Upload
hakhuong
View
214
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
-----------------
LÊ QUÂN
LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN CÂY DƢỢC LIỆU
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TRAPHACO
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH
Hà Nội - 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
------- ---------
LÊ QUÂN
LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN CÂY DƢỢC LIỆU
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TRAPHACO
Chuyên ngành: Quản lý Kinh tế
Mã số: 60 34 04 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS ĐỖ KIM CHUNG
XÁC NHẬN CỦA
CÁN BỘ HƢỚNG DẪN
XÁC NHẬN CỦA CHỦ TỊCH HĐ
CHẤM LUẬN VĂN
Hà Nội - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là do chính tôi nghiên cứu và thực hiện. Các
thông tin và số liệu sử dụng trong luận văn đƣợc trích dẫn từ các nguồn tài liệu đầy
đủ. Kết quả phân tích trong luận văn này là trung thực. Luận văn không trùng với
bất kì đề tài nghiên cứu khoa học nào.
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới GS.TS Đỗ Kim Chung ngƣời đã hết sức
tận tình chỉ bảo, hƣớng dẫn và định hƣớng cho tôi chọn đề tài nghiên cứu, cơ sở lý
luận cũng nhƣ khảo sát thực tế trong quá trình thực hiện viết luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo tại Khoa Kinh tế chính trị -
Trƣờng Đại học Kinh tế - ĐHQGHN đã dạy dỗ tôi, cung cấp cho tôi những kiến
thức trong suốt quá trình học tập để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin đƣợc gửi lời cảm ơn tới các bạn đồng nghiệp tại Công ty Cổ
phần Traphaco, Lãnh đạo và nhân dân hai huyện Văn Lâm - Hƣng Yên, Hải Hậu -
Nam Định đã cho tôi nhiều lời khuyên quý báu, đã cung cấp cho tôi những tài liệu,
thông tin, tạo điều kiện cho tôi nghiên cứu, tham khảo các tài liệu phục vụ cho bản
luận văn cũng nhƣ đã giúp đỡ và giành thời gian trả lời phỏng vấn, khảo sát để tôi
có số liệu cho việc phân tích luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn với gia đình tôi, đã động viên, khuyến
khích, tạo điều kiện tốt nhất về thời gian, vật chất và tinh thần để tôi có thể hoàn
thành tốt bài luận văn này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Tác giả luận văn
Lê Quân
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................ i
DANH MỤC BẢNG .................................................................................................. ii
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ ..................................................................... iii
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ... 8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................ 8
1.2. Cơ sở lý luận về liên kết trong phát triển cây dƣợc liệu .................................. 16
1.2.1. Một số khái niệm về liên kết ...................................................................... 16
1.2.2. Tính tất yếu của liên kết ............................................................................. 19
1.2.3. Đặc trƣng của liên kết ................................................................................ 20
1.2.4. Các nguyên tắc cơ bản của liên kết ............................................................ 21
1.2.5. Các hình thức, phƣơng thức và mô hình liên kết ....................................... 23
1.2.6. Các nội dung liên kết ................................................................................. 30
1.2.7 Tác động của liên kết .................................................................................. 33
1.2.8 Nhu cầu liên kết .......................................................................................... 35
1.3. Cơ sở thực tiễn ................................................................................................. 35
1.3.1. Liên kết trong sản xuất - kinh doanh cây dƣợc liệu trên thế giới ....................... 35
1.3.2. Liên kết trong sản xuất - kinh doanh cây dƣợc liệu tại Việt Nam ............. 37
1.3.3 Bài học rút ra từ thực tiễn liên kết trong sản xuất - kinh doanh cây dƣợc
liệu trên thế giới và tại Việt Nam ......................................................................... 38
CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...... Error! Bookmark not defined.
2.1. Qui trinh thực hiện nghiên cứu ........................ Error! Bookmark not defined.
2.2. Phƣơng pháp thu thập thông tin ...................... Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Phƣơng pháp thu thập thông tin thứ cấp .... Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Phƣơng pháp thu thập thông tin sơ cấp ...... Error! Bookmark not defined.
2.3. Phƣơng pháp xử lý số liệu ............................... Error! Bookmark not defined.
2.3.1. Phƣơng pháp thống kê kinh tế ................... Error! Bookmark not defined.
2.3.2. Phƣơng pháp phân tích lợi ích, chi phí ...... Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG LIÊN KẾT TRONG PHÁT TRIỂN CÂY DƢỢC
LIỆU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TRAPHACO .... Error! Bookmark not defined.
3.1. Giới thiệu chung về Công ty cổ phần TRAPHACOError! Bookmark not defined.
3.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển ........................ Error! Bookmark not defined.
3.1.2. Mục tiêu và tầm nhìn ................................. Error! Bookmark not defined.
3.1.3. Chức năng, nhiệm vụ ................................. Error! Bookmark not defined.
3.1.4. Cơ cấu tổ chức bộ máy .............................. Error! Bookmark not defined.
3.1.5. Một số kết quả hoạt động sản xuất kinh doanhError! Bookmark not defined.
3.1.6. Chiến lƣợc Con đƣờng sức khỏe xanh ....... Error! Bookmark not defined.
3.2. Thực trạng liên kết trong phát triển dƣợc liệu Cúc hoa vàng và dƣợc liệu
Đinh lăng cung cấp cho công ty Traphaco tại Hƣng Yên và Nam ĐịnhError! Bookmark not defined.
3.2.1. Chuỗi liên kết trong phát triển chuỗi dƣợc liệu Cúc hoa vàng và Đinh lăngError! Bookmark not defined.
3.2.2. Kết quả sản xuất ......................................... Error! Bookmark not defined.
3.2.3. Thực trạng trong cung ứng đầu vào ........... Error! Bookmark not defined.
3.3.3. Chuyển giao khoa học kỹ thuật .................. Error! Bookmark not defined.
3.3.4. Thực trạng trong tiêu thụ sản phẩm đầu ra Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP THÚC ĐẨY LIÊN KẾT TRONG PHÁT
TRIỂN CÂY DƢỢC LIỆU CHO CÔNG TY CỔ PHẦN TRAPHACO .......... Error!
Bookmark not defined.
4.1. Bối cảnh trong nƣớc và quốc tế về liên kết phát triển dƣợc liệuError! Bookmark not defined.
4.1.1. Bối cảnh quốc tế......................................... Error! Bookmark not defined.
4.1.2. Bối cảnh trong nƣớc ................................... Error! Bookmark not defined.
4.2. Quan điểm và định hƣớng về liên kết phát triển dƣợc liệuError! Bookmark not defined.
4.2.1. Quan điểm .................................................. Error! Bookmark not defined.
4.2.2. Định hƣớng ................................................ Error! Bookmark not defined.
4.3. Một số giải pháp chung nhằm thúc đẩy liên kết trong phát triển cây dƣợc
liệu cho công ty cổ phần traphaco .......................... Error! Bookmark not defined.
4.3.1. Hoàn thiện các quy tắc ràng buộc phù hợp với từng trƣờng hợp liên kết
trong phát triển cây dƣợc liệu tại Công ty ........... Error! Bookmark not defined.
4.3.2. Nâng cao hiệu quả công tác quản trị thực hiện hợp đồng trong phát
triển cây dƣợc liệu tại Công ty ............................. Error! Bookmark not defined.
4.3.3. Nhóm giải pháp mang tính chiến lƣợc ....... Error! Bookmark not defined.
4.4. Nhóm giải pháp cụ thể đối với các vùng trồng dƣợc liệu của công ty
Traphaco ................................................................. Error! Bookmark not defined.
4.4.1. Đối với dƣợc liệu Đinh Lăng tại Hải Hậu, Nam ĐịnhError! Bookmark not defined.
4.4.2. Đối với dƣợc liệu Cúc hoa vàng tại Văn Lâm, Hƣng YênError! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ............................................................... Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 40
i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu Nguyên nghĩa
1 EU Liên minh Châu Âu
2 GACP - WHO Thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc
theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới
3 PTNT Phát triển nông thôn
4 QĐ Quyết định
ii
DANH MỤC BẢNG
STT Bảng Nội dung Trang
1 Bảng
2.1 Nguồn thu thập thông tin thứ cấp
Error!
Bookmark
not
defined.
2 Bảng
2.2 Số lƣợng đối tƣợng tham gia phỏng vấn PRA
Error!
Bookmark
not
defined.
3 Bảng
3.1 Thực trạng sản xuất dƣợc liệu Cúc hoa tại thôn Nghĩa Trai
Error!
Bookmark
not
defined.
4 Bảng
3.2
Thực trạng sản xuất dƣợc liệu Đinh lăng tại thôn Nghĩa
Trai
Error!
Bookmark
not
defined.
5 Bảng
3.3
Đặc điểm các yếu tố đầu vào trong sản xuất dƣợc liệu Cúc
hoa vàng
Error!
Bookmark
not
defined.
6 Bảng
3.4
Đặc điểm các yếu tố đầu vào trong sản xuất dƣợc liệu
Đinh lăng
Error!
Bookmark
not
defined.
iii
7 Bảng
3.5 Giá bán dƣợc liệu Cúc hoa qua các năm
Error!
Bookmark
not
defined.
8 Bảng
3.6 Giá bán dƣợc liệu Đinh lăng qua các năm
Error!
Bookmark
not
defined.
iv
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
STT Sơ đồ Nội dung Trang
1 Sơ đồ
3.1 Sơ đồ liên kết trong sản xuất dƣợc liệu Cúc
Error!
Bookmark
not
defined.
2 Sơ đồ
3.2 Sơ đồ liên kết trong sản xuất dƣợc liệu Đinh lăng
Error!
Bookmark
not
defined.
3 Sơ đồ
4.1 Mô hình liên kết và quản lý chất lƣợng dƣợc liệu 74
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, Đảng, Chính phủ và Nhà nƣớc rất chú trọng đến việc tăng cƣờng
liên kết trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Điều này đƣợc thể hiện qua Quyết
định số 80/2002/QĐ-TTg về “Chính sách khuyến khích tiêu thụ hàng hóa nông sản
thông qua hợp đồng” hay trong Nghị quyết số 26 NQ/TƢ cũng nêu rõ: “Có chính
sách khuyến khích phát triển các mối liên kết giữa hộ nông dân với các doanh
nghiệp, hợp tác xã, tổ chức khoa học, hiệp hội ngành hàng và thị trƣờng tiêu thụ sản
phẩm để hỗ trợ kinh tế hộ phát triển theo hƣớng gia trại, trang trại có quy mô phù
hợp, sản xuất hàng hoá lớn”…
Tuy nhiên, thực tiễn quá trình triển khai mặc dù có những thành công nhƣng
cũng có nhiều hạn chế tồn tại. Tỷ lệ nông sản tiêu thụ qua hợp đồng còn thấp, chƣa
tƣơng xứng với tiềm năng (Minh Hoài, 2006); chƣa có liết kết thực sự giữa nhà
nông, nhà doanh nghiệp và nhà khoa học mà chỉ là các liên kết đôi, trong đó vai trò
của nhà khoa học còn mờ nhạt (Phạm Thu Hồng, 2009); chƣa thống nhất đƣợc lợi
ích giữa các bên tham gia liên kết dẫn đến tình trạng không tuân thủ hợp đồng của
cả ngƣời sản xuất và doanh nghiệp (Lê Xuân Đình, 2009)…
Dƣợc liệu là một loại “nông sản” đặc biệt với những đặc thù riêng phục vụ
trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Hiện nay, nhu cầu của thị trƣờng dƣợc liệu và
thuốc có nguồn gốc từ dƣợc liệu, có xu hƣớng ngày càng tăng. Chỉ tính riêng các
loại thuốc có nguồn gốc từ dƣợc liệu của tất cả các hãng dƣợc phẩm, đã có doanh số
bán ra đạt khoảng 30% tổng doanh số bán thuốc ở các quốc gia. Bên cạnh đó, các
sản phẩm cũng có nguồn gốc từ thảo dƣợc, nhƣ “thực phẩm chức năng”, “chất bổ sung
dinh dƣỡng” hoặc “thuốc thay thế hoặc bổ sung”… đang phát triển với một tốc độ đáng
kinh ngạc. Sự bùng nổ này đƣợc các chuyên gia đánh giá là một “xu thế dinh dƣỡng”
của thế kỷ 2. Đối với các loại mỹ phẩm sử dụng nguyên liệu có nguồn gốc tự nhiên
thay thế nguyên liệu tổng hợp, hiện cũng đã chiếm tới 90% trong tổng số các loại mỹ
phẩm đƣợc sản xuất ra, cùng với mức độ tăng trƣởng cao tới 11,7% /năm.
Việt Nam là nƣớc đƣợc thiên nhiên ƣu đãi có nguồn dƣợc liệu phong phú
2
đứng thứ 4 thế giới. Những năm 80 của thế kỷ XX, Việt Nam là nƣớc xuất khẩu
dƣợc liệu và thu đƣợc nhiều ngoại tệ nhƣng giờ đây đến 90% dƣợc liệu sử dụng
trong nƣớc phải phụ thuộc vào nhập khẩu (Bộ Y tế, 2007). Một trong những nguyên
nhân đó là liên kết trong sản xuất cây dƣợc liệu còn lỏng lẻo dẫn đến sự thiếu bền
vững của các chuỗi giá trị ngành hàng cây dƣợc liệu.
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm Đông Nam Á, Việt
Nam có nguồn tài nguyên thực vật hết sức phong phú và đa dạng, trong đó có hàng
ngàn loài có công dụng làm thuốc. Theo kết quả điều tra của Viện Dƣợc liệu, tính
đến năm 2005 đã ghi nhận đƣợc ở nƣớc ta từ 3.948 loài thực vật và nấm lớn đƣợc
dùng làm thuốc (Nguyễn Tập, 2007) đến 4.745 loài (Võ Văn Chi, 2012)
Trong nguồn cây thuốc đã biết ở Việt Nam hiện nay, có tới trên 85% tổng số
loài là những cây mọc tự nhiên; số còn lại là cây thuốc trồng (trồng để làm thuốc và
thuộc nhóm cây trồng khác nhƣng có bộ phận đƣợc dùng làm thuốc). Nguyên bản,
nguồn cây thuốc mọc tự nhiên ở Việt Nam không chỉ phong phú về thành phần loài
mà còn phong phú về trữ lƣợng và số lƣợng các loài có giá trị sử dụng và kinh tế
cao. Bên cạnh đó, với tiềm năng đất đai và các vùng tiểu khí hậu đa dạng, nƣớc ta
còn có thể trồng đƣợc nhiều loại cây thuốc có xuất xứ khác nhau (Nguyễn Tập,
2007). Khẳng định rằng, trong nhiều thập kỷ qua, từ nguồn cây thuốc mọc tự nhiên
và cây thuốc trồng, đã góp phần quan trọng trong việc cung cấp thuốc chữa bệnh và
chăm sóc sức khỏe cho toàn dân và dƣợc liệu đƣợc xuất khẩu.
Trong thời kỳ bao cấp trƣớc kia, toàn bộ các khâu tổ chức khai thác, trồng trọt
cây thuốc, thu mua và lƣu thông phân phối dƣợc liệu…đều do các doanh nghiệp
Dƣợc nhà nƣớc và hợp tác xã nông nghiệp đảm nhiệm. Cách làm này, bị gò bó
trong một khuôn mẫu tập trung, kìm hãm năng lực sản xuất, song dƣới góc độ quản
lý nhà nƣớc và quản lý tài nguyên, thì lại có những ƣu điểm nhất định. Từ khi nền
kinh tế nƣớc ta chuyển đổi sang cơ chế thị trƣờng, công tác dƣợc liệu không còn là
nhiệm vụ riêng của ngành Y tế, mà do nhiều thành phần kinh tế khác tham gia. Ƣu
điểm nổi bật của cơ chế hiện hành là sự năng động, luôn tìm cách đáp ứng thỏa
mãn giữa cung và cầu.
3
Tuy nhiên, do khai thác liên tục nhiều năm, ít chú ý bảo vệ tái sinh, cùng với
nhiều nguyên nhân khác và công tác quản lý tài nguyên không đồng bộ, đã làm cho
nguồn cây thuốc mọc tự nhiên ở Việt Nam bị giảm sút nghiêm trọng. Hầu hết các
loài có giá trị sử dụng và kinh tế cao đang mất nhanh khả năng khai thác lớn, hay đã
trở nên hiếm gặp. Một số loài cây thuốc đƣợc coi là quý hiếm đều đang đứng trƣớc
nguy cơ bị tuyệt chủng (Nguyễn Tập, 2009). Đối với cây thuốc trồng, hiện cũng
đang vấp phải nhiều khó khăn, bất cập. Nổi cộm lên đó là sự tràn ngập các loại
dƣợc liệu nhập khẩu giá rẻ, đã triệt tiêu từng phần việc phát triển trồng cây thuốc ở
trong nƣớc, dẫn đến nguy cơ tái phụ thuộc vào dƣợc liệu từ Trung Quốc (Vụ KH &
Đào tạo Bộ Y tế, 2009) (Nguyễn Tập, et al., 2009). Bảo tồn đi đôi với khai thác hợp
lý nguồn cây thuốc mọc tự nhiên và phát triển trồng cây thuốc ở nƣớc ta, hiện đang
là vấn đề cần đƣợc quan tâm.
Để thực hiện đƣợc định hƣớng trên, bên cạnh sự chỉ đạo của Nhà nƣớc và của
Bộ chủ quản, nhiều Doanh nghiệp Dƣợc trong nƣớc đã chủ động, xây dựng đƣợc
các vùng trồng - vùng cung cấp dƣợc liệu ổn định cho sản xuất. Tuy nhiên, trƣớc
yêu cầu hội nhập và nâng cao chất lƣợng dƣợc liệu, việc khai thác và trồng trọt cây
thuốc hiện nay, cần tiếp cận với các tiêu chí Quốc gia và Quốc tế (VietGAP;
GACP-WHO, Organic, FairWild).
Công ty CP Traphaco là công ty dƣợc hàng đầu trong nƣớc về phát triển
dƣợc liệu và thuốc từ dƣợc liệu với lƣợng dƣợc liệu công ty sử dụng hàng năm trên
bảy nghìn tấn trong đó 90% là dƣợc liệu trong nƣớc (Traphaco, Báo cáo thường
niên, 2015). Hiện nay, có rất nhiều vùng trồng dƣợc liệu trong cả nƣớc cung cấp
dƣợc liệu cho công ty nhƣ huyện Sa Pa, huyện Bắc Hà (tỉnh Lào Cai), huyện Văn
Lâm (tỉnh Hƣng Yên); huyện Nghĩa Hƣng, huyện Hải Hậu, huyện Giao Thủy (tỉnh
Nam Định); huyện Đông Triều (tỉnh Quảng Ninh)… Để đảm bảo hiệu quả chữa
bệnh của sản phẩm thuốc cũng nhƣ đảm bảo quá trình sản xuất, kinh doanh, việc ổn
định các vùng trồng dƣợc liệu cung cấp đầu vào của công ty chiếm vị trí quan trọng
hàng đầu.
Huyện Văn Lâm, tỉnh Hƣng Yên và huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định là 2
4
huyện đồng bằng Sông Hồng cung cấp nguồn dƣợc liệu lớn cho công ty Traphaco.
Huyện Văn Lâm là địa phƣơng có truyền thống trồng cây thuốc hàng trăm năm và
là nơi cung cấp chủ yếu dƣợc liệu Cúc hoa cho công ty. Huyện Hải Hậu mới triển
khai phát triển cây dƣợc liệu trong khoảng hai mƣơi năm trở lại đây và là nơi cung
cấp số lƣợng lớn dƣợc liệu Đinh lăng.
Để góp phần ổn định nguồn dƣợc liệu Cúc hoa và Đinh lăng đầu vào cho công
ty tại huyện Văn Lâm và huyện Hải Hậu, việc nghiên cứu, đánh giá, so sánh các
liên kết trong chuỗi giá trị cây Cúc hoa và cây Đinh lăng tại hai huyện Văn Lâm và
Hải Hậu từ đó đƣa ra một số giải pháp tăng cƣờng liên kết là cần thiết. Do đó,
chúng tôi thực hiện đề tài “Liên kết trong phát triển cây dƣợc liệu cho công ty cp
Traphaco: trƣờng hợp nghiên cứu tại huyện Văn Lâm, tỉnh Hƣng Yên và huyện Hải
Hậu, tỉnh Nam Định”.
Câu hỏi nghiên cứu của luận văn: Đâu là giải pháp giúp hoàn thiện liên kết
trong phát triển cây dƣợc liệu cho công ty Cổ phần Traphaco trên địa bàn huyện Văn
Lâm, tỉnh Hƣng Yên và huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định?
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực trạng liên kết trong phát
triển cây dƣợc liệu cho Công ty cổ phần TRAPHACO đối với sản phẩm dƣợc liệu
Cúc hoa vàng trên địa bàn thôn Nghĩa Trai, xã Tân Quang, huyện Văn Lâm, tỉnh
Hƣng Yên và dƣợc liệu Đinh lăng trên địa bàn tổ 9, xã Hải Toàn, huyện Hải Hậu,
tỉnh Nam Định. Qua đó đề xuất một số giải pháp giúp thúc đẩy nhanh và bền vững
mối liên kết trong phát triển cây dƣợc liệu giữa các nông hộ và Công ty cổ phần
TRAPHACO, từng bƣớc nâng cao đời sống ngƣời dân, phát triển ngành nông
nghiệp trong nƣớc, đặc biệt trong ngành dƣợc liệu.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu đề ra, luận văn thực hiện các nhiệm vụ chính
sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về liên kết trong sản xuất nông nghiệp, trong đó đặc
5
biệt tập trung vào hai loại dƣợc liệu chính là Cúc hoa vàng và cây Đinh lăng.
- Phân tích thực trạng liên kết trong phát triển cây dƣợc liệu cho công ty cổ phần
TRAPHACO đối với phát triển cây dƣợc liệu Cúc hoa vàng và cây Đinh lăng trên
địa bàn huyện Văn Lâm tỉnh Hƣng Yên và huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Những
thành tựu đạt đƣợc trong liên kết và những tồn tại khó khăn, nguyên nhân.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy liên kết trong phát triển cây dƣợc liệu
giữa công ty và các nông hộ trên địa bàn hai huyện, từ đó giúp nâng cao hiệu quả
liên kết, phát triển kinh tế, đời sống ngƣời dân ngày càng đƣợc cải thiện.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là tập trung vào các chủ thể tham gia
liên kết trong phát triển cây dƣợc liệu bao gồm Công ty cổ phần TRAPHACO và
các hộ dân thuộc hai huyện Văn Lâm, tỉnh Hƣng Yên và huyện Hải Hậu tỉnh Nam
Định, trong đó chủ thể quản lý là công ty cổ phần Traphaco. Ngoài ra, luận văn
cũng tập trung đánh giá mức độ liên kết nhằm đề xuất những giải pháp tăng cƣờng
liên kết trong thời gian tới.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Số liệu đƣợc thu thập trong vòng 3 năm từ năm 2011 - 2015.
- Về không gian: Nghiên cứu về liên kết trong phát triển cây dƣợc liệu cho
Công ty cổ phần TRAPHACO đƣợc tác giả lựa chọn là hai cây dƣợc liệu chủ yếu
của TRAPHACO hiện nay là Cúc hoa vàng và Đinh lăng. Trong đó, cây dƣợc liệu
Cúc hoa vàng hiện đang đƣợc trồng chủ yếu trên địa bàn làng Nghĩa Trai, xã Tân
Quang, huyện Văn Lâm, tỉnh Hƣng Yên và dƣợc liệu Đinh Lăng trên địa bàn tổ 9,
xã Hải Toàn, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
3.2.1 Dược liệu Cúc hoa vàng tại Huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên
Dƣợc liệu Cúc hoa vàng đƣợc phân bố, tập trung chủ yếu tại thôn Nghĩa
Trai, xã Tân Quang (Văn Lâm). Hoa Cúc có thể đƣợc sử dụng trực tiếp nhƣ trà thảo
dƣợc hoặc trở thành một vị trong các bài thuốc nam, thuốc bắc. Hoa Cúc có vị đắng,
hơi ngọt, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, có thể sử dụng để chữa các bệnh hoa
6
mắt, chóng mặt, đau đầu, cao huyết áp…
Thu hoạch và chăm sóc Cúc hoa vàng
Huyện Văn Lâm có khoảng 20 ha trồng Cúc hoa vàng; trong đó tập chung
chủ yếu tại thôn Nghĩa Trai, xã Tân Quang, huyện Văn Lâm (8 - 10 ha) chiếm
khoảng 50% diện tích và sản lƣợng (8 - 10 tấn dƣợc liệu/năm).
Cúc hoa vàng là một dƣợc liệu đƣợc sử dụng với sản lƣợng lớn bởi công ty
CP Traphaco (5 - 6 tấn dƣợc liệu/năm) trong sản phẩm Sáng mắt với doanh thu 20 -
30 tỷ/năm. Công ty cũng đã xây dựng nhà máy công nghệ cao Traphaco trên địa bàn
huyện để thu mua và sản xuất các sản phẩm đông dƣợc.
3.2.2 Dược liệu Đinh Lăng tại Huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định
Cây dƣợc liệu Đinh lăng đã đƣợc trồng rất nhiều năm trên đồng đất của
huyện Hải Hậu và trong mƣời năm gần đây diện tích trồng đinh lăng ngày càng
đƣợc mở rộng. Trƣớc năm 2013, tổng diện tích trồng Đinh lăng toàn huyện có
khoảng 36,12 ha và duy trì ổn định với quy mô điện tích này. Từ năm 2013 đến
nay, Công ty cổ phần Traphaco đã đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm, do đó diện tích
không ngừng tăng lên. Đến năm 2015, tổng diện tích trồng Đinh lăng tại các xã Hải
Ninh, Hải Quang, Hải Châu, Hải Giang, Hải Lộc, Hải Đông, Hải Hà... lên đến 46,30 ha.
7
Thu hoạch và chăm sóc Đinh lăng
Xóm 9, xã Hải Toàn, huyện Hải Hậu là địa phƣơng có diện tích và sản lƣợng
Đinh lăng lớn nhất toàn huyện (với diện tích năm 2015 lên tới 16ha) và cung cấp
sản lƣợng lên tới 160 tấn dƣợc liệu/năm.
Công ty Traphaco với các sản phẩm Hoạt huyết dƣỡng não và Cebraton mỗi
năm tiêu thụ từ 800 - 1000 tấn dƣợc liệu Đinh lăng. Công ty đã tập trung phát triển
vùng dƣợc liệu tại huyện Hải Hậu và huyện Nghĩa Hƣng tỉnh Nam Định. Trong đó
xóm 9, xã Hải Toàn là đơn vị điển hình trong phát triển dƣợc liệu Đinh lăng cung
ứng cho công ty.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
4. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 4 chƣơng:
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề nghiên cứu.
Chƣơng 2. Đặc điểm địa bàn và phƣơng pháp nghiên cứu.
Chƣơng 3. Thực trạng liên kết trong phát triển cây dƣợc liệu cho Công ty cổ
phần Traphaco tại huyện Văn Lâm tỉnh Hƣng Yên và huyện Hải Hậu tỉnh Nam
Định
Chƣơng 4. Một số giải pháp giúp thúc đẩy liên kết trong phát triển cây dƣợc
liệu cho Công ty cổ phần Traphaco
8
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, vấn đề liên kết sản xuất - kinh doanh dƣợc liệu giữa doanh
nghiệp, Nhà khoa học, Nhà nông và Nhà nƣớc vẫn là vấn đề bức xúc, nhất là khi
quá trình hội nhập kinh tế đòi hỏi phải tổ chức lại cơ bản nền sản xuất hàng hóa
phục vụ tiêu thụ nội địa và xuất khẩu để đồng thời thỏa mãn yêu cầu về số lƣợng và
chất lƣợng của ngƣời tiêu dùng. Ngoài ra, quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ ở
các vùng nông thôn ven các thành phố lại đặt cho ngành dƣợc liệu ven đô nhiều
thách thức lớn. Từ đó, hình thành nhu cầu phát triển dƣợc liệu với những đặc thù
riêng biệt, khác với các vùng nông nghiệp truyền thống, phát triển dƣợc liệu không
chỉ thỏa mãn nhu cầu chữa bệnh, thực phẩm chức năng mà còn là nhu cầu làm đẹp,
chăm sóc sức khỏe từ những sản phẩm chế biến từ dƣợc liệu thiên nhiên ở trong
nƣớc của mọi tầng lớp ngƣời dân.
Nông dân ngày nay, đặc biệt là nông dân các vùng có tiềm năng lợi thế về
phát triển dƣợc liệu không phải chỉ sản xuất dƣợc liệu phục vụ tiêu dùng của hộ mà
chủ yếu là hàng hóa. Đặc điểm sản xuất hàng hóa nảy sinh một số yêu cầu lớn:
- Sản xuất hàng hóa đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao hơn để giảm chi phí sản
xuất, do vậy họ bắt buộc phải có các liên kết với các tổ chức cung cấp dịch vụ đầu
vào cũng nhƣ đầu ra trong sản xuất (các tổ chức cung cấp vốn; các đơn vị cung ứng
vật tƣ sản xuất; các đơn vị chịu trách nhiệm xây dựng chỉ dẫn địa lý, xuất xứ hàng
hóa cho sản phẩm và kiểm soát chất lƣợng dƣợc liệu; các hệ thống kho chứa điều
tiết hàng hóa, các đơn vị vận chuyển, giao hàng...) đặc biệt là các tổ chức giúp giải
quyết các mối quan hệ với bên ngoài nhƣ tiếp xúc với thị trƣờng, tiếp thị, quảng
bá… Tổ chức nông dân sẽ giúp các hộ dễ dàng tiếp cận với các nguồn vốn vay.
- Nhu cầu về sử dụng các sản phẩm đƣợc chế biến từ dƣợc liệu tự nhiên của
ngƣời dân ở trong nƣớc và phục vụ xuất khẩu đang là vấn đề cấp bách, “cung không
đủ cầu” đây chính là thị trƣờng tiêu thụ rộng lớn và đều đặn trong tƣơng lai. Tuy
nhiên, để tiếp cận đƣợc thị trƣờng này, ngƣời dân phải liên kết với các doanh
9
nghiệp, các nhà khoa học và Nhà nƣớc để nâng cao chất lƣợng dƣợc liệu nhằm và
khả năng cạnh tranh trên thị trƣờng trong nƣớc và quốc tế.
Trên thế giới, cụ thể là ở hầu hết các nƣớc đang phát triển, 70-95% dân số sử
dụng thuốc cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe ban đầu, đặc biệt là các quốc gia
Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ La tinh và Trung Đông. Ở nhiều nƣớc phát triển nhƣ
Canada, Pháp, Đức, Ý, sử dụng thuốc cổ truyền cũng tăng đáng kể, 70-90% dân số
sử dụng các sản phẩm thảo dƣợc dƣới các tiêu đề “thực phẩm bổ sung”, “sản phẩm
thay thế” hay “sản phẩm không thông thƣờng”. Điều này dẫn đến các đơn vị quản
lý, sản xuất - kinh doanh phải tăng cƣờng các hoạt động nghiên cứu, kiểm soát, kinh
doanh, tiếp thị các sản phẩm thuốc y học cổ truyền ở cấp quốc tế. WHO đã công bố
nhiều văn bản về nhận thức vai trò của thuốc YHCT và phát triển thuốc từ thảo
dƣợc nhƣ:
+ WHO và UNICEF đã thông qua Tuyên bố Alma-Ata năm 1978;
+ Đã đƣa ra bản hƣớng dẫn thực hành thu hái và trồng trọt cây thuốc tốt
(GACP) năm 2003;
+ Đã thông qua bản “Chiến lƣợc toàn cầu và kế hoạch hành động vì sức khoẻ
cộng đồng, phát minh và sở hữu trí tuệ” (24/05/2008);
+ Đã đƣa ra Tuyên bố Bắc Kinh (08/11/2008);
+ Đã mở nhiều hội thảo về Thuốc dân tộc (2009).
Rõ ràng, chính sách phát triển thuốc Y học cổ truyền của WHO, trong đó có
dƣợc liệu, đòi hỏi sự tham gia đầy đủ của nhiều ban ngành, đơn vị từ Nhà quản lý
đến ngƣời dân, từ Nhà khoa học đến Doanh nghiệp. WHO không đƣa ra mô hình
nhất định để phát triển dƣợc liệu ở các quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, một số văn
phòng của WHO tại địa phƣơng ở Châu Phi, Trung Đông và Đông Nam Á cũng đã
đƣa ra các hƣớng dẫn phù hợp với địa phƣơng về qui định, đăng ký thuốc cổ truyền
cũng nhƣ các đề xuất về tiêu chuẩn tiếp thị (WHO, 2011).
Tại Châu Á, có những mô hình phát triển các sản phẩm trong đó Nhà nƣớc là
ngƣời đóng vai trò chủ chốt. Kinh nghiệm của các nƣớc lân cận nhƣ Trung Quốc,
Thái Lan, Hàn Quốc.. cho thấy việc xây dựng chiến lƣợc quy hoạch phát triển dƣợc
10
liệu tại các vùng có tiềm năng lợi thế trên vùng lãnh thổ đƣợc triển khai mạnh mẽ.
Việc này đƣợc triển khai cụ thể từ khâu tuyên truyền, quảng bá đến đầu tƣ về khoa
học - kỹ thuật và tài chính cho phát triển. Vấn đề này đƣợc thực hiện đồng bộ giữa
các cấp các ngành ở các địa phƣơng, nhất là trong việc phối hợp xây dựng các
phƣơng án phát triển mang tính đặc thù của mỗi địa phƣơng dựa trên chiến lƣợc,
quy hoạch tổng thể chung của vùng lãnh thổ (WHO, 2011). Do vậy, việc xây dựng
mô hình liên kết phát triển phù hợp với từng địa phƣơng, từng vùng của mỗi quốc
gia là vấn đề đƣợc các nƣớc trên thế giới trong đó có Việt Nam đƣợc quan tâm và
nghiên cứu.
Tại Việt Nam, nhận thức đƣợc tầm quan trọng của việc bảo tồn, phát triển
dƣợc liệu đối với công tác chăm sóc sức khỏe và chữa trị bệnh tật cũng nhƣ phát
triển kinh tế đất nƣớc, ngay từ thời kỳ chiến tranh, Nhà nƣớc đã ban hành nhiều văn
bản về phát triển dƣợc liệu.
Trƣớc yêu cầu hội nhập và phát triển của đất nƣớc ngày nay, đồng thời đáp
ứng yêu cầu ngày càng tăng về số lƣợng và chất lƣợng của nguồn nguyên liệu làm
thuốc ở Việt Nam, Trong giai đoạn từ 2000 đến nay, Nhà nƣớc nhận thấy rõ vai trò
của y dƣợc học cổ truyền và công tác phát triển dƣợc liệu đối với phát triển kinh tế.
Từ đó, Nhà nƣớc và các Bộ ngành đã đƣa ra các Nghị quyết, quyết định chú trọng
đến công tác dƣợc liệu nhƣ: Quyết định 108/2002/QĐ-TTg về phê duyệt chiến lƣợc
phát triển ngành Dƣợc giai đoạn đến năm 2010, Quyết định 222/2003/QĐ-TTg về
phê duyệt chính sách quốc gia về Y dƣợc học cổ truyền, Quyết định 765/2005/QĐ-
BYT về phê duyệt kế hoạch thực hiện chính sách quốc gia về Y dƣợc học cổ truyền;
Quyết định số 153/2006/QĐ-TTg ngày 30/6/2006 về việc phê duyệt Quy hoạch
tổng thể phát triển Y tế Việt Nam giai đoạn đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm
2020.
Tuy nhiên, thực tế việc hợp tác, liên kết giữa nghiên cứu còn rời rạc, phát
triển, sản xuất, thị trƣờng tiêu thụ dƣợc liệu, thiếu tổ chức. Mặt khác, những kết quả
đạt đƣợc trong khảo sát, nghiên cứu về dƣợc liệu của các cấp, các ngành từ trung
ƣơng đến địa phƣơng trong những năm qua còn khiêm tốn, các giải pháp đƣa ra
11
chƣa phù hợp với thực tế dẫn tới khi tiến hành ứng dụng, dụng triển khai trong thực
tế chƣa đem lại hiệu quả, còn nhiều thiếu sót hạn chế. Gần đây, để khắc phục những
tồn tại này, trong công trình nghiên cứu của (Trần Ngọc Ca, cùng các cộng sự,
2013) thuộc Hội đồng Chính sách khoa học và công nghệ quốc gia với đề tài “phân
tích và đề xuất một số giải pháp chính sách về liên kết 4 nhà (nhà nƣớc, nhà khoa
học, nhà nông và nhà doanh nghiệp) trong phát triển dƣợc liệu ở Việt Nam” đã đề
cập cụ thể hơn về cơ chế, chính sách dành cho “các nhà” khi tham gia liên kết, trong
đó nhấn mạnh việc Nhà nƣớc phải đứng vai trò chủ đạo trong liên kết này, đồng
thời đƣa ra các chính sách cho “các nhà” phù hợp với thực tế ở từng địa phƣơng.
Tiếp theo, ngày 30/10/2013, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 1976/QĐ-TTg về việc “Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển dƣợc liệu đến
năm 2020 và định hƣớng đến năm 2030”.
Mặc dù các chính phủ của các nƣớc trên thế giới trong đó có Việt Nam đã có
nhiều chủ trƣơng trong việc phát triển dƣợc liệu, nhƣng trong những năm qua
những công trình nghiên cứu về chủ đề này trên thế giới và Việt Nam cũng còn ít,
chƣa đƣợc quan tâm nghiên cứu một cách bài bản và có hệ thống. Tuy nhiên, có thể
thấy trong những năm qua, đã có một số công trình tiêu biểu nghiên cứu về chủ đề
này nhƣ:
Nghiên cứu của Chengzi (2013), Tăng cƣờng mối quan hệ nông dân và
doanh nghiệp trong phát triển dƣợc liệu ở Trung Quốc hiện nay, Tạp chí cây thuốc
số 121. Tác giả đã chỉ ra đƣợc tiềm năng, lợi thế của Trung Quốc trong phát triển
dƣợc liệu ở tất cả các vùng trên đất nƣớc, đặc biệt là nếu tăng cƣờng sự liên kết chặt
chẽ giữa các bên tham gia thì tiềm năng dƣợc liệu của Trung Quốc có thể trở thành
mặt hàng xuất khẩu chính đứng sau các sản phẩm rau, quả trong hệ thống các sản
phẩm nông nghiệp chủ đạo. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã khái quát thực trạng phát
triển dƣợc liệu tại Trung Quốc từ những năm 80 của thế kỷ 20 cho đến nay và mối
quan hệ hợp tác giữa ngƣời nông dân với doanh nghiệp trong phát triển dƣợc liệu tại
Trung Quốc. Tác giả chỉ ra những khó khăn thách thức của quá trình hợp tác giữa
nông dân và doanh nghiệp trong từng giai đoạn là những cam kết về cung cấp giống
12
và tiêu thụ dƣợc liệu giữa ngƣời dân và doanh nghiệp chƣa chặt chẽ. Mặt khác, do
yêu cầu của doanh nghiệp đối với chất lƣợng dƣợc liệu đòi hỏi cao hơn so với thực
tiễn khiến cho mối quan hệ giữa nông dân và doanh nghiệp bị rạn nứt. Tác giả cũng
đƣa ra kiến nghị cần có Nhà nƣớc tham gia sâu vào quá trình này vừa có thể đáp
ứng đƣợc yêu cầu phát triển dƣợc liệu theo quy hoạch vừa làm trọng tài để mối
quan hệ này đƣợc cải thiện hơn.
Trong nghiên cứu của Trần Văn Ơn (2015) về “phát triển dƣợc liệu Quảng
Ninh trong bối cảnh nền kinh tế thị trƣờng và hội nhập” đƣa ra quan điểm: Việc
phát triển đƣợc liệu ở Quảng Ninh - Việt Nam cần đƣợc triển khai một cách có hệ
thống, đồng bộ và đột phá. Nghĩa là việc phát triển dƣợc liệu không đơn thuần là chỉ
là mời gọi một số doanh nghiệp lập dự án đầu tƣ, giãn dân lấy đất,… để trồng một
số cây thuốc nhƣ cách làm bấy lâu nay mà cần phát triển hệ thống các chủ thể kinh
tế tham gia, đƣợc gắn kết với nhau theo chuỗi giá trị, từ hệ thống cung ứng đầu vào
đến chủ thể sản xuất sơ cấp, thứ cấp, đến thị trƣờng mục tiêu; các hệ thống hỗ trợ và
chính sách của tỉnh, trong đó các chủ thể kinh tế đƣợc đặt ở vị trí trung tâm. Đặt
cộng đồng vào trung tâm của sự phát triển, trong đó các doanh nghiệp cộng đồng
(bao gồm các HTX theo luật HTX năm 2012 và các công ty cổ phần) là động lực
phát triển. Có nhƣ vậy mới huy động đƣợc sự tham gia của ngƣời dân, nhằm tạo ra
bƣớc chuyển lớn.
Cùng với quan điểm này, (năm 2014) UBND tỉnh Hà Giang thực hiện dự án
phát triển cây dƣợc liệu gắn với xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Dự
án đã đƣa ra quan điểm phát triển một cách có hệ thống, đồng bộ và đột phá. Hệ
thống các chủ thể kinh tế tham gia phát triển đƣợc gắn kết với nhau theo chuỗi giá
trị, từ hệ thống cung ứng đầu vào đến chủ thể sản xuất sơ cấp, thứ cấp, đến thị
trƣờng mục tiêu; các hệ thống hỗ trợ và chính sách của Nhà nƣớc cũng nhƣ của tỉnh
Hà Giang - Việt Nam (theo hƣớng hỗ trợ), trong đó các chủ thể kinh tế đƣợc đặt ở
vị trí trung tâm.
Cũng trong (năm 2014) này, trong “Mô hình triển khai gắn lợi ích, trách
nhiệm 4 nhà trong chuỗi giá trị phát triển dƣợc liệu tại 6 huyện 30A- Hà Giang - An
13
Vy” đã đề cập cụ thể hơn về mô hình liên kết này. Trong đó, phân định rõ vai trò
của “các nhà” nhƣ:
- Nhà doanh nghiệp Anvy sẽ đặt hàng trồng đối với hộ gia đình từng vụ:
Anvy sẽ ứng giống, hƣớng dẫn chuyển giao kỹ thuật qui trình GACP cho các hộ, lo
thiết bị sản xuất, đầu tƣ cải tạo đồng ruộng, tham gia điều hành sản xuất mua toàn
bộ sản phẩm đạt chất lƣợng theo tiêu chuẩn xác nhận 2 bên với giá thị trƣờng.
- Nhà nƣớc: Tạo ra các hành lang để 3 nhà trên hợp tác, đảm bảo quyền lợi
và nghĩa vụ, tạo ra sự hấp dẫn cho doanh nghiệp đầu tƣ vào ngành chứa đựng rủi ro,
đầu tƣ vào vùng khó khăn, lựa chọn đúng doanh nghiệp có tâm, có tầm, có hƣớng đi
và chiến lƣợc phát triển khả thi để hỗ trợ khuyến khích, chia sẻ những rủi ro do các
điều kiện tự nhiên gây ra, mong muốn 3 nhà trên hài lòng với công việc, cuộc sống
và thành quả đầu tƣ, ổn định đời sống xã hội, góp phần bảo vệ vững chắc an ninh
quốc gia, từng bƣớc cân đối ngân sách.
- Nhà khoa học: Đối tƣợng nghiên cứu, lựa chọn, ứng dụng khoa học công
nghệ, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật để tạo ra các sản phẩm vƣợt trội về chất
lƣợng, năng suất - Mong muốn đƣợc có các đơn đặt hàng nghiên cứu từ doanh
nghiệp (Anvy) một cách rõ ràng, có tính chất cam kết, đƣợc ghi nhận, tôn vinh,
đƣợc nhận lƣơng xứng đáng và có thu nhập gia tăng từ các công trình đề tài chuyển
giao thành công cho Anvy)
- Nhà nông (Hộ dân): Đầu tƣ đất, công cụ, công lao động, phân bón, chi phí
cải tạo đồng ruộng, trồng gia công theo đơn đặt hàng cho Anvy (chủng loại, số
lƣợng, chất lƣợng). Đội liên kết: gồm 2-3 hộ có diện tích đất tập trung thành khoảng
3-5 ha liên kết cùng Anvy, ký biên bản cam kết tham gia có chứng kiến của chính
quyền thôn, xã. Cánh đồng xa những cánh đồng tập trung của HTX Anvy, nhƣng có
thể ứng dụng đƣợc máy nông cụ vào sản xuất, đội sẽ gồm đại diện của Anvy và các
đội viên (cứ góp 3000 - 5000 m2 đất đƣợc 1 ngƣời tham gia vào đội), bầu đội
trƣởng, đội sản xuất sẽ trở thành vệ tinh cho HTX Anvy trong vùng, sẽ trồng theo
kế hoạch chung của Anvy và bán 100 % sản phẩm cho Anvy. Đội viên sẽ tự nguyện
góp đất, một số công cụ sản xuất, một phần chi phí cải tạo đồng ruộng tƣơng ứng
14
với đất vào đội, làm việc có tổ chức, chấm công làm việc, ứng trả lƣơng tháng mức
tối thiểu, cuối kỳ thu hoạch bán theo giá thị trƣờng cho Anvy, sẽ hạch toán, trừ chi
phí của Anvy, chi phí đất…hiệu quả, rủi ro sẽ phân chia theo tỷ lệ góp đất của từng
đội viên và vốn ứng ra của Anvy.
Gần đây, trong nghiên cứu của (Trần Văn Ơn, 2016) với chủ đề “Xây dựng
chuỗi cung ứng dƣợc liệu Việt Nam” đã chỉ ra thực trạng phát triển và cung ứng
dƣợc liệu ở Việt Nam còn nhiều bất cập. Phần lớn dƣợc liệu trong nƣớc không có
tiêu chuẩn, xuất xứ rõ ràng và khó kiểm soát chất lƣợng; Lúng túng trong xác định
chủ thể sản xuất và cung ứng; Chƣa có liên kết theo chuỗi; Vai trò của nhà nƣớc
còn mờ nhạt, chủ yếu mới dừng ở văn bản. Từ những vấn đề này, tác giả đề xuất mô
hình cung ứng dƣợc liệu của Việt Nam, trong đó các doanh nghiệp dƣợc giữ vai trò
chủ chốt. Theo đó, mô hình tổ chức nhƣ sau:
Thành lập các HTX và công ty cổ phần, trong đó cổ đông là các hộ gia đình
trong khu vực từ 1-3 xã góp vốn dƣới hình thức đa dạng từ đất đai đến nguyên vật
liệu và sức lao động để xây dựng cơ bản ban đầu, tiền mặt…các phần góp này đƣợc
quy thành cổ phần.
Các doanh nghiệp giữ vai trò chủ chốt từ nghiên cứu chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật đến tiêu thụ sản phẩm, biến các dƣợc liệu thô thành sản phẩm cao cấp hơn,
bao gồm: dƣợc liệu đóng gói, cao định chuẩn, thuốc phiến yêu cầu chế biến phức
tạp, các chế phẩm hoàn thiện (viên nén, viên nang, trà tan…) cung cấp cho thị
trƣờng thuốc YHCT và thị trƣờng bán lẻ.
- Cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng chung cho các vùng quy hoạch:
+ Cải tạo hệ thống tƣới tiêu tại các khu trồng cây dƣợc liệu hàng năm để đáp
ứng đƣợc yêu cầu sản xuất, nâng cao năng suất và chất lƣợng dƣợc liệu.
+ Cải tạo và nâng cấp đƣờng giao thông kết nối vùng sản xuất dƣợc liệu với
tuyến đƣờng quốc lộ, đƣờng giao thông trục chính để đảm bảo vận chuyển sản
phẩm đƣợc thuận lợi.
+ Hoàn thiện hệ thống lƣới điện đến khu sản xuất, tập kết vật tƣ, sản phẩm
đảm bảo đáp ứng đƣợc yêu cầu sản xuất.
15
- Xây dựng hệ thống nhà thu gom, sơ chế, đóng gói và bảo quản sản phẩm tại
các vùng quy hoạch để tạo ra sản phẩm dƣợc liệu có chất lƣợng tốt, đáp ứng nhu
cầu của thị trƣờng trong nƣớc và hƣớng tới xuất khẩu.
- Xây dựng các mô hình ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất cây
dƣợc liệu.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu thụ sản phẩm, tạo môi trƣờng thuận
lợi cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh cây dƣợc liệu phát triển.
- Xây dựng các mô hình ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất cây
dƣợc liệu; Xây dựng các mô hình ứng dụng các công nghệ mới tiên tiến trong sản
xuất và tiêu thụ cây dƣợc liệu.
- Hỗ trợ thành lập các mô hình điểm về kinh tế hợp tác, liên kết 4 nhà theo
các hình thức khác nhau để tạo mối liên kết chặt chẽ giữa ngƣời sản xuất và ngƣời
tiêu thụ, tạo đầu ra ổn định cho cây dƣợc liệu trên địa vùng quy hoạch.
Nhƣ vậy, có thể thấy điểm chung của các nghiên cứu này đều cho rằng: cần
có Nhà nƣớc tham gia sâu vào quá trình này vừa có thể đáp ứng đƣợc yêu cầu phát
triển dƣợc liệu theo quy hoạch vừa làm trọng tài để mối quan hệ này đƣợc cải thiện
hơn. Tuy nhiên, nghiên cứu sâu về liên kết phát triển dƣợc liệu nhƣ thế nào, theo
hình thức, phƣơng thức nào? vẫn là vấn đề mà các nghiên cứu còn chƣa đề cập đến.
Chính vì lẽ đó, trong thời gian qua ở Việt Nam đã bên cạnh một số mô hình liên kết
phát triển dƣợc liệu thành công đã đem lại hiệu quả, còn có các mô hình liên kết
phát triển dƣợc liệu theo hình thức tự phát hoặc đã có sự liên kết nhƣng mô hình
liên kết còn lỏng lẻo chƣa đem lại hiệu quả cao dẫn đến những thất bại.
Từ kinh nghiệm của các nƣớc trên thế giới và trong trong quá trình liên kết
phát triển dƣợc liệu trong những năm qua có thể nhận thấy: ngƣời nông dân và nhà
doanh nghiệp liên kết với nhau thông qua hệ thống hợp đồng. Hệ thống hợp đồng
đem lại các tác dụng to lớn nhƣ sau:
- Chuyển một phần lợi nhuận của ngƣời mua bán trung gian cho ngƣời dân
sản xuất, trực tiếp đầu tƣ phát triển vùng nguyên liệu.
- Chia một phần rủi ro về tiếp thị và tiêu thụ trong quá trình sản xuất - chế
16
biến nông nghiệp cho công ty chế biến tham gia gánh chịu, nông dân chỉ còn lo rủi
ro về nguyên liệu sản xuất. Đặc biệt với ngành dƣợc liệu, nhiều dƣợc liệu phải sơ
chế, chế biến đòi hỏi công nghệ cao mà ngƣời nông dân không thể đáp ứng đƣợc.
- Nối kết thông tin hai chiều giữa thị trƣờng tiêu dùng và ngƣời sản xuất, nhờ
đó mà sản phẩm đáp ứng đúng yêu cầu về tiêu chuẩn chất lƣợng do thị trƣờng đòi
hỏi, từ đó tăng khả năng canh tranh và giá trị của sản phẩm.
- Tập trung nhiều hộ sản xuất tiểu nông nhỏ lẻ thành các vùng sản xuất hàng
hóa với chất lƣợng đồng đều và khối lƣợng tập trung.
Tóm lại, các liên kết phát triển dƣợc liệu giữa doanh nghiệp và các hộ dân tại
Việt Nam trong những năm qua còn nhiều bất cập, hạn chế. Sự phát triển tự phát
thiếu sự quy hoạch, kỹ thuật và sự cam kết đầu ra đều dẫn tới sự thiếu bền vững của
các mô hình phát triển dƣợc liệu. Đây cũng chính là những điểm mà luận văn sẽ tập
trung làm rõ cả về cơ sở lý luận và thực tiễn.
1.2. Cơ sở lý luận về liên kết trong phát triển cây dƣợc liệu
1.2.1. Một số khái niệm về liên kết
Liên kết
Khái niệm liên kết xuất phát từ tiếng Anh “integration” mà trong hệ thống
thuật ngữ kinh tế có nghĩa là sự hợp nhất, sự phối hợp hay sát nhập của nhiều bộ
phận thành một chỉnh thể. Trƣớc đây khái niệm này đƣợc biết đến với tên gọi là
nhất thể hóa và gần đây mới gọi là liên kết.
Liên kết là kết lại với nhau từ nhiều thành phần hoặc tổ chức riêng rẽ nhằm
mục đích nào đó (Đại từ điển tiếng Việt, 1999).
Liên kết kinh tế
Theo Từ điển thuật ngữ kinh tế học của Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức
bách khoa (2001): “liên kết kinh tế là hình thức hợp tác, phối hợp hoạt động do các
đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển
theo hướng có lợi nhất trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước. Mục tiêu là tạo ra
mối liên kết kinh tế ổn định thông qua các hoạt động kinh tế hoặc các quy chế hoạt
động để tiến hành phân công sản xuất, khai thác tốt tiềm năng của các đơn vị tham
17
gia liên kết để tạo ra thị trường tiêu thụ chung, bảo vệ lợi ích cho nhau”.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam (2011) và Từ điển bách khoa nông nghiệp
Việt Nam (Đƣờng Hồng Dật, 2011) đều cho rằng: “Liên kết kinh tế là hình thức
phối hợp, hợp tác thường xuyên các hoạt động do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến
hành để cùng nhau đề ra và thực hiện các chủ trương, biện pháp có liên quan đến
công việc sản xuất kinh doanh của các bên tham gia nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh
doanh phát triển theo hướng có lợi nhất”. Liên kết kinh tế đƣợc xây dựng trên
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi thông qua hợp đồng kinh tế ký kết
giữa các bên tham gia và trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nƣớc. Mục tiêu của
liên kết kinh tế là tạo ra mối quan hệ kinh tế ổn định thông qua hợp đồng kinh tế,
hoặc các quy chế hoạt động để tiến hành phân công sản xuất chuyên môn hóa, hợp
tác hóa, nhằm khai thác tốt tiềm năng của mỗi đơn vị tham gia liên kết, hoặc để
cùng nhau tạo ra thị trƣờng chung, phân định hạn mức sản lƣợng cho từng đợn vị
thành viên, giá cả cho từng loại sản phẩm, nhằm bảo vệ lợi ích của nhau. Liên kết
kinh tế có nhiều hình thức và quy mô tổ chức khác nhau tƣơng ứng với nhu cầu sản
xuất, kinh doanh của các đơn vị thành viên tham gia liên kết. Những hình thức phổ
biến là: Hiệp hội sản xuất và tiêu thụ; nhóm sản xuất; nhóm vệ tinh; hội đồng sản
xuất và tiêu thụ theo ngành hoặc theo vùng; liên kết xuất nhập khẩu… Trong liên
kết các đơn vị thành viên có tƣ cách pháp nhân đầy đủ, không phân biệt hình thức
sở hữu, quan hệ trực thuộc về mặt quản lý Nhà nƣớc, ngành kinh tế - kỹ thuật hay
lãnh thổ. Trong khi tham gia liên kết, không một đơn vị thành viên nào bị mất
quyền tự chủ của mình, không đƣợc miễn giảm bất cứu nghĩa vụ nào đối với Nhà
nƣớc theo pháp luật hoặc nghĩa vụ hợp đồng đã ký với các đơn vị khác
Liên kết trong sản xuất - kinh doanh nông nghiệp
Sản xuất - kinh doanh nông nghiệp có những đặc thù riêng do có đặc điểm
riêng của ngành nông nghiệp, chẳng hạn nhƣ: các sản phẩm nông nghiệp có chu kỳ
sản xuất kinh doanh rất khác nhau (kể cả trong cùng một sản phẩm cũng có những
điểm đặc thù nhƣ: có cây trồng chu kỳ thay giống mới kéo dài vài năm mới thay
giống một lần…, khác với các khâu khác nhƣ kỹ thuật, chăm sóc, tiêu thụ… lại diễn ra
18
thƣờng xuyên); các tác nhân (tổ chức, cá nhân) tham gia sản xuất - kinh doanh cũng rất
đa dạng, đặc biệt là các hộ cá thể… Do vậy, liên kết trong sản xuất - kinh doanh nông
nghiệp cũng có những điểm khác biệt, và có thể đƣợc định nghĩa nhƣ sau:
“ Liên kết trong sản xuất - kinh doanh nông nghiệp là hình thức phối hợp,
hợp tác thường xuyên các hoạt động do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành để
cùng nhau đề ra và thực hiện các công việc sản xuất kinh doanh của các bên tham
gia nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển theo hướng có lợi nhất. Liên kết
kinh tế được xây dựng trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi thông qua
hợp đồng kinh tế ký kết giữa các bên tham gia dưới hai hình thức chủ yếu là hợp
đồng bằng văn bản (hợp đồng chính thống) trong khuôn khổ pháp luật của Nhà
nước và hợp đồng phi chính thống (thỏa thuận miệng). Mục tiêu của liên kết kinh tế
là tạo ra mối quan hệ kinh tế ổn định, hoặc các quy chế hoạt động để tiến hành
phân công sản xuất chuyên môn hóa, hợp tác hóa, nhằm khai thác tốt tiềm năng của
mỗi đơn vị tham gia liên kết, hoặc để cùng nhau tạo ra thị trường chung, phân định
hạn mức sản lượng cho từng đợn vị thành viên, giá cả cho từng loại sản phẩm,
nhằm bảo vệ lợi ích của nhau và cùng có lợi. Trong liên kết các đơn vị thành viên
có tư cách pháp nhân đầy đủ và không đầy đủ, không phân biệt hình thức sở hữu,
quan hệ trực thuộc về mặt quản lý Nhà nước, ngành kinh tế - kỹ thuật hay lãnh thổ.
Trong khi tham gia liên kết, không một đơn vị thành viên nào bị mất quyền tự chủ
của mình, không được miễn giảm bất cứ nghĩa vụ nào đối với Nhà nước theo pháp
luật hoặc nghĩa vụ hợp đồng đã ký với các đơn vị khác.
Liên kết trong sản xuất - kinh doanh cây dược liệu
Dƣợc liệu đƣợc khai thác từ hai nguồn: nguồn khai thác tự nhiên và trồng
trọt.Với khai thác tự nhiên, dƣợc liệu đƣợc xếp vào “lâm sản ngoài gỗ”. Với trồng
trọt, cây dƣợc liệu là một loại “nông sản” đặc biệt.
- Thứ nhất, mục đích sử dụng của cây dƣợc liệu là để điều trị và hỗ trợ điều trị
bệnh.
- Thứ hai, chỉ tiêu đánh giá chất lƣợng của cây dƣợc liệu là thông qua các
hàm lƣợng hoạt chất là những thành phần hóa học thƣờng có tỷ lệ rất nhỏ trong
19
dƣợc liệu nhƣng lại quyết định tác dụng của dƣợc liệu.
- Thứ ba, diện tích trồng dƣợc liệu thƣờng rất nhỏ so với các cây nông sản
khác cũng đủ đáp ứng nhu cầu sử dụng cho ngành Dƣợc.
- Thứ tƣ, dƣợc liệu là hàng hóa đặc biệt, khi thiếu thì giá bao nhiêu cũng phải
mua; khi thừa thì rất khó chuyển đổi mục đích sử dụng và tiêu hủy cũng rất khó
khăn do ảnh hƣởng đến môi trƣờng.
1.2.2. Tính tất yếu của liên kết
Liên kết kinh tế nhƣ đã phân tích ở phần trên, đó là sự hợp tác cùng phát triển
của hai hay nhiều bên không kể quy mô hay loại hình sở hữu. Mối quan hệ liên kết
chính là bảo đảm về lợi ích của các bên tham gia liên kết kinh tế. Do đó các bên tất yếu
sẽ liên kết với nhau nhằm đảm bảo, nâng cao lợi ích của mình. Điều đó đƣợc thể hiện:
Chủ thể sản xuất (các doanh nghiệp, các nhà sản xuất của các ngành, lĩnh
vực) có quy mô nhỏ và vừa thƣờng bị các doanh nghiệp lớn cạnh tranh và mang lại
bất lợi về lợi ích cho các chủ thể (doanh nghiệp) vừa và nhỏ. Trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, mỗi chủ thể, doanh nghiệp đều có một hoặc vài lĩnh vực chủ đạo,
mang tính đặc thù, chuyên biệt, hoặc có những sản phẩm đặc thù riêng; bên cạnh
đó, là một loạt các hoạt động phụ mà bản thân chủ thể, doanh nghiệp không thể tự
mình sản xuất ra thành phẩm, hoặc tự thực hiện tiêu thụ đƣợc mà phải nhờ đến các
chủ thể khác mới đảm bảo sản xuất và tiêu thụ đƣợc sản phẩm ấy. Muốn vậy, phải
có sự hợp tác giữa các chủ thể với doanh nghiệp khác để tạo ra sản phẩm với quy mô
lớn hơn và tiêu thụ được trên thị trường; giảm thiểu được bất lợi trong hoạt động kinh
tế theo cơ chế thị trường, tiết kiệm chi phí sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh.
- Liên kết kinh tế còn giúp cho các chủ thể và doanh nghiệp phản ứng nhanh
với những thay đổi của thị trường, tạo cơ hội đứng vững khi thị trường có những
biến đổi bất lợi. Điều đó thể hiện trong những trƣờng hợp sau:
+ Nhu cầu của thị trường là luôn thay đổi, điều đó buộc các chủ thể sản xuất
vừa phải luôn thay đổi các mẫu mã của các sản phẩm hiện có, vừa phải tìm cách đa
dạng hóa sản phẩm. Chính sự liên kết kinh tế mới có thể giúp cho các chủ thể đạt
đƣợc điều mong muốn là thích ứng với thị trƣờng.
20
+ Liên kết kinh tế giúp cho các chủ thể sản xuất và doanh nghiệp tiêu thụ sản
phẩm của mình được nhanh hơn. Trong xu thế toàn cầu hóa các hình thức liên kết
đƣợc thực hiện với quy mô “xuyên quốc gia”; những sản phẩm hàng hóa do bản
thân từng doanh nghiệp khó tiêu thụ, nhƣng nếu đặt trong vị trí liên kết thì dễ tiêu
thụ đƣợc, từ đó thúc sản xuất phát triển.
+ Liên kết kinh tế còn giúp các nhà sản xuất, doanh nghiệp có thể tiếp cận
nhanh chóng với các công nghệ, kỹ thuật mới vào sản xuất nhờ có sự phối hợp với
các nhà nghiên cứu ở các trƣờng đại học hay cơ sở nghiên cứu trong và ngoài nƣớc.
+ Liên kết kinh tế còn thúc đẩy liên kết, hỗ trợ nhau về vốn trước những thay
đổi của thị trường mà vượt ra ngoài khả năng đáp ứng của doanhh nghiệp, buộc các
chủ thể ấy phải tìm cách liên kết, hỗ trợ về vốn và công nghệ để hoàn thành ra sản
phẩm hoàn chỉnh cung cấp cho thị trƣờng.
- Liên kết kinh tế giúp các chủ thể giảm thiểu rủi ro trong sản xuất, kinh
doanh sản phẩm. Để tránh đƣợc rủi ro, nhiều nhà sản xuất đã biết phân tán sự rủi ro
bằng cách mời gọi các chủ thể khác cùng tham gia thực hiện và triển khai dự án.
Thậm chí mỗi doanh nghiệp phải đảm bảo một phần công việc tùy theo năng lực
của từng chủ thể. Nhƣ vậy mỗi chủ thể tham gia dự án sẽ chịu một phần rủi ro (nếu
có xảy ra).
1.2.3. Đặc trưng của liên kết
- Liên kết kinh tế là một phạm trù khách quan phản ánh những quan hệ xuất
phát từ những lợi ích kinh tế khác nhau của những chủ thể kinh tế cũng nhƣ quá trình
vận động phát triển tự nhiên của lực lƣợng sản xuất, xuất phát từ trình độ và phạm vi
của phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất kinh doanh.
- Liên kết kinh tế là những quan hệ kinh tế tới trình độ gắn bó chặt chẽ, ổn
định, thường xuyên, lâu dài thông qua những thỏa thuận, hợp đồng từ trước giữa
các bên tham gia liên kết. Không phải tất cả những quan hệ kinh tế nào cũng là liên
kết kinh tế. Những quan hệ kinh tế nhất thời, những trao đổi ngẫu nhiên không
thƣờng xuyên giữa các chủ thể kinh tế không phải là liên kết kinh tế.
- Liên kết kinh tế là một quá trình làm xích lại gần nhau và ngày càng cố kết
21
với nhau trên tinh thần tự nguyện giữa các bên tham gia liên kết. Quá trình này vận
động, phát triển qua những nấc thang từ quan hệ hợp tác, liên doanh đến liên hợp,
liên minh, hợp nhất lại. Nhƣ vậy phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất
kinh doanh là điều kiện hình thành các liên kết kinh tế; còn hợp tác hóa, liên hợp
hóa là những hình thức biểu hiện của những nấc thang, những bƣớc phát triển của
liên kết kinh tế.
- Liên kết kinh tế là những hình thức hoặc biểu hiện của sự hành động giữa
các chủ thể liên kết thông qua những thỏa thuận, những giao kèo, hợp đồng, hiệp
định, điều lệ…nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định trong tất cả những lĩnh vực
khác nhau của hoạt động kinh tế (đầu tƣ, sản xuất, kinh doanh). Tùy theo góc độ
xem xét, quá trình liên kết có thể diễn ra liên kết theo ngành, liên kết giữa các thành
phần kinh tế, liên kết theo vùng lãnh thổ.
- Kết quả, hiệu quả liên kết trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố chủ yếu, bên cạnh đó còn phải kể đến đó là yếu tố rủi ro từ
thời tiết, khí hậu.
- Cũng nhƣ liên kết đối với các ngành sản xuất kinh doanh khác, liên kết
trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp có sự xuất hiện của các tác nhân tham gia.
Tuy nhiên, điểm khác biệt đáng quan tâm là các tác nhân đó có sự khác biệt rõ nét
về trình độ, nhận thức, năng lực của họ.
1.2.4. Các nguyên tắc cơ bản của liên kết
Để các chủ thể tham gia liên kết đạt đƣợc mục tiêu phát triển bền vững, các
liên kết phải đảm bảo một số nguyên tắc sau:
Thứ nhất, liên kết kinh tế phải đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh
của các chủ thể tham gia không ngừng phát triển và đạt hiệu quả ngày càng cao.
Đây vừa là nguyên tắc, vừa là mục tiêu xuyên suốt của mọi liên kết kinh tế. Dù
đƣợc tiến hành dƣới hình thức và mức độ nào thì các quan hệ kinh tế cũng phải đáp
ứng đƣợc yêu cầu phát triển bền vững của các bên tham gia.
Thứ hai, liên kết kinh tế phải được hình thành trên tinh thần tự nguyện tham
gia của các bên. Các liên kết chỉ thành công và hiệu quả khi đƣợc xây dựng dựa
22
trên cơ sở tự nguyện của các bên tham gia để giải quyết những khó khăn hoặc tìm
kiếm lợi ích cao hơn thông qua liên kết. Chỉ khi tự nguyện tham gia các chủ thể liên
kết mới phát huy hết năng lực nội tại của mình, xây dựng nên mối quan hệ hiệu quả,
bền chặt, vì lợi ích chung, đồng thời đem hết khả năng cùng chịu trách nhiệm về
những thất bại hay rủi ro trong liên kết. Mọi liên kết kinh tế đƣợc thiết lập mang
tính hình thức hay là kết quả của những quyết định mang tính chủ quan, áp đặt sẽ
không thể tồn tại và không thể đem lại lợi ích cho các bên tham gia.
Thứ ba, các bên tham gia được dân chủ, bình đẳng trong các quyết định của
liên kết. Do các nguồn lực của liên kết đƣợc hình thành dựa trên sự đóng góp của
các chủ thể tham gia, mặt khác các liên kết có liên quan chặt chẽ đến lợi ích của các
chủ thể tham gia nên hoạt động quản lý, điều hành, giám sát và phân phối lợi ích
trong liên kết phải đảm bảo dân chủ, bình đẳng. Dân chủ và bình đẳng trong liên kết
không có nghĩa là cào bằng quyền lợi và trách nhiệm mà trên cơ sở những đóng góp
của mỗi bên. Để có sự bình đẳng và dân chủ, các quyết định liên kết phải đảm bảo
tính công khai, minh bạch và đƣợc thực hiện thông qua một cơ chế điều phối chung
đƣợc thống nhất giữa các bên ngay từ đầu.
Thứ tư, kết hợp hài hòa lợi ích kinh tế giữa các bên tham gia. Trong liên kết
kinh tế thì lợi ích kinh tế là động lực thúc đẩy, là chất keo gắn kết lâu dài các bên
tham gia. Việc chia sẻ hài hòa lợi ích có tầm quan trọng đặc biệt quyết định sự bền
vững của các liên kết nên đòi hòi phải tìm ra một cơ chế giải quyết thích hợp. Cơ
chế đó phải tập trung vào các yêu cầu cơ bản và cấp thiết nhất. Trong từng mối liên
kết, từng mặt hàng mà có hình thức và phƣơng pháp giải quyết lợi ích khác nhau.
Ngoài ra cơ chế đó cần đảm bảo cho các bên tham gia đƣợc bình đẳng với nhau cả
về quyền lợi cũng nhƣ trách nhiệm.
Thứ năm, các mối liên kết phải được pháp lý hóa. Trong cơ chế thị trƣờng
hiện nay nhiều quan hệ kinh tế đƣợc phát triển dựa trên cơ sở tin cậy lẫn nhau của
các bên tham gia. Liên kết giữa họ thƣờng xuyên và bền chặt vì các bên đều đạt
đƣợc lợi ích của mình khi than gia. Tuy nhiên với mục tiêu hƣớng đến một nền sản
xuất hiện đại thì mọi quan hệ kinh tế cần phải đƣợc thể chế hóa bằng luật pháp dƣới
23
hình thức hợp đồng kinh tế, điều lệ, hiệp ƣớc của tổ chức liên kết. Khi các mối liên
kết đƣợc pháp lý hóa một mặt nâng cao vị thế cho các bên tham gia, đồng thời là cơ
sở quan trọng để ràng buộc trách nhiệm của họ cũng nhƣ tạo điều kiện thuận lợi cho
việc giải quyết khi có tranh chấp phát sinh.
Tóm lại, các nguyên tắc của liên kết kinh tế có quan hệ chặt chẽ với nhau
nên khi vận dụng vào thực tiễn cần phải được coi trọng và kết hợp hài hòa, bất cứ
nguyên tắc nào nếu bị vi phạm đều có thể làm cho liên kết không đạt hiệu quả mong
muốn. Tuy nhiên, không phải liên kết kinh tế nào cũng đều phải thực hiện đầy đủ
các nguyên tắc trên.
1.2.5. Các hình thức, phương thức và mô hình liên kết
1.2.5.1 Các hình thức liên kết
Các hình thức liên kết trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh giữa
các tác nhân là những pháp nhân độc lập rất đa dạng, chủ yếu bao gồm các hình
thức với các nội dung cơ bản sau:
Hợp đồng bằng văn bản (Hợp đồng chính thống)
Liên kết theo hợp đồng là quan hệ mua bán chính thức đƣợc thiết lập giữa
các tác nhân trong việc mua nguyên liệu hoặc bán sản phẩm. Hợp đồng là “sự thỏa
thuận giữa nông dân và các cơ sở chế biến hoặc tiêu thụ sản phẩm nông sản về việc
tiêu thụ sản phẩm trong tƣơng lai và thƣờng với giá đặt trƣớc”. Đây là hình thức
kinh tế hợp tác trực tiếp, quan hệ giữa hai bên bị ràng buộc bởi hợp đồng, do đó nó
có tính ổn định hơn. Quan hệ hợp tác trên cơ sở hợp đồng đƣợc thực hiện dƣới hai
hình thức:
- Hợp đồng trên cơ sở cá nhân
Là quan hệ trực tiếp giữa ngƣời sản xuất (nhƣ nông hộ, trang trại) với cơ sở
chế biến đƣợc thực hiện thông qua hợp đồng ký kết với hai bên. Các chủ thể có
trách nhiệm giao nộp sản phẩm đúng thời hạn, địa điểm, số và chất lƣợng cho cơ sở
chế biến. Ngƣợc lại cơ sở chế biến có trách nhiệm nhận sản phẩm (nông sản) và
tranh toán hợp đồng cho bên kia. Bên nào vi phạm sẽ chịu trách nhiệm bồi thƣờng
thiệt hại theo thỏa thuận.
24
- Hợp đồng trên cơ sở nhóm: Có hai dạng
Dạng thứ nhất: Hợp tác thông qua hiệp hội. Hiệp hội là tập hợp các nhà sản
xuất có cùng nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của quá trình sản xuất trên thị trƣờng. Hiệp hội
thay mặt các nhà sản xuất ký hợp đồng chung với cơ sở chế biến về thời gian giao nộp
sản phẩm, địa điểm, số và chất lƣợng, giá cả cũng nhƣ phƣơng thức thanh toán.
Dạng thứ hai: Hợp tác thông qua hợp tác xã dịch vụ. Ngƣời sản xuất có quan
hệ gián tiếp với cơ sở chế biến và quan hệ trực tiếp với hợp tác xã dịch vụ. Hợp tác
xã thay mặt ngƣời sản xuất đứng ra ký hợp đồng với cơ sở chế biến, trực tiếp thanh
toán, nhận, trả với cơ sở chế biến sau đó thanh toán cho từng cơ sở sản xuất (hoặc
từng hộ nông dân).
Đối với mối liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến với ngƣời sản xuất
(nông dân) thì chịu sự tác động của nhiều nhân tố kinh tế, kỹ thuật, chính trị, xã hội
khác nhau. Về mặt kinh tế, nhân tố quy định mạnh mẽ nhất là chế độ kinh tế - xã
hội, tức chế độ sở hữu và cơ chế vận hành nền kinh tế, bởi trình độ phát triển của
lực lƣợng sản xuất, đặc điểm nghành nghề, sản phẩm nguyên liệu cụ thể, nhân tố
chính trị - xã hội cũng có tác động nhất định đến liên kết.
Hợp đồng miệng (Thỏa thuận miệng)
Hợp đồng miệng là các thỏa thuận không đƣợc thể hiện bằng văn bản giữa
các tác nhân cam kết cùng nhau thực hiện một số hoạt động, công việc nào đó. Hợp
đồng miệng cũng đƣợc các bên thống nhất về số lƣợng, chất lƣợng, giá cả, thời hạn
và địa điểm giao nhận hàng... Cơ sở của hợp đồng miệng là niềm tin, độ tín nhiệm,
trách nhiệm cam kết thực hiện giữa các tác nhân tham gia hợp đồng. Hợp đồng
miệng thƣờng đƣợc thực hiện giữa các tác nhân có quan hệ thân thiết (họ hàng, bàn
bè, anh em ruột,...) hoặc giữa các tác nhân đã có quá trình hợp tác, liên kết sản xuất
- kinh doanh với nhau mà trong suốt thời gian hợp tác luôn thể hiện đƣợc nguồn lực
tài chính, khả năng tổ chức và trách nhiệm giữ chữ tín với các đối tác. Tuy nhiên,
hợp đồng miệng trong thực tế thƣờng chỉ là các thỏa thuận trên nguyên tắc về số
lƣợng, giá cả, điều kiện giao nhận hàng hóa.
25
2.1.5.2 Phƣơng thức liên kết
Liên kết kinh tế có thể tiến hành theo các phƣơng thức chiều dọc (liên kết
dọc) hoặc chiều ngang (liên kết ngang), trong nội bộ ngành hoặc giữa các ngành,
trong một quốc gia hay nhiều quốc gia, trên phạm vi khu vực và quốc tế. Cụ thể:
- Liên kết dọc
Là liên kết đƣợc thực hiện theo trật tự các khâu của quá trình sản xuất kinh
doanh (theo dòng vận động của sản phẩm). Kiểu liên kết theo chiều dọc là toàn diện
nhất bao gồm từ sản xuất, chế biến nguyên liệu đến phân phối thành phẩm. Trong
mối liên kết này thông thƣờng mỗi tác nhân tham gia vừa có vai trò là khách hàng
của tác nhân trƣớc đó đồng thời bán sản phẩm cho tác nhân tiếp theo của quá trình
sản xuất kinh doanh. Kết quả của liên kết dọc là hình thành nên chuỗi giá trị của
một ngành hàng và có thể làm giảm đáng kể chi phí vận chuyển, chi phí cho khâu
trung gian.
- Liên kết ngang
Là hình thức liên kết mà trong đó mỗi tổ chức hay cá nhân tham gia là một đơn
vị hoạt động độc lập nhƣng có quan hệ với nhau thông qua một bộ máy kiểm soát
chung. Trong liên kết này, mỗi thành viên tham gia có sản phẩm hoặc dịch vụ cạnh
tranh nhau nhƣng họ liên kết lại để nâng cao khả năng cạnh tranh cho từng thành viên
nhờ phát huy tính lợi ích kinh tế theo quy mô của tổ chức liên kết. Kết quả của liên kết
theo chiều ngang hình thành nên những tổ chức liên kết nhƣ Hợp tác xã, liên minh,
hiệp hội và có thể dẫn đến độc quyền trong một thị trƣờng nhất định.
1.2.5.3 Mô hình liên kết trong sản xuất - kinh doanh nông nghiệp
Mô hình liên kết có thể chia thành năm mô hình và đƣợc tóm tắt thành bảng
sau:
Mô hình phi chính thống
Mô hình liên kết giữa các chủ thể với nhau thông qua những thỏa thuận, cam
kết hợp tác không chính thống (thƣờng là thỏa thuận miệng) trong sản xuất - kinh
doanh đƣợc gọi là liên kết phi chính thống.
Đặc điểm của liên kết phi chính thống là liên kết thƣờng diễn ra trong điều
26
kiện trình độ, môi trƣờng phát triển còn chƣa cao, trong đó một bên tham gia là hộ
nông dân (trình độ nhận thức thấp). Các nội dung liên kết có giá trị kinh tế không
lớn, và thƣờng là liên kết nhƣ giữa các hộ sản xuất với nhau, giữa hộ sản xuất với
đối tác trung gian cung ứng hay tiêu thụ… Các bên liên kết thƣờng có sự quen biết
với nhau, do vậy các nội dung trong liên kết nhƣ quyền và trách nhiệm rất ít khi
đƣợc đề cập, cam kết rõ ràng, không có sự ràng buộc bằng văn bản. Sự liên kết giữa
họ chủ yếu là dựa vào sự tin tƣởng vào sự quen biết với nhau.
Chính do đặc điểm liên kết đó chỉ dựa trên nền tảng của sự quen biết, tin
tƣởng nên tính bền vững của liên kết không cao. Tính kém bền vững đó do một
trong các bên tìm thấy lợi ích tăng thêm cho mình nên phá bỏ liên kết, lợi ích của
đối tác phần nào sẽ bị ảnh hƣởng. Bên cạnh nhƣợc điểm đó của loại hình liên kết
này, thì lợi ích của nó là chi phí liên kết đƣợc giảm thiểu, hiệu quả về kinh tế tăng
thêm (nếu không có rủi ro, việc phá bỏ liên kết).
Mô hình đa chủ thể
Mô hình đa chủ thể tham gia hợp đồng sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam
thƣờng gọi là mô hình “liên kết bốn nhà”. Tham gia mô hình này bao gồm nhiều
chủ thể khác nhau nhƣ Nhà nƣớc, nhà khoa học, doanh nghiệp, hợp tác xã, các trang
trại... Đặc điểm của mô hình này là các chủ thể khác nhau sẽ có trách nhiệm và vai
trò khác nhau. Trong đó, doanh nghiệp đóng vai trò hạt nhân gắn kết nhà khoa học
với nông dân, gắn kết nhà tài chính với nông dân và tiêu thụ sản phẩm cho nông
dân. Doanh nghiệp là ngƣời quyết định việc tiêu thụ sản phẩm của nông dân nên họ
biết đƣợc thị trƣờng cần gì để đặt hàng cho nông dân sản xuất. Ngoài ra doanh
nghiệp cũng chính là ngƣời đặt hàng cho các nhà khoa học, ngân hàng, cung cấp
các dịch vụ cho mình và cho nông dân. Vai trò của Nhà nƣớc là xử lý mối quan hệ
giữa các bên ký kết hợp đồng, quy hoạch vùng sản xuất, đầu tƣ xây dựng kết cấu hạ
tầng, giải quyết những vấn đề khó khăn nảy sinh do thị trƣờng, thiên tai gây ra,
đồng thời vận động, giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức, kỹ năng cho các
bên tham gia sản xuất theo hợp đồng.
Đặc trƣng của mô hình này là mối quan hệ đa chiều. Cơ chế của mô hình này
27
là sự liên kết và phối hợp nhiều chủ thể khác nhau cùng chia sẻ lợi ích, rủi ro và
quyền quyết định. Doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ là hạt nhân ký hợp đồng trực tiếp
với các trang trại để thu mua nông sản. Ngân hàng căn cứ vào hợp đồng giữa doanh
nghiệp và các trang trại để cho vay đầu tƣ phát triển sản xuất, phát triển thị trƣờng.
Doanh nghiệp đặt hàng nhà khoa học để giải quyết các vấn đề kỹ thuật sản xuất nảy
sinh. Các tổ chức dân sự xã hội nhƣ hiệp hội ngành hàng sẽ vận động, theo dõi,
giám sát các hợp đồng giữa doanh nghiệp và trang trại. Nhà nƣớc căn cứ vào hợp
đồng để xử lý các mẫu thuẫn phát sinh.
Trong điều kiện sản xuất nông nghiệp manh mún, lạc hậu, bản thân nông dân
không thể tự giải quyết ba vấn đề của nền nông nghiệp hàng hóa là: thị trƣờng, công
nghệ và vốn do quy mô kinh doanh quá nhỏ thì mô hình đa chủ thể có thể làm đƣợc.
Mô hình đa chủ thể đƣợc phát triển mạnh ở những quốc gia đang phát triển nhƣ
Mexico, Kenya, Trung Quốc.
Mô hình này có ý nghĩa và tác dụng trong việc chuyển giao khoa học kỹ
thuật hiện đại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Sản xuất theo mô hình này
sẽ tạo ra vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa lớn theo tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của ngƣời tiêu dùng.
Mô hình trung gian
Đây là mô hình doanh nghiệp ký hợp mua sản phẩm của nông dân thông qua
các đầu mối trung gian nhƣ hợp tác xã, tổ hợp tác xã, nhóm nông dân hoặc một số
hộ đại diện cho các hộ nông dân. Đặc điểm của mô hình này là doanh nghiệp không
ký kết hợp đồng trực tiếp với nông dân mà thay vào đó doanh nghiệp thuê các tổ
chức trung gian thực hiện vai trò của mình. Mỗi cá nhân hay tổ chức trung gian này
có trách nhiệm kiểm soát và giám sát hoạt động sản xuất của nông dân và chịu trách
nhiệm toàn bộ hoạt động trong trang trại từ gieo hạt đến thu hoạch theo quy định
của doanh nghiệp và họ đƣợc hƣởng hoa hồng cho việc kiểm soát và giám sát.
Mô hình này tồn tại khi nền sản xuất nông nghiệp còn manh mún và phân
tán. Doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ nông sản khó thực hiện việc ký hợp đồng cung
cấp vật tƣ, hƣớng dẫn kỹ thuật cho nông dân vì để thực hiện ký hợp đồng cho từng
28
hộ nông dân thì chi phí giao dịch tăng cao và bản thân họ không đủ năng lực kiểm
soát trực tiếp quá trình sản xuất của từng hộ nông dân.
Mô hình này góp phần làm giảm chi phí giao dịch nhờ đầu mối hợp đồng
giảm đi, việc kiểm soát sản xuất và chất lƣợng sản phẩm của doanh nghiệp cũng dễ
dàng hơn. Ngƣời trung gian đóng vai trò đại diện cho nông dân, tạo nên sức mạnh
tập thể để thƣơng lƣợng với doanh nghiệp.
Mô hình tập trung
Mô hình tập trung là mô hình các doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ trực tiếp ký
hợp đồng với các trang trại. Hợp đồng này chỉ có hai bên tham gia trực tiếp là
doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ và các trang trại. Các doanh nghiệp đặt hàng cho
các trang trại sản xuất nông sản để doanh nghiệp chế biến, đóng gói và tiêu thụ sản
phẩm. Trong những hợp đồng kiểu này, lƣợng sản phẩm doanh nghiệp đặt hàng các
trang trại đƣợc phân bổ ngay từ đầu mùa vụ và chất lƣợng đƣợc giám sát một cách
chặt chẽ.
Doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ nông sản cung cấp các loại vật tƣ đầu vào,
hƣớng dẫn kỹ thuật, giám sát việc sản xuất của nông dân và mua lại toàn bộ sản
phẩm. Nông dân cung cấp đất đai, công lao động, sản xuất theo đúng quy trình do
doanh nghiệp đƣa ra và bán lại toàn bộ sản phẩm cho doanh nghiệp. Trong loại hợp
đồng này, nông dân có ít quyền quyết định vấn đề sản xuất mặc dù họ vẫn là ngƣời
trực tiếp sản xuất. Ngƣời ký kết hợp đồng với nông dân sẽ quy định cụ thể về các
yếu tố đầu vào cần sử dụng và phƣơng thức sản xuất. Ngƣời mua chịu trách nhiệm
về cả công tác hƣớng dẫn kỹ thuật sản xuất, thƣờng xuyên kiểm tra trên đồng ruộng.
Đây chính là hình thức “sản xuất gia công” hay sản xuất theo “đơn đặt hàng” của
doanh nghiệp.
Mô hình này thƣờng áp dụng với doanh nghiệp có nhà máy chế biến đủ khả
năng mua hết sản phẩm của trang trại trong vùng hoặc các trang trại có diện tích đất
lớn cần sản xuất theo hợp đồng để đảm bảo nông sản tiêu thụ hết. Ngoài ra, mô hình
này còn áp dụng cho trƣờng hợp có tính chuyên biệt về tài sản nhƣ con ngƣời, vật
chất, địa điểm…
29
Mô hình tập trung đảm bảo nông dân tiêu thụ đƣợc nông sản, doanh nghiệp
có nguyên liệu phục vụ cho chế biến. Ngoài ra mô hình này hình thành sự liên kết
giữa doanh nghiệp và các trang trại, tạo ra vùng sản xuất tập trung với chất lƣợng
cao, an toàn theo quy trình sản xuất nông nghiệp an toàn, đạt tiêu chuẩn quốc tế về
an toàn vệ sinh thực phẩm, nhằm góp phần nâng cao sức cạnh tranh cho doanh
nghiệp và tạo sự phát triển bền vững cho các trang trại.
Mô hình trang trại hạt nhân
Mô hình trang trại hạt nhân tƣơng tự nhƣ mô hình tập trung nhƣng bên mua
sản phẩm là doanh nghiệp nắm quyền sở hữu đất đai, chuồng trại, vƣờn cây. Bên
bán sản phẩm chỉ thực hiện hoạt động sản xuất tạo ra sản phẩm và bán lại sản phẩm
cho doanh nghiệp. Chủ thể tham gia trực tiếp vào mô hình này cũng chỉ bao gồm
doanh nghiệp và các trang trại. Trong đó các trang trại do nông dân sản xuất thuộc
quyền sở hữu của doanh nghiệp, các hộ nông dân trực tiếp sản xuất nông sản trên
đất của doanh nghiệp (có thể xem là ngƣời lao động trong doanh nghiệp).
Ở Việt Nam, hình thức khoán trong các nông, lâm trƣờng quốc doanh cũng là
mô hình trang trại hạt nhân. Các hình thức khoán này đƣợc hình thành theo Nghị định
của Chính phủ số 01/CP ngày 04 tháng 01 năm 1995. Trƣớc đây và hiện nay là giao
khoán đất nông nghiệp, đất rừng sản xuất và đất có mặt bằng nƣớc nuôi trồng thủy sản
trong các nông trƣờng quốc doanh, lâm trƣờng quốc doanh theo Nghị định của Chính
phủ số 135/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2005.
Nông dân sản xuất nông sản trên đất của doanh nghiệp. Doanh nghiệp giao
đất và cả cây trồng, vật nuôi cho hộ nông dân, nông dân chăm sóc cây trồng vật
nuôi theo đúng quy trình của doanh nghiệp và giao lại toàn bộ sản phẩm cho doanh
nghiệp. Đây chính là mô hình “khoán liên doanh”, ngƣời sản xuất và ngƣời mua ký
một hợp đồng gọi là hợp đồng giao khoán. Trong hợp đồng quy định: Doanh nghiệp
kinh doanh nông nghiệp giữ vai trò định hƣớng sản xuất, hƣớng dẫn kỹ thuật
(khuyến nông), cung ứng dịch vụ đầu vào, đầu ra, giám sát các hoạt động sản xuất
kinh doanh trên vƣờn cây, đàn gia súc giao khoán. Quan hệ giữa doanh nghiệp giao
khoán và bên nhận khoán đƣợc thiết lập theo nguyên tắc thị trƣờng, thuận mua, vừa
30
bán. Bản chất của mô hình này chính là trang trại dự phần hay công ty dự phần
trong nông nghiệp.
Doanh nghiệp có trang trại quy mô lớn, có nhà máy chế biến, đủ tiềm lực tài
chính và kỹ thuật để cung cấp cho nông dân. Mô hình này phù hợp với trồng cây lâu
năm và nuôi gia súc, gia cầm theo kiểu công nghiệp quy mô lớn.
Mô hình này cũng có ý nghĩa và tác dụng nhƣ mô hình tập trung, ngoài ra nó
còn góp phần nâng cao hiệu quả của các trang trại có quy mô lớn với nhiều cấp quản lý
nhƣ trang trại nhà nƣớc (nông trƣờng quốc doanh, doanh nghiệp nông nghiệp Nhà
nƣớc).
1.2.6. Các nội dung liên kết
Nội dung liên kết trong sản xuất nông nghiệp chủ yếu gồm ba nội dung sau:
Liên kết trong việc cung ứng nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất
(giống, vốn, thức ăn, phân bón, thuốc trừ sâu bệnh)
Đây là hình thức liên kết thƣờng đƣợc tiến hành giữa các cửa hàng, đại lý,
công ty, doanh nghiệp, nhà khoa học... với ngƣời sản xuất (nông dân), bên cạnh đó
còn có hình thức liên kết giữa các doanh nghiệp, giữa các nhà khoa học hay giữa
các ngƣời sản xuất với nhau chủ yếu là cung ứng nguyên liệu đầu vào mà họ cùng
sản xuất. Ngƣời sản xuất có tƣ liệu sản xuất (đất đai, sức lao động...), họ cần các
nguyên liệu đầu vào là giống, phân bón, thức ăn... Khi thực hiện mối liên kết này,
các cửa hàng, đại lý, công ty, doanh nghiệp, nhà khoa học... sẽ đứng ra ký kết các
hợp đồng hoặc thỏa thuận trực tiếp với ngƣời sản xuất hoặc thông qua địa phƣơng.
Qua hình thức này các nhà cung ứng đầu vào sẽ cung cấp các đầu vào để ngƣời sản
xuất có vật tƣ đầu vào và họ sản xuất. Nhƣ vậy, thông qua mối liên kết này, các nhà
cung ứng nguyên liệu đầu vào sẽ bán đƣợc sản phẩm mình sản xuất ra và thu lại lợi
nhuận cho cơ sở, tổ chức, đơn vị mình. Đồng thời ngƣời sản xuất lại có đầu vào để
sản xuất với cam kết đảm bảo số lƣợng, chất lƣợng... vật tƣ đầu vào. Khi liên kết
này đƣợc thực hiện đều mang lại lợi ích cho các bên tham gia. Từ đó ngƣời sản xuất
sẽ chủ động về các nguồn nguyên liệu đầu vào và sẽ yên tâm sản xuất hơn. Có các
dạng chủ yếu sau:
31
+ Ứng trƣớc vật tƣ, vốn, hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ, mua bán lại nông sản
+ Bán vật tƣ, mua lại sản phẩm
Liên kết trong quá trình sản xuất (trong chuyển giao khoa học kỹ thuật,
trong phòng trừ dịch bệnh)
Liên kết trong chuyển giao khoa học kỹ thuật
Đây là một hình thức liên kết thƣờng đƣợc tiến hành giữa nhà khoa học (cơ
sở trƣờng đại học, viện nghiên cứu, cán bộ kỹ thuật ở doanh nghiệp hay địa
phƣơng...) đối với ngƣời sản xuất (nông dân). Theo hình thức liên kết này, thông
qua đó nhà khoa học sẽ chuyển giao những tiến bộ KHKT cho ngƣời nông dân. Khi
đã đƣợc chuyển giao KHKT ngƣời nông dân tiếp nhận nó và đƣa vào sản xuất nhằm
tạo ra những sản phẩm nông nghiệp có chất lƣợng tốt hơn. Trong liên kết đó ngƣời
ta ký trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua địa phƣơng ký kết các hợp đồng hoặc bằng
thỏa thuận miệng với nhau để chuyển giao các tiến bộ KHKT. Khi liên kết theo
hình thức này ngƣời nông dân sẽ tiếp nhận các tiến bộ KHKT mới để áp dụng vào
sản xuất, đổi lại ngƣời nông dân sẽ phải trả chi phí cho ngƣời, cơ quan tổ chức đã
chuyển giao tiến bộ KHKT đó. Liên kết đƣợc thực hiện, chủ yếu là liên kết giữa các
hộ nông dân trong việc trao đổi kinh nghiệm, kỹ thuật sản xuất, phòng trừ dịch bệnh
cây trồng, vật nuôi.
Liên kết trong phòng chống dịch bệnh
Trong quá trình sản xuất - kinh doanh nông nghiệp ngƣời sản xuất gặp rât
nhiều khó khăn, rủi ro; một trong những rủi ro mà nông dân gặp phải đó là dịch
bệnh của cây trồng, vật nuôi. Khi rủi ro xẩy ra, trƣớc hết gây thiệt hại trực tiếp cho
bản thân ngƣời nông dân, và phần nào ảnh hƣởng đến lợi ích các tác nhân liên quan.
Do vậy, việc tiến hành liên kết trong phòng chống dịch bệnh luôn đƣợc Nhà nông,
cũng nhƣ các tác nhân liên quan quan tâm thực hiện.
Đây là hình thức liên kết thƣờng đƣợc tiến hành giữa Nhà khoa học, doanh
nghiệp với ngƣời sản xuất với ngƣời sản xuất (nông dân) trong công tác phổ biến kỹ
thuật hay tiến hành phòng trừ dịch bệnh cho cây trồng, vật nuôi. Liên kết đó thƣờng
đƣợc sự trợ giúp, hỗ trợ từ Nhà nƣớc, đƣợc tiến hành thông qua chính quyền hay tổ
32
chức đoàn thể ở địa phƣơng. Bên cạnh dạng liên kết chủ đạo đó thì liên kết giữa các
hộ nông dân trong việc trao đổi những kinh nghiệm về phòng chống dịch bệnh cũng
đƣợc tiến hành.
Việc thực hiện liên kết phòng chống dịch bệnh cho cây trồng, vật nuôi là
công tác khó khăn, và cả những chi phí tăng thêm cho quá trình sản xuất. Tuy
nhiên, việc thực hiện tốt công tác đó sẽ mang lại lợi ích cho việc phát triển bền
vững, hạn chế rủi ro trong sản xuất - kinh doanh của các tác nhân.
Liên kết trong tiêu thụ sản phẩm
Tiêu thụ luôn là nỗi lo của ngƣời nông dân. Thực tế cho thấy “đƣợc mùa
nhƣng rớt giá”, nông sản rẻ nhƣ bèo, tƣ thƣơng ép giá, thu nhập giảm, có khi hoà
vốn đầu tƣ đã là mừng… Đây là tình trạng phổ biến, là thứ bệnh “kinh niên” chƣa
đƣợc “chữa trị”. Trong cơ chế thị trƣờng sản phẩm nông nghiệp theo hƣớng hàng
hoá để bán chứ không “tự sản tự tiêu” nhƣ trƣớc đây. Thị trƣờng tự do bão hoà,
không đủ sức tiêu thụ, khiến nông dân nhiều khi phải đổ đi, không biết bán cho ai.
Chính vì thế nhu cầu liên kết trong khâu tiêu thụ sản phẩm là một nhu cầu thiết yếu
nhằm mục đích bao tiêu sản phẩm sản xuất ra của ngƣời nông dân.
Trong mối liên kết này ngƣời sản xuất thƣờng liên kết với các doanh nghiệp,
cơ sở tiêu thụ sản phẩm… Họ sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp (thông qua các tổ chức
chính quyền, các tổ chức cá nhân trung gian) ký kết các hợp đồng hoặc thỏa thuận
miệng với các cam kết về số lƣợng, chất lƣợng… để cung cấp các sản phẩm mà
mình sản xuất ra cho các nhà thu mua. Còn nhiệm vụ của đơn vị, tổ chức thu mua…
sẽ phải bao tiêu hết số lƣợng nhƣ đã cam kết với ngƣời dân. Mỗi bên liên kết đều
mang lại lợi ích cho nhau theo đó thì lợi ích mà ngƣời nông dân đƣợc hƣởng là
đƣợc bao tiêu sản phẩm mà mình làm ra với giá cả ổn định, giảm thiểu rủi ro khi
đƣợc mùa mất giá. Gắn với nó thì nhà sản xuất (doanh nghiệp, đơn vị chế biến, tiêu
thụ…) cũng sẽ có nguồn nguyên liệu đầu vào ổn định cho việc sản xuất - kinh
doanh của mình. Trong nội dung liên kết này các tổ chức, đơn vị tiêu thụ có thể
thực hiện dƣới hình thức mua bán hay ứng trƣớc một phần chi phí đầu vào… để
đảm bảo nhà sản xuất sẽ cung ứng đầu vào cho mình, gắn với mỗi nội dung liên kết
33
thì lợi ích, chi phí của mỗi bên nhận đƣợc và bỏ ra sẽ thay đổi theo hợp đồng, cam
kết giữa các bên.
1.2.7 Tác động của liên kết
Khi tham gia liên kết các bên tham gia đem lại lợi ích cho nhau cũng nhƣ lợi
ích của chính bản thân của mỗi tác nhân, chẳng hạn: Doanh nghiệp cung ứng đầu
vào có thể cho nông dân hƣởng lợi ích nhƣ: Mua chịu, thuận tiện hơn khi mua, chất
lƣợng đảm bảo, hỗ trợ về kỹ thuật, hỗ trợ về vận chuyển; Doanh nghiệp tiêu thụ sản
phẩm có thể cho nông dân hƣởng lợi ích nhƣ: đƣợc ứng trƣớc một phần chi phí đầu
vào, đƣợc ứng trƣớc toàn bộ chi phí đầu vào, đƣợc ký kết bao tiêu sản phẩm, giá
đầu ra ổn định, đƣợc hỗ trợ về kỹ thuật chăm sóc, tiếp cận đƣợc nguồn tín dụng,
tiếp cận đƣợc thị trƣờng (cả đầu vào và đầu ra), tiếp cận thông tin tốt hơn, giảm
thiểu rủi ro. Nhờ đó nông dân đƣợc hỗ trợ sẽ yên tâm tham gia sản xuất đạt hiệu quả
hơn, chất lƣợng sản phẩm sẽ đảm bảo hơn. Từ đó, thu nhập của nông dân sẽ tăng
lên. Vậy khi tham gia liên kết doanh nghiệp có tác động đem lại lợi ích cho nông
dân giúp nông dân tăng thu nhập; Nhà khoa học tham gia liên kết là tác nhân ảnh
hƣởng đến kết quả sản xuất của nông dân: Nhà khoa học truyền tải TBKT cho nông
dân, nông dân là ngƣời ứng dụng thành quả của nhà khoa học. Nếu chúng ta thiết
lập đƣợc mối liên kết bền vững cả nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp đều
có lợi, đem lại hiệu quả kinh tế xã hội.
Liên kết mang lại lợi ích kinh tế, xã hội tuy nhiên nếu thực hiện không đúng
cũng gây ra các hậu quả: Nếu lợi ích của các tác nhân tham gia liên kết không đƣợc
đảm bảo sẽ dẫn tới tình trạng liên kết bị phá vỡ, có thể các tác nhân từ liên kết
chuyển sang đối đầu bằng cách phá vỡ hợp đồng, kiện tụng,… ảnh hƣởng tới kết
quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp và nông dân, ảnh hƣởng đến uy tín
của nhà khoa học; Nhà doanh nghiệp không đủ vốn, tài chính, không đủ năng lực
giúp đỡ nông dân, không đem lại lợi ích, thu nhập cao cho nông dân, nông dân sẽ
dời bỏ mối liên kết, phá vỡ liên kết; Ngƣợc lại, nông dân không mang lại cho doanh
nghiệp sản phẩm, nguyên liệu có chất lƣợng theo đúng quy trình kỹ thuật, doanh
nghiệp sẽ phá vỡ hợp đồng liên kết. Nhà khoa học nếu không có trình độ chuyên
34
môn vững vàng, không đƣợc lòng dân cũng sẽ bị đào thải khỏi mối liên kết.
Nhƣ vậy, mỗi tác nhân tham gia liên kết muốn cho liên kết bền vững, hiệu
quả thì các bên phải tham gia hết mình, phải đem lại lợi ích cho nhau, có tác động
tích cực lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng tiến bộ.
Khi các tác nhân tham gia các nội dung liên kết, các tác nhân đó có thể
nhận được những lợi ích (tác động đến lợi ích của họ) về mặt chất lượng công
việc sản xuất - kinh doanh được nâng cao hơn
Lợi ích (tác động đến lợi ích) của các tác nhân tham gia liên kết luôn đƣợc
các tác nhân quan tâm, đó cũng là kết quả mà các tác nhân tìm kiếm, đạt đƣợc khi
tham gia liên kết với nhau một cách hiệu quả. Điều đó có thể thấy khi các tác nhân
tham gia các nội dung liên kết, chẳng hạn: Doanh nghiệp và Nhà nông liên kết với
nhau về cung ứng giống một cách hiệu quả thì điều mà Nhà nông có thể nhận đƣợc
đó là: chất lƣợng giống đƣợc đảm bảo, giá rẻ hơn, kịp thời, mua chịu giống, hỗ trợ
về vận chuyển… Doanh nghiệp (ngân hàng) liên kết với Nhà nông về cung ứng
vốn: Doanh nghiệp sẽ cho vay vốn đƣợc nhiều hơn, Nhà nông sẽ huy động đƣợc
lƣợng vốn lớn hơn, lãi suất vay thấp hơn, kịp thời hơn…
Khi liên kết tác động của liên kết sẽ dẫn đến những tác động đến kết quả
và hiệu quả sản xuất - kinh doanh, nếu không liên kết sẽ kém bền vững và rất dễ
bị phá bỏ
Một trong các mục tiêu của các tác nhân tham gia liên kết đó là việc họ tìm
kiếm lợi ích về kinh tế (kết quả, hiệu quả sản xuất) cao hơn, đó là bản chất của mọi
tác nhân trong hoạt động sản xuất - kinh doanh. Cụ thể: Doanh nghiệp liên kết với
Nhà nông trong việc cung ứng phân bón: Doanh nghiệp sẽ bán đƣợc phân bón và
thu về lợi nhuận, việc thực hiện liên kết sẽ góp phần cho tiêu thụ sản phẩm của
Doanh nghiệp đƣợc ổn định, từ đó sản xuất - kinh doanh của Doanh nghiệp đạt
đƣợc kết quả, hiệu quả tốt hơn, còn Nhà nông có phân bón đúng yêu cầu, chất
lƣợng, kịp thời…từ đó kết quả, hiệu quả sản xuất cây trồng của họ cũng tốt và ổn
định hơn. Điều đó (kết quả và hiệu quả) đối với các tác nhân trong các nội dung liên
kết luôn tuân theo, mang lại những tác động tƣơng tự.
35
1.2.8 Nhu cầu liên kết
Chúng ta có thể hiểu rằng Nhu cầu là một hiện tƣợng tâm lý của con ngƣời;
là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con ngƣời về vật chất và tinh thần để tồn
tại và phát triển. Tùy theo trình độ nhận thức, môi trƣờng sống, những đặc điểm tâm
sinh lý, mỗi ngƣời có những nhu cầu khác nhau. Nhu cầu là cảm giác thiếu hụt một
cái gì đó mà con ngƣời cảm nhận đƣợc
Việc tìm hiểu, nghiên cứu, xác định chính xác nhu cầu của các tác nhân luôn
là vấn đề quan trọng đòi hỏi cần nghiên cứu. Xác định đúng nhu cầu nói chung, hay
nhu cầu liên kết nói riêng sẽ góp phần giải quyết những khó khăn, vƣớng mắc của
tác nhân liên kết, mang lại lợi ích cho họ, tạo sự liên kết hiệu quả và bền vững;
Ngƣợc lại, việc xác định không đúng, sẽ dẫn tới việc thực hiện công việc liên quan
không đúng, kém hiệu quả, kém bền vững, và có thể dẫn tới liên kết bị phá bỏ (hay
chỉ là hình thức).
Cũng nhƣ các ngành kinh tế - xã hội khác, trong sản xuất - kinh doanh nông
nghiệp, cụ thể hơn là vấn đề liên kết trong sản xuất - kinh doanh nông nghiệp thì sẽ
có nhiều tác nhân, nhiều nội dung liên kết mà các tác nhân mong muốn thực hiện.
Nghiên cứu về nhu cầu liên kết trong sản xuất - kinh doanh nông nghiệp, đó là việc
nghiên cứu xem nhu cầu của họ về các vấn đề như: họ có nhu cầu liên kết về nội
dung liên kết nào, đối tượng mà họ muốn liên kết (cụ thể: đối tượng mà họ muốn
liên kết với hình thức liên kết nào, nội dung liên kết gì…).
1.3. Cơ sở thực tiễn
1.3.1. Liên kết trong sản xuất - kinh doanh cây dược liệu trên thế giới
1.3.1.1. Liên kết trong sản xuất - kinh doanh cây dƣợc liệu tại Trung Quốc
Trung Quốc là quốc gia có nền Y học cổ truyền lâu đời nhất thế giới (hơn
4000 năm phát triển) và cũng là quốc gia xuất khẩu dƣợc liệu lớn nhất thế giới.
Nhà nƣớc Trung Quốc đã chủ trƣơng quy hoạch những vùng/miền mà điều
kiện thiên nhiên phù hợp nhất với cây dƣợc liệu đồng thời có những chính sách
quản lý và thúc đẩy phát triển bền vững nguồn dƣợc liệu nhƣ:
- Tăng cƣờng giáo dục và nâng cao nhận thức cho ngƣời dân địa phƣơng về
36
tầm quan trọng sử dụng bền vững nguồn dƣợc liệu và giá trị kinh tế.
- Thu hoạch nguồn tài nguyên dƣợc liệu một cách bền vững trên cơ sở có kế
hoạch quản lý, dự trữ, bảo quản lâu bền và quy định xuất khẩu hàng năm hợp lý.
- Phát triển những chƣơng trình nghiên cứu khoa học về trồng trọt, thu hái,
sơ chế, bảo quản, sử dụng dƣợc liệu.
Từ những năm 1980, lƣợng gieo trồng cây dƣợc liệu đã tăng lên nhanh chóng
tại Trung Quốc. Hiện nay có khoảng 340.000 nông dân tham gia vào canh tác cây
dƣợc liệu trên diện tích khoảng 137.594 ha với 250 loài cây dƣợc liệu.
Về xuất khẩu, Trung Quốc đứng đầu danh sách 12 nƣớc xuất khẩu dƣợc liệu
nhiều nhất thế giới. Tổng sản lƣợng xuất khẩu cây dƣợc liệu trung bình một năm
giai đoạn 1991 - 2003 của Trung Quốc đạt khoảng 150.600 tấn, chiếm 1/3 tổng giá
trị xuất khẩu toàn cầu.
1.3.1.2. Liên kết trong sản xuất - kinh doanh cây dƣợc liệu tại Thái Lan
Chính phủ Thái Lan đã phê duyệt kế hoạch Chiến lƣợng phát triển công
nghiệp sản phẩm dƣợc liệu giai đoạn 2005 - 2009 thành kế hoạch quốc gia vào
29/6/2004. Kế hoạch đã chỉ định một số Văn phòng Chính phủ thuộc các Bộ Ngành
và trƣờng Đại học khác nhau chịu trách nhiệm thực hiện và hoàn thành những mục
tiêu trong mỗi giai đoạn phát triển.
Cơ quản phát triển Y học cổ truyền và Y học thay thế Thái Lan (DTAM)
phối hợp với các tổ chức liên quan khác chịu trách nhiệm thực thi các chính sách
của nhà nƣớc thông qua các hoạt động: củng cố kiến thức y học cổ truyền, dƣợc liệu
thông qua nghiên cứu phát triển; chuyển giao kiến thức cho cộng đồng và nhân viên
y tế thông qua đào tạo, triển lãm và nhiều kênh truyền thông khác; phát triển nhiều
sản phẩm từ dƣợc liệu và dịch vụ chăm sóc sức khỏe từ y học cổ truyền; sản xuất
dƣợc liệu trong ngành công nghiệp dƣợc phẩm và trong các bệnh viện.
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, nhu cầu dƣợc liệu và thuốc từ dƣợc liệu
tại Thái Lan tăng lên rõ rệt. Tồng số lƣợng các nhà máy sản xuất thuốc từ dƣợc liệu
tăng lên 39.6% từ con số 616 năm 1997 lên 861 năm 2003.
Thái Lan cũng chủ trƣơng sản xuất cây dƣợc liệu tại các bệnh viện, năm
37
2000 có 168 bệnh viện cộng đồng, 22 trung tâm y tế và 7 bênh viện đa khoa cấp
vùng tiến hành trồng cây dƣợc liệu và sản xuất thuốc từ dƣợc liệu để phục vụ nhu
cầu sử dụng của cộng đồng trong vùng. Bệnh viện có những hợp đồng sản xuất với
những nông dân ở các vùng lân cận để trồng cây dƣợc liệu. Điều này không những
cung cấp dƣợc dƣợc liệu cho bệnh viện mà đồng thời tạo ra công ăn việc làm cho
ngƣời lao động.
Tuy nhiên, so với thuốc Tân dƣợc, thuốc từ dƣợc liệu tại Thái Lan chỉ
chiếm con số rất nhỏ (năm 2001 khoảng 2%). Một phần nguyên nhân là do hầu hết
các nhà máy sản xuất thuốc từ dƣợc liệu tại Thái Lan đều hoạt động trên quy mô
nhỏ và vừa, rất ít phát triển thành công nghiệp quy mô lớn.
1.3.2. Liên kết trong sản xuất - kinh doanh cây dược liệu tại Việt Nam
Việt Nam là nƣớc đƣợc thiên nhiên ƣu đãi với 3984 loài cây làm thuốc.
Trong khoảng 50 năm trở lại đây, Việt Nam đã tiến hành nhập nội khoảng 300 loài
cây thuốc từ nhiều nƣớc trên thế giới, trong đó có khoảng 60 loài trở thành hàng hóa
nhƣ Actiso, Đƣơng quy, Bạch chỉ ....
Theo số liệu báo cáo tại Hội nghị dƣợc liệu Toàn quốc lần thứ II (2007),
nhu cầu dƣợc liệu tại Việt Nam hàng năm khoảng 120.000 tấn, trong đó phục vụ
cho công nghiệp dƣợc khoảng 50.00 tấn, cho Y học cổ truyền khoảng 50.000 tấn và
xuất khẩu khoảng 20.000 tấn. Tuy nhiên, lƣợng dƣợc liệu nhập khẩu hàng năm tại
nƣớc ta khoảng 90% và chủ yếu từ Trung Quốc.
Nguồn dƣợc liệu ở nƣớc ta đƣợc khai thác từ hai nguồn là thu hái tự nhiên
và trồng trọt. Trong đó, có khoảng 136 loài cây thuốc đƣợc trồng trọt với khả năng
cung khoảng 15.500 tấn.
Nhà nƣớc đã có nhiều chủ trƣơng, chính sách khuyến khích thúc đẩy phát
triển cây dƣợc liệu nhƣ quyết định 1976/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ về việc
phê duyệt quy hoạch hệ thống rừng đặc dụng cả nƣớc đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030; Chỉ thị 25/1999/CT-TTg về đẩy mạnh công tác phát triển Y dƣợc học cổ
truyền; Quyết định 35/2001/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lƣợc chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001-2010...
38
Tuy nhiên, trên thực tế, diện tích trồng dƣợc liệu trên cả nƣớc còn rất nhỏ.
Mặc dù chƣa có những thống kê, nhƣng nguồn dƣợc liệu trồng hầu nhƣ chƣa phục
vụ đủ nhu cầu sản xuất trong nƣớc mà vẫn phải nhập khẩu nhƣ Cúc hoa, Đƣơng
quy, Ngƣu tất ... Các mô hình trồng dƣợc liệu còn nhỏ lẻ, mang tính tự phát hoặc do
đặt hàng của doanh nghiệp với quy mô nhỏ.
1.3.3 Bài học rút ra từ thực tiễn liên kết trong sản xuất - kinh doanh cây dược
liệu trên thế giới và tại Việt Nam
Thông qua nghiên cứu các mô hình liên kết trong sản xuất - kinh doanh cây
dƣợc liệu ở các nƣớc trên Thế giới và tại Việt Nam thời gian qua, nghiên cứu rút ra
một số bài học cho doanh nghiệp khi liên kết với các "nhà" còn lại khi phát triển
dƣợc liệu nhƣ sau:
Thứ nhất, việc hoàn thiện chủ trương, chính sách thúc đẩy liên kết trong sản
xuất và kinh doanh cây dược liệu là rất cần thiết và cấp bách. Nhà nƣớc cần xây
dựng hành lang pháp lý nhằm quy định rõ cơ chế xử lý vi phạm hợp đồng, ràng
buộc trách nhiệm gắn với cơ chế chia sẻ lợi ích giữa các bên tham gia hợp đồng một
cách hài hòa.
Thứ hai, vai trò của cơ quan Nhà nước địa phương với tư cách trong mối
liên kết là nhân tố quan trọng đảm bảo thành công. Thể hiện rõ nhất là vai trò của
Nhà nƣớc trong việc quy hoạch, đầu tƣ và phát triển các vùng dƣợc liệu, là ngƣời
đứng ra “thúc đẩy” các nhà khác liên kết.
Thứ ba, các địa phương/vùng nên xác định và thúc đẩy tiêu thụ và phát triển
cây dược liệu qua hợp đồng văn bản trước tiên đối với một số sản phẩm chủ lực,
mang tính đặc trưng cho việc thực thi khi điều kiện hợp đồng đã chín muồi.
Thứ tư, để triển khai hiệu quả các hợp đồng liên kết thì việc tuyên truyền và
phổ biến lợi ích cho các hộ nông dân trồng dược liệu là hết sức cần thiết.
Thứ năm, cần tăng cường vai trò và có biện pháp cụ thể hỗ trợ sự phát triển
của HTX nông nghiệp, tổ hợp tác, trang trại,… Các tổ chức này có vai trò là nhân tố
trung gian, làm cầu nối giữa doanh nghiệp và hộ nông dân trong liên kết sản xuất và
tiêu thụ nông sản.
39
Thứ sáu, công tác quy hoạch sản xuất và vùng dược liệu phải đi trước một
bước.
Thứ bảy, các doanh nghiệp phải đi tiên phong trong ký và thực hiện hợp đồng
tiêu thụ dược liệu kết hợp đầu tư ứng trước cho nông dân về giống, vật tư phân bón,
hướng dẫn kỹ thuật để nông dân sản xuất đúng quy trình kỹ thuật tạo ra sản phẩm có
chất lượng theo yêu cầu của hợp đồng. Hợp đồng sản xuất, tiêu thụ phải thực sự đảm
bảo quyền lợi, nghĩa vụ và lợi ích giữa doanh nghiệp và ngƣời sản xuất.
40
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2008. Tổng kết 5 năm thực hiện
nghị quyết số 80/2002/QĐ-TTg của thủ tướng Chính phủ về chính sách
khuyến kích tiêu thụ nông sản hàng hóa qua hợp đồng. Hà Nội, tháng 3 năm
2008.
2. Bộ Y tế, 2007. Tài liệu Hội nghị dược liệu toàn quốc lần thứ hai "Phát triển
dược liệu đến năm 2015 và tầm nhìn 2020. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học
kỹ thuật.
3. Bộ Y tế, 2015. Tài liệu hội nghị dược liệu toàn quốc lần thứ hai “Phát triển
dược liệu đến năm 2015 và tầm nhìn 2020. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học
và Kỹ thuật.
4. Trần Ngọc Ca, 2012. Nghiên cứu, xây dựng cơ chế chính sách liên kết 4 nhà:
Nhà nước - Nhà doanh nghiệp - Nhà khoa học và nhà nông để phát triển và
sử dụng hiệu quả cây thuốc Việt Nam. Đề tài nghiên cứu. Trƣờng Đại học
khoa học xã hội và nhân văn.
5. Cục thống kê tỉnh Nam Định, 2014. Niên giám thống kê tỉnh Nam Định năm
2014. Hà Nội: NXB Thống kê Hà Nội.
6. Cục thống kê tỉnh Hƣng Yên, 2014. Niên giám thống kê tỉnh Nam Định năm
2014. Hà Nội: NXB Thống kê Hà Nội.
7. Nguyễn Thƣợng Dong, 2006. Nghiên cứu và phát triển dược liệu và đông
dược ở Việt Nam. Hà Nội, tháng 4 năm 2006.
8. Đại từ điển Tiếng Việt, 1999. XNB Văn hóa thông tin, trang 1019.
9. Lê Xuân Đình, 2009. Tìm khâu đột phá trong phát triển nông nghiệp nông
thôn. Tạp chí Cộng sản, số 802, trang 40 - 46.
10. Đào Thúy Hà, 2005. Nghiên cứu đánh giá chính sách sản phẩm của công ty
Cổ phần Traphaco trong xu thế hội nhập kinh tế. Luận văn thạc sĩ dƣợc học.
Trƣờng Đại học Dƣợc Hà Nội
41
11. Minh Hoài, 2006. Tiêu thụ nông sản theo hợp đồng. Tạp chí Kinh tế phát
triển, số 9.
12. Phòng thống kê huyện Văn Lâm, 2014. Biểu khai niên giám thống kê huyện
Văn Lâm. Hƣng Yên, tháng 5 năm 2014.
13. Phòng thống kê huyện Hải Hậu, 2014. Biểu khai niên giám thống kê huyện
Văn Lâm. Hƣng Yên, tháng 3 năm 2014.
14. Trần Văn Ơn và các cộng sự,2008. Thương mại hóa sản phẩm bản địa -
Hướng đi mới nhằm xóa đói giảm nghèo cho miền núi Việt Nam, NXB
NN, tr. 82-91, tr 92-94.
15. Trần Thị Hồng Phƣơng, 2012. Nghiên cứu thực trạng tình hình cung ứng, sử
dụng và đề xuất giải pháp sử dụng hợp lý dược liệu, thuốc đông y, thuốc từ
dược liệu trong bệnh viện y dược cổ truyền. Hà Nội, tháng 9 năm 2012.
16. Lê Thị Thanh Quế, 2013. Khảo sát tình hình sử dụng dược liệu giai đoạn
2008 - 2012 và định hướng phát triển một số dược liệu của công ty cổ phần
Traphaco. Luận văn thạc sĩ dƣợc học. Học Viện Quân Y.
17. Nguyễn Tập, 2006. Nguồn cây thuốc Việt Nam & vấn đề nghiên cứu, sử
dụng lâu bền, Hội nghị khoa học Dƣợc liệu - tiềm năng và triển vọng.
18. Thủ tƣớng chính phủ, 2011. Quyết định số 809/QĐ-TTg. Phê duyệt Đề án
tăng cƣờng năng lực quản lý chất lƣợng nông lâm, thủy sản, muối giai đoạn
2011 - 2015.
19. Thủ tƣớng chính phủ, 2013. Quyết định phê duyệt quy hoạch tổng thể phát
triển dược liệu đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Hà Nội, tháng 8
năm 2013.
20. Từ điển bách khoa Việt Nam, 2002, NXB Từ điển Bách khoa. Tập 2, trang
706.
21. Từ điển thuật ngữ kinh tế học, 2005. Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức
bách khoa.