Upload
nguyen-cong-huy
View
305
Download
2
Embed Size (px)
Citation preview
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
LỜI MỞ ĐẦU
Các doanh nghiệp muốn tồn tại trong thị trường phải luôn vận động, biến
đổi để tạo cho mình một vị trí và chiếm lĩnh những phần thị trường nhất định.
Sự cạnh tranh gay gắt đòi hỏi họ phải xây dựng cho được một chiến lược cạnh
tranh có hiệu quả để đứng vững, và cạnh tranh không chỉ với công ty trong nước
mà cả với các hãng tư bản nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh mẽ. Trong nền
kinh tế thị trưòng của một quốc gia nói riêng và trên toàn thề giới nói chung, vấn
đề cạnh tranh không phải là vấn đề mới nhưng nó luôn là vấn đề mang tính thời
sự, cạnh tranh khiến thương trường ngày càng trở nên nóng bỏng.
Việt Nam đã và đang tích cực tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế
vì những lợi ích mang lại từ hoạt động kinh tế này, nhưng mức độ tham gia còn
hạn chế. Ngành may mặc của Việt Nam tuy được coi là một trong những ngành
mũi nhọn trong chiến lược hướng về xuất khẩu, nhưng lại chưa thực sự khẳng
định mình trên thị trường thế giới. Lượng hàng xuất khẩu trực tiếp còn thấp, chủ
yếu là thực hiện theo đơn đặt hàng gia công của nước ngoài. Do vậy, tính cạnh
tranh của sản phẩm may mặc chưa được quan tâm đầy đủ.
Là một doanh nghiệp Nhà nước công ty dệt may Hà Nội (trực thuộc tổng
công ty dệt may Việt Nam) từ khi thành lập đến nay, trải qua nhiều gian nan vất
vả nhưng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Cùng với sự phát triển của đất
nước, công ty dệt may Hà Nội đã dần hoàn thiện mình và đang cố gắng góp
phần khẳng định khả năng phát triển của ngành dệt may xuất khẩu. Sản phẩm
của công ty may Hà Nội gồm nhiều chủng loại gồm các sản phẩm về sợi, vải,
mũ, khăn, nhưng chất luợng mẫu mã, giá cả...của sản phẩm cùng cách tổ chức
điều hành, quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty còn nhiều bất cập.
Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, mở rộng thị trường trong và ngoài nước, từ
đó nâng khả năng thu lợi nhuận, công ty dệt may Hà Nội phải thực sự quan tâm
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A1
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
tới việc lập và thực hiện hiệu quả chiến lược kinh doanh, trong đó phải đặc biệt
chú trọng tới chiến lược cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu của công ty trên thị
trường quốc tế.
Trong chuyên đề, với mong muốn vận dụng những kiến thức đã học trong
trường vào thực tế chuyên đề sẽ làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề cạnh tranh và
nâng cao khả năng cạnh tranh. Nghiên cứu thực trạng cạnh tranh ở công ty dệt
may Hà Nội để thấy được mức độ ảnh hưởng của cạnh tranh tới sự tồn tại và
phát triển của công ty. Qua đó đưa ra một số phương hướng, biện pháp nhằm
nâng cao khả năng cạnh tranh ở công ty trong qúa trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Ngoài phần mở đầu, kết luận . Nội dung và kết cấu chuyên đề gồm 3 chương
- Chương I : Lý luận cơ bản về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
- Chương II : Phân tích thực trạng khả năng cạnh tranh của công ty
- Chương III : Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh
của công ty dệt may Hà Nội
Do những hạn chế về kiến thức, thời gian, hơn nữa đây cũng là một vấn
đề mới và phức tạp luôn biến động nên chuyên đề không thể tránh được những
thiếu sót nhất định.Vì vậy em mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến của
thầy cô. Em cũng xin chân thành cảm ơn Th.s Tạ Lợi đã giúp em hoàn thành
chuyên đề này.
Hà Nội, tháng 4 năm 2003.
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A2
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
CHƯƠNGI
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ SỨC CẠNH
TRANH CỦA HÀNG HOÁ.
I. NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH VÀ SỨC CẠNH
TRANH CỦA HÀNG HOÁ.
1.Khái niệm về cạnh tranh và sức cạnh tranh.
Cạnh tranh là sản phẩm tất yếu của sự phát triển nền kinh tế xã hội. Trong
mọi phương diện của cuộc sống ý thức vươn lên luôn là yếu tố chủ đạo hướng
suy nghĩ và hành động của con người. Họat động sản xuất kinh doanh là một
lĩnh vực quan trọng trong đời sống xã hội, trong đó ý thức vươn lên không đơn
thuần là mong muốn đạt được một mục tiêu nào đó mà còn là tham vọng trở
thành người đứng đầu. Suy nghĩ và hành động trong sản xuất kinh doanh bị chi
phối rất nhiều bởi tính kinh tế khắc nghiệt. Trong giai đoạn hiện nay, yếu tố
được coi là khắc nghiệt nhất là cạnh tranh. Môi trường hoạt động của doanh
nghiệp ngày nay đầy biến động và cạnh tranh hiện nay là cuộc đấu tranh gay gắt,
quyết liệt giữa các chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường nhằm giành giật nhiều
các lợi ích kinh tế hơn về mình.
1.1Khái niệm về cạnh tranh.
Ở mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế xã hội khái niệm về cạnh tranh
được nhiều tác giả trình bày dưới những góc độ khác nhau. Dưới thời kỳ Chủ
nghĩa tư bản (CNTB) phát triển vượt bậc Mác đã quan niệm: “ Cạnh tranh chủ
nghĩa tư bản là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành
giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được
lợi nhuận siêu ngạch”. Nghiên cứu sâu về sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa
(TBCN) và cạnh tranh TBCN, Mác đã phát hiện ra quy luật cạnh tranh cơ bản
là: quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các ngành. Nếu ngành
nào, lĩnh vực nào có tỷ suất lợi nhuận cao sẽ có nhiều người để ý và tham gia.
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A3
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Ngược lại, những ngành, lĩnh vực mà có tỷ suất lợi nhuận thấp sẽ có sự thu hẹp
về quy mô hoặc là sự rút lui của các nhà đầu tư. Tuy nhiên sự tham gia hay rút
lui của các nhà đầu tư không dễ dàng một sớm, một chiều thực hiện được mà là
cả một chiến lược lâu dài đòi hỏi phải có sự tính toán kỹ lưỡng.
CNTB phát triển đến đỉnh điểm chuyển sang chủ nghĩa đế quốc rồi suy
vong và cho đến ngày nay nền kinh tế thế giới đã dần đi vào qũy đạo của sự ổn
định và xu hướng chính là hội nhập, hoà đồng giữa các nền kinh tế, cơ chế hoạt
động là cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước thì khái niệm
cạnh tranh mất hẳn tính giai cấp, tính chính trị nhưng về bản chất thì vẫn không
thay đổi. Cạnh tranh vẫn là sự đấu tranh gay gắt, sự ganh đua giữa các tổ chức,
các doanh nghiệp nhằm đạt được những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và
kinh doanh để đạt được những mục tiêu của tổ chức, doanh nghiệp đó.
Theo lý thuyết tổ chức doanh nghiệp công nghiệp thì một doanh nghiệp
được coi là có sức cạnh tranh và đánh giá nó có thể đứng vững cùng với các nhà
sản xuất khác, với các sản phẩm thay thế, hoặc bằng cách đưa ra các sản phẩm
tương tự với mức giá thấp hơn cho sản phẩm cùng loại, hoặc bằng cách cung
cấp các sản phẩm có cùng đặc tính nhưng với dịch vụ ngang bằng hay cao hơn.
Một định nghĩa khác về cạnh tranh như sau: “Cạnh tranh có thể định nghĩa như
là một khả năng của doanh nghiệp nhằm đáp ứng và chống lại các đối thủ cạnh
tranh trong cung cấp sản phẩm, dịch vụ một cách lâu dài và có lợi nhuận”.
Thực chất cạnh tranh là sự tranh giành lợi ích kinh tế giữa các bên tham gia
vào thị trường với tham vọng “mua rẻ-bán đắt”. Cạnh tranh là một phương thức
vận động của thị trường và quy luật cạnh tranh là một trong những quy luật quan
trọng nhất chi phối sự hoạt động của thị trường. Sở dĩ như vậy vì đối tượng tham
gia vào thị trường là bên mua và bên bán; Đối với bên mua mục đích là tối đa
hoá lợi ích của những hàng hoá mà họ mua được còn với bên bán thì ngược lại
phải làm sao để tối đa hoá lợi nhuận trong những tình huống cụ thể của thị
trường. Như vậy trong cơ chế thị trường tối đa hoá lợi nhuận đối với các doanh
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A4
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
nghiệp là mục tiêu quan trọng và điển hình nhất.
Như vậy dù có rất nhiều khái niệm về cạnh tranh nhưng tựu chung lại đều
thống nhất ở các điểm:
- Mục tiêu cạnh tranh: Tìm kiếm lợi nhuận và nâng cao vị thế của doanh
nghiệp trên thương trường đồng thời làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội.
- Phương pháp thực hiện: Tạo và vận dụng những lợi thế so sánh trong việc
cung cấp sản phẩm, dịch vụ khi so sánh với các đối thủ cạnh tranh khác.
- Thời gian: Trong bất kỳ tuyến thị trường hay sản phẩm nào, vũ khí cạnh
tranh thích hợp hay đổi theo thời gian. Chính vì thế cạnh tranh được hiểu là sự
liên tục trong cả quá trình.
Ngày nay hầu như tất cả các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh,
coi cạnh tranh là một tất yếu khách quan. Ở Việt Nam, cùng với việc chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường, cạnh tranh đã từng bước được tiếp nhận như một
nguyên tắc cơ bản trong tổ chức quản lý và điều khiển nền kinh tế quốc dân nói
chung, trong tổ chức và điều hành kinh doanh trong các doanh nghiệp nói riêng.
Cạnh tranh không những là môi trường và động lực của sự phát triển mà còn là
một yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, tạo động lực cho
sự phát triển. Do đó quan điểm đầy đủ về cạnh tranh như sau: Cạnh tranh là
cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các nhà sản xuất, kinh doanh với nhau
dựa trên những chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm đạt được
những điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều kiện thúc
đẩy sản xuất phát triển. Cạnh tranh trong kinh tế là cuộc chạy đua “Marathon
kinh tế” nhưng không có đích cuối cùng, ai cảm nhận thấy thì người đó sẽ trở
thành nhịp cầu cho các đối thủ khác vươn lên phía trước.
1.2 Khái niệm sức cạnh tranh.
Một sản phẩm muốn có vị trí vững chắc trên thị trường và muốn thị
trường của nó ngày càng mở rộng thì nó điểm mạnh và có khả năng để nâng cao
sức cạnh tranh của mình trên thị trường đó. Sức cạnh tranh của hàng hoá được
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A5
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
hiểu là tất cả các đặc điểm, yếu tố, tiềm năng mà sản phẩm đó có thể duy trì và
phát triển vị trí của mình trên thương trường cạnh tranh một các lâu dài và có ý
nghĩa.
Để đánh giá được một sản phẩm có sức cạnh tranh mạnh hay không thì
cần dựa vào các nhân tố sau:
- Giá thành sản phẩm và lợi thế về chi phí (khả năng giảm chi phí đến mức tối
đa).
- Chất lượng sản phẩm và khả năng đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm
của doanh nghiệp.
- Các dịch vụ đi kèm sản phẩm.
2. Vai trò của cạnh tranh.
Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, cạnh tranh luôn diễn ra liên tục và được
hiểu như cuộc chạy đua không ngừng giữa các đối thủ. Trong bối cảnh nền kinh
tế Việt Nam hiện nay đang từng bước khẳng định những ưu thế của mình, môi
trường cạnh tranh ngày càng hoàn chỉnh hơn đặt ra cho các doanh nghiệp những
cơ hội và thách thức. Doanh nghiệp nào hiểu biết đối thủ, biết thoả mãn tốt hơn
các nhu cầu và thị hiếu khách hàng so với đối thủ cạnh tranh, biết giành thế chủ
động với người cung cấp các nguồn hàng và tận dụng được lợi thế cạnh tranh
doanh nghiệp đó sẽ tồn tại, ngược lại doanh nghiệp không có tiềm lực cạnh tranh
hoặc không “nuôi dưỡng” tiềm lực cạnh tranh tất yếu sẽ thất bại.
Vì thế các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh tranh và
sẵn sàng sử dụng các công cụ cạnh tranh hữu hiệu của mình. Điều này nhận thấy
rõ nhất ở vai trò của cạnh tranh .
- Cạnh tranh cho phép sử dụng các nguồn tài nguyên một cách tối ưu.
- Khuyến khích áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
- Thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.
- Thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng năng suất lao động và hiệu quả
kinh tế.
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A6
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
- Hơn nữa cạnh tranh còn làm cho giá cả hàng hoá, dịch vụ giảm xuống nhưng
chất lượng lại được nâng cao, kích thích sức mua, làm tăng tốc độ tăng trưởng
của nền kinh tế.
3. Phân loại cạnh tranh.
3.1 Căn cứ vào mức độ, tính chất của cạnh tranh trên thị trường.
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
Cạnh tranh hoàn hảo xảy ra khi có một số lớn doanh nghiệp nhỏ sản xuất
và bán ra một loại hàng hoá, dịch vụ giống hệt nhau và với số lượng của từng
doanh nghiệp qúa nhỏ so với tổng số hàng hoá có trên thị trường.
Thị trường này có một số đặc điểm :
- Có rất nhiều người sản xuất và bán hàng hoá giống hệt nhau, song không ai
có ưu thế trong việc cung ứng và mua sản phẩm để có thể làm thay đổi giá cả
- Người bán có thể bán toàn bộ hàng hoá của mình với giá thị trường. Như
vậy họ phải chấp nhận giá thị trường có sẵn và dù họ có tăng giảm lượng hàng
hoá bán ra thì cũng không có tác động gì đến giá cả thị trường.
- Không có trở lực gì quan trọng ảnh hưởng đến việc gia nhập vào một thị
trường hàng hoá, nói cách khác là không có sự cấm đoán do luật lệ quy định
hoặc do tính chất của sản phẩm đòi hỏi phải có trình độ kỹ thuật cao, mức đầu tư
quá lớn.
- Theo thị trường này mỗi doanh nghiệp chỉ là một phần tử trong tổng thể vì
vậy các quyết định của doanh nghiệp không ảnh hưởng đến thị trường. Mặt khác
việc định giá của doanh nghiệp không cách nào khác hơn là phải tự thích ứng
với giá cả hiên cả hiện có trên thị trường. Muốn có lãi doanh nghiệp phải giảm
thấp chi phí sản xuất.
Cạnh tranh không hoàn hảo.
Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là tình trạng cạnh tranh bình
thường vì nó phổ biến trong điều kiện hiện nay. Đây là thị trường mà phần lớn
các sản phẩm là không đồng nhất. Cùng sản phẩm có thể chia làm nhiều thứ
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A7
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
loại, nhiều chất lượng...Sản phẩm tương tự có thể được bán với nhiều nhãn hiệu
khác nhau, mỗi nhãn hiệu đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau. Mặc dù, sự
khác biệt giữa các sản phẩm không đáng kể (sự khác biệt mang ý nghĩa quan
niệm, tâm lý là chính): các điều kiện mua bán hàng hoá cũng là khác nhau.
Người bán có thể có uy tín độc đáo riêng biệt đối với người mua do nhiều lý do
khác nhau: khách hàng quen, gây được lòng tin...hay các cách thức quảng cáo
cũng có thể ảnh hưởng tới người mua, làm người mua thích mua của một nhà
cung ứng này hơn của một nhà cung ứng khác.
Đường cầu của thị trường là đường không co dãn. Việc mua và bán sản
phẩm được thực hiện trong bầu không khí có tính chất giao thương rất lớn, điều
này khác hẳn với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Người bán có thể thu hút
khách hàng bởi nhiều cách: quảng cáo, khuyến mại, phương thức bán hàng,
cung cấp dịch vụ, tín dụng, hoặc có nhiều điều khoản ưu đãi...Do đó, trong giá
có sự phân biệt, xuất hiện hiện tượng nhiều giá. Có thể nói giá cả nên xuấng thất
thường tuỳ khu vực, tuỳ nguồn cung ứng, tùy người mua.
Cạnh tranh độc quyền.
Thị trường độc quyền.
Là thị trường mà ở đó chỉ có duy nhất một người mua (Độc quyền mua)
hoặc một người bán (Độc quyền bán). Chính sách của thị trường này là định giá
cao và sản lượng hàng hoá ít. Tuy nhiên điều đó không đồng nghĩa với việc nhà
độc quyền định giá bao nhiêu cũng được. Tuỳ theo đặc điểm tiêu dùng của sản
phẩm và cơ chế quản lý giá của Nhà nước mà nhà độc quyền định giá cao hay
thấp để thu được lợi nhuận tối đa. Các nhà độc quyền cũng dùng hình thức cạnh
tranh phi giá như quảng cáo để thu hút thêm khách hàng.
Nói chung độc quyền trong sản xuất kinh doanh là lợi thế lớn nhất đối
vơi nhà độc quyền, song về mặt xã hội thì nó kìm hãm sự phát triển sản xuất,
làm thiệt hại lợi ích người tiêu dùng.
Cạnh tranh độc quyền.
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A8
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Trong thị trường cạnh tranh độc quyền, các doanh nghiệp cạnh tranh với
nhau bằng việc bán sản phẩm phân biệt, các sản phẩm có thể thay thế cho nhau
ở mức độ cao nhưng không phải là thay thế hoàn hảo. Nghĩa là độ co dãn của
cầu là cao chứ không phải là vô cùng.Vì những lý do khác nhau (chất lượng,
hình dáng, danh tiếng...) người tiêu dùng coi mặt hàng của mỗi doanh nghiệp
khác với của các doanh nghiệp khác. Do đó một số khách hàng sẵn sàng trả giá
cao hơn cho sản phẩm mình thích, trong ngắn hạn khó ra nhập thị trường nhưng
dài hạn thì có thể . Nhà sản xuất định giá nhưng không thể tăng giá một cách bất
hợp lý, về dài hạn thì không thể trở thành thị trường độc quyền được. Cạnh tranh
độc quyền sử dụng các hình thức cạnh tranh phi giá như quảng cáo, phân biệt
sản phẩm .
Độc quyền tập đoàn.
Trong thị trường độc quyền tập đoàn, sản phẩm có thể giống nhau hoặc
khác nhau và chỉ có một số doanh nghiệp sản xuất toàn bộ hay hầu hết toàn bộ
tổng sản lượng.Tính phụ thuộc giữa các doanh nghiệp là lớn, hành vi của doanh
nghiệp này ảnh hưởng tới doanh nghiệp khác. Nếu một doanh nghiệp giảm giá
sẽ dẫn đến tình trạng phá giá do các doanh nghiệp dễ kết cấu với nhau. Nhưng vì
cạnh tranh bằng giá không có lợi do vậy người ta chuyển sang cạnh tranh bằng
chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá sản phẩm. Trong thị trường độc quyền tập
đoàn, một số hoặc tất cả các doanh nghiệp đều thu hút được lợi nhuận đáng kể
trong dài hạn thì có các hàng rào ra nhập làm cho các doanh nghiệp mới không
thể hoặc khó mà ra nhập thị trường. Trong độc quyền tập đoàn, các nhà sản xuất
cũng sử dụng nhiều hình thức cạnh tranh phi giá như quảng cáo hoặc phân biệt
sản phẩm giống như trong cạnh tranh độc quyền.
3.2 Căn cứ vào các chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường.
Cạnh tranh giữa người bán và người mua.
Là cuộc cạnh tranh giữa người bán và người mua diễn ra theo quy luật
mua rẻ bán đắt trên thị trường. Người bán muốn bán sản phẩm của mình với giá
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A9
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
cao nhất, ngược lại người mua muốn mua với giá thấp nhất. Giá cuối cùng là giá
thống nhất giữa người mua và người bán sau một quá trình mặc cả với nhau mà
theo đó hoạt động mua bán được thực hiện.
Cạnh tranh giữa những người mua với nhau.
Là cuộc cạnh tranh xảy ra khi cung nhỏ hơn cầu. Khi lượng cung một loại
hàng hoá, dịch vụ nào đó quá thấp so với nhu cầu tiêu dùng thì cuộc cạnh tranh
giữa những người mua sẽ trở nên quyết liệt. Lúc đó giá cả hàng hoá, dịch vụ sẽ
tăng vọt nhưng do hàng hoá khan hiếm nên người mua vẫn sẵn sàng trả giá cao
cho hàng hoá mình cần. Kết qủa là người bán thu được lợi nhuận cao còn người
mua thì bị thiệt. Đây là cuộc cạnh tranh mà theo đó những người mua sẽ bị thiệt
còn những người bán được lợi .
Cạnh tranh giữa những người bán với nhau.
Đây là cuộc cạnh tranh gay go và quyết liệt nhất, chiếm đa số trên thị
trường.Thực tế cho thấy khi sản xuất hàng hoá càng phát triển càng có nhiều
người bán dẫn đến cạnh tranh ngày càng quyết liệt trên nhiều phương diện và
nhiều hình thức đa dạng khác nhau. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ
thuật một mặt tác động đến các nhà sản xuất, một mặt làm thay đổi nhu cầu của
người mua, do đó nó dần làm biến đổi vị trí của các yếu tố cạnh tranh. Một cách
chung nhất cạnh tranh là sự ganh đua ở các giác độ : chât lượng, giá cả, nghệ
thuật tổ chức tiêu thụ và thời gian. Giá là yếu tố thứ nhất của cạnh tranh, đây là
hình thức cạnh tranh được sử dụng nhiều nhất. Khi nhu cầu con người phát triển
cao hơn thì yếu tố chất lượng sản phẩm chiếm vị trí chính yếu. Đến nay vào
những năm cuối của thế kỷ 20 thì với các doanh nghiệp lớn họ có với nhau sự
cân bằng về giá cả thì yếu tố thời gian và tổ chức tiêu thụ sản phẩm là quan
trọng nhất.
3.3 Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế.
Cạnh tranh giữa các ngành.
Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong các ngành kinh tế khác nhau
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A10
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
nhằm thu được lợi nhuận và có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với vốn đầu tư bỏ ra
đầu tư vào ngành khác. Sự cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến doanh nghiệp
đang kinh doanh trong ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp chuyển sang kinh doanh
ở ngành có tỷ suất lợi nhuận cao hơn.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành.
Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất và tiêu thụ một loại
hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Trong cuộc cạnh tranh này các doanh nghiệp
thôn tính lẫn nhau, doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của
mình trên thị trường, doanh nghiệp thua sẽ sẽ thu hẹp phạm vi kinh daonh thậm
chí phá sản.
II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA
HÀNH HOÁ VÀ CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ SỨC CẠNH TRANH CỦA
HÀNG HOÁ.
1. Các nhân tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của hành hoá.
1.1 Các nhân tố bên ngoài.
Michael.E.Porter (1982) đã đưa ra khái niệm cạnh tranh mở rộng, theo đó
cạnh tranh trong một ngành phụ thuộc vào năm thế lực.
Sơ đồ 1: Các thế lực điều khiển cuộc cạnh tranh trong ngành
Năm thế lực cạnh tranh này kết hợp với nhau xác định cường độ cạnh
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A11
Các đối thủtiềm năng
Ngườicung ứng
Doanh nghiệp và các đối thủ
hiện tạiNgười mua
Sản phẩm dịch vụ thay thế
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
tranh và mức lợi nhuận của ngành. Thế lực nào mạnh nhất sẽ thống trị và trở
thành trọng yếu theo quan điểm xây dựng chiến lược. Mỗi lực lượng trong số 5
lực lượng trên càng mạnh thì càng hạn chế khả năng cho các doanh nghiệp tăng
giá cả và kiếm lợi nhuận; Ngược lại, khi một lực lượng nào đó mà yếu thì cơ hội
để doanh nghiệp có được lợi nhuận sẽ càng khả thi. Để làm rõ điều này chung ta
hãy cùng tìm hiểu các lực lượng đó.
Các đối thủ cạnh tranh hiện tại.
Sự hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa quan trọng vì các
đối thủ cạnh tranh sẽ quyết định tính chất và mức độ tranh đua. Nếu các đối thủ
này yếu doanh nghiệp có cơ hội để tăng giá bán và kiếm được nhiều lợi nhuận
hơn. Ngược lại,khi các đối thủ cạnh tranh hiện tại mạnh thì sự cạnh tranh về giá
là không đáng kể, mọi cuộc cạnh tranh về giá cả đều dẫn tới tổn thương.
Bàn về cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong một ngành sản xuất ta
thường nói tới những nội dung chủ yếu như: cơ cấu cạnh tranh ngành, thực trạng
cầu của ngành và các hàng rào lối ra.
Cơ cấu cạnh tranh của ngành dựa vào số liệu và khả năng phân phối sản
phẩm của doanh nghiệp trong ngành sản xuất. Cơ cấu cạnh tranh thay đổi từ
ngành sản xuất phân tán tới ngành sản xuất tập trung. Bản chất và mức độ cạnh
tranh đối với các ngành tập trung là rất khó phân tích và dự đoán.
Tình trạng cầu của một ngành là một yếu tố quyết định khác về tính mãnh liệt
trong cạnh tranh nội bộ ngành. Thông thường, cầu tăng tạo cho doanh nghiệp
một cơ hội lớn để mở rộng hoạt động. Ngược lại, cầu giảm dẫn đến cạnh tranh
khốc liệt để các doanh nghiệp giữ được phần thị trường đã chiếm lĩnh.
Hàng rào lối ra là mối đe doạ cạnh tranh nghiêm trọng khi cầu của ngành
giảm mạnh. Đó là kinh tế, chiến lược và là quan hệ tình cảm giữ doanh nghiệp
trụ lại. Nếu hàng rào lối ra cao, các doanh nghiệp có thể bị khoá chặt trong một
ngành sản xuất không ưa thích. Hàng rào lối ra thường bao gồm: Đầu tư nhà
xưởng và thiết bị, chi phí trực tiếp cho việc rời bỏ ngành là cao, quan hệ chiến
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A12
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
lược giữa các đơn vị chiến lược kinh doanh, hay đó là chi phí xã hội khi thay đổi
như khó khăn về sự sa thải nhân công, chi phí đào tạo lại ...
Do vậy nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp là tìm kiếm thông tin, phân tích
đánh giá chính xác khả năng của những đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là những đối
thủ chính để xây dựng cho mình chiến lược cạnh tranh thích hợp với môi trường
chung.
Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn.
Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện tại chưa cạnh
tranh trong cùng một ngành sản xuất, nhưng có khả năng cạnh tranh nếu họ lựa
chọn và quyết định gia nhập ngành. Đây là đe dọa cho các doanh nghiệp hiện
tại. Các doanh nghiệp hiện tại cố gắng ngăn cản các đối thủ tiềm ẩn muốn ra
nhập ngành vì càng nhiều doanh nghiệp có trong một ngành sản xuất thì cạnh
tranh càng khốc liệt hơn. Với sự mong muốn chiếm lĩnh một thị phần nào đó các
đối thủ mới có thể làm giá bán bị kéo xuống hoặc chi phí của các công ty đi
trước có thể bị tăng lên và kết quả làm giảm mức lợi nhuận. Sự xâm nhập vào
một ngành, với dự định xây dựng một vị trí trên thị trường kiểu đó có lẽ cần
được coi như một sự nhập cuộc của đối thủ mới. Việc tạo ra hàng rào hợp pháp
ngăn cản sự xâm nhập từ bên ngoài hoặc sự phản ứng khôn khéo của các doanh
nghiệp đang cạnh tranh sẽ làm giảm bớt mối hiểm hoạ hoặc do doanh nghiệp
mới xâm nhập gây ra. Những rào cản chủ yếu được xác định là:
Những ưu thế tuyệt đối về chi phí: Có thể đó là ưu thế về các sáng chế,
việc làm chủ một công nghệ riêng đặc thù hoặc có một nguồn nhân lực chuyên
tinh, làm chủ được nguồn nguyên vật liệu cũng như kinh nghiệm cho phép có
được các chi phí thấp hơn. Hoặc đó có thể là lợi thế về chi phí cố định vì các đối
thủ cạnh tranh hiện tại thường có những lợi thế chi phí mà các đối thủ mới
không thể nào có được, lợi thế này không phụ thuộc vào quy mô doanh nghiệp
như: Bản quyền về công nghệ và sản phẩm, lợi thế về nguồn cung cấp nguyên
vật liệu, lợi thế về vị trí địa lý, hay kinh nghiệm và kĩ năng trong sản xuất.
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A13
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Ngoài ra có thể kể đến những loại chi phí khác như chi phí đặt cọc, tiền
cược. Đây là một khoản tiền lúc đầu buộc khách hàng mua sản phẩm của một
doanh nghiệp lúc đầu phải trả nếu họ không mua sản phẩm của ngành đó nữa và
chuyển sang mua sản phẩm của một doanh nghiệp khác hay là chi phí phạt do
thay đổi hãng hợp đồng tiêu thụ hoặc cung cấp vật tư. Hầu hết các khách hàng
đều phải thực hiện việc bồi thường trừ phi các nhà cung cấp mới những cải tiến
có lợi về chi phí và thực hiện.
Sự khác biệt hoá của sản phẩm khiến cho khách hàng trung thành với
nhãn hiệu sản phẩm của các doanh nghiệp có vị thế uy tín vững vàng hoặc đã
đứng vững.Thường các doanh nghiệp này có ưu thế cạnh tranh về chất lượng
sản phẩm, về dịch vụ hậu mãi hoặc về khả năng chuyên biệt hoá sản phẩm... Sự
trung thành với nhãn hiệu là nguồn rào cản khiến cho các doanh nghiệp mới
tham gia khó lòng giành giật thị phần trên thương trường. Các doanh nghiệp có
tiềm năng hẳn phải tốn kém rất nhiều để bẻ gãy lòng ưu ái đã được củng cố của
khách hàng với các nhãn hiệu đã có uy tín trước đó.
Kinh tế quy mô hay còn gọi là kinh tế bậc thang: Các chi phí về sản xuất,
phân phối, bán, quảng cáo, dịch vụ nghiên cưú sẽ giảm bớt với sự gia tăng của
số lượng bán. Hay nói cách khác số lượng sản xuất và bán tăng lên thì chi phí
cho một đơn vị sản phẩm càng giảm đi.
Kênh phân phối chủ yếu đã được thiết lập của các doanh nghiệp hiện tại
cũng là một vật cản đối với các doanh nghiệp muốn nhảy vào chia sẻ thị trường.
Để tham gia vào mạng lưới phân phối đã được thiết lập các doanh nghiệp mới
thông thường phải chia sẻ các chi phí quảng cáo hoặc hỗ trợ bán hàng. Mọi chi
phí này sẽ làm giảm lợi nhuận của các đối thủ mới; Trong khi đó các đối thủ
cạnh tranh hiện tại có thể giữ chặt các các kênh phân phối dựa trên cơ sở các
mối quan hệ lâu dài, chất lượng phục vụ cao ... Như vậy buộc doanh nghiệp mới
phải tạo ra một mạng lưới phân phối mới và đó là một cản trở đáng kể.
Phản ứng lại của các doanh nghiệp hiện tại trong lĩnh vực kinh doanh.
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A14
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Nếu việc phản ứng lại tích cực và khôn khéo một lối vào trong lĩnh vực đó là có
thể được. Nhưng nếu phản ứng lại bằng một cuộc chiến tranh giá cả thì cái giá
phải trả là quá đắt để nhập ngành bởi các đối thủ cạnh tranh hiện tại phản ứng
quyết liệt, liên kết lại với nhau để đối phó.
Khách hàng (Người mua).
Khách hàng hay người mua hàng là một bộ phận không thể tách rời trong môi
trường cạnh tranh. Khách hàng tác động đến doanh nghiệp thể hiện mối tương
quan về thế lực nếu nghiêng về phía nào thì phía đó có lợi. Các doanh nghiệp
cần phải làm chủ mối tương quan này, thiết lập được mối quan hệ với khách
hàng để giữ khách hàng (thông qua số lượng, chất lượng, giá cả, điều kiện giao
nhận và dịch vụ sau bán hàng). Khách hàng có ưu thế là có thể làm cho lợi
nhuận của ngành hàng giảm bằng cách ép giá xuống hoặc đòi hỏi chất lượng cao
hơn và phải làm nhiều công việc dịch vụ hơn.
Khách hàng có thể được xem như một sự đe dọa cạnh tranh khi họ buộc
doanh nghiệp phải giảm giá hoặc có nhu cầu chất lượng cao và dịch vụ tốt hơn.
Ngược lại khi người mua (khách hàng) yếu sẽ mang đến cho doanh nghiệp cơ
hội để tăng giá kiếm được lợi nhuận nhiều hơn. Người mua gồm: Người tiêu
dùng cuối cùng, các nhà phân phối (bán buôn, bán lẻ) và các nhà mua công
nghiệp. Áp lực của họ thường được thể hiện trong những trường hợp sau:
- Nhiều nhà cung ứng có quy mô vừa và nhỏ trong ngành cung cấp. Trong khi
đó người mua là số ít và có quy mô lớn, nó cho phép người mua chi phối các
công ty cung cấp.
- Khách hàng mua một khối lượng lớn sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp
và sử dụng đó làm lợi thế để mặc cả cho sự giảm giá không hợp lý.
- Khách hàng có thể vận dụng chiến lược liên kết dọc, tức là họ có xu hướng
khép kín sản xuất, tự sản xuất, gia công các bộ phận chi tiết, bán sản phẩm cho
mình.
- Khách hàng có đầy đủ các thông tin về thị trường như nhu cầu, giá cả của các
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A15
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
nhà cung cấp thì áp lực mặc cả của họ càng lớn.
Để nâng cao khả năng cao khả năng cạnh tranh thì doanh nghiệp phải
giảm tối đa sức ép trên và tạo môi trường với các khách hàng qua các chính sách
giá, chất lượng sản phẩm, dịch vụ, biến họ trở thành người cộng tác tốt.
Người cung ứng.
Đó là những nhà cung cấp nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, tiền vốn,lao
động đôi khi gây đe doạ khi họ có khả năng tăng giá bán đầu vào hoặc giảm chất
lượng các sản phẩm dịch vụ mà họ cung cấp. Qua đó làm giảm lợi nhuận của
doanh nghiệp. Họ thường gây sức ép trong những tình huống như:
- Họ độc quyền cung cấp vật tư.
- Khi các vật tư được cung cấp không có khả năng thay thế
- Không có điều khoản ràng buộc hoặc bảo đảm trong các hợp đồng kinh tế đã
kí kết.
- Khi vật tư đó quan trọng, quyết định trong sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp
- Khi họ có khả năng khép kín sản xuất.
Vì vậy doanh nghiệp cần thiết lập quan hệ lâu dài với các nhà cung cấp và
đưa ra các biện pháp ràng buộc với nhà vật tư để giảm bớt các ràng buộc họ có
thể gây nên với mình.
Sản phẩm thay thế.
Sự ra đời của các sản phẩm thay thế là một tất yếu nhằm đáp ứng sự biến
động của nhu cầu thị trường theo hướng ngày càng đa dạng hơn, phong phú và
cao cấp hơn, và chính nó lại làm giảm khả năng cạnh tranh của các sản phẩm bị
thay thế.
Một doanh nghiệp có thể hoạt động thu được nhiều lợi nhuận khi trong
ngành kinh doanh đó có các các cản trở xâm nhập cao, mức độ cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp hiện có là thấp, không có sản phẩm thay thế, thế lực khách
hàng yếu và thế lực nhà cung cấp cũng yếu. Ngược lại, một doanh nghiệp tiến
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A16
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
hành kinh doanh trong một ngành hàng có các cản trở xâm nhập thấp, cạnh tranh
mạnh mẽ, có một số sản phẩm thay thế, thế lực và của khách hàng và nhà cung
cấp mạnh thì kinh doanh của doanh nghiệp sẽ chật vật và lợi nhuận thấp. Các
nhà quản lý cần phải phân tích và hiểu rõ được các thế lực trong môi trường
cạnh tranh, từ đó tận dụng cơ hội và tìm vị trí có lợi nhất cho doanh nghiệp
trong môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2 Các nhân tố bên trong.
Nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực được coi là vấn đề có ý nghĩa sống còn với mọi tổ chức
trong tương lai. Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp được chia làm 3 cấp:
+ Quản trị viên cấp cao: Gồm ban giám đốc và các trưởng phó phòng ban. Đây
là đội ngũ có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh. Nếu họ có
trình độ quản lý cao, có nhiều kinh nghiệm kinh doanh trên thương trường, có
khả năng đánh giá và quan hệ đối ngoại tốt thì doanh nghiệp đó sẽ có sức cạnh
tranh cao và ngược lại.
+ Quản trị viên cấp trung gian: Đây là đội ngũ trực tiếp quản lý phân xưởng
sản xuất sản phẩm đòi hỏi phải có có kinh nghiệm công tác, khả năng ra quyết
định và diều hành công tác.
+ Đội ngũ quản trị viên cấp cơ sở: Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp phần
nào cũng chịu sự chi phối của đội ngũ này thông qua các yếu tố như: năng suất
lao động, trình độ tay nghề, ý thức trách nhiệm, kỷ luật lao động và sự sáng tạo
của họ... bởi vì các yếu tố này chi phối việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ
giá thành sản phẩm cũng như tạo thêm tính ưu việt, độc đáo mới lạ của sản
phẩm.
Nguồn lực về tài chính.
Khả năng tài chính có ảnh hưởng rất lớn tới sức cạnh tranh của doanh
nghiệp trên thị trường. Khả năng tài chính được hiểu là quy mô tài chính của
doanh nghiệp và tình hình hoạt động, các chỉ tiêu tài chính hàng năm như tỷ lệ
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A17
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
thu hồi vốn, khả năng thanh toán...Nếu một doanh nghiệp có tình trạng tài chính
tốt, khả năng huy động vốn là lớn sẽ cho phép doanh nghiệp có nhiều vốn để mở
rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị, đồng thời
tăng khả năng hợp tác đầu tư về liên doanh liên kết.Tình hình sử dụng vốn cũng
sẽ quyết định chi phí về vốn của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.
Nguồn lực về vật chất kỹ thuật:
Thông thường nguồn lực vật chất kỹ thuật thể hiện ở:
- Trình độ kỹ thuật công nghệ hiện tại của doanh nghiệp và khả năng có được
các công nghệ tiên tiến.
- Quy mô và năng lực sản xuất: Quy mô và năng lực sản xuất lớn giúp doanh
nghiệp tạo ra khối lượng sản phẩm lớn hơn, nhờ đó hạ được giá thành sản phẩm,
hơn nữa nó tạo ra nhiều cơ hội tiếp xúc với khách hàng hơn,giúp doanh nghiệp
hiểu rõ khách hàng từ đó có thể chiếm lĩnh hoặc giữ vững thị trường trên nhiều
lĩnh vực khác nhau, tránh sự xâm nhập của đối thủ cạnh tranh.
Tuy nhiên để đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp
phải có quy mô sản xuất và mức sử dụng công suất ít nhất phải gần bằng công
suất thiết kế. Nếu sử dụng công suất thấp sẽ gây lãng phí và lúc đó chi phí cố
định vào giá thành sản phẩm cao làm cho khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
giảm.
Trình độ tổ chức quản lý
Trình độ tổ chức quản lý được thể hiện thông qua cơ cấu tổ chức, bộ máy
quản trị, hệ thống thông tin quản lý, bầu không khí và đặc biệt là nề nếp hoạt
động của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp biết tập hợp sức mạnh đơn lẻ của các thành viên và
biến thành sức mạnh tổng hợp thông qua tổ chức doanh nghiệp đó sẽ tận dụng
được những lợi thế tiềm ẩn của tổ chức mình. Đây là một đòi hỏi đối vớic các
nhà quản trị cấp cao. Không thể nói doanh nghiệp có được một cấu trúc tốt nếu
không có một sự nhất quán trong cách nhìn nhận về cơ cấu doanh nghiệp.
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A18
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Một cơ cấu tốt đồng nghĩa với việc có được một cơ cấu phòng ban hợp lý,
quyền hạn và trách nhiệm được xác định rõ ràng. Bên cạnh đó ở mỗi phòng ban
việc thực hiện tốt nề nếp tổ chức cũng ảnh hưởng rất lớn tới phương thức thông
qua quyết định của nhà quản trị, quan điểm của họ đối với các chiến lược và
điều kiện môi trường của doanh nghiệp. Một nề nếp tốt có thể dẫn dắt mọi người
tích cực hơn trong công việc và lôi cuốn họ vào quá trình đạt tới những mục tiêu
chung của doanh nghiệp.
Hoạt động Marketing.
Ngày nay Marketing là một hoạt động không thể thiếu cho sự tồn tại và
phát triển của mỗi doanh nghiệp. Ở đây nhiệm vụ chính là phân tích các nhu cầu
thị hiếu, nhu cầu thị trường và hoạch định các chiến lược hữu hiệu về sản phẩm,
giá cả, giao tiếp và phân phối phù hợp với thị trường mà doanh nghiệp đang
vươn tới từ đó xây dựng mạng lưới phân phối với số lượng, phạm vi và mức độ
kiểm soát phù hợp đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng nhanh nhất. Có thể nói
để tạo ra sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường hoạt động Marketing
là một yếu tố không thể thiếu.
2. Các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá.
Sản phẩm.
Đây cũng là một chỉ tiêu phản ánh sức cạnh tranh của hàng hoá doanh
nghiệp. Một doanh nghiệp khi thâm nhập vào một thị trường có thể với một sản
phẩm hoặc nhiều sản phẩm. Nếu sản phẩm và cơ cấu sản phẩm của doanh
nghiệp phù hợp với nhu cầu thị trường thì sẽ làm tăng sức cạnh tranh các mặt
hàng của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp cần phải luôn hoàn thiện sản phẩm bằng cách đưa ra sự
thay đổi lớn những sản phẩm sẵn có, mở rộng chủng loại sản phẩm của doanh
nghiệp, rập mẫu, bắt chước những sản phẩm đã có trên thị trường của doanh
nghiệp khác, cải tiến mẫu mã, đồng thời doanh nghiệp cũng cần nghiên cứu các
sản phẩm mới nhằm phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá. Đa dạng
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A19
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
hoá sản phẩm không chỉ là để đảm bảo đáp ứng được nhu cầu thị trường, thu
nhiều lợi nhuận mà còn là biện pháp phân tán rủi ro trong kinh doanh khi cạnh
tranh trên thị trường ngày càng khốc liệt.
Do vậy, sản phẩm và cơ cấu sản phẩm tối ưu là một trong những yếu tố
quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, đồng thời
cũng quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp.
Giá thành và giá cả.
Giá thành của sản phẩm là giá trị của tất cả các yếu tố đầu vào hình thành
nên sản phẩm như: nguyên vật liệu, nhân công, công nghệ sản xuất...Từ giá
thành của sản phẩm sẽ xác định được giá bán trên thị trường. Do vậy, muốn có
giá bán sản phẩm thấp thì doanh nghiệp phải tìm các hạ giá thành tức là phải tận
dụng hợp lý các nguồn lực sẵn có như tài nguyên phong phú nguồn nhân lực dồi
dào, đồng thời đổi mới thiết bị và công nghệ sản xuất, nâng cao hiệu quả quản
lý...có như vậy mới hạ được giá thành sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh của
hàng hoá.
Giá của một sản phẩm trên thị trường được hình thành thông qua quan hệ
cung cầu tức là thông qua sự thoả thuận giữa người mua và người bán để đi tới
mức giá mà cả hai bên đều thấy có lợi và chấp nhận được. Trong nền kinh tế thị
trường có sự cạnh tranh của các doanh ngghiệp thì khách hàng có quyền lựa
chọn cho mình sản phẩm tốt nhất và cùng một loại sản phẩm thì chắc chắn họ sẽ
lựa chọn sản phẩm có giá bán thấp hơn. Vì vậy giá cả là công cụ cạnh tranh hữu
hiệu trên thị trường. Doanh nghiệp có thể định giá bán thấp, bằng hoặc cao hơn
giá thị trường. Để chiếm ưu thế trong cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải có sụ
lựa chọn các chính sách giá thích hợp cho từng loại sản phẩm từng giai đoạn
trong chu kỳ sống của sản phẩm hay tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng vùng thị
trường.
Chất lượng sản phẩm.
Ngày nay, do đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao nên người tiêu
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A20
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
dùng yêu cầu rất cao về chất lượng sản phẩm. Họ sẵn sàng trả giá cao hơn cho
những sản phẩm cùng loại có chất lượng tốt hơn hẳn. Vì vậy, chất lượng sản
phẩm là chỉ tiêu quan trọng nhất biểu hiện khả năng cạnh tranh hàng hoá của
doanh nghiệp.
Chất lượng sản phẩm là hệ thống nội tại của sản phẩm được xác định bằng
các thông số kỹ thuật có thể được đo lường hoặc so sánh được nhằm thoả mãn
yêu cầu của người tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khâu
thiết kế đến khâu sản xuất và ngay cả sau khi tiêu thụ hàng hoá và chịu tác động
của nhiều yếu tố: máy móc thiết bị, nguyên vật liêu, trình độ tay nghề của người
lao động, trình độ quản lý, hệ thống dịch vụ khách hàng...
Chất lượng sản phẩm thể hiện tính quyết định khả năng cạnh tranh hàng
hoá của doanh nghiệp ở chỗ:
- Chất lượng sản phẩm tăng sẽ làm tăng giá trị và giá trị sử dụng của sản
phẩm.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng
khối lượng sản phẩm bán ra và kéo dài chu kỳ sống cuỉa sản phẩm, từ đó làm
tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Sản phẩm có chất lượng cao sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp từ đó thị
phần của doanh nghiệp sẽ được mở rộng.
Vì thế, vấn đề chất lượng sản phẩm là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với
một doanh nghiệp bởi vì chất lượng sản phẩm thấp cũng đồng nghĩa với việc
giảm uy tín, mất khách hàng và nhanh chóng phá sản. Điều này càng quan trọng
hơn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì họ phải đương đầu với các công ty
đa quốc gia có vốn lớn, có tiềm lực về công nghệ, kinh nghiệm và uy tín từ rất
lâu.
Dịch vụ.
Dịch vụ cũng là một chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm
này so với sản phẩm khác. Dịch vụ là một công cụ cạnh tranh hết sức phổ biến
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A21
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
trên thị trường quốc tế, đó có thể là dịch vụ trước khi bán, dịch vụ bán hàng tận
nơi cho khách hàng, dịch vụ sau bán hàng... Cạnh tranh bằng dịch vụ ngày càng
được sử dụng phổ biến hơn và đa dạng hơn, nhất là khi lĩnh vực dịch vụ đang
tăng dần tỷ trọng trong cơ cấu nền kinh tế. Cạnh tranh bằng dịch vụ có hiệu quả
rất cao vì khi đó khách hàng thấy mình được tôn trọng hơn và do đó họ sẽ cảm
tình với sản phẩm và doanh nghiệp.
Uy tín của doanh nghiệp.
Uy tín của doanh nghiệp được hình thành dựa trên chất lượng, giá trị sử
dụng của sản phẩm các dịch vụ sau bán hàng, thời gian giao hàng, quy mô của
doanh nghiệp...Một doanh nghiệp có uy tín với khách hàng thì đồng nghĩa với
việc có được lợi thế trong cạnh tranh. Khách hàng khi đó tin rằng sản phẩm của
doanh nghiệp có chất lượng cao, dịch vụ sau bán hàng tốt...Do đó sản phẩm của
doanh nghiệp khi đưa ra thị trường có thể nhanh chóng thu hút được người tiêu
dùng. Điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm một phần chi phí cho việc thu
hút khách hàng, khách hàng sẽ trung thành với doanh nghiệp hơn.
III. CÁC CÔNG CỤ VÀ PHƯƠNG THỨC ĐỂ NÂNG CAO KHẢ NĂNG
CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM.
1. Các công cụ cạnh tranh phổ biến.
Chất lượng hàng hoá.
Đây là một công cụ cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường. Người tiêu dùng thường quan tâm đến chất lượng khi lựa chọn một sản
phẩm nào đó, họ sẵn sàng trả giá cao hơn để có được một sản phẩm chất lượng
tốt hơn. Thông thường cạnh tranh về sản phẩm thể hiện chủ yếu qua những mặt
sau:
Cạnh tranh về trình độ sản phẩm: Chất lượng sản phẩm, tính hữu dụng của
sản phẩm, bao bì. Tuỳ theo những sản phẩm khác nhau mà ta lựa chọn những
nhóm chỉ tiêu khác nhau có tính chất quyết định trình đọ của sản phẩm.
Cạnh tranh về chất lượng: Tuỳ theo từng sản phẩm khác nhau với các đặc
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A22
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
điểm khác nhau để ta lựa chọn chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm khác
nhau, càng tạo ra nhiều lợi thế cho chỉ tiêu này thì sản phẩm càng có nhiều cơ
hội giành thắng lợi trên thị trường.
Cạnh tranh về bao bì: Cùng với việc thiết kế bao bì cho phù hợp, doanh
nghiệp còn phải lựa chọn cơ cấu sản phẩm cho phù hợp. Cơ cấu thường thay đổi
theo sự thay đổi của thị trường, đặc biệt là những cơ cấu có xu hướng phù hợp
với nhu cầu của người tiêu dùng.
Cạnh tranh về nhãn mác, uy tín sản phẩm: Đây là công cụ mà doanh
nghiệp sử dụng để đánh vào trực giác của người tiêu dùng.
Cạnh tranh do khai thác hợp lý chu kì sống của sản phẩm: Sử dụng biện
pháp này doanh nghiệp cần phải có những quyết định sáng suốt để đưa ra một
sản phẩm mới hoặc dừng việc cung cấp một sản phẩm đã lỗi thời.
Giá cả hàng hoá.
Giá là một công cụ quan trọng trong cạnh tranh thường được sử dụng
trong giai đoạn đầu của doanh nghiệp khi doanh nghiệp bước vào một thị trường
mới. Cạnh tranh về giá thường được thể hiện qua các biện pháp sau:
- Kinh doanh với chi phí thấp
- Bán với mức giá hạ và mức giá thấp.
Mức giá có vai trò cực kỳ quan trọng trong cạnh tranh. Nếu như chênh
lệch giá giữa doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh thì lớn hơn chênh lệch về giá
trị sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh thì doanh
nghiệp đã đem lại lợi ích cho người tiêu dùng lớn hơn so với đối thủ cạnh tranh.
Vì lẽ đó sản phẩm của doanh nghiệp sẽ ngày càng chiếm được lòng tin của
người tiêu dùng, điều đó sẽ đưa doanh nghiệp lên vị trí cạnh tranh ngày càng
cao.
Để đạt được mức giá thấp doanh nghiệp cần xem xét khả năng hạ giá sản
phẩm của doanh nghiệp mình, khả năng đó phụ thuộc vào:
- Chí phí về kinh tế thấp.
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A23
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
- Khả năng bán hàng tốt, do có khối lượng bán lớn.
- Khả năng về tài chính tốt
Như đã trình bày ở trên, hạ giá thành là phương pháp cuối cùng mà doanh
nghiệp sẽ thực hiện trong cạnh tranh bởi hạ giá thành ảnh hưởng trực tiếp tới lợi
nhuận của doanh nghiệp.Vì vậy doanh nghiệp cần phải lựa chọn thời điểm để
tiến hành sử dụng giá cả làm vũ khí cạnh tranh. Như thế doanh nghiệp phải biết
kết hợp nhuần nhuyễn giữa giá cả và các bộ phận về chiết khấu với những
phương pháp bán mà doanh nghiêp đang sử dụng, với những phương pháp thanh
toán, với xu thế, trào lưu của người tiêu dùng.
Đồng thời, do đặc điểm ở từng vùng thị trường khác nhau là khác nhau
nên doanh nghiệp cũng cần phải có những chính sách giá hợp lý ở từng vùng thị
trường.
Một điểm nữa doanh nghiệp cần phải quan tâm là phải kết hợp giữa giá cả
của sản phẩm với chu kỳ sản phẩm đó, việc kết hợp này cho phép doanh nghiệp
khai thác được tối đa khả năng tiêu thụ của sản phẩm, cũng như không bị mắc
vào những lỗi lầm trong việc khai thác chu kì sống, đặc biệt là các sản phẩm
đang đứng trước sự suy thoái.
Cạnh tranh về phân phối và bán hàng.
Cạnh tranh về phân phối và bán hàng được thể hiện qua các nội dung chủ
yếu sau:
- Khả năng đa dạng hoá các kênh và chọn được các kênh chủ lực. Ngày nay các
doanh nghiệp thường có cơ cấu sản phẩm rất đa dạng, với mỗi sản phẩm có một
kênh phân phối khác nhau.Việc phân định đâu là kênh phân phối chủ lực có ý
nghĩa quyết định trong việc tối thiểu hóa chi phí dành cho tiêu thụ sản phẩm.
- Tìm được những người điều khiển đủ mạnh. Đối với các doanh nghiệp sử
dụng các đại lý độc quyền thì phải xem xét đến sức mạnh của các doanh nghiệp
thương mại làm đại lý cho doanh nghiệp. Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng, có vốn lớn và đủ sức chi phối được lực lượng bán hàng trong kênh trên thị
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A24
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
trường
- Có hệ thống bán hàng phong phú. Đặc biệt là hệ thống các kho, các trung tâm
bán hàng. Các trung tâm này phải có được cơ sở vật chất hiện đại.
- Có nhiều biện pháp để kết dính các kênh lại với nhau. Đặc biệt là những biện
pháp quản lý và điều khiển người bán.
- Có khả năng hợp tác giữa người bán trên thị trường nhất là trên các thị trường
lớn.
- Có các dịch vụ bán hàng và sau bán hàng hợp lý.Kết hợp hợp lý giữa phương
thức bán hàng và phương thức thanh toán.
Các dịch vụ bán và sau khi bán chủ yếu là:
- Tạo ra các điều kiện thuận lợi nhất trong khi thanh toán.
- Có chính sách tài chính và tiền tệ hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mua
bán với khách hàng.
- Có hệ thống thanh toán nhanh, hợp lý vừa tạo điều kiện thanh toán nhanh vừa
đảm bảo công tác quản lý của doanh nghiệp.
- Có phương tiện bán văn minh, các phương tiện tạo ưu thế cho khách hàng, tạo
điều kiện để có công nghệ bán hàng đơn giản hợp lý. Nắm được phản hồi của
khách hàng nhanh nhất và hợp lý nhất.
- Bảo đảm lợi ích của người bán và người mua, người tiêu dùng tốt nhất và
công bằng nhất. Thường xuyên cung cấp những dịch vụ sau khi bán cho người
sử dụng, đặc biệt là những sản phẩm có bảo hành hoặc hết thời gian bảo hành.
Hình thành mạng lưới dịch vụ rộng khắp ở những địa bàn dân cư.
Hình ảnh nhãn hiệu sản phẩm và công ty .
Trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp sử dụng nhiều biện pháp
nhằm giành giật khách hàng về phía mình, đặc biệt thực hiện linh hoạt trong
khâu hợp đồng, thanh toán như: quy ước về giá cả, số lượng, kích cỡ, mẫu mã
bằng văn bản hoặc bằng miệng hay thanh toán với các hình thức như bán trả
góp, bán chịu, bán gối đầu... Những hành vi này sẽ thực hiện được tốt hơn khi
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A25
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
giữa doanh nghiệp và khách hàng có lòng tin với nhau. Do vậy chữ tín trở thành
công cụ sắc bén trong cạnh tranh, nó tạo ra cơ hội cho những người ít vốn có
điều kiện tham gia kinh doanh, do đó mở rộng được thị phàn hàng hoá, tạo ra
sức mạnh cho doanh nghiệp.
2. Các phương thức để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Chính sách về sản phẩm.
Sản phẩm – hàng hoá là tất cả những các những yếu tố có thể làm thoả
mãn nhu cầu hay ước muốn của khách hàng, cống hiến những lợi ích cho họ và
có khả năng đưa ra chào bán trên thị trường với mục đích thu hút sụ chú ý mua
sắm, sử dụng hay tiêu dùng.
Căn cứ vào điều kiện tình hình của công ty công ty có thể đưa ra các
chính sách về sản phẩm. Công ty có thể sử dụng một số chính sách sau
- Tìm kiếm những công dụng mới cho sản phẩm.
Việc tìm kiếm các công dụng mới cho sản phẩm có thể được căn cứ sau:
Những ứng dụng liên quan của sản phẩm tức là những tính năng công dụng mới
của sản phẩm trên thị trường
Những các thức sử dụng sản phẩm khác nhau khi kết hợp với một sản phẩm
khác.
Khả năng áp dụng các sản phẩm tiêu dùng đại trà cho thị trường công nghiệp và
ngược lại
Liệt kê những thuộc tính tối thiểu của sản phẩm hay các thành phần có gợi ý
những công dụng mới.
- Tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm.
Tiêu chuẩn hoá kỹ thuật của sản phẩm có ảnh hưởng sống còn tới khả
năng thâm nhập thị trường của một doanh nghiệp. Dù doanh nghiệp có thể đã cố
gắng rất nhiều để đảm bảo về mặt giá cả thời hạn giao hàng nhưng nêú sản phẩm
ấy không đáp úng tiêu chuẩn kỹ thuật của thị trường thì sản phẩm đó cũng
không được chấp nhận. Nhận thức được điều này, các doanh nghiệp luôn có
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A26
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
gắng phấn đấu sản xuất các sản phẩm đạt được tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn
kỹ thuận của từng thị trường
- Đa dạng hoá chủng loại hàng hoá.
Cùng với việc tiến hành tìm kiếm những công dụng mới cho sản phẩm, công ty
tiến hành nghiên cứu tạo ra các loại sản phẩm mới nhằm đáp ứng nhu cầu đa
dạng của thị trường tìm kiếm đoạn thị trường mới, khách hàng mới
Giá cả.
Mặc dù nhìn chung trên thị trường thế giới cạnh tranh giá đã từng bước
chuyển sang cạnh tranh về chất lượng sản phẩm và thời hạn giao hàng nhưng
nhiều lúc nhiều nơi và nhiều lĩnh vực cạnh tranh giá cả vẫn diễn ra rất gay gắt.
Giá cả là lĩnh vực thể hiện sự cạnh tranh giành lợi ích kinh tế và vị trí độc quyền
của các doanh nghiệp. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm các công
ty sử dụng một số phương thức sau:
Chiết giá và bớt giá.
Để khuyến khích khách hàng mua và thanh toán, các công ty có thể điều
chỉnh mức giá cơ bản của mình và được gọi là hình thức chiết giá và bớt giá.
- Chiết giá vì mua số lượng lớn đó là việc giảm giá cho những người mua,
những khối lượng lớn trong một lần mua hoặc trong một thời gian nhất định.
Loại chiết khấu này khuyến khích người mua gia tăng khối lượng của một hợp
đồng và mua tập trung nhiều lần ở một người bán.
- Chiết khấu chức năng (chiết khấu thương mại) là loại chiết giá người sản
xuất áp dụng cho các thành viên trong kênh phân phối. Phần chiết giá này phải
bao gồm 2 bộ phận: chi phí mà các thành viên trong kênh phân phối phải bỏ ra
để tiến hành các hoạt động phân phối hàng hoá theo chức năng của họ và lãi
thoả đáng cho những nỗ lực và gánh chịu rủi ro của những thành viên trong
kênh phân phối.
- Chiết khấu thời vụ là việc giảm giá cho những khách hàng mua hàng hoặc
dịch vụ trái vụ.
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A27
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
- Chiết giá khuyến khích việc thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán nhanh.
- Bớt giá là việc giảm giá bán so với biểu gia đã quy định.
Định giá khuyến mại là hình thức điều chỉnh giá bán tạm thời nhằm mục đích
hỗ trợ cho các hoạt đông súc tiến bán hàng bao gồm một số hình thức sau:
- Định giá để nôi kéo khách hàng.
- Định giá cho những đợt bán hàng đặc biệt.
- Giá trả góp bán hàng theo phiếu mua hàng
- Chiết giá về tâm lý
Định giá phân biệt Các công ty có thể điều chỉnh mức giá cơ bản để phù hợp
với những điều kiện khác biệt của khách hàng, của sản phẩm hoặc của những
yếu tố khác chứ không phải vì chi phí.
Chính sách khuyếch trương sản phẩm
Khuyếch trương bao gồm nhiềm hoạt động khác nhau nhằm mục đích
cung cấp và truyền thông tin về sản phẩm, về lợi ích của nó đến người cung cấp,
khách hàng và người sử dụng cuối cùng để tạo ra và phát triển nhận thức, sự
hiểu biết và lòng ham muốn mua hàng của người mua và người tiêu thụ. Hoạt
động khuyếch trương sản phẩm gồm các phương thức sau:
Quảng cáo là một kiều truyền thông có tính đại chúng, mang tính xã hội cao.
Nó yêu cầu hàng hoá phải hợp pháp và được mọi người chấp nhận. Quảng cáo là
một phương tiện có khả năng thuyết phục, tạo cơ hội cho người nhận tin so sánh
thông tin với các đối thủ cạnh tranh làm tăng tính thuyết phục với khách hàng
mục tiêu.
Với ngôn ngữ quảng cáo phong phú đa dạng, phương tiện quảng cáo phổ
cập và tiện lợi, quảng cáo mở ra khả năng giới thiệu hàng hoá của công ty, dịch
vụ bán ra cũng như uy tín thế lực của công ty một cách hiệu quả và trực diện.
Các phương tiện quảng cáo các công ty thường sử dụng là báo, tạp chí, ti vi,
rađio, ngoài ra các công ty còn quảng cáo qua panô áp phích, qua catalog, qua
thư bao bì, qua sản phẩm khác và qua truyền miệng, telemarketing, computer
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A28
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
marketing v.v. Mỗi loại phương tiện đều có những lợi thế và tác dụng nhất định.
Xúc tiến bán hàng là nhóm công cụ truyền thông sử dụng hỗn hợp các công
cụ cổ động, kích thích khách hàng nhằm tăng nhanh nhu cầu về sản phẩm tại
chỗ tức thì. Thực chất đây là các công cụ kích thích để thúc đẩy các khâu: cung
ứng, phân phối và tiêu dùng đối với một hoặc một nhóm các sản phẩm của công
ty.Các hình thức chủ yếu của xúc tiến bán hànglà:
- Thay đổi hình thức sản phẩm: những thay đổi về bao gói, cách đóng mở, thay
đổi nhãn hiệu hay các biện pháp khác làm cho sản phẩm hấp dẫn hơn đối với
người mua.
- Khuyến khích mua hàng: đó là các biện pháp khuyến khích thông qua các
hình thức thanh toán bằng tiền mặt, hàng hoá hoặc bằng bất cứ thứ gì khác để
tạm thời tăng giá trị sản phẩm đối với người phân phối hoặc người tiêu thụ.
Phương pháp nay bao gồm bớt tiền cho người mua nhiều, hạ giá tạm thời, bán
trả góp, thưởng cho người mua nhiều bằng một sản phẩm khác.
- Trưng bày các tài liệu về sản phẩm tại điểm bán.
- Các mẫu hàng.
Các hoạt động yểm trợ sản phẩm đây là những hoạt động liên quan đến các
dịch vụ sản phẩm và thông tin mà nhà sản xuất cung cấp thêm cho người sử
dụng sản phẩm của họ. Những dịch vụ chủ yếu là:
- Catalog
- Xuất bản phẩm về doanh nghiệp
- Phim ảnh.
Xây dựng các mối liên hệ với công chúng đây là những hoạt động yểm trợ
quan trọng, bao gồm nhiềm hoạt động phong phú và đa dạng chủ yếu là:
- Quan hệ báo chí.
- Triển lãm hội chợ và phòng trưng bày.
IV. TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA DOANH NGHIỆP:
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A29
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
1. Tính tất yếu của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Ở nước ta trước đây với cơ chế tập trung bao cấp, nhà nước giữ vai trò
chủ đạo trong tất cả mọi vấn đề, từ cấp vốn, nguyên vật liệu cho tới phân phối
và tiêu thụ. Như vậy các doanh nghiệp Nhà nước không phải lo cạnh tranh với
một đối thủ nào bởi khi đó các thành phần kinh tế khác chưa được phát triển
rộng raĩ. Vì các nguyên nhân trên mà trong thời kỳ bao cấp cạnh tranh hầu như
không có, các doanh nghiệp Nhà nước thì rất thụ động. Chuyển sang nền kinh tế
thị trường cùng với sự phát triển sản xuất kinh doanh, mọi thành phần kinh tế
đều bình đẳng với nhau trước pháp luật thì phần lớn các doanh nghiệp này đều
không thích nghi nổi với môi trường mới, không cạnh tranh nổi với các thành
phần kinh tế, làm ăn thua lỗ và đi vào phá sản. Điều này cho thấy khi bước sang
một cơ chế mới: cơ chế thị trường thì các doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh
tế đều phải tìm mọi cách để cạnh tranh nhằm tồn tại. Có thể nói cạnh tranh là
một tất yếu của nền kinh tế thị trường, là áp lực buộc các doanh nghiệp phải tìm
giải pháp để nâng cao năng suất lao động, đưa ra thị trường những sản phẩm có
chất lượng và giá cả hợp lý. Do đó cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sẽ ngày
càng mạnh mẽ và khốc liệt hơn.
2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Như ta đã biết trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là một tất yếu khách
quan. Mỗi doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường cần phải chấp nhận cạnh
tranh, tuân theo quy luật cạnh tranh cho dù đôi khi cạnh tranh cũng trở thành con
dao hai lưỡi. Một mặt nó đào thải không thương tiếc các doanh nghiệp có chi phí
cao, chất lượng sản phẩm tồi, tổ chức tiêu thụ kém, mặt khác nó buộc các doanh
nghiệp phải không ngừng phấn đấu giảm chi phí để giảm giá bán sản phẩm,
hoàn thiện giá trị sử dụng của sản phẩm, tổ chức hệ thống tiêu thụ sản phẩm.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khoa học kỹ thuật phát triển, kinh tế
phát triển trên nhu cầu tiêu dùng nâng lên ở mức cao hơn rất nhiều, để đáp ứng
kịp thời nhu cầu này các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao năng lực
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A30
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
cạnh tranh thông qua các yếu tố trực tiếp như giá cả, chất lượng, uy tín ... Hay
các yếu tố gián tiếp như hoạt động quảng cáo, hội chợ, các dịch vụ sau bán...
Hơn nữa trong một nền kinh tế mở như hiện nay các đối thủ cạnh tranh không
chỉ là các doanh nghiệp trong nước mà còn là các doanh nghiệp, công ty nước
ngoài có vốn đầu tư cũng như trình độ công nghệ cao hơn hẳn thì việc nâng cao
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam là một tất yếu khách quan
cho sự tồn tại và phát triển.
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A31
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NÂNG CAO SỨC CẠNH
TRANH SẢN PHẨM XUẤT KHẨU CÔNG TY DỆT
MAY HÀ NỘI.
I. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY
1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty.
Công ty dệt may Hà Nội là một công ty lớn thuộc Tổng Công ty dệt may
Việt Nam, hạch toán kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, tự chủ về tài chính,
có con dấu riêng và hoạt động theo luật doanh nghiệp.
Tên Tiếng Việt : Công ty dệt may Hà Nội
Tên Tiếng Anh : Hà NỘI Textile and Garment Company
Tên Viết Tắt : Hanosimex
Địa Điểm : Số 1 – Mai Động, Quận Hai Bà Trưng, TP.Hà Nội
Số điện thoại : 84-04-8621024 ; 8621470; 8624611.
Số Fax : 84-04-8622334.
Website : www.hanosimex.com.vn.
Tên gọi trước đây của công ty dệt may Hà Nội là nhà máy sợi Hà Nội
hoặc xí nghiệp liên hiệp sợi dệt kim Hà Nội, công ty dệt Hà Nội.
- Ngày 7 tháng 4 năm 1978 tổng công ty nhập khẩu thiết bị Việt Nam và hãng
Unionmatex (Cộng Hoà Liên Bang Đức) chính thức ký hợp đồng xây dựng nhà
máy sợi Hà Nội .
- Tháng 2 năm 1979 khởi công xây dựng nhà máy .
- Tháng 1-1982: lắp đặt thiết bị.
- Ngày 21 tháng 11 năm 1984 chính thức bàn giao công trình cho nhà máy
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A32
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
quản lý điều hành (gọi tên là nhà máy sợi Hà Nội).
- Tháng 12 năm 1989 đầu tư xây dựng dây chuyền Dệt Kim số I. Tháng 6 năm
1990 đưa vào sản xuất.
- Tháng 4 năm 1990 Bộ Kinh Tế Đối Ngoại cho phép nhà máy được kinh
doanh xuất nhập khẩu trực tiếp (tên giao dịch viết tắt là HANOSIMEX).
- Tháng 4 năm 1991 Bộ Công Nghiệp nhẹ quyết định chuyển tổ chức và hoạt
động nhà máy Sợi Hà Nội thành Xí Nghiệp Liên Hiệp Sợi –Dệt Kim Hà Nội
- Tháng 6 năm 1993 xây dựng dây chuyền dệt kim số II, tháng 3 năm 1994 đưa
vào sản xuất .
- Ngày 19 tháng 5 năm 1994 khánh thành Nhà máy Dệt Kim (cả hai dây
chuyền I và II).
- Tháng 10 năm 1993 Bộ Công Nghiệp nhẹ quyết định sáp nhập nhà máy sợi
Vinh (tỉnh Nghệ An) và Xí Nghiệp Liên Hợp .
- Tháng 1 năm 1995 khởi công xây dựng nhà máy may thêu Đông Mỹ .
- Tháng 3 năm 1995 Bộ Công Nghiệp nhẹ quyết định sáp nhập công ty dệt Hà
Đông và Xí Nghiệp Liên Hợp .
- Tháng 6 năm 1995 Bộ Công Nghiệp nhẹ quyết định đổi Xí Nghiệp Liên Hợp
thành Công ty dệt Hà Nội .
- Ngày 2 tháng 9 năm 1995 khánh thành nhà máy may thêu Đông Mỹ .
- Trong năm 2000 một lần nữa công ty dệt Hà Nội được Bộ Công Nghiệp nhẹ
đổi tên thành công ty dệt may Hà Nội (theo quyết định số 103/QĐ/HĐQT ngày
28/2/2000 của chủ tịch hội đồng quản trị tổng công ty dệt may Việt Nam).
- Công ty sản xuất kinh doanh trên các lĩnh vực: sợi, dệt, nhuộm, in, trao đổi
và buôn bán hàng dệt, may. Bao gồm các loại sản phẩm có chất lượng cao:
Sợi Cotton, Sợi Peco, Sợi PE.
Các loại vải dệt kim : Rib, Interlok, Single.
Các sản phẩm may mặc lót, mặc ngoài bằng vải dệt kim.
Các loại vải dệt thoi, các sản phẩm may mặc bằng vải dệt thoi.
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A33
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Các loại khăn bông.
Mũ và lều vải.
- Công ty chuyên nhập các loại bông, xơ, phụ tùng thiết bị chuyên ngành, hoá
chất, thuốc nhuộm.
- Các hoạt động thương mại - dịch vụ .
- Sản phẩm của công ty được xuất khẩu sang các nước Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapore, ÚC, Thái Lan, Hồng Kông, Đài Loan, Thụy Điển, Tiệp Khắc, Nam
Phi, khu vực EU. Trong đó nhiều nhất là Nhật Bản chiếm 50% doanh thu xuất
khẩu. Đại lý bán buôn bán lẻ của công ty có mặt khắp cả nước đặc biệt là các
thành phố lớn như Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng.
Công ty dệt may Hà Nội coi chất lượng là mục tiêu hàng đầu trong quá
trình sản xuất kinh doanh, luôn đặt ra cho mình có nhiệm vụ thoả mãn mọi yêu
cầu của khách hàng. Duy trì nâng cao chất lượng đã đặt ra. Công ty áp dụng tiêu
chuẩn ISO- 9002 tại nhà máy sợi, nhà máy dệt nhuộm, nhà máy may I, nhà máy
may II và các phòng ban chức năng của công ty.
Công ty luôn duy trì và sản xuất, đạt hiệu quả kinh tế cao. Luôn mở rộng
các hình thức kinh doanh mua bán, gia công, trao đổi hàng hoá, sẵn sàng hợp tác
cùng các bạn hàng trong nước và ngoài nước để đầu tư thiết bị hiện đại, khoa
học công nghệ mới nhằm nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm .
Với thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến trình độ quản lý giỏi, đội ngũ cán
bộ có năng lực cao, đội ngũ công nhân lành nghề, sản phẩm của công ty luôn đạt
chất lượng cao, được tặng nhiều huy chương vàng và bằng khen tại các hội chợ
triển lãm kinh tế .
- Qua hơn 10 năm sản xuất kinh doanh, công ty đã đạt được công xuất thiết kế
10.000 tấn sợi/ năm, 7 triệu sản phẩm may/ năm, 6,5 triệu khăn bông/ năm. Chất
lượng sản phẩm được nâng cao và duy trì được tiêu chuẩn quốc tế ISO 9002.
2.Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty; chức năng nhiệm vụ của công ty và
các phòng ban .
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A34
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Sơ đồ cơ cấu bộ máy quản lý của công ty.
Công ty có tổng số nhân viên 4988 người hoạt động tại các trụ sở, các nhà
máy, các đại lý bán hàng, chủ yếu tập trung tại Hà Nội, Hà Tây và Vinh với tổng
diện tích mặt bằng là 24ha.
Văn phòng chi nhánh ở Thành Phố Hồ Chí Minh mới được thành lập ngày
3 tháng 12 năm 2001
Đứng đầu là tổng giám đốc công ty, là người chịu trách nhiệm trước Nhà
Nước, trước cấp trên, cơ quan chủ quản của mình về mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh của công ty, tổ chức đời sống và mọi hoạt động của công ty theo luật
doanh nghiệp Nhà nước.
Tổng giám đốc điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
theo các nội quy, quy chế thể chế, nghị quyết được ban hành trong công ty, các
quy định thể chế của Bộ Công Nghiệp nhẹ và các chế độ chính sách của Nhà
Nước.
Dưới tổng giám đốc có 4 phó tổng giám đốc, có nhiệm vụ tham mưu
chính cho tổng giám đốc, giúp tổng giám đốc trong việc điều hành sản xuất kinh
doanh của công ty theo sự phân công uỷ quyền, chịu trách nhiệm trước tổng
giám đốc, trước pháp luật về những công việc được phân công. Căn cứ vào quy
chế của công ty thường xuyên hướng dẫn đôn đốc, kiểm tra các đơn vị thực hiện
nghiêm túc và báo cáo tổng giám đốc công ty về những phần việc được phân
công phụ trách.
Để giúp tổng giám đốc trong công tác quản lý điều hành công ty, ngoài
các phó tổng giám đốc còn có các phòng ban tham mưu nghiệp vụ, các nhà máy
phân xưởng được giao nhiệm vụ cụ thể và phải chịu trách nhiệm trước tổng
giám đốc công ty về những nhiệm vụ đã được giao.
Cơ cấu tổ chức của công ty theo kiểu trực tuyến đã giúp cho công ty sử
dụng khá tốt khả năng chuyên môn của các thành viên. Đồng thời điều đó giúp
cho công ty nhanh chóng nắm bắt được những thay đổi trên thị trường cũng như
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A35
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
trong kinh doanh qua đó có thể thực hiện được các hoạt động kinh doanh có hiệu
quả hơn.
Cơ cấu tổ chức của công ty theo mô hình trực tuyến.
Sơ đồ 1: Sơ đồ tổ chức
Tổng giám đốc
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A36
PHÓ
TỔNG GIÁM ĐỐC II
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC I
PHÒNGKẾ TOÁN –TÀI CHÍNH
Phó
tổng
GIÁM ĐỐC III
Phó
tổng
Giám
đốc
Trung
tâm
TN
Nhà MáyDệt Nhuộm
Nhà Máy May 1
Nhà Máy May 2
Nhà MáyMayĐông Mỹ
Nhà Máy Cơ Điện
Ban
CBSX
Nhà Máy
Phòng kỹ thuật đầu tư
Nhà Máy
Sợi
Nhà Máy Dệt vải Denim
Các Nhà Máy Dệt Sợi Khác
Phòng Xuất Nhập Khẩu
Phòng Kế hoạch Thị trường
Phòng Tổ Chức Hành Chính
Phòng Đời Sống
Trung
Tâm Y Tế
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
(Nguồn: Phòng tổ chức hành chính)
Chức năng, nhiệm vụ
Chức năng, nhiệm vụ của Công ty
Công ty dệt may Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước có vai trò lớn như
các doanh nghiệp Nhà nước khác là định hướng phát triển cho các thành phần
kinh tế khác nhau. Ngoài ra, Công ty còn có nhiệm vụ chủ yếu như cung cấp
hàng tiêu dùng, may mặc trong nước, tạo công ăn việc làm, góp phần thúc đẩy
sự phát triển nền kinh tế đất nước trong công cuộc Công nghiệp hoá-Hiện đại
hoá đất nước và tiến trình hội nhập nền kinh tế nước ta với kinh tế khu vực và
kinh tế thế giới.
Công ty chuyên sản xuất kinh doanh các sản phẩm sợi đơn, sợi xe cho
chất lượng cao như sợi cotton, sợi peco, sợi PE, với chỉ số trung bình là 36/1 vì
mặt hàng sợi là thế mạnh của công ty.
Công ty còn sản xuất các loại vải dệt kim thành phẩm Rib, Interlock,
single, các sản phẩm may mặc bằng vải dệt kim, các loại vải dệt thoi và các sản
phẩm may mặc bằng vải dệt thoi, các loại khăn bông.
Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban và các nhà máy
Khối phòng ban chức năng
Các phòng ban thuộc khối điều hành công ty sẽ làm công tác nghiệp vụ,
triển khai nhiệm vụ đã được TGĐ duyệt xuống các nhà máy và các đơn vị liên
quan, đồng thời làm công tác tham mưu, cố vấn cho TGĐ về mọi mặt trong hoạt
động điều hành sản xuất kinh doanh giúp TGĐ ra các quyết định nhanh chóng,
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A37
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
chính xác để hoạt động sản xuất đạt hiệu quả cao. Đồng thời các phòng ban
trong công ty luôn có mối liên hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau để đảm bảo
cho việc sản xuất được xuyên suốt và thuận lợi.
* Phòng Tổ chức hành chính
+Tham mưu cho TGĐ về lĩnh vực tổ chức đào tạo, sắp xếp nhân sự, lao động
tiền lương, chế độ chính sách.
* Phòng Kế toán tài chính
+Tham mưu giúp việc cho TGĐ trong công tác kế toán tài chính nhằm sử dụng
đồng vốn hợp lý đúng mục đích, đúng chế độ, đảm bảo cho quá trình sản xuất
kinh doanh được duy trì liên tục và đạt hiệu quả kinh tế cao.
* Phòng Kế hoạch thương mại :
+Tham mưu, giúp TGĐ về các lĩnh vực như: nghiên cứu, dự đoán sự phát triển
của thị trường nội địa, đề ra hướng sản xuất sản phẩm may mặc, vải dệt kim, vải
dệt thoi, khăn bông của Công ty, đồng thời tổ chức tham gia các hoạt động tiếp
thị, khuyếch trương quảng cáo sản phẩm của Công ty trên thị trường cả nước.
* Phòng Xuất nhập khẩu
+Tìm kiếm khách hàng, thị trường trong và ngoài nước, tham mưu cho TGĐ
trong công tác nhập khẩu phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm, máy móc thiết bị phụ
tùng phục vụ cho công tác đầu tư phát triển và ổn định sản xuất của công ty
đồng thời xuất khẩu những sản phẩm của công ty ra nước ngoài bao gồm cả xuất
nhập khẩu uỷ thác cho các đơn vị khác.
* Phòng Kỹ thuật đầu tư
+Tham mưu giúp việc TGĐ về các lĩnh vực kỹ thuật sợi, dệt nhuộm, may, cơ
khí, động lực, kỹ thuật an toàn, vệ sinh môi trường, kỹ thuật xây dựng trong
phạm vi toàn công ty.
* Phòng kế hoạch - thị trường
+Tham mưu giúp việc TGĐ trong các lĩnh vực công tác như: đề ra các giải pháp,
xây dựng và điều hành việc thực hiện kế hoạch sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nội
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A38
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
địa và sản phẩm xuất khẩu; cung ứng và quản lý vật tư, sản phẩm của công ty;
thực hiện công tác marketing tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài nước cùng các
phế liệu của công ty.
* Phòng Đời sống
+ Phục vụ việc ăn uống cho cán bộ công nhân viên trong thời giờ làm việc tại
công ty.
+Quản lý cây xanh, vệ sinh mặt bằng toàn công ty.
* Phòng bảo vệ-quân sự
+ Kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ người và phương tiện ra vào, đi lại trong toàn
Công ty, tổ chức tuần tra canh gác bảo vệ kho tàng, nhà xưởng, toàn công ty
24h/24h.
Ngoài ra còn có: Trung tâm y tế và trung tâm thí nghiệm - kiểm tra chất lượng
sản phẩm.
Khối các nhà máy sản xuất
Mỗi nhà máy thành viên là một đơn vị sản xuất cơ bản của công ty và sản
xuất ra sản phẩm hoàn chỉnh. Trên cơ sở các dây chuyền sản xuất sản phẩm, các
nhà máy có chức năng sử dụng công nhân, tổ chức quản lý quá trình sản xuất,
thực hiện các định mức kinh tế-kỹ thuật, đảm bảo hiệu suất sản xuất tối đa, nâng
cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất làm việc của dây chuyền. Tất cả các
hoạt động trong quá trình sản xuất của cả nhà máy đều đặt dưới sự chỉ đạo của
Giám đốc(GĐ) nhà máy. Giúp việc cho giám đốc nhà máy là hai Phó GĐ, tổ
Nghiệp vụ, tổ kỹ thuật chuyên môn cùng với các tổ trưởng tổ sản xuất.
Giám đốc các nhà máy thành viên chịu trách nhiệm trước TGĐ về toàn bộ
hoạt động của nhà máy mình quản lý. Phó GĐ có trách nhiệm thực hiện những
công việc được phân công và được GĐ uỷ quyền, tham mưu cho GĐ những vấn
đề quan trọng trong quá trình sản xuất, chịu trách nhiệm trước GĐ về kết quả
công việc được giao.
3. Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A39
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
công ty.
3.1 Các nhân tố bên ngoài.
Theo các nhà kinh tế Mỹ, ngành may mặc được xếp vào dạng ngành phân
tán, và nếu xét theo tốc độ tăng trưởng của ngành may mặc thì đây là ngành
công nghiệp tăng trưởng và bão hoà, có các đặc điểm như tẳng trưởng thị trường
chậm lại, dư thừa năng lực sản xuất dẫn đến giảm giá, cạnh tranh quốc tế có su
hướng tăng lên, đặc biệt là cạnh tranh của các nước có lợi thế về chi phí sản
xuất, quyền lực của khách hàng cao hơn...
Nguy cơ đe doạ từ những người mới vào cuộc.
Sản phẩm may mặc không chỉ được sản xuất theo dây chuyền, bằng
những máy móc thiết bị tiên tiến, mà đây là sản phẩm không đòi hỏi vốn lớn và
có thể sản xuất bằng phương pháp thủ công. Do đó, bất cứ đơn vị kinh tế nào
thấy mình có khả năng đều có thể tham gia ngành hàng này. Nguy cơ đe doạ của
những đối thủ tiềm ẩn hay mới gia nhập đều cao, mà chủ yếu là sự đe doạ từ
các công ty tư nhân. Thực tế cho thấy ngay trong ngành dệt may Việt Nam, tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của tổng công ty dệt may chỉ bàng 50%
tổng kim ngạch xuất khẩu của các công ty tư nhân (Tạp chí dệt may). Các đối
thủ mới gia nhập ngành hàng có thể yếu về kinh nghiệm sản xuất kinh doanh
nhưng họ thường có tính mạo hiểm và sự sáng tạo cao mà đây là hai yếu tố khá
quan trọng tạo nên thành công trong kinh doanh.
Quyền thương lương của người cung ứng.
Công ty dệt may Hà nội thường xuyên phải nhập khẩu hàng hoá vật tư từ
nước ngoài hoặc được bạn hàng cung cấp bởi vì nguyên phụ liệu (NPL) có chất
lượng cao của thị trường nội địa là rất nhỏ. Việc nhập khẩu NPL thường xuyên
và với số lượng lớn từ thị trường nước ngoài khiến công ty càng tăng tính phụ
thuộc vào các công ty nước ngoài giữ vai trò cung ứng. Hai tháng đầu năm
2001, công nhân sản xuất đã không có đủ việc làm do nước ngoài gửi NPL
chậm. Hơn nữa, khi các công ty xuất khẩu NPL của nước ngoài nắm bắt được
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A40
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
nhu cầu tiêu dùng NPL cho sản xuất của công ty là cao và cần thiết, có thể công
ty không tránh khỏi việc bị ép giá nhập khẩu các mặt hàng này..
Quyền lực thương lượng của người mua.
Điểm thuận lợi của hình thức xuất khẩu theo hợp đồng gia công là công ty
không phải lo tới công tác bán hàng mà chỉ cần giao lại hàng cho đối tác. Như
vậy, đối tác của công ty vừa là người cung ứng, vừa là người tiêu thụ hàng. Tuy
nhiên, công ty chỉ có thể lấy công làm lãi mà bị hạn chế cơ hội tăng lợi nhuận, vì
không được bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng sản phẩm. Do vậy, ngoài
khả năng bị ép giá đầu vào, công ty còn có thế bị ép giá đầu ra do không có đủ
thông tin về thị trường tiêu thụ. Nhưng vì cạnh tranh giữa các công ty trong và
ngoài nước ngày càng tăng nên công ty buộc phải chấp nhận phí gia công
thấp.Trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty chủ yếu là xuất theo giá
FOB. Với cách định giá này, người mua sẽ phải thanh toán chi phí vận chuyển
từ nơi giao hàng của người bán đến điạ điểm cuối cùng của người mua. ấn định
theo cách này, người bán không phải lo chi phí vận chuyển. Song họ dễ bị mất
khách hàng nếu đối thủ cạnh tranh áp dụng giá trọn gói có lợi cho khách hàng.
Nguy cơ đe doạ từ các sản phẩm thay thế.
Sản phẩm của công ty hiện nay đang còn đơn điệu về mẫu mã và chủng
loại. do nguyên liệu dệt may chủ yếu của công ty là các loại sợi PE, các sản
phẩm dệt kim, loại hàng lại do bên đặt hàng quy định thường ít có sự thay đổi và
tính tinh vi của sản phẩm lại không cao nên khó có thể tạo ra đuợc sự hấp dẫn
đối với khách hàng. Do đó, công ty khó tránh khỏi sức ép cạnh tranh từ phía các
sản phẩm thay thế (sản phẩm may mặc được sản xuất bằng các nguyên liệu khác
như vải dệt thoi, len...) nhất là khi xu hướng sử dụng các loại vải đuợc cấu thành
bởi các hợp chất đặc biệt, mới lạ đang tăng lên. Hơn nữa, thị trường kinh doanh
chủ yếu của công ty là ở nước ngoài, thường là các thị trường có nhu cầu tiêu
dùng độc đáo, sự khác biệt hoá sản phẩm (về mẫu mả, giá cả, dịch vụ...) đóng
vai trò quyết định trong khả năng thu hút khách hàng. Các sản phẩm thay thế sẽ
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A41
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
tăng sức ép cạnh tranh khi các chi phí sản xuất và tiêu thụ của công ty cao hơn
các chi phí của sản phẩm thay thế, vì khi đó khách hàng sẽ so sánh mức giá của
các sản phẩm với nhau và họ sẽ tiêu thụ sản phẩm tes nếu có mức độc đáo nhất.
Cạnh tranh giữa các đối thủ trong ngành.
Tình trạng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng tổng công ty dệt
may Việt Nam diễn ra một các quyết liệt: cạnh tranh về giá gia công, cạnh tranh
về giá xuất khẩu... và thiếu một sự hợp tác liên kết. Thậm chí có nhiều trường
hợp sợi sản xuất trong nước ra thừa nhưng một số doanh nghiệp vẫn nhập khẩu
dệt. Đó chính là nguyên nhân cản trở việc tập trung nguồn lực, làm giảm khả
năng cạnh tranh của toàn ngành.Mặt khác, do những đòi hỏi về yêu cầu phẩm
chất cũng như kỹ thuật của hàng may mặc ở thị trường Mỹ và thị trường EU là
khá cao, hơn nữa các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trong ngành may trên
các thị trường này đã có trình độ cạnh tranh và những ưu thế nhất định, nên vấn
đề thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường đó đối với công ty dệt may Hà Nội còn
gặp nhiều khó khăn. Còn việc tham gia thị trường các nước trong khu vực như
Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, hay một số các nước ASEAN thì kết quả có
phần khả quan hơn do tâm lý tiêu dùng ở các nước này không quá phức tạp và
có sự tương đồng trong tâm lý tiêu dùng với người Việt Nam. Bên cạnh đó là
những thuận lợi tương đối trong vấn đề địa lý. Mặc dù, các doanh nghiệp may
mặc của các nước trong khu vực có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất và kinh
doanh mặt hàng tiêu dùng này (do một đặc điểm chung của các nước Châu á:
hàng dệt may là ngành hàng truyền thống và được coi là mũi nhọn trong hoạt
động thương mại quốc tế), song khoảng cách chênh lệch không quá xa và do đó
mức độ đe doạ cạnh tranh của họ với công ty không phải quá cao.
3.2 Các nhân tố bên trong.
Nguồn nhân lực
Lực lượng lao động trong công ty rất đông đảo, bao gồm những người đã
tốt nghiệp đại học, những công nhân được đào tạo từ các trường trung cấp, cao
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A42
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
đẳng cho tới những người không được đào tạo qua trường lớp như công nhân
bốc vác, lao công. Nguồn nhân lực trong Công ty được phản ánh qua bảng sau:
Bảng1: Cơ cấu lao động trong Công ty qua những năm gần đây:
(Đơn vị: người)
Năm
Tổng số
lao động Nam Nữ
Bộ phận
hành
chính
Bộ phận
sx trực
tiếp
Trình độ học vấn
Đại
học
Trung
cấp
LĐ
Phổ
thông
1998 6.529 1.985 4.544 414 6.115 340 381 5.799
1999 6.100 1.923 4.177 402 5.698 334 380 5.386
2000 5.450 1.718 3.732 359 5.091 350 420 4.680
2001 5150 1600 3550 325 4825 355 429 4366
2002 4988 1550 3438 300 4688 378 450 4160
(Nguồn : Phòng Tổ chức- Hành Chính)
Bảng 1 cho thấy, trong công ty lao động nữ nhiều hơn nam. Qua thực tế
khảo sát, số nữ tập trung chủ yếu ở bộ phận trực tiếp sản xuất. Điều này rất phù
hợp với đặc điểm sản xuất của ngành. Số lao động trong bộ phận hành chính
năm 2002 chiếm 6%, bộ phận trực tiếp sản xuất chiếm 94%, điều này chứng tỏ
bộ máy quản lý của công ty rất gọn nhẹ. Hàng năm, quý, tháng công ty tổ chức
thi tay nghề, mở các lớp bồi dưỡng cho cán bộ công nhân viên. Độ tuổi lao động
trung bình trong công ty là 27, đây là một thuận lợi lớn cho công ty bởi tuổi trẻ
thường có tính năng động, sáng tạo và lòng nhiệt tình với công việc. Lực lượng
lao động này đã giúp công ty trở thành doanh nghiệp hàng đầu của ngành dệt
may trong cơ chế thị trường. Số lao động được đào tạo từ các khối trường
chuyên nghiệp của công ty chiếm tỷ lệ khoảng 16,6% tổng lao động của toàn
công ty trong năm 2002, năm 2001 tỷ lệ này chiếm 15,2% và năm 2000 là
14,13%. Như vậy, số lượng lao động được đào tạo qua các trường chuyên
nghiệp của công ty ngày càng tăng, trình độ của người lao động ngày càng được
nâng cao. Tuy nhiên tỷ lệ này còn thấp so với nhũng đòi hỏi của công việc (vận
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A43
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
hành máy móc, thiết bị hiện đại; kỹ năng sản xuất tinh vi cao cấp...). Do đó,
hàng năm công ty đều có kế hoạch bổ xung lao động, bồi dưỡng và nâng cao
trình độ nghiệp vụ cũng như khả năng tiếp thu công nghệ mới cho CBCNV.
Người lao động có trình độ càng cao, càng có nhiều hiểu biết về công việc thì
càng đảm bảo công tác nghiên cứu và nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như
hiệu quả sản xuất.
Được sự trợ giúp của các máy móc chuyên dụng tiên tiên, hiện đại, sức
lao động của người công nhân được sử dụng hợp lý hơn. Năm 2002 năng suất
lao động trung bình tính theo doanh thu đạt 1.344.210 đồng/người/tháng, thu
nhập bình quân là1.097.500 đồng/người/tháng. Với lao động mới tuyển, các
CBCNV có nhiệm vụ kèm cặp và hướng dẫn để họ bắt tay vào công việc một
cách thuận tiện nhất.
Các phòng ban chức năng của công ty từ trên xuống phối hợp luôn đồng
bộ, việc phân cấp chồng chéo. Các công việc thường nhật, hay định kỳ, hay cả
những vấn đề phát sinh đều được giải quyết khẩn trương, kịp thời. Vì thế bộ
máy quản lý của công ty được coi là khá hiệu quả (số cán bộ quản lý chỉ chiếm
6% tổng lao đông toàn công ty). Năm 2003 công ty tiến hành hoàn thiện dây
chuyền sản xuất vải Denim là sản phẩm mới đưa vào sản xuất nhưng hiệu quả
đem lại khá cao.
Nguồn lực về tài chính
Hiện nay công ty dệt may Hà nội là một trong những công ty có giá trị tài
sản lớn trong tổng công ty dệt may Việt Nam. Tổng giá trị tài sản của công ty
khoảng gần 300 tỷ với các công trình xây dựng về cơ sở hạ tầng, hệ thống cung
cấp điện nước, máy móc thiết bị của công ty. Công ty đã huy động và sử dụng
hợp lý các nguồn vốn và ngày càng đầu tư mua sắm máy móc thiết bị hiện đại
làm tăng nguồn vốn cố định, tạo điều kiện mở rộng sản xuất, tăng chất lượng sản
phẩm, hạ giá thành, tăng khả năng cạnh tranh của công ty.
Công ty rất chú trọng vào việc bảo toàn và phát triển nguồn vốn ngày một
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A44
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
gia tăng. Vì trong kinh doanh có được nguồn vốn lớn và ổn định sẽ tạo điều kiện
thuận lợi để phát triển sản xuất kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh trên thị
trường nhờ vào việc thay đổi các máy móc thiết bị lạc hậu bằng các máy móc kỹ
thuật hiện đại hơn nhằm giảm bớt sức người. Nhờ đó mà công ty có thêm thời
gian đầu tư vào đào tạo nguồn nhân lực để phát huy trí lực của họ để quay lại
tiếp tục điều khiển máy móc phục vụ cho công việc của mình được tốt hơn từ đó
tăng năng suất doanh thu và lợi nhuận cho công ty. Do đó, việc tổ chức cơ cấu
vốn sao cho hợp lý là điều vô cùng quan trọng đối với lãnh đạop công ty cũng
như đối với những người trực tiếp quản lý nguồn vốn.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mùnh. công ty luôn
tìm cách khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn vốn hiện có cũng như nguồn vốn
nhà nước giao cùng với các nguồn vốn khác mà công ty có được. Mọi hoạt động
sản xuất của công ty đều cần có vốn, khi bước vào hoạt động sản xuất kinh
doanh trước hết công tác tổ chức tài chính của công ty phải xác định được nhu
cầu vốn cần thiết cho hoạt động của công ty trong kỳ vì việc khai thác và tạo lập
nguồn hình thành vốn cố định sẽ quyết định đến quy mô và ảnh hưởng tới sự tồn
tại của tài sản cố định. Các khoản đầu tư dài hạn và các chi phí xây dựng cơ bản
dở dang của công ty. Tiếp theo dựa vào bản kế hoạch vốn công ty sẽ tổ chức huy
động vốn để đáp úng kịp thời đầy đủ cho các hoạt động của công ty.
Là một doanh nghiệp nhà nước có uy tín trong ngành vì vậy việc huy
động nguồn vốn từ nhiều nguồn khác nhau là việc không quá khó đối với công
ty. Công ty có thể khai thác và tạo lập nguồn vốn từ nhiều nguồn khác nhau bao
gồm:Vốn do ngân sách nhà nuớc cấp; Vốn từ các quỹ: quỹ khấu hao, quỹ đầu tư
và phát triển, lợi nhuận để lại của công ty; Vốn vay của ngân hàng; Nguồn vốn
phát hành chứng khoán. Đây là bộ phận rất quan trọng trong quá trình hoạt động
sản xuất kinh doanh của công ty; Nguồn vốn liên doanh, liên kết.
Bảng 2: Phân tích khái quát tình hình tài chính của Công ty
(Đơn vị: Triệu đồng)
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A45
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Chênh lệch
1.Tổng nguồn vốn 608.215,82 712.615,82 104.400
2.Nguồn vốn chủ sở hữu 155.337,92 159.682 4.344,08
3.Tổng nợ ngắn hạn 272.599,47 250.367,74 -22.231,73
4.Tổng Tài sản lưu động(TSLĐ) 332.713,36 282.720,45 -49.992,91
5.Tổng vốn bằng tiền 19.435,63 19.845,63 410
6.Tỷ suất tài trợ (=2/1)
(%)
0,26 0,224 -0,036
7.TS thanh toán ngắn hạn (=4/3)
(%)
1,22 1,129 -0,094
8.TS thanh toán của TSLĐ(=5/4)
(%)
0,06 0,079 0,019
9.TS thanh toán tức thời(=5/3)
(%)
0,07 0,07 0
10. Vốn hoạt động thuần(=4-3) 60.113,89 32.352,71 -27.761,18
(Nguồn:Phòng Kế toán-Tài chính)
Qua kết quả phân tích tình hình tài chính ở trên có thể thấy rõ việc quản lý
tài chính ở công ty rất được chú trọng. Cụ thể, chỉ tiêu tỷ suất tài trợ ở công ty <
0,5 chứng tỏ công ty đã biết huy động tốt các khoản vốn vay bên ngoài, chỉ tiêu
tỷ suất thanh toán ngắn hạn > 1 cho thấy công ty có thể chủ động trang trải các
khoản nợ bằng tài sản sẵn có của mình. Từ bảng số liệu ta thấy khả năng tài
chính của doanh nghiệplà khá tốt, khả năng huy động vốn lớn sẽ giúp doanh
nghiệp có nhiều vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ và
máy móc thiết bị, đồng thời tăng khả năng hợp tác đầu tư về liên doanh liên kết.
Đây là một lợi thế rất lớn đối với doanh nghiệp trong việc nâng cao sức cạnh
tranh sản phẩm của mình bởi vì vấn đề nguồn vốn đang là vấn đề rất bức súc đối
với các doanh nghiệp dệt may nói riêng và tất cả các doanh nghiệp ở Việt Nam
nói chung. Tuy nhiên đây chỉ là yếu tố cần, còn yếu tố đủ chính là tình hình sử
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A46
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
dụng vốn bởi nó sẽ quyết định đến chi phí về vốn của doanh nghiệp so với đối
thủ cạnh tranh.
Nguồn lực về vật chất kỹ thuật.
Công ty dệt may Hà Nội có nhiều loại dây truyền máy móc thiết bị dùng
để sản xuất ba mặt hàng chính là sợi, sản phẩm dệt kim và khăn bông. Các dây
chuyền này chủ yếu là dây chuyền sản xuất liên tục ( bố trí mặt bằng định hướng
theo sản phẩm).
Hiện nay tại nhà máy sợi I và nhà máy sợi II đều có dây truyền vừa sản
xuất sợi chải kỹ, vừa sản xuất sợi chải thô. Tại nhà máy sợi II cồn có thêm dây
chuyền sản xuất sợi phế OE. Từ dây chuyền chải kỹ và chải thô có thể kết hợp
để sản xuất sợi đơn chải thô sợi đơn chải kỹ và sợi xe. Đó là nhà máy bông
Mazoly và Muzata của Nhật bản, máy Autoconer và Schrafhort của Đức, máy
đậu và máy xe do Trung quốc sản xuất.
Hầu hết máy móc đều được sản xuất từ năm 1979, 1980 ngoại trừ máy
Schrafhort và Murata là mới được trang bị sản xuất vào những năm 1994, 1995.
Tại nhà máy sợi Vinh các máy móc thiết bị hoàn toàn do CHLB Đức sản xuất
vào đầu những nam 1970 và một số máy móc đã khấu hao hết.
Hầu hết máy móc thiết bị của công ty dệt may Hà Nội có thời gian sử
dụng khá lâu, đây chính là điểm yếu trong chiến lược cạnh tranh của công ty
trong cơ chế thị trường. Do vậy công ty cần có chiến lược đầu tư hơn nữa vào
máy móc thiết bị để tạo ra những sản phẩm có đủ sức cạnh tranh trên thị trường
trong nước và thế giới.
Bảng 3 : Máy móc thiết bị tại Nhà mây sợi I và Nhà máy sợi II (2002)
ST
TMáy móc thiết bị
Tổng số
máy
Công
suất
Năm sử
dụng
Nước
sản
xuất
NM sợi
I
NM
sợi
II
1. Máy dây bông 4 90% 1975 Đức 2 2
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A47
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
2. Máy chải 48 90% 1975 Đức 24 24
3. Máy ghép 42 90% 1982 Đức,ý 26 16
4. Máy thô 20 90% 1982 Đức 12 8
5. Máy sợi con 176 90% 1982 Đức 111 65
6. Máy ống 26 90% 1989 Đức 16 10
7. Máy đậu 3 90% 1989 TQ 2 1
8. Máy xe 19 90% 1982 TQ 9 10
9. Máy ống xốp 2 90% 1982 TQ - 2
10. Máy cuộn cúi 3 90% 1989 Đức, ý 2 1
11. Máy chải kỹ 13 90% 1989Đức, ý
Nhật13 -
Tổng số máy 365 217 139
(Nguồn : Phòng kỹ thuật đầu tư)
Như vậy ngoài trừ những máy móc thiết bị dùng để sản xuất các sản phẩm
mới của Công ty: Vải Demin, sản phẩm Demin, Mũ nới được trang bị gần đây
thì còn lại là những máy móc đã có thời gian sử dụng khá lâu, đây chính là điểm
yếu trong chiễn lược cạnh tranh của Công ty trong cơ chế thị trường.
Công tác thị trường và marketing của công ty dệt may Hà Nội.
Thị trường tiêu thụ của công ty Dệt May Hà Nội khá rộng lớn, bao gồm thị
trường trong nước (50%) và thị trường nước ngoài (50%). Công ty đang từng
bước khẳng định mình trên thị trường nội địa nhằm tạo cơ sở phát triển sức
canhj tranh trên thị trường quốc tế
Hiện nay công ty đang cố gắng phát triển mạng lưới phân phối. Năm 2002
công ty có tới hơn 20 quầy giới thiệu sản phẩm và hơn 60 đại lý ở các tỉnh thành
phố so với 14 quầy giới thiệu sản phẩm và 35 đại lý vào năm 2001. Mạng lưới
kênh phân phối bao gồm kênh phân phối gián tiếp và kênh phân phối trực tiếp.
Kênh phân phối gián tiếp thông qua các đại lý như cơ sở vĩnh tiến, công ty
TNHH tiên tiến, công ty TNHH hiệp hoà.
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A48
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Kênh phân phối trực tiếp được tập trung chủ yếu ở sản phẩm sợi, hàng
may mặc nội địa, hàng khăn bông. Đối với các sản phẩm xuất khẩu thì công ty
nhận đơn hàng trực tiếp từ nước ngoài. Ngoài ra công ty còn áp dụng các biện
pháp hỗ trợ tiêu thụ như quảng bá sản phẩm trên báo trên tạp trí, tham gia các
hội chợ triển lãm, tổ chức các hội nghị khách hàng.
Công ty tiến hành thu thập thông tin về thị trường nước ngoài qua các cơ
quan, tổ chức trong nước có chức năng, chẳng hạn như:
- Phòng thương và công nghiệp Việt Nam: là cơ quan có quan hệ rất rộng trên
thế giới, có khả năng tìm hiểu được thực lực của các công ty kinh doanh của
nước ngoài, để từ đó cung cấp các thông tin cần thiết cho các công ty trong nước
có nhu cầu tìm đối tác.
- Bộ thương mại: là một đơn vị có chức năng quản lý và tổ chức các hội chợ,
triển lãm, giới thiệu tạo điều kiện cho các cán bộ của công ty đi tham quan và
nối quan hệ với các đơn vị sản xuất kinh doanh ở nước ngoài.
- Các cơ quan chủ quản như bộ công nghiệp nhẹ, tổng công ty dệt may Viêt
Nam...
Ngoài ra qua các mối quan hệ với bạn hàng, công ty cố gắng tìm hiểu
những thông tin quan trọng về thị trường, về nhu cầu nước ngoài, hoặc về những
đối thủ cạnh tranh trên thị trường đó. Việc tranh thủ những mối quan hệ này đã
giúp công ty rất nhiều trong việc tìm kiếm và mở rộng quan hệ với đối tác.
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH SẢN
PHẨM XUẤT KHẨU Ở CÔNG TY DỆT MAY HÀ NỘI.
1. Kết quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty qua các năm.
Kim ngạch xuất khẩu hàng năm chiếm khoảng 50% tổng doanh thu và
tăng đều qua các năm .
Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu theo theo thị trường nội địa và xuất khâu
(Đơn vị : triệu đồng )
STT Năm
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A49
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Doanh thu
1998 1999 2000 2001 2002
1 Tổng doanh
thu
379.898 438.407 473.318 558.931 670.492
2 Tổng kim
ngạch xuất
khẩu
205.005 212.025 251.175 271.275 368.496
3 Tổng doanh
thu trong nước
174.893 226.382 222.143 287.656 301.996
( Nguồn : Phòng Kinh Doanh Xuất Khẩu )
Kim ngạch xuất khẩu của công ty tăng đều qua các năm .Năm 1999 tăng
103,42% so với năm 1998, năm 2000 tăng 119,54 % so với năm 1999, riêng
năm 2001 đã vượt kế hoạch tổng công ty giao là 102,5% tăng 112,72% so với
năm 2000. Sang năm 2002 mức doanh thu toàn công ty tăng mạnh, tăng
119,96% so với năm 2001. Nguyên nhân của sự tăng này là do trong năm 2001
công ty tiến hành nghiên cứu và đưa vào kinh doanh xuất khẩu một số sản phẩm
mới dựa trên cơ sở các bạn hang cũ và các bạn hàng truyền thống là những bạn
hàng nhập khẩu đầu tiên những sản phẩm này của công ty. Cùng với sự nỗ lực
của công ty các sản phẩm này dần dần chiếm lĩnh thị trường và góp phần làm
tăng doanh thu của công ty
Biểu đồ1: Kim ngạch xuất khẩu qua các năm
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A50
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Nhìn chung tình hình sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm
qua diễn ra ổn định, ngoại trừ năm 1998 là năm khó khăn không chỉ đối với
Công ty dệt may Hà Nội mà còn với cả toàn ngành dệt may Việt Nam mà
nguyên nhân là do ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính
trong khu vực từ cuối năm 1997. Cụ thể đã làm cho sức mua của các bạn hàng
chủ chốt như : Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông giảm mạnh và khả
năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam yếu đi do các nước có khủng
hoảng. Tuy nhiên sang năm 1999 trở đi công ty đã có những tiến bộ đáng kể. Có
được kết quả như vậy là do sự chỉ đạo chặt chẽ của ban lãnh đạo công ty kết hợp
với sự cố gắng nỗ lực của cán bộ, công nhân viên trong công ty mà đặc biệt là
nhờ những cán bộ phòng xuất nhập khẩu vừa năng động vừa nhanh nhạy trong
việc tiếp cận và đáp ứng những yêu cầu của công tác hoạt động kinh doanh.
Trong kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và trong kinh doanh xuất khẩu hàng
dệt may nói riêng, việc tìm kiếm thị trường là rất quan trọng đảm bảo cho hoạt
động kinh doanh diễn ra liên tục và đạt hiệu quả cao. Kinh doanh xuất nhập
khẩu vượt ra khỏi biên giới quốc gia nên thị trường càng trở nên phức tạp. Đến
nay công ty dệt may Hà Nội đã có quan hệ làm ăn với khoảng trên 20 nước trên
thế giới và đang tìm cách mở rộng hơn nữa thị trường quốc tế của mình .
a. Tình hình xuất khẩu theo thị trường.
Bảng 5 dưới cho biết sự biến động của công ty cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu, các nước nhập khẩu sản phẩm của công ty ngày càng tăng lên cả về số
lượng và giá trị hợp đồng, bằng chứng là năm 2002 công ty có thêm 5 khách
hàng. Điều này khẳng định rõ hơn nữa vị trí và uy tín của công ty để đi đến kí
kết các hợp đồng hàng năm .
Thị phần luôn luôn là vấn đề mà công ty cần phải quan tâm hàng đầu, thật
vậy vào cuối năm 80 đầu năm 90 thì thị trường truyền thống của công ty là Nhật
Bản, Pháp, Đức, Italia và Liên Xô, nhưng bắt đầu vào những năm 90 khi Liên
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A51
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Xô tan rã thì mối quan hệ của công ty và Liên Xô cũng thay đổi cho dù công ty
đã nối lại quan hệ với Nga nhưng khối lượng và giá trị sản phẩm xuất khẩu sang
Nga còn quá nhỏ và không ổn định. Sau khi thị trường truyền thống chủ yếu là
Liên Xô không còn nữa, công ty đã chuyển hướng phát triển thị trường sang
Châu Á và đặc biệt là các nước Châu Á Thái Bình Dương và mục tiêu cụ thể
đầu tiên là nhật Bản. Kể từ năm 1998 Nhật Bản là khách hàng tiêu thụ sản phẩm
với khối lượng và giá trị lớn nhất của công ty. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu
sang Nhật Bản đang giảm dần từ 11.676.581 USD năm 1997 xuống còn
6.449.635 USD vào năm 2001 và sang năm 2002 xuống còn 3.442,21 USD,
nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng ở khu vực Đông Nam á là Indonesia và
Thái Lan gây ra và các doanh nghiệp Nhật Bản cũng đang đề nghị chính phủ
Nhật Bản áp dụng chế độ hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam. Nếu đề
nghị này được chấp thuận thì đây lại là thêmmột yếu tố làm giảm khả năng cạnh
tranh của hàng dệt của công ty dệt may Hà Nội nói riêng và của hàng dệt may
của Việt Nam nói riêng trong tương lai. Bù lại công ty đã phục hồi lại mối quan
hệ kinh doanh với Hàn Quốc vào năm 1997 và mối quan hệ này ngày càng được
khẳng định: kim ngạch xuất khẩu sang Hàn Quốc năm 2001 là 3.415.774 USD
gấp 142.3 lần năm 2000. Từ khi Việt Nam kí hiệp định thương mại với Mỹ thì
kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ năm 2001 tăng vọt lên 1.590.107 USD t và bước
sang năm 2002 con số này nên mức 14.097.970 USD trong khi đó năm 2000 là
29.769 USD năm 1998 là 16.200 USD và năm 1997 là 591 USD.
Bảng 5: Kết quả kinh doanh xuất khẩu theo thị trường của công ty
(Theo giá FOB: 1000USD)
Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Tổng KNXK 14.137 13.667 14.135 16.745 18.085 23.540,67041
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A52
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Nhật Bản
Đài Loan
Cộng hoà Czech
Anh
Pháp
Đức
Italia
Singgapore
Nam Phi
Thuỵ Sĩ
Hàn Quốc
Mỹ
Argentina
ÚC
Newzeland
Hà Lan
Nga
Rumani
Đan Mạch
Iran
Cuba
Hồng Kông
Li Băng
Canada
Thổ nhĩ kỳ
Thụy điển
Iarael
Tiệp
11.676
396
91
355
177
1.207
45
-
40
39
45
0,6
-
-
-
-
39
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
9.804
1.283
428
1.221
20
506
27
-
-
-
53
16
3
59
27
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
8.609
1.859
807
1.376
87
619
397
47
724
804
79
1
1
291
-
-
35
15
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
8.204
3.002
402
901
97
724
804
79
1
288
24
29
49
21
22
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
6.449
2.005
257
1.431
221
540
-
-
245
218
3.415
1.590
-
16
-
266
-
204
364
55
39
493
27
-
-
-
-
-
3.442,21
2.175,94
-
1.052,47
0
50,47
-
-
-
-
1.928,98
14.047,97
-
-
-
45,15661
-
-
254.1129
-
10,8675
-
118,46624
10,77126
0,18227
144,3318
115,48
123,2758
(Nguồn : Phòng Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu)
b. Tình hình xuất khẩu theo sản phẩm
Từ trước năm 1990 Công ty dệt may Hà Nội đã tham gia vào việc xuất khẩu
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A53
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
hàng hoá theo hiệp định giữa Nhà Nước Việt Nam với các nước XHCN chủ yếu
là Liên Xô và các nướcĐông Âu, sản phẩm lúc đó chỉ là các loại sợi LE 32
cotton chải thô. Công ty được giao kế hoạch xuất khẩu với khối lượng là 2000-
3000 tấn /năm. Việc giao sợi và thu tiền là do TEXTIMEX (Liên hiệp các xí
nghiệp dệt) đảm nhận. Từ năm 1991 trở lại đây Công ty dệt may Hà Nội hoàn
toàn chủ động trong việc xuất khẩu hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Sản
phẩm chủ yếu của công ty hiện nay trên thị trường nước ngoài là các sản phẩm
khăn, sản phẩm may, một phần là sợi, vải, lều.
Bảng 6: Doanh thu theo sản phẩm qua các năm
(Đơn vị tính : triệu đồng)
Sản phẩm 1998 1999 2000 2001 2002
Sợi
-Trong
nước
-Xuất khẩu
191.427
191.418
9
198.305
194.095
4.210
288.429
239.576
48.453
311.781
245.500
66.281
355.889
268.755
87.134
Vải
-Trong
nước
-Xuất khẩu
Tính vào
sản phẩm
khăn
1.967
1.967
-
2.918
2.918
-
7.255
4.608
2.647
8.911
5.686
3.225
Khăn
-Trong
nước
-Xuất khẩu
Tính vào
sản phẩm
lều
30.304
1.479
28.825
36.632
3.126
33.506
52.127
3.276
48.851
55.589
3.360
52.229
SP may
-Trong
nước
-Xuất khẩu
150.393
27.847
122.546
168.121
23.501
144.620
138.974
33.095
105.879
148.842
34.792
114.050
250.103
46.578
203.525
Lều 26.441 2.416 816 0 0
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A54
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
-Trong
nước
-Xuất khẩu
3.363
23.048
0
2.416
0
816
0
0
0
00
( Nguồn : Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu)
Doanh thu sợi tăng nhanh, sợi chủ yếu bán trong nước: 99,99% doanh thu
sợi năm 1998 là thu được trong nước; 97,88% vào năm 1999; 83% vào năm
2000 và 78,74% vào năm 2001. Doanh thu khăn tăng đều, khăn tăng chủ yếu là
xuất khẩu: kim ngạch xuất khẩu khăn chiếm 95,12% vào năm 1999; 91,47%
năm 2000 và 93,72% vào năm 2001. Sản phẩm may chủ yếu cho xuất khẩu
nhưng tỷ lệ bán hàng trong nước tăng mạnh từ năm 2000. Năm 1998: 81,48%
doanh thu sản phẩm may là do xuất khẩu ; năm 1999 là 86,02%; năm 2000 giảm
xuống còn 76,18% và năm 2001 là 76,62 %. Công ty bắt đầu bán lều từ năm
1996 cho tới quý I năm 2000, lều được xuất khẩu chủ yếu vào các nước EU và
đối tác sản xuất lều của công ty là một công ty của Hàn Quốc. Tuy nhiên, do nhu
cầu lều rất thấp và không phải là một sản phẩm tiêu dùng phổ biến. Doanh thu
vải ít tăng trưởng. Hiện tại 90% sản lượng vải Denim của công ty được tiêu thụ
trong nước. Công ty dệt may Hà Nội bước vào thị trường mới này vì hiện tại
mới chỉ có hai công ty sản xuất vải Denim và thị trường vải Denim rất có tiềm
năng. Hanosimex sẽ sớm sản xuất các sản phẩm may bằng vải Denim ( toàn bộ 7
dây chuyền may) và đang đề ra chỉ tiêu xuất khẩu 50% may bằng vải Denim vào
thị trường Mỹ.
Thông qua mối quan hệ với một số khách hàng cũ , từ quý II năm 2001
công ty bắt đầu sản xuất mũ để xuất khẩu. Chỉ trong 3 quý sản lượng mũ đã là
308.464 chiếc, đạt kim ngạch xuất khẩu là 278.156 USD, trong đó xuất khẩu
sang thị trường Mỹ tính theo số lượng là chiếm 66% ( tương đương là 157.386
USD ) còn lại là xuất sang thị trường Hàn Quốc đạt 120.770 USD .
Bảng7: Cơ cấu xuất khẩu sản phẩm mũ.
Theo thị trường 2001 Tháng 2002
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A55
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Số lượng(chiếc) Trị giá (USD) Sốlượng(chiếc) Trị giá( USD)
Hàn Quốc
Mỹ
Cuba
103.680
204.784
0
120.770
157.386
0
0
1.718.848
12.000
0
3.098.200,15
7.740
Tổng 308.464 278.156 1.730.848 3.105.940,15
(Nguồn: Phòng xuất nhập khẩu)
2 Phân tích khả năng cạnh tranh của công ty
Hơn 10 năm qua nhờ thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa nền kinh tế của
Đảng và Nhà Nước, ngành dệt may đã không ngừng phát triển cả về qui mô,
năng lực sản xuất, trình độ trang thiết bị, diện mặt hàng, chất lượng sản
phẩm.Từ chổ các doanh nghiệp dệt may chỉ lo sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu
dùng của nhân dân trong nước và thực hiện một phần theo nghị định thư thương
mại với Liên Xô cũ và các nước Đông Âu trên cơ sở kế hoạch Nhà Nước; đến
nay sản phẩm dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam đã thoả mãn một phần
nhu cầu tiêu dùng trong nước và có kim ngạch xuất khẩu lớn sang thị trường khó
tính trên thế giới như EU, Nhật Bản, Mỹ,Canada và các thị trường khác .
Hiện nay cả nước đã có gần 500 đơn vị tham gia xuất khẩu hàng dệt may
nên ở trong nước công ty đã gặp phải sự cạnh tranh khá gay gắt. Về dệt có các
đối thủ như dệt Nam Định, dệt Vĩnh Phú, dệt 8/3, dệt Huế, dệt Đà Nẵng, dệt Nha
Trang, dệt Thắng Lợi, dệt Thành Công , dệt Thái Tuấn dệt Thăng Long và dệt
Đông Xuân. Về may có các công ty như may Thăng Long, may 10, may 20, may
19/5, may Sông Hồng....Nhìn chung các công ty này cạnh tranh về mẫu mã, màu
sắc, giá cả đồng thời cạnh tranh trong cả cung cách bán và phục vụ khách hàng.
Trong 3 năm trở lại đây trong số Top 10 của hàng Việt Nam chất lượng cao đều
có tên sản phẩm của công ty dệt may Hà Nội. Tuy nhiên sản phẩm của công ty
vẫn chưa khẳng định được vị trí Top 3. Chính vì thế mà hơn bao giờ hết công ty
vẫn phải thu thập thông tin về thị trường bằng mọi phương tiện. Có thể từ thông
sơ cấp như qua các hội chợ, từ nhân viên bán hàng tại các đại lý, từ phỏng vấn
hoặc từ thông tin thứ cấp như đài, báo, tivi cũng như trên phương tiện công nghệ NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A56
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
thông tin .
Có thể đánh giá sức cạnh tranh của công ty với các đối thủ trong ngành thông
qua rất nhiều thông số và nhiều tỉ lệ, nhưng các đánh giá phổ biến nhất là tỉ suất
lợi nhuận trên doanh thu (ROS) hoặc tỷ xuất lợi nhuận trên tài sản (ROA). Bảng
sau sẽ phân tích khả năng cạnh tranh giữa một số công ty dệt may thuộc tổng
công ty dệt may Việt Nam.
Bảng8: Các thông số so sánh khả năng cạnh tranh của một số công ty
thuộc tổng công ty dệt may Việt Nam (năm 2002)
(Đơn vị: tỷ đồng)
Công
ty
Doanh
thu
Lợi
nhuận
TSC
Đ
Vốn
CSH
Chi
phí
Tỷ suất lợi nhuận
Trên
DT
Trên
CP
Trên
TS
Trên
vốn
May
Chiến
Thắng
82.76 1.8786
5
46.6
64
11.985 80.881
35
0.0227 0.0232 0.040
25
0.1567
5
May
Việt
Tiến
505 26.512
5
140 83.346 478.48
75
0.0525 0.0554 0.189
4
0.3181
May
Mười
169.82 5.2305 92 32.692 164.57
95
0.0308 0.0318 0.056
85
0.16
May
Nhà Bè
152.18
4
9.344 74 42.2 142.84 0.0614 0.0654 0.126
27
0.2214
2
May
Đức
Giang
122.75 5.3609 60.8 13.911 117.38
91
0.0437 0.0456
6
0.088
17
0.3857
5
Dệt
may
Hà Nội
670.49
2
23 224.
18
159.6 647.49
6
0.0343 0.0355
2
0.102
596
0.1441
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Tổng công ty dệt may Việt Nam 2002)
Như vậy nếu so sánh sức cạnh tranh hàng hoá của công ty với các đối thủ
cạnh tranh khác trong cùng ngành theo thông số tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A57
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
thì sản phẩm của công ty có sức cạnh tranh hơn sản phẩm của công ty may
Chiến Thắng và công ty may Mười, tuy nhiên sản phẩm của công ty phải đối
mặt với sự cạnh tranh gay gắt đối với sản phẩm của công ty may Việt Tiến,
Công ty may Nhà Bè và công ty may Đức Giang mặc dù các công ty này có quy
mô nhỏ hơn công ty dệt may Hà Nội. Vì vậy công ty phải không ngừng nâng
cao năng lực cạnh tranh của mình nhằm nâng cao tỷ xuất lợi nhuận. Các thông
số trên nhằm phản ánh tính hiệu quả của công ty trong các sử dụng và điều tiết
vốn, chi phí tài sản cố định: khi một đồng vốn (chi phí, hao mòn tài sản cố định)
bỏ ra thu về nhiều lợi nhuận thì tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu sẽ cao hơn,
chứng tỏ tính hiệu quả trong việc sử dụng đồng vốn đó. Hiệu quả của việc sử
dụng đồng vốn và điều tiết các yếu tố đầu vào phụ thuộc vào nhiều nhân tố và
được quyết định bằng khả năng sắp xếp, quản lý, điều hành công việc một cách
logíc và hợp lý, nói cách khác là phụ thuộc vào lợi thế cạnh tranh của mỗi công
ty.
Theo kết quả thống kê ở bảng 5, lợi thế cạnh tranh của các công ty là tương
đối khác nhau. Chẳng hạn công ty dệt may Hà Nội là công ty có doanh thu lớn
nhất nhưng lại chưa thực sự có hiệu quả trong sử dụng vốn và tiết kiệm chi phí;
trong khi công ty may Nhà Bè lại có lợi thế hơn hẳn trong tiết kiệm chi phí,
công ty may Đức Giang lại có lợi thế trong khả năng điều tiết và sử dụng vốn
đầu tư. Từ bảng số liệu ta thấy công ty may Việt tiến là một trong những công ty
có tỷ suất lợi nhuận trên tài sản và trên nguồn vốn là cao chứng tỏ tính hiệu quả
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty và khả năng tổ chức sắp xếp
các yếu tố đầu vào, nguồn nhân lực, khai thác tốt nhất công xuất hoạt động của
máy móc thiết bị và đây là yếu tố có thể giảm chi phí giá thành của sản phẩm
nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty. Chính vì vậy mà doanh thu của công
may Việt tiến thấp hơn doanh thu của công ty dệt may Hà Nội tuy nhiên mức tỷ
xuất lợi nhuận trên doanh thu của công ty may Việt tiến lại cao hơn công ty dệt
may Hà Nội. Ta tiếp tục so sánh sức cạnh tranh của công ty dệt may Hà nội với
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A58
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
công ty may Chiến Thắng và công ty may Mười nhận thấy rằng tỷ xuất lợi
nhuận trên doanh thu và chi phí của công ty là cao hơn chứng tỏ công ty đã có
những ưu thế hơn hẳn trong việc điều tiết các yếu tố chi phí, giảm chi phí trong
sản xuất tiêu thụ sản phẩm tạo ra mức lợi nhuận cao và nâng cao sức cạnh tranh
của doanh nghiệp. Tuy nhiên khi xem xét bảng số liệu ta nhận thấy việc sử dụng
đồng vốn chủ sở hữu và sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp là chưa hiệu
quả, mặc dù công ty may Chiến Thắng có nguồn vốn chủ sở hữu và tài sản cố
định thấp hơn công ty dệt may Hà Nội nhưng hiệu quả sử dụng lại cao hơn. Điều
này chứng tỏ công ty dệt may Hà Nội chứa dụng tối đa những lợi thế cạnh tranh
sẵn có của mình nhiều khi gây thất thoát, láng phí và đây cũng là nguyên nhân
dẫn tới việc tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và chi phí của công ty thấp.
Như vậy, không hẳn một doanh nghiệp có doanh thu lớn, hay có lợi nhuận
lớn thì đã có nghĩa doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp
khác cùng ngành. Điều quan trọng là khả năng kết hợp các nguồn lực sẵn có và
các nguồn lực mới trong doanh nghiệp. Nhưng để có được những lợi thế nhất
định, công ty dệt may Hà Nội cần phải nỗ lực nhiều hơn trong khâu quản lý,
khai thác và kết hợp nguồn lực để sức cạnh tranh của sản phẩm – thể hiện qua
tính hiệu quả trong sản xuất được cao hơn.
Ngoài ra công ty cũng vấp phải sự cạnh tranh gay gắt từ phía các công ty
xuất khẩu dệt may của các nước khác trên thế giới trong đó phải kể đến những
sản phẩm dệt may được xuất đi từ Trung Quốc, Malaysia, Băngladesh, mà mạnh
nhất là Trung Quốc. Các sản phẩm cạnh tranh từ Trung Quốc đã tác động tới giá
bán của công ty điển hình năm 2000 và 2001 công ty đã mất 2 khách hàng lớn
mua khăn và sản phẩm may đã chuyển sang Trung Quốc vì có giá cạnh tranh
hơn. . Do vậy công ty cần có chiến lược tiếp thị có hiệu quả để duy trì các khách
hàng cũ và thu hút thêm khách hàng mới .
Nếu xét về mặt chất lượng, hàng dệt may của công ty có bất lợi đó là máy
móc thiết bị ngành dệt may của công ty chủ yếu nhập khẩu từ các đối thủ cạnh
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A59
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
tranh của mình như: Ý, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc..., còn
các nguyên liệu chính là các loại sợi, vải.. cũng được nhập khẩu từ các đối thủ
cạnh tranh khác như: Thái Lan, Indonesia, Malasia, Trung Quốc...Thêm vào đó ,
các nước này lại phát triển trước Việt Nam từ 15 – 20 năm, có nhiều kinh
nghiệm trong sản xuất hơn, cho nên hàng dệt may của các nước này có chất
lượng cao hơn hàng dệt may công ty là một điều chắc chắn.
Nếu xét về mặt giá cả, trước đây chúng ta thường tự hào rằng hàng dệt
may của công ty nói riêng và của toàn ngành dệt may nói chung có khả năng
cạnh tranh về giá cả do giá nhân công của ta thấp nhưng gần đây điều này không
còn đúng nữa vì giá nhân công của Trung Quốc còn thấp hơn của ta, hơn nữa ta
còn phải chịu chi phí cao vì phải nhập nguyên liệu và máy móc. Như vậy, giá
của ta chỉ có thể cạnh tranh được với giá của Thái Lan, Indonesia, Malasia, Hàn
Quốc, Hồng Kông. Tuy nhiên, sức cạnh tranh này cũng đang giảm dần vì sự sụt
giá của đồng tiền của các nước này so với đồng đoola Mỹ trong khi đồng Việt
Nam lại giảm rất ít. Còn so với Trung Quốc giá hàng dệt may của ta không thể
cạnh tranh được. Giá hàng của Trung Quốc chỉ bằng khoảng 80% so với giá
hàng tương ứng của Việt Nam. Ưu thế này do: giá nhân công thấp, giá nguyên
liệu đầu vào thấp (hầu hết sản xuất tại Trung Quốc), thiết bị sản xuất được lựa
chọn tối ưu, các doanh nghiệp có kinh nghiệm quản lý kỹ thuật và sản xuất..
Điểm hạn chế của công ty chính là ở chỗ công ty chưa khẳng định đuợc
mình qua nhãn hiệu hàng hoá danh tiếng hay nghệ thuật marketing. Không đựoc
như các công ty may mặc khác trên thế giới, nhãn hiệu của dệt may Hà Nội chưa
bao giờ đuợc gắn trên sản phẩm mà mình sản xuất. Các khách hàng thuê công ty
gia công là lực lượng tiêu thụ chính và cũng là người có quyền gắn nhãn hiệu
nên sản phẩm, đối với các sản phẩm bán theo giá FOB cũng chưa có ngoại lệ.
Đây là một bất lợi rất lớn của công ty vì công ty không thể tự quảng cáo mình
trên thị trường thế giới. Như vậy, so với các đối thủ cạnh tranh trên các thị
truờng có khả năng thanh toán cao thì công ty có sức cạnh tranh yếu, vì trên thị
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A60
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
trường này yếu tố chất lượng và nhãn mác sản phẩm đước chú ý hơn là giá cả.
Ngoài ra hàng dệt may của Việt Nam còn chưa cạnh tranh được với hàng
dệt may của Trung Quốc, Hàn Quốc Hông Kông, Thái Lan...còn do hoạt động
Marketing của ta còn chưa hiệu quả, chẳng hạn như ở Trung Quốc do truyền
thống của một dân tộc giỏi buôn bán nên đã đưa hàng dệt may của Trung Quốc
đi khắp thế giới. Ta còn chưa hình thành được các trung tâm thiết và sản xuất
hàng thời trang nổi tiếng, trong khi đó Trung Quốc có rất nhiều trung tâm nổi
tiếng (Quảng Châu, Thượng Hải, Hàng Châu,...) có sức thu hút khách hanngf
trên toàn thế giới.
Bên cạnh những khó khăn còn có những thuận lợi nhất định trên thị trường
thế giới :
- Là một công ty xuất khẩu hàng dệt may có uy tín với thời gian tham gia vào
xuất khẩu 20 năm nay .
- Công ty đã được nhận chứng chỉ ISO 9002. Đây là một bước tiến của công
ty, nó nâng cao uy tín, khả năng xuất khẩu của công ty trên thị trường quốc tế.
- Thuế nhập khẩu hàng may mặc của Việt Nam là 50% nên khi giảm thuế
nhập khẩu thì áp lực cạnh tranh tuy tăng song có thể nâng cao khả năng cạnh
tranh của công ty.
Trên phương diện xem xét về cạnh tranh xuất khẩu hàng dệt may trong
thương mại quốc tế, thì ATC (Hiệp định về hàng dệt may) cũng đang bộc lộ
những ảnh hưởng của nó đến cục diện cạnh tranh giữa các nước và các khối
nước. Trong đó lợi thế cạnh tranh thương mại hàng dệt may thế giới không hoàn
toàn thuộc về một nước hay nhóm nước nào.
Cơ hội xuất khẩu sẽ gia tăng cho tất cả các nước. Trong khi Bắc Mỹ và
EU vẫn là thị trường nhập khẩu lớn của thế giới thì chính các nước xuất khẩu
khác cũng sẽ là một thị nhập khẩu rộng lớn. Đồng nghĩa với điều đó cạnh tranh
xuất khẩu giữa các nước ngày càng mở rộng, quyết liệt hơn và sẽ đi đến khai
thác triệt để hơn các lợi thế tạo thành sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu.
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A61
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Nói cách khác, sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may xuất khẩu sẽ có xu hướng
trở lại gần hơn với sức cạnh tranh thực của nó.
Các nước phát triển sẽ bị giảm sức cạnh tranh đối với các sản phẩm sử
dụng nhiều lao động, giá trị gia tăng thấp do giá lao động trong nước ngày càng
tăng. Tuy nhiên các nước này sẽ khai thác khả năng cạnh tranh dựa trên cơ sở
tăng năng suất lao động tạo ra sản phẩm chất lượng cao nhờ lợi thế phát triển đi
trước của công nghệ sản xuất, trình độ am hiểu, khám phá thị trường và thiết kế
mẫu.
Các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước xuất khẩu mới (ở Nam Á,
ASEAN và Trung Quốc) sẽ tiếp tục khai thác khả năng cạnh tranh dựa trên lợi
thế về nguồn nhân công rẻ, dồi dào. Các sản phẩm dệt may xuất khẩu có sức
cạnh tranh cao của các nước này là: sản phẩm dệt chất lượng thấp và trung bình,
sợi tự nhiên đặc biệt là sợi bông; trang phục thông thường, đặc biệt là bảo hộ lao
động; các sản phẩm sử dụng chất liệu tự nhiên ...
Việt Nam là một trong những nước đang phát triển để có thể cạnh tranh được
với các nước đang phát triển thì bên cạnh lợi thế về nguồn nhân công rẻ dồi dào
các công ty dệt may Việt Nam nói chung và công ty dệt may Hà Nội nói riêng
cần áp dụng những công nghệ tiên tiến trong sản xuất học hỏi kinh nghiệm các
doanh nghiệp thành công trên thế giới , nâng cao công tác tiếp thị....nhằm tạo ra
các sản phẩm chất lượng cao và đưa chúng thâm nhập vào thị trường các nước
phát triển. Như vậy cục diện cạnh tranh xuất khẩu hàng dệt may trong xu thế
tự do hoá thương mại phát triển theo cả chiều rộng (cạnh tranh giữa các quốc
gia) và theo chiều sâu (cạnh tranh theo mặt hàng, nhóm hàng....) . Cạnh tranh
xuất khẩu hàng dệt may không chỉ cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu với nhau
trên thị trường nhập khẩu, mà nước xuất khẩu này phải đối mặt với sự cạnh
tranh của các nước xuất khẩu khác ở ngay chính thị trường nội địa.
3. Sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu ở công ty dệt may Hà Nội.
Chất lượng sản phẩm.
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A62
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Công ty dệt may Hà Nội xác định: đảm bảo chất lưọng sản phẩm và
những điều đã cam kết với khách hàng là nền tảng cho sự phát triển lâu dài cho
công ty. Nhận thức được điều này, công ty dệt may Hà Nội đã thực hiện qua hệ
thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002 mà công ty đã được cấp
chứng chỉ vào năm 2000. Việc được cấp chứng chỉ ISO 9002 và cố gắng phấn
đấu để có thể đáp ứng được các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật của mỗi thị
truờng nơi doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá vào sẽ là vũ khí cạnh tranh hữu
hiệu của công ty để có thể chiến thắng đối thủ cạnh tranh.
*Những biện pháp thực hiện chính sách chất lượng.
- Đầu tư nguồn lực cần thiết để xây dựng, áp dụng và duy trì hệ thống đảm bảo
chất lượng theo tiêu chuẩn ISO-9002.
- Khách hàng là nhân tố quan trọng của công ty. Đáp ứng yêu cầu và những
đòi hỏi của khách hàng là nhiệm vụ của mọi thành viên để đem lại lợi nhuận cho
công ty.
- Thường xuyên nghiên cứu thị trường, thị hiếu thời trang của khách hàng để
đưa ra những sản phẩm độc đáo có chất lượng đáp ứng yêu câù đa dạng phong
phú của thị trường .
- Có kế hoạch đầu tư thiết bị, đổi mới công nghệ để đảm bảo yêu cầu chất
lượng, đủ sức cạnh tranh trên thị trường
- Công tác đào tạo huấn luyện là công việc thường xuyên lâu dài nhằm duy trì
được đội ngũ cán bộ công nhân viên có năng lực và trình độ. Có chính sách đãi
ngộ hợp lý để họ gắn bó lâu dài với công ty
- Từng kỳ đề ra và thực hiện những mục tiêu cụ thể thích hợp với chính sách
chất lượng sản phẩm của công ty
- Có kế hoạch đánh giá xem xét nội bộ, kịp thời rút ra những điểm tồn tại trong
hệ thống quản lý chất lượng để có biện pháp khắc phục, phòng ngừa nhằm bảo
đảm công tác quản lý chất lượng luôn được cải tiến và có hiệu quả.
*Đối với sản phẩm sợi:
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A63
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Sản phẩm sợi được xem là có chất lượng cao so với toàn ngành với hầu
hết là sản phẩm cấp I tức là sản phẩm đạt loại chất lượng tốt. Chất lượng sản
phẩm sợi thể hiện qua khả năng tiêu thụ mặt hàng này của công ty trong mấy
năm qua. Sản phẩm đã chứng tỏ được thế mạnh bởi sự đa dạng về chủng loại,
phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng.
Sản phẩm loại I chiếm hơn 98% cho thấy việc đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng về mặt hàng sợi để sản xuất hàng dệt kim là hoàn toàn có thể điều đó chứng
tổ công ty luôn giữ mức chất lượng ổn định tạo được niềm tin cho khách hàng.
*Sản phẩm dệt kim.
Hầu hết các sản phẩm dệt kim là xuất khẩu theo đơn đặt hàng, do đó chất
lượng vải, mẫu mã, kiểu dáng, mầu sắc...đã được ghi rõ trong đơn đặt hàng và
nhiệm vụ của công ty là phải sản xuát theo đúng tiêu chuẩn của đơn đặt hàng.
Tại các nhà máy may, công nhân trực tiếp sản xuất may thêu và kiểm tra chất
lượng sản phẩm để làm lại những sản phẩm không đạt yêu cầu, sau đó những
sản phẩm này lại được kiểm tra trước khi bao gói theo phương pháp lấy mẫu.
Quy trình kiểm tra chất lượng sản phẩm của công ty đặc biệt được coi trọng
vì đây là vũ khí cạnh tranh của công ty từ đó tạo được niềm tin đối với khách
hàng truyền thống và khách hàng tiềm năng.
Nhờ làm tốt các khâu này mà chất lượng sản phẩm dệt may của công ty
ngày càng được nâng cao và được chấp nhận tại các thị trường khó tính như thị
trường EU, thị trường Nhật Bản, thị trường Mỹ.Tuy nhiên công ty mới sản xuất
những chủng loại mặt hàng đơn giản có giá trị thấp mà chưa sản xuất được các
mặt hàng cao cấp nên mặc dù xuất được khối lượng lớn nhưng kim ngạch thu
được không cao
Giá thành và giá cả.
Do đặc điểm là ở Việt Nam việc sản xuất ra các nguyên phụ liệu cho
ngành dệt may vẫn còn rất hạn chế. Đa số nguyên phụ liệu là do các công ty tiến
hành nhập khẩu từ nước ngoài căn cứ vào hợp đồng mà công ty đã ký với khách
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A64
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
hàng. Công ty dệt may Hà Nội cũng làm trong tình trạng này. Trên thực tế công
ty luôn cố gắng tận dụng tối đa nguồn nguyên vật liệu mà trong nước có thể sản
xuất được với chi phí thấp hơn, kết hợp với các nguyên vật liệu nhập khác mà
trong nước không sản xuất ra được để tiến hành sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu
nhằm giảm tối đa chi phí tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Bảng 9: Thực trạng cung ứng nguyên liệu
(Đơn vị: %)
STT Nguyên liệu Nhập khẩu Trong nước
1 Xơ 95 5
2 Sợi 95 5
3 Hoá chất, thuốc nhuộm 99 1
4 Vải 95 5
(Nguồn : Báo cáo chuẩn đoán công ty dệt Hà nội)
Các nguyên liệu sản xuất các mặt hàng chính của công ty xơ sản xuất sợi,
sợi cho dệt, vải sản phẩm may chủ yếu nhập khẩu từ nước ngoài chiếm 95%,
mua ở trong nước là không đáng kể chỉ chiếm khoảng 5%. Những con số này
cho thấy công ty dệt may Hà Nội chưa chủ động về mặt nguyên liệu, bị phụ
thuộc vào nước ngoài; cho nên tính chủ động trong sản xuất chưa cao và hiệu
quả sản xuất sẽ bị hạn chế. Đặc biệt sản phẩm sợi hiện vẫn là mặt hàng chủ đạo
của công ty, là nguồn thu nhập chính của công ty thế nhưng nguyên liệu chính
của nó là xơ PE chiếm phần lớn là mua từ thị trường nước ngoài.
Nguyên liệu bông xơ được sử dụng chủ yếu từ các nguồn sau:
Nguyên vật liệu bông:
- Bông Viêt Nam chiếm 13,5% lượng bông sử dụng.
- Bông Nga chiếm khoảng 69,5%
- Ngoài ra bông còn được nhập từ các nước như : Mỹ, úc, Tây Phi.
Toàn bộ nguyên liệu bông của công ty đều được đặt mua tại tổng công ty dệt
may Việt Nam.
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A65
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Nguyên vật liệu xơ: được nhập khẩu từ Hàn Quốc và Đài loan...
Ngoài ra công ty còn nhập nhiều loại hoá chất thuốc nhuộm dùng cho các
công đoạn tẩy nhuộm in làm bóng vải... và các nguyên liệu khác phục vụ cho
quá trình sản xuất kinh doanh.
Bảng10: Giá cả sản phẩm xuất khẩu của công ty trên thị trường Nhật Bản.
(Đơn vị: USD/SP)
STT Tên sản phẩm Hanosimex Trung quốc Giá TB ở Nhật
Bản
1 Dệt kim 2,64 2,58 2,67
2 Khăn 0,427 0,402 0,432
(Nguồn: Phòng kế hoạch thị trường)
Như vậy, giá cả xuất khẩu của công ty ở hai mặt hàng trên là khá cao, khi
so sánh với đối thủ Trung Quốc thì công ty không có khả năng cạnh tranh bằng
giá so với Trung quốc, mặc dù giá sản phẩm của công ty xuất khẩu sang thị
trường Nhật Bản thấp hơn mức giá trung bình của sản phẩm trên thị trường đó
nhưng mức chênh lệch không cao,ở sản phẩm dệt kim mức chênh lệch là 0,03
USD/1SP còn ở sản phẩm khăn là 0,005 USD/1SP trong khi đối thủ Trung Quốc
thì mức chênh lệch này lần lượt là 0,09 và 0,03 USD/1SP. Một phần nguyên
nhân ở đây chính là về nguyên liệu. Việc công ty phải nhập phần lớn nguyên
liệu để sản xuất sẽ kéo theo hàng loạt các chi phi về việc nhập khẩu này và là
nguên nhân tăng giá thành sản phẩm. Đây là nguyên nhân làm giảm khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp bởi trong kinh doanh vấn đề giá cả là một trong
những vấn đề được đám phán chủ yếu và lâu nhất của cuộc đàm phán. Nó liên
quan đến lợi ích kinh tế của các bên.
Năng lực của công ty được hình thành từ những kỹ năng trong việc khai thác,
phối hợp các nguồn lực và hướng các nguồn lực vào mục tiêu sản xuất. Hay nói
các khác năng lực của công ty phụ thuộc phần lớn vào cách thức hoạt động của
bộ máy quản lý của công ty.
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A66
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Dựa theo thực trạng điều hành công tác quản lý của ban lãnh đạo, có thể
thấy năng lực của công ty thể hiện khá rõ những điểm mạnh. Trước hết, ban lãnh
đạo đã có những cải tiến mang tính hiệu quả trong việc tinh giản bộ máy quản
lý, phối hợp công việc nội bộ, nhất quán, các quyết định đưa ra hợp lý và được
thực hiện dứt khoát, triệt để. Các phòng ban của công ty thực hiện đúng chức
năng, đảm bảo tốt tiến độ công việc cũng nhu nghĩa vụ đối với nhà nước và
quyền lợi cho người lao động. Công tác giao dịch buôn bán, thanh toán với bạn
hàng được thực hiện đầy đủ và hiệu quả, đảm bảo đủ nguyên phụ liệu cho sản
xuất. Các quản đốc phân xưởng luôn thục hiện đầy đủ nhiệm vụ, đảm bảo tiến
độ sản xuất và giao hàng.
Tuy nhiên, những mặt hạn chế trong công tác điều hành, quản lý quá trình
sản xuất kinh doanh cũng ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả tiêu thụ sản phẩm.
Công ty tiến hành kinh doanh quốc tế theo hình thức tiếp cận thụ động, sản xuất
theo đơn đặt hàng, nên những phản ứng với yêu cầu của thị trường không theo
một kế hoạch hệ thống và rõ ràng. Chính vì thế hoạt động marketing ít nhiều
mang tính rời rạc. Trong khi đó các công ty dệt may khác đã điều hành linh hoạt
hơn công tác nghiên cứu thị trương và các hoạt động marketing nhằm khuyếch
trương sản phẩm của mình. Như vậy công ty đã mất đi lợi thế cạnh tranh trong
khả năng tìm kiếm và tiếp cận với thị trường cũng nhu bạn hàng mới.
4 Các biện pháp công ty đã áp dụng để nâng cao sức cạnh tranh 4.1>
Hoạt động nghiên cứu thị trường của công ty Trong điều kiện môi trường
cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt như hiện nay, làm thế nào để đẩy mạnh
lượng hàng dệt may ra thị trường thế giới đang là vấn đề được ban lãnh đạo
công ty đặc biệt quan tâm. Cụ thể là trong thời gian gần đây công ty thành lập
một tổ chuyên nghiên cứu thị trường. Bên cạnh những khách hàng truyền thống
công ty luôn nỗ lực tìm kiếm khách hàng mới thông qua các ấn bản, tạp chí về
thương mại, giá cả. Công ty tổ chức quảng cáo giới thiệu sản phẩm trên phương
tiện thông tin đại chúng đặc biệt là các Catalo về thương mại. Ngoài ra công ty
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A67
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
còn tham gia vào các hội chợ triển lãm, tổ chức các hội nghị bán hàng để giới
thiệu cho các khách hàng biết đến thế mạnh của mình nhằm kí kết hợp đồng.
Trong đợt triển lãm hàng chất lượng cao tại Việt Nam năm 1999, sản phẩm của
công ty được Bộ Công Nghiệp trao bằng khen là 1 trong 10 sản phẩm của ngành
dệt may Việt Nam có chất lượng cao. Và liên tiếp 2 năm liền năm 2000 và năm
2001 sản phẩm của công ty đã nằm trong số những sản phẩm nội địa được ưa
chuộng nhất của năm. Thêm vào đó công ty gửi thư chào tới các khách hàng giới
thiệu về công ty, về năng lực sản xuất và các mẫu mã sản phẩm. Tuy nhiên
công ty mới có quảng cáo trên báo, trên mạng mà chưa biện pháp quảng cáo
mạnh như quảng cáo trên truyền hình, pano, áp phích tại các nơi công cộng.
Tình hình này chắc chắn sẽ thay đổi trong tương lai vì nếu không thực hiện tốt
công tác tiếp thị thì công ty sẽ khó mở rộng thị trường cuả mình và sản phẩm
của công ty sẽ bị đối thủ cạnh tranh bỏ lại phía sau trong lĩnh vực này . Nhưng
quan trọng vẫn là việc nắm bắt thông tin và nhu cầu từ phía khách hàng. Nó đòi
hỏi không những phải có thông tin kịp thời, chính xác mà còn cần sự chi tiết và
đầy đủ bởi thông tin là yếu tố mang tính chất quyết định trong hoạt động nghiên
cứu thị trường của bất cứ một công ty nào tham gia vào việc kinh doanh trên thị
trường, nhất là đối với các doanh nghiệp tham gia thị trường quốc tế. Hoạt dộng
nghiên cứu thị trường và tìm kiếm khách hàng mới của công ty được thực hiện
thông qua việc thu thập các thông tin sơ cấp và thứ cấp. Các nguồn thông tin sơ
cấp công ty có được chủ yếu qua các bản báo cáo, thông báo của các đối tác phía
nước ngoài. Sau khi đã có được những thông tin tương đối đầy đủ về các khách
hàng sẽ đặt hàng sắp tới và lượng hàng dệt may mà họ có nhu cầu tiêu dùng,
những đối tác này sẽ có những bản báo cáo chi tiết về cho công ty để từ đó công
ty sẽ có những chuyến chào hàng thử nghiệm. Phương pháp này tuy không tốn
nhiều chi phí song chỉ có thể áp dụng trong trường tìm kiếm thị trường mới.
Các nguồn thông tin thứ cấp được công ty thu thập qua các tạp chí kinh tế và các
tài liệu có liên quan khác. Đặc biệt mạng Internet là một trong những nguồn
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A68
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
cung cáp thông tin quan trọng nhất Ngoài ra một nguồn cung cấp thông tin khá
phong phú khác là có được từ chính những cuộc tiếp xúc trực tiếp với khách
hàng, đối thủ cạnh tranh và các quan chức nhà nước . Để tăng cường công tác
tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm của mình, công ty đang gấp rút chuẩn bị thành lập
một phòng Marketing với chức năng và nhiệm vụ đúng với tên gọi của nó. Với
chính sách này sẽ giúp công ty xây dựng được chiến lược marketing phù hợp,
giới thiệu hình ảnh của công ty và sản phẩm của công ty sẽ được nhiều khách
hàng ở trong và ngoài nước biết đến , nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm của
công ty.
4.2> Hoạt động phân phối
Để đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, công ty đã cố gắng phát triển mạng
lưới phân phối hàng hoá. Hiện nay công ty vẫn đang sử dụng cả bốn kênh phân
phối cho qua trình phân phối sản phẩm.
Đối với kênh 1 là kênh phân phối trực tiếp, công ty đưa sản phẩm đến tận tay
người tiêu dùng không thông qua hệ thống trung gian. Những sản phẩm này
thường là những sản phẩm may mặc dệt kim nội địa, phế phẩm không đủ tiêu
chuẩn.
Đối với kênh 3 kênh phân phối gián tiếp còn lại, công ty thường bán cho các
doanh nghiệp (các doanh nghiệp thương mại trong nước và nước ngoài) đại lý,
người bán buôn, người bán lẻ. Các sản phẩm phù hợp với kênh phân phối này là
sợi, vải như vải mộc hay vải thành phẩm, khăn và sản phẩm may .
Mục tiêu của công ty đối với thị trường nội địa là mỗi tỉnh, thành phố phải
có ít nhất một điểm bán hàng. Công ty thường chọn các công ty thương mại Nhà
Nước đang đứng vững trong cơ chế thị trường làm đối tác của mình điển hình là
trung tâm thương mại Minh Khai ở Hải Phòng...Công ty cũng đang có kế hoạch
thêm 1 cửa hàng lớn tại trung tâm Hà Nội để tăng cường việc giới thiệu sản
phẩm tới người tiêu dùng cũng như thu hút sự chú ý của khách hàng. Với chính
sách phân phối này công ty đã tạo ra một mạng lưới phân phối khá rộng khắp và
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A69
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
đưa ra một kết quả khả quan đối với công ty. Việc sử dụng kênh phân phối trực
tiếp tại thị trường nội địa sẽ giúp công ty có thể tiếp súc trực tiếp với khách hàng
từ đó có thể tìm hiểu và nắm được những nhu cầu và mong muốn từ phía khách
hàng từ đó có thể đưa ra những cải tiến về mẫu mã sản phẩm. Cùng với kênh
phân phối này công ty công ty có thể sử dụng nó như một công cụ để xây dựng
hình ảnh của công ty trên thị trường nội địa, việc phát triển trên thị trường nội
địa sẽ giúp công ty giảm thiểu những rủi ro, biến động khách quan từ bên ngoài.
Còn đối với 3 kênh phân phối còn lại sẽ đem lại cho công ty lợi ích nhiều hơn
họ tự làm lấy, khai thác đuợc kinh nghiệm trong việc bảo quản vận chuyển và
cất dữ hàng hoá. Đồng thời thông qua các kênh phân phối này sẽ giúp công ty
trong việc tạo dựng và duy trì mối liên hệ với những người mua tiềm năng. Việc
sử dụng cả 4 kênh phân phối sẽ giúp công ty đạt được mức bao phủ thị trường
nhanh chóng. Với sự linh hoạt trong việc sử dụng các kênh phân phối, nắm bắt
và đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường là một công cụ cạnh tranh hữu hiệu
đối với công ty.
Sơ đồ 4:Quá trình phân phối sản phẩm của công ty(2002)
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A70
Đại lý
Đại lý
Người bán lẻ
Người bán buôn
Đại lý
Công ty
Người bán lẻ
Người tiêu dùng
Xuất
Người bán buôn
Người bán lẻ
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
(Nguồn: Phòng kế hoạch thị trường)
4.3 > Chính sách giá cả
Ngày nay trên thế giới, cạnh tranh chất lượng sản phẩm, dịch vụ thời gian
cung cấp hàng hoá và điều kiện giao hàng được đặt lên vị trí hàng đầu. Nhưng
giá cả vẫn có vai trò nhất định thậm chí còn diễn ra gay gắt. Đối với thị trường
Việt Nam, thu nhập dân cư chưa cao, yêu cầu về chất lượng và chủng loại hàng
hoá còn rất thấp thì cạnh tranh bằng chiến lược giá cả vẫn được coi là vũ khí lợi
hại giúp cho các doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh.
Công ty định giá bán bằng cách cộng thêm mức lãi 10-15% vào tổng chi phí .
Giá bán trên thị trường nội địa dựa trên giá thành và giá thị trường. Giá xuất
khẩu dựa trên thông tin do VINATEX (Tổng công ty dệt may Việt Nam) cung
cấp (ước tính) và chủ yếu từ các khách hàng (như khách hàng Indonesia và ấn
Độ) giá tham khảo quốc tế và từ tạp chí ngooại thương nhưng để đưa ra được
mức giá xuất chuẩn thì công ty cần hiểu rõ về giá thành sản xuất, giá thị trường
và giá hiện tại đang bán của công ty và giá của các đối thủ cạnh tranh. Hiện tại
giá xuất khẩu của công ty thấp hơn giá bán trên thị trường nội địa vì áp lực cạnh
tranh giá trên thị trường quốc tế cao mà mạnh nhất là Trung Quốc
Xác định rõ vai trò của giá cả, ngoài việc định giá Công ty còn áp dụng các
hình thức chiến lược giá cả :
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A71
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
+ Chiến lược ổn định giá
+ Chiến lược giảm giá
+ Chiến lược phân biệt giá
- Chính sách ổn định giá: sử dụng chiến lược này công ty muốn duy trì cho
được mức giá hiện đang bán để một mặt đáp ứng được mục tiêu về tối đa hoá lợi
nhuận, tối đa hoá doanh thu và giữ được uy tín cho công ty. Công ty đã áp dụng
chiến lược giá ổn định đối với các sản phẩm của công ty.
- Chính sách giảm giá: vào các ngày lễ, tết, các ngày có ý nghĩa trong sinh
hoạt chính trị, văn hoá kinh tế của đất nước công ty chủ trương áp dụng hình
thức giảm giá, tức là hạ thấp giá bán của doanh nghiệp nhằm lôi kéo sự chú ý
của khách hàng tới sản phẩm dịch vụ của mình.
- Chính sách phân biệt giá : Công ty sử dụng chiến lược phân biệt giá theo
khối lượng hàng mua và phương thức thanh toán: khách hàng mua số lượng
hàng hoá nhiều hay thanh toán nhanh, trả ngay bằng tiền mặt sẽ nhận được sự
ưu đãi về giá so với khách hàng khác. Ngoài ra đối với những nhóm khách hàng
khác nhau như: khách quen, các đơn vị kinh tế thuộc tổ chức từ thiện, trường
học ...công ty sẽ bán với mức giá ưu đãi hơn.
Đối với mỗi sản phẩm công ty đều tiến hành áp dụng linh hoạt cả ba chiến
lược giá này. Chẳng hạn đối với sản phẩm dệt kim là sản phẩm xuất khẩu chiếm
tỷ lệ khá lớn so với toàn bộ kim ngạch xuất khẩu công ty tiến hành áp dụng
chính sách giá cả ổn định thường là mức giá bán mà công ty cộng thêm mức lãi
10-15% vào tổng chi phí. Với phẩm sợi là sản phẩm công ty chủ yếu tiêu thụ tại
thị trường nội địa, công ty áp dụng chiến lược giảm giá nhằm tác động nên tâm
lý của khách hàng trong nước là các doanh nghiệp mua sợi về để sản xuất ra vải,
việc giảm giá này giúp công ty tăng số lượng sợi bán ra đồng thời lôi kéo được
khách hàng tới sản phẩm của mình. Đối với hầu hết các sản phẩm công ty thực
hiện chính sách giá phân biệt. Chẳng hạn, đối với sản phẩm khăn, việc bán hàng
cho các khách hàng quen lâu năm công ty thường thực hiện giảm giá 5% so với
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A72
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
các khách hàng khác, và với mỗi phương thức thanh toán khác nhau, mỗi luợng
hàng mua khác nhau công ty lại có một sự ưu đãi khác nhau về giá. Với các
chính sách giá linh hoạt này giúp công ty khắc phục phần nào sự yếu hơn trong
cạnh tranh về giá so với đối thủ khác ở trong và ngoài nước đồng thời tạo được
một luợng doanh thu ổn định, duy trì được các bạn hàng truyền thống và thu hút
thêm được nhiều khách hàng mới.
4.4> Chính sách sản phẩm
Có thể nói đây là chính sách quan trọng hàng đầu trong chiến lược Marketing
của công ty. Từ những tìm hiểu về thị trường, công ty thiết kế và tạo mẫu kiểu
dáng quần áo, mẫu thêu, nhu cầu về loại sợi. Sau đó công ty cho sản xuất thử
mỗi lô tối đa là 500 sản phẩm. Bước tiếp theo, công ty tung ra thị trường những
loại sản phẩm này để tìm thông tin phản hồi từ khách hàng thông qua các nhân
viên tiếp thị lành nghề. Từ đó sẽ có quyết định sản xuất tiếp hay không và nếu
tiếp tục sản xuất thì với số lượng là bao nhiêu. Để phát triển các sản phẩm của
mình. Công ty đã áp dụng biên pháp sau:
Thiết kế mẫu mới: trong điều kiện kinh doanh mang tính cạnh tranh quyết
liệt như hiện nay thì điều tất yếu là nếu công ty không đưa ra những sản phẩm
mới mà chỉ dựa vào những sản phẩm truyền thống thì chắc chắn sẽ đi tới thất
bại. Lí do là mong muốn và nhu cầu của người mua không ổn định cho nên chu
kỳ sống của sản phẩm cũng bị rút ngắn theo. Tuy nhiên việc thiết kế mẫu mới là
một công việc rất khó thực hiện và mang lại rủi ro cao. Nhận thức được tầm
quan trọng của công việc này, năm 1997 qua nghiên cứu thị trường trong nước,
công ty đã phải đi đến sản xuất sản phẩm mới: đó là sợi cotton chải kỹ và sợi
Peco chải kỹ có chất Parajin với các tỉ lệ trộn khác nhau để tung vào thị trường
phía Nam đặc biệt là thị trường Thành Phố Hồ Chí Minh, nơi tập trung nhiều xí
nghiệp dệt may có nhu cầu sử dụng loại sản phẩm này.
Bảng12: Danh mục mặt hàng sợi của công ty dệt may Hà Nội (2002).
STT Sản phẩm sợi STT Sản phẩm sợi
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A73
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
1 Ne 45 PE 14 Ne 45 PE 100%
2 Ne 40 PE 15 Ne 45.83/17 chải thô
3 Ne 30 PE 16 Ne 30.83/17 chải thô
4 Ne 32 cotton chải thô 17 Ne 30.65/35 chải thô
5 Ne 32 cotton chải kỹ 18 Ne 20.65/35 chải thô
6 Ne 20 cotton chải thô 19 Ne 10 PE
7 Ne 20 cotton chải kỹ 20 Ne 32/2.65/35
8 Ne 30 cotton chải thô 21 Ne 40/2.65/35 chải kỹ
9 Ne 60.65/35 chải kỹ 22 Ne 42/2.65/35 dệt kim
10 Ne 45.65/35 chải kỹ 23 Ne 60/2.65/35 chải kỹ
11 Ne 23 cotton chải thô 24 Ne32/2 cotton chải thô
12 Ne 32.65/35 chải kỹ 25 Ne 20/2 cotton chải thô
13 Ne 30.65/35 chải kỹ
(Nguồn: Phòng kế hoạch thị trường)
Trước năm 1997, sản phẩm sợi của công ty chủ yếu là các sản phẩm
cotton chải thô và Peco chải thô. Cùng với việc nghiên cứu nhu cầu thị trường ,
từ năm1997 đến nay công ty đã đưa ra thị trường các sản phẩm Peco chải kỹ và
cotton chải kỹ nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Mặc dù sản
phẩm sợi chủ yếu là kinh doanh trên thị trường nội địa nhưng sức cạnh tranh của
sản phẩm so với đối thủ trong nước là khá cao. So sánh chủng loại sản phẩm sợi
của công ty với công ty dệt 8/3 thì công ty dệt 8/3 chỉ có 18 chủng loại sản phẩm
sợi trong đó có 8 chủng loại sợi PE (N12, N34, N36, N54, N71, N76, N81, N86,
N100) và 8 chủng loại sợi cotton với các ký hiệu tương tự. Với việc đa dạng hoá
chủng loại sản phẩm sợi giúp cho công ty tăng doanh thu từ đó tăng lợi nhuận và
có thêm được nhiều bạn hàng mới kể cả ở trong nước và ngoài nước
Sao chép sản phẩm xuất khẩu và bán ở thị trường nội địa. Đây là một biện
pháp có thể khắc phục được nhược điểm của phương án trên. Vì công ty không
phải mất thêm chi phí và thời gian vào thiết kế mẫu mới cho nên khả năng rủi ro
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A74
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
ở đây là rất thấp. Hơn nữa đây là những sản phẩm xuất khẩu đang được chấp
nhận trên thị trường quốc tế cho nên kiểu dáng mẫu mã rất phù hợp với trào lưu
hiện đại. Từ đó làm cho khả năng thành công trên thị trường nội địa là rất lớn.
Nghiên cứu tạo mốt (model) trên thế giới: dựa vào kiểu dáng của những
nhà tạo mốt nước ngoài, công ty đưa ra những mẫu phù hợp với khả năng của
mình để tạo ra chính sách về sản phẩm mới. Trong năm 1997 công ty đã dựa vào
thị trường các kiểu áo mang nhãn hiệu Poloshirt, Navy, Big-star .... Đây là biện
pháp khá đơn giản và tiết kiệm cho khâu thiết kế nhưng nó cũng chỉ là một biện
pháp trước mắt chứ không mang tính chiến lược lâu dài .
4.5> Chính sách chất lượng
Trong cơ chế thị trường biến động và cạnh tranh ngày càng gay gắt, để có thể
tồn tại và phát triển các nhà sản xuất phải có khả năng quản lý và tổ chức hiệu
quả những sản phẩm có chất lượng cao bằng con đường kinh tế nhất.Vì lẽ đó
Công ty Hanosimex luôn đề ra mục tiêu “Đảm bảo chất lượng sản phẩm và
những đã điều cam kết với khách hàng là nền tảng cho sự phát triển lâu dài của
Công ty’’. Để đạt được mục tiêu này Công ty đã xây dựng chính sách chất lượng
nhằm :
- Thoã mãn nhu cầu của khách hàng.
- Tiết kiệm chi phí .
- Phát huy mọi nội lực của doanh nghiệp .Đặc biệt là yếu tố con người
- Tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp .
Hiện nay công ty có các qui trình kỹ thuật được qui định bằng văn bản
cho mỗi loại sản phẩm và phòng kỹ thuật đầu tư chịu trách nhiệm xây dựng các
tiêu chuẩn cho mỗi loại sản phẩm. Công ty cũng đã nhận được chứng chỉ ISO
cho nhiều nhà máy, trung tâm thí nghiệm và kiểm soát chất lượng.
Bảng 13; Danh sách nhà máy đã có chứng nhận ISO 9002 (2002)
Tên nhà máy
Chứng nhận ISO
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A75
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Hanosimex Đã có chứng chỉ
Nhuộm , dệt kim . hoàn tất Đã có chứng chỉ
Nhà Máy May số 1 Đã có chứng chỉ
Nhà Máy May số 2 Đã có chứng chỉ
Nhà Máy May số 3 Đã có chứng chỉ
Nhà Máy May Sợi tại Hà Nội Đã có chứng chỉ
Nhà Máy Vải Denim Đang thực hiện
Nhà Máy May Đông Mỹ Đang thực hiện
Nhà Máy Khăn Hà Đông Đang thực hiện
Nhà Máy Sợi Vinh Đang thực hiện
Trung Tâm Thí Nghiệm Kiểm Soát Chất Lượng Đã có chứng chỉ
(Nguồn: Phòng kế hoạch thị trường)
Tuy nhiên công ty vẫn còn một số điều cần khắc phục: số liệu được ghi chép
thủ công, không thuận tiện và cản trở việc thực hiện những phân tích về xu
hướng để có thể đưa ra những biện pháp cho các vấn đề chất lượng mang tính hệ
thống; các phòng thí nghiệm tại các nhà máy không thuộc sự quản lý của Trung
tâm kiểm soát chất lượng và không được trang bị giống như phòng thí nghiệm
của trung tâm. Nếu hệ thống kiểm soát chất lượng và hỗ trợ quản lý có thể mở
rộng hơn nữa so với việc theo dõi để tối ưu hoá các hoạt động thì Hanosimex sẽ
có thể là một nhà sản xuất sản phẩm chất lượng cao trên thị trường thế giới.
III ĐÁNH GIÁ SỨC CẠNH TRANH SẢN PHẨM XUẤT KHẨU
CỦA CÔNG TY DỆT MAY HÀ NỘI.
1. Những thành tựu.
Công ty dệt may Hà Nội (HANOISIMEX) đã có 20 năm làm công tác
xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam ra thị trường thế giới. Sự thông thạo thị
trường, uy tín quốc tế lâu năm, quan hệ bạn hàng mật thiết và có kinh nghiệm
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A76
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
trong giao dịch, cộng với chuyên môn và nghiệp vụ vững vàng là những lợi thế
hết sức căn bản cho công ty trong việc đẩy mạnh và phát triển công tác xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam.
Công ty đề ra chủ trương và biện pháp cụ thể để đẩy mạnh xuất khẩu, xây
dựng cơ chế và quy chế khen thưởng khuyến khích xuất khẩu. Do có sự chỉ đạo
sát sao của công ty nên hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu luôn luôn hoàn
thành kế hoạch đề ra. Công ty có chính sách ưu tiên trong việc đào tạo và đào
tạo lại cán bộ, có chương trình rõ ràng, dành những chi phí hợp lý và cần thiết
cho đào tạo.
Công ty đã phát triển mạng lưói phân phối rộng khắp nhằm xây dựng hình
ảnh cuả công ty tại thị trường trong nước và tăng mức xuất khẩu của công ty ở
thị trường nước ngoài.
Công ty đã áp dụng các chiến lược giá cả một cách linh hoạt nhằm tăng
khả năng cạnh tranh của sản phẩm công ty.
Cùng với việc được cấp chứng chỉ ISO 9002, công ty cố gắng phấn đấu để
có thể đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn của mỗi thị trường nơi công ty xuất
khẩu hàng hoá. Đây cũng là công cụ cạnh tranh hữu hiệu của công ty. Với chính
sách này giúp thị trường xuất khẩu của công ty ngày càng mở rộng, đặc biệt là
các thị trường lớn, ổn định và hứa hẹn một tương lai sáng lạn của công ty như
UE, Mỹ Nhật.
Công ty đã tiến hành nghiên cứu sáng tạo nhiều sản phẩm mới, đáp ứng
nhu cầu đa dạng của thị trường. Cùng với các hoạt động quảng cáo khuyếch
trương sản phẩm đã góp phần nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm của công ty.
Trong những năm qua, Công ty dệt may Hà Nội luôn là một trong những
doanh nghiệp hoàn thành vượt mức chỉ tiêu nộp ngân sách nhà nước. Bên cạnh
đó, công ty luôn luôn quan tâm tới các cán bộ công nhân viên của mình bởi
chính họ là người làm nên thành công của doanh nghiệp, thể hiện qua mức
lương đảm bảo mức sống cho mỗi người. Mức thu nhập của CBCNV công ty
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A77
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
không ngừng được cải thiện. Không những ở Hà Nội mà các khu vực khác của
công ty cũng có sự gia tăng đáng khích lệ. Đây chính là một động lực thúc đẩy
các thành viên trong công ty phấn khởi, tin tưởng vào sự thành công của công ty
hiện tại và tương lai.
2 Những mặt còn tồn tại.
Trong những năm qua, công ty dệt may Hà Nội đã có nhiều cố gắng trong
cạnh tranh ở ngành dệt may và đã thành công đáng kể không chỉ ở trong nước
mà còn ở thị trường quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được
công ty cồn tồn tai một số mặt hạn chế sau:
Thứ nhất: Việc sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu và tài sản cố định chưa
hiệu quả gây lãng phí và thất thoát làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp
Thứ hai: Công tác nghiên cứu, quản lý thị trường chưa được quan tâm đầy
đủ, chưa có nhũng cải tiến đáng kể về công nghệ sản xuất, đầu tư cho hoạt động
khuếch trương sản phẩm.
Thứ ba: Giá thành sản phẩm còn cao, khả năng cạnh tranh về giá cả công
ty so với các đối thủ trong và ngoài nước còn yếu
Thứ tư: Công tác thiết kế mẫu mốt, thời trang của công ty còn yếu, công
ty không có phòng thiết kế mẫu riêng mà chủ yếu làm hàng theo đơn đặt hàng
của bạn hàng, dẫn đến không có mẫu nhiều, đa dạng để chào bán trên thị trường
nước ngoài, do vậy hoạt động xuất khẩu chủ yếu của công ty là do phía bạn
hàng đặt hàng( mẫu đối mẫu ) mà chưa có mặt hàng chào hàng chủ động.
Thứ năm: Do trang thiết bị của công ty còn khá lạc hậu so với nhu cầu
ngày càng nâng lên của khách hàng, dẫn đến việc phải làm đi làm lại, thậm chí
không ký kết được hợp đồng do năng lực có hạn (nhất là năng lực nhuộm hoàn
tất rất yếu).
Trên đây là một số mặt còn hạn chế của công ty tuy rằng quy trình xuất
khẩu của công ty đã khá hoàn thiện. Trong thời kỳ cạnh tranh gay gắt như hiện
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A78
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
nay, việc không ngừng nâng cao quy trình xuất khẩu của mình để nâng cao khả
năng cạnh tranh quốc tế là điều mà các doanh nghiệp đều quan tâm và cố gắng
đạt được trong thời gian sớm nhất.
3.Nguyên nhân.
- Công ty chưa đầu tư đúng mức tới khâu quan trọng đó là khâu thiết kế, kiểu
dáng vẫn còn đơn điệu, mầu sắc kích cỡ chưa đa dạng phong phú chưa phù hợp
với mọi lứa tuổi.
- Ý thức của người lao động chưa cao dẫn đến làm việc kém hiệu quả, năng
xuất lao động thấp, tỉ lệ sản phẩm sai hỏng cao.
- Công ty còn hạn chế trong chính sách đa dạng hoá sản phẩm, không đi sâu
nghiên cứu thị trường mộ t cách đích đáng.
- Máy móc thiết bị còn lạc hậu,chắp vá cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém
- Nguyên vật liệu chính của công ty lại phụ thuộc vào thị trường nước ngoài.
Do vậy công ty không linh hoạt trong chính sách phát triển để phù hợp với từng
lứa tuổi, từng thị trường.
- Cơ cấu vốn không hợp lý cùng với lãi suất ngân hàng và mức thếu động viên
vào ngân sách còn quá lớn đã không khuyến khichs sản xuất, làm cho chi phí
gián tiếp tăng cao. Nhiều khi doanh nghiệp bí các nguồn vốn trung và dài hạn đã
phải dùng các nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư. Lãi suất cao thời gian vay ngắn đã
làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình sản xuất và cáckế hoạch đầu tư dài hạn
của công ty.
- Khả năng sáng tạo mẫu mốt của công ty còn yếu kém. Một sản phẩm sau khi
đưa ra thị trường lại được duy trì trên thị trường trong một thời gian khá lâu. Chỉ
khi nào thấy người tiêu dùng đã chán sản phẩm đó doanh nghiệp mới thôi không
sản xuất nữa. Công ty chưa nắm bắt rõ được chu kỳ sống của sản phẩm.
- Trong hoạt động kinh doanh XNK công ty phải nhập đa số nguyên vật liệu
(NVL) từ nước ngoài. Việc nhập khẩu NVL này công ty phải tiến hành đóng
thuế nhập khẩu. Mặc dù, sau khi hoàn tất hoạt động xuất khẩu các sản phẩm
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A79
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
được sản xuất bằng NVL đó thì công ty được hoàn thuế nhập khẩu. Tuy nhiên,
thời gian từ khi nộp thuế đến khi hoàn thuế là khá dài, điều này ảnh hưởng tới
việc sử dụng nguồn vốn của công ty một cách hiệu quả.
CHƯƠNG III
ĐỀ XUẤT NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ĐỂ NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A80
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
GIẢI QUYẾT NHỮNG ÁCH TẮC PHÁT SINH.
I. ĐỊNH HƯỚNG NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA SẢN
PHẨM XUẤT KHẨU Ở CÔNG TY DỆT MAY HÀ NỘI.
Nâng cao trình độ kết hợp với tinh giảm bộ máy quản lý và đào tạo đội ngũi
lao động có tay nghề cao, đồng thời đầu tư cho các cơ sở chính của công ty đạt
tới trình độ hiện đại tiên tiến và đa dạng về công nghệ. Lựa chọn sản xuất các
sản phẩm tinh xảo có hàm lượng chất xám cao, nâng cao trình độ và sức cạnh
tranh của sản phẩm.
Thường xuyên hoàn thiện công nghệ dệt, nhuộm, may theo sát xu hưưóng
phát triển của thế giới.
Duy trì và phát triển thị trường đã có từng bước mở rộng thị trường.
Với mục tiêu “Chất lượng sản phẩm là yếu tố quyết định đến khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp” công ty đã và đang cải tiến bộ máy quản lý và sản xuất
theo tiêu chuẩn ISO-9002 để thâm nhập vào thị trường quốc tế và tạo niềm tin
cho khách hàng. Xác định mặt hàng chủ lực là sợi dệt kim công ty đã khai thác
triệt để thế mạnh của sản phẩm sợi nhằm đáp ứng nhu cầu trong nuớc cũng như
xuất khẩu. Theo dự báo, tốc độ tăng trưởng của thị trường sợi trong giai doạn
2000-2005 là từ 8%-10% và từ 5%-7% trong giai đoạn 2004-2010.
Phương hướng giải quyết lao động hiện nay.
- Lao động là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất của quá trình sản xuất, nó
quyết định đến năng xuất lao động và chất lượng sản phẩm. Dù máy móc thiết bị
có hiện đại đến đâu mà thiết yếu tố con người thì khó có thể hoạt động được. Vì
vậy công ty đang quan tâm phân tích tình hình sử dụng lao động, bố trí lao động
dựa trên yêu cầu về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty và năng lực của
cán bộ công nhân viên nhằm đảm bảo ddúng người đúng việc, khai thác tối đa
năng lực của cán bộ công nhân viên.
- Hiện nay, công ty đang quan tâm đến vấn đề đào tạo công nhân, trang bị kiến
thức nhất định về chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể hoàn
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A81
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
thành được công việc. Hàng năm công ty cử hàng trăm công nhân viên đi học tại
trường cao đẳng công nghiệp nhẹ, và làm hồ sơ cho hàng chục cán bộ CNV học
tại chức tại các trường đại học như: đại học KTQD, đại học Bách khoa...Ngoài
ra công ty thường tổ chức các cuộc thi tay nghề nhằm khuyến khích động viên
người lao động nâng cao tay nghề. Những năm gần đây, công ty đã đầu tư nhiều
dây chuyền sản xuất hiện đại và tự động hoá nên có một bộ phận người lao động
bị sa thải, đồng thời một số lao động không đảm bảo về năng lực và sức khoả
đều bị sa thải hoặc chuyển đi lamf công việc khác.
- Công ty dệt may Hà Nội đã đặt ra mục tiêu từ nay đến năm 2005 phải nâng tỉ
lệ lao động qua đào taọ lên 45% và đến năm 2010 phải đua tỉ lệ này nên 85%
trong đó đặc biệt chú trọng đến đào tạo công nhân có trình độ lành nghề cao. Có
nhưu vậy mới nâng cao được chất lượng người lao động, mới đáp ứng được yêu
cầu sản xuất kinh doanh trong giai đoạn mới.
II GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM XUẤT
KHẨU Ở CÔNG TY DỆT MAY HÀ NỘI.
2.1 Những giải pháp từ phía công ty.
Vấn đề huy động vốn để nâng cao năng lực sản xuất
Công ty dệt may Hà Nội đang được đánh giá là công ty có tiềm năng
trong ngành dệt may Việt Nam. Tuy nhiên, trong một số hợp đồng của công ty,
việc giao hàng chậm, không đúng tiến độ vẫn còn, gây ảnh hưởng không tốt đến
hoạt động kinh doanh cũng như uy tín của doanh nghiệp với bạn hàng. Sử dụng
hiêụ quả những gì mà công ty đang có trong tay là một yêu cầu tất yếu khác
quan khi mà công ty không thể một sớm một chiều có thể thay toàn bộ trang
thiết bị song chưa thể hiện đại hoá trang thiết bị của mình.
Để huy động vốn, hiện nay lãi suất ngân hàng đã giảm nhiều so với trước
nhưng tỷ lệ cho vay trung và dài hạn trong tổng dư nợ thấp nên các doanh
nghiệp không có điều kiện vay vốn để đầu tư chiều sâu. Các khoản vay tín dụng
ưu đãi của nhà nước hay nước ngoài với lãi xuất thấp lại không dễ dàng có được
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A82
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
nên khả năng đầu tư đổi mới công nghệ dệt may là rất hạn chế. Có nhiều doanh
nghiệp vì không có nguồn vay dài hạn đã phải vay trung hạn và ngắn hạn để đầu
tư, lãi không kịp trả dẫn đến tình trạng nợ lớn có nguy cơ phá sản. Như vậy, huy
động vốn từ nguồn đi vay là không mấy khả thi đối với các doanh nghiệp dệt
may.
Một nguồn vốn khác có thể huy động là vốn tự có của doanh nghiệp được
tích luỹ từ lãi của hoạt động sản xuất kinh doanh thì cũng còn nhỏ, chỉ có thể cải
tiến, nâng cấp điều kiện lao động chứ để đầu tư chiều sâu là khó. Để huy động
nội lực, công ty có thể tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp song công ty chưa có
kế hoạch thực hiện kế hoạch này mà hiện nay việc huy động vốn của công ty
vẫn chủ yếu là đi vay.
Công ty cũng có thể huy động vốn bằng cách hợp tác với người nước
ngoài. Đầu tư nước ngoài trực tiếp sẽ mang lại không chỉ vốn mà kèm theo đó
còn là công nghệ tiên tiến và công nghệ quản lý hiện đại, hứa hẹn một sự phát
triển vượt bậc nếu theo hướng đầu tư này.
Song song với công tác thiết kế, việc đầu tư đổi mới công nghệ cũng rất
quan trọng trong vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm. Công ty cần có những
kế hoạch cụ thể trong việc đầu tư đổi mới công nghệ cũng như việc cải tiến nâng
cấp máy móc thiết bị nhằm có thể khai thác tối đa công suất thiết kế, nâng cao
năng suất lao động. Đây là một yếu tố giúp công ty có thể giảm chi phí, hạ giá
thành sản phẩm. Cùng với việc đầu tư đổi mới máy móc kỹ thuật công ty nên
dành một phần nguồn vốn của mình để đâù tư vào đội ngũ lao động của công ty.
Bởi người tiêu dùng thường không quan tâm tới việc sản phẩm đó được sản xuất
ra bằng dây chuyền công nghệ nào mà quan trọng là sản phẩm đó như thế nào.
Sức sáng tạo của con người là vô hạn nên công ty phải khuyến khích kịp thời
khả năng sáng tạo và lòng nhiệt tình của người lao động. Hay nói cách khác đầu
tư cho con người là rất quan trọng. Cùng với việc tăng năng suất lao động, mở
rông sản xuất, thay đổi thiết kế sản phẩm phù hợp với thị hiếu, tạo ra các sản
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A83
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
phẩm khác biệt, phát triển các dịch vụ sau bán hàng công ty sẽ giảm được giá
thành sản phẩm tăng sức cạnh tranh sản phẩm của công ty.
Nâng cao trình độ đội ngũ CBCNV và hoàn thiện bộ máy tổ chức của doanh
nghiệp.
Hiện nay, điều mà các doanh nghiệp nói chung và Hanosimex nói riêng
thiếu nhất là đội ngũ CBCNV có trình độ, năng lực thực sự và bộ máy quản lý
hoạt động có hiệu quả. Nêu các doanh nghiệp làm tốt điều này sẽ góp phần làm
cho hoạt động xuất khẩu được trôi chảy, nhịp nhàng hơn và do đó nâng cao sức
cạnh tranh của hàng hoá. Vì vậy, Hanosimex cần phải chú trọng nâng cao trình
độ đội ngũ CBCNV và hoàn thiện bộ máy tổ chức công ty.
Nâng cao trình độ đội ngũ CBCNV.
Đối với những người làm công tác XNK ở công ty hiện nay còn tồn tại
một nghịch lý là những người làm việc lâu năm có kinh nghiệm chuyên môn
vững vàng thì lại yếu về ngoại ngữ, trong khi những người trẻ giỏi về ngoại ngữ
lại thiếu kinh nghiệm sử lý công tác chuyên môn. Do vậy, trong thời gian tới,
công ty phải thường xuyên gửi các cán bộ trẻ đi đào tạo nhằm nâng cao kiến
thức về kinh doanh quốc tế, củng cố nghiệp vụ XNK tại các trường đại học ở
trong và ngoài nước. Đồng thời có kế hoạch đào tạo lại số cán bộ ở phòng XNK
để họ có điều kiện nâng cao nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ.
Đối với đọi ngũ công nhân trực tiếp sản xuất là những người ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng sản phẩm của công ty, do đó công ty cần có kế hoạch
nâng cao tay nghề cho đội ngũ này. Công ty có thể gửi những công nhân trẻ, tay
nghề thấp đi đào tạo tại các trung tâm dạy nghề hoặc các trường đào tạo chuyên
ngành dệt may. Hoặc có thể đào tạo tại chỗ bằng cách tổ chức các lớp học thuê
các chuyên gia kỹ thuật đến giảng dạy, công ty có thể nâng cao tay nghề cho các
lao động trẻ bằng các cử các công nhân kỹ thuật bậc cao kèm cặp, hướng dẫn
ngay tại nơi làm việc, điều này có thê giúp cho người có tay nghề thấp nhanh
chóng tiến bộ.
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A84
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Hoàn thiện bộ máy tổ chức.
Việc hoàn thiện bộ máy tổ chức, nâng cao hiệu quả của bộ máy quản lý
cần được tiến hành theo các hướng sau:
- Học tập các phương pháp quản lý tiên tiến trên thế giới.
- Tổ chức học tập các nội quy, quy định cho toàn thểt cán bộ công nhân và
giám sát chặt chẽ việc thực hiện, dần dần đưa sản xuất vào nề nếp, chính quy
và hiện đại.
- Bố trí cán bộ đúng vị trí công tác sở trường và phù hợp với năng lực của họ,
làm tăng hiệu quả công tác của mỗi người trong công ty.
- Có những biện pháp thưởng phạt nghiêm minh để khuyến khích tinh thần
làm việc, đồng thời để nâng cao tinh thần trách nhiệm của người lao động.
- Thắt chặt sự đoàn kết, hiểu biết và giúp đỡ lẫn nhau của cán bộ công nhân
toàn công ty
Nâng cao chất lượng sản phẩm .
Chất lượng sản phẩm luôn là yếu tố hàng đầu trong mối quan tâm của
khách hàng ở trên bất cứ thị trưòng nào. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm
không chỉ đơn thuần là việc làm cho sản phẩm của doanh nghiệp bền hơn mà
còn bao gồm việc làm cho sản phẩm đẹp hơn, đa dạng phong phú hơn, phù hợp
với yêu cầu sở thích của khách hàng. Do tính chất thời trang của mình, nếu một
sản phẩm dệt may chỉ bền, rẻ không thì khách hàng vẫn không thích mua nó
bàng việc mua một sản phẩm có độ bền tuơng tự, mẫu mã đẹp nhưng giá cả cao
hơn một chút, đây là điều thường xảy ra ở các thị trường mà mức sống của
người dân cao như ở các thị trường mà doanh nghiệp đang kinh doanh.
Chất lượng của sản phẩm mặc dù được quyết định bởi nhiều yếu tố, bao
gồm các chỉ tiêu đo đếm được (như độ nhẵn đẹp, mịn mượt cùa vải, sự chắc đều
của đuờng kim mũi chỉ...) và những tính chất không đo đếm được (thẩm mỹ,
mốt thời trang, cảm giác thoải mái trong khi sử dụng...). Công ty dệt may Hà
Nội đã có đủ khả năng đảm bảo chất lượng của sản phẩm xét theo các tiêu chuẩn
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A85
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
định lượng, nhưng với tiêu chuẩn định tính thì lại là cả một vấn đề. Công tác
thiết kế của công ty hiện nay đang là một khâu yếu, nhiều sản phẩm không phải
do trình độ không thiết kế được mà do chưa chú trọng đầu tư cho công tác này.
Vì vậy, công ty cần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu tạo ra nhiều chủng loại với
màu sắc, kiểu dáng đẹp và độc đáo bám sát thị hiếu của khách hàng. Để nâng
cao chất lượng sản phẩm công ty cần tiến hành các công việc sau:
Không ngừng ứng dụng các thiết bị khoa học mới, hiện đại hoá trang thiết
bị cho doanh nghiệp dệt may để từng bước nâng cao chất lượng và hạ giá thành
sản phẩm, giữ chữ tín với khách hàng.
Kiểm tra chặt chẽ chất lượng NPL đầu vào, tạo bạn hàng cung cấp nguyên
phụ liệu ổn định, đúng thời hạn, đảm bảo chất lượng.
Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của bên đặt hàng về nguyên liệu, quá trình
sản xuất, tiêu chuẩn kỹ thuật, quy trình kiểm tra chất lượng hàng trước khi xuất
khẩu qua hệ thống kiểm tra chất lượng bắt buộc.
Đảm bảo yêu cầu về thời gian giao hàng, chủ động trong vận chuyển bốc
xếp hàng hoá.
Về vấn đề giá cả sản phẩm.
Doanh nghiệp cần xây dựng một chiến lược giá hợp lý, linh hoạt, phù
hợp với từng đối tượng khách hàng, phù hợp với từng sản phẩm. Công ty hiện
nay đang sản xuất các mặt hàng quần áo tương tự như hàng của đối thủ cạnh
tranh. Đối với những mặt hàng này khi bán ở thị trường trong nước thì giá cả lại
cao hơn giá mặt hàng cùng loại của đối thủ cạnh tranh rất nhiều trong khi chất
lượng lại không cao hơn là mấy và mẫu mã lại tương tự thì khi người tiêu dùng
trong nước lựa chọn với một số tiền có hạn thì rõ ràng họ sẽ không chọn hàng
của doanh nghiệp.
Vì vậy, doanh nghiệp muốn chiếm lĩnh thị trường trong nước cũng như
xuất khẩu thì doanh nghiệp phải lựa chọn sản xuất các mặt hàng có thể có chất
lượng thấp hơn, bán với giá rẻ hơn theo hình thức giá thấm dần hoặc là sản xuất
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A86
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
các sản phẩm cao cấp hơn hẳn với các nhãn hiệu nổi tiếng, có uy tín trên thế giới
và bán với mức gia cao hơn hẳn so với các đối thủ cạnh tranh khác theo chính
sách hớt váng sữa.
Đối với các khách hàng quen thuộc, doanh nghiệp nên giảm giá để giữ
được lượng khách hàng ngày một ổn định. Doanh nghiệp cũng có thể đưa ra các
chính sách khuyến khích khách hàng tuỳ thuộc vào từng thời điểm, mục tiêu và
khả năng của mình. Đồng thời công ty nên tiến hành đổi mới máy móc thiết bị
nâng cao năng suất lao động hạ giá thành sản phẩm.
Làm được điều này, doanh nghiệp có thể tăng dần được tỷ trọng xuất khẩu trong
doanh thu của mình, thu được nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp.
Vấn đề hình ảnh uy tín của sản phẩm.
Ở công ty dệt may Hà Nội hiện nay, sản phẩm chỉ được biết là được sản
xuất tại Việt Nam thông qua vài dòng chữ ghi trên conteiner, mà đặc biệt không
có chút thông tin nào về sản phẩm. Nhưng trong tương lai, để làm cho hình ảnh
của sản phẩm (bán FOB) và công ty có trong tiềm thức của quảng đại người tiêu
dùng, sản phẩm của công ty phải mang nhãn hiệu, tên hoạc biểu tuợng của công
ty. Việc ghi nhãn và bao bì giúp nguời tiêu dùng có đủ thông tin trung thực về
chất lượng và nguồn gốc của sản phẩm. Trong thực tiễn, nhãn hiệu hàng hóa là
một công cụ cạnh tranh đảm bảo lợi thế trên thị trường nước ngoài. Việc gắn tên
mác vào sản phẩm không chỉ đơn thuần để xác nhận sản phẩm của công ty và để
phân biệt với sản phẩm của công ty khác, mà còn để duy trì một danh tiếng.
Đối với công ty, việc sản xuất gia công và gắn tên, mác nuớc ngoài có thể
có thuận lợi cho công ty không phải lo lắng trong khâu tiêu thụ trực tiếp với
ngưòi tiêu dùng, nhưng có bất lợi là về lâu dài công ty không khẳng định được
mình trên thị trường. Tuy nhiên, điểm bất lợi này có thể được khắc phục trong
ngày một ngày hai. Để thâm nhập vào thị trường nước ngoài, nhất là thị trường
các nước công nghiệp phát triển, việc tạo uy tín qua nhãn hiệu hàng hoá sẽ gặp
phải những khó khăn nhất định và công ty cần phải khắc phục những khó khăn
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A87
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
đó trong phạm vi cố thể.
- Kỹ thuật: hàng hoá đã đăng ký nhãn hiệu phải đảm bảo chất lượng ổn định,
công ty không nên để tính chất lao động thủ công ảnh hưởng tới chất lượng của
sản phẩm.
- Tài chính: chi phí cho các hoạt động quảng cáo, xúc tiến ...là rất cao, do đó
công ty cần sử dụng và kết hợp chi tiêu một cách hợp lý và có hiệu quả.
- Cung cấp: sản phẩm đã có nhãn hiệu phải đảm bảo lúc nào cũng cung cấp đủ
nhu cầu thị trường, nếu chỉ vắng bóng trên thị trường một thời gian vì một lý do
nào đó sẽ bị lu mờ và bị sản phẩm khác thế chỗ.
Vị trí của những người đến sau thường thấp và không có được thị phần
lớn. Nhưng khi đã có đủ điều kiện, công ty cần mạnh dạn gắn nhãn mác riêng
của mình lên sản phẩm, bước đầu có thể gặp khó khăn do chưa được người mua
tin tưởng, song nếu không có bước đầu đó công ty sẽ không bao giờ đến được
với khách hàng bằng chính tên tuổi của mình .
Nâng cao hiệu quả của hoạt động Marketing.
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt thì hoạt động Marketing
góp phần không nhỏ vào việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Trong thời
gian qua việc thực hiện các hoạt đông Marketing của công ty chưa tốt do vậy mà
hàng hoá chưa tạo được chỗ đứng vững chắc trên các thị trường xuất khẩu, bạn
hàng chưa ổn định. Do đó, yêu cầu cấp bách đặt ra cho công ty là phải nâng cao
hiệu quả hoạt động Marketing, muốn vậy công ty cần làm tốt các mặt sau:
Quảng cáo.
Quảng cáo cho sản phẩm và cho công ty tại các thị trường mục tiêu như EU,
Nhật Bản, Mỹ. Ngoài quảng cáo giới thiẹu chung về công ty, cần phải có nội
dung quảng cáo chi tiết về sản phẩm mũi nhọn. Tuỳ vào yêu cầu khuyếch trương
sản phẩm và khả năng tài chính có thể có các phương thức quảng cáo thích hợp
từ các ấn phẩm, các của hàng đại lý đến các phương tiện phát thanh truyền
hình...
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A88
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Về hoạt động yểm trợ sản phẩm.
Đây là những hoạt động có liên quan đến các dịch vụ sản phẩm và các thông
tin mà công ty cung cấp thêm cho khách hàng. Các dịch vụ sản phẩm chủ yếu là
catalogue, xuất bản phẩm về công ty, phim ảnh (cung cấp thông tin bằng những
hình ảnh sống cho khách hàng nước ngoài).
Các công tác xúc tiến bán hàng.
Công ty cần duy trì và phát huy tác dụng của hoạt động xúc tiến bán hàng
thông qua các hội chợ thời trang tiêu dùng trong nước và quốc tế bằng những
mẫu mã luôn thay đổi, phong phú nhưng thích hợp với thị hiếu tiêu dùng từng
thời kỳ. Hoạt động này thực sự có ý nghĩa đối với công ty trong việc nâng cao
sức cạnh tranh của sản phẩm, vì thị trường dệt may đang có sức cạnh tranh gay
gắt giữa các nhà sản xuất, các sản phẩm tương đối giống nhau về chất lượng giá
cả, khối lượng hàng bán lại phụ thuộc vào mức độ quen biết giữa công ty với
khách hàng. Các hình thức chủ yếu của xúc tiến bán hàng là thay đổi hình thức
mẫu mã sản phẩm, khuyến khích mua hàng (giảm giá, tạng quà, bán trả góp...),
trưng bày catalogue tại điểm bán hàng. Ngoài ra các của hàng bán lẻ của công ty
phải được trang hoàng đẹp, đầy đủ về mẫu mã, việc thử hoặc đổi hàng phải được
tạo điều kiện thuận lợi nhất. Khi đã có đủ tiềm lực về tài chính, ngoài việc tham
gia trình diễn thời trang hay các cuộc giới thiệu sản phẩm tại các hội chợ, công
ty có thể tự tổ chức địng kỳ các buổi trình diễn thời trang trong nước và tại các
hội chợ trong và ngoài nước để tạo ra phong cách và ấn tượng riêng của công ty
và sản phẩm.
Về các kênh phân phối sản phẩm.
Vấn đề tìm kênh tiêu thụ sản phẩm cũng là vấn đề hết sức quan trọng đối với
công ty, bởi vì sau khi loại bỏ hình thức gia công theo đơn đặt hàng, công ty sẽ
phải lỗ lực hoàn toàn từ khâu tìm nguyên liệu đến khâu sản xuất sản phẩm. Việc
thâm nhập thị trường quốc tế lại rất khó khăn vì khả năng tiếp xúc trực tiếp bằng
sản phẩm và con người của công ty với khách hàng mục tiêu sẽ gặp phải những
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A89
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
hạn chế về tập quán giao dịch quốc tế, ngôn ngữ. Vì vậy trong thời gian tới công
ty cần phối hợp với các công ty dệt may trong nước và ngoài nước để tạo lập các
kênh phân phối trên các thị trường chủ yếu bằng cách lập các chi nhánh, văn
phòng đại diện tại các nước EU, Nhật Bản, Mỹ, hoặc thông qua các hãng, các
tập đoàn dệt may lớn đã có quan hệ làm ăn lâu dài để phân phối sản phẩm tiêu
dùng của mình tới người tiêu dùng quốc tế, hoặc thông qua các thương nhân
Việt Nam ở nước ngoài để tạo lập từng bước, quan hệ với từng khu vực thị
trường - đặc biệt là các thị trường mới đầy tiềm năng như Bắc Mỹ.
Đa dạng hoá sản phẩm và xây dựng mặt hàng chiến lược.
Hiện nay, khó khăn lớn nhất đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
là tìm được đầu ra cho sản phẩm. Để giải quyết khó khăn đó, doanh nghiệp chỉ
có con đường là đa dạng hoá sản phẩm.
Lý do khiến doanh nghiệp phải đa dạng hoá sản phẩm là vì nhu cầu dệt
may trên thế giới vô cùng đa dạng và phong phú, mỗi một dân tộc, một quốc gia,
một tôn giáo, một giới tính, một mức thu nhập, một lứa tuổi... khác nhau lại có
những nhu cầu ăn mặc rất khác nhau. Tại các quốc gia Châu Phi, những bộ quần
áo có mầu sắc sặc sỡ rất được ưa thích nhưng ở Châu Âu lại đòi hỏi những bộ
quần aó trang nhã lịch sự. Những trang phục thể thao, mạnh mẽ thu hút được sự
quan tâm của tầng lớp thanh niên nhưng lại không được những người lớn tuổi
chấp nhận. Cùng một bộ quần áo như nhau, nhưng chất liệu bình dân thích hợp
với những người có thu nhập trung bình, thì với người có thu nhập cao phải là
chất liệu cao cấp. Những ví dụ như vậy còn rất nhiều, do vậy, để tiêu thụ được
nhiều sản phẩm nhất, các doanh nghiệp phải làm ra nhiều sản phẩm khác nhau
để đáp ứng nhu cầu không giống nhau của thị trường.
Hiện nay, hàng dệt may của công ty xuất khẩu chủ yếu sang thị trường
EU, Nhật Bản, Mỹ, Đông Âu...Những yêu cầu về sản phẩm khác nhau của các
thị trường này cũng là một yếu tố khách quan đòi hỏi doanh nghiệp phải đa dạng
hoá sản phẩm. Nhật bản và EU là những thị trường có đòi hỏi cao về chất lượng.
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A90
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
Thị trường Nhật có yêu cầu rất cao về chất lượng sản phẩm, chỉ một vết xước
nhỏ trên mặt vải cũng đủ để coi sản phẩm là hỏng tại thị trường này, nên cần hết
sức chú trọng đến chất lượng sản phẩm, tập trung xuất khẩu hàng cao cấp có giá
trị lớn. Tại thị trường EU, do phải sản xuất theo hạn ngạch nên cũng cần thiết
phải chú trọng đến chất lượng để nâng cao giá trị sản phẩm nhưng có thể đưa
vào các sản phẩm bình dân phục vụ những người có thu nhập trung bình thấp.
Hơn nữa, khi EU xoá bỏ chế độ hạn ngạch với Việt Nam 1/1/2005 thì việc đưa
vào thị trường này những sản phẩm bình dân bên cạnh các sản phẩm cao cấp là
hợp lý nhằm tận dụng khả năng sản xuất trong nước và khai thác ttriệt để thị
trường. Với thị trường Mỹ, đa dạng hoá sản phẩm là cần thiết vì đây là thị
trường có nhu cầu hết sức đa dạng. Mỹ là một đất nước đa sắc tộc, người Mỹ có
phong cách thoải mái, sống thực dụng nên thị trường này chấp nhận từ những
trang phục sang trọng phục vụ các nhà tư bản giàu có đến những bộ quần áo
bình dân phục vụ những người dân lao động. Do vậy, đây là thị trường rất lớn để
doanh nghiệp khai thác với nhiều mặt hàng khác nhau, từ cao cấp đến bình dân.
Tuy nhiên, đa dạng hoá sản phẩm không phải là mỗi doanh nghiệp có thể
sản xuất tất cả các mặt hàng. Tại mỗi doanh nghiệp, bên cạnh khả năng sản xuất
đa dạng, cần phải xây dựng lấy một vài sản phẩm mũi nhọn để làm đầu tầu kéo
các sản phẩm khác của doanh nghiệp phát triển theo. Sản phẩm mũi nhọn còn có
tác dụng như một vũ khí mang tính chiến lược, đặc biệt là khi xâm nhập một thị
trường mới. Trong xây dựng một sản phẩm mũi nhọn, cần chú trọng nghiên cứu,
lựa chọn xây dựng các sản phẩm dựa trên truyền thống sản xuất, nhu cầu thị
trường và lợi thế so sánh của doanh nghiệp, tạo dựng được nhãn hiệu hàng hoá,
xây dựng được hình tượng của đơn vị. Ngoài ra, cần chú ý nghiên cứu các
nguyên liệu mới, công nghệ sản xuất mới nhằm tìm ra được các sản phẩm có giá
trị kinh tế cao, có tính độc đáo. Trên cơ sở đó mà chiếm lĩnh được thị phần nhất
định trên thị trường. Khi có sản phẩm mới ra, cần bắt tay ngay để nghiên cứu
tiếp tục có những sản phẩm mới, làm hậu phương vững chắc trong tiếp cận và
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A91
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
chiếm lĩnh thị trường
Đẩy mạnh nghiên cứu thiết kế mẫu mốt, sản xuất thử mặt hàng mới.
Đối với hàng dệt may, ngoài tiêu chuẩn tốt, bền, giá rẻ thì tính thời trang,
kiểu dáng của sản phẩm có vai trò rất quan trọng. Thực tế ở nhiều thị trường, cả
trong nước và thế giới, người tiêu dùng rất coi trọng đến mẫu mã hàng dệt may,
họ sẵn sàng bỏ nhiều tiền hơn để chi trả cho một sản phẩm có chất lượng như
các sản phẩm khác nhuưng có kiểu dáng vượt trội.
Hiện nay, tại Việt Nam, nghiên cứu thiết kế mẫu thời trang còn mới mẻ,
chưa có kinh nghiệm, giao lưu với các nhà tạo mẫu thời trang quốc tế còn hạn
chế, tiếp cận với thị trường thế giới còn quá ít, chưa đáp ứng được yêu cầu trong
nước và xuất khẩu. Sản phẩm may mặc chủ yếu được làm theo mẫu do khách
hàng nước ngoài đưa sẵn, hoặc làm theo kiểu sao chép- cắt dán từ những mẫu có
sẵn của nước ngoài. Các cơ sở thiết kế mẫu trong nước là viện mẫu thời trang
hay các nhà nghiên cứu tạo mẫu thời trang, các nhà may nổi tiếng ở Hà Nội, Tp
HCM với cơ sở vật chất và đội ngũ nhân lực còn yếu, thiếu kiến thức về sáng
tác, thiết kế mẫu thời trang, thiếu thông tin nên chỉ đáp ứng được khoảng 10-
20% yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Để cải thiện khả năng thiết kế mẫu thời trang, doanh nghiệp cần chủ động
phối hợp với các cơ sở nghiên cứu thông qua đặt các đơn hàng, vừa tạo điều
kiện để các cơ sở này nâng cao năng lực của mình, vừa đem lại lợi nhuận cho
doanh nghiệp vì làm mẫu tại cơ sở chuyên nghiệp chắc chắn sẽ rẻ hơn tự doanh
nghiệp xây dựng cho mình một đội ngũ thiết kế mẫu. Bởi lẽ các cơ sở này nắm
bắt thường xuyên hơn nhu cầu, thị hiếu trên thị trường, có đội ngũ nhân lực lành
nghề trong lĩnh vực tạo mốt, có những thiết bị chuyên dụng...Ngoài ra, khi có
được mẫu mốt cần mạnh dạn tổ chức triển khai sản xuất thử và khi thành công
thì nhanh chóng đưa ra để chiếm lĩnh thị trường. Ở đây, cũng cần có sự hỗ trợ
tích cực của chính phủ trong việc bảo hộ bản quyền, kiểu dáng công nghiệp,
chống hàng giả... nhằm tránh tình trạng doanh nghiệp phải bỏ ra nhiều kinh phí
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A92
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
vào việc tìm ra một sản phẩm mới nhưng chỉ sau khi lô hàng đầu tiên được đưa
ra thì đã bị làm giả, làm nhái, gây thiệt hại không nhỏ. Đây có lẽ cũng là một lý
do khiến doanh nghiệp ngại không đầu tư vào thiết kế mẫu. Song trong tương
lai, doanh nghiệp nên có kế hoạch xây dựng một phòng thiết kế mẫu cho riêng
mình. Bởi lẽ, trong cơ chế thị trường, một doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại bằng
chính thực lực và sự am hiểu thị trường của chính mình, tránh những thông tin
giả của đối thủ cạnh tranh tung ra.
2.2. Kiến nghị đối với nhà nước.
Để nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp, bên cạnh những
lỗ lực của doanh nghiệp cần có những sự hỗ trợ từ phía nhà nước.
Chính sách về thị trường.
Để có được chính sách thị trường thích hợp, thúc đẩy sự phát triển để xuất
khẩu của ngành dệt may trước hết cần thấy được các yếu tố ảnh hưởng tới thị
trường. Đó là:
- Uy tín của sản phẩm. Việc tạo được uy tín cho một sản phẩm trên một thị
trường là cực kỳ khó khăn. Nó bao gồm từ việc xây dựng mẫu mã chất lượng,
chủng loại, kiểu cách sản phẩm đến các dịch vụ bán hàng và sau bán hàng. Đối
với công ty, có được uy tín với khách hàng không những nâng cao doanh số tiêu
thụ mà còn có nghĩa là đã có khả năng chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất
khẩu trực tiếp. Khi đó, bên cạnh sự phát triển của ngành dệt may và các ngành
có liên quan, hiệu quả thu ngoại tệ cũng tăng nên đáng kể.
- Quan hệ chính trị ảnh hưởng tới quan hệ thương mại. Quan hệ thương mại
chỉ là một bộ phận trong quan hệ kinh tế đối ngoại nhưng lại là một bộ phận thu
ngoại tệ trực tiếp cho đất nước. Sự tham gia phân công lao động quốc tế trên
phạm vi toàn cầu và khu vực thông qua ngoại thương đã đảm bảo cho sự phát
triển cân đối của nền kinh tế quốc dân và thu ngoaị tệ đáp ứng nhu cầu vốn ở
giai đoạn đầu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Sự phát triển của ngoại
thương không thoát khỏi ảnh hưởng của quan hệ chính trị. Quan hệ chính trị tốt
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A93
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
tạo đà cho việc hợp tác, tương trợ về đầu tư, chuyển giao công nghệ, là tiền đề
để ký kết các hiệp định về thương mại, về thông tin, về cấp phát hạn ngạch; là
cơ sở pháp lý đảm bảo cho doanh nghiệp hai bên tiến hành làm ăn với nhau, tạo
tiền đề thuận lợi trong thanh toán, giải quyết tranh chấp...
Từ sự phân tích về những yếu tố ảnh hưởng trên, để nâng cao hiệu quả cạnh
tranh cho hàng dệt may Việt Nam, Nhà Nước cần có các chính sách về thị
trường như:
- Nhà nước mà trực tiếp là Bộ Thương Mại cầng xây dựng được tiến trình gia
nhập WTO có hiệu quả
- Nhà nước tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế và khu vực để Việt Nam
nhanh chóng trở thành thành viên của WTO.
- Quan hệ tốt với các thị trường lớn nhhư EU, Bắc Mỹ, tạo dựng được khuôn
khổ pháp lý tốt đối với các thị trường này để sản xuất hàng tiêu dùng Việt Nam
nói chung và hàng dệt may nối riêng được hưởng các ưu đãi đặc biệt như hạn
ngạch, tối huệ quốc... và có điều kiện để xuất khẩu với khối lượng lớn.
- Tạo điều kiện cho ngành dệt may tham gia vào các hoạt động quốc tế, các
diễn đàn chuyên ngành của khu vực để có điều kiện tham gia vào sự phân công
lao động quốc tế.
- Thực hiện nghiêm túc công ước quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ công nghiệp
để các sản phẩm dệt may có chất lượng cao mang nhãn hiệu " made in Việt
Nam" giữ được uy tín ,trên thị trường.
- Có quy chế phù hợp (bao gồm trách nhiệm và quyền lợi) về hoạt động của
các nhân viên thương vụ của các đại sứ quán của Việt Nam ở nước ngoài trong
việc cung, cấp thông tin, giúp ngành dệt may mở rộng thị trường.
Chính sách tài chính
Để đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư, các chính sách tài chính cần có là:
- Nhà nước đảm bảo cấp vốn đầu tư ban đầu và vốn lưu động cho các doanh
nghiệp nhà nước theo đúng luật định.
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A94
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
- Cho phép ngành dệt may được sử dụng một phần quỹ bảo hiểm rủi ro của
nhà nước ở những công trình trọng điểm
- Kéo dài thời gian miễn thuế thu nhập cho các công trình đầu tư mới hoặc đầu
tư mở rộng tạo tiền đề cho việc trả lãi vay.
Chính sách phát triển nguồn nguyên liệu.
Nguyên liệu dành cho ngành công nghiệp dệt may được chia thành 2 loại:
một loại có nguồn gốc từ thiên nhiên như bông, đay, tơ tằm...; một loại có nguồn
gốc từ các quá trình hoá học như sợi tổng hợp, nhân tạo. Trên thế giới, nhiều
nước đã biết phát huy lợi thế về từng chủng loại nguyên liệu để phát triển ngành
công nghiệp dệt may của mình như Nhật, Trung quốc...là những nước phải nhập
khẩu gần như toàn bộ số nguyên liệu thiên nhiên nhưng nhờ tự túc dược nguồn
nguyên liệu hoá học nên công nghiệp dệt may cũng hết sức phát triển. Ngược
lại, nhiều quốc gia trên thế giớ là các nước xuất khẩu bông nhưng công nghiệp
dệt may lại kém phát triển như: Pakisttan, Uzbekistan...Do vậy, có thể thấy rằng
có được nguồn nguyên liệu chỉ là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ
để phát triển ngành dệt may. Việt Nam thuận lợi về điều kiện tự nhiên để phát
triển nguồn nguyên liệu thiên nhiên nhưng để phát triển ổn định và bền vững cần
có những điều kiện sau:
- Chính phủ phê duyệt quy hoạch vùng nguyên liệu các loại sơ thiên nhiên cho
ngành dệt may bao gồm vùng trồng bông, vùng trồng dâu nuôi tằm, vùng trồng
đay...Từ đó, có các chính sách hợp lý trong việc bảo đảm cung cấp lương thực
và các nhu yếu phẩm khác cho nông dân các vùng này, đồng thời có cơ chế thích
hợp trong việc khai thác, bảo toàn và phát triển vùng nguyên liệu lâu dài.
- Cho phép trích tỷ lệ % trong doanh thu để lấy nguồn bù đắp cho quy hoạch
và phát triển vùng nguyên liệu.
- Giảm hoặc miễn thuế GTGT đối với sản phẩm được sản xuất từ nguyên liệu
trong nước ( bông, đay, tơ tằm) để ngành dệt may dùng số tiền đó đầu tư cho các
hộ cung cấp nguyên liệu.
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A95
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
- Đẩy nhanh qua trình xây dựng các khu công nghiệp hoá dầu, làm tiền đề cho
việc sản xuất các loại sơ sợi tổng hợp, góp phần tạo thế chủ động về nguyên liệu
cho ngành.
Chính sách hỗ trợ xuất khẩu .
Hiện nay, Việt Nam chưa thành lập được quy bảo hiểm xuất khẩu cũng
như quỹ hỗ trợ xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn tham gia
hoạt động này, nhất là trong điều kiện thị trường thế giới đầy biến động. Các
doanh nghiệp nhỏ, vốn ít vẫn không giám mạo hiểm bán hàng theo phương thức
bán trả chậm, trả góp...mặc dù đủ điều kiện ký kết hợp đồng xuất khẩu. Vẫn
chưa có hiệp hội ngành may mặc xuất khẩu để hỗ trợ trong việc nghiên cứu thị
trường, hỗ trợ về giá cả...Tuy nhiên, đã có quỹ thưởng xuất khẩu. Vừa qua, bộ
thương mại đã ban hành quy chế quản lý và sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu
nhằm khen thưởng, động viên và khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh có thành tích xuất sắc và đạt hiêụ quả cao trong hoạt động xuất khẩu. Để
hỗ trợ tích cực hơn nữa trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nnghiệp, nhà
nước cần sớm thực hiện các giải pháp sau:
- Thành lập quỹ bảo hiểm và quỹ hỗ trợ xuất khẩu chung cho cả nước và cho
phép công ty doanh nghiệp Hà Nội thành lập quỹ hỗ trợ khi giá cả thị trường thế
giới có nhiều biến động, gặp nhiều rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng ngoại
thương, trong quá trình vận chuyển hàng xuất khẩu.
- Chính Phủ sớm ra quyết định thành lập hiệp hội dệt may Việt Nam nhằm tập
hợp và hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia xuất
khẩu. Đồng thời nhanh chóng xúc tiến việc thành lập cơ quan xúc tiến thương
mại chuyên về thị trường xuất khẩu, trong đó có thị trường hàng dệt may
- Chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp sản xuất
hàng dệt may xuất khẩu như: hỗ trợ vốn, cho vay vốn với lãi xuất thấp đối voí
các doanh nghiệp thiếu vốn để sản xuất hoặc thực hiện hợp đồng khi đã có thị
trường và đối tác để xuất khẩu hoặc doanh nghiệp mở rộng hoặc tham gia vào
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A96
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
thị trường mới...
- Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho các vệ tinh cung ứng dịch vụ, nguyên phụ
liệu cho hàng dệt may xuất khẩu: chính sách cho vay vốn, trợ giúp về mặt
KHKT đối với nông dân vùng nguyên liệu, với các hộ gia đình sản xuất phụ
liệu...
Đổi mới hoàn thiện chính sách thuế.
Hệ thống thuế Việt Nam trong những năm qua mặc dù đã được sửa đổi
song còn tồn tại nhiều điểm bất hợp lý có ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt sản xuất
kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Do đó, vấn đề đặt ra là
phải bổ sung và sửa đổi một số luật thuế:
Thuế xuất khẩu:
Cũng như các ngành xuất khẩu khác, ngành dệt may xuất khẩu cũng phải
chịu thuế xuất khẩu. Hiện nay, ngành dệt may xuất khẩu chịu thuế xuất khẩu là
0%. Như vậy trên thực tế, hàng dệt may xuất khẩu được miễn thuế xuất khẩu.
Tuy có lợi thế là nguyên vật liệu nhập khẩu sau khi xuất khẩu được sản phẩm sẽ
được hoàn thuế nhập khẩu nhưng thuế xuất nhập khẩu quá cao, thời gian hoàn
thuế lâu làm cho giá thành sản xuất cao lên, dẫn tới không có lợi thế cạnh tranh
về giá. Đối với các doanh nghiệp thì đây là một khó khăn lớn vì hầu hết nguyên
liệu phục vụ cho ngành dệt may đều phải nhập khẩu. Thuế xuất của nhiều loại
nguyên liệu nhập khẩu lên đến 40-60%, chỉ có một số ít nguyên liệu chính là có
thuế suất thấp hoặc được miễn thuế.
Đối với ngành dệt may, quy định thời hạn tạm miễn thuế nhập khẩu cho
sản xuất hàng xuất khẩu là 9 tháng cho hàng gia công may mặc là tương đối dài,
phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp trong việc ký kết hợp đồng, tổ chức sản xuất và xuất khẩu sản
phẩm. Tuy nhiên, việc hoàn thuế nhập, tái xuất và thuế nhập khẩu nguyên liệu
lại quá chậm. Nguyên nhân chủ yếu là do thủ tục rườm rà, cơ quan thu thuế và
cơ quan hoàn thuế không phối hợp với nhau gây thiệt hại và mất thời gian cho
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A97
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
doanh nghiệp. Để khắc phục những vướng mắc và toạ điều kiện cho ngành dệt
may phát triển hoạt động xuất khẩu, về thuế xuất nhập khẩu có một số kiến nghị
sau:
- Áp dụng thuế suất 0% đối với các nguyên liệu chính như bông, các loại sợi,
phụ kiện...
- Phải hoàn thuế cho các doanh nghiệp tham gia cung ứng nguyên phụ kiện
đầu vào
- Đối với vải nhập khẩu thì thuế suất 40-60% là rất cao. Chính phủ nên xem
xét vấn đề này
- Việc hoàn thuế tái xuất cần tiến hành nhanh hơn.
Thuế GTGT: Từ 1/1/1999, hệ thống thuế doanh thu không được sử dụng
mà thay vào đó là thuế GTGT nhăm tránh đánh thuế trùng lặp và chấn trỉnh
công tác hạch toán kế toán.
Hàng dệt may xuất khẩu thuộc dạng khuyến khích xuất khẩu, chịu thuế
GTGT ở mức 0%, đồng thời còn được thoái thuế GTGT các khâu sản xuất
trước.
Chính sách về hạn ngạch và giấy phép xuất khẩu hàng dệt may.
Về hạn ngạch
Đối với hạn ngạch xuất khẩu nhằm đưa việc giao hạn ngạch hàng năm
vào nề nếp và khuyến khích các doanh nghiệp không ngừng đổi mới công nghệ,
nâng cao chất lượng sản phẩm, Liên Bộ Công Nghiệp- Kế hoạch đầu tư-Thương
mại đã ban hành thông tư số 29/1999/TTLB về việc giao hạn ngạch năm 2000.
Chính sách này đã sự linh hoạt, mang nhiều tính ưu tiên cho những doanh
nghiệp có khả năng sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng nhiều nguyên liệu trong
nước song vẫn có những kiến nghị cần giải quyết sau:
- Cần phân bổ hạn ngạch sớm từ đầu năm để các doanh nghiệp có kế hoạch
sản xuất kinh doanh chủ động
- Việc phân bổ hạn ngạch phải căn cứ vào năng lực sản xuất kinh doanh thực
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A98
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
sự của các doanh nghiệp, đảm bảo công bằng nghiêm minh không phân biệt đối
xử giữa các doanh nghiệp
- Nâng tỷ lệ hạn ngạch phân bố theo hình thức thưởng lên 50% vào năm 2003
và tiến tới 100% hạn ngạch sẽ được phân bổ theo thành tích xuất khẩu vào thị
trường phi hạn ngạch. Đồng thời đưa mặt hàng dệt may xuất khẩu sang thị
trường phi hạn ngạch vào danh sách các mặt hàng được trợ cấp nóng.
- Theo dõi chặt chẽ thường xuyên việc thực hiện hạn ngạch ở các doanh
nghiệp đảm bảo cho việc thực hiện hạn ngạch có hiệu quả.
Về việc cấp giấy phép.
Đây là một trong những công cụ quan trọng của nhà nước để quản lý và
điều tiết hoạt động xuất khẩu. Trong những năm qua, nhờ cải cách trong thủ tục
hành chính, cũng như điều kiện được cấp hạn ngạch song việc xin cấp giấy phép
cho từng chuyến hàng làm các doanh nghiệp mất nhiều thời gian. Bên cạnh đó là
nạn quan liêu, cửa quyền trong khi làm thủ tục hải quan cũng làm cho doanh
nghiệp tốn không ít thời gian chi phí tiền bạc.
KẾT LUẬN.
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần như hiện nay, mức độ cạnh
tranh là rất quyết liệt. Sự tồn tại của cạnh tranh phải được chấp nhận nhưng
không được lo sợ. Tôn trọng cạnh tranh không kể loại hình hay quy mô của nó
là điều có lợi. Sự tôn trọng đó có thể tạo ra những suy nghĩ độc đáo, làm tăng
hiệu quả sản xuất, tạo ra khả năng tiếp thị và nâng cao lợi nhuận. Có thể rút ra
được những bài học từ cạnh tranh để phấn đấu và bảo đảm rằng sản phẩm và
hoạt động của công ty mình tốt hơn đối thủ cạnh tranh.
Trong bối cảnh đó các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải chấp nhận
cạnh tranh. Công ty dệt may Hà Nội không phải là một ngoại lệ. Trong thời gian
qua, công ty đã tham gia canh tranh ở nhiều thị trường khác nhau. Công ty đã
đạt được một số kết quả như KNXK không ngừng tăng, năm sau cao hơn năm
trước, mẫu mã chủng loại hàng hoá ngày càng phong phú, một số mặt hàng tạo
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A99
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
được những vị trí nhất định trên những thị trường lớn là EU, Mỹ, Nhật Bản. Tuy
nhiên, so với hàng hoá các đối thủ trong và ngoài nước đang hoạt động trong
lĩnh vực này thì sức cạnh tranh hàng hoá của công ty còn thấp. Điều này gây ra
nhiều thiệt hại cho công ty.
Đề tài “Một số giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm xuất
khẩu ở công ty HANOSIMEX” đựoc nghiên cứu với mong muốn làm rõ các
giải pháp chủ yếu để giúp công ty HANOSIMEX nói riêng và các doanh nghiệp
Việt Nam nói chung nâng cao sức cạnh trạnh của hàng hoá xuất khẩu.
Với khả năng của công ty và sự hỗ trợ từ phía nhà nước, chúng ta tin rằng,
trong thời gian tới, sức cạnh tranh các mặt hàng chủ yếu của công ty sẽ tăng lên
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A100
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]
NguyÔn ThÞ H¹nh QTKDQT41A101