32
LĂNG MHOÀNG GIA THI NGUYN TI HULăng mhoàng gia triu Nguyn là mt trong nhng bphn quan trng trong tng thkiến trúc kinh đô Huế - Di sn văn hóa thế gii được UNESCO tôn vinh tnăm 1993. Nói đến Huế, người ta không chnghĩ đến thành trì, cung đin, đàn miếu, chùa quán mà còn nghĩ ngay đến các khu lăng tm rng ln ca các vua Nguyn, nhng công trình kiến trúc đạt đến đỉnh cao ca nghthut truyn thng và shài hòa vi tnhiên. “Là tác phm ca nhng người dân lao động và nhng người ththcông khéo tay nht trong nước, nhng hthng kiến trúc y biu hin nhng biến tu độc đáo trên mt chđề thng nht. Mi mt lăng vua, vi tính cách riêng bit ca nó, là mt thành tu tuyt mca nn kiến trúc cnh vt hóa, và mi lăng tm khêu gi trong cm xúc ca khách tham quan mt âm vang đặc bit. Lăng Gia Long gia mt khu rng thiên nhiên bao la gi lên mt n tượng hùng tráng và thanh thn; lăng Minh Mng đầy vtrang nghiêm, và lăng TĐức gi cho khánh du ngon hn êm thơ mng” 1 . Là mt đối tượng quan trng như vy nên lăng tm triu Nguyn đã được không ít nhà nghiên cu txưa đến nay quan tâm, tìm hiu. Tuy nhiên, vn còn thiếu mt công trình nghiên cu tng th, nhìn nhn đánh giá mt cách toàn din vhthng kiến trúc độc đáo này. Kho cu dưới đây scgng khc phc khiếm khuyết trên, tuy vy, trong khuôn khmt bài viết, tác gichcgng đề cp nhng vn đề cơ bn và chung nht mà thôi. Ngun tư liu chính mà bài viết da vào chyếu là các tư liu do triu Nguyn biên son, gm: Khâm định Đại Nam hi đin sl欽定大南會典事例 (ca Ni Các 朝內閣), Đại Nam nht thng chí 大南一統誌, Đại Nam thc lc 大南實錄, Đại Nam lit truyn 大南列傳 Khâm định Đại Nam hi đin sltc biên 欽定大南會典事例 續編 ca Quc Squán 阮朝國史館), văn bia ti các khu lăng tm triu Nguyn. Ngoài ra, tác gicó tham kho thêm các nghiên cu ca các hc gingười Pháp đăng ti trên tp san ca Hi Người Yêu Huế Xưa (Bulletin des Amis du Vieux Hué- BAVH) cùng mt scông trình nghiên cu ca các hc giVit Nam tđầu thế kXX đến nay. Bài viết gm phn: 1-Dn, 2- Lch sxây dng; 3-Quy thc lăng tm và vt liu xây dng; 4-Nghi thc tang lvà thcúng; 5- Tương đồng và dbit; 6- Kết lun. I. Lch sxây dng nh hưởng sâu sc quan nim "sinh kí tquy" (sng gi, thác v), thàng ngàn năm trước, vua chúa Trung Hoa đã hết sc quan tâm đến vic xây dng lăng m-ngôi nhà thế gii bên kia ca h. Các tlăng m陵墓, lăng tm 陵寢... đều xut phát tTrung Quc. Lch scũng ghi nhn thàng ngàn năm trước Trung Quc đã có nhng ngôi lăng mvĩ đại, được xem là nhng kì quan ca phương Đông c, như lăng Tn Thy Hoàng, 1 Amadou Mahtar M’Bow, Vì công cuc bo v, gigìn, tu sa và tôn to di sn văn hóa ca Thành phHuế. UNESCO Press, 1981. 1

LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

Lăng mộ hoàng gia triều Nguyễn là một trong những bộ phận quan trọng trong tổng thể kiến trúc kinh đô Huế - Di sản văn hóa thế giới được UNESCO tôn vinh từ năm 1993. Nói đến Huế, người ta không chỉ nghĩ đến thành trì, cung điện, đàn miếu, chùa quán mà còn nghĩ ngay đến các khu lăng tẩm rộng lớn của các vua Nguyễn, những công trình kiến trúc đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật truyền thống và sự hài hòa với tự nhiên. “Là tác phẩm của những người dân lao động và những người thợ thủ công khéo tay nhất trong nước, những hệ thống kiến trúc ấy biểu hiện những biến tấu độc đáo trên một chủ đề thống nhất. Mỗi một lăng vua, với tính cách riêng biệt của nó, là một thành tựu tuyệt mỹ của nền kiến trúc cảnh vật hóa, và mỗi lăng tẩm khêu gợi trong cảm xúc của khách tham quan một âm vang đặc biệt. Lăng Gia Long giữa một khu rừng thiên nhiên bao la gợi lên một ấn tượng hùng tráng và thanh thản; lăng Minh Mạng đầy vẻ trang nghiêm, và lăng Tự Đức gợi cho khánh du ngoạn hồn êm thơ mộng” 1.

Là một đối tượng quan trọng như vậy nên lăng tẩm triều Nguyễn đã được không ít nhà nghiên cứu từ xưa đến nay quan tâm, tìm hiểu. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu một công trình nghiên cứu tổng thể, nhìn nhận đánh giá một cách toàn diện về hệ thống kiến trúc độc đáo này. Khảo cứu dưới đây sẽ cố gắng khắc phục khiếm khuyết trên, tuy vậy, trong khuôn khổ một bài viết, tác giả chỉ cố gắng đề cập những vấn đề cơ bản và chung nhất mà thôi.

Nguồn tư liệu chính mà bài viết dựa vào chủ yếu là các tư liệu do triều Nguyễn biên soạn, gồm: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ 欽定大南會典事例 (của Nội Các 阮朝內閣), Đại Nam nhất thống chí大南一統誌, Đại Nam thực lục大南實錄, Đại Nam

liệt truyện 大南列傳 và Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên 欽定大南會典事例續編 của Quốc Sử quán 阮朝國史館), văn bia tại các khu lăng tẩm triều Nguyễn.

Ngoài ra, tác giả có tham khảo thêm các nghiên cứu của các học giả người Pháp đăng tải trên tập san của Hội Người Yêu Huế Xưa (Bulletin des Amis du Vieux Hué- BAVH) cùng một số công trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay.

Bài viết gồm phần: 1-Dẫn, 2- Lịch sử xây dựng; 3-Quy thức lăng tẩm và vật liệu xây dựng; 4-Nghi thức tang lễ và thờ cúng; 5- Tương đồng và dị biệt; 6- Kết luận.

I. Lịch sử xây dựng Ảnh hưởng sâu sắc quan niệm "sinh kí tử quy" (sống gửi, thác về), từ hàng ngàn

năm trước, vua chúa Trung Hoa đã hết sức quan tâm đến việc xây dựng lăng mộ-ngôi nhà ở thế giới bên kia của họ. Các từ lăng mộ 陵墓, lăng tẩm 陵寢... đều xuất phát từ Trung Quốc. Lịch sử cũng ghi nhận từ hàng ngàn năm trước Trung Quốc đã có những ngôi lăng mộ vĩ đại, được xem là những kì quan của phương Đông cổ, như lăng Tần Thủy Hoàng,

1 Amadou Mahtar M’Bow, Vì công cuộc bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hóa của Thành phố Huế. UNESCO Press, 1981.

1

Page 2: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

lăng của Hán Võ Đế, lăng của Đường Cao Tông và Võ Tắc Thiên2.vv.. Do có lịch sử lâu đời và tồn tại như một dòng kiến trúc đặc thù, lăng mộ Trung Quốc từ rất sớm đã có những quy thức riêng và ở từng thời kì lịch sử cụ thể cũng có sự khác biệt. Đây là nguyên do kiến trúc lăng mộ Trung Quốc có nhiều phong cách khác nhau, như lăng mộ thời Tần-Hán; lăng mộ thời Tam Quốc; lăng mộ thời Đường-Tống; lăng mộ thời Minh -Thanh3.. . Do chịu ảnh hưởng từ lâu đời của văn hóa Trung Hoa, ở Việt Nam, kiến trúc lăng mộ cũng xuất hiện sớm. Khảo sát của giáo sư Chu Quang Trứ cho thấy, từ thời Ngô Quyền đã chú ý đến việc xây cất lăng mộ, còn lăng của các vua Trần ở Thái Bình thì đã được xây dựng với quy mô khá lớn. Ở các triều đại tiếp theo, lăng tẩm của vua chúa, hậu phi cũng luôn được xây dựng công phu, nhất là lăng tẩm của vua Lê ở vùng Lam Kinh, Thanh Hóa4. Tuy nhiên, phải đến thời Nguyễn (1802-1945), kiến trúc lăng mộ mới trở thành một dòng riêng và đạt đến những thành tựu độc đáo.

Thực ra từ trước đó, thời các chúa Nguyễn (1558-1775), đặc biệt là ở giai đoạn cuối, cùng với việc kiến thiết Huế trở thành Kinh đô của vương quốc Đàng Trong, vấn đề quy hoạch vị trí các lăng tẩm cho các chúa và phi đã được giải quyết khá hoàn chỉnh. Quan sát kỹ khu vực Huế trên Bình Nam Đồ 平南圖của Bùi Thế Đạt vẽ năm Gíap Ngọ (1774), chúng ta có thể thấy rõ điều này. Khi ấy, Đô thành Phú Xuân đã được xây dựng ở bờ bắc sông Hương (bên trong Kinh thành hiện nay), xây mặt về hướng nam; các khu buôn bán và cảng thị Thanh Hà nằm ở phía đông, phía hạ lưu sông Hương; còn đàn miếu của hoàng triều cùng lăng mộ các chúa và phi đều được bố trí ở phía tây và tây-nam, trên thượng nguồn sông Hương5. Nghĩa là quy hoạch đô thị Huế lúc ấy đã gần tương tự như dưới thời Nguyễn. Tuy nhiên, về mặt quy mô, lăng mộ của các chúa ở thời kì này chưa thể so sánh với lăng tẩm các vua Nguyễn sau đó. Đáng tiếc là hầu hết các lăng mộ chúa Nguyễn đều bị tàn phá dưới thời Tây Sơn và được tái cấu trúc lại dưới thời vua Nguyễn nên rất khó có thể đưa ra các nhận xét cụ thể hơn. Nhưng kết quả khảo sát các lăng mộ này vẫn đủ để chúng tôi khẳng định rằng, từ thời các chúa Nguyễn, ứng dụng phong thủy trong việc xây dựng lăng mộ đã được rất chú ý.

2 Lăng Tần Thủy Hoàng ở núi Ly Sơn, huyện Lâm Đồng, tỉnh Thiểm Tây, lăng có hai lớp thành bao bọc. Vòng thành ngoài chu vi 6 km, vòng thành trong chu vi 2,5 km. Lăng mộ hình khối vuông, bình diện đáy 345m x 350m, lăng cao 43m. Lăng của Hán Võ Đế (Mậu lăng 茂陵) ở vùng Quan Trung, quy mô tương đương lăng Tần Thủy Hoàng. Lăng mộ này cũng có bình diện gần như vuông, đáy 231m x 234 m, cao 46,5m. Càn lăng của Đường Cao Tông và Võ Tắc Thiên lấy cả ngọn núi Lương Sơn, cao 1047m so với mặt biển làm lăng. Quanh núi xây tường thành bao bọc, đường thần đạo của lăng dài đến 4 km. Đây là một trong những lăng mộ kỳ vĩ nhất của Trung Quốc. (Theo Dương Đạo Minh 楊道明, Trung Hoa lăng mộ khái luận 中華陵墓該論. In trong Trung Quốc Mỹ Thuật Toàn Tập, tập 2-Kiến trúc lăng mộ, bản chữ Hán. Trung Quốc Mỹ thuật xuất bản xã. Bắc Kinh-1995). 3 Lăng mộ thời Tần-Hán có quy mô to lớn, lăng mộ thời Tam Quốc không xây phần địa thượng 地上 (phần nấm mộ và các công trình bên trên); lăng mộ thời Đường nổi tiếng với phong cách đục núi làm lăng; lăng mộ thời Minh-Thanh chú ý nhiều đến kiến trúc phong cảnh..(xem Trung Hoa lăng mộ khái luận của Dương Đạo Minh, sđd). 4 Nguyễn Tiến Cảnh (chủ biên), Trần Lâm Biền, Chu Quang Trứ, Mỹ thuật Huế, Viện Mỹ thuật-Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xuất bản. Huế-1992. 5 Nổi bật tại khu vực thượng nguồn sông Hương là các địa danh Đoan Công Mộ 端公墓(tức mộ của Đoan quận

công Nguyễn Hoàng), Thụy Quận Mộ 瑞君墓(tức mộ của Thụy quận công Nguyễn Phúc Nguyên).

2

Page 3: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

Sau khi sáng lập ra triều Nguyễn, chính trên cơ đồ mà tổ tiên đã dày công xây đắp, vua Gia Long (1802-1820) đã cho xây dựng kinh đô Huế với quy hoạch gần tương tự như thời kỳ đô thành Phú Xuân của các chúa, nhưng quy mô lớn hơn rất nhiều.

Đối với việc kiến trúc lăng mộ, sau khi cho xây dựng lại hệ thống lăng các chúa và phi bị tàn phá trong thời Tây Sơn6, vua Gia Long đã tự chọn đất để xây dựng cho mình một “ngôi nhà vĩnh cửu” ở trong khu vực mà tổ tiên ông đã chọn làm nơi yên nghỉ cho họ Nguyễn, gọi là Thiên Thọ lăng 天授陵, bắt đầu từ năm 1814 và hoàn thành năm 1820. Khu lăng này về sau phát triển rộng ra, trở thành một quần thể với 7 khu lăng mộ khác nhau7, rộng đến 2.875ha, chủ yếu thuộc đất làng Định Môn, huyện Hương Trà, cách trung tâm Kinh thành gần 16 km. Đây cũng là vị trí xa nhất, vị trí tận cùng ở phía tây nam Kinh thành. Các vua Nguyễn về sau đều chọn các địa điểm gần Kinh thành hơn và đều nằm hai bên bờ sông Hương. Có thể nói rằng, vua Gia Long là người sáng lập ra triều Nguyễn, là người cho xây dựng Kinh thành Huế và đặt một số cơ sở đầu tiên cho các quy thức về kiến trúc lăng mộ. Tuy nhiên, những quy thức, định chế ấy về cơ bản là do vua Minh Mạng đặt ra và chúng tiếp tục được bổ sung bởi các vua Nguyễn đời sau. Năm 1840, vua Minh mạng bắt đầu cho khởi công xây dựng Hiếu Lăng 孝陵 cho

chính mình sau 14 năm đi tìm kiếm vùng đất tốt, tại núi Cẩm Kê 錦雞山 cạnh ngả ba Bằng Lãng. Tuy nhiên, việc xây cất mới bắt đầu thì nhà vua đột ngột băng hà. Vua Thiệu Trị (1841-1847) tiếp tục xây dựng khu lăng tẩm này. Hiếu Lăng được xây dựng chủ yếu từ năm 1840-1843, sau còn được hoàn chỉnh thêm. Tổng thể Hiếu lăng theo quy hoạch, rộng gần 500ha.

Năm 1847, vua Thiệu Trị băng hà sau 7 năm trị vì, vị hoàng đế kế vị là vua Tự Đức đã chọn vùng đất ở xã Cư Chánh, huyện Hương Thủy để xây dựng Xương lăng 昌陵 6Trong năm 1808, vua Nguyễn đã cho xây dựng lại17 lăng mộ của các chúa và phi. Năm 1812, lại cho xây dựng lăng Thoại Thánh và lăng Vĩnh Diên đồng thời cho sửa lại lăng Cơ Thánh (lăng mộ cha ruột vua Gia Long). Thời vua Minh Mạng và Thiệu Trị, lại cho sửa sang thêm vào các năm 1840 và 1841. Xem Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Bộ Công, quyến 216. 7 Quần thể 7 khu lăng này gồm:

Lăng Quang Hưng 光興陵 của bà Thái Tông Hiếu Triết Hoàng hậu Tống Thị Đôi, vợ thứ hai của chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1620-1687), thân mẫu của chúa Nguyễn Phúc Thái (Trăn). Lăng được xây khoảng năm 1680.

Lăng Vĩnh Mậu 永茂陵 của bà Anh Tông Hiếu Nghĩa Hoàng hậu Tống Thị Lãnh, vợ chúa Nghĩa Vương Nguyễn Phúc Thái (Trăn) (1650-1725). Lăng được xây năm 1696, sau khi bà mất.

Lăng Trường Phong 長豐陵 của Túc Tông Hiếu Ninh Hoàng đế Nguyễn Phúc Thụ (Trú) (1697-1738). Lăng được xây cũng trong năm 1738.

Lăng Thoại Thánh 瑞聖陵 của bà Hưng Tổ Hiếu Khương Hoàng hậu (1738-1811), vợ thứ hai của Nguyễn Phúc Côn (Luân) và là thân mẫu của vua Gia Long. Lăng được xây năm 1812.

Lăng Hoàng Cô 皇姑陵 của Thái Trưởng Công chúa Long Thành, chị ruột vua Gia Long. Lăng được xây khoảng năm 1825, sau khi bà mất.

Lăng Thiên Thọ 天授陵 của vua Gia Long và vợ ông, xây lần đầu năm 1814, sau xây bổ sung năm 1820.

Lăng Thiên Thọ Hữu天授右 của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, vợ thứ hai của vua Gia Long, mẹ vua Minh Mạng. Lăng được xây năm 1847.

3

Page 4: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

cho cha mình. Công việc xây lăng chủ yếu thực hiện trong năm 1848, sau có bổ sung thêm. Tổng thể lăng vua Thiệu Trị, bao gồm cả Hiếu Đông lăng 孝東陵 (lăng của bà Hồ Thị Hoa, thân mẫu nhà vua, được xây dựng từ trước, tôn tạo thêm trong các năm 1841-1843) có quy mô 475ha.

Từ năm 1864-1867, sau khi chọn được vùng đất “vạn niên cát địa” ở làng Dương Xuân, cách Kinh thành khoảng 7km, vua Tự Đức cho xây dựng Khiêm Cung 謙宮, chuẩn bị ngôi nhà vĩnh hằng cho chính mình. Khiêm Cung tồn tại như một ly cung từ năm 1867-1883, rồi mới trở thành Khiêm Lăng 謙陵 sau khi nhà vua băng hà và được an táng tại

đây. Năm 1884, triều Nguyễn xây thêm Bồi Lăng 陪陵 trong phạm vi Khiêm Lăng để an táng vua Kiến Phúc (vị vua này vốn là con nuôi của vua Tự Đức và chỉ tại vị trong 4 tháng); năm 1902, lại xây thêm Khiêm Thọ Lăng 謙壽陵 để an táng bà Lệ Thiên Anh hoàng hậu Võ Thị Duyên (chính thất của vua Tự Đức). Như vậy, khu lăng Tự Đức có đến 3 khu lăng tẩm khác nhau. Nếu tính chung cả khu vực lăng vua Đồng Khánh thì tổng diện tích toàn khu vực này cũng gần 500 ha.

Lăng vua Dục Đức, tên chữ là An Lăng 安陵, được vua Thành Thái (con trai nhà vua) cho xây dựng vào năm 1890 dưới chân núi Ngự Bình; sau đó bổ sung một số công trình vào năm 1899. Đây là lăng mộ được xây dựng đơn giản nhất, quy mô chỉ có 3.445m2. Về sau, người ta an táng thêm vua Thành Thái (vào năm 1954) và vua Duy Tân (cải táng năm 1987). Khu lăng mộ này không chỉ an táng 3 vị vua (cũng là ba thế hệ tiếp nối ông-cha-con) mà còn có nhiều thành viên trong gia đình. Khu lăng này chỉ cách Kinh thành 3km về phía nam.

Lăng vua Đồng Khánh, tên chữ là Tư Lăng 思陵, được xây dựng từ năm 1889, sau

khi vị vua này băng hà, tuy nhiên điện thờ chính thì sử dụng luôn điện Truy Tư追思殿 vốn là điện thờ thân phụ nhà vua-ông Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai) làm tẩm điện, (đổi tên là điện Ngưng Hy凝禧殿). Thời vua Khải Định (1916-1925), triều đình cho xây dựng lại phần lăng mộ bằng các vật liệu mới, chủ yếu trong các năm 1916-1917. Đây là khu lăng mộ nằm kế bên lăng vua Tự Đức và vẫn được xem là cùng khu vực bảo vệ của khu lăng này.

Lăng vua Khải Định, tên chữ là Ứng Lăng 應陵, ở vùng Châu Ê, được chính nhà vua chọn đất và cho khởi công xây dựng từ năm 1920. Sau khi vua băng hà và được an táng vào năm 1925, công trình được tiếp tục xây dựng đến năm 1931 mới hoàn thành. Đây là khu lăng được xây dựng muộn nhất nhưng cũng có thời gian lâu nhất của triều Nguyễn.

Về quy trình xây dựng các lăng tẩm, do thiếu tư liệu nên chưa rõ thời chúa Nguyễn được tiến hành ra sao, còn quy trình xây dựng lăng tẩm thời Nguyễn thì khá đồng nhất, bao gồm các công đoạn sau:

- Tìm đất: Đây là công việc hết sức hệ trọng, tư liệu cho thấy hầu hết các lăng đều được chọn lựa vị trí rất công phu. Triều Nguyễn gọi đây là cuộc đất Vạn niên cát địa 萬年吉地, nên dốc rất nhiều sức lực để kiếm tìm. Các thầy địa lý, quan lại đại thần giỏi về

4

Page 5: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

phong thủy đều được huy động tham gia công việc này. Lăng vua Gia Long do Lê Duy Thanh黎維清, con trai của Lê Quý Đôn 黎貴惇tìm ra; lăng vua Minh Mạng thì do đại

thần Lê Văn Đức 黎文德tìm ra sau 14 năm tìm kiếm! Qúa trình tìm kiếm khu đất Vạn

niên cát địa đều được tường thuật rõ trong văn bia Thánh đức thần công 聖德神功碑 dựng tại các lăng. Sau khi chọn được đất quý, đích thân hoàng đế sẽ xem xét, quyết định phê duyệt, đổi tên đất, tên núi cho phù hợp8.

- Vẽ bản đồ địa cuộc, xác định vị trí đặt huyệt, quy hoạch các khu vực. Công việc này phần lớn do đích thân hoàng đế quyết định và bộ Công là cơ quan triển khai (trừ lăng vua Thiệu Trị, Dục Đức và Đồng Khánh do họ đột ngột băng hà).

- Tiến hành xây dựng, bao gồm cả khâu chuẩn bị và chuyên chở vật liệu xây cất. Các vật liệu chính là gỗ, tre, gạch đá, ngói lợp, gốm sứ… Và chủ yếu được vận chuyển theo đường sông Hương để lên các khu lăng. Việc xây lăng bao giờ cũng huy động tài lực của cả quốc gia, tập trung các vật liệu tốt, thợ khéo từ các địa phương (như đá Thanh Hóa, gạch Bát Tràng, gỗ lim Thanh-Nghệ… Thời Khải Định, triều đình còn nhập khẩu gốm sứ, ngói lợp từ châu Âu về). Lễ khởi công được xem là thời điểm xây dựng lăng.

Người ta thường xây khu tẩm điện (phục vụ nghỉ ngơi, thờ cúng) trước, sau khi nhà vua băng hà mới xây Huyền cung, an táng và hoàn chỉnh các công trình ở khu vực lăng như nhà bia, tượng người, voi, ngựa. Tuy nhiên, cũng có trường hợp nhà vua băng hà đột ngột thì triều đình cho xây phần Huyền cung trước, sau đó mới hoàn chỉnh các phần khác.

- Sau khi hoàn thành, triều đình tổ chức lễ tạ Sơn thần/Thổ thần (mỗi khu lăng đều có miếu thờ Sơn thần, vị thần được giao nhiệm vụ trông giữ khu vực lăng tẩm)

Nhìn chung các khu lăng tẩm thời Nguyễn đều được xây dựng trong thời gian khá dài, lăng Gia Long 6 năm (1814-1820), lăng Minh Mạng 4 năm (1840-1843), lăng Tự Đức 4 năm (1864-1867), lăng Khải Định 11 năm (1920-1931)... và còn được bổ sung, tu bổ trong nhiều giai đoạn khác nhau.

Như vậy, các lăng tẩm của triều Nguyễn tại Huế được xây dựng trong hơn 100 năm, chủ yếu từ đầu thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 (chưa kể các lăng tẩm của chúa Nguyễn được xây dựng từ thế kỷ 18). Đây là giai đoạn đỉnh cao cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam, cũng là giai đoạn tiếp thu mạnh mẽ những yếu tố văn minh bên ngoài, nhất là văn minh phương Tây. Chính vì vậy, quy thức lăng mộ cũng mang nhiều đặc điểm độc đáo, vừa kế thừa những yếu tố truyền thống, vừa có những điểm mới lạ do tiếp thu các yếu tố văn hóa ngoại lai.

II. Quy thức lăng tẩm và vật liệu xây dựng II.1. Tên gọi - Danh xưng chung: Có một chi tiết lịch sử thời Nguyễn mà một số nhà nghiên cứu

thường nhắc tới, khi luận tội Lê Văn Duyệt, quần thần triều Minh Mạng đã gán cho ông tội “khi quân” vì đã dám “tiếm gọi mộ mẹ là lăng”. Điều đó chứng tỏ quy chế về cách 8 Chẳng hạn sau khi tìm được khu đất xây lăng ở núi Định Môn 定門山, vua Gia Long cho đổi tên thành Thiên Thọ

Sơn 天授山; khi tìm được đất ở núi Cẩm Kê錦雞山, vua Minh Mạng đổi tên thành Hiếu Sơn 孝山; vua Tự Đức thì

đổi tên núi Cư Chánh 居政山 thành Thuận Đạo Sơn 順道山sau khi chọn được đất để xây Xương lăng cho cha mình;

núi Dương Xuân 楊春山thì được đổi tên thành Khiêm Sơn 謙山.vv..

5

Page 6: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

dùng danh xưng chung chỉ lăng mộ thời kỳ này đã rất chặt chẽ. Chỉ có mộ của hoàng đế, hoàng hậu mới được gọi là lăng 陵hay sơn lăng山陵. Mộ của thân vương, phi, tần chỉ

được gọi là tẩm9寢, còn của thần dân, không phân biệt giàu nghèo đều gọi là mộ墓. Xem sách Đại Nam nhất thống chí, có thể thấy rõ, toàn bộ phần viết về lăng mộ các hoàng đế, hoàng hậu triều Nguyễn đều xếp chung trong phần Sơn lăng 山陵. Còn bộ Khâm định

Đại Nam hội điển sự lệ thì dành hẳn một quyển Lăng tẩm陵寢 (quyển 216) với 5 nội dung : Quy Chế, Lệnh Cấm, Xây Dựng, Quy Thức Viên Tẩm và Cây Trồng, để bàn về vấn đề này. Thời Tự Đức trở về sau, bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, có bổ sung thêm các quy định về viên tẩm, sinh phần, mộ cho các đối tượng là thân vương, quan lại.

Thực ra, quy chế về danh xưng lăng mộ đã có từ rất lâu đời và nó có nguồn gốc trực tiếp từ Trung Hoa. Theo Từ Nguyên từ điển: “ Thời Tần gọi mộ Thiên tử là Sơn山,

từ thời Hán về sau mới gọi là Lăng陵”, các chữ Sơn lăng山陵, Thọ lăng壽陵, Lăng viên

陵園, Lăng tẩm 陵寢..cũng có nguồn gốc từ đó. Đến thời Minh-Thanh, các quy chế về lăng mộ của Trung hoa đã rất hoàn chỉnh. Các quy chế lăng mộ của triều Nguyễn đều tham khảo từ hệ thống quy chế này, dĩ nhiên cũng đã có những sự điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh nước ta.

- Tên gọi riêng Ngày nay chúng ta vẫn quen gọi lăng mộ vua chúa, hậu phi thời Nguyễn kèm theo

niên hiệu, miếu hiệu, thậm chí cả theo tên huý của họ, như lăng Gia Long, lăng Minh Mạng, lăng Tự Đức, lăng Thuận Thiên, lăng Từ Dũ, lăng Nguyễn Hoàng .vv.. . Thực ra, hầu hết các lăng này đều được đặt tên. Sách Đại Nam nhất thống chí (bản Duy Tân năm thứ 9) kê ra đến 30 lăng có tên gọi riêng. Thời chúa Nguyễn có 19 lăng là các lăng : Trường Cơ 長基, Vĩnh Cơ永基 của chúa Nguyễn Hoàng và Hoàng hậu10; Trường Diễn長衍, Vĩnh Diễn永衍 của chúa Nguyễn Phúc Nguyên và Hoàng hậu; Trường Diên長延,

Vĩnh Diên 永延của chúa Nguyễn Phúc Lan và Hoàng hậu; Trường Hưng長興, Vĩnh

Hưng永興, Quang Hưng 光興của chúa Nguyễn Phúc Tần và hai Hoàng hậu; Trường Mậu

長茂, Vĩnh Mậu 永茂của chúa Nguyễn Phúc Thái và Hoàng hậu; Trường Thanh長清,

Vĩnh Thanh 永清của chúa Nguyễn Phúc Chu và Hoàng hậu; Trường Phong長豐, Vĩnh

Phong 永豐của chúa Nguyễn Phúc Thụ (Trú) và Hoàng hậu; Trường Thái長泰, Vĩnh

Thái 永泰của chúa Nguyễn Phúc Khoát và Hoàng hậu; Trường Thiệu長紹 của chúa

9 Mộ các chúa Nguyễn và các phi cũng được tôn xưng là Lăng, vì họ đều được triều Nguyễn truy tôn là Hoàng đế, hoàng hậu. Có một trường hợp tuy không phải là lăng Hoàng đế, hoàng hậu nhưng vẫn được sách Đại Nam nhất thống chí liệt kê trong phần Sơn lăng là “Sơn phần Tuệ Tĩnh Thánh Mẫu Nguyên Suý tại vùng núi xã An Cựu huyện Hương Trà”, nhưng bà này cũng vốn là một công chúa. 10 Khi chép về lăng tẩm các chúa, sách Đại Nam nhất thống chí đều đã gọi các chúa và Phu nhân theo miếu hiệu của họ sau khi đã được triều Nguyễn truy tôn, như Thái tổ Gia dụ Hoàng đế (Nguyễn Hoàng)... Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyến 96, phần bộ Lễ cũng có phần chếp tên gọi các lăng tẩm tương tự.

6

Page 7: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

Nguyễn Phúc Thuần và lăng Cơ Thánh 基聖của thân sinh vua Gia Long - ông Nguyễn Phúc Luân (Côn).

Thời vua Nguyễn có 15 lăng có tên gọi riêng là : lăng Thoại (Thụy) Thánh 瑞聖陵của thân mẫu vua Gia Long; lăng Thiên Thọ (Thụ) 天授陵của vua Gia Long và bà Thừa

Thiên Cao hoàng hậu; lăng Thiên Thọ Hữu天授右 của bà Thuận Thiên Cao hoàng hậu;

lăng Hiếu 孝陵của vua Minh Mạng; lăng Hiếu Đông 孝東陵của bà Tá Thiên Nhân hoàng

hậu; lăng Xương 昌陵của vua Thiệu Trị; lăng Xương Thọ昌壽陵 của bà Nghi Thiên

Chương hoàng hậu; lăng Khiêm 謙陵của vua Tự Đức; lăng Khiêm Thọ 謙壽陵của bà Lệ

Thiên Anh hoàng hậu; lăng An 安陵của vua Dục Đức; lăng Bồi 培陵của vua Kiến Phúc;

lăng Tư 思陵của vua Đồng Khánh; lăng Tư Minh 思明陵của bà Phụ Thiên Thuần hoàng

hậu (tức bà Thánh Cung Nguyễn Thị Nhàn); lăng Tư Thông 思聰陵của bà Hựu Thiên

Thuần Hoàng hậu (tức bà Tiên Cung Dương Thị Thục) và lăng Ứng 應陵của vua Khải Định11.

Về cách đặt tên riêng cho từng lăng của thời Nguyễn cũng thể hiện rất phức tạp. Các lăng thời chúa Nguyễn đều bắt đầu bằng chữ TRƯỜNG 長- dành cho chúa và chữ

VĨNH 永- dành cho bà phi vợ chúa. Đây là cách thức đặt tên khá phổ biến của lăng mộ đế vương Trung Hoa. Nhưng từ các hoàng đế triều Nguyễn thì dường như không hoàn toàn theo một quy tắc chung nào cả, dù thực chất tên các lăng thời chúa đều được đặt dưới thời vua Nguyễn (năm Gia Long thứ 7-1808).

Cách đặt tên lăng thời các vua Nguyễn có lẽ chịu ảnh hưởng nhiều của cách đặt tên lăng thời Minh. Vua Gia Long chọn cho "ngôi nhà vĩnh cửu" của mình cái tên Thiên Thọ, đặt ngay trên ngọn núi cùng tên - đây cũng là tên cụm núi chính của quần thể "Thập Tam lăng 明十三陵" thời Minh. Tuy nhiên, thời Minh lại khởi đầu bằng Hiếu lăng 孝陵 của người sáng lập ra triều đại - Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương - ở phía nam thành Phụng Dương, tỉnh An Huy (gần Nam Kinh); mười ba lăng còn lại, bắt đầu bằng Trường Lăng長陵 đều quy tập tại Bắc Kinh trong cụm "Thập Tam lăng". Theo chúng tôi, rất có thể vua Gia Long đã có ý đồ quy hoạch toàn bộ khu vực rộng lớn quanh Thiên Thọ Sơn 天授山 làm nơi xây dựng lăng tẩm cho dòng họ Nguyễn, nhưng ý đồ này đã không được các vua Nguyễn về sau thực hiện.

Triều Nguyễn, sau Thiên Thọ lăng mới đến Hiếu lăng, rồi các lăng Xương, Khiêm, Bồi, Tư, An, Ứng. Từ tên gọi đến thứ tự cách đặt tên đều không rập khuôn bất cứ triều đại nào của Trung Hoa. Sự khác nhau nổi bật về tên gọi các lăng hoàng đế Nguyễn từ thời Gia Long trở về trước và từ thời Minh Mạng trở về sau là tên kép (Trường Cơ, Trường Thanh, Thiên Thọ...) và tên đơn (Hiếu, Xương, Khiêm, Bồi..), còn về tên lăng hoàng hậu

11 Ứng lăng chưa được liệt kê trong sách này.

7

Page 8: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

thì không có gì khác biệt, đều dùng tên kép (Vĩnh Cơ, Vĩnh Thanh, Thiên Thọ Hữu, Hiếu Đông...). Tuy nhiên về cách bố trí và đặt tên lăng các hoàng hậu triều Nguyễn, từ Gia Long trở về sau cũng có sự thay đổi đáng chú ý: Nếu lăng vua Gia Long gọi là Thiên Thọ Lăng và lăng Hoàng hậu Thuận Thiên được đặt ở bên hữu (phía tây) lăng này, gọi là Thiên Thọ Hữu Lăng thì lăng Hoàng hậu của vua Minh Mạng lại được đặt ở bên tả (phía đông, dù ở cách khá xa) của Hiếu Lăng và được gọi là Hiếu Đông Lăng. Việc thay đổi này là sự điều chỉnh theo quy chế lăng thời Thanh.

Về thời gian đặt tên, trừ trường hợp lăng các chúa và phi mãi đến thời Gia Long mới được truy tôn, còn hầu hết các lăng hoàng đế, hoàng hậu triều Nguyễn, ngay sau khi lăng được xây dựng, triều thần sẽ họp bàn và dâng tên hiệu để vua chọn. Tuy nhiên, cũng có trường hợp đặc biệt như Khiêm lăng của vua Tự Đức, sau khi xây dựng gần 16 năm vẫn mang tên là Khiêm cung do chủ nhân của nó vẫn còn tại thế. II.2. Quy mô, cấu trúc và vật liệu xây dựng Triều Nguyễn có quy định khá cụ thể về quy mô, cấu trúc các loại hình lăng tẩm của hoàng gia. Về cơ bản, có thể chia thành 3 loại: 1-Lăng các chúa Nguyễn và phi12; 2-Lăng các vua Nguyễn và hoàng hậu; 3- Tẩm của các thành viên khác thuộc hoàng gia (hoàng tử, công chúa, thân vương, thân công, phi, tần, tiệp dư..). Dưới đây tôi sẽ đề cập cụ thể về quy mô, cấu trúc của từng loại hình. II.2.1 Lăng các chúa Nguyễn Do cùng được xây dựng lại dưới đầu triều Nguyễn nên quy mô, cấu trúc lăng các chúa Nguyễn và phi về cơ bản tương tự như nhau. Các lăng này đều phân bố ở phía tây, tây nam Kinh thành, dọc hai bờ sông Hương. Mỗi lăng đều có 2 lớp tường thành hình chữ nhật bao bọc, xây bằng đá núi, gạch vồ; trước mặt và sau lưng đều có bình phong xây gạch đá che chắn; bình phong sau bao giờ cũng gắn liền với lớp thành ngoài; bình phong trước thì dựng độc lập. Nấm mộ (gọi là Bảo phong) xây hình khối chữ nhật, giật 2-3 cấp; trước mặt Bảo phong có án bằng đá hoặc xây gạch. Tại các khu lăng thời chúa Nguyễn không thấy có công trình kiến trúc gỗ.

Kích thước cụ thể của các lăng chúa Nguyễn như sau: - Lăng Trường Cơ: tức lăng Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế-Nguyễn Hoàng 阮黃

(1525-1613). Lăng thuộc địa phận “xã La Khê, huyện Hương Trà”13, nay là làng La Khê, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà. Nguyên trước “lăng ở núi Thạch Hàn, huyện Vũ Xương”, tỉnh Quảng Trị, về sau mới dời đến vị trí này. Lăng nằm bên tả ngạn dòng Tả Trạch, cách bờ sông chừng 300m, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 10km đường chim bay về phía tây-nam. Lăng xoay mặt về hướng chính bắc. Lăng có hai vòng thành hình chữ nhật bao bọc. Vòng ngoài xây bằng đá bazan, phần mũ tường xây bằng gạch vồ. Chu vi :”36 trượng 9 thước 2 tấc14” (đo trên thực tế là 156,5m-sau đây các số liệu trong ngoặc đều là số đo thực tế của chúng tôi-PTH), thành “cao 6 thước 3 tấc” (260cm). Vòng trong xây hoàn toàn bằng gạch vồ, chu vi “16 trượng 4 thước 2 tấc”(69,5m), thành “cao 5 thước” (205cm). Mộ được xây bằng gạch vồ và vôi vữa. Mộ thấp, phẳng, xây làm 2 tầng, 12Do lăng các chúa (và phi) đều được tái xây dựng lại đầu triều Nguyễn nên chúng ta không biết đích xác quy mô nguyên thủy lăng tẩm của các chúa, các quy định cụ thể về quy mô, cấu trúc lăng mộ đều thực hiện dưới triều Nguyễn. 13 Những trích dẫn trong ngoặc kép đều lấy từ sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, phần bộ Công, quyển 216. 14 Trong thời Nguyễn, trước năm 1898, mỗi trượng tương đương 4,24m, một thước là 0,424m. Từ năm 1898 trở đi, theo quy định mới, mỗi thước công bằng 0,400m, mỗi trượng là 4m.

8

Page 9: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

hình khối chữ nhật. Từ trên xuống: Tầng 1: rộng 172cm, dài 248cm,cao 25cm. Tầng 2: rộng 222cm, dài 303cm, cao 30cm. Trước mộ xây một hương án chân quỳ, cao 90cm, rộng 110cm, dài 214cm. Lăng trổ một cửa phía trước, sau cửa xây một bình phong, mặt trước bình phong trang trí long mã ghép sành sứ. Sau lưng mộ cũng có bình phong trang trí rồng.

Lăng Trường Cơ

Tổng thể khu vực Kinh thành và lăng tẩm

-Lăng Trường Diễn: tức lăng của Hy Tôn Hi

Nguyên 阮福源(1563-1635). Ở địa phận “núi xã Hải CHải Cát, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà. Trước kiĐiền, sau mới dời về đây. Lăng nằm ở phía tả ngạn s350m, cách trung tâm thành phố Huế 6km đường chimvề phía nam. Lăng cũng gồm hai vòng tường thành, mtự như lăng Trường Cơ, nhưng vòng thành trong cũnggạch vồ. Vòng ngoài “chu vi 28 trượng 4 thước 2tấc”(250cm). Vòng trong “chu vi 15 trượng 7 thưthước”(202cm). Mộ cũng được xây 2 bậc, kiểu thức tựarộng 210cm, dài 322cm, cao 17cm. Tầng 2: rộng 259cmtrước mộ xây thấp. Bình phong hiện không còn thấy tra

-Lăng Trường Diên: tức lăng của Thần Tôn HLan 阮福蘭(1601-1648). Ở địa phận “núi An Bằng, pKim Ngọc, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà. Lăng nằmbờ sông gần 2km, cách trung tâm thành phố Huế khoảtây nam. Lăng xoay mặt về hướng bắc. Kiểu thức xâylăng trên. Vòng ngoài “chu vi 29 trượng 3 thước 4 tấtấc” (251cm). Vòng trong “chu vi 16 trượng 1thướ(198cm). Mộ 2 tầng: Tầng 1 rộng 170cm, dài 214cm, c310cm, cao 23cm.

-Lăng Trường Hưng: tức lăng của Thái Tôn HTần 阮福秦(1620-1687), dân gian quen gọi là lăng Chíxã Hải Cát, phủ Thừa Thiên”, nay là thôn Hải Cát, xã H

Lăng Trường Thái

ếu Văn Hoàng Đế-Nguyễn Phúc át, huyện Hương Trà”, nay là thôn a lăng ở Sơn Phận, huyện Quảng ông Hương, cách bờ sông khoảng bay về phía tây nam. Lăng xoay

ô thức và vật liệu xây dựng tương xây bằng đá bazan, phần mũ xây tấc” (120,5m), “cao 6 thước 3 ớc 6 tấc”(66,9m), thành “cao 5 như mộ lăng Trường Cơ. Tầng 1: , dài 372cm, cao 23cm. Hương án

ng trí. iếu Chiêu Hoàn Đế Nguyễn Phúc hủ Thừa Thiên”, nay thuộc thôn bên tả ngạn dòng Tả Trạch, cách

ng 11km đường chim bay về phía dựng lăng mộ tương tự như hai

c”(124,5m), thành “cao 6 thước 3 c”(68,3m). Thành “cao 5 thước” ao 27cm. Tầng 2: rộng 187cm, dài

iếu Triết Hoàng Đế Nguyễn Phúc n Chậu. Lăng thuộc địa phận “núi ương Thọ, huyện Hương Trà, nằm

9

Page 10: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

ở tả ngạn sông Hương, cách bờ sông khoảng 800m, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 7km về phía tây nam. Lăng xoay mặt về hướng đông bắc. Lăng Trường Hưng mới được Nguyễn Phúc Tộc trùng tu năm 1996. Trong đợt trùng tu này có dựng thêm bia mộ bằng đá. Mặt trước bia đề dòng chữ Hán: “Thái Tông Hiếu Triết Trường Hưng Lăng 太宗孝哲長興陵”. Mặt sau có khắc tiểu sử và công trạng của chúa Nguyễn Phúc Tần bằng tiếng Việt. Mộ gồm 2 tầng, kiểu thức tương tự các lăng trên, nhưng trong đợt trùng tu vừa qua có làm 1 tầng dưới khá rộng. Tầng 1: rộng 193cm, dài 271cm, cao 22cm. Tầng 2: rộng 241cm, dài 326cm, cao 18cm. Tầng 3: rộng 345cm, dài 433cm, cao 7cm. Hai vòng thành bao quanh mộ có kiểu thức xây dựng tương tự các lăng vừa mô tả. Vòng ngoài “chu vi 25 trượng 9 thước 6 tấc” (210m), thành “cao 6 thước 3 tấc” (257cm). Vòng trong “chu vi 12 trượng 4 thước 3 tấc” (52,8m), thành “cao 5 thước” (197cm). Phía trước lăng, bên ngoài hai vòng thành có một khoảng sân nhỏ. Trên sân có xây 10 chiếc chậu để trồng hoa và cây cảnh (vốn xưa chỉ có 9 chiếc nên dân gian mới gọi là lăng Chín Chậu). Phía trước còn có hệ thống bậc cấp đi lên sân gồm 7 bậc. Bậc cấp này mới được tu sửa lại.

-Lăng Trường Mậu: tức lăng của Anh Tôn Hiếu Nghĩa Hoàng Đế Nguyễn Phúc Thái 阮福泰(1650-1691). Lăng thuộc địa phận “núi Kim Ngọc, huyện Hương Trà”, nay thuộc thôn Kim Ngọc, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, nằm ở phía tả ngạn dòng Tả Trạch, cách bờ sông chừng 1,5km, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 11km đường chim bay về phía tây nam. Lăng nằm trên một quả đồi cao, xoay mặt về hướng bắc, trước mặt lăng có hồ rộng. Cả lăng và mộ đều có kiểu thức xây dựng tương tự các lăng mộ trên. Nghĩa lăng có 2 vòng thành bao bọc, mộ phẳng, thấp, chia làm 2 tầng. Vòng ngoài “chu vi 28 trượng 7 thước 2 tấc”(121,7m), thành “cao 6 thước 3 tấc” (250cm). Vòng trong “chu vi 15 trượng 8 thước 6 tấc” (67m), thành “cao 5 thước” (198cm). Mộ 2 tầng chữ nhật: Tầng 1: rộng 275cm, dài 350cm, cao 23cm. Tầng 2: rộng 534cm, dài 650cm, cao 18cm. Phía trước mộ có xây hương án, sau cổng có bình phong long mã tương tự các lăng trên.

-Lăng Trường Thanh: tức lăng của Hiển Tôn Hiếu Minh Hoàng đế Nguyễn Phúc Chu 阮福周(1675-1725). Lăng thuộc địa phận “núi Kim Ngọc, huyện Hương Trà”, nay thuộc thôn Kim Ngọc, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, nằm ở tả ngạn dòng Tả Trạch, cách bờ sông 800m, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 10,5km đường chim bay về hướng tây nam. Lăng nằm trên đồi cao, xoay mặt về hướng đông nam, trước mặt là đồng ruộng. Kiểu thức lăng mộ tương tự các lăng mộ trên. Vòng thành ngoài của lăng “chu vi 28 trượng 4 thước 2 tấc”(120,5m), thành “cao 5 thước”(196cm). Vòng thành trong “chu vi 16 trượng 6 tấc”(70,3m), thành “cao 5 thước” (205cm). Mộ: Tầng 1: rộng 136cm, dài 212cm, cao 22cm. Tầng 2: rộng 193cm, dài 258cm, cao 27cm. Bình phong và hương án của lăng vẫn còn khá nguyên vẹn và rất đẹp.

-Lăng Trường Phong: tức lăng của Túc Tôn Hiếu Ninh Hoàng Đế Nguyễn Phúc Chú (Thụ) 阮福寿(1697-1738). Lăng ở “núi Định Môn, huyện Hương Trà”, nay thuộc làng Định Môn, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, ở tả ngạn dòng Tả Trạch, bên cạnh khe Trường Phong, cách bờ sông gần 2km, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 12km về phía nam. Lăng xoay mặt về hướng chính bắc. Mô thức xây dựng lăng tương tự các lăng chúa khác. Vòng ngoài “chu vi 28 trượng 2 thước”(121m), thành “cao 6 thước 3 tấc” (253cm). Vòng thành trong “chu vi 15 trượng 3 thước 2 tấc” (66,5m), thành “cao 5 tấc”

10

Page 11: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

(202cm). Mộ: Tầng 1: rộng 145cm, dài 251cm, cao 20cm. Tầng 2: rộng 210cm, dài 271cm, cao 22cm. Trước mặt lăng có một chiếc sân hình chữ nhật (7,5mx28m) và có hệ thống 18 bậc cấp để lên sân.

-Lăng Trường Thái: tức lăng của Thế Tôn Hiếu Vũ Hoàng Đế Nguyễn Phúc Khoát阮福闊 (1714-1765). Lăng ở “núi La Khê, huyện Hương Trà”, nay là làng La Khê, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, nằm ở tả ngạn dòng Tả Trạch, cách bờ sông khoảng 500m, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 10,5km đường chim bay về hướng tây nam. Lăng cũng nằm trên một quả đồi cao, xoay về hướng chính bắc, trước mặt là đồng ruộng. Mô thức xây dựng lăng không khác gì các lăng trên. Vòng thành bao bọc bên ngoài “chu vi 29 trượng 9 thước 2 tấc” (126,8m), thành “cao 6 thước 3 tấc” (253cm). Vòng trong “chu vi 14 trượng 4 thước 2 tấc” (61,2m), thành “cao 5 thước” (145cm). Hai tầng mộ: Tầng 1 rộng 250cm, dài 325cm, cao 28cm. Tầng 2 rộng 510cm, dài 610cm, cao 20cm. Bình phong trước mộ trang trí hai mặt, phía trước là con long mã, phía sau trang trí rồng, hiện còn khá nguyên vẹn và rất đẹp.

-Lăng Trường Thiệu: tức lăng của Duệ Tôn Hiếu Định Hoàng Đế Nguyễn Phúc Thuần 阮福淳(1754-1777). Lăng thuộc địa phận “núi La Khê, huyện Hương Trà”, nay thuộc làng La Khê, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà. Trước kia lăng ở “địa phận huyện Bình Dương đất Gia Định, năm Gia Long thứ 8, rước về để ở đấy”. Lăng nằm ở tả ngạn dòng Tả Trạch, cách bờ sông chừng 400m, rất gần lăng Trường Cơ. Lăng xoay về hướng tây bắc. Kiểu thức xây dựng lăng mộ cũng tương tự như các lăng chúa khác. Vòng thành bao bọc bên ngoài lăng “chu vi 29 trượng 6 thước 6 tấc”(117,2m), thành “cao 6 thước 3 tấc” (251cm). Vòng thành trong “chu vi 15 trượng 2 tấc” (64,4m), thành “cao 5 thước” (chỗ cao nhất chỉ là 190cm). Mộ lăng Trường Thiệu cùng gồm 2 tầng. Tầng 1 rộng 190cm, dài 233cm, cao 28cm. Tầng 2 rộng 250cm, dài 305cm, cao 35cm.

- Lăng Cơ Thánh 基聖陵: Tức lăng của Hưng tổ Hiếu Khang Hoàng Đế Nguyễn

Phúc Luân (Côn) 阮福淪, thân phụ của vua Gia Long. Lăng thuộc địa phận núi Hưng

Nghiệp 興業山, thôn Cư Chính, huyện Hương Thủy, gần bờ sông Hương. Lăng này nguyên đã bị nhà Tây Sơn cho đào phá năm 1790, được xây dựng lại đầu thời Gia Long. Về cơ bản, cấu trúc lăng cũng như lăng các chúa Nguyễn, những trước mặt có bình phong lớn, sau đó là 3 tầng sân bái đình lát gạch Bát Tràng. Bảo thành chỉ có một lớp, hình chữ nhật (23,6m x 18,7m, cao 3,15m). Bảo phong hình khối chữ nhật, giật cấp 3 lớp (Tầng thứ nhất: dài 3,45m, rộng 3,1m, cao 0,12m; tầng thứ hai: dài 2,86m, rộng 2,5m, cao 0,28m; tầng trên cùng: dài 2,20m, rộng 1,96m, cao 0,34m). Trước sau Bảo thành có bình phong, trang trí rồng, lân rất sinh động. Nguyên xưa hai bên đông tây lăng còn có điện Canh Y 更衣殿下 và Thần Khố 神庫, đều 3 gian, nay không còn.

Nhận xét - Nhìn chung về mặt quy mô và kiểu thức xây dựng, hệ thống lăng mộ các chúa

Nguyễn đều tương tự như nhau. Mỗi lăng mộ đều có hai vòng thành hình chữ nhật bao bọc, vòng ngoài xây bằng đá bazan nhưng phần mũ thành xây bằng gạch vồ, vòng trong xây hoàn toàn bằng gạch (trừ lăng Trường Diễn). Chiều cao của các vòng thành tương

11

Page 12: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

ứng đều như nhau (dù hiện tại trên thực tế không hẳn như vậy). Phần mộ đều xây thấp, phẳng với 2 tầng, xây theo lối giật cấp. Trước mộ có hương án, sau cổng có bình phong trang trí long mã và rồng. Sau lưng mộ cũng có bình phong trang trí rồng cùng kiểu, ghép nổi mành sành sứ hoặc đắp nổi vôi vữa. Sự giống nhau này cũng rất dễ hiểu vì tất cả các lăng trên đều được tái xây dựng và tu bổ trong các thời điểm gần tương tự như nhau (Trùng kiến đầu thời Gia Long [trong 2 năm 1808-1809], tu sửa năm Minh Mạng 21 [1840] và đầu thời Thiệu Trị [1841]).

- Tuy quy mô nhỏ hơn, cách thức xây dựng cũng đơn giản hơn nhiều so với lăng các vua Nguyễn về sau, nhưng lăng mộ các chúa đều có vị trí rất lý tưởng và hoàn toàn tuân thủ các quy tắc về phong thủy địa lý. Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua những đặc điểm chung của chúng dưới đây:

+Các lăng mộ đều tọa lạc trên đồi cao, có núi dựa lưng, trước mặt đều có hồ nước, khe suối hoặc đồng ruộng làm “tụ thủy”. “Minh đường” của lăng thoáng rộng và có bình phong là núi tự nhiên che chắn. Hai bên đều có núi chầu về làm thế “tay ngai” (Tả Long, Hữu Hổ)…

+Các lăng chúa ở vị trí tương đối xa nhau và đều cách trung tâm Huế khá xa. Điều này chứng tỏ người xưa đã bỏ rất nhiều công sức cho việc tìm kiếm mảnh đất làm “Sinh phần” cho các chúa Nguyễn.

+Hướng của các lăng rất phong phú chứ không chỉ tuân theo nguyên tắc “Nam diện” (xoay mặt về hướng nam) của đại đa số các công trình kiến trúc (cả kiến trúc nhà cửa lẫn kiến trúc lăng mộ) thời vua Nguyễn về sau. Đây là điều hết sức lý thú đối với những ai muốn tìm hiểu phong thủy thời Nguyễn.

II.2.2 Lăng các vua Nguyễn và hoàng hậu Trong 143 năm tồn tại (1802-1945), vương triều Nguyễn có 13 vị hoàng đế nhưng chỉ để lại 7 khu lăng tẩm quy mô của 10 vị hoàng đế và một số lăng của hoàng hậu15. Do điều kiện lịch sử khác nhau nên các khu lăng có quy mô, phong cách cũng khác nhau. II.2.2.1. Lăng Gia Long: Tên chữ là Thiên Thọ Lăng 天授陵, thực ra là cả một quần thể gồm 7 khu lăng tẩm của vua Gia Long, 2 vị hoàng hậu và 4 thành viên khác thuộc hoàng gia Nguyễn nằm trong một khu vực rộng đến 2.875ha. Tuy nhiên, chỉ có lăng vua Gia Long, 2 vị hoàng hậu và thân mẫu của vua là được xây dựng theo quy chế lăng hoàng đế, có tẩm thờ riêng. - Lăng vua Gia Long và Thừa Thiên Cao hoàng hậu, tức lăng Thiên Thọ, nằm ở vị trí trung tâm, bố cục chia thành 3 phần: Tẩm điện-lăng mộ-nhà bia, dàn hàng ngang, đặt trên 3 ngọn núi thấp (giữa là núi Chánh Trung 正中山, bên tả là Thanh Sơn 青山, bên

hữu là Bạch Sơn 白山), trước mặt có hồ nước hình mặt trăng 月湖, tiếp là núi hình bán

nguyệt, tiếp là ngọn núi chủ Đại Thiên Thọ Sơn 大天授山, chung quanh có 36 ngọn núi chầu vào, đều được đặt tên. Phần trung tâm của khu đất này 3 mặt tả, hữu, hậu rộng 100 trượng (424m), mặt tiền rộng 150 trượng (636m). Lăng vua và hoàng hậu đặt trong 3 lớp bảo thành xây gạch, vòng trong 30m, rộng 24m, cao 4,16m; vòng ngoài rộng 31m, dài 15 Đây là các khu lăng hoàng hậu được xây dựng độc lập dù có thể nằm chung trong tổng thể các khu lăng hoàng đế, cụ thể là: lăng Thiên Thọ Hữu (thuộc khu lăng Gia Long), lăng Hiếu Đông (nằm độc lập), lăng Xương Thọ (thuộc khu lăng Thiệu Trị), lăng Khiêm Thọ (thuộc khu lăng Tự Đức), lăng Tư Minh (nằm trong lăng Ddồng Khánh), lăng Tư Thông (tức lăng Vạn Vạn, nằm độc lập).

12

Page 13: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

70m, cao 3,56m, dày 1m. Bảo phong xây kiểu 2 ngôi nhà đá 石室 có mái kề nhau kiểu

“càn khôn hiệp đức” 乾坤協德, trước bảo phong có 2 hương án xây đá. Mặt trước và sau lưng đều có bình phong, cửa ngoài làm bằng đồng. Trước mặt là 7 tầng sân chầu lát gạch, lối thần đạo lát đá Thanh. Ở tầng sân cuối hai bên dựng tượng thị vệ, voi, ngựa (10 người, 2 voi, 2 ngựa), đều bằng đá Thanh.

Bản đồ Thiên Thọ Lăng của bộ Công

Nhà bia nằm bên tả, trên núi Thanh Sơnhai tầng mái, nằm trên một nền cao. Mặt bằngxây tường gạch chịu lực. Mỗi mặt trổ một cửa bia rộng 30m, dài 42m, chung quanh có xây tưvệ cho tấm bia đá ghi khắc bài văn bia Thánh Đnói về tiểu sử và công đức của vua cha. Bia cmột cái bệ cũng bằng đá dài 1,95m, rộng 1,55chạm trổ rất tinh xảo. Trán bia trang trí mặt rồtai dưới và hai diềm bên chạm hình rồng mâyhai bên là vân xoắn. Diềm dưới chạm hình thủchữ khắc trong lòng bia đều thếp vàng. Gần đbia nhỏ đặt trên bệ đá 2 cấp, cao hơn 1,2m. Khu tẩm thờ nằm bên hữu khu lăng, trthành hình chữ nhật (dài 102m, rộng 19m, caohữu tòng viện, chính giữa là điện Minh Thành,x 19,6m, bên trong thờ Long vị của vua Gia Lođiện Minh thành xưa có Bảo Y Khố, nơi đặt áo - Lăng Thiên Thọ Hữu 天授右陵, nằm

Sơn 順山, chia thành 2 khu vực: lăng và tẩm,thành bao bọc, tường ngoài chu vi 130m, caoBảo phong xây bằng đá; bình phong trước vàđiện thờ có công trình kiến trúc chính là điệnThiên Cao hoàng hậu, kiến trúc nhà kép, nay đ

Khu vực Lăng-Tẩm của Thiên Thọ Lăng

, đó là một "phương đình" dạng cổ lầu với của ngôi nhà là 8,75m x 8,80m. Bốn mặt ở giữa, để trống. Khu vực tầng sân xây nhà ờng thấp bao bọc. Bi đình được xây để bảo ức Thần công do vua Minh Mạng soạn để

ao 2,96m, rộng 1m, dày 0,32m, dựng trên m. Bia và đế làm bằng đá Thanh đều được ng ngang miệng ngậm chữ "thọ". Tai trên, . Ở diềm trên, giữa trang trí hình mặt trời, y ba và vân xoắn. Ngày xưa, tất cả những

ó là nơi thờ “Hậu Thổ Chi Thần”, một tấm

ên núi Bạch Sơn, được bao bọc bởi tường 2,5m). Trước là Nghi Môn, hai bên là Tả kiểu nhà kép 5 gian 2 chái, mặt nền 17,6m ng và Thừa Thiên cao Hoàng hậu. Phía sau quần thờ tự bà Thừa thiên Cao hoàng hậu. bên hữu lăng Thiên Thọ, trên núi Thuận

cách nhau 50m. Khu lăng có 2 lớp tường 2,9m; tường trong chu vi 82m, cao 2,3m. hương án cũng xây bằng đá Thanh. Khu

Gia Thành 嘉成殿, làm nơi thờ bà Thuận ã bị đổ nát.

13

Page 14: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

- Lăng Thoại Thánh 瑞聖陵 có bố cục và cấu trúc gần giống lăng Thiên Thọ Hữu, gồm 2 phần: khu lăng và khu tẩm thờ. Đây là lăng hoàng thái hậu đầu tiên của triều Nguyễn. Khu lăng phía trước có hồ gần vuông (88m x 77m), bảo phong làm bằng đá Thanh, ngoài có 2 vòng tường thành bảo vệ, vòng trong chu vi 89m, cao 3,4m, vòng ngoài chu vi 138m, cao 3,6m; cửa ngoài kiểu cổng vòm; trước sau đều có bình phong xây gạch che chắn. Phần tẩm điện nằm trong một vòng thành dài 108m, rộng 63m, cao 3,7m. Điện chính vốn gần giống điện Minh Thành, kiểu nhà kép, mặt nền 25m x 19,5m, trước sau còn có tả hữu tòng viện, tả hữu tòng tự, nhưng tất cả đã đổ nát. II.2.2.2. Lăng vua Minh Mạng: Tức Hiếu lăng 孝陵. Đây là lăng duy nhất của một vị hoàng đế, không có bồi táng hoàng hậu hay các thành viên hoàng gia khác. Lăng được lựa chọn, quy hoạch và xây dựng rất công phu. Tổng thể khu vực lăng rộng gần 500ha, nhưng khu lăng chính rộng khoảng 15ha, có vòng tường thành xây đá núi, cao 3,6m, dài gần 2.000m bao bọc. Bố cục lăng xếp theo chiều dọc kiểu hình chữ Nhất (一), dựa lưng vào Hiếu Sơn, phía sau nữa là núi Kim

Phụng 金風山 (núi chủ của vùng Huế, cao 475m), mặt hướng ra ngả ba sông Hương, theo trục Càn-Tốn (tây bắc-đông nam). Có thể chia kiến trúc lăng thành 3 phần: trục trung tâm và 2 trục tả hữu.

Không ảnh Hiếu lăng đầu thế kỷ 20

Mở đầu trục trung tâm (Thầ

紅門 kiểu tam quan xây gạch. Ti44,8m với hai hàng thạch tượng sinđứng trong thiết đình. Tòa nhà bianền đài 20m x 20m; riêng nhà bia kbia Thánh Đức Thần Công cao hơn1,65m). Tiếp theo là 3 tầng sân ttường thành kép kín, trổ cửa 4 mặ

tam quan bằng gỗ, có cổ lâu. Tiếpnền 23,45m x 22,05m), trong thờ Đông-Tây phối điện 東西陪殿, p

cùng kết thúc bằng Hoằng Trạch

Bản đồ địa cục Hiếu lăng của bộ Cô

n đạo) là bình phong ngoài, rồi đế

ếp theo là sân chầu lát gạch Báth (voi, ngựa, quan văn, quan võ), đặt trên nền đài 2 tầng, cao hơn iểu phương đình, cạnh 10m x10m 3m, đặt trên bệ đá Thanh (cao 1,0ế (rộng 44,8m x 45m). Khu tẩm t. Mở đầu bằng Hiển Đức Môn 顯 đến là điện Sùng Ân 崇恩殿, làmvua Minh Mạng và Hoàng hậu. P

hía sau hai bên có Tả -Hữu tùng

Môn 弘澤門, kiểu cửa vòm xây

ng và bình đồ lăng

n Đại Hồng Môn 大 Tràng, rộng 42m x cuối sân có lân đồng 9m, kích thước cạnh , bên trong dựng tấm 9m, rộng 2,33m, dài thờ nằm trong vòng 德門, một chiếc cửa

kiểu nhà kép (mặt hía trước hai bên là viện 左右從院. Sau

gạch. Tiếp theo là 3

14

Page 15: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

chiếc cầu (giữa là cầu Trung Đạo 中道橋, trái là Tả Phù 左輔橋, phải là Hữu Bật 右弼橋)

nối qua Minh Lâu 明樓, một tòa nhà hai tầng đặt trên ngọn đồi đắp 3 tầng, gọi là Tam Tài

Sơn 三才山. Tiếp nữa là cầu Thông Minh Chính Trực 通明正直橋 nối ngang qua hồ Tân

Nguyệt 新月湖đến Bảo thành 寶城. Bảo thành có vòng tường xây gạch, cao 3,5m, chu vi 273m, bao bọc lấy một quả đồi tự nhiên hình tròn, trên trồng thông. Bên dưới là Huyền cung玄宮xây ngầm trong lòng đất16. Toàn bộ trục Thần đạo này dài hơn 700m.

Đối xứng qua trục Thần đạo về bên trái, mở đầu là Tả Hồng Môn 左紅門, sau đó

là các công trình nằm rải dọc ven hồ Trừng Minh 澄明湖, như Truy Tư Trai 追思齋 Quan

Lan Sở 關蘭所, Linh Phương Các 靈芳閣, Tả Tùng Phòng 左從房, Nghênh Lương quán

迎涼館.

Bên phải trục trung tâm, mở đầu là Hữu Hồng môn 右紅門, rồi đến Hư Hoài tạ 虛懷榭, Thần khố 神庫, Hữu Tùng phòng右從房, Thuần Lộc hiên馴鹿軒, Điếu Ngư đình

釣魚亭. Hầu hết các công trình ở hai trục tả, hữu này đã bị đổ nát, nay chỉ còn nền móng. II.2.2.3. Lăng vua Thiệu Trị Đây là một khu vực rộng lớn, bao gồm 3 khu lăng: Xương lăng 昌陵, Hiếu Đông

lăng 孝東陵 và Xương Thọ lăng 昌壽陵, ngoài ra còn có nhiều tẩm mộ của một số thành viên trong gia đình vua Thiệu Trị. -Xương lăng 昌陵: Có bố cục chia thành 2 phần: khu tẩm thờ (bên hữu) và khu lăng mộ (bên tả), đặt song song với nhau, đều dựa lưng vào núi thấp, hướng mặt ra đồng ruộng, về phía tây bắc, không có la thành bao bọc; tổng diện tích khu vực này khoảng 6ha. Về quy mô và hình thức kiến trúc, các công trình tại Xương lăng gần tương tự với Hiếu lăng của vua Minh Mạng, nhưng nhỏ và đơn giản hơn. Mở đầu trục tẩm thờ là bình phong xây gạch, tiếp đó là ao bán nguyệt (rộng 2.400m2), đến phường môn bằng đá cẩm thạch, rồi sân tế với 3 tầng, lát gạch Bát Tràng, lối giữa lát đá Thanh. Khu vực tẩm điện có tường thành hình chữ nhật bao bọc, trổ cửa 4 phía; mặt trước là Hồng Trạch Môn 鴻澤門, cấu trúc tựa Hiển Đức Môn của lăng Minh

Mạng, tiếp đến là điện Biểu Đức 表德門(mặt nền 23,4m x 21,5m), cấu trúc nhà kép gần như điện Sùng Ân, trước và sau ở 2 bên cũng có Tả hữu vu, Tả hữu tòng viện. Cổng sau kiểu cửa vòm xây gạch. Trục lăng mộ mở đầu bằng hồ Nhuận Trạch 潤澤湖 hình bán nguyệt (3.300m2), sau đó là bình phong xây gạch, nghi môn đúc bằng đồng, rồi đến sân chầu lát gạch Bát Tràng với hai bên là thạch tượng sinh (voi, ngựa, quan văn, quan võ). Tiếp theo là tòa bi

16 Sách Hội điển cho biết, “Huyền cung được xây ngầm trong lòng đất theo quy thức người xưa”. Tôi cho rằng quy thức này giống như lăng mộ thời Minh-Thanh, có đường dẫn vào lòng núi gọi là Toại đạo, trong xây địa cung có lớp quách bằng gạch đá dày, quan tài đặt ở bên trong.

15

Page 16: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

đình, đặt trên nền đài cao 2,65m, cấu trúc gần giống nhà bia lăng Minh Mạngbên trong đặt tấm bia Thánh Đức Thần Công do vua Tự Đức soạn. Tiếp đến là Đức Hinh lâu 德馨樓, và chếch ra sau là Hiển Quang Các 顯光閣. Đức Hinh Lâu kiến trúc tương tự như Minh Lâu nhưng chỉ còn lại nền móng (mặt nền 18,5m x 18,5m); hai bên có 2 trụ biểu xây gạch. Tiếp theo là hồ Ngưng Thuý 凝翠池, rộng 7.600m2, hình bán nguyệt, ôm bọc

lấy Bảo thành hình tròn. Nối thông qua hồ là 3 chiếc cầu: Chánh Trung 正中橋, Đông

Hòa 東和橋 (tả) và Tây Định 西定橋(hữu). Bảo thành xây gạch, cửa bằng đồng, chu vi 260m, bên trong trồng thông um tùm tựa bảo thành lăng Minh Mạng. Bình

Không ảnh Xương Lăng

- Xương Thọ lăng 昌壽陵: Là lăng của nằm ở phía tây của phần tẩm thờ, cấu trúc khá là 3 tầng sân tế. Bảo thành gồm 2 lớp hình chữ3,6m, chu vi 89,4m; lần tường trong cao 2,6phong che chắn, cánh cửa làm bằng đồng. BảLong. - Hiếu Đông lăng 孝東陵: Là lăng của vua Thiệu Trị. Lăng nằm phía trước Xương lăcác phần: khu ngoại lăng, khu nội lăng, khu tẩm(bến thuyền bên sông Hương), Ngự Lộ御路 (c

biểu 花表柱 xây gạch cao 15m, Công Sở Đàitrực, rộng 5 gian, nay đã bị hủy hoại). Khu nội 2.000m2), rồi đến 3 sân chầu; sân tế lát gạch Bảo thành. Bảo thành quy chế 2 lớp bao bọc l26m, rộng 20,7m, cao hơn 3m; tường trong dxây đá Thanh, kiểu thức như lăng Thiên Thọ,có hương án bằng đá; trước sau đều có bình plăng cố Hoàng Nữ 故皇女, lăng Tảo Thương vnhững người con của nhà vua bị chết khi còn n

diện Xương Lăng và Xương Thọ Lăng

bà thái hậu Từ Dũ (thân mẫu vua Tự Đức), đơn giản. Phía trước có hồ bán nguyệt, sau nhật lồng vào nhau. Lần tường ngoài cao

5m, chu vi 60,5m; trước sau đều có bình o phong xây kiểu thạch thất như lăng Gia

bà Thái hậu Hồ Thị Hoa 胡氏華, thân mẫu ng, gần bờ sông Hương. Bố cục chia thành

phụ thuộc. Khu ngoại lăng gồm Bến Ngự on đường đất rộng 3m dẫn vào lăng), 2 Trụ

公所台 (tòa nhà dành cho binh lính canh lăng bắt đầu bằng hồ bán nguyệt (rộng hơn Bát Tràng (lối giữa lát đá Thanh); rồi đến ấy Bảo phong ở trong; lớp tường ngoài dài ài 16m, rộng 13,8m, cao 2,6m. Bảo phong dài 4m, rộng 3,12m, cao 1,3m; phía trước hong che chắn. Các lăng mộ phụ thuộc có à lăng Chư Công 諸公; đây là tẩm mộ của

hỏ.

16

Page 17: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

II.2.2.4. Lăng vua Tự Đức: Đây là khu lăng mộ rộng lớn với tổng diện tích gần 500ha, riêng nội lăng khoảng 15ha, bao gồm 3 khu lăng: Khiêm Lăng, Khiêm Thọ Lăng và Bồi Lăng. Điểm đặc biệt của khu lăng này là toàn bộ việc thiết kế đều do vua Tự Đức thực hiện, và trong khoảng 16 năm sau khi xây dựng xong (1867-1883) nó là một ly cung, sau đó mới trở thành khu lăng tẩm. - Khiêm Lăng謙陵: Về bố cục, nhìn chung lăng Khiêm Lăng kế thừa các ý tưởng của Xương Lăng (cũng là khu lăng do vua Tự Đức thiết kế) để chia lăng thành 2 trục: Lăng và Tẩm (nhưng Tẩm đặt bên tả, Lăng đặt bên hữu), đồng thời bổ sung thêm kiến trúc vườn cảnh ở mặt trước, bao quanh hồ Lưu Khiêm 流謙湖, nên tổng thể khu lăng trông mềm mại, nên thơ hơn rất nhiều. Ngoài 2 trục lăng chính thì Khiêm Thọ Lăng và Bồi lăng đều là những lăng mộ được táng vào sau, không theo quy hoạch từ đầu nên đã ảnh hưởng đến tổng thể kiến trúc của lăng Tự Đức. La thành xây bằng gạch, đá núi, cao 2,5m, dài hơn 1500m, mở 3 cửa: Vụ Khiêm務謙門, Thượng Khiêm尚謙門 và Tự Khiêm自謙門 . Khu vực cảnh quan phía trước chủ yếu là hồ Lưu Khiêm, lấy nước từ bên tả, chạy suốt ôm vòng cả hai trục lăng và tẩm. Giữa hồ có Khiêm Đảo謙島, trên dựng 3 ngôi đình nhỏ là Nhã Khiêm雅謙亭, Lạc Khiêm樂謙亭 và Tiêu Khiêm 標謙亭, bên bờ hồ có 2 tòa thủy tạ Dũ Khiêm 愈謙榭 và Xung

Khiêm沖謙榭; lại có 3 chiếc cầu gạch Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm 踐謙橋 và Do Khiêm

由謙橋 nối liền hai bờ hồ và chiếc cầu gỗ nối qua đảo. Trục Tẩm nguyên là phần chính của ly cung, ngoài có 2 tòa nhà vuông Công Khiêm, Cung Khiêm, cửa chính là Khiêm Cung Môn, 3 gian, có cổ lâu. Qua cửa hai bên là Lễ Khiêm Vu 禮謙廡 và Pháp Khiêm Vu 法謙廡, điện chính Hoà Khiêm 和謙殿 làm theo kiểu nhà kép (mặt nền), là nơi thờ bài vị vua Tự Đức và hoàng hậu. Phía sau điện Hòa Khiêm là điện Lương Khiêm良謙殿, vốn là tẩm cung dành vua nghỉ ngơi, sau thành

nơi thờ Thái hậu Từ Dũ (mẹ vua); hai bên là Ôn Khiêm Đường 溫謙堂(nhà để trang phục)

và Minh Khiêm Đường 鳴謙堂(nhà hát riêng của vua), phía sau là Tòng Khiêm viện 從謙 院 và Dụng Khiêm viện 用謙院. Sau nữa lại có Ích Khiêm Các 益謙閣, vườn hoa. Bên hữu trục tẩm có một khu vực rộng với nhiều dãy nhà ngăn thành các phòng nhỏ, là nơi dành cho phi tần ở mỗi khi nhà vua lên Khiêm Cung. Gần ra phía trước là Chí Khiêm Đường 至謙堂(nơi thờ cung phi tiền triều), hai bên có Y Khiêm Viện 依謙院 và Trì

Khiêm Viện持謙院. Trục lăng đặt lùi về phía sau so với trục tẩm (xây dựng cũng muộn hơn). Mở đầu là

sân chầu với hai hàng thạch tượng sinh (tượng đắp vôi vữa), tiếp đến là bi đình trong đặt tấm bia khổng lồ khắc bài Khiêm Cung Ký 謙宮記 do chính vua Tự Đức soạn. Bia cao 4m, rộng 2,15m đặt trên bệ đá cao 1m, dài 3,08m, rộng 1,6m. Tiếp đến là ao Tiểu Khiêm

17

Page 18: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

小謙池 hình bán nguyệt, rồi bảo thành 2 lớp, trong dựng bảo phong bằng đá Thanh, kiểu dáng tựa Bảo phong lăng Gia Long. Bảo phong dài 2,96m, rộng 1,58m, cao 2,47m. Khiêm lăng cũng là ngôi lăng hiếm hoi mà quy chế về Huyền cung được quy định rõ. Một bản Tấu năm 1883 được phê chuẩn đã cung cấp những thông tin rất quý cho việc tìm hiểu khu lăng mộ này:

“Đã cho xây dựng Huyền Cung, tầng thứ nhất dùng quách gỗ, tầng thứ hai dùng quách đá, tầng thứ ba và dưới đáy đều lát 5 phiến đá; chu vi lần trong xây 2 lượt đá, lần ngoài xây gạch (dày 1 thước 5 tấc), bên trên xây nhà đá, kỷ đá, đều một tòa; mặt trước mở đường hầm, sẽ có xe rồng để đẩy vào. Lại xây tường thành, trong làm bình phong trước sau, cửa lầu, cửa ngách, cánh cửa bằng đồng, cột đồng trụ chạm vẽ hình rồng. Các khoản vật liệu cần dùng: đá Thanh, đá Quảng khoảng hơn 2000 phiến; các hạng gạch hơn 400.000 viên; các hạng ngói hơn 7000 viên; các hạng vôi hơn 20.000 cân; các hạng trà hơn 480.000 cân; nhựa thông hơn 700 cân; chì hơn 1000 cân, mật mía hơn 30.000 cân; sắt hơn 3000 cân; lưới rách hơn 200 cân; còn các hạng thuốc trên dưới 20, 30 cân; Quản suất viên binh hơn 1200 người; thợ đá 200 tên, thợ mộc 150 tên, thuyền Ô, thuyền Lê, san bản 15 chiếc, nhận làm việc 1 năm 2 tháng17”. - Lăng Khiêm Thọ 謙壽陵: Quy mô khá nhỏ, nằm bên tả phần Lăng, đối diện qua hồ Lưu Khiêm. Khu lăng chỉ bao gồm 5 sân tế trong đó có 4 tầng lát gạch, bảo thành và bảo phong. Trên sân tế có sẵn nền nhà và các lỗ cột để dựng nhà Hoàng ốc mối khi tế lễ. Bảo thành 2 lớp tường, trước sau đều có bình phong che chắn. Tường ngoài 31,5m x 21,3m; tường thành trong 19m x 14,55m. Bình phong trước của lăng Khiêm Thọ được trang trí ghép sành sứ rất đẹp. Bảo phong xây bằng đá Thanh, tương tự lăng vua, dài 2,96m, rộng 1,58m, cao 2,5m. Việc xây dựng lăng Khiêm Thọ đã được chuẩn bị từ năm 1888 dưới thời vua Đồng Khánh18, khi đó triều đình đã bắt đầu cho xây Huyền cung, làm toại đạo. Sau khi hoàng hậu Lệ Thiên qua đời, triều đình mới hoàn chỉnh việc xây dựng và dâng tên lăng (năm 1902). - Bồi lăng陪陵 Lăng được xây dựng năm 1884, sau khi vua Kiến Phúc băng hà sau 4 tháng trị vì. Vị vua này là một trong 3 người con nuôi của vua Tự Đức19 nên trong bối cảnh đất nước vô cùng khó khăn, triều Nguyễn đã quyết định bồi táng ông vào khuôn viên lăng vua cha, lấy tên là Bồi Lăng. Lăng nằm ở bên tả ngạn hồ Lưu Khiêm, cùng phía với Khiêm Thọ Lăng. Khu lăng chia thành 2 phần: phần Tẩm thờ sử dụng tòa Chấp Khiêm Trai執謙齋(đổi thành Chấp Khiêm Điện) làm nơi thờ tự, bên tả là lăng nhà vua. Chấp Khiêm Điện kiểu nhà kép nhưng cấu trúc đơn giản (mặt nền 16,3m x 10,8m), bên hữu còn có hành

17 Quốc Sử quán triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên (Gọi tắt là Hội điển tục biên), bản chữ Hán, Bộ Công, quyển 45, tờ 16b. 18 Khi ấy tên của lăng là Vạn Vạn Niên Đại Cát Cục. Bản tấu về việc xây dựng Huyền cung ghi rõ việc xây dựng, quy mô kích thước của Kim tỉnh (huyệt mộ), bên ngoài có lớp quách xây bằng gạch, trên gác các phiến đá thanh, trên nữa xây Bửu phong..vv. Về cấu trúc gần tương tự như Huyền cung của Khiêm lăng, nhưng nhỏ và đơn giản hơn. 19 Vua Tự Đức không có con nên ông nhận nuôi 3 người con nuôi để kế vị, trong đó lấy Nguyễn Phúc Ưng Chân con Thoại Thái Vương và Nguyễn Phúc Ưng Đăng, Nguyễn Phúc Ưng Đường con của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai. Cả 3 người này đều lần lượt làm vua, là Dục Đức, Kiến Phúc và Đồng Khánh.

18

Page 19: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

lang, nhà phụ. Sau điện có nền móng Di Khiêm Lâu遺謙樓, đây vốn là tòa nhà 2 tầng (36 cột trụ, mặt nền 16,3m x16,3m), đặt trên nền cao 1,56m, khi xây Bồi Lăng bị triệt giải. Khu lăng có 3 tầng sân tế, 2 vòng tường thành, vòng ngoài 14,7m x 16,9m, cao 2,4m; vòng trong 10,2m x 8,2m, cao 1,8m. Bảo phong xây rất thấp, cao 0,37m, dài 2,7, rộng 1,4m, bên dưới là Huyền cung, quy cách xây dựng cũng được tư liệu ghi rõ20.

II.2.2.5. Lăng vua Dục Đức: Đây là khu lăng tẩm gần Kinh thành nhất, rộng gần 6ha, bao gồm lăng của vua Dục Đức (An Lăng安陵) hiệp táng cùng Từ Minh hoàng hậu, lăng vua Thành Thái, vua Duy Tân cùng nhiều thành viên khác thuộc đệ tứ chánh hệ21. Do vua Dục Đức chỉ làm vua được 3 ngày, chưa kịp đặt cả niên hiệu, bị phế truất và chết thảm trong ngục nên lúc đầu việc chôn lấp rất sơ sài. Sau khi Thành Thái (con trai vua Dục Đức) lên ngôi thì mới cho xây dựng quy mô và đặt tên lăng. An Lăng cũng chia thành 2 phần: Lăng (tả) và Tẩm (hữu), đặt song song với nhau, hướng mặt về phía tây bắc. Phần tẩm điện có tường thành bao bọc, diện tích 6.245m2 (73,6m x 57,1m), trổ 4 cửa. Sau cửa Tam quan xây gạch là bình phong, sân tế, đến điện Long Ân隆恩殿, kiểu nhà kép 5 gian (mặt nền 22,2m x 20,2m), trong thờ bài vị vua Dục Đức và hoàng hậu, sau bổ sung thêm vua Thành Thái và vua Duy Tân. Phía sau điện Long Ân là Tả hữu tòng viện. Khu lăng cũng có la thành bao bọc theo kiểu 3 lớp, đều xây gạch bao bọc lấy một khu vực có diện tích 3.445m2 (67,5m x 51m), trổ 3 cửa mặt trước và 2 cửa ở hai bên. Cửa chính giữa phía trước kiểu tam quan 3 tầng, xây gạch, 2 cửa bên kiểu cửa vòm. Qua cửa là sân chầu rộng 1.368m2, qua lớp thành trong là Bảo thành (38,6m x14,5m). Trong Bảo thành có nhà Hoàng Ốc hình vuông (cạnh 7m) sườn gỗ, lợp mái ngói Hoàng lưu li. Hai bên nhà là Bảo phong gồm 2 ngôi mộ xây liền kề kiểu “Càn Khôn hiệp đức” như Thiên Thọ Lăng nhưng kiểu hình khối chữ nhật với 5 tầng chồng lên nhau, cao 0,84m.

Điểm đặc biệt của An Lăng là không có nhà bia và thạch tượng sinh. Lăng vua Thành Thái và lăng vua Duy Tân đều nằm ở phía đông của An Lăng, do mới đưa vào sau nên việc xây dựng đơn giản, không khác gì mồ mả của người dân bình thường.

II.2.2.6. Lăng vua Đồng Khánh: Đây cũng là một khu vực lăng tẩm rộng lớn, nối liền với khu vực lăng vua Tự Đức, tạo nên một quần thể lăng tẩm rộng gần 500ha. Riêng trong khu vực này có khu lăng tẩm khác nhau: Tư Lăng 思陵của vua Đồng Khánh, Thiên Thành Cục 天成局của Kiên Thái

20 “Năm Kiến Phúc thứ 1 [1884]: của quan Đổng lý chuẩn tờ sớ xây dựng: Xây dựng Huyền Cung việc là cao quí nay xin ở dưới Kim Tỉnh cho xây trước 4 lần gạch (dài 6 thước 9 tấc 3 phân, rộng 3 thước 5 tấc 6 phân, sâu 6 tấc 3 phân) trên lát 3 tấm gỗ sến (dài 5 thước 7 tấc 6 phân, rộng 2 thước 3 tấc, dày 3 tấc), làm đường đưa xe Long Tuần. Bốn mặt đều xây gạch bao kín (dày 7 tấc, dài tất cả là 7 thước 2 tấc, rộng 3 thước 7 tấc 8 phân, sâu 3 thước 2 tấc 4 phân, đợi lễ đưa Tử Cung xong sẽ tiếp tục xây). Lại gác ngang 5 tấm đá lớn (dài 3 thước 7 tấc 6 phân, rộng 7 thước 2 tấc, dày 3 tấc). Trên tấm đá lớn này xây Bửu Phong...” (Hội điển Tục biên, Bộ Công, q45, tờ 18a). 21 Nằm trong khuôn viên lăng này còn có mộ của các bà: Nguyễn Thị Định (vợ vua Thành Thái, mẹ vua Duy Tân), Nguyễn Gia Thị Anh (vợ chính vua Thành Thái), Hồ Thị Phương (vợ vua Thành Thái) và huyệt mộ bà Mai Thị Vàng (vợ vua Duy Tân) đã dược xây dựng chờ lễ cải táng hài cốt của bà về chôn nơi này. Ngoài ra còn có 42 lăng mộ của các ông hoàng, bà chúa và 121 ngôi mộ đất thuộc hệ phái của vua Dục Đức.

19

Page 20: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

Vương và một số tẩm mộ của các thành viên khác trong gia đình với thời gian xây dựng cũng rất khác nhau22.

Tương tự như lăng mộ các vị vua Nguyễn khác, Tư lăng gồm có 2 phần: khu điện thờ và khu lăng mộ.

Khu điện thờ tọa lạc trên một ngọn đồi, quay mặt hướng đông nam, lấy đồi Thiên An, cách đó 3km làm tiền án. Toàn bộ khu vực này có vòng tường xây gạch hình chữ nhật bao bọc. Tường cao 3m, dày 0,55m, chu vi 262m; khoảng giữa 4 mặt đều trổ cửa. Cửa hậu và hai cửa bên đều làm theo lối cửa vòm cuốn, có mái đúc giả ngói, còn cửa chính phía trước, mang tên Cung Môn 宮門 làm bằng gỗ, kiểu 3 gian, 2 tầng. Từ nền Cung Môn đi ra phía trước có đến 15 bậc cấp bằng đá Thanh, 2 bên đắp rồng chầu thành bậc, đi ra phía sau có 3 bậc cấp dẫn xuống sân trước điện Ngưng Hy 凝禧殿.

Điện Ngưng Hy là ngôi điện chính của khu điện thờ, cấu trúc kiểu nhà kép trùng thiềm điệp ốc với 3 ngôi nhà ghép 7 gian 2 chái liền nhau đặt trên 1 mặt nền thống nhất, gần như vuông (25m x 24m). Cả 3 phần của điện đều 7 gian, 2 chái với tổng cộng 100 cây cột gỗ lim sơn son thếp vàng rực rỡ. Ở chính điện ngoài bài vị vua Đồng Khánh, 2 bên tả, hữu còn thờ bài vị 2 hoàng hậu Thánh cung, Tiên cung.

Phía trước điện Ngưng Hy, bên tả là Công Nghĩa Đường 公義堂, bên hữu có Minh

Ân Viện 明恩院, đều kết cấu kiểu 3 gian 2 chái, dùng làm nơi thờ các công thần. Sau điện, 2 bên có Tả, Hữu tòng viện, cũng kết cấu kiểu 3 gian 2 chái, dùng làm nơi sinh sống của các cung phi sau khi vua mất.

Khu lăng mộ cũng nằm trên một ngọn đồi cao, quay mặt về hướng đông- đông- nam, lấy ngọn Thiên Thai làm tiền án, cấu trúc tương tự lăng mộ các vua Nguyễn tiền triều nhưng đã dùng vật liệu ximăng sắt thép. Bảo phong nằm trong 3 vòng tường thành xây gạch hình vuông. Vòng tường ngoài (25 x 25m), cao 1,6m, dày 0,5m; vòng tường thứ 2 chỉ cao 0,5m, dày 0,7m; vòng tường thứ 3 cao đến 3,4m, dày 0,6m. Cả 3 vòng tường đều trổ một cửa phía trước; sau cửa ngoài cùng có bình phong trang trí hổ phù và chữ thọ. Bảo phong xây bằng đá Thanh kiểu 1 ngôi nhà có mái, dài 4,2m, rộng 2,6m, bờ nóc và đầu hồi trang trí hình rồng, dơi và chữ thọ.

Phía trước lăng là 3 tầng sân tế rộng 25,7m, tầng sân trên dài 10m, lát gạch carô, tầng sân giữa dài 7m, tầng dưới cùng dài 5,2m, đều lát gạch Bát tràng. Trước nữa là nhà bia hình tứ giác xây gạch, mái đúc giả ngói ống, trong dựng bia Thánh Đức Thần Công bằng đá Thanh. Bia cao 3m, rộng 1,45m, dày 0,16m đặt trên bệ cũng bằng đá Thanh cao 0,6m, rộng 0,8m, dài 2,8m. Trên bia khắc bài văn ca ngợi công đức vua cha của vua Khải Định viết năm 1916. Hai bên nhà bia là 2 trụ biểu xây gạch trát vữa ximăng.

Sân bái đình nằm phía trước nhà bia, ngoài cùng là Nghi môn kiểu tam quan đắp

22Nguyên ở khu vực lăng này trước đã có tẩm mộ Kiên Thái vương, thân phụ vua Đồng Khánh (đồng thời cũng là cha đẻ 2 vua Hàm Nghi và Kiến Phúc). Sau khi lên ngôi, vua Đồng Khánh mới cho xây điện Truy Tư, cách đó khoảng 100m về phía đông nam để thờ cha. Công trình đang dở dang thì vua Đồng Khánh lâm bệnh rồi băng hà ngày 28/1/1889. Vua Thành Thái kế vị đã quyết định dùng điện Truy Tư để thờ vua Đồng Khánh, đổi tên thành điện Ngưng Hy, còn bài vị Kiến Thái vương được đưa về thờ tại Hân Vinh từ đường, bên bờ sông An Cựu. Lăng mộ vua Đồng Khánh được xây cách điện thờ khoảng 100m về phía tây nam nhưng chỉ làm rất đơn giản. Tháng 8/1916, con trai vua Đồng Khánh, vua Khải Định cho tu sửa lăng với các vật liệu hiện đại. Những năm 1921, 1923, khu vực điện thờ lại được trùng tu. Như vậy công cuộc xây dựng lăng Đồng Khánh đã diễn ra nhiều đợt trong thời gian gần 35 năm. Sự phức tạp của lịch sử xây dựng lăng để lại dấu ấn rất rõ trên kiến trúc khu lăng mộ này.

20

Page 21: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

trụ tròn, nền sân lát gạch Bát tràng. Hai bên sân Bái đình thiết trí hai hàng tượng gồm quan văn, quan võ, ngựa, voi, mỗi bên 6 bức. Khác với tượng đá Thanh ở các lăng mộ vua Nguyễn tiền triều, tượng ở đây đắp bằng gạch và vôi vữa, hình thức tượng khá thanh mảnh. Tất cả các bức tượng đều được đặt trên các bệ vuông xây gạch.

Nhìn chung, về hình thức, Tư lăng cũng tương tự các lăng mộ các vua Nguyễn khác. Nét đặc sắc ở đây có lẽ là điện Ngưng Hy với kiểu kết cấu nhà ghép 3 căn mang trên mình nó những hình thức trang trí nghệ thuật hết sức phong phú và độc đáo của nghệ nhân Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Về mặt lịch sử kiến trúc, Tư lăng là công trình đánh dấu sự ảnh hưởng của kiến trúc hiện đại vào kiến trúc truyền thống Việt Nam, để rồi mở kỷ nguyên đấu tranh và hòa hợp giữa hai dòng kiến trúc này.

II.2.2.7. Lăng vua Khải Định: Tức Ứng Lăng 應陵, là lăng tẩm hoàng đế được xây dựng cuối cùng của thời

Nguyễn. Khu lăng đặt trên sườn núi Châu Chữ, mặt quay về hướng tây nam, toàn bộ không gian rộng lớn quanh lăng đều có rừng thông bao phủ. Giữa không gian ấy, lăng Khải Định nổi bật lên như một tòa lâu đài đồ sộ của Tây Âu thời trung cổ. Mặt bằng xây dựng lăng hình chữ nhật (117m x 48,5m), có hàng rào cao 3m bảo vệ. Toàn bộ khu tẩm điện và lăng mộ hòa chung với nhau thành 1 trục thống nhất, bố trí trên 7 tầng sân với 127 bậc cấp xây gạch. Tầng dưới cùng là con đường chạy qua trước mặt lăng, vượt qua 37 bậc cấp mới đến cửa chính. Hệ thống bậc cấp chia thành 3 lối đi, 2 bên thành bậc đắp nổi 4 con rồng rất lớn, tư thế bò từ trên xuống. Qua khỏi cửa chính là tầng sân thứ 2, hình chữ nhật (47m x 24,5m), lát gạch ca rô. Hai bên sân có 2 nhà Tả, Hữu tòng tự, tục gọi là nhà Xanh, đều 3 gian, xây vách, mái lợp ngói liệt; trong thờ bài vị các công thần. Qua tiếp 29 bậc cấp nữa là sân Bái đình (47m x 40,5m). Nghi môn kiểu tam quan đồ sộ ở phía trước. Hai bên sân, mỗi bên có 2 hàng tượng gồm quan văn, quan võ, binh lính, ngựa, voi tạc bằng đá, đứng chầu. Bi đình đặt ở giữa phía cuối sân. Nhà bia xây hoàn toàn bằng bê tông, chia hai tầng mái, lợp ngói ardoise. Trong bi đình là tấm bia bằng đá Thanh đặt trên bệ đá kiểu chân quỳ khắc bài văn ca ngợi công đức vua Khải Định. Bia cao 3,1m, rộng 1,2m, bệ bia cao 0,76m, rộng 0,85m, dài 2,1m. Cả bia và bệ đều chạm khắc công phu, hình thức kiểu bia đá Huế truyền thống. Sau Bái đình là 3 tầng sân cũng hình chữ nhật, lát gạch carô, mỗi tầng cách nhau 13 bậc cấp, thành bậc đều đắp 4 con rồng cùng tư thế bò từ trên xuống. Trên sân có các bồn hoa hình chữ nhật trồng các loại cây cảnh, đặc biệt ở tầng sân thứ 2 còn có 2 cột cờ bằng bê tông khá hiện đại dùng để treo cờ vào dịp lễ tết. Cung Thiên Định天定宮 nằm ở tầng sân thứ 7, phía cuối trục thần đạo, và cũng là vị trí cao nhất của lăng. Đây là một tòa nhà đồ sộ kiêm cả chức năng điện thờ và nơi đặt thi hài của nhà vua. Cung Thiên Định có mặt bằng hình chữ nhật (34,5m x 26,4m), nền lát đá cẩm thạch, không gian chia làm 5 phòng. Hai bên là Tả, Hữu trực phòng, tường quét giả màu đá cẩm thạch. Ba phòng giữa xếp theo hình chữ tam. Phòng phía trước đặt án thờ đúc bằng bê tông, phía trên có bức hoành đề tên điện (Khải Thành Điện啟成殿). Toàn bộ 4 mặt tường được trang trí hết sức công phu bằng mảnh sành sứ ghép nổi với các đề tài bát bửu, tứ thời, ngũ phúc ghép với các câu thơ. Trần nhà trang trí bằng bức tranh Cửu long ẩn vân vẽ rất hoành tráng. Phòng giữa đặt bức tượng đồng mạ vàng vua Khải Định (tỉ lệ 1,7/1) ngồi trên ngai vàng, đúc năm 1920 tại Pháp. Trên đầu tượng là chiếc Bửu tán bằng bê tông, sau lưng tượng là hình mặt trời đang lặn xuống. Phía dưới tượng, ở độ sâu 9 mét là nơi cất giữ thi hài nhà vua. Phòng trong cùng có nền cao hơn các gian ngoài 1,7m. Đây là

21

Page 22: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

gian đặt bàn thờ và bài vị vua Khải Định cùng các đồ tự khí, ngự dụng. Có thể nói rằng, giá trị lớn nhất của lăng Khải Định là nghệ thuật trang trí bằng cách ghép nổi mảnh sành sứ và những bức tranh hoành tráng ở nội thất cung Thiên Định. Nhưng nhìn một cách toàn diện thì đây còn là khu lăng đã rất thành công trong việc kết hợp một cách hài hòa các trường phái kiến trúc Đông - Tây để tạo nên một dấu ấn đặc biệt trong lịch sử kiến trúc Việt Nam.

Một số nhận xét: - Các lăng tẩm triều Nguyễn đều đặt ở phía tây, tây nam Kinh thành, nằm gần hai

bờ sông Hương và hầu hết tách biệt nhau. Quy mô tổng thể lăng tẩm rất lớn với diện tích hàng trăm héc ta, nhưng quy mô các công trình kiến trúc không lớn, được tạo tác rất hài hòa với tự nhiên.

- Về bố cục, lăng tẩm các vua Nguyễn và hoàng hậu có thể chia thành 3 loại: 1- Bố cục theo chiều dọc theo một tổng thể xuyên suốt (lăng Minh Mạng, lăng Khải Định); 2-Bố cục thành 2 phần Lăng và Tẩm song song với nhau (Thiên Thọ Hữu Lăng, Xương Lăng, Khiêm Lăng, An Lăng, Tư Lăng, Ứng Lăng…); 3-Bố cục thành 3 phần Lăng –Tẩm- Nhà bia song song với nhau (Thiên Thọ Lăng). Loại đầu theo kiểu chữ Nhất (一),

loại thứ hai kiểu chữ Nhị (二), loại thứ 3 vừa giống chữ Tam (三) vừa giống chữ Nhất (theo chiều ngang). Những cách sắp xếp bố cục trên có lẽ đều xuất phát từ sự cải biến bố cục của khu lăng đầu tiên –lăng Thiên Thọ, nhưng thực sự đã tạo nên sự phong phú, đa dạng của kiến trúc lăng tẩm Nguyễn, nhất là khi mỗi khu lăng đều biết gắn liền với điều kiện tự nhiên để tạo dựng các công trình cho phù hợp.

- Trong các khu lăng triều Nguyễn, yếu tố nước (Thủy 水) giữ vị trí rất quan trọng,

có lẽ chỉ sau yếu tố núi (Sơn 山), trừ Ứng Lăng, tất cả các khu lăng đều tạo hồ nước bên trong và đôi khi chiếm diện tích rất lớn (Hiếu Lăng với hồ Trừng Minh; Xương Lăng với hồ Điện, hồ Nhuận Trạch, ao Ngưng Thúy; Khiêm Lăng với hồ Lưu Khiêm, ao Lưu Khiêm). Chính yếu tố nước đã làm kiến trúc các khu lăng mềm mại, nên thơ và giàu bản sắc phương Nam hơn. Bên cạnh đó các loại cây cối, hoa cỏ (Mộc 木) cũng rất được chú trọng. Các khu lăng đều được đặt trong những khu rừng lớn tự nhiên, được trồng rất nhiều loại cây, hoa… thể hiện rõ lối kiến trúc cảnh vật hóa hướng đến sự hòa đồng với thiên nhiên.

- Các loại vật liệu xây dựng lăng tẩm thời Nguyễn thể hiện rõ tính chất thời đại. Trong giai đoạn đầu, đều sử dụng vật liệu truyền thống là gỗ, gạch ngói, đá (trong đó có rất nhiều đá núi lấy tại chỗ), nhưng giai đoạn sau đã sử dụng cả vật liệu hiện đại nhập ngoại như ciment, sắt, ngói ardoise, sành sứ…(Tư Lăng, Ứng Lăng)

II.2.3. Viên tẩm của các thành viên khác thuộc hoàng gia Có thể quy thành 3 loại: 1-Viên Tẩm của thân vương, thân công; 2-Viên Tẩm của

hoàng tử, công chúa đã trưởng thành; 3- Viên Tẩm của phi tần23; 4- Sơn phần Tảo thương24.

23 Theo quy định, thê thiếp của hoàng đế triều Nguyễn được chia thành 9 bậc, nhưng chỉ có 2 bậc đầu là Phi tần và Cung tần thì lăng mộ được gọi là viên tẩm, các bậc còn lại đều gọi là Mộ. 24 Tức là mộ của các hoàng tử, công chúa chết yểu trước khi trưởng thành, thường được chôn chung thành từng nhóm, đúng ra đều gọi là Sơn phần, nhưng nay đều gọi là Lăng Tảo thương.

22

Page 23: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

Từ năm Minh Mạng thứ 19 (1838), triều Nguyễn quy định quy thức viên tẩm cho Phi tần, Cung tần, Tiệp dư... Nhưng đến năm Tự Đức 16 (1863) mới có thêm quy định chi tiết cho các đối tượng khác. Cụ thể như sau:

“Viên tẩm của Thân vương, Quận vương, Thân công chiếu theo lệ viên tẩm các phi, tường trong đều cao 4 thước 1 tấc, dày 1 thước 4 tấc (dưới này cũng thế), dài 2 trượng 7 thước, rộng 2 trượng 7 thước. Tường ngoài cao 4 thước 5 tấc dày 2 thước 2 tấc (dưới này dày cũng thế), dài 5 trượng 4 thước, rộng 4 trượng 5 thước. Mặt trước chính giữa xây cửa nguyệt môn, cánh cửa bằng gỗ sơn son, trong cửa, trước bình phong dựng một bia đá (dưới này cánh cửa kiểu bia và chỗ dựng như nhau) khắc mấy chữ "mỗ thân vương hoặc mỗ Thân công, mỗ Quận vương chi tẩm". Phía trước xây Bái Đình, 2 cấp, mỗi cấp rộng 6 thước. Tường bao lơn (nữ tường) mặt tiền tả hữu đều cao 1 thước 8 tấc, dày 7 tấc, chung quanh giới cấm đều 20 trượng. Viên tẩm các Quốc công, Quận công, và các công chúa đã phong, chiếu theo lệ viên tẩm các bậc Tần: Tường trong đều cao 3 thước 6 tấc, dài 2 trượng 3 thước, rộng 2 trượng 3 tấc. Tường ngoài cao 4 thước 1 tấc, dài 4 trượng 5 thước, rộng 3 trượng 6 thước. Một bia đá khắc mấy chữ "mỗ Quốc công" hoặc "mỗ Quận công, mỗ Công chúa chi tẩm". Nhưng không xây Bái Đình và nữ tường (dưới này cũng thế); giới cấm chu vi đều 12 trượng. Sơn phần các hoàng thân chưa phong và công chúa chưa phong thì theo như lệ Sơn phần Tiệp dư: Tường trong đều cao 3 thước 2 tấc, dài 2 trượng 1 thước, rộng 1 trượng 8 thước. Tường ngoài cao 4 thước, dài 3 trượng 6 thước, rộng 3 trượng 2 thước. Bia đá khắc mấy chữ "tiền triều" hoặc "mỗ tiền triều hoàng thân", hoặc "tiên triều tiền triều công chúa đệ kỷ thứ chi mộ", giới cấm chu vi đều 8 trượng25”.

Về quy cách bia mộ thì đã có quy định từ năm 1838: “Viên tẩm của các phi thì bia đá cao 2 thước 3 tấc 4 phân, rộng 1 thước 3 tấc 5

phân, dày 2 tấc 7 phân, đỉnh cao 7 tấc 2 phân, dài 1 thước 8 tấc, chân cao 5 tấc 4 phân, dài 2 thước 2 tấc, tất cả cao 3 thước 6 tấc. Mặt đỉnh và chung quanh thân bia, cả chân nữa đều khắc hình hoa văn, giữa khắc chữ “Viên tẩm của phi tần nào, họ nào26”.

Viên tẩm của Cung tần, Sơn phần của Tiệp dư cho đến Cung nhân cũng được quy định chi tiết cả về kích thước, trang trí và bia mộ27.

Đối với Sơn phần của Hoàng tử, công chúa chết yểu thì chiếu theo quy định của bậc Ngọc nhân:

“...làm tường gạch dài 18 thước, rộng 16 thước, cao 2 thước 7 tấc 5 phân, dày 1 thước 7 phân; trước bình phong dựng một bia đá, cao 1 thước 5 tấc, rộng 8 tấc 2 phân, dày 2 tấc 5 phân; chân bia cao 4 tấc, dài 1 thước 4 tấc, rộng 8 tấc 1 phân. Liệu cấp gạch vồ loại xây thành 1.200 viên, đá núi 1 đống và 5 phần đống, vôi 2500 cân, mật mía 49 cân, giấy bồi 350 tờ, bia đá 1 tấm và làm thêm 2 bức cánh cửa, dân phu 24 người, làm việc 24 ngày, cấp tiền 72 quan, gạo 19 phương 6 bát28”.

III. Nghi thức tang lễ và thờ cúng Quy chế về tang lễ và thờ cúng hoàng đế, hoàng hậu được triều Nguyễn quy định rất rõ trong sách Hội điển (quyển 124-127) và Hội điển tục biên (quyển 24). Việc tang lễ và thờ cúng vốn được triều Nguyễn đặc biệt coi trọng và xem đây là cách thể hiện lòng

25 Hội điển sự lệ tục biên, bản chữ Hán, Bộ Công, quyển 45, tờ 40b-41a. 26 Hội điển, Bộ Công, quyển 216, phần Quy thức viên tẩm. 27 Số lượng viên tẩm tại Huế hiện còn rất lớn nhưng tư liệu đề cập đến lại khá hạn chế. Trong giới hạn một bài viết, tôi chỉ có thể đề cập sơ qua nội dung này. 28 Hội điển tục biên, bộ Công, quyển 45, phần Sơn phần, tờ 46b.

23

Page 24: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

chí hiếu của con cháu với ông bà tổ tiên. Về cơ bản, quy chế tang lễ và thờ cúng được quy định như sau:

III.1. Tang lễ Các nghi thức thực hiện tang lễ hoàng đế hết sức cầu kỳ và được mô tả rất chi tiết trong tư liệu, về đại thể thì gồm các phần sau: - Sau khi hoàng đế băng hà sẽ đặt thi hài tại điện Càn Thành, Kết Thần bạch29, làm lễ Tiểu liệm trên giường nằm, tế Điện. - Làm lễ Đại liệm ở phía đông chính tẩm, tế Điện. - Rước thi hài vào tử cung (quan tài), hoàng đế cùng hoàng thân công, quan từ Nhị phẩm trở lên khóc lạy (2 lạy), tế Điện. - Bá cáo toàn thể nhân dân trong nước về lễ đại tang của hoàng đế. - Rước tử cung đến điện riêng (vua Gia Long đưa đến điện Hoàng Nhân, vua Minh Mạng đến cung Khánh Ninh, vua Thiệu Trị đến cung Bảo Định). - Làm lễ Thành phục, ban hành quy định về trang phục tang lễ và thời gian để tang, ban hành các điều cấm trong thời gian để tang (trang phục, vui chơi hát xướng, cưới hỏi..). - Làm “kim sách” và “hương bảo”(ấn quốc bảo giả bằng gỗ) dâng tên Thụy và miếu hiệu (có cáo với Trời đất tại đàn Nam Giao, miếu tổ, đàn Xã Tắc). - Thành lập ban tang lễ gồm các đại thần cao cấp nhất trong triều, chọn ngày an táng, chế tạo các dụng cụ phục vụ đưa rước tang lễ (linh xa, xe Long tuần..). - Khâm mệnh đại thần đem ngày an táng kính cáo trời đất, tôn miếu, Xã tắc. Sai quan tế cáo các lăng tẩm mà đám tang sẽ đi qua. -Làm lễ Khải điện (lễ cuối trước khi cất đám tang). - Rước Long giá (linh cửu vua) ra khỏi cung, lên thuyền ngược sông Hương lên lăng (Kỳ đài treo cờ trắng, bắn 9 phát thần công, toàn thể hoàng tộc, quan lại đưa tiễn, nhân dân các địa phương nơi thuyền đi qua phải lập hương án, hướng về thuyền khóc lạy đưa tiễn).

- Đến lăng, làm lễ cáo hạ huyệt, làm lễ Tiến tặng (dâng lụa, minh khí) và đốt minh khí, đậy nắp quách gỗ, xây quách đá, lấp huyệt (đóng toại đạo).

- Làm lễ tại điện chính của lăng, lễ tạ Sơn thần Hậu thổ, làm lễ đề Thần chủ (giao cho vị quan đức cao vọng trọng đề Thần chủ), cất Thần bạch rồi đem đi chôn, đưa Thần chủ cùng đoàn ngự giá về cung (Rước Thần chủ về thờ tại miếu riêng).

- Quan khâm mệnh đại thần đem việc ninh lăng đã thành tế cáo trời đất, tôn miếu, đàn Xã Tắc.

- Thân tộc và các địa phương làm lễ cung tiến, phụ tiến (dâng đồ cúng). Việc để tang đối với nhà vua và hoàng tộc kéo dài trong 27 tháng, đối với quan lại,

dân thường thì giảm dần. Tang lễ của Hoàng thái hậu, Hoàng hậu về cơ bản cũng gồm các bước trên, nhưng

liệm và rước tại cung Diên Thọ 延壽宮30. II.2. Việc thờ cúng

29 Tức kết lụa trắng giả làm hình nhân để hồ phách dựa vào đó, sau khi an táng xong mới chôn Thần bạch tại lăng. 30 Cung Diên Thọ là biệt cung dành cho Thái hậu trong Hoàng thành, được xây dựng từ năm 1804. Cung ban đầu gọi là Trường Thọ 長壽宮, sau là Từ Thọ 慈壽宮, Gia Thọ 嘉壽宮, sau cùng mới là Diên Thọ 延壽宮.

24

Page 25: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

Việc thờ cúng tổ tiên, nhất là các hoàng đế, hoàng hậu sau khi qua đời được triều Nguyễn hết sức chú trọng. Các lễ cúng tổ tiên tại Liệt miếu, lăng tẩm được xếp vào hàng Đại tự (ngang với tế Nam Giao, Xã Tắc). Các lễ cúng thường niên tại lăng, miếu được tổ chức trọng thể vào ngày giỗ của hoàng đế, hoàng hậu, Tết Nguyên đán, lễ hưởng 4 mùa, ngoài ra là các ngày Sóc, Vọng hằng tháng (mùng 1 và 15 âm lịch). Các lễ này do hoàng đế chủ trì hoặc cử Thân công, khâm mệnh đại thần thay mặt chủ trì.

IV. Những nét tương đồng và dị biệt IV.1. So sánh với lăng tẩm Việt Nam Trong lịch sử lăng mộ đế vương Việt Nam, kiến trúc lăng tẩm triều Nguyễn đã đạt

đến đỉnh cao và có phong cách riêng. So với lăng tẩm các triều đại trước, lăng tẩm thời Nguyễn vượt trội về quy mô, thể lượng kiến trúc và cả không gian cảnh quan bao quanh khu vực (được xem như bối cảnh nền rất quan trọng của khu lăng). Các khu lăng của vua Nguyễn đầu triều đều rộng hàng trăm héc-ta, thậm chí lăng Gia Long rộng đến 2.875 héc ta, và đều tạo nên những chỉnh thể kiến trúc hoàn chỉnh, đặc biệt hòa nhập với môi trường tự nhiên.

Bố cục và hình thức thể hiện của lăng tẩm triều Nguyễn cũng phong phú, chứ không nhất quán theo một khuôn mẫu, mỗi khu lăng đều có phong cách riêng và thể hiện được cá tính của chủ nhân.

Một điểm nổi bật nữa của lăng tẩm triều Nguyễn là sự gắn kết thống nhất của chúng đối với Kinh thành và các công trình kiến trúc khác ở phía Đông trong một quy hoạch thống nhất mà sông Hương đóng vai trò là trục nối kết. Lăng tẩm các triều đại trước của Việt Nam như thời Trần, Lê đều được quy hoạch và xây dựng ở quê hương của họ, đều cách xa kinh đô31.

IV.2.So sánh với lăng tẩm Trung Quốc Nhìn trên tổng thể, lăng tẩm triều Nguyễn chịu ảnh hưởng khá rõ của kiến trúc

lăng tẩm triều Minh của Trung Quốc. Điều này có nguyên nhân sâu xa về chính trị, văn hóa. Mặc dù triều Nguyễn thành lập tương đương với thời kỳ phồn thịnh của triều Thanh, nhưng trong tư tưởng và tâm lý, họ vẫn xem Thanh triều là người ngoại tộc, không chính thống, chỉ thừa nhận văn hóa và sự ảnh hưởng của triều Minh. Chính vì vậy, từ kiến trúc cung điện đến đàn miếu, lăng tẩm… triều Nguyễn cũng noi theo các điển lệ của Minh triều32.

Riêng về kiến trúc lăng tẩm, sự ảnh hưởng này có thể thấy rõ qua cách tổ hợp kiến trúc lăng thành 3 phần căn cứ vào 3 công năng cơ bản: an táng, tế tự và quản lý33.

Lăng Gia Long từ cách đặt tên đến cách quy hoạch tổng thể có nhiều nét tương đồng với khu Thập Tam Lăng ở Bắc Kinh34. Tuy nhiên, bố cục của lăng Minh Mạng mới 31 Lăng tẩm thời Trần đặt ở quê hương của nhà Trần tại vùng Tức Mạc, nay thuộc Thái Bình- Nam Định. Lăng tẩm thời Lê đặt ở vùng Lam Kinh- Thanh Hóa, là quê hương và là nơi phát tích của triều Lê. 32 Thực ra thì từ thế kỷ XVII-XVIII, các chúa Nguyễn khi hùng cứ đất Đàng Trong đã tiếp nhận tư tưởng đề cao triều Minh và không công nhận triều Thanh qua những đoàn quân tỵ nạn người Minh Hương. Rất nhiều người gốc Minh Hương đã trở thành quan lại cao cấp trong chính quyền triều Nguyễn ở thế kỷ XIX như Trịnh Hoài Đức, Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành… 33 Dương Đạo Minh trong sách Trung Hoa lăng mộ khái luận nhận xét: “Từ Minh Hiếu Lăng trở đi, kiến trúc lăng mộ Trung Quốc có sự thay đổi lớn và bước phát triển mới mẻ. Minh Hiếu Lăng căn cứ vào kiến trúc cung điện mà xây thành. Dựa vào ba yêu cầu công năng khá đặc biệt là an táng, tế tự và quản lý phục vụ để chia ra ba khu vực (ba viện) trong lăng là tiền viện, trung viện, và hậu viện. Noi theo thể kiến trúc “thượng hạ nhất thể” của thời Tống tạo nên một quần thể kiến trúc vừa phục vụ hoạt động an táng vừa phục vụ hoạt động tế tự”.

25

Page 26: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

ảnh hưởng sâu sắc kiểu bố cục lăng hoàng đế triều Minh, từ tên gọi đến cách tổ hợp 2 phần Lăng -Tẩm trên một trục thống nhất. Tất nhiên, về chi tiết thì lăng Minh Mạng có những điểm khác, như việc tách Minh Lâu xa khỏi Bảo thành, và nhất là sự xuất hiện của yếu tố nước (với thể lượng lớn) trong lăng.

Tổng thể bình đồ khu vực lăng Gia Long Tổng thể bình đồ khu Thập Tam Lăng

V.Kết luận

Lăng tẩm hoàng gia thời Nguyễn là một hệ thống kiến trúc có vị trí đặc biệt quan trọng trong quần thể kiến trúc cung đình Huế, một di sản văn hóa đặc biệt đã được UNESCO tôn vinh là Di sản Văn hóa Thế giới. Tiếp thu những giá trị truyền thống trong kiến trúc lăng mộ Việt Nam, kiến trúc lăng tẩm thời Nguyễn đã có những bước phát triển vượt bậc và thể hiện sự sáng tạo phong phú, phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng đất Huế. Chính vì vậy, lăng tẩm Huế có một phong cách rất riêng và đạt đến trình độ rất cao.

Về quy mô kiến trúc, lăng tẩm thời Nguyễn cũng có sự phát triển vượt bậc, mỗi khu lăng là một chỉnh thể kiến trúc hoành tráng, vượt xa so với các thời kỳ trước. Bố cục lăng tẩm khá phong phú trong một phong cách đồng nhất. Tuy nhiên, vật liệu kiến trúc của lăng tẩm trong giai đoạn muộn đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn minh phương Tây, thể hiện rõ tính chuyển giao của thời kỳ lịch sử đặc biệt này.

Nhìn trong sự so sánh, lăng tẩm Huế chịu ảnh hưởng khá rõ phong cách lăng tẩm thời Minh của Trung Quốc nhưng vẫn có những sáng tạo độc đáo để làm nổi bật lên tính chất phương Nam của mình.

Dù đã được quan tâm nghiên cứu từ lâu nhưng vẫn còn rất nhiều vấn đề xung quanh kiến trúc, mỹ thuật, những yếu tố văn hóa liên quan… của lăng tẩm thời Nguyễn cần phải tìm hiểu nghiên cứu để bổ khuyết, nhất là việc nghiên cứu trong sự so sánh rộng rãi và đầy đủ hơn so với lăng tẩm các nước trong khu vực ảnh hưởng văn hóa Nho giáo.

TS. Phan Thanh Hải

34 Đều gọi chủ sơn là Thiên Thọ Sơn và đều quy hoạch chung cho cả dòng họ trong một khu vặc rộng lớn. Lăng Gia Long khoảng 28km2, Minh Thập Tam Lăng khoảng 106km2.

26

Page 27: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

Thư mục tham khảo 1.Amadou Mahtar M’Bow, Vì công cuộc bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hóa của Thành phố Huế. UNESCO Press, 1981. 2.Phan Thuận An (1992), Kiến trúc Cố đô Huế, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế. 3. Phan Thanh Hải (2009), Quy hoạch và kiến trúc kinh thành Huế, Tạp chí Khảo cổ học, số 4/2009. 4.Thái Văn Kiểm (1960), Cố đô Huế, Nha văn hóa-Bộ Quốc Gia giáo dục, Sài Gòn. 5. Nội Các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ欽定大南會典事例

6. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục 大南實錄. Bản dịch của Viện Sử học, Nhà xuất bản Giáo dục, 10 tập. 7. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1909), Đại Nam nhất thống chí, 大南一統誌, bản Duy Tân năm thứ 3, bản chữ Hán của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế. 8.Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2003), Đại Nam liệt truyện大南 列傳, Bản dịch của Viện Sử học, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế. 9.Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1917), 欽定大南會典事例續編, bản in năm Khải Định thứ 2, bản chữ Hán của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế. 10. Mai Khắc Ứng (1993), Lăng của hoàng đế Minh Mạng, Hội Sử học Việt Nam xuất bản. 11. Mai Khắc Ứng (2004), Khiêm lăng và vua Tự Đức, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế. 12. Bulletin des Amis du Vieux Hué (Tập san của những người bạn Cố đô Huế), bản tiếng Pháp, 1914-1944. 13. 楊道明, « 中華建築陵墓該論 » 中國建築工業出版社 , 北京, 1988.

27

Page 28: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

PHỤ LỤC 1. Bảng thống kê kích thước lăng chúa Nguyễn

STT Tên gọi Chu vi tường ngoài chiều cao tường

Chu vi tường trong chiều cao tường

Kích thước mộ 墓 (Bảo phong)

1 Trường Cơ 長基陵

156,5m-2,6m 69,5m -2,05m T1:303 x 222 x 30cm T2: 248cm x172 x25cm

2 Trường Diễn 長衍陵

120,5m-2,51m 66,9m-2,02m T1: 322 x210 x 17cm T2:214 x170 x 27cm

3 Trường Diên 長延陵

124,5m- 2,51m 68,3m-1,98m T1:310 x187 x 23cm T2: 214 x 170 x27cm

4 Trường Hưng 長興陵

210m- 2,57m 52,8m – 1,97m T1: 326 x241 x18cm T2: 271 x 193 x22cm

5 Trường Mậu 長茂陵

121,7m -2,5m 67m- 1,98m T1: 650 x534 x18cm T2: 350 x 275 x23cm

6 Trường Thanh 長清陵

120,5m -1,96m 70,3m -2,05m T1:258 x 193 x 27cm T2:212 x 136 x 22cm

7 Trường Phong 長豐陵

121m -2,53m 66,5m -2,02 T1:271 x 210 x18cm T2:251 x 145 x 20cm

8 Trường Thái 長泰陵

126m -2,53m 61,2m- 1,45m T1:610 x 510 x20cm T2:325 x250 x28cm

9 Trường Thiệu 長紹陵

117,2m -2,51m 64,4m -1,9m T1:305 x250 x35cm T2:233 x 190 x28cm

10 Cơ Thánh 基聖陵

84,6m -3,15m T1:345 x310 x12cm T2:286 x250 x28cm T3:220 x196 x34cm

2. Niên biểu các đời chúa Nguyễn STT Họ tên Miếu hiệu Thời gian trị vì 1 Nguyễn Hoàng

阮 黃 Thái Tổ Gia Dũ hoàng đế 太祖嘉裕皇帝

1558-1613

2 Nguyễn Phúc Nguyên 阮 福 源

Hy tông Hiếu Văn hoàng đế 熙宗孝文皇帝

1613-1635

3 Nguyễn Phúc Lan 阮福瀾

Thần Tông Hiếu Chiêu hoàng đế 神宗孝昭皇帝

1635-1648

4 Nguyễn Phúc Tần 阮 福 瀕

Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế 太宗孝哲皇帝

1648-1687

5 Nguyễn Phúc Thái 阮 福 溱

Anh Tông Hiếu Nghĩa hoàng đế 英宗孝義皇帝

1687-1692

28

Page 29: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

6 Nguyễn Phúc Chu 阮 福 淍

Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế 顯宗孝明皇帝

1692-1725

7 Nguyễn Phúc Chú 阮 福 注

Túc Tông Hiếu Ninh hoàng đế 肅宗孝寧皇帝

1725-1738

8 Nguyễn Phúc Khoát 阮 福 闊

Thế Tông Hiếu Võ hoàng đế 世宗孝武皇帝

1738-1765

9 Nguyễn Phúc Thuần 阮 福 淳

Duệ Tông Hiếu Định hoàng đế 睿宗孝定皇帝

1765-1777

10 Nguyễn Phúc Luân (Côn) 阮 福 淪

Hưng Tổ Hiếu Khang hoàng đế 興祖孝康皇帝

3. Niên biểu các đời vua Nguyễn STT Niên hiệu Miếu hiệu Thời gian trị vì 1 Gia Long

嘉隆 Thế Tổ Cao hoàng đế 世祖高皇帝

1802-1820

2 Minh Mạng 明命

Thánh Tổ Nhân hoàng đế 聖祖仁皇帝

1820-1841

3 Thiệu Trị 紹治

Hiến Tổ Chương hoàng đế 憲祖章皇帝

1841-1847

4 Tự Đức 嗣德

Dực Tông Anh hoàng đế 翼宗英皇帝

1848-1883

5 Dục Đức 育德

Cung Tông Huệ hoàng đế 恭宗惠皇帝

1883

6 Hiệp Hòa 協和

Văn Lãng Quận vương 文郎郡王

1883

7 Kiến Phúc 建福

Giản Tông Nghị hoàng đế 簡宗毅 皇帝

1884

8 Hàm Nghi 咸儀

Không có miếu hiệu (Xuất đế)

1884-1885

9 Đồng Khánh 同慶

Cảnh Tông Thuần hoàng đế 景宗純皇帝

1885-1889

10 Thành Thái 成泰

Không có miếu hiệu (Bị phế ngôi)

1889-1907

11 Duy Tân 維新

Không có miếu hiệu (Bị phế ngôi)

1907-1916

12 Khải Định Hoằng Tông Tuyên hoàng đế 1916-1925

29

Page 30: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

啟定 弘宗宣皇帝 13 Bảo Đại

保大 Không có miếu hiệu Bị truất ngôi

1925-1945

30

Page 31: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

4. Một số hình ảnh về lăng tẩm triều Nguyễn

Một số hình ảnh tư liệu về lễ tang vua Khải Định (1925)

31
Page 32: LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ

Bình đồ lăng Tự Đức và không ảnh lăng Tự Đức (trên) Tổng thể lăng Khải Định và bình đồ lăng Khải Định (dưới)

Cổng chính phần lăng của An Lăng

Lăng vua Thành Thái

32