Upload
others
View
3
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
Lư Thắng Ngạn văn tập 030 – Thiền Thiên Lư Tạp Ký
Mục lục
1/ Thế giới một hạt cát (thay lời mở đầu)
2/ Chân đế rơi nước mắt
3/ Không nhất định phải vào núi
4/ Ấn tượng tử vong
5/ Ấn chứng của trí tuệ
6/ Một áng mây bay qua.
7/ Trên thập tự giá.
8/ Gần đây tôi bị bịnh.
9/ Thường Bất Khinh Bồ Tát.
10/ Hỷ duyệt trong lòng.
11/ Văn dùng chở đạo.
12/ Trái cây chín mùi.
13/ Bia văn chí của Lưu Quốc Hiến.
14/ Búa sắt và thợ sắt
15/ Thuyết minh của phương tiện pháp.
16/ Trầm tư của mưa
17/ Liên tưởng khi xem mặt trời mọc.
18/ Ngư ông .
19/ Chỉ tay của Lư Phật Kỳ.
20/ Tội ác lớn nhất< tham lam>.
21/ Đi con đường mới
22/ Đọc Liên Trì đại sư thất bút câu ký.
23/ Địa linh chi đạo.
24/ Nam Tề tiền đường Phạm Nguyên Diễm
25/ Nhàn rỗi trên xích đu.
26/ Vấn đề của cảnh giới.
27/ Hiểu lầm.
28/ Mật điệp.
29/ Tội ác của rượu.
30/ Lời nói.
31/ Tham dò của siêu tâm lý học.
32/ Lời dự đoán của linh thị.
2
33/ Giải thích thuật đọc tâm.
34/ Ấn chứng của kinh Kim Cang.
35/ Thấy và nghe được ở pháp hội thuỷ lục. 36/ Bi kịch của tâm linh nghèo nàn.
37/ Tịnh quán tự đắc.
38/ Triệu thỉnh tổ tiên nhập mộng.
39/ 6 vị thông linh.
40/ Ảo giác và phù du.
41/ Một chuyện sỉ nhục nhỏ.
42/ Mặt trái của bệnh doawn.
43/ Một hiện tượng tốt.
44/ Linh năng và tuyến vũ trụ.
45/ Giữa trời và đất đều là quan phòng.
46/ Năng lực rõ ràng.
47/ Lời nói của Huỳnh uỷ viên.
48/ Thuyết minh về mượn lực bên cạnh.
49/ Phù hiệu vô hình.
50/ Lại nói rõ hơn về linh toán.
51/ Những lá thư mà tôi mắc nợ.
52/ Thư của người trí gửi đến
3
001 Thế giới của một hạt cát
( Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Từ xưa đến nay, thế giới này chính là thế giới của cát, cho dù là vũ
trụ đã trải qua không biết bao nhiêu lần biến động, loài người trải
qua nhiều biến hoá, chiến tranh và tử vong, thế giới này, vẫn là thế
giới của một hạt cát. Cát ơi! Múa lượn trong sa mạc như là một kỵ
sĩ xuất chinh, ở trong đồng bằng rộng lớn thì lại bồi dưỡng cho đất
màu mỡ, hình như sinh mạng của cát mới là một thứ tượng trưng
vĩnh hằng.
Thi sĩ Uy Liêm Bố Lai Khắc từng viết rằng :
Một hạt cát là thế giới thu nhỏ,
Một đoá hoa là đọng hình của vũ trụ,
Giữa một khoảnh khắc
Đem vô cực đặt vào trong lòng bàn tay của bạn.
Bài thơ này, tượng trưng cho lực tưởng tượng của thi sĩ rất phong
phú, nhưng cũng gián tiếp nhắc nhở cho chúng ta rằng, thế giới
chính là một hạt cát, vũ trụ chính là một đoá hoa, và loài người thì
nghỉ ngơi ở trên hạt cát đó, cũng giống như một đoá hoa vậy, đột
nhiên nở rộ, đột nhiên tàn đi, và tâm linh vĩ đại của con người ơi!
Cũng giống như ý thức vô hạn, trải đầy ở vô cực, tồn tạo đến mãi
mãi.
Có lúc, tôi cảm thấy rằng con người thật sự là quá nhỏ bé, sinh
mạng của một con người, từ khi sinh ra đến mất đi, trong dòng thời
gian của vũ trụ, sự thật là, như kinh Phật nói, như lộ, khi chưng thì
ắt tan, như điện, khi chớp sẽ mất. Có rất nhiều sinh mạng, nếu
không biết nuối tiếc, có phải như những con kiến không, hiện ra
sống mà không như sống, chết cũng như chưa sống, không có một
chút nào của giá trị và ý nghĩa của cuộc sống. Cho nên, tôi trân
trọng hạt cát của thế giới này, xem trọng một bông hoa trong một
4
sát na, một trong một thời gian ngắn của chớp nhanh, nắm bắt lấy
thăng hoa của sinh mạng, phát ra ánh sáng chói chang.
Thế là, tôi chấp vào những gì tôi đáng phải chấp vào nó, không
ngủ không nghỉ mà đi tìm linh cảm, đem phát sáng của sự nghĩ
thầm mà dùng một sợi chỉ xâu nó lại, những thứ này trở thành
tiếng bước chân trống rỗng, đại diện cho sự đau khổ và vui vẻ của
tôi. Và cái tôi chấp vào, chính là < viết bài>, dùng văn tự mà gõ
thức tỉnh tiếng lòng, tôi không hy vọng những văn tự này sẽ cảm
động sâu xa người ta như thế nào, mà tôi chỉ là cố hết sức để biểu
đạt chính mình, tham vọng sẽ dẫn đến có người cùng chung tiếng
nói, khiến cho xã hội tiến bộ, quốc gia giàu mạnh, loài người cùng
thúc đẩy bánh xe khổng lồ của < đại đồng thế giới>
Năm nay tôi 33 tuổi, quyển < thiền thiên lư tạp ký > này là quyển
thứ 30 của tôi, 30 quyển sách ở trong mắt của người khác cho rằng
không phải là ít, cha của tôi Lư Nhĩ Thuận nói: < trong thế hệ trẻ,
con là người phá kỷ lục>, nhưng mà tôi lại cảm thấy rằng 30 quyển
sách này, chưa đắp đầy tâm linh trống rỗng của tôi, chưa biểu đạt
hết tâm đắc của tôi, tôi không bằng lòng với < tính cương mới
vụng về>, không bằng lòng với < mắt cao tay thấp>, sự thật là, tôi
chưa từng bằng lòng qua với các sáng tác của tôi, tôi vẫn hư tâm
mà kiểm thảo mình, muốn đem năng lực biểu đạt của mình, đề cao
đến trong phạm vi mà mình cảm thấy hài lòng. Ba mươi quyển
sách, hàng vạn chữ, vui vẻ và đau khổ hoán đổi lẫn nhau, người tri
âm lại là ai đây.
Quyển sách này, tôi lấy tên là< thiền thiên lư tạp ký> nguyên
nhân là tác phẩm của quyển sách này, chính là tâm đắc của tôi mà
mấy năm gần đây đã chiếm mất hơn phân nữa là do tôi tịnh toạ
lặng nghĩ mà có được, Phật giáo có < tứ thiền thiên>, và tịnh toạ
lặng nghĩ của tôi cũng đã từng vào < tứ thiền thiên>, được một vài
lãnh ngộ triết lý nho nhỏ, cho nên, tôi lấy tên< thiền thiên lư tạp ký
> làm tên của quyển sách, < lư (nhà tranh nát)> là mái nhà tranh
nhỏ mà tôi đang ở, một ngôi nhà trệt nhỏ đến nổi không thể nhỏ
5
hơn nữa (2 phòng 1 phòng khách), dùng tên này để làm tên của
sách, thật sự là rất hợp với thật tế, chứ không phải là có một tâm
đặc thù nào khác.
Ở trong quyển sách này, những thứ tôi viết vẫn là:
< lòng yêu thương thực tế bình thường,
Điêu khắc sâu ở vận mạng của tự tin,
Nhặt một hạt cát lên,
Thưởng thức một đoá hoa,
Cứ khóc một trận thoải mái,
Nở một nụ cười,
Thiền thiên lư,
Nói hết tình cảm vui buồn>
Sau cùng, tôi nói: <tôi vẫn ở trong thế giới của một hạt cát, nhặt
được một hạt cát rồi, tôi cất kỹ hạt cát đó đi. Sống vẫn tiếp tục
sống, chết vẫn tiếp tục chết, còn tôi và cát, sống chết là cùng một
mồ>
Tháng 7 năm Dân Quốc thứ 66 (năm 1978) ở thiền thiên lư
6
002 Chân đế rơi nước mắt
( Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Khi mỗi một người sinh ra ở trên trái đất hiện thật này, mỗi một
người đều khóc <oa, oa>.
Và tôi hình như là khóc nhiều hơn một số người. Bởi vì vào năm
tôi ra đời, máy bay oanh tạc, cha mẹ chạy trốn ở dưới quê, tôi được
sinh ra ở chuồng heo hố bò, bởi do bóng đèn chớp tắt lúc sáng lúc
tối, thế là tôi khóc, và thế là một đứa trẻ chưa đầy tháng, được ẳm
ra ngoài ngắm sao trời, và còn tôi chỉ cần những thấy những ngôi
sao sáng ở trên trời, thì tôi mới ngừng khóc. Có lẽ do nhân duyên
này, một đứa bé trai, đã thành một đứa bé thích khóc.
Tôi thường cảm thấy, tôi yêu tất cả mọi người trên thế gian, đó là
tình yêu của tôi đối với nhân loại, tình cảm phong phú kết hợp với
tâm linh thuần kiết của tôi, đã sinh ra phẩm cách vô tư giữa trời đất.
Nói rằng bản thân mình có tư tưởng như vậy, thật sự là không biết
tự lượng sức mình, nhưng, sự thật là, tình yêu của tôi không phải là
ích kỷ, càng không phải được giới hạn ở một phạm vi nhỏ.
Đã từng có một thanh niên giận dữ chạy đến tìm tôi, chỉ vào tôi
mà mắng rằng: < Lư Thắng Ngạn, ông là con quỷ, mẹ của tôi với
tín đồ Cơ Đốc kiền thành, bây giờ bởi do xem sách của ông, bà ta
lại đem linh vị của tổ tiên cung phụng lại từ đầu, như thế, bà là
phản đạo, việc này ngươi phải chịu trách nhiệm> sau khi nghe
xong người thanh niên này chỉ trích, tôi hỏi: < cả nhà anh đều là tín
đồ Cơ Đốc?>
< đương nhiên rồi>
< vậy ông bà nội của anh thì sao?>
< đương nhiên….. không phải>
Tôi nói: < tín ngưỡng của một con người, là do ý chí tự do của
mỗi một con người, và do cảm thọ sâu xa của chính bản thân họ,
không phải là một thứ < hạn chế và cưỡng bức>, tôi tin tưởng chân
lý, nhưng không cưỡng bức mỗi một người phải tin tưởng, bởi vì
hành vi mang tính cưỡng chế sẽ là một việc khiến cho người ta khó
xử và không có ý nghĩa gì cả, cứ lấy anh mà nói, anh có tin tôi
không ?>
7
< tôi không tin>
< đúng vậy, đó chính là người tin thì cứ mà tin, người không tin thì
vẫn không tin, tin hay không đều là do ý chí tự do của mỗi một con
người.>
Tôi đi theo người thanh niên đến nhà anh ta, anh chị em trong
nhà anh ta vừa nhìn thấy tôi, bèn thay nhau trách mắng, tôi không
nói một câu nào, tôi nói với mẹ anh ta: < bác gái, bác vẫn cứ tín
ngưỡng Cơ Đốc ở trong lòng của mình vậy! Ki Tô sống, là sống ở
trong lòng chúng ta, chứ không phải là hình tượng bên ngoài, chỉ
cần bác cho là chân lý, thì cứ tin vậy, Cơ Đốc là dùng bác ái làm
cơ sở, cho nên tín ngưỡng Cơ Đốc và tôn trọng tổ tiên của mình,
vốn vẫn phù hợp với bác ái của Cơ Đốc, cái này sẽ không có xung
đột>
< không thể được, đây là tế bái thần khác> con của bà ta đưa ra
kiến nghị khác.
< sự kiền thành của tín ngưỡng đương nhiên là rất cần thiết, nhưng
mà ở trên tình tiết và trên tinh thần của mỗi một người, tôi cảm
thấy việc uống nước nhớ nguồn cúng bái tổ tiên là cũng cần thiết,
bởi vì đó là hiếu đạo của người Trung Quốc chúng ta, như thế mới
khiến cho tâm của chúng ta hoà bình >
Tôi và bác gái đó nói chuyện với nhau rất lâu, giải thích cho bác
biết thế nào là <vô hạn của tín ngưỡng thần cảnh>, sau cùng bà
đồng ý vẫn tín ngưỡng đạo Cơ Đốc như xưa, và đã khiến cho mấy
đứa con của bà ta vừa nhảy vừa kêu to chiến thắng trên ghế salon.
Và đồng thời tôi cũng yêu cầu, ở phòng khách của họ, vẫn treo
hình ảnh của ông bà nội, để cho con cháu đời sau biết nhớ đến, khi
tôi rời khỏi nhà, người thanh niên đó nói với tôi: < tôi vốn muốn
đánh cho ông một trận, nhưng bây giờ thì không rồi, tôi phát giác
cách suy nghĩ của ông không phải nhỏ hẹp, mà là rất rộng lớn, bây
giờ tôi biết rằng, bác ái chính là tình yêu rộng lớn, mà không phải
là tình yêu nhỏ hẹp> anh ta bắt tay với tôi, nắm rất chặt.
Và đến bây giờ, vẫn có rất nhiều người không hiểu rõ được tôi,
tôi chỉ có thể rơi nước mắt, tôi không biện luận cái gì cả, tôi ngậm
miệng không nói, trời ơi ! Tại sao tâm linh của loài người không có
cách nào rộng lớn như trời vậy, mà lại giống như sừng của con ốc
8
sên vậy, nhỏ đến nỗi chỉ vẫy qua vẫy lại. Nước mắt của tôi, mong
rằng ông trời ban cho tôi dũng khí, khiến cho mọi người hiểu rõ tôi
hơn, không nên đem đến cho tôi quá nhiều tai nạn.
< Rơi nước mắt không phải là nhu nhược,
Mà là tình cảm âm u của ngày mưa,
Những gì kỳ cầu chính là hiểu rõ của mặt trời chiếu sáng.
Trong lòng của người đau khổ đang rỉ máu,
Người đau thương chảy nước mắt đầy khắp mặt,
Có bao nhiêu người chỉ về nó,
Có bao nhiêu người hiểu rõ nó,
Và nó vẫn đến rồi.
Chỉ là dựa vào chân lý và đạo nghĩa chống giữ nhau,
Và tình yêu to lớn của nó,
Điều trị người mang oán hận kia>
9
003 Không nhất định phải vào núi
( Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Từ trên đỉnh của ngọn núi cao chót vót kia, nhìn nơi mặt đất
bằng phẳng xa xôi, chỉ nhìn thấy biển và trời lẫn vào nhau, ánh mặt
trời rực rỡ là hoạ sĩ của đại tự nhiên, nó cầm lấy cây bút màu của
thần tiên, theo tâm ý mà biến ảo. Cây tùng to lớn ở gần đó, nhô lên
ở trên đám mây mù, giống như từng người già cô đơn vậy. Tất cả
đều là màu xanh, bao gồm cả màu xanh nhạt, xanh đậm, xanh cam,
phối hợp với màu trắng của mây và màu xám của sương mù.
Giống như là vừa đưa tay ra là có thể sờ đến trời vậy, và sự thật
là, trời vẫn ở rất xa. Nhưng mà ở nơi đây đã rời thế tục rất xa được
cách bởi một con sông lớn và dài, con đường xa xôi, cao hơn mặt
biển 1000m, không ngửi được mùi hôi của trần ai, không nghe thấy
những lời nói sỉ nhục, ở đó chỉ có một ngôi chùa cổ, một ánh trăng
sáng, một làn gió đêm và đôi lúc có tiếng chim hót.
Trên bậc thang của ngôi cổ tự, là có thể thấy được núi liền núi,
một đỉnh núi nối tiếp một đỉnh núi, đó là phong cảnh mà mỗi ngày
đều có thể thưởng ngoạn, trên núi không có báo, không nhìn thấy
được ở đất bằng có biết bao nhiêu chuyện xanh xanh đỏ đỏ xảy ra,
ngôi chùa yên tịnh, có thể làm mãn nguyện tư tưởng < xuất thế >
của người tu hành, bởi vì ở đây không có buồn rầu, không có dục
vọng, không có cô đơn, chỉ có núi cao hùng vĩ, chỉ có tự nhiên hoà
nhã, và tầm mắt hoang dã nhìn vô biên.
Lúc nào, tôi cũng vẫn kéo theo thân thể mệt mỏi và một tâm linh
đã tàn phế đến đây, mong rằng linh khí của núi có thể khiến suy tư
của tôi được thanh tịnh, tiêu trừ mệt mỏi của tôi, điều chế thân tâm
của chính mình, vị tăng già của ngôi chùa, xem tôi như là người kế
thừa vậy, cứ hỏi tôi rằng, khi nào lên núi? Và tôi phải trả lời ngài
ra sao đây, câu trả lời của tôi là, khi thời khắc đến, con sẽ đến.
Hai loại tư tưởng nhập thế và xuất thế, đều dậy sóng ở trong lòng
của tôi, tôi phải <nhập thế> sao? Sự thật là chân của tôi đã giẫm
vào trong đất bùn từ lâu rồi, không nên bởi vì sai lầm thất bại, với
tinh thần và nhục thể bị thương, mà trốn tránh và thoái lui. Bây giờ
tôi chỉ có thể dùng lực nhẫn nại của chính mình, đi xây dựng tự tôn
10
và tự tin của mình, thêm một phần thất bại, thì ắt sẽ thêm một phần
nhẫn nại, tuy nhiên < nhập thế> là quả đắng, nhưng Bồ Tát dùng
phiền não làm bồ đề, không phải vậy sao? Tôi đọc < Mai Đài tư
thân> của Tưởng viện trưởng có một đoạn như sau:< bắt tay tạm
biệt những người bạn nông dân, vững tin mà tiến lên phía trước, ở
một nơi cao không xa, rừng trúc xanh tươi, vọng lại tiếng chuông,
Từ Huệ cung toạ lạc ở giữa nơi con đường mòn và bụi tre, đây là
một ngôi miếu nhỏ kỷ niệm ân của người thân ở trong thôn Bát Kết,
ở trước ở có một câu đối, câu đối như sau: <từ thân nhớ con cái,
trống chiều chuông sáng hối tỉnh giác> khi vừa mới đọc câu này,
đột nhiên cảm thấy kinh sợ hơn. Ngồi đó một lát, buổi tối trời mát
mẻ, lại có cảm xúc. Tôi bình thường không bao giờ khuyên người
ta có ý nghĩ ly trần xuất gia, nhưng đối với bất cứ một tôn giáo nào,
đều mang tâm kiền thành và kính trọng, bởi vì tôn giáo đều khuyên
con người làm thiện, và tôn giáo cũng khiến cho con người định
tâm và suy nghĩ lắng lại, tâm đều được an.> từ đoạn nói trên của
Tưởng viện trưởng, tôi thể hội được tinh thần của viện trưởng,
hoàn toàn là tinh thần nhập thế cứu nước.
Lại nói đến < nhập thế>, xuất thế chính là cuộc sống xa thẳm
và bảo thủ trong niệm thiện của mình, tuy rằng nó có cái tên rất
đẹp là < tự thiện thân của mình> nhưng, sống ở 3 cảnh giới: nhục
thể, tư tưởng và linh hồn này, có phải là thiếu tính sáng tạo của
cuộc sống không, cũng thiếu mất sự mài luyện của sinh mạng, có
phải tôi đã lười biếng rồi, có phải tôi do dự rồi, có phải là tôi đã
kinh sợ rồi. Tôi sợ cái gì đây. Đứng ở lập trường đạo đức và thiện
lương của chính mình, tôi có thể không quản sao. Có thể <xuất
thế> mà cứ ngồi thừ ra ở cổ tự sao. Tôi yêu sự yên tĩnh và cô tịch ở
trên núi, càng thích cái mõ và đèn xanh, lo âu rời khỏi tôi, nhưng
mà tôi vẫn không phải là rác của xã hội.
< cư sĩ Lư, khi nào con vào núi?> lão tăng hỏi tôi
< kiếp này, đại thiện dụng của tông phong Phật pháp đã không
nhiều, mà tông phong lại không chấn. Nếu như đem sở dụng của
con, dùng để giúp ích cho người thế gian, con sẽ nhập thế.>
< con phải vào núi> lão tăng nói.
< không nhất định phải nhập thế> tôi đáp.
11
< người học đạo, tuy biết tự gia là bản tánh, cầu ở trong tâm cô
đơn, thì có thể thấy đạo> lão tăng nói.
< bỏ tất cả vọng niệm, chính là chân tâm, bất luận trần cảnh và tịnh
cảnh đều có>
Lão tăng im lặng gật đầu, tôi và ngài, cùng nhìn trăng sáng, từ
từ nhảy ra từ núi, lên hư không. Mặt trăng vừa tròn vừa sáng. Lão
tăng lại nói:< trên trời dưới đất, còn có cái gì là quý báu nhất?>
< chính là 2 chữ từ bi> tôi đáp
< không nhất định phải vào núi,
Tuy rằng thân tâm mệt mỏi,
Chỉ cần còn một hơi thở,
Thì phải đi vào thế giới này.
Lên núi thì phải xuống núi,
Xuống núi thì phải lên núi,
Chỉ cần tâm tính từ bi của chính mình,
Không nhất định phải chân chính vào núi.
12
004 Ấn tượng tử vong (Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Tôi đọc kinh Vô Lượng Thọ, trong kinh có nói như vậy:
<người trong ái dục thế gian, sinh một mình, chết một mình, đến
một mình đi một mình, đương hành thú chi khổ lạc địa, tự thân
mình biết, không ai thay thế, lại có < kinh Cửu Hoành> có nói như
vậy: <chúng sanh chết oan uổng có 9 nguyên nhân: một là ăn
không biết thức ăn, hai là ăn uống không biết lượng mức, ba là
không biết đông hạ, đến nước khác không biết phong tục, ăn mà
không tiêu, bốn là ăn chưa tiêu, lại không biết uống thuốc, năm là
khi đại tiểu tiện, không biết thời lúc, sáu là không giữ 5 giới, bảy là
thân cận người ác, tám là vào trong núi âm, hoặc là ở vào trường
hợp rối rít, 9 trường hợp này là phải tránh nhưng chưa tránh>
Khi tôi đi tham gia tang lễ của một người bạn thân, thì tôi liền
nghĩ đến lời nói của 2 đoạn kinh trên, anh ta mất vì bị tai nạn xe,
hợp với < trường hợp phải tránh mà nên tránh>, cho nên sống một
mình chết một mình, đi một mình đến một mình. Hiện trường của
vụ tai nạn xe tôi cũng đã đến qua, máu chảy lênh láng khắp mặt đất,
thân thể không toàn vẹn, thành một đống thịt bầy nhầy, mấy ống
xương hôi thối, người thấy đều tránh đi, bịt mũi lại. Lúc đó tôi cảm
thấy, giữa trời và đất, duy chỉ có là cái chết của con người, sau khi
chết hồn siêu phách tán, hình như không có một ý niệm giá trị nào
để truyền lại nhân gian.
Bởi do tôi biết được thuật kham dư, mỗi khi đi qua các nghĩa địa,
đều dậy lên nỗi lòng cảm khái rằng thời gian hối thúc con người
già đi, phong thuỷ luân lưu, thân xác của con người đều hoá thành
tro bụi cả. một người một lỗ, chôn sâu ở dưới đó, thuộc về thân xác
của vật chất, cho dù là quá ngắn ngủi, cái mộ bia trắng toát đó, sự
thật là không thể thay thế cho sự vĩnh hằng, sau khi trải qua trăm
năm, người đến ở sau, đều là như nhau cả. Đương nhiên, tôi không
thể tránh được nghĩ đến bản thân mình chết, sự cảm nhận khi nghĩ
đến thân thể của mình bất động, được bỏ vào trong một cái hố nhỏ,
sự cô đơn cùng với núi , mặt trời mọc và lặn, gió thổi mưa tạt.
13
Nhưng mà, tôi hiểu rằng mọi người đều phải đi trên con đường
này, ai kêu chúng ta là con người! Tôi vẫn cảm thấy rằng mục đích
của đời người chính là dựng nên một mục tiêu sinh tồn, sau đó cứ
thế cố gắng mà chạy lên phía trước, và khiến cho mục đích này có
ích cho bản thân, cũng có ích cho người khác, như thế mới được
coi như là một loại lý tưởng có giá trị của đời người, mới xứng
đáng để người đời sau đến viếng và hoài niệm.
Khi chết đừng nên quá bi thương, bởi vì đây là một loại vô
thường, cũng giống như cây nến đốt xong, cũng giống như mặt
trăng và mặt trời tuần hoàn vậy. Có lẽ chúng ta phải ăn mừng, ăn
mừng một sinh nhật khác, sinh nhật của linh hồn. Tránh được sự
trói buộc, và lại được sự giải thoát, ở một thế giới khác, hiện lại sự
quang minh.
< khi thời khắc đến thì phải đi,
Sự khen ngợi trên mộ bia cũng không thấy,
Tang lễ chỉ là một nghi thức,
Thật sự quan tâm vẫn chính là chính mình.
Không nên trách khó bản thân,
Người khác cũng không có nhiều ưu điểm như bạn đó,
Chết chỉ là một loại bệnh truyền nhiễm,
Không có ai mà không bị truyền nhiễm.
Đi suy nghĩ
Đi làm
Đi hoàn thành ,
Chạy hướng về mục tiêu và lý tưởng,
Sau đó bất tri bất giác,
Mà chờ đợi cái chết>
Từng có một cô gái trẻ đẹp đến trước mặt của tôi, cô nói cha của
cô ta bị bệnh ung thư phổi, cô gái muốn tôi cầu nguyện cho cô ta,
cầu cho bệnh của cha cô được giảm nhẹ, thậm chí là khỏi hẳn, bởi
vì bác sĩ đã tuyên bố ngày chết.
Thế là tôi hỏi:< ông ấy có làm qua việc lớn nào không ?>
< ông nuôi chúng tôi, quá cực khổ, chung tôi chưa kịp báo đáp>
14
< để cho ông ấy đi vậy!> tôi nói.
< không thể cứu sao?>
< sanh một mình chết một mình, đến một mình đi một mình, bản
thân tự biết, không ai có thể thay thế> tôi nói: <chết không đáng sợ
đâu, đáng sợ là không làm được cái gì cả, cứ vậy mà ra đi rồi.>
< Phật không thể cứu ổng sao?>
< cha của Phật, khi vua Tịnh Phạn lâm chung, Phật không có đưa
tay ra để cứu sinh mạng của vua về>
Tôi đưa ra bài thơ < ấn tượng tử vong> mà tôi viết, cho vị thiếu
nữ đó xem, tôi nói: < đời người chính là như vậy, sự thật của thế
giới là khó tránh được cái chết, chỉ cần ông đã đi qua, cũng thực
hiện được lý tưởng, hưởng thụ được hay không, là một chuyện
khác, nếu như thời khắc đã đến, thời hãy để ông đi vậy! Miễn
cưỡng giữ ông lại cũng giữ không được.>
15
005 Ấn chứng của trí tuệ
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Bởi do nghiên cứu kinh Phật, vì vậy mà biết được sự kéo dài của
trí tuệ (bát nhã) không phải là dễ, vì muốn ấn chứng chân lý của trí
tuệ, thậm chí kinh Phật có 4 lần chỉnh sửa và kết tập. Lần kết tập
thứ nhất là ở hang thất diệp của núi Linh Thứu tại thành Vương Xá
(sau khi Phật Thích Ca diệt độ 90 ngày, do Ma Ha Ca Diếp đứng
đầu, chủ trì biên tập đại hội, có 500 La Hán tham gia kết tập). Lần
kết tập thứ hai ở thành Tỳ Xá Ly, Phật diệt độ khoảng 100 năm, do
trưởng lão Da Xá làm chủ trì, lập lại giới cấm. Lần kết tập thứ 3, là
do vua A Dục triệu tập, ở thành Ba La Nại, hiện nay chính là nơi
Bát Na của Ấn Độ, cử hành đại hội kết tập, thời gian là năm 250
trước Công Nguyên, do Mục Kiền Liên Tử Đế làm chủ tịch, lần
kết tập này hoàn chỉnh hơn, cùng tập thành kinh tạng, luật tạng,
luận tạng. Lần kết tập kinh tạng thứ tư, do Ca Ni Sắc Ca Vương
triệu tập, ở Ca Thấp Di, tức là Khắc Thập Mễ Di ở Ấn Độ, thời
gian là khoảng năm 70 sau Công Nguyên, do Bà Tu Mật tôn giả
làm chủ tịch, lần kết tập này cộng thành 200 quyển bộ Tỳ Bà Sa
luận, đại thành bộ hữu tập.
Gần đây, tôi đọc kinh tạng, tam tạng 12 bộ, tức là kinh, luật,
luận. 12 bộ chính là nhất trường hành, nhị trùng tụng, tam cô khởi,
tứ thí dụ, ngũ nhân duyên, lục vô gián tự thuyết, thất bản sinh, bát
bản sự, cửu vị từng hữu, thập phương quảng, thập nhất ký biệt
hoặc thọ ký. Lại nghiên cứu về 10 tông như là các tông phái :
Thành Thật tông, Cụ Xá tông, Tánh tông, Thiên Thai tông, Hiền
Thủ tông, Thiền tông, Tịnh Thổ tông, Luật tông, Mật tông…. Từ
trong những kinh tạng này, phát hiện sự mênh mông của trí tuệ,
càng suy tư sâu, càng cảm thấy bản thân mình càng nhỏ, vô tình
lãnh ngộ, ắt sẽ ngẩng đầu lên trời mà than rằng: < trên cầu Phật
quả, dưới hoá chúng sinh, trí tuệ viên mãn, tại sao không dễ>, từ
đây tôi biết được Phật pháp vô biên, đích thật là phàm phu bình
thường không thể lãnh ngộ được.
Trong kinh Viên Giác có nói: < tất cả chướng ngại, tức là cấu
cảnh giác. Được mất chẳng qua là giải thoát, thành hoại chẳng qua
16
là niết bàn, trí ngu chẳng qua là bát nhã. Bồ Tát ngoại đạo, các
pháp thành tựu, là cùng một bồ đề vậy. Vô minh chân như không
có cảnh giới khác nhau. Giới định tuệ tam học, tham sân si tam độc,
đều là phạm hạnh. Quốc thổ của chúng sinh, là cùng một pháp tánh.
Địa ngục thiên đàng, đều là tịnh thổ. Có tánh không tánh, cùng
thành Phật đạo. Tất cả phiền não, đều được giải thoát. Vô thượng
diệu giác, ở khắp thập phương, xuất sanh Như Lai, cùng tất cả
pháp, đồng thể bình đẳng.> tôi cảm thấy rằng, ý nghĩa của đoạn
trên có ý nghĩa rất cao thâm, cũng đại biểu cho chân lý của viên
thông < vô ngại>, ấn chứng của trí tuệ sẽ cuồn cuộn đi ra từ đoạn
nói trên.
Có một người học Phật phê bình tôi:< linh của Lư Thắng Ngạn
không phải Phật>
Tôi vốn không biện giải, tôi chỉ trả lời: <Bồ Tát ngoại đạo, các
pháp thành tựu, cùng một bồ đề>
Có người lại phê bình : <linh sẽ thành chướng của Phật pháp>
< tất cả chướng ngại, tức là cấu cảnh giác>
Có người hỏi tôi:< linh là cái gì?>
< người trí nhìn thấy là Phật, kẻ ngu chỉ nhận ra là linh hồn>
Tôi nói, giữa trí và ngu, hoàn toàn là một thứ ấn chứng của trí tuệ,
nếu như tôi đứng ở trên đỉnh trên cùng của trí tuệ, tất cả đối với tôi
đều là ở tâm, hiểu được tất cả sự lý và chân lý, có thể nói là nhìn
thấy rất rõ ràng, thậm chí có thể nhìn thấy rất rõ ràng nhiều người
ở bắt tay nhau ở dưới núi, họ vẫn chưa đi đến đỉnh núi, nhưng lại
bị ràng buộc ở vực thẳm rừng sâu, tầm mắt của họ quá nhỏ hẹp,
không có cách nhìn ra hình thái của vạn việc vạn vật, không có
cách phân biệt thật giả của chân lý, lấy Phật pháp hiện có cho là
mãn nguyện, người nói ta cũng nói, có thể nói là không có cách
đến thượng thừa, không biết chân lý của tối thượng thừa, khó trách
họ nhìn thấy một nghĩa đế khác của < Phật>, thì lại sợ hãi.
Năm xưa bởi do Thái Hư đại sư, đưa ra một nghĩa đế Phật khác,
vì thế mà gặp phải công kích và bị chửi mắng không ngơi. Và Thái
Hư đại sư nói: <chỉ cần sự lãnh ngộ của tôi là được đi ra từ trong
nội tâm của đầu lưỡi, thì tất cả lời huỷ báng sẽ hoá thành không.
Nếu như tôi nói vọng ngữ, thì đầu lưỡi từ đây sẽ bị đốt cháy> Nghe
17
nói sau khi Thái Hư đại sư mất đi, mọi người nhìn thấy ở lưỡi của
ngài, toàn là xá lợi.
Và ngày hôm nay, tôi nói như vậy: <linh mà tôi nói, cùng lý với
Phật, chỉ là danh xưng không giống mà thôi, tôi đã lãnh ngộ và tiếp
xúc là có thật, không phải là ảo cảnh hư vô và ảo giác, không phải
là thần hồn điên đảo, không phải là tinh thần giao cảm, mà là ấn
chứng trực tiếp của chủ tâm tánh, từ thiền đến mật đều trực tiếp
hiển thị tâm linh, những gì tôi nói không phải là giả, đều là xuất
phát từ lương tri lương năng của tự tâm>.
< trí tuệ
Bạn của tôi hình dung nó là người già,
Còn tôi nói thì không phải,
Bởi vì tầm mắt của trí tuệ nhìn xa hơn.
Trong lòng của mỗi một người đều có một bài hát,
Có lẽ là nến giữa gió,
Có lẽ là tiếng sấm ở trong cốc.
Có lẽ là võng lưới.
Có lẽ là một giấc mộng.
Nhưng,
Cũng cần phải có,
Vẫn là ấn chứng của trí tuệ>
18
006 Một áng mây bay qua (Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Thật ra, cuộc đời của tôi, không cần phải trốn tránh, nhưng mà sự
thật là có rất nhiều chuyện xảy ra khiến cho ta phải hoảng sợ. Vì
thế, từ từ, trong vô thức tôi đã có cách nghĩ trốn tránh. Có lúc, tôi
giống như một con thỏ trắng ôn hoà mà ăn khoai tây, nhưng tiếng
bước chân của người thợ săn từ từ đến gần. Có lúc tôi là một con
chim nhỏ đang nghỉ ngơi ở trong bụi cây, nhưng mà cây súng của
người thợ săn từ lâu đã nhắm chính xác về tôi. Có lẽ tiếng bước
chân của tôi, đã làm khắp mặt đất tỉnh giấc, và có một vài người ở
một nơi không xa làm một cái bẫy, chờ đợi chờ đợi, chờ đợi bữa
tiệc ăn mừng.
Tôi xưa nay vốn không tranh giành với thế gian, mà rất xem
thường công danh lợi lộc, đối với quốc gia dân tộc có một phần
yêu thương chấp trước. Nhưng mà, có lẽ người khác lại có một
cách nhìn khác đối với tôi, họ tưởng rằng tôi có thể là một con sư
tử, mà không phải là một con thỏ. Sự thật là, tôi đích thật là một
con thỏ thuần kiết, chỉ có người nằm mộng, với cách nghĩ đẹp và
không ảo, chi phối hết nữa cuộc đời của tôi.
Lúc nhỏ, tôi thích nhất là nằm trên bãi cỏ, đó chính là những ngày
tháng không lo không sầu nhất, những người quen biết tôi chỉ có
cha mẹ, anh em, và bạn học của tôi, mọi người tương thân tương ái,
không có những ý kiến không hợp nhau. Nằm trên bãi cỏ, tôi thích
nhìn bầu trời, bầu trời rất xanh, xanh hơn biển cả, và tôi ảo tưởng
mình hình như là bị rơi vào trong thế giới của trời, toàn bộ vũ trụ
đang xoay vòng, thế giới lớn vô hạn, tôi thành một thân xác hư vô,
bay vào đó, bay vào đó.
Còn nhớ lúc nhỏ xem mây, sự biến ảo của mây trông rất hay, có
lúc là một tên đầu to, có lúc thì lại là mặt của một ông lão, ông lão
chọn để bộ râu dài dài! Có lúc mây biến thành dáng của một chiếc
thuyền buồm, theo sóng lên xuống, gió thổi vào buồm, và còn tôi
thì trở thành tay chèo trên thuyền, cứ như thế mà bồng bềnh bay đi.
Sau khi lớn lên, tâm cảnh thay đổi, thời gian nhìn mây càng ngày
càng ít, vô tình nhìn thấy một áng mây bay qua, đã không còn tình
19
cảnh rảnh rỗi ngay thơ nữa, có lúc, cũng khiến cho tôi có cảm xúc
rất sâu.
< một áng mây bay qua,
Không biết nó bay qua hướng nào,
Sinh mạng cũng là như vậy,
Không biết sẽ ra sao.
Có lúc lại là cô độc lại cộng thêm cô đơn,
Kèm theo đó là một gương mặt thẹn thùng và lo âu>
Một áng mây bay qua, nó là đang trốn tránh cái gì vậy? Sợ người
thợ săn đuổi theo, tôi hình như biến thành một áng mây lưu lạc, cứ
thế mà chạy thục mạng. Hy vọng có thể có một nơi thật sự an bình
thu nhận tôi, cũng có thể để cho tôi thở một hơi, chỉ cần được thở
một ngụm hơi, nghỉ ngơi một lát, nghỉ ngơi một lát, không chạy
tiếp nữa, thật sự là không muốn chạy tiếp nữa.
Nhưng, vận mạng là gió, một áng mây chỉ có thể thuận theo ý
của gió, nếu như nó thổi không ngừng, không dừng chân, vậy thì
tôi không thể không chạy, tồn tại và tan mất, chỉ là một chuyện
khác, và bầu trời là một vũ đài, một vũ đài nhiều biến hoá, tương
lai của vận mạng, có phải chỉ là một vị thầy bói có thể bói ra được,
một áng mây bay qua rồi, bay qua rồi có thể trở lại không? Có thể
bay đi rồi không trở lại. Ví dụ như tình cảnh rảnh rỗi xem những
áng mây của tôi, trong những ngày gần đây, đã từ lâu không còn
tồn tại nữa.
Tôi thường hay tự suy nghĩ, một sinh mạng chính là một sự tích,
tôi thích nói về <duy mỹ>, nhưng, xã hội luôn luôn cùng <duy
mỹ> là một cục diện đối lập, tâm linh yếu đuối nếu như bị đả
thương, vậy thì rất khó bù đắp, tâm linh của con người cũng yếu
đuối giống như đôi cánh của mây, gió vừa thổi, thì sẽ không nhịn
được mà trôi đi mất.
< mây là vô tâm đó> tôi nói
< tôi không đồng ý với cách nhìn của anh> người khác nói.
< mây là không có tội> tôi nói
< ai kêu nó lại có bóng trên mặt đất>
20
Có lúc tôi nghĩ đến trốn tránh, chân trời là vũ đài của tôi, tâm
linh yếu đuối ơi, nơi nào là nơi lánh nạn của ngươi đây, một áng
mây đi rồi, nhưng, gấp gáp mà mất đi, lại bắt đầu trở lại.
007 Trên thập tự giá
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Khi tôi đọc Tân Ước toàn thư, tôi hình như là nhìn thấy các con
đường thạch bản nhỏ ở trên các ngọn núi, Chúa Ki Tô vác thập tự
giá, đi từng bước từng bước đau đớn, trên đầu của Chúa Giê Su,
đội một chiếc mũ làm bằng gai, và mọi người nhân đây mà châm
trích ngài là vua của vạn vương, ngài đem theo sự cười chê và chửi
mắng của mọi người, ở trên các ngọn núi mà dựng nên thập tự giá.
Khi đinh đóng vào rồi, máu đỏ đã chảy ra, ngay cả chiếc áo của
Giê Su các vệ binh cũng chia mất rồi, ngay lúc này, Giê Su đã từng
mặt ngẩng lên trời, cầu nguyện với Da Hoà Hoa (Jehova – Chúa
Cha), ngài chịu đựng vận mạng bi thảm này, chỉ nói một câu:
<thành rồi> đúng vậy, chính là một câu sau khi < tất cả đều thành
rồi>, Giê Su kêu to lên một tiếng, đầu cúi xuống, linh hồn của ngài
thăng hoa, bỏ đi nhục thể.
Khi đọc đến Bỉ Đắc (học trò của Giê Su), khi ba lần không nhận
Giê Su, thật sự là khiến cho người ta cảm thấy tức cười, Giê Su đã
từng dự đoán rằng: < khi gà gáy, con sẽ ba lần không nhận ta> Bỉ
Đắc lúc đó nói: <không có đâu, Chúa ơi! Không có đâu> nhưng
mà tai nạn đã đến, Chúa Giê Su bị bắt, các binh sĩ hỏi Bỉ Đắc:<
ngươi là học trò của Giê Su phải không?> < không phải, không
phải, tôi không phải>, Bỉ Đắc phủ nhận liên tục, và khi phủ nhận
lần thứ ba, lại hảo hợp ngay là lúc gà gáy, đây là đã ứng với lời dự
đoán của Giê Su. Tôi nói, Giê Su bị đóng ở thập tự giá, đó là con
đường do ngài tự chọn, ông ta ở vườn Mari cầu nguyện như vậy:
<mọi việc đều thuận theo ý chỉ của thượng đế, không cần phải lo
cho ta>
Đối với Do Đại (Juda) bán đứng Giê Su, tôi cũng có một chút
đồng tình, bởi vì hắn ta là một tiểu nhân tín ngưỡng không kiên,
21
Giê Su đồng ý cho ma quỷ vào trong tâm của hắn, hắn trở thành
con rối bị ma quỷ lợi dụng, tôi có thể nói như vậy, hắn bán đứng
Giê Su là do thân không làm chủ được mình, cái này cũng khó
trách sau khi hắn mất đi Giê Su, hắn dùng sợi dây da treo cổ tự vận.
Lịch trình thiên lộ một đời của Giê Su Ki Tô, chính là từ lúc sinh
trong hang động đến khi thập tự giá được dựng lên, thời gian rất là
ngắn ngủi, chỉ mới 33 mùa xuân thôi, và đối với việc truyền phúc
âm của ông, càng ngắn ngủi hơn, chỉ mới 3 năm thôi, máu chảy ra
từ thập tự giá, và lời dự đoán theo đó cũng đã thành hiện thật < khi
ta bị treo lên, ta sẽ đưa (thu hút) mọi người đến với ta>.
Khi tôi đang tỉ mỉ để thể hội kinh văn, tôi phát giác rằng đây
chính là một đoạn quá trình <mài luyện khổ> của đời người, nhất
là một số người có trí tuệ cao, trí tuệ càng cao, cái khổ mà họ chịu
càng nhiều, hình như trí tuệ và đau khổ là tỉ lệ thuận với nhau,
phàm là những người cầm cờ kiên trì với chân lý, thì nhất định
phải chịu đau khổ lớn, như Mạnh Tử đã từng nói: <trời ban nhiệm
vụ cho người đó, thì nhất định phải tổn lao gân cốt, khổ tâm
chí…..> nhất định phải bị nấu nhừ cho đến chết đi sống lại mới có
thể thành công. Cái này cũng như là ở trên mặt đất đốt lên lửa ma,
và con người phải chịu sự thử thách, và luyện hàng trăm lần mới
thành thép.
Giê Su đã từng chủ động làm rất nhiều thần tích, thần tích lần
thứ nhất là ở tỉnh Gia Lợi Lợi thị trấn Ca Na, Giê Su biến nước ở
trong lu thành rượu. Thần tích lần thứ 2 của Giê Su là ở Ca Na,
ngài nói với viên quan lớn của vua Gia Lợi Lợi rằng: <bệnh của
con trai ông có thể khỏi hẳn> kết quả thật sự là khỏi bệnh. Thần
tích lần thứ 3 của Giê Su, là kêu một người bị bệnh 38 năm chờ ở
Gia Lộ Tán gánh lên cái gánh, bèn đi ngay. Thần tích lần thứ 4 của
Giê Su, là ở bên bờ hồ, dùng 5 cái bánh và 2 con cá cho 5000
người đang đói ăn, kết quả là con dư 12 giỏ cá và bánh. Thần tích
lần thứ 5 của Giê Su là đi trên mặt nước của hồ Gia Lợi Lợi, mà
còn hàng phục được sóng to gió lớn. Thần tích lần thứ 6 của Giê
Su là trị hết bệnh cho một người mù. Thần tích lần thứ 7 của Giê
Su là kêu sống lại La Tán Lộ của tứ thiên. Trong các thần tích của
22
Giê Su, đương nhiên là rất nhiều rất nhiều, và 7 câu chuyện này là
được người ta truyền tụng nhiều nhất.
Một người có sinh mạng quyền uy, tại sao lại bị đóng trên thập tự
giá, bị người ta nhổ nước bọt vào mặt, bị người ta tát tai, cười nhạo.
Bởi vì ngài nói quá bác ái, thậm chí phải yêu thương kẻ thù của
mình, Giê Su nói: <ánh sáng mặt trời của cha trời không chỉ chiếu
vào người thiện, mà chiếu cả vào người ác. Nước mưa ở trên trời,
làm cho đất người thiện được phì nhiêu, nhưng ngay cả đất của
người ác cũng được phì nhiêu. Đó là chân đế ban đều và bác ái>.
Khiến cho tôi cảm động nhất là, vẫn chính là tấm lòng nhẫn nhục
rộng lớn vô bờ bến, cái dấu hiệu trên thập tự giá, chính là đức hạnh
khiêm nhường và bác ái, và điểm thăng của tôn giáo chính là ở đây.
Hiện nay, tâm của tôi vẫn như vậy, tôi tuyệt đối không dùng ánh
mắt nhỏ hẹp của mình để đi nhìn bất cứ một tôn giáo nào, bất cứ
một tôn giáo nào tôi cũng đều tôn kính, bởi vì trong đó nhất định
có chân đế của nó.
< tôi tín ngưỡng chân lý.
Có lẽ thật sự tôi đã được rửa qua ở sông Ước Đan,
Tôi cũng đã từng đi bên bờ biển của Ca Lợi Lợi,
Hái nho ở Ba lạc tư.
Và tiếng bước chân xa xôi xa xôi ơi,
Tuy rằng thập tự giá vinh diệu phóng quang,
Tuy rằng tai nạn lại khắp hoang dã.
Nhưng tiếng bước chân vẫn tiếng tục vang lên,
Trở lại nhân gian.>
23
008 Gần đây tôi bị bệnh (Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Tôi từng đến tổng bệnh viện 803 để kiểm tra sức khoẻ toàn thân,
viện trưởng lúc đó là Mai Giáp Tân, bộ chủ nhiệm là Trịnh Nghĩa
Tề, thời gian là vào năm 66, kiểm tra trên điện tâm đồ, ghi là <
ngẫu phát tâm tánh thất co rút sớm> cái gì là< ngẫu phát tâm tánh
thấy co rút sớm>, bác sĩ ở đó không có giải thích, đồng thời trên
bảng ghi kiểm tra sức khoẻ, bác sĩ kiểm tra và ký vào ghi là < thị
lực hơi kém>, ở hàng kiến nghị lại không có ghi một biện pháp dự
phòng nào cả.
Tôi nghĩ <ngẫu phát tâm tánh thất co rút sớm> nhất định đó là
một trong những chứng bệnh trong người của tôi, nếu như không
phải là chứng bệnh, thì cần gì lại phải viết ra đây? Hỏi người khác,
cảnh nhiên không ai biết được đó là bệnh gì. Tôi biết được bệnh
tim mạch là chiếm vị trí đứng đầu trong nguyên nhân tử vong,
đồng thời bệnh tim mạch cũng có nhiều chủng loại, không lẽ bệnh
này không có liên quan đến chứng bệnh tâm thất lớn và co nhỏ
hoặc là thu hẹp sao? Rất nhiều bạn bè quan tâm đến tôi nói: <anh
hãy thử tìm một bệnh viện khác xem, làm kiểm tra điện tâm đồ
một lần nữa, nếu như đáp án là giống nhau, thì lúc đó tiếp tục nghĩ
cách trị dứt bệnh này>
Nói thật <ngẫu phát tâm tánh thất co rút sớm>, có lẽ là không
phải chứng bệnh nặng, nếu không thì trên sổ kiểm tra bác sĩ có thể
lại không ghi một chữ nào về điều trị ra sao, rất hiển nhiên là bác sĩ
vốn không xem trọng nó, bác sĩ đã không xem trọng, thì cần gì
chúng ta lại phải khẩn trương đây. Lại nói nữa, đối với đời người
tôi cũng đã có chút mệt mỏi chán chường, nếu nói bệnh tim mạch
đến nhanh, đi nhanh, vậy thì đó có phải là một việc quá tốt sau,
trong một sát nát đã đứt bóng, cũng là một chuyện vui của đời
người.
Nhưng mà quá khứ, tôi mắc phải các chứng bệnh không phải chỉ
có một bệnh này, tôi đã từng có chứng bệnh đau mắt hết 3 năm,
chứng đau răng hơn 1 tháng cũng được ghi lại, tai đột nhiên nghe
không thấy, thời gian là 2 tuần. Trên đầu có ghẻ, trên mặt có mụn,
24
mũi dị ứng, đau bao tử, viêm ruột, viêm khớp, nhức xương, cảm
nặng, da mọc ghẻ…. Có thể nói như vậy, từ đầu đến chân, tôi chưa
từng không mắc bệnh qua.
Tôi đọc < kinh Duy Ma>: < cư sĩ Duy Ma, thấy Văn Thù Sư Lợi
nói, Văn Thù Sư Lợi ! Tướng không đến mà đến, không thấy
tướng mà thấy. Văn Thù Sư Lợi nói, cư sĩ! Đến rồi càng không đến,
đi rồi càng không đi. Bèn nói, cư sĩ! Tật nhẫn như thế nào, trị liệu
pháp được dễ dàng, tật không tăng? Phật ân cần đến hỏi. Cư sĩ! Tật
lại từ lâu đến? Đáp rằng, Văn Thù Sư Lợi, từ ái sanh ngã bệnh! Tất
cả chúng sanh bệnh, nên ta cũng bệnh, nếu tất cả chúng sanh
không có bệnh, bệnh của ta cũng giảm. Xin hãy xem, Bồ Tát
không phải là vì chúng sanh nhập sanh tử sao, nhập sanh tử thì
nhất định phải bệnh, nếu như chúng sanh không có bệnh, Bồ Tát
cũng không có bệnh. Ví dụ vị trưởng giả có một đứa con, đứa con
bệnh, cha mẹ cũng bệnh. Bệnh của Bồ Tát, là từ từ bi mà sinh>
Từ đoạn kinh trên, có thể thể hội được 3 điểm:
Thứ nhất, sanh lão bệnh tử khổ, con người đều không thể tránh.
Thứ hai, chúng sanh có bệnh, Bồ Tát từ bi thương xót.
Thứ ba, người có sanh tử, thì ắt có bệnh.
Gần đây, tôi lại bị bệnh. Bệnh này không phải là bệnh nặng, mà
là cảm nặng, chóng mặt, chảy nước mũi, đau họng, tay chân bủn
rủn, sốt cao, sợ lạnh, đau bụng tiêu chảy. Ở trong lòng thì có tình
tiết buồn buồn không được vui, tôi hy vọng được sớm khỏi bệnh,
nhưng sự việc lại trái lại, lúc khoẻ lúc xấu, lúc lạnh lúc nóng, cũng
giống như chơi trốn tìm vậy. Tôi cũng đi khám bác sĩ và uống
thuốc, và vẫn cứ như thường lệ mở to đôi mắt mệt mỏi mà lạy Phật.
Có người hỏi tôi: <anh là người tin Phật, tại sao lại có bệnh> tôi
đáp: <ai có sanh tử, thì ắt sẽ có bệnh. Kể cả bác sĩ điều trị chuyên
môn cũng không thể tránh khỏi>.
Khi bệnh đến, thì tôi chỉ phải nhịn thôi, cũng giống như chịu
đựng lửa đang nấu đốt trong địa ngục vậy. Trong giai đoạn bệnh
khổ này, nhận được thư của bà Tưởng Nhữ Vân ở Đài Nam, bà ta
25
là do bị bệnh đau thần kinh toạ mà phải mổ, kết quả của cuộc phẫu
thuật là mổ sau, hiện nay trở thành người liệt toàn thân, nằm ở trên
giường ngày đêm than khóc. Bà Tưởng là giáo sư đại học, bây giờ
lại chịu sự đày đoạ nhiều năm như vậy, thử nghĩ xem, bệnh liệt
giường như vậy, ai mà chịu đựng được, ai mà chịu đựng nổi, trong
thư bà nói: <Lư tiên sinh, tôi có một yêu cầu duy nhất, xin hãy đọc
kinh độ tôi, vĩnh viễn không làm người> bây giờ, bệnh cảm nặng
của tôi, so với chứng nằm liệt giường nhiều năm của bà, thì không
là thứ gì cả.
Tôi trả lời thư cho bà ta nói: <đời người là một hy vọng, là quá
trình của sinh mạng, là một thứ khảo nghiệm của tiến hoá tâm linh,
sanh lão bệnh tử khổ, không ai có thể tránh được, có lẽ khảo
nghiệm càng đau khổ, càng có thể khiến cho linh hồn thăng lên
một tầng của cảnh giới, người có thể chịu được cái khổ trong khổ,
càng có thể siêu thoát khỏi thế giới bình thường của hiện thực,
luôn luôn rời khổ đắc lạc. Nếu như bà tin vào thế giới của linh hồn,
thì đừng nên oán cái đau khổ do nghiệp lực dẫn đến, sinh mạng vô
thường, chịu đựng được đau khổ mới có cực lạc>
Tôi vì bệnh khổ, viết bài thơ như sau:
< gió mưa khoá tâm linh, đột nhiên bệnh khổ
Buồn buồn nghĩ ngợi ở trong lòng
Ngày tháng mờ nhạt không thú vị
Niệm Phật khổ chát
Sanh lão bệnh tử ngày nào mới đi
Khảo nghiệm có lẽ càng lên một tầng
Rời khổ linh hồn lên cực lạc
Mau được cánh sinh>
26
009 Thường Bất Khinh Bồ Tát.
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Đọc < Kim Sơn hoạt Phật thần dị lục>, ở đoạn cuối pháp sư Lạc
Quan nói như sau: < Phật giáo từ Ấn Độ truyền đến Trung Quốc,
cũng đã gần 2000 năm rồi, trên tấm bia lịch sử của nó, xảy ra rất
nhiều chuyện kỳ tích, ở thời xưa, các phạn tăng đến để hoằng pháp,
cùng với các chúng xuất gia ở trong nước, sanh ra rất nhiều cao
tăng thần dị, trong đại tạng đến nay vẫn còn bảo lưu các tài liệu sự
tích phong phú của họ, sách < thần tăng truyền> có đến hơn 9
quyển, trước sau tổng cộng có 188 người, như là: Ma Đằng, Pháp
Lan, An Thế Cao, Tăng Hội, Chu Thế Hạnh, A La Kiệt, Kì Hoặc,
Pháp Lang, Phật Đăng Trừng, Đạo An, Đàn Do, Tuệ Viễn, Cưu
Ma La Thập, Phật Đà Da Xá, Lâm Độ, Đạo Sanh, Bảo Công, Bảo
Chí, Pháp Hiển, Hàn Sơn Tử, Tử Hoà Thượng, Khuy Cơ…. Đều là
những nhân vật huyền diệu linh dị khiến cho người ta không thể
nắm biết, họ đều dùng phương pháp linh dị để cảm hoá vua và các
đại thần trưởng lão cư sĩ, để hành Phật sự.> Pháp sư Lạc Quan cảm
thán rằng: < gần đây, những thần tăng như thế rất ít thấy, đôi lúc
cũng có những nhân vật này xuất hiện, mọi người ít thấy, đều cho
là lạ, thật ra, người trong Phật giáo phàm là ở Phật pháp có đại
hành trì được đại thọ dụng chân tu thật chứng, họ là có một cảnh
giới bất khả tư nghì khác, nơi huyền diệu của linh dị, cũng là hiện
tượng tất nhiên phải có, không thể cho đó là kỳ đặc.>
Lạc Quan pháp sư nói:<sự tích thần dị một đời của Kim Sơn hoạt
Phật( Phật sống), hơn phân nửa là có ý nghĩa Phật pháp, ví dụ như
gặp người là ông dập đầu, là hành Thường Bất Khinh Bồ Tát trong
< kinh Pháp Hoa>, là nghĩa đế < ta không dám khinh thường ngươi,
vì ngươi sẽ là Phật>. Lại nói: < từ lúc Kim Sơn hoạt Phật hành đạo
đến nay, người tín ngưỡng ông ta trong và ngoài nước đương nhiên
là rất nhiều, và những kẻ huỷ báng ông cũng không ít, tôi cho rằng
không quản những lời huỷ báng là danh dự, không liên quan gì đến
bản thân ông, thánh nhân hành giáo hoá, là không tính đến lợi hại
không tính đến huỷ danh dự>.
27
Quyển sách < Kim Sơn hoạt Phật thần dị lục> là do pháp sư Lạc
Quan soạn, và người khiến tôi đọc quyển sách này, là một người ở
Đài Bắc, tự xưng là hành giả của < chư thiên vô tướng>, ông ta
đưa sách cho tôi, và còn tôi thì đọc xong quyển sách này trong
vòng một ngày, chủ nhân< Kim Sơn hoạt Phật> trong quyển sách
này khiến cho tôi rất ngưỡng mộ, tôi càng cảm ơn Lạc Quan pháp
sư soạn ra quyển sách như vậy, càng cảm ơn sự chỉ dẫn của người
lạ < chư thiên vô tướng>, những cái này tôi đều ghi rõ ở trong lòng,
cho rằng quyển sách này, tôi có 3 cảm tưởng, bèn viết ra như sau:
Thứ nhất, như thường lệ hành lễ và dập đầu với người khác –
Kim Sơn hoạt Phật có một thói quen, đối với 4 chúng tại gia, trái
lại còn phải hành lễ cúi đầu, trong miệng xưng hô là, các ông là
Phật Bồ Tát Quán Thế Âm, hễ gặp người nói chuyện thì tự xưng
mình là đệ tử. Kim Sơn hoạt Phật là một người xuất gia, lẽ ra là
hàng tại gia phải dập đầu hành lễ mới đúng, như thế mới hợp với
giới luật của Phật, nhưng Kim Sơn hoạt Phật, đả phát oai nghi của
hoà thượng, trái lại hành lễ với chúng tại gia, mà lại tự xưng mình
là đệ tử. Theo tôi thấy, đây hoàn toàn là chỉ dạy cho chúng ta:
không nên khinh thường người khác, không nên xem thường
chúng sanh, chúng sanh đều là Phật. Hành động của Kim Sơn hoạt
Phật chính là đang đi trên con đường của Thường Bất Khinh Bồ
Tát. Về mặt này, tôi cảm thấy mình rất xấu hổ, bởi vì mỗi khi tôi
gặp tâm trạng không tốt, hoặc là khi tình tiết xấu đến cực điểm, thì
chứng bệnh của tôi chính là độc mục trầm tư, bất kỳ ai đến cũng
không cần đếm xỉa, cho nên vì thế thường hay đắc tội với mọi
người. Nếu theo con đường của Kim Sơn hoạt Phật, thì tôi có lỗi
và sai rất nhiều.
Lại nói đến người thời nay, đa phần khi con người vừa có một
chút thành tựu, thì sẽ tự ngã cống cao, biểu hiện dáng vẻ mình ở
trên cao, những người thật sự có thể khiêm nhường, rất là ít thấy.
Thường là chỉ nhìn thấy những kẻ < tự xem mình rất cao>, dùng
đại hoà thượng tu hành lâu năm để nói vậy, bạn chỉ có thể khen
ông ta, nếu như có một lời nói thật, đó là câu nghịch với cái lỗ tai,
đại hoà thượng oai nghi nghiêm túc, chúng sanh dập đầu như cây
tỏi đổ xuống vậy. Không những đại hoà thượng như thế, ngoài ra
28
có một số không có ý thức, đối với lý luận của Phật, hiểu biết
không nhiều, thì cũng là như thế vậy. Và người tu hành cống cao
như thế, huống hồ chi các chúng sanh ở thế gian này, kiếm được
một ít tiền, cách nói chuyện cũng to hơn. Ngày nay đọc< Kim Sơn
hoạt Phật thần dị lục>, tôi rất là xấu hổ, tôi phải học Thường Bất
Khinh Bồ Tát, đối với bất cứ người nào cũng không xem thường,
không những không xem thường, mà phải nhận chúng sanh làm
thầy của mình.
Thứ hai, đả phá ổ khoá danh lợi - ở trong sách, pháp sư Lạc Quan
đã từng có một ý niệm là: muốn đem câu chuyện linh dị của Kim
Sơn hoạt Phật ở cho tạp chí Phật giáo phát biểu, chẳng qua cũng
chỉ là muốn xác nhận bằng chứng của một người chân tu. Nhưng
mà Kim Sơn hoạt Phật nói: < những chuyện này, là không viết
được, người ta xem rồi sẽ không tin, có lẽ còn chửi ta là yêu tăng,
huỷ báng Phật pháp, vậy thì ta có tội rồi.> Kim Sơn hoạt Phật nói
tiếp: <ông( chỉ pháp sư Lạc Quan) không nên cảm thấy buồn trong
lòng: phải hiểu được cái < danh > này, chính là cội rễ của địa ngục,
từ xưa đến nay không biết có bao nhiêu người bị < danh > liên luỵ,
khiến cho bể đầu nứt trán, đệ tử khổ não, làm sao dám muốn nổi
danh, tôi chỉ cầu một câu lão thật niệm một câu A Di Đà Phật>.
Lời nói trên của Kim Sơn hoạt Phật càng khiến cho tôi xấu hổ,
đúng vậy, Phật giáo ngày nay là không nói thần dị, nếu nói đến
thần dị, thần sẽ có một yêu danh (tên yêu quái), cho nên Kim Sơn
hoạt Phật nói là không viết được, nếu viết ra mọi người sẽ không
tin, bởi vì không tin, nên phiền phức sẽ kèm theo đó mà xảy ra, trái
lại khiến cho người ta huỷ báng, bởi do chọn tôi mà viết, đích thật
là tội lỗi đó ! Tội lỗi. Lúc đầu tôi chọn viết < sách linh>, không
biết sự lợi hại ở trong đó, đã ứng với lời nói của Kim Sơn hoạt
Phật. Nhưng mà, tôi là một người không có quan niệm về < danh
lợi>, tôi đem những gì ở trong lòng đều nói ra hết, lúc đó là không
tính đến hậu quả, tâm của tôi là trắng thuần, nếu có tội, thì một
mình tôi gánh. Đúng vậy, hiện nay tôi rất khổ não, cái < danh >
này khiến cho tôi mẻ đầu sứt trán. Tôi bị danh liên luỵ, thật sự kém
một chút là thân tâm mệt mỏi, có lúc, thật sự rất hối hận, thật sự rất
hối hận.
29
Thứ ba, người hành đạo không tính toán lợi hại không tính toán
huỷ danh dự - pháp sư Lạc Quan nói: < từ khi hoạt Phật hành đạo
đến nay, rất nhiều người trong và ngoài nước tín ngưỡng ông,
nhưng huỷ báng cũng không ít.> Đương nhiên rồi, những người
huỷ báng ông, có thể nói là không hiểu con người của Kim Sơn
hoạt Phật. Cho nên người hành đạo, bất thị huỷ bí, không cầu phù
hoa, nhưng cầu chân thật, mà lại không tham tài, không vụ danh,
không phàn duyên, không hưởng thụ, đạm bạc thanh tu, khổ tâm
độ sanh, không tính lợi hại, không tính huỷ danh dự mà đi làm.
Tôi cảm thấy rằng, những lời nói này quá có đạo lý, bây giờ tôi
chỉ cần thật thật tại tại niệm Phật, làm người trong sạch, những cái
khác không cần phải lo đến, tiếp tục nói những lời huỷ danh dự, thì
không phải là việc của tôi có thể quản được, hãy để nó đi vậy.
Ngoài ra, tôi phải nên học tập < Thường Bất Khinh Bồ Tát>, mãi
mãi kính trọng chúng sinh, bởi vì chúng sanh đều là Phật tổ tương
lai đó !
< khiêm nhường được người kính trọng,
Cống cao tự triệu tổn thất,
Mỗi người đều có ngắn và dài của liên họ,
Không đưa cao chính mình, không tổn hại người khác.
Cảm tạ Kim Sơn hoạt Phật.
Cảm tạ pháp sư Lạc Quan,
Cảm tạ chư thiên vô tướng>.
30
010 Hỷ duyệt( vui) trong lòng
( Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
[ ghi sự ra đời của Lư Phật Kỳ]
Đứa con đầu của tôi là Lư Phật Thanh, nó là một bé gái ngoan.
Ngày 15 tháng 4 năm Dân Quốc thứ 66 (năm 1977), âm lịch là vào
buổi sáng ngày 27 tháng 2 năm Đinh Tỵ, vợ tôi Lư Lệ Hương,
sanh hạ đứa con thứ hai của tôi, nó là bé trai, tôi đặt tên nó là Lư
Phật Kỳ. Bây giờ tôi có một đứa con gái Phật Thanh, một đứa con
trai Phật Kỳ, trong lòng vui không thể tả.
Còn nhớ trước 3 tuần khi mang thai Phật Kỳ, vợ của tôi đã từng ở
Phật đường nhỏ trong nhà của mình, đốt nhang cầu nguyện, hy
vọng sau này sẽ sanh một đứa con trai, kết quả là 3 tuần sau, bèn
có thai. Cô ta nói với tôi, lần này là một đứa con trai, cô ta muốn
tôi chiêm bốc xem, xem đó là quẻ càn hay quẻ khôn, thế là mang
theo tấm lòng thành, đốt nhang cầu nguyện ông trời, dùng tiền cổ
tam mai, chiêm kim tiền quẻ, kết quả là quẻ càn, dương cương đại
thịnh, là một đứa bé trai. Thật ra, trong quan niệm của tôi, con trai
hay con gái, đều như nhau cả, đương nhiên là có một đứa con trai
và con gái thì sẽ mãn nguyện rồi, lấy đứa con gái nhỏ Phật Thanh
để nói vậy, nó 4 tuổi, nhưng rất lanh lợi ngoan ngoãn, vừa biết
nhõng nhẽo vừa dễ thương, trong cuộc đời này, có đứa con gái như
vậy, thật sự là không uổng kiếp này. Và còn Phật Kỳ thì vừa mới
ra đời, không biết tính tình ra sao đây?
Vào lúc 11h tối ngày 26 tháng 2 năm Đinh Tỵ, bụng của Lệ
Hương bắt đầu đau, cách ngày sinh sớm hơn 1 tuần, cô ấy ngủ
không được, tôi bởi do ban ngày đã quá mệt, ngủ rất say sưa. Đến
nửa đêm khoảng 1h, cứ 10 phút thì lại đau một lần, Lệ Hương kêu
tôi dậy, điện thoại cho người chị cả ở trong thành thị, kêu bà gọi xe
đến chở chúng tôi (chúng tôi ở ngoại ô, kêu xe không dễ), xe của
người chị cả vừa đến, bèn lập tức lên xe đến thẳng bệnh viện sản
khoa Trần Dĩ Nhân ở đường Tiến Hoá Đài Trung. Nhưng mà khi
đến bệnh viện, Lệ Hương còn lâu vẫn chưa sinh, đau bệnh đến
buổi sáng ngày 27 mới sinh, nếu tính thời gian, đã đau mấy giờ
đồng hồ rồi.
31
Lệ Hương đau bụng rất lâu. Nghe nói có một số phụ nữ, vừa đau
là sinh ngay, thậm chí không kịp tìm bác sĩ đỡ đẻ. Nhưng mà Phật
Thanh và Phật Kỳ ra đời, đều làm mẹ của chúng bị mệt, mẹ của
chúng, trước khi sinh chúng nó ra, đều phải đau trên mấy giờ đồng
hồ, đứng cũng không được, ngồi cũng không xong, nước mắt chảy
dài, mặt tái xanh, suốt cả đêm không có cách nào ngủ được, đi tới
đi lui trên hành lang, khi đau dữ dội, bèn vịn tường rên rỉ. Lúc này,
tôi không có cách giúp đỡ cô ấy, tôi chỉ có niệm Phật, tôi cảm thấy
được rằng, sinh nở của phụ nữ, cũng là một thứ khổ.
Buổi sáng âm lịch ngày 27, tôi giở quyển sách lịch ra xem, quả
nhiên là ngày giờ tốt, giờ khắc đó chính là giờ < bảo quang quý
nhân, có lẽ Phật Kỳ đã xem chính xác cái ngày giờ tốt này rồi, cho
nên mới liên luỵ mẹ của nó chịu mệt chịu khổ, chọn giờ giấc < bảo
quang quý nhân> mới ra đời ở nhân gian. Thời khắc vừa đến, Phật
Kỳ đã khóc, tiếng khóc rất to, cứng cỏi lạ thường, lúc đó tôi niệm
Phật thục mạng, cả phòng đều nghe mùi thơm lạ, cũng cảm thấy có
từng cơn linh khí, từ trên không xuống.
Thời gian sẽ trôi đi rất nhanh, và còn Phật Kỳ sẽ lớn lên, Phật Kỳ
ra đời, tôi phải nếm cái mùi vị cách mỗi 3 giờ là bò dậy pha sữa và
thay tã cho nó, nhưng mà cũng sẽ bởi do sự ngày dài của năm
tháng mà từ từ quên mất đi, sự ra đời của Phật Kỳ, lại nghĩ đến sự
ra đời của chính mình, chính là một thứ linh hồn, một luân hồi vô
số vô hạn, có người nói luân hồi là giả, thậm chí có người hoài
nghi tính chân thật của luân hồi, hãy thử nghĩ xem, con người nếu
như không có nhân duyên thế gian, thì tại sao lại sinh ra ở nhân
gian.
Tôi rất cảm ơn, chị cả từ trong thị trấn Mỹ Tuệ gọi xe đến, ở
cùng với chúng tôi suốt đêm không ngủ, đồng thời nấu đồ ăn sáng
đưa đến, lại giúp đỡ chúng tôi trông giữ Phật Thanh. Cũng cảm ơn
mẹ đã giúp đỡ chúng tôi những công việc vặt sau khi sinh, sự ra
đời của Phật Kỳ, người nhìn thấy nó trước tiên là bà nội của nó Lư
Ngọc Nữ, dì của nó Lư Mỹ Tư, mợ của nó, cùng ông ngoại là Lư
Kim Thuỷ. Các vị trưởng bối này đều rất quan tâm đến sự ra đời
của Phật Kỳ, ngoài ra, còn có ông nội Lư Thuận Nhĩ đang tập huấn
32
ở Đài Bắc, vừa nghe tin tức, lập tức về nam, muốn nhanh chóng
xem mặt Phật Kỳ.
Tôi đặc biệt làm một bài thơ mới để kỷ niệm:
< sinh mạng chính là kéo dài,
Sáng tạo và hành động phối hợp lẫn nhau.
Cho thế giới một món quà tốt nhất,
Một đứa trẻ sơ sinh.
Phải sung thật chính mình,
Phải có nhiều dũng khí,
Chiến đấu và thành công,
Kiến lập thời cơ của lý tưởng và vĩ đại>
(ghi chú: có lẽ các đọc giả sẽ hoài nghi, ông nội của Phật Kỳ họ Lư,
ông ngoại cũng họ Lư, có phải kỳ lạ không? Đúng vậy, tôi là họ Lư,
vợ cũng họ Lư, chúng tôi là cùng họ kết hôn).
33
011 Văn dùng chở đạo. ( Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Còn nhớ lúc nhỏ đi học, thầy giáo quốc văn đặc biệt xem trọng tôi,
tôi ngồi ở hàng đầu, khi thầy giáo giảng bài những bạn học khác
không nghe, cho nên thầy chỉ nói cho một mình tôi nghe, tôi ắt là
đại diện cho toàn lớp để nghe giảng bài. Bài làm văn vừa nộp lên,
chỉ nhìn thấy quyển tập của tôi bị sửa dày đặc chi chít, còn quyển
tập làm văn của các bạn học khác chỉ có một chữ < xem >, lúc đó
tôi không biết rằng thầy giáo đặc biệt xem trọng tôi, có lúc, trái lại
còn cho rằng thầy giáo đặc biệt thích tìm lỗi lầm của tôi nữa.
Thầy giáo sơ trung (cấp II) đã như vậy rồi, thầy giáo cao trung
(cấp III) cũng như thế, còn nhớ thầy giáo thời cao trung của tôi họ
Cảnh tên Đức Tu, nghe nói khi còn ở Trung Quốc đại lục là quê
nhà của thầy, thầy là một danh nho, lần đầu tiên, thầy xem vở làm
văn của tôi, bèn kêu tôi đến nhà của thầy, thầy nói: < bạn học Lư,
em có biết nguyên nhân tại sao vở làm văn của em tôi không có trả
về cho em không?> (vở làm văn của cả lớp đã phát trả về, chỉ còn
có tôi chưa trả, đang cảm thấy kỳ lạ), tôi nói: <em không biết>
thầy giáo nói: < trong toàn trường, thầy chỉ có thấy mỗi mình em là
có thể dụng văn tài, ý cảnh siêu kỳ, như chữ nghĩa không đủ thành
thục, sau này phải siêng năng mài luyện, thì tự sẽ thành đại khí,
phải cố gắng, phải cố gắng>
Thầy giáo nói với tôi: <đạo của văn chương, dùng ở tế thế và
kinh quốc, dùng văn như dùng binh, không nên có một chút cẩu
thả nào, mà phải cẩn thận làm việc, không nên sử dụng cây bút cho
việc bại hoại đạo đức, đây chính là dùng văn để chở đạo. Thắng
Ngạn, em hãy xem khuyết điểm của em chính là sơ sài và gấp gáp,
cho dù tư tưởng của em có mẫn thiệp đi chăng nữa, văn tiêu siêu
quần, đặt bút xuống là mỗi câu đều móc lấy huyền tâm của con
người, nhưng kết quả sơ sài, nhất định sẽ có giá trị của nó, chính là
cho dù tài hoa có cao đi chăng nữa, cũng không có cách che lấp đi
khuyết điểm của chính mình, về mặt này, em phải suy nghĩ kỹ rồi
mới làm > đúng vậy, tôi cảm thấy rằng, tốc độ viết văn của tôi rất
nhanh, linh cảm như suối phun cứ vọt ra ngoài, từ ngòi bút mà vọt
34
ra, muốn cản cũng cản không được, tình thế cứ như ngựa trời bay
trên hư không, tung hoành trái phải, tuỳ tánh mà đi, cũng như nước
của sông Hoàng Hà, cứ cuồn cuộn sóng, muốn yên lặng cầm bút,
đặt bút nho nhã, là không thể được.
Bởi do thích đọc sách, thiên tánh thuần thiện, cho nên tôi rất kính
trọng Liên Nhã Đường tiên sinh dùng văn chương báo quốc, còn
nhớ tổng thống Tưởng từng khen ngợi như sau: <Đài Loan cố nho
liên hoành, thao hành kiên trinh, khí thức trầm viễn, sau khi gặp
triều đình nhà Thanh bỏ Đài Loan, quyến hoài cố quốc, chu du
kinh ấp, phẫn nộ thuật lại, dùng tinh lực của kiếp này mà viết nên
thông sử của Đài Loan, văn thẳng việc hạch, không hổ tam trưởng,
với ngòi bút, lo nước thương loài, tình kiến hô từ, tuân túc dùng
chấn khởi nhân tâm, giúp ích thế đạo, ngày nay ánh mặt trời phục
chiếu quốc tộc. Truy niệm tiền huân, tăng thêm bội phần ngưỡng
mộ, phải bội phần khen ngợi, dùng thị đốc niệm tiên hiền, biểu
chương chánh học của chí ý>.
Liên tiên sinh họ Hoành, tự Võ Công, hiệu Nhã Đường, lại có
hiệu là Kiếm Hoa, sanh vào năm Quang Tự thứ 4 đời nhà Thanh,
nghe nói Liên Đường tiên sinh rất thông minh, sách đọc qua đều
không quên. Và tôi không phục ông chính là ở chỗ: < ông là một
người có đại nghĩa dân tộc, ông ta vì Trung Quốc mà phản kháng
dị tộc bạo chứng, viết quyển Đài Loan thông sử, dùng tâm trí thần
thánh trang nghiêm, bảo vệ văn hoá diêm hoàng thế trụ của liệt tổ
liệt tông>.
Mấy ngày gần đây, tôi đọc < Đài tiễn thông sử> của tôn giáo chí,
vì thế mà hiểu được, sự tích cực khổ gian nan kinh doanh của liệt
tổ liệt tông ở Đài Loan. Cũng cảm phục việc thuật lại vĩ đại của
Liên Nhã Đường tiên sinh, khiến cho một bộ sử tác, được bảo toàn
tính chân thật hoàn chỉnh. Và văn chương của Liên tiên sinh, chính
là văn để chở đạo đó!
Sau khi đọc xong Đài tiễn thông sử của tôn giáo chí, cảm thấy
rằng cần phải làm ngay ngắn lại nhân tâm xã hội, quay về với
thuần phác, vẫn là phải nhờ vào lực lượng của tôn giáo, tôn giáo
mới có thể khiến cho tâm linh của loài người được mãn nguyện và
hướng về thiện lương, nếu như bài trừ thần Phật, nói chủ nghĩa
35
hiện thực, thì trong vô hình đã làm cho tâm con người chìm đắm
vào bất lương của sự hưởng thụ dục thế, vì thế, tôi cảm thấy tinh
thần và vật chất phải cùng nhau điều hợp mới đúng.
< văn dùng chở đạo>, kinh quốc tế thế, đây chính là mục tiêu và
lý tưởng viết văn của tôi, mong rằng cây viết của tôi, có thể lợi ích
cho người thế gian, có thể cứu thế đạo nhân tâm, như vậy mới mãn
nguyện !
<dùng cây bút của bạn,
Vẽ một bức tranh trong sáng của buổi tối,
Đừng để mây đen đứng ở chân trời.
Kéo những trận cuồng phong cuồng say.
Uống nhơn của thuần chánh,
Bám nước mực kỳ dị,
Giống như Liên Nhã Đường,
Viết văn để chở đạo.
Bút cũng là kiếm,
Chữ cũng là lính.
Người lính qua sông,
Chỉ phải hướng về trước>
Tôi viết ra bài thơ không giống thơ, khích lệ bản thân, văn dùng
chở đạo, tiến lên phía trước, tiến lên phía trước.
36
012 Trái cây chín mùi
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Chín mùi là cái gì? Tôi đã từng suy nghĩ câu hỏi này rất lâu, sau
cùng cũng nghĩ thông rồi, chín mùi chính là< trùng với nơi tốt>,
không hướng lên trước, không ở lại phía sau, là ý nghĩa vừa mới
xong.
Đã từng có một lần, đến phía sau núi Tỉnh Nghị Hợi để hái trái
cây, người nông dân thành thật đó nói với tôi, mỗi một cây ăn trái
có đặc tính của mỗi cây, có cây có rất nhiều trái, có cây thì lại rất
thưa trái, có cây trái rất ngọt, có cây trái rất nhạt, có cây trái rất to,
có cây thì trái đặc biệt nhỏ, có cây phải trồng giống đến mấy năm
mới có trái, có cây thì không cần.
Tôi hỏi:< đó là do nguyên nhân gì vậy?>
< lực của tự nhiên, phải chín mùi, thì tất nhiên sẽ chín mùi>.
Tôi tin rằng mọi người đều có kinh nghiệm như vậy, tôi chọn
một trái cam rất to, kết quả là khi ăn thì không ngọt, nước cũng
không nhiều, lại chọn một trái cam nhỏ khác, kết quả là nước vừa
nhiều, vừa ngọt. Trái lớn chưa chín còn trái nhỏ thì chín sao, người
nông dân nói với tôi, cái cây cam nhỏ đó, thời gian ươm mầm ít
nhất, nhưng, nghe nói là chất lượng rất tốt, vì thế, rất dễ chín mùi.
Người nông dân nói: < không nên xem nhẹ trồng cây ăn trái, mỗi
một cây ăn trái đều có đặc tính của riêng nó, vấn đề hạt giống
đương nhiên là quan trọng, nhưng mỗi một cây ăn trái đều có tính
chất đặc biệt của riêng nó, mỗi một cây có ưu điểm riêng, mỗi một
cây đều không giống nhau, đồng thời, cũng không nên xem thường
những trái cây nhỏ, thật ra chúng nó đều đã chín rồi, trái lại trái
cây càng lớn, thì nó lại thua kém người ta, mãi mãi không chín mùi
được>
Việc này khiến cho tôi nghĩ đến một vị lão tiên sinh ở Gia Nghĩa
viết thư cho tôi, ông ta viết trong thư là như thế này: < Ma tiên sinh,
nghe tên của ngươi đã lâu, như tiếng sấm đã quen tai. Mấy người
bạn già của tôi, tuổi khoảng chừng 80, họ cứ khen ngợi ngươi.
Nhưng, khi tôi vừa biết được ngươi chỉ mới ngoài 30 tuổi, thì tôi
37
nghĩ ngay đến đứa con 50 tuổi của tôi, nó sống nhiều hơn ngươi
đến 20 năm, nhưng tôi xem nó như đứa con nít.
< một người trẻ như ngươi, làm việc luôn luôn sơ sài, ngươi mới
sống được 30 năm, không bằng đến một nửa sinh mạng của tôi,
đến hôm nay tôi cũng không dám nói chân lý, nói đạo lý, và một
đứa con nít như ngươi, chỉ mới sống được có 30 năm lại dám mở
miệng đàm đạo, có phải là khiến cho người ta có cảm giác < manh
động > không? Nếu như ngươi thật sự có bản lĩnh, ta khuyên ngươi
phải giấu mặt mới tốt, bởi vì những người tuổi tác lớn, đều không
nói chuyện. Chỉ nhìn thấy người một đứa con nít mới 30 tuổi đầu
phát ngôn, thì trong lòng của ta không có mùi vị nào cả, ta nghĩ,
ngươi chỉ mới sống 30 tuổi, bản lĩnh có to lớn, thì cũng không to
vào đâu cả.
< ngươi hãy nghĩ thêm nhiều đi, ta ăn muối, nhiều hơn ngươi ăn
cơm, những cây cầu mà ta đã đi qua, nhiều hơn những con đường
mà ngươi đã đi, kinh nghiệm trải qua của ta nhiều hơn ngươi, ta
học đạo 60 năm, mà ngươi chỉ mới 7, 8 năm, vì thế ta phải khảo
ngược lại ngươi, mọi người hâm mộ ngươi, duy chỉ có ta là trong
lòng không phục. Như vậy đi! Ngươi hãy đến tìm ta, không nên để
lão già này đi tìm ngươi, ta 82, còn ngươi mới 30, ngươi phải kính
lão tôn hiền….>
Khi tôi nhận được thư này, cũng hồi lại một lá thư: <lão tiên
sinh, con tôn kính tuổi tác của ông, cũng tôn kính những việc từng
trải của ông, càng khâm phục tinh thần học đạo 60 năm của ông,
con hy vọng ông cũng có thể phát biểu tâm đắc của ông, không nên
tiếp tục giấu mặt nữa, để lại một vài vật cho thế hệ sau của ông,
khiến cho họ càng có phước, con không dám so tài với tiên sinh.
Xin hãy lượng thứ cho con mới 30 tuổi đầu, xin lỗi>
Còn nhớ lúc xưa tôi có đọc qua một bài văn, tựa của nó là < giá
trị của sinh mạng>, trong đó có mấy đoạn, khiến cho người ta suy
nghĩ sâu sắc.
< một con người sống rất ngắn ngủi, làm rất nhiều, đối với nhân
loại, xã hội, quốc gia có nhiều cống hiến; ngoài ra có một con
người sống rất lâu, suốt ngày ngoại trừ ăn cơm ngủ ra, chỉ biết
38
trăm phương ngàn kế để kéo dài sinh mạng của mình, thử hỏi, sinh
mạng của người đó có giá trị không.>
< đương nhiên, cũng có rất nhiều người vẫn có tồn tại rất nhiều
giá trị của chánh tinh thần và nhục thể, cho nên chúng ta phải kính
lão tôn hiền. Một người có tuổi tác lớn, thì thường có rất nhiều trí
thức uyên bác, thường hay có rất nhiều đau khổ khắc cốt ghi tâm
để đổi lấy kinh nghiệm quý báu, những thứ này hình như là không
có giá trị sống mãi, là vốn thâm hậu của bản thân họ.
< tôi lấy Chúa Giê Su cứu thế để làm so sánh, nhân vật truyền kỳ
Gia Du Hộ Nhiễu này chỉ sống hơn 30 tuổi đầu, sinh mạng 30 năm
là cực nhọc, đau khổ, hy sinh để viết thành thơ. Ngài vì nhân loại
cống hiến máu tươi và tình yêu nồng hậu của ngài, cho nên tuy
ngài mất mà vẫn sống, càng tồn tại mãi mãi.>
Bây giờ tôi thể nghiệm, khiến cho tôi càng hiểu rõ giá trị của
sinh mạng, sinh mạng không phải là phải sống lâu, mà là < hợp với
nơi tốt>, nói rất đơn giản < hợp với nơi tốt> chính là chín mùi, nếu
không thì tất cả sẽ trở thành chát, những thứ đồ vật chát, không ai
muốn lấy.
Tôi viết một bài kệ:
< nếu quá chín thì sẽ có sâu và hư thối,
Chưa chín thù quá chát và quá sống,
Trái cây trưởng thành từ ý thức,
Tất cả đều hợp với nơi tốt.
Sung thật của sinh mạng không phải là khó,
Cố gắng làm việc là cách tốt nhất,
Chỉ có tuổi tác tăng trưởng,
Trắng trợn chà đạp thời gian tốt>
Có người nói, trẻ sơ sinh không có tội, người trung niên thì tội
vừa, người già thì tội nhiều. Đây chính là biểu thị, người sống càng
lâu, thì những việc làm sai trái càng nhiều, phạm tội càng ngày
càng nặng, cho nên đời người là phải cẩn thận, nếu phạm lỗi thì ắt
phải sửa lỗi, nếu như một ngày làm thiện, lâu ngày, sự vui vẻ của
tuổi già, ắt sẽ trùng trùng.
39
013 Bia văn chí của Lưu Quốc Hiến (Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Ông Trương Trúc Lan vừa là bạn học vừa là đồng nghiệp của tôi,
vợ của anh ta là Lâm Di Linh, làm ở phòng hoá nghiệm của công
ty Tông Đạt, có lúc tôi viết bài, chép bài không kịp, thì sẽ được
Trương Trúc Lan chuyển cho vợ anh ta làm giúp. Lâm Di Linh vốn
là làm ở công ty cổ phần hữu hạn sắt thép Vĩnh Long, địa điểm
công ty là ở thôn Bình Trấn Đào Viên, tổng giám đốc của công ty
là ông Cung Hiển Diệu, rất xem trọng sách < địa lý> của tôi, sách
của tôi mỗi cuốn ông đều mua cả.
Thế là ông Cung Hiển Diệu chép cho tôi < Lưu Quốc Hiến bia
văn chí>, để bổ sung cho <thần bí địa linh> của tôi, <trong trăm
hoa tàng chân năng> một bài văn thật không đủ.
Tôi xin ghi lại toàn văn của quân sư Trịnh Thành Công Lưu
Quốc Hiến tiên sinh bia văn dĩ chí như sau:
< ngẩng nhìn hoa sơn quý tôn nhai
Hoa sơn việc gì cách uyên thâm
Tả thương hữu thương chưởng cùng lên
Nam khê bắc cảng hội án tiền
Hồ hải tinh tinh lai cùng chiếu
Quan long giao toả khứ chi huyền
Lục hào độc chiêm đương mộ chiếu
800 pháo hoa xếp hai bên
Chính là đất công hầu tướng soái
Nhất mạch không dời cảm vi nhiên
Đáng tiếc sanh phiền hùng bá cự
Đất này bao hoang đợi thời hiền>
Văn bia này lập vào mùa đông năm Nhâm Dần
Trong quyển sách <thần bí của địa linh>, tôi in ra là quân sư của
Trịnh Thành Công là Lưu Quốc Anh, dùng tên Lưu Quốc Anh e
rằng là không đúng, mà là Lưu Quốc Hiến mới đúng. Lúc đầu tôi
viết ra giấy là Lưu Quốc Hiến, nhưng hãng in người xếp chữ (xưa
40
dùng xếp chữ để in sách báo) lại xếp nhầm là chữ < Anh>, khi
xem hiệu đính lại bản in thì không có phát hiện, tôi xưa nay thường
rất bận rộn, không có thời gian đối chiếu dò lại, cho nên khi in ra,
đương nhiên là sai rồi, đối với việc này, tôi cảm thấy rất xấu hổ.
Trong sách xuất bản có sai chữ, hình như là việc khó tránh, ví dụ
như quyển sách <lực lượng huyền bí>, tổng lãnh sự nước ta ở New
York, tôi viết là <Hạ Công Quyền> tiên sinh, nhưng xưởng in lại
đem chữ <Công> in thành chữ< Ấu>, khi hiệu đính lại bị hoa mắt,
thì Hạ Công Quyền biến thành Hạ Ấu Quyền, những cái này đều là
chữ sai trong sách, cũng là sơ sót của khâu đối chiếu.
Còn nhớ ông Lâm Phật Nhi ở nhà xuất bản Lâm Bạch, ông ta
xuất bản <sách tự bạch của linh>, hai quyển liên tiếp đều là nhà
xuất bản phụ trách đối chiếu, kết quả là đến khi tái bản lần 2, tôi
mới xem quyển sách. Thật sự tôi tức giận đến nỗi đã từng đem
quyển sách bỏ xuống đất, bởi vì sách in lần đầu và in lần thứ 2, tất
cả có hơn 400 chữ sai, bình quân mỗi một trang sai một chữ, sau
việc này, tôi đích thân hiệu đính một lần, đến lần tái bản thứ 3 mới
hoàn toàn được sửa đúng. Tôi cảm thán công việc hiệu đính không
phải là dễ dàng, nhưng sơ sót của nhà xuất bản, cũng có sai, đều là
có lỗi với đọc giả.
Lại nói về bia văn chí của Lưu Quốc Hiến. Trong sách của tôi có
một bài kệ: < nam khê bắc cảng hội trung lưu, quy xà nhị tướng
thủ khê khẩu (rắn rùa 2 tướng giữ miệng suối)>, tôi viết bài kệ này,
là do tự mình tôi nghĩ ra; không phải là đại biểu cho bia văn chí
của Lưu Quốc Hiến. Cho đến 4 chữ nam khê bắc đẩu, là do ông
Lâm Vinh Tôn ở công ty Tam Lộc Chương Hoá, có một lần bởi do
nói về Nam Đầu Quốc Tánh có địa lý, cho nên vì thế mà nhắc đến
Nam Khê Bắc Cảng. Vì vậy tôi đã đến Nam Đầu Quốc Tánh xem
đất cho người ta, nhìn thấy nhị thuỷ giao khẩu, dưới cây cầu ngang
có tảng đá, giống rùa và cũng giống con rắn, nên vì thế mà viết ra
câu này <Nam Khê Bắc Cảng hội trung lưu, quy xà nhị tướng thủ
khê khẩu>, sau khi viết xong chưa từng ghi rõ nơi xuất xứ, cũng
chưa từng giải thích ý nghĩa của tác giả, cho nên vì thế thường
khiến cho người ta hiểu lầm rằng là của < bia văn chí của Lưu
Quốc Hiến > thật.
41
Đối với thuật kham dư, tôi cảm thấy rằng, đó là sảm phẩm văn
hoá thuần tuý của lịch sử Trung Hoa, thuật kham dư người nước
ngoài hoàn toàn đều không biết. Nhưng học thuật này rất là cao
thâm, nếu không phải là nhà đại học vấn học là người có tư chất
bẩm sinh thông minh thì không dễ dàng học đến chuyên tinh được.
Ở thời cổ xưa, có những vị như là Chu Hy, Đổng Trọng Thư,
Trương Tử Phòng, Huỳnh Thạch Công, Tô Đông Ba, Âu Dương
Tu, Ngô Cảnh Loan, Lưu Bá Ôn…, những vị này đều nghiên cứu
về học thuật này, mà lại có phát biểu chuyên luận nữa. Nhưng mà
đến ngày hôm nay, thuật kham dư này bởi do làn gió phương tây từ
từ xâm lấn vào, nên phương thuật tổ truyền đã bị thất tán, không
cầu kết quả tiến bộ. Ngày nay đa phần con người không có tinh
thần tiếp tục nghiên cứu phát dương nữa, dưới tình hình nữa biết
nữa không, lại đem học thuật cao thâm này, xem nó như là sản vật
< mê tín>, đây là một việc đáng buồn cho sự biến mất của học
thuật.
Theo tôi được biết, thuật kham dư của Trung Quốc, đều là đại
học vấn trong đại học thuật, là phải được các nhà đại học vấn
nghiên cứu phát dương, không nên để nhiều thầy phong thuỷ
không trí thức, dùng học thức giả để thay thế học lý thật (đây cũng
là một trong những nguyên nhân chính làm cho học thuật biến mất),
ở trên thế gian này những người thấy rõ sự việc và có tầm mắt nhìn
xa thật sự là rất ít, nhưng lại rất nhiều kẻ giả mạo lừa đảo, mắt cá
giả trở thành trân châu, đại học vấn như thế, khó trách lại bị biến
chất và đi vào con đường như thế, thật là khiến cho người ta đau
lòng.
< tôi có địa lý chân văn minh
Khiến người nghiên cứu mấy xuân thu
Nhìn xa nhìn gần thật đáng quý
Nhưng cần mọi người phải có lòng
Giáo pháp chân đạo đều khinh tiết
Có duyên không duyên tự nhiên thành
Giữa trời và đất không bí khuyết
Thành và bất thành tại hội thần>
42
014 Búa sắt và thợ sắt
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Còn nhớ hình như là trong quyển < Hư Vân hoà thượng Niên
Phổ>, đã từng có viết rằng, có một người thợ sắt được một cao
tăng điểm hoá, nên vì thế mà thành tâm niệm Phật, người thợ sắt
này bình thường làm việc rất siêng năng, phương pháp niệm Phật
của anh ta là dùng búa sắt đập xuống một cái, thì bèn niệm một câu
danh hiệu Phật, đập xuống 2 cái, thì niệm 2 câu, lâu ngày, thói
quen thành tự nhiên, niệm Phật cùng với công việc rèn sắt thành
một việc không thể tách rời, và khi sắt được rèn nóng, niệm Phật
thành nhất tâm, thì vị cao tăng đã từng nghe người thợ sắt Phật
pháp cao thâm này, anh ta cảnh nhiên có thể nhập thiền định, dưới
sự đột nhiên khai ngộ, anh ta thành Phật mà đi.
Tôi đọc quyển < Năng Thư Tịnh Thổ Văn > của Vương Nhật
Hưu viết. Cũng có viết rằng có một người ở Đầm Châu đời nhà
Tống, mọi người gọi anh ta là Huỳnh rèn sắt, nguyên văn là như
sau: < Huỳnh rèn sắt, là người trong bản quân đội, làm công việc
rèn sắt, mỗi ngày khi anh ta rèn sắt, thì niệm A Di Đà Phật không
đứt đoạn, không một ngày nào ngưng cả, nhờ người hàng xóm viết
bài tụng để in ra, khuyên mọi người niệm Phật, bài tụng là: < tinh
tong ting tong, luyện lâu thành cứng, thái bình gần đến, tôi về tây
phương. Lập tức hoá đi, bài tụng này lưu truyền rộng rãi ở Hồ
Nam, mọi người đều niệm Phật>.
Có người nói, mỗi một người đều có tiềm lực rất lớn, con người
không nên đánh giá thấp bản thân mình, phải dốc sức mà phát huy
tiềm lực của mình. Cũng giống như người thợ sắt được kể ra ở
đoạn trên, anh ta có thể chuyên tinh một sự vật, và kết quả anh ta
đạt được chính là hoá cảnh mà người bình thường không dễ dàng
có được. Tôi còn nhớ thạc sĩ Mã Dĩ Tư đã từng nói như vậy: <sinh
mạng giống như thớt sắt và búa sắt vậy, thuận cảnh và nghịch cảnh
là lên xuống giao nhau, giữa thất bại và thành công, hy vọng và
tuyệt vọng, vui vẻ và buồn rầu, chúng ta đều phải chú ý và nắm bắt.
Khi búa sắt dập xuống, chúng ta không cần phải lo đến bất cứ hy
sinh nào phải trả giá, cứ nhắm đúng mục tiêu chính xác mà đập
43
xuống, một đập ra một con đường khang trang, loại trừ khí tà, để
mọi người có thể hưởng thụ được ánh sáng rực rỡ của mặt trời, như
vậy mới là một búa rìu có giá trị>
Có người nói với tôi: <rất bận, không có thời gian niệm Phật>
Có người nói với tôi: < không có chỗ thích đáng để niệm Phật>
Tôi cảm thấy, những thứ này đều không phải là lý do, lấy tôi mà
nói vậy! Mỗi buổi sáng tôi đi làm, khi đang đạp xe đạp, chính là
lúc tôi niệm Phật, tôi đạp một vòng, thì niệm một câu danh hiệu
Phật, đạp hai vòng, thì niệm hai câu danh hiệu Phật, lâu ngày, thói
quen thành tự nhiên, đạp xe đạp, không niệm Phật, trong lòng cảm
thấy bứt rứt. Có lúc đi bộ, đi một bước thì tôi niệm một câu danh
hiệu Phật, nên vì thế đi vạn bước, thì niệm vạn câu danh hiệu Phật,
muốn thành thói quen này cũng rất dễ dàng.
Cũng có người hỏi tôi: <anh niệm Phật có tác dụng gì?> Niệm
Phật là một trong những phương pháp tu hành của Tịnh Độ tông,
có tác dụng ràng buộc tâm và chế tâm, và mỗi khi chúng ta niệm
Phật, một vài vọng tưởng có thể bỏ đi, trong miệng thì chỉ niệm
hồng danh Phật, thì tự nhiên trong lòng cũng không có ý nghĩ ác,
lâu ngày, từ ngoài đến trong, trong lòng tự nhiên có thể thanh tịnh,
đến bước này, nếu nhất tâm niệm Phật, huấn luyện tinh thần thống
nhất tự nhiên được đạt thành, tinh thần thống nhất có thể khai phá
kho báu của trí tuệ, và khai phá của trí tuệ chính là thiền, ngộ ra
được chân lý rồi, đạt được giác ngộ của vô thượng.>
Tôi khuyên mọi người, đừng nên khinh thường bản thân mình,
bất cứ mọi người đều có thể thành Phật, thành Phật không nhất
định là phải thượng thượng trí tuệ, mà là tinh thần chuyên chú ở
một chỗ, khiến cho khai ngộ, siêu việt, mà thọ dụng thực tế. Ở thế
gian này, có rất nhiều trí tuệ đều là nhất thời, không có cách nào
tồn tại lâu dài, đồng thời cũng có trí tuệ giả, trí tuệ giả cũng có thể
mê hoặc chúng sinh, thậm chí còn trở ngại chân đạo. Sau khi tôi
thể hội được đạo lý của búa sắt và người thợ sắt, cảm thấy chuyên
tinh cũng là một việc rất quan trọng, cho nên những người đọc
sách, trong thô cầu tú, trong tạp cầu thanh , chuyên tinh ở một chỗ,
rất là quan trọng.
44
Tôi viết bài thơ mới:
< tôi thà rằng là một thợ sắt
Cầm lấy chiếc búa sắt
Tinh tong, tinh tong
Tinh tong, tinh tong
Luyện lâu tự nhiên thành thép
Tinh thần chuyên chú ở một nơi
Kỳ cầu đột nhiên khai ngộ
Đột nhiên khai ngộ
Mỗi người đều có một giác ngộ
Màu đỏ của sắt
Búa ơi búa ơi
Đúc thành đại kim thân hằng cổ>
45
015 Thuyết minh của phương tiện pháp (Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Nhận được thư của một đọc giả từ Đài Trung gửi thư đến, tư
tưởng của vị đọc giả này rất tỷ mẩn, lúc nào cũng quan tâm đến
sáng tác của tôi, đồng thời đối với các quyển sách của tôi, chỉ ra
những lỗi sai, chỉ dạy cho tôi phương hướng chính xác. Tôi rất cảm
kích người này, bởi vì chỉ có đọc giả như thế, mới có thể khiến cho
tôi tiến bộ, tôi rất hoan nghênh phê bình chỉ dạy, nhất là thiện ý, tôi
nhất định mở lòng tiếp nhận.
Ông ta nói như vậy:
Lư tiên sinh: nếu như anh cứ giữ mãi một cách nghĩ, mà cách
nghĩ này không thể khiến anh vui vẻ, thậm chí khi cảm thấy không
thể phát triển, thì tại sao anh không thay đổi một cách nghĩ khác.
Trong sách của anh, không chỉ có một lần biểu thị: <đời người là
đau khổ, và ông trời thì lại cho tôi gấp đôi đau khổ>, tôi nghĩ,
những gì anh suy nghĩ, lại bị nhốt chặt ở trong phạm vi < ngã (cái
tôi)>. May thay, anh còn trẻ tuổi, có năng lực viết sách, có thể nói
ra những lời buồn oan này. Nếu như sự đau khổ này vô trợ, xảy ra
ở trên người của một đứa trẻ, nó vẫn còn chưa có bản lĩnh tự lập,
vậy thì nó phải làm sao đây? Nếu như nó xảy ra ở một người già
không nơi nương tựa, với tuổi già sức yếu, thì ông ta phải làm sao
đây? Nếu như xảy ra với một người phụ nữ, và thậm chí cô ta còn
có rất nhiều những đứa con còn nhỏ, cô ta phải làm sao đây? Nếu
như so sánh sự đau khổ của anh và sự đau khổ của họ, rất hiển
nhiên, sự đau khổ của anh không thể tăng gấp đôi, bởi vì anh vẫn
còn năng lực giành co, còn họ thì lại không có.
Nếu như anh muốn đi cứu họ, cứu như thế nào, nếu lỡ như đối
phương là mộ kẻ thuộc về người thuộc loại hình chấp mê không
ngộ, còn anh thì không nhẫn tâm nhìn thấy họ rơi vào địa ngục,
anh phải dùng cách nào để cứu, phương pháp này có phải là thích
hợp với mỗi một người, nếu như không phải, đối với những người
không thuộc loại hình, thì phải dùng cách nào để cho họ đều thoát
khỏi biển khổ. Ý của tôi là, nếu như anh chịu khắc ghi phần khổ sở
này, và dùng đau khổ này để làm đầu nguồn, xem đau khổ như là
46
cổ vũ, tạo một ý tưởng tiến lên một tầng, vậy thì, những gì anh đạt
được không phải là trí thức hữu hình, mà là trí tuệ vô hình.< người
có đau khổ nhiều nhất, mới là người may mắn đứng đầu ở trên thế
gian> ý nghĩa của nó là chỉ như vậy.
Người có đại trí tuệ trời sinh là thiểu số. Và làm sao có thể biết
sâu sắc được khổ sở nhân gian. Khi một người khác kể cho anh
nghe một việc bất hạnh, nhưng cho anh sự cảm thọ (có lẽ anh thấy
rất nhiều) chỉ là ấn tượng mơ hồ mà thôi, thật sự để lại ấn tượng
sâu sắc cho anh, chính là đích thân anh gặp phải và cảm thọ. Tôi
nghĩ, lý do mà ông trời ban cho anh đau khổ, chính là muốn anh
biết được đau khổ của người khác. Việc của thiên hạ không có
tuyệt đối của được và mất, khi anh không được sự cổ vũ và thất
vọng, tôi nghĩ, đừng nên học biết câu < khi con người thất vọng thì
cần phải có sự cổ vũ> đó chính là thu hoạch của anh.
Khi học thức của một con người được tu dưỡng đạt đến một
cảnh giới nào đó, thì sẽ cũng giống như một đoá hoa đang nở rộ
với màu sắc rực rỡ, thêm màu sắc cho mặt đất không ít, nó có thể
phát ra mùi thơm mê người, khiến cho bướm ong bao quanh, đây
vốn là một việc rất tốt, làm sao lại chiêu đến oán hận và đả kích
đây. Nguyên nhân không có gì khác, bởi vì mỗi một người đều có
< ý thức tự ngã>, mỗi một người đều hy vọng mình là tốt nhất, khi
hắn ta bị kẹp trong đám người, phát giác mình không thể dùng vị
thế tốt nhất để xuất hiện, thế là, tự nhiên trong lòng sinh ra đố kỵ
và ganh ghét, để cầu sự bất an của <ý thức tự ngã>, và < một người
khác > này tự nhiên sẽ công kích.
Thật ra, mỗi một người nếu như có thể chịu tu dưỡng chính mình,
mỗi một người đều có thể đạt đến cùng một cảnh giới, chỉ ra, rất ít
người chịu suy nghĩ như vậy, trong đầu óc của họ, thuấn tuý là ích
kỷ của sự giận lẫy. Nhưng mà, chúng ta không thể trách họ, ở xã
hội ngày nay, đều có sự phân biệt trên và dưới, cũng có phân biệt
giữa thiện và ác. Nhưng mà, bất luận là tổng sự trưởng hay là một
người công nhân nhỏ, là đại thiện sĩ hay là tên lưu manh, có một
điểm cơ bản giống nhau, đó là mong được người khác xem trọng.
Ở tình hình như thế, người có năng lực mạnh, như anh vậy, thì sẽ
dựa vào trí tuệ và năng lực để đạt lấy, nếu năng lực kém, thì chỉ
47
phải dùng thủ đoạn đê tiện, thật là mục đích là như nhau. Cho nên
tôi cho rằng Lư tiên sinh là phải đi làm, không phải đi tiêu diệt tà
ác, mà là phải làm thế nào để cứu vớt họ, dẫn dắt họ từ tà ác đi vào
con đường chánh.
Sau khi đọc qua kinh Lăng Nghiêm và Thích Ca Mâu Ni Truyền,
tuy rằng không thể nhớ hết từng chữ, nhưng vẫn nhớ phương pháp
giáo hoá người của đạo Phật. Đối với Ma Đăng Già Nữ, dùng tình
yêu vốn có chỉ dẫn vào với đạo Phật, đối với Nan Đà mê luyến sắc
đẹp của vợ, thì trước tiên dẫn ông ta vào trong tiên giới thấy tiên
nữ, để phá trừ mê luyến đối với người vợ, kế đến là dùng khổ hình
của địa ngục đả phá vọng tưởng mỹ sắc đang tồn tại của Nan Đà.
Đối với người giữ ngựa chỉ biết được ngự mã thuật, thì ắt chỉ dùng
ngự mã thuật để dẫn vào Phật. Đối với câu hỏi của A Nan, không
dùng phương thức trả lời trực tiếp, mà để A Nan phán đoán. Sau
đó, mới giải thích từng chút một nơi nào đúng nơi nào sai, cho đến
khi A Nan sáng tỏ đại ngộ. Và trong những phương pháp này,
không có một mục nào là miễn cưỡng cả, miễn cưỡng để người ta
tin phục. Những phương pháp này đều là pháp phương tiện, mong
rằng những gì đã kể trong thư, có thể tiêu trừ sự buồn khổ trong
lòng của anh, dùng tâm cảnh vui vẻ và vô thượng trí tuệ của anh
làm sách, thì hàng vạn đọc giả sẽ có phúc rồi.
Lại còn: có một người trí tuệ có hạn, có thể cách nghĩ của tôi
khiến cho anh không thể mãn nguyện, nhưng mà tôi chỉ dâng lên
một kiến nghị nhỏ mà thôi, mong rằng trong những ngày tháng sau
này, có thể theo anh học hỏi nhiều hơn.
Một bạn đọc kính gửi
Lá thư này khởi thị cho tôi rất nhiều, dùng xe cũng không chở hết
những lời cảm ơn của tôi.
Thứ nhất, đau khổ của tôi ít, đau khổ của người khác lớn.
Thứ hai, xem đau khổ như là sự cổ vũ, khích lệ này có tác dụng
càng vĩ đại hơn.
Thứ ba, học tập trong đau khổ, thể hội trời ban cho nhiệm vụ lớn
cũng có đạo lý.
Thứ tư, đố kỵ là phát huy của < ý thức tự ngã>.
48
Thứ năm, mọi người đều có thể thành Phật, mục đích như nhau,
không nên trách móc những người tà ác, dẫn dắt họ đi vào con
đường chánh.
Thứ sáu, cứu người và chỉ dạy người phải tuỳ duyên phương tiện,
phải dùng các pháp phương tiện.
Tôi viết bài kệ khen rằng :
< mặt đối vô hạn nhân sinh,
Cảm khái bản thân là một pháp thuyền nho nhỏ,
May mắn thay!
Người có tâm tiện sẽ làm một cánh buồm gió,
Treo ở không trung trong sáng,
Vững vàng mà khai buồm.>
49
016 Trầm tư của mưa (Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Trong những ngày tháng này, có rất nhiều nông dân đều ngẩng
đầu lên nhìn trời, trời đương nhiên là rất xanh, ngay cả bóng của
một đường mây cũng không có, ánh nắng của mặt trời chiếu ra
vượt sức tưởng tượng của con người, trong lòng của mọi người đều
rất nóng, từng ngày từng ngày trôi qua, nhưng mà hy vọng của
từng ngày vẫn trống rỗng, nông dân lắc đầu, họ bắt đầu cho việc
chuẩn bị sớm, thuỷ lợi đã ra cảnh cáo từ sớm, muốn mọi người đào
giếng, thông đường nước, lấy nước. Tất cả phòng bị đều đã làm
xong, nhưng, ai cũng biết cả, đây là một hiện tượng phản thường
rất kỳ lạ, hạn hán.
Những người sống ở trong đô thị lớn, không có mẫn cảm như
người nông dân, họ vẫn phồn hoa huyên náo, tiếng còi của xe hơi,
ngành ăn uống vẫn chen chúc nhau, khu vui chơi thì đầy người, tất
cả cái nóng đều đăng thăng hoa. Nhưng mà, hơi nước ở mặt đất
vẫn bay lên không, đồi cát ở các con sông bắt đầu lộ ra bộ mặt thật,
đầm nước xanh xuống thấp đến nỗi không thể chèo thuyền, kho
nước ở Thạch Môn đều dùng để dành cho tưới cây, du thuyền ở
Nhật Nguyệt đầm trở thành thuyền đi trên cạn. Ôi ! Tin tức bắt đầu
nóng sốt, đăng ở trên báo, đây là hạn hán hiếm thấy.
Nhà máy nước và thuỷ lợi nông điền bắt đầu bất an, và trong tin
tức hạn hán phổ biến ở khắp nơi trên trái đất, hình như đây là mang
tính toàn cầu, khó trách xưởng dù mưa của người bạn thân lại ế ẩm
như vậy; Nếu tiếp tục không mưa, trong thành phố cũng bắt đầu
khẩn trương, nghe nói là phải bắt đầu ngưng cấp nước cho hồ bơi,
kế đến là hồ phun nước, nước tưới vườn hoa,…. Sau cùng là cung
cấp nước cho phân khu, đồng thời chuẩn bị mấy chiếc xe nước,
phàm là người uống nước, bấm điện thoại một cái, xe nước có thể
đến nơi cần cung cấp nước, đó chính là đức chính của nhà nước
thương nhân dân, trong mùa hạn hán này, lại dùng xe nước chạy
qua chạy lại, để đáp ứng những nơi cần có nước.
Tổng sự trưởng của công ty điện lực là Trần Lan Nghiệt xuất hiện
trên truyền hình (Trần Lan Nghiệt đã từng gặp qua tác giả) ông ta
50
nói: < thuỷ lợi phát điện và hoả lực phát điện cùng với hạch tử phát
điện ở Đài Loan đều là ưu tú nhất, ngành điện dư sức cung cấp,
nếu như tiếp tục không mưa, chúng tôi sẽ có những thực thi phòng
phạm, đến khi cần, vì để tiết kiệm nhiên liệu, chỉ cần mọi người
thành tâm hiệp lực, cùng nhau tiết kiệm (dùng điện), để vượt qua
cửa ải của hạn hán.> Trần Lan Nghiệt là một trưởng giả rất có
trách nhiệm trong công việc và hiền hoà, sự xuất hiện của ông ta
trên màn ảnh truyền hình, có thể thấy được việc xem trọng <lâu
ngày không mưa> của mọi người, trong mùa mưa mà không mưa,
thì thật là chuyện lạ.
Nghe nói thôn trưởng của Lộc Cảng Thập Tam Trang, khiêng
tượng thần Mã Tổ (Bà) mà dân gian tín ngưỡng ra ngoài xuất hành,
họ hy vọng ông trời mau chóng nể mặt Bồ Tát, mưa xuống vậy! Có
người nói, nếu không mưa nữa, thì đem tượng thần Bồ Tát từ trong
miếu khiêng ra ngoài phơi nắng, ông trời không nể mặt tăng cũng
phải nể mặt Phật, tóm lại mưa xuống một ít cũng được vậy. Việc
này, tôi xem trên báo phê bình đó là mê tín, chỉ trích không thích
đáng. Tôi cảm thấy đây chính là biểu hiện kỳ vọng của lòng dân, là
cách nghĩ dễ thương và ngây thơ, vượt qua < vô tri của mê tín>, dễ
thương và ngây thơ, thứ < ngây thơ> này tác hại không lớn, họ chỉ
là cầu nguyện ông trời mưa xuống, vậy thì hãy để họ cầu vậy! Loài
người trong lúc không biết phải làm như thế nào nhất, thì tự nhiên
sẽ kêu trời, đây là lẽ thường tình của con người.
<Tôi thì rất thích mưa> câu nói này tôi không chỉ nói đến trên
mười mấy lần, tôi cho rằng mưa chính là linh cảm, là trang thơ tươi
mới và đáng mừng, và những ngày tháng khô hạn, khiến người ta
khó chịu. Trời trong sáng vạn dặm tuy rằng đẹp, nhưng nhiều lúc
cũng cần phải có thêm tô điểm của mây và mưa, những làn mưa ở
giữa hư không, lung mờ của thơ tình ý hoạ. Khiến cho người ta
hoài niệm sâu thẳm.
Nhất là tiếng bước chân của mưa, tinh tong tinh tong, lách tách
lách tách, chốc lát ngưng, lại chốc lát vang lên. Ôi! Tiếng bước
chân lưa thưa xa xôi mà cũng rất gần. Giống như người thiếu nữ
thướt tha những điệu múa, xoay vòng, xoay vòng, đến rồi, đến rồi.
51
A A! Mưa đến rồi. Hãy mau chóng đến. Mỗi một người đưa cánh
tay hy vọng ra, nhiệt tình đón lấy bạn.
< đưa cánh tay ra
Hy vọng cộng thêm cầu nguyện,
Chúng ta hãy lãnh lược tâm của trời đất.
Đổi một góc độ khác để xem,
Bất cứ một người nào cũng không có cách hiểu sâu xa,
Những thứ tưởng tượng của chính mình.
Bất kể là như thế nào,
Chúng ta vẫn cần phải có cành dương liễu cam lồ
của Quán Âm Bồ Tát>
(chú thích: bài văn này vừa viết xong, ngày hôm sau mưa như trút
nước).
0
52
17 Liên tưởng khi xem mặt trời mọc (Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Khi ở trên núi cao, đứng trên biển mây, nhìn mặt trời sáng chói
đang nhún nhảy ra khỏi biển núi, khiến cho tinh thần con người tự
nhiên cảm thấy hưng phấn. Mặt trời giống như quả cầu lửa tròn
tròn, nóng hổi lăn tròn bò lên đỉnh núi, làn sóng biển mây nhuộm
thành một màu đỏ như máu vậy, nó tan rất là nhanh, khiến cho thế
giới trắng như tuyết, đột nhiên trở thành màu đỏ. Vũ trụ mênh
mông, trời đất tứ phương, trong thời khắc không lời nói thắng có
lời nói này, mặt trời như là mũi tên bắn ra khỏi cung, càng phóng
vào không trung nhanh chóng hơn, thứ lực lượng này, là bốc đồng,
là lực lượng tự nhiên hướng lên trên nhảy một bước rồi một bước.
Ánh sáng cuối cùng cũng chiến thắng bóng tối, tiếng sóng của
ban đêm cuối cùng cũng từ từ biến mất ở bên tai, hơi thở của ấm
áp từ tràn đầy núi rừng, đuổi mất đi cái lạnh ở trên núi, mặt trời
mọc, tất cả các động thực vật lại bắt đầu nhảy nhót. Và còn tôi khi
trời sáng thì đã dậy, tôi đã đi trên con đường núi rất dài rất dài, là
vì để xem mọc trời mọc trên đỉnh núi. Cuối cùng đã nhìn thấy mặt
trời mọc rồi, tôi nói mọc trời mọc là một thứ < bốc đồng> của vũ
trụ.
Từ việc xem < mặt trời mọc>, tôi từ từ thể hội được < bốc đồng>
không phải là một hiện tượng xấu, trong thế giới trầm lắng, thì tự
nhiên cũng cần phải có sự bốc đồng của mặt trời mới làm thức tỉnh
vũ trụ này. Nếu như < bốc đồng> có tính sáng tạo, thì tại sao chúng
ta không cố gắng để sáng tạo, tôi nghĩ, những người đời nay cho
rằng thời nay là thời của bùng nổ trí thức, đây chính là sự < bốc
đồng> của phần tử trí thức, khiến cho toàn bộ trí thức đều bùng nổ
ra. Một con người có lý tưởng, có hy vọng của thành công, anh ta
sẽ cố gắng để đạt thành mục tiêu, cố gắng tranh thủ giành đất quả
giàu đẹp.
< bốc đồng> là một động lực cải thiện lý tưởng, sự thật nó cũng
chính là biểu hiện dục vọng của một người, một người có lòng tự
tin, anh ta sẽ biết lợi dụng tình tiết bốc đồng, sẽ trải đường cho
cuộc hành trình phía trước của anh ta, khi bông hoa thành công nở
53
rộ, thì tự nhiên chúng ta có thể tưởng tượng được thứ vui sướng
không ngưng không nghỉ đó.
Khi tôi nhìn thấy mặt trời với nghị lực từ từ bò lên trên, thì tôi
cảm thấy sự sai lầm khi chúng ta thiết pháp nhãn để chế bên này
chế bên kia, chúng ta hãy để tất cả mọi người có khả năng < bốc
đồng>, đi sáng tạo tương lai tốt đẹp của mình, ví dụ như leo núi, đi
mạo hiểm, không thể vì leo núi khó mà bỏ cuộc. ( nhưng, tôi nhấn
mạnh là phải chú trọng phạm vi thực thi), được cái sinh mạng này
không phải là dễ dàng đó !
Tôi đọc kinh Di Giáo của Phật Đà: < nhữ đẳng các tỳ kheo, nếu
cần tinh tấn, ắt việc sẽ không khó. Vì thế, nhữ đẳng tỳ kheo, phải
cần tinh tấn; ví dụ như nước nhỏ thường chảy, thì ắt có thể xuyên
tảng đá. Nếu như tâm của hành giả, kính số lười phế, cũng giống
như mài gỗ chưa nóng mà đã tắt, tuy muốn được lửa, nhưng lửa
khó được>
Từ trong kinh Di Giáo của Phật Đà có thể thấy được.
Bốc đồng là kỳ vọng của tâm hành giả.
Nếu như cố gắng không lười biếng, thì thiên hạ không có việc khó.
Nếu như vừa lười vừa phế, mài gỗ lấy lửa, thì cuối cùng sẽ không
có được lửa.
Lực lượng của tinh tấn đến từ ý niệm <bốc đồng>, nếu như không
có ý niệm <bốc đồng> thì sẽ không có việc nào thành cả, sự trầm
lắng lâu ngày sẽ khiến cho người ta cảm thấy tinh thần tê liệt, mãi
mãi không có cách đến bờ của thành công.
Xem mặt trời mọc, ánh nắng của mặt trời là một thứ khích lệ và
cổ vũ, lực lượng thăng lên, nâng toàn bộ vũ trụ vừa mới tỉnh giấc,
tiếng gáy của con gà, là thần kỳ của giới tự nhiên, bước nhảy của
quả cầu to lớn, vận hành của quỹ đạo, liên tục tự cường không nghĩ
mà <bốc đồng>, dẫn động lực hành vinh quang của triết học. Và ý
chí trong lòng của tôi càng kiên cường, răng càng cắn chặt lại, và
tay càng có sức lực hơn, hãy chạy bộ vậy! Để chúng tôi vượt lên
trên, để đi vòng quanh trái đất một vòng rồi lại một vòng.
54
< bốc đồng,
Bắt đầu từ hành vi mang tính xây dựng,
Giống như mặt trời,
Đi vòng quanh trái đất một vòng rồi lại một vòng.
Con người cần phải cố gắng để tránh ngừng trệ không tiến lên phía
trước,
Do dự chính là không có lòng tin
Trở ngại trở thành tê liệt,
Thành tựu chính là quả cầu bị xì hơi,
Mãi mãi rơi xuống>
55
018 Ngư ông (Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Tôi đã từng ngồi trên một chiếc tàu đánh cá nhỏ. Từ Mã Công
đến Tây Tự đảo, buổi tối ngủ lại ở nhà một người bà con ở Tây Tự
đảo, buổi sáng sớm ngày hôm sau, mặc vào chiếc áo khoác cỏ, đội
chiếc nón trên đầu, bèn đến cảng Tây Tự thả lưới, để lưới bắt
những con cá đang chạy lên bờ theo nước triều, những con cá còn
sống này, có những con có đốm hoa tròn trịa, trên lưng có gai, đã
từng đâm vào tay của tôi. Cha mẹ của tôi từng cảng Mã Công đến
cảng khẩu Tây Tự, họ xuống thuyền, nhìn thấy tôi, cảnh nhiên
không nhận ra tôi, bởi vì mấy ngày này, tôi đã trở thành một ngư
ông thật sự.
Tây Tự đảo còn có tên gọi là đảo Ngư Ông, ông nội Lư Xương, là
một người kỳ gốc của đảo Tây Tự, ở đảo Tây Tự, chúng tôi vốn có
một mảnh đất rất lớn, trồng đậu phộng (lạc) và khoai lang, bởi do
không có ai ở lại đảo để linh doanh, vì thế, chỉ còn phải như vừa
bán vừa tặng cho người bà con ở đó. Lúc trước, tôi còn nhớ cha
của tôi Lư Nhĩ Thuận, ông cũng viết văn chương, bút danh của ông
là <Lư Dã Ngư Ông>.
Ở Cao Hùng, có một thời đã từng mê eo Tây Tử, đã từng nhìn
thấy ngư ông kéo lưới, ở nơi nước cạn, kéo qua rồi lại kéo tới. Họ
là không bắt được cá lớn, chỉ có thể bắt được cá ba sa nhỏ mà thôi,
nghe nói một con cá ba sa nhỏ lúc đỏ chỉ có thể bán được 7 hào,
nói ra cũng thật là kỳ lạ, những con cá ba sa nhỏ ở dưới biển này,
cần phải nuôi dưỡng ở trong nước ngọt mới có thể vừa mập vừa to,
nhưng loại cá ba sa này lại sống ở dưới biển. Tôi nhìn thấy những
vết nhăn ở trên mặt của ngư các ngư ông, nhìn thấy họ vui mừng
và thất vọng theo những tấm lưới kéo lên có được và không có
được của họ, như thế, cứ kéo tới kéo lui.
Ở hải tuyến < Cao Mỹ > của Đài Trung, tôi nhìn thấy được đó
không phải là ngư ông, mà là ngư phụ (người phụ nữ đánh bắt cá),
bà ta xắn ống quần lên, đội lên đầu chiếc nón bằng tre, da của bà ta
trở thành màu đồng đen, vẫn kéo lấy lưới, đi tới đi lui, tiếng sấm
ầm ầm từ nơi xa vọng đến, biển ở bên đó rất xanh, sóng rất nhỏ, và
56
còn ở bên Đề Phòng này, sóng hơi nhỏ. Và nước biển hơi đục, bà
đánh cá đó, nữa thân trên ngâm mình ở dưới nước, kéo lưới đi tới
đi lui.
< bắt được cái gì không?> tôi la to.
< không có !> bà ta đưa cao cái lưới lên. Tôi nhìn thấy trong lưới
không có gì cả.
< sóng quá to, e rằng không có gì để bắt cả>
< sẽ có một ít > bà ta đưa tay vớt rất lâu, cuối cùng lấy ra được 2
cái mai như con ốc biển, bò vào trong chiếc giỏ ở kế bên, nâng niu
nó như là vừa nhặt được châu báu vậy.
< chồng bà đâu>
< ông ta hả ! Bị sóng cuốn đi rồi.>
< ôi ! xin lỗi> trong lòng tôi dâng trào sự tội nghiệp.
< không có gì, chúng tôi mạng khổ> sắc mặt của bà ta tối lại,
nhưng vẫn có một luồng kiên nghị.
< bà không sợ biển>
< biển là quê hương của tôi>
Ngư ông đi rồi, chỉ còn lại ngư phụ, vẫn đi tới đi lui mà xem lưới,
mấy đứa con của họ, cần phải có ngư phụ này nuôi dưỡng, để sau
này lớn lên trở thành một người tốt. Cũng vậy ở dưới Phong Ba Đề
của < Cao Mỹ>, mỗi ngày trời chưa sáng, đều xuất hiện bà ngư
phụ đó, mỗi ngày đều như vậy, có lẽ bà ngư phụ này không nỡ bỏ
đi giấc mộng cũ của họ vậy!
Tôi cảm thấy, lưới của ngư ông chính là sự < được mất> của triết
học, trong sinh mạng của chúng ta, những cái có được không phải
là vĩnh hằng, nhất định có ngày sẽ mất đi, mất đi nếu không phải là
vĩnh hằng, nhất định cũng sẽ có một ngày có được nó trở lại, trong
lưới cho dù là trống không, có lẽ trong đó nó có một thứ tình cảm
ấm nồng hy vọng, nếu như trong lưới thật sự có đồ vật, hoặc là trái
lại sẽ cảm thấy trống rỗng. Dùng cái gì mới có thể tượng trưng thật
sự cho được và mất đây! Tôi nghĩ ở trên thế giới này, không một ai
thật sự có thể thể hội được….. Ông nội của tôi là Lư Xương đã
từng là một người đánh cá, nhưng ông lại bỏ cá mà làm kinh doanh,
cha của tôi là Lư Nhĩ Thuận cũng là một ngư ông, nhưng ông lại
57
bỏ cá mà đi làm công nhân viên, còn tôi, tôi vốn là một người đánh
cá, kết quả là bỏ cá theo văn, tôi thả một cái lưới rất to, muốn lưới
bắt tất cả <cá quý>, đương nhiên, được chính là mất, mất thì ắt sẽ
được, hy vọng của tôi là vô tận……
Tôi viết bài thơ mới:
<biển là quê hương của tôi,
Chúng tôi chỉ là in dấu chân trên bãi cát.
Khi sóng biển xoá tan nó đi
Thì cùng giống như ngày xưa.
Được tất nhiên sẽ mất đi,
Mất tất nhiên sẽ được trở lại,
Mặt của ngư ông,
Chính là hồi ức của một chuỗi hy vọng.>
58
019 Vân tay của Lư Phật Kỳ
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Vương Minh Thụ tiên sinh là <sơn y mạng bốc tướng > rất có
tâm đắc ở trấn Thanh Thuỷ, biết được tôi có một đứa con trai, bèn
xem bát tự cho < Phật Kỳ>, kết luận đứa con này là < trí tuệ như
hải, tài hoa hoành ích>. Quý tạo ngày nhâm thuỷ nguyên sanh ở
thánh thìn, nguyệt đức quý nhân, thiên đức quý nhân và niên
thượng tuế đức quý nhân tập ở ngày nguyên, là tam đức tạp tòng,
địa chi lưỡng trọng kỷ hoả là nhật nguyên chi thiên ất quý nhân,
địa chi dần thìn tỵ tam tự cùng kẹp ngưỡng mộc lại là ngày nhâm
thuỷ nguyên chi quý nhân, mão tự này vẫn là quý khí vô hình, là
khí không thể thấy (cái này như là tướng địa huyền vi, xem khí mà
không xem ngoại hình), có thể tăng quý của bát tự.
< bởi do mạng này là chúng đức phò trì, nhất định là quý mạng,
lại nói về ngũ hành, nhật nguyên nhâm thuỷ, xuân thuỷ vô nguyên,
hỷ nguyệt khiến thìn thổ tích thuỷ, trong tỵ canh kim trưởng sanh
âm trợ nguyên nhật, nguyệt thời lưỡng mộc thấu can niên nhật đinh
nhâm hoá mộc, đây là tượng hoá khí, thuỷ mộc thanh hoa, thiên
tượng thanh nhẹ, uyên nguyên sâu xa. Một đời hành vận thích nhất
là thuỷ mộc vận, đại kỵ vận thổ. 2 tuổi đến 53 tuổi, nhất phái đông
bắc thuỷ mộc đại vận. Cho nên, tiến trình rộng lớn mênh mông,
thật sự là vô hạn lượng. Vừa gặp vận tuất, phải ẩn cư lâm tuyền, xa
lìa hồng trần, để tránh trần khí.>
Vương Minh Thụ tiên sinh xem giúp cho tôi tướng của đứa con
trai Lư Phật Kỳ tốt như vậy, tôi cảm thấy rất xấu hổ, Thắng Ngạn
có đức gì, mà lại được quý tử như vậy, làm sao để báo đáp ông trời
đây? Tôi xưa nay vẫn có nghiên cứu về tướng người và vân tay. Vì
vậy, đứng ở lập trường khách quan, cũng xem tướng cho < Phật
Kỳ>.
Tôi xem tướng mặt, mặt vuông tai to, chuẩn đầu cao, miệng cũng
rất to, trán rộng cằm tròn, da trắng, nhất là tiếng khóc, vừa to vừa
có sức, tướng mạo của tên tiểu tử này đích thực là có chỗ bất phàm,
nhất là trong lỗ tai, nhìn thấy được tổng cộng có 3 trùng hoa văn,
59
một số người chỉ có 1 trùng, còn < Phật Kỳ> thì có 3 trùng, thật sự
là lạ kỳ của lạ kỳ.
Đường chỉ ở lòng bàn tay, tôi nhìn thấy có 3 chỗ vượt hơn người,
hãy để tôi nói ra vậy.
Thứ nhất, lòng bàn tay bên trái của Phật Kỳ, trời sanh có vân tay
< hình bán nguyệt>, cùng phóng ra 8 đường chỉ linh cảm. Theo tôi
được biết < hình bán nguyệt> là thay thế cho < Phật ấn> về tinh
thần, 8 đường chỉ linh cảm chính là dự cảm rằng trời sanh ra có
năng lực dự cảm, cũng tức là nó là một người có < thông linh>
bẩm sinh, mà 8 đường dự cảm này trình độ rất cao, có thể đạt đến
trình độ khiến người ta kinh ngạc. Tôi xem đến đây, trong lòng tim
đập < thình thịch> không ngừng. Bởi vì đường chỉ tay bên tay trái
của tôi, chỉ có một< Phật ấn>; chỉ có 4 đường chỉ linh cảm, còn
Phật Kỳ có 2 <Phật ấn> 8 đường chỉ linh cảm, có thể là hơn tôi gấp
đôi sao. ( Phật ấn hiện ra hình bán nguyệt, đường dây linh cảm từ
hình bán nguyệt phóng ra, cũng như người ta vẽ mặt trăng, phóng
ra ánh sáng, tôi có một cái, Phật Kỳ có 2 cái).
Thứ hai, lòng bàn tay trái của Phật Kỳ,< Khổng Tử mục> và < trí
tuệ tuyến (chỉ)> đều rất rõ ràng, Khổng Tử mục là chỉ đường vân
tay ở đầu ngón, đại biểu cho thông minh, chỉ trí tuệ đại biểu cho trí
tuệ cao thấp, là đường chỉ ngay chính giữa của bàn tay. Khổng Tử
mục hiện lên rất đẹp và rõ ràng, càng rõ càng có lực, đại biểu cho
càng thông minh, ngược lại, nếu mờ ảo và thô thì biểu thị ngu dốt,
còn Khổng Tử mục của Phật Kỳ, từng đoá từng đoá đẹp như mắt
sáng vậy. Lại nói< đường chỉ trí tuệ>, không có bị đứt đoạn, mà nó
dài đến nỗi kém chút nữa là đến lưng bàn tay, trời ơi! Đường chỉ trí
tuệ của tôi bị đứt đoạn rồi tiếp tục nối lên, còn Phật Kỳ thì không
có đứt đoạn, mà đường chỉ trí tuệ còn dài hơn tôi nữa, rất hiển
nhiên, nó khiến cho tôi mừng vui lạ thường.
Thứ ba, nhìn < đường chỉ quý nhân> của Phật Kỳ, tôi lại ồ lên
một tiếng, sỡ dĩ < đường chỉ quý nhân> là giúp quý nhân giúp đỡ
nó thành công. Trong đường vân tay, hai bên xếp hàng đứng đó,
ngay ngắn không méo, và số lượng lại rất nhiều. Còn tôi, tôi là
mạng thời niên thiếu nghèo nàn, không có quý nhân, đến tuổi trung
niên tuy có quý nhân giúp đỡ, nhưng hướng tướng rối loạn, không
60
có đồng đều. Chỉ duy nhất có một chỗ tôi và nó giống nhau, đó là
vào lúc tuổi già, tôi và nó đều quy ẩn lâm tuyền, tu tâm thanh tịnh,
không nhiễm khí trần.
Tổng hợp lại những gì đã nói ở phần trên, mạng tôi quá khổ, còn
mạng Phật Kỳ quá tốt. Tôi làm cha, nó là con, đây là quan hệ nhân
quả thế nào đây. Mong rằng khi nó là kỳ tài thiên hạ, có thể giữ
được tâm khiêm nhường và nhân từ, như biển sâu có thể chứa cả
trăm dòng sông, như núi cao có thể dung nạp cái đồi lăng, hoằng
lượng đại đức, vô sở bất hoá, phải có khí phách như vậy, mà đi tìm
kiếm lý tưởng, thay xã hội mưu phúc lợi, làm việc cho nước nhà,
cống hiến sinh mạng của mình cho quốc gia, hoàn thành sứ mạng
đời người.
(Tôi hy vọng sau này Phật Kỳ lớn lên, khi đọc bài viết này, cần
phải thể hội được trời sinh ta ắt có dụng, cho dù tài trí có cao
chăng nữa, như ngọc như châu, nhưng không đi mài dũa, cũng vậy
sẽ không thành đồ vật tốt được. Đồng thời mỗi một người có một
sở trường, cũng có sở đoản, không có một ai sinh ra ưu việt hơn
người khác, ưu việt cũng phải nhờ chính mình đi cố gắng, nỗ lực.
Cho nên những người thông minh, không bao giờ đưa cao bản thân
mình, cũng không xem thường tổn hại người khác. Phải nhớ đừng
nên kiêu ngạo, ngàn lần đừng nên kiêu ngạo, thành công như thế
mới là đáng quý nhất).
Tôi viết bài kệ rằng :
< cha mẹ mong con đều thành rồng,
Đằng vân giá sương lên cao phong,
Xa xôi đời người thập tự lộ,
Mong rằng chân trực diệu tổ tông>
Lại :
< xem tướng tỉ sát là rõ nhất,
Phù hiệu nếu rõ có cảm tình;
Quý nhân chiếu ứng thật vô ưu,
Nhà giàu kỵ nhất là kiêu tình>
61
020 Tội ác lớn nhất < tham lam>
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Tây Tắc La Luận Trắc Nhậm có một câu nói: <nghe truyền rằng
thần dụ của điện thần A Bo La: sau này Tư Ba Đạt diệt vong
không vì cái gì khác, chỉ là do tham lam> tham lam có thể khiến
quốc gia bị diệt vong? Bởi vì kẻ tham lam nhất định thối nát, kẻ
thối nát thì nhất định sẽ mất nước.
Lúc nhỏ, tôi nghe được 2 câu chuyện, tuy rằng là ngụ ngôn,
nhưng ý nghĩa rất sâu xa.
Câu chuyện thứ nhất. Kể rằng ở một nơi rất xa xôi, có một ngọn
núi, trên núi có một ngôi cổ tự, có một hoà thượng trẻ ở trong đó,
bởi do ngọn núi này rất cao, rất ít khách hành hương đến chùa
dâng hương, nên vì thế đây là một ngôi cổ tự rất nghèo. Tuy rằng
không có thu nhập, nhưng hoà thượng chưa bao giờ lo đến cái ăn,
nguyên nhân hoà thượng không bị chết đói, là bởi do ở phía sau
chùa có một cái hang núi, trong hang núi có một cái động nhỏ, mỗi
ngày, cái động nhỏ sẽ tự nhiên chảy ra gạo, số gạo đổ ra này đủ để
một người ăn 3 bữa trong một ngày. Càng kỳ lạ hơn là, nếu trên
núi có khách hành hương đến: 2 người đến, cộng thêm hoà thượng
nữa là 3, thì tự nhiên sẽ chảy ra đủ 3 phần gạo, người đến càng
nhiều, thì chảy ra càng nhiều, người đến càng ít, thì sẽ chảy ra càng
ít.
Nghe nói, cái động nhỏ trong hang núi này, là ân ban của Phật tổ
trên trời, để hoà thượng tu hành không bị chết đói khi không có ai
cúng dường. Xưa nay các lão hoà thượng của ngôi cổ tự này đều
an phận thủ thừa mà qua ngày. Bây giờ lại đến phiên hoà thượng
trẻ tuổi này. Bởi vì các lão hoà thượng đều đã viên tịch rồi. Có một
ngày, hoà thượng trẻ tuổi đột nhiên nghĩ đến một vấn đề, ông cho
rằng phía sau động có thể là một cái kho gạo to lớn, bởi vì chỉ có
kho gạo to lớn mới có thể mỗi ngày chảy ra gạo, mà không bị đứt
đoạn. Nếu như mở to cái cửa động ra, hoặc là đào cao như một con
người, thì gạo có thể chảy ra càng nhiều, thậm chí có thể phát hiện
kho gạo rất to, đem gạo đi bán, thì mình trở thành nhà giàu to, còn
làm hoà thượng cái gì nữa?
62
Hoà thượng trẻ tuổi khởi lên tâm <tham lam>, bèn lấy xẻng đi
đào, vừa đào xuống, tuy rằng cửa động to thêm, nhưng gạo không
chảy ra, đồng thời phía sau động là đất, không phải là kho gạo to.
Ngày hôm sau, hang động đó không tiếp tục chảy gạo nữa, chỉ là
mỗi ngày chảy ra đất, đất thì không thể nấu cơm để ăn, hoà thượng
đói đến nỗi phải chạy trốn xuống núi.
Câu chuyện thứ hai, ở thời cổ xưa, có một viên ngoại rất giàu có
ở trong một thành thị, viên ngoại có một đứa con duy nhất, hai cha
con và thê thiếp người làm cùng ở trong một ngôi nhà to lớn rất
đẹp, trong ngôi nhà to lớn có một vườn hoa rất to, có nuôi cầm thú
lạ, viên ngoại rất thích nuôi các loài thú lạ, động vật lạ nào cũng có
cả. Viên ngoại tại sao lại giàu có như vậy? Bản thân ông ta không
có buôn bán, cũng không làm quan trong triều, không có cho thuê
ruộng, nhưng cuộc sống ông ta không có gì khó khăn cả, tiền của
ông ta đến từ đâu? Không có ai biết.
Lão viên ngoại tuổi già sức yếu, có một ngày gọi người con trai
đến, nói cho con trai một bí mật, lão viên ngoại nói: <cha không
còn sống được nữa, sau này con sẽ kế thừa sản nghiệp của cha, tuy
rằng cha không làm quan, cũng không buôn bán, cũng không cho
thuê để thu tiền. Nhưng ở hậu viện của nhà chúng ta, trong đó có
một phòng bí mật, cha nuôi một con gà mái rất đẹp, đó là con thú
của trời, nó biết đẻ trứng, trứng của nó là trứng vàng, chỉ cần
chúng ta dùng hết tiền, ở một giờ nhất định, nó sẽ đẻ ra trứng
vàng> lão viên ngoại nói xong bí mật này, thì ông ta qua đời.
Sau khi lão viên ngoại mất rồi, đứa con trai kế thừa, nhưng, tiểu
viên ngoại này không an phận thủ thừa, hắn ta uống rượu chơi bời
cờ bạc, bán gia sản, mỗi ngày đều hy vọng con thú trời này có thể
mau chóng đẻ trứng vàng. Thế là tiểu viên ngoại này đột nhiên có
một ý nghĩ lạ đời, cho rằng trong bụng của con gà mái nhất định có
rất nhiều trứng vàng, và lòng tham lam vừa trỗi dậy, bèn bắt con gà
mái lại và giết nó, kết quả là trong bụng không có một cái trứng
nào cả. Kết quả sau cùng là, tên tiểu viên ngoại này do thú tiêu
khiển của anh ta nên phải bán gia sản để trả nợ, phiêu bạc xứ người,
không biết đi đâu mất.
63
Hai câu chuyện này, tuy rằng là ngụ ngôn, nhưng trong tâm linh
nhỏ nhắn của tôi nổi lên một sự chua xót, đời người phải <biết đủ>,
biết đủ mới thường lạc, một người không biết đủ, cũng giống như
một con rắn, đi nuốt chửng con voi to. Có người nói, tham lam là
tội ác lớn nhất của loài người, cái này không sai, tham lam ít mang
hoạ giết nguời vào thân, tham lam nhiều thì có thể mất nước. Một
người có tu dưỡng, là một người biết đủ, tâm của họ không phải là
một cái túi không đáy.
Kinh Pháp Hoa có nói:<nguyên nhân của các khổ, tham dục là
gốc, nếu diệt tham dục, vô sở y chỉ> cho nên tôi nói, con người chỉ
cần diệt đi tham lam, thì sẽ không cách xa cảnh giới của thánh hiền.
< tham lam là kẻ thù địch của chính mình,
Không chế ngự chính là nguy cơ vô cùng,
Cũng giống như động không đáy tối đen,
Rơi vào trong đó chính là địa ngục.
Bây giờ,
Cho bạn một món quà nho nhỏ,
Biết đủ,
Tiếng lòng vui vẻ từ đây sẽ có nơi nương tựa>
64
021 Đi con đường mới (Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
(1) Thành công
Có người nói, khi bạn có kiến giải độc lập, chính là lúc bắt đầu
của thành công. Thế là, từ nhỏ tôi là một con người mơ mộng,
không cần biết giấc mộng của tôi đẹp đẽ nhiều màu sắc ra sao. Tôi
mộng tưởng mình là thần tiên, đằng vân đạp vũ, đi khắp nơi cứu
người, cứu người không mong báo đáp. Tôi mộng tưởng mình đi
trên một ngọn núi cao, tất cả những ngọn núi kia đều nhỏ, tôi được
vinh diệu vô hạn. Nhưng mà, mộng tưởng vẫn là mộng tưởng, vốn
là không ảo, không phải là thật tế.
Ở vào tuổi trưởng thành, mộng tưởng bị đánh vỡ nát, ngay cả
một mảnh nhỏ hoàn chỉnh cũng không có, tôi lại phát giác, sự tình
trên thế gian không phải là đơn thuần, bao gồm cả < thành công>,
thành công cũng không phải là một việc đơn thuần, khi tôi hiểu rõ
những việc này, sẽ không tiếp tục mộng tưởng nghĩ không nữa, tôi
nghĩ mình phải chân bước thực tế để làm, đi con đường mới,
không đi con đường cũ của người khác nữa.
Tôi bước qua con sông dài của lịch sử, đi lên ngọn núi cao vô
hạn, đi con đường không có ai đi, và khi tôi cô độc đứng ở trên núi
cao, nhìn con đường núi hoang dã xoay vòng đó, tôi kinh ngạc cho
sự gian nan, khúc triết. Khi tầm mắt nhìn từ từ mở rộng ra, vô hạn
của trí tuệ hướng vào tôi, như biển mây cuốn vòng lấy tôi, khi tôi
vừa muốn đưa tay ra hái sao, ngay lúc đó, tôi thật sự nhìn thấy rõ
rất nhiều chúng sinh.
< có người khen ngợi sự hùng vĩ của núi cao.
Nhưng có người gào to.
< dị đoạn>
< người đó là yêu quái>
< kéo nó xuống đây, ai kêu nó bò lên trên>
Cuối cùng, tôi cũng hiểu được, thành công không phải là một
chuyện vui vẻ, trước khi thành công rất là gian khổ, sau khi thành
công rất là cô độc, bởi vì người khác chưa hiểu hết được bạn, họ
chỉ là đoán mò và dự đoán mà thôi, và khi họ đoán mò và dự đoán
65
không được, bạn phải tốn rất nhiều sức của lưỡi để đi giải thích,
cũng như vậy không có ý nghĩa quá lớn. Đi trên con đường mới,
ngay lúc đó là không có ai hiểu rõ bạn, muốn chờ đợi tương lai,
sau khi trải qua một thời gian rất dài rất dài, có lẽ cần phải có
chứng cứ.
Cũng giống như các sự việc của pháp luật, tất cả cần phải có
chứng cứ.
(2) Đàn
Đàn pinano, tôi không biết đàn phức tạp, chỉ biết đàn những khúc
đơn giản. Ghita, tôi cũng không biết, tôi có thể đàn < gia đình dễ
thương> và < bài ca la lo lai>, đàn nhiều cao hơn, tôi cũng không
biết. Nhưng mà, có lúc, khi bóng của cô độc và trống vắng lén lén
bao trùm lấy tâm của tôi, thì tôi sẽ không tự chủ mà cầm lấy đàn
ghita, đàn một dây đàn, tự mình chảy nước mắt.
Đàn cái gì đây? Tôi đàn cái gì cũng không đúng, tiếng lòng cũng
như sợi dây đàn, day qua day lại cũng đều như nhau cả, sự thật là
tiếng lòng của tôi chính là một sợi dây đàn. Nhưng mà tại sao chỉ
có người có một sợi dây đàn, lại có người không hiểu rõ anh ta đây.
Có lẽ là như vậy, tôi cho rằng chỉ có một sợi dây đàn, nhưng âm
thanh của nó đàn quá to, lực kéo quá lớn, kém chút nữa là bị đứt
rồi.
Một con người, một cây đàn ghita, lén lén trốn ở một chỗ tối, kéo
tâm đàn rất căng, một thứ luật xoay không âm thanh, những nốt
nhạc thánh khiết, giống như các thiên thần mặc lên chiếc áo trắng
tinh, đưa ra đôi cánh, bay đi bay đi. Như thế cũng giống như, luật
xoay của tự nhiên, chảy ra không gian vô cùng tận, cũng như ngọn
sóng lăn tăn tan ra.
Một con người, một cây đàn, một sợi dây đàn,
tượng trưng cho không ai trợ giúp.
Anh ta sợ những ánh mắt có mùi vị đặc thù.
Chỉ phải trốn ở những nơi tối đen.
Đàn tiếng lòng của mình.
66
Nói thật, tôi thật sự sợ, sợ hãi loài người, sợ hãi lòng của loài
người, sợ hãi những lời nói nhàn rỗi lạnh nhạt, những tiếng cười
trêu chọc, nó tàn độc mà chen vào trong lỗ tai < ngu thẳng> của tôi.
Sẽ có một ngày, dây đàn duy nhất trong lòng của tôi, cũng sẽ bị
đứt, lúc đó, rất nhiều người sẽ không tìm được đối tượng để cười
nhạo, thế là, những người đó! Sẽ tiếp tục tìm những đối tượng mới,
tìm kiếm những người < đi trên con đường mới>, gắng sức mà hù
doạ anh ta.
Hãy để cho tôi len lén đi một chuyến đi của đời người vậy!
Không cần phải đi suy nghĩ quá nhiều, không cần phải bỏ đi quá
nhiều hành lý, những hành lý này thì ra là của tôi, lẽ ra là phải do
chính tôi bỏ đi.
(3) Đồng hồ quả lắc
Mấy ngày trước, đến nhà của một người bạn thân ở Sa Lộc, nhà
của anh ta treo một chuông đồng hồ thời cổ xưa, ở phía dưới của
đồng hồ có dây treo quả lắc đong đưa qua, đong đưa lại, đồng thời
cũng phát ra âm thanh tích tắc, tích tắc. Tôi hỏi người bạn, sao anh
ta không mua đồng hồ chạy pin, câu trả lời của anh bạn rất giàu
mùi vị triết học, anh ta nói: <tôi muốn nghe tiếng bước chân của
thời gian>.
Thời gian có tiếng bước chân sao? Ai cũng biết rằng, thời gian là
vô hình, không có bất cứ thứ nào có thể dùng để hình dung hình
thái của nó, không có bất cứ đồ vật nào có thể so sánh giá trị của
nó, thời gian chính là lịch sao? Thật ra thời gian không phải là lịch
sử, mà lịch sử chỉ là sản vật của thời gian mà thôi, vậy thời gian có
phải là vàng bạc không? Vàng bạc cũng không mua được thời gian,
nếu như xem dây treo đồng hồ như chân của thời gian, vậy thì
đồng hồ là tượng trưng của thời gian.
Đứng ở phía truớc cái đồng hồ cổ xưa, từng âm thanh bước chân
đi vào tai, cảnh nhiên khiến cho tôi ngẩn ra ở đó, không biết như
thế nào. Nghe xem, từng giây từng giây trôi qua, từng phút từng
phút trôi qua, từng giờ từng giờ cứ thế trôi qua, tiếng bước chân
của thời gian là nghiêm túc, không ẩu thả, bước chân rất đều, kích
67
thước nhất định, chưa từng nghỉ ngơi qua, cũng giống như kim
điểu ngọc thố, không ngừng rượt đuổi rượt đuổi.
Một tảng đá bỏ vào trong ao, sẽ < tủm> một tiếng, sẽ dẫn đến có
những giọt nước lăn tăn, một cây kim nhỏ rơi xuống đất cảnh
nhiên không một tiếng động, nhưng có lẽ chúng ta sẽ phát hiện ánh
sáng lấp lánh của nó, khi gió thổi sẽ vang lên âm thanh < xào xạc>,
còn tiếng bước chân của thời gian, thật sự là < tích tắc tích tắc>
của quả lắc không, và đồng hồ quả lắc này đã lâu rồi tôi không
nhìn thấy, rất lâu không để ý đến rồi.
Tôi đi đến một hãng đồng hồ.
< bán cho tôi một cái đồng hồ có quả lắc>
< không có, đó là kiểu xưa, kiểu mới không có đồng hồ quả lắc>
ông chủ nói.
< tôi chính là thích mua kiểu xưa>
< bây giờ là dùng cái mới, kiểu xưa không ai muốn lấy, chúng tôi
không có>
Đại khái đây là thời đại mới thật sự vậy! Tôi nghĩ, rất nhiều
người không để ý đến tiếng bước chân của thời gian, ngày tháng
của đồng hồ quả lắc đã đi qua, và thời bây giờ là không âm thanh,
sống trong dòng chảy cuồn cuộn là không nghe được gì cả.
Tôi đột nhiên hoài nghi: đích thật tôi là thứ đồ cổ cũ, hay là thứ
đồ cổ mới.
(4) Đường mới
Có một người, bán giấy tờ của mình đi mất, ăn mặc quái lạ, nói
khoác, mua máy tay chân, trở thành ngày tháng tiêu khiển của hắn
ta. Hãy nghĩ xem, hắn ta chưa từng biết mình là <vô tri>, đồng thời
anh ta cũng không có cách nhẫn nhịn phê bình của người ta đối với
hắn, đây thật sự là một việc rất tồi tệ, để rất nhiều người xem
chuyện cười, một trang rồi lại một trang.
Cũng có một người, phàm là việc gì cũng rất cẩn thận, rất cẩn
thận để làm học vấn, anh ta chỉ chịu cúi đầu trước các học giả cổ
xưa, rất tỉ mỉ xem di vật của các tiền nhân, khảo chứng và ký thuật,
không có sáng tạo mới, có người nói anh ta là phái thủ cựu, anh ta
68
tự mình được vui vẻ, hình thành một phương thức sinh sống của
anh ta, anh ta cũng giống như con ếch dưới đáy giếng, trở nên đeo
vào cặp kính cổ xưa.
Lại có một người chuyên môn phê bình người khác đứng ra.
Anh ta nói:< quái hình lạ trạng là vô tri>
Hắn ta nói:< thủ cựu bảo thủ là lạc hậu>
Anh ta nói:< tôi phải đi con đường mới>
Cái gì là con đường mới, đây đích thật là một vấn đề quan niệm.
Tôi cho rằng đem <vô tri> biến thành < tri>, trong <khảo cổ> mà
đi < phát hiện>, trong < phê bình> có sự <sáng tạo>, những cái
này đều là con đường mới, chúng ta không cần phải đi cười nhạo
người khác, bởi vì đi con đường mới không phải rất dễ dàng, cũng
giống như leo núi vậy, tôi thà đi trên con đường núi đã có sẵn,
không muốn phải tốn công sức phá đi các cỏ dại gai góc. Nhưng
mà thời đại này vẫn cần phải có những người đi con đường mới, cố
gắng đi khai sáng văn minh của tương lai.
< đây không phải là câu chuyện cười,
Cũng không phải là tự khoe,
Trong cảnh giới của linh học.
Tôi đã bước đi thử trên con đường mới>.
69
022 Đọc Liên Trì đại sư thất bút câu ký. (Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Liên Trì đại sư là một vị cao tăng mà tôi kính ngưỡng trong thời
gian học Phật. Bút ký ngài để lại rất nhiều, tuy rằng là tham thiền,
nhưng đối với tịnh độ ngài vẫn tôn sùng và đều có ghi lại. Các đệ
tử của tịnh độ tông, không ai không biết đến Liên Trì đại sư. Tôi
rất thích đọc các bài văn của ngài lưu truyền lại, có những bài như
là thơ, khi đọc rất sướng miệng, ý nghĩa rất sâu xa, càng là không
cùng phàm hưởng.
Có một lần, ở chùa Phật Quan trên núi Quan Âm tại Bồ Lý, bái
kiến Lạc Quả lão pháp sư, lão pháp sư cho tôi một quyển < tu hành
tập yếu>, tôi thuận tay mở ra, bèn nhìn thấy < Liên Trì đại sư thất
bút cấu >, sau khi đọc cảm tưởng trùng trùng, dùng bút để ghi lại,
và thành bài văn này.
Thứ nhất, ân trọng sơn khâu, ngũ đỉnh tam tánh vi túc báo, thân
đắc rời trần cấu, tử đạo phương thành tựu, chau! xuất thế đại do,
phàm thiếm trẩm bồi, hiếu tử hiền tôn hảo hướng chân không cấu,
nên vậy, ngũ sắc kim chương nhất bút câu> quan điểm xuất thế của
Liên Trì đại sư, không giống như những người ngày nay, điểm
không giống nhau này chính là điểm xuất phát, Liên trì đại sư cho
rằng xuất thế, là để thành tựu đạo quả, tham cứu chân lý, buông bỏ
ân oán, ly cấu đắc tịnh. Ngày nay có người, không biết ý nghĩa
xuất gia, cái gì mà nhìn thấu hồng trần, cái gì mà chịu sự kích thích,
cái gì tránh thế ẩn cư, như thế, cách rất xa với tư tưởng của Liên
Trì đại sư !
Thứ hai< phụng loan là cùng một bọn, ân ái bám theo ngày nào
ngưng, quỷ sống kiều tương thủ, duyên tận vẫn chia tay, chau! Vì
ngươi mà bị ràng buộc, đeo thêm gông xiềng, nhà tan mạnh ai nấy
tìm đường chạy, cho nên vì vậy, vợ chồng cá nước nhất bút câu
(cùng nhau xoá sạch một lần)> người học Phật đều biết, vợ chồng
vốn là chim cùng rừng, khi gặp nạn thì mạnh ai nấy bay, duyên
phận là một nhân quả lớn, duyên đến thì tụ hợp, duyên tận thì ắt
tan, bất cứ một người nào cũng đều khó thoát kiếp nạn lớn này,
nếu như có tầm mắt nhìn xa, vợ chồng ân ái không có không chia
70
lìa, đồng thời mạnh ai đi đường nấy, khôn liên quan đến nhau.
Người đời nay tình nghĩa lạnh nhạt, vợ chồng cá nước cũng không
thường thấy, có thể thấy vợ chồng duyên phận ngày càng mỏng,
cho nên thánh nhân đại trí, xoá sạch một lần, không bao giờ bị ràng
buộc, không phải là không có nhân.
Thứ ba < thân như ghẻ lở, đừng lo âu xa cho con cháu, hãy nhờ
rằng núi yến báo, ngày nay có còn không, chau! Cho dù có lúc
nghỉ, đều quy vô hậu, ai biết rằng người này vạn cổ vẫn như xưa,
cho nên vì vậy, quý tử cháu con cùng xoá sạch> có người lo phiền
việc của con cháu, thường hay nhờ tôi chỉ dạy, tôi nói tại sao bạn
không lo phiền bản thân mình đây. Phải biết rằng biển người mênh
mông, chúng sanh mênh mông, sanh sanh tử tử, sóng sau xô sóng
trước, người chết vô danh, người nào mới được coi như là có hậu.
Vô hậu lại là ai, cũng vẫn không phải là giống như nhau. Phải
không có lòng kiên, thì ắt mới quên việc của con cháu, như thế mới
buông xả tất cả, không làm trâu ngựa cho con cháu, cho nơi người
lo phiền cho con cháu, thì tự tìm phiền lo, không nhìn thấu.
Thứ tư, <độc chiêm ngao đầu, mạn nói con trai đắc ý thu, kim ấn
treo như đẩu, thanh thế rất là lâu, chau! Nhiều ít uổng trì cầu, đồng
nhan hạo thủ, mộng giác hoàng lương mỉm cười có tác dụng chi,
cho nên vì vậy, phú quý công danh đều xoá sạch> ở thế giới hiện
thực, phải nhìn thấu rõ phú quý công danh, thật sự không phải là
một việc dễ dàng, tôi thường nghĩ đến hoàng lương nhất mộng của
Lư toạ, thời gian thật sự quá nhanh, làm được đến tể tướng thì sao
đây, chen lấn xô đẩy nhau thì sao đây, không có một ai thanh thế là
vĩnh cửu, huống hồ chi người trôi nổi trên biển cả, có bao nhiêu
khách mất trí, người đắc ý tất nhiên là đắc ý, cho nên khi đắc ý thì
đừng quên lúc thất ý, phải xem nhạt công danh phú quý, rút lui
toàn thân, phú quý công danh chỉ là một nụ cười.
Thứ năm,< phú so với vương hầu, khi anh nói vui tôi nói rầu, kẻ
cầu nhiều sanh thọ, kẻ được lo khuynh phục, chau! Cơm nhạt hơn
cháo trân, nạp y như thiêu, trời đất là ngôi nhà lá to lớn của to cần
gì phải mua, cho nên vì vậy, nhà cửa ruộng vườn xoá sạch> giữa
được và mất, người thế gian khó nhìn thấu nhất, tôi thường nói, đất
đai nhà cửa, đó là đồ vật ở trên trái đất, không có ai đem nó đi về
71
được, cho dù là nhà giàu có nhất ở trời đất này, cũng vậy đều phải
đem nhà cửa ruộng vườn xoá sạch, khi đến lúc, phải chắp tay
nhường cho người khác, có người khuyên tôi nên xây chùa, tôi
cười ha hả, giữa trời đất đều là Phật tự, Phật tự chính là trời đất,
cần chi phải dùng hư nguỵ xây. Bạn nói có công đức, tôi nói: < có
công đức chính là không có công đức>.
Thứ sáu,< biển học chảy mãi, văn trận sáng loà phóng đẩu ngưu,
bách nghệ tòng trung tẩu, thơ đẩu tửu ngàn bài, chau! Cẩm thu đầu
ngực, cần gì phải khoe khoang, sanh tử theo trước nữa chữ khó
tương cứu, cho nên vì vậy, văn chương cái thế đều xoá sạch>, con
đường văn chương, đích thật là việc của thiên cổ, con đường học
vấn, cũng là uyên thâm chảy mãi, trí tuệ vốn có ở giữa trời đất, loài
người chỉ là tham cứu hữu hạn, ở nhân gian, trí thức vô dụng đều
là như nhau, nếu như đem so sánh với trí tuệ thật sự, càng là nhỏ
đến không đủ nói: có người nói:< trí tuệ như biển, và tôi chỉ là ở
bên bãi biển nhặt một vỏ ốc mà thôi> câu nói này không phải là
khách sáo, đó là một câu nói chân thật.
Thứ bảy <hạ thưởng xuân du, trong trường ca múa có vui chi,
mưa mê hoa liễu, cờ rượu vui cùng bạn bè, chau! Đích cuối cùng
của phong lưu, sau khi khổ về thân, đáng tiếc là thời gian không
quay đầu, cho nên vì vậy, phong tình hoài nguyệt cùng xoá sạch>
nói đến phong nguyệt hoài tình, thật sự là có tình gì mà phải hoài,
10 năm tỉnh giác giấc mộng dương châu của đại thi nhân, kết quả
của việc chặt mưa vũ, cũng chỉ là một tiếng than mà thôi, thời gian
thật sự rất dễ trôi đi, 10 năm nhờ vào nước chảy, xoá đi phong
nguyệt tình hoài, là phải như thế, là phải như thế.
Đọc < Liên Trì đại sư thất bút câu>, có người cho rằng quá tiêu
cực, còn tôi thì nói không, bởi vì:
< xuất thế giả vạn bàn toàn hưu,
Nhãn quang tự nhiên vô danh công;
Thoát ly cấu uế phương đắc tịnh,
Đừng trách đại sư thất bút câu>
72
023 Địa linh chi đạo (Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Tôi tổng cộng viết 2 quyển sách < địa linh>, nói về những tiễn
kiến của môn học địa linh, một quyển sách tên là < thần bí của địa
linh>, còn quyển sách kia tên là < địa linh thám thắng và huyền lý>.
Hai quyển sách này tuy rằng rất nông cạn, nhưng những người
xem không hiểu được cũng không ít. Đương nhiên, đây không phải
là biểu thị đọc giả không đủ trí thức, mà là đa phần các đọc giả đối
với mặt này đều là ngoại môn, bởi do vốn không có nhập môn,
đương nhiên là xem không hiểu.
Có rất nhiều đọc giả gửi thư cho tôi, hỏi tôi < địa linh> có quan
trọng thật không? Cái gì là địa linh chi đạo? Bởi do các đọc giả gửi
thư đến quá nhiều, không tiện trả lời từng người một, chỉ có ở đây
giải thích mang tính tổng hợp. Đây chính là < kỳ văn cùng thưởng
thức, đọng nghĩa tương dự tích> địa linh học của tôi không phải là
kỳ văn, chỉ là trí thức bình thường thực tế, xin đọc giả cùng hưởng
ứng.
Thật ra địa linh, đơn giản nói đó chính là < nhân tố địa lý>, cũng
có thể nói <hoàn cảnh nhân tố địa lý>, phạm vi trong đó rất rộng,
bao gồm khí hậu, địa hình, núi sông biển cả, đây chính là thể đại tư
tinh. Ảnh hưởng của hoàn cảnh địa lý, thì tự nhiên cũng sẽ ảnh
hưởng đến nhân cách và hành vi, cho nên địa linh chi đạo có thể
nói là < cấu thiên nhân chi tế, thông cổ kim chi biến, thành nhất gia
chi ngôn>, phạm vi của địa linh chi đạo rất lớn, học thức cao thâm,
như thế thì có thể biết vậy! Tôi cảm thấy muốn biết rõ địa linh chi
học, nếu không phải là người có đại trí tuệ thì không thể làm được,
nói một cách khách quan, người học địa lý, phải nghiên cứu các
học vấn về: nhiệt của khí, lượng mưa, sơn mạch, sông ngòi, bờ
biển, biển cả, thiên văn, có khoáng sản động thực vật, địa chất…,
như thế phối hợp với nghiên cứu mang tính khoa học, mới có thể
coi như là không sót không lệch.
Nói đến địa khí, có lời nói rằng: <như bát bửu lầu đài, chiếu rõ
tâm của con người, khi gỡ ra không thành phiến đoạn, mà thật sự
có linh khí hành ở trong đó> chúng ta xem đất, tuy có vật chất,
73
nhưng tôi cho rằng, thật sự là có linh khí hành ở trong đó, người có
đầy khí thì rất tỉnh táo, và cơ thể con người là từng vật chất một,
nhưng duy chỉ có tinh thần là có thể biểu thị linh khí , núi sông đẹp
đẽ không phải là vật chất không giống nhau, đó chính là do sự
khác biệt của linh khí tràn trề.
Thuyết < địa linh nhân kiệt> đúng là một chân lý. < Vấn đề cuộc
sống của loài người, nhất định phải chịu sự ảnh hưởng của hoàn
cảnh địa lý, sự tiến hoá của lịch sử có liên quan đến núi sông đất
đai, di dời của loài người, chính là để phù hợp địa lý, chọn địa lý là
để giải quyết về cuộc sống, nếu nhân tố địa lý tốt, thì tự nhiên có
thể đạt thành cuộc sống viên mãn, tiến bộ rất thần tốc, phát sinh vĩ
đại của văn minh loài người>, chúng ta có thể nói: < phát triển của
giao thông thế giới, giao lưu văn hoá của loài người, thậm chí là
chế độ chính trị, mỗi thứ này đều là theo hoàn cảnh địa lý mà xuất
hiện thích ứng, những cái này đều là nhân tố của địa lý>.
Có hay không có địa lý, chỉ xem thực vật là có thể biết được, ví
dụ như nhân sâm của Hàn Quốc, nếu lấy đi trồng ở nơi khác đều
không thành, chuối ở Đài Loan nếu lấy đi trồng ở Nhật Bản sẽ
không thành, táo ở Nhật Bản, nếu trồng ở Đài Loan sẽ biến chất,
những thứ biến hoá này, toàn thế giới đều là như vậy, đó là do tinh
thần của đất mà có, không thể miễn cưỡng. Phải biết rằng < trên
thân thể con người có điện âm dương, đất cũng có điện âm dương,
trời cũng có điện âm dương, máu huyết của tổ tiên và máu huyết
của chúng ta đều có tương quan với nhau, di thể của tổ tiên vào
trong đất rồi, linh hồn sẽ chịu ảnh hưởng của âm dương địa linh, sẽ
sinh ra cảm thọ yên nghỉ và không yên nghỉ, thế là tinh thần của tổ
tiên có bình an hay không bình an, do quan hệ của huyết thống di
truyền và nhân tử âm dương, sẽ sinh ra hiện tượng quấy nhiễu.
Cách nói của tình hình này, biểu thị đơn giản chính là: tổ tiên có di
truyền ở vật chất, thì tự nhiên cũng có di truyền ở tinh thần, và di
truyền ở tinh thần, có liên quan rất lớn đến địa linh>, được ghi lại
trong quyển < địa linh thám thắng và huyền lý>, đây chính là nói
rõ về âm trạch (mồ mả) sẽ ảnh hưởng đến một đoạn văn tự tinh
giản của đời người như thế nào.
74
Địa linh chi đạo, to thì đến phát triển của quốc gia, sự biến đổi
của hải quyền địa phận, nhỏ thì là tiền đồ sự nghiệp của mỗi người,
hành thế thuận nghịch, hơn phân nữa thì đều tương thông với nhau,
nên văn hoá không khởi nguồn ở địa lý nhiệt đới, hoàn cảnh khiêu
chiến quá nghiêm. Công năng phản ứng của loài người đã mất, nên
văn hoá không khởi nguồn ở hàn đới, cho nên văn hoá khởi nguồn
ở ôn đới, cũng là nhân tố của hoàn cảnh địa lý.
Một địa linh tốt, có thể làm vui mắt và tâm của con người, khiến
cho tâm con người cảm thấy vui vẻ, sự nghiệp thành công, phàm
việc gì cũng được an ổn thuận lợi. Địa linh xấu, khiến cho tâm mắt
của con người xấu ác, tinh thần tệ hại, sự nghiệp nơi nào cũng mắc
lỗi lầm, không có một cái gì thuận lợi cả. Đây chính là tinh thần
ảnh hưởng tâm lý, tâm lý ảnh hưởng vật lý, phàm là việc gì cũng
có đạo lý, nhất nhất tương thông.
Tôi viết một bài thơ mới:
< sơn hạn thuỷ nhai,
Bông hoa sẽ nhảy múa nở rộ,
Loạn thạch thương mạc,
Chỉ có xương rồng nộ gai mà đến.
Địa linh chi đạo,
Cũng giống như một bức phong cảnh được treo.
Vui lòng mát mắt vậy!
Linh khí chảy vào tâm của tinh thần gập gềnh>
75
024 Nam Tề tiền đường Phạm Nguyên Diễm
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Sớm tối tụng kinh lễ Phật, là một trong những khoá công phu
trong sinh hoạt thường ngày của tôi, mỗi lần sau khi tôi niệm Phật
xong, đều tịnh toạ trong chốc lát, hồi tưởng và tự mình thức tỉnh lại
những việc đúng sai trong ngày hôm nay, là đúng, thì phải cố gắng,
nếu sai, thì nhất định phải sửa cho đúng.
Mỗi lần tụng kinh, tôi nhất định đều phải dâng sớ văn, đại ý của
sớ văn như sau: < bẩm các thánh trên trời, Thắng Ngạn làm người
có rất nhiều lỗi lầm, nay bị người ta huỷ báng, sự huỷ báng này
đều bởi do con mà ra, không trách người khác. Ngoài ra công đức
tụng kinh niệm Phật của Thắng Ngạn, có thể hồi hướng cho những
người huỷ báng con, khiến cho họ tâm bình khí hoà, đồng Phật trí
tuệ, thiện công tăng thêm> tôi tụng kinh niệm Phật hồi hướng cho
những người công kích tôi, hy vọng sớm được hoá giải oan khí,
cùng nhau vui sống.( linh sách của Thắng Ngạn xuất bản, người tin
cũng nhiều, người công kích cũng không ít).
Tôi vẫn lặng lẽ làm như thế, và chưa được người hiểu được, cho
đến một ngày, một người bạn thân đến nhà, anh ta đọc bài sớ văn ở
trên bàn viết của tôi, anh ta nói :< bạn Lư, cần gì phải khổ vậy?>
< không phải là khổ, mà là nhân tâm>
< anh chính là phụ nhân chi nhơn>
< mong rằng người ngoài cuộc tự giác lương tri lý tánh, có phải là
phụ nhân chi nhơn>
< người hiện đại không thích màn này, tôi thấy anh thôi bỏ vậy!>
< biết sĩ khởi nho, tôi phải thay người khác chịu lỗi>
< tôi thấy ở thiên hạ chỉ có anh Lư Thắng Ngạn khùng như thế, ở
xã hội nhược yếu thì bị ăn thịt này, anh nhân từ khoan hậu như thế,
ở thiên hạ còn có người như thế không?>
< có> tôi nói:<Nam Tề Tiền Đường Phạm Nguyên Diễm>
Tôi kể cho người bạn thân, Nam Tề Tiền Đường Phạm Nguyên
Diễm, bẩm sinh thích đọc sách, đọc hết các quyển sách cổ kim, rất
có học vấn, nhưng an phận nghèo vui đạo, tu dưỡng càng giỏi, lúc
76
đó triều đình nghe được tên của ông ta, muốn mời ông ta ra làm
quan, nhưng tánh của ông ta phiêu bạt, không tham cầu cuộc sống
phú quý vinh hoa nơi quan trường, kết quả là từ chối khéo léo.
Gia cảnh của Phạm Nguyên Diễm rất nghèo, để có 3 bữa cơm no
bụng, ông ta phải trồng rau ở những mảnh đất trống, mỗi ngày đều
rất bận rộn, còn rau của ông thì mọc rất xum xuê. Có một ngày,
Phạm Nguyên Diễm từ trong nhà đi ra, gặp một người, người này
đang ăn trộm rau xanh trong nhà của anh ta, thế là Phạm Nguyên
Diễm nhân lúc người này chưa phát giác ra, bèn nhanh chóng trốn
vào trong nhà của mình, không dám ra ngoài, mà còn đem chuyện
này nói với mẹ, mẹ của ông cũng cười mắng ông ta rằng dễ giãi
với người xấu, nhưng mà ông ta giải thích với mẹ rằng: <con sợ là
người ăn trộm rau, nếu như bị con phát hiện, hắn sẽ xấu hổ không
biết chui vào đâu, vì lòng tự tôn của hắn, cho nên tránh đi vậy>
Còn có một lần, thấy một tên trộm chui cống lội nước vào ăn
trộm măng của ông, Phạm Nguyên Diễm sợ chân của ông ta ngâm
trong nước lâu sẽ bị phong thấp, mà lại không tiện nữa, bèn làm
một cây cầu gỗ ở trên cống, cho tên trộm đi qua được tiện lợi một
chút.
Người bạn thân nghe tôi kể về Phạm Nguyên Diễm, cảm thán đến
nỗi lắc đầu nói: <đây có phải là quân tử trong kiến hoa duyên nội
quân tử quốc không?>
Tôi nói: <Cho do người khác không hiểu tôi, đau khổ chỉ là đơn
phương, nếu như tôi vẫn phản kích như thế, vậy thì đau khổ sẽ trở
thành song phương rồi. Nếu như tôi nhẫn nhịn, chí ít cũng giảm đi
đau khổ một nữa, và như thế kẻ công kích sẽ nhẹ nhàng vui vẻ, và
còn tôi cũng cảm thấy vui vẻ bởi do hắn ta vui vẻ. Nhất là tôi
thường hay tụng kinh niệm Phật, nếu như phải cầu phúc hoá giải
tiêu tai cho họ, thì trong vô hình khiến cho tôi được tâm an, và
cũng bởi do tôi làm như thế, tôi càng cảm thấy trong lòng giảm đi
khó chịu, như thế có phải là một công hai việc không>
< có lẽ anh làm như vậy, cũng vẫn có người cười anh là gã
khùng>
< tôi vốn là tên khùng trong những gã khùng> tôi tự cười xoà
< anh thật sự không giận>
77
< tôi tự làm như thế chính là hoá giải khí trong lòng của tôi>
Khi tôi ngẩng đầu nhìn trời, trời rất rộng rất cao, trời rất xanh rất
sâu, và cứ như thế tâm tư của tôi từ từ nhẹ nhàng bay lên, ở trên
không trung chúng tôi tự do đi khắp nơi, chúng tôi có thể tuỳ ý hái
bất cứ một ngôi sao, đi ngồi trên mỗi một áng mây, đi làm một
giấc mơ tự do tự tại, tất cả đều rất rộng lớn, tất cả đều rất rộng
lượng, không có bất cứ tranh giành tranh cải nào cả, không có oán
ghét và ghét hận, những chữ tâm lượng hẹp hòi kia, sớm đã tan
thành tro bụi rồi, đã bay theo gió từ lâu rồi, quên đi theo gió, theo
gió mà đi.
78
025 Nhãn rỗi trên xích đu
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Vô tình ngồi trên xích đu ở ngoài vườn của người bạn. Người bạn
rót cho tôi một tách trà, tôi nhìn những chiếc lá của cây Ưu Ca Lợi
trong sân vườn, ở đó, lộ ra chiếc cánh của ánh mặt trời chiều, chiếc
cánh đó cũng giống như lông của khổng tước vậy, khi chuyển động
thì lấp lánh. Lúc này, gió đêm nhè nhẹ thổi, ở ngoài vườn đôi lúc
nghe được tiếng hát từ đĩa nhạc ở trong nhà vọng ra, hình như là
lúc này, có một chút vui sướng sanh ra từ trong lòng.
Rất khó có được thời khắc như vậy, ngồi trên chiếc xích đu đưa
qua đưa lại, không hoang mang bận rộn mà cứ đưa thời gian trôi
qua, nếu như tôi biết hút thuốc thì quá tốt rồi, đây là một bức tranh
rất thoả thích, một con người ngồi trên chiếc xích đu trong mây mù,
nhìn lên hư không, hắn ta đang trầm tư gì đây, hắn là một thi sĩ sao,
một người biết được vui sướng?
Trước sau cảm thấy rằng, khi trong lòng của một con người bình
lặng chính là lúc vui sướng nhất, nhàn rỗi không phải là tội ác, nếu
như là nhàn rỗi của ý thơ, thì rất là vui sướng. Xích đu không biết
là ai phát minh, tượng trưng của nó là vui sướng, cũng đại biểu cho
nhàn rỗi, nếu ngồi trên xích đu, cũng hình như tất cả đều nhẹ nhõm,
tất cả lo âu hình như là dư thừa.
Tôi thừa nhận bản thân rất bận rộn, cũng giống như một bà lão
mò mẫm bên này rồi đến bên kia, rất ít có thời gian nhàn rỗi để tôi
được nhẹ nhàng mà trải qua, hình như có thể nói như thế, tôi rất ít
có thể tưởng tượng mình có thể ngồi yên lặng mà nghe một bài hát,
xem một tiết mục truyền hình, hoặc là ngồi xuống uống một tách
trà cho đàng hoàng, tâm tư của tôi vẫn cứ đang làm việc, linh hồn
trước sau đều không an phận mà cứ chạy khắp núi sông mặt đất,
tôi chưa từng nghĩ đến, có thể ngồi trên chiếc xích đu mà đong đưa,
thật là một việc rất mỹ diệu làm sao.
Có người nói:< không nên cộng thêm điều kiện vào sự vui sướng
của mình. Cũng không nên nói, khi tôi có rất nhiều tiền thì sẽ rất
vui sướng. Hoặc là nói, khi tôi đi du ngoạn khắp thế giới thì sẽ rất
vui sướng. Vẫn còn có người nói như thế, khi tôi tìm được một đối
79
tượng tốt thì sẽ rất vui sướng. Hoặc là lại nói, những gì tôi cần đều
đã mãn nguyện rồi, thì có thể vui sướng được rồi> tôi cảm thấy,
những người nói như thế, họ mãi mãi không có cách được vui vẻ,
nếu như vui vẻ có điều kiện, thì bản thân của vui vẻ đã mất đi ý
nghĩa rồi, nếu như điều kiện không có cách đạt thành, có phải là
mãi mãi đau khổ không? Bây giờ tôi không cho rằng, công việc
của tôi bận rộn không phải là một việc đau khổ, thậm chí tôi cho
rằng, bận rộn chính là vui sướng.
Cũng giống như lần này! Tôi đến nhà một người bạn chơi, chính
là thời khắc ngồi trên chiếc xích đu, trong thời gian ít ỏi này, thể
hội được kết ngữ sau khi trầm tư, tôi lãnh hội ra.
< vui sướng chính là,
Là lúc ngồi trên chiếc xích đu,
Là một tách trà thơm tho,
Lộ ra gương mặt cười như ánh sáng vàng vụn của mặt trời,
Nhàn rỗi của vui vẻ thăng hoa ở trong lòng>
Chúng ta biết rằng, cảm giác của vui sướng ở nơi sâu nhất trong
lòng, chỉ có bản thân mình mới cảm thấy được sự tồn tại của nó,
người khác không thể cho bạn vui sướng, người khác cũng không
thể không cho bạn vui sướng: cuộc sống của chúng ta, vui lòng
mát mắt nhất chính là, mỗi ngày đều vui vẻ, mỗi giờ đều vui vẻ,
vui sướng và hoan hỷ liên tục cùng nhau, bất kể là trong công việc,
hoặc là lúc nhàn rỗi, phải chăm bón cho vui vẻ trở thành một bông
hoa đẹp, từng đoá một mà cho mình, thành một món quà tốt nhất.
Bạn ơi, trong dư thừa của bận rộn, tôi lại nghĩ đến< xích đu>.
80
026 Vấn đề của cảnh giới
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Người thế gian tưởng rằng tôi đã học Phật rồi, thì sẽ không có
trở ngại. Mà tiếp nhận sự công kích huỷ báng cũng không lên tiếng
than thở, nên tự nhiên liên tưởng rằng tôi có thể được chư Phật Bồ
Tát phù hộ, các tai nạn đều được giải quyết cả. Sự thật không phải
như vậy, cái khổ mà tôi phải chịu hơn người khác rất nhiều,
chướng ngại cũng nhiều hơn người khác, đạo cao một thước, thì
ma cao một trượng, người có đạo, không thể không có ma, nếu như
người ở khắp thiên hạ học Phật, và từ đây sẽ không có chướng ngại,
vậy thì < Phật> dễ tu như vậy, mọi người không tranh giành chen
lấn nhau.
Tôi có một luật sư cố vấn pháp luật rất tốt đó là luật sư Huỳnh
Thanh Huê, nhưng, tôi không dựa vào tố tụng để đổi lấy được
thành quả < chiến thắng>, tôi có thể nói như vậy, tồn tại của ma, có
thể nâng cao đạo nghiệp của tôi, đây cũng là vấn đề của cảnh giới.
Đọc < Luận Bảo Vương Tam Muội > thì có thể hiểu rõ được cảnh
giới của tôi, < một là niệm thân không cầu không bệnh, thân không
bệnh, thì tham dục ắt dễ dàng sanh. Hai là không cầu không nạn,
nếu không nạn, thì ắt kiêu căng sẽ khởi. Ba là cấu tâm không cầu
vô chướng, tâm vô chướng ắt sở học. Bốn là lập hạnh không cầu
không ma, hạnh không ma, ắt thề nguyện sẽ không kiên định. Năm
là mưu sự không cầu dễ thành, việc dễ thành, đừng quên mất tồn
khinh mạn. Sáu là giao tình không cầu lợi ích cho ta, giao tình ích
cho ta, thì ắt sẽ tổn hại đạo nghĩa. Bảy là ở người không cầu thuận
theo, người thuận theo, thì tâm nhất định tự căng. Tám là thí đức
không mong cầu báo đáp, đức mong báo, thì sẽ có ý mưu đồ. Chín
là thấy lợi không cầu chiếm phần, lợi chiếm phần, thì si tâm cũng
động. Mười là oan ức không cầu thanh minh, nếu thanh minh, thì
oán hận sẽ sanh>
Nên thánh nhân nói như vậy, lấy bệnh khổ làm vui, dùng hoạn
nạn để tiêu khiển, dùng che chướng để giải thoát, dùng quần ma
làm pháp lữ, dùng lưu nạn làm thành tựu, dùng tệ văn làm tư lương,
dùng nghịch nhân làm viên lâm, dùng bố đức làm đồ bỏ, dùng lợi
81
làm phú quý, dùng oan ức làm hạnh môn. Như thế cư ngại phản
thông, cầu thông phản ngại, chính là dùng trong chướng ngại mà
đắc bồ đề của Như Lai. Cho đến Uyên Khuất Ma La, các đệ tử của
Đề Bà Đạt Đa đến để tác nghịch, và Phật đều thọ ký cả, hoá lệnh
thành Phật, chứ không phải bị nghịch. Và tôi thuận theo đây, bị
hoại, đó chính là thành của tôi. Và ngày nay người thế tục học đạo,
nếu không ở vào trở ngại trước, thì khi chướng ngại đến, không thể
bài khiển, khiến pháp vương đại bảo, từ đây sẽ mất đi, có phải là
đáng tiếc không, có phải là đáng tiếc không>
Tôi cảm thấy cảnh giới của < Luận Bảo Vương Tam Muội >
giống nhau rất nhiều, không giống là trên bề mặt của trí tuệ, không
chỉ là ở trên sự việc hay là con người, hoặc là tu đạo học Phật, đối
với người gặp phải đau khổ bức bách, có thể bởi do nâng cao của
cảnh giới, và đạt được nguyên động lực tâm an. Từ đây có thể thấy,
người ngu muội, tay cầm một bó nhang to, cầu phúc khí giáng lâm,
thật sự là một hình tướng ngu muội đáng thương>.
Có người hỏi tôi: < anh đã học Phật rồi, thì làm gì vẫn còn bệnh
khổ>
< người tu hành lấy bệnh khổ làm lương dược>
< người học Phật tại sao lại có ma nạn?>
< ma và Phật là bạn lữ, không có ma không thể thành Phật đạo>
< người khác huỷ báng anh, tại sao không dùng pháp luật để giải
quyết?>
< tôi dùng huỷ báng làm bồ đề, nếu như không có ai huỷ báng tôi,
thì tôi sẽ không cố gắng tinh tấn>
< anh không cảm giác khó chịu sao?>
< nếu như khó chịu, thì sẽ cầu thanh minh, như thế nhất định sẽ có
oán hận, cho nên người có trí tuệ, không có cảm thấy khó chịu>
Có một lần thiền định, tôi phát hiện bản thân mình cũng có thể đi
trên mặt biển, sóng biển rất to, gió giật rất mạnh, ở không trung
mây giăng đầy khắp. Có vạn đường ánh sáng chiếu vào thân của
tôi, mặt biển rất mềm, có tính đàn hồi rất nhiều, lúc đó tôi dùng
niệm lực để khiến cho thân thể của tôi tiến lên phía trước, phong
hành của tôi cũng rất nhanh chóng, các ngọn sóng như núi đổ ầm
82
ầm tách ra dưới chân của tôi, hoặc là cùng đỡ tôi, tôi nhìn bốn bên,
bốn bên đều là biển mênh mông, trải dài rất xa, không ngừng
không nghỉ. Trong định có một âm thanh nói với tôi: <siêu thoát ở
bên trên cảnh giới của trần thế, thì anh có thể đứng trên mặt biển
mà không chìm>.
Tôi cũng đã từng leo lên một đỉnh núi cao, nhìn những dãy núi
lên xuống, tôi hình như là có thể đưa tay ra là có thể sờ vào bầu
trời xanh, mây vẫn ở dưới chân, nhìn những bãi cát, hứng khởi lên
một bi cảm thương xót người thế gian, con người trốn trong cục
hạn nho nhỏ này, suốt ngày lăn lộn là để làm gì, tại sao không hát
một bài hát, leo lên núi cao, đem hạn giới luyện đến mở ra vô biên.
< hình như là như thế mặt trời đã lặn ở núi tây,
Mặt trăng tung lưới màu bạc khắp nơi,
Chỉ có người không mộng,
Mới có thể nhìn thấu thế giới này.
Đứng ở trên mặt biển hoặc là đỉnh núi,
Nếu cảnh giới càng cao,
Gió thổi mưa đánh
Vốn là không khởi một niệm>
83
027 Hiểu lầm (Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Có rất nhiều người hiểu lầm nghiên cứu linh học chính là nghiên
cứu thần học, càng bởi do < thần> trước sau đều cho người ta một
quan niệm sai lầm, cho rằng < thần> là độc nhất vô nhị, là đấng
toàn năng vĩ đạo sùng cao nhất, cho nên, rất nhiều người liên đới
hiểu lầm tôi, mà còn cho rằng việc khó của thế gian, tôi đều có thể
giải quyết. Sự thật là, chỉ có trong lòng tôi tự hiểu, < linh> chia
làm rất nhiều tầng thứ, cao cấp một chút đương nhiên là có một vài
năng lực, nhưng không phải là toàn năng, linh cấp thấp, thậm chí là
năng lực của loài người này càng kém. Bây giờ tôi nói rõ ràng lại
một lần nữa, tôi chỉ nghiên cứu linh học, không mong bói toán cho
người khác. (tôi viết sách linh, mục đích không phải là bói toán
cho người khác, mà chỉ là biểu thị để chứng minh rằng có linh).
Ở trước cửa nhà của tôi, đã không biết bị bao nhiêu bàn tay dùng
hết sức lực mà đập cánh cửa nhà, mỗi một người đều có nỗi khổ
tâm riêng, nhưng mà, cuối cùng tôi cũng giác ngộ được, tại sao khổ
tâm là lớn nhất, tôi chứng minh rằng <lớn nhất của chính mình>,
chính là ích kỷ, con người nhận định rằng khổ tâm của bản thân
mình mới là thiên hạ đệ nhất, bất cứ một người nào cũng không thể
so sánh được, và yêu cầu của mọi người, là thiên kỳ bá quái, không
phải nhất định là hợp lý, đối với những yêu cầu này là im lặng
không nói, thất vọng của mọi người và những lỗi lầm xấu xí của
tôi, hoàn toàn đều là do hiểu lầm, tôi chỉ là một người bình thường,
nghiên cứu linh học, không phải là tiên gì trên giang hồ bói toán cả,
để chỉ điểm mê muội cho con người.
Hãy để tôi đưa ra mấy ví dụ vậy.
Ví dụ thứ nhất
Có một người phụ nữ, nói thẳng trực tiếp với tôi rằng, có một
việc rất quan trọng bằng trời phải tìm tôi, tôi vừa nghe là việc to
bằng trời, cho nên để bà ta vào, bà nói: < không được rồi! Việc hoạ
rồi, tôi nuôi mấy trăm con gà đều không ăn gạo, Lư tiên sinh, cầu
xin anh, hãy để cho mấy trăm con gà của tôi ăn gạo được không?>
84
< bà hãy mời bác sĩ đến xem chưa?> tôi bình tĩnh hỏi bà ta.
< họ nói là dịch cúm gà>
< xin lỗi, tôi không phải là bác sĩ, không có thường thức về nuôi
gà>
< bất kể nói thế nào, mọi người đều nói anh không có gì là không
biết, tôi chỉ cầu anh, con gà của tôi sẽ tiếp tục ăn gạo>
< thật xin lỗi, tôi thật sự không thể>
Câu xin lỗi của tôi được nói tổng cộng hơn nữa giờ đồng hồ bà ta
mới chịu ra về, trước khi đi bà nói: <nếu tôi phá sản, là do anh hại>.
Ví dụ thứ hai
Một thanh niên tóc tai bù xù thở không ra hơi mà cản ngay trước
xe đạp của tôi, kéo lấy chiếc xe đạp của tôi, không cho tôi chạy,<
Lư tiên sinh, anh phải cứu tôi, tôi phải tự sát, nếu như anh không
cứu tôi, thì tôi sẽ tự sát đó>.
< tự sát> chuyện này đích thật là quá nghiêm trọng, tuy rằng đã
đến giờ đi làm của tôi, tôi vẫn tâm bình khí hoà hỏi anh ta: < anh
bạn trẻ, trời sập xuống còn có người cao đỡ lấy, tại sao anh xem
thường sinh mạng, phải tự sát>
< bạn gái của tôi, không yêu tôi nữa, cho nên tôi phải tự sát>
< anh có thể nghĩ cách, thay đổi ấn tượng của cô ta đối với anh,
khiến cho cô ta tiếp tục yêu anh nữa !>
< không được, bạn trai hiện nay của cô ta, điều kiện nào cũng
mạnh hơn tôi, tôi không có cách để giành lấy cô ấy>
< khắp thiên hạ ở đâu mà không có cỏ thơm, anh hãy tìm người
khác vậy> tôi khuyên anh ta.
< không thể, tôi không có cô ấy, tôi cũng sống không nổi, bây giờ
tôi chỉ có thể cầu anh, linh của anh có thể giúp đỡ tôi>
< mỗi một con người sống cùng với nhau, đều là duyên phận,
miễn cưỡng không được, mở lòng ra vậy. Yêu không phải là miễn
cưỡng. Đồng thời, cuộc chơi của thứ tình yêu này, tôi không dám
làm động đến linh hồn cao cấp, họ cũng không lo đến thứ này, xin
hãy lượng thứ, xin lỗi> tôi nói.
85
Câu xin lỗi của tôi tổng cộng nói một giờ đồng hồ, anh ta vẫn
không hiểu ý của tôi, anh ta nói: < anh đúng là một người lòng dạ
sắt đá, vốn không có lòng từ bi>.
Lúc đó trong lòng tôi nghĩ: < ân ân oán oán của tình yêu, là
không rõ ràng được, có lẽ bạn gái của anh chọn lý tưởng là đúng,
tôi làm sao chỉ nghe lời nói từ một phía của anh mà giúp đỡ anh
đây!>
Ví dụ thứ ba
Một gã đàn ông xấu xí do không có tu phúc nhìn rất là ghê sợ,
chạy đến trước cửa nhà tôi, la to: < tôi có nỗi khổ tâm rất lớn, tôi
có nỗi khổ tâm, muốn đến nói với Lư tiên sinh> thế là cửa kêu lên
ầm ầm, nếu như mà cánh cửa không kiên cố, e rằng đã bị đập sập
xuống rồi, lúc đó là 11h đêm, ngày mai hàng xóm sẽ than phiền
đây. (tôi dọn tới dọn lui, đã dọn đến bốn chỗ rồi, nhưng vẫn có
người dò la tin tức mà tìm đến nhà. Tôi cảm thấy có lỗi là, các bạn
đến tìm, thường thường khiến cho hàng xóm của tôi cảm thấy
phiền chán, tôi đã từng mở cửa nửa giờ, thì đã có trăm người khách
không mời mà đến).
< khổ tâm lớn, Lư tiên sinh, con của tôi bệnh rồi, sự nghiệp thất
bại, vợ bỏ đi theo người khác, tôi không còn cách tiếp tục sống,
chủ nợ đến nhà, tôi không có cách sinh tồn, chỉ có trốn tránh hiện
thực, bây giờ, chỉ có anh giúp đỡ tôi. Khiến cho tôi hoạn nạn được
cứu tinh, làm ơn, làm ơn, trừ anh ra, tôi không có cách cầu người
khác>
< anh nói tôi phải giúp anh như thế nào> tôi cảm thấy tội nghiệp
cho hoàn cảnh của anh ta.
< như vậy đi! Ngày mai tôi và người bạn có một cuộc cá độ lớn,
anh chỉ cần giúp tôi, thắng hết tất cả tiền, tôi đem số tiền đó, để
làm lại vườn nhà, tạo sự nghiệp mới, tôi chỉ muốn thắng lớn một
lần, tuyệt đối rửa tay không cờ bạc nữa, ôi ôi! Xin anh, xin anh hãy
giúp tôi lần này, nếu như anh giúp tôi thì chính là ân nhân cứu
mạng của tôi, nếu như không giúp đỡ, thì anh đã huỷ cả nhà của
tôi>.
86
< cái này….> anh ta nói < nếu như anh không đồng ý, thì tôi sẽ
không về>
Gã đàn ông đó, tổng cộng đến nhà tôi hơn 5 lần, mỗi lần đều ở lì
2 giờ đồng hồ, khiến cho người ta thấy phiền phức, sau cùng anh ta
nói: <Lư tiên sinh, nếu như anh không giúp đỡ, anh hãy nhớ rõ cho
tôi…..> kế đến là nói một đống lời chửi thề, và bỏ đi.
Ví dụ thứ tư
Có hai người đàn ông trung niên, cùng chạy 2 chiếc xe moto,
dừng lại ở trước cửa nhà tôi, lúc đó tôi đang tưới cây, hai người họ
ngẩng đầu nhìn tôi, nói: < anh có phải là Lư tiên sinh không>
< đúng vậy, xin hỏi chuyện gì?>
< chúng tôi biết được anh không gặp người ngoài, nhưng mà thật
sự chúng tôi có việc cần phải gặp anh>
< xin lỗi, tôi kiên quyết không linh toán cho người ta nữa> tôi nói
< phá lệ một lần, có được không?>
< xin lỗi>
< chúng tôi hỏi một lần nữa, phá lệ một lần có được không?>
< xin lỗi>
< vậy thì, anh có biết chúng tôi làm cái gì không?> hai người họ
thay đổi ngay khẩu khí, dáng vẻ hung tợn.
< không biết>
< hừ! ra dáng vẻ đấy chứ> một người nói
<chúng tôi là làm gì, anh không biết, nhưng mà tôi có thể nói với
anh, anh sẽ có phiền phức. Người gây phiền phức cho anh, chính là
chúng tôi> người kia nói.
Tôi ngơ ngẩn nhìn hai người đó, tôi nghĩ, phiền phức của tôi đã
quá nhiều rồi, tại sao còn chưa thông cảm cho tôi. Hai chiếc xe
moto vút đi như một trận gió. Mấy ngày sau, quả nhiên tôi gặp
phải phiền phức, nhưng mà tôi vẫn thành tâm đối đãi với người,
tuân thủ pháp luật, những phiền phức này sau khi được tôi giải bày,
đã tan biến nhanh chóng.
87
Lời kết
Đây chỉ là bốn ví dụ nhỏ đã xảy ra, mà những ví dụ như thế
nhiều như là cá qua sông, nếu như muốn tôi viết từng câu chuyện
một, có thể viết thành 100 quyển sách. Cho đến tai nạn của tôi có
bao nhiêu, tôi bị chà đạp bao nhiêu, khó khăn của tôi sâu như thế
nào, tôi chỉ nói với các quý vị, nếu như không phải tâm địa tôi
thuần chính, tuân thủ pháp luật, xem những phiền phức này rất mờ
nhạt, thì từ lâu tôi đã tắt thở không còn sống nữa. Nói tóm lại một
câu, đây cũng đều là hoạ do tôi viết sách tạo ra. Nhưng mà tôi rất
cảm kích tinh thần pháp trị công chánh anh minh, chính là loại tinh
thần này, khiến cho tôi quyết tâm theo đuổi chân lý, không phải rút
lui sợ hãi.
(Có lẽ vẫn có đọc giả vẫn chưa tin sự thật này, nhưng mà tôi thật
lòng để mọi người biết, ngay cả điện thoại tôi cũng muốn gỡ bỏ,
bởi vì chỉ trong 1 giờ đồng hồ ngắn ngủi, bạn sẽ phải hưởng thụ
mùi vị của 100 cuộc điện thoại, có lẽ còn bao gồm cả nửa đêm
khuya).
88
028 Mật điệp (Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Trần Thiên Di ngồi ở trong văn phòng trước bàn làm việc, trên
tay ông ta đang cầm một bức đồ thiết kế vũ khí mới cơ mật, đọc
các mẫu tự tiếng anh được ghi chú ở kế bên, ông ta tự lầm bầm
một mình: < thành công rồi, đây chính là vũ khí cơ mật có lực sát
thương lớn nhất, coi như là đã thành công.> Trần Thiên Di là chủ
nhiệm của phòng nghiên cứu cục xx, xưa nay đều rất tuân thủ pháp
luật, rất có trách nhiệm. Ông ta ngẩng đầu nhìn lên bầu trời xanh,
thở ra một hơi, đem bức đồ thiết kế vũ khí cơ mật màu xanh khoá
vào trong két sắt, ông ta đốt một điếu thuốc, hít một hơi rất mạnh.
Ngay chính lúc này, chuông điện thoại reo lên, ông ta tiện tay
cầm điện thoại lên, trong chốc lát sắc mặt thay đổi, hình như là rất
nhăn mặt rất đau khổ: <Làm sao có thể! Làm sao có thể! Tôi lập
tức đi, lập tức đi> Ông ta quờ quạng cởi bỏ áo làm việc, tuỳ tiện
cùng với đồng nghiệp xin nghỉ phép đột xuất, đi ra khỏi cục xx,
ngồi trên một chiếc xe taxi, xe phóng rất nhanh đi đến viện Hoằng
Ân Ánh, ông ta nhanh chóng mở của bệnh viện ra, kém chút nữa là
đụng phải người khác.
Sự việc là như vậy, con lớn của Trần Thiên Di là Trần Tiểu Trí,
từ trường học tan học về nhà, đi qua một con hẻm nhỏ, trong hẻm
đột nhiên có một chiếc taxi vụt ra, thân xe của chiếc taxi chỉ nhẹ
nhàng đụng phải Trần Tiểu Trí, và Tiểu Trí lộn 2 vòng, bị gãy
xương đùi, bây giờ đưa vào bệnh viện, bó bột, bác sĩ nói:< không
sao cả, khớp xương nối lại đúng sẽ nhanh chóng khỏi thôi, chúng
tôi chụp x quang, không có nghiêm trọng>.
Trần Thiên Di nhìn đứa con đau khổ, an ủi vợ của mình, sau khi
nghe bác sĩ nói xong, mới yên tâm. Vô tình ngẩng đầu lên, ông ta
nhìn thấy trong phòng bệnh có một người, người này đeo mắt kính
đen, hai tay đan chéo vào nhau, nhìn bên ngoài có vẻ là người giàu
có. Anh ta có vẻ rất nôn nao, khoảng hơn 50 tuổi, người đàn ông
này gật đầu nhẹ nhàng với Trần Thiên Di.
<Người này là ….> Trần Thiên Di hỏi
89
< Ông ấy là một người tốt bụng ngồi trong chiếc taxi, tiền thuốc
của con đều do ông ấy trả, ông ấy nói do ông kêu xe taxi chạy
nhanh một chút, nên ông cũng có trách nhiệm> bà Trần giải thích.
< xin lỗi > người đàn ông trung niên giàu có nói, đồng thời cúi
gập người xuống, lúc này ông ấy tháo mắt kính ra, ông ta hơi kinh
ngạc, ông ta hỏi: < là anh, anh có phải là Trần Thiên Di?>
< ủa ! anh là…..>
< tôi là Trần Khởi Văn, còn nhớ không! Bạn học cùng lớp, Trần
Trác Văn 30 năm không gặp> ông ta đưa tay nắm lấy tay Trần
Thiên Di, tay của Trần Thiên Di thì gầy teo, còn tay của Trần Khởi
Văn thì rất dày.
Bà Trần trong chốc lát cũng ngẩn người ra, Trần Trác Văn là bạn
học 30 năm trước của Trần Thiên Di, và Trần Trác Văn ngồi xe
taxi khiến cho Trần Thiên Di và Trần Trác Văn lại tương phùng,
đây thật sự là trời đất bao la nơi nào không tương phùng, trái đất
quả nhiên là quá nhỏ.
< chị Trần> Trần Trác Văn nói:< tiền thuốc của Tiểu Trí, tôi hoàn
toàn phụ trách, tôi sẽ xem nó như là con cái của chính mình mà lo
lắng cho nó, như thế, mới có thể bù đắp nỗi hối hận trong lòng của
tôi, bây giờ, mọi người đều không phải là người ngoài, cách xa lâu
như vậy, tôi xin mời mọi người cùng nhau dùng cơm>
< Trần Trác Văn, đúng thật là Trần Trác Văn> Trần Thiên Di
cảm thấy đột nhiên.
< không nghĩ đến sao! Anh Thiên Di>
Ba mươi năm trước, chúng ta là bạn học, không những là bạn học,
mà là cùng dãy, hai người đã từng kết nghĩa, là thân nhau nhất.
x x x
Ở Xuân Phong Đắc Ý lầu, Trần Khải Văn rất đắc ý, ở Hong Kong
ông ta có công ty mậu dịch, ở Đài Loan có công ty xây dựng và
công ty xí nghiệp, Trần Trác Văn lại là đầu cơ đất đai, ở Đài Loan
có mấy miếng đất được ông ta mua lại, công ty của ông ta thành
lập cũng rất nổi danh, một toà nhà chung cư tuỳ tiện bán cũng phải
đến 7 triệu tiền Đài Loan, những người đến ở đều là giới kinh
doanh giàu có, ông ta chi tiêu cũng rất rộng rãi, ở Xuân Phong Đắc
90
Ý lầu, gọi cả một bàn thức ăn ngon, thức ăn thật sự rất phong phú,
đều rất đắc tiền, và người được mời, chính là vợ chồng Trần Thiên
Di, 2 đứa con nhỏ của nhà họ Trần, Trần Tiểu Trí và Trần Bình
(vết thương ở đùi của Trần Tiểu Trí hồi phục rất nhanh, chỉ là khi
đi lại cần phải có người dìu), ngoài ra còn có một cô gái ăn diện rất
sang đẹp, nghe nói là thư ký của Trần Trác Văn.
< bác Trác, thức ăn này ăn không hết thật là tiếc, có thể đem về
nhà không> Trần Bình ngây thơ hỏi, nó nhỏ hơn Tiểu Trí 3 tuổi,
Tiểu Trí 15 tuổi, nó 13 tuổi, năm nay thi vào sơ trung( trường cấp
2).
< đương nhiên rồi, đương nhiên> Trần Trác Văn cười ha hả.
< hai đứa con này xưa nay ít được dạy dỗ, không biết chuyện, sau
này phải nhờ anh dạy dỗ chúng>
< đây là lời nói khách sáo, anh Thiên Di tài cao bát đẩu, rồng sanh
rồng, phụng sanh phụng, không sai vào đâu được, hai đứa nhỏ này
bề ngoài trông rất thông minh, nếu như không chê bai, tôi rất vui
lòng nhận chúng làm con nuôi, tôi sẽ hoàn toàn phụ trách học phí
sau này của chúng>.
< đây là phúc của các con> bà Trần nói
< đúng rồi, anh Khởi Văn, chị Trác đâu?> Trần Thiên Di hỏi.
< cô ta mất ở Hong Kong rồi, đã 6 năm rồi, chúng tôi không có con,
đây là một nỗi đau lớn nhất> Trần Khởi Văn hiện ra vẻ bi thương,
sắc mặt hơi tối lại:<mấy năm nay cứ thế mà trôi qua, trôi qua>
< có muốn lập gia đình nữa không> bà Trần chú ý hỏi.
< không có duyên phận, đồng thời cũng già rồi, ha ha>
Cứ thế mà nói chuyện, nói mãi, chủ đề nói đến công việc của Trần
Thiên Di.
< chủ nhiệm phòng nghiên cứu, đó là chủ quản trung cấp đó. Lẽ ra
là phải chúc mừng anh, chúng mừng anh, vậy tiền lương hàng
tháng của anh cũng không ít phải không?>
Trần Khởi Văn nói không cần suy nghĩ
< làm gì có, lính cách mạng chúng tôi là làm việc cho quốc gia, ăn
mặc ở đi đều là dùng của nhà nước, cuộc sống tuy không phải là
giàu có gì nhiều và có hưởng thụ, nhưng mà về tinh thần thì rất vui
91
và ổn định, không có phiền não, trên dưới một lòng, mỗi tháng tiền
lương cố định, đủ để chúng tiêu tiêu xài> Trần Thiên Di nói.
< đương nhiên là không so được với phúc khí của anh Trác> bà
Trần có một chút ngưỡng mộ
< làm gì có, làm gì có> Trần Khởi Văn nói:<anh Thiên Di vì nước
mà cực nhọc là phải cạn một ly mới đúng>.
< không dám, tôi cạn ly này vậy! Rượu Trúc Diệp Thanh này là
rượu ngon thượng hạng, không cạn không có thành ý> Trần Thiên
Di cũng bắt đầu hào sảng lên.
< không được uống say đấy> bà Trần nhắc nhở
< anh Thiên Di, ở một mặt nào đó tôi có một ít năng lực, nếu như
anh cần, chức vị của anh có thể lên cao, nhất là anh lên cao, có thể
nói là được như mọi người mong muốn>
< tốt rồi> bà Trần vui mừng khôn xiết.
< không được, không được, lên chức quan là phải dựa vào bản lĩnh
thật, không phải là dựa vào quan hệ>
< anh Thiên Di, anh cũng quá ngay thẳng, bây giờ là thời đại gì,
năng lực cao cộng thêm nhân hoà, mới có thể được đổi đời hơn
người, yên tâm, dựa vào tài cán của anh, để thành một chủ nhiệm
cao cấp, là thừa sức đó>
Xuân Phong Đắc Ý lầu, Trần Khởi Văn và Trần Thiên Di, hình
như là quay về 30 năm trước, họ nói về những câu chuyện vui ở
trường học, rất là hợp ý.
x x x
Cuối năm, trùng hợp Trần Thiên Di lên chức, chức vụ của ông ta là
xx tổng giám lý công trình sư, bộ phận phụ trách càng lớn, lớn 2
cấp so với chủ nhiệm phòng nghiên cứu, các tư liệu cơ mật được
ông ta đọc càng nhiều hơn. Việc lên chức của ông, có thể nói là
hoàn toàn nhờ vào bản thân ông cố gắng mà có, Trần Khởi Văn có
giúp đỡ hay không, rất khó nói. Với các đồng nghiệp, mọi người
đều cho rằng năng lực làm việc của Trần Thiên Di rất cao, tận tâm
với chức vụ, đi làm không bao giờ đi sớm về trễ, không toàn doanh,
trung đảng yêu nước, đồng thời lại là tổ trưởng phục vụ của hội uỷ
viên phòng Trung Sơn, bình thường rất nhiệt tâm làm việc, thái độ
92
phục vụ thân thiện, giữa các đồng nghiệp với nhau cũng rất có
nhân duyên, việc lên chức của ông ta, trái lại khiến mọi người cho
rằng là do chính sức ông mà có, mọi người đều vui mừng và chúc
mừng cho ông ta.
Nói ra cũng kỳ lạ, Trần Thiên Di lên chức làm xx cục tổng giám
lý công trình sư, Trần Khởi Văn lại xa cách không tới lui với Trần
Thiên Di nữa, Trần Khởi Văn chỉ nói với ông ấy, phải về Hong
Kong làm một vài việc.
Khoảng một năm sau, Trần Khởi Văn lại đến nhà Trần Khởi Văn,
ông ta nhìn căn nhà công nhân viên rộng 20 mét vuông và nhíu
chân mày lại, Trần Thiên Di đưa một điếu thuốc < thuốc Quốc
Quang> cho Trần Khởi Văn, và Trần Khởi Văn nói cảm ơn với
Trần Thiên Di, tự mình hút thuốc < ba số năm>.
< làm sao rồi, vẫn hút thuốc Quốc Quang >
< giá rẻ mà, có thể tiết kiệm được thì tiết kiệm>
< làm tổng giám lý công trình sư không được tốt sao?>
< chúng tôi đang thực hành phòng tệ, mọi người phải thanh liêm,
tuân thủ pháp luật>.
Lúc này, bà Trần ở nhà bếp nghe tiếng bèn chạy ra ngoài, bèn nói
luôn: <anh hai Trác, anh xem đi, ghế salon của chúng tôi đã 20
năm, tivi cũng vẫn là đen trắng, anh ấy đi làm vẫn là chiếc xe đạp.
Anh ấy lại không biết con đường phát tài, cũng không biết kiêm
nghề phụ để làm, làm người cứ cứng đầu, cho dù thương nhân cho
những cái tốt, anh ấy bèn đưa đến trị an chúng, tôi theo anh ấy, có
phải là nghèo một đời không?>
< bà xã, bà cần gì phải thế, chúng ta tuy nghèo, nhưng lại không
bị bụng đói, cuộc sống vẫn rất thoả thích, chúng ta tâm an lý đắc,
chính là hạnh phúc, quốc gia đang thời chiến, mọi người phải tiết
kiệm, bây giờ nói hưởng thụ là quá xa xỉ>Trần Thiên Di nói với bà
vợ đang lầm bầm.
< anh hai gần đây làm gì vậy?> Trần Thiên Di hỏi.
< xây hai toà nhà cao cấp 11 tầng> Trần Khởi Văn nói:< như vậy
đi! Tôi tặng một tầng cho anh Thiên Di, để trách bà chị cứ nói suốt
ngày cằn nhằn anh>
< oa ! Một tầng lầu> bà Trần nhảy lên.
93
< anh hai, có phải anh nói đùa không!> Trần Thiên Di kinh ngạc.
< không phải nói đùa > Trần Khởi Văn nói:< anh em của mình,
có nghĩa thông tài, lại nói tôi cũng không phải tặng không cho
anh>
< có điều kiện?>
< không phải điều kiện lớn gì, công trình kiến trúc của tôi mời anh
đến thiết kế, phát tài rồi, anh chia một phần chung cư, chỉ như vậy
thôi>.
< ba ơi! Chúng ta có chung cư rồi, còn phải có một cái điện thoại>
Trần Tiểu Trí ở kế bên nói vào.
< điện thoại, cần điện thoại để làm gì?>
< Ba ơi! Ba không biết đâu, bây giờ giữa các bạn học với nhau,
bạn học nào càng nhiều điện thoại, thì biểu thị gia đình càng giàu
có, một gia đình ít nhất cũng có một điện thoại, giống như chúng ta,
trong nhà của chúng ta không có điện thoại, mọi người sẽ khinh
thường, bạn học cũng cười nhạo>
< thật có chuyện này sao?>
< thật đó> Trần Tiểu Trí gật đầu
< thời đại này thật sự thay đổi rồi, khoa học phát triển, phẩm
hưởng thụ của con người càng cao, làm gì mà có lấy điện thoại để
so giàu nghèo> Trần Thiên Di cảm khái lắc đầu.
Ngay lúc này, bà Trần đã dọn xong bàn ăn, bà Trần vì cảm kích
Trần Khởi Văn, đặc biệt mua nửa con gà làm sẵn, lúc ăn cơm,
cũng lại là lúc quạt máy bị hư, ăn một bữa cơm, Trần Khởi Văn cả
người chảy mồ hôi, Trần Thiên Di và vợ cứ liên tục xin lỗi Trần
Khởi Văn.
< chúng tôi không có máy lạnh> bà Trần nói
< chúng tôi không tiếp đãi anh đàng hoàng > Trần Thiên Di nói
< không sao cả, anh Thiên Di, sau này anh chị thiếu thứ gì, cứ nói
với tôi là được. Chỉ cần tôi có thể làm được, thì lập tức bù cho đầy
đủ>
Qua không bao lâu sau, bà Trần do quá cực nhọc nên bị bệnh, sốt
cao, uống thuốc không hết, kế đến là dẫn đến bệnh viêm phổi, ho
không ngừng, Trần Thiên Di thục mạng mà tìm kiếm bác sĩ trị
bệnh, kết quả là chẳng những bệnh không hết, mà một con người
94
khoẻ mạnh lại trở nên ốm đến nỗi không giống hình người, hình
như là có triệu chứng thở khò khè. Bởi do đã tốn không ít tiền cho
việc điều trị bệnh, bây giờ lại cần phải có thêm thuốc đặc trị cho
bệnh khó thở, càng phải cần có tiền, Trần Thiên Di nôn nóng khác
thường. Thế là, ông nghĩ đến Trần Khởi Văn, ngoại trừ Trần Khởi
Văn ra, ông còn có thể đi tìm ai nữa đây! Thế là, ông tìm đến Trần
Khởi Văn, Trần Khởi Văn không những không có khinh thường
ông, mà ngay lập tức viết một tấm chi phiếu 50 ngàn cho ông, mà
không có nói ngày nào phải hoàn trả, không có tiền lời, hoàn toàn
là có ý nghĩa tặng cho. Trần Thiên Di cảm kích đến nỗi kém chút
nữa là chảy nước mắt. Từ đó nhà họ Trần lớn nhỏ, xem Trần Khải
Văn như là ân nhân cứu mạng. Tiểu Trí và Trần Bình đều cũng gọi
ông là cha nuôi. Trong lòng của họ cha nuôi thật là tốt, mỗi lần về,
đều có bánh kẹo ăn, mỗi lần đều là gói to gói nhỏ cả.
Tiểu Trí thường nói với bạn học: < cha nuôi của tớ là đại phú hào
ở Hong Kong, thường hay ngồi máy bay đi khắp nơi trên thế giới,
cha nuôi xây một ngôi nhà to cho chúng tớ, tớ cũng bắt đầu có
tiền>.
Tiểu Trí nói không sai, Trần Thiên Di đã dọn khỏi cư xá của công
nhân viên, những người ở trong cư xá nhìn thấy Trần Thiên Di chỉ
huy chiếc xe tải dọn đồ đạc trong nhà, cuộc sống của nhà họ Trần
đã cải thiện rất nhiều, trong chung cư có thiết bị nóng lạnh, có
thảm trải nhà rất đẹp, có bộ ghế salon cao quý nhất, trang hoàng
đều là hào hoa và nghệ thuật, trên tường thì là giấy dán tường, đèn
mỹ thuật là đèn nguyên hãng của Hong Kong, gian bếp thì lát gạch
La Mã, còn có tủ rượu và tủ bếp, điện thoại tuy rằng chỉ có một,
nhưng có đến 3 máy phụ, tất cả đều sáng chói chang, trông rất bắt
mắt, rất là huy hoàng, cũng giống như hoàng cung vậy. Bà Trần
nghĩ đến ngôi nhà 20 mét vuông lúc trước, nếu so với chung cư
hào hoa này, thì cũng như là trời với đất vậy. Trần Tiểu Trí và
Trần Bình lộn nhào ở trên thảm trải nhà, vui mừng đến nỗi vừa hét
vừa nhảy, họ cuống quít gọi điện thoại cho bạn học, biểu thị rằng
chúng đã có điện thoại rồi. Những thiết bị này đều là do Trần Khởi
Văn cung cấp, Trần Khởi Văn và nhà họ Trần là không thể phân
biệt.
95
x x x
Một buổi tối, Trần Thiên Di về phòng sách để làm việc, ông phát
hiện hộc tủ của ông bị lục qua, ông tưởng rằng mấy đứa trẻ, chỉ hỏi
vậy thôi, cũng cho qua. Trần Thiên Di là một người rất cẩn thận,
có rất nhiều tài liệu cơ mật đều không đem về nhà, và thiết kế của
mình, hơn phân nữa là dùng khoá khoá lại. Ông không phải là đề
phòng ai, mà là thời gian lâu ngày sẽ thành một cơ cảnh mà thôi.
Trong thời gian này, Trần Khởi Văn đến thường xuyên hơn, hình
như ông ta có tâm sự nặng nề. Vào một buổi tối, Trần Khởi Văn
hẹn Trần Thiên Di ra ngoài ăn cơm, đến một quán cà phê, hành
động của ông lén lút nhìn tới nhìn lui, hình như là vẫn sợ có người
khác nghe lén.
< anh Thiên Di, anh cho rằng con người của tôi như thế nào?>
< Trác đại ca, anh là ân nhân của mạng của cả nhà chúng tôi,
huống hồ chi Tiểu Trí và Bình Bình đều nhận ông làm cha nuôi,
con người của anh rất tốt, tôi tin tưởng anh>
< nếu như tôi có khó khăn, anh có giúp đỡ không>
< sao lại nói như thế, đương nhiên là không bao giờ từ chối> Trần
Thiên Di nói
Trần Khởi Văn gật đầu, trong quán cà phê tối đen, lướt nhìn qua
mấy lần nữa, xác định không có ai để ý đến họ, ông ta kề miệng sát
vào tai của Trần Thiên Di nói: <anh Thiên Di, bây giờ tôi cần phải
có một bản thiết kế vũ khí mới nhất, photocopy một bản cho tôi,
phải nhanh, tốt nhất là ngày mai cho tôi>
< anh lấy thứ này để làm gì? Không lẽ anh là….> trống ngực của
Trần Thiên Di đập không ngừng, anh ta quá bất ngờ, ông hy vọng
là Trần Khởi Văn không phải vậy, mà anh ấy cần bản thiết kế vũ
khí mới nhất để làm gì vậy. Việc không nghĩ đến, cuối cùng cũng
xảy ra, nó khiến cho Trần Thiên Di đảm nhận không nổi.
< đúng vậy, tôi là> Trần Khởi Văn gật gật đầu :< sự thật là bà xã
còn ở đại lục chưa ra, muốn ra cũng không ra được, bị bắt lại làm
con tin, con tôi cũng là con tin, tôi là bất đắc dĩ, nếu như tôi không
được tình báo, thì vợ và con sẽ mất mạng, bây giờ tôi chỉ có phải
cầu xin anh> sắc mặt của Trần Khởi Văn tối sầm lại.
96
< Ôi! Là như thế…..> Trần Thiên Di hỏi:< tiền mà ăn tiêu xài>
< là do tranh thủ hoạt động>
< sự việc xảy ra của tai nạn xe>
< cũng là do sắp xếp xong, như thế sẽ không có sai sót>
< Trác, Trác đại ca, tại sao anh tìm đến tôi> Trần Thiên Di kinh
hoàng hỏi.
< anh ở cục xx, chính là mục tiêu của tôi, mà quan hệ của chúng ta
không như nhau, anh sẽ không bán đứng tôi! Tin rằng anh sẽ
không là đúng, bởi vì tôi là ân nhân cứu mạng của gia đình anh!
Nếu như chúng ta hợp tác, nó tốt vô cùng>
< nếu như không>
< đương nhiên rồi! Tôi sẽ phải có lỗi với bà chị và Tiểu Trí Bình
Bình rồi> Trần Khởi Văn lộ ra bộ mặt có nanh vuốt, khẩu khí của
hắn khiến cho tâm địa thiện lương của Trần Khởi Văn cảm thấy ớn
lạnh.
< đây là uy hiếp>
< không phải, đây chỉ là một thủ đoạn cần có>
< thủ đoạn này quá tàn bạo> Trần Thiên Di nói
Trần Thiên Di nghĩ: ở trên thế giới này, bóng tối và quang minh
đều là đối lập nhau, chánh nghĩa và tà ác đều đối lập, thiện và ác,
quang minh và âm u. Cuộc sống đích thật là chiến đấu, nếu như đi
sai một bước, không những tiền đồ của một con người đã chấm hết,
mà sẽ còn dẫn đến tổn thất hoặc là mất nước, bây giờ phải bảo vệ
nhà của mình, hay là quốc gia của mình đây! Ở trên hai con đường
này, ông cần phải có một lựa chọn lý trí.
< sao rồi hợp tác vậy!> Trần Khởi Văn mỉm cười thâm độc
<được> Trần Thiên Di nói:< ngày mai giờ này, anh đến lấy vậy !>
Ngày hôm sau, Trần Khởi Văn bị đơn vị trị an bắt tại quán cà
phê, và càng bởi do lời khai của Trần Khởi Văn, đã phá được một
tổ chức phỉ điệp. Sự thông minh và đại nghĩa của Trần Thiên Di,
được cấp trên biểu dương, thưởng cho 400 ngàn đồng.
Trần Thiên Di hiểu rõ: Dưới sự an toàn của quốc gia, mọi người
chúng ta phải bảo mật phòng điệp.
97
029 Tội ác của rượu
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Có một người, mỗi lần uống rượu là loạn, mà tửu lượng cũng
không nhiều, chỉ 2 ly thôi, thì miệng đã nói lung tung, tôi đã từng
khuyên răn, nhưng không có cách nào mà dứt bỏ, sau cùng cũng
bởi do những lời nói say xỉn, tan cuộc với sự không vui vẻ.
Tội ác của rượu sâu bao nhiêu, tôi không muốn nói nhiều, chúng
ta hãy xem kinh Phật vậy! Nếu như có người cứ say rượu mãi, thì
hãy cho họ đọc đoạn văn này, thì sẽ biết được tội ác của rượu, đáng
sợ làm sao.
Kinh Trường A Hàm có nói: <người uống rượu, sẽ mất đi 6 thứ,
một là mất tài, hai là sinh bệnh, ba là đấu tranh, bốn là ác danh lưu
bố, năm là sinh nộ bạo sanh, sáu là trí tuệ ngày một giảm>
Kinh Sa Di Giới nói: < không được uống rượu, không được thích
rượu, không được nếm rượu>.
Kinh Xá Lợi Phất hỏi Phật: < Phật nói, rượu mất nhiều ra sao, mở
cửa phóng dật, phạm tội ký nợ. Nếu dùng tiêu hối “ lão”, phi tiên
sỡ đoạn>
Kinh Niết Bàn: < rượu, là gốc của bất thiện và chư ác, nếu như
trừ đoạn, thì ắt sẽ xa tội ác>.
Kinh Phạm Võng nói: <nếu như tay cầm vật đựng rượu đưa cho
người khác, và khiến cho họ uống rượu, 500 kiếp sẽ không có tay,
huống hồ chi tự uống! Không được dạy tất cả mọi người uống, và
tất cả chúng sanh uống, huống chi tự mình uống?>
Thành Luận kinh: < uống rượu, là não chúng sanh, nên là nhân
tạo tội. Nếu như người uống rượu, thì ắt sẽ không mở cửa thiện.
Có thể hại các pháp thiện, như trồng chúng quả, không tạo nghiệp
chướng>
Theo tôi được biết, năm xưa khi Phật Thích Ca còn tại thế, cho
rằng khi con người say rượu, thì nhất định sanh ra 36 loại lỗi, bây
giờ xin ghi lại như sau, mong rằng những ai say rượu, người thích
uống, không uống nữa, biết được tội ác sâu nặng, người uống
nhiều sẽ uống ít lại, người uống ít sẽ bỏ hẳn, người không thể uống
vốn là có thể đoạn trừ, để thiên hạ đoạn bỏ.
98
Thứ nhất, nếu con người uống rượu, con không kính cha, thần
không kính quân, học trò không kính thầy giáo, quân thần phụ tử
học trò thầy giáo, không có phân biệt trên dưới.
Thứ hai, lời nói ra lung tung bậy bạ, không nói cũng nói, trắng
đen điên đảo.
Thứ ba, người say hai lưỡi nói nhiều, thích nói lời thị phi nhất,
tạo khẩu nghiệp, lưỡi kiếm sát thương.
Thứ tư, người say dễ dàng nói ra những chuyện riêng tư của
người khác, mất đi chánh niệm.
Thứ năm, người say mắng chửi trời mắng chửi đất mắng gió
mắng mưa, không có gì là không mắng chửi.
Thứ sáu, người say nằm ở bên vệ đường, không tìm được đường
về nhà, quên mất việc chánh của mình.
Thứ bảy, người say đứng không vững, mất đi chánh niệm, sanh ra
ác đảm.
Thứ tám, người say nhất định sẽ rơi vào hố hoặc là cống, sẽ thiệt
mạng.
Thứ chín, người say nhất định tổn thương thân thể.
Thứ mười, người say nếu như buôn bán kinh doanh, nhất định sẽ
có lỗi sai.
Thứ mười một, người say ắt thất sự, sẽ hại đến người khác.
Thứ mười hai, người say nhất định sẽ hao giảm tài vật, điển
đương tất cả.
Thứ mười ba, người say nhất định sẽ không nhận rõ vợ con, đánh
mắng họ.
Thứ mười bốn, người say nhất định sẽ tranh cãi với vợ con, huỷ
vật làm bị thương người khác.
Thứ mười năm, người say sẽ đánh nhau với bạn bè, không sợ
vương pháp.
Thứ mười sáu, người say sẽ vào nhà bậy của người khác, dẫn vợ
người khác, nói năng tầm bậy, tội ác vô trạng.
Thứ mười bảy, người say cũng muốn đánh những người đi đường.
Thứ mười tám, la hét om sòm, múa tay múa chân, quấy nhiễu an
ninh của người khác.
Thứ mười chín, khi say sẽ giết bậy các côn trùng.
99
Thứ hai mươi, người say ắt tổn vật, đánh vỡ tất cả vật quý giá.
Thứ hai mươi mốt, người say sẽ không có cách khống chế đại tiểu
tiện
Thứ hai mươi hai, những người qua lại với kẻ say, nhất định là
cùng hôi thúi như nhau, nhất định là người ác.
Thứ hai mươi ba, người hiền thiện xa cách.
Thứ hai mươi bốn, khi say nếu ngủ, thì thân thể ắt bệnh
Thứ hai mươi năm, người say nôn ói những vật dơ, lộ ra hình
trạng xấu ác, vợ con chán ghét.
Thứ hai mươi sáu, người say đi lang thang khắp nơi.
Thứ hai mươi bảy, người say không tránh hung hiểm, nhất định
chết, không kính đạo sĩ, không kính sa môn.
Thứ hai mươi tám, say sẽ dâm cơ, không kỵ gì cả.
Thứ hai mươi chín, người say như kẻ cuồng, ai nhìn thấy cũng
tránh xa.
Thứ ba mươi, người say như kẻ chết, không có trí thức.
Thứ ba mươi mốt, người say sẽ có bệnh về da, tổn thương gan,
hoặc là bệnh hoàng nhiệt.
Thứ ba mươi hai, thiên long quỉ thần, đều cho rượu là tội ác thứ
nhất.
Thứ ba mươi ba, bà con bạn bè đều tránh xa.
Thứ ba mươi bốn, say bèn tự cho mình là vua, vu người thiên hạ.
Thứ ba mươi năm, sau khi mạng chung, sẽ vào địa ngục Thái Sơn,
thường bị tiêu đồng vào miệng, lửa đốt bụng, cầu sống cũng không
được, cầu chết cũng không xong, qua ngàn vạn năm.
Thứ ba mươi sáu, từ trong địa ngục, sinh lại làm người, thường
ngu si, không có trí thức, ngày nay thấy những người ngu si, những
người không có trí thức, là do túc mạng lúc xưa, do thích uống
rượu mà gây tạo nên. Phân biệt như vậy, rượu thật sự phải cẩn thận!
Phật Thích Ca Mâu Ni nói tội ác của rượu có 36 điều, và rượu
thật sự không có lợi ích gì nhiều, hôm nay không bỏ rượu, thì phải
đợi đến bao giờ, không lẽ phải chờ đến khi toàn thân đầy tội mới
bỏ rượu sao? Tôi thấy dáng vẻ của nhiều kẻ say rượu, không có ai
100
đẹp cả, và kết quả của say rượu, chẳng qua chỉ là khiến cho người
ta ghét bỏ mà thôi, và khiến cho người ta có ấn tượng không tốt.
030 Lời nói (Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Nụ cười
Lúc trước tôi thường hay cười, đó là nụ cười rất là tự nhiên,
đương nhiên, có một vài nụ cười là để che giấu những bất an và
khó xử trong nội tâm. Nhưng cười vẫn là rất tốt, giữa con người
với nhau, cười giống như một đoá hoa tươi rói, rất dễ gần gũi với
người ta, có lúc, cười là mùa xuân trong mùa đông, hoá mở khuôn
mặt lạnh lùng, hoá mở thành dòng nước chảy lừ đừ, khiến toàn mặt
đất tràn đầy ý xuân.
Một người có tâm trạng vui vẻ, luôn luôn không che đậy được
nội tâm, lộ ra ý ấm áp trên khuôn mặt, cũng có thể cảm nhiễm làm
cho người khác vui. Có lúc, tôi thường hay nghĩ, tại sao lại có
người cười không ra, có người cười khổ, trong nội tâm của họ có
phải thật sự có sự đau khổ cao như núi không? Dài như dòng nước
không? Họ có thể tạm thời quên nó không?
Khi tôi gặp khó khăn lớn nhất, tôi mới phát hiện, thì ra ở nhân
gian chính là đang tồn tại một vài tiểu nhân rất lạnh nhạt vô tình,
họ luôn luôn là hung thủ giết chết những người thiện lương mỉm
cười, thì ra nhân gian có phiền não, chính là những người vi phạm
nguyên tắc mỉm cười, hạ độc thủ rồi. Khiến cho nhân gian vốn là
vui vẻ, trở thành địa ngục đau khổ.
Cười có phải là suối nguồn của hạnh phúc không? Không phải là
tượng trưng của an lạc sao? Không phải là cây cầu nối tình cảm
giữa người và người sao? Tại sao lại thêm vào người ở thế gian sự
vô tình vô nghĩa, đố kỵ và nghiêm thuấn như vậy. Mong rằng tâm
của mọi người bình lặng, mọi người có tâm đại hoá hoà bình, mọi
người có thể triển lộ ý xuân trong lòng, đại thiện như vậy.
Có người hỏi tôi: < lão Lư, tại sao anh không cười>
Tôi khổ sở nói:< tôi cười không nổi>
101
< tại sao?>
< tại vì có người dùng tay rất mạnh bóp cổ của tôi>
Buông tay ra được không? Khi tôi được cảnh giới trí tuệ càng cao,
sẽ chia một ít cho anh, bởi vì tôi tuyệt đối không giấu riêng một
mình, tôi không phải là một người ích kỷ, tôi sẽ đem nụ cười chia
khắp cho toàn thế giới.
031 Tiếng khóc
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Khóc là một thứ biểu lộ của tình cảm, khi trời khóc, thì trời sẽ
không phân biệt ngày và đêm mà cứ mưa một trận thật to, nếu như
khi đất khóc, thì cũng miễn cưỡng chen ra mấy giọt sương châu.
Chỉ có người khóc, lúc ngưng lúc liên tục, khi đứt ruột, khi đau
thương tột cùng trái lại là không có tiếng. Khi con người ở vào
trạng thái vô nại, ký thác duy nhất, khóc vậy! Để nước mắt như
dòng sông cuồn cuộn chảy, khiến cho con đê ở trong lòng đổ sụp,
để cho tình cảm như núi hồng, không giấu giếm nữa, có lẽ như vậy,
sẽ sảng khoái hơn.
Trời có mưa nắng, và trong lòng của con người cũng có nắng
mưa, khi trời trong sáng, nhìn lên bầu trời xanh, triển lộ ra hùng
tâm quang sắc với mây trắng, chí đắc ý tràn đầy như con hạc đứng
giữa bầy gà, hướng nhìn về hy vọng vô biên, cũng giống như gió
xuân. Và khi mưa đến, với mảnh đất tấc vuông trong lòng, không
phải là bước đi gai góc khó khăn, không phải là dơ bẩn lộn xộn
không thể quét dọn, hoặc là từng đám ruồi muỗi, xâm phạm thục
mạng, mà buồn bã trong lòng không thể nào tăng thêm.
Và chỗ không giống nhau chính là, khóc và cười đều là một biểu
trưng của tình cảm, có lẽ là hai mặt, có lẽ chỉ là một mặt, bởi vì khi
tình cảm chập lại vào nhau, một lát thì cười, một lát thì không,
khóc và cười lẫn lộn vào nhau, không phân biệt rõ là khóc, hay là
cười, đây là một thế giời đầy kích thích, luôn luôn khiến cho người
ta khóc cười không được.
102
Thì ra tôi là một người thích khóc thích chảy nước mắt, bởi vì
tình cảm của tôi phong phú, khóc và cười đều là một thứ tình cảm
trút ra, biểu hiện hướng chảy của nội tâm.
Ở viện lập pháp tôi khóc qua.
Cũng khóc ở trước mặt những người sỉ nhục tôi.
Càng ở trong bóng tối của ban đêm ướt cả gối
Còn có sự sinh ra của tôi.
Phải khóc đến bao giờ đây? Tôi sẽ ngẩng đầu lên hư không để hỏi,
câu trả lời chỉ là không âm thanh, có lẽ sẽ khóc một suốt một đời
như vậy – không cần phải ngừng khóc, có ích với người thế gian,
cần gì phải miễn cưỡng nước mắt ngưng chảy xuống! Sẽ có một
ngày, không ngưng sẽ tự ngưng, và cái ngày ngưng đó, nhất định là
tử vong.
Tôi cảm thấy, con người của tôi thật hay, tôi biết khóc, cũng biết
cười, càng có tình cảm phong phú, và cứ như thế tôi không ngừng
chảy lộ ra lộ ra.
Không giống như người khác, không biết khóc, cũng không biết
cười, đây mới chính là đời người bi thảm.
103
032 Thăm dò của siêu tâm lý học
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Dự ngôn của linh thị
Nghiên cứu linh học về thế giới tứ thứ, các nhà linh học nước
ngoài thể hội ra, bản thân của linh hồn là có đầy đủ lực nhìn thông
thấu đặc thù, và họ cho rằng đây chính là < thuật đọc tâm>. Theo
tôi hiểu rõ sâu xa rằng, thuật đọc tâm cũng giống như là < tha tâm
thông> một trong sáu loại thần thông của nhà Phật.
Cái gì là < tha tâm thông> ? Nói đơn giản, chính là tham trắc tâm
ý của người khác, biết được ý thức của người khác đang nghĩ cái gì.
Và tâm linh cao đẳng hơn, thì có thể vào trong vòng ý thức của
người khác, vào trong tâm của người khác, hình thành < nhập tha
thân (nhập thân người khác)> đặc thù, và người bị < nhập tha
thân>, thì sẽ được linh thị.
Đại phàm một người học qua tinh thần thống nhất, đều sanh ra
một loại hiện tượng tâm linh quảng sung rất khó dùng lời để nói,
cũng giống như thế giới vật chất hoàn toàn hoá thành ô hữu, bao
gồm chính thân mình thành hư không, ý thức lớn vô hạn. Lúc này,
luôn luôn có được linh thị, nếu như nói hơi khoa học, thì đó chính
là đặc thù khởi thị và cảm giác của tinh thần tập trung.
Ở nước ngoài người chiêm bốc xem thuỷ tinh cầu, đó là ứng dụng
chú ý nhìn vào thuỷ tinh cầu, thuỷ tinh cầu thành công cụ và nơi
tập trung của tinh thần thống nhất, đợi đến sau khi tinh thần tập
trung, thì sẽ bắt đầu sinh ra chủng chủng ảo giác, họ bèn dùng loại
ảo giác của linh thị này, để đoán quỹ tích của vận mạng. Ví dụ như
có một phụ nữ xem thuỷ tinh cầu dự đoán cáo rằng tổng thống Tây
Địch sẽ bị giết, là do bà ta nhìn thấy ở trên nóc nhà trắng của nước
Mỹ, có một đám mây đen bao trùm.
Lời dự đoán của linh thị hoàn toàn chính xác và không có sai lầm
không? Theo tôi được biết, không phải đều như vậy, có lúc, cũng
có tính toán sai, cũng có lúc, do lực của linh thị không đủ, hiện ra
mơ hồ, và dẫn đến dự đoán sai lầm, đây cũng là hiện tượng thường
có. Bởi do tôi đã trải qua rất nhiều linh thị, biết được linh năng từ
tứ thứ nguyên trở lên, đa phần đều có bản lĩnh < đọc tâm, tha tâm
104
thông>, cho nên linh năng biết được người khác đang nghĩ cái gì.
Có một số linh năng sẽ có dự đoán như theo nước mà đẩy thuyền,
như thế, lời dự đoán của linh thị chẳng qua chỉ là đoán mà thôi,
tính chính xác của nó cũng đáng nghi ngờ, thậm chí rơi vào sai lầm
hoàn toàn.
Ví dụ như < lời dự đoán của linh thị >, có lời dự đoán của linh
hồn < tha tâm thông > đều sẽ sai lầm, vậy thì một số thầy bói
tướng chiêm bốc, thì sẽ càng xếp hàng dưới rồi. Theo thiền định
thể hội được của tôi, linh cao cấp < Phật linh>, đa phần họ đều
không đồng ý có lời dự đoán, chỉ có linh hơi cấp thấp, thì mới nói
năng lung tung khoác lác, cho nên tính chính xác của nó chỉ có 6
phần, đã là khá lắm rồi.
Bài văn ngắn này, vẫn là muốn mọi người không mê hoặc lời dự
đoán của linh thị, đó không phải là chính xác 100%, đối với lời dự
đoán linh thị chúng ta có thể lấy nó để mà tham khảo, dùng ánh
mắt của khoa học đi phân tích và nghiên cứu phán đoán. Đương
nhiên rồi tôi càng thăm thảo sâu, càng phát hiện ra rằng linh giới
mênh mông vô biên, linh thể từ tứ thứ nguyên trở lên, đều có < tha
tâm thông>. Tính ra, loài người của chúng ta, thật sự không đủ tư
cách để gọi là< linh của vạn vật>
105
033 Giải thích < thuật đọc tâm>
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Đọc giả gửi thư đến, hy vọng có thể hiểu nhiều hơn về < thuật
đọc tâm>, nên vì vậy tôi giải thích một lần nữa. Các linh ở linh
giới, đa phần hiểu rõ tâm ý của con người, họ đều biết rằng trong
lòng của con người đang nghĩ cái gì. Đối với < thuật đọc tâm > loài
người chúng ta chỉ có thể đoán từ hành vi và lời nói của mỗi con
người. Và các linh ở linh giới thì không cần, họ có thể trực tiếp
nhìn thấy được trong tâm của con người.
Loại giáng linh < phù bói>, nhất định phải cẩn thận, bởi vì linh
hồn sẽ thuận theo tâm ý của bạn mà ban cho < linh hồn >. Như thế,
linh thị giáng xuống nhất định có vấn đề, bởi vì < linh lực > chỉ là
dựa vào lực nhìn thấu của < thuật đọc tâm >, nói năng lung tung và
thuận theo cách nghĩ của con người, và cho đáp án không chính
xác.
Rất hiển nhiên, đây chính là < lừa gạt của linh hồn>, một số
người không có năng lực phân biệt mà đi theo cầu sự lừa gạt, và
một số linh hồn giả danh Phật tiên cũng phù hợp với loại lừa gạt
này, họ không có cách dự đoán việc của tương lai sẽ xảy ra như thế
nào, chỉ là thuận theo trong lòng của con người nghĩ cái gì, viết ra
lời dự đoán sai lầm. Bởi do tâm nhãn của tôi đã mở, vì thế tôi đặc
biết hiểu rõ về việc của linh giới, tôi nhìn ra, những linh hồn tự
xưng là tiên Phật, có khi chỉ là một con ma rượu dơ bẩn.
Linh hồn là có, nhưng không phải toàn năng, chúng ta phải nhận
rõ rằng năng lực của linh hồn không phải toàn năng, mới không đi
mê tín nó, bởi vì có một số linh hồn cấp thấp, chúng nó ngoại trừ
có < thuật đọc tâm > ra, những cái khác hoàn toàn không có, và
linh thị của chúng, chỉ có thể nói đúng với quá khứ và hiện tại, đối
với tương lai, thậm chí cả chính vận mạng của nó cũng không biết,
vậy thì không cần phải nói đến người khác.
Trong thể nghiệm của tôi, dùng ngộ cảnh của Phật, cũng được coi
như là một vòng linh vô thượng cực cao, và linh trong vòng linh
này, không cần phải chuyển sanh trong thế giới hiện thực nữa,
cũng chính là không cần phải nói nữa. Đó chính là linh giới vô
106
thượng cực cao, tuỳ tâm tuỳ thức mà hoá, duy tâm duy thức mà
sanh, rất hiển nhiên, vòng linh này cách rất xa rất xa thế giới hiện
thực. Tuy rằng cự ly rất xa, nhưng khi < tâm niệm> vừa đến, đây
cũng chính là diệu dụng của nhà Phật < thần túc thông >.
Từ < thuật đọc tâm > nói đến < thần túc thông >, từ cự ly sẽ càng
kéo càng xa, càng nói càng huyền diệu, nhưng, linh giới mênh
mông, không phải chỉ có như vậy, trong đó tầng tầng tiết chế, có
rất nhiều sự tích bất khả tư nghì.
Nói tóm lại, sau khi nghiên cứu thật tướng của linh hồn, mới có
thể hiểu được chân đế của linh lực, sau khi chân đế được vén mở ra,
mới có thể phá trừ <mê tín>. Cho nên < thuật đọc tâm > của linh
hồn, chỉ có thể được coi như là linh hồn cấp thấp lừa gạt người
khác, chỉ là sử dụng một loại năng lực nhìn thấu mà thôi.
107
034 Ấn chứng của kinh Kim Cang.
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Ông Triệu Cơ là một trong những người ở trong hội lãnh đạo của
Hội Nghiên Cứu Siêu Tâm Lý Học Trung Hoa Dân Quốc. Biệt
hiệu là Sở Thạch, năm nay 57 tuổi. Vợ chồng Triệu Cơ, kiền thành
tin Phật, quy y với Lạc Quả pháp sư ở Phật Quang Tự tại Bồ Lý.
Đứa con trai thứ của Triệu Cơ là Triệu Cày Dã, tuổi con ngựa,
trong tên của nó có chữ < Dã>, người cũng giống như ngựa, không
những cá tính quật cường, đồng thời cũng là một con ngựa khó
huấn luyện. Khoảng chừng mấy năm trước, do một nhân duyên vô
tình, nó bỏ nhà ra đi. Vợ chồng Triệu Cơ thương con đau lòng,
ngày đêm cúng đèn ở trước Phật, niệm kinh Kim Cang, mong mỏi
con trai mau chóng bình an quay trở về nhà.
Triệu Cày Dã vô tình lưu lạc ở đầu đường xó chợ Chương Hoá,
nhìn thấy một ngôi miếu tự, bèn bước vào bên trong, lúc này cũng
vừa đúng lúc có một tăng nhân mặc áo cà sa đang cúng vái, nhìn
thấy Triệu Cày Dã đến gần, bèn mở miệng kêu nó: < con ơi, qua
đây lạy Phật>, Triệu Cày Dã thân không làm chủ mà chấp tay lạy
Phật. Lạy Phật xong, ngồi xuống ở một bên, hoà thượng muốn xem
chỉ tay của Triệu Cày Dã, Triệu Cày Dã không ngần ngại mà đưa
tay ra.
< tên tiểu tử này, con bỏ nhà ra đi lưu lạc ở bên ngoài> hoà
thượng nói.
< làm sao thầy biết? > Triệu Cày Dã kỳ lạ.
< con để cho cha mẹ lo lắng, chính là bất hiếu. Mau về đi, thầy ở
đây có một quyển kinh Kim Cang, con hãy đem về đi! Con đem về
thì sẽ biết> Hoà thượng lại nói:< sau khi về nhà hãy học hành cho
tốt, hãy làm việc lớn cho đất nước>.
Triệu Cày Dã từ chùa đi ra khỏi nhà, cảnh nhiên nghe theo lời
khuyên của tăng nhân, đón xe lửa (tàu hoả) về nhà, len lén vào nhà,
vào đến phòng khách, lúc này, chỉ nhìn thấy vợ chồng Triệu Cơ
quỳ ở trước Phật tụng kinh Kim Cang. Và trên tay của Triệu Cày
Dã đang cầm quyển kinh Kim Cang, đây không phải là ấn chứng
108
của kinh Kim Cang sao? Trong vô hình, hoà thượng hình như
chính là ấn chứng của kinh Kim Cang.
Sau sự việc này, vợ chồng Triệu Cơ biết được con trai của mình
được một vị hoà thượng chỉ điểm về nhà, mua rất nhiều quà chay,
dẫn theo Triệu Cày Dã, cùng nhau đến Chương Hoá cảm ơn vị hoà
thượng. Thì ra chùa này chính là ngôi chùa Khai Hoá ở bên góc
tam giác của công viên (người Chương Hoá gọi đó là đình Quán
Âm), cung phụng Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nhưng, bên trong và bên ngoài chùa, vốn không có người xuất
gia, hỏi người quản lý trong chùa, người quản lý nói: < tự miếu
này vốn không có người xuất gia, chỉ có người bán nhang, không
có người xuất gia>.
Sau việc này ông Triệu Cơ nói với tôi, vị hoà thượng đó là La
Hán hoá thân? Hay là hoà thượng du phương? Không thể biết được,
chỉ có thể nhìn trời mà đáp tạ.
109
035 Thấy và nghe được ở pháp hội thuỷ lục
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Ngày 5 tháng 4 là ngày kỷ niệm 2 năm ngày mất của tổng thống
Tưởng, cũng là ngày lễ thanh minh. 9 giờ sáng, trước tiên tôi đến
Báo Ân đường của Từ Minh tự ở Đài Trung để cúng lạy ông bà nội,
niệm chú vãng sanh, đốt giấy tiền vàng bạc. 10 giờ tôi đến Nhị
Phần Bồ của Từ Thiện tự ở Đài Trung, tại Từ Thiện tự có pháp hội
Thuỷ Lục, tổng cộng 10 ngày, có 6 đàn lớn, mấy trăm vị pháp sư,
do pháp sư Ngộ Minh làm thượng toạ.
Vừa đến Từ Thiện tự, vị trụ trì của Từ Thiện tự nhìn thấy tôi,
nhanh chóng chạy đến: < ôi chao! Buổi tối ngày 4 tháng 4, chúng
tôi làm Diên Già Diêm Khẩu (chẩn tế), tại sao anh không đến?
buổi tối hôm qua anh đến là tốt rồi?>
< có chuyện gì?>
Trụ trì chùa Từ Thiện pháp sư Chấn Quang nói: < buổi lễ tối
ngày 4 tháng 4 thật sự vừa trang nghiêm vừa náo nhiệt, trang
nghiêm là chỉ về mặt siêu độ vong linh, và náo nhiệt là chỉ người
đông đúc. Khi pháp sư thăng toà, lập tức triệu dẫn linh hồn người
mất vào đàn, lúc này tất cả các ngọn đèn đang sáng, đột nhiên ánh
sáng bòng đèn yếu đi, bóng đèn không có tắt, nhưng lại trở nên tối
và không có sáng, lúc này hình như tất ca linh hồn đều vào đàn,
thành khí tượng âm gian tối tăm>
< đây thật sự là một chuyện lạ>
Chấn Quang pháp sư lại nói: <trùng khớp với bóng đèn nửa sáng
nửa tối, có lẽ là do đột nhiên dòng điện bị yếu, nhưng lại có chuyện
lạ xảy ra. Có người thân của mấy vong linh, ở trong đàn đốt nhang,
đột nhiên lăn ra đất, trên mặt hiện vẻ kinh sợ, người ở kế bên hỏi
cô ta, cô làm sao rồi? Cô ta trả lời rằng, là chồng của tôi đến,
chồng của tôi ở bên ngoài đàn, kêu tên nhỏ của cô ta. Cô ta nói, tên
nhỏ của cô ta chỉ có chồng cô ta biết, người khác không ai biết cả >
Chấn Quang pháp sư nói: <Lư tiên sinh, đây là chuyện lạ thứ hai>.
< pháp sư công đức vô lượng, pháp hội thuỷ lục, phổ cập linh
thức lục đạo thuỷ lục, có thể do Phật pháp khai triển, nhưng cần
110
phải có tín tâm, Phật pháp có thể nhiếp tề quần linh, phản chiếu
giác mê, đều vào Phật tánh> tôi nói.
Chấn Quang pháp sư mời tôi vào trong đường, chiêu đãi tôi ăn
đậu phộng (lạc) và cam, chúng tôi nói chuyện rất vui vẻ. Tôi rất
cảm kích và cung kính Chấn Quang pháp sư, bởi vì thầy luôn dẫn
dắt tôi, chỉ dẫn tôi cùng chúng kết duyên, tự tha lưỡng lợi, cùng
thành Phật đạo>.
Ngày 5 tháng 4 là ngày sau cùng của pháp hội Thuỷ Lục, nhân
đây tôi chúc phúc:
< linh được yên ổn, người sống thì phúc tuệ tăng>
Thật sự là công đức vô lượng.
111
036 Bi kịch của tâm linh nghèo nàn (Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Nghiên cứu linh học cho đến nay, phát hiện ra một vấn đề lớn,
những người thời nay, tinh thần rất yếu đuối, về mặt tâm linh của
trí thức thì nghèo nàn, càng bởi do xã hội cộng nghiệp phát triển
nhanh, tình thân của loài người càng mỏng nhạt, và khiến cho tinh
thần lạ thường, càng ngày càng nhiều. (du học sinh ở nước ngoài,
bị tinh thần dị thường, tức là hiện tượng nghèo nàn tâm linh).
Bói đồng, tôi gọi là < kẻ bị tâm thần phân liệt tạm thời>, những
người này đa phần tâm trí không khoẻ mạnh, khi tín ngưỡng chân
chánh chưa xây dựng, trí thức chưa đến cao cấp, trong tình tứ tâm
linh bất ổn sanh ra < sai loạn của tín ngưỡng >, nói một cái đúng
đắn, bói đồng cũng là sản vật của tâm linh nghèo nàn, và tin vào
bói đồng ( kẻ quấy nhiễu linh năng cấp thấp ), tâm linh của những
tín đồ này có thể càng nghèo nàn hơn.
Tôi xác nhận, người hiện đại bị bệnh chứng bệnh về < thần kinh
sai loạn >, có liên quan rất lớn đến tâm linh nghèo nàn. Tâm linh
yếu đuối, vô tình gặp lúc thất tình, thì sẽ bị kích thích đến thần hồn
điên đảo mà thất thường. Mỗi kỳ thi đại học, những người thất bại
trong kỳ thi này, bị xung kích màu xám trống rỗng, lại có bao
nhiêu người thần kinh thất thường. Du học ở nước ngoài, thiếu
thốn tình thân, nếu như tâm linh buồn khổ, bạn có biết có bao
nhiêu người, lưu lạc ở xứ lạ, tinh thần có thất thường không?
Xã hội công nghiệp, tâm linh yếu đuối và nghèo nàn là một sự
thật rất nghiêm trọng: và tín ngưỡng tôn giáo là một thứ lực lượng.
Nhưng mà tín ngưỡng tôn giáo vẫn là một việc tu dưỡng tâm linh
cao thượng, nếu như tín ngưỡng sai lệch. Thậm chí xuất hiện sai
lầm, người tâm linh yếu đuối cũng bởi do toàn tâm phụng hiến, mà
sản sinh ra hiện tượng không có cách ngăn chặn < tha linh thâm
nhập ( linh khác thâm nhập ), thậm chí tinh thần thất thường.
Tôi tận mắt nhìn thấy một người Cơ Đốc giáo đồ, bởi do cầu
nguyện nhiệt thiết, mỗi lần cầu nguyện phải trên 3 giờ đồng hồ, bà
ta ở giáo hội vừa khóc vừa kêu. Thần kinh thất thường. Tôi cũng
tận mắt nhìn thấy một Phật giáo đồ, niệm Phật không ngừng không
112
nghĩ, hai mắt thất thần, không thể ngủ được, dẫn đến thần kinh thất
thường. Còn có trong sách < Thế giới của linh > của tôi, có viết về
bà Triệu Tu Minh ở Canada theo ông Giang Bá Lương học sức
khoẻ tịnh toạ, và thần kinh cũng thất thường. Những sự thật này
nói với chúng ta, nếu như tín ngưỡng sai lầm, cũng sẽ dẫn đến
chứng < thần kinh thất thường >, thật sự nguy hiểm làm sao.
Theo nghiên cứu của tôi được biết, chứng tinh thần bế tắc, chứng
vọng tưởng, chứng mộng du, chứng ảo giác, chứng suy nhược,
chứng hưng phấn,…, nguyên nhân chủ yếu vẫn là do nhân tố tâm
linh nghèo nàn và yếu đuối của mỗi con người, cộng thêm hoàn
cảnh bên ngoài xung kích mà bùng nổ ra. Đề phòng tự chủ của tâm
linh sụp đổ, tự nhiên sanh ra sai loạn. Cho đến ảnh hưởng của hoàn
cảnh bên ngoài, như tình yêu, thi cử, học hành, tình thân, tín
ngưỡng, sự nghiệp…, những cái này đều là nguyên nhân thứ yếu.
Nhìn từ quan điểm của linh học, những người có tâm linh nghèo
nàn và yếu đuối, thì linh hồn sẽ không ổn định, tâm trí bất toàn,
không có cơ sở của < chánh tín >, cũng không có chống đỡ của <
chánh trí >, những loại người này nếu như mù quáng tín ngưỡng
tôn giáo, thí nhất định sẽ sanh ra ảo giác không ngừng nghĩ, những
linh hồn cấp thấp khác sẽ nhân cơ hội này mà vào, bởi do không có
cách tự chế và chế tâm, thì tự nhiên thân tâm hoàn toàn mất đi
trạng thái bình thường, và tín ngưỡng như vậy chính là một thứ bi
kịch.
Tôi cảm thấy, chỉ có đề xướng < chánh tín >, dùng trí tuệ tín
ngưỡng đi bù vào tâm linh nghèo nàn, như thế mới thật sự là < phá
trừ mê tín >, cũng chỉ có như thế, mới không thể xảy ra bi kịch tâm
linh nghèo nàn, như vậy, nâng cao giá trị của đời người, sinh mạng
và sinh tồn đều có giá trị.
113
037 Tịnh quán tự đắc
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Người bạn thân của tôi là Chu Tịnh Di sau khi đọc xong < bi
kịch của tâm linh nghèo nàn > do tôi viết, gọi điện thoại nói với tôi:
< bài viết đó tuy rằng rất ngắn, nhưng phân tích rất rõ, đúng vậy,
tâm linh nghèo nàn chính là tâm linh trống rỗng, và có rất nhiều
tâm lý biến thái, hoàn toàn là do đời người trống rỗng cảm diễn mà
biến thành>.
Bà Chu Tịnh Di là một bác sĩ, đã từng học tâm lý ở nước ngoài.
Bà nói, hiện nay có rất nhiều người trẻ tuổi hút thuốc ải giác, ăn
sing gum cường lực, chích thuốc, loại tâm lý này, hoàn toàn là một
thứ biến thái không có cách nào tự khống chế, lâu ngày, thần kinh
của não tê liệt, thần kinh cũng sẽ thất thường, và đổi lấy thần kinh
suy nhược hoặc thất thường, bác sĩ Chu nói: đây chính là tâm linh
nghèo nàn, và những người tâm linh nghèo nàn thích tìm những
thứ kích thích làm tê liệt chính mình.
Bác sĩ Chu phân tích: < một người hơi có lý trí, anh ta có một
năng lực, loại năng lực này trên tâm lý gọi là < năng lực tránh kích
thích >, cũng chính là tự chế và chế tâm, ở những người linh học
mà nói, chính là những người có linh tử thể ổn định> sau cùng bác
sĩ Chu nói với tôi, lý trí của tôi hơi cao, cho nên có thể tự quán tự
đắc, nếu như đổi một người khác, có lẽ sẽ không có cách tự tại như
vậy.
Đối với phân tích của bác sĩ Chu, tôi không dám nói bà nói đúng,
nhưng đối với sự khen ngợi của bà, tôi không dám nhận. Bởi vì
phạm vi của linh học thật sự là quá rộng, tôi không dám nói thể hội
của mình có bao nhiêu. Chỉ có một an ủi duy nhất, là đối với ảo
giác biến hình và kỳ dị tôi chưa từng mê hoặc, đối với tịnh toạ sản
sanh phù du, không kinh không sợ mà để theo tự nhiên, tôi có thể
nói là đã phá tất cả ảo giác, tự tâm có thể tự chế, như là bất vi sở
động, đây chính là 4 chữ < tịnh quán tự đắc > mà bác sĩ Chu cho
tôi đó!
Tôi hy vọng mọi người có thể đến cảnh giới này. Nhưng, tôi vẫn
phải muốn mọi người hãy cẩn thận, bởi vì nếu như một con người
114
không có trí thức về mặt này, tâm linh nghèo nàn đến nổi không có
chánh tín và trí tín để mà chống đỡ, tuỳ tuỳ tiện tiện học tịnh toạ,
thì khi ảo cảnh vừa hiện ra, cũng giống như vào trong hố sâu
không đáy, khi vừa có phù du, mê luyến không ngừng, thần hồn
điên đảo, thất thái như thế, thật là tội nghiệp. ( Đây cũng chính là
người không có < năng lực tránh kích thích > mà bác sĩ Chu đã
từng nói ), cho nên phải có tín ngưỡng lý trí trước, tiếp đó là học
tịnh toạ, mới là thượng sách.
Tịnh quán tự đắc trong tịnh toạ là một việc rất thoả thích, và sự
xuất du của linh hồn, nếu như ở trong cảnh giới của tịnh quán tự tại,
có thể khiến cho ý thức của chính mình, thăng lên thăng lên, thăng
lên cảnh giới của cảnh vô chỉ, vào trong một linh vòng, lúc này là
< tâm của thế giới >, niệm lực trở thành < thần túc thông >, muốn
đi đến đâu thì đến đó.
Điều tôi cảm thấy bi ai chính là, khi tôi viết như thế, có lẽ lại có
người nói, Lư Thắng Ngạn bắt đầu tạo hư huyễn rồi, ở thiên hạ làm
gì mà có việc này. Nên vì thế mà ngừng lại! Người hiện tại làm sao
mà hiểu được, làm sao mà hiểu được một con người ở trong trạng
thái tịnh quán tự đắc, có rất nhiều huyền lý đột nhiên khai ngộ đó.
Ở đây, tôi muốn chia ra tịnh quán tự đắc và thần hồn điên đảo,
tịnh quán tự đắc là tự tại của linh hồn. Thần hồn điên đảo là linh
hồn không tự tại. Giữa hai cái này, rất dễ bị người ta làm cho lẫn
lộn.
Rất hiển nhiên, có rất nhiều nhà tôn giáo và chuyên gia Phật học,
họ đã làm lẫn lộn giữa tịnh quán tự đắc và thần hồn điên đảo, vì thế
đối với phê bình của tôi cũng sai kém hào ly, mất đi ngàn dặm.
Nhưng mà tôi tha thứ cho họ, bởi vì có lẽ họ không hiểu nhiều về
cảnh giới của tôi, cái này không thể trách cứ.
115
038 Triệu thỉnh tổ tiên < nhập mộng >
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Đọc < kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện >, kiến văn lợi ích
phẩm thứ 12, trong đó có một đoạn nói như sau: < có người nam
hoặc nữ, nếu lúc còn bú, hoặc là dưới 3 tuổi dưới 10 tuổi, mất cha
mất mẹ và các anh chị em, người này sau khi lớn lên, nhớ về cha
mẹ và quyến thuộc, không biết giờ ở nơi nào, sanh ở thế giới nào,
sanh ở cõi trời nào, người này nếu có thể vẽ hoặc tạo tượng Bồ Tát,
và càng có thể trong ba bảy ngày, nhất tâm chiêm lễ hình tượng Bồ
Tát, niệm danh hiệu, đầy hàng vạn lần, thì sẽ được Bồ Tát hiện
thân, nói với người này, nơi cha mẹ mình thọ sanh, hoặc là trong
giấc mộng, Bồ Tát hiện đại thần lực, đích thân dẫn dắt người này,
đến các thế giới, thấy các quyến thuộc>.
Đoạn văn trên, chính là nói rõ rằng, một người nghĩ về người
thân đã mất, muốn biết được linh hồn, thần thức của đã đi về đâu,
và khi Phật Thích Ca ở cung trời Đao Lợi, vì Ma Da phu nhân mà
thuyết pháp, đã thấu lộ ra bí mật làm sao để triệu thỉnh tổ tiên nhập
mộng.
Trong kinh Phật hiển hiện rất rõ ràng: vẽ hình tượng Địa Tạng
Bồ Tát, nhất tâm chiêm lễ, trong ba bảy ngày, niệm vạn lần danh
hiệu Bồ tát, vì vậy ở trong mộng, Bồ Tát sẽ đích thân dẫn đến, chỉ
thị nơi của cha mẹ hoặc người thân.
Ngoài ra có một phương pháp hơi khoa học là như thế, lấy một
cái áo tổ tiên thường mặc, hoặc là đồ vật thường dùng, hoặc là vật
gần thân, ví như là dây chuyền hoặc khăn tay…. Dùng tay xúc
chạm, mó vào, lúc này miệng niệm tên của tổ tiên, ví dụ như tôi
muốn nằm mộng thấy ông nội của tôi, thì tôi sẽ niệm: < Lư Thắng
Ngạn gọi Lư Xương ( tên của ông nội ), Lư Thắng Ngạn gọi Lư
Xương lúc này bàn tay sờ vào áo, tay và miệng cùng một lúc, tinh
thần nhất chí, người nào có ấn tượng về tổ tiên, có thể nghĩ đến
nhất cử nhất động của tổ tiên.
Theo nghiên cứu của tôi được biết, tưởng niệm và kêu gọi lúc
này, cũng giống như phát điện vô tuyến vậy, sóng linh tưởng niệm
sẽ phóng ra ở không trung, người nào có sóng linh mạnh, thì tự
116
nhiên sẽ cảm ứng được linh hồn của tổ tiên, thế là linh hồn của tổ
tiên, bởi do tưởng niệm và kêu gọi của bạn, họ sẽ nghĩ hết cách,
vào trong giấc mơ của bạn, hoặc khởi thị hoặc hiện thân, bạn có
thể gặp mặt tổ tiên ở trong mộng.
Về mặt phóng ra sóng linh khi tưởng niệm, tôi phát giác không
phải ai ai cũng có thể làm như vậy, có một số người sóng linh
mạnh, có thể phóng ra rất xa và dài, linh hồn của tổ tiên và lực cảm
ứng của họ, thì tần suất tiếp xúc sẽ tăng lên rất nhiều. Nhưng có
một số người lực tinh thần bằng không, vốn không có sóng linh
tưởng niệm, nếu có thì cũng rất yếu, phóng ra ngoài, nửa đường thì
đã mất rồi. Như vậy, triệu thỉnh tổ tiên nhập mộng, là không có
cách nào làm được. ( người nào hưởng thụ vật chất nhiều, lực tinh
thần yếu nhất ).
Theo thí nghiệm của nhà linh học nước ngoài biết được, linh hồn
của bản năng cùng loại tương tụ, huyết thống cũng là một trong
những quan hệ cùng tần suất, và khi sóng linh nghĩ về < tổ tiên >
cũng chúng ta phóng vào trong không trung, nó sẽ có một cảm <
quen thuộc >. Từ đoạn này có thể chứng minh, trừ khi tu trì của tổ
tiên rất cao, linh hồn vào trong thế giới giai cấp tầng cao, nếu
không, linh hồn của tổ tiên, thì không cách xa chúng ta nhiều.
117
039 Sáu vị thông linh (Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Ở trên thế giới nơi nào cũng có người thông linh, nhưng trình độ
thông linh cao thấp khác nhau. Muốn phân biệt có phải là người
thông linh chí thiện chí chân không, hay là trăm phần trăm sai lầm,
cái này cần phải có sự nghiên cứu phán đoán mang tính khoa học
và học thuật, rất hiển nhiên, đây là một học vấn rất cao, mà lại là
một học thuật chuyên môn.
Trong bài viết linh học của tôi, thường hay nhắc đến Thanh Y
Phu Nhân, năm nay 50 tuổi, bà là một người từ bi. Thật ra bà chính
là người đầu tiên khởi thị tôi nghiên cứu cơ bản về linh học, nếu
như tôi không gặp bà, thì tôi sẽ không có ngày hôm nay. Và Thanh
Y Phu Nhân chính là một người thông linh, hiện nay bà đang ở
Liên Hoa Quốc Phu Lý, và có 6 vị thông linh, sáu vị thông linh này,
trình độ mỗi người không giống nhau, nhưng mà những gì họ nghe
và nhìn thấy được, vượt hơn tôi trăm lần.
Thầy của tôi Thanh Y Phu Nhân trình độ thông linh rất là cao,
vượt qua < thuật đọc tâm>, thông linh của bà không phải như một
số người bình thường nghĩ, mà là vượt ra ngoài la tập tự nhiên, tôi
nói bà là siêu nhân thì không có gì khoa trương lắm, bởi vì đích
thật tôi biết được bất phàm của bà ta.
Lúc đầu khi tôi viết sách, trên nguyên tắc là dựa vào lương tri
mà cầm bút, và không có được sự đồng ý của bà, sau khi viết thành
sách bà cũng không xem, tôi cảm thấy có lỗi và bất an, bởi vì tôi
viết, sẽ đem đến cho bà sự quấy nhiễu, có rất nhiều người quấy
nhiễu không tìm thấy tôi. Bèn đi tìm bà, khiến cho bà cảm thấy rất
phiền.
Hiện tượng này, tôi cũng biết, nói thật, nếu như tôi không đón cửa
miễn tiếp khách dọn nhà khắp nơi, nói không chừng đã bị quấy
nhiễu đến nửa sống nửa chết rồi, đây cũng chính là một trong
những nguyên nhân mà tôi phải trốn. Chuyển hướng tìm Thanh Y
Phu Nhân, nếu như đem theo tấm lòng cầu ích mà đi thỉnh giáo bà,
thái độ khiêm hoà, thì cái này rất đáng khen. Nhưng, những kẻ có
thái độ thăm dò và ác liệt, những kẻ thăm dò và cười nhạo, những
118
kẻ thăm dò gây náo loạn, tiễn hết một đám thì lại một đám đến nữa,
mãi mãi không ngừng, hãy thử nghĩ xem, ngày tháng này kêu
người ta làm sao mà sống? Nếu như không phải là thông linh siêu
tuyệt, tâm tánh từ bi, có tính nhẫn nại đặc hữu, sớm đã không sống
nổi nữa rồi.
Con người là động vật rất kỳ lạ, cũng là ích kỷ, con người cũng
chỉ nghĩ về chính mình, không bao giờ nghĩ đến người khác có
chịu đựng được hay không. Đồng thời, trong loài người cũng có
người lương thiện, cũng có người hoành hành bá đạo, thái độ của
người lương thiện là khiêm nhường, nhưng mà người bá đạo thì có
lời nói ác độc, chúng sanh chính là như vậy, làm người thật sự
không dễ.
Tôi vì hiện tượng như vậy, trong lòng cảm thấy rất buồn, nguyên
nhân chủ yếu nhất, chính là tội lỗi tôi viết sách: không những tôi
đeo mang hành lý rất nặng, mà ngay cả người thầy mà tôi kính
ngưỡng nhất cũng phải mang hành lý, đau khổ của tôi đã liên luỵ
đến ân sư, bảo tôi làm sao không đau lòng đây.
Nếu như có người đến Hoa Liên Quốc Phú Lý, tìm thầy của tôi
hỏi một vài vấn đề về linh học, tôi hy vọng thái độ phải khiêm
cung, mà cũng không nên hỏi quá nhiều, để tránh quấy nhiễu
người, không nên có tâm sỉ nhục, miệng nói lời ác. Tôi cũng hy
vọng những kẻ thăm dò không nên đi tìm bà, bạn không tin thì
không tin, tôi không có miễn cưỡng bạn. Ngoài ra, bạn cũng có thể
đi tìm những người thông linh khác, không nhất định phải tìm đến
thầy của tôi, những người thông linh khác, đều là sư dì và sư cô
của tôi.
Nếu như mọi người có thể giống như thiết nhân Á Châu Dương
Truyền Quảng tôn kính thầy của tôi, vậy thì tốt rồi, tôi nghĩ như
vậy.
119
040 Ảo giác và phù du
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Sau khi viết xong < tịnh quán tự đắc >, ý chưa được rõ ràng,
muốn giải thích về < ảo giác và phù du>. Một người trẻ tuổi hút và
dùng qua thuốc mê ảo viết thư nói với tôi, thuốc mê ảo sẽ có hiện
tượng ảo giác, đồng thời cũng sẽ phù du ( bay bổng ) nhẹ nhàng.
Tê liệt tạm thời, có thể phát huy cảm giác không ngừng không nghĩ,
nhìn bên ngoài, hình hài giống y như là một người điên.
Loại thuốc thuộc về chủng loại mê ảo, sẽ kích thích linh hồn,
đồng thời khiến lực ý thức mở rộng đến cực hạn, bởi do tinh thần
chịu sự khống chế, luôn luôn sanh ra mê ảo và bay bổng, nói một
cách thông thường, đây chính là linh hồn chịu sức ép, thần hồn
điên đảo, trong ảo giác sẽ nhìn thấy biến hình của sự việc. Việc
nguy hiểm chính là, trong lúc này, sẽ nói ra những lời mà ngày
thường không dám nói, làm những việc mà ngày thường không
dám làm. ( Trong chiến tranh, đã từng có người làm thuật này,
khiến cho những kẻ cứng rắn mềm nhũn, nói ra các bí mật của kẻ
địch, thổ ra tình báo ).
Thường hay uống thuốc mê ảo, đây chính là kiểu biến thái để tìm
kích thích, bởi do áp bức linh hồn, kết quả sau cùng là thần kinh
thất thường. Cho nên phàm là thuốc thuộc về mê ảo và tê liệt, được
liệt vào hàng cấm, bởi vì những thứ này sẽ phá hoại thần kinh,
khiến cho con người mất đi thần thái.
Ảo giác và phù du, nó rõ ràng hơn giấc mộng, nhưng so với thế
giới hiện thật thì mơ hồ, thật ra ảo giác và phù du, đều là một cảnh
giới nguy hiểm, cảnh giới này là cảnh giới giả, ngàn lần đừng nên
si mê nó. Cho nên những người học tĩnh toạ, sanh ra ảo giác và
phù du, phải nhìn thấu suốt và nhảy qua được, nếu như không nhìn
thấu suốt và nhảy không qua được, thì đừng nên tuỳ tiện ngồi, bởi
vì < ảo giác và phù du > tính nguy hiểm rất lớn, đây chính là < tẩu
hoả nhập ma > mà người đời thường nói, một người tịnh toạ, chính
là người < tịnh quán tự đắc>, anh ta sẽ tự vượt qua < ảo giác và
phù du >, khiến cho linh hồn tự chế cảnh giới rõ ràng, tuỳ tự tâm đi
chi phối, sẽ không bị cảnh giới giả mê hoặc.
120
Linh hồn mê lạc, thần hồn điên đảo, đó chính là chứng bệnh tinh
thần sai loạn, loại ảo giác và phù du đó, đều là giả tạo, và những kẻ
hút thuốc mê ảo này, sẽ cho rằng đây là kích thích khoái lạc, đây
mới chính là việc lạ. Nhưng mà, những người tịnh toạ, cũng sẽ
sanh ra ảo giác và phù du, đây chính là hiện tượng tự nhiên của
tịnh toạ, nhưng mà quan trọng nhất là; nhìn thấu và vượt qua.
( Dùng chánh tín để ổn định linh hồn ).
Có người hỏi tôi: làm thế nào để nhìn thấu và vượt qua? Tôi trả
lời rằng: tâm bình thường chính là tâm Phật, một cái tâm bình
thường tự nhiên. Nếu như trái với tự nhiên, chính là mất đi thường
thái, đó chính là chứng hậu nguy hiểm.
Bởi do < chánh giác > và < ảo giác > chỉ sai nhau một đường tơ,
< xuất thần> và < phù du > chỉ cách nhau một tờ giấy,< tịnh quán
tự đắc > và < thần hồn điên đảo > nhìn bên ngoài là có sự khác biệt,
trên quan niệm thường hay nói lẫn lộn với nhau, giải thích không
rõ. Phương pháp duy nhất, là dựa vào < trí tuệ> để phân biệt tỉ mỉ,
và người được chánh giác, nhất định vượt qua < ảo giác và phù
du>.
Tôi nói:
Chánh giác là tự chủ tự tại của linh hồn, ý thức vô hạn.
Ảo giác là linh hồn không có cách tự chủ, ý thức mở rộng thần
hồn điên đảo.
Người chánh giác nhìn bên ngoài cũng giống như người bình
thường.
Kẻ ảo giác nhìn bên ngoài hiện ra mê loạn.
121
041 Một chuyện sĩ nhục nhỏ
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Có một tin đồn rằng, giáo đồ Nhất Quán đạo sẽ cử hành khai sa
giáng bút ở một nơi, kết quả là thần giáng bút, châm đối tôi, chửi
mắng, thần của họ ( không biết là thần thật hay là do con người cố
ý tạo nên ), lấy tên của người viết, chửi mắng phê bình một phen.
Trước tiên ông ta chỉ cái họ < Lư> của tôi, trên chữ Lư thiếu mất
một chữ, đó chính là biểu thọ không có nhà ở, một đời phiêu bạt,
không biết đi về đâu, lại nói, < Lư > không phải là < Lư>, một đời
nghèo nàn, chết không có chỗ chôn thân.
Tiếp đến ông ta lại chỉ chữ < Thắng >, < Thắng > có chữ <
nguyệt > ở bên, < nguyệt > chính là < cơ > viết tắt của một loại thịt,
vì vậy, Lư Thắng Ngạn không phải ăn chay, hắn ta là kẻ ăn mặn,
người này thân không thanh tịnh, không thể đắc đại đạo, sau khi
chết vẫn như cũ về với ngục A Tỳ, mãi mãi không được siêu sanh.
Sau cùng lại chỉ thị chữ < Ngạn >, < Ngạn > là một nửa của chữ <
Nhan > ( Nhan sắc ), như thế, < nhan diện bỏ đi > một nửa, biểu thị
người này không còn có mặt để gặp người ta, chỉ hợp với cuộc
sống nửa lẩn trốn, lén lút suốt cả một cuộc đời.
Nghe nói sau khi Nhất Quán đạo khai sa giáng bút. Các giáo đồ ở
đó cùng nhau cười to, và thần giáng bút nhanh chóng viết nhiều
chữ < ha ha >, biểu thị sỉ nhục tôi, hiển nhiên là một việc rất vui.
Đối với việc này, sau khi tôi nghe xong, chỉ có cười thôi, đương
nhiên nó cũng có nguyên nhân, bởi vì trong quyển < linh sách >
đầu tiên của tôi, nhấn mạnh rằng< ngàn lần đừng tin tà giáo >.
Chúng ta phải tín ngưỡng tôn giáo < quang minh chánh đại >. Tín
ngưỡng tôn giáo có < lý tín > và < tín trí >, tín ngưỡng tôn giáo <
lấy giúp người là thiện >. Không tham gia vào các tôn giáo phi
pháp mà chính phủ có lệnh cấm. Bởi do tôi tuyên giảng như vậy,
khó trách khi Nhất Quán đạo giáng bút, phải phân tách họ tên của
tôi.
Nhưng mà, tôi đối với việc giáng bút tách chữ, cho rằng không đủ
cao minh, ví dụ như < Lư > là họ của bá tánh, không lẽ tất cả
những người họ Lư, đều không có nhà ở, suốt đời nghèo nàn, chết
122
không có chỗ chôn sao? Điểm này khiến cho người ta không dám
đồng ý. Có lẽ ở đây, tôi thổ lộ ra một điểm bí mật, tổ tiên họ Lư,
truy ngược đến lâu đời nhất, thì khởi tổ là phong thần nguyên soái
Khương Tử Nha phò trợ nhà Chu Diệt nhà Thương, các ngươi
những tiểu thần, cũng là do lão tổ tông của chúng tôi phong đó.
Tôi cho rằng, thần, chánh linh. Cũng chính là linh hồn có chánh
khí lẫm lẫm, ngoại trừ dạy con người tu thân hành thiện ra, còn
kiêm làm đạo sư của con người, chỉ dẫn phương hướng làm người
làm việc. Và linh giáng bút này, mở miệng ngậm miệng là sỉ nhục
người ta, loại thần này không có < thần cách>, sau khi mắng chửi
người ta xong, còn phải tự đắc một phen vui vẻ, không có thần
cách như vậy, cũng có người tin, ngu xuẩn đến như vậy, còn không
nhanh hối ngộ triệt để.
Tôi từng có bài văn phê bình Nhất Quán đạo, đây là tự do ngôn
luận của tôi, quan cảm của tôi. Và thần của Nhất Quán đạo giáng
bút tự do phê bình tôi, đây là quan cảm của tôi, giữa hai việc này, ý
kiến bất đồng, mỗi bên có lập luận riêng. Như thế, có vay có trả,
hoà nhau rồi. ( Tôi mong người khác cho tôi sự phê bình, chỉ cần là
hợp lý, chính xác, có ích, tôi nhất định tiếp nhận. Nhưng, nếu là
không hợp lý, tôi cũng có ý kiến).
123
042 Mặt trái của bệnh doawn (Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Một bác sĩ có phòng khám khoa nhi ở Đài Bắc, ông có một đứa
con trai bị bệnh doawn, đã tìm hết các bác sĩ giỏi trong cả nước,
bao gồm cả bạn học của chính ông, cuối cùng vẫn không có cách
chữa trị. Vị bác sĩ này trong lúc không còn cách nào nữa, bèn nhờ
một người bạn thân, muốn đến hỏi tôi một việc, đích thật là họ đã
phạm tội to lớn đến cỡ nào, mà tại sao ông trời lại cho ông một đứa
con trai bị bệnh doawn.
Đứa con bị bệnh doawn bẩm sinh này lại có tội gì? Cha mẹ của
họ lại có tội gì? Vị bác sĩ đó gửi cho tôi báo cáo kiểm tra sóng điện
não của đứa trẻ, nghe nói rằng thần kinh bình thường, chỉ là sóng
não không bình hằng, khoé miệng chảy nước dãi, không có cách
nào tự khống chế, đi bộ thì nghiêng qua ngã lại, trí lực thấp đến nỗi
không thể tự biết ăn mặc. Vợ chồng bác sĩ tâm rất thiện lương, ăn
chay lạy Phật, vì đứa con trai bị bệnh doawn này, ngay cả một
đường dây tín ngưỡng kém chút nữa đã bị phá vụn.
Tình yêu của cha mẹ là vĩ đại, họ đối với đứa con bị bệnh doawn,
chăm sóc không chê vào đâu được, không có một lời oán hận, chỉ
là họ muốn biết, cái này là tại sao? Là tại sao!
Vì sự thỉnh cầu của họ, tôi đã từng < nhập thiền định quán sát >.
Kết quả, vượt ra ngoài sức tưởng tượng của tôi, cũng khiến cho tôi
rất kinh ngạc. Tôi viết một lá thư, không những nói cho họ đáp án
của tôi, đồng thời chúc mừng họ, chúc mừng họ nuôi dưỡng một
đứa con bị bệnh doawn.
Linh hồn của đứa con trai bị bệnh doawn đó là một linh hồn cao
cấp rất cao thượng và cao quý, thuộc thuần phạm vi linh vòng màu
trắng, tiền kiếp của nó là một tăng lữ tu hành hữu niên, bởi do cuộc
sống tâm linh thuần tịnh, tầng thứ của linh hồn rất cao. Linh hồn
cao cấp này bởi do còn có duyên túc thê ngắn, cần phải xuống
nhân gian, cho nên vì vậy bản thân tự tạo hình hài, thành một
người bị bệnh doawn.
Tại sao linh hồn cao cấp lại hạ sanh nhân gian, bản thân lại nắn
tạo nên hình hài bệnh doawn? Bởi vì hơn phân nửa các linh hồn
124
cao cấp biết rằng, nhân gian là Ta Bà thế giới, dễ dàng khiến linh
tánh mê mất, nhưng mà lại không thể tránh duyên túc thế đã đến,
không đến nhân gian thì không được, vì vậy, chỉ phải tạo < hình
hài bệnh doawn>, mượn hình hài này, để bảo vệ linh hồn trong
sạch. Linh cao cấp hiểu rằng, tướng mạo càng anh tuấn đẹp đẽ, thì
càng không thể trốn tránh sự dụ dỗ của nhân gian, càng dễ dàng rơi
vào cạm bẫy phạm tội, nếu như phạm tội, có nghiệp chướng rồi,
tầng thứ của linh hồn, từ tầng cao sẽ thoái hoá xuống thần thấp, và
như thế sẽ không thể trở về lại vòng linh cao cấp nữa.
Ngoài ra, linh hồn cao cấp hạ giáng nhân gian, dễ dàng đại phú
đại quý, nhưng nếu phú quý rồi, hưởng thụ hết cuộc sống xa hoa
của nhân gian, linh tánh tự nhiên giảm thấp; mà sau khi linh hồn
cao cấp hưởng phú quý, muốn tu tâm dưỡng tánh trở lại linh giới
cao cấp là một việc rất khó. ( sớm đã mê mất bản lai diện mục ).
Linh tánh của đứa con trai bị bệnh doawn đó rất cao, đã nhận biết
vợ chồng người bác sĩ tâm thiện lương, ăn chay lạy Phật, nên đầu
thai làm con của họ. Nhưng mà lại sợ rằng sau khi hạ sanh lại quên
mất thiện căn kiếp trước, nên chỉ phải bản thân tự tạo hình hài
bệnh doawn. Bởi vì chỉ có bệnh doawn, mới có thể không ác
không thiện, đi nhân gian một chuyến, muốn trở về thì không phải
dễ dàng đó !
Tôi lại phát hiện, người nuôi dưỡng đứa con bị bệnh doawn công
đức rất lớn. Bởi vì nó cũng giống như đạo lý cúng Phật cúng tăng
vậy. Nuôi dưỡng đứa con bị bệnh doawn, cũng như cúng Phật cúng
tăng, như vậy không đáng chúc mừng sao?
Kết luận của tôi là linh hồn cao cấp vì muốn tránh việc mê mất
cho sự đầu thai ở nhân gian, đồng thời cũng vì để che đậy mạng
phú quý của mình, nguỵ trang tướng mạo anh tuấn đẹp đẽ.
Nghiên cứu của tầng thứ linh hồn học càng cao, càng có rất nhiều
quan niệm bất khả tư nghì sản sinh. Đương nhiên, cũng có vượt ra
ngoài phạm vi tưởng tượng của loài người chúng ta, những quan
niệm này, giải thích rất dễ dàng, nếu muốn khiến cho người ta
hoàn toàn tin phục, càng không phải là việc dễ dàng. Bây giờ chỉ là
dốc hết sức lực để làm mà thôi, để mà tham chứng lẫn nhau, còn
lại tin hay không tin. Không ở trong phạm vi suy tư của tôi.
125
43 Một hiện tượng tốt
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
< Mặt trái của bệnh doawn> vừa được đăng, thì đã nhận được hơn
10 lá thư của các bạn đọc giả gửi đến, điều khiến người ta kinh
ngạc chính là, các độc giả này đều đang nuôi những đứa con bệnh
doawn, tôi thật sự không nghĩ đến rằng, có nhiều đứa trẻ bị bệnh
daown như vậy, các đọc giả đều cùng có một yêu cầu, mong rằng
tôi nhập < thiền định quán sát>, có phải con cái của họ thuộc về
linh hồn cao cấp chuyển thế.
Trong các bạn đọc giả có một người là cư sĩ Thẩm ở đường Khai
Lộ thành phố Đài Nam, lúc trước ông cũng đã từng gửi thư đến để
thăm dò nguyên nhân, đứa con trai thứ của ông ta chết yểu, đứa
con gái lại bị bệnh doawn. Ông rất đau khổ, đối với cảm niệm mà
ông trời ban cho ông, ông rất oán hận. Và tôi viết thư nói với ông :
< tất cả đều buông xả, toàn tâm niệm Phật vậy>.
Sau khi Thẩm cư sĩ đọc xong < mặt trái của bệnh doawn >, trong
thư ông nói: bài này khiến cho lòng của con người được mở rộng
ra, phiền não tận trừ, đạo tâm dần dần kiên cố, từ mê nhập ngộ.
Nhất là công đức nuôi dưỡng đứa con bị bệnh doawn như là công
đức cúng Phật pháp tăng vậy, như thế, lòng cha mẹ mới không
than trời trách đất, khiến cho lòng cha mẹ có hy vọng mới. ( Thẩm
cư sĩ lạy pháp sư Sám Vân làm thầy, thọ tam quy ngũ giới, hiện
nay đang tu trì Phật Mẫu Chuẩn Đề tôn đại bạch thân thiên nhận
công hạnh pháp ).
Theo tôi được biết, hiện tượng luân hồi là việc có thật đích xác,
và trí tuệ tiền kiếp ở một số người mà nói, là có thể liên tiếp đời
này, ví dụ như đại học NewYork Châu Lập ở nước Mỹ. Có một
học sinh 6 tuổi, nó học chương trình vi tính, tên là Tony. Nghe nói
chương trình vi tính là do các giáo sư tiến sử dụng, mà trí tuệ của
Tony, không phải là thiên tài nhi đồng sao?
Lại còn có truyền thuyết thi nhân của nước ta là Bạch Cư Dịch,
khi vừa mới sinh được 7 tháng, thì có thể nhận biết được rõ ràng
126
các chữ, nói ra tuy rằng có người không tin, nhưng mà tôi thì tin,
bởi vì tôi biết rằng trí tuệ tiền kiếp ở một số người mà nói, sẽ liên
tục đến kiếp này.
Linh hồn cao cấp chuyển thế làm người, sợ rằng ở nhân gian sẽ
mê mất bản tánh, không có cách trở về với vòng linh ở tầng thứ
cao, nên chế tạo ra < hình hài bệnh doawn >, đây đúng là linh hồn
tiêu cực và trốn tránh.
Và linh hồn cao cấp biết rõ rằng nhân gian là một cạm bẫy lớn,
không lo nghĩ về mình mà xuống nhân gian, để cầu tâm linh tiến
hoá, xã hội tiến bộ, tích cực thúc đẩy văn minh và hạnh phúc của
loài người, đây mới chính là linh hồn vĩ đại chịu hy sinh mình.
Hai loại linh hồn này, tầng lớp là giống nhau, nhưng tác pháp lại
khác nhau, hãy nghĩ xem, đại khái là thuộc về nghiệp chướng và
luật nhân quả không giống nhau của mỗi một linh hồn, mà có sự
phân biệt vậy! ( nghiệp chướng và luật nhân quả chính là chi lực
chi phối của vận mạng ).
Bởi do các đọc giả có phản ứng rất tốt đối với bài viết < mặt trái
của bện doawn >, tôi cảm thấy đây chính là một hiện tượng tốt, bởi
vì ở trong < thiền định > tôi lĩnh ngộ ra được rất nhiều quan niệm
mới, giải đáp rất nhiều hiện tượng lạ, khiến cho những người đang
nuôi những đứa con bệnh doawn, không than trời trách đất nữa, đốt
cháy lại hy vọng trong lòng của họ, chuyển lòng rộng mở, phiền
não trừ tận, không dám than tội của mình quá nặng nữa, sanh ra tự
ti tự buông bỏ mình.
127
044 Linh năng và tuyến vũ trụ (Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
19 tuổi tôi học trường trắc lượng (bây giờ là học viện công
Trung Chánh Lý), học ở khoa học tập trắc lượng, rất có hứng thú
đối với thiên văn quán, vì vậy tôi biết được, giữa nguyên khởi của
vũ trụ, tồn tại rất nhiều tuyến xạ chưa được loài người phát hiện,
loại tuyến xạ này, đều gọi là vũ trụ tuyến.
Một số nhà khoa học nghiên cứu tuyến xạ, đã dùng hai phương
pháp, loại thứ nhất là tông tích hiển hiện pháp, lợi dụng cách chụp
hình đặc thù để chứng minh rằng có tuyến xạ tồn tại. Loại thứ hai
là lợi dụng chất điểm biến thành điện bồn, sau khi sản sinh năng
lượng, tính toán năng lượng để chứng minh sự tồn tại của nó.
Theo tôi được biết, năng do tuyến vũ trụ sản sinh, có hạch tử
năng và điện tử năng, và những loại năng này, vật chất có thể hấp
tầng tầng mà hấp thu, nguyên lý này, có thể nói rõ quan hệ của vật
chất và vũ trụ, càng có thể giải thích rằng trong đại tự nhiên có sự
tồn tại của một loại lực tự nhiên đặc thù, trong vô hình, hình như
vũ trụ chính là kẻ chi phối phân bố của vật chất vũ trụ, tuyến vũ trụ
sản sinh ra tác dụng điện từ cho tự nhiên, trong đó bao gồm tia X
quang đã được phát hiện, tuyến Gamma, tuyến muối đạt, và các
tuyến vũ trụ khác chưa được loài người phát hiện ra.
Những người học qua trắc lượng đều hiểu rõ rằng, sở dĩ < từ
biến sai tuyến >, có liên quan rất lớn đến tuyến vũ trụ, và < từ sai >
lại chính là sự thay đổi trong nhiều năm của vũ trụ đã được tính
toán ra.
Từ đoạn trên, tôi phát hiện ra năng của tuyến vũ trụ và < năng
của linh hồn >, là rất giống nhau, tác dụng từ trường hiện ra của <
năng linh hồn >, rất có khả năng là dùng < tông tích hiển hiện pháp
>, có thể chứng minh được sự tồn tại của nó, nhất là khi người đó
gần chết, vật chất hoá của nhục thể sinh ra hiện tượng điện ly,
chúng ta có thể tiếp nhận phúc xạ từ trường của nó ( khúc xạ từ
trường mạnh, có thể hiện ra cho người thân ở xa nhìn thấy ), nếu
như dựa vào nguyên tắc này, năng của linh hồn tồn tại, thì sẽ có
căn cứ của khoa học.
128
Lại nói, tôi thường hay thể hội được, cơ thể của con người chúng
ta là một toà thể đạo từ trường, nếu lực từ mạnh lên, hoạt động của
điện âm và điện dương rất mạnh, thì năng lực của linh hồn cộng
thêm một lực lượng đặc thù, loại lực lượng đặc thù này vượt ra
khỏi linh giác của người bình thường, không phải thuộc về một
cảm giác bình thường, loại cảm giác rất hiển nhiên này chính là <
siêu cảm ứng>, là một thứ cảm giác ở trên cảm thứ 6.
Tác dụng của < linh năng > và tác dụng của tuyến vũ trụ xa xa
tương ứng nhau, và năng của linh hồn có phải thuộc về bên ngoài
của điện kích mới có thể sản sinh năng, điểm này tôi cần phải
nghiên cứu lần nữa mới có thể biết được.
Ở những quyển sách trước của tôi, đã từng đề cập đến < khởi
linh > và < biến linh >, tôi cho rằng đây chính là < biến linh đụng
nhau >, biến linh đụng nhau chẳng phải là < tác dụng điện kích >
của tuyến vũ trụ sao? Nếu như < biến linh đụng nhau > chính là <
tác dụng điện kích >, vậy thì < khởi linh > của tôi cũng có căn cứ
của khoa học, điểm này không giả một chút nào cả.
Bây giờ nghiên cứu linh học của tôi, được chia làm 3 phần, phần
thứ nhất là phối hợp khoa học. Phần thứ hai là phối hợp tinh thần
tâm lý học ( bao hàm tôn giáo ). Phần thứ 3 là tham dò thật tướng
của sinh mạng. Tôi tin vào sự cố gắng của tôi, sau này, sẽ không
khiến mọi người thất vọng.
129
045 Giữa trời và đất đều là quan phòng
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Một tiền bối của Phật giáo Mật tông, viết thư cho tôi nói: <Lư
tiên sinh, trong mấy quyển sách trước của anh, đều nói đến anh bế
quan ẩn tu. Nhưng tại sao sau này, lại nhìn thấy anh đến viện lập
pháp diễn giảng, lại đến Hoa Liên khám tế địa linh, thậm chí
không có một nơi ở nhất định, vậy làm sao là bế quan ẩn tu đây?
Nhận được một lá thư chất nghi như vậy, tôi cần phải nên giải
thích. Bế quan ẩn tu mà tôi nói, không phải là suốt ngày < khô toạ
thiền định >, cũng không phải là từ sáng đến tối < tụng kinh lạy
Phật >, mà là trong thời khắc rảnh rỗi nhất, đi mài luyện linh tánh,
đi thể hội < thế giới của linh >. Ngoài ra, tôi có nghề nghiệp đàng
hoàng, nghề nghiệp này sẽ không dễ dàng để cho tôi suốt ngày từ
sáng đến tối ngồi ở nhà.
Cho đến < bế quan ẩn tu > mà tôi nói, đó chính là một loại <
cảnh giới của tâm >, phải biết rằng một đồng tiền có 2 mặt là học
thuyết của triết học, và nhà tinh thần học của Nhật Bản là Cổ Óc
Thiết Thạch tiên sinh cho rằng, phàm là đời sống tinh thần, nhất
định sẽ hoạt động cùng với vật chất, hoạt động của vật chất, cũng
hoạt động cùng với tinh thần, bình hành lẫn nhau, cho nên lại gọi
là vật tâm bình hành luận. Còn tôi, < bế quan ẩn tham > của tôi ở
bên ngoài nhìn vào, chỉ là hình thái của cuộc sống tinh thần của tôi,
sự thật là, tôi cũng có hoạt động vật chất, đây chính là tướng và
bình hành.
Có lẽ sẽ có người nói đây là lời nói nhấn mạnh đoạt lý của tôi,
nhưng, quan niệm chân chánh của tôi, < bế quan ẩn tu>, không
phải là trốn ở trong nhà < bế quan >, mà là trời đất đều là quan
phòng, tôi đi đến đâu, ở đó chính là quan phòng, đây chính là
không chịu sự hạn chế < hữu hình > về < vật chất > của một quan
phòng nhỏ. Lại nói, tôi sống trong cuộc sống vật chất, vẫn tồn tại
hoạt động tinh thần, < thế giới của linh > vĩ đại, thì làm sao chỉ có
một không gian trời và đất, thăng hoa của linh hồn, thậm chí bay ra
khỏi bên ngoài của trời. Vì vậy, một căn nhà nhỏ làm sao có thể
giam được tôi đây?
130
Chúng ta hiểu được, vĩ đại của ý thức linh hồn, có thể nhìn thế
giới này bằng một hạt cát, từ một đoá hoa mà đi nhìn vũ trụ.
Đương nhiên sau khi chúng ta lãnh ngộ lời nói này rồi, chúng ta có
thể tưởng tượng, trái đất này ở trong vũ trụ, chẳng qua cũng chỉ là
một hạt bụi sao, một hạt cát nho nhỏ, cho nên giữa hạt cát này, tôi
nói, giữa trời và đất đều là quan phòng của tôi, cái này cũng không
quá đáng. Thậm chí tôi có thể nói như vậy, trong vũ trụ đều là
quan phòng của tôi. Như thế, sẽ càng khiến cho người ta không
đoán cao thâm, và không có cách thể hội sâu hơn.
Đương nhiên, câu nói < bế quan ẩn tu> này, ở trong mắt người
hiện đại, khó tránh bị hiểu lầm thành cửa bế quan hữu hình, và cửa
mà tôi nói, là cửa vô hình, đó chính là cửa 6 tặc của nhà Phật, tai
không nghe tiếng, mắt không nhìn sắc, thân không xúc ô, ý không
nhiễm vật, mũi không ngửi mùi, miệng không tham ăn, nếu 6 tặc
này đóng lại, thì ngũ uẩn mới có thể không, linh tánh mới thăng
hoa, linh hồn giải thoát, trên giới lưu thông, thành sự hoạt bát
không bị trói buộc.
Một con người giác ngộ, nhất định hiểu được giữa trời và đất đều
là quan phòng. Một người chưa khai ngộ, mới bị cửa bế quan <
hữu hình > giam lại. Tôi dùng bài viết này, để trả lời sự quan tâm
của một vị tiền bối Mật tông Phật giáo, đồng thời giải thích, việc
đóng cửa của tôi, là cửa tinh thần vô hình, không phải là cửa vật
chất hữu hình.
(Lời người biên soạn: Có lẽ đây là cuốn sách viết lúc Sư Tôn còn
trẻ, sau này Sư Tôn có viết trong 1 cuốn sách khác rằng khi sang
Mỹ tu tập Mật thừa, Sư Tôn cũng đã đóng cửa bế quan theo đúng
nghĩa đen ở bên Mỹ 3 năm)
131
046 Năng lực rõ ràng
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Khoảng chừng 50 năm trước, hội trưởng hội tâm lý học nước Anh
là Mai Di Tư Thị, đã từng phát biểu < thuyết nhân điện ( điện con
người ) >, và mấy năm trước đây người đoạt được giải thưởng học
bổng Nhược Bối Lai là Kha Duy Khắc, ông ta phát hiện tinh thần
cảm ứng trong phòng thí nghiệm, chính là trong đầu óc có một
dòng điện nhỏ, các bác sĩ gọi đó là < sóng não >.
Gần đây, các bác sĩ gọi < sóng điện > là phóng điện của tế bào não,
một bác sĩ bệnh tâm thần, ông ta hiểu được đa phần người bị vấn
đề về tinh thần, sự đau khổ về đầu óc, thần kinh quá mẫn, dễ sanh
tạp niệm, hiện tượng này chính là do tế bào não phóng điện bất quy
tắc, tinh thần không có cách thống nhất, nhân cách biến đổi, phóng
điện hỗn loạn. ( tôi cảm thấy hiện tượng này giống như dây điện bị
chập điện, cháy hư tế bào não ).
Lại nói, một người có tinh thần thống nhất, trên nguyên tắc thì tế
bào não phóng điện là quy tắc nhất, tinh thần thống nhất bình
thường, có thể phát huy linh năng đặc thù, sanh ra năng lực rõ ràng,
loại năng lực này có thể phát sinh quán sát nhìn thấu, có đầy đủ lực
lượng phát minh phát kiến, đây là một loại giải thuyết của năng lực
siêu phàm.
Một số nhà tôn giáo tinh thần, cho rằng là < thần lực >, Phật
giáo đơn độc gọi đó là < bất khả tư nghì của thiền định >. Hiện nay,
tôi cho rằng đó là một loại giao thông của phóng điện não. Khi
sóng điện não phóng điện bình thường, cảm ứng được phóng điện
của linh hồn tổ tiên, chúng ta có thể giao thông được với người mất.
Khi sóng điện phóng điện bình thường, cảm ứng được sóng não
của người thân, chúng ta sẽ biết rõ tất cả về người thân, đây chính
là lực quán sát siêu tự nhiên, từ đây, chúng ta có thể hiểu được,
tinh thần thống nhất và thiền định, không phải là một huyền học
quá thần bí, mà là tinh thần học có căn cứ.
Trước mắt, tôi làm quen với một thực nghiệm nhỏ, ví dụ như có
một người, báo ra một địa chỉ, địa chỉ này tôi chưa từng đi qua,
nhưng trong thời gian ngắn tinh thần của tôi thống nhất, thế là tôi
132
có thể nói với người đó, địa chỉ này có mấy người đang ở, thậm chí
tôi có thể phân biệt nói ra, bao nhiêu người nam, bao nhiêu người
nữ, bao nhiêu người già, bao nhiêu người trẻ. Trước mắt, thực
nghiệm nho nhỏ này, tỷ lệ đúng có thể đạt đến trên 90%, còn lại
10% không đúng, đó là do tinh thần không có cách tập trung, sanh
ra tạp tướng.
Còn nhớ lúc trước tôi linh toán cho người ta, tỷ lệ đúng đạt đến
99% nên mọi người gọi tôi là thần kỹ, rất nổi tiếng. Thật ra phát
huy lực lượng đặc thù này, đó chính là ở chỗ tinh thần thống nhất,
sóng não động ở trên mục đích, thì có thể được đáp án rõ ràng. Lúc
trước tôi không biết là tại sao như vậy, bây giờ cuối cùng tôi cũng
đã hiểu, đây chính là < trinh thám của tâm điện giao thông >, đích
thật là < trinh thám của tâm điện giao thông >.
Đến ngày hôm nay, cuối cùng tôi cũng giác ngộ, phương pháp tu
hành của tôn giáo, là tận dụng âm thị xảo diệu. Rất hiển nhiên, đều
là phương tiện diệu pháp mà thôi, thật sự muốn đến bến bờ, là phải
tiến vào thiền định, sau khi thiền định mới có thể tiến vào trung
tâm cảnh giới < chân lý >.
Tôi phát giác vũ trụ đích thật có tồn tại của < tha lực >, đó là thế
giới của lực tinh thần khác, cũng giống như khi điện lực < tâm não
> của tôi và họ giao thông nhau. < Thế giới linh> của họ thường
hay nói với tôi, chỉ có < tự lực thiền định> có thành tích rồi, mới
có thể cảm ứng rõ ràng sự tồn tại của họ.
Các bạn đọc giả, những gì tôi nói không có một câu nào là giả.
Nhưng, tin hay không tin là tuỳ bạn. Tôi thì tin, bởi vì việc bất
hạnh lại xảy ra trên người của tôi.
133
047 Lời nói của Huỳnh uỷ viên
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Vào lúc 6 giờ chiều ngày 9 tháng 5, người bạn thân là Giang
Hoằng Nghĩa ở Trúc Nam, cùng uỷ viên lập pháp Huỳnh Ngọc
Minh đến gặp tôi. Uỷ viên Huỳnh vừa bước vào cửa bèn nói ngay:
“ < Thế giới của linh > mà nhật báo Đài Loan đăng liên tiếp tôi đã
đọc rồi, tôi cũng đã đọc những quyển sách mà anh viết. Rất tốt, rất
tốt, có lý tưởng có kiến giải. Hôm nay tôi đến, không có cái gì
khác, trong phạm vi năng lực của tôi, bất luận là tinh thần hay vật
chất, tôi nhất định ủng hộ anh >
Con người của uỷ viên Huỳnh rất nhanh nhẹn và nhanh miệng, cá
tính thẳng thắn, tay cầm cây quạt lông ngỗng, lời nói kiên quyết
hữu lực. Ông nói: < người trẻ tuổi có lý tưởng có hoài vọng, khiến
cho người ta hâm mộ nhất. Nhất là có thể nhẫn nhịn. Có nghị lực
kiên định lâu dài, có động cơ thuần chánh, có tâm tánh thiện lương,
không ai từ chối giúp đỡ anh ta >.
Tôi nói với uỷ viên Huỳnh:< trước mắt, tôi đã định sẵn 3 nguyên
tắc nỗ lực. Thứ nhất, đứng dưới đại tiền đề của quốc gia, phá trừ
duy vật quán, cứu thế đạo nhân tâm hướng thiện. Thứ hai, vì chân
lý thật tướng của đời người, tiếp tục nghiên cứu sâu về bí mật của
linh. Thứ ba, vì để thực hiện lý tưởng của mỗi người, đạt đến ý
nghĩa sinh mạng, phấn đấu không lo nghĩ đến bản thân. Đồng thời,
trong nghiên cứu về linh của tôi, sẽ đề cao tinh thần mới đi lên,
dùng chánh tín và lý tín, để phá trừ cựu hữu thật sự, thuộc về mê
tín hạ thừa>.
Uỷ viên Huỳnh nghe xong gật gật đầu, ông ta dùng thái độ kiên
định nói: < cái này rất có ý nghĩa. Lý tưởng hôm nay của anh, cũng
là lý tưởng của tôi, anh vì chân lý phấn đấu không lo nghĩ đến thân
mình, vậy tôi quyết định giúp đỡ anh>.
Trong những câu nói trên, tôi nghe thấy được tiếng lòng của uỷ
viên Huỳnh, ông cho rằng trước mắt xã hội đối với sự mê tín của
quỷ thần, đó chính là hoàn toàn không biết về < thế giới của linh >,
cho nên không biết chính là mê tín. Và chúng ta phải cố gắng
nghiên cứu mới về tinh thần tôn giáo, dùng tín ngưỡng cao thượng,
134
để thay thế tâm lý mê tín của xã hội cũ, nếu như khiến cho tâm
cảnh của mọi người nâng cao, thì tín ngưỡng nhất định thượng
thừa, tinh thần của diệu dụng vô cùng, tự nhiên sẽ là vô dự luân bỉ.
Uỷ viên Huỳnh cũng cảm khái, văn minh tinh thần ngừng lại, vật
chất văn minh đột nhiên phát triển mạnh lên, đây cũng không phải
là một hiện tượng tốt.
Nghe xong lời nói của uỷ viên Huỳnh, lại nghĩ đến tháng trước
phó viện trưởng viện giám sát là ông Chu Bá Luyện triệu kiến
người viết, những lời nói ở tiệm cơm Tây Bắc, ý nghĩ là tương
thông. Đúng vậy, dùng quan niệm linh thượng thừa cao thượng, là
phương pháp tốt nhất để cải thiện mê tín của loài người, cố gắng
như vậy, mới xuất hiện tiến trình quang vô hạn của vô dự luân bỉ.
Nói lời thật tại, bản thân tôi đối với 2 chữ mê tín, là rất đau khổ,
tôi vì từ trong vô tri để tham cầu chân tri, theo đuổi bí mật của
chân lý trước sau đều không thay đổi, xác nhận tinh thần cao
thượng (linh giới), trong tự mình tìm huấn luyện và thực nghiệm,
xây dựng lý tín và trí tín chính xác.
135
048 Thuyết minh về mượn lực bên cạnh
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Người bạn thân tôi là Ngô Chí Hùng ở tại đường Quốc Quang
Đài Trung, có người hàng xóm là một đại cư sĩ Phật môn, vợ
chồng người cư sĩ học Phật đã lâu. Có một lần tán chuyện, nói đến
tôi, vợ người cư sĩ nói: < chúng tôi rất quan tâm Lư Thắng Ngạn,
phẩm tánh và học thức của anh ta rất giỏi, nhưng, mượn lực bên
cạnh, phương hướng của anh ấy và chúng tôi không giống nhau,
đồng thời chúng tôi cũng lo cho anh ấy, sợ rằng anh ấy sẽ bị lực kế
bên lợi dụng >
Đối với sự quan tâm của 2 vợ chồng người cư sĩ, trong lòng tôi
có một cảm kích chân thành, tuy rằng thời gian đã cách 7 năm ( 7
năm trước tôi đã từng gặp cư sĩ Phật môn, nhờ người vợ gia trì chú
Đại Bi ) nhưng, với khuôn mặt từ nhã và thiện ý chỉ dẫn của người
vợ cư sĩ, đến nay tôi vẫn không quên. Tôi thừa nhận, tôi đích thật
là < mượn dùng lực bên cạnh> , bởi vì tôi có rất nhiều bạn ở linh
giới. Tôi thừa nhận, tôi bói toán cho người ta, là do < có bạn linh >
cung cấp cho tôi đáp án, nhưng mà chúng ta cần phải nhận biết
một điểm, nếu như không có tự lực phát huy, thì sẽ không có tương
trợ của < lực bên cạnh >. Các linh ở linh giới, cho rằng tôi thật sự
hướng thiện, không bao giờ lừa gạt người khác, bởi vì chúng tôi
kính trọng và tin tưởng lẫn nhau, như nước và sữa hoà cùng nhau
( các bạn linh giới của tôi đều là thiện, họ thẳng thắn và vô tư hơn
con người, không có tập khí gian xảo của con người, bây giờ tôi
thà làm bạn với linh, chứ không dám < làm bạn với con người > )
Các bạn linh, vẫn thật sự giúp đỡ tôi, trong vô hình cho tôi linh
khởi thị, cho tôi trí tuệ, hoá giải tai nạn của tôi. Đồng thời tôi yêu
cầu họ, ngàn lần nên đi cứu vớt những người có mưu đồ hại tôi,
bởi vì những người cố ý hại tôi, không phải là có tâm, mà là vô tri,
rất hiển nhiên, người tổn hại hoàn toàn không hiểu rõ về < thế giới
của linh >. Tôi yêu cầu họ, đi chiều lòng những < kẻ địch > của tôi,
cũng giống y như giúp đỡ tôi vậy. Hãy nghĩ xem, tôi có thể bỏ rơi
những < lực bên cạnh > này không? Tình cảm của tôi và họ, rất sâu
đậm, không nỡ bỏ rơi.
136
Những ngày tôi học Phật không phải là lâu, nhưng tôi vẫn có thể
phân biệt < Phật > và < ngoại đạo >. Có người nói: < nếu như Lư
Thắng Ngạn đã quy y cửa Phật, thì chỉ có thể tu hành ở cửa Phật,
không nên tiếp tục trì thần ngoại đạo > Sự thật là, trong lòng của
tôi, đã từng rửa tội với Ki Tô, quy y Đạo môn, tiếp tục y chỉ với
Phật, bây giờ tôi vẫn y chỉ với Phật, không có biến động. Và vẫn
làm bạn với các linh ở linh giới, tôn kính họ, như vậy là sai sao?
Mỗi một người đều cần phải có bạn, nhất là những người bạn thiện,
tôi không mong sau khi y chỉ với < Phật >, thì sẽ bỏ rơi tất cả
những người bạn, huống hồ là họ giúp đỡ tôi, toàn tâm toàn ý giúp
đỡ tôi hiểu rõ < giác ngộ chân chánh >, mục đích thành Phật, hoàn
toàn tương đồng.
Tôi đọc qua < Bạch xà truyện >, tuy rằng là thần thoại, nhưng
Bạch Tố Trinh vì muốn báo đáp ân tình cho Hứa Hán Văn, không
tiếc biến hoá thân người, hứa làm vợ chồng, kết quả là trở thành
câu chuyện động lòng đầy nước mắt. Hãy nghĩ xem, với tình cảm
của 2 người Hứa và Bạch, Bạch Tố Trinh có thể ăn mất Hứa Hán
Văn sao?
Hôm nay, tôi làm bạn với các linh ở linh giới, ở thế giới hiện thật
nhất định bị xem là < thần kinh sai loạn >, nhưng tất cả biểu hiện
của tôi, không khác với người bình thường, họ ( linh hồn vô hình )
yêu thương tôi, tôi cũng tôn kính họ, lòng tôi có thể tự chủ, cần gì
phải sợ, cần gì phải sợ.
137
049 Phù hiệu vô hình
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Đọc < Thức tánh ca >, không biết là do ai viết, thật ra < Thức
tánh ca > chính là < Thức linh ca >, nguyên văn của nó như sau: <
cái vô vi đường này, vi diệu khó lường nhất, không lớn lại không
nhỏ, không tròn cũng không vuông, không cao cũng không thấp,
không ngắn cũng không dài, nói lớn đầy hư không, nói nhỏ như hạt
bụi, nói không có một cây cột, không xương sống cũng không đà,
không có mái nhà, bốn bên đều không tường, không chánh cũng
không lệch, không che cũng không đỡ, không đỏ cũng không trắng,
không xanh cũng không vàng, không sanh cũng không diệt, toàn
thể chứng mênh mông, đứng ắt cùng tam tế, ngang ắt dài thập
phương, xưa nay không thay đổi, Đâu Suất hỏi Di Đà, Di Lặc cười
ha hả, Linh sơn thân phụ thuộc, trực chỉ Như Lai tạng, Thế Tôn
thân chiêm xuất, Ca Diếp đắc thừa đương, tông môn không dễ
dàng, đừng nên có nhàn tưởng, nếu như lạnh tận xương, sao được
hương hoa mai.>
Bài ca < Thức tánh ca >, tôi cho rằng chính là < Thức linh ca >,
trong bài ca chỉ ra rõ ràng rằng, linh hồn chính là phù hiệu vô hình,
bởi vì không có vật nào có thể hình dung, nói mà không trúng, cho
nên chư Phật đều không nói, cái này là chỉ ý hội chứ không thể nói
lời truyền. Nếu như đọc giả thể hội tỉ mỉ, có thể sanh ra 3 quan
niệm, quan niệm thứ nhất, linh hồn là có thật, nhưng nói không ra.
Quan niệm thứ hai, chúng sinh đều có Phật tánh, không có phân
biệt. Quan niệm thứ ba, nếu như cố gắng dùng thiền định ý hội, sẽ
không dễ dàng được cảnh giới chân thật này.
Bây giờ tôi đã hiểu rõ rằng, linh hồn là vô hình, vốn là không có
cách phân biệt và không có cách nói rõ. Nhưng, vì muốn tăng thêm
quan niệm của loài người, khiến cho loài người có thể có quan
niệm nhận biết, cho nên một số người giác có trí tuệ, mới miễn
cưỡng phân ra, bởi do kết quả miễn cưỡng phân ra, nên hình thành
tôn giáo, bây giờ cuối cùng tôi cũng lãnh ngộ, tôn giáo chính là
một loại phù hiệu của linh hồn vô hình, phù hiệu này đại biểu cho
phương hướng và hình thức. Có rất nhiều người hỏi tôi quan niệm
138
của thần và Phật, tôi nói đây chính là người có trí tuệ cao, miễn
cưỡng phân biệt kết quả của linh hồn, Phật là phù hiệu vô hình,
không thể nói. Thần cũng là phù hiệu vô hình, không thể nói.
Thậm chí quỉ cũng là phù hiệu vô hình, không thể nói. Ý nghĩa của
không thể nói này chính là nói mà không trúng, vô hình vô tướng,
vốn là như nhau, không có cách phân biệt.
Nhưng mà bất khả thuyết ( không thể nói rõ ) là không có cách
nào khiến cho loài người cảm thấy được có hình tượng tồn tại, nên
vì vậy chỉ có thể miễn cưỡng dùng phù hiệu vô hình để làm đại
biểu, cho nên tôn giáo, Phật thần hoàn toàn chỉ là một phù hiệu vô
hình mà thôi. Nghiên cứu linh học, đem linh hồn không thể phân,
miễn cưỡng phân làm: linh hồn cao cấp ( linh giác ngộ ) – cảnh
giới của Phật, linh hồn trung cấp ( chánh linh ) – cảnh giới của thần,
linh hồn cấp thấp ( linh đục bẩn ) – cảnh giới của quỉ. Phân biệt
như thế là miễn cưỡng, nhưng mà quan niệm thì hơi rõ ràng, khiến
cho người ta dễ dàng hiểu rõ.
Như thế, tất cả các vấn đề hình tượng của tôn giáo, ví dụ như
Cực Lạc thế giới, thiên đàng, địa ngục…, đều có thể dùng phù hiệu
vô hình để mà ý hội, ví dụ như cảnh giới của linh giác ngộ là thế
giới Cực Lạc, cảnh giới của chánh linh là thiên đàng, cảnh giới của
linh đục bẩn là địa ngục. Theo tôi được biết, các bói đồng mà có
thần linh nhập xác, hơn phân nữa đều là cảnh giới hạ thấp nhất của
các linh hồn cấp thấp, cho nên đó là những con ma quậy đục bẩn,
năng lực của chúng là có hạn, không thể tin hoàn toàn.
139
050 Lại nói rõ thêm về linh toán
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Tôi ngừng phục vụ linh toán cho người ta, đã chừng khoảng 2
năm rồi, nhưng đến ngày hôm nay, cũng vẫn có rất nhiều người
nghe tin mà đến, những người viết thư gửi đến, mỗi ngày mấy chục
lá, cho nên, tôi không thể không nói rõ lần nữa, trong những quyển
sách kêu gọi của tôi, không nên có một chuyến đi oan uổng, tôi đã
quyết định không tiếp tục linh toán cho người ta nữa.
< Linh toán > chính là linh cơ thần toán, cũng chính là vận dụng
thiền định của tinh thần thống nhất, mượn dùng linh cảm < lực bên
cạnh > mà khởi thị, để được đáp án của sự việc chưa xong. Dùng
loại phương pháp < linh thị > này để chiêm bốc quá khứ vị lai cho
người ta, nó chính xác đến khiến cho mọi người kinh ngạc, có lúc
ngay cả người viết cũng than thần diệu lạ thường.
Nhưng mà, bởi do quá nổi tiếng, khiến cho những tên lưu manh
nhìn chằm chằm vào tôi, người bói tướng thì đố kỵ, rất nhiều
người dò thám, và đều làm tôi bị thương… Tôi tuy rằng đã nhịn và
nhịn, nhưng thật sự đã bị áp lực từ bên ngoài, bao vây đến nỗi
không còn thở được nữa ( đến ngày hôm nay để nói vậy, đã ngừng
2 năm rồi, nhưng, mỗi ngày vẫn có người đến nhà, không phân biệt
ngày đêm, bao vây không ngừng nghỉ, không có một chút yên ổn
nào )
Không mong muốn linh toán cho người ta, có rất nhiều lý do,
nhất là tôi linh toán cho người ta chỉ là do hứng thú ( càng chính
xác thì hứng thú càng cao ) thật sự là không có ý mượn ở đây để
nói bậy. Nhưng mà người nhiều miệng nhiều, thị phi cũng nhiều,
ví dụ như có người bạn họ Chu, 2 năm trước đến đây để chiêm bói
sự nghiệp, tôi khuyên anh ta đừng nên làm, nhưng mà mọi thứ anh
ta đều đã chuẩn bị sẵn, không thể không làm, tôi chỉ khuyên anh ta:
sự nghiệp hợp tác kinh doanh điện tử nếu thấy tốt thì nên kết thúc.
Bởi vì tôi được linh thị là quẻ < tiệm>, < quẻ tiệm > là quẻ thứ 53,
tự tìm phiền não, là quẻ đầu tốt đuôi xấu. Kết quả làm như tôi đã
dự đoán, sự nghiệp kinh doanh điện tử của anh ta, bước đầu còn
được, sau cùng vẫn là đổ nhào.
140
Sau khi đổ nhào, anh ta không trách cứ người góp vốn, cũng
không trách cứ nhân sự không kiện toàn, càng không trách móc
nghiệp vụ không hay, thậm chí không cần suy nghĩ thời thế của kẻ
kinh doanh, mà chỉ trách tôi đã điểm một đầu. Sự thật là, anh ta đã
ở vào thế phải làm, tôi khuyến cáo anh ta vốn không nghe. Bây giờ
vợ của anh ta, hễ gặp người là nói xấu tôi, lời nói của con người
thật là đáng sợ, tôi làm sao dám tiếp tục linh toán cho người ta đây?
Lại nói nghiên cứu linh học, tham khảo thật tướng sinh mạng, đây
chính là truy cầu chân lý của tánh học thuật. Nếu như dùng linh
toán chỉ dẫn mê lầm cho con người, cuối cùng hao sức lại không
được nhận lấy cái tốt, đó chính là tôi tự tìm phiền não.
Vì việc của người bạn họ Chu, tôi buồn rất lâu. Tôi nghĩ, tại sao
lúc đó không ngăn anh ta lại, có lẽ đại khái là tâm tánh của tôi quá
nhu nhược, không dám hỏi rồi lại tiếp tục hỏi anh ta. Tôi đọc <
Hàn Sơn Thập Đắc vấn đáp >, Hàn Sơn Tử hỏi Thập Đắc rằng: <
thế gian có người, đánh tôi, mắng tôi, sỉ nhục tôi, hiếp đáp tôi, doạ
tôi, lừa tôi, huỷ báng tôi, khinh tôi, lăng hư tôi, phi tiếu tôi, và đối
đãi với tôi không tốt, làm sao bình trị đây?> Thập Đắc đáp rằng:
<chỉ là nhịn hắn, nhẫn nại hắn, kính hắn, sợ hắn, tránh hắn, nhường
hắn, khiêm tôn hắn, đừng nhìn hắn, nhất vị do hắn, không cần đếm
xỉa hắn, đợi đến mấy năm sau, anh mới đi nhìn hắn>.
Tôi cảm thấy, bây giờ tôi chỉ có thể học thái độ của Thập Đắc,
phàm nhẫn nhục là được. Thời cổ, Chu công có thần toán, Khổng
Minh có đại trí mưu, nhưng, khó trách có sai lầm, làm người khó,
khó như lên trời xanh vậy.
141
051 Những lá thư mà tôi mắc nợ
(Lư Thắng Ngạn văn tập 030 Thiền thiên lư tạp ký)
Từ khi < sách linh > xuất bản đến nay, các đọc giả gửi thư đến
như tuyết rơi vậy, một lần nhiều nhất là 500 lá, ít nhất cũng 30, 40
lá, không có ngày nào ngưng cả, thư nhiều như vậy, tôi đều dùng
thùng giấy để đựng vào, tổng cộng đựng được hơn 10 thùng, nếu
như dùng phép tính những lá thư này, thật sự là không biết có thể
lên đến hàng vạn, có lẽ cũng đã đạt lên con số của thiên văn rồi.
( các lá thứ gửi đến bao gồm cả nhiều nước trên toàn thế giới )
Mỗi ngày, tôi nhìn những lá thư gửi đến này mà ngây người ra,
những cái này thành ra cái nợ mà tôi phải mang, e rằng cả một đời
này tôi mãi mãi không thể trả dứt hết những vật nợ ở mặt tình
người này. Trước tiên, tôi rất cảm kích các đọc giả khích lệ cho tôi,
cũng cảm ơn mọi người quan tâm chăm sóc đến tôi, nhưng mà thư
thì quá nhiều, tôi miễn cưỡng thục mạn mà hồi âm mấy lá thư,
nhưng, thư gửi đến nhiều hơn thư tôi hồi âm, như thế ngày này qua
ngày khác, những lá thư mà tôi mang nợ này, thì con số đã vượt
hơn 9 con số không.
Tình hình như thế, khiến cho tôi rất là kinh hoàng, có rất nhiều
bạn học thuở xưa khi gặp tôi thường mắng tôi rằng: <làm sao rồi,
chảnh quá rồi, thư cũng không thèm hồi đáp>, có rất nhiều đọc giả
gửi thư đến, là liên tục hai ba lá, có một người bạn ở thôn Đại Thố
Đài Trung, liên tục viết trên trăm lá thư, sự quan tâm nhiệt tình
như vậy, thật khiến cho người ta cảm động, nhưng vô tình đã làm
tăng thêm gánh nặng của tôi, gánh nặng tâm lý càng nặng thêm,
làm sao đây? Phải làm sao đây? Có rất nhiều đọc giả không nhận
được thư hồi âm của tôi, lại tiếp tục gửi thư đến, luôn luôn đem
theo những nụ hôn trách móc. Thất vọng của họ, càng khiến cho
tôi cảm thấy đau khổ, nhưng mà các đọc giả không biết đâu!
Những lá thư mà tôi mắc nợ, đã đạt đến con số thiên văn rồi.
Đã từng vì muốn giảm thiểu đau khổ, tôi đã từng thương lượng
với phóng viên Ngô Đông Hưng tiên sinh ở Nhật báo Dân Sinh, và
bạn học đại học họ Lý cùng với những người bạn học khác giúp đỡ
tôi, ở trên bìa của những lá thư được gửi đến, viết lên mấy câu với
142
nguyên nhân là không có cách nào hồi âm, để gửi trả về, như thế,
làm được khoảng hơn mấy ngàn lá, khiến họ mấy hết mấy ngày
mệt nhọc, nhưng mà, mấy ngày sau đó, ở trên bàn, lại xếp đầy
những lá thư, nhiều gấp mấy lần so với mấy ngàn lá thư của lần
trước.
Trong các đọc giả gửi thư đến, có mấy phần tử, có người là
khen ngợi và khích lệ ( loại này nhiều nhất ), có người thì lại cần
có yêu cầu ( phần tử này cũng không ít ), ngoài ra còn có một số ít
là thăm dò, cố ý không viết địa chỉ, không viết họ tên, yêu cầu rằng,
ngày … tháng … năm nào đó vào lúc mấy giờ, ở một địa điểm nào
đó gặp mặt, nếu như tôi đoán không trúng, thì chính là tôi thua,
suốt đời của hắn không tin Phật, nếu như tôi biết được địa chỉ họ
tên, mà lại biết được ngày tháng năm và giờ được chỉ định đó, quả
nhiên xuất hiện ở trước mặt hắn, thì hắn sẽ phục tôi, từ đó bắt đầu
tin Phật. Trời ơi! Đây có phải là trò chơi trốn tìm sao? Tôi một
người kể cả thư cũng không có cách hồi đáp, nợ thư cả một đám
người, làm sao mà lại chơi trò trốn tìm với bạn đây.
Tôi vốn là một người công chức, có nghề nghiệp chính đáng,
mỗi ngày đi làm và tan sở, chưa bao giờ đi trễ về sớm, ngoài ra
mỗi ngày thứ bảy và chủ nhật, tôi thích lên núi xem địa lý, quyển <
địa linh thám thắng và huyền lý > chính là ghi lại thực tế, lại trừ đi
thời gian ăn cơm và ngủ, tiếp tục mất thời gian với việc viết bài,
thử hỏi, tôi làm gì có thời gian đọc thư trả lời thư. Tôi ngoại trừ
cảm thấy có lỗi với các đọc giả ra, cũng không biết nói như thế nào.
(sự thật là tôi cũng đã cố gắng hết sức để giảm thiểu thời gian ngủ)
Đọc giả gửi thư đến, có rất nhiều câu hỏi không dễ dàng trả lời,
đồng thời cũng có đọc giả gửi đến hàng trăm câu hỏi, những câu
hỏi này, cũng như là thi cử vậy, từng câu hỏi một cũng khiến cho
đầu người ta to ra và nặng như núi vậy, khiến cho tôi, đứa học trò
này, khóc cũng không được, cười cũng không xong, rất nhiều đọc
giả gửi thư đến, hơn phân nửa là không có gửi kèm tem, nếu như
chưa gửi kèm tem, ít thì không sao, nhưng theo tình cảnh hiện nay
của tôi, nếu lương mỗi tháng của tôi chỉ có thể để mà chia ra mua
tem, thì sự thật là chỉ có thể đắp vào con số đuôi mà thôi, nó vốn
không đủ để chi.
143
Bây giờ, cuối cùng tôi cũng đã biết rằng, vì ứng phó hoàn cảnh
khó khăn trước mắt, tôi uỷ thác hãng in ấn in một tờ < thông báo
xin đọc giả hãy lượng thứ cho tôi >, nói rõ hoàn cảnh khó khăn,
nói rõ không có cách tiếp tục linh toán, mỗi một lá thư gửi đến, bèn
sẽ gửi một tờ thông báo, đây là nổi khổ bất đắc dĩ, xin hãy lượng
thứ, xin hãy lượng thứ, một vạn lời xin lỗi. Nói thật, tôi vẫn cần
phải có sự khích lệ và chỉ dạy của đọc giả, nhưng, cũng xin đọc giả
hãy lượng thứ cho tôi không có cách hồi đáp thư, tôi mắc nợ hàng
vạn lá thư của các đọc giả, tôi luôn luôn nhớ mãi trong lòng, tôi hy
vọng có thể hoá thành một dòng sông chảy xiết, một luồng lực
lượng, khiến cho tôi càng cố gắng hơn để làm công tác nghiên cứu
về linh học, kỳ vọng quang huy vạn trượng, chiếu sáng vô cùng vô
tận, như vậy mới xứng đáng với sự khích lệ và cổ vũ của đọc giả,
được chân lý vinh quang, tặng cho tất cả mọi người.
Tôi cảm thấy rất buồn cho những lá thư mà tôi đang mắc nợ.
Nhưng tôi vẫn thường niệm Phật
Dâng cho những người quan tâm đến tôi.
Chúc phúc mọi người.
144
052 Thư của người trí gửi đến
Một vị đọc giả
Lư tiên sinh:
Tuy rằng những ngày tháng học Phật của tôi không lâu, nhận
thức về Phật pháp cũng không sâu, nhưng lại cảm thọ được từ bi
của Phật và Bồ Tát. Tôi rất muốn đem cách nghĩ của tôi nói với
tiên sinh, nếu như nói rằng cách nghĩ của tôi là đúng, có một vài
điều đáng để cho anh tham khảo, vậy thì nên cám ơn những người
giác giữa trời và đất vậy! Tôi vốn không rõ lắm với những cách
nghĩ và quan niệm đến như thế nào, tôi đã phát qua tâm nguyện,
tâm như Bồ Tát, hành như Bồ Tát, lượng như Bồ Tát.
Nhưng tôi không phải là một người có đầy đủ huệ nhãn chân
chính, tâm của tôi hướng về chân lý, cũng thương trời xót người,
nhưng mà tôi vẫn thường hay mắc phải sai lầm, tôi rất buồn, theo
luật nhân quả, đã phạm sai thì phải thọ báo ứng, nhưng mà, bất
luận sau này tôi thọ loại khổ nào, tôi tin rằng, do lòng khổ tâm Bồ
Tát thử thách, hy vọng tôi trong cực đại khổ này siêu thoát ra ngoài.
Con người là phân chia thiện ác, nếu như nói tánh của con người
ban đầu là thiện, vậy thì nguyên nhân nào tạo ra một người ác?
Ngoại trừ ăn cơm, sinh tồn ra, tôi nghĩ còn có một cơ duyên, đó
chính là hoàn cảnh. Tôi không dám nói các nhân sĩ chánh trực cứ
la to đánh đổ tà ác là không đúng, nhưng mà động cơ tham thảo là
vì cái gì? Có bao gồm do bởi chính mình chịu sự đả kích mà dẫn
đến tâm lý báo phục và bài triết. Có rất nhiều phần tử trí thức, họ
có hoàn toàn hiểu rõ về đời người đối với cách nhìn của họ không
đây! Không cần phải nói trời đất vũ trụ, chỉ bao gồm nhân gian
thôi nó cũng đã bao gồm học vấn đếm không hết, nhân thời địa vật
mà loài người gặp phải, mỗi một việc đều bao hàm chân lý, họ ngộ
ra được bao nhiêu. Một con người từ vô minh đến chân tri, trong
gian đoạn này nhất định đều phải trải qua thử thách sai lầm, bởi vì
đích thật họ đã biết rằng nguyên nhân và động cơ khiến cho họ
bước sai và duy trì không được, ban cho họ một cảm thọ cũng là
một loại thu hoạch, đồng thời họ cũng có thể xác thật biết rằng,
làm sao để đi cứu vớt những người phạm cùng sai lầm như họ.
145
Nhìn từ tu hành đến khi đạt được chân lý, nếu như nói cần phải
trải qua vô số lần giai đoạn của < đời người >, mới đạt được vô
thượng đạo quả, vậy thì đổi một câu nói khác, hôm nay các đại đức
cao nhân mà chúng ta nhìn thấy, mấy kiếp trước của họ cũng nhất
định là làm qua một người ngu muội, bởi do không ngừng tu hành,
mới ở trong kiếp này đạt được lãnh ngộ hơi cao, như vậy thì cần gì
phải khoe khoang với người ta? Những kẻ ngu trong mắt của các
đại đức, nếu như họ cũng tu hành, có cơ duyên tốt, gặp được chân
minh sư, hoặc là có một ngày, anh ta cũng giống như họ vậy, thậm
chí còn vượt hơn anh ta nữa.
Bây giờ chúng ta may mắn được đứng ở mặt tốt, đối với những kẻ
ngu muội và tà ác, là phải mở lòng đồng cảm mà cứu vớt họ. Ai
mà không có lúc dùng lời vô ngữ mà hỏi ông trời, có một số người
thật sự là cần phải có chỉ dạy lẫn nhau và quan tâm, đối với những
người đã kích anh mà nói, từ một góc độ khác mà nhìn, bởi do họ
không ngừng công kích, dùng những lời mắng chửi sĩ nhục, để mà
thành tựu đạo hạnh của chúng ta, tính ra họ cũng là < đại công thần
>. Nhưng mà đợi đến khi chúng ta giác ngộ chân lý rồi, tâm linh
đạt được thăng hoa, còn họ bởi do anh có được việc thảm của nhân
quả báo ứng đau khổ, hãy thử nghĩ xem, chúng ta làm sao nhẫn
tâm một mình đắc chánh quả, mà không đi chỉ dạy và dẫn độ họ.
Khi anh gặp ngang trái, tôi cho rằng nhịn là tốt nhất, nhưng mà
không phải là cách tốt nhất, bởi vì nhịn, chỉ là khiến con người
đem luồng khí bất bình đè nén xuống, tuy rằng như thế có thể miễn
đi rất nhiều tranh luận không cần thiết, sân niệm trong lòng rất khó
bình phục, cho nên tôi cho rằng vì để tìm cầu trí tuệ chân chính, đó
chính là con đường giải quyết minh lý. Khi chúng ta tìm được đáp
án, trong lòng của chúng ta mới thật sự thản nhiên, đối với những
việc ngang trái tương tự tiếp tục đến nữa, chúng ta mới có thể dùng
công phu chân chính nhẫn nhịn để vượt qua, mà không sanh sân
niệm.
Đừng đau đầu với một đống thư đã gửi đến. Có từng nghĩ rằng
đó chính là kho báu khởi phát trí tuệ chăng. Một lá thư, không cần
biết có nội dung hay không, đối với anh mà nói, chính là một loại
thu hoạch, bao gồm động cơ, nội dung, phương thức, trình độ sâu
146
cạn và cảm thọ của anh với lá thư được gửi đến, lại cộng thêm
phân tích, đoán lý, phán đoán, mỗi một lá thư, chính là một đời
người.
Khi anh xem xong lá thư này, và khi có cảm thọ của < nho tử khả
giáo >, tôi nghĩ, anh cũng đã biết rằng, khổ tâm của anh không có
uổng phí, bởi vì tôi là sau khi xem xong sách linh, mới bắt đầu tin
Phật, mới theo cầu chân lý và giác ngộ. Chúc phúc anh, mong rằng
mùa hè năm Dân Quốc thứ 68( năm 1978 ), thời gian anh bế quan
ẩn tu đã mãn, tôi có thể nghe được những lời nói trí tuệ của anh.
Chúc
Tâm như Bồ Tát
Hành như Bồ Tát
Lượng như Bồ Tát.