51
LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN TRUNG TÂM GDTC-QP Bộ môn: GDTC LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V MÃ MÔN: ES 303 Chương 1 Ý NGHĨA TÁC DỤNG VÀ NGUỒN GỐC SỰ PHÁT TRIỂN MÔN BÓNG CHUYỀN TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM 1.1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA MÔN BÓNG CHUYỀN. 1.1.1. Sự hình thành, phát triển môn bóng chuyền trên thế giới: Các nhà sử học cho rằng: Bóng chuyển ra đời ở Mỹ khoảng năm 1895 do giáo viên thể thao tên là WILIAM MORGAM nghĩ ra. Lúc đầu, luật chơi đơn giản và được xem như trò chơi vận động cho học sinh. Ông dùng luới cao khoảng 1,95 m và ruột quả bóng rổ để người ta chuyền qua lưới. Lần đầu tiên tổ chức thi đấu bóng chuyền vào tháng 6 năm 1896 tại Springfield. Năm 1897 ở Mỹ, Luật bóng chuyền ra đời gồm có 10 điều: 1. Đánh dấu sân. 2. Trang phục. 3. Kích thước sân : 7,5 m x 15,1 m. 4. Kích thước lưới : 0,61 m x 8,2 m ; chiều cao lưới : 198 cm. 5. Bóng : Ruột bóng bằng cao su, vỏ bóng bằng da hay chất tổng hợp tương tự. Chu vi bóng: 63,5 cm - 68,5 cm. Trọng lượng bóng : 340 gam. 6. Phát bóng : Cầu thủ phát bóng đứng một chân trên vạch biên ngang và đánh bóng bằng bàn tay mở. Nếu lần đầu phát bóng phạm lỗi thì được phát lại. 7. Tính điểm : Mỗi lần đối phương không đỡ được phát bóng thì bên phát bóng được một điểm (chỉ có bên phát bóng mới được điểm). Page 1

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

  • Upload
    vantram

  • View
    229

  • Download
    5

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN

TRUNG TÂM GDTC-QP

Bộ môn: GDTC

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

MÃ MÔN: ES 303

Chương 1

Ý NGHĨA TÁC DỤNG VÀ NGUỒN GỐC SỰ PHÁT TRIỂN MÔN BÓNG CHUYỀN TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM

1.1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA MÔN BÓNG CHUYỀN.

1.1.1. Sự hình thành, phát triển môn bóng chuyền trên thế giới:

Các nhà sử học cho rằng: Bóng chuyển ra đời ở Mỹ khoảng năm 1895 do giáo viên thể thao tên là WILIAM MORGAM nghĩ ra. Lúc đầu, luật chơi đơn giản và được xem như trò chơi vận động cho học sinh. Ông dùng luới cao khoảng 1,95 m và ruột quả bóng rổ để người ta chuyền qua lưới. Lần đầu tiên tổ chức thi đấu bóng chuyền vào tháng 6 năm 1896 tại Springfield.

Năm 1897 ở Mỹ, Luật bóng chuyền ra đời gồm có 10 điều:

1. Đánh dấu sân.

2. Trang phục.

3. Kích thước sân : 7,5 m x 15,1 m.

4. Kích thước lưới : 0,61 m x 8,2 m ; chiều cao lưới : 198 cm.

5. Bóng : Ruột bóng bằng cao su, vỏ bóng bằng da hay chất tổng hợp tương tự. Chu vi bóng: 63,5 cm - 68,5 cm. Trọng lượng bóng : 340 gam.

6. Phát bóng : Cầu thủ phát bóng đứng một chân trên vạch biên ngang và đánh bóng bằng bàn tay mở. Nếu lần đầu phát bóng phạm lỗi thì được phát lại.

7. Tính điểm : Mỗi lần đối phương không đỡ được phát bóng thì bên phát bóng được một điểm (chỉ có bên phát bóng mới được điểm).

8. Trong thời gian thi đấu (trừ phát bóng) bóng chạm lưới coi như phạm luật.

9. Bóng rơi vào vạch giới hạn là phạm luật.

10. Không hạn chế số người chơi.

Từ năm 1895 đến năm 1920, bóng chuyền được du nhập vào các nước khác và phát triển rộng rãi ở các châu. Trong giai đoạn này luật bóng chuyền cũng thay đổi và hoàn thiện dần.

Năm 1912 các vận động viên nghiệp dư thành lập hiệp hội và năm 1913 tổ chức giải bóng chuyền tại Paradiát.

Page 1

Page 2: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

Bóng chuyền vào châu Âu đầu tiên ở Pháp. Vào Anh năm 1914. Vào Nga, Tiệp Khắc, Ba Lan khoảng năm 1920 - 1921 và phát triển nhanh ở các nước châu Âu. Năm 1928 tại Mátxcơva trong chương trình đại hội thể dục thể thao đã có bóng chuyền.

Năm 1922 tại Brooklyn ( Mỹ) chính thức tổ chức giải bóng chuyền và quyết định đưa môn bóng chuyền vào chương trình Thế vận hội lần thứ VIII sẽ tổ chức vào năm 1924 tại Pari ( Pháp).

Cùng với sự phát triển của phong trào bóng chuyền, luật thi đấu cũng được thay đổi:

- Năm 1900 mỗi điểm kết thúc ở điểm 21. Chiều cao lưới là 2,13 m và các đường biên được tính là trong sân.

- Năm 1912 diện tích sân là 10,6 m x 18,2 m ; chều cao lưới là 2,28 m ; chiều rộng lưới là 0,91m. Sau khi phát bóng hỏng thì thay cầu thủ.

- Năm 1917 : Chiều cao lưới là 2,43 m.

- Năm 1918 : Đội hình mỗi đội có 6 người, điểm mỗi hiệp là 15.

- Năm 19 21: Có thêm đường kẻ giữa sân.

- Năm 19 22: Mỗi đội chỉ được chạm bóng 3 lần.

- Năm 1923 : Diện tích sân bóng chuyền là 9,1 m x 18,2 m

- Năm 1925 : Khi ở tỉ số 14 - 14, đội nào hơn 2 điểm trước thì thắng hiệp ấy.

Luật lệ thay đổi có tác dụng thúc đẩy các mặt kỹ thuật và chiến thuật phát triển. Từ một trò chơi được hình thành từ các động tác tự nhiên với mục đích nghỉ ngơi tích cực, bóng chuyền trở thành một môn thể thao.

Năm 1928 tại Liên Xô, trong chương trình đại hội Thể dục thể thao (tổ chức tại Mátxcơva) đã có môn bóng chuyền.

Từ năm 1929 đến năm 1939, kỹ thuật và chiến thuật bóng chuyền có những bước tiến nhảy vọt. Chắn bóng tập thể xuất hiện đã thúc đẩy sự phát triển các hình thức tấn công mới. Bóng chuyền trở thành môn thể thao mang tính tập thể nhiều hơn. Điều đó được thể hiện rất rõ trong cách sắp xếp các đấu thủ trên sân, trong việc tổ chức tấn công và phòng thủ, trong việc yểm hộ người đập bóng và người chắn bóng.

Năm 1934: Tại Hội nghị tại Stốckhôm (Thụy Điển), Hội nghị đã đề nghị thành Ủy ban kỹ thuật bóng chuyền. Chủ tịch đầu tiên của ủy ban này là ông Ravích Máclốpsky (Chủ tịch hội đồng bóng chuyền Ba Lan), thành lập tiểu ban gồm 13 nước châu Âu, 5 nước châu Mĩ và 4 nước châu Á. Tiểu ban đã quyết định lấy luật bóng chuyền của Mĩ làm cơ sở cho luật thi đấu bóng chuyền có thay đổi vài điều, như:

+ Lấy đơn vị mét làm đơn vị đo lường thống nhất.

+ Phần thân thể chạm bóng chỉ được tính từ thắt lưng trở lên.

+ Đấu thủ chắn bóng không được chạm bóng lần thứ 2 khi chưa có người khác chạm bóng.

+ Chiều cao của lưới nữ là 2,24 m.

+ Vị trí phát bóng được thu hẹp lại.

Page 2

Page 3: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

Ngoài ra, tiểu ban còn quyết định đưa môn bóng chuyền vào chương trình thi đấu Thế vận hội năm 1940.

Tháng 4/1947 tại Pari (Pháp), Hội nghị bóng chuyền Quốc tế đầu tiên quyết định thành lập hiệp hội bóng chuyền quốc tế (FIVB). Sự kện này chứng tỏ bóng chuyền là môn thể thao có tầm thế giới.

Năm 1948: Lần đầu tiên FIVB tổ chức giải vô địch bóng chuyền nam Châu Âu tại ý với 6 đội tham gia. Đội Tiệp Khắc đoạt chức vô địch.

Tháng 9/1949 tại Praha (Tiệp Khắc) tổ chức giải bóng chuyền Thế giới lần thứ nhất cho các đội nam và vô địch châu Âu cho các đội nữ. Hai đội bóng chuyền nam, nữ của Liên Xô đều giành chức vô địch.

Từ 1948-1968: Bóng chuyền phát triển mạnh trên thế giới. Các giải vô địch Thế giới, vô địch châu Âu... được tiến hành thường xuyên và có nhiều nước tham gia. Giải vô địch thế giới năm 1956 tại Pháp có 17 đội bóng chuyền nữ và 24 đội bóng chuyền nam tham gia. Trong đó châu á có 3 đội tham gia là ấn Độ, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên. Châu Mỹ có 3 đội tham gia là Mỹ, Brazin và Cu Ba.

Năm 1964: Bóng chuyền chính thức được đưa vào chương trình thế vận hội Tokyo (Nhật Bản) , đội bóng chuyền nam Liên Xô và đội nữ Nhật Bản giang chức vô địch. Luật bóng chuyền vẫn không ngừng được hoàn thiện:

+ Năm 1949 : Mỗi hiệp đấu được tạm ngừng 3 lần để hội ý và cho phép chắn bóng tập thể.

+ Năm 1951 : Có đường hạn chế tấn công (vạch 3m) và cho phép đổi vị trí trên sân sau khi phát bóng.

+ Năm 1952 : Mỗi hiệp chỉ được hội ý 2 lần.

+ Năm 1957 : Giảm số lần thay người từ 12 lần xuống 4 lần. Giảm thời gian thay người từ 1 phút xuống 30 giây. Cấm làm động tác che khuất đấu thủ phát bóng. Ngoài ra, FIVB còn qui định Luật bóng chuyền sẽ được thay đổi 4 năm 1 lần.

+ Năm 1961 : Tăng số lần thay người trong một hiệp lên 6 lần.

+ Năm 1965 : Cho phép tay qua lưới chắn bóng và người tham gia chắn bóng được đánh bóng lần thứ 2 ngay sau khi chắn chạm bóng nhằm nâng cao khả năng phòng thủ và sự liên tục của trận đấu.

Trong thời gian 1948 - 1968, kỹ chiến thuật bóng chuyền cũng được phát triển cao :

+ Kỹ thuật đập bóng giãn biên, đập nhanh, đập lao, đập trên tay chắn đã xuất hiện nhiều ở các giải đấu quốc tế.

+ Chiến thuật tấn công cũng phát triển như: Tấn công 2 chuyền phối hợp với động tác giả; tấn công 3 người do hàng sau đan lên tổ chức (chuyền 2); tấn công " đan chéo", "đập chồng", đập với động tác giả...

+ Chiến thuật phát bóng cũng xuất hiện, đặc biệt là kỹ thuật phát bóng cao tay nghiêng mình bay của đội bóng chuyền nữ Nhật Bản.

Page 3

Page 4: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

+ Đi đôi với sự cải tiến kỹ - chiến thuật phát bóng, kỹ thuật đệm bóng cũng xuất hiện và được sử dụng chủ yếu trong chuyền bước một. Các kỹ thuật lăn ngã cứu bóng trong phòng thủ cũng ra đời.

Tháng7/ 1966 tại Hunggari lần đầu tiên tổ chức Giải bóng chuyền trẻ châu Âu (đến 20 tuổi) có 12 đội nữ và 16 đội nam tham gia. Đội bóng chuyền nam, nữ trẻ của Liên Xô doạt chức vô địch.

Bắt đầu từ năm 1965 đã xác định thứ tự tổ chức các giải bóng chuyền quốc tế lớn: Cúp thế giới tổ chức vào năm sau giải vô địch, sau đó là giải vô địch châu Âu và cuối cùng là Thế vận hội Olympic. Như vậy mỗi năm đều có một giải thi đấu chính thức. Từ năm 1975 giải vô địch Bóng chuyền châu Âu 2 năm tổ chức 1 lần.

FIVB tổ chức các giải chính thức sau :

+ Giải trong chương trình của Thế vận hội Olympic tổ chức 4 năm 1 lần (1980... 2000, 2004)

+ Giải Vô địch Thế giới 4 năm một lần (1978, 1982....1998, 2002).

+ Cúp Thế giới 4 năm một lần ( 1981, 1985....2001, 2005).

+ Vô địch châu Âu 2 năm một lần (1981, 1983....2003, 2005).

+ Vô địch trẻ châu Âu (đến 19 tuổi) 2 năm một lần (1982, 1984.....).

+ Cúp vô địch các đội đoạt cúp châu Âu hằng năm dành cho các đội câu lạc bộ.

Do yêu cầu phát triển toàn cầu đã có nhiều thay đổi về luật lệ, kỹ chiến thuật cũng không ngừng được nâng cao nhằm làm cho bóng chuyền trở thành một môn thể thao thêm phần hấp dẫn.

Năm 1983 Liên đoàn bóng chuyền Thế giới (FIVB) có 146 nước thành viên. Bóng chuyền trở thành một trong những môn thể thao hàng đầu của thế giới.

1.1.2. Lịch sử phát sinh và phát triển môn bóng chuyền ở Việt Nam qua các thời kỳ:

Môn bóng chuyền xuất hiện ở Việt Nam khoảng năm 1920 - 1922 ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng ...

Sau tháng 8/1945, cùng với sự phát triển của phong trào thể dục thể thao nói chung, môn bóng chuyền cũng từng bước mở rộng tới các vùng và mọi miền trong cả nước với số lượng người tham gia đông đảo hơn. Vì vậy, môn bóng chuyền là môn thể thao có tính quần chúng rộng rãi.

Từ khi xuất hiện cho đến nay, bóng chuyền Việt Nam đã tồn tại và phát triển qua các thời kỳ:

1.1.2.1. Sự hình thành và phát triển của bóng chuyền Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945:

Vào khoảng năm 1920 - 1922 bóng chuyền xuất hiện và phổ biến trong học sinh người Hoa ở Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác với luật chơi gần giống như bóng chuyền hiện đại:

- Kích thước sân là 9 m x 18 m.

Page 4

Page 5: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

- Khu phát bóng là 1,2 m.

- Lưới nam cao 2,40 m; lưới nữ cao 2,20 m.

- Số điểm thi đấu mỗi hiệp là 21.

- Các cầu thủ trong đội được đánh 4 chuyền.

- Nếu phát bóng rơi vào khu phát bóng của đối phương thì được 2 điểm

Năm 1927 trận thi đấu bóng chuyền đầu tiên được tổ chức giữa người Hoa ở Hải Phòng và Hà Nội.

Năm 1928 Giải bóng chuyền đầu tiên được tổ chức ở Bắc kỳ giữa 2 đội: Một đội người Việt Nam và một đội người Pháp.

Dưới ách thống trị của thực dân phong kiến, phong trào bóng chuyền nước ta không được phát triển

1.1.2.2. Từ Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1954:

Sau Cách mạng tháng 8 thành công, chính quyền nhân dân ra đời. Bác Hồ ra "Lời kêu gọi tập thể dục" và được toàn dân nhiệt liệt hưởng ứng. Một số môn thể thao được hình thành. Bóng chuyền đã phát triển ở các vùng nông thôn và được nhân dân tham gia tập luyện đông đảo. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bóng chuyên trở thành môn thể thao chủ yếu trong các cơ quan kháng chiến ở Việt Bắc, ở Khu 5 và trong các đơn vị bộ đội...

Trong thời kỳ này đã tổ chức 2 giải bóng chuyền:

+ Giải vô địch Liên khu 3 cho 3 tỉnh: Thái Bình - Hải Dương - Hưng Yên

+ Giải vô địch Liên khu 5 cho 2 tỉnh : Quảng Nam - Quảng Ngải.

Tuy phong trào phát triển rộng nhưng kỹ chiến thuật bóng chuyền còn rất đơn giản, vẫn áp dụng luật cũ. Mối liên hệ giữa phong trào trong nước và thế giới chưa có, do đó những kỹ thuật tiên tiến trên thế giới không có điều kiện du nhập vào nước ta.

1.1.2.3. Từ năm 1954 đến năm 1975:

Sau khi hoà bình lập lại ở nước ta (1954), bóng chuyền có điều kiện thuận lợi để phát triển. Phong trào bóng chuyền phát triển mạnh mẽ trong các lực lượng vũ trang. Đoàn Thể Công - một tổ chức thể dục thể thao của quân đội được thành lập bao gồm nhiều môn trong đố có bóng chuyền. Đội bóng chuyền Thể Công đã trở thành một đội thể thao tiêu biểu cho nền thể dục thể thao mới, góp phần thúc đẩy phong trào phát triển và làm nòng cốt cho đội tuyển quốc gia sau này. Thời kỳ này có nhiều đội nữ xuất hiện như: Quân y viện 108; Trường cấp 3 Trưng Vương (Hà Nội) ... Tuy nhiên, phong trào chỉ ở giai đoạn tự phát và thiếu sự chỉ đạo chung.

Năm 1955 Uỷ ban Thể dục thể thao Trung ương được thành lập. Tháng 3 năm 1957 Hội bóng chuyền Việt Nam ra đời. Năm 1956 - 1957 tổ chức các giải Hoà bình - Thống nhất, giải Mùa Xuân 1957 để động viên cổ vũ phong trào.

Tháng 10 năm 1957 Đội tuyển bóng chuyền Việt Nam được thành lập dự giải 4 nước: Việt Nam - Trung Quốc - Triều Tiên - Mông Cổ tại Bình Nhưỡng (Triều Tiên). Tuy thành tích không cao nhưng qua thi đấu và tham quan phong trào các nước bạn, các cán bộ và vận động viên nước ta đã tiếp thu được một số kỹ thuật mới, phương pháp huấn luyện mới cũng như những kinh nghiệm về xây dựng lực lượng, xây dựng và phát triển phong trào bóng chuyền.

Page 5

Page 6: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

Năm 1959 trình độ kỹ chiến thuật của các đội trong nước ta tiến bộ khá nhanh nhưng nhìn chung còn yếu.

Năm 1960 lần đầu tiên tổ chức Giải bóng chuyền hạng A toàn miền Bắc gồm 8 đội nam và 8 đội nữ

Ngày 10 tháng 6 năm 1961: Hiệp hội bóng chuyền Việt Nam được thành lập.

Năm 1962 - 1964 phong trào bóng chuyền phát triển mạnh và vững chắc về chiều sâu và chiều rộng. Hội bóng chuyền Việt Nam và bộ môn Bóng chuyền của Uỷ ban Thể dục thể thao Trung ương đã liên tiếp tổ chức những hội nghị chuyên đề nhằm mở rộng phong trào và chỉ đạo nâng cao.

Tháng 7 năm 1963 Hội nghị về phương hướng huấn luyện của bóng chuyền Việt Nam được tổ chức tại Thái Bình với phương châm huấn luyện là: " nhanh, chuẩn, biến hoá trên cơ sở không ngừng nâng cao sức mạnh".

Đội tuyển bóng chuyền nam, nữ nước ta tham gia đại hội Ganefo lần I (1963) tại Inđônêxia.

Năm 1964: Uỷ ban Thể dục thể thao Trung ương phong cấp kiện tướng và cấp I đầu tiên cho vận động viên môn bóng chuyền.

Từ tháng 8 năm 1964, miền Bắc bước vào cuộc kháng chiến chống chiến tranh phá hoại của Mỹ. Phong trào thể dục thể thao nói chung và bóng chuyền nói riêng tạm thời bị thu hẹp.

Tháng 3 năm 1965, tổ chức Hội nghị bóng chuyền tại Hải dương nhằm xác định phương hướng, nhiệm vụ phát triển môn bóng chuyền trong thời chiến : Tiếp tục duy trì ở các địa phương, cơ sở có phong trào mạnh.

Năm 1969, Giải bóng chuyền đại biểu các nghành lần thứ nhất được tổ chức tại Hà Nội, đồng thời các giải bóng chuyền hạng A và B vẫn được duy trì nhằm củng cố và khôi phục phong trào.

Năm 1970, Chỉ thị 180 của Ban bí thư Trung ương Đảng về công tác thể dục thể thao bổ sung tăng cường lực lượng cán bộ, vận động viên bóng chuyền cho các cơ sở nhằm phục vụ sức khỏe quần chúng.

Năm 1973, Giải bóng chuyền hạng A với sự tham gia của 24 đội nam, nữ.

Năm 1974, Giải bóng chuyền hạng B được tổ chức từ cơ sở đã thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Giải hạng A được tổ chức theo định kỳ và chọn được 12 đội A 1 (nam, nữ) và 12 đội A2 (nam, nữ).

1.1.2.4. Từ năm 1975 đến nay:

Từ năm 1975 đến nay, đất nước hòa bình, thống nhất, môn bóng chuyền được phát triển mạnh mẽ. Hằng năm từ cơ sở đến Trung ương đều tổ chức các giải bóng chuyền cho các đối tượng ở hầu hết các tỉnh, thành, nghành. Số đội tham gia thi đấu ngày càng tăng, trình độ chuyên môn của vận động viên và các đội cũng không ngừng được nâng cao.

Tháng 8 năm 1991: Tại Hà Nội, Đại hội Hiệp hội Bóng chuyền Việt Nam lần II đã quyết định đổi tên thành Liên đoàn Bóng chuyền Việt Nam (Volleyball Federatron of Vietnam - VFV). Liên đoàn Bóng chuyền Việt Nam là thành viên chính thức của FIVB và AVC (Liên đoàn Bóng chuyền Châu á). Liên đoàn Bóng chuyền Việt Namn (VFV) gồm có 6 tiểu ban :

+ Tiểu ban huấn luyện - khoa học kỹ thuật. + Tiểu ban thi đấu, trọng tài.

Page 6

Page 7: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

+ Tiểu ban tài chính. + Tiểu ban thanh - thiếu niên.

+ Tiểu ban kiểm tra - khen thưởng - kỷ luật. + Tiểu ban bảo trợ.

Giải bóng chuyền cho các đối tượng khác nhau được tổ chức hằng năm: Giải vô địch các đội mạnh toàn quốc; giải A1, A2: giải bóng chuyền bãi biển....

Bóng chuyền là môn thi đấu chính thức của Đại hội Thể dục thể thao toàn quốc (4 năm một lần) hay trong chương trình Hội khỏe Phù Đổng (4 năm một lần).

Bóng chuyền là môn thể thao được Đảng và Nhà Nước quan tâm tạo nhiều điều kiện thuận lợi về vật chất lẫn tinh thần, do đó phong trào bóng chuyền được phát triển rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân. Bóng chuyền đỉnh cao cũng được phát triển mạnh mẽ ở các tỉnh, thành, nghành: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Thái Bình, Long An, Quân đội, Công an, Bưu điện....

Tại các giải thi đấu khu vực hay quốc tế. Các đội tuyển bóng chuyền trong nhà hay bãi biển của Việt Nam đã giành được thứ hạng cao. Đội tuyển bóng chuyền nữ Việt Nam luôn chiếm vị trí số 2 từ Seagame 20 (Đại hội thể thao Đông nam á) cho đến nay.

Trong ngành Đại học- Cao đẳng- Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề, bóng chuyền là môn thể thao phổ cập và nằm trong chương trình giảng dạy chính khóa ở các trường. Được sự quan tâm lãnh đạo của Bộ Giáo dục - Đào tạo và Ban giám hiệu các trường nên phong trào phát triển mạnh. Mỗi trường đều có đội đại biểu, có sân tập hoàn chỉnh và các trang thiết bị khác để tập luyện bóng chuyền.

Năm 1968, đại hội bóng chuyền ngành Đại học và Trung học chuyên nghiệp lần I được tổ chức có trên 100 đội nam, nữ tham gia. Năm 1969 thành lập đội đại biểu ngành tham gia giải hạng A toàn miền Bắc.

Sau tháng 4 năm 1975, Bộ Đại học - Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề nay là Bộ Giáo dục - Đào tạo đã cùng Hội thể thao Đại học và Chuyên nghiệp Việt Nam phối hợp tổ chức định kỳ giải bóng chuyền toàn Ngành, lôi cuốn hàng trăm trường và hàng ngàn vận động viên tập luyện và thi đấu.

Page 7

Page 8: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

Chương 2

KỸ THUẬT DI CHUYỂN

 Tư thế chuẩn bị và di chuyển là những biện pháp cơ bản, là cơ sở tiền đề để thực hiện tốt các kỹ thuật động tác trong tập luyện và thi đấu bóng chuyền.

Muốn thực hiện được các kỹ thuật động tác đánh bóng trước hết người tập phải thực hiện nhiều tư thế khác nhau và biết di chuyển trên sân.

2.1. TƯ THẾ CHUẨN BỊ.

Trong tập luyện và thi đấu bóng chuyền, các vận động viên luôn luôn phải thực hiện nhiều tư thế khác nhau, các tư thế ấy có thể phân chia thành 2 loại chính:

+ Tư thế chuẩn bị.

+ Tư thế đánh bóng.

Là tư thế đứng của đấu thủ trên sân thuận lợi, hợp lý nhất để quan sát, phán đoán tốt, di chuyển kịp thời theo mọi hướng tới vị trí cần thiết để đón đánh bóng.

Mục đích của tư thế này là tạo điều kiện tốt nhất để sẳn sàng di chuyển. Để có được tư thế tối ưu, diện tích chân chạm sân tương đối nhỏ, chân hơi khuỵu khớp gối, tạo thuận lợi cho thực hiện việc dùng chân nhanh chóng bật khỏi điểm tì, chuyển trọng tâm cơ thể ra ngoài giới hạn điểm chống tì và nhanh chóng di chuyển theo hướng bất kỳ nào đó.

Căn cứ vào mức độ hạ thấp trọng tâm cơ thể (chủ yếu ở mức độ khuỵu gối) để có các tư thế đánh bóng khác nhau. Ta có :

+ Tư thế chuẩn bị thấp

+ Tư thế chuẩn bị trung bình.

+ Tư thế chuẩn bị cao.

2.1.1. Tư thế chuẩn bị thấp:

Trong tập luyện và thi đấu bóng chuyền, tư thế chuẩn bị thấp thường được dùng khi phòng thủ ở hàng dưới hoặc lúc yểm hộ cho đồng đội hay đỡ những đường bóng ở tầm thấp.

Yếu lĩnh động tác: Hai chân đứng mở rộng hơn vai, hai gối khuỵu thấp, đùi và cẳng chân tạo góc nhỏ hơn 90o (tư thế ngồi xổm). Trọng lượng cơ thể dồn phần lớn lên chân sau (chân trụ), bụng hóp lại.

2.1.2. Tư thế chuẩn bị trung bình:

Tư thế này thường được vận dụng khi đỡ phát bóng và là tư thế cơ bản được vận dụng nhiều nhất trong tập luyện và thi đấu bóng chuyền vì ở tư thế này người tập có thể di chuyển nhanh nhất

Yếu lĩnh động tác: Hai chân mở rộng bằng vai. Chân trước chân sau cách nhau khoảng nữa bước (chân nào trước là tuỳ thuộc vào vị trí đứng trên sân). Đùi và cẳng chân tạo thành góc khoảng 90o- 120o.

Page 8

Page 9: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

Ví dụ: Khi ở vị trí số 1 và 2 trên sân thì đứng chân phải trước, chân trái sau. Khi ở vị trí số 4 và 5 thì đứng chân trái trước, chân phải sau ..., chân ở trước tiếp xúc đất cả bàn chân, còn chân sau hơi kiểng gót, hai chân hơi khuỵu gối, trọng lượng cơ thể dồn lên hai chân, bụng hơi hóp lại, thân trên hơi ngã về trước, mắt nhìn ra trước, hai tay co ở khuỷu tự nhiên, bàn tay hơi khum và để ngang trước ngực.

2.1.3. Tư thế chuẩn bị cao:

Tư thế này thường được áp dụng nhiều trong trường hợp người tập đứng sát lưới để chuẩn bị chuyền hoặc chắn bóng.

Yếu lĩnh động tác: Giống như ở tư thế chuẩn bị trung bình nhưng có khác là ở tư thế này hai gối ít khuỵu hơn và thân người gần như thẳng đứng, đùi và cẳng chân tạo thành góc trong khoảng 120o - 145o.

Lưu ý: Trong quá trình thi đấu để thực hiện các động tác kỹ thuật, người tập có thể sử dụng các tư thế đứng.

Khi ở tư thế chuẩn bị, người tập có thể đứng yên tại chổ, chuyển động tại chổ nhẹ nhàng hoặc di chuyển trọng tâm từ chân này sang chân kia, hoặc nhún nhảy tại chỗ bằng hai chân để sẵn sàng di chuyển theo các hướng khác nhau.

Người tập ở tư thế động thì thực hiện các động tác di chuyển nhanh hơn khi ở tư thế tĩnh. Không phụ thuộc vào các tư thế đứng, chuyển động sang các phía : về trước - sang trái - sang phải - ra sau. Tư thế đứng hợp lý hơn cả là tư thế cơ bản (tư thế động và tư thế tĩnh).

2.2. DI CHUYỂN

Di chuyển trong tập luyện và thi đấu bóng chuyền là phương pháp di chuyển của đấu thủ từ vị trí này đến vị trí khác, là khâu trung gian nối liền giữa tư thế chuẩn bị và tư thế đánh bóng. Di chuyển trong tập luyện và thi đấu bóng chuyền có các cách sau:

+ Đi.

+ Chạy.

+ Nhảy.

+ Lăn ngã.

2.2.1. Đi (bước):

Người tập đi bằng bước khuỵu chân (trọng tâm thấp). Ngoài bước thường ra có thể dùng bước đệm và bước chéo, bước lướt, bước nhảy, bước chéo, bước xoạc.

2.2.1.1. Bước thường:

Được vận dụng nhiều khi bóng đến có tốc độ chậm, cự li không xa. Quá trình thực hiện thân người gần giống như tư thế đánh bóng, mắt theo dõi bóng, tay co tự nhiên ở thắt lưng. Kết thúc giai đoạn di chuyển cũng là lúc tư thế đánh bóng được thực hiện.

2.2.1.2. Bước lướt:

Là phương pháp di chuyển một hay nhiều bước liền nhau. Di chuyển bằng bước lướt thì chân ở phía di chuyển về hướng cần thiết phải di động ra trước, chân kia bước tiếp theo, duy trì

Page 9

Page 10: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

tư thế cơ bản. Có thể thực hiện nhiều bước liên tục chân nọ kế tiếp chân kia cho đến khi dừng lại trở về tư thế đánh bóng.

Quá trình thực hiện động tác không thay đổi độ cao trọng tâm. Người ở tư thế tự nhiên, hai chân khuỵu, hai tay co tự nhiên, mắt theo dõi bóng, không căng cơ.

2.2.1.3. Bước nhảy:

Là phương pháp di chuyển có giai đoạn hai chân rời mặt đất, tuy là bước nhảy, nhưng trọng tâm cơ thể chỉ nâng lên ở mức độ cần thiết đủ để tạo cho bước nhảy được dài thêm.

Khi thực hiện bước nhảy, chân bước trước co và nâng cao đùi, chân bước sau đạp đất bật nhanh, khớp gối đẩy cơ thể chuyển động theo hướng di chuyển hơi chếch lên cao. Lúc này chân bước trước duỗi vươn dài về hướng cần tới, hai chân rời mặt đất.

Đánh bóng xong, chân sau co tự nhiên, chân trước chạm đất bằng mũi bàn chân, chân trước chạm đất chủ yếu bằng gót chân. Khi hai chân chạm đất cũng là lúc tư thế đánh bóng được thực hiện.

Bước nhảy thường vận dụng trong các trường hợp sau:

+ Khi khoảng cách giữa người và bóng không xa nhưng lớn hơn bước di chuyển.

+ Khi không kịp sử dụng các bước di động khác.

2.2.1.4. Bước chéo:

Là phương pháp di chuyển hai chân bước chéo nhau. Muốn di chuyển sang trái thì chân phải bước qua chân trái rồi chân trái bước tiếp, trọng tâm cơ thể chuyển nhanh sang chân vừa bước.

Bước chéo có bước chéo trước và bước chéo sau, sử dụng trong tấn công hay phòng thủ với cự ly di chuyển không xa.

2.2.1.5. Bước xoạc:

Dài hơn bước thường. Khi thực hiện, chân trước bước theo hướng cần di chuyển, khi chân chạm đất thì khuỵu gối nhiều, chân còn lại duỗi tự nhiên hoặc hơi gập một chút ở khớp gối, người ở tư thế sẵn sàng đánh bóng. Bước xoạc được vận dụng khi bóng đến tầm thấp, chủ yếu là bước sang ngang hay bước về phía trước.

2.2.2. Chạy:

Đặc điểm của chạy là tăng tốc độ xuất phát, khoảng cách di chuyển ngắn, đột ngột thay đổi hướng và dừng lại. Bước chạy cuối cùng phải dài nhất và được kết thúc bằng động tác hãm lại của chân đưa ra trước. Nó giúp cho người tập có khả năng dừng lại nhanh sau di chuyển hay thay đổi hướng di chuyển.

2.2.3. Nhảy:

Trong bóng chuyền có bật nhảy để đập bóng, chắn bóng hoặc bước nhảy. Nhảy để bật xa đỡ bóng phòng thủ. Bật nhảy có nhiều cách :

+ Bật nhảy bằng hai chân và một chân.

+ Bật nhảy tại chỗ và có đà.

Page 10

Page 11: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

Bước nhảy là bước dài và có giai đoạn bay trên không. Nói cách khác, bước nhảy là sự phối hợp giữa đi và chạy. Di chuyển có thể kết thúc bằng bước nhảy vì như thế cho phép kết thúc việc di chuyển nhanh hơn.

2.2.4. Lăn và ngã:

Lăn trong tập luyện và thi đấu bóng chuyền là các động tác quay để xoay chuyển thân người.

Ngã là phương pháp di chuyển gồm có :

+ Ngã sấp.

+ Ngã ngửa.

+ Ngã nghiêng.

Ngã được vận dụng nhiều trong phòng thủ như :

+ Cá nhảy.

+ Lăn nghiêng cứu bóng.

+ Ngã ngửa chuyền bóng.

Ngã không chỉ là phương pháp đỡ bóng thuận lợi, nhanh mà còn là biện pháp bảo vệ thân thể khi đỡ bóng

Page 11

Page 12: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

Chương 3

KỸ THUẬT ĐỆM BÓNG

Chuyền bóng thấp tay (đệm bóng) là kỹ thuật sử dụng cẳng tay, bàn tay dể chuyền bóng đi, diện tiếp xúc giữa tay với bóng rộng nhưng điểm tiếp xúc lại ít hơn chuyền bóng cao tay, do đó hạn chế được phạm lỗi kỹ thuật như dính bóng, hai tiếng ... Đệm bóng là kỹ thuật phòng thủ dùng chủ yếu để đỡ phát bóng, đỡ đập bóng và cứu bóng.

* Đệm bóng trong bóng chuyền có tác dụng :

- Đỡ được những đường bóng nhanh, mạnh, thấp và khó khi đối phương tấn công sang.

- Phạm vi khống chế rộng, đỡ được những đường bóng ở xa thân người.

- Cấu trúc kỹ thuật đơn giản, dễ tiếp thu và thực hiện thuận lợi hơn KT chuyền bóng cao tay.

* Đệm bóng gồm 3 kỹ thuật chính:

+ Đệm bằng hai tay.

+ Đệm bằng một tay và lăn ngã cứu bóng.

+ Ngoài ra còn có thể dùng thân người, dùng chân đỡ bóng.

3.1. ĐỆM BÓNG BẰNG HAI TAY :

Đệm bóng bằng hai tay là kỹ thuật dùng khi thực hiện bóng đi và hướng bóng đến ở phía trước mặt, gần như cùng quỹ đạo chuyển động nhưng ngược chiều.

- Tư thế chuẩn bị: Người đứng ở tư thế trung bình thấp, hai chân rộng bằng hoặc hơn vai, hai tay co tự nhiên ở hai bên sườn, mắt quan sát bóng, thân hơi gập.

Khi người tập xác định chính xác được điểm rơi của bóng và ở tầm thích hợp thì hai tay đưa ra đỡ bóng. Hai tay duỗi thẳng, hai bàn tay đặt chéo lên nhau và nắm lại, bàn tay nọ bọc lấy bàn tay kia, hai ngón cái song song kề nhau. ( Hình 1)

- Đánh bóng: Khi bóng đến ở tầm ngang hông, cách thân người khoảng gần một cánh tay thì thực hiện đánh bóng. Lúc này chân đạp đất, duỗi khớp gối, nâng trọng tâm thân thể và nâng tay. Hai tay được chuyển động từ dưới lên và dùng phần giữa cẳng tay đệm phía dưới bóng kết hợp với nâng tay ở mức độ cần thiết. Khi hai tay chạm bóng cũng là lúc gập cổ tay xuống dưới làm căng các nhóm cơ cẳng tay, kết hợp với hóp bụng và giữ chắc bả vai với khớp khuỷu. Hai tay thẳng - chắc, hai bàn tay nắm và ép chặt vào nhau, toàn thân hơi lao về trước (Hình 2).

Nếu bóng đến với lực nhẹ, vừa phải thì kết hợp với đạp chân, nâng nhanh tay để đẩy bóng đi.

Nếu bóng đến với tốc độ nhanh, lực mạnh thì hạn chế nâng tay mà ghìm tay để bóng bật đi theo ý muốn.

Góc độ đường bóng đi phụ thuộc góc độ tay đệm bóng. Góc của tay đệm bóng là góc tạo bởi mặt phẳng đất

Page 12

Hình 1

Hình 2

Page 13: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

và cánh tay đệm bóng. Góc độ của tay đệm bóng còn phụ thuộc góc độ của đường bóng đến. Góc độ bóng đến là góc tạo bởi mặt phẳng mặt đất và đường bóng đến.

Nếu góc độ của đường bóng đến lớn thì góc độ của tay đệm bóng nhỏ.

Nếu góc độ của đường bóng đến nhỏ thì góc độ của tay đệm bóng lớn.

Trong tập luyện và thi đấu bóng chuyền, trong điều kiện cần vận dụng cụ thể, tuỳ thuộc đặc điểm góc độ của đường bóng đến và độ cao của đường bóng muốn chuyền đi mà quyết định góc độ của tay đệm bóng cho phù hợp.

Page 13

Page 14: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

Chương 4

KỸ THUẬT CHUYỀN BÓNG CAO TAY

Chuyền bóng là một kĩ thuật cơ bản trong thi đấu, chuyền bóng không đơn thuần là kĩ thuật phòng thủ mà nó còn mang tính tấn công, nhất là giữ vai trò chính trong phối hợp tấn công.

Trước khi chuyền bóng, người chuyền bóng đứng ở TTCB chân trước, chân sau, trọng lượng cơ thể dồn vào chân trước. Nếu đồng đội chuyền bóng đến từ phía trái thì bước chân phải lên trước và ngược lại. Người chuyền bóng khi di chuyển tới vị trí đón bóng bằng bước thường, bước chạy…ở đây điều quan trọng là động tác xuất phát phải nhanh, tăng nhanh tốc độ ở một phần ba quãng đường đầu tiên, rời sau đó từ từ dừng lại để chọn vị trí đón bóng để chuyền bóng tới địa chỉ cần thiết. Ở TTCB, hai chân hơi khuỵu ở khớp gối (góc gập khớp gối không nhỏ hơn 900).

Khi bóng tới gần thì hai chân bắt đầu động tác phối hợp chuyền bóng bằng cách duỗi mạnh khớp gối, đẩy người lên hơi chếch ra phía trước. Sau đó là động tác của hai tay, vươn duỗi mạnh khớp khuỷu để tạo hướng tay cơ bản của bóng khi chuyền đi. Hoạt động vươn duỗi tay đẩy bóng được thực hiện nhờ chuyển động thẳng nhờ trục khớp cổ tay so với trục khớp vai. Khi thực hiện động tác đẩy bóng đi, hai chân đạp duỗi mạnh và nhanh chóng kết hợp với hai tay vươn duỗi khớp khuỷu nhưng chậm hơn.

Để điều chỉnh hướng bóng, hai lòng bàn tay phải vuông góc với hướng bóng chuyền đi, khi tay chạm đẩy bóng thì bàn tay hơi ưỡn ra sau. Chức năng thực hiện đẩy bóng của các ngón tay cũng khác nhau. Các ngón cái ưỡn ra sau chịu lực hoãn xung chính và cùng với các ngón tay khác bật đẩy bóng theo hướng chuyền. Các ngón trỏ và ngón giữa là bộ phận bật đẩy chính của bàn tay còn các ngón đeo nhẫn và ngón út chỉ giữ phía bên của bóng và điều chỉnh hướng bóng đi.

Sau khi bóng rời tay, cả chân và tay tiếp tục vươn duỗi hết rồi dừng lại, động tác này gọi là chuyển động tay vươn theo bóng. ( Hình 3)

Khi bóng đến trên cao ở phía sau đầu, thì có thể dùng động tác nhảy chuyền bóng. Chạy đà và nhảy chuyền bóng gần giống với đập bóng. Ở thời điểm dừng trên không hai tay đưa lên trên đầu cao hơn chuyền bóng bình thường, hai tay tham gia đẩy bóng tích cực kết hợp với các hoạt động của lưng và chân. Động tác nhảy chuyền chỉ có thể áp dụng khi chuyền bóng nhanh. Hiệu quả tốt nhất của chuyền bóng là bật nhảy ở điểm cao nhất. ( Hình 4)

Kỹ thuật chuyền bóng cao tay thường được vận dụng ở 3 tư thế chính là : tư thế thấp, tư thế trung bình và tư thế cao.

4.1. CHUYỀN BÓNG Ở TƯ THẾ THẤP.

Chuyền bóng ở tư thế thấp khác với kĩ thuật chuyền bóng ở tư thế trung bình và cao, vì ở tư thế này trọng tâm người chuyền bóng phải thấp hơn và thường áp dụng động tác khuỵu chân về trước hoặc về bên phải hay trái. Chuyền bóng ở tư thế thấp thường áp dụng với đường bóng đến thấp, do đó khi chuyền vai người chuyền phải hơi đưa về sau một chút và chú ý để các ngón tay chạm vào bóng ở phía dưới của quả bóng. Chuyền bóng ở tư thế thấp, nên sự phối hợp và sự hỗ trợ của hai chân khi chuyền

Page 14

Hình 3

Hình 4

Hình 5

Page 15: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

rất ít, chỉ hơi duỗi và không có sự phối hợp toàn thân. Vì vậy khi chuyền bóng đi, động tác vươn thẳng của hai tay đẩy bóng đi phải tích cực hơn nhiều so với tư thế khác.

Khi chuyền bóng ở tư thế thấp, sau khi chuyền thường kết hợp với ngã trước, sau hoặc sang bên. Khi chuyền bóng bằng hai tay kết hợp với ngã ngửa, người chuyền hầu như ở tư thế ngồi vào chân sau, chuyền xong do mất thăng bằng nên phải ngã người ra sau, mông chạm đất trước, tiếp đến là lưng. Người lúc này co lại, đầu gập vào ngực, chân co lên (Hình 5).

Khi chuyền bóng bằng hai tay ở dưới thấp với tư thế ngã nghiêng là khi bóng ở xa phía bên cạnh. Người chuyền di chuyển sang ngang, bước cuối cùng bước dài hơn, trọng tâm dồn vào chân trước và hạ thấp để đảm bảo bóng ở trước mặt trong phạm vi tay khống chế tiếp cận với bóng. Khi chuyền muốn điều chỉnh hướng bóng đi thì dùng bàn chân trụ xoay về hướng định chuyền bóng đi (Hình 6).

4.2. CHUYỀN BÓNG Ở TƯ THẾ TRUNG BÌNH.

TTCB: Người tập đứng ở tư thế trung bình. Khi bóng đến gần, người chuyền bóng bắt đầu di chuyển đón bóng bằng việc nâng cánh tay lên cao, đồng thời hai gối bắt đầu duỗi thẳng lên, người hơi ngửa về sau, thân người ngửa đến khi tay chạm bóng thì dừng, khi tay tiếp xúc bóng ở cao hơn một chút. Chú ý mọi chuyển động phải được liên tục, nhanh dần.

Khi thực hiện hai bàn tay lúc đầu đón bóng hơi khum (ngửa về sau) đến lúc tiếp xúc với bóng thì bắt đầu vươn thẳng ra. Khi chạm bóng hai bàn tay thẳng còn các ngón tay thì lên gân và hơi cong, các ngón tay bao quanh quả bóng một cách vững chắc, tạo hình giống như cái phễu với mục đích không cho quả bóng lọt qua. Hai bàn tay tiếp xúc bóng phải gọn, dứt khoát và không chạm lòng bàn tay. Phạm vi của các ngón tay chạm vào bóng cũng ở mức độ khác nhau : ngón cái chỉ được chạm vào một đốt phía trên; ngón giữa, ngón trỏ và một phần ngón đeo nhẫn chịu lực chính chuyền bóng đi.

Sau khi chạm bóng, hai tay và thân người phối hợp lực để chuyền bóng đi. Để tăng được tốc độ đưa bóng đến vị trí đã định thì hai tay phải thẳng còn hai bàn tay và các ngón tay phải có sự phối hợp chuyển động dứt khoát về hướng chuyền bóng. Mức độ thẳng của hai tay và biên độ chuyển động của các ngón tay phụ thuộc vào tính chất chuyền bóng (Hình 07).

Ví dụ: Khi chuyền để đập thì hai tay phải được ổn định ở tư thế ban đầu sớm hơn, còn việc chuyền bóng thì lực chủ yếu dựa vào cánh tay còn các bàn tay không chuyển động nhiều, các ngón tay trong lúc này phải lên gân như khi đập bóng.

Chú ý: Khi chuyền bóng đi ngón tay cái hầu như không tham gia, ngón út và ngón đeo nhẫn chủ yếu là làm nhiệm vụ hỗ trợ, còn ngón trỏ, ngón giữa và một phần ngón đeo nhẫn phải hực hiện nhiệm vụ chính là tạo lực để chuyền bóng đi. Ngược lại, khi ở giai đoạn bắt đầu tiếp xúc giữa bàn tay và bóng (lúc ghìm bóng) thì chính ngón đeo nhẫn và ngón cái lại phải chịu một trọng lực lớn hơn cả so với các ngón khác.

1.3. CHUYỀN BÓNG Ở TƯ THẾ CAO.

Kĩ thuật chuyền bóng ở tư thế cao khác với kĩ thuật chuyền bóng ở tư thế trung bình là :

TTCB : Đứng trên hai chân, đầu gối khuỵu ít hơn, thân người hầu như thẳng và hai tay ở vị trí gần ngang mặt.

Page 15

Hình 6

Hình 7

Hình 8

Page 16: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

Khi tiếp xúc bóng thì hai tay cao hơn đầu một chút, hai chân hầu như thẳng. Bóng được chuyền đi chủ yếu là nhờ vào sự hoạt động tích cực, dứt khoát của cánh tay và của hai bàn tay.

Động tác chuyền bóng này chỉ áp dụng khi tốc độ của bóng bay không nhanh lắm và thường được vận dụng để chuyền bước 2 trong tổ chức tấn công.

Page 16

Page 17: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

Chương 5

KỸ THUẬT PHÁT BÓNG

Tùy theo tư thế đứng, tính chất chuyển động, điểm tay tiếp xúc bóng khi phát mà ta chia kỹ thuật phát bóng thành hai loại cơ bản :

- Phát bóng thấp tay :

+Thấp tay chính diện (trước mặt).

+ Thấp tay nghiêng mình .

- Phát bóng cao tay.

+ Cao tay trước mặt

+ Cao tay nghiêng mình.

Loại biến dạng nâng cao gồm:

+ Phát bay.

+ Phát mạnh.

+ Phát chuẩn …

5.1. KỸ THUẬT PHÁT BÓNG THẤP TAY

5.1.1 Phát bóng thấp tay trước mặt: .

- Tư thế chuẩn bị: Đứng mặt hướng vào lưới. Chân phải đặt sau (cùng phía với tay thuận đánh bóng) cách chân trái đặt trước nữa bước, chân trước mũi chân thẳng góc với đường biên ngang, trọng tâm dồn vào chân sau. Tay trái (tay không thuận đánh bóng) cầm bóng đưa về trước bụng.

- Tung bóng: Tay trái tung quả bóng lên cao 25 - 30 cm và hơi chếch lên trước một chút.

- Vung tay đánh bóng: Cùng lúc tay trái tung bóng, trọng lượng cơ thể chuyển về chân sau, gối hơi khuỵu, tay phải (tay thuận đánh bóng) vung ra sau. Khi đánh bóng tay duỗi thẳng tự nhiên vung từ sau - xuống dưới - ra trước - lên trên theo hướng vuông góc với lưới. Dùng bàn tay đánh vào phần sau, phía dưới và tâm bóng ở tầm ngay thắt lưng.

Khi đánh bóng trọng tâm cơ thể chuyển dần từ sau ra trước. Kết thúc động tác đánh bóng, thân người và tay vươn thẳng theo hướng bóng, nhanh chóng bước chân sau lên để giữ thăng bằng và vào sân (Hình 9).

Kiểu phát bóng này có đặc điểm là khi phát người tập đứng ở tư thế mặt đối diện lưới, điểm tay tiếp xúc đánh bóng thấp hơn khớp vai. Bóng được tung trước mặt. Tay vung tạo thành mặt phẳng vuông góc với lưới. Tiếp xúc bóng ở tầm ngang thắt lưng.

5.1.2. Phát bóng thấp tay nghiêng mình:

Page 17

Hình 9

Page 18: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

- Tư thế chuẩn bị: Người tập đứng hông và vai trái hướng vào lưới (đánh tay phải), hai chân mở rộng bằng hoặc hơn vai, hai bàn chân gần như song song với nhau, trọng tâm dồn đều vào hai chân, tay trái cầm bóng ở tầm ngang thắt lưng.

- Tung bóng: Tay trái tung bóng lên cao 40 - 50cm hơi chếch về phía trước mặt.

- Vung tay đánh bóng: Lúc tung bóng thân người hơi xoay sang phải, hai chân hơi khuỵu, trọng tâm dồn vào chân sau. Tay phải đưa xuống và vung ngang ra sau, tay duỗi tự nhiên vung từ sau ra trước và dùng cùi bàn tay đánh vào phần sau, dưới tâm bóng. Thời điểm tay chạm bóng ở tầm ngang ngực.

Hình 10

Khi đánh bóng, trọng tâm cơ thể chuyển sang chân trái, đồng thời xoay thân sang trái, mặt hướng lưới và nhanh chóng bước chân phải lên để giữ thăng bằng và vào sân chuẩn bị thi đấu (Hình 10).

Kỹ thuật phát bóng này có đặc điểm là khi phát người tập đứng tư thế chuẩn bị vai hướng lưới, điểm tay đánh vào bóng ở tầm thấp hơn vai.

Có hai cách phát bóng thấp tay nghiêng mình:

- Cách 1: Vung tay phải xuống dưới ra sau theo mặt phẳng nghiêng so với mặt đất một góc 450, khi tay phải ra sau thì tay hơi hạ thấp xuống, sau đó chuyển động từ sau - sang phải - ra trước đánh vào phần sau phía dưới tâm bóng ở tầm ngang thắt lưng. Bàn tay căng khi tiếp xúc với bóng. Khi đánh bóng xong tay phải vươn theo hướng bóng phát và dừng lại.

- Cách 2: Phát bóng thấp tay cao bóng (cây nến) (Hình 11)

+ Đứng tư thế chuẩn bị: Vai trái hướng lưới, hai chân hơi khuỵu để hạ thấp trọng tâm. Tay trái cầm bóng trước mặt.

+ Tung bóng: Tay trái hơi hạ xuống và tung bóng thẳng lên cao 40 - 50 cm.

+ Vung tay đánh bóng: Tay đánh bóng từ dưới lên, tiếp xúc bóng là phần cạnh của ngón cái và ngón trỏ, đánh vào phần dưới bóng hơi lệch tâm về phía sau làm cho bóng đi thẳng lên cao chếch vào sân.

+ Sau khi phát, quay mặt vào lưới, bước nhanh vào sân chuẩn bị thi đấu. Kỹ thuật này ít khi sử dụng.

Trường hợp tay trái là tay thuận đánh bóng thì áp dụng ngược tay lại.

5.2. KỸ THUẬT PHÁT BÓNG CAO TAY.

5.2.1. Phát bóng cao tay trước mặt:

- Tư thế chuẩn bị : Người tập đứng mặt quay vào lưới, chân trái trước mũi chân thẳng góc với đường biên ngang, chân phải sau (chân trước cách chân sau nửa bước) trọng lượng cơ thể dồn đều trên cả hai chân, tay trái cầm bóng ở phía trước.

Page 18

Hình 11Hình

Hình 12

Page 19: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

- Tung bóng : Tay trái cầm bóng đưa lên ngang tầm mặt thì tung bóng ở trước mặt lên cao hơn đầu từ 80 - 100cm thẳng lên trên nhưng hơi chếch sang phải (tay đánh bóng). Khi tung bóng người phát cũng có thể hơi khuỵu gối hạ thấp trọng tâm, sau đó vươn thẳng hai chân lên kết hợp với động tác tung bóng nhịp nhàng. (Hình 12)

Chú ý: Khi tung bóng nếu bóng ở tầm thấp thì đường bóng sẽ không chính xác.

- Vung tay đánh bóng :

Cùng lúc tay trái tung bóng lên cao, tay phải co lại và chuyển động từ trước – lên cao – ra sau, thân trên ngả về sau, mắt nhìn theo bóng. Khi bóng từ trên rơi xuống tới tầm tay giơ thẳng thì đánh mạnh vào phía sau, phần dưới tâm của bóng bằng bàn tay mở với các ngón tay chụm tự nhiên.

Kĩ thuật phát bóng này có đặc điểm là khi phát bóng người ở TTCB mặt đối diện với lưới, tay tiếp xúc lúc đánh bóng ở tầm cao. Bóng tung cao hơn đầu khoảng 1-1,5m và hơi chếch về trước, tay phải vung lên trên, hơi gập ở khớp khuỷu và kéo căn ra sau. Góc gập ở khớp khuỷu lớn hơn 900 . Cùng lúc vung tay, vai phải và đầu chuyển động ra sau, vùng ngực và thắt lưng căng. Khi đánh bóng, tay phải duỗi mạnh ở khớp khuỷu, đưa tay vươn lên cao kết hợp với nâng vai và vung tay ra trước đánh bóng (góc nghiêng vươn tay khoảng 800) từ phía sau hơi xuống dưới để bóng chuyển động ra trước – lên cao.

Page 19

Page 20: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

Chương 6

KỸ THUẬT ĐẬP BÓNG

Đập bóng là một phương thức tấn công chủ yếu khi thi đấu bóng chuyền. Muốn làm cho chiến thuật biến hoá muôn hình muôn vẻ, một yêu cầu rất lớn đối với mỗi đấu thủ là phải có trình độ kỹ thuật điêu luyện, biết nhiều kiểu đập và đập nhiều hướng khác nhau, trong những tình huống khác nhau. Nhưng muốn đập được nhiều kiểu, nhiều cách, đấu thủ phải có trình độ cơ bản vững vàng với phương pháp đập chủ yếu:

6.1. ĐẬP BÓNG TRƯỚC MẶT. (Chính diện)

Đập bóng chính diện là phương pháp đập cơ bản nhất.

-  Tư thế chuẩn bị: Đứng cách lưới khoảng 2 - 3m (nếu đứng sát lưới thì không có chỗ lấy đà và nhảy lên sẽ bị chạm lưới). Không nên đứng nguyên một chỗ mà nên xê dịch nhẹ để có thể sẵn sàng điều chỉnh bước nhảy và gốc độ chạy lấy đà. Đầu gối hơi chùng, thân người hơi ngã về phía trước trong sân, mắt theo dõi người chuyền bóng.

- Yếu lĩnh cơ bản: Đập bóng có thể chia làm 4 giai đoạn:

6.1.1.  Giai đoạn lấy đà.

Để có sức bật cao hơn và điều chỉnh khoảng cách, vị trí đập bóng cho thích hợp.

-  Thời gian lấy đà: Khi đã xác định được đường bóng và hướng bóng nâng tới. Thông thường là khi bóng vừa rời tay người nâng. Nếu đập bóng càng thấp càng phải lấy đà sớm hơn, đập bóng cao lấy đà chậm hơn.

- Góc độ của đường lấy đà (so với lưới) phụ thuộc vào khả năng người đập, người đập giỏi có thể lấy đà với góc độ lớn hơn, có khi thẳng góc với lưới (90o). Nếu đập kém hoặc mới tập mà chạy góc độ lớn thì người sẽ chạm vào lưới, và đường bóng đập dễ bị chắn cho nên góc độ lấy đà (so với lưới) thông thường từ 35 - 50o; với người mới tập thì trung bình 45o.

Số bước lấy đà: có thể 1 - 4 bước nhưng thông thường là 3 bước.

6.1.2.  Giai đoạn giậm nhảy.

Việc chuyển từ bước lấy đà cuối cùng sang giậm nhảy phải thật liên tục cũng có người giậm nhảy một chân. Nhưng thường giậm nhảy bằng hai chân. Bước cuối cùng là bước ở vị trí giậm nhảy, bước này rất quan trọng, vì phải làm thế nào để khi nhảy lên có thể đập bóng ở tầm trước mặt. Gót chân ở bước cuối cùng vừa đặt xuống đất và hai chân ngang nhau, thân người vẫn ngả về phía trước, thì khuỵu đầu gối thấp xuống và chuyển sức gót chân lên mũi chân để bật lên. Muốn bật được cao phải dùng sức bật của đầu gối, tới khớp xương hông (vươn bụng) và cuối cùng là sức cổ chân. Đồng thời phải phối hợp đánh tay, tức là trước khi giậm nhảy, đánh mạnh hai tay ra phía sau, khi chân đã khuỵu hết mức thì hai tay đánh xuống thẳng góc với mặt sân.

Page 20

Hình 13

Page 21: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

6.1.3. Giai đoạn nhảy và đập.

Chuẩn bị đập bóng được bắt đầu khi thân người bật lên tới tầm cao nhất, người ngửa ra phía sau và hơi nghiêng về phía tay đập bóng, hai chân hơi gập tự nhiên, không khép sát quá cũng không dang rộng quá.

Tay đập bóng từ trên cao đưa sát mang tai ra phía sau, cánh tay duỗi thẳng và cổ tay đập gập vào bóng, cổ tay còn có tác dụng điều khiển bóng. Tay kia cũng từ phía trên hạ xuống phối hợp.

Khi đập vào bóng, thân người vươn thẳng, hai chân cũng duỗi ra phía trước (đầu gối thẳng) tạo thành sức mạnh đập trúng vào bóng. Đập bóng thông thường ở tầm cao hơn đầu và chếch về phía trước mặt chừng 10 - 15cm.

Bóng nâng cao hay thấp tuỳ theo quả đập cao, trung bình hay thấp. Những điểm chạm bóng vẫn phải ở tầm cao nhất cho nên bất cứ đập kiểu nào cũng phải nhảy thật cao.

6.1.4.  Giai đoạn rơi xuống.

Sau khi đập xong, muốn cho người rơi xuống không bị mất thăng bằng, chạm lưới hay vượt qua vạch giữa thì phải thả lỏng các bắp thịt, rơi xuống bằng mũi bàn chân, hai bàn chân xoay theo chiều lưới, đầu gối hơi khuỵu.

  Những điều cần chú ý khi đập bóng nâng xa hay gần lưới:

- Khi bóng nâng xa lưới: Điểm giậm nhảy phải ở sâu trong tầm bóng, để người gần bóng hơn, thân người ngả ra sau nhiều hơn bật mạnh về phía trước để tăng thêm sức mạnh đập bóng.

Phải gập bụng trước gập tay. Khi gập bụng không được cúi xuống, mà chỉ co mạnh các bắp thịt bụng, cánh tay khi hạ xuống theo đà bóng phải ngừng lại một chút, như vậy bóng ít va vào lưới.

- Khi bóng nâng gần lưới: Góc độ đường lấy đà phải thu hẹp lại. Khi đập bóng chủ yếu phải dùng sức cánh tay trước và cổ tay, gập bụng rất ít. Như vậy mới tránh được lỗi chạm lưới.

6.2. ĐẬP BÓNG NGHIÊNG MÌNH.

Bóng nâng xa lưới mà nhảy quá sớm thì sử dụng kiểu đập móc câu (động tác giống như phát bóng cao tay nghiêng mình). Chạy đà giậm nhảy giống như đập bóng trước mặt theo hướng lấy đà. Sau khi nhảy lên vai trái hướng vào lưới (nếu đập tay phải) tay phải đưa xuống dưới ra

phía sau (hoặc cánh tay đưa vòng cung từ phía trước ra sau) người hoàn toàn duỗi hết ra. Tay phải duỗi thẳng chuẩn bị làm động tác đập bóng. Khi đập bóng thân trên quay về bên trái - dùng động tác quay người đưa cánh tay nhanh chóng đập bóng, tay giơ thẳng đi theo hình vòng cung từ trước xuống dưới ra sau rồi lên cao, dùng cả bàn tay đập vào phía trên quả bóng. Khi đập bóng xong quay người về hướng lưới nhẹ nhàng thu tay về để tự nhiên theo người rơi xuống đất.

Page 21

Hình 14 Hình 15

Page 22: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

6.3. ĐẬP BÓNG QUAY NGƯỜI.

Trong khi thi đấu, nếu chỉ đập một chiều thì dễ bị đối phương chắn bóng, đập bóng quay người có thể thay đổi hướng đập và làm cho đối phương bất ngờ. Điều cần chú ý là khi đập bóng quay người không thay đổi hướng lấy đà mà chỉ thay đổi hướng đập bóng.

Yếu lĩnh Từ bước lấy đà đến giậm nhảy hoàn toàn giống như tập đập bóng trước mặt theo đường lấy đà chỉ khác là khi thân người đã lên tới tầm cao nhất mới xoay tay hoặc quay mình về phía đập bóng, quay người xoay tay đập bóng đổi chiều.

Page 22

Hình 16 Hình 17

Hình 18

Page 23: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

Chương 7

KỸ THUẬT CHẮN BÓNG

Chắn bóng là phương pháp phòng thủ tích cực nhất. Kỹ thuật chắn bóng càng được cải tiến, càng đòi hỏi kỹ thuật đập bóng phải biến hoá muôn hình muôn vẻ. Chắn bóng nhằm hai mục đích: Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho đồng đội tấn công, giảm sức uy hiếp của đối phương (không phải mục đích chắn bóng để ăn điểm). Nếu có thể trực tiếp dẫn điểm.

7.1. KỸ THUẬT CHẮN BÓNG.

- Có 3 giai đoạn

7.1.1. Tư thế chuẩn bị

Sau khi phát bóng xong thì phải sẵn sàng bám sát lưới để chuẩn bị chắn bóng, đấu thủ thường phải đứng cách lưới chừng 0,25 - 0,35m. Trước hết phải quan sát và phát hiện mục tiêu (điểm tấn công), nắm vững đặc điểm đập bóng của đối phương và hướng đập bóng để quyết định vị trí chắn bóng. Phải luôn luôn đứng đối diện với hướng bóng tới, cho nên phải di chuyển dọc theo lưới. Sau khi xác định vị trí giậm nhảy rồi, hai chân đứng song song cách nhau khoảng một bàn chân, hai tay co lên phía trước cao hơn thắt lưng để chuẩn bị nhảy.

7.1.2. Nhảy và chắn bóng

Thời gian nhảy phụ thuộc vào tính chất và tầm bóng cao thấp. Bóng cao thì nhảy chậm, bóng thấp thì nhảy sớm. Nhưng nói chung phải nhảy sau người đập một chút, phải quan sát hoạt động tay của đối thủ đập bóng để quyết định nhảy chắn. Thông thường là đứng tại chỗ nhảy lên hoặc nhích lên một bước, hai đầu gối khuỵu xuống, hai cánh tay đưa sát thân người theo bên sườn từ dưới lên lấy đà bật lên cao. Nhảy tới tầm cao nhất, tiếp tục quan sát lần cuối cùng, nhanh chóng đưa hai tay cản đường bóng đập. Tay đưa lên không duỗi hết mức để khi cần thiết có thể chuyển hướng chắn bóng được dễ dàng. Khi chắn bóng bàn tay mở như khi chuyền bóng, hơi ngửa ra phía sau, các ngón tay hơi lên gân để khi bóng chạm tay sẽ bật bổng lên. Hai bàn tay cách nhau chừng nửa quả bóng để bóng không thể lọt qua. Hai cùi tay phải sát mép lưới; nếu xa quá, bóng dễ bị lọt xuống theo người.

Sau khi chạm bóng, không được gập cổ tay theo, như vậy dễ bị chạm lưới.

7.1.3. Rơi xuống đất

Page 23

Hình 19

Hình 20

Page 24: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

Khi chắn bóng xong rơi xuống đất bằng mũi bàn chân và tiếp tục quan sát để đề phòng đối phương tấn công nhưng nếu bóng bật trở lại trong sân mình thì phải nhanh chóng lùi xuống chuẩn bị đập bóng.

Chương 8

CHIẾN THUẬT THI ĐẤU BÓNG CHUYỀN

Mục tiêu: Trang bị cho người học về mục đích sử dụng các miếng chiến thuật để áp dụng hợp lý trong quá trình thi đấu. Trong dó có chiến thuật tấn công và phòng thủ, cá nhân và nhóm.

Chiến thuật bóng chuyền là sự tổ chức các hoạt động thi đấu của mỗi cá nhân, nhóm và toàn đội. Nó là sự lựa chọn một cách sáng tạo, cách thức thi đấu của một đội để thi đấu với một đội nào đó nhằm giành thắng lợi cho đội mình.

Hoạt động chiến thuật của một đội bóng và sự thể hiện quá trình chuẩn bị thể lực, kỹ thuật, tâm lý và trình độ lý luận chuyên môn của từng đấu thủ và toàn đội. Mặt khác, việc thực hiện chiến thuật còn phụ thuộc và trình độ của đối phương.

Chiến thuật bóng chuyền có thể tóm tắt bằng sơ đồ sau đây:

8.1. CHIẾN THUẬT TẤN CÔNG

8.1.1.Chiến thuật cá nhân trong tấn công. Có 6 chiến thuật

8.1.1.1. Chiến thuật cá nhân trong phát bóng.

Phát bóng là là quả tấn công đầu tiên, mở màn cho một trận đấu, một hiệp đấu và một lần chơi. Nếu phát bóng tốt có thể ăn điểm trực tiếp hoặc gây khó khăn trong chuyền 1 làm ảnh hưởng xấu cho việc tổ chức phối hợp chiến thuật tấn công của đối phương. Ngược lại nếu phát bóng không có uy lực thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho

đối phương tổ chức chiến thuật tấn công lại đội mình. Chiến thuật cá nhân trong phát bóng bao gồm: khi chưa có bóng và khi có bóng.

* Khi chưa có bóng.

Quan sát, đánh giá đội hình và khả năng chuyền 1 của đối phương.

- Lựa chọn vị trí đứng phát cho phù hợp với thói quen của mình.

- Di chuyển đến khu vực phát và chuẩn bị phát nhanh hay chậm (tuỳ theo tình hình diễn biến trên sân, phù hợp với chiến thuật của đội).

* Khi có bóng.

Phát vào khu vực xung yếu, chỗ trống trên sân đối phương, chỗ các đối thủ đổi chỗ cho nhau để chuẩn bị tấn công.

Phát vào một đấu thủ: Chuyền 1 kém, tâm lý không vững, mới thay vào, người có biểu hiện mệt mỏi, người chuyền 2…

Luân phiên sử dụng các kiểu phát khác nhau (nếu có khả năng). Phát phù hợp với tình huống trận đấu (ánh sáng mặt trời, ánh sáng của đèn, gió, khán giả…)

Page 24

Page 25: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

8.1.1.2. Chiến thuật cá nhân trong chuyền 1.

Đỡ phát bóng (chuyền 1) là hoạt động phòng thủ, ví như ta đã biết phát bóng là quả tấn công đầu tiên của đối phương sang sân của đội mình. Đồng thời chuyền 1 lại mang một ý nghĩa quan trọng khác: nó là khâu đầu tiền, là cơ sở đảm bảo cho việc tổ chức phối hợp chiến thuật tấn công của đội mình, cho nên có thể nói chuyền 1 nằm trong hệ thống tấn công.

Chiến thuật cá nhân trong chuyền 1 bao gồm: Khi đối phương chưa phát bóng và khi đối phương phát bóng.

*. Khi đối phương chưa phát bóng .

- Lựa chọn vị trí chuyền 1: Không tạo thành chỗ trống trên sân mình, dễ quan sát đối phương. Có thể di chuyển thuận lợi.

Không làm khó khăn cho đồng đội trong: quan sát đối phương, di chuyển trong chuyền 1 và trong các hoạt động phối hợp chiến thuật.

- Quan sát người phát và nhận định:

- Tâm lý của người phát. Khả năng thực hiện kỹ thuật của người phát: phát kiểu gì ? Lực phát ?

- Đường bay của bóng ? Điểm rơi ?…

- Nhìn ký hiệu của đấu thủ chuyền 2 để biết đội hình mình tấn công theo miếng chiến thuật nào ? Do đó sẽ phải chuyền 1 tới vị trí nào ? Cho ai ? Đường bóng chuyền 1?… cho phù hợp.

* Khi đối phương phát bóng.

- Đánh giá chất lượng của quả bóng: Lực, đường bay và điểm rơi để di chuyển đến vị trí và quyết định động tác đỡ bóng (đệm bóng bằng 2 tay trước mặt hay hai bên…)

- Chuyền 1: Chuyền bóng cho người chuyền 2 theo dự kiến ban đầu.

- Nếu bóng không phát vào khu vực chuyền 1 của mình thì phải sẵn sàng chuyền 2 điều chỉnh hoặc cứu đỡ bóng khi đồng đội chuyền 1 không chuẩn.

* Tiếp tục chơi.

- Yểm hộ cho người đập.

8.1.1.3. Chiến thuật cá nhân trong chuyền 2 khi đối phương phát bóng.

Người chuyền 2 là người chịu trách nhiệm chính trong việc tổ chức các hoạt động tấn công. Chuyền 2 thường được thực hiện bằng kỹ thuật chuyền cao tay đứng tại chỗ hoặc nhảy chuyền.

Chiến thuật cá nhân trong chuyền 2 bao gồm: khi đối phương chưa phát bóng và khi đối phương phát bóng.

* Khi đối phương chưa phát bóng

- Chọn ví trí đứng trong đội hình chuyền 1 sao cho thuận lợi trong việc quan sát và di chuyển tới vị trí chuyền 2, không làm cản trở đồng đội chuyền 1.

Page 25

Page 26: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

- Đánh giá khả năng tấn công của đồng đội trong thời điểm đó (trạng thái tâm lý, tình trạng sức khoẻ, ai đang đập ăn điểm…)

- Sẽ tấn công bằng miếng chiến thuật nào? Và ra ký hiệu cho đồng đội. Đồng thời suy nghĩ ngay đến phương án hai nếu bóng chuyền 1 khó. Điều kiện ngoại cảnh (nắng, gió, điện…)

- Sẵn sàng đánh 2 chuyền khi đứng ở hàng trên.

* Khi đối phương phát bóng.

- Đánh giá chất lượng quả phát bóng.

- Theo dõi sự di chuyển đổi chỗ trong hàng chắn bóng của đối phương. Quan sát đường bay, hướng đi, tốc độ, điểm rơi của quả chuyền 1 để di chuyển đến bóng, chọn kỹ thuật chuyền, quyết định chuyền theo phương án nào và chuyền cho ai, ở đâu.

- Trong khi chuyền 2 nếu có khả năng “chuyền kín đáo”, chuyền động tác giả thì sẽ góp phần đáng kể vào kết quả tấn công chung của toàn đội. Tiếp tục chơi: Ngay sau khi chuyền 2 xong, đấu thủ chuyền 2 phải yểm hộ cho đấu thủ tấn công.

* Chú ý:

- Khi chuyền 2 trong phản công thì đấu thủ chuyền 2 có rất ít thời gian để quyết định chiến thuật do đó đòi hỏi đấu thủ chuyền 2 phải thật nhạy cảm, đồng thời phải có những quy định trước với các đấu thủ tấn công theo chất lượng của bóng phòng thủ đưa lên tốt hay xấu mà phối hợp tấn công theo miếng nào.

8.1.1.4. Chiến thuật cá nhân trong đập bóng khi đối phương phát bóng.

- Đập bóng là giai đoạn cuối cùng mang tính chất quyết định của mọi phối hợp chiến thuật tấn công. Trong trường hợp đối phương phát bóng, nếu đập tốt thì được điểm và giành được quyền phát bóng, nhưng nếu đập hỏng thì đối phương được điểm.

- Chiến thuật cá nhân trong đập bóng bao gồm: Khi đối phương chưa phát bóng và khi đối phương phát bóng.

* Khi đối phương chưa phát bóng.

- Mình đang ở vị trí nào và sẽ đánh theo chiến thuật nào (căn cứ theo ký hiệu của người chuyền 2)

- Tỷ số điểm, hiệp.

- Quan sát hàng chắn của đối phương, hàng phòng thủ của đối phương (số 6 tiến hay lùi)

- Điều kiện ngoại cảnh.

* Khi đối phương phát bóng

- Theo dõi quả phát bóng, đánh giá chất lượng quả chuyền 1.

- Phán đoán khả năng của người chuyền 2 và chất lượng của bóng chuyền 2

- Quan sát sự di chuyển của hàng chắn và phòng thủ của đối phương.

- Quyết định đập.

Page 26

Page 27: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

+ Trên tay chắn

+ Bật tay chắn

+ Lọt tay chắn

+ Lực mạnh hay nhẹ

+ Giả đập - bỏ nhỏ.

- Sau khi đập thì sẵn sàng tự yểm hộ và tiếp tục chơi. Nếu không có bóng để đập thì nhanh chóng chuyển sang yểm hộ cho đồng đội.

* Chú ý:

- Trong phản công, đấu thủ đập bóng quyết định chiến thuật trong thời gian rất ngắn và phải có những quy định chiến thuật trước với đấu thủ chuyền 2 tuỳ theo chất lượng của bóng phòng thủ đưa lên.

8.1.1.5. Chiến thuật tập thể trong tấn công

- Chiến thuật tập thể là sự phối hợp hoạt động của hai hay nhiều đấu thủ để giải quyết một nhiệm vụ chiến thuật cụ thể nào đó. Nó đòi hỏi quan hệ chặt chẽ giữa các khâu chuyền 1 với chuyền 2, giữa chuyền 2 với tấn công. Chiến thuật tập thể bao gồm: Nhóm và toàn đội.

* Đội hình chuyền 1.

- Sắp xếp vị trí các đấu thủ chuyền 1 hợp lý và phân công nhiệm vụ cụ thể trong đội hình chuyền 1 là điểm quan trọng để đưa bóng chuyền 1 lên đúng khu vực của người chuyền 2 và phù hợp với yêu cầu chiến thuật tấn công của đội mình. Sắp xếp vị trí chuyền 1 phải căn cứ vào khả năng phát bóng của từng đấu thủ bên đối phương. Đồng thời phải bảo đảm mối quan hệ giúp đỡ lẫn nhau giữa các đấu thủ chuyền 1 tốt và đấu thủ chuyền 1 kém.

Thông thường các đội hình chuyền 1 cơ bản được sắp xếp vị trí đứng như sau:

+ Khi đấu thủ chuyền 2 ở hàng trên

Đấu thủ chuyền 2 có thể đập hay chuyền hoặc tổ chức tấn công:

Khi đấu thủ chuyền 2 ở vị trí số 2 hoặc giả đan

Khi đấu thủ chuyền 2 ở vị trí số 3 hoặc giả đan

Khi đấu thủ chuyền 2 ở vị trí số 4 hoặc giả đan

+ Khi đấu thủ chuyền 2 ở hàng sau đan lên

Khi đấu thủ chuyền 2 ở vị trí số 1

Khi đấu thủ chuyền 2 ở vị trí số 6

Khi đấu thủ chuyền 2 ở vị trí số 5

8.1.1.6. Phối hợp hoạt động của các đấu thủ tấn công.

Phối hợp một cách nhịp nhàng các hoạt động của từng đấu thủ tấn công sẽ hình thành các miếng chiến thuật mà người chỉ huy sự phối hợp đó chính là người chuyền 2.

Page 27

Page 28: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

Các hoạt động phối hợp của các đấu thủ tấn công bao gồm: không có bóng và có bóng.

Không có bóng: Di chuyển, chạy đà, bật nhảy… nhằm thu hút sự chú ý và đánh lạc hướng, phân tán hàng phòng thủ của đối phương.

Có bóng: Chính là chiến thuật cá nhân trong đập bóng.

8.2. CÁC MIẾNG PHỐI HỢP TRONG CHIẾN THUẬT TẤN CÔNG (MIẾNG CƠ BẢN)

8.2..1. Khi đấu thủ chuyền 2 ở hàng trên Đánh 2 chuyền động tác giả:

Nếu bóng chuyền 1 lên có thể đập được thì đấu thủ chuyền 2 có thể nhảy: đập, giả đập rồi chuyền 2, giả chuyền 2 rồi đập hoặc bỏ nhỏ.

Tổ chức tấn công 3 chuyền: Với các đội ở trình độ thấp thì chỉ phối hợp với 2 đấu thủ ở hàng trên, nhưng đối với những đội trình độ cao thì ngoài 2 đấu thủ ở hàng trên còn phối hợp với chủ công tấn công ở hàng sau. Phối hợp 1: Số 4 đập biên, bóng lao hoặc cao. Số 3 đập nhanh hoặc lao ngắn ở vị trí số 3. Thêm số 1 đập hàng sau ở số 2. Phối hợp 2: Số 4 đập biên, bóng lao hoặc cao. Số 3 đập nhanh, lao ngắn hoặc trung bình ở số 2. Thêm số 1 đập hàng sau ở số 2. Phối hợp 3: Số 3 và số 4 phối hợp như phối hợp 2. thêm số 5 đập hàng sau ở giữa vị trí số 3 và số 4. Phối hợp 4: Số 4 đập nhanh hoặc lao ngắn ở vị trí số 3. Số 3 như phối hợp 2. Thêm số 5 đập ở hàng sau ở vị trí số 4. Phối hợp 5: Số 4 đập nhanh ở vị trí số 3, số 3 đập làn sóng sau lưng số 4. Thêm số 5 đập ở hàng sau ở vị trí số 4. 1.3.2. Khi đấu thủ chuyền 2 ở vị trí số 4 có thể phối hợp ngược lại một số miếng (phù hợp với khả năng của đội) khi chuyền 2 ở số 2 1.3.3. Khi đấu thủ chuyền 2 ở vị trí số 3 Phối hợp 1: Số 4 và số 2 đập biên, bóng lao hoặc cao. Thêm số 5 đập hàng sau ở giữa vị trí số 3 và số 4 Phối hợp 2: Số 4 đập nhanh ở vị trí số 3. Số 2 như phối hợp 1. Thêm số 5 đập hàng sau ở vị trí số 4· Phối hợp 3: Số 4 đập như phối hợp 1. Số 2 đập nhanh ở vị trí số 2 hoặc số 3. Thêm số 1 đập hàng sau ở vị trí số 2.

8.2.2. Khi đối thủ chuyền 2 ở hàng sau đan lên Có ba đối thủ tấn ở hàng trên và có thể thêm 1 đấu thủ tấn công ở hàng sau:

8.2.2.1. Khi đấu thủ chuyền 2 ở số 1 hoặc số 6:

Phối hợp 1: Số 4 đập biên, bóng cao hoặc lao. Số 3 đập nhanh, giả nhanh hoặc lao ngắn ở vị trí số 3. Số 2 đập nhanh, lao ngắn hoặc trung bình ở vị trí số 2. Thêm số 5 đập hàng sau ở giữa vị trí số 3 và số 4. Phối hợp 2: Số 4 đập nhanh ở vị trí số 3. Số 3 đập lần sóng hoặc đập chồng sau lưng số 4. Số 2 đập lao hoặc biên ở vị trí số 2. Thêm số 5 đập hàng sau ở vị trí số 4. Phối hợp 3: Số 3 đập lao ngắn ở vị trí số 3. Số 4 đập len. Số 2 đập như phối hợp 2. Thêm số 5 đập hàng sau ở vị trí số 4. Phối hợp 4: Số 4 đập như phối hợp 1. Số 2 đập nhanh sau đầu đối thủ chuyền 2. Số 3 đập bóng lao hoặc trung bình ở vị trí số 2. Thêm số 5 đập hàng sau ở vị trí giữa số 3 và số 4. Phối hợp 5: Số 4 đập như phối hợp 1. Số 3 đập nhanh ở vị trí số 3. Số 2 đập làn sóng sau số 3. Thêm số 6 đập hàng sau ở vị trí số 2. Phối hợp 6: Trường hợp đấu thủ số 4 thuận tay phải và khả năng di chuyển nhanh (trình độ cao). Số 3 đập nhanh ở vị trí số 3. Số 2 đập làn sóng sau số 3. Số 4 đập lao ngắn hoặc trung bình ở số 2. Thêm số 5 đập sau vị trí số 4. Phối hợp 7: Trường hợp đấu thủ số 2 thuận tay trái và có khả năng di chuyển nhanh. Số 4 đập nhanh ở vị trí số 3. Số 3 đập làn sóng hoặc chồng sau lưng số 4. Số 2 di chuyển đập lao hoặc biên ở số 4. Thêm số 6 đập hàng sau ở vị trí số 2.

8.2.2.2. Khi đấu thủ chuyền 2 ở số 5 thì thực hiện các miếng chiến thuật trên có khó khăn hơn, do đó nên lựa chọn những miếng chiến thuật phù hợp với khả năng của đội mình.

Yểm hộ tấn công bao gồm các hoạt động tự yểm hộ của đấu thủ tấn công và các hoạt động yểm hộ của đồng đội. Đặc điểm của chiến thuật bóng chuyền hiện đại là tăng cường số lượng đấu thủ tham gia tấn công, do đó ở hàng sau thường chỉ còn 2 đấu thủ. Một trong hai đấu thủ này phải

Page 28

Page 29: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

làm nhiệm vụ yểm hộ tấn công và đấu thủ còn lại sẽ phải bảo vệ nửa sân phía sau. Nếu chuyên môn hoá yểm hộ tấn công thì trong đội hình thi đấu sẽ phân công 2 đấu thủ (thường là phụ công) làm nhiệm vụ yểm hộ tấn công và xếp chéo nhau để đảm bảo ở hàng sau luôn có 1 đấu thủ yểm hộ. Nếu không chuyên môn hoá thì đấu thủ hàng sau đỡ chuyền 1 phía số 1 sẽ lên yểm hộ cho tấn công ở khu vực số 2 và 3, đấu thủ đỡ chuyền 1 phía sau số 5 sẽ lên yểm hộ cho tấn công ở khu vực số 4.

Các hoạt động của đấu thủ yểm hộ tấn công:

Quan sát các hoạt động chiến thuật tấn công của đội mình.

Quan sát các hoạt động của hàng chắn bóng bên đối phương.

Xác định bóng chuyền 2: Tầm bóng cao hay thấp; xa hay gần lưới; tốc độ bóng nhanh hay chậm; đến vị trí nào.

Biết đặc điểm của đấu thủ đập bóng và phán đoán khả năng bóng bị chắn trở lại theo hướng nào, rơi vào đâu để nhanh chóng di chuyển chọn vị trí yểm hộ.

Nhiệm vụ đỡ các đường bóng tấn công bị chắn trở về nửa sân trên (có thể phối hợp với đấu thủ chuyền 2 và đấu thủ không đập bóng).

Nếu bóng không rơi vào khu vực mình bảo vệ thì sẵn sàng tiếp ứng cho đồng đội.

Sau khi yểm hộ thì nhanh chóng lùi về vị trí phòng thủ

8.3. CHIẾN THUẬT PHÒNG THỦ:

8.3.1. Chiến thuật cá nhân trong phòng thủ:

8.3.1.1. chiến thuật chắn bóng cá nhân

Chắn là phương tiện phòng thủ cơ bản và tích cực nhất nhằm mục đích ngăn chặn hoặc hạn chế uy lực tấn công của đối phương, tạo điều kiện thuận lợi cho đồng đội phòng thủ hàng sau. Không những thế, chắn bóng còn có thể giành được điểm trực tiếp.

Chiến thuật chắn bóng cá nhân bao gồm: khi chưa có bóng và khi có bóng.

Đang ở vị trí nào? Có đổi vị trí không? Tỷ số điểm, hiệp?

Đánh giá các đấu thủ hàng trên (và cả chủ công đứng ở hàng sau có thể tham gia tấn công) và khả năng chiến thuật của đối phương. Bóng chuyền 1 lên (hoặc phòng thủ) như thế nào ? Khả năng và đặc điểm của người chuyền 2 ? Quan sát các hoạt động di chuyển của các đấu thủ tấn công bên sân đối phương.

Phán đoán: Khu vực đập ? Ai đập ? Hướng đập ? Lực đập ?

Di chuyển: Sau khi quan sát và phán đoán thì nhanh chóng di chuyển đến vị trí cần thiết để chắn.

a. Khi có bóng

- Vị trí nhảy chắn phụ thuộc vào Vị trí ở hàng trên (đứng ở số nào: 2, 3, 4)

Đường bóng chuyền 2.

Đặc điểm người tấn công: tay trái hay tay phải, vào đà ? hay đập hướng chéo hay dọc biên ?

Page 29

Page 30: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

Tuỳ theo bóng chuyền 2 và đặc điểm người tấn công mà quyết định thời gian dậm nhảy. Thông thường thì: Đập nhanh và lao ngắn: dậm nhảy gần như cùng lúc với người đập.

Đập trung bình: dậm nhảy chậm hơn người đập một chút. Đập cao biên: dậm nhảy khi người đập căng thân chuẩn bị đập vào bóng.

Mặt khác còn phải căn cứ vào bóng chuyền 2 gần hay xa lưới. Đập hàng sau: tuỳ theo bóng chuyền 2 mà có thể dậm nhảy như chắn bóng biên hoặc chậm hơn một chút.

Bóng gần lưới thì qua hết tay, hai bàn tay xoè rộng áp sát vào bóng.

Bóng xa lưới thì hai tay thẳng trên lưới để tận dụng hết chiều cao của tay chắn. Động tác khi chạm bóng là gập cổ tay. Phụ thuộc vào hướng chạy đà, thân, bả vai và cổ tay của người đập mà quyết định chắn tay đối diện với bóng, chéo ít hay chéo nhiều… Ở giai đoạn cuối có thể di động tay chắn sao cho đúng hướng đi của bóng.

Khi chắn bóng phải mở mắt và ngửa mặt lên để theo dõi bóng (trong thực tế tập luyện và thi đấu có nhiều đấu thủ khi chắn bóng thì mắt nhắm lại và đầu cúi xuống).

Trong khi rơi xuống đất, đồng thời xoay thân theo hướng bóng để tự yểm hộ hoặc tiếp ứng cho đồng đội.

8.4. CHIẾN THUẬT CÁ NHÂN TRONG PHÒNG THỦ HÀNG SAU VÀ YỂM HỘ

Cùng với chắn bóng, phòng thủ hàng sau đã góp phần không nhỏ vào kết quả của hệ thống phòng thủ. Phòng thủ hàng sau là hoạt động đón đỡ các đường bóng chạm tay chắn bật về phía sau, các quả đập lọt tay chắn, các đường bóng xử lý trong tấn công của đối phương. Phòng thủ hàng sau là có cơ sở để tổ chức phản công.

Chiến thuật cá nhân trong phòng thủ hàng sau bao gồm: khi chưa có bóng và khi có bóng.

Quan sát giống như đấu thủ chuẩn bị chắn bóng. Đặc biệt quan sát vị trí tay chắn và bóng để xác định khu vực an toàn trên sân.

Từ những quan sát trên để phán đoán hướng đập, điểm rơi của bóng.

Di chuyển: sau khi phán đoán thì di chuyển ngay đến vị trí cần thiết của mình để đón đỡ bóng.

8.4.1. Khi có bóng

a. Nếu là đấu thủ phòng thủ hàng sau:

- Khi có bóng đập vào khu vực phòng thủ của mình thì phải nhanh chóng quyết định sử dụng kỹ thuật nào: đệm hai tay, đỡ một tay, lăn ngã cứu bóng… Bóng phòng thủ tốt nhất là tới chỗ người chuyền 2 để tổ chức phản công.

- Nếu bóng không vào khu vực phòng thủ của mình thì phải sẵn sàng tiếp ứng cho đồng đội nếu đồng đội giữ bóng không tốt: cứu đỡ bóng hoặc chuyền 2 điều chỉnh.

b. Nếu là đấu thủ yểm hộ cho đấu thủ chắn bóng:

- Bảo đảm đỡ các đường bóng rơi vào phía sau đấu thủ chắn và khu vực giữa sân (có thể phối hợp với đấu thủ hàng trên không tham gia chắn bóng hoặc đấu thủchắn bóng tự yểm hộ)

- Đỡ bóng chạm tay chắn ra ngoài ở gần khu vực của mình bảo vệ.

Page 30

Page 31: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

- Sẵn sàng tiếp ứng cho đồng đội (cứu đỡ bóng hoặc tham gia chuyền 2 khi cần thiết).

Chiến thuật tập thể trong phòng thủ

Chiến thuật tập thể trong phòng thủ bao gồm chiến thuật nhóm và toàn đội:

nhóm của các đấu thủ hàng trên, nhóm của các đấu thủ hàng sau và sự Phối hợp của các đấu thủ giữa hàng trên và hàng sau.

8.5. CÁC HOẠT ĐỘNG CHIẾN THUẬT TRONG CHẮN BÓNG TẬP THỂ:

Chiến thuật chắn bóng tập thể có 3 chiến thuật dựa trên cơ sở chiến thuật cá nhân trong chắn bóng.

8.5.1. Phối hợp chắn bóng hai người

- Di chuyển:

Sau khi quan sát và xác định khu vực và đấu thủ đập bỏ bóng thì đấu thủ chắn bóng phối hợp di chuyển đến vị trí chắn bóng.

Các hình thức di chuyển trong chắn bóng tập thể gồm: chạy, bước chéo và bước lướt ngang.

- Thời điểm dậm nhảy: giống như xác định thời điểm dậm nhảy trong chắn bóng cá nhân.

- Chắn bóng: Hai đấu thủ phải phối hợp đặt tay chắn để tạo thành vòng cung bao lấy bóng, bốn bàn tay chắn phải đặt gần nhau (không để có khoảng trống để đối phương đập bóng lọt qua).

- Đối phương thường đập bỏ theo ba hướng:

Theo phương lấy đà.

Theo hướng chéo.

Theo hướng dọc biên (chữ I)

Khi đối phương đập bỏ theo phương lấy đà thì bốn bàn tay sẽ tạo thành vòng cung bao lấy bóng.

Khi đối phương đập bỏ theo hướng chéo thì một đấu thủ chắn hướng chéo và đấu đấu thủ thứ hai phối hợp chắn theo phương lấy đà. Khi đối phương đập theo hướng dọc biên đấu thủ sát biên sẽ đặt tay chắn đối diện với bóng và bàn tay phía biên hướng vào phía trong; đấu thủ thứ hai phối hợp chắn hướng theo phương lấy đà.

Chú ý: Ở giai đoạn cuối của chắn bóng, có thể di động tay chắn sao cho đúng hướng đi của bóng.

8.5.2. Phối hợp chắn bóng ba người

Trong thi đấu, ít khi chắn ba người. Chắn ba người thường chỉ được sử dụng để chắn các chủ công có lối đánh quyết liệt với bóng chuyền 2 cao đơn giản hoặc chuyền 2 điều chỉnh.

Khi chắn bóng: đấu thủ ở giữa chắn hướng đập theo phương lấy đà, hai đấu thủ hai bên chắn hướng chéo và hướng chữ I (bàn tay phía ngoài của đấu thủ chắn hướng chữ I hướng vào trong).

8.5.3. Vị trí đứng của hàng chắn bóng

Cách sắp xếp vị trí và phân công nhiệm vụ cho các đấu thủ chắn bóng là phụ thuộc vào đặc điểm chiến thuật tấn công của đối phương. Có thể đứng như sau:

Page 31

Page 32: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

Chắn đối phương tấn công đơn giản nhanh, biên

Chắn đối phương tấn công phức tạp

Chắn đối phương tấc công phức tạp, có chắn bù.

Nói chung, các đấu thủ chắn bóng, trước tiên phải bố trí theo dạng 1 kèm 1. Sau khi xác định là đối phương không tấn công nấc 1 thì đấu thủ chắn nấc 1 nhanh chóng di chuyển phối hợp chắn 2.

8.6. HỆ THỐNG CHIẾN THUẬT PHÒNG THỦ

Hệ thống chiến thuật phòng thủ là hoạt động phối hợp của chiến thuật chắn bóng và chiến thuật phòng thủ hàng sau. Trong chiến thuật phòng thủ hàng sau bao gồm: chiến thuật phòng thủ số 6 tiến và chiến thuật phòng thủ số 6 lùi.

8.6.1. Chiến thuật phòng thủ số 6 tiến

Đấu thủ ở vị trí số 6 luôn luôn tiến lên phía trước làm nhiệm vụ yểm hộ chắn bóng khi đối phương tấn công. Số 5 và số 1 đỡ bóng nửa sân sau. Chiến thuật phòng thủ số 6 tiến được sử dụng khi đối phương thường hay bỏ nhỏ ở phía sau đấu thủ chắn hoặc khu vực giữa sân, tấn công không quyết liệt lắm và thường theo hướng chéo hoặc chữ I. Đội hình phòng thủ với số 6 tiến được sắp xếp như sau:

a. Khi đối phương tấn công ở số 4

b. Khi đối phương tấn công ở số 3

c. Khi đối phương tấn công ở số 2

Cách sắp xếp đội hình phòng thủ ngược lại với đội hình phòng thủ khi đối phương tấn công ở số 4.

8.6.2. Chiến thuật phòng thủ số 6 lùi

Đấu thủ ở vị trí số 6, lùi về phía cuối sân để đỡ các đường bóng đập mạnh hoặc bật tay chắn rơi xuống phía sân sau. Số 5 hoặc số 1 lên yểm hộ cho chắn bóng. Chiến thuật phòng thủ số 6 lùi được sử dụng khi đối phương tấn công mạnh, dài xuống cuối sân, ít bỏ nhỏ và khả năng tự yểm hộ của hàng chắn tốt.

Đội hình phòng thủ với số 6 lùi được sắp xếp như sau:

a. Khi đối phương tấn công ở số 4

b. Khi đối phương tấn công ở số 3

Khi đối phương tấn công ở số 2:

Cách sắp xếp đội hình phòng thủ ngược lại với đội hình phòng thủ khi đối phương tấn công ở số 4.

Page 32

Page 33: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

Chương 9

LUẬT THI ĐẤU BÓNG CHUYỀN

Bóng chuyền là môn thể thao thi đấu giữa hai đội chơi trên một sân có lưới phân cách ở giữa. Cách chơi là đánh bóng qua lưới sao cho bóng chạm sấn đối phương và ngăn không cho đối phương làm tương tự như vậy với mình. Mỗi đội được chạm bóng 3 lần để đưa bóng sang sân đối phương (không kể lần chắn bóng).

Bóng vào cuộc bằng phát bóng do cầu thủ phát bóng đánh bóng qua trên lưới sang sân của đối phương. Một pha bóng chỉ kết thúc khi bóng chạm sân đấu, ra ngoài hoặc một đội bị phạm lỗi.

Trong bóng chuyền, thắng trong mỗi pha bóng được tính một điểm (tính điểm trực tiếp). Khi đội đỡ phát bóng thắng một pha bóng, đội đó ghi được một điểm đồng thời giành được quyền phát bóng và các cầu thủ của đội đó thực hiện di chuyển xoay vòng theo chiều kim đồng hồ một vị trí .

1. Sân thi đấu :

- Diện tích sân thi đấu bao gồm sân đấu và khu tự do. Sân thi đấu phải là hình chữ nhật và đối xứng.

- Sân dài 18m, rộng 9m ( tính từ mép ngoài của các đường biên).

- Các đường trên sân: Rộng 5cm có màu sáng khác với màu sân

Page 33

Khu phát bóng

Biên ngang

Khu phòng thủ

Đường tấn công

Khu phòng thủ

Khu phát bóng

Khu tự do 3m

Khu tự do

Khu thay người

Khu tấn côngĐường giữa sân

3m

18m

9m

Khu phạt 1x1m 3x3m3x3m Khu

khởi động

Bàn thư ký

Khu khởi động

Page 34: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

+ Đường giữa sân

+ Đường tấn công: Cách đường giữa sân về mỗi bên 3m và kéo dài thêm mỗi bên

5 vạch ngắt quảng dài 15cm, cách nhau 20cm và độ dài tổng cộng 1,75m .

+ Đường biên ngang (đường cuối sân).

+ Đường biên dọc và phần kéo dài biên dọc dài 15cm, cách biên ngang 20cm.

- Các khu vực trên sân:

+ Khu tấn công (khu trước) ở mỗi bên sân được giới hạn bởi đường tấn công và

đường giữa sân.

+ Khu phòng thủ (khu sau) ở mỗi bên sân được giới hạn bởi đường tấn công và biên ngang.

+ Khu phát bóng: Giới hạn bởi biên ngang và hai vạch kéo dài của biên dọc.

+ Khu thay người: Giới hạn bởi hai đường kéo dài của đường tấn công đến bàn thư ký.

+ Khu tự do: Tính từ các đường biên trở ra ít nhất 3m. Khu tự do của các cuộc thi

đấu thế giới của FIVB rộng tối thiểu 5m từ đường biên dọc và 8m từ đường biên ngang.

+ Khu khởi động : Mỗi góc sân của khu tự do có một khu khởi động 3 x 3m.

+ Khu phạt : Mỗi bên sân của khu tự do, trên đường kéo dài của đường biên ngang, ở sau ghế ngồi của mỗi đội có một khu phạt 1 x 1m

+ Khoảng không tự do: Khoảng không gian trên khu sân đấu không có vật cản nào tính từ mặt sân trở lên ít nhất 7m.

- Mặt sân được làm bằng gỗ hoặc chất liệu tổng hợp.

- Mặt sân thi đấu trong nhà phải là màu sáng. Sân đấu và khu tự do phải có màu sắc khác biệt nhau.

2. Lưới :

- Được căng ngang phía trên đường giữa sân. Lưới màu đen dài 9,5 - 10m, rộng 1m. Mắt lưới hình vuông cạnh 10cm. Mép trên của lưới có dải băng trắng rộng 7cm. Mép dưới lưới có giải băng trắng rộng 5cm

- Chiều cao mép trên lưới nam là 2,43m, lưới nữ là 2,24m. Chiều cao lưới được đo ở giữa sân, hai đầu lưới ở trên đường biên dọc phải cao bằng nhau và không cao hơn chiều cao quy định 2 cm (Hình 36).

3. Ăngten (cọc giới hạn)

Dài 1,8m, đường kính 1cm được sơn màu đỏ và trắng xen kẻ mỗi đoạn 10cm. Cọc được buộc thẳng đứng trên lưới (cao hơn lưới 0,8m) sao cho hình chiếu của cọc lên mặt sân là giao điểm của biên dọc và đường giữa sân

Page 34

Page 35: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

4. Băng giới hạn :

Là hai băng trắng dài 1m, rộng 5cm đặt ở hai bên đầu lưới thẳng góc với giao điểm của

đường biên dọc và đường giữa sân

Băng giới hạn là một phần của lưới

5. Cột lưới :

- Cột lưới cao 2.55m để căng giữ lưới được đặt ở ngoài sân cách đường biên dọc 1m

- Cột lưới tròn và nhẵn, được cố định chắc xuống đất, không dùng dây cáp giữ.

6. Bóng :

- Bóng hình cầu tròn làm bằng da mềm hoặc da tổng hợp, bên trong có ruột bằng cao su hoặc chất liệu tương tự.

- Màu sắc phải đồng màu hoặc phối hợp các màu .

- Chu vi của bóng : 65 - 67cm, trọng lượng của bóng : 260cm - 280cm .

- Áp lực trong của bóng : 0,30 - 0,325 kg/cm2

- Mọi quả bóng dùng trong một trận đấu phải có cùng chu vi, trọng lượng, áp lực, chủng loại, màu sắc ...

7. Đội bóng :

- Mỗi đội được phép đăng ký thi đấu tối đa 12 cầu thủ (trong đó có 1 cầu thủ tự do

Libero). Chỉ có cầu thủ đã đăng ký mới được vào sân thi đấu.

- Mỗi đội còn có 1 huấn luyện viên trưởng, 1 huấn luyện viên phó và 1 bác sĩ.

- Vận động viên Libero không được làm đội trưởng hoặc đội trưởng trên sân.

- Khi bóng ngoài cuộc, chỉ có đội trưởng trên sân được quyền nói với trọng tài.

Page 35

2.55m

Ăngten ( cọc giới hạn)

1m Băng giới hạn Lưới nam 2,43m Lưới nữ 2,24m

dải băng trắng

dải băng trắng

Cột lưới

9m

Page 36: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

- Trong suốt trận đấu, huấn luyện viên được chỉ đạo đội mình từ bên ngoài sân đấu. Huấn luyện viên là người quyết định đội hình thi đấu, thay người và xin hội ý. Khi thực hiện các việc này, huấn luyện viên liên hệ trọng tài thứ hai.

8. Đội thắng trận :

Mỗi trận thi đấu 5 hiệp, đội nào thắng 3 hiệp (3-0; 3-1; 3-2) là thắng trận.

9. Đội thắng 1 hiệp :

- Trong 1 pha đánh bóng, điểm được tính trực tiếp:

+ Đội phát bóng thắng được tiếp tục phát và cộng 1 điểm.

+ Đội đở phát bóng thắng thì giành quyền phát bóng và cộng 1 điểm.

- Từ hiệp 1 đến hiệp 4

+ Đội nào đến 25 điểm trước và hơn đội kia ít nhất 2 điểm (25 - 23; 25 - 17; ....)

+ Trường hợp hòa 24 - 24, phải đấu tiếp cho đến khi hơn nhau 2 điểm (26 - 24;

29 - 27; .....) không có điểm giới hạn cuối cùng.

- Hiệp 5 (hiệp quyết thắng)

+ Đội nào đến 15 điểm trước và hơn đội kia ít nhất 2 điểm (15 - 13; 15 - 7; ....)

+ Trường hợp hòa 14 - 14, phải đấu tiếp cho đến khi hơn nhau 2 điểm (16 - 14;

20 - 18; .....) không có điểm giới hạn cuối cùng.

11. Thay người :

- Mỗi đội mỗi hiệp được thay tối đa 6 lần người. Trong một lần có thể thay một hay nhiều cầu thủ.

- Trong một hiệp :

+ Cầu thủ của đội hình chính thức thay ra được phép thay vào sân lại đúng cầu thủ đã thay mình.

+ Cầu thủ dự bị được vào sân thay cho cầu thủ chính thức một lần và chỉ được thay ra bằng chính cầu thủ chính thức đã thay.

- Thay người phải được phép của trọng tài khi bóng ngoài cuộc.

- Phải thực hiện thay người trong khu thay người.

- Thay người của cầu thủ tự do (Libero) không tính vào thay người thông thường.

12. Hội ý :

- Từ hiệp 1 đến 4 :

+ Mỗi đội mỗi hiệp được hội ý thường 2 lần (không quá 30 giây/ lần). Hội ý phải

Page 36

Page 37: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

được phép của trọng tài khi bóng ngoài cuộc.

+ Ngoài ra, mỗi hiệp có thêm 2 lần "hội ý kỹ thuật", mỗi lần dài 60 giây khi có một đội dẫn điểm trước đạt điểm thứ 8 và 16.

- Hiệp 5 không có "hội ý kỹ thuật". Mỗi đội chỉ có 2 lần hội ý thường (không quá 30 giây/ lần).

- Trong khi hội ý, các cầu thủ trên sân phải ra khu tự do ở gần băng ghế của đội mình.

13. Bóng trong cuộc :

Được tính từ lúc người phát bóng đánh quả bóng đi sau tiếng còi cho phép phát bóng của trọng tài 1.

14. Bóng ngoài cuộc (bóng chết) :

Được tính từ thời điểm trọng tài 1 hoặc 2 thổi còi bắt lỗi. Không tính phạm lỗi tiếp sau tiếng còi đã bắt lỗi của trọng tài.

15. Bóng trong sân :

Là bóng chạm sân đấu kể cả các đường biên.

16. Bóng ngoài sân :

- Phần bóng chạm sân hoàn toàn ngoài các đường biên.

- Bóng chạm vật ngoài sân, chạm trần nhà hay người ngoài đội hình thi đấu trên sân.

- Bóng chạm cọc và bay ngoài cọc Ăngten.

- Bóng chạm dây buộc lưới, cột lưới hay phần lưới ngoài băng giới hạn.

- Bay qua hoàn toàn khoảng không dưới lưới.

17. Số lần chạm bóng :

- Mỗi đội chạm bóng tối đa 3 lần (trừ chắn bóng) để đưa bóng sang sân đối phương. Số

lần chạm bóng của đội được tính cả khi cầu thủ chạm bóng cố tình hay vô tình.

- Mỗi cầu thủ không được chạm bóng 2 lần liên tiếp (trừ chắn bóng).

- Hai hoặc ba cầu thủ có thể chạm bóng trong cùng một thời điểm thì tính hai hoặc ba lần chạm bóng (trừ chắn bóng).

- Trong khu thi đấu không được phép hổ trợ đánh bóng từ cầu thủ hoặc bất cứ vật gì. Tuy nhiên, khi một cầu thủ sắp phạm lỗi (chạm lưới, qua vạch giữa sân ...) thì đồng đội có thể giữ lại hoặc kéo trở về sân mình.

18. Tính chất chạm bóng :

- Bóng có thể chạm mọi phần của thân thể.

- Bóng được đánh đi không dính (nâng, cầm, đẩy, ném) và bật ra bất cứ hướng nào.

Page 37

Page 38: LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN IV

LÝ THUYẾT BÓNG CHUYỀN HỌC PHẦN V

- Bóng có thể chạm nhiều phần thân thể nhưng phải liền cùng một lúc.

- Trường hợp ngoại lệ :

+ Khi chắn bóng, một hay nhiều cầu thủ chắn bóng có thể chạm bóng liên tục miễn là những lần chạm đó phải xảy ra trong cùng một hành động.

+ Trong lần chạm bóng đầu tiên của 1 đội, bóng có thể chạm liên tiếp nhiều bộ

phận của thân thể trong cùng 1 hành động.

19. Phát bóng :

- Cầu thủ phát bóng bằng một tay hoặc bất cứ phần nào của cánh tay sau khi đã tung hoặc để bóng rời khỏi bàn tay.

- Chỉ được tung hay để bóng rời tay một lần. Được phép đập bóng, chuyển động bóng trong tay.

- Lỗi trước khi phát :

+ Đứng ngoài khu phát bóng.

+ Chân chạm đường biên ngang hoặc chạm sân đấu.

+ Đánh bóng bằng 2 tay.

+ Quá 8 giây sau tiếng còi của trọng tài 1.

+ Sai trật tự xoay vòng.

- Lỗi sau khi phát :

+ Không qua lưới, qua dưới lưới.

+ Chạm cọc và đi ngoài cọc Ăngten.

- Bóng chạm lưới rồi vượt qua trên lưới sang sân đối phương vẫn được xem là bóng trong cuộc.

Page 38