132
1 MỞ ĐẦU Đồng Nai được xem là vùng đất ni tiếng xưa nay về strù phú vi sưu ái của thiên nhiên: Đất tri thuận hòa, sông Đồng Nai trong mát, êm đềm, sn vt nhiu vô sk. Cùng với đó là con người nơi đây hiền lành, mến khách, hăng say, cần cù, chu thương, chịu khó trong lao động... “Rng chu ngoài Huế Nga tế Đồng Nai Nước sông trong chy ln sông ngoài Thương người xa x... lc loài tới đây Hết gạo thì có Đồng Nai, Hết ci thì có Tân Sài chvô...” Lời thơ như câu nói mộc mc, chân thành ca con người nơi đây những đã chứa đựng ý nghĩa súc tích về vùng đất Đồng Nai - nơi khởi phát, đất địa đầu làm chđứng chân cho những bước kế tiếp ca công cuc mcõi vphương Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Tri qua quá trình lch s, cùng vi cnước trong hai cuc kháng chiến trường kmảnh đất Đồng Nai anh hùng vi tinh thần đoàn kết, kiên cường, bt khut chng ngoại xâm đáng tự hào, luôn chđộng lao động sáng to không ngừng đã xây dựng nên địa phương phát trin vkinh tế, mt vùng đất mang du ấn khá đặc sc vtín ngưỡng dân gian, văn hóa, nghthut với Văn miếu Trn Biên hình thành sm nht Nam B. Được sống, trưởng thành trên mảnh đất giàu truyn thng cách mng vi những con người “Min Đông gian lao mà anh dũng” và có nét văn hóa, tín ngưỡng dân gian vô cùng đặc sc. Mi ln nhắc đến Đồng Nai là trong tâm hn tôi như dâng lên những ni nim, cm xúc khó tả, đây thực slà quê hương thứ hai và có ltrong máu tht, tâm hồn tôi đã mang hào khí của mảnh đất và con người Đồng Nai. Cuc thi Tìm hiu Giá trvăn hóa lịch sĐồng Nai slà dp mỗi người dân như tôi được ôn li nhng trang shào hùng, tìm hiu những đặc trưng văn hóa tín ngưỡng dân gian đặc sc của vùng đất. Vượt lên ý nghĩa đó, chính là slan truyn vtình yêu quê hương, đất nước, yêu Đảng, yêu Bác Hvà lòng biết ơn các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống vì độc lp, tdo ca dân tc. Đồng thi, giáo dc thế htrhôm nay vtruyn thng vvang, nêu cao tinh thn trách nhim và tiếp thêm ý chí, nghlực để hcùng đoàn kết, gigìn đặc trưng văn hóa của dân tc, chung tay xây dng và bo vTquc.

MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

  • Upload
    others

  • View
    1

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

1

MỞ ĐẦU Đồng Nai được xem là vùng đất nổi tiếng xưa nay về sự trù phú với sự ưu

ái của thiên nhiên: Đất trời thuận hòa, sông Đồng Nai trong mát, êm đềm, sản vật nhiều vô số kể. Cùng với đó là con người nơi đây hiền lành, mến khách, hăng say, cần cù, chịu thương, chịu khó trong lao động...

“Rồng chầu ngoài Huế Ngựa tế Đồng Nai

Nước sông trong chảy lộn sông ngoài

Thương người xa xứ ... lạc loài tới đây Hết gạo thì có Đồng Nai,

Hết củi thì có Tân Sài chở vô...”

Lời thơ như câu nói mộc mạc, chân thành của con người nơi đây những đã chứa đựng ý nghĩa súc tích về vùng đất Đồng Nai - nơi khởi phát, đất địa đầu làm chỗ đứng chân cho những bước kế tiếp của công cuộc mở cõi về phương Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lịch sử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ mảnh đất Đồng Nai anh hùng với tinh thần đoàn kết, kiên cường, bất khuất chống ngoại xâm đáng tự hào, luôn chủ động lao động sáng tạo không ngừng đã xây dựng nên địa phương phát triển về kinh tế, một vùng đất mang dấu ấn khá đặc sắc về tín ngưỡng dân gian, văn hóa, nghệ thuật với Văn miếu Trấn Biên hình thành sớm nhất ở Nam Bộ.

Được sống, trưởng thành trên mảnh đất giàu truyền thống cách mạng với những con người “Miền Đông gian lao mà anh dũng” và có nét văn hóa, tín ngưỡng dân gian vô cùng đặc sắc. Mỗi lần nhắc đến Đồng Nai là trong tâm hồn tôi như dâng lên những nỗi niềm, cảm xúc khó tả, đây thực sự là quê hương thứ hai và có lẽ trong máu thịt, tâm hồn tôi đã mang hào khí của mảnh đất và con người Đồng Nai. Cuộc thi Tìm hiểu Giá trị văn hóa lịch sử Đồng Nai sẽ là dịp mỗi người dân như tôi được ôn lại những trang sử hào hùng, tìm hiểu những đặc trưng văn hóa – tín ngưỡng dân gian đặc sắc của vùng đất. Vượt lên ý nghĩa đó, chính là sự lan truyền về tình yêu quê hương, đất nước, yêu Đảng, yêu Bác Hồ và lòng biết ơn các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống vì độc lập, tự do của dân tộc. Đồng thời, giáo dục thế hệ trẻ hôm nay về truyền thống vẻ vang, nêu cao tinh thần trách nhiệm và tiếp thêm ý chí, nghị lực để họ cùng đoàn kết, giữ gìn đặc trưng văn hóa của dân tộc, chung tay xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Page 2: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

2

CÂU 1 TRONG 320 NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN VÙNG ĐẤT BIÊN HÒA – ĐỒNG NAI, NHÂN DÂN ĐỒNG NAI ĐÃ TRẢI QUA NHỮNG CUỘC KHÁNG CHIẾN NÀO? HÃY TRÌNH BÀY CẢM NHẬN CỦA

ANH (CHỊ) VỀ TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN BIÊN HÒA – ĐỒNG NAI?

I. BIÊN HÒA ĐỒNG NAI - VÙNG ĐẤT MIỀN ĐÔNG GIAN LAO MÀ ANH DŨNG

Đồng Nai là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Đây là tỉnh có dân số đông thứ nhì ở miền Nam (sau Thành phố Hồ Chí Minh) có diện tích lớn thứ nhì ở Đông Nam Bộ (sau Tỉnh Bình Phước) và thứ ba ở miền Nam (sau Tỉnh Bình Phước và Tỉnh Kiên Giang). Đồng Nai có thành phố Biên Hòa là thành phố trực thuộc tỉnh có dân số đông nhất cả nước. Đồng Nai có dân số đông thứ 5 cả nước và có dân số đô thị đứng thứ 4 (sau thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Hải Phòng). Biên Hòa - Đồng Nai là vùng đất có lịch sử hình thành, phát triển gắn liền với con sông Đồng Nai hiền hòa, nơi đó có những con người đầy ý chí, nghị lực, chịu thương, chịu khó nhưng cũng không kém phần kiên cường, bất khuất và anh hùng.

Theo Quốc lộ 1A từ Nam ra Bắc, vừa ra khỏi thành phố Hồ Chí Minh, chúng ta gặp một vùng đất đỏ có cảnh sắc tươi đẹp. Trước mắt chúng ta hiện ra một bức tranh có sự tương phản giữa màu đỏ của màu đất, màu vàng chói của nắng, màu xanh trù phú tươi mát của nhiều loại trái cây, màu trong xanh của một dòng sông lấp lánh dưới ánh mặt trời... Bức tranh thiên nhiên ấy là miền đất Đồng Nai, mà từ lâu đã trở nên thân thuộc cũng như được khắc họa qua những lời thơ, tiếng hát ngọt ngào, sâu lắng, chất chứa biết bao tình cảm của những con người nơi đây...

“Nhà Bè nước chảy phân hai

Lòng Tàu, Soài Rạp, Đồng Nai oai hùng”

Page 3: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

3

- Sơ lược về lịch sử hình thành, phát triển: Đồng Nai - một dải đất nằm ven sông Đồng Nai thuộc phần đất của Dinh Trấn Biên do nhà Nguyễn lập ra vào Năm Mậu Dần (1698), khi Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vâng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu kinh lược vào vùng đất phương Nam (hiểu là cả vùng Nam Bộ bây giờ). Sách Gia Định thành thông chí cho biết: “Mùa xuân năm thứ 8, Mậu Dần (1698), thời Hiển tông Hiếu Minh hoàng đế (Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu),... triều đình sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành Hầu họ Nguyễn (Hữu Cảnh) sang kinh lược đất Cao Miên, ông lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên Dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, lập Dinh Phiên Trấn. Nguyễn Hữu Cảnh thiết lập bộ máy quản lý hành chính đầu tiên ở Nam Bộ. Từ đây, người Việt từ chỗ là lưu dân và các tộc người khác trở thành thần dân, đặt dưới sự quản lý của chúa Nguyễn. Cũng theo sử sách ghi lại, thời gian này vùng đất Đồng Nai có tên gọi là Dinh Trấn Biên thuộc huyện Phước Long, phủ Gia Định. Dinh là trại quan quân. Huyện Phước Long có địa giới được ước định khá rộng thuộc miền Đông Nam Bộ ngày nay, gồm: Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu và một phần Bình Thuận; một phần thành phố Hồ Chí Minh (bao gồm quận 2, quận 9, quận Thủ Đức). Lúc này, dân số của cả phủ Gia Định hơn bốn vạn (tức 40.0000) hộ. Đến đời Minh Mạng (1832), Minh Mạng sắp xếp lại đơn vị hành chính toàn quốc, các đơn vị trấn đổi thành tỉnh. Trấn Biên Hòa đổi thành tỉnh Biên Hòa. Lúc bấy giờ, toàn Nam Bộ có sáu tỉnh, gồm: Biên Hòa,

Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh tại Cù Lao Phố Nguồn: Internet

Page 4: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

4

Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên; nên chúng ta thường được nghe gọi là Nam Kỳ lục tỉnh hoặc là lục tỉnh Nam Kỳ.

Từ năm 1837, tỉnh Biên Hòa có 2 phủ Phước Long, Phước Tuy và 6 huyện: Phước Chánh, Bình An, Long Thành, Phước An; hai huyện mới là Long Khánh, Ngãi Giao. Phủ Phước Tuy thành lập trên cơ sở 2 huyện Long Thành, Phước An. Huyện Long Khánh thành lập trên cơ sở tách phần đất phía Bắc của 2 huyện Long Thành, Phước An gồm 6 tổng: Long Xương, Long Cơ, An Trạch, An Viễn, Tập Phước và Khánh Nhân. Huyện Ngãi Giao được thành lập trên cơ sở người dân thiểu số ở thủ An Lợi hợp với 3 tổng người Kinh chia thành 5 tổng. Năm 1838, tỉnh Biên Hòa có 2 phủ Phước Long, Phước Tuy và 7 huyện, gồm: Phước Chánh, Bình An, Long Thành, Phước An, Long Khánh, Ngãi Giao, Phước Bình (huyện mới Phước Bình được thành lập trên cơ sở cắt tổng Chánh Mỹ Hạ của huyện Phước Chánh và các tộc người thiểu số của 3 phủ Bình Lợi, Định Quán và huyện Phước Bình chia thành 4 tổng: Phước Thành, Bình Sơn, Bình Tuy, Bình Cách. Năm 1840, trên cơ sở của 81 buôn làng người dân tộc thiểu số quy phục, đặt thành bốn thủ: Tân Bình, Tân Định, Tân Thuận, Tân Lợi. Năm 1851, tỉnh Biên Hòa có 2 phủ Phước Long, Phước Tuy và 4 huyện Phước Chánh, Bình An, Long Thành, Phước An. (Bãi bỏ ba huyện: huyện Phước Bình quy về phủ Phước Long; huyện Long Khánh vào phủ Phước Tuy; huyện Ngãi An nhập vào huyện Bình An).

Bản đồ Phủ Phước Long xưa (Nguồn: Sách tham khảo)

Page 5: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

5

Năm 1882, sau khi Hòa ước Nhâm Tuất được ký, lúc này triều đình nhà Nguyễn cắt đất giao 3 tỉnh Gia Định, Định Tường và Biên Hoà cho Pháp. Sau đó, Pháp chia Biên Hòa thành ba tỉnh là Biên Hòa, Thủ Dầu Một và Bà Rịa. Đến thời Việt Nam Cộng hòa, đất Đồng Nai được chia làm 3 tỉnh là Biên Hòa, Long Khánh, Phước Tuy. Sau Đại thắng mùa xuân năm 1975, ba tỉnh này được hợp nhất thành lập tỉnh Đồng Nai, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Biên Hòa. Trải qua khoảng 10 lần chia tách cũng như điều chỉnh địa giới hành chính thì tỉnh Đồng Nai đã cơ bản ổn định.

- Về vị trí địa lý, hành chính: Đồng Nai là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, với diện tích tự nhiên là 5.907,2 km², có tọa độ từ 10o30’03 đến 11o34’57’’ vĩ Bắc và từ 106o45’30 đến 107o35’00” kinh Đông. Phía Đông giáp tỉnh Bình Thuận, phía Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh, phía Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng và Bình Dương, Tây bắc giáp tỉnh Bình Phước. Đồng Nai có vị trí hết sức quan trọng, là cửa ngõ phía đông thành phố Hồ Chí Minh và là một trung tâm kinh tế lớn của cả phía Nam, nối Nam Trung Bộ, Nam Tây Nguyên với toàn bộ vùng Đông Nam Bộ. Hiện tại có 11 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố (Biên Hòa) và 1 thị xã (Long Khánh) và 9 huyện (Trảng Bom, Long Thành, Nhơn Trạch, Thống Nhất, Vĩnh Cửu, Xuân Lộc, Cẩm Mỹ, Định Quán, Tân Phú) chia làm 136 xã, 29 phường và 06 thị trấn.

- Về điều kiện tự nhiên: Tỉnh Đồng Nai có địa hình vùng đồng bằng và bình nguyên với những núi sót rải rác, có xu hướng thấp dần theo hướng bắc nam, với địa hình tương đối bằng phẳng. Địa hình có thể chia làm các dạng là địa hình đồng bằng, địa hình trũng trên trầm tích đầm lầy biển, địa đồi lượn sóng, dạng địa hình núi thấp, đất phù sa, đất gley và đất cát có địa hình bằng phẳng, nhiều nơi trũng ngập nước quanh năm. Đất đen, nâu, xám hầu hết có độ dốc nhỏ hơn 8o, đất đỏ hầu hết nhỏ hơn 15o. Riêng đất tầng mỏng và đá bọt có độ dốc cao. Tỉnh Đồng Nai có quỹ đất phong phú và phì nhiêu. Có 10 nhóm đất chính, tuy nhiên theo nguồn gốc và chất lượng đất có thể chia thành 3 nhóm chung gồm: các loại đất hình thành trên đá bazan, các loại đất hình thành trên phù sa cổ và trên đá phiến sét, các loại đất hình thành trên phù sa mới. Trong tổng diện tích tự nhiên, diện tích đất nông nghiệp chiếm 49,1%, diện tích đất

Page 6: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

6

lâm nghiệp chiếm 30,4%, diện tích đất chuyên dùng chiếm 13%, diện tích đất khu dân cư chiếm 2,1%, diện tích đất chưa sử dụng chiếm 5,4%.

Khí hậu Đồng Nai là khí hậu nhiệt đới gió mùa, có hai mùa tương phản nhau là mùa khô và mùa mưa. Mùa khô thường bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11. Khoảng kết thúc mùa mưa dao động từ đầu tháng 10 đến tháng 12. Nhiệt độ trung bình năm 25 – 27°C, nhiệt độ cao cực trị khoảng 40°C và thấp cực trị 12,5°C và số giờ nắng trong năm 2.500 – 2.700 giờ, độ ẩm trung bình luôn cao 80 – 82%. Rừng Đồng Nai có đặc trưng cơ bản của rừng nhiệt đới, có tài nguyên động, thực vật phong phú đa dạng, tiêu biểu là vườn quốc gia Nam Cát Tiên. Tài nguyên khoáng sản khá phong phú về chủng loại như kim loại quý, kim loại màu, đá quý, nguyên liệu gốm sứ, vật liệu xây dựng, than bùn, nước khoáng và nước nóng…

- Về dân cư: Tính đến năm 2018, dân số toàn tỉnh Đồng Nai khoảng 03 triệu người, mật độ dân số trên 500 người/km², toàn tỉnh Đồng Nai có 51 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống. Trong đó người Kinh có trên 02 triệu người, còn lại là người Hoa có 95.162 người, người Nùng có 19.076 người, người Tày có 15.906 người, người Khmer có 7.059 người, còn lại là những dân tộc khác như Mường, Dao, Chăm, Thái... Ít nhất là người Si La và Ơ Đu chỉ có một người... Hiện nay Đồng Nai là một địa bàn đa tôn giáo: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao đài, Hòa Hảo, Hồi giáo... Trong đó, Công giáo và Phật giáo là hai tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất. Công giáo tập trung đông đúc ở thành phố Biên Hòa và huyện Trảng Bom. Đồng Nai là địa phương có số tín đồ công giáo đông nhất cả nước, chiếm khoảng 1/3 dân số tỉnh.

II. NHỮNG CUỘC KHÁNG CHIẾN CỦA QUÂN VÀ DÂN BIÊN HÒA ĐỒNG NAI TRONG 320 NĂM QUA

1. Giai đoạn từ năm 1698 đến năm 1858

Đây là giai đoạn khai phá vùng đất phương Nam, mở mang bờ cõi của Chúa Nguyễn, vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai, được hình thành từ năm Mậu Dần (1698), khi Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh đã vâng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu kinh lược vào vùng đất phương Nam, thiết lập bộ máy quản lý hành chính đầu tiên ở Nam Bộ.

Page 7: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

7

Ở giai đoạn này, đất nước được chia cắt thành Đàng trong và Đàng ngoài do Trịnh-Nguyễn phân tranh. Trong thời kỳ này, đất nước phân chia giữa chế độ “vua Lê chúa Trịnh” ở phía Bắc sông Gianh (sử gọi là Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn cai trị ở miền Nam (Đàng Trong), mở đầu khi Trịnh Tráng đem quân đánh Nguyễn Phúc Nguyên năm 1627. Trong suốt thời kỳ phân tranh, hai bên Trịnh - Nguyễn đánh nhau lớn bảy lần và một số lần đánh nhau quy mô nhỏ hơn. Chiến trường chủ yếu ở hai bờ sông Gianh, vùng Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay. Hai bên đều có lợi thế và điểm yếu nên không thể tiêu diệt được nhau, dù cùng mang khẩu hiệu “Phù Lê”. Sau nhiều năm giao chiến, cả hai bên đều kiệt quệ về sức người sức của nên phải chấp nhận đình chiến, chia cắt lâu dài. Sông Gianh, sử sách hay gọi là Linh Giang, trở thành ranh giới chia nước Đại Việt thành Đàng Trong và Đàng Ngoài. Thời kỳ phân tranh Trịnh - Nguyễn kết thúc vào cuối thế kỷ XVIII với cuộc khởi nghĩa Tây Sơn do ba anh em Nguyễn Huệ khởi xướng.

Năm 1775, Tây Sơn khởi nghĩa, chiếm được Phú Xuân. Chúa Nguyễn Phước Thuần chạy vào Gia Định. Lý Tài phản bội Tây Sơn, theo Nguyễn Ánh, đóng quân ở núi Châu Thới, sau bị thua trận rồi bị quân Đông Sơn Đỗ Thành Nhơn giết năm 1777. Từ năm 1776 đến năm 1782, quân Tây Sơn 4 lần vào Nam giao tranh với Nguyễn Ánh; Nguyễn Ánh thua chạy, năm 1784 cầu viện vua Xiêm, vua Xiêm đưa binh thủy, bộ chiếm đóng Kiên Giang, Ba Thắc, Mân Thít, Sa Đéc... mưu đồ đánh chiếm Đồng Nai - Gia Định. Mùa Xuân năm 1785, dựa vào địa hình, thủy triều và lòng dân, Nguyễn Huệ chỉ huy quân Tây Sơn dụ giặc vào trận địa mai phục ở Rạch Gầm, Xoài Mút (Mỹ Tho, Tiền Giang) đánh cho

Tác giả chụp ảnh tại Đền Thờ Nguyễn Hữu Cảnh - Cù Lao Phố

Page 8: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

8

quân Xiêm một trận đại bại, chỉ còn vài nghìn tên sống sót trốn về nước. Nguyễn Ánh chạy thoát, tiếp tục mưu đồ cầu ngoại viên, “cõng rắn cắn gà nhà”. Nhân lúc Tây Sơn bận đối phó với Chúa Trịnh ở phía Bắc; Nguyễn Ánh được sự giúp đỡ của ngoại bang, chiếm lại Trấn Biên năm 1788; khi Quang Trung Nguyễn Huệ lên ngôi, tập trung lực lượng đánh đuổi giặc Thanh xâm lược ở Thăng Long (1789), Nguyễn Ánh có cơ hội khôi phục lực lượng, xây thành Bát Quái ở Gia Định; củng cố hệ thống phòng thủ, tích trữ lương thực, lập đồn điền cày cấy ở Đồng Môn, Bà Rịa. Do đó trên địa bàn Đồng Nai, còn nhiều di tích gắn với thời kỳ này của Nguyễn Ánh.

Từ năm 1792, Nguyễn Ánh hoàn toàn làm chủ đất Trấn Biên, Gia Định. Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, đổi phủ Gia Định thành trấn Gia Định, Trấn Biên dinh thành Biên Hòa trấn. Thế kỷ 18 và nửa đầu 19, dưới sự thống trị của triều đình nhà Nguyễn mục nát và lỗi thời, nước Việt Nam bị chìm đắm trong tối tăm, lạc hậu, trở thành một miếng mồi ngon cho thực dân Pháp đang rắp tăm chiếm đoạt.

Như vậy trong suốt giai đoạn từ năm 1698 đến năm 1858, quân và dân vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai không có cuộc kháng chiến nào rõ ràng. Ở giai đoạn này chủ yếu là các trận đánh mang tính chất như nội chiến, tranh giành quyền lực giữa Trịnh - Nguyễn. Và trong cuộc phân tranh trước đây giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn (1627-1672), xứ Đồng Nai là chỗ dựa để các chúa Nguyễn xây dựng lực lượng, gồm cả vũ trang, hậu cần, quốc phòng để chặn đứng quân Trịnh ở Đàng Ngoài. Xứ Đồng Nai cũng từng là bàn đạp quan trọng để nghĩa quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy ba lần tiến quân đánh bại chúa Nguyễn, đánh chiếm Gia Định. Đặc biệt, có các trận đánh lớn của Quang Trung - Nguyễn Huệ chống quân Xiêm với danh nghĩa cứu giúp Nguyễn Ánh nhưng mưu đồ xâm lấn vùng đất cực nam của nước ta. Đỉnh cao của các trận đánh này chính là trận thủy chiến Rạch Gầm - Xoài Mút (tỉnh Tiền Giang) vào năm 1785. Tuy nhiên các trận đánh diễn ra ở các địa bàn khác và chưa có căn cứ khoa học lịch sử rõ ràng để xác định việc tham gia của nhân dân vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai.

Page 9: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

9

2. Cuộc kháng chiến chống thực dân pháp lần thứ nhất (1958 - 1945)

Ngày 31/8/1858, chiến thuyền của Người chỉ huy hạm đội Pháp là Phó Đô đốc Giơnuiy (R.de Genouilly) đã nổ súng vào bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng mở màn cuộc xâm lược chính thức nước ta. Tuy nhiên, gặp sức kháng cự quyết liệt của nhân dân ta nên kế hoạch đánh chiếm nhanh Đà Nẵng thất bại. Bị cầm chân ở Đà Nẵng, tướng Giơnuiy buộc phải thay đổi kế hoạch, là rút đi hai phần ba số quân (tức 2.000 người) và 8 trong số 14 chiến thuyền ở mặt trận này để vào đánh chiếm Gia Định. Tháng 2/1859, liên minh Pháp và Tây Ban Nha đã đưa quân vào để đánh chiếm và phá hủy nhiều công trình quân sự của Vương triều nhà Nguyễn, trong đó có thành Gia Định. Trận đánh thành Gia Định bắt đầu vào rạng sáng ngày 17/2/1859 và kết thúc khoảng 10 giờ trưa cùng ngày. Do chính quyền suy yếu, không có quyết tâm chống xâm lược, triều đình Huế đã để cho giặc chiếm đóng tỉnh thành Gia Định, Định Tường. Tiếp đến ngày 16/12/1861, quân Pháp chiếm Biên Hòa và ngày 07/2/1862, chúng xuôi dòng Đồng Nai chiếm Bà Rịa.

Từ các phong trào cách mạng đến tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại Biên Hòa - Tháng 08/1945

* Các cuộc khởi nghĩa của sĩ phu yêu nước:

Ngày 04/2/1959, De Grenouilly tập trung 2.000 quân Pháp và Tây Ban Nha ở Vũng Tàu. Ngày hôm sau, quân Pháp từ biển tiến công đồn Phúc Thắng (núi Ghềnh Rái, Biên Hòa), vị trí tiền tiêu của Gia Định. Các ngày sau, chúng lần lượt hạ các đồn khác như Lương Thiện (vùng thuộc Phú Mỹ). Trong khi

Pháp nổ súng vào Đà Nẵng – Mở màn cuộc xâm lược năm 1858 Nguồn: Internet

Page 10: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

10

quân triều đình ở Gia Định do Tôn Thất Hiệp án binh bất động, quân Trương Định đã tung ra đánh du kích trong nội ngoại vi thành Gia Định.

Ngày 04/2/1861, sau khi kết thúc chiến tranh với Trung Quốc, liên quân Pháp và Tây Ban Nha (500 quân) do tướng Charner chỉ huy tiến công đồn Chí Hòa do Nguyễn Tri Phương chỉ huy. Chỉ trong một ngày, đại đồn Chí Hòa bị đánh chiếm. Nguyễn Tri Phương rút quân về Biên Hòa để phòng thủ.

Tháng 01/1861, Bonard, chuẩn đô đốc, thay Charner đến Sài Gòn tuyên bố: “Chúng ta sẽ tiến công Biên Hòa, nếu cần sẽ tiến công Huế”. Tỉnh Biên Hòa lúc này bao gồm cả tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu và tỉnh Bình Dương ngày nay. Tỉnh thành Biên Hòa do tuần phủ Nguyễn Đức Hoan phụ trách, có khâm sai đại thần Nguyễn Bá Nghi, được vua Tự Đức phái vào tiếp viện phòng thủ Biên Hòa sau khi Nguyễn Tri Phương bị thương phụ trách. Từ Sài Gòn lên Biên Hòa có hai đường thủy và bộ. Trên đường bộ có hai đồn án ngữ là Mỹ Hòa và Gò Công Trao Trảo (nay thuộc địa phận phường Thạnh Mỹ Lợi, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh). Căn cứ Mỹ Hòa cách Biên Hòa 08km có khoảng gần 3.000 quân đóng giữ. Sông Đồng Nai đã bị ngăn bởi một kè đá và 09 vật cản bằng gỗ rất chắc. Ngoài ra, hai bên bờ sông còn được bố trí nhiều đồn nhỏ để hỗ trợ lẫn nhau.

Ngày 13/12/1861, tướng Bonard, chỉ huy trưởng quân Pháp ở Sài Gòn đã ký huấn lệnh về kế hoạch đánh chiếm Biên Hòa. Theo huấn lệnh này, lực lượng đánh chiếm Biên Hòa gồm đại đội khinh binh, do đại tá Foucault chỉ huy; đạo quân trù bị gồm 300 lính thủy quân lục chiến, 100 quân Tây Ban Nha và hai đại bác do đại tá Domenech Diego chỉ huy, đạo quân thứ ba gồm 02 hạm thuyền và lực lượng đo bộ do thiếu tá Lebris chỉ huy. Trong kế hoạch, địch chia làm ba bước, trong đó có việc đánh chiếm Bến Gỗ để làm bàn đạp tiến quân về Biên Hòa. Ngày 14/12/1861, quân Pháp tiến đánh tỉnh Biên Hòa bằng cả đường bộ và đường thủy. Ngày 15/12/1861, quân Pháp do Comte và Diego tiến lên đồn Mỹ Hòa, quân triều đình rút chạy. Trên đường sông Đồng Nai, hai cánh quân do Lebris và Harel chỉ huy gặp sự chống trả khá quyết liệt của quân triều đình. Tàu Alarme trúng 54 phát thần công, gẫy cả cột buồm. Phá được cản, quân Pháp tiến đánh phá các pháo đài ven sông, quân triều đình chống trả đến giữa đêm thì rút chạy. Sáng ngày 17/12/1861, quân thủy bộ của Pháp đã đến trước tỉnh Biên Hòa.

Page 11: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

11

Trong báo cáo gởi Bộ trưởng Quốc phòng Pháp, tướng Bonard viết: “Triệt phá cứ điểm Biên Hòa cách Sài Gòn 3 dặm, chiếm được 3 lũy phòng ngự, làm nổ tung một đồn khác. Binh lính của Tự Đức rút toàn bộ ra khỏi tỉnh Biên Hòa, nhưng lo sợ con đường ra Huế bị cắt đứt, đã rút chạy lộn xộn vào núi, bỏ lại tất cả các đồn lũy, đốt hết kho tàng. Quân Pháp thu được 48 khẩu đại bác, một kho gỗ quý và 15 chiến thuyền của quân triều đình Huế...” (Hội thảo Biên Hòa 300 năm tháng 06/1997). Như vậy chỉ sau 04 ngày, chỉ với 1.000 quân, thực dân Pháp đã dễ dàng chiếm lấy tỉnh thành Biên Hòa, trong lúc quan quân triều đình nhà Nguyễn ở Biên Hòa có đến 15.000 quân phòng giữ và đến 07/01/1862, Pháp chiếm được Bà Rịa. Trên thực tế, Pháp chỉ chiếm đóng được ở các tỉnh lỵ Biên Hòa, Bà Rịa, Long Thành, Vũng Tàu. Nhân dân gần chỗ Pháp đóng quân ở Bình An, Nghĩa An, Long Thành đã bỏ đi đến 74 thôn (bằng 1/3 tổng số làng xã lúc đó). Số quân của triều đình còn lại ở Biên Hòa do Hiệp tán quân vụ Thân Văn Nhiếp và Khâm phái quân vụ Nguyễn Túc Trưng theo lệnh triều đình rút về Tân Hòa để hiệp cùng quân Trương Định. Nhưng do Túc Trưng sợ giặc không dám mở rộng chiến đấu ngoài Tân Hòa, nên Trương Định đưa nghĩa quân ra hoạt động vượt khỏi căn cứ. Tháng 2 Nhâm Tuất 1862, thế lực của nghĩa quân Trương Định phát triển mạnh và được nhân dân Biên Hòa, miền Đông ủng hộ tích cực. Một số văn thân ở Biên Hòa như Tri phủ Phước Tuy Nguyễn Thành Ý, Tùy phái Phan Trung, mỗi người đã mộ được 2.000 quân kéo đến hợp tác với nghĩa quân Trương Định. Đỗ Trình Thụy, nguyên là tri huyện Long Thành đã bị triều đình cách chức, mộ được 300 nghĩa

Trương Định – Thủ lĩnh vĩ đại của Nghĩa quân chống Pháp Nguồn:Internet

Page 12: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

12

quân, cùng nghĩa quân Trương Định tấn công đồn Thuận Tắc (Gò Công). Ông và 18 nghĩa quân đã hy sinh.

Ngày 05/6/1862, triều đình Huế nhu nhược đã ký hòa ước Nhâm Tuất nhượng cho Pháp ba tỉnh miền Đông (Biên Hòa - Gia Định - Định Tường). Nhân dân Biên Hòa và miền Đông kiên quyết chống Pháp đã tôn Trương Định làm “Bình Tây đại nguyên soái” để tiếp tục kháng Pháp. Đêm 17/12/1862 rạng sáng 18/12/1862, nghĩa quân Trương Định với 1.200 tay súng chia làm hai mũi đánh chiếm đồn Đồng Môn (huyện Long Thành), tên tri huyện tay sai của thực dân Pháp bị bắt sống. Từ đầu tháng 01/1863, nghĩa quân ở Biên Hòa gồm cả người Việt và người dân tộc liên tục tiến công các vị trí quân Pháp ở đông bắc Biên Hòa, thực sự gây khó khăn và nhiều thiệt hại cho chúng. Đặc biệt, phong trào toàn dân kháng chiến ở Biên Hòa rất phát triển. Trong “Lịch sử cuộc chinh phạt ở Nam kỳ 1861” (Histoire de L'expédition de Cochinchine 1861), tác giả Léopold Pallu de la Barrière viết: “Thực tế đâu đâu cũng là trung tâm kháng chiến chia nhỏ ra vô cùng, có bao nhiêu người An Nam thì có bấy nhiêu người kháng chiến. Muốn nói cho đúng hơn nữa thì phải nói rằng cần xem mỗi người dân cày đi gặt lúa là một trung tâm kháng chiến”. Tinh thần kháng chiến của nghĩa quân được địch thú nhận: “Người Việt Nam đã tỏ ra dạn dày chiến đấu, họ đã đảo lộn: giờ đây họ đã tiến công chúng ta ngay trong những vị trí của chúng ta”.

Đầu tháng 01/1863, nghĩa quân ở Biên Hòa đã phá hoại, cắt đứt đường dây điện thoại Biên Hòa - Bà Rịa - Sài Gòn - Cap Saint Jacques. Hạ tuần tháng 01/1863, nghĩa quân Biên Hòa gồm cả người Việt, người dân tộc đã liên tục tiến công các căn cứ giặc Pháp, làm cho chúng không dám ra khỏi đồn lũy. Tinh thần gan dạ đoàn kết chiến đấu của đồng bào Kinh và Thượng thể hiện rất cao trong kháng chiến. Chính giặc Pháp thú nhận: “Quân khởi nghĩa đã thành công trong việc lôi kéo những bộ lạc người Thượng ở biên giới Biên Hòa, Bà Rịa; trước đó những bộ lạc này vẫn đứng ngoài cuộc chiến đấu. Việc tham gia của những bộ lạc này, chứng tỏ cuộc khởi nghĩa ở Biên Hòa đã có một sự trợ lực quan trọng”.

Ngày 20/8/1864, do tên đội Huỳnh Công Tấn phản bội, địch đánh úp căn cứ nghĩa quân Trương Định ở Tân Phước; không để bị bắt, ông đã dùng gươm tự sát. Khi đó ông mới 44 tuổi. Sau khi Trương Định mất, Phan Chỉnh rút về

Page 13: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

13

Giao Loan (Rừng Lá, ranh giới Biên Hòa - Bình Thuận) xây dựng căn cứ. Con trai Trương Định là Trương Quyền, 20 tuổi, cũng đưa nghĩa quân về phối hợp với Phan Chỉnh. Ngoài căn cứ Giao Loan, nghĩa quân Biên Hòa còn xây dựng căn cứ Bàu Cá (huyện Trảng Bom). Nhân dân Biên Hòa và các tỉnh miền Đông đã về đây để tham gia chiến đấu, thường xuyên tấn công địch ở Biên Hòa - Gia Định. Đầu năm 1865, thiếu tá De Larousse chỉ huy quân Pháp tấn công vào căn cứ Giao Loan. Phó tướng Lê Quang Quyền tử trận. Địch phải khó khăn vì các chướng ngại do nghĩa quân xây dựng và chịu nhiều tổn thất. Căn cứ Giao Loan bị thất thủ. Đồng thời một cánh quân Pháp khác cũng đánh chiếm căn cứ Bàu Cá. Phan Chỉnh rút chạy, một thời gian sau ra hàng giặc Pháp. Trương Quyền đưa nghĩa quân về Tây Ninh phối hợp cùng nghĩa quân của Pô-Cam-Pô tiếp tục kháng chiến. Cuộc kháng chiến ở Biên Hòa do các văn thân lãnh đạo tạm thời lắng lại.

Trong lúc triều đình Huế đã ký hiệp ước Nhâm Tuất 1864, nhân dân Biên Hòa và cả Miền Đông vẫn kiên quyết chiến đấu. Điều này cho thấy tinh thần và ý chí độc lập của nhân dân Biên Hòa và nhân dân ba tỉnh Miền Đông là rất cao. Năm 1884, triều đình Huế lại ký hòa ước Pa-tơ-nốt, biến nước ta thành thuộc địa của Pháp; mở đầu cho thời kỳ khai thác, bóc lột thuộc địa của tư bản Pháp ở Việt Nam. Nhân dân Biên Hòa và Miền Đông Nam bộ bước vào một giai đoạn đấu tranh giành độc lập trong điều kiện triều đình Huế đã trở thành vương triều bù nhìn. Trong bối cảnh đó, các tổ chức hội kín đã ra đời và phát triển ở vùng đất Biên Hòa.

* Đoàn Văn Cự (1835-1905):

Đoàn Văn Cự là người con anh hùng của quê hương Biên Hòa - một trong những nghĩa sĩ tiêu biểu trong phong trào chống thực dân Pháp ở Nam bộ đầu thế kỷ XX. Đoàn Văn Cự sinh năm 1835, quê ở làng Bình An (Thủ Đức). Cha cụ là một bậc túc nho có chí khí và lòng yêu nước nồng nàn. Gia đình cụ luôn bị thực dân Pháp theo dõi, cụ phải rời quê hương đến trú ngụ tại rừng Bưng Kiệu, thôn Vĩnh Cửu (nay thuộc phường Tam Hòa, thành phố Biên Hòa). Tiếp nối truyền thống của gia đình, Đoàn Văn Cự theo nghề cha dạy học và làm thuốc để giúp đỡ dân nghèo. Chính vì thế, cụ đã tạo được uy tín và điều kiện để tiếp xúc tuyên truyền, khơi dậy lòng yêu nước trong các tầng lớp nhân dân lao động. Lợi

Page 14: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

14

dụng địa thế rừng, cụ xây dựng Bưng Kiệu thành căn cứ để mưu cầu đại sự. Là người thông minh, tài trí, cụ đã khéo léo dùng hình thức hoạt động tôn giáo để thu phục nhân tâm, qua đó tuyên truyền thức tỉnh lòng yêu nước, tinh thần xả thân vì đại nghĩa của dân tộc. Các tín đồ và đồng chí của cụ có mặt khắp miền Đông, nhưng đông nhất là vùng Bình An, Chợ Chiếu cho tới khu vực núi Nứa (thị xã Long Khánh). Tổ chức Hội kín do cụ thành lập quy tụ nhiều danh tài hảo hán, tinh thông võ nghệ, coi việc nghĩa là việc đại sự, một lòng vì nước, vì dân. Lực lượng nghĩa quân phát triển ngày một lớn mạnh; lương thực, khí giới được tích trữ chuẩn bị cho việc dấy binh. Nhưng hoạt động của cụ không còn giữ được bí mật, giặc Pháp đã nắm được tin. Ngày 08/4 âm lịch (tức ngày 11/5/1905), chính quyền thực dân cho một tiểu đội lính bí mật đến bao vây thôn Vĩnh Cửu.

Được tin, Đoàn Văn Cự đã triệu tập hàng trăm nghĩa quân tổ chức mai phục sẵn sàng đánh địch. Phục kích cả ngày không thấy địch đến, tưởng địch đã rút lui, đến tối, cụ cho nghĩa quân rút về căn cứ ăn cơm. Lúc này giặc mới ập đến, vây chặt căn cứ Bưng Kiệu. Tên đại úy chỉ huy quân Pháp dẫn một tốp lính xông thẳng vào nhà cụ. Biết khó lòng thoát hiểm, cụ điềm tĩnh vận bộ trang phục uy nghi, đầu chít khăn lụa điều, mình buộc thắt lưng màu hồng, giắt đoản đao đầu hổ, làm lễ trước bàn thờ tổ chờ địch đến. Khi toán lính bước vào nhà, cụ vung thanh đoản đao sáng loáng chém bị thương tên chỉ huy. Hắn bắn trả một loạt đạn. Cụ

Đền thờ Đoàn Văn Cự và 16 nghĩa binh tại phường Tam Hòa – Tp.Biên Hòa. Nguồn: Internet

Page 15: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

15

Đoàn Văn Cự trúng đạn, ngã xuống trước bàn thờ tổ.

Quân Pháp tấn công vào doanh trại của nghĩa quân và đốt phá kho lương thực. Rừng Bưng Kiệu ngập khói lửa kín cả một góc trời. Mười sáu nghĩa quân anh dũng hy sinh. Số còn lại đều chạy thoát vào rừng. Hôm sau, giặc Pháp bắt nhân dân khiêng xác tử sĩ và chôn chung vào một hầm lớn. Cụ Đoàn Văn Cự cùng 16 nghĩa quân hy sinh anh dũng và nằm chung một ngôi mộ. Hôm nay và mãi mãi về sau, họ vẫn còn đó, lung linh khói hương tưởng niệm của các thế hệ con cháu Biên Hòa - Đồng Nai.

Hiện nay, ngôi mộ của cụ cùng 16 nghĩa quân nằm yên nghỉ tại Bưng Kiệu thuộc phường Tam Hòa, thành phố Biên Hòa. Đền thờ cụ ở phường Tam Hiệp, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

* Trại Lâm Trung:

Trại Lâm Trung là một tổ chức yêu nước nằm trong hình thái Hội kín rất phổ biến và phát triển ở Nam bộ đầu thế kỷ XX. Mục đích của các Hội kín này là tập hợp nhân dân, xây dựng lực lượng để kháng chiến chống thực dân Pháp. Tại Biên Hòa, một nhóm người yêu nước đã thành lập ra Trại Lâm Trung, căn cứ đóng tại xã Thiện Tân (huyện Vĩnh Cửu). Trại thành lập trong lúc chiến tranh thế giới lần thứ nhất đang diễn ra quyết liệt; thực dân Pháp càng ra sức bóc lột, vơ vét tài nguyên bằng sưu thuế nặng nề để trang trải chiến phí và tăng cường bắt thanh niên Việt Nam đi lính để “hy sinh cho mẫu quốc” Pháp. Trại do các nhân vật yêu nước tinh thông võ nghệ như: Năm Hy, Tư Hổ, Ba Hầu, Hai Lực, Bảy Đen, Ba Vạn, Hai Cầm... Trại tổ chức luyện tập võ nghệ, trại viên được trang bị vũ khí thô sơ như gậy, dao, gươm và một ít súng điểu thương.

Trại đã được nhân dân Vĩnh Cửu, Tân Uyên ủng hộ giúp đỡ, tích trữ lương thực. Hoạt động của Trại Lâm Trung bí mật, các đội viên liên lạc với nhau đều bằng mật hiệu, khẩu hiệu. Đầu năm 1916, Trại Lâm Trung đề ra kế hoạch hoạt động với hai mục tiêu: “Tiến đánh thành Săng Đá để tiêu diệt quân Pháp; Tiến đánh khám đường Biên Hòa, giải thoát các người yêu nước và thanh niên bị Pháp bắt đi lính”. Đêm ngày 12 tháng giêng Âm lịch năm 1916 (nhằm đêm 16/2/1916), Trại phát động tấn công. Trong đêm, trống mõ trong các làng đồng loạt nổi lên, thúc giục trại viên xuống đường tiến công các mục tiêu: Nhà

Page 16: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

16

làng Tân Trạch, Tân Lương, Tân Khánh, Bến Cá... Một số thanh niên đã được giải thoát. Các ông Mười Sót, Mười Tiết chỉ huy mũi tiến đánh khám Biên Hòa. Tuy có bất ngờ, nhưng vì vũ khí thô sơ, địch lại được lính từ thành Săng Đá tiếp viện nên việc không thành. Hai ông Mười Sót, Mười Tiết bị bắt sống, các trại viên còn lại chạy thoát. Một số đông phạm nhân bên trong nhân cơ hội nổi dậy phá khám chạy thoát được. Giặc Pháp ở Biên Hòa đã tổ chức lùng sục vào các làng tìm bắt các lãnh tụ Trại Lâm Trung. Chúng dùng cả thủ đoạn bắt cha mẹ, vợ con các vị để buộc các ông phải ra hàng.

Do bị bọn tay sai chỉ điểm, tháng 03/1916, các ông cầm đầu Trại Lâm Trung đã sa vào tay giặc Pháp như: Năm Hy, Hai Lựu, Lào Lọt, Hai Sở, Ba Vạn, Bảy Phát, Hai Danh, Hai Hầu... Khoảng tháng 06/1916, thực dân Pháp đã xử bắn 9 người lãnh đạo Trại Lâm Trung tại ngã ba Dốc Sỏi (xóm Bình Thành), trước sự chứng kiến của hàng trăm bà con xung quanh vùng. Trước cái chết, ông Hương hào Hầu dõng dạc: “Ta sinh làm tướng, chết làm thần, chào bà con ở lại mạnh giỏi”. Anh Hai Sở hiên ngang: “Cứ bắn ta đi ! Sở này không sợ đâu. Cái chết ta thị như quy tân gia”. Thực dân Pháp đưa thi thể 9 lãnh tụ của Trại Lâm Trung chôn chung tại “Cây Gõ cụt” cách nơi hành hình khoảng 50 mét. Năm 1918, nhân dân đã xây dựng một miếu thờ dưới gốc đa ở ngã ba Dốc Sỏi, hàng ngày nhang khói để cầu siêu và tưởng nhớ gương nghĩa liệt của các ông. Đến năm 1920, ngôi miếu chuyển về phía đông và được xây cất lại thành ngôi chùa với tên “Bửu Hưng Tự”, nhưng nhân dân Biên Hòa vẫn thường gọi là “Chùa Cô Hồn”. Những năm trước Cách mạng tháng Tám 1945, một số đảng viên cộng sản ở Biên Hòa đã nhiều lần về chùa Cô Hồn hội họp, bàn bạc công tác vận động quần chúng cướp chính quyền

Bửu Hưng Tự - tại Phường Quang Vinh, Tp.Biên Hòa Nguồn: Internet

Page 17: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

17

tại tỉnh Biên Hòa. “Chùa Cô Hồn” - Bửu Hưng Tự đã được Bộ Văn hóa Thông tin nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam xếp hạng “Di tích quốc gia”.

* Phú Riềng đỏ:

Từ năm 1926 trở đi, tỉnh Biên Hòa cũng như nhiều địa phương khác ở Nam bộ bắt đầu một phong trào yêu nước mang một sắc thái mới. Phong trào đó được soi sáng bởi một đường lối cách mạng tiên tiến: Con đường cách mạng vô sản do Nguyễn Ái Quốc, người con ưu tú, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc ta, tiếp thu và truyền bá vào Việt Nam. Tháng 10 năm 1926, các đồng chí Phan Trọng Bình và Nguyễn Văn Lợi được cử về Sài Gòn xây dựng cơ sở. Năm 1927, Kỳ bộ Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Nam kỳ được thành lập. Năm 1928, thực hiện chủ trương “vô sản hóa”, nhiều hội viên của Kỳ bộ đã đi vào làm phu, làm thợ ở các nhà máy, đồn điền... để tuyên truyền vận động và xây dựng tổ chức cách mạng, đồng thời cũng để tự rèn luyện lập trường giai cấp công nhân.

Tại Biên Hòa, một số đồng chí đã về hoạt động và xây dựng cơ sở ở các đồn điền cao su Phú Riềng, đề pô xe lửa Dĩ An, nhà máy cưa BIF... Một trong số những hội viên tiêu biểu là đồng chí Nguyễn Văn Vĩnh (tức Nguyễn Xuân Cừ) được cử đi “vô sản hóa” ở đồn điền cao su Phú Riềng, Biên Hòa (nay thuộc huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước). Tháng 4/1928, chi bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội đồn điền cao su Phú Riềng

Tượng đài Phú Riềng Đỏ tại huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước Nguồn: Internet

Page 18: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

18

được thành lập gồm 5 hội viên, do Nguyễn Xuân Cừ làm bí thư. Đây là một trong 19 chi bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội ở Nam kỳ lúc bấy giờ. Từ những hạt giống đỏ này, đội ngũ cán bộ, cơ sở cách mạng ở Biên Hòa ngày một tăng thêm. Họ là những nhân cốt tổ chức, vận động đông đảo quần chúng lao động bước vào một thời kỳ đấu tranh mới có sự lãnh đạo của tổ chức cách mạng. Phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh dấy lên ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là phong trào đấu tranh của công nhân ở các đồn điền cao su. Tháng 10/1929, trên cơ sở tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí hội, chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng đồn điền cao su Phú Riềng được thành lập. Chi bộ gồm 6 đảng viên, do đồng chí Nguyễn Xuân Cừ làm bí thư.

Ngày 03/02/1930, tại Cửu Long - Trung Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam và mở đầu một thời kỳ mới, thời kỳ do giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó là Đảng Mác - Lênin lãnh đạo. Ở Biên Hòa, nhiều thanh niên công nhân, trí thức tiến bộ đã nhanh chóng tiếp thu tư tưởng mới, ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Một số sớm giác ngộ cách mạng đã đứng vào hàng ngũ của Đảng, làm người chiến sĩ tiền phong đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Biên Hòa, đặc biệt là phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân diễn ra sôi động trong những tháng đầu năm 1930. Ngay những ngày thành lập Đảng (từ 30/01/1930 đến 06/02/1930) dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, 5.000 công nhân cao su đồn điền Phú Riềng đã nổi dậy đấu tranh với các yêu sách: Đòi thực hiện đúng hợp đồng giao kèo giữa chủ sở với công nhân; cấm đánh đập, cúp phạt; miễn sưu thuế; trả lương thai sản cho nữ công nhân; thực hiện ngày làm 8 giờ, kể cả thời gian đi và về; bồi thường cho công nhân bị tai nạn lao động; ốm đau phải được trị bệnh và được hưởng lương cùng một số kiến nghị khác. Trước khí thế đấu tranh mạnh mẽ và áp lực của đông đảo quần chúng công nhân, giám đốc sở buộc phải chấp nhận các yêu sách. Biên bản được ký tại chỗ giữa đại biểu công nhân và chủ đồn điền. Việc chủ tư bản hạ bút ký “cam kết” thực hiện những kiến nghị của công nhân là một thắng lợi vô cùng to lớn ở đồn điền cao su Phú Riềng từ trước cho đến thời điểm này. Thế nhưng do chưa có kinh nghiệm đấu tranh, quá say sưa với thắng lợi bước đầu, một số cán bộ công đoàn nảy sinh tư tưởng “manh

Page 19: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

19

động”, tiếp tục tổ chức bạo động đấu tranh. Chi bộ Đảng từ chỗ hoạt động bí mật lại chuyển ra hoạt động công khai. Hầu hết các đồng chí đảng viên trong chi bộ và cơ sở cốt cán đều bị địch phát hiện. Sau đó chúng lần lượt bắt hơn 100 người đưa về Biên Hòa giam giữ. Ở nhà lao Biên Hòa, anh em công nhân đã tuyệt thực nhiều ngày, hò hét đấu tranh phản đối nhà cầm quyền thực dân đánh đập, tra tấn dã man công nhân, đòi cải thiện chế độ lao tù, đòi phải có chiếu nằm, nước tắm cho tù nhân... Tên giám đốc đề lao, vốn là tên khét tiếng gian ác, đã phải khiếp phục và giải quyết một số yêu sách của anh em. Trước tòa án Biên Hòa, các đồng chí đảng viên: Trần Tử Bình, Nguyễn Mạnh Hồng, các đồng chí Tạ, Doanh... bằng những phát biểu hùng hồn, lý lẽ sắc bén đã vạch trần sự bóc lột dã man của bọn tư bản thực dân, làm cho các quan tòa Pháp tỏ ra lúng túng, bị động phải vội vàng tuyên án và chuyển vụ án về tòa đại hình ở Sài Gòn. Như vậy, mặc dù có một số tổn thất, cuộc đấu tranh của công nhân cao su Phú Riềng đã giành được thắng lợi. Đây là cuộc đấu tranh lớn nhất trong số các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam lúc bấy giờ, tạo được tiếng vang trong cả nước. Tiếng vang của “Phú Riềng đỏ” lan nhanh đến các nhà máy, xí nghiệp, đồn điền, tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh của công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động ở Biên Hòa và miền Đông Nam bộ.

* Chi bộ Bình Phước - Tân Triều và Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa:

Trước sự phát triển của phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo trong những tháng đầu năm 1930, thực dân Pháp và tay sai đã tập trung mọi lực lượng khủng bố, đàn áp khốc liệt. Chúng thẳng tay tàn sát những chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước. Từ tháng 10/1930, nhiều cơ sở Đảng ở Nam kỳ bị phá vỡ, nhiều đảng viên ưu tú bị giặc giết hại, tù đày.

Công nhân cao su nổi dậy bị bắt giữ Nguồn: Internet

Page 20: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

20

Phong trào cách mạng nói chung và phong trào ở Biên Hòa nói riêng bước vào giai đoạn “thoái trào”, tạm thời lắng xuống. Ở Biên Hòa, sau một thời gian tạm lánh đi nơi khác để tránh địch lùng bắt, năm 1933 đồng chí Lưu Văn Viết (Tư Chà) trở về quê hương (quận Châu Thành) tiếp tục xây dựng cơ sở, vận động cách mạng. Đồng chí đã tuyên truyền, giác ngộ và kết nạp một số thanh niên ưu tú vào Đảng như đồng chí Huỳnh Văn Phan, Lưu Văn Văn...

Đầu năm 1935, đồng chí Hoàng Minh Châu (tức Vỹ) quê ở Tiền Giang, được Liên Tỉnh ủy miền Đông cử về hoạt động ở Biên Hòa. Đồng chí xin vào làm thợ ở nhà máy cơ khí Trường Tiền (tỉnh lỵ Biên Hòa). Từ đây, đồng chí đã bước đầu xây dựng được một số cơ sở trong nhà máy, đồng thời thăm dò liên lạc với nhóm cơ sở Đảng do đồng chí Lưu Văn Viết tổ chức xây dựng trước đó. Sau khi đã móc nối và thống nhất lại với nhau, đồng chí Hoàng Minh Châu đã vận động thành lập chi bộ Đảng lấy tên là chi bộ Bình Phước - Tân Triều (vì phần lớn đảng viên quê ở hai xã này). Chi bộ do đồng chí Hoàng Minh Châu làm bí thư, Huỳnh Văn Phan làm phó bí thư. Các đảng viên gồm: Lưu Văn Viết, Lưu Văn Văn, Quách Sanh, Trần Minh Triết... Sau đó, một số thanh niên ưu tú được tiếp tục kết nạp Đảng như các đồng chí: Phạm Văn Thuận, Huỳnh Dân Sanh, Huỳnh Văn Lũy... Sự ra đời của chi bộ Bình Phước - Tân Triều và các cơ sở của Đảng giữa năm 1935 đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng, một bước phát triển mới của phong trào cách mạng tỉnh Biên Hòa. Đây là

Tác giả chụp ảnh tại Di tích Lịch sử Địa điểm thành lập Chi bộ Bình Phước - Tân Triều và Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa

Page 21: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

21

chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên đã được thành lập trên địa bàn tỉnh Biên Hòa (tỉnh Đồng Nai hiện nay), là hạt nhân lãnh đạo phong trào cách mạng ở địa phương và là nòng cốt để hình thành tổ chức Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa sau này. Từ giữa năm 1936, trong phong trào mặt trận Dân chủ Đông Dương, phong trào cách mạng ở Biên Hòa phát triển lại ngày càng mạnh mẽ.

Tháng 8/1939, Ủy ban trù bị Đông Dương đại hội được thành lập tại Sài Gòn và các ủy ban hành động của các tỉnh ở Nam kỳ cũng nhanh chóng được tổ chức. Xứ ủy Nam kỳ và ủy ban trù bị Đông Dương đại hội cử các đồng chí Dương Bạch Mai và Nguyễn Văn Nghĩa về Biên Hòa trực tiếp tổ chức và chỉ đạo phong trào cách mạng ở địa phương. Trở về Biên Hòa, quê hương của mình, đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa đã móc nối liên lạc ngay với các đảng viên trong chi bộ Bình Phước - Tân Triều và một số đồng chí thân quen như: Huỳnh Văn Lũy, Nguyễn Văn Ký, Phạm Văn Khoai, Phạm Văn Thuận, Hồ Văn Đại, Lưu Văn Văn... để tổ chức vận động cách mạng. Ủy ban hành động tỉnh Biên Hòa được thành lập, do đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa làm chủ tịch. Ủy ban hành động của các quận: Châu Thành, Xuân Lộc, Tân Uyên, Long Thành cũng được tổ chức và hoạt động công khai, thu hút đông đảo các tầng lớp dân chúng tham gia, nhất là giới nhân sĩ, trí thức, thanh niên, học sinh và công nhân. Nhiều cuộc mít tinh, tuần hành được tổ chức khắp nơi, hàng vạn truyền đơn, tài liệu của Đảng được phát hành rộng rãi trong nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào đòi dân sinh dân chủ của các tầng lớp nhân dân lao động ở Biên Hòa nổ ra liên tục, mạnh mẽ, nhất là phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, điểm tập trung sôi động là nhà máy cưa BIF, ga xe lửa Biên Hòa và các đồn điền cao su ở Xuân Lộc. Cuối năm 1946, Liên Tỉnh ủy miền Đông cử đồng chí Trương Văn Bang (Ba Bang) nguyên bí thư Xứ ủy Nam kỳ giai đoạn 1933-1935 và đồng chí Cao Hồng Lĩnh về Biên Hòa hoạt động, trực tiếp tổ chức, vận động thành lập Ban cán sự Đảng tỉnh Biên Hòa và xây dựng tổ chức một số chi bộ Đảng ở các cơ sở địa phương trong tỉnh.

Đầu năm 1937, Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa được thành lập do đồng chí Trương Văn Bang trực tiếp làm bí thư. Các đồng chí Tỉnh ủy khác gồm có: Trần Minh Triết, Huỳnh Văn Phan, Lê Văn Tôn, Huỳnh Liễng, Nguyễn Hồng Kỳ. Nhiều đồng chí đảng viên ở các nơi khác cũng lần lượt về Biên Hòa móc nối

Page 22: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

22

liên lạc hoạt động, tổ chức các chi bộ Đảng cơ sở. Công tác xây dựng Đảng từ đây có những bước phát triển mới, một số chi bộ được thành lập. Tại nhà máy cưa BIF, có hai chi bộ Đảng được thành lập là chi bộ khối nhà máy và chi bộ khối lao động đơn giản, mỗi chi bộ có 3 đảng viên. Ở xã Bửu Long cũng hình thành một chi bộ. Hai xã Tân Phong và Bình Ý, chi bộ liên xã cũng được thành lập trong thời kỳ này.

Ở quận Xuân Lộc, đến tháng 02/1937, thành lập được một chi bộ do đồng chí Nguyễn Văn Lắm (Ba Nghệ) công nhân cao su làm bí thư. Một số sở cao su dọc liên tỉnh lộ số 2 (Xuân Lộc - Bà Rịa) cũng tổ chức được chi bộ Đảng như: đồn điền Cuộc-tơ-nay (Cẩm Mỹ). Ngoài ra, Tỉnh ủy còn chỉ đạo thành lập các tổ chức bí mật, hợp pháp, bán hợp pháp để tập hợp lực lượng, tuyên truyền giác ngộ cách mạng, phát động quần chúng đấu tranh. Tổ chức Công hội đỏ được bí mật xây dựng ở nhà máy cưa BIF, ga xe lửa Biên Hòa, các sở cao su ở Long Thành, Xuân Lộc. Ở các xã Bình Phước, Bình Ý, Bình Thạnh... (quận Châu Thành) một số tiểu tổ Công hội đỏ cũng được thành lập. Phổ biến nhất là các hội ái hữu như: hội chùa, hội miễu, hội đá bóng, hội lân, hội cày, hội cấy được tổ chức ở nhiều nơi, thu hút hàng vạn người tham gia. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa, phong trào đấu tranh cách mạng của các tầng lớp nhân dân tiếp tục diễn ra sôi nổi trong các năm 1937, 1938,1939. Qua phong trào đấu tranh cách mạng, nhiều công nhân, nông dân, thanh niên, trí thức ưu tú được kết nạp vào Đảng, trở thành những nhân tố cốt cán trong việc tuyên truyền, vận động phát triển phong trào cách mạng ở các địa phương trong tỉnh.

Sự ra đời của Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa và những thành quả đã giành được trong cao trào cách mạng giai đoạn 1936-1939 của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Biên Hòa, đánh dấu một bước phát triển quan trọng, tạo cơ sở vững chắc cho phong trào dấu tranh cách mạng trong những năm kế tiếp, nhất là cao trào Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám 1945.

* Cách mạng tháng Tám 1945 ở Biên Hòa:

Ngày 09/3/1945, phát xít Nhật đảo chánh thực dân Pháp để độc chiếm Đông Dương. Ở Biên Hòa, ngay sáng ngày 10/3/1945, bộ máy thống trị của thực dân Pháp lọt vào tay phát xít Nhật.

Page 23: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

23

Tháng 5/1945, dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam kỳ, tổ chức thanh niên Tiền phong được thành lập tại Sài Gòn, do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, đảng viên Đảng Cộng sản làm thủ lĩnh. Ở Biên Hòa, tổ chức Thanh niên Tiền Phong do Huỳnh Thiện Nghệ làm thủ lĩnh, đã phát triển nhanh chóng từ tỉnh đến cơ sở làng, xã xí nghiệp, đồn điền cao su, nhà máy. Cũng trong tháng 5/1945, tại ấp Vĩnh Cửu, xã Tam Hiệp, quận Châu Thành, Biên Hòa, Liên Tỉnh ủy miền Đông triệu tập cuộc họp cán bộ Đảng toàn miền Đông để phổ biến chủ trương của Trung ương về tình hình nhiệm vụ mới, trọng tâm là vấn đề chuẩn bị lực lượng để tham gia cuộc tổng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc.

Tiếp đó, tháng 7/1945 tại chùa Tân Mai, quận Châu Thành, đồng chí Hà Huy Giáp đại diện Xứ ủy Nam kỳ đã họp với các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Biên Hòa để phổ biến chủ trương của Xứ ủy là gấp rút xây dựng phát triển lực lượng cách mạng. Hội nghị nhấn mạnh việc khẩn trương phát triển các tổ chức đoàn thể Việt Minh, nắm chắc lực lượng Thanh niên Tiền phong, chuẩn bị phát động quần chúng nhân dân trong toàn tỉnh nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền.

Ngày 15/8/1945, Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện. Tin Nhật đầu hàng lan truyền nhanh chóng. Bọn sĩ quan và binh lính Nhật ở Biên Hòa hoang mang, rệu rã. Ngọn lửa cách mạng bùng lên mạnh mẽ. Bầu không khí tiền khởi nghĩa sôi động khắp thành thị và nông thôn. Ngày cũng như đêm, trên khắp các nẻo đường, xóm ấp ở Biên Hòa rộn rã tiếng hát, lời ca cách mạng. Những ca khúc “Tiếng hát thanh niên”, “Bạch Đằng giang”, “Chi Lăng” giục giã lòng người, bừng bừng khí thế vùng dậy đấu tranh để cởi bỏ gông xiềng nô lệ.

Ngày 19/8/1945, cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội đã giành được thắng lợi rực rỡ. Ngày 20/8, Xứ ủy Nam kỳ họp hội nghị tại Chợ Đệm để phổ biến kế hoạch khởi nghĩa ở Nam bộ. 03/8/1945, tại căn nhà số 2 dãy phố Sáu Sử, xã Bình Trước, quận Châu Thành, Biên Hòa, đồng chí Hoàng Minh Châu chủ trì cuộc họp với các đồng chí cán bộ trong tỉnh để bàn kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền, trọng điểm là tỉnh lỵ Biên Hòa.

Page 24: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

24

Ngay trong đêm 23 rạng sáng ngày 24/8/1945, trong nội thành thị xã Biên Hòa, nhân dân đã treo cờ đỏ sao vàng, cờ búa liềm, cờ vàng sao đỏ (cờ Thanh niên Tiền phong), dán khẩu hiệu khắp các phố thị... Trụ sở ủy ban khởi nghĩa đặt gần ga xe lửa Biên Hòa luôn tấp nập các đoàn cán bộ ở các địa phương về nhận chỉ thị khởi nghĩa. Lúc này, hầu hết các tầng lớp nhân dân đều sục sôi cách mạng, tinh thần quyết tâm giành độc lập dâng cao hơn bao giờ hết. Sáng sớm ngày 24/8, dưới sự lãnh đạo của chi bộ nhà máy cưa BIF, chi bộ ga xe lửa Biên Hòa, công nhân và nhân dân các ấp Tân Mai, Lân Thành, Vĩnh Thị đã nổi dậy làm chủ các cơ sở trên, đồng thời lập lực lượng xung kích làm lực lượng nòng cốt cho cuộc khởi nghĩa ở Biên Hòa. Đêm 24/8, tại rạp hát Trần Điển (thị xã Biên Hòa), một cuộc mít tinh lớn được tổ chức với hàng trăm quần chúng tham gia. Các đồng chí trong Ủy ban khởi nghĩa đã diễn thuyết, kêu gọi đồng bào tham gia Mặt trận Việt Minh, tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền. Suốt đêm 24/8, lực lượng Thanh niên xung kích rầm rập đi tuần tra trên các đường phố thị xã. Lực lượng cách mạng đã làm chủ nội thành và ngoại thành Biên Hòa.

Sáng sớm ngày 26/8/1945, đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa đã tập họp hàng trăm quần chúng tiến thẳng vào Tòa bố Biên Hòa, treo lá cờ đỏ sao vàng đầu tiên tại dinh tỉnh trưởng. Đông đảo đồng bào tập trung trước Tòa bố reo hò vang dậy. Đến 11 giờ trưa cùng ngày, các đồng chí Hoàng Minh Châu, Huỳnh Văn Hớn và một số đồng chí trong Ủy ban khởi nghĩa tiếp tục đến Tòa bố buộc tỉnh trưởng Nguyễn Văn Quý cùng các viên chức đứng đầu các công sở trong tỉnh bàn giao chính quyền cho cách mạng. Ngay chiều hôm đó (14 giờ), lực lượng cách mạng đã bắt giữ tên cò Phước - chỉ huy lực lượng cảnh sát tỉnh Biên Hòa, tịch thu 40 khẩu súng các loại của bọn lính mã tà tại cửa tiền (khám lớn). Lực lượng xung kích nhanh chóng chiếm lĩnh, tiếp quản các cơ quan, công sở còn lại ở quận Châu Thành.

Sáng sớm ngày 27/8/1945, tại quảng trường Sông Phố, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức. Gần một vạn người từ khắp các huyện về tham dự. Sau lễ chào quốc kỳ, đồng chí Dương Bạch Mai, cán bộ Xứ ủy Nam kỳ đại diện Mặt trận Việt Minh ở Nam bộ, diễn thuyết được quần chúng nhiệt liệt hoan nghênh. Tiếp đó, đồng chí Hoàng Minh Châu, Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa, đọc diễn văn

Page 25: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

25

tuyên bố chính quyền về tay nhân dân và công bố thành phần Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Biên Hòa, gồm các đồng chí:

+ Hoàng Minh Châu, Chủ tịch.

+ Huỳnh Văn Hớn, Phó chủ tịch kiêm Trưởng ban tuyên truyền.

+ Nguyễn Văn Long, phụ trách Cảnh sát.

+ Ngô Hà Thành, Ủy viên phụ trách Quốc gia tự vệ cuộc.

+ Nguyễn Văn Tàng, Ủy viên phụ trách Ban quản trị tài sản quốc gia tỉnh.

Kết thúc cuộc mít tinh là lễ tuyên thệ, gần một vạn người thay mặt cho hơn 15 vạn đồng bào trong tỉnh đã long trọng đưa cao nắm tay thề sẵn sàng hy sinh tính mạng, tài sản, kiên quyết bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc, bảo vệ những thành quả của cách mạng vừa giành được. Đến 12 giờ trưa, cuộc mít tinh kết thúc. Quần chúng phấn khởi hô vang các khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Việt Minh muôn năm”... tiếp tục diễu hành tỏa về các địa phương biểu dương lực lượng. Tỉnh Biên Hòa từ thị xã đến nông thôn, nhà máy, đồn điền thực sự là ngày hội lớn. Khắp các nẻo đường, đâu đâu cũng sôi động cả một rừng người và cả một rừng cờ, ai ai cũng hân hoan cảm động đến trào nước mắt.

Sau khi giành chính quyền ở tỉnh, chính quyền ở các quận, xã còn lại ở các quận Châu Thành, Xuân Lộc, Tân Uyên cũng nhanh chóng về tay nhân dân

Tác giả chụp ảnh tại di tích, địa điểm lịch sử Quảng Trường Sông Phố ngày nay

Page 26: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

26

vài ngày sau đó. Từ thân phận nô lệ lầm than, nhân dân tỉnh Biên Hòa dưới sự lãnh đạo của Đảng đã cùng cả nước vùng dậy, đập tan bộ máy thống trị của thực dân, giành lấy độc lập tự do cho Tổ quốc. Phấn khởi tự hào trước thắng lợi giành được, Đảng bộ và nhân dân Biên Hòa đã đoàn kết một lòng, khắc phục những khó khăn trở ngại, tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.

3. Kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai (1945 - 1954)

* Trại huấn luyện du kích Vĩnh Cửu:

Tháng 9/1945, Tỉnh ủy Biên Hòa đã thành lập trường huấn luyện cán bộ quân sự đầu tiên ở Miền Đông, bấy giờ gọi là trại Du kích Vĩnh Cửu. Lãnh đạo tổ chức trại gồm: Phan Đình Công - Thường vụ Tỉnh ủy Biên Hòa phụ trách quân sự, Nguyễn Xuân Diệu, Nguyễn Trí Định, giáo sư Phạm Thiều, Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Đình Ưu, Huỳnh Văn Hớn Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Biên Hòa. Địa điểm được chọn để mở trường huấn luyện là ấp Vĩnh Cửu thuộc xã Tam Hiệp, quận Châu Thành, Biên Hòa (nay là phường Tam Hòa, thành phố Biên Hòa). Ấp Vĩnh Cửu chỉ cách thành phố Biên Hòa khoảng 06 km theo đường kiểm đất đỏ, ra quốc lộ 15 chỉ 800 mét. Vĩnh Cửu (lúc này) có địa hình rừng chồi, rừng già chỉ cách 02 km, trong ấp có khoảng vài chục căn nhà lợp lá của dân. Ngày 26/9/1945, trại mở khóa học đầu tiên. Trường không chỉ tập hợp thanh niên ưu tú ở các địa phương trong tỉnh, mà còn thu hút nhiều tổ chức, cá nhân từ các địa phương khác.

Tháng 10/1945, quân Nhật ở Biên Hòa theo lệnh Đồng Minh lùng sục vào Vĩnh Cửu, Ban chỉ huy trại quyết định chuyển trường về bên kia quốc lộ 15, đóng ở đồi An Hảo, trong một ngôi biệt thự của chủ xí nghiệp gạch ngói người Pháp. Nhưng 5 ngày sau, trường lại dời về đình Bình Đa. Đình Bình Đa vừa là trung tâm chỉ huy của trường, vừa là hội trường để lên lớp cho các học viên. Khi trường dời về đình Bình Đa, chính là lúc đoàn quân Nam tiến do đồng chí Nam Long chỉ huy vào đến Biên Hòa. Trường được tăng cường thêm một số giảng viên quân sự, chính trị đã tốt nghiệp trường Quân chính Việt Bắc như: Đỗ Hy Vọng, Mạnh Liên, Quang Phục... Trường đã mở được hai khóa huấn luyện, mỗi khóa 15 ngày. Tuy thời gian huấn luyện ngắn nhưng những chiến sĩ tốt nghiệp tại trường du kích Vĩnh Cửu vừa biết chiến đấu, chỉ huy chiến đấu, quản lý đơn

Page 27: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

27

vị, biết làm công tác chính trị, binh vận, dân vận... Đó chính là những cán bộ quân đội kiểu mới. Hầu hết các học viên sau này đều là những cán bộ nòng cốt xây dựng lực lượng vũ trang ở các tỉnh miền Đông Nam bộ. Ngoài huấn luyện quân sự, chính trị, tăng cường cán bộ cho các địa phương, trường còn phối hợp với lực lượng quân Nam tiến đánh chiếm cầu Bình Lợi, ngăn chận quân Pháp mở rộng lấn chiếm ra ngoài Sài Gòn (20/10/1945).

Ngày 25/10/1945, quân Pháp đánh chiếm tỉnh lỵ Biên Hòa, một lần nữa, trường phải chuyển về khu vực Suối Linh (Vĩnh Cửu). Trường chỉ ở Suối Linh vài ngày, sau đó để có thể tiếp tục huấn luyện lâu dài, Ban chỉ huy quyết định đưa trường về Tân Tịch (Tân Uyên). Hơn hai tháng thành lập, huấn luyện, trại Du kích Vĩnh Cửu, trường quân chính đầu tiên của Biên Hòa và Miền Đông đã đào tạo trên 100 cán bộ quân sự, chính trị. Đây là lực lượng nòng cốt để phát động phong trào du kích ở Biên Hòa và một số tỉnh Miền Đông. Đây cũng là những cán bộ quân đội nòng cốt của nhiều đơn vị vũ trang như chi đội 10, trung đoàn 310 Biên Hòa, chi đội 16, trung đoàn 307 Bà Rịa, trung đoàn 812 Bình Thuận... Trường huấn luyện du kích Vĩnh Cửu, Bình Đa, chính là tiền thân của trường Quân chính Quân khu 7 trong kháng chiến chống Pháp.

Thực chất trại Vĩnh Cửu, trại huấn luyện du kích Vĩnh Cửu là một tổ chức quân sự tập trung có quân số khá đông (4 phân đội 100 người), có tổ chức chỉ huy. Đó là một đội quân có quy củ, được trang bị mạnh ngay từ những ngày đầu kháng chiến, có sự lãnh đạo của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh. Trại là một trong những lực lượng quan trọng hợp thành chi đội 10 Biên Hòa sau này.

* Trận tập kích đầu tiên vào tỉnh lỵ Biên Hòa (02/01/1946):

Nhân dân Biên Hòa chỉ được hưởng độc lập từ ngày 26/8/1945 đến ngày 24/10/1945, tức chỉ được 1 tháng 28 ngày. Trong gần hai tháng đó, Tỉnh ủy lâm thời mới được thành lập (qua hội nghị Bình Trước), chính quyền mới ra đời còn rất non trẻ, vừa phải lo ổn định đời sống, sản xuất cho dân, vừa tích cực xây dựng lực lượng vũ trang, sẵn sàng chống thực dân Pháp trở lại cướp nước ta lần thứ hai như lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, bằng bất cứ giá nào cũng phải giữ lấy độc lập tự do.

Page 28: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

28

Thực dân Pháp âm mưu xâm lược lại nước ta lần nữa khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Lợi dụng danh nghĩa Đồng Minh, tháng 8/1945 quân Pháp theo chân quân Anh đổ bộ vào Sài Gòn và liên tục gây hấn. Rạng sáng ngày 23/9/1945, quân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn. Cuộc kháng chiến ở Nam bộ đã bùng nổ. Lời kêu gọi kháng chiến của Xứ ủy, Ủy ban Kháng chiến Nam bộ đã thể hiện rõ quyết tâm của toàn dân ta nói chung và nhân dân Nam bộ nói riêng “Hỡi đồng bào! Từ giờ phút này, nhiệm vụ của chúng ta là tiêu diệt giặc Pháp, tiêu diệt tay sai của chúng. Hỡi anh em binh sĩ, dân quân tự vệ ! Hãy nắm chặt vũ khí trong tay, xông lên đánh đuổi thực dân Pháp cứu nước”.

Cuối tháng 10/1945, Pháp phá vỡ vòng vây ở Sài Gòn. Và mục tiêu lấn chiếm kế tiếp là Biên Hòa, tỉnh có vị trí quan trọng để mở đường chiếm các tỉnh miền Đông Nam bộ, ra cực Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Trước đó, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Biên Hòa một mặt xây dựng lực lượng vũ trang, đưa lực lượng vũ trang Kinh - Thượng xuống cùng nhân dân Sài Gòn Gia Định chống Pháp; vừa phát động vườn không nhà trống, phát lệnh toàn dân “tiêu thổ kháng chiến”. Các cơ quan lãnh đạo và các đoàn thể đều rút ra vùng căn cứ Tân Uyên và vùng ven thị xã, xây dựng căn cứ du kích như Bình Đa, Hố Cạn (Tân Phong).

Ngày 24/10/1945, thực dân Pháp với quân Anh hỗ trợ đánh chiếm tỉnh lỵ Biên Hòa. Chúng đưa quân trấn giữ các đầu mối giao thông, chiếm thành Săng Đá, chiếm đóng các công sở như Tòa bố, bưu điện, kho bạc, tòa án... bắt tay xây dựng lại bộ máy chính quyền tay sai ở tỉnh lỵ và thị xã. Tuy nhiên, phạm vi chiếm đóng của thực dân Pháp đến cuối tháng 12/1945 vẫn là khu vực xã Bình Trước, giới hạn bởi các con đường 16 (đi Tân Uyên), đường 24 (đi Vĩnh Cửu), quốc lộ 1 (về Sài Gòn), đường 15 (đi Long Thành). Các ấp ven thị xã như Lân Thị, Gò Me, Vĩnh Thị, Núi Đất..., các xã ven như Hiệp Hòa, Tân Vạn, Tam Hiệp, Tân Phong..., các đội du kích, tự vệ chiến đấu và xung phong cảm tử Châu Thành vẫn liên tục hoạt động, đột nhập thị xã và các xã ven, các xã dọc lộ 1, 15 diệt tề trừ gian, gây cho địch nhiều thiệt hại về người. Trong lúc đó, tại Biên Hòa, từ cuối tháng 10/1945, nhiều lực lượng vũ trang đã về đứng chân: Liên chi 2-3 Bình Xuyên ở hướng Rừng Sác, Vệ quốc đoàn Biên Hòa (bộ đội Huỳnh Văn Nghệ) ở Tân Uyên và Châu Thành; Xung phong cảm tử quận Châu Thành ở Bình Thảo (Bình Phước); Vệ quốc đoàn Châu Thành ở Thiện Tân, Vệ quốc đoàn

Page 29: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

29

Long Thành, lực lượng trường du kích Vĩnh Cửu; quân Nam tiến ở Xuân Lộc. Và đến tháng 12/1945, chiến khu 7 thành lập do Nguyễn Bình làm Tư lệnh, lực lượng vũ trang miền Đông từng bước có sự chỉ huy và lãnh đạo thống nhất. Thị xã Biên Hòa lúc này được thực dân Pháp xây dựng, tổ chức thành một trung tâm chỉ huy đánh phá phong trào cách mạng ở miền Đông với nhiều cơ quan quân sự quan trọng. Cơ quan tuyên truyền của địch không ngớt ca ngợi “thành quả” lấn chiếm, mở rộng của Pháp nằm trong chiến lược “đánh nhanh, chiếm nhanh và bình định nhanh” Nam bộ.

Để đập tan luận điệu tuyên truyền của thực dân Pháp, khẳng định sự tồn tại và phát triển của lực lượng kháng chiến ở miền Đông, cổ vũ tinh thần kháng chiến của nhân dân, Tư lệnh chiến khu 7 Nguyễn Bình quyết định tổ chức trận tập kích đầu tiên vào tỉnh lỵ Biên Hòa. Đây là một chủ trương táo bạo và cần thiết. Công tác trinh sát, nghiên cứu địch trong thị xã được giao cho Vệ quốc đoàn Biên Hòa. Phân đội 4 do Nguyễn Chức Sắc chỉ huy. Phân đội trưởng phân đội 5 là Lê Thoa cùng các chiến sĩ công tác thành nhiều lần hóa trang, bí mật lọt vào nội ô tỉnh lỵ để nghiên cứu các mục tiêu, lên sơ đồ các điểm đóng quân của Pháp, các công sở của địch, trọng điểm là thành Săng Đá, sở hiến binh, bưu điện, nhà ga Biên Hòa, cầu Gành, hãng dầu... Các lực lượng tham gia cuộc tập kích bao gồm: Vệ quốc đoàn Biên Hòa, Vệ quốc đoàn quận Châu Thành, liên quân Hóc Môn - Gia Định, liên chi 2-3 Bình Xuyên. Cuối tháng 12/1945, công tác tổ chức và phương án tiến công đã được thông qua. Các lực lượng vũ trang đã được điều về áp sát thị xã trên các hướng Hóa An, Tân Phong, Bình Đa... Thời gian được chọn là sau ngày tết dương lịch, ngày địch ít phòng bị nhất. Đêm ngày 01 rạng sáng ngày 02/01/1946, các lực lượng nổ súng tiến công vào thành Săng Đá, các tua gác ở đầu cầu Gành, nhà máy cưa BIF, các công sở của địch trong tỉnh lỵ Biên Hòa, nhà ga Biên Hòa.

Tiếng súng của các lực lượng kháng chiến trong nội ô tỉnh lỵ Biên Hòa như đánh thức ngay lòng người dân đang bị địch kìm kẹp trong nội ô. Thực dân Pháp hoàn toàn bị bất ngờ. Chúng không thể tin rằng quân kháng chiến ở Biên Hòa lại có khả năng tập hợp, di chuyển nhanh chóng sau khi rút khỏi thị xã. Đồng chí Nguyễn Văn Quãng (Năm Phòng), chiến sĩ phân đội 4 nhớ lại khung cảnh trận đánh như sau: “Khắp bầu trời thị xã như sôi lên ùng ục pha lẫn sấm

Page 30: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

30

sét. Lửa cháy sáng rực. Súng nổ rền trời. Lựu đạn đệm theo tiếng nổ ùng ình như pháo đại. Những nơi ta định đến đều đến được, trừ một số hầm nhà cố thủ của bọn địch. Ta kiểm soát gần hết thị xã. Gần sáng, quân ta rút về. Khói đen còn dựng cột giữa lòng thị xã. Tiếng súng còn lại lác đác nổ. Một đám tù binh Việt gian được trói dẫn lếch thếch theo đoàn quân...”.

Trận đánh vào tỉnh lỵ Biên Hòa đêm 01 rạng sáng 02/01/1946 là trận đột kích đầu tiên của Vệ quốc đoàn Biên Hòa có sự phối hợp của nhiều lực lượng vào một đô thị ở Nam bộ khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai. Tuy không chiếm giữ được một mục tiêu nào trong thị xã, nhưng trận đánh đã gây tiếng vang rất lớn. Đứng về mặt chiến lược, lời tuyên truyền là đã “bình định xong Nam kỳ” của thực dân Pháp hoàn toàn bị đập tan. Lực lượng vũ trang Biên Hòa, miền Đông tuy mới thành lập, nhưng có đủ khả năng đánh hợp đồng khá xuất sắc. Và điểm quan trọng hơn là “Tiếng súng Biên Hòa” có sức cổ vũ, động viên rất lớn tinh thần kháng chiến của nhân dân Miền Đông, nhất là nhân dân trong vùng địch còn kiểm soát, kêu gọi được các tầng lớp nhân dân yêu nước từ mọi nơi về Biên Hòa, về chiến khu Đ tham gia kháng chiến.

* Trận La Ngà (01/3/1948):

La Ngà là tên một dòng sông, một chi lưu của sông Đồng Nai, mà Pháp ghi tên trên bản đồ là Lagna, cũng là một địa danh đã đi vào lịch sử dân tộc và lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt từ cầu La Ngà lên Định Quán, ngày 01/3/1948, chi đội 10 Biên Hòa đã đánh trận giao thông La Ngà thắng lợi. Chi đội 10 là lực lượng vũ trang của tỉnh Biên Hòa, thành lập vào tháng 6/1946. Đơn vị có 1.100 quân với 3 đại đội A, B, C hoạt động ở các huyện Tân Uyên, Châu Thành, Xuân Lộc và Long Thành. Từ tháng 4/1947 đến tháng 7/1947, Chi đội 10 đã tổ chức một loạt trận đánh giao thông

Tượng đài chiến thắng La Ngà tại Định Quán, Đồng Nai

Page 31: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

31

đường sắt Biên Hòa - Nha Trang thu nhiều thắng lợi như: Gia Huynh, Trảng Táo, Bảo Chánh 1,2, Bàu Cá. Tháng 12/1947, chi đội đánh trận giao thông Đồng Xoài trên quốc lộ 14. Tháng 02/1948, chi đội đánh bại trận càn của thực dân Pháp vào chiến khu Đ. Một loạt trận đánh vũ trang thắng lợi cho thấy đơn vị đã trưởng thành cả về chỉ huy, chiến đấu, có đủ khả năng thực hiện những trận đánh tập trung có quy mô lớn.

Đầu tháng 2/1948, Ban chỉ huy Chi đội 10 nhận được tin quân báo (Bùi Trọng Nghĩa, Trưởng chi quân báo chi đội) từ nội thành cho hay cuối tháng 2 hoặc đầu tháng 3, thực dân Pháp sẽ tổ chức một cuộc hội nghị quân chính ở Đà Lạt. Một đoàn công voa sẽ hộ tống các sĩ quan, công chức cao cấp của thực dân và ngụy quyền tay sai từ Sài Gòn đi dự hội nghị Đà Lạt. Cân nhắc khá kỹ các điều kiện cần thiết, Ban chỉ huy chi đội quyết định tổ chức trận phục kích giao thông trên quốc lộ 20 để đánh đoàn công voa này. Huỳnh Văn Nghệ, Chi đội trưởng chi đội 10 được đề bạt Khu bộ phó Khu 7. Toàn bộ kế hoạch tổ chức, chỉ huy trận đánh do Nguyễn Văn Lung, Chi đội phó đảm trách. Tổ chức một trận đánh tập trung toàn chi đội (tương đương một trung đoàn), trận địa cách căn cứ 80 km đường rừng đặt ra cho Ban chỉ huy nhiều vấn đề: lương thực cho trên 1.000 quân đủ ăn từ 7 đến 10 ngày; Làm thế nào điều được đoàn xe đi theo đúng kế hoạch thời gian của Ban chỉ huy đề ra, để hạn chế sự phản kích bằng máy bay của địch? Làm thế nào đảm bảo bí mật trận đánh, đánh nhanh giải quyết nhanh chiến trường... Vấn đề lương thực chỉ được giải quyết bằng cách dựa vào nhân dân. Ban chỉ huy đã cử một phân đội trinh sát đặc biệt lên Định Quán kết hợp chặt chẽ với Huyện đội, Mặt trận Việt Minh Xuân Lộc đi vận động công nhân ở từng sở cao su, tổ chức kho dự trữ lương thực, thực phẩm cho bộ đội. Tuy đời sống rất khó khăn, nhưng công nhân đã bớt khẩu phần ăn, đóng góp lương thực, đồng bào dân tộc Châu ro, Stiêng cũng tích cực ủng hộ lương thực cho chi đội. Gần một tháng, chi đội đã lập được các kho lương thực đủ theo kế hoạch đề ra. Ban trinh sát Chi đội 10 liên tục bám Quốc lộ 20 theo dõi các đoàn công voa địch đi về Biên Hòa, Đà Lạt, nắm chắc quy luật tổ chức đội hình các đoàn xe, tốc độ, thời gian cũng như khoảng cách từng xe một. Từ quy luật này, Ban chỉ huy quyết định tổ chức trận địa dài 09 km trên Quốc lộ 20 chia làm 3 trận địa A, B, C, đảm bảo chặn đầu, khóa đuôi cả đoàn xe. Trận địa giả được bố trí cách 03

Page 32: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

32

km ở phía đông Quốc lộ 20 với những đống lửa lớn để thu hút lực lượng địch lên tiếp viện bằng không quân. Quốc lộ 20 đoạn từ cây số 104 đến 113 rất khúc khuỷu, trời chiều có sương mù, nếu đánh ban trưa không có lợi bằng đánh vào buổi chiều vì sương mù sẽ hạn chế tầm quan sát của máy bay. Ban chỉ huy đã giao nhiệm vụ cho Huyện đội Châu Thành, Xuân Lộc, bố trí bộ đội, du kích huyện bắn tỉa địch từ ngã ba Dầu Giây, cách trận địa gần 50 km; đốn ngã cây hai bên đường, đào đường, đắp chướng ngại vật để kéo dài thời gian hành quân của địch. Kế hoạch hành quân và tác chiến phải tuyệt đối bí mật, chỉ phổ biến đến cán bộ chỉ huy cấp đại đội. Nhờ thu được nhiều máy vô tuyến của Pháp trong trận chống càn ở chiến khu Đ vào tháng 2/1948, Ban chỉ huy chi đội có điều kiện liên lạc bằng điện đàm thông suốt trên cả ba mặt trận kéo dài 09 km.

Đêm 26/2/1948, Chi đội 10 cùng liên quân 17 của Quân khu 7 hành quân từ Chiến khu Đ lên Quốc lộ 20. Một bộ phận khác từ Xuân Lộc cũng hành quân lên Định Quán. Đêm 28/2, lực lượng đến điểm tập kết và bố trí trên ba trận địa. Sở chỉ huy trận đánh đặt trên đồi 100 ở km 107. Bộ phận hậu cần phục vụ y tế, ăn uống ở tả ngạn sông Đồng Nai cách 06 km. Đồng chí Bùi Cát Vũ, Giám đốc Binh công xưởng và các chiến sĩ quân giới chi đội đã có sáng kiến chôn địa lôi trên đường nhựa, dùng phân voi nghi trang bên trên. Quốc lộ 20 khúc khuỷu, hai bên là rừng, voi thường qua lại, phân voi rừng rất quen mắt với các đoàn công voa, địch ít chú ý.

Sáng 01/3/1948, trên toàn tuyến trận địa, các chiến sĩ Chi đội 10 Biên Hòa đã sẵn sàng chiến đấu trong trạng thái căng thẳng chờ đợi địch. Cùng sáng ngày đó, đoàn công voa 70 chiếc của Pháp có xe thiết giáp đi đầu khởi hành từ Sài

Xác xe quân Pháp bị hỏng nặng trong trận La Ngà (ảnh tư liệu)

Page 33: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

33

Gòn. Khi đến Hố Nai, du kích quận Châu Thành bắt đầu hoạt động, bắn tỉa, quấy rối, ngã cây ra đường... Đoàn xe địch phải thường xuyên dừng lại để lính hộ tống dọn đường, rà mìn, bắn trả lại du kích. Tinh thần địch hết sức căng thẳng, mỏi mệt. Quá 12 giờ, đoàn xe địch mới đến được ngã ba Dầu Giây rẽ vào Quốc lộ 20. Đến 14 giờ 20 phút, đoàn xe mới đến La Ngà. Trung úy Jeffrey, chỉ huy đại đội bảo vệ đoàn xe liên lạc với bót La Ngà. Tên sếp bót cho hay tình hình không có gì lạ. Jeffrey lại gọi điện cho đại tá Talès Chỉ huy trưởng khu vực Đồng Nai thượng đề nghị cho nghỉ lại hoặc cho thêm quân hộ tống. Talès trả lời dứt khoát: Đây là khu vực đã bình định, đoàn xe cứ đi, vừa đi vừa bắn mạnh vào hai bên đường. Cả đoàn xe lại lăn bánh vào trận địa trong tiếng súng nổ liên tục hai bên đường. Chiến sĩ chi đội 10 vẫn im lặng, kiên nhẫn chờ đợi.

Đúng 15 giờ 02 phút, chiếc thiết giáp đi đầu bị trúng mìn ở trận địa A, tung bổng lên khỏi mặt đất, lao thêm hơn 10 mét rồi bốc cháy, nằm bẹp dí trên đường. Đoàn xe địch phía sau vẫn tiến vào trận địa. 15 giờ 17 phút, mìn ở trận địa C lại nổ khóa đuôi đoàn xe địch. Cả đoàn công voa bị cắt làm ba khúc. Chi đội 10 và liên quân 17 từ các điểm cao dọc lộ xung phong mãnh liệt. Đại liên, trung liên, lựu đạn... của bộ đội làm cháy cả chục xe địch ngay phút đầu. Một số xe còn lại phía sau hốt hoảng quay đầu rút chạy về hướng cầu La Ngà. Đoàn công voa của giặc như con rồng uốn khúc trên Quốc lộ 20, vật vã lồng lộn, oằn oại, bốc cháy ngả nghiêng. Xác quân Pháp ngổn ngang trên xe, dưới đường. Trận đánh diễn ra quyết liệt và nhanh chóng trong vòng 55 phút. 150 lính lê dương bỏ mạng, 25 sĩ quan Pháp bị chết, trong đó có đại tá De Sérigné chỉ huy bán lữ đoàn lê dương thứ 13 của Pháp, đại tá Patrius Phó tham mưu trưởng quân Pháp ở Nam Đông Dương. Trận đánh đã kết thúc mà trên đoạn đường dài 09 km vẫn còn khói lửa ngút trời, tiếng no của đạn, bánh xe thỉnh thoảng lại vang lên giữa núi rừng.

Chiến thắng La Ngà không chỉ thu thắng lợi lớn về quân sự, mà thực tế lời kể của hàng trăm hành khách khi trở về Sài Gòn đã làm các tầng lớp trung lưu, tư sản ở Sài Gòn hiểu được chính nghĩa cách mạng. Từ vùng tạm chiếm ngày càng có nhiều người thoát ly ra khu kháng chiến, giúp đỡ, ủng hộ, tiếp tế cho kháng chiến. La Ngà là chiến thắng giao thông lớn nhất ở Miền Đông bấy giờ; trận đánh đồng thời thể hiện được chính nghĩa và chủ nghĩa nhân đạo của cách

Page 34: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

34

mạng Việt Nam. Trận phục kích tiêu diệt đoàn xe Pháp trên quốc lộ 20 đoạn từ cầu La Ngà đi Định Quán, được gọi tắt là trận La Ngà, một chiến công lớn, một dấu son trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân dân Miền Đông. Trận đánh tiêu diệt được nhiều xe cơ giới, nhiều sinh lực cao cấp, gây tiếng vang lớn trong và ngoài nước. Đối với quân và dân ta đây là một chiến công oanh liệt nhất trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Với thực dân Pháp đây là thất bại cay đắng, gây dư luận xôn xao trong chính giới Pháp. Đối với nhân dân thế giới chiến thắng La Ngà giúp họ hiểu thêm cuộc kháng chiến chính nghĩa, tăng cường ủng hộ nhân dân ta.

* Biên Hòa - cái nôi của cách đánh đặc công:

Bị thất bại ở chiến trường Việt Bắc thu đông năm 1947-1948, thực dân buộc phải chuyển hướng chiến lược từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “bình định Nam bộ”, “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt giết người Việt”. Trên chiến trường Miền Đông và Biên Hòa, tướng De Latour đã cho thực hiện chiến thuật “điểm và đường”. Địch cho xây dựng một hệ thống đồn bót, tháp canh dọc các Quốc lộ 1, 15, 20, Tỉnh lộ 24, 16, nhằm bảo vệ giao thông của chúng, cắt đứt giao thông vận chuyển của kháng chiến. Tháp canh của Pháp gồm hai loại: tháp canh con (tháp nhỏ) cao từ 6 đến 8 mét do 1 bán đội canh giữ; tháp canh lớn (tháp mẹ - tour de la mère) cao từ 10 đến 12 mét do 1 tiểu đội canh giữ. Các tháp canh được xây bằng tường hoặc đá, độ dày từ 0,6-0,8 mét, chia làm ba tầng, tầng trên cùng có nhiều lỗ châu mai. Các tháp canh cách nhau khoảng 300 mét tùy theo địa hình, có cái chỉ cách nhau 100, 150 mét để có thể bắn hỗ trợ lẫn nhau khi bị tấn công. Địa hình xung quanh các tháp canh đều được địch phát trống, ban đêm có đèn soi, do đó việc đến gần tháp canh rất khó. Với độ cao của tháp canh, địch có lợi thế quan sát xa. Tường tháp canh lại dày, lực lượng vũ trang của ta chưa có vũ khí để công phá tường tháp. Địch cho tháp canh là rất an toàn. Dựa vào ưu thế này, thực dân Pháp còn dùng tháp canh như một phương tiện để mở rộng lấn chiếm vùng căn cứ, du kích, lấn chiếm đến đâu địch cho xây tháp canh đến đó. Chiến thuật tháp canh của Pháp còn được gọi là chiến thuật “tằm ăn lá dâu”, “vết dầu loang” hay ‘chiến thuật De Latour”.

Tính đến tháng 6/1949, ở Miền Đông (cả Sài Gòn, Chợ Lớn, Khu 8), địch đã xây dựng được 200 tháp canh. Hệ thống tháp canh của Pháp gây cho ta nhiều

Page 35: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

35

khó khăn, việc di chuyển qua lại trên đường của ta bị địch khống chế. Trên chiến trường miền Đông, theo sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh khu 7, nhiều tỉnh như Thủ Dầu Một, Bà Rịa... đều tổ chức nghiên cứu đánh tháp canh. Có nơi dùng vũ trang kết hợp binh vận; có nơi dùng hỏa công bằng cách dùng bùi nhùi cột vào đuôi trâu đốt cháy rồi lùa vào tháp canh; có nơi đào hào cho nước vào đồn..., nhưng tất cả đều không thành công. Đánh hạ tháp canh trở thành bài toán khó.

Trong lúc đó, đội du kích huyện Tân Uyên do Trần Công An chỉ huy, dựa vào cơ sở nhân dân đã điều nghiên khá kỹ tháp canh cầu Bà Kiên trên tỉnh lộ số 16 và nhận thấy: Muốn đánh được tháp canh phải lọt vào tiếp cận tháp canh, bằng cách lợi dụng sơ hở của địch khi đổi gác, đốt thuốc... Phải hóa trang cho hợp với màu đất xung quanh tháp, mắt không hướng lên khi địch soi đèn. Sử dụng thang để lên tháp canh ném lựu đạn vào lỗ châu mai. Ông chọn một cây độc mộc trong căn cứ, cho vài du kích leo lên cây soi đèn xuống các hướng, bên dưới du kích tập bò vào, rút kinh nghiệm làm lại nhiều lần đến khi người ngồi trên cây không phát hiện được người phía dưới khi đã vào sát tường.

Đêm 18 rạng 19/3/1948, tổ du kích Tân Uyên do Trần Công An, Hồ Văn Lung, Trần Văn Nguyên lên đường đánh tháp canh, vũ khí gồm 1 súng trường, 8 lựu đạn (l của Mỹ, 7 tự tạo) và một chiếc thang cây (dùng để hái trầu, mượn của nhân dân). Cả ba du kích ở trần, dùng bùn non bôi lên người. Các anh vượt qua hàng rào quanh tháp, áp thang vào tường (hai đầu thang có bọc vải để không gây tiếng động ). Cả ba anh đều leo lên thang, dùng lựu đạn đánh vào cả ba tầng

Tháp canh cầu bà Kiên - nơi diễn ra trận đánh đêm 18 rạng ngày 19 tháng 3 năm 1948

Page 36: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

36

tháp canh. Toàn bộ 11 tên lính trong tháp đều bị chết, ta thu 8 súng và 20 lựu đạn. Trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên của du kích Tân Uyên gây tiếng vang lớn. Lần đầu tháp canh Đờ La-tua bị đánh hạ. Với lối đánh bí mật, tiếp cận, lợi dụng sơ hở của địch để tiến công mục tiêu, du kích Tân Uyên, Biên Hòa đã mở ra một cách đánh mới để hạ tháp canh. Cách đánh đó đòi hỏi lòng gan dạ, dũng cảm, trí thông minh, sáng tạo biết khắc phục khó khăn, biết tìm sơ hở của địch mà đánh.

Tháng 11/1949, Bộ Tư lệnh khu 7 mở hội nghị quân sự toàn khu tại Tân Hòa để bàn về chuyên đề đánh tháp canh. Từ kinh nghiệm trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên của du kích Tân Uyên, hội nghị đã rút ra nhiều kinh nghiệm quý để từng bước hoàn thiện kỹ thuật nghiên cứu, tiếp cận mục tiêu, hóa trang và vượt các chướng ngại... Đồng thời Bộ tư lệnh chỉ đạo cho Binh công xưởng nghiên cứu, chế tạo thành công mìn FT có khả năng phá được tường tháp canh. Công tác huấn luyện cách đánh tháp canh được tiến hành tại chiến khu Đ với du kích Tân Uyên làm chiến sĩ mẫu.

Đêm 22/3/1950, ba trăm chiến sĩ, du kích chia làm 50 tổ đánh cùng lúc 50 tháp canh trên các Quốc lộ 1, 16, liên tỉnh 16, 24... Các tháp canh đều bị đánh thủng một lỗ to từ 0,8 mét đến 1,5 mét. Sau trận đánh, Bộ Tư lệnh khu 7 tiếp tục rút kinh nghiệm, chỉ đạo cải tiến vũ khí bằng cách đánh bồi thêm một quả mìn bê-ta khi tường tháp bị đánh thủng. Đêm 19/4/1950, tổ đánh tháp canh của Tân Uyên do Trần Công An chỉ huy với FT và bê-ta, đánh sập hoàn toàn tháp canh cầu Bà Kiên lần thứ hai. Sau đó, tháng 5/1950, tổ lại đánh sập tháp canh Vàm Giá (Quốc lộ 14). Với trận Vàm Giá, kỹ thuật đánh tháp canh đã hoàn thiện.

Hội nghị quân sự Khu 7 năm 1950 đã kết luận cách đánh tháp canh bằng cách tiếp cận mục tiêu, dùng mìn FT+bê-ta là cách đánh đặc công. Ngày 25/5/1950, đại đội Nguyễn Văn Nghĩa được thành lập, được công nhận là đại đội đặc công đầu tiên ở Nam bộ. Kỹ thuật đặc công từ Biên Hòa được phổ biến ra khắp miền Đông, góp phần đánh bại chiến thuật Đờ La-tua của Pháp. Từ 1952, cách đánh đặc công được phổ biến về Miền Tây Nam bộ.... Nhiều trận đánh đặc công đã đạt hiệu suất cao, nhất là đánh vào kho tàng, cơ quan đầu não của địch như đánh kho Phú Thọ, sân bay Gia Lâm, Cát Bi, đánh đồi A1 trong chiến dịch Điện Biên Phủ... Như vậy, từ Biên Hòa, cách đánh đặc công đã ra đời, đó là kết quả của phong trào du kích phát triển cao với tinh thần sáng tạo

Page 37: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

37

trong chiến đấu và chế tạo vũ khí thích hợp. Biên Hòa cũng là nơi xây dựng đơn vị đặc công đầu tiên ở Nam bộ. Ngày 19/3/1948 sau này được lấy làm ngày truyền thống của binh chủng Đặc công.

* Chiến khu Đ anh hùng:

Suốt chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, câu “Chiến khu Đ còn - Sài Gòn mất” là lời đánh giá của kẻ thù với một vùng căn cứ cách mạng ở Biên Hòa, thể hiện rõ vai trò, vị trí và sự lợi hại của căn cứ này với toàn bộ cuộc kháng chiến ở miền Đông và Nam bộ. Khởi phát của căn cứ địa cách mạng Chiến khu Đ là các xã Mỹ Lộc, Tân Hòa, Tân Tịch, Thường Lang, Lạc An của huyện Tân Uyên (nay thuộc tỉnh Bình Dương). Nơi đây từ năm 1940, đã hình thành đội du kích Nam kỳ khởi nghĩa của tỉnh Biên Hòa. Khi cuộc khởi nghĩa thất bại, đội du kích do ông Nguyễn Văn Quỳ (Chín Quỳ) chỉ huy rút vào khu vực rừng Tân Uyên, bảo toàn được lực lượng cho đến khi Cách mạng tháng Tám thành công.

Khi thực dân Pháp chiếm tỉnh lỵ Biên Hòa (25/10/1945), một bộ phận của Ủy ban kháng chiến miền Đông do Huỳnh Văn Nghệ chỉ huy về Tân Tịch, kết hợp cùng đội du kích Nam kỳ khởi nghĩa và trại du kích Vĩnh Cửu, hình thành Vệ quốc đoàn Biên Hòa. Tháng 12/1945, Chiến khu 7 ra đời do Nguyễn Bình làm Tư lệnh về đóng tại Lạc An. Tháng 2/1946, sau hội nghị quân sự khu Đông, Bộ tư lệnh quyết định xây dựng căn cứ địa và đặt tên là Chiến khu Đ (theo thứ tự vùng căn cứ A, B, C, Đ) trung tâm là xã Lạc An. Từ tháng 3/1946, Bộ tư lệnh Khu 7 dời về Đông Thành, Chiến khu Đ trở thành căn cứ địa kháng chiến của tỉnh Biên Hòa. Phạm vi Chiến khu Đ gồm 5 xã, phía

Chiến khu Đ xưa Nguồn: Internet

Page 38: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

38

Nam giáp sông Đồng Nai, phía Bắc giáp sông Bé, phía Tây giáp Tỉnh lộ 16. Chiến khu Đ là nơi đóng cơ quan lãnh đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban Kháng chiến hành chánh tỉnh Biên Hòa, Thủ Biên; các cơ quan Dân, Chính, Đảng của tỉnh, của huyện Tân Uyên; Chi đội 10, Trung đoàn 310, liên trung đoàn 301-310 cùng các cơ quan Binh công xưởng, Quân nhu với một hệ thống sản xuất gồm các nông trường ở Lạc An, vàm Sông Bé, Giáp Lạc... Rừng bao la, dày đặc, nhiều suối với đủ loại cây, trái rừng, củ rừng (củ từ, củ nần, củ mài...), xen kẽ những trảng trống và đủ loại thú rừng từ voi, hổ, báo, bò rừng đến nai, hươu, khỉ, các giống chim, thú bò sát; những bàu Cá, bàu Phụng, bàu Sình... Đó là những quà tặng của thiên nhiên với vùng căn cứ, đảm bảo được một phần nhu cầu lương thực, thực phẩm lúc khó khăn. Rừng chiến khu Đ trải dài từ bắc Biên Hòa đến rừng Tây Nguyên, tạo thành một hành lang nối liền Miền Đông Nam bộ với Liên khu 5 và ra hậu phương lớn. Chiến khu Đ lại chỉ cách Biên Hòa - trung tâm chỉ huy đầu não của địch ở miền Đông, Sài Gòn thủ phủ ngụy quyền Sài Gòn không xa. Bằng đường giao liên bí mật, công khai, các lực lượng kháng chiến xâm nhập vào các thị xã, thị trấn, vùng tạm chiếm, tiến công các cơ quan đầu não, kho tàng của thực dân.

Từ Chiến khu Tân Uyên, đêm 01/01/1946, các lực lượng vũ trang Biên Hòa, Miền Đông tổ chức tiến công đầu tiên vào các công sở, nơi đóng quân của thực dân Pháp trong tỉnh lỵ Biên Hòa. Đòn tiến công bất ngờ này gây tiếng vang lớn ở Nam bộ. Cuộc kháng chiến nơi chiến khu Đ đã làm nên những nhân vật sống mãi với lịch sử: Huỳnh Văn Nghệ, nhà thơ - chiến sĩ; Nguyễn Văn Quỳ - người giữ rừng miền Đông suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp và suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ đến năm 1968. Từ căn cứ địa chiến khu Đ, Chi đội 10 Biên Hòa đã mở hàng loạt trận đánh giao thông đường bộ, đường sắt ngoài căn cứ phối hợp nhịp nhàng với chiến trường chung đánh bại cuộc hành quân của thực dân Pháp đánh vào Chiến khu Việt Bắc thu đông 1947. Đó là các trận Gia Huynh, Trảng Táo, Bảo Chánh, Bàu Cá, Đồng Xoài, nhất là trận giao thông chiến nổi tiếng La Ngà. Chiến khu Đ là nơi sản sinh ra cách đánh đặc công, lực lượng đặc công và phổ biến kỹ thuật tác chiến mới ra cả nước, cơ sở để hình thành binh chủng Đặc công sau này.

Page 39: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

39

Trong kháng chiến 09 năm, Biên Hòa ở phía đông Sài Gòn, là nơi đóng các cơ quan đầu não của địch ở Miền Đông, Chiến khu Đ tồn tại là mối đe dọa lớn cho thực dân Pháp ở Biên Hòa và Sài Gòn. Kẻ thù khiếp sợ Chiến khu Đ chính là vì thế trận “thiên la địa võng” của căn cứ. Làng kháng chiến đã hình thành khắp nơi trong căn cứ với hàng trăm loại cạm bẫy: chông tre, chông đinh, lựu đạn gài, mìn gài, đạp lôi... để đánh bại bao cuộc hành quân càn quét lớn của địch vào căn cứ. Kẻ thù lấn chiếm, phong tỏa, bao vây, đánh phá chiến khu bằng bom đạn, triệt phá kinh tế, biệt kích, gián điệp... hòng tiêu diệt cơ quan đầu não, dự trữ kinh tế kháng chiến nhưng đều bị thất bại, lại hao binh tổn tướng. Trận càn tháng 2/1948 với 2.000 quân của Pháp có hải quân, pháo binh, máy bay yểm trợ đã bị thất bại ê chề. Phương tiện chiến lợi phẩm ta tịch thu của Pháp trong trận này lại góp phần tăng thêm sức mạnh để bộ đội Biên Hòa làm nên chiến thắng La Ngà. Chiến khu Đ trải qua không ít khó khăn, nhất là bão lụt tháng 10 năm Nhâm Thìn 1952. Địch càn quét liên tục 52 ngày đêm vào căn cứ, lực lượng ta chặn đánh gây cho địch thương vong nặng phải rút lui. Ta tuy có khó khăn trong cơn bão lụt nhưng bộ đội đã chủ động tấn công bức rút đồn Rạch Đông, phá sập hệ thống tháp canh của địch ven căn cứ từ Rạch Đông đến Cây Đào. Địch có thể phá hoại một vài cơ sở sản xuất lương thực, hậu cần trong căn cứ nhưng không thể làm chùn bước lực lượng kháng chiến. Đặc biệt, Chiến

Tác giả chụp ảnh tại Chiến Khu Đ

Page 40: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

40

khu Đ lại là nơi thể hiện cao tinh thần và ý chí bám trụ chiến đấu kiên cường của bộ đội Cụ Hồ. Chiến khu Đ là hình ảnh một xã hội mới trong kháng chiến 09 năm. Nơi đây, dân quân đoàn kết một lòng chống giặc. Các phong trào văn hóa như nếp sống mới, xóa mù chữ, bổ túc văn hóa, lao động sản xuất thu hút nhân dân từ các vùng. Cuộc sống mới ở căn cứ đã biến Chiến khu Đ thành biểu tượng của lòng tin vào cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta.

Kết hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ (đông xuân năm 1953-1954), từ Chiến khu Đ, các lực lượng vũ trang chủ lực, địa phương, du kích mở đợt tấn công địch, bao vây, bức rút các đồn bót địch ở Thường Lang, Tân Tịch, Tân Hòa, Mỹ Lộc (huyện Tân Uyên), các đồn bót ven chiến khu như: Phước Hòa, Tân Định, Đại An, Rạch Đông, vây lấn địch mở rộng Chiến khu Đ ra giáp sông Đồng Nai, đường 16 lên giáp Sông Bé. Tại Nhà Nai tháng 8/1954, Tỉnh ủy Thủ Biên tổ chức cuộc mít tinh lớn mừng thắng lợi cuộc kháng chiến. Các lực lượng vũ trang chia tay nhân dân để lên đường tập kết ra Miền Bắc, hẹn hai năm sau gặp lại. Chiến khu Đ đã góp phần hoàn thành nhiệm vụ kháng chiến chống thực dân Pháp. Rừng chiến khu Đ còn đó để chuẩn bị vào cuộc đấu tranh mới.

4. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)

Cuộc kháng chiến chống Mỹ giải phóng dân tộc của nhân dân ta đã kết thúc hơn bốn mươi năm. Trong cuộc chiến đấu này, kẻ thù Mỹ - Ngụy đã dùng mọi thủ đoạn dã man để đánh phá phong trào, sát hại những người con yêu nước ở Miền Nam, trong đó có Biên Hòa - Đồng Nai. Nhưng dù trong những hoàn cảnh đen tối nào, quân dân Biên Hòa - Đồng Nai vẫn giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc, giữ vững ý chí cách mạng và giữ trọn niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng tiền phong. Điều đó đã được thể hiện qua những trận chiến đầy tinh thần anh dũng, quả cảm của quân và dân mảnh đất Biên Hòa - Đồng Nai anh hùng:

* Cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp:

Trong huyền thoại những năm tháng đánh Mỹ, cuộc nổi dậy phá ngục của các chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước ở nhà tù Tân Hiệp, Biên Hòa là một minh chứng hùng hồn về ý chí gang thép, hành động dũng cảm quật cường, quyết chiến đấu và hy sinh vì độc lập và tự do của Tổ quốc. Ngay sau khi hiệp

Page 41: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

41

định Giơ-ne-vơ vừa được ký kết (tháng 07/1954), đế quốc Mỹ đã công khai phá hoại. Chúng thiết lập ngay bộ máy cai trị, lập chính phủ bù nhìn, biến Miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và tiền đồn chống cộng của chúng ở Đông Nam Á. Với sự chỉ đạo của quan thầy, ngụy quyền Ngô Đình Diệm liên tục mở các chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”, mở rộng hệ thống nhà tù để giam cầm, đày ải, truy bức cán bộ, đảng viên và đồng bào yêu nước ở Miền Nam. Hàng trăm, hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ cách mạng bị địch bắt đưa về giam giữ ở các nhà tù khắp Miền Nam, trong đó có nhà tù Tân Hiệp, Biên Hòa. Nhà tù Tân Hiệp được chúng gọi là “Trung tâm huấn chính” Biên Hòa có diện tích 3.600 mét vuông nằm cạnh Quốc lộ 1 (đối diện với Bệnh viện Tâm thần Biên Hòa, thuộc phường Tân Tiến), cách trung tâm thành phố Biên Hòa khoảng 02 km về phía đông. Đây là một trong 6 nhà tù lớn của địch ở Miền Nam lúc bấy giờ. Đến thời điểm tháng 12/1956, số lượng tù nhân bị địch giam giữ ở đây là 1.872 người trong đó có nhiều nhân sĩ trí thức yêu nước nổi tiếng như: Kỹ sư Lê Văn Thả; nhà văn, nhà báo Dương Tử Giang, Trần Ngọc Sơn, Lý Văn Sâm, Nguyễn Văn Mại, Phạm Thị Lạng...

Đến tháng 11/1956, kế hoạch nổi dậy phá khám Tân Hiệp cơ bản đã hình thành. Đảng ủy nhà tù do đồng chí Nguyễn Duy Đán (Nguyễn Trọng Tâm, nay là Anh hùng lực lượng vũ trang) làm Bí thư, hạ quyết tâm thực hiện kế hoạch đã đề ra. Công tác tiến hành được chuẩn bị tuyệt đối bí mật, chặt chẽ và chu đáo. Đội xung kích gồm những đồng chí khoẻ mạnh, có kinh nghiệm chiến đấu do đồng chí Nguyễn Văn Cội, nguyên là Huyện đội phó Củ Chi làm đội trưởng; Lê

Tác giả chụp ảnh tại Di tích lịch sử Nhà lao Tân Hiệp

Page 42: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

42

Minh Toàn chính trị viên. Tổ liên lạc dẫn đường có 6 người do đồng chí Ngô Văn Quảng, nguyên Bí thư huyện ủy Vĩnh Cửu làm tổ trưởng. Đồng chí Nguyễn Văn Chuộng được Đảng ủy cử làm trưởng đoàn vượt ngục trở về căn cứ. Giờ G nổi dậy phá khám được Đảng ủy quyết định vào chiều ngày chủ nhật 02/12/1956, tất cả các đồng chí trong lực lượng xung kích đều đã ở trong tư thế sẵn sàng. Các tổ áp sát các mục tiêu đã được phân công. Mọi hoạt động của lực lượng chủ công đến giờ phút này vẫn giữ được bí mật hoàn toàn. Mới 17 giờ 45 phút mà trời đã nhá nhem tối. Một số đồng chí trong các tổ xung kích mình trần, mặc quần đùi đi lại bên ngoài sân trại. Số các tù nhân ở các trại D, E, G là những anh em đã được phổ biến trước đều đứng hoặc ngồi trước cửa, thấp thỏm chờ giờ hành động. 17giờ 50 phút, khi tên lính trực vừa đánh kẻng báo cho tù nhân vô trại, thì tiếng hô “xung phong” vang dậy khắp nơi. Các mũi xung kích nhanh chóng tiến thang đến các mục tiêu đã được phân công. Tổ xung kích do các đồng chí Lê Toàn Thư, Nguyễn Văn Cội trực tiếp chỉ huy đã xông thang vào kho vũ khí, bắt trói tên trưởng trạm gác, thu toàn bộ vũ khí trong kho. Cùng lúc, một tổ khác xông vào nhà tên Tính, giám đốc trại giam, khống chế hắn và số lính lái xe, bảo vệ, sau đó tiến vào văn phòng trại giam bắt trói tên thượng sĩ chỉ huy lính bảo an, cắt đứt đường dây điện thoại. Khi lệnh được phát ra, anh em tù nhân từ các trại D, E, G ồ ạt chạy về phía cổng. Trước làn sóng người tuôn ra như nước vỡ bờ, tên lính gác bên ngoài cổng chính giương súng bắn một phát, lập tức bị một đồng chí quật ngã và đoạt lấy súng. Dòng người tuôn ra cửa mỗi lúc một đông. Cả một không gian sôi động trong tiếng hô xung phong vang dội, tiếng gọi nhau, tiếng chân rầm rập của hàng trăm người. Chỉ trong 15 phút đầu, lực lượng xung kích hoàn toàn làm chủ tình hình. Bọn chỉ huy trại giam và toàn bộ lính canh gác bị bất ngờ và vô cùng hốt hoảng, chỉ lo bảo toàn tính mạng nên chưa có hành động nào chống trả. Theo chủ trương của Đảng ủy là không giết một tên lính nào nhằm hạn chế việc khủng bố, trả thù của địch đối với những anh em còn ở lại hoặc không ra được. Từ đó, hơn 15 phút sau bọn chúng mới hoàn hồn, vội vã nổ súng và truy đuổi. Theo kế hoạch, khi đã giải quyết xong các mục tiêu bên trong, lực lượng xung kích nhanh chóng rút ra ngoài triển khai chốt chắn ở hai đầu đường Quốc lộ dùng súng cướp được bắn áp chế các tháp canh xung quanh vòng rào để anh em tiếp tục chạy thoát. Song thực tế do có sự

Page 43: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

43

ùn tắc ở cổng chính, nên phương án trên không thực hiện được. Mặt khác, trong hoàn cảnh phải giữ bí mật tuyệt đối nên việc phổ biến kế hoạch tác chiến gặp nhiều khó khăn, thiếu cụ thể, nên có trường hợp nhiều tổ xung kích cùng tiến công một mục tiêu. Tuy vậy tất cả các mục tiêu chính như: kho súng, nhà giám đốc, văn phòng trại giam... lực lượng ta đều vào được và khống chế bọn địch ngay từ phút đầu. Trước các làn đạn phản kích, bắn xối xả của địch, một số anh em ta chạy ra sau bị trúng đạn hy sinh (22 người) và bị thương khá nhiều, nằm trước cổng trại, sân banh và ven bờ suối. Trong số đó có nhà báo, nhà thơ Dương Tử Giang. Cuộc nổi dậy phá khám diễn ra trong vòng 40 phút. Đến 18 giờ 30 phút, toàn bộ số tù nhân còn lại đều bị gom vào lại các trại. Do điện thoại ở nhà tù bị cắt đứt ngay phút đầu, tên phó giám đốc trại giam phải luồn lách hốt hoảng chạy bộ đến Bộ Tư lệnh sư đoàn dã chiến số 4 (cách đó khoảng 1 km) để cấp báo và xin cứu viện. Vì vậy một giờ sau cuộc nổi dậy, địch mới báo động được các nơi trong thị xã. 19 giờ, bọn lính Sư đoàn 4 dã chiến mới tới được trại giam cùng với bọn bảo an, hiến binh lo ổn định tình hình và nhận lệnh truy đuổi.

Trong bóng đêm dày đặc, quang cảnh trại giam sau cuộc nổi dậy trở nên xơ xác, đượm bầu không khí căng thẳng, ngột ngạt. Hơn 1.000 tù nhân còn lại trong các trại trung tâm ở trong tâm trạng lo lắng. Các anh chị vừa mừng lại vừa lo. Mừng vì biết rằng có thêm nhiều đảng viên, cán bộ trung kiên thoát được ra ngoài là nguồn lực bổ sung cho cách mạng đang trong thời kỳ khó khăn ác liệt. Lo là không biết rồi đây số phận những người còn lại sẽ như thế nào? Ngay từ bây giờ anh chị em phải chuẩn bị tư tưởng để tiếp tục đấu tranh với kẻ thù trong tình thế mới. Trước mắt là chịu đựng sự trả thù tàn bạo mà chắc chắn địch sẽ thực hiện. Bên ngoài trại giam, 22 thi thể đồng chí hy sinh và 6 người bị thương nặng nằm rải rác ngay trước cổng trại, sân banh và ven bờ suối Đồng Tràm. Sau khi thoát khỏi trại giam, các đồng chí đã chia làm nhiều đoàn để tìm về căn cứ và các cơ sở cách mạng ở các địa phương trong toàn miền. Mặc dù địch tăng cường lực lượng truy đuổi bố ráp gắt gao, một số đồng chí đã anh dũng hy sinh hoặc kiệt sức trên đường chạy, nhưng nhờ sự đùm bọc che chở của nhân dân, sự chuẩn bị của tố chức Đảng cơ sở bên ngoài, không một ai nản lòng thoái chí. 462 đồng chí thoát được, trong đó có hai đồng chí nữ (Nguyễn Thị Lý và Vũ Thị Thọ) đã trở về được với Đảng, với dân.

Page 44: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

44

Cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 02/12/1956 là một nét son chói lọi, là sự tiếp nối truyền thống đấu tranh kiên cường của Đảng và của nhân dân ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy bí mật nhà tù, gần 500 đảng viên cộng sản và đồng bào yêu nước bị kẻ thù giam giữ ở đây đã lập nên kỳ tích anh hùng: Với tay không, tự nối dậy phá khám, cướp súng địch để trở về với Đảng, với dân. Trong lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, đây là cuộc nổi dậy phá khám để tự giải phóng có quy mô lớn nhất, đưa được số lượng lớn cán bộ cốt cán của Đảng về với cách mạng và cướp được một số lượng vũ khí khá lớn (41 súng các loại). Thắng lợi của cuộc nổi dậy phá khám ở Tân Hiệp là nguồn bổ sung to lớn và vô cùng quý báu đối với lực lượng cách mạng Miền Nam nói chung và các tỉnh Miền Đông Nam bộ nói riêng trong những ngày đầu chuẩn bị cho phong trào khởi nghĩa vũ trang tiến lên Đồng khởi ở Miền Nam. Cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp mãi mãi là niềm tự hào của những thế hệ chiến sĩ cách mạng đã qua và các thế hệ trẻ của Biên Hòa - Đồng Nai hôm nay và mai sau, đã và đang nối tiếp cha anh viết tiếp trang sử hào hùng của quê hương “Miền Đông gian lao mà anh dũng” trong đấu tranh và xây dựng.

* Trận đầu diệt Mỹ tại nhà máy cưa BIF - Biên Hòa ngày 07/7/1959:

Nhà máy cưa BIF (Bien Hoa Industrielle de Forestier - Biên Hòa kỹ nghệ rừng) là một trong những cơ sở công nghiệp đầu tiên ở Biên Hòa và Miền Đông Nam bộ được Pháp xây dựng từ năm 1907 tại thôn Tân Mai, xã Bình Trước, quận Châu Thành, Biên Hòa. Đây là nhà máy có phong trào công nhân phát triển mạnh và là nơi sớm hình thành tổ chức Công hội đỏ và chi bộ Đảng Cộng sản vào những năm 30 thế kỷ XX. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nhà máy có hàng trăm công nhân thoát ly đi kháng chiến, số công nhân ở lại đều tham gia tích cực ủng hộ kháng chiến. Trong chín năm thực dân Pháp lấy nhà máy làm Bộ chỉ huy trung đoàn bộ binh thuộc địa số 22 (22è RIC), đồng thời là Sở chỉ huy tiểu khu Biên Hòa, trụ sở Phòng Nhì Pháp để kìm kẹp đánh phá phong trào kháng chiến ở Biên Hòa và các tỉnh Miền Đông.

Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, ngày 01/7/1958 dưới sức ép của chính quyền Ngô Đình Diệm, chủ nhà máy phải bán cơ sở này cho Trần Lệ Xuân lập ra “công quản khai thác nhà máy cưa BIF”. Sau đó văn phòng nhà máy trở thành cư xá của chuyên gia cố vấn quân sự Mỹ trong phái đoàn MAAG

Page 45: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

45

(Mission Army American Group), làm nhiệm vụ cố vấn, huấn luyện cho Sư đoàn 7 ở Biên Hòa. Đánh Mỹ, diệt cố vấn Mỹ, ý định táo bạo đó bắt đầu hình thành trong suy nghĩ của một số cán bộ lãnh đạo Liên Tỉnh ủy Miền Đông từ những tháng đầu năm 1959. Tháng 02/1959, đồng chí Nguyễn Văn Hoa (Năm Hoa) đại đội phó C250, nguyên là Thị ủy viên thị xã Biên Hòa cùng một số chiến sĩ trong đơn vị được Liên Tỉnh ủy Miền Đông cử vào thị xã Biên Hòa để nắm tình hình đoàn cố vấn quân sự Mỹ. Sau khi bắt liên lạc và trao đổi nhiệm vụ với đồng chí Trương Văn Lễ, Bí thư Thị ủy Biên Hòa, các đồng chí thống nhất chọn mục tiêu tiến công là đoàn cố vấn Mỹ ở BIF. Đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến (Tám Kiến Quốc) Trưởng ban Quân sự Miền Đông viết thư và giao nhiệm vụ cho đồng chí Năm Hoa phối hợp với Thị ủy Biên Hòa, đồng thời phân công đồng chí Lâm Quốc Đăng, Phó ban Quân sự Miền Đông trực tiếp chuẩn bị, tổ chức trận đánh. Công tác chuẩn bị được tiến hành hết sức khẩn trương và tuyệt đối bí mật cả bên trong thị xã và bên ngoài căn cứ.

Cuối tháng 06/1959, Liên Tỉnh ủy và Ban Quân sự Miền Đông thông qua phương án trận tập kích vào cư xá bọn cố vấn quân sự Mỹ ở Biên Hòa. Thời gian được ấn định vào 19 giờ ngày 07/7/1959. Chiều tối ngày 05/7/1959, từ căn cứ Chiến khu Đ, phân đội đặc công gồm 06 đồng chí Hưng, Huề, Bé, Phú, Sắc do Nguyễn Văn Hoa chỉ huy nhận lệnh xuất phát. Ngay đêm hôm đó, đơn vị đã về đến gò Cây Trâm Muối, rừng Tân Phong - khu căn cứ của Thị ủy Biên Hòa. Tại đây, các đảng viên mật của chi bộ Sở cao su Bàu Hang đã lo sẵn địa điểm trú quân, chuẩn bị cơm nước phục vụ cho đơn vị. Ngày 06/7/1959, đồng chí Bí

Page 46: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

46

thư Thị ủy vào căn cứ gặp mặt toàn đội, trao đổi thêm tình hình và kế hoạch tác chiến. Vũ khí phân đội mang theo ngoài mỗi người một khau tiểu liên còn có một quả mìn kích nổ bằng điện nặng hơn 3 kg. Quả mìn được giao cho đồng chí Huề và đồng chí Sắc sử dụng đánh địch trong mũi chủ công. Đêm 06/7/1959, phân đội bí mật hành quân về một vạt rừng chồi ở Gò Me, ém quân phía sau nhà má Nguyễn Thị Xuân (Ba Xuân), một cơ sở cốt cán của Thị ủy Biên Hòa.

Ngày 07/7/1959, đồng chí Hưng và anh Năm Lũy (con trai má Xuân) được lệnh ra quan sát mục tiêu lần cuối. Trong lúc đó, các đội viên tự vệ mật do đồng chí Bí thư Thị ủy chỉ huy cũng bắt đầu triển khai lực lượng phối hợp chiến đấu. Khoảng 19 giờ, trời nhá nhem tối, phân đội hóa trang như một toán lính đi tuần từ Gò Me dọc theo bờ ruộng tiến thẳng vào khu cư xá. Các ám hiệu, tín hiệu của cơ sở cho thấy bí mật vẫn đảm bảo. Bên trong cư xá, 06 tên cố vấn Mỹ đang chăm chú xem bộ phim “Cái áo rách” do diễn viên Kanne Grain đóng, chiếu bằng một máy chiếu nhỏ ở phòng khách tầng trệt. Khi bọn lính đến phiên đổi gác, các chiến sĩ đặc công nhanh chóng theo lối cổng phụ tiến vào áp sát khu cư xá. Hai đồng chí bí mật núp sau cửa sổ chĩa súng vào bên trong sẵn sàng nhả đạn. Hai đồng chí Sắc và Huề mang mìn theo lối cửa hông (lối xuống nhà ăn), lợi dụng lúc địch tắt đèn xem phim, đưa mìn vào đặt sẵn trong phòng. Nhưng khi các anh mới vào phòng, đèn bỗng bật sáng. Cuốn phim thứ nhất đã kết thúc, tên trung sĩ Ovmand mở công tắc đèn để thay phim. Trước tình huống bất ngờ, đồng chí Năm Hoa ra lệnh nổ súng. Mấy loạt tiểu liên từ hai phía cửa sổ bắn thẳng vào phòng. Thiếu tá Buis mới tới Biên Hòa hai ngày và trung sĩ Ovmand trúng đạn chết tại chỗ, đại úy Boston bị thương. Cùng lúc, đồng chí Huề ôm quả mìn bước lên bậc tam cấp cửa hông thì đụng phải tên bồi bàn đang hốt hoảng chạy xuống. Tiếp đó, một tên Mỹ khác cũng nhảy xuống trườn qua phòng bên để tắt đèn. Không để cho địch kịp thời phản ứng và nhận rõ thời cơ diệt địch, đồng chí Huề đã chấp nhận hy sinh. Anh hô to: “chấm điện”. Đồng chí Sắc ở phía sau chập mạch hai đầu dây khối pin. Một quầng lửa chớp sáng kèm theo một tiếng nổ lớn làm rung chuyển cả khu vực cư xá. Hệ thống đèn điện trong phòng phụt tắt. Đồng chí Huề đã anh dũng hy sinh, đồng chí Sắc bị thương. Bốn đồng chí còn lại xông vào nhà quét vài loạt đạn vào nơi có tiếng kêu gào, rên la của bọn Mỹ và nhanh chóng dìu đồng chí Sắc, đưa tử sĩ rút ra ngoài. Ngay lúc

Page 47: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

47

trận đánh diễn ra, đồng chí Nguyễn Thành Long, tự vệ mật đã kịp thời nổ súng diệt tên lính gác cổng. Một số tự vệ mật khác cũng nhanh chóng cho nổ thủ pháo ở khu nhà tên chỉ huy lính bảo vệ và trại lính, làm nhiệm vụ kềm chân địch, không cho chúng phản công đánh vào sau lưng phân đội đặc công. Trận đánh diễn ra chưa đầy 15 phút. Tất cả các đơn vị địch đều không kịp phản ứng, kể cả bọn lính bảo vệ nằm sát cư xá. Theo phương án định sẵn, các chiến sĩ đặc công vượt lỗ hổng hàng rào, qua sân banh, băng lộ 15 hướng suối Sơn Máu rút về chiến khu an toàn. Các chiến sĩ tự vệ nhanh chóng cất giấu vũ khí, thay đổi trang phục, trở lại cuộc sống bình thường của người dân phố thị. Mãi một giờ sau trận đánh, bọn địch từ các nơi mới đến được cư xá Mỹ. Bọn quân cảnh, cảnh sát ở Sài Gòn cấp tốc kéo về Biên Hòa phối hợp truy lùng dấu tích các chiến sĩ cách mạng. Nhưng chúng không thấy gì ngoài những xác chết của đồng bọn. Suốt đêm tới sáng, lính địch nhốn nháo khắp nơi nhưng chẳng phát hiện gì thêm ngoài một vài dấu vết chân do các tự vệ mật nghi trang để đánh lạc hướng truy tìm của địch. Thế là sau mấy tháng âm thầm chuẩn bị với bao công sức của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Miền Đông, trực tiếp là phân đội đặc công C250 và Đảng bộ nhân dân thị xã Biên Hòa, trận tập kích vào trụ sở phái đoàn quân sự Mỹ ở BIF (nhân dân thường gọi là Nhà Xanh) đã giành được thắng lợi.

Trận đánh ở “Nhà Xanh” đêm 7 rạng 8/7/1959 là trận đánh Mỹ đầu tiên của lực lượng vũ trang Miền Đông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ngày nay, tại thủ đô nước Mỹ Oa-sinh-tơn (Washington) trên bức tường đá ghi tên những quân nhân Mỹ chết trận tại Việt Nam theo thứ tự thời gian thì Dale. R. Buis và Chester. M. Ovmand là hai lính Mỹ đầu tiên trong danh sách.

* Trận đánh đầu tiên vào sân bay Biên Hòa:

Sân bay Biên Hòa là một căn cứ quân sự do thực dân Pháp xây dựng trước năm 1945. Ban đầu chỉ là một sân bay dân dụng của Pháp. Đến năm 1943 phát xít Nhật xây dựng thành sân bay quân sự, đồng thời là xưởng sửa chữa máy bay thuộc xã Tân Phong. Năm 1958, Mỹ bắt đầu mở rộng xây dựng thành một sân bay quân sự lớn ở Miền Nam. Đến năm 1964, thành sân bay quân sự thuộc loại tối tân nhất ở Đông Nam Á bấy giờ. Sân bay quân sự Tân Phong, Biên Hòa nằm ở tả ngạn sông Đồng Nai, cách thành phố Biên Hòa 01 km về phía bắc, cách Sài Gòn 30 km hướng đông bắc, diện tích 40 km vuông với hai đường băng

Page 48: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

48

dài 1.000 mét và 3.600 mét có trang thiết bị hiện đại, đảm bảo cho các loại máy bay cất cánh hạ cánh bất cứ ngày đêm, bất cứ thời tiết. Sân bay có 5 khu chứa máy bay các loại, có lúc lên đến 460 chiếc. Đây là căn cứ xuất phát của các loại máy bay Mỹ đi đánh phá khắp Miền Nam, Miền Bắc, Lào và Campuchia. Đồng thời là căn cứ huấn luyện giặc lái cho không quân Sài Gòn. Ở đây, thường xuyên có 2.000 nhân viên kỹ thuật, lính thợ. Từ 1966 trở đi, sân bay là căn cứ của Sư đoàn 23 không quân Sài Gòn. Sân bay được bố phòng nghiêm ngặt. Vòng ngoài được bao bọc bởi các lớp rào kẽm gai các loại có gài mìn, lựu đạn, trái sáng, bên trong có nhiều chướng ngại, hầm hố. Ngoài cùng là các ấp chiến lược, hệ thống đồn bót bao quanh. Bên trong có nhiều con đường trải nhựa để xe cơ giới tuần tra; cách 100 - 150 mét lại có một lô cốt do 1 tiểu đội đóng giữ. Sân bay có hệ thống đèn pha soi sáng vào ban đêm. Lực lượng bảo vệ sân bay có một đại đội pháo binh, một đại đội thiết giáp, một đến hai tiểu đoàn bộ binh. Cổng ra vào sân bay có một đại đội an ninh quân đội kiểm soát. Thị xã Biên Hòa luôn túc trực 2 tiểu đoàn bộ binh ứng chiến sẵn sàng chi viện khi cần. Trên sông Đồng Nai thường xuyên có các giang thuyền tuần tra. Máy bay địch từ Tân Sơn Nhất có thể chi viện bất cứ lúc nào.

Từ tháng 4/1964, Bộ Tư lệnh Miền đã có chủ trương mở trận tập kích vào sân bay Biên Hòa để tạo điều kiện mở một chiến dịch vào cuối năm. Tổ điều nghiên của đoàn pháo binh Miền do Huỳnh Thành Đồng chỉ huy lên đường làm nhiệm vụ từ tháng 4. Biệt động thị xã Biên Hòa đã hỗ trợ rất tích cực để đội trinh sát hoàn thành nhiệm vụ. Tháng 9/1964, đồng chí Lương Văn Nho, Đoàn trưởng pháo binh U80 Miền và bộ phận trinh sát về Chiến khu Đ trực tiếp làm việc cùng Tỉnh ủy, Tỉnh đội Phước Thành chuẩn bị cho trận đánh. Trên đường hành quân, lực lượng phải mang vác vũ khí nặng qua nhiều ruộng lầy, rừng chồi, vượt qua nhiều đồn bót, ấp chiến lược, trong đó có khoảng gần 10 km địa hình trống trải ở ngoại vi sân bay Biên Hòa. Nhân dân Chiến khu Đ đã cho mượn ghe xuồng để lực lượng bí mật vượt sông.

Đêm 31/10/1964, 7 khẩu đội cối 81 ly, 2 khẩu đội ĐKZ 75 ly, 2 khẩu pháo bộ binh 70 ly với 176 quả đạn đã bí mật chiếm lĩnh, xây dựng trận địa. Vào 23 giờ 20 phút ngày 31/10/1964, các loạt pháo nổ đồng loạt vào các mục tiêu trong sân bay Biên Hòa. Các đồng chí Tô Thái, Tiêu Ngọc Tiên cán bộ chỉ huy

Page 49: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

49

trực tiếp đứng trên một chạc cây cao để quan sát và hiệu chỉnh cho pháo bắn. Sân bay Biên Hòa bị bao trùm bởi tiếng nổ và khói lửa. Tiếng nổ làm chấn động cả thị xã Biên Hòa và thành phố Sài Gòn. Khi máy bay địch từ Tân Sơn Nhất lên bắn chi viện xuống các đường băng, các chiến sĩ pháo binh đã rút về Chiến khu Đ an toàn. Kết quả ta bắn cháy, làm hư hại nặng 59 máy bay các loại, trong đó có 21 máy bay ném bom chiến lược B57 Mỹ vừa đưa sang, 11 phóng pháo cơ Xca-rai- đơ, một máy bay do thám U2, 3 máy bay lên thang, 1 kho đạn pháo 105 ly, 1 dài quan sát sân bay... Nhiều sĩ quan kỹ thuật, binh lính bị chết. Trận tập kích bằng pháo vào sân bay Biên Hòa là đòn đánh bất ngờ gây choáng váng cho địch. Tổng thống Mỹ đang đi vận động tranh cử phải vội vã quay về Nhà Trắng để nghe báo cáo về sân bay Biên Hòa bị quân ta tiến công. Taylor, đại sứ Mỹ ở Miền Nam khi đến sân bay sáng ngày 01/11/1964, trước cảnh hoang tàn đổ nát khủng khiếp đã phải than vãn: “Rõ ràng Việt cộng đã làm một việc mà trước đây họ chưa hề làm, tôi không thích những chuyện như thế”. Các báo chí phương Tây đều đưa tin về trận đánh với nội dung: Nếu Việt cộng đã đánh được sân bay Biên Hòa, thì họ có thể đánh bất cứ đâu khi họ muốn.

Trên báo Nhân Dân số ra ngày 12/11/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có bài bình luận, kết thúc bằng 4 câu thơ:

“Uy danh lừng lẫy khắp năm châu

Đạn cối tuôn cho Mỹ bể đầu

Thành đồng trống thắng lay Nhà Trắng

Cảnh đổ nát trên sân bay Biên Hòa

Page 50: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

50

Điện Biên, Mỹ chẳng phải chờ lâu”

Đoàn pháo binh U80 của Miền đã được Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam tặng thưởng huân chương Quân công giải phóng hạng nhất. Chiến thắng sân bay Biên Hòa có ý nghĩa quan trọng, góp phần đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ, cũng là trận mở đầu cho hàng loạt trận tiến công vào sân bay chiến lược Biên Hòa sau này của các lực lượng vũ trang quân giải phóng Miền Nam. Từ năm 1965 đến khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, các lực lượng vũ trang quân giải phóng ở Biên Hòa đã liên tục tiến công sân bay với mức độ hỏa lực mạnh hơn, tiêu diệt nhiều sinh lực, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của Mỹ và ngụy quyền, hỗ trợ đắc lực cho chiến trường toàn Miền Nam giành thắng lợi hoàn toàn.

* Các trận đánh căn cứ, kho tàng Mỹ - ngụy ở Biên Hòa của Đặc công:

- Đánh kho Long Bình:

Từ năm 1965, đế quốc Mỹ đã tiến hành san ủi rừng lập Tổng kho Long Bình để đảm bảo hậu cần cho lực lượng quân viễn chinh Mỹ ở Miền Nam. Long Bình là kho hậu cần vào loại lớn nhất của Mỹ ở Miền Nam, cung ứng bom đạn và các thiết bị chiến tranh cho quân đội Mỹ ở Miền Nam. Kho liên hợp hậu cần Long Bình chiếm diện tích khoảng 24 km2, cách thành phố Biên Hòa 7 km, Sài Gòn 30 km về hướng đông, phía bắc có một dãy đồi gồm 16

mỏm nối tiếp nhau chạy dài từ bắc xuống nam theo hình cánh cung. Phía nam có sông Đồng Nai chảy từ thành phố Biên Hòa xuống tây nam căn cứ Long Bình đổ ra sông Lòng Tàu. Phía đông có sông Buông chảy từ đông sang tây. Phía bắc có đường Quốc lộ 1 và đường sắt đi Long Khánh. Phía tây giáp xa lộ Biên Hòa Sài Gòn. Kho liên hợp Long Bình là

Tổng kho và căn cứ Long Bình nhìn từ trên cao

Page 51: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

51

khu kho dự trữ quan trọng, ngoài bom đạn, xăng dầu, còn tập trung nhiều loại thiết bị và phương tiện chiến tranh khác. Long Bình còn là nơi đóng quân của các bộ chỉ huy của Mỹ như: Bộ Tư lệnh hậu cần số 1, Bộ Tư lệnh lục quân, Bộ Tư lệnh dã chiến 2... Lực lượng chiếm đóng và bảo vệ thường xuyên tại đây có 2.000 tên Mỹ, chủ yếu là nhân viên kỹ thuật, lực lượng bảo vệ, vận tải, sửa chữa. Bao quanh khu kho Long Bình có từ 7 đến 9 lớp rào kẽm gai các loại, có hướng đến 10 - 12 lớp, có gài mìn, lựu đạn. Từng khu một trong kho đều có hàng rào ngăn cách. Bên trong khu kho có nhiều đường để cơ giới tuần tra. Ngoài lực lượng bảo vệ tại chỗ, về phía đông nam Long Bình có căn cứ Nước Trong, đông bắc có cứ điểm Long Lạc và nhiều đồn bót xung quanh thuộc Quân đoàn 3, sân bay Biên Hòa, Tân Sơn Nhất... sẵn sàng chi viện khi kho bị tấn công. Trong Tổng kho Long Bình, hai khu quan trọng là khu kho đồi 53 và 50. Kho đồi 53 có diện tích khoảng 3,75 km mét vuông (rộng 1,2 km, dài 2,5 km), có dãy với khoảng 200 gian kho, chia thành 3 khu lớn, mỗi khu 6 dãy, mỗi dãy cách nhau 100 mét, các nhà cách nhau 60 mét. Nhà kho rộng 25 mét, cao 5,5 mét, có ụ đất dày bao bọc xung quanh chống được các loại pháo bắn thang, cửa làm bằng sắt dày 10 ly, có khóa kim loại cứng.

Từ cuối năm 1965, đặc công U1 (Biên Hòa) đã tiến hành nghiên cứu Tổng kho Long Bình. Nhiều lần đột nhập vào bên trong kho để trinh sát, lên sơ đồ, đặc biệt là kho đồi 53 và đồi 50. Bom đạn chất thành từng dãy, cách nhau một con đường hẹp, chỉ cần nổ một kho sẽ gây chấn động làm nổ lan ra các kho khác trong khu vực. Ngày 22/6/1966, sáu đặc công gồm: Nguyễn Tấn Vàng (Ba Vàng) mũi trưởng, Nguyễn Văn Thái (Tư Già) mũi phó, Bùi Văn Hòa, Trịnh Văn Thoàn, Phạm Văn Hòa, Nguyễn Văn Rô vào được mục tiêu, chia làm 3 tổ do Nguyễn Văn Vàng, Nguyễn Văn Thái, Bùi Văn Hòa làm tổ trưởng. Ba tổ bí mật vượt qua các lớp rào, lọt vào khu kho đồi 53. Theo kế hoạch, cứ cách 1 hoặc 2 kho các anh đặt một quả mìn. Đêm 22/6, khi các chiến sĩ đã đặt trái xong, rút khỏi mục tiêu, khu kho đồi 53 bắt đầu nổ tung. Tiếng nổ làm chấn động cả Biên Hòa và Sài Gòn. Lửa khói từ trong kho Long Bình cuộn lên thành hình cây nấm khổng lồ. Tiếng nổ liên tục đến ngày hôm sau. Bốn mươi ngàn quả đạn đại bác ở khu kho đồi 53 bị phá hủy. Báo chí của địch ở Sài Gòn đã đưa tin Tổng kho Long Bình bị Việt cộng tấn công. Sáng 23/6, tên tướng Tư lệnh hậu cần Mỹ lên

Page 52: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

52

hiện trường đã chứng kiến cảnh đổ nát hoang tàn của khu kho 53. Khi được hỏi có biết Việt cộng tấn công kho không, hắn trả lời: “Nếu tôi biết Việt cộng đánh kho, tôi đã là họ rồi”.

Đây là trận tiến công đầu tiên vào Tổng kho Long Bình của Mỹ, phá hủy và gây thiệt hại nặng cho địch, ta giành thắng lợi lớn, mở đầu cho hàng loạt trận tiến công sau này của đặc công Biên Hòa. Đặc công Biên Hòa đã được Trung ương Cục, Quân ủy Miền tặng Huân chương Quân công hạng 3 cho đơn vị và 4 Huân chương Chiến công hạng 3 cho các chiến sĩ đã lập công đầu. Nét nổi bật của đặc công Biên Hòa là sẵn sàng chiến đấu phối hợp kịp thời, nhịp nhàng cùng chiến trường Miền Nam theo chỉ đạo của Bộ chỉ huy Miền.

Trong 3 tháng 10, 11, 12/1966, để hỗ trợ toàn miền đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ 2 của Mỹ, đặc công U1 đã ba lần tấn công kho Long Bình, phá hủy 353.000 quả đạn pháo 105, 155, 175 ly. Tháng 2/1967, khi đế quốc Mỹ chuẩn bị mở trận càn Gian-xơn-xi-ty (Junction City) vào căn cứ bắc Tây Ninh, các lực lượng đặc công, biệt động Biên Hòa đã liên tục tấn công vào hai mục tiêu sân bay Biên Hòa và kho Long Bình. Cùng lúc đội 1 đặc công tấn công sân bay Biên Hòa, 03/02/1967, đội 2 đặc công U1 đánh vào khu kho đồi 53 với 4 quả mìn hẹn giờ. Vào 02 giờ 45 phút ngày 04/02/1967 khu kho đồi 53 lại bị nổ tung, tiếng nổ kéo dài suốt 30 giờ đồng hồ. Ta phá hủy 40 dãy kho với 800.000 quả dạn đại bác của Mỹ. Địch chưa hết bàng hoàng trước các trận đánh của đặc công thì đầu tháng 3/1967, biệt động thị xã Biên Hòa do hai chiến sĩ Sáu Châu, Sáu An chỉ huy đã đánh vào kho xăng

Tổng kho Long Bình – Quang Cảnh sau vụ tấn công Nguồn: Internet

Page 53: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

53

dầu Biên Hòa nằm cách cầu Gành 200 mét, dùng mìn hẹn giờ làm nổ tung 2 bồn chứa xăng dầu và 200 phuy xăng, thiêu hủy hàng triệu lít xăng dầu. Đợt đánh của đặc công, biệt động Biên Hòa cuối năm 1966, đầu năm 1967 đã thực sự đánh thủng “dạ dày” của Mỹ, phá hủy một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh của chúng, hỗ trợ đắc lực cho chiến trường toàn miền. Thắng lợi lớn của đặc công Biên Hòa chào mừng một sự kiện lớn: “Binh chủng Đặc công Quân đội nhân dân Việt Nam chính thức thành lập ngày 19/3/1967”

Trong cuộc tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, Tiểu đoàn 2 đặc công Biên Hòa đánh vào khu kho đồi 53, phá hủy 127 dãy kho bom đạn. Đặc công Biên Hòa (tiểu đoàn l) cùng Sư đoàn 5 (chủ lực Miền), Trung đoàn DKB pháo binh Miền tiến công vào sân bay quân sự Biên Hòa, phá hủy 120 máy bay các loại. Chiến dịch xuân Kỷ Dậu 1969, đại đội 9 Tiểu đoàn 2 đặc công Biên Hòa đánh khu kho đồi 50, 53, bom pháo bị phá hủy, nổ liên tục trong 7 ngày đêm. Mùa xuân 1972, chiến dịch toàn miền, chiến dịch Nguyễn Huệ nổ ra ở Miền Đông Nam bộ. Tiểu đoàn 1 và 2 đặc công Biên Hòa được Bộ chỉ huy Miền quyết định điều động làm nòng cốt để xây dựng đoàn đặc công 113. Trên cơ sở điều nghiên trước đó của đặc công Biên Hòa, ngày 12/8/1972, tiểu đoàn 9 đặc công Đoàn 113 gồm 57 chiến sĩ chia làm 3 mũi đột nhập vào khu kho đồi 53. Thuận lợi là trong đêm đó, địch mở cửa kho để xả hơi, do đó đặc công ta vào được trong kho đặt mìn vào các dãy kho. Từ 01 giờ 40 phút đến 4 giờ 30 phút ngày 13/8/1972, khu kho đồi 53 bị nổ tung, phá hủy 5.430 tấn bom đạn, 200 tấn thuốc nổ và một số kho tàng, nhiên liệu khác, phá hủy 17 gian nhà lính, 300 lính Mỹ - ngụy đền tội. Các đơn vị tham gia trận đánh đã được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công giải phóng hạng 3, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng 2, 16 Huân chương Chiến công giải phóng cho các chiến sĩ.

- Tấn công kho Thành Tuy Hạ và đánh tàu trên sông Lòng Tàu:

Thành Tuy Hạ là kho dự trữ bom đạn lớn của Mỹ ở Miền Nam, có tính chất trung chuyển đi các nơi. Kho đạn Thành Tuy Hạ do Pháp xây dựng, được Mỹ sửa chữa, nâng cấp và mở rộng. Kho nằm về phía đông nam Sài Gòn khoảng 18 km, kẹp giữa hai con lộ 25 và 19 thuộc huyện Nhơn Trạch, Biên Hòa (cũ). Kho có chiều dài 1,5 km, rộng l km. Phía bắc, sát hàng rào kho có lộ 25 từ cảng Cát Lái xuống kho Long Bình. Con sông Sâu song song với lộ 17 từ Cát Lái

Page 54: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

54

chảy vào sông Đồng Nai, chiều rộng 400 mét, sâu 13 mét, nước chảy xiết, bờ nam sông có 3 cảng cách nhau từ 200 đến 250 mét. Tàu trọng tải 6.000 tấn ra vào cảng dễ dàng. Phía đông, kho giáp rừng cao su, rừng chồi Phú Hội, có nhiều trảng trống. Phía nam có nhiều khoảng rừng trống, ruộng và các ấp chiến lược: Soài Minh, Ông Kèo ven lộ 19. Phía tây có ấp chiến lược Phước Lý và lộ 19. Bao bọc quanh kho là 14 lớp hàng rào kẽm gai tổng hợp, chia làm 3 tuyến phòng thủ. Mỗi tuyến đều có hệ thống lô cốt, hầm hào và nhiều chướng ngại vật. Lực lượng địch bảo vệ kho có một tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn quân cụ, một trung đội cảnh sát và khoảng 100 chó béc giê, một số xe jép có gắn đại liên để cơ động tuần tiễu quanh kho. Kho còn được yểm trợ của lực lượng giang thuyền (18 chiếc) từ Nhà Bè, Cát Lái đến kho Long Bình.

Từ năm 1965, sông Lòng Tàu trở thành đường vận chuyển chiến lược của Mỹ để đưa thiết bị chiến tranh vào Miền Nam. Hàng ngày có đến 30 tàu vận tải quân sự 6.000 đến 13.000 tấn ra vào sông Lòng Tàu. Tháng 06/1966, đặc khu Rừng Sác được thành lập, sau này gọi là Đoàn 10 đặc công Rừng Sác. Đặc khu là một khu vực quân sự đặc biệt rộng 60.000 hecta. Nhiệm vụ của Đoàn 10 đặc khu Rừng Sác là: đánh tàu chở hàng quân sự trên sông Lòng Tàu, đảm bảo một hướng tiến công vào đầu não, sào huyệt cuối cùng của địch và đánh cảng quân sự nhằm phá hủy các phương tiện chiến tranh, nhiên liệu của địch; hỗ trợ phong trào cách mạng địa phương; xây dựng bàn đạp hành lang, tạo thế vững chắc để có thể hoạt động trong mọi điều kiện... Đoàn 10 đặc công Rừng Sác hoạt động ở địa hình sông nước, phức tạp, thường xuyên thiếu nước ngọt, lương thực, lại phải liên tục chống địch càn quét. Đoàn phải bám dân xây dựng cơ sở cách mạng, phát huy tinh thần tự lực tự cường, ngoài vũ khí được trang bị, Đoàn 10 còn phải tự sáng tạo vũ khí để đánh địch. Đoàn 10 đã rèn luyện thành thục, giỏi bơi lặn, nhờ vậy đã đánh được tàu địch đang di chuyển trên sông, tàu địch cập cảng, các kho tàng (mục tiêu trên bộ), các bến bãi (mục tiêu dưới nước), đánh giao thông đồn bót và pháo kích, áp sát các mục tiêu, đánh sâu vào nội thành.

Trên địa bàn Biên Hòa, hai trận đánh kho Thành Tuy Hạ của Đoàn 10 đặc công Rừng Sác phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch. Đêm 11/11/1966, lực lượng đặc công do Nguyễn Hữu Hòa chỉ huy đã vượt qua các lớp rào kẽm gai với nhiều bãi mìn, lựu đạn. Mười sáu khối thuốc nổ hẹn giờ

Page 55: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

55

được gắn vào các kho bom, chất nổ. Kho bom Thành Tuy Hạ nổ tung, gây thành đám cháy lớn. Hơn 10.000 tấn bom đạn, 33 nhà kho bị hủy diệt. Sau trận tháng 11, địch tăng cường phòng thủ kho càng nghiêm ngặt hơn, lập thêm nhiều hàng rào thiếc cao 2,5 mét, chôn sâu xuống đất 3 tấc quanh chu vi kho, không thể cắt được. Địch tăng cường phục kích giữa hai lớp rào, cách 15 mét lại có đèn cao áp soi sáng.

Ngày 10/12/1972, chiến sĩ đặc công Đoàn 10 do đội trưởng Quyết chỉ huy lên đường từ khu lòng chảo (Nhơn Trạch) đến bàn đạp thị trấn. 23 giờ ngày 11/12, đội đặc công với 24 khối chất nổ C4 hẹn giờ và dụng cụ chiến đấu thả người theo dòng nước. Cả tổ đến khu kho vào lúc 03 giờ ngày 12/12 và ém lại trong kho. 19 giờ, đội trưởng Quyết vận động về phía nam 500 mét đã tìm thấy kho bom. Anh quay trở lại đưa cả tổ vào khu vực đánh. Mỗi dãy kho cách nhau từ 15 đến 20 mét. Các chiến sĩ đặt khối thuốc nổ theo cách nổ lan truyền từ trong ra với các dãy 1,3,5,7,9. 2 giờ 55 phút ngày 13/12/1972, kho bom Thành Tuy Hạ lại nổ tung. Tiếng nổ làm chấn động cả Sài Gòn. Tiếng nổ và cháy liên tục đến ngày 14-12 mới chấm dứt. Ta đã phá hủy 8 dãy nhà (80 gian) gồm 47 gian kho đạn pháo 105 ly chiếm 109.557 mét khối; 14 gian kho bom CBU chiếm 33.937 mét khối, 19 gian kho chứa bom khác chiếm 60.192 mét khối. Tính về trọng lượng, đặc công đã phá hủy 18.057 tấn, bằng 80% số lượng bom đạn của khu kho. Bộ chỉ huy Miền đã tặng thưởng 1 Huân chương Quân công hạng 3 cho tổ chiến đấu và 5 Huân chương Chiến công cho 5 chiến sĩ đặc công.

Đặc công ra đời ở Biên Hòa thời kỳ chín năm đã phát huy tác dụng chiến đấu lấy ít đánh nhiều, thắng to, ta ít thương vong. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đặc công Biên Hòa tiếp tục phát huy đánh sân bay Biên Hòa, kho liên hợp Long Bình, Thành Tuy Hạ, làm thiệt hại tiềm lực chiến tranh của địch ở Miền Nam, hạn chế khả năng chi viện hỏa lực của chúng, tạo điều kiện cho các chiến trường bạn đánh thắng địch. Những chiến thắng ở sân bay Biên Hòa, Tổng kho Long Bình, Thành Tuy Hạ mãi mãi ghi truyền sử sách.

* Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968:

Trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, cuộc tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 là một sự kiện quan trọng có ý nghĩa chiến lược, làm phá

Page 56: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

56

sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải ngồi vào bàn hội nghị tại Pa-ri và từng bước rút quân viễn chinh Mỹ ra khỏi Miền Nam Việt Nam. Tháng 10/1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã có Nghị quyết mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy, tiến công vào toàn bộ các đô thị của địch ở Miền Nam Việt Nam. Nghị quyết của Bộ Chính trị đã được Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 14 thông qua vào tháng 01/1968. Chuẩn bị cho cuộc tiến công, chiến trường Đồng Nai có sự điều chỉnh lại gồm các đơn vị chiến trường như sau: Tỉnh U1 (thị xã Biên Hòa, huyện Vĩnh Cửu, huyện Trảng Bom); hai huyện Long Thành, Nhơn Trạch và Sở cao su Bình Sơn thuộc về Phân khu 4; Huyện Long Khánh, Định Quán thuộc tỉnh Bà Rịa - Long Khánh. Cùng với quân dân toàn Miền Nam, trong cuộc tiến công và nổi dậy xuân 1968, quân và dân Đồng Nai đã tiến công đồng loạt vào các thị xã, thị trấn làm chủ được địa bàn. Tuy nhiên, thắng lợi và ác liệt nhất là ở Biên Hòa.

Thị xã Biên Hòa, một trọng điểm của chiến trường miền Đông, các mục tiêu tiến công quan trọng là: sân bay Biên Hòa, Tổng kho Long Bình, Bộ Tư lệnh 2 dã chiến Mỹ (trong khu vực Long Bình), Quân đoàn 3 ngụy, Nha cảnh sát miền Đông... Đồng chí Lê Đức Anh, Tư lệnh phó - Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Miền đã trực tiếp về căn cứ Tỉnh ủy ở Bàu Sao (Trảng Bom) để triển khai Nghị quyết Trung ương cục, Bộ chỉ huy Miền, giao nhiệm vụ cho Tỉnh ủy Biên Hòa (U1) và Bộ Tư lệnh sư 5. Đồng chí Lê Đức Anh chỉ định Bộ chỉ huy mặt trận Biên Hòa gồm có: Tư lệnh:

Lực lượng vũ trang chuẩn bị bước vào cuộc Tổng tiến công Mậu Thân 1968 Nguồn: Internet

Page 57: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

57

đồng chí Trần Minh Tâm, Sư trưởng Sư đoàn 5 Miền; Phó tư lệnh: đồng chí Trần Công An, Tỉnh đội trưởng U1; Chính ủy mặt trận: đồng chí Sáu An; Chính ủy Sư đoàn 5 Miền: đồng chí Dũng; đồng chí Phan Văn Trang là Phó chính ủy mặt trận. Bố trí lực lượng tại mặt trận thị xã Biên Hòa gồm Sư đoàn 5 chủ lực Miền; lực lượng phối hợp thuộc Trung đoàn 4, Trung đoàn DKB và tiểu đoàn 1 và 2 đặc công 1, đội biệt động thị xã; bộ đội địa phương và du kích các huyện Vĩnh Cửu, Trảng Bom.

Đúng 02 giờ sáng ngày 31/01/1968 (đêm 30 tết Mậu Thân), trận địa pháo Trung đoàn DKB tại Hiếu Liêm đúng giờ G ngày N đã bắn cấp tập vào sân bay Biên Hòa, làm hiệu lệnh cho cuộc tiến công và nổi dậy ở Biên Hòa. Ngay phút đầu, đoàn pháo 724 đã bắn trên 120 viên đạn pháo tên lửa trúng khu nhân viên kỹ thuật, Sở chỉ huy sân bay, kho xăng, kho đạn trong sân bay Biên Hòa. Những cột khói lớn bốc lên từ sân bay xen lẫn với tiếng nổ, ánh chớp của lửa đạn. Đại đội 1 thuộc Tiểu đoàn 1 đặc công Biên Hòa, Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn 4 có biệt động dẫn đường đã dùng bộc phá đánh bung các lớp rào kẽm gai, tiến vào sân bay, dùng B40, thủ pháo tiến công các khu vực chứa máy bay, phá hủy 120 máy bay các loại. Máy bay Mỹ từ sân bay Tân Sơn Nhất đã lên phản kích ác liệt, xe tăng địch từ Hóc Bà Thức tấn công vào sườn của Tiểu đoàn 1, bịt kín lối ra sân bay. Đại đội 1 đã kiên cường bám trụ đánh trả máy bay, xe tăng, bộ binh của địch. Đại đội 1 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đồng thời phát triển vào khu cư xá của giặc lái và chuyên viên kỹ thuật, diệt và làm bị thương hàng trăm tên. Đại đội 1, Tiểu đoàn 1 đã hy sinh anh dũng trong sân bay (chỉ còn 1 đồng chí trở về). Đặc công Sư 5 và Biệt động thị xã đã tiến công phía tây Sở chỉ huy Quân đoàn 3. Lực lượng đã bám trụ đánh địch phản kích ác liệt, kiên quyết giữ bàn đạp để hỗ trợ Tiểu đoàn 1 ở sân bay. Lực lượng tuy có bị thương vong, nhưng đã chiến đấu kiên cường.

Cùng thời gian, Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn 5, Sư 5 và đặc công sư đoàn tiến công vào Bộ Tư lệnh Dã chiến II của Mỹ ở Long Bình. Đại đội 6 tiến công vào sân bay phá hủy nhiều máy bay trực thăng. Máy bay địch từ sân bay Tân Sơn Nhất lên bắn róc-két ngay vào đội hình và triển khai xe tăng bao vây tiểu đoàn. Tiểu đoàn 2 bị thương vong. Ở khu ngoại vi kho Long Bình, Đại đội C92 pháo mặt đất chống trả quyết liệt với Lữ đoàn 199 Mỹ, anh dũng chiến đấu

Page 58: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

58

đẩy lùi 5 đợt phản kích của địch. Tiểu đoàn 2 đặc công U1 do đồng chí Nguyễn Văn Thái (Tư Già) chỉ huy đột nhập khu kho đồi 53, đặt trái đã phá hủy 127 kho chứa bom đạn của Mỹ. Tiếng nổ kéo dài đến mấy ngày sau chưa dứt. Tại các vùng ngoại và nội ô như: Hiệp Hòa, ấp Bình Đa, Lân Thành, Tân Thành... cơ sở tại chỗ nổi dậy treo cờ, rải truyền đơn kêu gọi nhân dân, diệt một số tên tay sai ác ôn. Em Lê Minh Tâm (15 tuổi), con của má Bảy Vết đã dũng cảm đưa hơn 20 chiến sĩ biệt động đang trụ tại trường Mỹ nghệ vượt vòng vây địch để về Hóa An. Gần 20 cán bộ chiến sĩ của Sư 5 đi lạc đã được nhân dân ấp Bình Đa nuôi dưỡng trong nhà, mấy ngày sau cơ sở lại tìm cách luồn lách đưa 20 cán bộ, chiến sĩ về căn cứ an toàn. Sáng mùng 3 Tết (02/02/1968), Bộ chỉ huy Mặt trận cho các lực lượng rút khỏi thị xã để củng cố đội hình tiếp tục đánh địch phản kích và chuyển hướng đánh địch ở khu vực Định Quán (đường 20).

Xuân Mậu Thân 1968, lần đầu tiên lực lượng quân giải phóng đã xuất hiện và tiến công địch tại thị xã Biên Hòa và các thị trấn, huyện lỵ trong tỉnh. Cuộc tiến công đồng loạt cho thấy tinh thần dũng cảm của quân giải phóng. Nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm của bộ đội được nhân dân khâm phục. Tấm lòng của nhân dân thị xã Biên Hòa thể hiện rõ trong việc tiếp tế lương thực, che giấu chiến sĩ, chỉ đường cho bộ đội về căn cứ. Cuộc tiến công và nổi dậy của quân dân ta ở Biên Hòa đã cùng với toàn Miền Nam giáng một đòn nặng nề vào

Đồng bào S’tiêng ở xã Tà Lài (huyện Tân Phú) giã gạo cung cấp lương thực cho bộ đội đánh địch trong Cuộc tổng tiến công và nổi

dậy Xuân Mậu Thân 1968 – Nguồn Internet

Page 59: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

59

kẻ thù, đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh.

* Chiến dịch Xuân Lộc đập tan cánh cửa thép của Mỹ - ngụy:

Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Xuân Lộc - Long Khánh luôn luôn là một trong những trọng điểm “bình định” của Mỹ - ngụy ở Miền Đông Nam bộ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Đảng bộ địa phương, quân dân Xuân Lộc - Long Khánh đã lập nên những chiến công xuất sắc, đặc biệt trong trận quyết chiến chiến lược mùa xuân 1975, đập tan cánh cửa thép của Mỹ - ngụy ở phía Đông Bắc Sài Gòn, góp phần to lớn trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Cuối tháng 03/1975, trước sức mạnh tiến công và nổi dậy của quân và dân ta trên khắp chiến trường Miền Nam, Quân đoàn I và II của ngụy bị đập tan, các tỉnh Miền Trung và Tây Nguyên được giải phóng, chế độ tay sai ở Sài Gòn đang đứng trước nguy cơ sụp đổ. Để cứu vãn tình hình, ngày 28/3/1975, trung tướng Mỹ Uây-en, đại sứ Mỹ Mác-tin cùng phái đoàn quân sự cao cấp của Nhà Trắng đến Sài Gòn bàn định việc cứu nguy cho chế độ Ngụy ở Sài Gòn. Uây-en quyết định xây dựng một tuyến phòng thủ mới chốt tại thị xã Phan Rang, nối liền với Xuân Lộc làm căn cứ trung tâm và Tây Ninh là chốt phía tây bắc. Uây-en nhấn mạnh với Thiệu là “Phải giữ cho được Xuân Lộc, mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn”. Ngay trong ngày 28/3, Uây-en cùng tướng ngụy Cao Văn Viên bay lên Xuân Lộc để thị sát và trực tiếp chỉ huy xây dựng tuyến phòng thủ Xuân Lộc. “Tuyến phòng thủ thép Xuân Lộc” được xây dựng với hàng ngàn lính thuộc các đơn vị tinh nhuệ nhất của chúng ở Quân đoàn 3 như: Sư đoàn 18, Lữ đoàn dù số 1, Liên đoàn 7 biệt động quân, Lữ đoàn 3 thiết giáp... Nguyễn Văn Thiệu đã hứa hẹn với quan thầy: “Dù có chết, tôi cũng quyết giữ cho được Xuân Lộc”.

Nhận thức rõ tính chất quan trọng và vị trí chiến lược của thị xã Long Khánh, Hội nghị của Khu ủy Miền Đông (từ 31/01/1975 đến 08/02/1975) đã xác định: “Thị xã Long Khánh là một trong những nơi ta dứt điểm cuối cùng, nơi Đảng bộ miền Đông hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân của mình”. Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Khu ủy và Tỉnh ủy, Thị ủy Long Khánh đã hạ quyết tâm: Dùng ba mũi chính trị, binh vận kết hợp với vũ trang và

Page 60: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

60

cơ sở mật bên trong để bức hàng, bức rút các đồn, bót địch ở các xã vùng ven, tạo bàn đạp cho chủ lực (Quân đoàn 4) tiến công tiêu diệt địch ở thị xã Long Khánh. Đến cuối tháng 03/1975, bằng lực lượng tại chỗ, thị xã Long Khánh đã giải phóng 4 ấp phía bắc thị xã: Bảo Vinh A, Bảo Vinh B, Suối Chồn, Bình Lộc. Trong lúc đó, bộ đội tỉnh, huyện tiến công giải phóng Suối Cát, ngã ba Ông Đồn đến Trà Tân 2 (lộ 3), đồn điền cao su Ông Quế, bức rút đồn Nam Hà, Mai Thọ Bích, tua Mã Trắng, bộ đội khu giải phóng Định Quán, làm chủ lộ 20.

Như vậy, trước chiến dịch Xuân Lộc, các lực lượng vũ trang Long Khánh đã giải phóng các vùng ven thị xã, tạo bàn đạp đứng chân cho chủ lực Quân đoàn 4. Mặt khác, nhân dân thị xã Long khánh đã chuẩn bị lương thực, thực phẩm cung cấp cho chiến dịch. Nhân dân đã đưa vào các kho dự trữ 7.500 tấn gạo, 17.000 ống thuốc cầm máu, 43.000 lọ thuốc kháng sinh, 4.000 kg bột ngọt, hàng chục triệu đồng và nhiều hàng hóa khác phục vụ chiến dịch. Thắng lợi của Đảng bộ, quân dân Long Khánh trước chiến dịch Xuân Lộc đã được Bộ Tư lệnh Quân khu 7 đánh giá cao: “Việc áp sát của quân khu chung quanh thị xã đã tạo điều kiện cho Miền quyết định đánh chiếm tiểu khu Long Khánh”.

Từ ngày 04/4/1975, đội biệt động và trinh sát vũ trang thị xã Long Khánh đã bí mật dẫn đường cho trinh sát Sư đoàn 1, Sư đoàn 7 (Quân đoàn 4) vượt qua các hàng rào, tua, chốt gác của địch vào thị xã điều nghiên, nắm tình hình và lên phương án tác chiến. Hàng ngàn lá cờ Mặt trận đã được Thị ủy Long Khánh chuyển vào cho các cơ sở bí mật bên trong. Truyền đơn binh vận được rải nhiều nơi, đánh vào tư tưởng, làm rệu rã thêm tinh thần của binh lính ngụy.

Xe tăng, bộ binh Quân đoàn 4 tiến công giải phóng Xuân Lộc tháng 4/1975

Page 61: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

61

Sáng ngày 09/4/1975, chiến dịch Xuân Lộc bắt đầu. Sau các loạt pháo bắn cấp tập vào những mục tiêu trong thị xã, các cánh quân của ta nổ súng tiến công trên hai hướng đông bắc và tây bắc. Chỉ sau một giờ chiến đấu, quân ta đã chiếm được căn cứ biệt động quân, trụ sở tình báo CIA Mỹ ở nội ô thị xã. Trên hướng tây thị xã, Sư đoàn 6 vẫn làm chủ lộ 1 từ đèo Mẹ Bồng Con đến ấp Phan Bội Châu. Hướng bắc thị xã, Tiểu đoàn 445 bộ đội địa phương tỉnh và K8 - bộ đội huyện đánh tan Liên đoàn 936 tại Bình Phú, Suối Cát, bắt sống 117 tên. Từ ngày 11 đến 13/4, các lực lượng du kích và bộ đội địa phương bao vây căn cứ Núi Thị, giải phóng các xã và các đồn điền cao su: Hàng Gòn, Cẩm Mỹ, Suối Râm... mở rộng bàn đạp đứng chân cho các đơn vị bộ đội chủ lực.

Ngày 12/4, địch cho máy bay oanh kích dữ dội xuống các vị trí trong nội ô thị xã Long Khánh và khu vực phía bắc chi khu Tân Phong. Lữ đoàn dù ngụy số 1 được máy bay đổ xuống ngã ba Tân Phong phối hợp cùng Sư đoàn 18 bên trong đánh ra để giải tỏa áp lực của quân ta. Để tránh thiệt hại cho dân, Bộ chỉ huy chiến dịch chỉ đạo tập trung hỏa lực mạnh, sử dụng pháo binh cấp tập diệt các cứ điểm quân sự bên trong thị xã, kéo địch ra ngoài thị xã từ cống ngã ba Dầu Giây lên giáp với Lâm Đồng. Ngày 15/4, Sư đoàn 6 diệt gọn Chiến đoàn 52 thuộc Sư 18 ngụy ở ngã ba Dầu Giây, giải phóng lộ 20, làm chủ phía tây thị xã. Địch đưa bộ chỉ huy nhẹ Quân đoàn 3 lên Trảng Bom để chỉ huy cuộc hành quân giải tỏa, nhưng các mũi ứng cứu của địch trên quốc lộ 1 đều bi đập tan. Liên tục trong các ngày từ 16 đến 19/4, quân ta bắn hàng ngàn quả đạn pháo vào các mục tiêu quân sự của địch trong thị xã. Đảng viên, cơ sở cốt cán và quần chúng đã vận động làm tan rã hàng trăm binh lính địch. Trong cơn tuyệt vọng, địch càng tỏ ra điên cuồng, chúng cho máy bay trút bom đạn vào thị xã và vùng ven (trong đó có hai quả bom hơi ngạt CBU). Thế cùng, bọn đầu sỏ chỉ huy lập kế hoạch rút chạy. Ngày 18/4, Lữ đoàn dù số 1 nhận lệnh rút về phía nam chi khu Tân Phong để yểm trợ cho hướng rút chạy trên liên tỉnh lộ 2. Tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 ngụy ra lệnh “tùy nghi di tản”. Đến 22 giờ ngày 20/4/1975, hơn 220 xe quân sự của địch chen nhau rút chạy về hướng lộ 2. Quân ta tổ chức chốt chận và truy kích, bắt sống tên đại tá Tỉnh trưởng Phạm Văn Phúc và đám tùy tùng. Rạng sáng ngày 21/4/1975, tuyến phòng thủ cuối cùng của địch tại thị xã Long Khánh ở phía đông bắc Sài Gòn hoàn toàn bị phá vỡ.

Page 62: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

62

Chiến dịch Xuân Lộc toàn thắng. Thị xã Long Khánh hoàn toàn được giải phóng.

Ngay trong đêm 21/4, khi phòng tuyến Xuân Lộc hoàn toàn sụp đổ, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã phải tuyên bố từ chức, tìm đường trốn chạy ra nước ngoài. Cùng trong thời điểm này, bên kia bờ đại dương, tổng thống Mỹ cũng công khai nhìn nhận: “Cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã kết thúc với Mỹ”. Chiến dịch Xuân Lộc toàn thắng khẳng định sự sáng suốt lựa chọn điểm yếu của địch; chỉ đạo mở chiến dịch tiến công có ý nghĩa quyết định toàn cuộc của Trung ương Đảng, Trung ương Cục, Bộ Tư lệnh Miền; giúp Trung ương hạ quyết tâm mở chiến dịch mang tên Bác Hồ “chiến dịch Hồ Chí Minh” giải phóng hoàn toàn miền Nam. Đây là một điểm son chói lọi ghi đậm dấu ấn lịch sử trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Long Khánh, Đồng Nai, là tài sản vô giá của quê hương, là niềm tự hào của thế hệ hôm nay và mai sau.

* Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975, giải phóng Biên Hòa - Đồng Nai tiến thẳng giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước:

Ngày 10/3/1975, trận đánh chiếm Buôn Ma Thuột mở đầu cho chiến dịch mùa xuân l975 trong tháng 03/1975, Tây Nguyên được hoàn toàn giải phóng. Kế tiếp sau đó là chiến dịch Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, ta giải phóng hoàn toàn Quân khu 1 và 2 của Ngụy, giải phóng một vùng rộng lớn ở Miền Trung và duyên hải Miền Trung. Trong cơn hoảng loạn, địch phải thực hiện chiến thuật “tùy nghi di tản”, rút bỏ hàng loạt vị trí để xây dựng tuyến phòng thủ phía đông cố giữ cho được Sài Gòn, Miền Đông và Miền Tây Nam bộ, hy vọng tìm một giải pháp chính trị hòng duy trì chế độ tay sai ở Sài Gòn. Trước thời cơ cách mạng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã chỉ thị cho các lực lượng tiến công giải phóng Miền Nam trong năm 1975. Tuyến phòng thủ thép Xuân Lộc bị đập tan, thị xã Biên Hòa là tuyến phòng thủ án ngữ cuối cùng của chế độ Sài Gòn. Biên Hòa cũng là cửa ngõ của đại quân ta vào Sài Gòn.

Chiến dịch Hồ Chí Minh đã triển khai trên hướng Biên Hòa với quân đoàn 2 và quân đoàn 4. Quân đoàn 2 từ lộ 2 Xuân Lộc tiến về Long Thành, Nhơn Trạch để về Sài Gòn. Quân đoàn 2 đã đánh dứt điểm các cứ điểm mạnh của địch ở Suối Râm, Nước Trong, một phần kho Long Bình, chi khu Long Thành, Nhơn

Page 63: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

63

Trạch, giải phóng hoàn toàn hai huyện này vào ngày 07/4/1975. Quân đoàn 4 từ Sở cao su Bình Lộc bắt đầu đánh địch vào ngày 25/4/1975, triển khai lực lượng đánh dứt điểm địch tại ngã ba Dầu Giây, Sông Thao, chi khu Trảng Bom... Quân đoàn đánh địch, giải phóng đến đâu, chính quyền địa phương tiếp quản đến đó. Quân đoàn đánh chiếm Quân đoàn III ngụy, sân bay Biên Hòa, Tổng kho Long Bình. Sư đoàn 6 ở lại cùng địa phương tiếp quản giữ sân bay Biên Hòa, kho Long Bình, Quân đoàn III vào 10 giờ sáng ngày 30/4/1975. Bộ phận Quân đoàn 4 gồm xe tăng, pháo binh, bộ binh tiến về Sài Gòn tiếp quản Dinh Độc Lập và các cơ quan đầu não của ngụy quyền. Kết hợp với lực lượng bên ngoài, lực lượng quần chúng bên trong nổi dậy cướp chính quyền tại chỗ. Thành ủy Biên Hòa đã chủ động triển khai công tác chuẩn bị từ ngày 09/4/1975, đến l5/4/1975 thì hoàn tất trong nội thành Biên Hòa. Kế hoạch dự kiến hai khả năng: 1 - Đánh dài ngày phải di tản dân sang hướng đông bắc; 2 - Đánh giải phóng ngay, tiếp quản gọn. Kế hoạch gồm các điểm chính như sau:

- Phổ biến chủ trương giải phóng miền Nam, giải phóng Biên Hòa. Cán bộ, đảng viên, cốt cán đều vui mừng phấn khởi, ai cũng bắt tay ngay vào việc. Ủy ban khởi nghĩa được tổ chức ở nội thành Biên Hòa, các xã, phường ngoại ô và Khu kỹ nghệ Biên Hòa.

- Lực lượng tại chỗ là đảng viên, đoàn viên, cốt cán nắm quần chúng và phòng vệ dân sự của địch là cơ sở của ta có trang bị súng để cùng quần chúng nổi dậy giành chính quyền tại ấp, xã, huyện, tỉnh; may cờ lớn nhỏ; ghi âm sẵn lời kêu gọi của Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời và Mặt trận Giải phóng Biên Hòa để kêu gọi nhân dân nổi dậy; ghi âm 10 điều kêu gọi binh lính địch, quay về với Tổ quốc lập công đầu; Giải phóng tù nhân ở nhà tù Tân Hiệp và nhà tù Biên Hòa. Tất cả mọi người đều phải hành động kết hợp theo tiếng súng của lực lượng vũ trang từ bên ngoài. Lúc bấy giờ phải phóng tay phát động không còn rụt rè do dự, phải mạnh dạn đứng lên giành chính quyền về tay mình.

Page 64: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

64

- Các bộ phận được phân công cướp chính quyền, chiếm giữ các mục tiêu khi giải phóng: Lực lượng biệt động, an ninh và các bộ phận đánh giải phóng 4 xã: An Hòa, Long Hưng, Phước Tân, Long Bình từ 23 đến 29/4/1975; Ban Công vận thành phố tiếp quản khu Kỹ nghệ Biên Hòa vào ngày 29/4/1975; Địch ở các cứ điểm quan trọng, các cơ quan đầu não như Quân đoàn III và tiểu khu Biên Hòa, chi khu Đức Tu rút chạy từ đêm 09/4/1975; Lực lượng cán bộ, đảng viên bên trong cắm cờ ở Tòa hành chánh Biên Hòa lúc 6 giờ sáng ngày 30/4/1975; sau đó là dinh Trung tướng Toàn, Tư lệnh Quân đoàn III, Nha cảnh sát miền Đông, Quân đoàn III, Ty cảnh sát Biên Hòa, Quận Đức Tu; Sở chỉ huy tiền phương và lực lượng vũ trang Trung đoàn 5, lực lượng chính trị chiếm Tòa hành chánh Biên Hòa vào lúc 10 giờ 30 ngày 30/4/1975; Sư đoàn 6 chiếm giữ sân bay, Quân đoàn III vào 10 giờ 30 cùng ngày; Ban An ninh T1 chiếm giữ Nha cảnh sát miền Đông, Ty cảnh sát Biên Hòa; Ban An ninh thành phố Biên Hòa, chiếm giữ Quận Đức Tu; Lực lượng Trung đoàn 5 triển khai chốt canh gác các ngã ba trong thành phố và giữ khu Kỹ nghệ Biên Hòa.

Ba mươi năm chiến tranh giải phóng, mùa xuân 1975 đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại của nhân dân Biên Hòa, Đồng Nai. Lần đầu tiên trong lịch sử cận hiện đại đất nước ta không còn bóng quân xâm lược. Thắng lợi to lớn mở ra một thời kỳ mới cho dân tộc và nhân dân Biên Hòa, Đồng Nai: Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Xe tăng quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975

Page 65: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

65

III. CẢM NHẬN VỀ TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN BIÊN HÒA - ĐỒNG NAI

Bản thân tôi cũng như bao bạn trẻ khác được sinh ra và lớn lên khi chiến tranh đã lùi xa, đất nước đã hoàn toàn thống nhất, Bắc Nam sum họp một nhà. Mặc dù không được tận mắt chứng kiến công cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, đầy oai hùng của dân tộc ta, nhưng qua những trang sử mà chúng tôi được học, qua những bộ phim tài liệu, những hình ảnh tư liệu, hiện vật trưng bày, những ca khúc cách mạng, những tác phẩm văn học, nghệ thuật, những câu chuyện kể của ông, cha âm vang hào hùng về một thời chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh nhưng rất đỗi vinh quang, luôn vang vọng trong mỗi chúng tôi. Tự đáy lòng mình, tôi và những bạn bè cùng trang lứa luôn chan chứa một niềm tự hào lớn lao, mãnh liệt về lịch sử hào hùng của dân tộc ta, về sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ muôn vàn kính yêu.

Hôm nay, được tìm hiểu về những cuộc kháng chiến của nhân dân Biên Hòa - Đồng Nai qua hơn 320 năm hình thành và phát triển tôi càng thêm tự hào về mảnh đất và con người nơi đây. Với những địa danh, với những con người và với những trận đánh sẽ mãi đi vào trong sách sử để mỗi khi soi rọi vào đó thế hệ trẻ như chúng tôi hôm nay như được tiếp thêm sức mạng để vững bước hơn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ những ngày đầu kháng chiến trong muôn vàn khó khăn, gian khổ, thiếu thốn trăm bề, kẻ thù thì tàn bạo, xảo quyệt, không trừ một thủ đoạn nào để xâm lược, cai trị. Nhưng với tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường, những con người chân chất, bình dị nơi đây đã vun đúc nên một truyền thống cách mạng của mảnh đất Đồng Nai - Miền Đông gian lao mà anh dũng...

- Biên Hòa - Đồng Nai, mảnh đất “Miền Đông gian lao mà anh dũng”:

Đồng Nai là tỉnh địa đầu của miền Đông Nam bộ, cửa ngõ phía đông và đông nam Sài Gòn, có địa hình đa dạng nối liền với Tây Nguyên và các tỉnh cực Nam Trung Bộ. Hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy chằng chịt, liên hoàn, mà những tuyến đường huyết mạch đều hướng thẳng vào trung tâm Sài Gòn. Xâm lược nước ta, bọn thực dân đế quốc, nhất là đế quốc Mỹ đã

Page 66: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

66

biến địa bàn Đồng Nai thành hậu phương, một trong những trung tâm đầu não chỉ huy đánh phá cách mạng ở Miền Đông. Chúng đã xây dựng nhiều căn cứ quân sự kho tàng, quân cảng, sân bay, đặc biệt tống kho Long Bình là “dạ dày”, là khu vực hậu cần lớn nhất của Mỹ ở miền Nam; sân bay Biên Hòa được nâng cấp thành sân bay chiến lược ở Đông Nam Á; quân cảng Vũng Tàu từng bước được mở rộng và hiện đại hoá thành một trong những khu liên hợp quân sự mạnh ở miền Nam. Địch còn đặt ở Biên Hòa - Bà Rịa, Vũng Tàu các cơ quan tình báo CIA Mỹ, đặc cảnh Miền Đông, các trường huấn luyện cảnh sát, bảo an, bình định nông thôn của trung ương Mỹ - ngụy.

Đế quốc Mỹ đã đưa vào đây những đơn vị quân viễn chinh sừng sỏ, quân chư hầu Úc Đại Lợi, Thái Lan, Tân Tây Lan và nhiều đơn vị chủ lực của ngụy, với nhiều âm mưu, thủ đoạn, biện pháp thâm độc như “ấp chiến lược”, “ấp tân sinh”, các chương trình bình định cấp tốc, bình định đặc biệt, đi đôi với hành quân càn quét, dùng bom pháo, xe ủi, chất độc hoá học phá hủy địa hình, hòng đánh bật lực lượng cách mạng ra khỏi tất cả các địa bàn, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược hàng đầu là chiếm đất, giành dân. Đặc biệt ở các địa bàn trọng điểm Vĩnh Cửu, Châu Đức, Long Đất, Long Thành, Nhơn Trạch, Xuân Lộc dính liền với các trục lộ giao thông chiến lược: Quốc lộ 1, quốc lộ 15, Tỉnh lộ số 2, đế quốc Mỹ giao nhiệm vụ cho quân Úc, quân Thái Lan và một số đơn vị quân Mỹ - ngụy chốt chặn, đánh phá căn cứ, tìm diệt lực lượng vũ trang và cơ sở cách mạng, quyết bình định những khu vực này.

Có thể nói, mảnh đất Biên Hòa - Đồng Nai là nơi trọng yếu mà kẻ thù luôn tập trung phương tiện, lực lượng tối tân nhất để thực hiện thực hiện âm mưu, ý đồ xâm lược nước ta, đàn áp các phong trào cách mạng của quân và dân nơi đây. Tuy nhiên những âm mưu, hành động tàn bạo, thâm độc với những vũ khí tối tân nhất cũng không thể làm chùn bước con người nơi đây. Đồng chí Lê Duẩn - Tổng bí thư của Đảng đã nói: “Trong chống Mỹ cứu nước, trên chiến trường “Miền Đông gian lao mà anh dũng” Đồng Nai là một mảnh đất kiên cường mà biết bao khu rừng, ngọn lửa, khúc sông đã trở thành tên gọi của chiến công lừng lẫy”.

- Tinh thần đoàn kết, đồng lòng chống giặc ngoại xâm của quân và dân đất Biên Hòa - Đồng Nai:

Page 67: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

67

Trải qua hơn 320 năm hình thành và phát triển, đặc biệt là 02 cuộc kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ và quân dân Đồng Nai đã cùng cả nước đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Những năm kháng chiến chống Pháp, với quyết tâm “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ ”, quân dân Đồng Nai không phân biệt tôn giáo, đảng phái, dân tộc đã kết thành một khối vững chắc đứng lên chống giặc, từng bước phát động và tổ chức một cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, vừa xây dựng, vừa chiến đấu và đánh địch đều khắp trên cả 3 vùng. Phát huy truyền thống và những kinh nghiệm chống Pháp, trong 21 năm chống Mỹ, thấm nhuần chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do ”, thực hiện đường lối chống Mỹ, cứu nước của trung ương, được sự chỉ đạo của cấp trên, Đảng bộ và quân dân Đồng Nai đã từng bước đánh bại âm mưu giành đất, giành dân biến Đồng Nai thành hậu phương an toàn của chúng, đồng thời ta đã xây dựng, giữ vững căn cứ, hành lang chiến lược, tạo ra bàn đạp tiến công địch ở hướng đông và đông nam Sài Gòn. Đây là một quá trình đấu tranh cực kỳ gian khổ đầy hy sinh, thử thách nhưng cũng hết sức vẻ vang và đáng tự hào của quân và dân tỉnh nhà.

Dưới sự lãnh đạo của Trung ương, sự chỉ đạo của Trung ương Cục và Khu ủy, Đảng bộ Đồng Nai và các lực lượng vũ trang đã dựa hẳn vào dân, kiên cường bám trụ, chủ động và liên tục tiến công địch, đánh phá bình định, đánh giao thông, kho tàng, hậu cứ, sân bay, phá phương tiện chiến tranh, diệt sinh lực cao cấp, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, phát triển lực lượng kháng chiến, giữ vững các căn cứ, cửa khẩu, hành lang và các địa bàn chiến lược. Chính tinh thần đoàn kết, một lòng chống giặc ngoại xâm mà quần chúng nhân dân đã không tiếc gì máu xương, của cải cho cuộc kháng chiến. Biết bao nhiêu người mẹ đã hết lòng nuôi giấu cách mạng, che giấu cán bộ trước sự lùng sục của kẻ thù... Không thể kể hết những hy sinh cả vật chất và con người của mảnh đất này. Với tinh thần đoàn kết đó mà công tác đấu tranh của các lực lượng vũ trang luôn được sự ủng hộ, giúp đỡ về mọi mặt của quần chúng nhân dân, đảm bảo cho cuộc kháng chiến được thắng lợi một cách toàn diện, hiệu quả, ít đổ máu, mang đậm tính nhân văn và chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân ta.

Page 68: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

68

Là một chiến trường trọng điểm, đa phần là rừng núi, khả năng sản xuất lương thực của nhân dân địa phương thường xuyên gặp khó khăn. Vì vậy, vấn đề tổ chức xây dựng hậu cần tại chỗ luôn là một vấn đề chiến lược mà Đảng bộ địa phương, các cấp chỉ huy ở chiến trường đã đặc biệt quan tâm chỉ đạo tổ chức và bảo đảm. Chiến đấu trên địa bàn Đồng Nai, cán bộ, chiến sĩ không chỉ đánh giặc mà thường xuyên phải chiến đấu với cái ăn, cái mặc, chiến đấu với bệnh tật, nhất là sốt rét rừng. Những lúc khó khăn, bộ đội, cán bộ các ngành hàng tháng trời sống và đánh giặc chủ yếu bằng bột buông, củ chụp và lá rau rừng. Những năm tháng chiến tranh ác liệt, nguồn chi viện của cấp trên và các tỉnh bạn gặp khó khăn và thường bị hạn chế. Tinh thần tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo của bộ đội, cán bộ nhân dân càng được phát huy cao độ. Trong các vùng căn cứ, bộ đội, Nhân dân đã ra sức tăng gia sản xuất trỉa lúa, trồng mì. Nhân dân ở vùng địch tạm chiếm đã không sợ hy sinh, tù đày, lợi dụng mọi sơ hở của kẻ thù đưa lương thực, thuốc men ra vùng kháng chiến. Ở các vùng tranh chấp, các chi bộ mật đã khéo vận động quần chúng xây dựng “hũ gạo nuôi quân”. Đó là nguồn hậu cần nhân dân tại chỗ mà khi có một lon gạo, một hộp sữa cho thương binh từ vùng tạm chiếm đưa ra vùng căn cứ, đồng bào ta phải đổ máu.

- Lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị là nhân tố đảm bảo thắng lợi cuộc kháng chiến tại Biên Hòa - Đồng Nai:

Lực lượng vũ trang cách mạng gồm công nhân cao su, nông dân, đồng bào các dân tộc được hình thành sớm trong chống Pháp và cả trong chống Mỹ. Từ những đơn vị nhỏ, lẻ lúc đầu đã phát triển thành những đơn vị tập trung cấp tỉnh, cấp huyện và lực lượng dân quân, du kích rộng khắp các xã, ấp. Đó là lực lượng vũ trang 3 thứ quân được xây dựng theo đường lối, nguyên tắc tổ chức lực lượng vũ trang của Đảng, làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc trên địa bàn tỉnh. Đồng thời xuất phát từ đặc điểm, vị trí và nhiệm vụ của chiến trường, Đảng bộ ta cũng sớm xây dựng lực lượng đặc công, biệt động. Mặt khác, trong các vùng sâu yếu, thị xã, thị trấn, các ấp chiến lược, lực lượng du kích mật, tự vệ mật, gồm những đảng viên, đoàn viên, thiếu niên, quần chúng cách mạng cũng được xây dựng do các chi bộ mật trực tiếp lãnh đạo, làm nòng cốt cho việc kết hợp lực lượng bên trong, bên ngoài, tiến công và nổi dậy đánh địch bình định, diệt ác, phá kìm giành quyền làm chủ xã ấp.

Page 69: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

69

Quá trình hình thành và phát triển các lực lượng vũ trang Đồng Nai còn gắn liền với sự hỗ trợ và dìu dắt, đoàn kết hợp đồng chiến đấu của bộ đội chủ lực Quân khu và Miền, dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của các cấp ủy Đảng địa phương. Các Trung đoàn Đồng Nai, Tiểu đoàn 302, 303, 320 chủ lực Quân khu 7, Bộ Tư lệnh Nam bộ trong chống Pháp; Trung đoàn 4, 33 chủ lực Quân khu miền Đông, Sư đoàn 5, Đoàn 10 Rừng Sác, Đoàn pháo binh Biên Hòa, Đoàn 113, 116 đặc công và Quân đoàn 4 của Miền, trong kháng chiến chống Mỹ gắn liền với tên tuổi của các cán bộ chỉ huy Huỳnh Văn Nghệ, Nguyễn Văn Lung, Lương Văn Nho, Nguyễn Hồng Lậm ... luôn luôn tận tuỵ với phong trào kháng chiến địa phương và đã để lại biết bao chiến công xuất sắc trên mảnh đất này.

Lực lượng chính trị bao gồm công nhân, nông dân lao động và các tầng lớp yêu nước khác, được Đảng tuyên truyền, giáo dục và xuyên suốt, là vấn đề sống còn, đảm bảo sự thành công của cách mạng, của kháng chiến. Lực lượng chính trị không chỉ đấu tranh đơn thuần đòi dân chủ, chống các âm mưu, thủ đoạn của địch mà còn phối hợp với lực lượng vũ trang tiến công địch, bao vây đồn bức hàng bức rút đồn bót địch, làm công tác hậu cần, binh vận, liên lạc trinh sát, nắm tình hình địch. Trong những năm chiến tranh, bộ đội du kích bám trụ trong dân để đánh thắng địch chính là nhờ cơ sở chính trị mạnh, nhờ sự che chở, đùm bọc của nhân dân. Trong việc xây dựng lực lượng chính trị. Đảng bộ đã coi trọng và quan tâm đúng mức đến đội ngũ công nhân cao su, đồng bào các dân tộc, nhất là lực lượng phụ nữ. Trên cơ sở phát triển đội quân chính trị ngày càng lớn mạnh, lực lượng Binh vận cũng được tổ chức, xây dựng, cài cắm cơ sở ngay trong lòng địch và cùng với hai lực lượng chính trị vũ trang thành 3 mũi tiến công địch. Với cách xây dựng lực lượng như trên, ở địa bàn Đồng Nai, ta đã tạo ra một sức mạnh tổng hợp và chủ động liên tục tiến công quân địch trên cả 3 vùng liên tục, giành thắng lợi ngay cả trong những thời kỳ ác liệt nhất.

- Biên Hòa - Đồng Nai anh hùng với những địa danh và cách đánh địch đã đi vào sử sách:

Theo tài liệu lịch sử, “đặc công” là cách nói tắt của cách đánh công đồn một cách đặc biệt (công đồn đặc biệt). Người khởi sự cách đánh này là Anh hùng lực lượng võ trang - Đại tá Trần Công An, biệt danh Hai Cà (hiện đang nghỉ hưu ở phường Trung Dũng, thành phố Biên Hòa). Chính trong những lúc

Page 70: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

70

khó khăn nhất của cuộc chiến tranh, đồng chí Hai Cà đã sáng tạo ra cách đánh hiệu quả và bất ngờ tấn công tháp canh cầu Bà Kiên tiêu diệt nhiều tên địch và thu nhiều chiến lợi phẩm. Đây là trận công đồn đặc biệt khởi sự cho cách đánh đặc công sau này. Trong kháng chiến chống Mỹ, kỹ thuật, chiến thuật đặc công được phát triển lên một bước mới ngày càng hoàn thiện, tinh vi. Với cách đánh này, bộ đội đặc công đã đánh phá các kho tàng, hậu cứ, sân bay địch. Có kho bom, hậu cứ, sân bay. bị đánh 3, 4 lần trong một tháng, gây cho địch từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, hàng vạn tấn vũ khí, phương tiện chiến tranh bị hủy diệt mà chúng vẫn không sao đối phó nổi. Chính từ cách đánh đặc biệt này mà kẻ thù phải kinh hồn, bạt vía trước sự xuất quỷ - nhập thần, thoắt ẩn hiện của ta. Chúng không thể ngờ sự phòng thủ kỹ càng, quy mô của chúng nhưng vẫn bị ta chọc thủng. Có thể nói cách đánh “đặc công” là sự thể hiện sự mưu trí, sáng tạo, gan dạ và ý chí kiên cường, tạo bạo của chính con người Biên Hòa - Đồng Nai. Sự hiệu quả và phát triển của cách đánh này đã thực sự làm cho tôi thêm tự hào về truyền thống cách mạng của mảnh đất Đồng Nai.

Cùng với chiến công La Ngà vang dội và sáng tạo cách đánh đặc công độc đáo, quân dân Đồng Nai còn góp nhiều công sức xây dựng, bảo vệ Chiến khu Đ - một căn cứ địa chiến lược ở Nam bộ - nối thông đường giao từ miền Tây lên Miền Đông ra đến trung ương. “Chiến khu Đ còn Sài Gòn mất”, sự đánh giá này của địch đã nói lên vai trò và tầm quan trọng của căn cứ địa cách mạng trong chiến tranh. Qua hai cuộc kháng chiến, công tác xây dựng, phát triển và bảo vệ các căn cứ là một nhiệm vụ nổi bật trong toàn bộ công tác xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân trên chiến trường Đồng Nai. Việc xây dựng các căn cứ xuất phát từ tình hình cụ thể của từng vùng, từng địa bàn. Do đó, mỗi cấp đều có căn cứ lớn, nhỏ khác nhau với đặc điểm địa hình, thế đứng cũng khác nhau. Trong quá trình kháng chiến, giặc Pháp cũng như giặc Mỹ đã tìm mọi cách quyết tiêu diệt các căn cứ của ta. Đặc biệt bọn Mỹ - ngụy đã dùng nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại với các ý đồ thâm độc, nham hiểm như “lột da khu lòng chảo”, “xoá sổ chiến khu Minh Đạm”... Nhưng tất cả âm mưu, biện pháp của chúng đều bị thất bại hoàn toàn. Các căn cứ chủ yếu trên chiến trường Đồng Nai vẫn đứng vững suốt 30 năm chiến tranh. Đó như thể hiện tinh thần và ý chí chiến đấu vững vàng của quân và dân nơi đây.

Page 71: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

71

- Tiếp nối truyền thống anh hùng của mảnh đất Biên Hòa - Đồng Nai:

Qua các cuộc kháng chiến đã khẳng định vị thế, tinh thần cách mạng của mảnh đất, con người Đồng Nai. Trong gian khổ, khó nhọc thì tinh thần yêu nước, sự mưu trí, sáng tạo càng được thể hiện rõ. Kẻ thù thì không chừa một thủ đoạn nào nhằm đè bẹp ý chí con người nơi đây nhưng chúng không thể ngờ được tinh thần quật khởi, kiên cường của con người nơi đây. Chiến công tiếp nối tiếp chiến công mà đỉnh cao là chiến thắng Xuân Lộc - đập tan cánh cửa thép tiến thẳng về giải phóng Sài Gòn, thống nhất đất nước. Quân và dân Đồng Nai đã làm nên khúc hoàn ca oai hùng, khúc hoàn ca của tinh thần đoàn kết, ý chí chiến đấu ngoan cường, không khuất phục trước mọi kẻ thù và trong mọi hoàn cảnh, dù là khó khăn, gian khổ nhất.

Càng trân trọng và tự hào về lịch sử công cuộc kháng chiến của mảnh đất và con người Đồng Nai, tôi càng ý thức sâu sắc rằng, nền độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất mà hôm nay chúng tôi có được đã phải đánh đổi bằng xương máu, tuổi xuân, cuộc đời, hạnh phúc của biết bao lớp người đi trước. Trách nhiệm của thế hệ trẻ chúng tôi hôm nay là phải ra sức gìn giữ cho bằng được những thành quả cách mạng vĩ đại đó, là thanh niên lực lượng vũ trang phải sống sao cho xứng đáng với sự hy sinh cao cả của thế hệ ông cha, xứng đáng với sự tin yêu và kỳ vọng của Đảng, Bác Hồ và của cả dân tộc Việt Nam.

Đất nước ta đang trong thời kỳ phát triển và hội nhập với bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp và khó lường, chúng ta đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức thể hiện những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen, phức tạp. Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ đã làm gia tăng các tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao và làm phát sinh một số phương thức, thủ đoạn mới. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch không ngừng tiến hành các hoạt động chống phá đất nước ta, đặc biệt là chúng tấn công phá hoại tư tưởng của lực lượng vũ trang, các tầng lớp thanh niên, học sinh, những tương lai của đất nước, làm cho họ mất lòng tin vào Đảng, vào chế độ, mất đi ý chí phấn đấu mà thay vào đó là lối sống thực dụng, hưởng thủ của phương tây. Những vấn đề trên đặt ra nhiều yêu cầu mới trong công cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi mỗi người dân đặc biệt là lực

Page 72: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

72

lượng Công an – “Thanh bảo kiếm” của Đảng cần nhận thức rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. “Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho ta mà phải hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay?” Câu hát đó như một lần nữa nhắc nhở tôi cũng như mỗi người trong chúng ta về trách nhiệm của bản thân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Là cán bộ, chiến sỹ lực lượng Công an phải làm gì để góp phần hoàn thành tốt trách nhiệm và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa?. Trước tiên, với tư cách là một chiến sĩ nghĩa vụ Công an nhân dân, bản thân tôi luôn đặt ra cho mình một mục tiêu xuyên suốt đó là nỗ lực phấn đấu trong rèn luyện và học tập để được chuyển chuyên nghiệp trở thành người cán bộ chiến sĩ trong tương lai, đồng thời tôi luôn tự xác định tư tưởng, tình cảm, lí tưởng sống của mình: đó là yêu quê hương đất nước, tự hào tự tôn dân tộc, yêu truyền thống cách mạng của mảnh đất và con người Đồng Nai, luôn có ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của dân tộc; lao động, học tập, rèn luyện để khẳng định bản lĩnh, tài năng cá nhân và phục vụ cống hiến cho đất nước và cho Nhân dân. Thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện theo Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân, rèn đức, luyện tài nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra cho lực lượng Công an trong tình hình mới.

Thời đại ngày nay, xu thế toàn cầu là xu thế hội nhập, khoa học kĩ thuật phát triển với tốc độ cao, vì vậy tôi cũng luôn cố gắng học tập tích lũy tri thức để góp phần phát triển đất nước theo kịp thời đại, hội nhập với xu thế phát triển chung của quốc tế. Bên cạnh đó, phải rèn luyện sức khỏe để có khả năng cống hiến và bảo vệ đất nước. Đồng thời luôn quan tâm theo dõi đến tình hình chung của đất nước, tỉnh táo trước mọi hoạt động lôi kéo, kích động, phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch. Tích cực tham gia đấu tranh, phản bác mọi luận điệu xuyên tạc, sai trái của chúng. Bên cạnh đó, thường xuyên tuyên truyền trong quần chúng nhân dân nói chung, trước tiên là người thân, bạn bè để cùng cảnh giác, đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch và bọn tội phạm./.

Page 73: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

73

CÂU 2 HÃY CHO BIẾT VÀ NÊU CẢM NHẬN VỀ NHỮNG TẬP QUÁN,

TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN CỦA NGƯỜI DÂN BIÊN HÒA – ĐỒNG NAI; TỪ ĐÓ GIỚI THIỆU MỘT HOẠT ĐỘNG TẬP QUÁN, TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN GẮN VỚI CỘNG ĐỒNG XÃ HỘI MÀ ANH (CHỊ) TỪNG BIẾT HOẶC THAM GIA? ĐỂ PHÁT HUY VÀ BẢO TỒN BẢN SẮC

VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ANH (CHỊ) SẼ LÀM GÌ?

I. CẢM NHẬN VỀ NHỮNG TẬP QUÁN, TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN CỦA NGƯỜI DÂN BIÊN HÒA – ĐỒNG NAI

1. Về nguồn gốc và các nhân tố hợp thành

Biên Hòa - Đồng Nai được xem là vùng đất có bề dày lịch sử - văn hóa, mặc dù có sự đa dạng, đan xen và tập hợp nhiều yếu tố của văn hóa từ các vùng miền cũng như sự tác động của văn hóa từ bên ngoài nhưng vùng đất này vẫn giữ được những nét riêng của nó, chính điều đó đã tạo nên “văn hóa Đồng Nai”. Văn hóa Đồng Nai tiêu biểu cho nền văn hóa chung của cả cộng đồng các dân tộc ở một vùng rộng lớn hơn rất nhiều so với địa giới hành chính tỉnh Đồng Nai hiện nay. Văn hóa Đồng Nai là sự tổng hòa các giá trị văn hóa của 37 dân tộc anh em cùng sinh sống trên địa bàn, ngoài dân tộc Kinh (chiếm 92% dân số), còn lại đồng bào các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 08% dân số toàn tỉnh, trong đó có dân tộc bản địa là Chơ Ro, Mạ, S’Tiêng và Cơ Ho; các dân tộc đã sinh sống lâu đời ở Đồng Nai là: Hoa, Chăm và Khmer. Trong đó, dân tộc Hoa có số dân đông nhất, tiếp đến là các dân tộc Nùng, Chơ Ro, Tày, Khmer, Mường, Dao, Mạ, Chăm, STiêng, Sán Dìu, Cơ Ho, Thái, Thổ, Ê Đê, Sán Chay, Ngái, Raglay, Gia Rai, Lào, Cơ Tu, Xơ Đăng, Ba Na... Đồng bào các dân tộc sống xen kẽ rộng khắp các địa phương trong tỉnh, nhưng tập trung chủ yếu là ở các huyện Định Quán, Tân Phú, Xuân Lộc, Cẩm Mỹ, Trảng Bom và TX. Long Khánh.

Là bộ phận không thể tách rời của “Văn hóa Đồng Nai”, đời sống văn hóa tín ngưỡng dân gian của người Đồng Nai mang đậm sắc thái giao lưu văn

Page 74: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

74

hóa của nhiều vùng miền, đặc biệt là văn hóa Bắc bộ và Trung bộ, vừa giữ gìn tín ngưỡng nơi bản quán, vừa có sự tích hợp về tín ngưỡng với các dân tộc khác cùng sinh sống trên địa bàn (Hoa, Chăm, Khmer…) tạo nên nét đặc sắc trong đời sống sinh hoạt tinh thần, vừa gần gũi thân quen nhưng cũng rất sáng tạo trong quá trình hình thành, phát triển và hội nhập, cụ thể:

- Tín ngưỡng dân gian của người Đồng Nai cốt lõi xuất phát từ tín ngưỡng dân gian của người Việt gốc Trung bộ.

Với kinh nghiệm sản xuất và “ông bà”, “thần linh” mang theo, cư dân Việt có vốn liếng để hoà nhập vào vùng đất mới, không phải bắt đầu bằng “cảm hứng thần thoại” mà bằng tài sản tinh thần đã định hình. Với tài sản ấy, người Việt đã tồn tại với tư cách là chủ thể xã hội, không phải là nô lệ của tự nhiên. Niềm tin và thần thánh mang theo được ứng dụng ngay vào đời sống mới và nhanh chóng có trú sở thích hợp. Bàn thờ gia tiên, tục thờ thần bản gia, thần độ mạng trong nhà được hình thành cùng lúc với việc tạo ra mái nhà. Đồng thời, cái đền, cái miễu cũng sớm định hình dễ dàng theo thiết chế đọng trong trí nhớ; kinh nghiệm và lễ tục về sinh dưỡng, hôn nhân, tang tế, chạp giỗ… được vận dụng cho vòng đời người mới theo bài bản cũ mang theo. Trải nghiệm qua thực tế khoảng 3 thế kỷ, tín ngưỡng dân gian cư dân Việt ở đồng bằng Bắc bộ vẫn còn cốt lõi trong sinh hoạt của cư dân Việt ở Đồng Nai và chắc chắn ở nhiều vùng khác cũng vậy. Ghi chép của Lê Quý Đôn, Phan Huy Trú và Trịnh Hoài Đức trong tác phẩm của các ông cũng cho thấy lớp cư dân Việt sớm vào khai thác xứ Gia Định - Đồng Nai đa phần có nguồn gốc Trung bộ. Như vậy, tín ngưỡng dân gian truyền thống của cư dân Việt từ cái nôi là đồng bằng Bắc bộ chuyển cư vào Đồng Nai - Gia Định đã trải qua trạm trung gian “nhuộm màu Trung bộ”. Điều này có thể được chứng minh qua những biểu hiện trong tín ngưỡng dân gian có nguồn gốc Bắc bộ nhưng in đậm dấu hiệu của Trung bộ. Gói đường phèn, đường phổi trên bàn thờ ông bà trong ngày Tết rõ ràng là một sự hoài niệm về xứ Quảng. Những nhân thần nguồn gốc Trung bộ như: Bùi Tá Hán, Lương Văn Chánh, Nguyễn Phúc Diễn… thường được mời gọi trong văn cúng đình, lai lịch của nữ thần Dinh Cô, gốc tích Hát trả bạo, tục thờ cúng cá Ông, tàn tích của lễ cúng Tá thổ, uy thế của bà Chúa Ngọc, bà Chúa Động… cùng với âm vang của các vị thần biển khác trong tín ngưỡng dân gian chứng tỏ

Page 75: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

75

rằng lớp tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Trung bộ đã tác động trực tiếp đến Đồng Nai trong đó in cả dấu ấn lớp “tín ngưỡng nguồn” ở đồng bằng Bắc bộ. Việc thời Quốc tổ Hùng Vương, Lạc Long Quân, mẹ Âu Cơ, Trần Hưng đạo và hát chầu văn ở miễu thờ Liễu Hạnh Công chúa… cũng là biểu hiện (gần như nguyên dạng) của tín ngưỡng dân gian truyền thống của cư dân Việt ở đồng bằng Bắc bộ nhưng là lớp văn hóa mới du nhập từ đầu thế kỷ XX đến nay, chủ yếu gắn với nhóm cư dân Việt “mộ phu” và “di cư” hiện còn da diết với cố hương. Tín ngưỡng dân gian truyền thống của cư dân Việt gồm nhiều lớp, xuất phát chung một gốc, đến với Đồng Nai qua hai hệ (Bắc bộ và Trung bộ) đã tạo ra mẫu số chung trong sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai; đó là chất kết dính cư dân Việt ở Đồng Nai với cội nguồn, là hạt nhân, là “gien nội sinh” trong quá trình giao lưu, tích hợp tín ngưỡng của các tộc người khác.

- Tín ngưỡng của người Hoa in đậm dấu ấn trong tín ngưỡng dân gian của người Việt ở Đồng Nai.

Có thể khẳng định, tín ngưỡng dân gian truyền thống của dân tộc Việt hóa thành tài sản tinh thần của cư dân Việt từ lâu đời. Tuy nhiên, với sự giao thương, di dân của người Hoa từ thế kỷ XVII đã tạo nên sự đa dạng tín ngưỡng của vùng đất này và cũng tác động ít nhiều đến tín ngưỡng dân gian tại vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai. Tập đoàn người Hoa xuất hiện gần như là cùng lúc với quá trình khai phá lập làng của cư dân Việt với thế và lực chẳng thua kém, nếu không nói là hơn về quân sự, thương mại và tiềm lực kinh tế. Người Hoa đã sớm khẳng định vai trò của mình ở địa phương, họ khuyến khích thương mại và nghề thủ công, phát huy lực lượng quân sự, thiết lập hệ thống trú sở cho mình lẫn thần linh. Người Hoa có truyền thống sống có tổ chức, biết tương trợ nhau, tín ngưỡng của mình trong quan hệ với dân tộc khác. Với những đặc điểm như thế, người Hoa ở Đồng Nai có đầy đủ điều kiện để chi phối, thậm chí làm chủ sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân Việt ở Đồng Nai. Nhưng điều ấy đã không xảy ra. Những di sản tín ngưỡng của người Hoa mang theo hiện dễ tìm thấy trong đời sống sinh hoạt của người Đồng Nai: tục đốt nhiều vàng bạc, thờ cúng các vị thần Thiên Hậu, Cửu Thiên Huyền Nữ, Quan Thánh đế quân, Ngũ phương Ngũ thổ long thần, Tiền Hậu địa chủ Tài thần… Nhưng đó là sự bổ sung

Page 76: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

76

làm cho tín ngưỡng vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai thêm đa dạng, phong phú chứ không phải thay thế.

Tín ngưỡng của người Hoa nhập cư vào Đồng Nai không phải là triết lý Nho giáo mà là những yếu tố mới mẻ của nền văn minh nông nghiệp quen thuộc gắn với đám thương nhân bình dân cùng nỗi niềm tha hương của cư dân Việt, cho nên hai hệ tín ngưỡng dễ dàng chan hòa, dung hợp lẫn nhau, dần dần cư dân Việt và người Hoa chung mộ thần điện dân gian, đến mức khó phân biệt cội nguồn Hoa - Việt. Những hình tượng Phật và Quan Âm, Ngũ Hành nương nương, Thổ thần, Thổ địa, Chúa Tiên, Chúa Ngọc, Quan Công, Táo quân… cùng có sức sống ngang nhau trong tâm linh người Hoa cũng như cư dân Việt. Các vị thần Việt có họ hàng với Hoa là hiện tượng phổ biến ở Nam bộ nhưng không phải vì vậy mà phủ nhận “Việt tịch” của các vị thần ấy. Có thể thấy, sự dung nạp yếu tố tín ngưỡng của người Hoa vào tâm linh cư dân Việt không phải hỗn tạp mà là tiếp thu có chọn lọc và trong chừng mực nhất định. Người Hoa với tài lực dồi dào đã được trú sở bề thế cho thần thánh của mình như: Thất thủ Quan Võ miếu (thờ Quan Thánh Đế ở Cù Lao Phố, Phụng Sơn tự (thờ Quảng Trạch Tôn vương) ở phường Quyết Thắng, chùa bà Thiên Hậu ở Bửu Long, chùa ông ở Phước Thiền… Tuy nhiên không vì thế mà uy thế của các vị thần linh của họ trùm bóng lên thần điện của cư dân Việt. Những vị thần gốc Hoa ấy khi được dung nạp vào tín ngưỡng cư dân Việt, được thờ ở nhà hay ở đình, miễu đều trong sự hài hòa, bình đẳng với thần linh gốc Việt, thậm chí họ sẽ bị lẻ loi khi xa dời thần điện của cư dân Việt. Do vậy, quá trình Việt hóa các thần thánh của người Hoa nhanh chóng trên cơ sở tín ngưỡng cư dân Việt đã có nền móng và luôn sẵn chỗ để dung nạp thành tố mới. Mặt khác, cư dân Việt ở

Bàn thờ Thần tài và Ông địa trong tín ngưỡng dân gian

Page 77: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

77

Đồng Nai luôn có ý thức không sao chép nguyên bản của người Hoa. Thường cải biến hay dừng lại ở một mức độ nào đó để tín ngưỡng của mình không bị hòa tan hoặc biến dạng. Thần tài ngồi riêng một “ghế” ắt dễ nhầm với Tài Bạch tinh quân của người Hoa, nhưng khó thành một hệ với ông Địa, thì không thể nhầm “quốc tịch”. Quan niệm về tục lệ tang chế cũng na ná như nhau, nhưng nhìn hướng đầu hòm (quay đầu vào hay quay đầu ra) là đủ biết Hoa hay Việt. Tương tự, xem cách xử lý chén rượu cúng (uống hay đổ ra đất) cũng phân biệt đâu là cách của cư dân Việt.

Trong khi tài sản tinh thần mang theo không đủ để xử lý các tình huống mới lạ ở vùng đất mới, triều Nguyễn lại không tạo được gì thêm cho thần dân khai phá, thì tín ngưỡng của người Hoa đã đem đến cho cư dân Việt những hình ảnh mới làm phong phú thêm, đa dạng hơn những sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng tại Đồng Nai. Việc tiếp nhận yếu tố Hoa và sử dụng nó làm tài sản của mình đã thể hiện bản lĩnh và sức sống của tín ngưỡng dân gian truyền thống của cư dân Việt luôn bền vững trong giao lưu văn hóa và tiến trình phát triển.

- Tín ngưỡng của người bản địa là thành tố quan trọng trong việc hình thành tín ngưỡng dân gian của người Việt ở Đồng Nai.

Vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai là cái đuôi của dải Trường Sơn về phía Nam, là nơi giao thương giữa miền ngược với miền xuôi ắt thường xuyên diễn ra quan hệ trao đổi cũng như giao lưu văn hóa. Địa bàn trung du ở Đồng Nai hiện nay còn có những tộc người: Mạ, Xtiêng, Châu Ro, K’ho... những tộc người thiểu số này còn ở trình độ thấp, sống du canh du cư, ít truyền thống văn hóa; trong đó chỉ có người Mạ để lại nhiều dấu vết có quan hệ với cư dân Việt nhiều nhất. Theo truyền thuyết, người Mạ đã từng là chủ nhân của vùng đất thượng du dọc sông Đồng Nai Thượng, từng có những cuộc buôn bán, giao tranh với người Chăm, sau đó phải nhường bước rút lên vùng cao, để lại những “Gò Mọi, Đạ Đờng, Đạ Dung…” cho cư dân người Việt làm chủ. Tiếc là những tài liệu ghi chép trước đây thường gom các dân tộc thiểu số vào tên gọi “Man, Mọi, Thượng” khiến đời sau khó phân biệt, chỉ hiểu đại khái đó là cư dân các tộc ít người ở Tây Nguyên. Tàn dư tín ngưỡng của họ để lại trong cư dân Việt không nhiều lắm, chỉ thấy bóng dáng của “ó ma lai” trong kiêng kỵ của người phụ nữ sinh nở và thấp thoáng uy lực của “nữ thần lúa” trong vai trò của người

Page 78: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

78

phụ nữ trong việc chọn giữ bông lúc giống, “đón mẹ lúa” vào bồ… Di chỉ khảo cổ học lại cho thấy chủ nhân tài hoa của những mộ đá Hàng Gòn, đàn đá Bình Đa, qua đồng Long Giao, Miễu ông Chồn gần như có mặt khắp nơi nhưng là những lớp người (có thể) gắn với nền văn hóa Phù Nam chỉ còn tên gọi qua suy luận từ kết quả khai quật của các nhà khải cổ. Cho nên, hiện chưa có cơ sở để nêu ý kiến nào đó về mối quan hệ trong tín ngưỡng giữa người Phù Nam bổn địa xưa với cư dân Việt.

Người Khmer là lớp cư dân bản địa còn lưu nhiều vết tích trong sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân Việt ở Đồng Nai. Sử sách cho thấy, người Khmer có mặt ở Nam bộ sớm hơn cư dân Việt; đến năm 1888 còn 10.673 người ở tỉnh Biên Hòa nhưng trước đó họ là chủ nhân cả một vùng rộng lớn. Không rõ Đền Ngũ Công ở đầu nguồn Băng Bột mà Trịnh Hoài Đức cho rằng “Những thần ấy là lấy tên 5 cái thác hiểm mà theo như Man ngữ đế xưng hô” có phải thuộc hệ tín ngưỡng của người Khmer không, cứ theo tên gọi: Tà Mã quận công, Tà Môn quận công, Tà Nông quận công, Tà Việt quận công, Tà Khuông quận công thì có thể đoán định họ hàng với ông Tà (Niek Ta), một vị thần đất của người Khơmer. Với ông Tà mang lý lịch người Khmer, cư dân Việt ở Đồng Nai có thêm một vị thần đất “Ông Địa giữ nhà, ông Tà giữ ruộng” và khi cần thiết để phù trợ việc gì đó. Ông Tà cùng ông Địa được tin cậy, nhờ vả bằng lời khấn: “Vái ông Tà, Ông Địa”. Từ đó Niek Ta thâm nhập vào thần điện miễu Thổ thần cư dân Việt với bộ dạng là hòn đá lạ. Tàn dư tín ngưỡng của người Khmer còn biểu hiện ở Linh Sơn Thánh Mẫu với lai lịch một nữ thần Khmau của người Khmer, tục gọi là Bà Đen được cư dân Việt lẫn người Khmer phụng thờ. Còn có thể nhắn đến vị thần Ả Rặc Chi Y Mế thường được mời gọi phối hưởng ở các lễ cúng đình, cũng miễu; đó là vị nữ thần coi sóc việc hầu bóng trong thần điện của người Khmer tuy đã mất trú sở nhưng hãy còn âm vang trong tín ngưỡng của cư dân Việt.

Yếu tố bản địa rõ nét nhất trong tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai có lẽ là tín ngưỡng của người Chăm. Đồng Nai không nhiều vết tích cư trú của người Chăm như ở Khánh Hòa, Bình Định, Thuận Hóa. Sử sách cũng không cho thấy có sự giao lưu trực tiếp đáng kể giữa hai dân tộc Việt - Chăm trên mảnh đất Đồng Nai. Nhưng văn hóa Chăm thì in đậm dấu ấn của nó trong

Page 79: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

79

sinh hoạt văn hóa của cư dân Việt. Nó lắng sâu trong tâm thức và thể hiện trong đời sống hàng ngày, từ lễ thức gắn với đời người đến sinh hoạt cộng đồng, gia đình và xã hội. Có thể nó thâm nhập vào tâm linh cư dân Việt với “chiếc áo khoác” của tín ngưỡng cư dân Việt ở Trung bộ, Nhánh xương rồng giữ cửa cho sản phụ chỉ có thể xuất phát từ xứ sở của tháp Chàm. Tục Nằm lửa của sản phụ và chiếc vỏ lửa làm dấu hiệu mà Trịnh Hoài Đức đã không nêu rõ từ đâu vốn có nguồn gốc từ cổ tục của người Chăm. Người Chăm theo mẫu hệ nên đầu củi cháy quay vào trong là dấu hiệu sinh con gái, còn cư dân Việt thì ngược lại. Tương tự, có thể truy nguyên ra bóng dáng của tín ngưỡng Chăm qua hàng loạt sinh hoạt tín ngưỡng như: Cúng tá thổ, thờ cúng Thiên Y A Na Ngọc Diễn phi, thờ cúng Cá Ông. Rõ nhất là vũ điệu “múa bóng dâng bà” của xứ sở Chăm đã được tích hợp trong Hát bóng rỗi; vị thần mang lý lịch Chăm Maha Khẩn (Cẩn) lại thường được mời gọi trang trọng ở các lễ hội đình, miễu và luôn có vị thế ngang hàng với các vị thần phối tự khác. Yếu tố Chăm hòa nhập vào tín ngưỡng cư dân Việt bền chặt đến nỗi khó có thể bóc tách ra thành một lớp văn hóa thuần chất. Chính những yếu tố Chăm này đã làm cho tín ngưỡng của cư dân Việt ở Đồng Nai nhiều màu sắc, hơn thế nữa, nó tạo nhịp cầu cho tâm linh của cư dân Việt gắn kết với Đất và Người ở Đồng Nai. Yếu tố bản địa xuất hiện trong tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai không phải là phép cộng mà là một sự hòa nhập, cuối cùng tạo ra một kết quả không chỉ có lợi riêng cho phía cư dân Việt. Cư dân Việt ở Đồng Nai đối với văn hóa bản địa không phải bằng thái độ của kẻ chiến thắng, mà là bằng tâm thế của người chủ mới biết ơn, thủy chung, rộng mở với các chủ nhân vô danh. Đĩa rau luộc - chén mắm nêm, mâm cúng đất đai, bánh cúng bánh cấp trong lễ thí thực, cổ tục cúng Tá thổ ở vườn ruộng… đó là những nghĩa cử trong tín ngưỡng của cư dân Việt thể hiện lòng thành của mình đối với người bản địa, chính nó tạo ra sự chung sống hòa bình chứ không phải xung đột.

- Các yếu tố Việt – Hoa – Khmer – Chăm có sự sống hòa hợp tạo thành sự “cân bằng sinh thái tâm linh” trong tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt.

Qua nghiên cứu cho thấy, yếu tố tín ngưỡng dân gian truyền thống của dân tộc Việt là cái trục, là cốt lõi của sự vận hành, phát triển. Nhưng sự vận hành, phát triển ấy không phải tự thân, một chiều mà diễn ra trong ảnh hưởng

Page 80: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

80

chi phối của tam giáo: Phật, Nho, Lão. Tín ngưỡng dân gian truyền thống của cư dân Việt cũng như của người Hoa vốn đã có ảnh hưởng của tam giáo và định hình trong đời sống tinh thần của cư dân Việt từ lâu đời. Đến vùng đất mới, Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo lại tạo cơ sở mới bám rễ trong đời sống tâm linh của cư dân Việt, qua đó có sự ảnh hưởng qua lại giữa tín ngưỡng dân gian và tín ngưỡng tôn giáo.

Phật giáo gần như là tôn giáo chính của cư dân Việt, có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong tín ngưỡng dân gian. Đạo Phật du nhập vào Nam bộ khá sớm, trung tâm ban đầu là Đồng Nai – Gia Định, từ đó làm bàn đạp đưa Phật giáo tiến dần vào Nam bộ và ngày càng đóng vai trò quan trọng ở vùng đất mới. Theo Trần Hồng Liên, Phật giáo truyền thừa vào Đồng Nai bằng nhiều con đường: Một bộ phận từ Thuận Quảng vào với dòng Phật giáo không còn nét chính thống, một bộ phận từ các thiền sư Trung Hoa đến lưu trú và hành đạo tại Trung bộ, Nam bộ chủ yếu thuộc hệ phái Lâm Tế dòng Bổn Ngươn, nhưng dòng Phật giáo Trung Hoa này nhanh chóng được Việt hóa qua ảnh hưởng của các thiền sư Nam bộ như Thành Đẳng, Phật ý, Tổ Tông, hải Tịnh; một bộ phận khác do các thiền sư Trung Hoa theo chân người Hoa nhập cư vào Nam bộ với dòng đạo Minh Sư, tiền thân của Thiền giáo Thiên Thai sau này. Các dòng Phật giáo chủ yếu nêu trên đến Đồng Nai có xuất phát điểm khác nhau nhưng cùng chung số phận đặc biệt là: Thành phần dân dã, thuộc tầng lớp nghèo, thân phận phiêu tán… cho nên dễ đồng cảm với cư dân Việt, dễ hòa vào dòng mạch tín ngưỡng dân gian. Giáo lý của Phật giáo nhằm giải thoát chúng sinh cho nên đồng hành với người cùng khổ; nhưng cư dân Việt ở Đồng Nai dường như chỉ dung nạp “tâm Phật” của Phật giáo chứ ít chìm đắm vào thiên la địa võng của giáo lý và con đường tu tập khổ hạnh. Phật Thích Ca cao vời quá, người ta kính lạy ở chùa nhưng ít quen thân. Quan Âm chỉ là hàng Bồ tát nhưng có chức năng “xóa đói giảm nghèo” nên gắn với tín ngưỡng dân gian hơn, được thờ chủ yếu ở nhà, ở chùa, ở đình miễu. Nghi thức Phật giáo được vận dụng trong việc thờ cúng của cư dân Việt: cầu siêu ở đám tang, chay đàn thí thực, cúng cô hồn, cúng lễ ngày sóc - vọng hàng tháng, thậm chí sư ni cũng tham gia cúng lễ cầu an ở đình, miễu trước khi tiến hành lễ Đàn cả. Tính tích cực xã hội đậm màu sắc dân dã của cư dân Việt, đồng hành với ý nguyện hướng thiện cầu an, tôn kính ông bà, hiếu

Page 81: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

81

thảo với cha mẹ, cư xử tốt với mọi người vốn là truyền thống tốt đẹp của cộng đồng dân tộc Việt Nam (cũng là đạo lý của Nho gia) khiến cho khó có thể phân định được nguồn gốc tín ngưỡng dân gian hay tín ngưỡng Phật giáo – Nho giáo. Mặt khác, chính nhờ nhanh chóng hòa vào dòng mạch tín ngưỡng dân gian, thậm chí bằng con đường tín ngưỡng dân gian mà Phật giáo bám dễ trong tâm linh của cư dân Việt. Những huyền tích về các ngôi chùa, tích Phật Mục Kiền Liên – Thành Đề, Phật thoại về kết quả tu hành của Thủ Huồng… đều được cổ tích hóa theo con đường tín ngưỡng dân gian. Cho nên tín ngưỡng dân gian và tín ngưỡng Phật giáo gắn kết với nhau trong quá trình phát triển xã hội, ngay cả khi đương đầu với thế lực mới là thực dân Pháp. Khi người Pháp giữ quyền cai trị, Nho giáo bị phân hóa và khủng hoảng thì tín ngưỡng dân gian và tín ngưỡng Phật giáo vẫn chung một trận tuyến đứng về phía dân tộc, thậm chí còn là bệ đỡ tinh thần cho các sĩ phu yêu nước.

Nho giáo - Đạo Khổng tử ít tính chất tôn giáo nhưng lại có quyền lực thực tế qua bộ máy thống trị của triều đình phong kiến. Ngoài những phẩm chất của Nho giáo đã thấm sâu vào đời sống của người Việt từ lâu đời, Nho giáo đến với vùng đất mới còn tác động đến tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai bằng hai con đường chủ yếu: Tư tưởng chính thống qua bộ máy hành chính và tri thức của nho sĩ bình dân. Ở Đồng Nai, bộ máy hành chính ra đời muộn hơn sự hình thành cộng đồng dân cư ít nhất hơn 20 năm. Cho nên tư tưởng chính thống được tái lập trong tâm lý cư dân Việt đương nhiên là hậu sinh so với tín ngưỡng dân gian. Gọi là tái lập vì tư tưởng chính thống vốn đã có cội rễ ở cư dân Việt từ xa xưa, nhưng người Việt đến Đồng Nai từ thế kỷ XVII-XVIII tạm thời thoát ly guồng máy ấy trong thời gian khá dài, đủ vốn sống để thận trọng và dè dặt khi tái nhận nó qua sự áp đặt của bộ máy cai trị. Cho nên ở Đồng Nai, tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt có cội rễ bền vững hơn tư tưởng Nho giáo. Thậm chí nhiều lúc, nó đã chiến thắng. Cái chết của tướng Lê Văn Lễ và “sự sống” của Cô Bóng Hiên là một thí dụ. Một thí dụ nữa có thể lấy từ bản ghi chép của Trịnh Hoài Đức, rằng: Chánh thống suất Nguyễn Cửu Vân đã phải “mặc niệm cầu đảo” trước ngôi đền cổ của người địa phương mới thoát được tình thế nguy hiểm. Tuy nhiên, với quyền lực thống trị, triều Nguyễn vẫn nén được tư tưởng chính thống vào tín ngưỡng dân gian bằng cách sắc phong cho Thành

Page 82: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

82

Hoàng, định điển lệ, ban hành nghi thức tế lễ, thờ cúng ở làng xã. Theo đó, nghi lễ thờ cúng ở Đồng Nai đi vào khuôn phép, phân rõ thứ bậc, tôn ti. Tín ngưỡng dân gian đã phục tùng chữ “Lễ” của Nho giáo. Nhưng chính Nho giáo cũng phải thừa nhận thần linh trong tín ngưỡng dân gian. Nếu Khổng Tử chưa chính thức thừa nhận quỷ thần thì các Chúa Nguyễn, từ Nguyễn Hoàng trở đi đều tiếp nhận và huy động các thần linh của dân gian vào việc vun đắp và bảo vệ sự nghiệp của mình, do đó mà nhiều thần linh như thần nữ áo xanh, thần rái cá… đều có thần tích gắn với việc tôn vinh nhà Nguyễn.Đến thời Tự Đức, việc phong Thành Hoàng hàng loạt cho đình làng Nam bộ nhằm tập hợp thần linh địa phương xung quanh quyền lực “thiên tử” đã không ngăn chặn đường tàu đồng đại bác, nhưng ít nhất cũng đã tạo được hàng rào tinh thần ở nông thôn làm cản trở ý đồ thôn tính Nam bộ của thực dân Pháp.

Nho giáo bằng con đường của các sĩ tử bình dân đến với tín ngưỡng dân gian êm dịu hơn. Đó là những quan niệm về đạo lý làm người đã đặc điểm hiện thực hóa trong cuộc sống mẫu mực của các nho sĩ, đặc điểm công chúng tiếp nhận nạp vào hệ giá trị của mình rồi tái hiện trong các sinh hoạt hàng ngày cũng như trong sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian, lâu dần thành tài sản chung của cộng đồng. Khi quyền lực của triều đình Huế suy yếu, nhất là khi họ cắt ba tỉnh miền Đông rồi Nam kỳ lục tỉnh cho thực dân Pháp, nhiều sĩ phu yêu nước tự điều chỉnh lý tưởng Nho gia, từ giã biểu tượng “rồng chầu ngoài Huế” mà hòa nhập với dòng mạch “ngựa tế Đồng Nai” cùng với nhân dân kháng chiến chống Pháp. Qua đó, điện thờ của đình, miễu ở Đồng Nai cũng như ở Nam bộ bổ sung những nhân thần mang lý tưởng “vị quốc vong thân” của Nho giáo. Nhờ hòa nhập vào dòng mạch dân gian, dù thể chế đã suy tàn rồi mất hẳn trong xã hội Âu hóa, giá trị của Nho giáo vẫn còn tác dụng trong đời sống xã hội. Ngược lại, trong khuôn phép của Nho giáo, tín ngưỡng dân gian được hệ thống và có chỗ dựa để tồn tại lâu dài.

Đạo giáo ở Đồng Nai không có hệ thống cơ sở thờ cúng như nhiều nơi khác nhưng ảnh hưởng của nó rất sâu rộng trong đời sống người Đồng Nai. Trò đồng bóng người Việt ở Đồng Nai – Gia Định rất tin chuộng mà Trịnh Hoài Đức nhắc đến trong “Gia Định Thành thông chí” có lẽ là một dạng biểu hiện của Đạo giáo. Trước đó nữa, Đạo giáo phát triển ảnh hưởng sâu rộng đến mức Chúa

Page 83: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

83

Nguyễn lập những ty trong phủ Chúa bổ dụng các thầy pháp, đạo sĩ coi sóc việc đạo, gồm cả hai phái: Pháp lục và Đạo gian; năm 1789, Chúa Nguyễn thấy các ty này không còn phù hợp nữa đã bãi bỏ nhưng không chấm dứt được vai trò của thầy pháp, đạo sĩ trong dân gian. Ảnh hưởng của Đạo giáo trong dân gian rõ nhất là vai trò của thầy pháp trong thờ cúng. Họ là những “môi giới” giữa cõi người và cõi âm, có pháp thuật điều khiển âm binh, âm tướng, chuyển nhận thông tin từ cõi âm đến cõi người và ngược lại. Ở những lễ cúng: Tá thổ, cúng thế, động thổ, tống phong… thầy pháp là nhân vật chính; thầy pháp còn phối hợp cùng thầy chùa điều hành các lễ cúng cô hồn, thí thực ở đình, chùa. Do nhu cầu thực tế, trong các làng thường có một vài thầy pháp chuyên nghiệp lo việc cầu cúng. Bóng dáng của Đạo giáo còn thể hiện ở tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt qua các vi hành binh, hành khiến luân phiên cai quản cõi người trong năm hoặc cặp ma thuật trối yếm, bùa chú... trong sinh hoạt thường ngày. Có thể nói, ảnh hưởng của Đạo giáo tuy không có chiều sâu trong nhận thức nhưng phổ biến trong sinh hoạt tín ngưỡng dân gian.

Tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai không có hệ thống lý luận hoàn chỉnh về vũ trụ quan, nhân sinh quan, thế giới quan; ảnh hưởng của các tôn giáo đã bù đắp cho khoảng trống vắng đó. Cái tâm của Phật, cái lễ của Nho và ma thuật của Đạo đã tác động làm phức tạp hóa sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian; đồng thời chính nó cũng bị thu hút trong quá trình dân gian hóa khiến cho các hình thức biểu hiện của tôn giáo cũng nương theo dòng mạch của tín ngưỡng dân gian. Nói đến cặp yếu tố ảnh hưởng đến sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai, không thể không kể đến Thiên Chúa giáo và văn minh Âu Tây. Thiên Chúa giáo gia nhập muộn, sự xuất hiện của nó gây lo âu cho tinh thần dân tộc, khiến tín ngưỡng dân gian và Tôn giáo nhích lại gần nhau hơn, có bước tự điều chỉnh để cùng ứng biến với vị thần dị tộc đang được chính quyền Pháp, Mỹ ưu ái. Sự thống trị của thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ tạo ra sự đứt gãy, chia cắt tín ngưỡng dân gian với thiết chế chính thống của Nho giáo. Thần linh của cư dân Việt lại quay về vị thế dân dã, vừa gánh chịu đạn bom, vừa bị tổn thất do Nho học suy tàn. Thêm một vết gãy nữa khi trường kỳ chống Pháp, nhân dân thực hiện tiêu thổ kháng chiến, trụ sở của thần linh bị đốt phá, tín ngưỡng dân gian bị đưa ra khỏi hệ thống mới. Những

Page 84: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

84

sinh hoạt văn hóa – tín ngưỡng dân gian hiện tồn tại chẳng qua là sự khôi phục không đầy đủ sau nhiều chục năm đứt gãy. Càng phải thừa nhận rằng, văn minh Âu Tây có khoa học và kỹ thuật hiện đại ngoài việc đẩy lùi tín ngưỡng dân gian vào quá khứ, càng có tác dụng làm cho cư dân Việt thức tỉnh, tìm cách dung hợp cái mới, cải biến sinh hoạt của mình cho phù hợp với nhịp sống mới. Như vậy, những yếu tố phi lý, hoang đường bị loại dần, còn lại là cốt lõi của niềm tin và “cái lý” dễ chấp nhận. Như vậy, những sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai không phải tự nhiên có hay sẵn có mà là quá tình hình thành từ sự tích hợp của nhiều nhân tố. Việt - Hoa - bản địa trong sự tác động của tôn giáo và các nhân tố ngoại lai khiến cho sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai có nhiều màu sắc, đa hệ, hòa hợp được với các hệ văn hóa khác nhau mà không đánh mất cốt lõi của mình.

2. Đặc điểm đặc trưng về tín ngưỡng, dân gian của cư dân Việt ở Biên Hòa - Đồng Nai

Do nguồn gốc hình thành, phát triển và những quan hệ tác động đến nó, văn hóa - tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai bộc lộ một số đặc điểm nổi bật, đặc trưng và có liên quan mật thiết đến đời sống kinh tế - xã hội ở địa phương, cụ thể:

Thứ nhất, sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai mang tính hỗn dung hay nói cách khác là đa hệ trong cơ cấu cũng như trong biểu hiện. Đây không phải là đặc tính riêng của cư dân Việt ở Đồng Nai, nhưng nó thể hiện ở Đồng Nai rất đậm nét. Cơ sở kinh tế - xã hội của nó là nền nông nghiệp đa hệ sinh thái: Biển - sông rạch - vườn ruộng - bán sơn địa với nền thương nghiệp phát triển khá sớm. Cho nên, các chủ thể tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt gồm đa thành phần, trong đó tầng lớp thương nhân và thị dân đóng vai trò quan trọng. Tất cả đều hướng lòng tin vào thần linh phù hợp với vị thế của tầng lớp mình rồi lại vươn đến hình ảnh chung nhất của cộng đồng. Ví dụ, về phần Đất chẳng hạn, từ một vị thần chung chung phân hóa thành nhiều vị thần khác nhau có chức năng liên quan đến đất, rồi lại tích hợp thành một bộ “ông Địa - Thần Tài” hợp tình với cả nông dân, thương nhân và thị dân; thậm chí có sức thuyết phục cả giáo dân. Dường như, bất cứ sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian nào của cư dân Việt ở Đồng Nai cũng biểu hiện tính đa hệ ở

Page 85: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

85

cả ba mặt: Nguồn gốc hình thành, cơ cấu bên trong và biểu hiện bên ngoài. Chỉ riêng việc “nằm lửa” của sản phụ cũng đã thấy các hệ tín ngưỡng Hoa - Việt - Chăm đan xen, hội nhập và cùng biểu hiện. Tuy nhiên, đa hệ, hỗn dung nhưng không hỗn tạp, bởi cặp nhân tố hợp thành tín ngưỡng dân gian chẳng phải theo phép cộng đơn thuần mà là sự tích hợp có hệ thống. Xét ở mặt nào thì hệ thống ấy cũng bền chặt; tín ngưỡng dân gian trọn vẹn với: Vòng đời người -cộng đồng gia đình - cộng đồng xã hội, bao quát ở các cõi: Trời - Người - Đất, trải rộng ở các vùng: Sông nước - vườn ruộng - rừng núi, gồm các hệ tín ngưỡng: Truyền thống - ngoại nhập - bản địa với hệ thần linh gồm các dạng: ông bà (tổ tiên) - nhân thần - thiên thần, có giới tính: Nam - trung tính - nữ, và tên tuổi: Hữu danh - ý niệm chung - vô danh, dưới hình thức: Riêng lẻ - cặp đôi - bộ (gồm nhiều vị), thuộc các loại: Chính thống - nửa chính thống - dân dã, có quan hệ tiếp biến với: Nho giáo - Phật giáo - Đạo giáo, được phân bố vị trí thờ cúng hài hòa giữa trung tâm với trái - phái, trước - sau, trong - ngoài, trên - dưới... nó bền chặt đến mức nếu có nhân tố gia nhập mới thì đó chỉ là sự hòa nhập, thêm vào chứ không phải là sự thay thế hoặc thay đổi cơ chế. Nhưng nó không khép kín, không bảo thủ, mà chính sự đa hệ, đa dạng đã tạo ra khả năng nhạy thích ứng, dễ “làm quen” với văn hóa Đông - Tây, kim - cổ... trên cơ sở giữ được truyền thống của cư dân Việt. Từ đặc điểm này, có thể giải thích được tính quảng giáo, rộng mở, nhạy bén với cái mới nhưng không rời cội nguồn dân tộc của người Việt ở Đồng Nai.

Thứ hai, sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai ít thần bí, sự lý giải về thần linh thường dựa vào lôgich hiện thực hơn là trí tưởng tượng thần thoại. Đây là một đặc điểm khá nổi bật làm cho văn hóa - tín ngưỡng dân gian ở Đồng Nai có sức sống bền vững theo thời gian. Theo đó, các yếu tố phi lý bị giản lược, hủ tục không nhiều, thần linh có lý lịch và thần tích giản đơn, hợp lý, ít được cường điệu hoặc kỳ diệu hóa; từ đó gần gũi và thân thiết với thực tại hơn. Bà Ngũ Hành với ý niệm chung về sự vận hành của trời đất dần dần được thờ phụng phổ biến hơn các bà đầy huyền thoại khác. Thành Hoàng bổn cảnh cũng được biểu niệm chung gắn với vai trò “bảo hộ và quản lý đất đai” tại chỗ hơn là việc tìm đường nối kết với thần linh “bề trên” bằng con đường thần thoại hóa. Tục “hèm” tránh sát sanh khi cúng Phi

Page 86: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

86

Vân tướng quân Nguyễn Phục và những điều kiêng: Kiêng cúng Quan Công thịt gà và hơn mào gà, không cúng Võ Tánh heo quay, không cúng Tả quân Lê Văn Duyệt heo thiến… vì tế nhị chứ không phải do kiêng sợ.

Thần linh trong tín ngưỡng - dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai không đối lập, cũng không cách biệt với con người thực tế, nhân tính nhiều hơn thiên tính, ban phúc hơn là giáng họa, hiếm thấy tà thần, dâm thần; do vậy, người Đồng Nai đối với thần linh bằng lòng thành tri ân hơn là sự sợ hãi, phục tùng; thậm chí thần linh còn bị con người hành hạ, phiền trách, bỡn cợt. Hình tượng, tính cách và chức năng của Ông Địa là ví dụ rõ nhất. Bởi vậy, sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai không xa cách với đời sống hiện thực, tính tích cực xã hội của nó được hiện thực hóa trong sinh hoạt xã hội rất rõ nét: nó thường nối kết giữa đời sống tâm linh và hoạt động xã hội: Mụ Vườn vừa trong vai trò thầy cúng thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng dân gian, vừa là thầy thuốc góp phần chăm lo việc sinh sản ở nông thôn khi hệ thống y tế cơ sở chư hoàn chỉnh; tục lệ về hôn nhân có cốt lõi là hợp đồng trách nhiệm giữa đôi vợ chồng mới với gia đình hai bên và xã hội; việc tang nghiêng về ý nghĩa báo hiếu hơn là cái chết; hội đình, hội miễu tham gia tích cực trong công tác xã hội của làng như: Tang tế, bốc thuốc, dạy học, hòa giải, từ thiện... (riêng trong năm 1996, thu nhập từ lễ hội Dinh Cô đã đóng góp cho công tác xã hội ở địa phương hơn 500 triệu đồng). Sự nhích gần giữa sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian với đời sống hiện thực cũng là sự nhích gần giữa trú sở của thần linh với thiết chế văn hóa cơ sở.

Thứ ba, sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai thể hiện ý nghĩa nhân bản ở mức độ cao. Người Đồng Nai thành kính thờ phụng thần linh nhưng không lệ thuộc vào thần linh, càng không chịu đóng khung trong khuôn mẫu có sẵn. Nghi thức cúng đình thần tuân theo điển lệ nhưng thực hiện không “nghiêm túc”, như việc sử dụng cờ, lọng, lỗ bộ chẳng hạn. Triều đình Nguyễn ban hành rất nhiều qui định nhằm khuôn phép hóa việc cúng tế ở đình, nhưng ít có qui định nào được chấp hành đầy đủ; mỗi đình đều có cách làm khác đi, ở miễu càng phóng túng hơn, ở gia đình thì hoàn toàn từ tâm. Khi vương quyền Nguyễn suy yếu rồi sụp đổ, các thiết chế của phong kiến sụp đổ theo, nhưng cái đình vẫn nguyên vẹn ý nghĩa trong tín ngưỡng dân gian;

Page 87: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

87

đến khi thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ cai trị bằng một thiết chế khác hẳn, cái đình vẫn vững gốc mặc dù vỏ vật chất của nó bị tổn hại nặng nề.

Với số nữ thần được thờ cúng đa dạng, đa hệ; tính nhân bản trong tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai bộc lộ rõ nhất. Những nữ thần của khắp ba miền đất nước gần như hội nhập đủ mặt và khuếch đại uy lực ở Đồng Nai, nó thâm nhập vào thần điện của đình, chùa; lôi kéo cả nữ thần của Phật giáo, Thiên Chúa giáo, thậm chí lấn át cả nam thần. Qua kết quả nghiên cứu địa bạ của Nguyễn Đình Đầu, chúng ta đã thấy vai trò đặc biệt của phụ nữ Biên Hòa trong chủ quyền đất đai thì cũng sẽ dễ thấy vị thế tương tự của họ ở đình làng - vốn là thế giới của nam quyền. Ngoài các thánh mẫu thường phải dự phần, nhiều đình ở Đồng Nai còn có bàn thờ “Tiên đại phụ nhân”, với nghi thức thờ cúng vượt khỏi tục giỗ hậu thông thường. Khi có một hệ thống nữ thần đầy uy lực trong tâm tưởng, sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai không chìm đắm trong khuôn khổ Nho giáo, không bị ràng buộc trong các nghi thức cổ hủ rườm rà; đã sàng lọc, loại bỏ nhiều yếu tố phi nhân bản. Cho dù có thay đổi như thế nào thì nhân tố con người vẫn là hạt nhân giữ vai trò chủ thể trong tín ngưỡng chứ không phải thần linh hay áp lực nào khác.

Thứ tư, do hình thành muộn và bị đứt gãy bởi nhiều biến cố lịch sử, sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai hiện tồn tại trong mâu thuẫn giữa miền tin và tri thức. Qua quá trình tác động của chiến tranh và những yếu tố tác động từ bên ngoài vào, kể cả sự du nhập văn hóa - tín ngưỡng của người Hoa vào vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai mà không ít hoạt động lễ hội, tín ngưỡng bị ngưng trệ, tác động. Nhiều hoạt động văn hóa, tín ngưỡng phải qua nhiều lần phục dựng qua nhiều lăng kính với những hiếu biết, trí nhớ còn sót lại của nhiều người lớn tuổi nên ít nhiều cũng đã bị thay đổi, không còn giữ được tính nguyên bản ban đầu. Cùng với đó, các địa điểm sinh hoạt tín ngưỡng dân gian cũng bị thực dân Pháp và đế quốc Mĩ tàn phá, nhiều đền, miễu... bị phá bỏ làm cho việc sinh hoạt bị gián đoạn. Việc ghi chép, lưu trữ tài liệu về văn hóa tín ngưỡng - dân gian trong giai đoạn này chưa được chú ý nên việc duy trì, phát triển cũng như phục dựng lại cũng còn nhiều khó khăn. Tình trạng mai một, thất thoát các hoạt động sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian là điều khó tranh khỏi.

Page 88: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

88

Niềm tin ở tín ngưỡng dân gian còn cội rễ trong lòng người nhưng tri thức về nó đã rơi rụng nhiều dẫn đến sai lạc, chắp vá và sự phục hồi tùy tiện, thậm chí trái với bản tính ban đầu. Hiện tượng tâm lý “thờ có thiêng”, “tứ tung linh tang” đang phổ biến. Đó là mảnh đất hoang để những kẻ vụ lợi gieo cấy mầm mống có hại. Việc phục cổ một cách máy móc và hành vi mua thần bán thánh tinh vi cũng có nguồn gốc từ đây. Tín ngưỡng có lòng tin mà thiếu hiểu biết rất dễ đồng hành với mê tín, dị đoan.

Thứ năm, sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai là một hiện tượng thực tế không thể phủ nhận được. Nó đã từng là “món ăn tinh thần” để người Việt ở Đồng Nai hình thành, phát triển, vượt qua gian khổ, chiến tranh và nay tiếp tục gắn với đời sống tinh thần của con người trên bước đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Dù muốn hay không muốn thì vai trò, ý nghĩa của sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian vẫn tác động đến công cuộc xây dựng và phát triển xã hội. Hiệu quả tác động thế nào tùy thuộc vào thể chế xã hội ứng xử với nó. Nếu biết nuôi dưỡng, dẫn dắt, khai thác và cải biến “hạt nhân hợp lý trong nó” thì có thể hướng tín ngưỡng dân gian đi vào mục tiêu nhân văn, xây dựng được xã hội bình ổn đậm đà bản sắc dân tộc. Ngược lại, nếu phủ nhận hoặc bỏ rơi tín ngưỡng dân gian trong quá trình xây dựng và phát triển thì niềm tin của con người sẽ bị tổn thương, “phần xác” có thể đồ sộ nhưng “phần hồn” dễ trống rỗng. Thực ra, tâm linh con người không thể trống rỗng. Khi chân lý khoa học chưa chiếm lĩnh hoàn toàn trọng tâm thức, nếu thần linh đã rời xa thì “quỉ sứ” sẽ chui vào, rồi sự phá hoại sẽ thay chỗ của tín ngưỡng khuyến thiện.

3. Cảm nhận về những tập quán, tín ngưỡng dân gian của người dân Biên Hòa - Đồng Nai

Qua việc nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển cũng như đặc điểm đặc trưng của những tập quán, tín ngưỡng dân gian của người Biên Hòa - Đồng Nai đã làm cho tôi có cái nhìn khách quan, toàn diện hơn về những nét văn hóa đậm chất Nam bộ, những tập quán, tín ngưỡng như thể hiện suy nghĩ, tính cách và mong ước hướng đến cái chân - thiện - mỹ của những con người nơi đây. Cũng chính từ sự hiểu biết hạn hẹp đó đã cho tôi những cảm nhận rất chân thực về tập quán, tín ngưỡng dân gian nơi đây, cụ thể:

Page 89: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

89

- Những tập quán, tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai không phải tự nhiên có hay sẵn có mà là quá trình hình thành từ sự tích hợp của nhiều nhân tố. Từ tập quán, tín ngưỡng ban đầu khi đến với mảnh đất Biên Hòa - Đồng Nai, có nhiều hoạt động không thể giữ nguyên vẹn được tất cả nội dung và hình thức như lúc ban đầu. Quá trình di cư, khai phá vùng đất mới hoang sơ, tài liệu ghi chép không được đầy đủ thì hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng - tập quán có chăng là sự hồi tưởng, ghi nhớ lại những gì đã từng chứng kiến hoặc tham gia. Sinh hoạt tập quán - tín ngưỡng tiếp tục được bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với cuộc sống, sinh hoạt của người dân tại vùng đất mới. Theo thời gian, chúng không ngừng được gìn giữ và phát huy những giá trị tốt đẹp, góp phần giúp cho con người nơi đây thêm vững tin vào cuộc sống vào tương lai và đặc biệt là thêm tin tưởng vào chính bàn tay và khối óc của mình để thích nghi, tồn tại, làm giàu trên miền đất mới. Trải qua bao thăng trầm cùng miền đất mới với sự du nhập của tín ngưỡng - tập quán người Hoa và văn hóa bản địa nhưng tập quán - tín ngưỡng truyền thống của người Việt có sự hòa quyện, thích nghi nhưng vẫn không hề mất đi những giá trị cốt lõi vốn có của nó. Đáng lưu ý, tập quán tín ngưỡng truyền thống của người Việt vào khai phá mảnh đất Biên Hòa - Đồng Nai, với sự tổ chức, tạo điều kiện của nhà nước phong kiến nhưng nó không hề lấn át hay bài xích văn hóa tín ngưỡng - tập quán bản địa. Điều đó càng khẳng định thêm giá trị nhân văn, bền vững của văn hóa tín ngưỡng - tập quán của người Việt tại Biên Hòa - Đồng Nai. Cùng với thời gian, tất cả cùng hòa hợp tạo nên sự đa dạng, đa hệ cho tập quán, tín ngưỡng của vùng đất này.

- Tập quán, tín ngưỡng dân gian thể hiện tình yêu quê hương, hướng về nguồn cội của con người Biên Hòa - Đồng Nai. Được hình thành khá muộn, nhưng tập quán, tín ngưỡng của người dân Biên Hòa - Đồng Nai cốt lõi xuất phát từ tín ngưỡng dân gian của người Việt gốc Trung bộ. Để có thể hòa nhập với vùng đất mới với nhiều điều bỡ ngỡ, những con người đến với mảnh đất này với nỗi nhớ quê hương, nhớ về nơi quê cha, đất tổ. Những tập quán, tín ngưỡng mà họ mang theo cũng là một chút quê hương - nơi mà họ đã được sinh ra, lớn lên và gắn bó với nó suốt bao đời. Vì thời thế và cuộc sống mưu sinh họ phải vào đây. Từ cách thờ phụng, tế lễ và tổ chức các lễ hội của người Biên Hòa - Đồng Nai đều mang dấu ấn của tập quán, tín ngưỡng của miền Trung bộ đã

Page 90: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

90

được phát triển, bổ sung cho phù hợp với môi trường sống mới của mảnh đất Nam bộ.

Có thể nhận thấy, nội dung và hình thức sinh hoạt tín ngưỡng - tập quán của con người đất Biên Hòa - Đồng Nai đến nay vẫn còn giữ nguyên cái cốt, cái hồn của vùng đất đã sản sinh ra đó. Để mỗi khi người ta thực hiện các hoạt động này cũng chính là dịp để tưởng nhớ các bậc tiền nhân, tiên tổ đã truyền lại cho con cháu sau này. Cứ mỗi dịp lễ hội, sinh hoạt tập quán, tín ngưỡng cũng là lúc mà mỗi gia đình giáo dục truyền thống cho con cháu. Để họ hiểu hơn về nguồn cội, về những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa Việt, từ đó tiếp tục gìn giữ và phát huy các giá trị tốt đẹp đó.

- Sự lạc quan, yêu cuộc sống của những người dân Biên Hòa qua những hoạt động văn hóa, tập quán, tín ngưỡng dân gian. Hình thành từ cái thuở mang gươm đi mở cõi, khi mảnh đất Biên Hòa - Đồng Nai còn hoang sơ, rừng thiêng - nước đọng mà sử sách còn ghi lại về miền đất này “Đồng Nai xứ sở lạ lùng/ Dưới sông sấu lội trên rừng cọp um”. Cuộc sống thiếu thốn trăm bề nhưng có lẽ không làm nản lòng những con người với ý chí kiên cường, chịu thương, chịu khó. Qua nghiên cứu cho thấy, các hoạt động tín ngưỡng - tập quán không hề có sự thể hiện sự trông chờ, cầu khấn đến các thế lực siêu nhiên mà đều là sự phản ánh thực tế cuộc sống, những hoạt động sinh hoạt mang tính cộng đồng. Từ các hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng - tập quán để mọi người xích lại gần nhau hơn, hỗ trợ, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Có dịp được tham dự các đám ma chay của người Biên Hòa - Đồng Nai, chúng ta sẽ thấy sự khác biệt đối với nơi khác, việc than khóc về người đã khuất rất hạn chế, mà ở đây có cả một chương trình văn nghệ, chủ yếu là ca cổ để hát về ơn nghĩa sinh thành, tình cha, tình mẹ... Qua đó cũng giảm bớt được nỗi đau cho gia đình cũng như người đến viếng, dự cũng thoải mái tinh thần hơn.

Cùng với đó, các hoạt động văn hóa tập quán - tín ngưỡng dân gian tại vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai thường nổi bật lên các hoạt động lễ hội, nhất là dịp đầu xuân năm mới. Các hoạt động tế lễ, ghi nhớ công ơn các bậc tiền nhân tại các đền thờ, miễu cũng thu hút rất nhiều người đến tham dự. Có thể thấy, mỗi lễ hội, hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng - tập quán đều có những nét tiêu biểu, giá trị riêng nhưng nội hàm chính của nó bao giờ cũng thể hiện những ý nghĩa sâu

Page 91: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

91

xa của cộng đồng người vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai đối với thần linh, những con người có công với làng xã, quê hương, đất nước... Tuy nhiên, ở mỗi hoạt động đều là sự ghi lại hoặc tái hiện lại thực tế cuộc sống chứ không hề có sự mê tín, dị đoan, trông chờ vào thế lực siêu nhiên, thần thánh. Đó là nét đặc trưng nổi bật khẳng định bản lĩnh cũng như những giá trị tốt đẹp của con người Biên Hòa - Đồng Nai.

- Tập quán, tín ngưỡng dân gian của người dân Biên Hòa - Đồng Nai là niềm tự hào về sự bản lĩnh và sức sống mãnh liệt. Trải qua hơn 320 năm hình thành và phát triển “từ thuở mang gươm đi mở cõi”, biết bao thăng trầm của cuộc sống, những tác động, sự tàn phá khốc liệt của thiên nhiên và kẻ thù nhưng các giá trị của tập quán, tín ngưỡng dân gian vẫn tồn tại. Với ý đồ xâm lược và tìm mọi thủ đoạn để cai trị, các công trình, tài liệu phục vụ cho các hoạt động sinh hoạt tập quán, tín ngưỡng dân gian đã bị phá hủy, mai một đi rất nhiều. Nhưng với tinh thần, ý chí giữ gìn văn hóa dân tộc, người Biên Hòa - Đồng Nai vẫn không ngừng phục dựng, gìn giữ và phát triển những giá trị văn hóa đó.

Với sự xuất hiện ban đầu ở thế kỷ 17 và liên tục di cư trong khoảng thời gian tiếp theo, người Hoa đến vùng đất Đồng Nai với nhiều ưu thế. Số lượng người di cư lớn, họ có sức mạnh về quân sự và kinh tế. Các thương gia người Hoa gần như chiếm lĩnh và chi phối khá nhiều đến các hoạt động giao thương thời bấy giờ. Cùng với khả năng về kinh tế, họ cũng tác động và gây ảnh hưởng trên nhiều mặt của đời sống xã hội. Đáng chú ý, người Hoa mang đến vùng đất Đồng Nai một nền văn hóa lâu đời với sự đa dạng về tín ngưỡng, tập quán. Tuy nhiên, trải qua hàng trăm năm sinh sống tại vùng đất này, bằng nhiều hoạt động nhằm xâm lấn về văn hóa đối với người Việt, các hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng, tập quán của người Hoa vẫn không thể lấn án và làm thay đổi các giá trị văn hóa tín ngưỡng, tập quán của người Việt tại Biên Hòa - Đồng Nai. Có thể nói, người Hoa chỉ đem đến cho cư dân Việt những hình ảnh mới làm phong phú thêm, đa dạng hơn những sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng tại Đồng Nai. Việc tiếp nhận yếu tố Hoa và sử dụng nó làm tài sản của mình đã thể hiện bản lĩnh và sức sống của tín ngưỡng dân gian truyền thống của cư dân Việt tại Biên Hòa - Đồng Nai luôn bền vững trong giao lưu văn hóa và tiến trình phát triển.

Page 92: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

92

- Những tập quán, tín ngưỡng dân gian của người dân Biên Hòa - Đồng Nai tiếp tục được bảo tồn và phát huy trong thời đại công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Cùng với sự phát triển không ngừng của đất nước, Biên Hòa - Đồng Nai đang vươn mình mạnh mẽ trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nhằm đưa tỉnh nhà trở thành một tỉnh công nghiệp. Trong những năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Đồng Nai đã ra sức thi đua, lập nhiều thành tích nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đã đặt ra. Tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, các công trình, hạ tầng liên tục được đầu tư, xây dựng phục vụ cho sự phát triển. Cùng với đó, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhất là Internet đã có tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt. Đời sống về vật chất cũng như tinh thần của người Việt tại Đồng Nai cũng không ngừng được nâng lên. Đặc biệt là nhận thức của người dân về thiên nhiên, cuộc sống cùng với sự hỗ trợ của khoa học đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề. Các yếu tố thần bí, tâm linh cũng đã ít nhiều được khoa học giải thích. Tuy nhiên, với sự hình thành từ thực tế cuộc sống, cùng với quá trình tồn tại, chống chọi sự tác động từ nhiều phía nhưng tập quán, tín ngưỡng dân gian vẫn tồn tại. Giữa cuộc sống hối hả, tấp nập của thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, nhưng ở đâu đó mỗi chúng ta đều thấy hoạt động tín ngưỡng, tập quán dân gian vẫn diễn ra, vẫn còn đó các đình thần, miễu, các lễ hội cũng như các hoạt động thờ, cúng... Có thể tin tưởng chắc rằng, những giá trị văn hóa tín ngưỡng, tập quán dân gian của người Việt tại Biên Hòa đã, đang và sẽ tiếp tục tồn tại, thể hiện sức sống mãnh liệt, bền vững của con người nơi đây.

II. GIỚI THIỆU VỀ HOẠT ĐỘNG TẬP QUÁN, TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN GẮN VỚI CỘNG ĐỒNG XÃ HỘI MÀ BẢN THÂN TỪNG BIẾT HOẶC THAM GIA

TẾT THẦY TẠI VĂN MIẾU TRẤN BIÊN –

HOẠT ĐỘNG THỂ HIỆN TINH THẦN “TÔN SƯ - TRỌNG ĐẠO” CỦA NGƯỜI BIÊN HÒA - ĐỒNG NAI

* Vài nét về văn miếu Trấn Biên

Page 93: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

93

Văn miếu là biểu tượng văn hóa nhằm để tôn vinh các giá trị văn hóa - giáo dục theo quan điểm, mục đích của nhà nước phong kiến Việt Nam. Văn miếu cổ xưa thờ Văn Xương đế quân - một vì sao coi sóc văn chương của hạ giới (như đền Ngọc Sơn Hà Nội chẳng hạn); về sau, văn miếu thờ Khổng Tử cùng các học trò của ông; có nơi thờ cả Khổng Tử và Văn Xương đế quân. Triều Nguyễn (kể cả các chúa Nguyễn) rất chú trọng xây dựng văn miếu để tôn vinh sự học. Ngoài việc tu sửa, cải tạo các văn miếu có từ triều đại trước, các vua, chúa Nguyễn cho xây dựng mới nhiều văn miếu ở các trấn, tỉnh quan trọng . Theo Đại Nam nhất thống chí, văn miếu được xây dựng ở: Thăng Long (Hà Nội), kinh thành Huế, Trấn Biên, Nghệ An, Thanh Hóa, Quảng Nam, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Vĩnh Long, Gia Định, Hưng Hóa, Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Quảng Yên, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Sơn Tây. Trong đó, Văn miếu Trấn Biên được xây dựng khá sớm ở phương Nam, là Văn miếu của vùng Trấn Biên (nhiều tỉnh thành của Nam bộ ngày nay) chứ không phải của một tỉnh như nhiều văn miếu khác.

Văn miếu Trấn Biên là văn miếu được hình thành vào năm Ất Mùi 1715. Việc xây dựng văn miếu Trấn Biên thể hiện tầm nhìn của Ông cha ta, đây là một việc làm mang tính chính trị để khẳng định sự “có mặt” của mình trên vùng đất mới. Văn miếu Trấn Biên là thể hiện sinh động sự tiếp nối truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc ta, những tinh hoa cao quý cần phải chiếm lĩnh và giữ gìn muôn đời sau. đặc biệt là truyền thống “Trọng học” và truyền thống “Tôn sư trọng đạo”. Văn miếu không chỉ có ý nghĩa thiêng liêng trong việc tôn vinh

Văn miếu Trấn Biên

Page 94: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

94

những giá trị văn hiến của dân tộc và vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai mà còn là nơi trưng bày, sinh hoạt văn hóa, giáo dục truyền thống của Đồng Nai - là thiết chế văn hóa, giáo dục, khoa học lớn của tỉnh, có văn khố và lưu khố giữ và trưng bày những tác phẩm văn học nghệ thuật, những công trình nghiên cứu văn hóa, khoa học lịch sử, địa lý, nhân văn, những sản phẩm tiêu biểu của các nghệ nhân, các ngành nghề truyền thống. Văn miếu Trấn Biên thờ phụng các vĩ nhân, danh nhân tiêu biêu về văn hóa - giáo dục dưới hình thức tín ngưỡng dân gian truyền thống; thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, một biểu tượng kiệt xuất tiêu biểu cho tinh hoa văn hóa - giáo dục của dân tộc; thờ Khổng Tử như thánh sư của sự học theo quan điểm của Bác Hồ; thờ các danh nhân văn hóa Việt Nam và các danh sĩ đạo cao đức trọng ở phương Nam đã có những cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp phát triển nền quốc học Việt Nam. Được lựa chọn xây dựng ở nơi sơn thủy hữu tình “phía Nam hướng đến sông Phước (tức sông Đồng Nai), phía Bắc dựa vào núi rừng, núi sông thanh tú, cỏ cây tươi tốt” (Gia Định thành thông chí- Trịnh Hoài Đức), qua nhiều lần trùng tu, mở rộng, đến thời Tự Đức, Văn miếu Trấn Biên đã được xây dựng hoàn chỉnh và to đẹp nhất. Là nơi hội họp, tổ chức các hoạt động sinh hoạt văn hóa giáo dục lớn nhất của tỉnh, cho thế hệ trẻ và mọi tầng lớp đồng bào trong tỉnh đến tham quan, học tập, ngưỡng vọng về ngọn nguồn văn hóa. Văn miếu là nơi tôn vinh các giá trị văn hóa - giáo dục của quê hương, đề cao cá nhân, đơn vị ở địa phương đã đạt các huân chương, danh hiệu Nhà nước, học hàm, học vị cấp cao; giải thưởng quốc gia, quốc tế với thành tích đặt biệt xuất sắc... Đồng thời đây là một trung tâm văn hóa - giáo dục truyền thống của Đồng Nai vào những ngày lễ trọng. Những ngày thường là nơi tổ chức các sinh hoạt bình văn thơ, nhạc họa, giới thiệu tác phẩm mới; giáo dục truyền thống cho học sinh, tuổi trẻ, hội thảo khoa học; sinh hoạt dã ngoại... Giá trị biểu trưng về văn hóa - giáo dục của Văn miếu Trấn Biên không chỉ được các tầng lớp quan lại và sĩ phu phong kiến tôn vinh mà còn được nhân dân ngưỡng vọng gọi là “Văn Thánh”.

* Truyền thống “Tôn sư - trọng đạo” của người Việt tại vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai

Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Quốc gia muốn hưng thịnh, phải biết trọng dụng và bồi đắp cho hiền tài. Hiền tài không tự nhiên có; phải qua quá

Page 95: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

95

trình đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện thường xuyên từ ấu thơ cho đến lúc trưởng thành. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Vì lợi ích trăm năm trồng người” ở nước ta, thời nào cũng vậy, dù gian khó đến đâu, sự nghiệp trồng người vẫn luôn được xem trọng, được chăm lo để đào tạo nhân tài. Chính vì vậy, trải qua mấy nghìn năm lịch sử, dân tộc Việt Nam tự hào đã sáng tạo và xây đắp nên một nền văn hóa đặc sắc mà một trong những nét tiêu biểu ấy là truyền thống tôn sư trọng đạo. Việc hiếu học và kính trọng người thầy luôn là đạo lý cơ bản của người Việt Nam. Người Việt Nam hẳn không mấy người lại không nằm lòng câu ca dao:

“Muốn sang thì bắc cầu Kiều Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”

Truyền thống “tôn sư trọng đạo” của nước ta đã được truyền qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Song, phải thừa nhận rằng đạo học thời phong kiến đã ăn sâu vào tiềm thức người Việt Nam và có khả năng tác động, chi phối đạo học thời sau này. Người xưa đặc biệt chú trọng đến nhân cách con người, đạo học thời phong kiến lấy chữ “Lễ” làm trọng, sau đó mới đến chữ “Văn”. Lễ giáo phong kiến đặt ra nó có một cái lợi rất lớn, đó là giữ cho xã hội “thăng bằng” trong tam cương, ngũ thường… Người thầy được đặt vào vị trí xứng đáng trong xã hội, đây là tính ưu việt của nền giáo dục nước ta thời bấy giờ. Những điều luật thành văn và bất thành văn ấy dần dần ăn sâu vào nếp nghĩ, thái độ ứng xử cũng như việc làm của mỗi người trong xã hội, để rồi theo năm tháng kết tinh lại tạo thành truyền thống hiếu học - “tôn sư trọng đạo” của dân tộc Việt Nam. Người thầy sở dĩ tạo được

Quang cảnh lễ Tết thầy mùng 3 Tết âm lịch (ngày 25/01/2012) - Tại Văn Miếu Trấn Biên

Page 96: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

96

sự kính trọng của xã hội bởi người thầy là biểu trưng cao đẹp của đạo đức. Thầy không chỉ là người truyền dạy kiến thức mà cả đạo làm người. Trong đạo lý dân tộc Việt Nam, người thầy được tôn trọng và xếp ở vị trí cao, sau vua và trên cả cha: “Quân, sư, phụ”. Đó là trong khuôn phép lễ nghĩa, còn trong dân gian hình ảnh người thầy được sánh ngang hàng với cha mẹ “cơm cha, áo mẹ, chữ thầy”… sở dĩ người thầy ngày xưa có được vị trí cao quý ấy chính là bởi lòng tôn kính thầy và trọng đạo học của người xưa. Nền giáo dục Việt Nam đã để lại cho chúng ta nhiều tấm gương sáng về thầy và trò, nhân cách cao cả, tinh thần học tập của họ luôn là bài học cho hậu thế: Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Khuyến, những học trò xuất sắc như Vua Hiến Tông, Lê Quát, Phan Chu Trinh, Nguyễn Tất Thành, Ca Văn Thỉnh…

Ngày nay, nhà giáo được vinh danh là kĩ sư tâm hồn, nghề giáo được đánh giá là “Nghề cao quí nhất trong tất cả các nghề cao quí.” Lớp lớp nhà giáo đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp “Vì lợi ích trăm năm trồng người” (Bác Hồ), họ đã giảng dạy những học sinh từ mẫu giáo đến việc đào tạo ra không chỉ những công nhân, viên chức bình thường mà cả rất nhiều kĩ sư, bác sĩ, tiến sĩ, giáo sư nổi tiếng. Và không giống những nghề cho ra đời những sản phẩm vật chất, nghề giáo đã tạo ra những con người tri thức, có đạo đức. Mà muốn tạo ra những sản phẩm con người vừa có đạo đức, vừa có tri thức trong thời buổi hội nhập, trong sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ hiện nay, chắc chắn làm một thầy giáo, cô giáo cũng chẳng dễ dàng gì. Để có một bài giảng tốt, một lời khuyên hay, người thầy trước tiên phải là tấm gương sáng và đã phải trăn trở, nghĩ suy biết bao đêm ngày, lo lắng tất cả mọi thứ từ việc dặn dò học sinh học bài cũ, soạn bài mới cho đến việc thiết kế, soạn giáo án lên lớp. Đó là chưa kể đến những thầy cô nhà ở rất xa trường, phải đi rất nhiều cây số mới đến được lớp học, rồi lại có những thầy cô có hoàn cảnh rất khó khăn, cha mẹ già yếu, con cái đau ốm…

Nhưng vượt lên tất cả sự vất vả, người thầy luôn dành những gì tốt nhất mà mình chuẩn bị, dành hết cái tâm của mình để học sinh có thể hiểu bài, với một hi vọng giản đơn là mỗi học sinh sẽ trở thành một người có ích cho xã hội trong hiện tại và tương lai. Chính vì vậy mà hình ảnh người thầy đã khắc sâu vào tâm hồn của những ai từng là học sinh. Chắc chắn không ai có thể quên

Page 97: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

97

được “ngày đầu tiên đi học mắt ướt nhạt nhòa”, được cô giáo “vỗ về an ủi thật thiết tha”. Rồi trong một khoảng thời gian dài làm học sinh, biết bao người đã được thầy cô uốn nắn từng chữ viết, dạy cho cách làm người, cung cấp bao nhiêu kiến thức. Viên phấn trên tay thầy cô càng ngắn dần, tóc thầy cô càng điểm nhiều sợi bạc thì học sinh càng được mở rộng thêm kiến thức và sự hiểu biết. Yêu kính thầy đã trở thành một chuẩn mực đạo đức của con người. Trong các gia đình Việt thời phong kiến, khi con của họ được dăm bảy tuổi thì họ bắt đầu tìm thầy dạy học cho con mình. Họ sẽ phải đem đến nhà thầy một ít lễ vật để làm lễ bái sư. Những lễ vật này thường đơn giản như một ít hoa quả và nhang đèn. Thầy làm lễ nhận học trò, từ đó gia đình sẽ an tâm giao con cái của mình lại cho thầy và “trăm sự nhờ thầy” dạy dỗ cho con mình nên người. Thầy sẽ dạy cho học trò đạo lý làm người, bởi “tiên học lễ, hậu học văn” sau đó sẽ dạy chữ cho học trò và cả dạy võ nữa. Sau khi người học trò lĩnh hội hết những tinh hoa của thầy thì có thể vào Kinh đô ứng thí. Nếu người học trò có đủ trí tuệ và tài năng, đỗ đạt thì sẽ được triều đình bổ nhiệm làm quan. Được hưởng vinh hoa phú quý, được mọi người tôn sùng kính nể. Nhưng người học trò ấy không bao giờ quên công ơn dạy dỗ của thầy, họ sẽ trở lại báo đáp công ơn thầy, phụng dưỡng khi thầy đau yếu, về già, chăm lo cho thầy như cha mẹ. Bởi vì: “Không thầy đố mày làm nên”. Người dân Việt Nam có tinh thần hiếu học và rất biết ơn người có công dạy dỗ mình dù người ấy chỉ dạy mình một chữ hay nửa chữ “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Mang ơn thầy là bổn phận của người học bởi “Không thầy đố mầy làm nên”. Bổn phận này không phải chỉ là sản phẩm của lý trí thuần túy, nó xuất phát từ một tấm lòng, một tình cảm thật sâu xa bền bỉ: Đó là sự thương mến kính trọng thầy, mà đã thương mến, kính trọng, biết ơn thầy thì phải thể hiện bằng hành động thật cụ thể, chí ít phải chú trọng việc duy trì nề nếp, kỷ cương học tập và có thái độ “tôn sư trọng đạo”.

* Tết Thầy tại Văn miếu Trấn Biên (Mùng 3 Tết) - Hoạt động thể hiện tinh thần “Tôn sư trọng đạo” của người Biên Hòa - Đồng Nai

Với người dân Việt Nam, trong những ngày tết Nguyên Đán thì phong tục “Mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng ba tết thầy” được lưu truyền từ bao đời cho đến tận ngày nay và trở thành thành thông lệ có giá trị nhân văn sâu sắc, hai chữ “tết thầy” là nét đẹp văn hóa của người Việt Nam, trong 3 ngày đầu

Page 98: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

98

xuân, ngoài công ơn của cha mẹ thì không thể không nhớ đến công lao thầy cô đã cho chữ và dạy dỗ mình. Học trò đến với thầy, cô không phải bởi vật chất mà bởi sự tri ân. Người xưa quan niệm “nhân bất học bất tri lý” – không học thì không biết đến đạo lý ở đời. Vì thế, nhờ ơn thầy mà trò mới nên người. Và dù người trò sau này có thành công có quyền cao chức trọng như thế nào vẫn phải tôn kính cúi đầu trước thầy mình.

Với ý nghĩa đó mà tỉnh Đồng Nai chọn đúng ngày Mồng 3 Tết Nhâm Ngọ (ngày 14/2/2002) tổ chức lễ khánh thành giai đoạn I Văn Miếu Trấn Biên. Hơn 15 năm qua, kể từ khi khôi phục, hàng năm cứ vào ngày mồng 3 Tết, tại Văn Miếu Trấn Biên đều tổ chức Lễ Tết thầy kết hợp với nhiều hoạt động văn hóa khác như: lễ báo công trên các lĩnh vực mà Đảng bộ và nhân dân Đồng Nai đạt được, nhất là trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục được tổ chức trang trọng tại và trở thành truyền thống đẹp của miền đất Trấn Biên - Đồng Nai. Vào ngày này nhiều thế hệ học trò tề tựu về để dâng hương bày tỏ lòng thành và sự biết ơn đối với người thầy, người cô đã dìu dắt, uốn nắn mình nên người. Tại đây, ban tổ chức hành lễ kết hợp nghi thức cổ truyền và hiện đại với những sinh hoạt phù hợp với nội dung ngày lễ. Việc hành lễ gắn với các hình thức sinh hoạt văn hóa lành mạnh, đa dạng phục vụ nhu cầu tín ngưỡng và giải trí của công chúng. Lế tết thầy tạo nên một nét đẹp văn hóa ấn tượng khó phai trong lòng những người dân Đồng Nai. Trong không khí trang trọng, các

Các đồng chí lãnh đạo của tỉnh cùng các vị đại biểu dâng hương tại buổi lễ (Nguồn: Internet)

Page 99: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

99

đồng chí lãnh đạo tỉnh, đại diện các sở ngành và TP.Biên Hòa tiến hành dâng hương, dâng hoa viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh và các bậc tiền nhân đã dày công đóng góp cho nền giáo dục nước nhà tại nhà bái đường Văn miếu Trấn Biên; các thế hệ học sinh, sinh viên và thầy cô đã gặp gỡ, giao lưu, ôn lại kỷ niệm…. Đây là nghi thức nhằm tri ân công lao, tôn vinh người thầy, đồng thời giáo dục cho học sinh, sinh viên truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam.

“Tết thầy” trở thành nét đẹp truyền thống của dân tộc và luôn được gìn giữ, phát huy qua nhiều thế hệ, góp phần giữ gìn và nêu cao truyền thống “tôn sư trọng đạo” trong đời sống tinh thần của người dân, nhất là thế hệ trẻ của tỉnh Đồng Nai nói riêng, cả nước nói chung. Tại lễ tết thầy hàng năm ban tổ chức cũng trao tặng nhiều suất học bổng cho các thủ khoa, học sinh nghèo học giỏi trên địa bàn TP.Biên Hòa. Bên cạnh đó, còn trao tặng hoa cho các nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, tặng hoa cho đại diện các gia đình tiêu biểu có ba thế hệ công tác trong ngành giáo dục. Nhân dịp này, nhiều học sinh đã dâng lên thầy cô những đóa hoa tươi thắm để thể hiện sự chân thành, lòng biết ơn đối với thầy cô. Đồng thời, cả giáo viên và học sinh đã dâng hoa, dâng hương tỏ lòng thành kính đối với các bậc hiền nhân của quốc gia.

Đến với Văn miếu Trấn Biên, với Lễ “Tết Thầy” mùng 3 tết Nguyên đán như là sự nhắc nhở mỗi con người Đồng Nai về giá trị của tri thức, của sự học không ngừng nghỉ. Đó là minh chứng thực tế về những tấm gương các bậc thánh nhân, hiền tài đã làm rạng rỡ vùng đất Đồng Nai. Họ đã cố gắng không ngừng

Học sinh các trường của TP.Biên Hòa tặng hoa tết thầy (Nguồn: Internet)

Page 100: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

100

nghỉ, vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ mới có thể làm nên những giá trị tinh thần to lớn. Với mỗi người khi bước vào đây không khỏi tự hào cũng như được tiếp thêm hào khí Đồng Nai từ thuở “Mang gươm đi mở cõi...” cho đến ngày hôm nay. Đồng thời, nơi đây cũng vinh danh những tấm gương cá nhân tiêu biểu, đạt nhiều thành tích cao trong học tập nghiên cứu để thấy rằng Đồng Nai luôn trân trọng những hiền tài. Qua đó, góp phần giúp họ thêm yêu mảnh đất này, cùng chung tay xây dựng Đồng Nai ngày một phát triển, xứng đáng với sự kỳ vọng của các bậc tiền nhân.

Giá trị lịch sử truyền thống của dân tộc ta nói chung, truyền thống “tôn sư, trọng đạo” nói riêng được để lại là hết sức to lớn, mỗi người dân Đồng Nai như được soi mình vào đó để cảm thấy hãnh diện và tự hào về một vùng đất địa linh, nhân kiệt về một vùng đất trọng tri thức, sự học lên hàng đầu và về những người con ưu tú của đất Biên Hòa - Đồng Nai. Qua đó để thấy mình càng phải cố gắng phấn đấu hơn nữa, nối tiếp truyền thống cha ông trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa tỉnh nhà.

III. NHỮNG VIỆC CẦN PHẢI LÀM ĐỂ PHÁT HUY VÀ BẢO TỒN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1. Sự cần thiết phải bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc

Bản sắc văn hóa (BSVH) dân tộc là tài sản vô giá; là linh hồn của dân tộc được hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước với bao biến cố thăng trầm của lịch sử; được viết lên bằng máu, nước mắt và mồ hôi của cả dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, nó là biểu tượng của sự trường tồn, là cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của dân tộc. Bản sắc văn hóa của dân tộc có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong đời sống của mỗi con người, mà còn có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã từng nói: “Văn hóa còn thì dân tộc còn, mất văn hóa là mất tất cả”. Vì vậy, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay cần phải được đề cao, coi trọng như là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên để tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng mà ông cha đã dày công tạo dựng, vun đắp.

Page 101: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

101

Trong thời buổi toàn cầu hóa, hội nhập ngày một đa dạng hóa và sâu rộng, các quốc gia, dân tộc trong quá trình tìm kiếm con đường phát triển, hội nhập cho riêng mình đã quan tâm nhiều hơn đến vấn đề văn hóa. Văn hóa được khẳng định một cách đầy đủ hơn vị trí vai trò vốn có của nó trong đời sống xã hội và trong các chiến lược phát triển của các quốc gia. Nhận thức đúng đắn và khoa học tầm quan trọng của vấn đề văn hóa, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. BSVH là dấu hiệu cơ bản đặc trưng của một dân tộc, phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Không thể có hai dân tộc khác nhau lại có nền văn hóa hoàn toàn giống nhau. Nếu một dân tộc để mất đi BSVH của mình thì họ không còn là họ nữa. Tuy dân tộc đó không bị tiêu vong về mặt sinh học, nhưng họ không còn vị trí trên vũ đài lịch sử, bởi vì dân tộc ấy đã bị hòa tan và hợp lưu vào dòng chảy của nền văn hóa khác. Bản sắc văn hóa không phải là cái gì bất biến cố định, tuy nó có tính ổn định cao. Sức mạnh của văn hóa dân tộc không phải là một hằng số không đổi. Trong quá khứ nó có thể có sức mạnh tự vệ và phát triển. Nhưng trong hiện tại và hướng tới tương lai nếu không được thường xuyên bồi đắp thì nó trở nên suy yếu, tiêu tan dần sức đề kháng, mất dần động lực phát triển. Như vậy, dẫn đến nguy cơ bị mất bản sắc văn hóa và tan ra vào dòng chảy của nền văn hóa nào đó”.

Điều đó cho thấy, việc bảo vệ BSVH trong tình hình hiện nay càng trở nên phức tạp, khó khăn, đòi hỏi vừa phải có chiến lược cơ bản, lâu dài vừa phải có đối sách cụ thể hàng ngày một cách đúng đắn, bởi những lí do cụ thể:

- Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là giữ gìn cốt cách dân tộc trong quá trình phát triển của dân tộc.

Nói tới cốt cách của con người là nói đến nét đặc sắc, đặc trưng về tính cách của một con người hoặc của một tầng lớp xã hội. Nói tới cốt cách của một dân tộc thì không chỉ nói tới những nét đặc sắc, đậm đà được biểu hiện qua tính cách mà còn thông qua toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc. Cốt cách dân tộc là cái tương đối ổn định, bền vững bởi nó được hình thành, tạo dựng và khẳng định trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc. Lĩnh vực thể hiện rõ nhất cốt cách dân tộc, tinh thần dân tộc là văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc là biểu hiện sống động của cốt cách dân tộc qua bao thăng trầm của lịch sử.

Page 102: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

102

Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cũng chính là giữ gìn cốt cách dân tộc. Cốt cách dân tộc được coi là “chất”, là “bộ gien” của mỗi dân tộc và giữ gìn BSVH dân tộc chính là bảo vệ, giữ gìn bộ gien quý đó. Một nền văn hóa giữ được cốt cách dân tộc sẽ là một nền văn hóa có đủ “sức khỏe” để đề kháng, chống lại sự “ô nhiễm văn hóa” hay “xâm lăng văn hóa” một cách vô thức hay có chủ định. Đây là một điều kiện cơ bản để “tiếp biến” văn hóa trước sự tác động nhiều chiều, phức tạp của khách quan được thực hiện một cách chủ động, tích cực. Chỉ như vậy, nền văn hóa dân tộc mới không bị “hòa tan” hay “lai căng” một cách thô thiển, mất bản sắc. Giữ được cốt cách dân tộc sẽ giúp dân tộc thích ứng được với những cái mới và “dân tộc hóa” cái mới để biến nó thành tài sản của dân tộc, mang hồn của dân tộc. Lịch sử đã chứng minh sự tiếp biến kỳ diệu của nền văn hóa Việt Nam trong điều kiện bị nước ngoài xâm lược. Đó là sự tiếp biến giữ được cốt cách dân tộc, đồng thời phát triển được bản sắc dân tộc trước những thách thức của lịch sử. Đây là một truyền thống, một “cốt cách dân tộc” cần được phát huy trong điều kiện phát triển kinh tế của nước ta hiện nay.

Có thể nói, cốt cách dân tộc như mạch nước nguồn xuyên suốt quá trình phát triển của dân tộc. Nếu một dân tộc đạt đỉnh cao về kinh tế nhưng không giữ được cốt cách dân tộc thì sự phát triển ấy là không trọn vẹn. Trong quá trình phát triển, nhiều khi vì lợi ích kinh tế trước mắt, người ta có thể chưa ý thức nhiều tới việc giữ gìn BSVH dân tộc, giữ gìn cốt cách dân tộc. Thực tế, sự thiếu thốn, nghèo nàn về bản sắc văn hóa, sự mất mát về cốt cách dân tộc nhiều khi còn đáng sợ hơn sự thiếu thốn, nghèo nàn về vật chất. Sự mất mát về BSVH dân tộc làm mất đi cốt cách dân tộc, có thể làm mất đi ý nghĩa tồn tại của một dân tộc. Như vậy, sự phát triển kinh tế có thể mang lại sự đầy đủ về vật chất và tiện nghi sinh hoạt nhưng không đồng nhất với sự phồn vinh, thịnh vượng nếu ở đó thiếu vắng những giá trị văn hóa dân tộc. Sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa, đặc biệt là giữ gìn BSVH dân tộc gắn với giữ gìn cốt cách dân tộc là một nguyên tắc luôn cần được tôn trọng trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.

- Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở củng cố ý thức tự tôn dân tộc và là nền tảng cho sự phát triển kinh tế bền vững.

Page 103: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

103

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là nói đến lòng tự hào, ý thức tự tôn dân tộc. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ nhấn mạnh những nét đặc sắc của dân tộc mà còn là giữ gìn những giá trị thuộc về dân tộc đó. Đồng thời, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở ý thức tự giác của cả cộng đồng dân tộc. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói, văn hóa phải “Đi sâu vào tâm lý quốc dân” để từ đó “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Ý thức tự tôn dân tộc được củng cố thông qua việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ có ý nghĩa trong việc phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc mà cả đối với quá trình phát triển nói chung, phát triển kinh tế nói riêng. ý thức đó có thể trở thành sức mạnh giúp dân tộc vượt qua những khó khăn, thử thách trong quá trình phát triển. Hành động tự nguyện quyên góp tiền vàng cho Chính phủ thời kỳ khủng hoảng kinh tế hay tự hào sử dụng những sản phẩm sản xuất trong nước để phát triển kinh tế đất nước chính là minh chứng khẳng định giá trị của ý thức tự tôn dân tộc cho sự phát triển kinh tế bền vững của dân tộc.

Hội nhập quốc tế là một quá trình chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Nó tạo ra một môi trường thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất một cách mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu, đồng thời cũng phân chia thế giới thành hai cực giàu nghèo một cách khốc liệt tạo nên sự phụ thuộc khó tránh khỏi của các quốc gia kém phát triển vào các nước phát triển. Đó là nguyên nhân của sự bất bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc có trình độ phát triển khác nhau. Sự bất bình đẳng này không chỉ biểu hiện trong lĩnh vực kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa, đe dọa bị đồng hóa, đánh mất bản sắc văn hóa của các dân tộc có trình độ phát triển thấp hơn. Ngoài ra, quá trình phát triển nền kinh tế thị trường cũng làm phát sinh một số hiện tượng tiêu cực, như hình thành lối sống hưởng thụ, suy tôn vật chất, chú trọng vật dụng hiện đại mà coi nhẹ những giá trị tinh thần thuộc về dân tộc; đề cao cái cá nhân mà suy giảm tính cộng đồng, mờ nhạt về ý thức tự tôn dân tộc... tất cả những điều đó đều làm suy yếu đi sức mạnh của dân tộc. Củng cố ý thức tự tôn dân tộc sẽ góp phần điều tiết, định hướng giá trị để hạn chế những mặt tiêu cực đó. Như vậy, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập quốc gia sẽ góp phần phát huy mặt tích cực và hạn chế

Page 104: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

104

mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường trong hoàn cảnh hội nhập quốc tế, bảo đảm cho sự phát triển của dân tộc giữ vững được độc lập, tự chủ trên mọi phương diện. Đảng ta khẳng định: “Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc”.

Ý thức tự tôn dân tộc không chỉ để khẳng định mình với dân tộc khác mà còn giúp dân tộc đó có thái độ đúng mực với cái mới, cái hiện đại. Đó là sự không quá tự ti hay quá tự cao tự đại để khép kín, bảo thủ hay phủ định sạch trơn những giá trị truyền thống trước cái mới lạ, hấp dẫn xâm nhập từ bên ngoài cùng với quá trình hội nhập quốc tế. Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là để khẳng định sự độc lập tự chủ của dân tộc về mọi mặt, đồng thời cũng tạo niềm tin và là cơ sở vững chắc cho các quan hệ hợp tác quốc tế. Đó là nền tảng tinh thần cho dân tộc Việt Nam vững bước đi lên. Có học giả nước ngoài đã cho rằng: “Có thể thăng, có thể trầm, nhưng với lòng tự tôn mạnh, Việt Nam sẽ không chịu thấp kém” so với các dân tộc khác.

- Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là tiếp tục phát huy tính sáng tạo của dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế.

Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là hướng tới một nền văn hóa dân tộc đa dạng, phong phú về sắc thái chứ không phải là một nền văn hóa nghèo nàn, giống nhau, cùng khuôn mẫu. Đa dạng, phong phú hoàn toàn đối lập với sự nghèo nàn, đơn điệu. Đa dạng, phong phú về bản sắc là một thuộc tính của văn hóa thể hiện khả năng sáng tạo của các dân tộc trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Ngày nay, hội nhập quốc tế, một mặt, tạo điều kiện để các nền văn hóa dân tộc được giao lưu, hợp tác và phát triển; mặt khác cũng tạo ra xu hướng toàn cầu hóa về ngôn ngữ, về văn hóa, về lối sống và quan niệm giá trị. Quá trình đó đặt các dân tộc trước nguy cơ đánh mất BSVH dân tộc, đồng thời còn ẩn chứa nguy cơ làm suy giảm tính sáng tạo của các dân tộc trong quá trình phát triển.

Sáng tạo trong giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một yếu tố quan trọng. Sáng tạo sẽ “cởi trói” tư duy con người thoát khỏi sự khuôn buộc của thói quen, phong tục hay tiêu chuẩn đã không còn phù hợp với điều kiện

Page 105: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

105

mới. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, một mặt, phải gắn liền với chống lạc hậu, lỗi thời “trong phong tục, tập quán, lề thói cũ”; mặt khác, giữ gìn phải biết lọc bỏ - bổ sung - phát triển một cách sáng tạo, phù hợp với đời sống hiện đại. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là không ngừng xác lập một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở phát huy tính sáng tạo của dân tộc. Đó chính là sức sống nội lực của một dân tộc trong quá trình phát triển bền vững. Ngoài ra, khơi dậy và khuyến khích sáng tạo không chỉ có ý nghĩa trong giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc mà cả trong phát triển kinh tế. Mọi sự thụ động, bảo thủ, trì trệ đều kìm hãm phát triển. Đa dạng, phong phú không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực thúc đẩy quá trình giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập quốc tế. Với tư duy sáng tạo, con người mới làm chủ được quá trình giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn, kế thừa và phát triển, mối quan hệ giữa cái cũ và cái mới, cái truyền thống và cái hiện đại, cái tiên tiến.

- Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Trải dài theo năm tháng của lịch sử, mỗi dân tộc hun đúc cho mình rất nhiều giá trị văn hóa trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Những truyền thống đó được lưu giữ, bổ sung, phát triển phù hợp với điều kiện mới và đáp ứng những yêu cầu phát triển của lịch sử. Trong thực tế, lòng yêu nước, yêu lao động, yêu chuộng hòa bình và nhiều giá trị nhân văn khác đã trở thành sức mạnh tinh thần giúp mỗi dân tộc vượt qua những gian nan thử thách để phát triển ngày càng vững mạnh. Những tinh thần đó tiếp tục được bổ sung những nhân tố mới, cách thức biểu hiện mới để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập quốc tế. Ngày nay, yêu nước không chỉ để chiến thắng kẻ thù xâm lược mà còn là để xây dựng một dân tộc phát triển về mọi mặt để có thể “sánh vai” cùng các dân tộc khác trên trường quốc tế. Yêu nước, yêu lao động không chỉ là trân trọng đất nước và quý trọng lao động mà còn là động lực để dân tộc đó không ngừng vươn lên những tầm cao của tri thức, nâng cao năng lực sản xuất, hiệu quả lao động, tạo ra những hàng hóa có sức cạnh tranh mạnh mẽ với hàng hóa các nước khác trên thị trường quốc tế. Yêu chuộng hòa bình là để bảo vệ sự ổn

Page 106: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

106

định, phồn vinh không chỉ cho mỗi dân tộc mà còn cho một thế giới tốt đẹp... Đó là những giá trị phù hợp với thời đại ngày nay.

- Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc gắn với bảo vệ mối quan hệ hòa hợp giữa con người với tự nhiên và xã hội.

Con người là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của thế giới tự nhiên và là một bộ phận không thể tách rời thế giới đó. Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người ngày càng ý thức rõ rệt về mối quan hệ hòa hợp giữa con người với thiên nhiên, con người với con người. “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa” đã trở thành triết lý sống của con người trong mọi thời đại. Ngày nay, trước sự tác động của biến đổi khí hậu và sự bất ổn tàn khốc của chiến tranh, khủng bố đang hằng ngày hằng giờ cảnh báo cho loài người phải biết quan tâm đến việc sống hòa hợp với tự nhiên và xã hội như một nhân tố không thể thiếu để phát triển, trong đó có phát triển kinh tế. Hiểu theo nghĩa rộng nhất, văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do chính con người sáng tạo ra trong hoạt động sản xuất và đời sống xã hội. Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội không chỉ là môi trường sống mà còn là môi trường văn hóa, nơi những giá trị văn hóa hay bản sắc văn hóa dân tộc hình thành, tồn tại và phát triển. Để giữ gìn văn hóa nói chung, bản sắc văn hóa nói riêng, tất yếu phải bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội. Điều này không chỉ có ý nghĩa với văn hóa mà còn có ý nghĩa với quá trình phát triển kinh tế khi mà hệ lụy của quá trình phát triển công nghiệp như vấn đề ô nhiễm và cạn kiệt tài nguyên đang là mối đe dọa đầy bất trắc cho sự tồn tại và phát triển của loài người. Hơn lúc nào hết, việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc gắn với phát huy cách ứng xử văn hóa với tự nhiên và xã hội được coi như một bảo đảm cho sự ổn định và phát triển.

2. Vấn đề đặt ra đối với việc phát huy và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc trong giai đoạn hiện nay

Cùng với xu thế hội nhập quốc tế trước những yêu cầu của sự nghiệp công nghiêp hóa và hiện đại hóa đất nước, bản sắc văn hóa dân tộc đang đứng trước sự tác động mạnh mẽ từ nhiều phía, nhất là văn hóa từ các nước không ngừng xâm nhập vào nước ta bằng nhiều con đường và đang hàng ngày, hàng giờ thẩm thấu đặt ra cho việc bảo tồn không ít khó khăn, thách thức, cụ thể:

Page 107: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

107

Thứ nhất, trong quá trình phát triển của dân tộc, mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chưa thực sự được tôn trọng. Kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng liên tục, tỷ lệ đói nghèo không ngừng giảm... góp phần nâng cao vị thế của dân tộc trên trường quốc tế, tuy nhiên sự phát triển đó vẫn chưa thật sự bền vững khi dựa trên nền tảng tinh thần còn thiếu vững chắc. Phát triển kinh tế còn có biểu hiện coi trọng lợi ích trước mắt; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc có xu hướng chạy theo phong trào, hình thức, khuôn mẫu mà chưa tính hết tính đa dạng, làm nghèo nàn bản sắc văn hóa vốn có của các dân tộc. Từ đó dẫn đến trong đời sống xã hội, kinh tế có bước phát triển nhưng bản sắc văn hóa dân tộc lại bị mai một, mất dần hoặc lai căng một cách tự phát. Biểu hiện có thể cảm nhận được là cùng với phát triển kinh tế thương mại, du lịch là sự “thương mại hóa”, “hàng hóa hóa” những sắc thái văn hóa dân tộc dẫn đến giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tự phát, phiến diện. Mặt khác, trong quá trình phát triển kinh tế chúng ta vẫn còn tư duy phát triển những ngành công nghiệp dựa trên khai thác tiềm năng thiên nhiên mà chưa chú trọng thích đáng đến phát triển ngành công nghiệp văn hóa. Sự trì trệ của công nghiệp văn hóa dẫn đến hệ quả “kép” về cả hiệu quả kinh tế và việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Tất yếu hình thành thứ văn hóa “ăn theo”, “bắt chước” văn hóa phương Tây một cách thiếu chọn lọc, tạo điều kiện cho chúng thâm nhập vào đời sống của dân tộc. Đó là một nguy cơ làm nghèo, kiệt đi bản sắc văn hóa dân tộc, làm mất đi sức sáng tạo của dân tộc thời hiện đại. Ở đây cần phải hiểu đúng về “sáng tạo”, đó là sự không ngừng tìm tòi cái mới nhưng không phải cái mới nào cũng được coi là sáng tạo, cái mới ấy phải là cái hữu ích. Sáng tạo văn hóa là sáng tạo cái mới nhưng phải phù hợp với truyền thống dân tộc và góp phần đưa dân tộc đó phát triển, đó là sáng tạo hữu ích cao nhất mà mọi dân tộc vươn tới.

Thứ hai, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chưa được thể hiện rõ nét trong quá trình phát triển dẫn đến “sức khỏe” của nền văn hóa dân tộc chưa đủ mạnh và được tăng cường thường xuyên. Khi “sức khỏe” đời sống tinh thần của dân tộc không tốt dễ dẫn đến bị cái mới lạ từ bên ngoài “mê hoặc” một cách mù quáng, từ đó có thể có thái độ tự ti, xa rời những giá trị văn hóa dân tộc truyền thống. Đây là nguy cơ bị “hòa tan”, tự đánh mất mình, mất bản sắc dân tộc trong

Page 108: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

108

phát triển kinh tế cũng như xây dựng nền văn hóa dân tộc. Nguyên nhân sâu xa của vấn đề này có thể nói tới là ý thức tự tôn dân tộc và ý thức giữ gìn cốt cách dân tộc chưa thật sự có chỗ đứng vững chắc trong đời sống tinh thần của cộng đồng dân tộc. Công tác giáo dục, tuyên truyền và nhiều biện pháp giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chưa thật sự đi vào chiều sâu một cách có hệ thống, nhiều khi chỉ mới là những giải pháp tình thế trước mắt.

Thứ ba, giữ gìn và phát huy BSVH dân tộc còn mang tính “bao cấp”, dựa trên sự hỗ trợ của Nhà nước là chính mà chưa khơi dậy, phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác của các chủ thể văn hóa dân tộc. Trong khi đó giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc luôn gắn với vai trò của các chủ thể sinh ra và lưu giữ chúng. Công ước UNESCO năm 2003 cũng đã khẳng định: “Những di sản văn hóa phải được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, được các cộng đồng và các nhóm người không ngừng tái tạo và hình thành trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế tục”. Thực tế các nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc trên thế giới đều được chính những chủ nhân của nó có ý thức giữ gìn, trân trọng, bảo vệ.

Thứ tư, đầu tư cho phát triển tập trung nhiều ở phát triển kinh tế mà chưa có điều kiện đầu tư cho phát triển văn hóa nói chung, giữ gìn và phát huy BSVH dân tộc nói riêng. Đầu tư còn thấp dẫn đến việc nghiên cứu, bảo tồn những giá trị thuộc bản sắc văn hóa dân tộc còn thiếu tính toàn diện, hoặc không kịp thời. Một thực tế nữa trong giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là từ nhận thức chưa thấu đáo về những giá trị văn hóa dân tộc, dẫn đến việc xuất hiện những sản phẩm văn hóa “không giống ai”, không rõ bản sắc văn hóa dân tộc.

Thứ năm, trong giai đoạn hiện nay, toàn cầu hóa, quốc tế hóa đang là xu thế nổi bật của thời đại, bao trùm lên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Không có một quốc gia - dân tộc nào có thể tự tách ra, đứng ngoài xu thế ấy. Vấn đề ở đây không phải là nên hay không nên mà là nhất thiết và tất yếu phải hội nhập vào xu thế ấy. Yêu cầu cốt tử được đặt ra là các dân tộc phải tự khẳng định được mình trong xu thế toàn cầu hóa diễn ra ngày càng sâu rộng trên thế giới. Đó vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với tất cả các quốc gia, dân tộc. Điều đó nói lên vấn đề giữ gìn BSVH dân tộc, phát huy sức mạnh bên trong của cả dân tộc, càng trở nên đặc biệt quan trọng. Toàn cầu hóa cuốn theo tất cả các lĩnh vực cả đời sống xã hội. Văn hóa chịu sự tác động

Page 109: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

109

mạnh mẽ của xu thế ấy và góp phần quan trọng đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa. Bản thân văn hóa không chỉ thể hiện ở những sản phẩm văn hóa tinh thần, trong các hoạt động văn hóa tinh thần mà nó ẩn chứa bên trong tất cả các hoạt động đời sống xã hội, trong tất cả các nhóm dân cư, trong đời sống tâm lý, tình cảm, tư tưởng của con người, trong các thể chế chính trị - xã hội của đất nước... Có nghĩa là, không có ở đâu, không có lĩnh vực nào, mặt nào của xã hội mà chúng ta không nhìn thấy văn hóa.

3. Những việc cần phải làm để phát huy và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc trong giai đoạn hiện nay

Trên cơ sở phân tích sự cần thiết cũng như những vấn đề đặt ra hiện nay, theo tôi cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp sau để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc:

Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay để nâng cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của việc hiểu biết bản sắc văn hóa dân tộc, từ đó hình thành ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc một cách chủ động, tích cực và tự giác.

Trong nhiều năm qua, Đảng, nhà nước và nhân dân hết sức quan tâm đến việc giữ gìn các BSVH dân tộc, từ đó tạo tiền đề cần thiết để làm sống dậy một tiềm năng văn hóa, coi đó như là nguồn lực bên trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, cùng với những thành tựu to lớn đã đạt được vẫn còn những bất cập không nhỏ về quan niệm, về phương thức thực hành, về những hoạt động cụ thể trong đời sống kinh tế và xã hội, trong việc phát triển, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Trong đó phải kể đến là công tác tuyên truyền, giáo dục còn chưa được thực hiện tốt.

Vai trò về mặt tuyên truyền, giáo dục hệ tư tuởng văn hóa các giai đoạn lịch sử mà những di sản đang lưu trữ vẫn còn lu mờ, chưa quảng bá cũng như truyền tải đến đại bộ phận công chúng, nhằm tôn vinh và lưu truyền những giá trị vô giá của những di sản, di tích văn hóa, lịch sử... chúng ta cần những chiến lược cụ thể. Một trong những giải pháp mang tính lâu dài và bền vững là thông qua tuyên truyền, giáo dục. Giáo dục chính là kênh truyền thống có tính hiệu quả cao nhất. Thông qua những hoạt động ngoại khóa, những chương trình lồng

Page 110: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

110

ghép trong các môn học, dần dần đưa những giá trị cốt lõi, bản sắc văn hóa dân tộc đến các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ - người chủ quốc gia. Chỉ có như vậy cốt cách dân tộc, lòng tự tôn dân tộc mới luôn giữ vai trò hạt nhân trong quá trình phát triển kinh tế và phát triển nói chung của dân tộc. Đây là một quá trình không thể nóng vội, nhưng cũng không thể chậm trễ mà cần được thực hiện thông qua nhiều biện pháp, trong đó có biện pháp giáo dục và tự giáo dục trong chính cộng đồng dân tộc.

Thiết nghĩ cần phải chủ động mở các lớp, các khóa sinh hoạt liên quan để thế hệ trẻ có sân chơi lành mạnh, tích cực trong các hoạt động bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; chú trọng giữ gìn những nét văn hóa độc đáo mà cha ông ta đã chắt chiu, vun đắp; khơi dậy niềm tự hào, ý thức kế thừa văn hóa trên tinh thần sáng tạo… phải lồng ghép những chuyên đề về truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc vào chương trình giáo dục, nhằm biến thời gian học ở Trường hiện nay thành thời gian rèn luyện đạo đức, tư duy, lối sống và bản lĩnh cho học sinh, sinh viên. Đồng thời, thường xuyên đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, chúng ta phải tận dụng tối đa những ưu thế của công nghệ thông tin để tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá những nét đẹp văn hóa của cha ông cho thanh thiếu niên thông qua những hình thức sinh động, phong phú, hấp dẫn, phù hợp với tâm lý, thị hiếu của giới trẻ. Cần đăng tải, cung cấp liên tục các thông tin về văn hóa dân tộc đến với các thế hệ thanh niên thông qua các trạng mạng xã hội, các diễn đàn trên mạng để họ có điều kiện tiếp xúc với các nguồn thông tin. Có thể tổ chức các cuộc thi trực tuyến tìm hiểu kiến thức về văn hóa Việt để đông đảo tầng lớp nhân dân tham gia. Vì việc tiếp cận các trang mạng xã hội thông qua điện thoại thông minh đang khá phổ biến nên việc tham gia rất dễ dàng, mang lại hiệu quả cao. Cùng với đó là mở rộng giao lưu văn hóa, nói chuyện lịch sử truyền thống, tăng cường tính tương tác, tính trực quan sinh động khi giáo dục truyền thống văn hóa cho tuổi trẻ. Cũng có thể tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt như Hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai trong những năm vừa qua đã mang lại hiệu quả rất thiết thực, nhiều nội dung, khía cạnh về văn hóa Đồng Nai đã được đưa vào đề thi cho từng năm tạo nên phong trào nghiên cứu, tìm hiểu trong các tầng lớp nhân dân, từng hệ đối

Page 111: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

111

tượng tham gia thi góp phần rất tích cực vào việc tuyên truyền, nâng cao sự hiểu biết cho các tầng lớp nhân dân về văn hóa Đồng Nai.

Cần tiếp tục đa dạng hóa các nội dung, hình thức tuyên truyền về bản sắc văn hóa dân tộc. Theo đó cần nhân rộng các mô hình, cách làm hay trong việc tuyên truyền, giáo dục về bản sắc văn hóa dân tộc trong cộng đồng dân cư để các đơn vị, địa phương khác học tập thực hiện. Khuyến khích các đơn vị, địa phương thí điểm, xây dựng các mô hình, cách làm hay trong tuyên truyền, giáo dục về bản sắc văn hóa dân tộc để thông tin sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân, nâng cao nhận thức cho họ về họ tự giác tham gia vào việc bảo tồn, phát huy các giá trị bản sắc văn hóa dân tộc. Đồng thời, qua đó bồi dưỡng những mô hình, cách làm hiệu quả để nhân rộng trong cộng đồng dân cư.

Hai là quán triệt trong tổng thể hệ thống chính sách kinh tế - xã hội về việc gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

UNESCO đã cảnh báo cho cả thế giới, hễ ở đâu phát triển kinh tế mà không quan tâm tới yếu tố văn hóa thì ở đó phát triển không bền vững và những hệ lụy đặt ra cho xã hội lớn hơn nhiều so với kinh tế. Điều này được cảnh báo từ lâu nhưng hình như để vượt qua điều này không dễ dàng, nhất là những nước đang phát triển, bản sắc văn hóa dân tộc rất dễ bị tổn thương.

Thực tế cho thấy, Việt Nam đã khẳng định được mình, để lại ấn tượng tốt đẹp trong con mắt bạn bè quốc tế từ cách giao tiếp, ứng xử cho đến vốn văn hóa riêng phong phú, đậm đà. Những bước tiến mới trong quá trình hội nhập quốc té đang đem lại những kết quả tốt đẹp: Năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO và chủ nhà APEC, được đề cử là ứng cử viên châu Á duy nhất vào ghế không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Đây là sự ghi nhận của quốc tế về vị thế của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI. Nhiều tờ báo trên thế giới đã ca ngợi: “Việt Nam không chỉ thể hiện được khả năng kinh tế, tiềm lực chính trị mà còn khẳng định được bản lĩnh, bản sắc văn hóa dân tộc mình”. Không chỉ quan tâm giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc mà nhân dân ta còn tiếp thu những tinh hoa của nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ thế giới cùng với việc mở rộng giao lưu quốc tế là cơ hội

Page 112: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

112

để chúng ta tiếp thu thành quả trí tuệ của loài người. Từ đó sáng tạo nên một nền văn hóa mới: kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế. Chiếc áo dài truyền thống có những nét cách tân trong kiểu dáng, hoa văn trang trí. Nhiều bài hát, lấy chất liệu từ dân gian nhưng lại được phối theo những thể loại nhạc hiện đại: pop, Hiphop, Rock... tạo nên sự hấp dẫn cho người nghe. Con người Việt Nam, đặc biệt là giới trẻ vẫn giữ được nét giản dị, thuần hậu lại cực kỳ thông minh, nhanh nhẹn, khả năng phán đoán và nắm bắt xã hội hết sức nhạy bén trước nhịp sống phương Tây. Bên cạnh những phong tục đẹp của ngày tết hay những lễ hội truyền thống, người Việt Nam vẫn nô nức tham gia những sinh hoạt văn hóa vốn của phương Tây như Noel, ngày lễ tình yêu valentine, lễ hội hóa trang... Đó là thành quả thực tế từ việc đề ra chính sách phù hợp trong việc gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, vẫn còn không ít những tồn tại, hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nếu trước đây dân tộc ta từng có cả nghìn năm bị cưỡng bức văn hóa thì ngày nay chuyện đó sẽ khó có thể xảy ra. Nhưng trong quá trình hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế - xã hội toàn diện và giao lưu văn hóa hiện nay, sự xâm nhập, thẩm thấu các giá trị văn hóa ngoại lai vào nước ta diễn ra thông qua nhiều hình thức, con đường rất tinh vi, nên chúng ta rất cần có những giải pháp phù hợp để phòng ngừa những tác hại, hệ lụy của những luồng văn hóa lai căng, xấu độc. Muốn giữ được gốc gác cội nguồn dân tộc và bản sắc văn hóa Việt Nam, ngoài trách nhiệm của ngành văn hóa và những người làm công tác văn hóa, đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực của các cấp, các ngành và cả cộng đồng, xã hội. Vì văn hóa gắn liền với mỗi con người, mỗi cộng đồng dân tộc, mỗi địa phương và gắn liền với các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, do đó, cả hệ thống chính trị phải cùng nêu cao trách nhiệm trong việc tham gia giữ gìn, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa của dân tộc.

Để chính sách đi vào được cuộc sống cần bảo đảm sự thống nhất trong tất cả các khâu từ xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát đến đầu tư nguồn lực thích đáng. Đặc biệt là phải quán triệt chính sách về gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc đến từng đơn vị, địa phương, nhất là cấp cơ sở nhằm tránh được những tác động tiêu cực đến bản

Page 113: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

113

sắc văn hóa dân tộc. Mặt khác, phải xây dựng chính sách về chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa trên nền tảng tư tưởng chủ đạo là giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc vì sự phát triển bền vững của dân tộc.

Sức mạnh nội sinh của một nền văn hóa phụ thuộc nhiều vào thành quả của nền văn hóa dân tộc. Nhưng sức mạnh nội sinh của dân tộc không tự nhiên mà có, mà cần quan tâm đầu tư xây dựng, phát triển nền công nghiệp văn hóa nội địa có đủ khả năng phục vụ nhu cầu của người dân trong nước, tạo điều kiện cho việc tiếp cận, sử dụng, thưởng thức văn hóa của người dân được tăng lên. Mặt khác, chúng ta phải tạo ra nhiều sản phẩm văn hóa Việt để giới thiệu, quảng bá, xuất khẩu ra nước ngoài. Như chúng ta đã biết, vì thiếu sản phẩm văn hóa chất lượng cao nên chúng ta mới phải “nhập siêu” nhiều sản phẩm văn hóa nước ngoài. Vì vậy, để góp phần bảo vệ sức sống của nền văn hóa Việt, chúng ta cần tiếp tục triển khai và hiện thực hóa Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 08/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Thực tế cho thấy, việc chú trọng xây dựng, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa không chỉ góp phần làm gia tăng giá trị cho nền kinh tế quốc dân, mà còn là giải pháp hữu hiệu để không ngừng làm giàu bản sắc văn hóa Việt. Chỉ khi nào đa số người Việt đều yêu thích nhạc Việt, phim Việt, ham mê tiêu dùng sản phẩm văn hóa Việt thì lúc đó chúng ta mới có “sức đề kháng” tốt để phòng ngừa nguy cơ “xâm lăng văn hóa” ngoại lai xâm nhập, thẩm thấu vào nước ta.

Ba là, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình phát triển kinh tế phải do chính các chủ thể văn hóa thực hiện.

Đó là một thực tế, mọi nguồn lực bên ngoài chỉ phát huy hiệu quả khi chủ thể văn hóa có ý thức tự giác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc. Những giải pháp phát triển về kinh tế để đáp ứng nhu cầu dân sinh phải gắn với nhu cầu bảo vệ đời sống tinh thần, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Muốn vậy, mọi hoạt động đều phải gắn với cộng đồng dân tộc, tôn trọng quyền quyết định của cộng đồng dân tộc, đồng thời phải đầu tư nghiên cứu sâu sắc về những giá trị của văn hóa dân tộc để có những giải pháp phù hợp.

Page 114: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

114

Chú trọng bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa, bản sắc và truyền thống dân tộc. Coi trọng sưu tầm, khai thác các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể từ nơi đã sinh ra nó, do những con người đã từng chứng kiến hoặc tham gia vào các hoạt động văn hóa đó thực hiện. Chúng ta không thể áp đặt các chính sách, các hoạt động bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc theo ý chí chủ quan của người làm công tác văn hóa mà phải thực sự lắng nghe tiếng nói, ý kiến đóng góp của chính những con người đã sống và trăn trở về bản sắc văn hóa dân tộc tại từng địa phương, vùng miền khác nhau. Tiếp tục tổ chức ngày hội văn hóa của một số dân tộc thiểu số có bản sắc văn hóa tiêu biểu ngay tại địa phương họ sinh sống, các hoạt động văn hóa đó phải do chính người đồng bào dân tộc đó thực hiện nhằm nâng cao ý thức giữ gìn và tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Gìn giữ các tác phẩm nghệ thuật, bảo vật, cổ vật và di vật có giá trị đặc sắc. Nâng cao chất lượng các tác phẩm văn học nghệ thuật, công trình văn hóa, có kế hoạch đầu tư cho khâu sáng tác kịch bản, dàn dựng chương trình, vở diễn, đào tạo tài năng nghệ thuật; tổ chức các cuộc thi sáng tác các tác phẩm văn học nghệ thuật để có những tác phẩm đỉnh cao, các chương trình nghệ thuật hấp dẫn, có tính giáo dục tư tưởng thẩm mỹ cao phục vụ nhân dân, đẩy lùi các hoạt động tiêu cực trong hoạt động văn hóa.

Tích cực xây dựng đời sống văn hóa đại chúng và môi trường văn hóa lành mạnh. Phát triển xã hội hóa các hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Huy động các nguồn lực và sức sáng tạo trong xã hội để đầu tư xây dựng các công trình và thiết chế văn hóa, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, đoàn thể tham gia hoạt động văn hóa, nghệ thuật, quản lý và bảo vệ di tích, di sản văn hóa. Nâng cao chất lượng và mở rộng diện phổ biến các sản phẩm văn hóa đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao và đa dạng của các tầng lớp nhân dân; làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam. Đồng thời, làm cho mỗi con người Việt Nam tự nâng cao nhận thức về những giá trị bản sắc văn hóa dân tộc, từ đó, chính họ sẽ gìn giữ, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc.

Bốn là, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc phải có phương pháp, cách thức phù hợp, đi vào thực chất, chống căn bệnh hình thức, chạy theo phong

Page 115: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

115

trào làm phá vỡ tính đa dạng, phong phú và bản sắc văn hóa dân tộc. Trên cơ sở đó sẽ phát huy được tính sáng tạo trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và phát triển kinh tế, ngăn chặn sự bảo thủ, trì trệ hoặc phiêu lưu mạo hiểm trong phát triển của các dân tộc.

Mở rộng hợp tác giao lưu văn hóa quốc tế. Tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài. Tích cực giới thiệu rộng rãi những tinh hoa, bản sắc văn hóa Việt Nam, những thành tựu to lớn của hơn ba mươi năm đổi mới đất nước và chính sách hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta, góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế và tranh thủ nguồn tài trợ của các nước cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Không e ngại sự áp đảo của toàn cầu hóa, không “dị ứng” với mọi biểu hiện của văn hóa nhân loại. Thâm nhập vào thế giới một cách chủ động, tự tin, tự nhiên, sẵn sàng đối thoại với các nền văn hóa với tư duy đa dạng văn hóa là một tất yếu của giao lưu, hợp tác. Muốn vậy phải trên cơ sở lấy văn hóa dân tộc làm gốc. Chỉ trên cơ sở nhận thức đúng đắn, đầy đủ việc giữ gìn, phát huy cốt cách văn hóa dân tộc mới đi tới được văn hóa nhân loại.

Kinh tế và có kiến thiết kinh tế rồi thì văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển được. Ngược lại, văn hóa phải đứng trong kinh tế và chính trị, thúc đẩy kinh tế và chính trị phát triển. Như vậy, trong khi đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cùng với phát triển kinh tế vẫn phải có niềm tin và biện pháp tích cực để phát triển văn hóa tinh thần, không theo kiểu dàn hàng ngang để tiến, mà bằng tư duy “lấy tinh thần chiến thắng vật chất”, “đem văn minh (đồng nghĩa với văn hóa) thắng bạo tàn”. Văn hóa và kinh tế có sự gắn bó tác động biện chứng với nhau. Kinh tế phải đảm bảo cho nhu cầu sống tối thiểu của con người, sau đó mới đảm bảo điều kiện cho văn hoá phát triển, kinh tế không thể phát triển nếu không có một nền tảng văn hoá, đồng thời văn hoá không chỉ phản ánh kinh tế mà còn là nhân tố tác động đến phát triển kinh tế. Với mối quan hệ đó, sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc chỉ có thể năng động hiệu quả, có tốc độ cao chừng nào quốc gia đó phải đạt được sự phát triển kết hợp hài hoà giữa kinh tế với văn hoá.

Có “vay” thì phải có “trả”. “Vay” thì phải sáng tạo và không được trở thành kẻ bắt chước. “Trả” thì phải xứng đáng là một dân tộc trong số ít của thế

Page 116: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

116

giới có nền văn hóa tiêu biểu. Giới thiệu văn hóa, đất nước, con người Việt Nam với thế giới, làm phong phú thêm nền văn hóa nhân loại vừa là trách nhiệm, vừa là vinh dự. Suy cho cùng, “giúp bạn cũng chính là giúp mình”. Quá trình “vay” và “trả” qua lại lẫn nhau giúp ta có điều kiện giao lưu hội nhập, tạo nên tiên tiến và hiện đại song vẫn rất truyền thống (Việt Nam) nếu chúng ta luôn có ý thức và niềm tự hào về các dân tộc. Tiếp thu toàn diện, nhưng có chọn lọc qua “màng lọc” bản sắc văn hóa Việt Nam. Nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh chỉ rõ: cái gì bổ ích và cần thiết, cái gì tốt và hay thì ta phải học lấy, tiếp nhận để làm giàu cho văn hóa Việt Nam, một nền văn hóa hợp với khoa học và hợp với cả nguyện vọng của nhân dân. Nói như vậy để thấy không phải mọi thứ mới lạ đều bổ ích. Cái gì mới mà hay thì tiếp thu, còn cái mới mà lai căng, xấu xa thì cương quyết loại bỏ. Phải thường xuyên bồi bổ cho lịch sử - văn hóa với ý nghĩa là cội rễ của dân tộc, cái vốn của riêng mình. Điều cơ bản và trước hết là phải làm kỳ được việc thường xuyên bồi bổ cho lịch sử - văn hóa, để cho cốt cách văn hóa dân tộc thấm sâu vào tâm lý quốc dân. Một khi sao nhãng công việc đó thì tự mình sẽ đánh mất mình. Nhưng trong nội hàm giữ gìn bản sắc đã chứa đựng phát huy, giao lưu, trao đổi, xâm nhập và hội nhập các giá trị văn hóa rồi: Bởi vì văn hóa là đối thoại và đa dạng vì phát triển. Kết hợp chặt chẽ việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại đấu tranh chung lại sự xâm nhập của văn hóa độc hại. Đó là mối quan hệ giữa giữ gìn bản sắc với tiếp thu tinh hoa, giữa truyền thống – tiếp biến và đổi mới, để bồi bổ cho một nền văn hóa dân tộc cường tráng, với các yếu tố nội sinh sung mãn.

Quá trình giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cũng là quá trình xâm nhập văn hóa, quá trình tự thân vận động, tự ý thức, tự khám phá, tự tái tạo từ ta và từ người. Cái khó ở đây là, làm thế nào để có được sự công bằng giữa gốc rễ và hoa lá trên cành; giữa yếu tố nội sinh và ngoại sinh khi các yếu tố đó luôn có mối quan hệ biện chứng. Câu trả lời phải được tiếp tục suy nghĩ từ quá khứ và thực tiễn hôm nay. Nhưng trước mắt chúng tôi vẫn phải trở lại, vận dụng sáng tạo và phát triển những luận đề của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước… Người ta sẽ không làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”. “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao

Page 117: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

117

sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng và ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”. “Đem sức ta mà giải phóng cho ta”, “Muốn người ta giúp cho thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”. Về văn hóa, cần hiểu đó là sự bảo tồn, chấn hưng nền văn hóa dân tộc để làm cơ sở định hướng cho việc mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế. Đồng thời phải kết hợp một cách chặt chẽ, khoa học, tinh tế, có lý có tình giữa “pháp trị” – mà đặc biệt là vai trò quản lý của Nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế – xã hội – với “đức trị” mà chủ yếu là giáo dục tính nhân văn, đạo đức. Ở một ý nghĩa nào đó, là kết hợp giữa “xây” và “chống”, trong đó “xây” là nhiệm vụ chủ yếu và lâu dài. Phải nhận thức con người là điểm xuất phát cũng là mục tiêu của sự phát triển. Phải đào tạo con người cả về nhân cách và về trí tuệ. Trong nhân cách có trí tuệ. Trí tuệ càng cao, nhân cách càng phải lớn. Chỉ có nhận thức như vậy mới tạo nên một Việt Nam ổn định, phát triển bền vững trong quá trình giao lưu, hội nhập.

Phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát và có biện pháp quản lý Nhà nước hiệu quả đối với các hoạt động văn hóa, xuất bản, báo chí, bảo tồn các giá trị văn hóa, biểu diễn nghệ thuật, bản quyền tác giả, quảng cáo, các hoạt động dịch vụ văn hóa, Karaoke, vũ trường, Internet công cộng, kinh doanh văn hóa phẩm, in, nhân băng, đĩa hình, băng, đĩa nhạc... Chúng ta phải kiên quyết chống lại những hiện tượng phản văn hóa, phi văn hóa.

Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ cho ngành văn hóa, nhất là đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ văn hóa là người dân tộc thiểu số. Đội ngũ cán bộ văn hóa cơ sở cần phải được tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng mạnh hơn nữa mới đủ khả năng đáp ứng yêu cầu giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ mới, góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước.

Năm là, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc phải gắn với bảo vệ môi trường xã hội. Đây là một trong những nhân tố bảo đảm cho sự phát triển bền vững của dân tộc.

Cũng giống như việc phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường tự nhiên mới đảm bảo việc phát triển kinh tế bền vững. Văn hóa dân tộc cũng vậy, việc phát huy và làm phong phú, đa dạng cho văn hóa dân tộc là điều tất

Page 118: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

118

yếu và cần phải làm, nhưng phải giữ cho được yếu tố mang tính bản sắc và sự trong sáng của văn hóa dân tộc. Tôi rất thích hình ảnh ví von dân tộc ta trường tồn nhờ “dây neo” văn hóa. Chữ “dây neo” mang hàm ý là giữ được sự vững vàng, giữ được cái gốc của văn hóa mà không bị lung lay, chao đảo trước “sóng to gió cả” của thời cuộc, nhất là trong những thời kỳ lịch sử Việt Nam phải chống chọi với hiểm họa xâm lăng, nô dịch lâu năm của kẻ thù. Văn hóa Việt trường tồn đến nay là nhờ tổ tiên, ông cha ta đã biết giữ lại những gì thuộc về tinh hoa, tinh túy của dân tộc, đồng thời biết tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa tiến bộ của nhân loại. Tư duy, năng lực ứng xử linh hoạt, tổng hợp là nét đặc trưng nổi bật của con người Việt Nam qua các thời đại. Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, chúng ta cần tiếp tục kế thừa và phát huy tính cách đó để bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nhưng bảo vệ không có nghĩa là “khư khư giữ bằng được” những cái đã có, mà phải biến những giá trị đó thành một trong những tài nguyên, một trong những lợi thế cạnh tranh của nước ta trong hội nhập quốc tế. Vì tài nguyên thiên nhiên chỉ là hữu hạn, khai thác mãi sẽ đến lúc cạn kiệt. Nhưng bản sắc văn hóa dân tộc càng khai thác thì càng phát triển, vì đó là một thứ tài nguyên tái tạo vô tận. Vấn đề là ở chỗ phải có tri thức hiểu biết, có sự linh hoạt sáng tạo phù hợp với thực tiễn mới có thể biến văn hóa dân tộc thành tài nguyên, thành sức mạnh nội sinh và động lực phát triển cho đất nước. Do đó, có thể nói rằng, bảo vệ BSVH dân tộc cũng là một cách hữu hiệu để bảo vệ tài nguyên quý giá của quốc gia, bảo vệ môi trường xã hội lành mạnh tạo điều kiện cho đất nước phát triển toàn diện.

Văn hóa là đối thoại, là sự xâm nhập, đan xen, trao đổi, tác động qua lại và có chút pha trộn giữa các yếu tố nội sinh và ngoại sinh. Bản thân khái niệm văn hóa dù theo nghĩa này hay nghĩa khác, cũng đều thể hiện quan hệ với mình, với người, với sự việc, giữa dân tộc và nhân loại. Văn hóa là biết cách xử sự, xử thế. Các nền văn hóa luôn tiếp nhận lấy nhau, vay mượn của nhau. Mọi nền văn hóa đều thuộc về di sản chung của nhân loại. Văn hóa của giai đoạn sau thường là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người đã tích lũy ở các giai đoạn trước. Không có nền văn hóa nào trên thế giới lại tuyệt đối đơn lẻ, thuần khiết và không bị ảnh hưởng bởi bất cứ nền văn hóa nào khác. Điều này đúng với mọi thời đại. Đời sống của một con người, một cộng đồng,

Page 119: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

119

một dân tộc hay xã hội, tự bản thân nó là không ngừng phát triển, tự tái tạo và biến đổi không ngừng trong tiến hóa của lịch sử. Sự trao đổi và phát triển đó bị ngưng trệ – dù vô thức hay hữu thức – đều làm tổn thương và xói mòn các giá trị của đời sống, là điều tồi tệ nhất. Những bài học và kinh nghiệm thành công và không thành công của Việt Nam và thế giới thời cổ, trung, cận đại đều được đo bằng việc có giao lưu hội nhập với thế giới hay co vào cố thủ, đóng kín, khước từ giao lưu. Việc mở mang đầu óc với thế giới bên ngoài là một đòi hỏi khách quan, một quy luật của sự hưng thịnh tiến bộ và phát triển. Ngăn trở hoặc làm trái quy luật sẽ dẫn tới thất bại. Tuy nhiên, phải tiếp thu một cách có chọn lọc trên cơ sở khoa học, phù hợp với điều kiện thực tế cũng như nhu cầu của đông đảo quần chúng nhân dân, không làm ảnh hưởng, tác động tiêu cực đến bản sắc văn hóa dân tộc. Vừa giao lưu, làm đa dạng văn hóa dân tộc nhưng không thể để môi trường xã hội bị “ô nhiễm” bởi “rác thải” văn hóa ngoại lai làm ảnh hưởng đến sức khỏe của con người Việt Nam.

Đặc biệt, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa cần gắn với giữ gìn không gian văn hóa - nơi duy trì đời sống của cộng đồng dân tộc. Mỗi dân tộc có một nét văn hóa đặc trưng riêng gắn với điều kiện kinh tế - xã hội, môi trường sống phù hợp. Chẳng hạn văn hóa các dân tộc Tây nguyên phải gắn với núi rừng, với bản làng. Chúng ta nâng cao đời sống, giúp họ định canh, định cư nhưng không thể đưa họ xuống vùng đồng bằng, lại không thể đưa vào các khu tái định cư với những ngồi nhà kiên cố mà thiếu đi “nhà rông” - nơi sinh hoạt văn hóa cộng đồng với họ từ bao đời. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là điều cần thiết nhưng trong từng bước đi phải có lộ trình cụ thể, khoa học trên cơ sở nghiên cứu những tác động tiêu cực đến không gian văn hóa của mỗi cộng đồng dân tộc.

Sáu là, phát huy vai trò của thanh niên trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Cần phải chú ý đến việc giáo dục, nâng cao nhận thức của thanh niên về những giá trị bản sắc văn hóa dân tộc. Chính họ là chủ nhân tương lai của đất nước, của nền văn hóa dân tộc nhưng cũng chính họ là người năng động trong giao lưu, đón nhận văn hóa từ bên ngoài. Nếu không đủ “sức khỏe”, bản lĩnh thì việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là vấn đề hết sức khó khăn.

Page 120: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

120

Thanh niên phải nhận thức rõ ý nghĩa tầm quan trọng của việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, bởi chỉ có trên cơ sở nhận thức đúng thì mới giúp thanh niên có những hành động đúng trong việc đề ra chương trình, kế hoạch hành động có hiệu quả nhất. Không chỉ có vậy, nó còn là cơ sở, động lực cho thanh niên tích cực nghiên cứu, tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc, tham gia vào các lễ hội với một thái độ nghiêm túc, cầu thị và biết tiếp thu chọn lọc có phê phán tinh hoa văn hóa dân tộc và thế giới, thấy được cái hay, cái tiến bộ cần phải trân trọng giữ gìn, quảng bá. Điều kiện bên ngoài có thuận lợi bao nhiêu chăng nữa, nhưng nếu bản thân mỗi thanh niên không tích cực nghiên cứu, tìm hiểu thì sẽ không bao giờ phát huy được vai trò của bản thân mình. Không ai hết mà chính thanh niên phải là người chiến sĩ xung phong trên mặt trận văn hóa như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Mỗi người phải là một chiến sĩ trong cuộc đấu tranh chống lại văn hóa lai căng, xấu độc từ bên ngoài”. Thấy được vai trò của mình, có những bạn sinh viên đã vượt qua chặng đường hàng mấy trăm cây số để lên vùng cao đem cái chữ đến với đồng bào, góp phần xóa mù chữ, giúp đồng bào biết được ánh sáng của sự văn minh tiến bộ và tích cực ủng hộ những chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Ở những vùng sâu, vùng xa, những nơi khó khăn còn tồn tại nhiều phong tục, tập quán, hủ tục lạc hậu thì thanh niên, sinh viên tình nguyện là những người đã bám sát địa bàn, đi vào tận nhà dân để phân tích, chứng minh, giải thích cho bà con hiểu rõ hơn về giá trị của những lễ hội truyền thống, về phong tục, lối sống, cốt cách của con người Việt Nam, từ đó bà con hiểu rõ hơn, nghiêm chỉnh chấp hành và tích cực thực hiện. Không chỉ có vậy, thanh niên còn phát huy được vai trò của mình trên mặt trận văn hóa, thực sự trở thành chiến sĩ văn hóa trong cuộc đấu tranh chống lại các sản phẩm xấu độc, lai căng làm phương hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Và chính họ đã cùng nhân dân làm cho âm mưu diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc bị thất bại, góp phần quan trọng làm rạng rỡ nền văn hóa Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, khiến nó đã thực sự trở thành mục tiêu, động lực quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đáng chú ý, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang từng ngày, từng giờ lợi dụng cuộc đấu tranh trên mặt trận văn hóa và chúng coi đây là mũi

Page 121: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

121

nhọn xung kích làm phai nhạt mục tiêu lý tưởng của thanh niên. Cùng với đó, trước bối cảnh hội nhập quốc tế, tác động của mặt trái cơ chế thị trường, văn hóa phương Tây và văn hóa phương Đông du nhập vào nước ta một cách tràn lan, bên cạnh văn hóa trong sạch, lành mạnh thì sản phẩm xấu độc cũng nhanh chóng thâm nhập, len lỏi vào mọi ngõ ngách, tâm hồn, đời sống của con người Việt Nam trong đó có thanh niên. Những biểu hiện xấu của văn hóa phương Tây với lối sống thực dụng, sống chỉ có biết hôm nay, không biết đến có ngày mai; những hành vi đi ngược lại với lợi ích của quốc gia, dân tộc; sự thích thú những bộ phim nước ngoài với nội dung chém giết, võ thuật và nhiều tệ nạn trong thanh niên hiện nay chính là những phản văn hóa, những việc làm và hành động tác động rất mạnh đến tâm lý của thanh niên. Hiện tượng thanh niên ăn mặc theo phong cách Hàn Quốc, Nhật Bản xuất hiện rất nhanh, với những chiếc quần xước nửa tây, nửa ta, tóc thì nhuộm cho giống với phong cách thần tượng của mình... Có một bộ phận không nhỏ thanh niên đi tham gia vào những lễ hội truyền thống chỉ với mục đích đi giải trí là chính, họ đến với lễ hội truyền thống không phải với thái độ thành tâm hướng về cội nguồn, hiện tượng đùa cợt trong lễ hội, xem bói, xem quẻ xuất hiện ngày càng trở nên phổ biến… Sự tác động xấu đó dễ làm cho một bộ phận thanh niên chúng ta quay lưng lại với lịch sử dân tộc, với phong tục tâp quán của con người Việt Nam, với văn hóa Việt Nam. Thanh niên là những người hàng ngày hàng giờ phải đối mặt, phải tiếp xúc với văn hóa đó nhiều nhất cho nên phải chủ động kế thừa những cái tiến bộ và lọc bỏ những cái không phù hợp, đi ngược lại với văn hóa của dân tộc. Thanh niên phải nhận thức rõ văn hóa Việt Nam là thành quả của sự kết tinh văn hóa dân tộc và văn hóa thế giới, phải trang bị cho mình một hệ thống tri thức vững vàng, đầy đủ để không bị động bất ngờ, thường xuyên tìm hiểu văn hóa dân tộc và văn hóa thế giới để tạo hành trang tri thức, góp phần xây dựng đất nước./.

Page 122: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

122

KẾT LUẬN Có thể nói, trong suốt dòng chảy lịch sử xứ Đồng Nai, mùa xuân năm

Mậu Dần 1698 là một cột mốc mang tính ước lệ nhưng đó là dấu mốc quan trọng nhất để chúng ta quay nhìn về quá khứ, lần theo dấu chân khai hoang, mở cõi của ông cha với biết bao mồ hôi, xương máu. Thật tự hào biết bao về mảnh đất Đồng Nai - “Miền Đông gian lao mà anh dũng” giàu truyền thống với những trang sử tuyệt vời về cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, mảnh đất đã chứng kiến biết bao tấm gương anh hùng, hiến dâng cả đời mình cho sự nghiệp cách mạng. Vượt lên trên mọi khó khăn, gian khổ và sự đàn áp, khủng bố dã man của kẻ thù, luôn nêu cao tinh thần yêu nước, một lòng theo Đảng, chiến đấu anh dũng, kiên cường, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc và lý tưởng cách mạng cao đẹp.

Ngày nay, mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước phát triển, thịnh vượng, văn minh, hội nhập kinh tế quốc tế thì con người Đồng Nai không thể thiếu những tri thức về truyền thống quả cảm, kiên cường của ông cha để tự nhắn nhủ bản thân cố gắng và cố gắng hơn nữa. Kết quả tìm hiểu về trang sử hào hùng kháng chiến chống giặc ngoại xâm và đặc trưng văn hóa tín ngưỡng dân gian của người dân Đồng Nai sẽ là tài sản vô giá mà tôi thật sự tự hào về một thuở ông cha đi khai hoang, mở cõi. Tôi càng ý thức trách nhiệm mình hơn, nguyện hết lòng hết sức đoàn kết, chung tay xây dựng quê hương Đồng Nai ngày tươi đẹp, giàu mạnh, phát triển, văn minh.

Xin chân thành cảm ơn Hội thi Tìm hiểu Giá trị Văn hóa Lịch sử Đồng Nai năm 2018 đã cho tôi cơ hội được tìm hiểu về truyền thống lịch sử quý báu của vùng đất, về những giá trị văn hóa tín ngưỡng dân gian tiêu biểu của đất Đồng Nai. Chúc cho Hội thi năm nay cũng như những năm tiếp theo sẽ luôn thành công để tôi và bao người dân Đồng Nai được mãi tự hào về truyền thống cha anh; được thể hiện tình cảm của mình về vẻ đẹp đất nước - con người Đồng Nai đầy yêu thương./.

Page 123: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

123

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Lê An (1995), Hồi ức chiến tranh: Lược sử văn học viết về đội trinh sát vũ trang Long Khánh - Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang năm 1978, NXB Đồng Nai.

2. Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai, Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai 1930-1995 – Tập 1, NXB Đồng Nai, năm 1997.

3. Ban thường vụ Thành ủy Biên Hòa, Biên Hòa xưa, Nhà xuất bản Đồng Nai, năm 2012.

4. Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai, Những ngày kỷ niệm và lịch sử, Nhà xuất bản Đồng Nai, năm 2000.

5. Bảo tàng Đồng Nai, Người Đồng Nai, Nhà xuất bản Đồng Nai, năm 1995.

6. Mai Sông Bé (2009), Đồng Nai từ mở cõi đến mở cửa, Nhà xuất bản Đồng Nai.

7. Ts. Lê Văn Đệ (2006), Những trang sử vẻ vang của lực lượng An ninh nhân dân Việt Nam anh hùng, Nhà xuất bản Công an nhân dân.

8. Địa chí Đồng Nai: Lịch sử, Nhà xuất bản Tổng Hợp, năm 2001.

9. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Lịch sử Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào Thanh niên tỉnh Đồng Nai 1930 -2000, Nhà xuất bản Tổng hợp Đồng Nai, năm 2004.

10. Nguyễn Thị Nguyệt (2010), Văn hóa – văn vật Đồng Nai, Nhà xuất bản Đồng Nai.

11. Phan Đình Dũng – Nguyễn Thanh Lợi (2010), Hỏi đáp về Biên Hòa – Đồng Nai, Nhà xuất bản Đồng Nai.

12. Những anh hùng đất Đồng Nai, nhà xuất bản Quân đội nhân dân, tập 1 và 2, năm 2001.

Page 124: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

124

13. Những ngày ở chiến trường, nhà xuất bản Công an nhân dân, tập 1-2-3, năm 2010.

14. Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, Biên Hòa – Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, Nhà xuất bản Đồng Nai, năm 1998.

15. Bùi Thuận (2011), Người Đồng Nai Một thời và mãi mãi, Nhà xuất bản Đồng Nai.

16. Ts.Huỳnh Văn Tới (2005), Văn hóa Đồng Nai (sơ thảo), Nhà xuất bản Đồng Nai.

17. Ts.Huỳnh Văn Tới (2015), Đồng Nai góc nhìn văn hóa, Nhà xuất bản Đồng Nai.

18. Ths.Trần Quang Toại (2004), Đồng Nai di tích lịch sử văn hóa, Nhà xuất bản. Tổng hợp Đồng Nai.

19. Ths.Trần Quang Toại (2013), Địa danh hành chính - văn hóa - lịch sử Đồng Nai, Nhà xuất bản. Đồng Nai.

20. Trang điện tử: Www.Dost-dongnai.gov.vn

21. Việt Nam - Đồng Nai trăm năm nhìn lại, Nhà xuất bản Tổng hợp Đồng Nai, năm 2001.

22. Một số tài liệu tham khảo khác.

Page 125: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

125

PHỤ LỤC

Page 126: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

126

PHỤ LỤC 1 BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH ĐỒNG NAI NGÀY NAY

(Nguồn: Internet)

Page 127: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

127

PHỤ LỤC 2 NỘI DUNG VĂN BIA KỶ NIỆM 300 NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT

TRIỂN VÙNG ĐẤT BIÊN HÒA – ĐỒNG NAI (1698 -1998) (Nguồn Internet)

Kỷ niệm 300 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hoà – Đồng Nai (1698 - 1998), tỉnh Đồng Nai xây dựng nhà bia để tưởng nhớ, ghi công những tiền nhân có công khai phá, xây dựng, bảo vệ và làm rạng danh đất Biên Hoà xưa – Đồng Nai ngày nay. Công trình nhà bia được xây dựng trong công viên di tích Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh (đình Bình Kính) thuộc xã Hiệp Hoà, thành phố Biên Hoà. Lễ khánh thành Nhà bia được tổ chức ngày 15/12/1998.

Tác giả bài văn bia là nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng. Với lối văn biền ngẫu, cách tân, ngắn gọn mà đầy đủ, giàu chất thơ, đậm chất sử, chuẩn xác và hữu tình, trí tuệ và trung thực, nội dung văn bia thể hiện được tình cảm của người dân Biên Hoà – Đồng Nai đối với quá khứ hào hùng của tiền nhân, của Hào khí Đồng Nai. Những sự kiện lịch sử, địa danh, nhân vật… được đề cập trong văn bia một cách cô đọng, phản ánh trung thực diễn trình của đất, người Đồng Nai trong suốt độ dài và chiều sâu của lịch sử 300 năm.

Toàn bộ nội dung văn bia như sau:

“Sách sử chép rằng: 300 năm trước, từ cửa sông Soài Rạp đến thượng nguồn Đồng nguyên, núi sông một dải mịt mờ chưa phân định…

Rừng hoang chờ đợi mỏi mòn một áng khói lam chiều từ bếp ấm, sông xanh khao khát một tiếng chèo khua.

Cọp, sấu thét gầm: muông thú chưa người cai quản;

Mặt đất âm u: không kẻ vạch lá bẻ gai.

Nhà Bè nước chảy chia hai, một hôm ngã ba sông vang tiếng hát; bìa rừng lặng gió, đêm nọ, ngân một khúc ầu ơ..

Rựa chặt rừng hoang, đánh lửa đốt cây, gieo hạt: một hộc thóc gặt hơn trăm hộc. Nhất thóc nhì cau; cơm Nai – Rịa, cá Rí – Rang tiếng đồn tứ xứ.

Page 128: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

128

Cù lao Phố bôn phương tụ hội; chẻ đá lát đường, dựng lầu xây phố; tàu hải dương mua bán chật sông – xứ đô hội rằng Nam Trung không đâu sánh kịp.

Ngày lại tháng qua, năm Mậu Dần, tiết xuân còn ấm, tiếng trống chiêng quan quân vào đến: Lễ Thành hầu cắm gươm xuống đất, định danh phủ Gia Định tù đây; vạch dọc xẻ ngang lập thôn, lân, xóm, ấp; xem địa cuộc phân thnàh hai huyện: lấy Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Biên Trấn – án ngữ địa đầu vùng đất mới!

Đất đã có tên, làng thôn có đình, chùa, miếu võ: hát xướng âu ca câu quốc thái dân an; Văn thánh miếu rỡ ràng, chốn lều tranh vách lá: ê a chữ nghĩa thánh hiền.

Đặng Đại Độ bêu lũ hại dân tanh hôi giữa chợ; Nguyễn Thị Tồn gióng trống kêu oan, ba hồi sấm động trước cổng đế đô.

Trịnh Hoài Đức, Bùi Hữu Nghĩa…đèn sách dùi mài, đưa xứ sở bước lên hàng văn vật; Thủ Huồng, Thị Vải…kẻ tâm thành, người trinh liệt ghi sự tích cho núi, cho sông.

Những tưởng: trăm năm vỡ ruộng: đất điền mặc sức chim bay; hằng tin: núi rộng sông dài, trên bến dưới thuyền, phố chợ thênh thang, sung mậu. Nào ngờ đâu: Bến Nghé của tiền tan bọt nước; tàu sắt, súng đồng giặc đến: Đồng Nia tranh ngói nhiốm màu mây.

Muôn người như một, chẳng đợi quan đòi, trống giục, liều mình xông tới, một lưỡi dao phay cũng quyết ra tay dốc sức đoạn kình.

Hỡi ôi! Đại đồn Chí Hoà thất thủ, Tán lý sa cơ, máu đỏ binh nhung; Biên Hoà nước mắt ròng ròng, thắp nén hương thơm, lập đền thiêng thờ hồn tử sĩ.

Giặc cậy súng to, tàu lớn lấn vô: giăng dâu thép, vẽ hoạ đồ muốn biến dân ta thành trâu thành ngựa; nào hay đâu Lục tỉnh Nam Kỳ, cờ Bình Tây lẫy lừng khắp chốn: dưới Long Thành, Nguyễn Lãnh binh dấy quân ứng nghĩa; trên Bưng Kiệu, Đàon Văn Cự mưu đại sự phục thù. Trại Lâm trung son đỏ tấm lòng: sinh vi tướng, tử vi thần – sống chết anh hùng nào nại.

Trời Đông Phố, sáng chiều phủ kín mây đen, bọn Lang – sa xi xô qua lại; rừng cao su, bao kẻ kiếp mọi người, đám thầy chú vẩy roi da, inh ỏi thét.

Page 129: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

129

Máu lệ chan hoà, hạt giống đỏ Phú Riềng nẩy mầm từ ấy; cờ búa liềm phấp phới nơi hãng xưỡng, làng thôn:”Hỡi những người nô lệ ở thế gian, vùng đứng dậy, trận này là trận cuối”.

Tháng Tám cách mạng thành công: Độc lập – Tự do – tiếng hò reo vỡ ngực.

Mùa Thu năm ấy, sao vàng xao xuyến: Chiến khu Đ vang dội “ Tiến quân ca”

Rừng núi giang tay, đón người yêu nước.

Kẻ tập bắn, người làm thơ, rèn gươm thiêng thề sống chết với quân thù.

Tập kích Biên Hoà: Đất ta đâu để giặc thù chiếm đóng; chặn đánh La Ngà: cắt lộ giao thông không cho chúng lại qua.

Trận Đồng Xoài vừa dứt, trận Trảng Bom,, Tràng Táo bùng lên; tháp canh, lô cốt chắc bền:đêm hăm hai – một phát tan thành bình địa (…)

Thực dân Pháp hết hồn ôm đầu bỏ chạy;đế quốc Mỹ hung hăng ồ ạt kéo vào. Trận Nhà Xanh báo cho giặc biết: đất này không chỗ dung thân; khám Tân Hiệp tan tành, nói cho nguỵ rõ: rằng dây kẽm gai, tường đá không giam được những người yêu nước.

Năm sáu bốn: Sân bay Biên Hoà nằm trong họng cối; năm sáu sáu: Tổng kho Long Bình vật mọn trong túi đặc công.

Rừng Sác, Lòng Tàu…sông rạch ấy, tàu binh, tàu chiến đâu dễ vào ra; Thành Tuy Hạ mấy lần kho đạn nổ tung như trời long đất lở.

Mậu Thân, thị thành lửa dậy: chiến thắng ắt về ta.

Bảy lăm, Xuân Lộc – cửa thép giặc vỡ toang: đón đại quân Giải phóng.

Ba mươi năm sạch bóng quân thù. Độc lập, Tự do: có Bác Hồ trong ngỳa vui đại thắng.

Ba mươi năm, mồ hôi xương máu chép lại một trang; nghìn năm, sông núi thái bình, những muốn đời sau nhớ lại”./.

Page 130: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

130

PHỤ LỤC 3 CÔNG VIÊN TƯỢNG ĐÀI CHIẾN THẮNG LONG KHÁNH

Tượng đài chiến thắng Long Khánh chính

thức khởi công vào ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12/2000 và hoàn thành ngày 15/4/2001.

- Địa chỉ: Giao lộ Hùng Vương và Quốc lộ 1A, P. Xuân Bình, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.

- Thiết kế: Điêu khắc gia Trần Thanh Thanh. - Thi công: Công ty xây dựng dân dụng công

nghiệp số 2. - Trên mặt bằng 7.712,3 m2 là bệ đá hoa

cương cao 3m. Phía trên là khối hình chóp tam giác, cao 9m. Xung quanh hai mặt trái, phải của khối tam giác được chạm khắc 2 bức phù điêu diễn tả cuộc hành quân thần tốc. Cùng hai dòng chữ “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” và “Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Trên đỉnh khối chóp tam giác là hình tượng hai nhân vật có chiều cao 12 mét tượng trưng cho 12 ngày đêm của chiến dịch giải phóng Long Khánh. Nhân vật đứng trước là nữ anh hùng Hồ Thị Hương - người con ưu tú của quê hương Long Khánh. Nhân vật đứng sau là hình tượng người chiến sĩ giải phóng quân Lê A trong tư thế chiến thắng.

- Tổng cộng chiều cao của tượng đài là 21m, biểu tượng ngày 21/4 - ngày mà quân và dân Long khánh đập tan cánh cửa thép” của Mỹ - ngụy giải phóng hoàn toàn miền Nam./.

Page 131: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

131

PHỤ LỤC 4 DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỊA ĐIỂM THÀNH LẬP CHI BỘ CỘNG SẢN

BÌNH PHƯỚC – TÂN TRIỂU VÀ TỈNH ỦY LÂM THỜI BIÊN HÒA

Công trình được khánh thành vào ngày 21/01/2009. Địa chỉ: ấp Tân Triều, xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Di tích lịch sử Địa điểm thành lập Chi bộ Cộng sản Bình Phước - Tân Triều và Tỉnh

uỷ lâm thời Biên Hòa đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai xếp hạng là di tích lịch sử theo Quyết định số 224/QĐ-UBND, ngày 23/01/2007. Di tích này từng là nhà đồng chí Huỳnh Văn Ngọc (tức Năm Ông) thuộc ấp Long Hòa, làng Tân Triều Đông, tổng Phước Vĩnh Trung, tỉnh Biên Hòa. Nơi đây, tháng 2/1937, Tỉnh uỷ lâm thời Biên Hòa được thành lập.

Di tích lịch sử Địa điểm thành lập Chi bộ Cộng sản

Bình Phước - Tân Triều và Tỉnh uỷ lâm thời Biên Hòa

Để bảo tồn và tôn vinh Địa điểm thành lập Chi bộ cộng sản Bình Phước - Tân triều và Tỉnh uỷ lâm thời Biên Hòa; Huyện uỷ, Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Cửu xây dựng một nhà bia trên khu đất xưa, nhân dịp chào mừng kỷ niệm 79 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2009). Có thể nói việc xây dựng nhà bia là việc làm cần thiết và mang nhiều giá trị nhân văn, lịch sử. Mặc dù không còn nguyên vẹn như thuở ban đầu nhưng đây sẽ là một công trình văn hoá có ý nghĩa giáo dục truyền thống cho các tầng lớp Nhân dân, nhất là thế hệ trẻ của tỉnh Đồng Nai trong hiện tại và tương lai./.

Page 132: MỞ ĐẦU - dost-dongnai.gov.vn · Nam của ông cha ta hơn 320 năm về trước. Trải qua quá trình lch sị ử, cùng với cả nước trong hai cuộc kháng chiến

132

PHỤ LỤC 5 DI TÍCH QUẢNG TRƯỜNG SÔNG PHỐ - TP. BIÊN HÒA

- Được xếp hạng cấp Quốc gia theo Quyết định số 2307/QĐ của Bộ Văn hóa, Thông

tin và Thể thao ngày 30/12/1991.

- Địa chỉ: đường Cách mạng tháng 8, P.Thanh Bình, Tp. Biên Hoà.

- Quảng trường Sông Phố được xây dựng cùng với kiến trúc của Toà Bố Biên Hòa, Dinh tỉnh trưởng tạo nên một khung cảnh hài hòa giữa lòng thành phố có qui mô vừa phải bên sông Đồng Nai thơ mộng.

- Quảng trường Sông Phố đã đi vào lịch sử xứ Biên Hòa từ những ngày sôi động khi quần chúng nổi dậy giành chính quyền mùa thu năm 1945.

- Ngày 27/8/1945, nơi đây đã diễn ra cuộc mít tinh trọng thể chào mừng chính quyền cách mạng lâm thời đầu tiên của tỉnh Biên Hòa. Hàng ngàn người từ các địa phương của tỉnh Biên Hoà tập trung tại đây tham gia mít tinh. Đồng chí Hoàng Minh Châu, trưởng ban khởi nghĩa, tuyên bố chính quyền về tay Nhân dân và công bố Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Biên Hòa./.