắc thân đầy đủ thấy là

Nhƣ Lai. Vì sao vậy? Nhƣ Lai dạy rằng, sắc thân đầy đủ tức chẳng

phải sắc thân đầy đủ, gọi là sắc thân đầy đủ.”

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Có thể dùng các tƣớng đầy đủ thấy là

Nhƣ Lai chăng?”

“Bạch Thế Tôn, chẳng đƣợc. Chẳng nên dùng các tƣớng đầy đủ

thấy là Nhƣ Lai. Vì sao vậy? Nhƣ Lai dạy rằng, các tƣớng đầy đủ

tức chẳng phải đầy đủ, gọi là các tƣớng đầy đủ.”

“Tu-bồ-đề! Ông đừng cho rằng Nhƣ Lai có ý nghĩ này: „Ta đang có

chỗ thuyết pháp‟. Chớ nghĩ nhƣ thế. Vì sao vậy? Nếu ai nói rằng

Nhƣ Lai có chỗ thuyết pháp, tức là hủy báng Phật, chẳng thể hiểu

đƣợc chỗ ta thuyết dạy.

“Tu-bồ-đề! Ngƣời thuyết pháp đó, chẳng pháp nào có thể thuyết,

gọi là thuyết pháp.”

Bấy giờ, ngài Huệ Mạng Tu-bồ-đề bạch Phật: “Thế Tôn! Liệu có

chúng sinh nào ở đời vị lai nghe thuyết pháp này sinh lòng tin theo

chăng?”

Page 9: KINH KIM CANG BÁT NHà BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA · kinh kim cang bÁt nhà ba la mẬt phẬt thÍch ca 2 “tu-bồ-đề!

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA

9

Phật dạy: “Tu-bồ-đề! Đó chẳng phải là chúng sinh, chẳng phải

không là chúng sinh.

“Vì sao vậy? Tu-bồ-đề! Chúng sinh đó, Nhƣ Lai dạy rằng chẳng

phải chúng sinh, gọi là chúng sinh.”

Tu-bồ-đề bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Phật đƣợc pháp Vô thƣợng

Chánh đẳng Chánh giác là không có chỗ đƣợc sao?”

Phật nói: “Đúng vậy, đúng vậy! Tu-bồ-đề! Ta đối với quả Vô

thƣợng Chánh đẳng Chánh giác, chẳng có lấy một phần nhỏ pháp

có thể đƣợc, nên gọi là Vô thƣợng Chánh đẳng Chánh giác.

“Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp này bình đẳng không có cao thấp, gọi tên

là Vô thƣợng Chánh đẳng Chánh giác. Trừ bỏ các tƣớng ngã, nhân,

chúng sinh, thọ giả mà tu hết thảy pháp lành, tức thành Vô thƣợng

Chánh đẳng Chánh giác.

“Tu-bồ-đề! Chỗ nói là pháp lành, Nhƣ Lai dạy rằng chẳng phải

pháp lành, gọi là pháp lành.

“Tu-bồ-đề! Nhƣ trong cõi Tam thiên đại thiên thế giới có các núi

chúa Tu-di, có ngƣời dùng bảy món báu tích tụ nhiều nhƣ các núi

ấy mà bố thí. Lại có ngƣời lấy kinh Bát-nhã Ba-la-mật này, thậm

chí chỉ bốn câu kệ, thọ trì, đọc tụng, vì ngƣời khác giảng nói. Phƣớc

đức của ngƣời bố thí so với ngƣời trì kinh thật trăm phần chẳng bì

đƣợc một, trăm ngàn vạn ức phần, cho đến tính toán, thí dụ cũng

chẳng thể theo kịp đƣợc.

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Các ông đừng cho rằng Nhƣ Lai có ý

nghĩ này: „Ta đang độ chúng sinh‟.

“Tu-bồ-đề! Chớ nghĩ nhƣ thế. Vì sao vậy? Thật không có chúng

sinh nào đƣợc Nhƣ Lai độ! Nếu có chúng sinh đƣợc Nhƣ Lai độ,

Nhƣ Lai tất có các tƣớng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả.

“Tu-bồ-đề! Nhƣ Lai dạy rằng có ngã, tức chẳng phải có ngã, nhƣng

phàm phu cho là có ngã.

“Tu-bồ-đề! Phàm phu đó, Nhƣ Lai dạy rằng chẳng phải phàm phu.

“Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Có thể lấy ba mƣơi hai tƣớng mà quán

đó là Nhƣ Lai chăng?”

Tu-bồ-đề thƣa: “Không thể đƣợc, Thế Tôn! Không thể lấy ba mƣơi

hai tƣớng mà quán đó là Nhƣ Lai.”

Phật bảo Tu-bồ-đề: “Nếu lấy ba mƣơi hai tƣớng mà quán đó là Nhƣ

Lai, vậy Chuyển Luân Thánh Vƣơng tức là Nhƣ Lai.”

Tu-bồ-đề bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Theo nhƣ chỗ con hiểu nghĩa

Phật thuyết dạy, chẳng nên lấy ba mƣơi hai tƣớng mà quán đó là

Nhƣ Lai.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:

“Nếu dùng sắc thấy Ta,

Dùng âm thanh cầu Ta.

Là ngƣời hành tà đạo,

Chẳng thể thấy Nhƣ Lai.”

“Tu-bồ-đề! Nếu ông khởi ý nghĩ rằng: „Nhƣ Lai có thể dùng các

tƣớng đầy đủ mà đƣợc thành Vô thƣợng Chánh đẳng Chánh giác‟.

Page 10: KINH KIM CANG BÁT NHà BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA · kinh kim cang bÁt nhà ba la mẬt phẬt thÍch ca 2 “tu-bồ-đề!

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA

10

Tu-bồ-đề! Chớ nghĩ nhƣ thế. Chớ nghĩ rằng Nhƣ Lai có thể dùng

các tƣớng đầy đủ mà đƣợc thành Vô thƣợng Chánh đẳng Chánh

giác.

“Tu-bồ-đề! Nếu ông khởi ý nghĩ rằng: „Ngƣời phát tâm Vô thƣợng

Chánh đẳng Chánh giác thuyết giảng tƣớng đoạn diệt của các

pháp.‟ Chớ nghĩ nhƣ thế. Vì sao vậy? Ngƣời phát tâm Vô thƣợng

Chánh đẳng Chánh giác, đối với pháp chẳng thuyết tƣớng đoạn diệt.

“Tu-bồ-đề! Nếu Bồ Tát dùng bảy báu làm đầy số cõi thế giới nhiều

nhƣ cát sông Hằng rồi mang ra bố thí. Lại có ngƣời hiểu biết hết

thảy các pháp là vô ngã nên thành tựu đƣợc hạnh nhẫn nhục. Công

đức của ngƣời này vƣợt hơn vị Bồ Tát làm việc bố thí.

“Vì sao vậy? Tu-bồ-đề! Là vì Bồ Tát chẳng thọ nhận phƣớc đức.”

Tu-bồ-đề bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát chẳng thọ

nhận phƣớc đức?”

“Tu-bồ-đề! Bồ Tát có làm những việc phƣớc đức đều chẳng nên

tham trƣớc, nên nói là chẳng thọ nhận phƣớc đức.

“Tu-bồ-đề! Nếu có ngƣời nói: „Nhƣ Lai có đến, hoặc có đi, hoặc có

ngồi, hoặc có nằm.‟ Ngƣời ấy thật chẳng hiểu nghĩa ta thuyết dạy.

Vì sao vậy? Nhƣ Lai đó, chẳng từ đâu mà đến, cũng chẳng đi về

đâu, nên gọi là Nhƣ Lai.

“Tu-bồ-đề! Nếu có những kẻ nam ngƣời nữ lòng lành, lấy cả cõi

Tam thiên đại thiên thế giới nghiền nát thành vi trần. Ý ông nghĩ

sao? Số vi trần ấy có nhiều chăng?”

Tu-bồ-đề thƣa: “Bạch Thế Tôn, rất nhiều. Vì sao vậy? Nếu những

vi trần này là thật có, Phật tất chẳng nói là vi trần. Vì sao thế? Phật

dạy rằng các vi trần, tức chẳng phải vi trần, gọi là vi trần.

“Thế Tôn! Chỗ Nhƣ Lai nói Tam thiên đại thiên thế giới, tức chẳng

phải thế giới, gọi là thế giới. Vì sao vậy? Nếu thế giới là có thật, tức

là một tƣớng hòa hợp. Nhƣ Lai dạy rằng một tƣớng hòa hợp tức

chẳng phải một tƣớng hòa hợp, gọi là một tƣớng hòa hợp.”

“Tu-bồ-đề! Một tƣớng hòa hợp tức là chẳng thể nói ra. Chỉ vì kẻ

phàm phu tham chấp nơi sự việc.

“Tu-bồ-đề! Nếu có ngƣời nói rằng Phật thuyết dạy những kiến giải

ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Ngƣời

ấy có hiểu đƣợc nghĩa ta thuyết dạy chăng?”

“Bạch Thế Tôn, ngƣời ấy chẳng hiểu đƣợc nghĩa Nhƣ Lai thuyết

dạy. Vì sao vậy? Thế Tôn dạy rằng những kiến giải ngã, nhân,

chúng sinh, thọ giả chẳng phải là những kiến giải ngã, nhân, chúng

sinh, thọ giả, gọi là những kiến giải ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả.”

“Tu-bồ-đề! Ngƣời phát tâm Vô thƣợng Chánh đẳng Chánh giác, đối

với hết thảy các pháp, nên thấy biết nhƣ thế này, tin hiểu nhƣ thế

này, chẳng sinh khởi pháp tƣớng.

“Tu-bồ-đề! Chỗ nói là pháp tƣớng đó, Nhƣ Lai dạy rằng chẳng phải

pháp tƣớng, gọi là pháp tƣớng.

“Tu-bồ-đề! Nếu có ngƣời dùng bảy món báu làm đầy khắp trong vô

số a-tăng-kỳ thế giới rồi dùng mà bố thí, lại có những kẻ nam ngƣời

nữ lòng lành phát tâm Bồ-đề, giữ làm theo kinh này, thậm chí chỉ

bốn câu kệ, thọ trì đọc tụng, vì ngƣời khác giảng nói, phƣớc đức

này hơn cả phƣớc bố thí kia!

“Thế nào là vì ngƣời giảng nói? Chẳng chấp giữ nơi tƣớng, nhƣ nhƣ

chẳng động. Vì sao vậy?

Page 11: KINH KIM CANG BÁT NHà BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA · kinh kim cang bÁt nhà ba la mẬt phẬt thÍch ca 2 “tu-bồ-đề!

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA

11

“Hết thảy pháp hữu vi,

“Nhƣ mộng ảo, bọt nƣớc,

“Nhƣ sƣơng sa, điện chớp.

“Nên quán sát nhƣ vậy.”

Phật thuyết kinh này rồi, Trƣởng lão Tu-bồ-đề cùng các vị tỳ-kheo,

tỳ-kheo ni, ƣu-bà-tắc, ƣu-bà-di, hết thảy thế gian, trời, ngƣời, a-tu-

la, nghe Phật thuyết dạy đều hết sức hoan hỷ, tin nhận, vâng làm

theo.

KINH KIM CANG BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT

KINH KIM CƢƠNG - Thích Nhất Hạnh

(05/14/2010) (Xem: 4991)

KINH KIM CƢƠNG - Thích Nhất Hạnh

(05/14/2010) (Download từ www.thuvienhoasen.org)

KINH KIM CƯƠNG

Thích Nhất Hạnh

Kệ tán:

Làm sao vƣợt sinh tử

Đạt đƣợc thân Kim Cƣơng

Tu tập theo lối nào

Quét đƣợc muôn huyễn tƣớng

Xin Bụt đem lòng thƣơng

Mở bày kho bí tạng

Vì tất cả chúng con

Đem pháp mầu diễn xƣớng!

Đây là những điều tôi đƣợc nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ

Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn

hai trăm năm mƣơi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và

ôm bát đi vào thành Xá Vệ. Trong thành, Ngƣời theo phép tuần tự

ghé từng nhà để khất thực. Khất thực xong, Ngƣời về lại tu viện thọ

trai. Thọ trai xong, Ngƣời xếp y bát, rửa chân, trải tọa cụ mà ngồi.

Lúc ấy, từ chỗ ngồi của mình trong đại chúng, thƣợng tọa Tu Bồ Đề

đứng dậy, trịch vai áo bên phải ra, quỳ chân trái xuống, chấp tay

cung kính bạch với Bụt rằng: "Thế Tôn, Ngƣời thật là bậc hiếm có!

Thế Tôn thƣờng đặc biệt hộ niệm và giao phó sự nghiệp cho các vị

Bồ Tát. Thế Tôn, những ngƣời con trai hiền và những ngƣời con

gái hiền nào muốn phát tâm vô thƣợng chánh đẳng chánh giác thì

nên nƣơng tựa vào đâu và làm sao mà điều phục tâm mình?"

Page 12: KINH KIM CANG BÁT NHà BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA · kinh kim cang bÁt nhà ba la mẬt phẬt thÍch ca 2 “tu-bồ-đề!

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA

12

Bụt bảo: "Hay lắm, thầy Tu Bồ Đề! Thầy nói thật đúng, Nhƣ Lai

thƣờng đặc biệt hộ niệm và giao phó sự nghiệp cho các vị Bồ Tát.

Này, thầy hãy lắng nghe cho kỹ, Nhƣ Lai sẽ vì thầy mà trả lời.

Những ngƣời con trai hiền hay những ngƣời con gái hiền nào muốn

phát tâm vô thƣợng chánh đẳng chánh giác thì phải nƣơng tựa và

phải điều phục tâm của họ nhƣ thế này."

Thầy Tu Bồ Đề nói: "Bạch Thế Tôn, chúng con rất mong đƣợc

nghe Ngƣời chỉ dạy."

Bụt bảo Tu Bồ Đề: "Các bậc Bồ Tát đại nhân nên hàng phục tâm

mình nhƣ sau: Có cả thảy bao nhiêu loại chúng sanh, hoặc sinh từ

trứng, hoặc sinh từ thai, hoặc sinh từ sự ẩm ƣớt, hoặc từ sự biến

hóa, hoặc có hình sắc, hoặc không có hình sắc, hoặc có tri giác,

hoặc không có tri giác, hoặc không phải có tri giác cũng không phải

không có tri giác, ta đều phải đƣa tất cả các loài ấy vào Niết Bàn

tuyệt đối để tất cả đều đƣợc giải thoát. Giải thoát cho vô số, vô

lƣợng, vô biên chúng sanh nhƣ thế, mà kỳ thực ta không thấy có

chúng sanh nào đƣợc giải thoát. Vì sao? Này Tu Bồ Đề, nếu một vị

Bồ Tát mà còn có khái niệm về Ngã, về Nhân, về Chúng Sanh và về

Thọ Giả thì vị ấy chƣa phải là một vị Bồ Tát đích thực.

Này nữa, thầy Tu Bồ Đề, vị Bồ Tát thực hiện phép bố thí nhƣng

không dựa vào bất cứ một thứ gì, nghĩa là không dựa vào sắc để bố

thí, cũng không dựa vào thanh, hƣơng, vị, xúc và pháp để bố thí. Tu

Bồ Đề, Bồ Tát nên bố thí theo tinh thần ấy, không dựa vào tƣớng.

Tại sao? Nếu Bồ Tát bố thí mà không dựa vào tƣớng thì phƣớc đức

sẽ không thể nghĩ bàn. Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao? Không gian về

phía Đông có thể nghĩ và lƣờng đƣợc không?"

-Bạch đức Thế Tôn, không.

-Này thầy Tu Bồ Đề, không gian về phía Tây, phƣơng Nam,

phƣơng Bắc, phƣơng Trên và phƣơng Dƣới có thể nghĩ và lƣờng

đƣợc hay không?

-Bạch đức Thế Tôn, không.

-Này thầy Tu Bồ Đề, nếu Bồ Tát không nƣơng vào đâu cả để thực

hiện phép bố thí thì phƣớc đức cũng nhiều nhƣ hƣ không vậy,

không thể nghĩ đƣợc, không thể lƣờng đƣợc. Này Tu Bồ Đề, các vị

Bồ Tát nên trú tâm theo những lời chỉ dẫn vừa đƣa ra.

-Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao? Có thể nhận diện Nhƣ Lai qua thân

tƣớng hay không?

-Bạch đức Thế Tôn, không. Cái mà Nhƣ Lai nói là thân tƣớng vốn

không phải là thân tƣớng.

Bụt bảo thầy Tu Bồ Đề: "Nơi nào có tƣớng là nơi đó còn có sự

lƣờng gạt. Nếu thấy đƣợc tính cách không tƣớng của các tƣớng tức

là thấy đƣợc Nhƣ Lai."

Thầy Tu Bồ Đề thƣa với Bụt rằng: "Bạch đức Thế Tôn, trong tƣơng

lai, khi nghe những câu nói nhƣ thế ngƣời ta có thể phát sinh đƣợc

lòng tin chân thật hay không?"

Bụt bảo: "Thầy đừng nói vậy. Năm trăm năm sau khi Nhƣ Lai diệt

độ, vẫn sẽ có những ngƣời biết giữ giới và tu phƣớc, và những

ngƣời ấy khi nghe đƣợc những lời nhƣ trên cũng sẽ có thể phát sinh

lòng tin và nhận ra đó là sự thật. Ta nên biết rằng những ngƣời ấy

đã gieo trồng những hạt giống tốt không phải ở nơi một vị Bụt, hai

vị Bụt, ba, bốn, năm vị Bụt mà thật sự đã gieo trồng những hạt

giống lành ở nơi vô lƣợng ngàn muôn vị Bụt. Ngƣời nào chỉ trong

một giây phút thôi, phát sinh đƣợc niềm tin thanh tịnh khi nghe

những lời và những câu ấy, thì Nhƣ Lai tất nhiên BIẾT đƣợc ngƣời

ấy, THẤY đƣợc ngƣời ấy và ngƣời ấy sẽ đạt đƣợc vô lƣợng phƣớc

đức nhƣ thế. Vì sao? Vì những ngƣời nhƣ thế không còn kẹt vào

những khái niệm về Ngã, về Nhân, về Chúng Sanh, về Thọ Giả, về

Pháp, về Không Phải Pháp, về Tƣớng và về Không Phải Tƣớng. Vì

sao? Nếu còn chấp vào ý niệm Pháp thì vẫn còn kẹt vào các tƣớng

Page 13: KINH KIM CANG BÁT NHà BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA · kinh kim cang bÁt nhà ba la mẬt phẬt thÍch ca 2 “tu-bồ-đề!

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA

13

Ngã, Nhân, Chúng Sanh và Thọ Giả và nếu còn chấp vào ý niệm

Không Phải Pháp, thì cũng vẫn còn kẹt vào tƣớng Ngã, Nhân,

Chúng Sanh và Thọ Giả nhƣ thƣờng. Thế cho nên, đã không nên

chấp vào Pháp mà cũng không nên chấp vào Không Phải Pháp. Vì

vậy mà Nhƣ Lai đã mật ý nói: Này các vị khất sĩ, nên biết rằng

Pháp tôi nói đƣợc ví nhƣ chiếc bè, Pháp còn nên bỏ, huống là

Không Phải Pháp."

-Thầy Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao, Nhƣ Lai có đắc pháp vô thƣợng

chánh đẳng chánh giác không? Nhƣ Lai có pháp gì để tuyên thuyết

hay không?

Thầy Tu Bồ Đề thƣa: "Theo con hiểu điều Bụt dạy thì chẳng có một

pháp gì riêng biệt đƣợc gọi là vô thƣợng chánh đẳng chánh giác,

cũng không có một pháp nào riêng biệt đƣợc Nhƣ Lai tuyên thuyết.

Vì sao? Vì những pháp mà Nhƣ Lai đã chứng và đã nói thì không

thể nắm bắt đƣợc, cũng không thể diễn tả đƣợc. Đó không phải là

pháp cũng không phải là không pháp. Vì sao? Vì tất cả các bậc hiền

thánh đều do pháp vô vi mà trở nên khác ngƣời."

-Thầy Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao? Nếu có ngƣời đem bảy thứ châu

báu nhiều cho đến nỗi chứa đầy cả thế giới tam thiên đại thiên này

để bố thí, thì ngƣời ấy có phƣớc đức nhiều hay không?

Tu Bồ Đề thƣa: "Bạch Thế Tôn, rất nhiều. Vì sao? Bạch đức Thế

Tôn, vì phƣớc đức ấy trong tự thân chẳng phải là phƣớc đức nên

Nhƣ Lai mới nói là phƣớc đức nhiều."

-Nếu có ngƣời tiếp nhận và hành trì kinh này dù chỉ một bài kệ bốn

câu trong kinh thôi rồi đem giảng nói cho ngƣời khác nghe thì

phƣớc đức của ngƣời này còn lớn hơn phƣớc đức của ngƣời kia. Tại

sao? Này Tu Bồ Đề, tất cả các đức Bụt và pháp Vô Thƣợng Chánh

Đẳng Chánh Giác của các đức Bụt, đều xuất phát từ kinh này. Này

Tu Bồ Đề, cái gọi là pháp Bụt, cái đó chính là cái không phải pháp

Bụt.

-Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao? Một vị Tu Đà Hoàn có nghĩ rằng: 'Ta đã

đắc quả Tu Đà Hoàn' không?

Tu Bồ Đề thƣa: "Bạch Thế Tôn, không. Vì sao? Tu Đà Hoàn có

nghĩa là đi vào dòng mà thật ra không có dòng nào để đi vào cả.

Không đi vào dòng sắc, cũng không đi vào dòng thanh, hƣơng, vị,

xúc và pháp. Vì vậy cho nên gọi là "đi vào dòng".

-Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao? Một vị Tƣ Đà Hàm có nghĩ rằng: 'Ta đã

đắc quả Tƣ Đà Hàm' không?

Tu Bồ Đề thƣa: "Bạch đức Thế Tôn, không. Vì sao? Tƣ Đà Hàm có

nghĩa là một đi một trở lại mà thật ra không có sự đi cũng không có

sự trở lại. Vì vậy cho nên gọi là Tƣ Đà Hàm."

-Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao? Một vị A Na Hàm có nghĩ rằng: 'Ta đã

đắc quả A Na Hàm' không?

Tu Bồ Đề thƣa: "Bạch Thế Tôn, không. Vì sao? A Na Hàm có

nghĩa là không trở lại. Mà thật ra làm gì có sự không trở lại? Vì vậy

cho nên gọi là A Na Hàm."

-Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao? Một vị A La Hán có thể nghĩ rằng: 'Ta

đã đắc quả A La Hán' không?

Tu Bồ Đề thƣa: "Bạch đức Thế Tôn, không. Vì sao? Thật ra không

có pháp nào riêng biệt đƣợc gọi là A La Hán. Bạch Thế Tôn, nếu

một vị A La Hán nào khởi niệm rằng 'ta đã đắc quả A La Hán' thì vị

đó còn chấp vào Ngã, Nhân, Chúng Sanh và Thọ Giả. Bạch đức

Thế Tôn, Thế Tôn thƣờng nói con đã đạt tới Vô Tránh Tam Muội

và trong Tăng Thân, con là vị A La Hán ly dục đệ nhất. Thế Tôn,

Page 14: KINH KIM CANG BÁT NHà BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA · kinh kim cang bÁt nhà ba la mẬt phẬt thÍch ca 2 “tu-bồ-đề!

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA

14

nếu con nghĩ rằng con đã đắc quả A La Hán thì chắc Thế Tôn đã

không nói rằng Tu Bồ Đề là ngƣời ƣa hạnh A Lan Na."

Bụt hỏi thầy Tu Bồ Đề: "Thuở xƣa lúc còn theo học với Bụt Nhiên

Đăng, Nhƣ Lai có đắc pháp gì chăng?"

-Bạch đức Thế Tôn, không. Ngày xƣa khi còn ở với Bụt Nhiên

Đăng, Nhƣ Lai không có đắc pháp gì cả.

-Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao? Bồ Tát có trang nghiêm cõi Bụt chăng?

-Bạch Thế Tôn, không. Vì sao? Trang nghiêm cõi Bụt tức là không

trang nghiêm cõi Bụt, vì vậy nên mới gọi là trang nghiêm cõi Bụt.

-Nhƣ thế đó, thầy Tu Bồ Đề, các vị Bồ Tát và đại nhân nên phát

tâm thanh tịnh theo tinh thần ấy. Không nên dựa vào sắc mà phát

tâm, cũng không nên dựa vào thanh, hƣơng, vị, xúc và pháp mà

phát tâm. Chỉ nên phát tâm trong tinh thần vô trụ.

Này thầy Tu Bồ Đề, ví dụ có ngƣời có thân lớn nhƣ núi chúa Tu Di,

thầy nghĩ sao? Thân ấy có lớn không?

Tu Bồ Đề thƣa: "Bạch đức Thế Tôn, lớn lắm. Vì sao? Cái mà Thế

Tôn gọi là không phải thân lớn mới đích thật là thân lớn."

-Thầy Tu Bồ Đề, ví dụ trong sông Hằng có bao nhiêu hạt cát là có

bấy nhiêu dòng sông Hằng. Vậy thì cát của tất cả các sông Hằng ấy

có nhiều không?

Tu Bồ Đề thƣa: "Bạch Thế Tôn, rất nhiều. Số lƣợng các sông Hằng

đã là vĩ đại, huống là số lƣợng những hạt cát của các sông Hằng

ấy."

-Này Tu Bồ Đề, bây giờ tôi muốn hỏi thật thầy rằng, nếu có ngƣời

con trai hay ngƣời con gái nhà lành nào đem châu báu chất đầy cả

thế giới tam thiên đại thiên nhiều nhƣ cát của tất cả các sông Hằng

kia mà bố thí thì phƣớc đức có nhiều không?

Tu Bồ Đề thƣa: "Bạch Thế Tôn, rất nhiều."

Bụt bảo thầy Tu Bồ Đề: "Nếu ngƣời con trai hay ngƣời con gái nhà

lành nào mà thọ trì kinh này dù chỉ một bài kệ bốn câu thôi và đem

ra chia sẻ với ngƣời khác thì phƣớc đức của ngƣời này còn nhiều

hơn phƣớc đức của ngƣời trƣớc.

Còn nữa, thầy Tu Bồ Đề, mảnh đất nào mà nơi đó có ngƣời thuyết

kinh này, dù chỉ là thuyết một bài kệ bốn câu thôi, thì nên biết rằng

mảnh đất ấy là nơi mà tất cả các giới Thiên, Nhân và A Tu La đều

phải hƣớng về cúng dƣờng nhƣ là cúng dƣờng tháp miếu của Bụt.

Một mảnh đất mà còn nhƣ thế, huống gì là bản thân ngƣời đứng ra

hành trì và đọc tụng. Tu Bồ Đề ơi, thầy nên biết rằng, một con

ngƣời nhƣ thế đã thành tựu đƣợc chuyện hiếm có tối thƣợng. Nơi

nào mà có kinh này là nơi đó có mặt của bậc đạo sƣ, hoặc một vị đệ

tử lớn của ngƣời."

Lúc ấy thầy Tu Bồ Đề thƣa với Bụt rằng: "Bạch Thế Tôn, nên đặt

tên Kinh này là Kinh gì và chúng con nên phụng trì Kinh này nhƣ

thế nào?"

Bụt bảo thầy Tu Bồ Đề: "Nên gọi Kinh này là Kinh Kim Cƣơng Có

Năng Lực Chặt Đứt Phiền Não Và Đƣa Sang Bờ Giải Thoát (Năng

Đoạn Kim Cƣơng Bát Nhã Ba La Mật Kinh). Hãy dùng danh từ ấy

mà phụng trì Kinh này. Vì sao? Cái mà Nhƣ Lai gọi là Bát Nhã Ba

La Mật vốn không phải là Bát Nhã Ba La Mật cho nên mới thật sự

là Bát Nhã Ba La Mật."

Page 15: KINH KIM CANG BÁT NHà BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA · kinh kim cang bÁt nhà ba la mẬt phẬt thÍch ca 2 “tu-bồ-đề!

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA

15

Bụt hỏi: "Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao? Nhƣ Lai có pháp để nói

không?"

Tu Bồ Đề thƣa: "Bạch Thế Tôn, Nhƣ Lai chẳng có gì để nói cả."

-Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao? Cát bụi do tam thiên đại thiên thế giới

nghiền ra có nhiều không?

-Nhiều lắm, bạch Thế Tôn.

-Này Tu Bồ Đề, những cát bụi ấy Nhƣ Lai gọi không phải là cát bụi

cho nên mới thực sự là cát bụi. Cái mà Nhƣ Lai gọi là thế giới tức

không phải là thế giới cho nên đƣợc gọi là thế giới. Tu Bồ Đề, thầy

nghĩ sao? Có thể nhận diện Nhƣ Lai qua ba mƣơi hai tƣớng không?

-Bạch đức Thế Tôn, không. Vì sao? Vì cái mà Nhƣ Lai gọi là ba

mƣơi hai tƣớng đều không phải là tƣớng, vì vậy cho nên Nhƣ Lai

mới gọi là ba mƣơi hai tƣớng.

-Tu Bồ Đề, nếu có một ngƣời con trai hay một ngƣời con gái nhà

lành nào đem thân mạng nhiều nhƣ số cát sông Hằng mà thực hiện

việc bố thí, và nếu có một ngƣời con trai hay một ngƣời con gái nhà

lành khác biết thọ trì và đem kinh này ra giảng cho kẻ khác, dù chỉ

thọ trì và giảng dạy bốn câu thôi, thì phƣớc đức của ngƣời này cũng

nhiều hơn phƣớc đức của ngƣời trƣớc.

Nghe kinh này tới đây, thấm đƣợc nghĩa lý thâm sâu, thầy Tu Bồ

Đề cảm động khóc rơi nƣớc mắt. Thầy thƣa: "Bạch Thế Tôn, Thế

Tôn thật là hiếm có, từ ngày theo Thế Tôn đạt đƣợc tuệ nhãn cho

đến giờ, con chƣa bao giờ đƣợc nghe kinh điển thâm diệu nhƣ hôm

nay. Thế Tôn, nếu có ngƣời nghe đƣợc kinh này mà có lòng tin

thanh tịnh và đạt đƣợc cái thấy chân thật thì nên biết ngƣời ấy đã

thực hiện đƣợc công đức hiếm có vào bậc nhất. Thế Tôn, ngày nay

con nghe đƣợc kinh điển mầu nhiệm nhƣ thế này, đƣợc tin, hiểu,

tiếp nhận và hành trì kinh này cũng chƣa phải là chuyện khó có

lắm, nhƣng trong tƣơng lai, khoảng năm trăm năm về sau mà có

ngƣời đƣợc nghe kinh này lại có thể tin, hiểu, tiếp nhận và hành trì

thì chắc chắn sự có mặt của kẻ ấy là một sự hiếm có vào bậc nhất.

Vì sao vậy? Vì những kẻ ấy sẽ không bị khống chế bởi khái niệm

về Ngã, Nhân, Chúng Sanh và Thọ Giả. Tại vì sao? Khái niệm về

Ngã tức không phải là khái niệm, khái niệm về Nhân, về Chúng

Sanh và về Thọ Giả cũng không phải là những khái niệm. Vì sao?

Vì thoát khỏi sự khống chế của các khái niệm cho nên có các vị

Bụt."

Bụt bảo thầy Tu Bồ Đề: "Đúng thế, đúng thế. Nếu có ngƣời đƣợc

nghe kinh này mà không hoảng, không sợ thì nên biết rằng những

ngƣời nhƣ vậy rất là hiếm có. Tại sao? Này thầy Tu Bồ Đề ơi, cái

mà Nhƣ Lai gọi là đệ nhất Ba La Mật vốn không phải là đệ nhất Ba

La Mật cho nên mới đƣợc gọi là đệ nhất Ba La Mật.

Tu Bồ Đề, cái gọi là Nhẫn Nhục Ba La Mật, Nhƣ Lai nói không

phải là Nhẫn Nhục Ba La Mật nên mới đƣợc gọi là Nhẫn Nhục Ba

La Mật. Tại sao? Tu Bồ Đề này, trong một tiền kiếp xa xƣa, khi bị

vua Kalinga cắt đứt thân thể, ta đã không bị kẹt vào khái niệm về

Ngã, không bị kẹt vào khái niệm về Nhân, về Chúng Sanh và về

Thọ Giả. Vì nếu khi đó ta bị kẹt vào những khái niệm ấy thì ta đã

sinh tâm oán hận Kalinga (Ca Lợi Vƣơng) mất rồi.

Lại nhớ đến thuở xƣa khi ta còn tu tiên theo hạnh nhẫn nhục, trong

suốt năm trăm kiếp, ta đã tu tập để không bị kẹt vào các khái niệm

Ngã, Nhân, Chúng Sanh và Thọ Giả. Vậy nên thầy Tu Bồ Đề ơi, Bồ

Tát khi phát tâm bồ đề vô thƣợng thì nên buông bỏ tất cả các khái

niệm, không nên dựa vào sắc mà phát tâm, không nên dựa vào

thanh, hƣơng, vị, xúc và pháp mà phát tâm, chỉ nên phát tâm vô trụ.

Nhƣ Lai đã nói tất cả các khái niệm đều không phải là khái niệm và

tất cả các loài chúng sanh đều không phải là chúng sanh. Tu Bồ Đề,

Page 16: KINH KIM CANG BÁT NHà BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA · kinh kim cang bÁt nhà ba la mẬt phẬt thÍch ca 2 “tu-bồ-đề!

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA

16

Nhƣ Lai là kẻ nói lời chính xác, là kẻ nói lời đúng với sự thật, là kẻ

nói lời phù hợp với thực tại, là kẻ nói lời không dối trá, là kẻ chỉ nói

một lời. Tu Bồ Đề, nếu có pháp mà Nhƣ Lai đã đắc thì pháp ấy

không phải thật cũng không phải hƣ.

Tu Bồ Đề, nếu Bồ Tát còn dựa vào pháp mà thực hiện bố thí thì

cũng nhƣ đi vào trong bóng tối, chẳng thấy đƣợc gì. Trái lại, nếu

Bồ Tát không dựa vào pháp mà bố thí thì cũng nhƣ ngƣời có mắt đi

trong ánh mặt trời, có thể thấy đƣợc mọi hình và mọi sắc.

Tu Bồ Đề, trong tƣơng lai nếu có một ngƣời con trai hay một ngƣời

con gái nhà lành nào mà có khả năng tiếp nhận, đọc tụng và hành trì

kinh này thì ngƣời ấy sẽ đƣợc Nhƣ Lai nhìn thấy với con mắt trí tuệ

của Ngƣời. Nhƣ Lai sẽ BIẾT ngƣời ấy, sẽ THẤY ngƣời ấy và

ngƣời ấy sẽ thực hiện đƣợc công đức vô lƣợng vô biên.

Này thầy Tu Bồ Đề, nếu có một ngƣời con trai hay một ngƣời con

gái nhà lành nào buổi sáng đem thân mạng mình ra nhiều nhƣ số cát

sông Hằng mà bố thí, buổi trƣa và buổi chiều cũng vậy, trong thời

gian trăm ngàn vạn ức vô lƣợng kiếp, và nếu có một kẻ khác tuy

không làm nhƣ thế, nhƣng khi nghe đến kinh này thì đem lòng tin

tƣởng, không phản kháng lại thì phƣớc đức còn nhiều hơn phƣớc

đức của ngƣời kia. Nghe mà đem lòng tin còn có phƣớc đức lớn

nhƣ vậy, huống hồ là biên chép, hành trì, đọc tụng và giải thích cho

kẻ khác đƣợc nghe. Tu Bồ Đề, nói tóm lại thì kinh này có công đức

vô biên, không thể nghĩ cho cùng, không thể nói cho hết cũng

không thể đo lƣờng. Nếu có ngƣời nào có khả năng thọ trì, đọc tụng

và phổ biến cho ngƣời khác biết thì kẻ ấy sẽ đƣợc Nhƣ Lai thấy tới,

biết tới và ngƣời ấy sẽ thực hiện đƣợc công đức không thể nghĩ cho

cùng, không thể nói cho hết, không có biên giới, không có đo

lƣờng, không thể so sánh. Ngƣời nhƣ thế có thể gánh vác sự nghiệp

vô thƣợng chánh đẳng chánh giác của Nhƣ Lai. Tại sao? Tu Bồ Đề

này, nếu chỉ ƣa thích pháp nhỏ, nếu còn vƣớng mắc vào Ngã, Nhân,

Chúng Sanh và Thọ Giả thì không có khả năng nghe, nhận, đọc

tụng và giải thuyết cho kẻ khác. Tu Bồ Đề, bất cứ nơi nào có kinh

này thì tất cả các giới Thiên, Nhân, A Tu La đều phải đến cúng

dƣờng, những nơi ấy đều đƣợc gọi là bảo tháp cần đƣợc cung kính,

hành lễ, đi quanh và cúng dƣờng bằng hoa và bằng hƣơng.

Này nữa thầy Tu Bồ Đề, nếu một ngƣời con trai hoặc một ngƣời

con gái nhà lành nào đọc tụng và hành trì kinh này mà bị ngƣời

khác chê bai hủy báng thì ngƣời ấy sẽ tiêu trừ đƣợc các tội chƣớng

trong các kiếp trƣớc kể cả những tội chƣớng có thể đƣa ngƣời kia

rơi xuống các nẻo ác và sau đó sẽ thực hiện đƣợc quả vị chánh đẳng

chánh giác. Tu Bồ Đề, ta nhớ vô lƣợng a tăng kỳ kiếp về trƣớc,

trƣớc khi đƣợc gặp Bụt Nhiên Đăng, ta đã từng gặp tám trăm bốn

vạn ức na do tha các vị Bụt. Và với vị nào ta cũng đều có cúng

dƣờng và hầu cận. Nếu vào thời Mạt thế mà có ngƣời có khả năng

đọc tụng và thọ trì kinh này thì phƣớc đức đạt đƣợc còn lớn hơn

hàng trăm ngàn vạn ức lần phƣớc đức của ta ngày trƣớc. Dùng thí

dụ về toán số cũng không thể hình dung đƣợc phƣớc đức ấy.

Tu Bồ Đề, vào thời Mạt thế, nếu một ngƣời con trai hoặc một ngƣời

con gái nhà lành nào thọ trì, đọc tụng kinh này thì công đức đạt

đƣợc lớn cho đến nỗi nếu ta nói ra thì sẽ có ngƣời hồ nghi, không

tin và tâm có thể trở nên cuồng loạn. Tu Bồ Đề, nên biết: nghĩa lý

của kinh này không thể nghĩ cho cùng, không thể nói cho hết và hoa

trái của sự thọ trì kinh này cũng không thể nghĩ cho cùng, không

thể nói cho hết."

Lúc ấy, thầy Tu Bồ Đề thƣa với Bụt: "Thế Tôn, con xin phép đƣợc

hỏi lại: ngƣời con trai hiền hoặc ngƣời con gái hiền nào muốn phát

tâm vô thƣợng chánh đẳng chánh giác thì nên dựa vào đâu và nên

hàng phục tâm mình nhƣ thế nào?"

Bụt bảo: "Thầy Tu Bồ Đề, ngƣời con trai hiền hoặc ngƣời con gái

hiền nào muốn phát tâm vô thƣợng chánh đẳng chánh giác, thì nên

phát tâm nhƣ thế này: ta phải đƣa hết tất cả chúng sanh qua bờ giác

ngộ rồi thì ta chẳng thấy có chúng sanh nào đƣợc giác ngộ cả. Vì

Page 17: KINH KIM CANG BÁT NHà BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA · kinh kim cang bÁt nhà ba la mẬt phẬt thÍch ca 2 “tu-bồ-đề!

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA

17

sao thế? Này thầy Tu Bồ Đề, nếu một vị Bồ Tát mà còn vƣớng mắc

vào các khái niệm về Ngã, Nhân, Chúng Sanh và Thọ Giả thì vị ấy

chƣa phải là vị Bồ Tát chân thật. Tại sao nhƣ thế?

Tu Bồ Đề, thật ra chẳng có pháp gì riêng biệt gọi là tâm vô thƣợng

chánh đẳng chánh giác để mà phát ra cả. Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao?

Ngày xƣa khi còn ở với Bụt Nhiên Đăng, Nhƣ Lai có đắc pháp gì

gọi là vô thƣợng chánh đẳng chánh giác hay không?"

-Bạch đức Thế Tôn, không. Theo cách con hiểu lời Bụt dạy thì

không có pháp gì sở đắc gọi là vô thƣợng chánh đẳng chánh giác.

Bụt dạy: "Đúng nhƣ thế, đúng nhƣ thế! Này Tu Bồ Đề, thật ra

không có pháp gì gọi là vô thƣợng chánh đẳng chánh giác mà Nhƣ

Lai có đắc. Nếu có thì Bụt Nhiên Đăng đã không thọ ký cho ta nhƣ

thế này: 'Sau này ngƣơi sẽ thành Bụt hiệu là Thích Ca Mâu Ni.'

Chính vì không có pháp có thể sở đắc gọi là vô thƣợng chánh đẳng

chánh giác cho nên Bụt Nhiên Đăng mới nói với ta nhƣ thế. Vì sao?

Nhƣ Lai có nghĩa là chân nhƣ của các pháp. Nếu có ngƣời nói Nhƣ

Lai đắc pháp vô thƣợng chánh đẳng chánh giác thì ngƣời đó lầm:

chẳng có pháp vô thƣợng chánh đẳng chánh giác có thể đắc. Tu Bồ

Đề, pháp vô thƣợng chánh đẳng chánh giác mà Nhƣ Lai đắc ấy, thật

ra không phải thật cũng không phải hƣ. Cho nên Nhƣ Lai đã từng

nói: tất cả các pháp đều là pháp Bụt. Cái mà ta gọi là tất cả các pháp

thật ra không phải là tất cả các pháp cho nên mới gọi là tất cả các

pháp. Tu Bồ Đề, cũng ví dụ nhƣ thân ngƣời cao lớn."

Tu Bồ Đề thƣa: "Cái mà Nhƣ Lai gọi là thân ngƣời cao lớn, chẳng

phải là thân ngƣời cao lớn."

-Tu Bồ Đề, Bồ Tát cũng thế, nếu một vị Bồ Tát nghĩ rằng ta phải độ

tất cả chúng sanh thì vị ấy chƣa phải là vị Bồ Tát. Vì sao? Tu Bồ

Đề này, không có pháp gì riêng biệt đƣợc gọi là Bồ Tát cả. Cho nên

Bụt đã nói tất cả các pháp đều không có Ngã, không có Nhân,

không có Chúng Sanh, không có Thọ Giả. Tu Bồ Đề, nếu một vị Bồ

Tát nghĩ 'ta phải trang nghiêm đất Bụt' thì ngƣời đó chƣa phải là Bồ

Tát. Vì sao? Cái mà Nhƣ Lai gọi là trang nghiêm đất Bụt vốn không

phải là trang nghiêm cho nên mới gọi là trang nghiêm. Tu Bồ Đề,

nếu một vị Bồ Tát nào thông đạt đƣợc lý vô ngã vô pháp thì Nhƣ

Lai gọi ngƣời đó là một vị Bồ Tát đích thực.

-Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao, Nhƣ Lai có mắt thịt không?

Thầy Tu Bồ Đề nói: "Bạch Thế Tôn có, Nhƣ Lai có mắt thịt."

Bụt hỏi: "Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao, Nhƣ Lai có mắt trời hay

không?"

Tu Bồ Đề nói: "Bạch Thế Tôn có, Nhƣ Lai có mắt trời."

-Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao, Nhƣ Lai có mắt tuệ không?

Tu Bồ Đề thƣa: "Bạch Thế Tôn có, Nhƣ Lai có mắt tuệ."

-Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao, Nhƣ Lai có mắt pháp không?

Tu Bồ Đề nói: "Bạch Thế Tôn có, Nhƣ Lai có mắt pháp."

Bụt hỏi: "Nhƣ Lai có mắt Bụt không?"

-Bạch Thế Tôn, có. Nhƣ Lai có mắt Bụt.

-Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao? Cát trong sông Hằng, Bụt có thấy là cát

không?

Tu Bồ Đề nói: "Bạch Thế Tôn, Nhƣ Lai cũng gọi cát là cát vậy."

Page 18: KINH KIM CANG BÁT NHà BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA · kinh kim cang bÁt nhà ba la mẬt phẬt thÍch ca 2 “tu-bồ-đề!

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA

18

-Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao, nếu mỗi hạt cát trong sông Hằng là một

sông Hằng, thì số lƣợng thế giới Bụt nhiều nhƣ số cát trong tất cả

những sông Hằng ấy có nhiều không?

-Bạch Thế Tôn, rất nhiều.

Bụt bảo thầy Tu Bồ Đề: "Trong tất cả các thế giới ấy có đủ tất cả

các loài chúng sinh mà tâm ý các chúng sinh ấy cũng có đủ loại.

Vậy mà loại tâm ý nào trong số ấy Nhƣ Lai cũng đều biết hết. Tại

sao? Tu Bồ Đề, tại vì cái mà Nhƣ Lai gọi là các loại tâm ý đều

không phải là các loại tâm ý, cho nên mới gọi là các loại tâm ý. Vì

sao vậy? Tu Bồ Đề, tâm quá khứ không nắm bắt đƣợc, tâm hiện tại

không nắm bắt đƣợc, mà tâm vị lai cũng không nắm bắt đƣợc.

Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao? Nếu có ngƣời đem châu báu nhiều cho

đến nỗi phải chất đầy cả thế giới tam thiên đại thiên mà bố thí thì

ngƣời đó có đƣợc nhiều phƣớc đức hay không?"

-Bạch Thế Tôn, đƣợc phƣớc đức rất nhiều.

-Này thầy Tu Bồ Đề, nếu phƣớc đó là phƣớc đức thật thì Nhƣ Lai

đã không nói là ngƣời ấy đạt đƣợc nhiều phƣớc đức. Chính vì

phƣớc đức ấy vốn không có thực thể cho nên Nhƣ Lai mới nói

ngƣời ấy đạt đƣợc phƣớc đức nhiều. Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao? Có

thể nhận diện Nhƣ Lai qua sắc thân đầy đủ không?

-Bạch không, cái mà Nhƣ Lai gọi là sắc thân đầy đủ thì không phải

là sắc thân đầy đủ cho nên mới gọi là sắc thân đầy đủ.

-Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao? Có thể nhận diện Nhƣ Lai qua tƣớng

mạo đầy đủ không?

-Thƣa Thế Tôn, không. Không thể nhận diện Nhƣ Lai qua tƣớng

mạo đầy đủ. Vì sao? Cái mà Nhƣ Lai gọi là tƣớng mạo đầy đủ thì

không phải là tƣớng mạo đầy đủ cho nên mới gọi là tƣớng mạo đầy

đủ.

-Tu Bồ Đề, thầy đừng bảo rằng Nhƣ Lai có ý niệm: ta sẽ thuyết

pháp. Đừng nghĩ nhƣ thế. Vì sao? Nếu có ngƣời nghĩ rằng Nhƣ Lai

có pháp để nói tức là ngƣời đó phỉ báng Bụt vì lẽ ngƣời đó không

hiểu điều ta nói. Tu Bồ Đề, thuyết pháp có nghĩa là không có pháp

nào đƣợc nói, nhƣ vậy gọi là thuyết pháp.

Lúc đó huệ mạng Tu Bồ Đề bạch với Bụt rằng: "Thế Tôn, đời sau

khi đƣợc nghe pháp này chúng sanh có thể phát sanh lòng tin hay

không?"

Bụt dạy: "Tu Bồ Đề, những chúng sanh đó không phải là chúng

sanh mà cũng không phải là không chúng sanh. Vì sao thế? Tu Bồ

Đề, cái mà Nhƣ Lai gọi là không phải chúng sanh mới thực sự đƣợc

gọi là chúng sanh."

Tu Bồ Đề bạch Bụt: "Thế Tôn, pháp vô thƣợng chánh đẳng chánh

giác mà Bụt đắc có phải là cái vô sở đắc?"

Bụt nói: "Đúng thế, Tu Bồ Đề, đối với vô thƣợng chánh đẳng chánh

giác ta chẳng có một chút xíu nào pháp sở đắc, cho nên mới gọi nó

là vô thƣợng chánh đẳng chánh giác.

Này nữa, thầy Tu Bồ Đề! Pháp ấy bình đẳng, không có cao thấp

nên gọi là vô thƣợng chánh đẳng chánh giác. Tu tập tất cả các thiện

pháp theo tinh thần vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả thì

đạt đƣợc quả vô thƣợng chánh đẳng chánh giác. Tu Bồ Đề, cái gọi

là thiện pháp thì Nhƣ Lai bảo không phải là thiện pháp, cho nên đó

mới thật là thiện pháp.

Tu Bồ Đề, giá dụ có ngƣời tom góp bảy thứ châu báu chứa đầy

từng đống cao nhƣ tất cả các núi Tu Di trong thế giới tam thiên đại

Page 19: KINH KIM CANG BÁT NHà BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA · kinh kim cang bÁt nhà ba la mẬt phẬt thÍch ca 2 “tu-bồ-đề!

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA

19

thiên này để mà bố thí thì công đức của những ngƣời ấy đem so với

công đức của những ngƣời đọc, tụng và thọ trì Kinh Kim Cƣơng

Năng Đoạn này rồi đem ra giảng nói cho ngƣời khác nghe thì trăm

phần không đƣợc một, trăm ngàn vạn ức phần không đƣợc một.

Phƣớc đức của ngƣời hành trì kinh, dù chỉ là hành trì một bài kệ

bốn câu, cũng không thể nào dùng ví dụ hay toán học để mà diễn tả

nổi.

Tu Bồ Đề, các vị đừng có bảo rằng Nhƣ Lai có ý niệm 'ta sẽ độ

chúng sanh'. Tu Bồ Đề, đừng nghĩ nhƣ thế. Tại sao vậy? Sự thật thì

không có chúng sanh nào để cho Nhƣ Lai độ. Nếu Nhƣ Lai nghĩ là

có thì Nhƣ Lai đã vƣớng vào khái niệm Ngã, khái niệm Nhân, khái

niệm Chúng Sanh và khái niệm Thọ Giả rồi. Tu Bồ Đề, cái mà Nhƣ

Lai nói là có ngã vốn không phải là có ngã mà ngƣời phàm phu lại

cho là có ngã. Này Tu Bồ Đề, kẻ phàm phu đó, Nhƣ Lai không cho

đó là phàm phu cho nên mới gọi họ là phàm phu.

Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao? Có nên quán tƣởng Nhƣ Lai qua ba mƣơi

hai tƣớng không?"

Tu Bồ Đề nói: "Thƣa vâng, thƣa vâng, phải dùng ba mƣơi hai tƣớng

mà quán Nhƣ Lai."

Bụt nói: "Nếu nói lấy ba mƣơi hai tƣớng mà quán Nhƣ Lai thì một

vị Chuyển Luân Thánh Vƣơng cũng là Nhƣ Lai sao?"

Tu Bồ Đề nói: "Thế Tôn, con hiểu lời Bụt dạy rồi, không nên dùng

ba mƣơi hai tƣớng mà quán Nhƣ Lai."

Lúc bấy giờ Thế Tôn nói lên bài kệ này:

Tìm ta qua hình sắc

Cầu ta qua âm thanh

Là kẻ hành tà đạo

Không thể thấy Nhƣ Lai.

-Tu Bồ Đề, thầy đừng nghĩ rằng Nhƣ Lai đạt tới vô thƣợng chánh

đẳng chánh giác mà không cần tới các tƣớng một cách đầy đủ. Tu

Bồ Đề, đừng nghĩ nhƣ thế. Tu Bồ Đề! Thầy đừng nghĩ là khi phát

tâm vô thƣợng chánh đẳng chánh giác ta phải coi các pháp là hƣ vô,

đoạn diệt. Đừng nghĩ nhƣ thế. Kẻ phát tâm vô thƣợng chánh đẳng

chánh giác không chủ trƣơng rằng các pháp là hƣ vô hay đoạn diệt.

Tu Bồ Đề, nếu có một vị Bồ Tát đem bảy thứ châu báu nhiều cho

đến nỗi chất đầy cả các thế giới nhiều nhƣ cát sông Hằng mà bố thí

thì công đức ấy cũng không lớn bằng công đức của một ngƣời đã

hiểu đƣợc rằng tất cả các pháp đều là vô ngã và chấp nhận đƣợc sự

thật đó một cách hoan hỷ. Vì sao? Tu Bồ Đề! Vì Bồ Tát không cần

phải tom góp phƣớc đức.

Tu Bồ Đề bạch Bụt: "Thế Tôn, Bồ Tát không cần tom góp phƣớc

đức nghĩa là sao?"

-Tu Bồ Đề, Bồ Tát tạo phƣớc đức mà không vƣớng mắc vào ý niệm

tạo phƣớc đức cho nên ta mới nói là Bồ Tát không cần tom góp

phƣớc đức.

Tu Bồ Đề, nếu có kẻ nói: 'Thế Tôn có tới, có đi, có ngồi, có nằm' kẻ

ấy không hiểu đƣợc điều ta nói. Tại sao? Nhƣ Lai có nghĩa là không

từ đâu tới cả và cũng không đi về đâu cả, cho nên gọi là Nhƣ Lai.

Tu Bồ Đề, nếu có một ngƣời con trai hay một ngƣời con gái nhà

lành nào đem thế giới tam thiên đại thiên nghiền thành bụi nhỏ thì

thầy nghĩ sao? Bụi nhỏ nhƣ thế có nhiều không?

Tu Bồ Đề nói: "Bạch Thế Tôn, rất nhiều. Vì sao? Nếu bụi nhỏ mà

có thật thì Bụt đã không gọi chúng là bụi nhỏ. Vì sao? Cái mà Bụt

Page 20: KINH KIM CANG BÁT NHà BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA · kinh kim cang bÁt nhà ba la mẬt phẬt thÍch ca 2 “tu-bồ-đề!

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA

20

gọi là bụi nhỏ vốn không phải là bụi nhỏ cho nên mới là bụi nhỏ.

Thế Tôn! Cái mà Nhƣ Lai gọi là thế giới tam thiên đại thiên, nó

không phải là thế giới cho nên mới gọi nó là thế giới. Vì sao? Nếu

thế giới mà có thật thì đó là một hợp tƣớng. Cái mà Nhƣ Lai gọi là

một hợp tƣớng vốn không phải là một hợp tƣớng cho nên gọi là một

hợp tƣớng."

-Tu Bồ Đề! Cái gọi là một hợp tƣớng chỉ là một ƣớc lệ ngôn ngữ

không có thực chất. Chỉ có kẻ phàm phu mới bị vƣớng mắc vào đó

mà thôi.

Tu Bồ Đề, nếu có kẻ bảo Bụt có nói về ngã kiến, nhân kiến, chúng

sanh kiến và thọ giả kiến, kẻ ấy có hiểu đƣợc ý ta không?

-Thƣa không, Thế Tôn. Kẻ ấy không hiểu đƣợc ý Nhƣ Lai. Vì sao?

Cái mà Nhƣ Lai gọi là ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến và thọ

giả kiến vốn không phải là ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến và

thọ giả kiến, cho nên mới là ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến

và thọ giả kiến.

-Tu Bồ Đề! Kẻ phát tâm vô thƣợng chánh đẳng chánh giác phải biết

nhƣ thế về tất cả các pháp, phải thấy nhƣ thế về tất cả các pháp,

phải tin hiểu nhƣ thế về tất cả các pháp mà không nên có khái niệm

về pháp. Tu Bồ Đề! Cái gọi là khái niệm về pháp Nhƣ Lai nói

không phải là khái niệm về pháp, cho nên mới gọi là khái niệm về

pháp.

Tu Bồ Đề, nếu có ngƣời đem bảy thứ châu báu số lƣợng lớn đến nỗi

chứa đầy các thế giới nhiều tới vô lƣợng a tăng kỳ để bố thí thì

phƣớc đức cũng không bằng phƣớc đức của một ngƣời con trai hay

một ngƣời con gái nhà lành khi ngƣời này phát tâm bồ đề, đọc tụng

thọ trì kinh này và đem giải thuyết cho ngƣời khác nghe, dù chỉ là

một bài kệ bốn câu trong ấy. Giải thuyết theo tinh thần nào?

Giải thuyết mà không kẹt vào tƣớng, nhƣ nhƣ và không động

chuyển. Vì sao thế?

Tất cả pháp hữu vi

Nhƣ mộng huyễn bào ảnh

Nhƣ sƣơng nhƣ chớp loè

Hãy quán chiếu nhƣ thế.

Sau khi nghe Bụt nói Kinh này, thƣợng tọa Tu Bồ Đề và các vị khất

sĩ, nữ khất sĩ, Ƣu bà tắc, Ƣu bà di và tất cả các giới Trời, Ngƣời và

A tu la đều rất hoan hỷ, tin tƣởng và tiếp nhận để thực hành. (CCC)

(LangMai.org)

BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa pháp Bát Nhã Ba

La Mật Đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, nên qua hết thảy khổ

ách.

Này ông Xá-lỵ-tử! Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác

Sắc, Sắc tức là Không, Không Tức là Sắc. Thụ, Tƣởng, Hành, Thức

cũng đều nhƣ thế!.

Này ông Xá-lỵ-tử ! Tƣớng “Không” của mọi pháp, không sinh,

không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt.

Cho nên trong “Chân Không” không có Sắc, không có Thụ,

Tƣởng, Hành, Thức; không có mắt, tai, mũi, lƣỡi, thân, ý; không có

sắc, thanh, hƣơng, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới cho đến không

có ý thức giới; không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh,

cho đến không có già, chết, cũng không có cái hết già, chết; không

có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí tuệ cũng không có chứng đắc.

Page 21: KINH KIM CANG BÁT NHà BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA · kinh kim cang bÁt nhà ba la mẬt phẬt thÍch ca 2 “tu-bồ-đề!

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHẬT THÍCH CA

21

Vì không có chỗ chứng đắc nên Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật

Đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa

hẳn mộng tƣởng điên đảo, đạt tới cứu cánh Niết Bàn.

Chƣ Phật trong ba đời cũng y vào Bát Nhã Ba La Mật Đa, đƣợc

đạo quả vô thƣợng chính đẳng chính giác.

Cho nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là đại thần chú, là đại minh

chú, là vô thƣợng chú, là vô đẳng đẳng chú, trừ đƣợc hết thảy khổ,

chân thực không hƣ.

Vì vậy, nói ra bài chú Bát Nhã Ba La Mật Đa, liền nói bài chú ấy

rằng:

“Yết đế, yết đế. Ba la yết đề. Ba la tăng yết đế. Bồ đề tát bà ha”.

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.