29
1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂ N MAI ẤN ĐẶC ĐIỂM TRƯỜNG CA THU BỒN, NGUYỄN KHOA ĐIỀM VÀ THANH THẢO CHUY ÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ S: 62. 22. 34. 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 1. GS.TS LÊ VĂN LÂN 2. PGS.TS HỒ THẾ HÀ Hà Nội - 2008

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

  • Upload
    others

  • View
    3

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

MAI BÁ ẤN

ĐẶC ĐIỂM TRƯỜNG CA

THU BỒN, NGUYỄN KHOA ĐIỀM VÀ THANH THẢO

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ: 62. 22. 34. 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

1. GS.TS LÊ VĂN LÂN

2. PGS.TS HỒ THẾ HÀ

Hà Nội - 2008

Page 2: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

2

A. MỞ ĐẦU

01

B. NỘI DUNG

15

Chương 1- TRƯỜNG CA VÀ TRƯỜNG CA

THU BỒN, NGUYỄN KHOA ĐIỀM VÀ THANH THẢO

15

1.1. Trường ca - từ quan niệm đến khái niệm

15

1.1.1. Từ sử thi đến trường ca trong văn học thế giới

15

1.1.2. Trường ca Việt Nam - từ quan niệm đến khái niệm

18

1.1.3. Phân biệt trường ca và một số thể loại thơ

22

1.2. Quan niệm của Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm và Thanh Thảo

về thơ và trường ca

28

Page 3: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

3

1.2.1. Quan niệm của Thu Bồn về thơ và trường ca

28

1.2.2. Quan niệm của Nguyễn Khoa Điềm về thơ và trường ca

31

1.2.3. Quan niệm của Thanh Thảo về thơ và trường ca

34

1.3. Thành tựu trường ca Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm và Thanh Thảo

38

1.3.1. Trường ca Thu Bồn

40

1.3.2. Trường ca Nguyễn Khoa Điềm

42

1.3.3. Trường ca Thanh Thảo

44

Chương 2- TRƯỜNG CA THU BỒN, NGUYỄN KHOA ĐIỀM VÀ

THANH THẢO - TÍNH ĐA TẦNG TRONG KHẢ NĂNG CHIẾM LĨNH

HIỆN THỰC CUỘC SỐNG VÀ CON NGƯỜI

48

Page 4: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

4

2.1. Hiện thực cuộc sống - từ lý tưởng đến bản chất và chiêm cảm

48

2.1.1. Hiện thực cuộc sống chiến tranh - từ lý tưởng

đến bản chất và chiêm cảm

48

2.1.2. Hiện thực cuộc sống thời bình - từ bản chất

đến chiêm cảm và dự cảm

55

2.1.3. Tổ quốc, dân tộc - từ cội nguồn đến hành trình mở cõi

và truyền thống lịch sử, văn hóa

62

2.2. Con người - cái nhìn thống nhất và đối cực

70

2.2.1. Con người - cái nhìn thống nhất

70

2.2.2. Con người - cái nhìn đối cực

84

2.2.3. Con người - cái nhìn đa phân

93

Page 5: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

5

2.3. Hiện thực máu lửa và khát vọng bình yên

qua những biểu trưng nghệ thuật tiêu biểu

106

2.3.1. Mặt đất cỏ xanh và bầu trời lửa đỏ

106

2.3.2. Núi rừng và sông biển

113

2.3.3. Bước chân và những nẻo đường

118

Chương 3- TRƯỜNG CA THU BỒN, NGUYỄN KHOA ĐIỀM VÀ

THANH THẢO - TÍNH PHỨC HỢP TRONG CẤU TRÚC NGHỆ THUẬT

125

3.1. Sự đa dạng trong sử dụng các thể thơ

125

3.1.1. Sự tinh lọc từ thơ truyền thống

126

3.1.2. Sự đồng hành và lên ngôi của thơ Tự do

và chiếm lĩnh của thơ Văn xuôi

134

Page 6: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

6

3.1.3. Sự ra đời của thơ “Tích hợp các loại hình nghệ thuật”

140

3.2. Sự phức hợp trong các kiểu cấu trúc tác phẩm

148

3.2.1. Cấu trúc kiểu điện ảnh và kiểu kịch

150

3.2.2. Cấu trúc kiểu âm nhạc

157

3.2.3. Cấu trúc kiểu vòng tròn mở của trò chơi ru-bích

163

3.3. Sự vận động trong ngôn ngữ và giọng điệu thơ

166

3.3.1. Ngôn ngữ thơ

166

3.3.2. Giọng điệu thơ

17

2

Page 7: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

7

C. KẾT LUẬN

189

D. DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

193

Đ. TÀI LIỆU THAM KHẢO

194

E. PHỤ LỤC

202

Page 8: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

8

A. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Tính hoành tráng, không khí sử thi là đặc điểm nổi bật của trường ca. Điều này

lý giải tại sao trong và sau hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc (chống thực dân

Pháp và đế quốc Mỹ), trường ca hiện đại Việt Nam mới ra đời, mặc dù thơ ca hiện đại

Việt Nam đã đạt đến đỉnh cao từ “Thơ Mới”. Nhưng cũng như sử thi, cơ sở xã hội cho

sự ra đời của thể loại trường ca không nhất thiết là phải ở ngay thời điểm diễn ra sự

kiện lịch sử ấy mà cần có một độ lùi thời gian cần thiết; cho nên, sự nở rộ và độ chín

của trường ca hiện đại Việt Nam phải chờ đến những năm sau khi chiến tranh kết thúc.

Giờ là lúc, những nhà thơ mặc áo lính mới có đủ thời gian để nhìn nhận, tổng kết chặng

đường sử thi hào hùng mà lịch sử dân tộc và bản thân họ đã đi qua. Trong đó, Thu Bồn,

Nguyễn Khoa Điềm và Thanh Thảo là ba tác giả có những đóng góp lớn cho sự phát

triển của trường ca. Tuy số lượng sáng tác trường ca của ba tác giả này nhiều ít khác

nhau; nhưng có thể nói, đây là ba tác giả tiêu biểu góp phần làm nên sự nở rộ; sự phong

phú, đa dạng và sự hoàn thiện từng bước của trường ca Việt Nam. Cả ba tác giả đều đã

có thành tựu quan trọng trong sự nghiệp văn học nước nhà. Trong đó, Thu Bồn được

xem là một tác giả có quá trình sáng tác trường ca liên tục nhất, xuyên suốt từ chiến

tranh sang hoà bình với số lượng nhiều nhất: 12 trường ca (theo cách gọi của ông).

Nguyễn Khoa Điềm cũng sáng tác rất nhiều những bài thơ dài mang dáng trường ca;

tuy nhiên, ông chỉ viết có một trường ca; song, là một trường ca có vị trí rất quan trọng;

mang tính chất bắc cầu từ thời chiến sang thời bình, từ giai đoạn trường ca mang đậm

tính tự sự, có nhân vật và kết cấu theo cốt truyện trước đó sang trường ca kết cấu theo

mạch tư tưởng, cảm xúc. Người tiếp nối mạch trường ca này thành công nhất và cũng

là một tác giả viết trường ca với nhiều sáng tạo trong cấu trúc nhất, chính là Thanh

Thảo với tám trường ca, trong đó có tới bốn trường ca đạt giải thưởng Nhà nước. Ngoài

ra, nếu tính luôn cả năm bài thơ dài (trong đó có một bài thuộc dạng trích trường ca) là

trường ca (như cách gọi của Thu Bồn) thì Thanh Thảo có đến 13 “trường ca”. Như vậy,

có thể nói, trong thơ ca hiện đại Việt Nam, Thu Bồn và Thanh Thảo là hai nhà thơ sáng

tác nhiều trường ca nhất: mỗi tác giả có tám trường ca. Hơn nữa, qua nghiên cứu

Page 9: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

9

trường ca, chúng tôi nhận thấy rằng, đây là ba tác giả có những khám phá và sáng tạo

trong quá trình vận động của thể loại, và đứng trên góc độ của cái nhìn địa - văn hoá thì

cả ba tác giả đều cùng sinh trưởng và gắn bó chặt chẽ với mảnh đất miền Trung và Tây

Nguyên. Chính vì thế, chúng tôi chọn trường ca của ba tác giả này để nghiên cứu, chỉ

ra những đặc điểm độc sáng, từ đó giúp cho người đọc phần nào nhận rõ hơn diện mạo

của trường ca hiện đại Việt Nam.

Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người đi trước, cố gắng đưa ra một

khái niệm về trường ca và tìm đến những đặc điểm nổi bật của trường ca Thu Bồn,

Nguyễn Khoa Điềm và Thanh Thảo trong cái nhìn chung - riêng với đặc điểm của

trường ca Việt Nam nhằm tìm ra phong cách của từng tác giả, chính là mục đích và ý

nghĩa của đề tài. Đề tài cũng bước đầu chú trọng nghiên cứu đến những tác giả thuộc

thế hệ những nhà thơ chống Mỹ vốn xưa nay ít được đề cập thành một công trình riêng

trong quá trình nghiên cứu văn học Việt Nam, nhằm tìm ra những đóng góp của họ

trong tiến trình hiện đại hoá thơ ca dân tộc. Đây cũng là một yêu cầu mang tính bức

thiết mà đề tài hướng đến.

2. Lịch sử vấn đề

Cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu nào viết chung cho cả ba tác

giả. Chính vì vậy, để tiện việc theo dõi quá trình nghiên cứu về ba tác giả này từ trước

đến nay, chúng tôi xin được khái lược lịch sử vấn đề đối với riêng từng tác giả theo

trình tự thời gian xuất hiện các bài viết, để người đọc, phần nào, nhận ra sự tiến triển

trong quá trình nghiên cứu, đánh giá về Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm và Thanh Thảo.

2.1. Những ý kiến về thơ và trường ca Thu Bồn

2.1.1. Những ý kiến chung về thơ Thu Bồn

Về phong cách thơ Thu Bồn, Bích Thu ở Theo dòng văn học (1984) nhận xét:

Thơ Thu Bồn “kết hợp hài hoà cảm xúc và trí tuệ. .. Suy nghĩ mà vẫn gắn với tâm tình,

khái quát mà vẫn không tách rời hiện thực” [97,tr.856]. Nguyễn Trọng Tạo trong

Thương nhớ Thu Bồn - Hà Đức Trọng (2003) có nhận xét khá sắc nét: “Thơ văn anh có

thể ví với dòng sông đầy ghềnh thác, cuộn xiết và réo gọi… Ngòi bút anh cắm sâu vào

Page 10: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

10

những đề tài mang tính anh hùng ca, nhưng cũng chan hoà máu lệ trong những bi

thương đau khổ của kiếp người” [97,tr.790]. Bên cạnh cái dữ dội, mạnh mẽ của thơ

Thu Bồn, Ngô Thế Oanh trong Người hiến mình trọn vẹn cho thơ (2003) nhấn mạnh

đến yếu tố trữ tình, say đắm: “Trong các nhà thơ đương đại, Thu Bồn là một trong

những nhà thơ có nhiều bài thơ tình say đắm nhất” [28,tr.14]. Trong Đã ngừng đập một

cánh chim đại bàng…, Thanh Thảo cho rằng: “Về sáng tác, phần bản năng là phần

mạnh nhất trong tác phẩm của Thu Bồn”, nhưng do “quá lo âu để phần ý thức sáng rõ

can thiệp” khiến “bản năng nghệ thuật” không dẫn dắt được cảm xúc tạo nên điểm yếu

trong nhiều bài, nhiều đoạn thơ của Thu Bồn [28,tr.551]. Nguyễn Chiến trong Chim

chơ rao đến từ núi lạ (2003) rút ra phong cách thơ Thu Bồn: “có cái giọng hào sảng rất

Quảng Nam. Hồn thơ Thu Bồn vút lên như cánh chim chơ rao đến từ núi lạ. Điều quan

trọng nhất ở anh là đã làm nên một cõi Thu Bồn” [97,tr.508-510]. Trung Trung Đỉnh ở

Tráng sĩ hề… dâu bể (2003) có một đánh giá khá khái quát về phong cách thơ Thu

Bồn: “cái dâu bể sâu nặng ân tình với đồng đội, nhân dân, Tổ quốc, chính nó đã tạo nên

vẻ đẹp thơ ông, cái vẻ đẹp phong trần, nhuốm bụi đời vừa gian nan khúc khuỷu vừa

ngạo nghễ kiêu hùng và lãng mạn” [97,tr.529-530], Phùng Tấn Đông trong Thu Bồn

qua sông Thu Bồn (2003) cho rằng: giọng thơ “Thu Bồn nghiêng hẳn về tư duy nghệ

thuật trữ tình” [97,tr.548]. Trong Ấn tượng Thu Bồn qua hai thời lửa - gió (2003), Giao

Hưởng đi tìm phong cách thơ Thu Bồn qua hai biểu tượng tiêu biểu là Lửa và Gió để

chứng minh chất thơ mạnh mẽ, dữ dội và phóng khoáng của ông [97,tr.596-600]. Anh

Ngọc ở bài viết Có một dòng sông đã qua đời (2003) ghi nhận: Thu Bồn “là một gương

mặt thơ, một gương mặt người đầy bản sắc và bản lĩnh” [97,tr.718]. Hồ Hoàng Thanh

trong Cảm hứng quê hương trong thơ ca Thu Bồn (2003) phân tích chất văn hoá Quảng

Nam trong thơ ông thông qua ám ảnh sông nước và những câu ca dao xứ Quảng

[97,tr.821-828]. Trong Thu Bồn một đam mê thơ - một nhân cách lớn, Bùi Bình Thi

(2003) gọi “Thu Bồn đích thực là một hiệp sĩ thơ. Thơ của anh vừa mãnh liệt cháy vừa

lan toả; thăm thẳm mà đắm sâu” [97,tr.851].

Như vậy, đa số các bài nghiên cứu ở phần này chủ yếu là đưa ra những đánh giá

về phong cách thơ Thu Bồn; nhiều ý kiến thống nhất: chính chất văn hoá Tây Nguyên

Page 11: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

11

hùng vĩ, phóng khoáng và văn hoá đất Quảng chân thành, bộc trực cùng sự mê đắm

hiến thân trong cả tình yêu, tình đời và lòng nhiệt thành cách mạng của tác giả đã làm

nên một phong cách Thu Bồn vạm vỡ và lãng mạn.

2.1.2. Những ý kiến riêng về trường ca Thu Bồn

Trong Bài ca chim chơ rao, một bản trường ca hay (1965), Nguyễn Viết Lãm

nghiên cứu khá kỹ và có những đánh giá xác đáng về ưu, nhược điểm ngay sau khi tác

phẩm xuất hiện ở miền Bắc. Đó là “chất anh hùng ca” thông qua cách chọn “những

hình tượng nghệ thuật” và “phong thái lẫm liệt của nhân vật”; về nghệ thuật, nó “vừa

mang hình thức trường ca, vừa mang hình thức truyện thơ”; về nhược điểm, ông cho

rằng, kết cấu không cân xứng; hiện tại và hồi tưởng quá nhiều vì thế gây nên “đơn

điệu” và có cảm giác bị “lặp”, bị “lẫn lộn” [78,tr.57-60]. Nguyễn Trọng Tạo trong

Trường ca - cảm hứng, bản lĩnh, sức vóc của người viết (1980) cho rằng: “Bài ca chim

chơ rao của Thu Bồn được dư luận đánh giá cao… chính là do sự hấp dẫn của cốt

truyện, số phận có tính anh hùng ca của nhân vật” [108,tr.118]. Hữu Thỉnh trong Vài

suy nghĩ (1980) đánh giá sự chuyển biến về kết cấu của trường ca Thu Bồn

[111,tr.121]. Phạm Huy Thông trong Trường ca (1983) đánh giá: “Bài ca chim chơ rao

hoà lẫn thơ trữ tình với anh hùng ca” [113,tr.17]. Bích Thu ở Theo dòng văn học

(1984) đã tập trung nghiên cứu khái quát trường ca Thu Bồn và khẳng định: “Cho đến

nay, Thu Bồn là người có sở trường về trường ca và viết trường ca vào loại khoẻ ...

Trường ca Thu Bồn thường mang vẻ đẹp trong một chỉnh thể, có vóc dáng bề thế, khoẻ

mạnh” [114,tr.858]. Bài viết cũng đã phân tích khái lược kết cấu trường ca Thu Bồn và

đề cập đến thủ pháp điện ảnh, sân khấu trong cấu trúc ấy [97,tr.864]. Vũ Văn Sỹ trong

Về một đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam 1945-1995 (1999) có một nhận xét khá đầy đủ

và khái quát: “Có thể nói, Thu Bồn là tác giả tiêu biểu viết trường ca theo kết cấu tuyến

sự kiện thông qua cốt truyện” [107,tr.172]. Phạm Tiến Duật trong Người dựng lều

trong đêm để viết (2003) khẳng định: “Thu Bồn là người có thành công và đi đầu trong

số những nhà thơ làm trường ca của ta” [97,tr.518]. Ở Người hiến mình trọn vẹn cho

thơ, Ngô Thế Oanh (2003) nhận xét: “Cùng một lúc vang lên trong Bài ca chim chơ

rao âm hưởng rực rỡ, bi tráng của các khan trường ca Tây Nguyên và sự mềm mại, tha

Page 12: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

12

thiết của những điệu hò khoan hát ru trữ tình dọc những làng biển miền Trung quê

hương tác giả” [28,tr.12]. Thanh Thảo (2003) trong Đã ngừng đập một cánh chim đại

bàng… đánh giá tổng thể phong cách trường ca Thu Bồn như sau: “Tiếp nối truyền

thống của những trường ca, những khan của các dân tộc Tây Nguyên, Trường ca Bài

ca chim chơ rao của Thu Bồn là một giọng thơ riêng, một tiếng thơ riêng, quyết liệt,

hào sảng, ngây thơ, dữ dội. Nó có đủ những phẩm chất tưởng chừng đối nghịch, những

đối cực của một thi pháp trường ca truyền thống cộng với cá tính nghệ thuật riêng của

Thu Bồn” [28,tr.549]. Trung Trung Đỉnh trong Tráng sĩ hề… dâu bể (2003) cho rằng:

“có thể nói, trường ca Bài ca chim chơ rao của Thu Bồn đã đánh thức đúng lúc một thể

loại văn học nhiều năm trước đó gần như bị bỏ quên”, và “luôn luôn có ý thức về cấu

trúc tác phẩm của mình” [76,tr.536-537]. Phùng Tấn Đông (2003) trong Thu Bồn qua

sông Thu Bồn cho rằng: “Thành công của Bài ca chim chơ rao là đã kế thừa được về

mặt nghệ thuật từ sử thi Tây Nguyên… và trở thành trường ca của thời đại mới”

[97,tr.553]. Bằng góc nhìn văn hoá, Vũ Khoa trong Bay và hát cùng Bài ca chim chơ

rao khẳng định: “chất thơ tráng ca trữ tình của Tây Nguyên, miền Trung, xứ Quảng,

luôn là mạch thơ xuyên suốt” cuộc đời thơ Thu Bồn, và khẳng định: “Có nhiều nhà thơ

hiện đại viết trường ca, nhưng chất tráng ca trong trường ca thơ thì chỉ có Thu Bồn”

[97,tr.605-607]. Phan Hoàng trong Thương tiếc nhà thơ Thu Bồn - một cánh chim của

đại ngàn (2003), đánh giá: “So với các nhà thơ cùng thời, trường ca là thế mạnh và

cũng là đóng góp lớn của Thu Bồn” [97,tr.583]. Tương tự như thế, Trần Thanh Phương

trong Có một dòng sông đã… ngừng chảy, viết: “Bài ca chim chơ rao cùng nhiều

trường ca khác của Thu Bồn đã đặt dấu son lên những trang thơ chống Mỹ cứu nước

lẫn nền văn học hiện đại nước ta thế kỉ 20” [97,tr.749]. Vĩnh Quang Lê trong Thu Bồn

sống mãi cùng nhịp sống trường ca (2003) khẳng định: “Trường ca Chim chơ rao mở

đầu một thời đại mới của trường ca” [97,tr.613]. Nguyễn Đức Mậu trong Tưởng nhớ

Thu Bồn (2003) nhận xét cụ thể về kết cấu của trường ca Bài ca chim chơ rao, là được

“viết theo lối truyền thống, có cốt truyện, có nhân vật” [97,tr.653]. Về Bài ca chim chơ

rao, H’Linh Niê trong Thương nhớ nhà thơ Thu Bồn (2003) đã thổ lộ: “tôi đã bị ấn

tượng rất mạnh bởi giọng thơ hào sảng mà rất trữ tình, rất riêng, viết về Tây Nguyên

Page 13: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

13

của ông” [97,tr.712]. Hồ Hoàng Thanh trong Cảm hứng quê hương trong thơ ca Thu

Bồn (2003) đã khái lược quá trình sáng tác trường ca của Thu Bồn; trong đó, tác giả

đánh đồng luôn cả những bài thơ dài của Thu Bồn vào và chỉ ra ba vùng đất được Thu

Bồn lấy cảm hứng sáng tác nhiều nhất, đó là: Tây Nguyên, Quảng Nam và Campuchia.

Sau đó, Hồ Hoàng Thanh tập trung phân tích một số trường ca tiêu biểu. Phần cuối bài

viết, tác giả điểm qua đôi nét về một số ý kiến và quan điểm Thu Bồn về thơ

[97,tr.829-844].

Từ những khái lược trên về lịch sử vấn đề, chúng ta thấy rằng, các tác giả đi

trước nghiên cứu và đánh giá Thu Bồn chủ yếu là trên bình diện phong cách nghệ thuật

một cách tổng thể thơ ca của Thu Bồn (gộp cả trường ca và thơ). Một số bài viết có đề

cập đến trường ca thì cũng chỉ đi sâu phân tích giọng điệu, kết cấu, ngôn ngữ của

trường ca đầu tiên là Bài ca chim chơ rao hoặc có cái nhìn tổng thể về sự vận động

trong cấu trúc trường ca Thu Bồn. Một số bài viết đề cập đến trường ca một cách cụ thể

(Bích Thu, Hồ Hoàng Thanh) thì chưa phân định thơ dài và trường ca của Thu Bồn mà

gọi tất cả là trường ca, vì thế cách đánh giá các trường ca tiêu biểu cũng chưa nhất

quán. Về cấu trúc trường ca Thu Bồn, bài viết của Bích Thu có đề cập, nhưng cũng chỉ

thoáng qua để tìm ra sự chuyển đổi cấu trúc nói chung. Chính vì vậy, từ trước đến nay,

các bài viết về Thu Bồn thường ngắn gọn, chưa có một công trình nghiên cứu về toàn

bộ sự nghiệp trường ca của Thu Bồn.

2.2. Những ý kiến về thơ và trường ca Nguyễn Khoa Điềm

2.2.1. Những ý kiến chung về thơ Nguyễn Khoa Điềm

Cũng như thơ Nguyễn Khoa Điềm, các bài viết, các công trình nghiên cứu về

ông không nhiều, nhưng đều có những đánh giá khá nhất quán về phong cách thơ cũng

như nhược điểm thơ. Tôn Phương Lan trong bài viết khá công phu Nguyễn Khoa Điềm,

nhà thơ trẻ có nhiều triển vọng (1976) đã đề cập ngay đến phong cách riêng ấy; đó “là

những liên tưởng độc đáo, kết quả của một sự am hiểu cuộc sống và một cảm quan văn

chương nhạy bén… Điều đó đã tạo nên những tứ thơ mênh mông, đậm đà mà bay

bổng, chân thành mà xao xuyến” [79,tr.326-328]. Nguyễn Xuân Nam trong Thơ tìm

hiểu và thưởng thức (1985) cũng nhấn mạnh đến sức mạnh của trường liên tưởng và

Page 14: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

14

chiều sâu văn hóa quá khứ: “Thơ Nguyễn Khoa Điềm không đặc sắc về tạo hình, về

màu sắc nhưng anh có sức liên tưởng mạnh. Anh thường dẫn người đọc đi từ quá khứ

đến tương lai, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ sách vở đến đời sống” nhưng nhược điểm

của thơ Nguyễn Khoa Điềm, đó là “có lúc quá dàn trải, thừa thãi” [71,tr.125-126].

Trong bài Gương mặt quê hương, gương mặt nhà thơ (1998), Võ Văn Trực thì chú tâm

đi tìm và phân tích chất văn hoá Huế trong thơ Nguyễn Khoa Điềm và khẳng định:

chính điều đó đã làm nên phong cách thơ: “tâm hồn Huế vẫn dịu dàng ở phía sau mỗi

dòng thơ” [theo 82,tr.4]. Trong Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường (1999), các tác

giả khẳng định “chất suy tư, chính luận” và sự “dồn nén cảm xúc” cũng như sự “am

hiểu hiện thực” trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, cùng “những cái nhìn giàu tính phát

hiện sâu sắc, bất ngờ” [71,tr.115-116]. Nguyễn Trọng Hoàn trong bài viết Cảm nhận

thơ Nguyễn Khoa Điềm (1999) cảm nhận có phần hơi phiến diện về giai đoạn sáng tác

đầu của Nguyễn Khoa Điềm, chỉ nhận ra đó là: chất thơ “mộc mạc hàm chứa một vẻ

đẹp giản dị, trong trẻo. Tiếng thơ như chính tiếng lòng người chiến sĩ bình tĩnh, tự tin”

[71,tr.148]. Trong Tác giả nói về tác phẩm (2000), Nguyễn Quang Thiều đánh giá:

“Thơ ca Nguyễn Khoa Điềm chứa đựng nhiều chất liệu văn học và văn hoá dân gian.

Câu thơ dù ở thể thơ truyền thống hay thơ tự do bao giờ cũng phảng phất phong vị của

ca dao, tục ngữ. Chất hiền minh của trí tuệ dân gian thấm đẫm trong từng từ”

[110,tr.255]. Vũ Tuấn Anh trong Mặt đường khát vọng đến Ngôi nhà có ngọn lửa ấm

chỉ ra tiến trình vận động thơ Nguyễn Khoa Điềm từ thời chiến sang thời bình và kết

luận: Ngôi nhà có ngọn lửa ấm vừa nối tiếp vừa chuyển đổi cảm xúc, nên giọng thơ

“điềm đạm và sâu lắng, tách các lớp vỏ của sự vật để tìm cái cốt lõi bên trong, khơi gợi

từ đấy những triết lý đạo đức và nhân sinh”. Còn Hoàng Thu Thuỷ trong Ngôi nhà tâm

hồn của Nguyễn Khoa Điềm luôn có ngọn lửa ấm cũng đi sâu phân tích tập thơ mới

này của ông, và đánh giá: “sự vận động từ gân guốc, mạnh khoẻ một cách điềm tĩnh

đến độ sâu sắc đến mức tĩnh tại, chạm vào phần sâu kín nhất của tâm hồn con người,

làm bật lên những hiệu ứng thẩm mỹ phong phú” [theo 82,tr.4-5]. Trong Luận văn

Thạc sĩ Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm (2005), Lưu Thị Lập sau khi nêu lên

những đóng góp của thơ Nguyễn Khoa Điềm trong phong trào thơ chống Mỹ đã đưa ra

Page 15: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

15

và phân tích những cảm hứng chính trong thơ Nguyễn Khoa Điềm (về đất nước, con

người trong và sau chiến tranh) đã tập trung phân tích những hình ảnh thơ, ngôn ngữ

thơ và màu sắc văn hoá dân gian trong thơ Nguyễn Khoa Điềm [82,tr.113].

Gần đây, sau khi từ giã quan trường, Nguyễn Khoa Điềm đã trở lại với thơ và đã

công bố nhiều bài thơ cho một giai đoạn sáng tác mới. Có một số bài viết giới thiệu,

nhưng nhìn chung chỉ chủ yếu phân tích lẻ những bài thơ ấy và tập trung vào chuyện

trở về “vườn chuối” của ông, do đó, chưa có những kết luận đáng chú ý.

2.2.2. Những ý kiến riêng về trường ca Nguyễn Khoa Điềm

Nguyễn Văn Long trong bài viết Nguyễn Khoa Điềm với Mặt đường khát vọng

(1974) đã nhấn mạnh đến lối thơ thời sự, chính luận và cách trữ tình khác biệt của

Nguyễn Khoa Điềm. Về nhược điểm: “Cũng dễ thấy là đọc thơ ông, có ấn tượng hơi

căng thẳng, có khi nặng nề nữa”. Cuối cùng, tác giả khẳng định: “Nguyễn Khoa Điềm

đã có những đóng góp nhất định và đáng kể vào bước phát triển của thơ ca cách mạng

miền Nam” [88,tr.386-388]. Trong Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ trẻ có nhiều triển vọng

(1976), Tôn Phương Lan đề cập đến sự thể nghiệm mới và thành công của Nguyễn

Khoa Điềm từ thơ chuyển sang sáng tác trường ca: Trường ca Mặt đường khát vọng “là

một thể nghiệm mới trong vấn đề tìm tòi phương pháp thể hiện và là một thành công

mới của anh”. Về cấu trúc trường ca này, Tôn Phương Lan nhận xét khá xác đáng:

“không coi việc kể chuyện là chính. Lấy suy nghĩ, cảm xúc làm chỗ dựa cho kết cấu để

rồi từ đó triển khai cả bề rộng lẫn bề sâu” [79,tr.331-332]. Trần Đăng Xuyền trong

cuốn Giảng văn Văn học Việt Nam (1998) chủ yếu tập trung phân tích, đánh giá

chương Đất nước: “Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ

tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình

cảm gắn bó với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ trong những năm chống Mỹ”

[71,tr.127]. Trong cuốn Về một đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam giai đoạn 1945-1995

(1999), Vũ Văn Sỹ sau khi giới thiệu kết cấu toàn bộ chín chương của trường ca, đã

nhận xét: “Trường ca viết về phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên Huế, nhưng

tác giả không dừng lại khai thác những sự kiện ở Huế, mà còn mở rộng liên tưởng trên

nhiều bình diện, nhiều phía của vấn đề: tình hình thời sự trong nước và thế giới, về

Page 16: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

16

lãnh tụ, về lịch sử, về ca dao, thần thoại... Trong các trường đoạn này các biện pháp tự

sự vẫn được huy động một cách đắc lực” [107,tr.176]. Nguyễn Trọng Hoàn trong Cảm

nhận thơ Nguyễn Khoa Điềm (1999) đề cập đến độ chín về mọi mặt, độ khái quát cao

và sức vươn tới của thơ Nguyễn Khoa Điềm: “Trường ca Mặt đường khát vọng hội tụ

không chỉ độ chín của tư tưởng, nhận thức mà còn thể hiện một phong cách thơ có chất

giọng riêng” [71,tr.146]. Ngô Thị Bích Hương khi phân tích chương Đất nước (1999)

thì cho rằng: “Đoạn thơ được viết theo mạch suy tưởng, chất chứa bao ngẫm ngợi suy

tư (vừa giàu chất chính luận) chất chính luận và chất trữ tình” [71,tr.157]. Trong Luận

văn Trường ca về đề tài chiến tranh chống Mỹ (nhìn từ góc độ thể loại), Diêu Thị Lan

Phương (2004) sau khi trình bày toàn bộ các chương của trường ca “Mặt đường khát

vọng”, đã kết luận: “Kết cấu của nó là những mảng lớn của hiện thực, không có chỗ

cho những cảm xúc thuộc về cá nhân như một số trường ca sau này” [101,tr.88].

Nhìn chung, nghiên cứu về trường ca Nguyễn Khoa Điềm, các bài viết đa phần

tập trung phân tích vẻ đẹp giá trị văn hóa truyền thống và chất thơ triết luận. Một số bài

đã đề cập kĩ hơn đối với trường ca Mặt đường khát vọng, nhưng mức độ cũng chỉ dừng

lại ở bề mặt nội dung và hình thức tác phẩm, chưa phân tích sâu vào cấu trúc cũng như

ngôn ngữ của trường ca.

2.3. Những ý kiến về thơ và trường ca Thanh Thảo

2.3.1. Những ý kiến chung về thơ Thanh Thảo

Thiếu Mai trong bài Thanh Thảo - thơ và trường ca (1980) chủ yếu đánh giá về

phong cách: “Thơ Thanh Thảo có dáng riêng. Đọc anh, dù chỉ mới một lần, thấy ngay

dáng ấy”. Tác giả cũng là người đầu tiên nói về độ mờ nhoè trong nghĩa thơ Thanh

Thảo: “Có điều lạ, là mình chưa thể phân tích rạch ròi những sắc thái tình cảm như

thường khi đọc thơ của nhiều tác giả khác,... là thơ của tâm hồn giàu suy tưởng, giàu trí

tuệ... đầy đặn cả hai mặt cảm xúc và suy nghĩ” [91,tr.97-98]. Trong Chợt ghi về mấy

nhà thơ cùng thời (1983), Nguyễn Trọng Tạo nhấn mạnh tính bí ẩn, độ mờ nhoè về

nghĩa trong thơ Thanh Thảo: “thơ anh không sờ mó được. Nó là một tia chớp từ trời

cao làm hiện lên lung linh tất cả sự vật chung quanh ta vốn chìm trong bóng tối bí mật,

Page 17: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

17

rồi vụt tắt sau những khoảnh khắc” [109,tr.139]. Ở Suy nghĩ mới về nhân dân trong

Những ngọn sóng mặt trời của Thanh Thảo (1983), Trần Đình Sử và Trần Đăng Xuyền

nhận xét: “Những tập thơ của Thanh Thảo đã góp phần làm sâu sắc thêm quan niệm

nghệ thuật về nhân dân trong văn học” [118,tr.119]. Bích Thu trong Thanh Thảo; một

gương mặt tiêu biểu trong thơ từ sau 1975 (1985) cũng khẳng định: “Thanh Thảo đã

đem đến cho người đọc “một thực đơn tinh thần” mới mẻ và độc đáo, góp phần làm

phong phú thêm tiếng nói của thơ hôm nay” [114,tr.422]. Bài viết còn nêu lên “Những

tìm tòi mới trên hành trình sáng tạo” và cho rằng: đây là “một hiện tượng đặc biệt”, từ

“cái tôi từng trải, cái tôi chứng kiến” chuyển sang “cái tôi nhập cuộc , cái tôi hoá thân”

[83,tr.426]. Trong Thanh Thảo, người lính và những khúc ca lính Việt (1999), Nguyễn

Thụy Kha nhận xét: “Sức tự ý thức đến ngột ngạt trong thơ Thanh Thảo dường như đã

khắc hoạ rõ sự riêng biệt của thơ chống Mỹ”. Để chống lại những luận điểm cho rằng

thơ Thanh Thảo mới quá, liệu có còn bản sắc dân tộc?, Nguyễn Thụy Kha khẳng định:

“Theo tôi, cái chất Việt đã ngấm vào từng con người khiến cho anh khi viết ra câu thơ

của mình, ở đó đã có bản sắc dân tộc rồi”. Đề cập đến vấn đề cách tân nghệ thuật của

Thanh Thảo, bài viết cho rằng: Thanh Thảo “đã thực sự cắm được một cái mốc trên

chặng đường tìm kiếm đầy gian truân này” [75,tr.78-81]. Bùi Công Hùng trong Sự

cách tân thơ văn Việt Nam hiện đại (2000) tập trung nhận xét: “Tính giao hưởng, tính

phức điệu” của thơ Thanh Thảo [72,tr.92]. Trong Thanh Thảo còn những bài thơ lẻ

(2007), Nguyễn Việt Chiến ghi nhận và khẳng định sự thành công của Thanh Thảo ở

cả thơ trước và sau chiến tranh: “Tôi thì cho rằng ở giai đoạn nào cũng vậy, Thanh

Thảo vẫn là một tài năng thơ đích thực với một trái tim luôn luôn nồng nhiệt, chân

thành và bất bình trước mọi giả trá, bất công và bạo lực” [51,tr,75]. Tác giả cũng chú ý

với mọi người về ý thức cách tân thơ ca của Thanh Thảo, nhưng cũng nhấn mạnh tính

nhất quán phong cách thơ ông từ trước đến nay: “ông là một tài năng không chịu đựng

nổi những con đường mòn cũ, quen thuộc trong thi ca. Bởi tính năng động trong sáng

tạo của con người thơ ông luôn bật lên những ý tưởng, những khát khao khám phá”

[51,tr.77].

Như vậy, đa số các nhà nghiên cứu, nhà thơ khi đánh giá về Thanh Thảo đều có

Page 18: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

18

sự thống nhất cao về cái mới và “lạ”, đặc biệt là một bản lĩnh thơ luôn táo bạo, gai góc

và quyết liệt đầy thuyết phục, thể hiện ý thức cách tân thơ ca.

2.3.2. Những ý kiến riêng về trường ca Thanh Thảo

Thiếu Mai trong bài Thanh Thảo - thơ và trường ca (1980) thì đề cập đến kết

cấu của trường ca Những người đi tới biển và tác giả băn khoăn: “hình như về mặt kết

cấu, chúng ta vẫn chưa tìm ra một hướng nào khả dĩ tương đối thoả mãn”. Về câu thơ:

“cũng có nhiều điều thú vị, đáng bàn” [91,tr.101-102]. Nguyễn Trọng Tạo trong bài

Chất trẻ trong thơ chống Mỹ (1981) đã viết: Trường ca Những người đi tới biển của

Thanh Thảo “là một bước tiến vượt bậc... đóng vai trò mở đầu cho trường ca viết về

chiến tranh sau chiến tranh, với một giọng điệu riêng, đưa thơ trẻ chống Mỹ lên đỉnh

cao đáng tin cậy” [109,tr.123-125]. Trần Đình Sử và Trần Đăng Xuyền trong Suy nghĩ

mới về nhân dân trong Những ngọn sóng mặt trời của Thanh Thảo (1983), khẳng định:

“Thể loại Trường ca nở rộ thời gian vừa qua là một đóng góp quan trọng” của “những

cây bút trẻ xuất hiện trong thời chống Mỹ”, trong đó, “Thanh Thảo là một trong những

tác giả tiêu biểu” [118,tr.168]. Bích Thu trong Thanh Thảo; một gương mặt tiêu biểu

trong thơ từ sau 1975 (1985), sau khi phân tích phong cách thơ, đã kết luận: “Trường

ca Thanh Thảo mang đậm dấu vết cá nhân, không lặp lại bất cứ ai” [83,tr.426]. Còn Vũ

Văn Sỹ trong Thơ 1975-1995, sự biến đổi thể loại (1995) cho rằng: Thanh Thảo là

người đi đầu trong sự “phân hoá cấu trúc thể loại trường ca” nhằm trữ tình hóa yếu tố

tự sự [106,tr.108]. Trần Mạnh Hảo với Có một thời đại mới trong thơ ca (1996) nhận

xét: “Lần đầu xuất hiện trên thi đàn... Lập tức thơ ông đã trở thành một hiện tượng vào

năm 1974 và nối dài qua những ngày giải phóng với Trường ca Những người đi tới

biển” [64,tr.178]. Trần Đình Sử trong bài Văn học Việt Nam trong những thập kỉ

chuyển mình 1975-1985 (1996) cho rằng: Thanh Thảo có “ý thức nhìn nhận con người

ở nhiều hướng, nhiều chiều đang được nhiều nhà văn chia xẻ” [105,tr.206]. Nguyễn

Thuỵ Kha ở Viết lại chiến tranh trong thời bình (1998) đánh giá: “Với cảm hứng giao

hưởng khoáng đạt, Thanh Thảo đã vùng vẫy trong thể loại đầy tính phức điệu này để

viết nên sự thật của cuộc chiến tranh” [74,tr.78]. Đông Hải trong Khối vuông rubich và

hình tượng tư duy thơ của Thanh Thảo (1999) có một cái nhìn khá khái quát về tư duy

Page 19: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

19

và cấu trúc trong thơ và trường ca Thanh Thảo: “thi sĩ là người xác lập những vòng

tròn chuyển động bằng hình tượng tư duy muôn màu, muôn vẻ. Và, Thanh Thảo đã

thành công qua khả năng tạo nên những “vòng quay” sáng tạo bằng một cấu trúc thơ

mới mẻ, đa dạng để tự khẳng định mình, khẳng định cuộc sống” [62,tr.102-103]. Bùi

Công Hùng trong cuốn Sự cách tân thơ văn Việt Nam hiện đại (2000) nhận xét: “Thanh

Thảo trong Những người đi tới biển”, bằng “tính giao hưởng, tính phức điệu” đã “bộc

lộ sự sung sức của tâm hồn, của kĩ năng thơ trên nhiều bậc thang khác nhau của sự biểu

hiện, đồng thời nêu bật sự phong phú, đa dạng trong nội tâm, trong đời sống của con

người Việt Nam hiện đại” [72,tr.92]. Khi bàn về trường ca Đêm trên cát (2003), Trung

Trung Đỉnh thổ lộ, nó “là một kiệt tác của phong cách thơ vụt sáng” [58,tr.7]. Trong

Thanh Thảo - nghĩa khí và cách tân (2004), Chu Văn Sơn đề cập đến hai nội dung cơ

bản là tinh thần “nghĩa khí” và ý thức “cách tân” [103,tr.19-22] của Thanh Thảo thông

qua đối tượng phản ánh và cấu trúc đa dạng của trường ca. Xuân Cang trong bài viết

Đêm trên cát nhập hồn Cao Bá Quát (2007) đã hàm ý khẳng định giá trị nghệ thuật

vượt tầm của trường ca Đêm trên cát vì nó được Thanh Thảo viết như thể được Cao Bá

Quát “nhập hồn” [47,tr.82].

Từ những kết quả nghiên cứu trên, chúng ta dễ nhận thấy rằng, các bài viết chủ

yếu nghiên cứu về đặc điểm của trường ca nói chung, trong đó, có đề cập đến Thanh

Thảo. Còn những bài viết riêng về Thanh Thảo thì đề cập đến cả thơ và trường ca. Nếu

có riêng cho trường ca thì cũng chỉ để cập đến một mảng nào đó của một vài trường ca,

hoặc một trường ca mang tính chất giới thiệu chung. Về cấu trúc thể loại trường ca

cũng chỉ được đề cập đến trên phương diện chung. Vấn đề cách tân nghệ thuật thơ của

Thanh Thảo; Bích Thu, Nguyễn Thuỵ Kha, Trung Trung Đỉnh, Chu Văn Sơn, Nguyễn

Việt Chiến… có bàn đến, nhưng còn khái quát, chưa mang tính hệ thống và chứng

minh cụ thể để thuyết phục.

Có thể nói rằng, cho đến nay, phần lớn các bài viết đều đưa ra những nhận định

khái quát phong cách của từng tác giả trong cái nhìn thống nhất về thơ (xem trường ca

cũng là thơ). Tuy nhiên, do chưa có điều kiện đi sâu vào vấn đề lý thuyết thể loại nên

Page 20: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

20

các bài viết vẫn còn đánh đồng, lẫn lộn những bài thơ dài của các tác giả với trường ca,

khiến cho sự nhìn nhận về đặc điểm thể loại chưa rõ nét. Vì thế, việc nghiên cứu một

cách có hệ thống về lý thuyết thể loại và toàn bộ trường ca của từng tác giả, từ đó rút ra

đặc điểm trường ca Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm và Thanh Thảo để làm sáng tỏ thêm

những đặc điểm chung của trường ca Việt Nam là một hướng nghiên cứu mới. Điều

quan trọng nhất trong luận án này chính là tìm ra nét chung của trường ca ba tác giả,

nhưng đồng thời, phải giúp người đọc nhìn nhận rõ dấu ấn cá nhân từng tác giả trong

quá trình sáng tạo, làm nên sự đa dạng trong cấu trúc thể loại trường ca.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

- Toàn bộ trường ca và thơ dài của Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo.

- Ngoài ra, để nghiên cứu trường ca của ba tác giả một cách thuyết phục, chúng

tôi tham khảo thêm thơ và các bài nghiên cứu của Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm,

Thanh Thảo.

- Bên cạnh đó, chúng tôi còn liên hệ với trường ca hiện đại của các tác giả khác

để có cái nhìn đối sánh.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Đặc điểm trường ca của ba tác giả Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm và Thanh

Thảo ở các bình diện, yếu tố nổi trội về nội dung nghệ thuật và cấu trúc nghệ thuật.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Đi từ các quan niệm về sử thi và trường ca trên thế giới nói chung và ở Việt

Nam nói riêng, đưa ra một khái niệm về trường ca nhằm làm điểm tựa lý thuyết , mở

hướng cho việc phân biệt một cách cơ bản giữa trường ca, thơ dài và truyện thơ đối với

những tác phẩm cụ thể xưa nay thường bị nhầm lẫn. Rút ra những quan niệm chính của

ba tác giả về thơ và trường ca; đồng thời điểm qua giá trị chung về nội dung và nghệ

thuật từng trường ca của họ.

4.2. Rút ra và phân tích những đặc điểm nổi bật của trường ca Thu Bồn, Nguyễn

Khoa Điềm và Thanh Thảo về nội dung nghệ thuật và phương thức thể hiện. Trên cơ

Page 21: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

21

sở đó, từ thực tiễn sáng tác trường ca của ba tác giả, phân tích được sự đa dạng, phong

phú, sáng tạo trong khả năng chiếm lĩnh hiện thực cuộc sống và con người; đồng thời

nêu lên những đóng góp về cấu trúc nghệ thuật trường ca của ba tác giả.

4.3. Đưa ra được những nét riêng phong cách trường ca của Thu Bồn, Nguyễn

Khoa Điềm và Thanh Thảo nhằm khẳng định sự đóng góp của họ trong lịch sử văn học

nói chung và sự phát triển của trường ca nói riêng, cũng như đóng góp của họ trong

tiến trình hiện đại hoá thơ ca Việt Nam.

4.4. Từ những kết quả nghiên cứu trên, luận án mở ra một hướng nghiên cứu

tiếp cận các kiểu cấu trúc nghệ thuật của trường ca hiện đại Việt Nam, phân định

đường biên giữa trường ca và các thể loại thơ; nhận ra tính thống nhất và sự độc lập

của từng đoạn thơ trong trường ca, tạo thuận lợi cho những ai quan tâm khi tìm hiểu,

giảng dạy từng trường ca riêng lẻ, những đoạn trích trường ca trong sách giáo khoa.

5. Phương pháp nghiên cứu

Ở Luận án này, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành nhằm

nhìn nhận một cách toàn diện các bình diện nội dung nghệ thuật và hình thức nghệ

thuật trong tính phức hợp của thể loại. Trong đó nổi bật là: kiến thức tâm lý học, kiến

thức văn hoá học (hay đúng hơn là địa - văn hoá), phương pháp phân tích - tổng hợp,

phương pháp so sánh - đối chiếu, phương pháp thống kê và một số phương pháp bổ trợ

khác.

6. Cấu trúc của luận án:

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài được cấu trúc gồm 3

chương:

Chương 1: Trường ca và trường ca Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm và Thanh Thảo

Chương 2: Trường ca Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm và Thanh Thảo - tính đa tầng

trong khả năng chiếm lĩnh hiện thực cuộc sống và con người

Chương 3: Trường ca Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm và Thanh Thảo - tính phức

hợp trong cấu trúc nghệ thuật

Page 22: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

22

Đ. TÀI LIỆU THAM KHẢO

I- NHỮNG TÁC PHẨM TRA CỨU

Trường ca

1- Thu Bồn (1986), Người vắt sữa bầu trời, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

2- Thu Bồn (2003), “Bài ca chim chơ rao”, Thu Bồn - Thơ và trường ca, Nxb Đà

Nẵng, 2003

3- Thu Bồn (2003), “Vách đá Hồ Chí Minh”, Thu Bồn - thơ và trường ca, Nxb Đà

Nẵng.

4- Thu Bồn (2003), “Người gồng gánh phương Đông”, Thu Bồn - Thơ và trường ca,

Nxb Đà Nẵng.

5- Thu Bồn (2003), “Chim vàng chốt lửa”, Thu Bồn - Thơ và trường ca, Nxb Đà

Nẵng.

6- Thu Bồn (2003), “Ba dan khát”, Thu Bồn - Thơ và trường ca, Nxb Đà Nẵng.

7- Thu Bồn (2003), “Campuchia hi vọng”, Thu Bồn - Thơ và trường ca, Nxb Đà

Nẵng.

8- Thu Bồn (2003), “Oran bảy sáu ngọn”, Thu Bồn - Thơ và trường ca, Nxb Đà Nẵng.

9- Nguyễn Khoa Điềm (1997), “Mặt đường khát vọng”, Tuyển tập Trường ca, Nxb

Quân đội, Hà Nội.

10- Thanh Thảo (1977), Những người đi tới biển, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

11- Thanh Thảo (1982), “Những nghĩa sĩ Cần Giuộc”, Những ngọn sóng mặt trời, Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1982

12- Thanh Thảo (1985), “Đêm trên cát”, Khối vuông rubich, Nxb Tác phẩm mới,

13- Thanh Thảo (1985), Khối vuông rubich, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

14- Thanh Thảo (1997), Trẻ con ở Sơn Mỹ, Nxb Văn học, Hà Nội.

15- Thanh Thảo (2000), Bùng nổ của mùa xuân, Sở Văn hóa Thông tin Quảng Ngãi.

16- Thanh Thảo (2002), Trò chuyện với nhân vật của mình, Nxb Quân đội nhân dân,

Hà Nội.

Page 23: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

23

17- Thanh Thảo (2002), “Cỏ vẫn mọc”, Trò chuyện với nhân vật của mình, Nxb Quân

đội nhân dân, Hà Nội.

Thơ

18- Thu Bồn (1970), Tre xanh, Nxb Giải phóng.

19- Nguyễn Khoa Điềm (1972), Đất ngoại ô, Nxb Văn nghệ Giải phóng.

20- Nguyễn Khoa Điềm (1984), Đất và khát vọng, Nxb Văn học Hà Nội.

21- Nguyễn Khoa Điềm (1986), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm, Nxb Tác phẩm mới, Hà

Nội.

22- Thanh Thảo (1978), Dấu chân qua trảng cỏ, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt

Nam, Hà Nội.

23- Thanh Thảo (1987), Bạch đàn gọi bạch dương, Nxb Tổng hợp Nghĩa Bình.

24- Thanh Thảo (1987), Tàu sắp vào ga, Nxb Tổng hợp Nghĩa Bình.

25- Thanh Thảo (1987), Từ một đến trăm, Nxb Đà Nẵng.

26- Thanh Thảo, Nguyễn Đỗ (1988), Bến cá chiều thu, Nxb Tổng hợp Nghĩa Bình

Tiểu luận, phê bình

27- Thu Bồn (2002), Đánh đu cùng dâu bể, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

28- Thu Bồn (2003), “Trường ca, một liến trúc tổng hợp của thơ ca”, Thu Bồn - Thơ và

trường ca, Nxb Đà Nẵng, tr.531-540.

29- Nguyễn Khoa Điềm (1999), “Đôi nét về cuộc đời và tác phẩm”, Nhà văn và tác

phẩm trong nhà trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.117-124.

30- Nguyễn Khoa Điềm (2000), “Đất nước” (trả lời phỏng vấn), Tác giả nói về tác

phẩm, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh, tr.255-278.

31- Nguyễn Khoa Điềm (2005), “Đầu xuân với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm” (trả lời

phỏng vấn của Nguyễn Trọng Tạo), Vietnam net, (9/2), tr.1-5.

32- Thanh Thảo (1995), Ngón thứ sáu của bàn tay, Nxb Đà Nẵng.

33- Thanh Thảo (1998), “Biển đêm ngẫu khúc và Lục bát”, Tạp chí Kiến thức gia đình

(82).

34- Thanh Thảo (2000), “Mười phút với tác giả Trường ca Bùng nổ mùa xuân” (Trả lời

phỏng vấn), Tạp chí Cẩm Thành (22), tr.66.

Page 24: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

24

35- Thanh Thảo (2002), “Thơ Việt Nam đầu thế kỉ XXI - Hướng tới Nobel hay No -

Bell?”, Tạp chí Văn nghệ Quảng Ngãi (Xuân Nhâm Ngọ), tr.88-90.

36- Thanh Thảo (2003), “Sự đồng cảm trong phê bình thơ”, Tạp chí Cẩm Thành (36),

tr.64-66.

37- Thanh Thảo (2003), “Tản mạn về thơ”, Tạp chí Sông Hương (7), tr,79-84.

38- Thanh Thảo (2003), “Về thế hệ những nhà thơ chống Mỹ”, báo Thơ (II), tr.4.

39- Thanh Thảo (2004), “Đổ bóng xuống mặt trời... và đất”, Tạp chí Văn nghệ Quảng

Ngãi (Tết Dương lịch), tr.49-51.

40- Thanh Thảo (2004), “Tôi hối hả quét dọn con người mình” (Trả lời phỏng vấn) ,

Tạp chí Văn nghệ Quảng Ngãi (Tết Dương lịch), tr.86-90.

41- Thanh Thảo (2004), “Thơ chẳng là gì nhưng cũng có thể là tất cả”, Tạp chí Sông

Trà (2), tr.82-85.

42- Thanh Thảo (2004), “Khương Hữu Dụng, 73 năm thơ”, Tạp chí Văn hiến (7/39),

tr.34-38.

43- Thanh Thảo (2004), Mãi mãi là bí mật, Nxb Lao động, Hà Nội.

II- TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT

44- Alexandr Puskin (1999), Tuyển tập Puskin (Tập 3, Thơ trữ tình và trường ca), Nxb

Văn học, Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây.

45- Lại Nguyên Ân (1980), “Vấn đề thể loại sử thi của văn học hiện đại” (qua một số ý

kiến của giới nghiên cứu Liên Xô), Tạp chí Văn học (1), tr.82-91.

46- Lại Nguyên Ân (1981), “Bàn góp thêm về thể Trường ca”, Tạp chí Văn nghệ Quân

đội (1), tr.45-52.

47- Xuân Cang (2006), “Đêm trên cát nhập hồn Cao Bá Quát”, Tạp chí Sông Trà (16),

tr.82-87.

48- Phạm Ngọc Cảnh (1980), “Trường ca và người viết Trường ca”, Tạp chí Văn nghệ

quân đội (11), tr.125-128.

49- Nguyễn Bảo Chân (1994), Dòng sông cháy, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

50- Nguyễn Bảo Chân (1999), Chân trần qua vệt rét, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

Page 25: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

25

51- Nguyễn Việt Chiến (2007), “Thanh Thảo còn những bài thơ nhỏ”, Tạp chí Sông

Trà (20), tr.75-81.

52- Phan Nhật Chiêu (2007), Thích tứ K nhưng vẫn là mình (Trả lời phòng vấn), Evăn

(10/4), tr.1-6.

53- Đỗ Hồng Chung, Nguyễn Kim Đính... (1997), Lịch sử văn học Nga, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

54- Phạm Tiến Duật (1980), “Nhân bàn về trường ca, đôi điều suy nghĩ về hình thức”,

Tạp chí Văn nghệ quân đội (12), tr.115-118.

55- Trương Đăng Dung (2004), “Văn bản học và sự bất ổn của nghĩa”, Tạp chí Nghiên

cứu văn học (3), tr.3-22.

56- Đại học Sư phạm Huế (2001), Lý thuyết tiếp nhận hiện đại, Huế.

57- Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội

58- Trung Trung Đỉnh (2003), “Lời bàn về Đêm trên cát”, Báo Thơ (4), tr.7.

59- Nguyễn Đỗ (1995), “Không đề Thanh Thảo”, Ngón thứ sáu của bàn tay, Nxb Đà

Nẵng, tr.63-66.

60- E. Fromm (2002), Ngôn ngữ bị lãng quên, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

61- G.L Abramôvits (1956), Văn học dẫn luận, Nxb Sư phạm, Hà Nội.

62- Đông Hải (1999), “Khối vuông ru bich và hình tượng tư duy thơ Thanh Thảo”, Tạp

chí Văn nghệ Quảng Ngãi (Xuân Kỉ Mão), tr.101-105.

63- Trần Mạnh Hảo (1980), “Vài ý nghĩ nhỏ”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (11), tr.123-

125.

64- Trần Mạnh Hảo (1981), “Có một thời đại mới trong thi ca”, Văn học và cuộc sống,

Nxb Lao động, Hà Nội, tr.155-193.

65- Hêghen (1999), Mỹ học, Nxb Văn học, Hà Nội.

66- Hoàng Ngọc Hiến (1985), Văn học Xô Viết những năm gần đây , Nxb Đà Nẵng.

67- Hoàng Ngọc Hiến (1987), Dịch và giới thiệu Trường ca Maiacopxki, Nxb Văn

học, Hà Nội.

68- Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Trường viết văn Nguyễn Du,

Hà Nội.

Page 26: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

26

69- Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp học hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

70- Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá chủ biên (2004), Từ

điển Văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.

71- Nguyễn Trọng Hoàn, Ngô Thị Bích Hương (1999), Nhà văn và tác phẩm trong nhà

trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

72- Bùi Công Hùng (2000), Sự cách tân thơ văn Việt Nam hiện đại, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

73- IU.B. Bôrep (1974), Những phạm trù Mỹ học cơ bản, Trường Đại học Tổng hợp,

Hà Nội.

74- Nguyễn Thụy Kha (1998), “Viết lại chiến tranh trong thời bình”, Tạp chí Văn nghệ

Quảng Ngãi (4-5), tr.78-80.

75- Nguyễn Thụy Kha (1999), Lời quê góp nhặt, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

76- Đỗ Văn Khang (1982), “Từ ý kiến về trường ca sử thi của Hêghen đến “Trường

ca” hiện đại của ta”, Tạp chí Văn học (6), tr.79-93.

77- Thuỵ Khuê (1996), Cấu trúc thơ, Nxb Văn nghệ, California, Hoa Kỳ.

78- Nguyễn Viết Lãm - “Bài ca chim chơ rao, một bản trường ca hay”, Tạp chí Văn

học (5), 1965, tr.54-60.

79- Tôn Phương Lan (2005), Văn chương và cảm nhận, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

80- Mã Giang Lân (1982), “Trường ca, vấn đề thể loại”, Tạp chí Văn học (6), tr.103-

109.

81- Mã Giang Lân (2004), Thơ, hình thành và tiếp nhận, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội.

82- Lưu Thị Lập (2005), Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm, Luận văn Thạc sĩ Đại

học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội

83- Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2002), Thơ Việt Nam hiện đại,

Nxb Lao động, Hà Nội.

84- Lê Thị Hồng Liên (2001), Chất sử thi trong Trường ca Việt Nam hiện đại 1954-

1985, Luận văn Thạc sĩ Đại học Sư phạm Huế.

Page 27: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

27

85- Phạm Thị Ngọc Liên (1992), Em muốn giăng tay giữa trời và hét, Nxb Hội Nhà

văn, Hà Nội.

86- Vi Thuỳ Linh (1999), Khát, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 1999

87- Vi Thùy Linh (2000), Linh, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2000

88- Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

89- Louise Gluck (2004), “Thơ là giọng, là phong cách của tư tưởng”, Evăn (02/02),

tr.1-5.

90- Lê Xuân Luýt (2001), Cảm nhận và phê bình văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà

Nội.

91- Thiếu Mai (1980), “Thanh Thảo, thơ và trường ca”, Tạp chí Văn học (2), tr.97-102.

92- M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du,

Hà Nội.

93- Anh Ngọc (1980), “Hãy đưa cho tôi một tư tưởng”, Tạp chí Văn nghệ quân đội

(12).

94- N.A. Gulaiep (1982), Lý luận văn học, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp,

Hà Nội.

95- Nhà xuất bản Quân đội (1997), Tuyển tập Trường ca, Hà Nội.

96- Hàn Lệ Nhân (2007), "Lược khảo về Thơ Mới và Thơ Tự do", Đặc trưng (18/7),

tr.1-12.

97- Hoàng Minh Nhân (2004), Thu Bồn, gói nhân tình, Nxb Văn học, Hà Nội.

98- Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1968), Các thể thơ ca và sự phát triển của hình

thức thơ ca trong văn học Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

99- Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1971), Thơ ca Việt Nam (hình thức thể loại), Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

100- Vũ Đức Phúc (1982), “Chung quanh vấn đề Trường ca”, Tạp chí Văn học (6),

tr.93-102.

Page 28: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

28

101- Diêu Thị Lan Phương (2004), Trường ca về đề tài chiến tranh chống Mỹ (nhìn

từ góc độ thể loại), Luận văn Thạc sĩ Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà

Nội.

102- Phan Quý (1992), Lịch sử văn học Pháp, tập 1, Trung cổ - thế kỉ XVI, Nxb Thế

giới, Hà Nội.

103- Chu Văn Sơn (2004), “Thanh Thảo - nghĩa khí và cách tân”, Tạp chí Cẩm

Thành (41), tr.17-32.

104- Từ Sơn (1981), “Về khái niệm Trường ca”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (01),

tr.119-123.

105- Trần Đình Sử (1996), Lý luận phê bình văn học, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội.

106- Vũ Văn Sỹ (1995), “Thơ 1975 - 1995, biến đổi cuả thể loại”, Tạp chí Văn học

(4), tr.20-23..

107- Vũ Văn Sỹ (1999), Về một đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam 1945-1995, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

108- Nguyễn Trọng Tạo (1980), “Trường ca - cảm hứng, bản lĩnh, sức vóc của người

viết”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (11), tr.117-120.

109- Nguyễn Trọng Tạo (1998), Văn chương cảm và luận, Nxb Văn hoá thông tin,

Hà Nội.

110- Nguyễn Quang Thiều chủ biên (2000), Tác giả nói về tác phẩm, Nxb Trẻ, Tp

Hồ Chí Minh.

111- Hữu Thỉnh (1980), “Vài suy nghĩ ”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (12), tr.119-122.

112- Đặng Tiến (2004), Thanh Thảo, (Bài giới thiệu tại Hội thảo thơ quốc tế Hà Lan

- lấy từ mạng Internet), tr.1.

113- Phạm Huy Thông (1983), “Trường ca”, Tạp chí Văn học (1), tr.12-19.

114- Bích Thu (1998), Theo dòng văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

115- Vương Trọng (1980), “Về mấy đặc điểm của trường ca”, Tạp chí Văn nghệ

quân đội (11), tr.121-123.

116- Phùng Văn Tửu chủ biên (1991), Lịch sử văn học Pháp, tập 3, thế kỉ XVIII, Nxb

Ngoại văn, Hà Nội.

Page 29: LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC - repository.vnu.edu.vnrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17290/1/V_L2_01144.pdf · Trên cơ sở thành tựu nghiên cứu của những người

29

117- Trần Ngọc Vương (1981), “Về thể loại Trường ca và tính chất của nó”, Tạp chí

Văn nghệ quân đội (2).

118- Trần Đăng Xuyền (2003), Nhà văn - hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo,

Nxb Văn học, Hà Nội.

119- Nguyễn Như Ý chủ biên (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá thông tin,

Hà Nội.

III- TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG NƯỚC NGOÀI

Tiếng Anh

120- Jonathan Culler (1975), Structuralist Poetics, Routledge & Kegan Paul, London

and Henley.

121- W. Van Oconner (1964), Sense and Sensibility in Modern Poetry, Barne-Noble,

Newyork.

Tiếng Pháp

122- Jean Cohen (1965), Structure du Language Poétique, Champs Flamarion, Paris.

123- R.Jakobson (1963), Essais de Linguistique Générale, Minuit, Paris.

Tiếng Nga

124- А . Н . Соколов (1955), Очерки по исмории русской поэмы 18 и первой

половины 19 века, издательство московского университета.

125- Д .C. Лихачев (1952), Возпиковение Русской литератуы, М - Л.