Upload
others
View
5
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
TRưỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THưƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI-------***-------
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài: PHÁT TRIỂN DU LỊCH QUỐC TẾ TẠI THÁI LAN VÀ BÀI
HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện : Phạm Thị Thúy Mai
Lớp : Anh 4
Khoá : 42A – KT&KDQT
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Hải Yến
Hà Nội – Tháng 11/2007
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Kí hiệu Tiếng Anh Tiếng Việt
IUOTO International Union of Offical
Travel Organization
Liên hiệp Quốc tế các tổ chức
chính thức về du lịch.
OECD Organization for Economic
Cooperation and Development
Tổ chức Hợp tác và Phát triển
kinh tế
PATA Pacific Asian Travel
Assocition
Hiệp hội lữ hành các nước Châu
á - Thái Bình Dương
TAT Thailand Authority of Tourism Tổng cục du lịch Thái Lan
UNESCO United Nation Educational,
Scientific and Cultural
Organization
Tổ chức giáo dục, khoa học và
văn hóa của Liên hiệp quốc
UNICEF United Nations
Children‟s Fund
Quỹ Nhi đồng liên hiệp quốc
UNWTO United Nation World Travel
Organization
Tổ chức du lịch quốc tế
WHO World Health Organization Tổ chức Y tế thế giới
WTTC World Travel and Tourism
Council
Hội đồng lữ hành quốc tế
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
DANH MỤC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ
Số hiệu Tên Trang
Bảng 1.1Đóng góp của ngành du lịch vào kinh tế thế giới
năm 201017
Bảng 2.1Lượng du khách đến Thái Lan và Việt Nam từ 1997
đến 200639
Bảng 2.2Doanh thu từ du lịch quốc tế của Thái Lan và Việt
Nam từ 1998 đến 200642
Bảng 2.3Chỉ số năng lực cạnh tranh du lịch của Thái Lan và
Việt Nam46
Biểu đồ 2.1 Lượng khách đến Thái Lan và Việt Nam 40
Biểu đồ 2.2Doanh thu từ du lịch quốc tế của Thái Lan và Việt
Nam từ 1998 đến 200643
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, du lịch đã trở thành hoạt động phổ biến ở khắp nơi trên thế
giới. Theo đánh giá của Tổ chức du lịch thế giới (UNWTO), hoạt động du
lịch ngày càng có tác động quan trọng đến sự phát triển kinh tế, xã hội và môi
trường trên phạm vi toàn cầu. Du lịch được khẳng định là một trong những
ngành kinh tế – xã hội quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các
ngành liên quan, đóng góp cho hòa bình thế giới, thúc đẩy giao lưu, tăng
cường hiểu biết giữa các quốc gia, giữa các dân tộc vì mục tiêu hòa bình, hợp
tác cùng phát triển. Du lịch cũng là ngành kinh tế tăng trưởng nhanh trong
thời gian vừa qua và đem đến cho nhiều quốc gia nguồn lợi nhuận khổng lồ.
Thái Lan hiện là một trong những nước trong khu vực và trên thế giới
đang phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh những thành tựu về phát triển công
nghiệp, thu hút vốn đầu tư thì ngành du lịch của đất nước này cũng đang được
đánh giá cao và thu hút rất nhiều du khách cũng như sự đầu tư của các nước
khác trên thế giới. Với tài nguyên sẵn có cùng những biện pháp hợp lý trong
việc phát triển du lịch, Thái Lan thật sự đã thành công và là một tấm gương
sáng cho các nước trên thế giới phải ngưỡng mộ và học tập.
Với tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, văn hóa cũng như bản sắc dân
tộc, Việt Nam cũng đã bắt tay vào việc xây dựng và phát triển ngành du lịch.
Nhưng cho đến nay, những gì Việt Nam đạt được vẫn chưa tương xứng với
tiềm năng của mình. Vậy trong thời gian tới, Việt Nam phải làm gì để đưa
ngành du lịch của mình sánh ngang với các quốc gia trong khu vực và thế
giới? Biện pháp hiệu quả nhất luôn là phát huy nội lực và tìm một lối đi cho
riêng mình. Đồng thời cũng nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm của những
quốc gia có hoạt động du lịch phát triển như Thái Lan - đất nước có nhiều
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
điểm tương đồng với Việt Nam. Do vây, em lựa chọn đề tài “Phát triển du
lịch quốc tế tại Thái Lan và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam” làm
khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng thu hút khách du lịch quốc tế tại Thái Lan.
Đánh giá những đường lối và biện pháp mà Thái Lan đã áp dụng để
phát triển du lịch quốc tế.
Rút ra những bài học từ thực trạng phát triển du lịch quốc tế của Thái
Lan
Đề xuất những phương hướng để phát triển du lịch quốc tế tại Việt
Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận: thực trạng du lịch và những biện
pháp mà Thái Lan đã áp dụng để thúc đẩy phát triển hoạt động du lịch quốc
tế, đồng thời đưa ra định hướng cho thị trường du lịch Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của khoá luận: tìm hiểu thị trường du lịch của Thái
Lan và Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ của đề tài, người viết đã sử dụng một số phương
pháp chính bao gồm phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu, phương pháp
thống kê, phương pháp phân tích và dự báo, phương pháp so sánh và đối
chiếu.
5. Bố cục của khoá luận
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận và tài liệu tham khảo, khoá luận
gồm 3 phần chính:
Chương I: Khái quát về du lịch và định hướng phát triển của du lịch trên thế
giới
ư II: Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch quốc tế tại Thái Lan và Việt NamChương III: Bài học kinh nghiệm từ Thái Lan và giải pháp đối với Việt Nam
Để hoàn thành được khóa luận này em xin chân thành cảm ơn sự hướng
dẫn và chỉ bảo tận tình của cô giáo thạc sỹ Nguyễn Thị Hải Yến cùng các thầy
cô giáo trong Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế.
Mặc dù bản thân em cũng đã có nhiều cố gắng nhưng do hiểu biết còn
hạn chế và chưa có kinh nghiệm trong việc nghiên cứu khoa học nên chắc
chắn khóa luận của em còn nhiều thiếu sót. Em rất mong sự chỉ bảo cũng như
góp ý của thầy cô và bạn bè để luận văn của em được hoàn thiện hơn.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
ư I: KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH VÀ XU HƯỚNG PHÁT
TRIỂN CỦA DU LỊCH TRÊN THẾ GIỚI
I. Khái quát về du lịch
1. Một số khái niệm
1.1. Du lịchNgày nay du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế – xã hội phổ biến
không chỉ ở các nước phát triển mà ở cả những nước đang phát triển. Du lịch
đã trở thành ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước nói
riêng, của toàn cầu nói chung. Mặc dù hoạt động du lịch đã có nguồn gốc
hình thành từ rất lâu và phát triển nhanh như vậy nhưng cho đến nay khái
niệm “du lịch” vẫn được hiểu rất khác nhau tại nhiều quốc gia khác nhau và
dưới nhiều góc độ khác nhau.
Tuy chưa có một nhận thức thống nhất về khái niệm “du lịch” trên thế
giới cũng như ở Việt Nam, song trước thực tế phát triển của ngành du lịch về
mặt kinh tế - xã hội cũng như trong lĩnh vực đào tạo, việc nghiên cứu, thảo
luận để đi đến thống nhất khái niệm “du lịch” cũng như một số khái niệm cơ
bản khác về du lịch là một đòi hỏi khách quan.
Khái niệm “du lịch” có nghĩa đầu tiên là sự khởi hành và lưu trú tạm
thời của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ. Nhưng du lịch là
một hiện tượng kinh tế – xã hội phức tạp và trong quá trình phát triển, nội
dung của nó không ngừng mở rộng và ngày càng phong phú. Việc đưa ra một
định nghĩa của hiện tượng vừa mang tính chất bao quát, vừa mang tính chất lý
luận và thực tiễn là điều khó khăn.
Thuật ngữ du lịch bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là “đi một vòng”.
Thuật ngữ này được Latinh hoá thành “tourisme” trong tiếng Pháp và tourism
trong tiếng Anh. Trong tiếng Việt, thuật ngữ “tourism” được hiểu thông qua
tiếng Hán, “du” có nghĩa là chơi, “lịch” có nghĩa là từng trải, tuy nhiên người
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Trung Quốc gọi tourism là “du lãm” với nghĩa là để đi chơi nhằm nâng cao
nhận thức1.
Trên những góc độ tiếp cận khác nhau người ta đưa ra những định
nghĩa khác nhau về du lịch. Đối với du lịch có bao nhiêu học giả nghiên cứu
thì có bấy nhiêu định nghĩa về du lịch. Dưới đây là một số định nghĩa tiêu
biểu về du lịch:
Giáo sư tiến sỹ Hunziker và giáo sư tiến sỹ Krapf – hai người được coi
là những người đặt nền móng cho lý thuyết về du lịch đưa ra định nghĩa: “Du
lịch là tập hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc
hành trình và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó
không thành cư trú thường xuyên và không liên quan đến hoạt động kiếm lời”.
Định nghĩa này đã thành công trong việc trong việc mở rộng và bao quát đầy
đủ hiện tượng du lịch và ngày nay vẫn được nhiều nhà kinh tế sử dụng để giải
thích từng mặt và cả hiện tượng. Tuy nhiên, định nghĩa này vẫn chưa giới hạn
được đầy đủ đặc trưng về lĩnh vực của các hiện tượng và của mối quan hệ du
lịch (các mối quan hệ và hiện tượng nào thuộc loại kinh tế, chính trị, văn hoá
v.v…). Ngoài ra, định nghĩa này bỏ sót hoạt động của các công ty giữ nhiệm
vụ trung gian; nhiệm vụ tổ chức du lịch và nhiệm vụ sản xuất hàng hoá và
dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Hai ông có phân biệt rõ sự khác
nhau giữa du lịch thụ động và du lịch chủ động nhưng khi định nghĩa du lịch
là hiện tượng kinh tế, các ông đã bỏ sót khía cạnh quan trọng về các tổ chức
du lịch.
Từ điển bách khoa quốc tế về du lịch – Le Dictionnaire international du
tourisme do Viện hàn lâm khoa học quốc tế về du lịch xuất bản: “Du lịch là
tập hợp các hoạt động tích cực của con người nhằm thực hiện một dạng hành
trình, là một công nghiệp liên kết nhằm thoả mãn các nhu cầu của họ”. Định
1 Từ điển Anh – Việt, Việt – Hoa
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
nghĩa này chỉ xem xét chung hiện tượng du lịch mà ít phân tích nó như một
hiện tượng kinh tế.
Michael Coltman người Mỹ đã đưa ra định nghĩa ngắn gọn như sau:
“Du lịch là sự kết hợp và tương tác của 4 nhóm nhân tố trong quá trình phục
vụ du khách bao gồm: du khách, nhà cung ứng dịch vụ, cư dân sở tại và chính
quyền nơi đón khách du lịch”.
Có thể hiểu mối quan hệ đó bằng sơ đồ:
Du khách
Dân cư sở tạiChính quyền địa phương nơi đón khách du lịch
Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch tổ chức tại Otawa, Canada vào
tháng 6/1991 với 250 đại biểu đến từ 90 quốc gia đã thống nhất định nghĩa về
du lịch như sau : “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài
môi trường thường xuyên (nơi ở thường xuyên của mình), trong một khoảng
thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước,
mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền
trong phạm vi vùng tới thăm”.
Trong định nghĩa này đã quy định rõ mấy điểm:
Ngoài “môi trường thường xuyên”, có nghĩa là loại trừ các chuyến đi
trong phạm vi nơi ở thường xuyên các chuyến đi có tổ chức thường xuyên
hàng ngày, các chuyến đi thường xuyên định kỳ có tổ chức phường hội giữa
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Nhà cung ứng dịch vụ du lịch
nơi ở và nơi làm việc, và các chuyến đi phường hội khác có tổ chức thường
xuyên hàng ngày.
“Khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch
quy định trước” – sự quy định này nhằm loại trừ di cư trong một thời gian dài.
“Không phải là tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng
tới thăm” – có nghĩa là loại trừ việc hành nghề lâu dài hoặc tạm thời.
Điều 10 Pháp lệnh Du lịch của Việt Nam: “Du lịch là hoạt động của
con người ngoài nơi lưu trú thường xuyên của mình nhằm thoả mãn nhu cầu
tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.
Tuy nhiên, khái niệm du lịch ngày càng phát triển và mang những hình
thái mới và có những loại hình du lịch mới ra đời như du lịch công vụ, du lịch
hội nghị, du lịch khám chữa bệnh…Có những quan điểm xem xét du lịch trên
góc độ xã hội, một số khác nhìn nhận trên góc độ kinh tế cho nên du lịch
không chỉ còn là một hiện tượng kinh tế xã hội đơn thuần mà nó luôn gắn chặt
với các hoạt động kinh tế và ngày càng chứng tỏ được vai trò của mình trong
nền kinh tế quốc dân của hầu hết các nước trên thế giới.
Trên cơ sở những quan điểm riêng về du lịch, Tổ chức du lịch thế giới
(UNWTO) đã đưa ra một khái niệm thống nhất về du lịch. Trên phương diện
xem xét du lịch là một ngành công nghiệp hàng đầu của nhiều quốc gia trên
thế giới, UNWTO cho rằng: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện
tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú
của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài
nước họ với mục đích hoà bình và hợp tác. Nơi họ đến lưu trú không phải là
nơi làm việc của họ”.
Khái niệm này đã bao hàm được những khía cạnh về xã hội cũng như
kinh tế của hoạt động du lịch.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
1.2. Du lịch quốc tếCó cái nhìn khái quát về du lịch, chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được thế nào
là du lịch quốc tế. Yếu tố quốc tế của bất kỳ lĩnh vực nào cũng được hiểu là
có sự vượt qua ngoài biên giới lãnh thổ, có sự trao đổi ngoại tệ và trao đổi yếu
tố văn hoá, lịch sử. “Du lịch quốc tế là việc những du khách đi từ quốc gia
này đến quốc gia khác với mục đích chủ yếu là được thẩm nhận những giá trị
tinh thần đặc sắc, độc đáo, khác lạ với nơi mình đang sinh sống”.
Còn theo Luật du lịch Việt Nam thì du lịch quốc tế được định nghĩa
đơn giản là hoạt động du lịch liên quan đến người nước ngoài đi du lịch đến
quốc gia nhận khách. Trong đó, du lịch nước ngoài là hoạt động du lịch liên
quan đến người thường trú ở quốc gia gửi khách đi du lịch đến quốc gia khác.
Du lịch quốc tế đồng thời cũng mở rộng phạm vi của định nghĩa du lịch
bởi loại hình du lịch khác với du lịch quốc tế là du lịch nội địa. Du lịch nội
địa là việc du khách chuyển từ vùng này sang vùng khác của một quốc gia,
không mang lại những giá trị trao đổi những yếu tố văn hoá lịch sử các
vùng miền trên thế giới, trao đổi ngoại tệ cũng như làm phát sinh nhiều loại
hình. Còn du lịch quốc tế là hình thức du lịch chỉ dành riêng cho du khách
nước ngoài.
Nói như vậy để thấy rằng, du lịch hiện nay được coi là một ngành kinh
doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt. Nó góp phần nâng cao hiểu biết
về thiên nhiên, đất nước, về truyền thống lịch sử và văn hoá dân tộc, thắt chặt
hơn sự gắn bó, hữu nghị giữa các quốc gia, là lĩnh vực kinh doanh đem lại
hiệu quả rất lớn, có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tại chỗ,
đem lại nguồn thu ngoại tệ đang kể cho nền kinh tế quốc dân.
1.3. Khách du lịch
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Định nghĩa về khách du lịch xuất hiện lần đầu tiên vào cuối thế kỷ thú
XVIII tại Pháp. Thời ấy, khách du lịch được hiểu là những người thực hiện
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
cuộc hành trình lớn (cuộc hành trình lớn là cuộc hành trình theo bờ Địa Trung
Hải, xuống phía Tây Nam nước Pháp và vùng Bourone).
Năm 1800 tại Vương Quốc Anh, khách du lịch cũng được định nghĩa là
người thực hiện cuộc hành trình lớn trên đất liền xuyên nước Anh.
Vào đầu thế kỷ XX, nhà kinh tế học người Áo, Iozef Stander định
nghĩa: “khách du lịch là hành khách xa hoa ở lại theo ý thích, ngoài nơi cư
trú thường xuyên để thỏa mãn những nhu cầu sinh hoạt cao cấp mà không
theo đuổi các mục đích kinh tế”.
Một người Anh, ông Morval cho rằng, khách du lịch là những người
đến đất nước khác theo nhiều nguyên nhân khác nhau, những nguyên nhân đó
khác biệt với những nguyên nhân phát sinh để cư trú thường xuyên và để làm
thương nghiệp, và ở đó họ phải tiêu tiền đã kiếm ra ở nơi khác.
Nhìn chung, các định nghĩa nêu trên đều mang tính chất phiến diện,
chưa đầy đủ, chủ yếu mang tính chất phản ánh sự phát triển của du lịch đương
thời và xem xét không đầy đủ, hạn chế nội dung thực của khái niệm “khách
du lịch”.
Năm 1937, Liên hiệp các quốc gia (League of Nations) đưa ra định
nghĩa về khách du lịch nước ngoài (foreign tourists): “Bất cứ ai đến thăm một
đất nước khác nơi cư trú thường xuyên của mình trong khoảng thời gian ít
nhất là 24h”.
Theo định nghĩa này, tất cả những người được coi là khách du lịch là:
những người khởi hành để giải trí, vì những nguyên nhân gia đình, sức
khỏe…; những người khởi hành để gặp gỡ, trao đổi các mối quan hệ về khoa
học, ngoại giao, tôn giáo, thể thao, công vụ…; những người khởi hành vì mục
đích kinh doanh (business reason); những người cập bến từ các chuyến hành
trình du ngoại trên biển, thậm chí cả khi họ dừng lại trong khoảng thời gian ít
hơn 24h.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Những người không được coi là khách du lịch là: những người đến lao
động, kinh doanh có hoặc không có hợp đồng lao động; những người đến với
mục đích định cư; sinh viên hay những người đến học ở các trường; những
người ở biên giới sang làm việc; những người đi qua một nước mà không
dừng lại mặc dù cuộc hành trình đi qua nước đó có thể kéo dài 24h.
Theo định nghĩa của Luật du lịch Việt Nam: “Khách du lịch là những
người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc
hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến”. Khách du lịch lại bao gồm khách du
lịch nội địa và khách du lịch quốc tế.
“Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam và người nước ngoài cư
trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam”.
“Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài vào Việt Nam du lịch và công dân Việt Nam, người nước ngoài cư
trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch”.
1.4. Sản phẩm du lịch và đặc điểm của sản phẩm du lịch
1.4.1. Định nghĩa sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch quốc tế là các dịch vụ, hàng hoá cung cấp cho du
khách quốc tế, được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự
nhiên, xã hội với việc sử dụng các nguồn lực: cơ sở vật chất kỹ thuật và lao
động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc gia nào đó[3].
1.4.2. Những bộ phận hợp thành sản phẩm du lịch:
Qua khái niệm trên ta có thể thấy sản phẩm du lịch bao gồm cả yếu tố
vô hình và hữu hình. Yếu tố hữu hình là hàng hóa, yếu tố vô hình là dịch vụ.
Xét theo quá trình tiêu dùng của khách du lịch trên chuyến hành trình
du lịch thì ta có thể tổng hợp các thành phần của sản phẩm du lịch theo những
nhóm cơ bản sau:
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Dịch vụ vận chuyển
Dịch vụ lưu trú, ăn uống
Dịch vụ tham quan, giải trí
Hàng hoá tiêu dùng và hàng lưu niệm
Các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch
1.4.2. Đặc điểm của sản phẩm du lịch
Từ định nghĩa và phân loại các sản phẩm du lịch, ta rút ra các đặc điểm
sau đây của sản phẩm du lịch:
Tính phi vật thể
Sản phẩm du lịch về cơ bản là không cụ thể, không tồn tại dưới dạng
vật thể. Thành phần chính của sản phẩm du lịch là dịch vụ (thường chiếm
khoảng 80% - 90% về mặt giá trị), hàng hoá chiếm tỷ trọng nhỏ [3].
Cũng chính vì đặc điểm này mà việc đánh giá chất lượng sản phẩm du
lịch rất khó khăn, vì thường mang tính chủ quan và phần lớn không phụ thuộc
vào người kinh doanh mà phụ thuộc vào người sử dụng những sản phẩm này
– khách du lịch. Chất lượng sản phẩm du lịch được xác định dựa vào sự chênh
lệch mức độ kỳ vọng và mức độ cảm nhận về chất lượng của khách du lịch.
Như vậy, trong lĩnh vực du lịch, thuật ngữ, sản phẩm du lịch ‟để chỉ kết
quả của quá trình lao động du lịch và kết quả này được đánh giá bởi những
người sử dụng những sản phẩm này.
Gắn liền với yếu tố tài nguyên
Sản phẩm du lịch thường được tạo ra gắn liền với yếu tố tài nguyên du
lịch. Do vậy, sản phẩm du lịch không thể dịch chuyển được. Trên thực tế
không thể đưa sản phẩm du lịch đến nơi có khách du lịch mà bắt buộc khách
du lịch phải đến nơi có sản phẩm du lịch để thoả mãn nhu cầu của mình thông
qua việc tiêu dùng sản phẩm du lịch. Đặc điểm này của sản phẩm du lịch là
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
một trong những nguyên nhân gây khó khăn cho các nhà kinh doanh du lịch
trong việc tiêu thụ sản phẩm.
Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch có tính mùa vụ
Phần lớn quá trình tạo ra và tiêu dùng các sản phẩm du lịch trùng nhau
về thời gian và không gian. Chúng không thể cất đi, để tồn kho như các hàng
hoá thông thường khác.
Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch diễn ra không đều đặn mà chỉ có thể
tập trung vào những thời gian nhất định trong ngày (đối với sản phẩm ở bộ
phận nhà hàng), trong tuần (đối với sản phẩm của thể loại du lịch cuối tuần),
trong năm (đối với sản phẩm một số loại hình du lịch như du lịch biển, du lịch
nghỉ núi…).
Vì vậy, hoạt động kinh doanh du lịch mang tính chất mùa vụ. Sự dao
động (về thời gian) trong tiêu dùng du lịch gây khó khăn cho việc tổ chức
hoạt động kinh doanh và từ đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của các nhà
kinh doanh du lịch. Khắc phục tính mùa vụ trong kinh doanh du lịch luôn là
vấn đề bức xúc cả về mặt thực tiễn, cũng như về mặt lý luận trong lĩnh vực du
lịch.
2. Các lĩnh vực kinh doanh trong hoạt động du lịch quốc tế
Để tạo ra các dịch vụ du lịch nhằm thoả mãn các nhu cầu khác nhau
của khách du lịch quốc tế, đòi hỏi cần phải có các loại hình kinh doanh du
lịch quốc tế tương ứng. Cho đến nay, về phương diện lý thuyết cũng như thực
tế được chấp nhận ở nhiều nước trên thế giới và Việt Nam có 4 loại hình du
lịch tiêu biểu sau đây:
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
2.1. Kinh doanh lữ hành (Tour Operators Business)
Về mặt lý thuyết, khi nói đến hoạt động kinh doanh lữ hành nói chung
là đề cập đến hoạt động chính như: làm nhiệm vụ giao dịch, ký kết với các tổ
chức kinh doanh du lịch trong nước và ngoài nước để xây dựng và thực hiện
các ư trình du lịch đã bán cho khách du lịch.
Tuy nhiên, trên thực tế, khi nói đến hoạt động kinh doanh lữ hành
chúng ta thường thấy song song tồn tại hai hoạt động phổ biến sau:
Kinh doanh lữ hành (Tour Operators Business): Là việc thực hiện các
hoạt động nghiên cứu thị trường, thiết lập các chương trình du lịch trọn gói
hay từng phần; quảng cáo và bán các chương trình trực tiếp hay gián tiếp qua
các trung gian hoặc văn phòng đại diện, tổ chức thực hiện chương trình và
hướng dẫn du lịch.
Kinh doanh đại lý lữ hành (Travel Sub-Agency Business): Là việc thực
hiện các dịch vụ đưa đón, đăng ký nơi lưu trú, vận chuyển, hướng dẫn, tham
quan, bán các chương trình du lịch của các doanh nghiệp lữ hành, cung cấp
thông tin du lịch và tư vấn du lịch nhằm hưởng hoa hồng.
Cách phân định như trên chỉ mang tính chất tương đối. Không có nghĩa
là chỉ tồn tại các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành với các hoạt động kể trên
và chỉ tồn tại các doanh nghiệp kinh doanh đại lý lữ hành với các hoạt động
kể trên.
2.2. Kinh doanh khách sạn (Hostibility Business)
Ở Việt Nam trước đây thường tồn tại một số tranh cãi xung quanh vấn
đề thuật ngữ “kinh doanh khách sạn” và thuật ngữ “kinh doanh lưu trú”. Một
số chuyên gia về du lịch cho rằng, nếu chấp nhận thuật ngữ “kinh doanh
khách sạn” sẽ dẫn đến bó hẹp phạm vi của lĩnh vực hoạt động kinh doanh
muốn đề cập và khái niệm “khách sạn” được hiểu từ nghĩa tiếng Anh là
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
“hotel”, và như vậy chỉ đề cập được một loại hình kinh doanh lưu trú. Còn
một số chuyên gia khác lại cho rằng, nếu chấp nhận thuật ngữ “kinh doanh
lưu trú” sẽ bó hẹp phạm vi của lĩnh vực hoạt động kinh doanh muốn đề cập.
Vì ngoài hoạt động kinh doanh lưu trú (accommodation) ra, trong lĩnh vực
hoạt động kinh doanh này còn có cả các hoạt động kinh doanh khác như ăn
uống, vui chơi giải trí, bán hàng dành cho khách du lịch,v.v…
Theo nguyên bản tiếng Anh “hospitality industry” có thể được hiểu là
“ngành khách sạn”. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng hơn là hiểu đúng nội dung
của lĩnh vực hoạt động kinh doanh mà chúng ta muốn đề cập.
Theo quy chế quản lý lữ hành của Tổng cục du lịch ban hành ngày
29/04/1995, thuật ngữ “kinh doanh khách sạn” được hiểu là việc tổ chức đón
tiếp, phục vụ việc lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, bán hàng cho khách du
lịch.
Theo Luật Du lịch Việt Nam ban hành tháng 6 năm 2005, tại chương
VI mục 4 điều 61, lĩnh vực kinh doanh này được quy định là “kinh doanh cơ
sở lưu trú du lịch”. Trên thực tế chúng ta có thể bắt gặp các khái niệm “kinh
doanh khách sạn, nhà hàng” hoặc “kinh doanh khách sạn”, “kinh doanh nhà
hàng”…
Nói tóm lại, nói đến hoạt động “kinh doanh khách sạn” là nói đến các
hoạt động kinh doanh lưu trú cho khách du lịch, kinh doanh các dịch vụ ăn
uống và bán hàng lưu niệm cho các du khách.
2.3. Kinh doanh vận chuyển khách du lịch (Transportation)
Đặc trưng nổi bật của hoạt động du lịch là sự di chuyển của con người
từ nơi này đến nơi khác ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ. Do vậy, khi đề
cập đến hoạt động du lịch nói chung, đến hoạt động kinh doanh du lịch nói
riêng không thể không nói đến hoạt động kinh doanh vận chuyển.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Kinh doanh vận chuyển là hoạt động kinh doanh, nhằm giúp cho du
khách dịch chuyển được từ nơi cư trú của mình đến điểm du lịch cũng như di
chuyển tại điểm du lịch.
Để phục vụ cho hoạt động kinh doanh này có nhiều phương tiện vận
chuyển khác nhau như ô tô, tàu hoả, tàu thuỷ, máy bay. Thực tế, rất ít doanh
nghiệp du lịch có thể đảm nhiệm toàn bộ việc vận chuyển khách du lịch từ nơi
cư trú của họ đến điểm du lịch và tại điểm du lịch. Do đó, khách du lịch sử
dụng kết hợp dịch vụ vận chuyển của các phương tiện giao thông đại chúng
và của các công ty chuyên kinh doanh dịch vụ vận chuyển.
2.4. Kinh doanh các dịch vụ du lịch khác (Other Tourism Business)
Ngoài các hoạt động kinh doanh lữ hành như đã nêu trên, trong lĩnh
vực kinh doanh du lịch còn có một số hoạt động kinh doanh bổ trợ, như kinh
doanh các loại hình dịch vụ vui chơi, giải trí; tuyên truyền, quảng cáo du lịch;
tư vấn đầu tư du lịch, v.v…
Cùng với xu hướng phát triển ngày càng đa dạng những nhu cầu của
khách du lịch, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự gia tăng mạnh của các
doanh nghiệp du lịch, dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng tăng trên thị trường thì
các hoạt động kinh doanh bổ trợ này ngày càng có xu hướng phát triển mạnh.
3. Các tác động về kinh tế và xã hội của du lịch quốc tế
Để hiểu rõ về những tác động kinh tế xã hội của hoạt động du lịch
chúng ta cần thấy rõ những nét đặc trưng của hoạt động du lịch. Đó là:
Nhu cầu trong tiêu dùng du lịch là những nhu cầu đặc biệt. Nhu cầu đó
là hiểu biết kho tàng văn hoá, lịch sử, nhu cầu vãn cảnh thiên nhiên, bơi và
tắm biển, hồ sông của con người. Tiêu dùng du lịch thoả mãn các nhu cầu về
hàng hoá (thức ăn, hàng hoá mua sắm, hàng lưu niệm v.v…) và đặc biệt là các
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
nhu cầu về dịch vụ (lưu trú, vận chuyển hành khách, dịch vụ y tế, thông tin
v.v…).
Việc tiêu dùng du lịch thoả mãn những nhu cầu thứ yếu, những nhu cầu
không thiết yếu đối với con người (với ngoại lệ ở thể loại du lịch chữa bệnh,
khi đó du lịch có ý nghĩa sống còn đối với người bệnh). Tuy nhiên thức ăn,
chỗ ngủ, quần áo v.v…cũng là những nhu cầu thiết yếu đối với du khách.
Song, chúng không đóng vai trò quyết định cho một chuyến đi du lịch.
Việc tiêu dùng các dịch vụ du lịch và hàng hoá (chủ yếu là thức ăn) xảy
ra trong cùng một thời gian và tại cùng một địa điểm sản xuất ra chúng.
Trong kinh doanh du lịch, nhà kinh doanh không phải vận chuyển dịch vụ
và hàng hoá đến cho khách hàng mà ngược lại, tự khách du lịch phải đến nơi
có hàng hoá. Tiêu dùng du lịch xảy ra thông thường theo thời vụ.
Với những đặc điểm trên, các mối quan hệ trong tiêu dùng du lịch được
chia làm hai loại:
Các mối quan hệ vật chất nảy sinh khi khách đến nơi du lịch và mua
dịch vụ, hàng hoá ở đó bằng tiền tệ
Các mối quan hệ phi vật chất nảy sinh khi khách tiếp xúc với con
người, văn hoá và phong tục tập quán của dân địa phương.
3.1. Ý nghĩa về mặt kinh tế của du lịch quốc tế
Hội đồng Lữ hành và Du lịch quốc tế (World Travel and Tourism
Council – WTTC) đã công nhận du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế
giới, vượt trên cả ngành sản xuất ô tô, thép, điện tử và nông nghiệp. Đối với
một số quốc gia, du lịch là ngành thu ngoại tệ lớn nhất trong ngoại thương.
Tại nhiều quốc gia khác, du lịch là một trong những ngành kinh tế hàng đầu.
Du lịch đã nhanh chóng trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc
gia trên thế giới. Du lịch ngày nay đã trở thành một đề tài hấp dẫn và vấn đề
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
mang tính chất toàn cầu. Nhiều nước đã lấy chỉ tiêu đi du lịch của dân cư là
một chỉ tiêu để đánh giá chất lượng của cuộc sống.
Theo báo cáo của Tổ chức du lịch thế giới WTO ước tính đóng góp của
ngành du lịch vào nền kinh tế thế giới năm 2010 như sau:
Bảng 1.1: Đóng góp của ngành du lịch vào kinh tế thế giới năm 2010
Các nội dung đóng góp của ngành du
lịch quốc tế vào nền kinh tế thế giớiNăm 2010 (tỷ USD)
Tiêu dùng cá nhân 4470,0
Chi phí vận chuyển 897,9
Chi tiêu của Chính phủ 542,1
Đầu tư 1709,3
Xuất khẩu 2276,5
Tổng sản phẩm quốc nội 8008,4
Nhập khẩu 1954,4
Số lượng lao động (triệu người) 328.0
Nguồn: Tổ chức du lịch quốc tế[52]
Nhiều chính phủ đã nhận ra tiềm năng và sự ảnh hưởng to lớn của
ngành du lịch đến phát triển kinh tế nói chung và ngành dịch vụ nói riêng đã
hợp tác để xây dựng nên những chính sách phát triển du lịch nhằm tăng cường
tính cạnh tranh, khuyến khích sử dụng lao động và tăng thu cho ngân sách nhà
nước. Xét một cách cụ thể du lịch quốc tế mang lại một số lợi ích kinh tế sau:
Tham gia tích cực vào quá trình tạo nên thu nhập quốc dân thông qua
thu ngoại tệ, đóng góp vai trò to lớn trong việc cân bằng cán cân thanh
toán quốc tế.
Tham gia tích cực vào quá trình phân phối lại thu nhập quốc dân giữa
các vùng. Hay nói cách khác, du lịch tác động tích cực vào việc làm
cân đối cấu trúc của thu nhập và chi tiêu của nhân dân theo các vùng.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Khai thác những sản phẩm và tài nguyên quốc gia sẵn sàng có tại các
địa phương.
Thu hút nhiều vốn đầu tư vào phát triển du lịch và cơ sở hạ tầng đồng
bộ, hiện đại trang thiết bị vật chất tại các cơ sở du lịch.
Du lịch góp phần củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh tế.
Du lịch quốc tế phát triển tạo nên sự phát triển của giao thông quốc tế.
3.2. Ý nghĩa xã hội của việc phát triển du lịch quốc tế
Mục đích phát triển một ngành kinh tế nào xét đến cùng cũng nhằm đạt
đến một hiệu quả xã hội nhất định. Hiệu quả xã hội của phát triển du lịch quốc
tế thể hiện ở các mặt:
Du lịch góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động trong ngành
dịch vụ và lao động địa phương theo mùa vụ.
Cải thiện đời sống nhân dân nhờ gia tăng mức thu nhập tiêu chuẩn sống
cho người dân.
Khuyến khích phát triển và bảo tồn các di sản truyền thống cũng như
đánh thức các ngành nghề cổ truyền của dân tộc, phục vụ đắc lực cho
quá trình giới thiệu hình ảnh quốc gia đến với bạn bè trên thế giới;
thông qua du lịch nhiều vùng còn khai thác được nhiều giá trị nhân văn
hấp dẫn còn tiềm ẩn, làm giàu thêm văn hoá của các dân tộc.
Giảm bớt sự khác biệt giữa các quốc gia, là cầu nối văn hoá các quốc
gia trên thế giới. Du lịch bản thân nó ở bất kỳ đâu cũng là những giá trị
được nhiều người ghi nhận. Chính vì thế khuyến khích sự hiểu biết lẫn
nhau vì sự phát triển và hoà bình giữa các dân tộc trên thế giới.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
3.3. Các tác hại về kinh tế và xã hội do việc khai thác phát triển du
lịch quá tải đem lại
Phát triển du lịch quốc tế quá tải sẽ dẫn đến việc làm mất thăng bằng
cho cán cân thanh toán quốc tế, sẽ gây áp lực cho lạm phát.
Tạo ra sự phụ thuộc của nền kinh tế vào ngành dịch vụ du lịch. Ngành
du lịch là ngành tạo ra dịch vụ là chủ yếu, việc tiêu thụ dịch vụ phụ thuộc vào
nhiều yếu tố chủ quan và khách quan (khách du lịch tiềm năng rất dễ từ chối
một chuyến đi du lịch đã định). Do đó, việc đảm bảo doanh thu và phát triển
của ngành du lịch là khó khăn hơn so với các ngành sản xuất khác. Nếu tỷ
trọng của ngành du lịch là lớn trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của một
nước thì nền kinh tế của nước đó có nhiều khả năng bấp bênh hơn.
Tạo ra sự mất cân đối và mất ổn định trong một số ngành và trong việc
sử dụng lao động du lịch. Nguyên nhân chính ở đây, là do ngành du lịch có
liên kết mật thiết với nhiều ngành của nền kinh tế quốc dân (sử dụng sản
phẩm công, công nghiệp v.v…) mà thường thì việc tiêu dùng du lịch lại xảy
ra theo thời vụ. Chính tính thời vụ đó cũng làm ảnh hưởng đến việc sử dụng
lao động của du lịch.
Làm ô nhiễm môi trường hoặc làm ảnh hưởng đến tài nguyên thiên
nhiên của đất nước cũng là một trong những tác hại khác của du lịch.
Gây ra một số tệ nạn xã hội (do kinh doanh các hình thức du lịch không
lành mạnh) và các tác hại sâu xa khác trong đời sống tinh thần của một dân
tộc.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
II. Xu hướng phát triển của du lịch trên thế giới và tác động của nó
1. Nhóm các xu hướng phát triển của cầu du lịch
1.1. Thay đổi về hướng và phân bố của luồng khách du lịch quốc tế
Việc quần chúng hóa trong hoạt động du lịch và khả năng đi du lịch xa
kéo theo nhiều biến đổi trong hướng vận động của khách du lịch.
Trước chiến tranh thế giới thứ hai, nguồn khách du lịch chủ yếu tập
trung vào vùng biển Địa Trung Hải, Biển Đen, Hawaii, vùng Caribê. Hiện
nay, hướng vận động của khách du lịch ở khắp nơi trên toàn cầu. Nguồn
khách du lịch ngoài những nơi quen biết đã phân toả đến những nước mới
phát triển du lịch để tìm hiểu và phát hiện những vấn đề mới mẻ như vùng
châu Á - Thái Bình Dương v.v…[3]
Sự phân bố của luồng khách du lịch quốc tế cũng có sự thay đổi rõ rệt.
Tỷ trọng khách du lịch đến châu Âu và châu Mỹ (là hai khu vực có vị trí quan
trọng nhất của ngành du lịch trên thế giới) có xu hướng giảm rõ rệt trong vòng
hơn 40 năm trở lại đây. Nếu như năm 1960 số lượng khách du lịch quốc tế
đến khu vực châu Âu và châu Mỹ chiếm 96,7% lượng khách du lịch quốc tế
trên toàn thế giới, thì vào đầu những năm 2000 giảm xuống còn khoảng 80%.
Năm 2000, châu Âu là khu vực đứng đầu với 57,8% thị phần khách du lịch
quốc tế. Cũng trong thời gian đó khu vực Đông Á - Thái Bình Dương thu hút
ngày một đông khách hơn (tỷ lệ khách đến đã tăng từ 0,98% lên 12%). Như
vậy, khu vực Đông Á - Thái Bình Dương có tốc độ phát triển của ngành du
lịch cao hơn rất nhiều so với tốc độ phát triển trung bình của toàn ngành du
lịch trên thế giới. Theo dự đoán của Tổ chức Du lịch thế giới UNWTO, đến
năm 2010 thị phần đón khách du lịch quốc tế của khu vực Đông Á - Thái
Bình Dương đạt 22,8% thị trường toàn thế giới, sẽ vượt châu Mỹ, trở thành
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
khu vực đứng thứ hai sau châu Âu, và đến năm 2020 khu vực này sẽ chiếm thị
phần 27,34% toàn thế giới[52].
Trong khu vực Đông Á - Thái Bình Dương, du lịch các nước Đông
Nam Á (ASEAN) có vị trí quan trọng, chiếm khoảng 34% lượng khách và
38% thu nhập du lịch toàn khu vực[52]. Theo dự báo của UNWTO, năm 2010
lượng khách quốc tế đến khu vực Đông Nam Á là 72 triệu lượt, với mức tăng
trưởng bình quân giai đoạn 2000-2010 là 7%/năm.
Trong khu vực Đông Nam Á, các nước Singapore, Malaysia, Thái Lan,
Indonesia, Brunei là những nước có tốc độ tăng trưởng về lượng khách du
lịch quốc tế lớn nhất thế giới[52].
Như vậy, luồng khách du lịch thế giới đang trong giai đoạn biến động
toàn cầu. Các điểm đến du lịch không chỉ dừng lại ở châu Âu, châu Mỹ mà
châu Á, châu Mỹ mà châu Á, đặc biệt là Đông Nam Á đang là điểm đến của
luồng khách du lịch.
1.2. Thay đổi trong cơ cấu chi tiêu của khách du lịch
Những năm trước đây tỷ trọng chi tiêu của khách du lịch dành cho các
dịch vụ cơ bản (ăn, ở, vận chuyển) chiếm phần lớn. Hiện nay, tỷ trọng chi tiêu
khách du lịch cho các dịch vụ bổ sung (mua sắm hàng hoá, đồ lưu niệm, tham
quan, giải trí) tăng lên. Nhiều tài liệu trên thế giới đã tổng kết tỷ trọng dịch vụ
cơ bản trên dịch vụ bổ sung trước đây là 7/3 thì nay là 3/7[52]. Điều đó có
nghĩa là tỷ trọng của chi tiêu dịch vụ cơ bản ngày càng giảm, hay nói cách
khác là mức chi tiêu của du khách ngày càng tăng.
1.3. Thay đổi trong hình thức tổ chức chuyến đi của khách du lịch
Khách du lịch chỉ sử dụng một phần dịch vụ các tổ chức kinh doanh du
lịch. Nhiều khi họ không mua chương trình du lịch trọn gói, nhất là khách
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
châu Âu. Vì theo phương thức này khách được hoàn toàn tự do trong chuyến
đi, không phụ thuộc vào người khác. Họ được quyết định những vấn đề như
ăn, ngủ, thời gian lưu lại điểm du lịch dài ngày hay ngắn ngày, và thực hiện
được việc tiết kiệm trong chuyến đi du lịch vì không phải trả các phí dịch vụ
khác cho tổ chức lữ hành.
1.4. Gia tăng các điểm đến du lịch trong một chuyến đi
Trong những năm gần đây khách du lịch có xu hướng thích đi nhiều
nước, thăm nhiều điểm du lịch trong chuyến đi du lịch của mình.
Nắm bắt được xu hướng này, các quốc gia, các nhà kinh doanh du lịch
đã nghiên cứu nhu cầu của khách và không ngừng khai thác các điều kiện tự
về tài nguyên, các điều kiện hiện có và tiềm ẩn để xây dựng các tuyến du lịch
phù hợp, hấp dẫn khách du lịch.
2. Nhóm xu hướng phát triển của cung du lịch
2.1. Đa dạng hoá sản phẩm du lịch
Do cuộc cạnh tranh quyết liệt trong việc thu hút và phục vụ khách du
lịch nên các quốc gia phát triển du lịch cũng như các doanh nghiệp kinh
doanh du lịch đưa ra chính sách đa dạng hoá sản phẩm, đưa ra thị trường sản
phẩm du lịch độc đáo như đa dạng hoá các dịch vụ bổ sung, đưa các sản phẩm
mang bản sắc dân tộc vào sản phẩm du lịch của mình…Trong những năm trở
lại đây, các quốc gia đều phát triển mạnh loại hình du lịch văn hoá thể hiện
bản sắc văn hóa dân tộc của mình.
2.2. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong du lịch
Nhiều nước coi du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, có chiến lược đưa du
lịch thành ngành công nghiệp hàng đầu trong nền kinh tế quốc dân. Ở những
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
nước du lịch phát triển mạnh đã và đang diễn ra quá trình công nghiệp hoá và
hiện đại hoá ngành du lịch, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ
cao như điện tử tin học, vô tuyến viễn thông, tự động hoá, công nghệ sinh học
v.v…để phát triển công nghiệp lữ hành, công nghiệp khách sạn, công nghiệp
vận chuyển khách du lịch. Đội ngũ lao động của các tổ chức kinh doanh được
đào tạo cơ bản, có kiến thức, hiểu biết rộng, chuyên môn vững vàng và ngoại
ngữ thông thạo. Trang thiết bị, phương tiện ở các khâu tác nghiệp rất hiện đại.
Công nghệ phục vụ từng lĩnh vực ngày càng được cải thiện và nâng cao, đi
sâu vào chuyên môn hoá ngành nghề.
2.3. Đẩy mạnh quá trình khu vực hoá, quốc tế hoá
Xu hướng khu vực hoá, quốc tế hoá trong mọi lĩnh vực kinh doanh
ngày càng trở nên tất yếu và ngành du lịch cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Các tuyến du lịch giữa các nước được gắn kết với nhau đáp ứng nhu cầu đi du
lịch nhiều nước trong một chuyến hành trình của khách.
Bên cạnh đó, sản phẩm và các dịch vụ du lịch đã được quốc tế hoá cao.
Nhiều tập đoàn kinh tế du lịch như chuỗi khách sạn, tập đoàn lữ hành có mặt
ở nhiều nước trên thế giới. Nhiều tổ chức du lịch khu vực hay toàn cầu được
hình thành, giúp đỡ các nước thành viên phát triển, khai thác tiềm năng sẵn có
và chuyển giao công nghệ cho những quốc gia chậm phát triển hơn.
Những nước đang phát triển tuy gặp khó khăn về điểm xuất phát thấp
của nền kinh tế, trình độ dân trí chưa cao, ít kinh nghiệm, phần lớn chỉ nhận
được sự chuyển giao công nghệ không hiện đại từ các nước đi trước. Nhưng
các nước đó lại có lợi thế của người đi sau, rút kinh nghiệm phát triển du lịch
của nhiều nước, tiếp thu công nghệ mới, có thể rút ngắn thời gian để phát
triển và hội nhập với du lịch thế giới.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Hiện đại hoá, công nghiệp hoá du lịch nhưng các nước vẫn chú trọng
giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường trong hoạt động của
mình.
2.4. Hạn chế tính thời vụ trong du lịch
Du lịch là ngành kinh doanh dịch vụ là chủ yếu, hoạt động kinh doanh
ở đây chủ yếu là phục vụ chứ không phải sản xuất. Do tác động của nhiều
nhân tố khác nhau mà hoạt động du lịch mang tính thời vụ. Tính thời vụ đó đã
gây ra những tác động nhất định đến hoạt động kinh doanh du lịch.
Các nước du lịch tiên tiến trên thế giới ngày một tiến hành nhiều biện
pháp hữu hiệu hơn để hạn chế các tác động bất lợi của tính thời vụ trong du
lịch và kéo dài thời vụ du lịch nhằm tối đa hoá lợi ích trong việc kinh doanh
du lịch.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
CHƯƠNG II: TIỀM NĂNG VÀ NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
CỦA HOẠT ĐỘNG DU LỊCH QUỐC TẾ TẠI THÁI LAN VÀ
VIỆT NAM
I. Tiềm năng phát triển du lịch của Thái Lan và Việt Nam
1. Tiềm năng du lịch tự nhiên
Để có thể phát triển được du lịch, các quốc gia cần có một vị trí địa lý,
địa hình và tài nguyên thiên nhiên, tự nhiên hấp dẫn và đa dạng. Không thể có
một Hawaii nổi tiếng mà không cần một bờ biển dài và đẹp nhất châu lục,
hình ảnh một Trung Hoa hùng vĩ luôn gắn liền với Vạn Lý Trường Thành và
hàng ngàn ngôi đền mang ý nghĩa cả về cảnh quan lẫn tâm linh. Ở bất kỳ nơi
đâu thiên nhiên dành tặng cho một thế núi, một bãi biển, một quần thể di tích
lịch sử hay một vị trí dễ giao thương và gặp gỡ là ngay lập tức có thể có hình
ảnh của ngành du lịch ở đấy. Việt Nam và Thái Lan là hai đất nước có địa
hình đa dạng, có tài nguyên phong phú. Đó là một lợi thế của cả hai nước
trong hoạt động kinh doanh du lịch.
1.1. Vị trí địa lý và địa hình
Vị trí địa lý và địa hình của hai nước là một trong những tiềm năng để
phát triển du lịch quốc tế.
Thái Lan
Nằm ở vị trí chiến lược giữa châu Âu, Australia, châu Phi và châu Á,
Thái Lan được coi là cửa ngõ vào châu Á, diện tích 513.115km2.
Từ điểm cực bắc đến điểm cực nam là 2.500 km2; từ điểm cực đông
sang điểm cực tây là 1.250km2. Thái Lan có bờ biển dài khoảng 1.840km
theo bờ vịnh Thái Lan và 865km theo bờ Ấn Độ Dương.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Thái Lan nằm ở trung tâm của Đông Nam Á, giáp Cộng hoà dân chủ
nhân dân Lào và Liên bang Myanma ở phía Bắc, Campuchia và vịnh Thái
Lan ở phía Đông, Liên bang Myanma và Ấn Độ Dương ở phía Tây, Malaixia
ở phía Nam.Thái Lan được chia làm 4 khu vực địa lý: miền núi phía Bắc;
đồng bằng màu mỡ phía Trung là vựa lúa của đất nước, miền cao nguyên
vùng Đông Bắc; khu vực đồi núi phía Nam giàu tài nguyên thiên nhiên và
những cánh rừng nguyên sinh (đồng thời đây cũng là nơi trồng cao su thiên
nhiên và các cây nhiệt đới khác).
Miền bắc là vùng đồi núi, bao gồm những dãy núi tiếp nối cao nguyên
Vân Nam theo hướng Bắc – Nam. Có 4 con sông chính là Nam, Yom, Oang,
Ping hợp lại thành sông MêNam ở đồng bằng trung tâm. Các con sông đều
chảy theo hướng Bắc – Nam; ngoại trừ vùng núi cực Bắc, sông chảy về phía
Bắc đổ vào sông Mêkông, và ở biên giới Myanma, sông chảy về phía Tây đổ
vào sông Xaluen ở Myanma.
Miền Đông Bắc có cao nguyên Còrạt có hình lòng chảo tứ giác hơi
nghiêng về phía sông MêKông, với hai sông chính là Xêmun và NởmXi chảy
vào sông MêKông. Khí hậu khô khan, đất đai kém phì nhiêu vì thiếu nước.
Người Lào chiếm đại đa số. Đây là vùng chăn nuôi trâu bò cung cấp cho đồng
bằng Trung tâm.
Miền đồng bằng màu mỡ miền Trung có thể chia thành hai miền nhỏ là:
- Đồng bằng tâm: được bồi đắp phù sa mới vào mỗi mùa mưa lũ từ
tháng 6 đến tháng 12 hàng năm; sau các trận lụt, những luồng lạch ở hạ lưu
sông MêNam lại đổi dòng.
- Miền Đông Nam hay còn gọi là vùng Chantaburi bị ngăn cách với
Campuchia và đồng bằng trung tâm bởi những dãy núi đồi không liên tục cao
550 – 1.500m. Đây là một vùng bờ biển nhỏ giáp với vịnh Thái Lan.
Miền Nam là một bộ phận bán đảo kéo dài từ đồng bằng Trung tâm đến
biên giới Malayxia ở phía Nam, chiều rộng 16 – 217km. Phía Tây là dãy núi
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Tênatxêrim chạy dọc bán đảo, ngăn cách bán đảo với Myanma. Bờ biển phía
Tây có nhiều dốc đá khúc khuỷu, nhiều đảo rất đẹp. Bờ biển phía Đông có
nhiều vịnh rộng, đồng bằng duyên hải rộng 5 – 30 km, bờ biển bằng phẳng.
Với vị trí địa lý thuận lợi, Thái Lan có cảnh quan rất phong phú. Mở ra
theo hình nan quạt chung quanh khu đồng bằng trung tâm quanh sông Chao
Phraya, bốn vùng địa lý khác biệt rõ rệt của Thái Lan bao gồm vùng cao
nguyên cao và khô ráo của Đông Bắc, dãy núi chạy dọc theo hướng Bắc Nam
của khu vực phía Bắc và phía Tây, và eo đất hẹp ở phía Nam. Trong eo đất
phía Nam này có vô số những khu rừng nhiệt đới với nhiều loại động vật
hoang dã.
Những đặc điểm về địa lý và địa hình trên đã mang lại cho Thái Lan sự
đa dạng về hệ động vật và thực vật. Đó là những điều kiện thuận lợi để phát
triển các loại hình du lịch sinh thái, du lịch mạo hiểm và những loại hình du
lịch khác.
Việt Nam
Việt Nam nằm trong bán đảo Đông Dương, thuộc vùng Đông Nam
châu Á. Lãnh thổ Việt Nam chạy dọc theo bờ biển phía Đông của bán đảo
này.
Việt Nam có biên giới đất liền với Trung Quốc, Lào, Campuchia và bờ
biển dài 3.260 km tiếp giáp vịnh Bắc Bộ, biển Đông và vịnh Thái Lan.
Việt Nam có diện tích 331.668 km2, bao gồm khoảng 327.480 km2 đất
liền và hơn 4.200 km2 nội thuỷ, với hơn 4.000 hòn đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ,
gần và xa bờ. Việt Nam có vùng lãnh thổ, vùng nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa gấp ba lần diện tích đất liền, khoảng trên 1 triệu
km2.
Địa hình Việt Nam đa dạng: đồi núi, đồng bằng, bờ biển, thềm lục địa,
phản ánh lịch sử phát triển địa chất, địa hình lâu dài trong môi trường gió
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
mùa, nóng ẩm, phong hoá mạnh mẽ. Địa hình thấp dần theo hướng Tây Bắc -
Đông Nam, được thể hiện rõ qua hướng chảy của các dòng sông lớn.
Đồi núi chiếm tới 3/4 diện tích lãnh thổ nhưng chủ yếu là đồi núi thấp.
Địa hình thấp dưới 1.000 m chiếm tới 85% lãnh thổ. Núi cao trên 2.000m chỉ
chiếm 1%. Đồi núi Việt Nam tạo thành một cánh cung lớn hướng ra biển
Đông, chạy dài 1.400 km, từ Tây Bắc tới Đông Nam Bộ. Những dãy núi đồ sộ
nhất đều nằm ở phía Tây và Tây Bắc với đỉnh Phan – xi – phăng cao nhất bán
đảo Đông Dương. Càng ra phía đông, các dãy núi càng thấp dần và thường
kết thúc bằng một dải đất thấp ven biển. Từ đèo Hải Vân vào Nam, địa hình
đơn giản hơn. Ở đây không có những dãy núi đá vôi dài mà có những khối đá
hoa cương rộng lớn, thỉnh thoảng nhô lên thành đỉnh cao, còn lại là những cao
nguyên liên tiếp tạo thành Tây Nguyên, rìa phía đông được nâng lên thành
dãy Trường Sơn.
Đồng bằng chỉ chiếm 1/4 diện tích trên đất liền và bị đồi núi ngăn cách
thành nhiều khu vực. Ở hai đầu đất nước có hai đồng bằng rộng lớn, phì nhiêu
là đồng bằng Bắc Bộ (lưu vực sông Hồng, rộng 16.700 km2) và đồng bằng
Nam Bộ (lưu vực sông Mêkông, rộng 40.000 km2). Nằm giữa hai châu thổ đó
là một chuỗi đồng bằng nhỏ hẹp, phân bố dọc theo duyên hải miền Trung, từ
đồng bằng thuộc lưu vực sông Mã (Thanh Hoá) đến Phan Thiết với tổng diện
tích 15.000 km2.
Việt Nam có ba mặt Đông, Nam và Tây – Nam trông ra bờ biển dài
3.260 km, từ Móng Cái ở phía Bắc đến Hà Tiên ở phía Tây Nam. Phần biển
Đông thuộc chủ quyền Việt Nam mở rộng về phía Đông và Đông Nam, có
thềm lục địa, các đảo và quần đảo lớn nhỏ bao bọc. Chỉ riêng Vịnh Bắc Bộ đã
tập trung một quần thể gần 3.000 hòn đảo trong khu vực vịnh Hạ Long, Bái
Tử Long, các đảo Cát Hải, Cát Bà, đảo Bạch Long Vĩ…Xa hơn là quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Phía Tây Nam có các nhóm đảo Côn Sơn, Phú Quốc
và Thổ Chu.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Có thể thấy, Việt Nam và Thái Lan có vị trí địa lý và địa hình tương đối
giống nhau. Cả hai đất nước đều có vị trí thuận lợi và là trung tâm của châu
Á, tuy nhiên Thái Lan nằm ở cửa ngõ của châu Á nên thuận lợi hơn Việt
Nam. Địa hình của hai nước cũng rất đa dạng với nhiều dạng địa hình, chủ
yếu là đồi núi. Đây là một nguồn lực quan trọng để phát triển du lịch sinh
thái, du lịch mạo hiểm…
1.2. Khí hậu
Khí hậu cũng là một thuận lợi để hai nước phát triển du lịch.
Thái Lan
Thái Lan nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, khí hậu khá khô.
Mùa mưa ngắn nhưng lượng mưa dồi dào, 900 – 1.500 mm/năm. Nhiệt độ
trung bình là 19 – 38 độ C, nhiệt độ cao nhất trong năm từ tháng 3 đến tháng
5, thấp nhất là vào tháng 12 và tháng 1.
Khí hậu Thái Lan có ba mùa rõ ràng: mùa lạnh (từ tháng 11 đến tháng
2), mùa nóng (từ tháng 4 đến tháng 5) và mùa mưa từ tháng 7 đến tháng 10).
Gió mùa có ảnh hưởng rất lớn đến khí hậu của Thái Lan. Độ ẩm không
khí của Thái Lan khá cao, khoảng 66% - 82%, phụ thuộc vào từng thời gian
trong ngày và từng mùa trong năm. Sự chênh lệch nhiệt độ giữa các mùa
trong năm là khá lớn, khoảng 19 độ C.
Nhìn chung khí hậu Thái Lan phù hợp với sức khỏe của con người,
thuận lợi cho tổ chức, triển khai nhiều hoạt động du lịch, tạo nhiều tài nguyên
du lịch phong phú, hấp dẫn. Sự đa dạng trong đặc điểm khí hậu của Thái Lan
đã tạo ra sự đa dạng trong hệ động thực vật và phong cảnh tự nhiên. Sự đa
dạng về khí hậu này cũng kéo theo sự đa dạng về các loại hình du lịch của
Thái Lan, thoả mãn những nhu cầu của khách du lịch và giảm tính mùa vụ
trong việc kinh doanh du lịch.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Việt Nam
Nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa, với nhiệt độ trung bình năm từ
23 – 27 độ C, lượng mưa trung bình năm từ 500 – 2.000 mm, độ ẩm trung
bình trên 80%. Khí hậu có sự phân hoá theo mùa, rõ nhất là sự phân hóa
lượng mưa. Có tới 90% lượng mưa tập trung từ tháng 6 đến tháng 9. Miền
Trung mưa nhiều vào tháng 9 đến tháng 12. Do đó thường xảy ra lũ lụt, lở đất
gây khó khăn cho hoạt động du lịch.
Khí hậu nước ta có sự phân hoá theo vĩ độ:
Từ đèo Hải Vân trở ra Bắc là khí hậu á nhiệt, có một mùa đông lạnh
mưa ít và một mùa hạ nóng mưa nhiều. Giữa mùa đông và mùa hạ là hai mùa
chuyển tiếp thu, xuân.
Từ đèo Hải Vân đến mũi Cà Mau nóng quanh năm, nhiệt độ trung bình
từ 27 – 28 độ C, có một mùa mưa và một mùa khô.
Khí hậu còn có sự phân hóa theo độ cao. Cứ lên cao 1000m nhiệt độ hạ
từ 5- 6 độ C. Cùng với nhiều tài nguyên khác, nhiệt độ hạ thấp đã tạo nên cho
đất nước ta nhiều điểm phong cảnh đẹp, khí hậu mát mẻ như Sapa, Đà Lạt,
Tam Đảo, Ba Vì, Bạch Mã, Bà Nà…hấp dẫn nhiều du khách.
Nhìn chung khí hậu nước ta phù hợp với sức khoẻ con người, thuận lợi
cho tổ chức, triển khai nhiều hoạt động du lịch, tạo nhiều tài nguyên du lịch
phong phú, hấp dẫn.
Như vậy, khí hậu của Việt Nam có phần đa dạng hơn Thái Lan. Khí
hậu của Việt Nam có cả nhiệt và ôn đới trong khi khí hậu Thái Lan chỉ có
nhiệt đới. Thái Lan lại có mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9. Trong
những tháng này ở Thái Lan rất vắng khách trong khi ở Việt Nam lượng
khách vẫn không biến động so với những tháng khác. Đây là điểm thuận lợi
của Việt Nam so với Thái Lan để có thể thu hút khách du lịch đến với đất
nước mình.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
1.3. Phong cảnh tự nhiên
Thái Lan
Thái Lan được tạo hóa ưu đãi với những phong cảnh đẹp trải dài khắp
đất nước. Đặc biệt, những bãi biển đã trở thành một điểm để khẳng định
thương hiệu du lịch Thái Lan trên thế giới. Những điểm du lịch hàng đầu của
Thái Lan là Bangkok, Chon Buri (Pattaya – nơi có đảo san hô Coral nổi
tiếng), hay Phunket, Chieng Mai, nơi có những bãi tắm và hòn đảo tuyệt đẹp.
Bên cạnh đó, còn có Udon Thani – hòn ngọc của vịnh Thái Lan, biển
Andaman – nơi có bãi tắm Cha – am nổi tiếng hay những bãi biển, những hòn
đảo tuyệt đẹp ở Prachuap Khiri Kha, Surat Thani hay Krabi – nơi được mệnh
danh là hòn ngọc bích của biển Andaman.
Bên cạnh tài nguyên du lịch biển, Thái Lan còn hấp dẫn du khách bởi
những dãy núi tuyệt đẹp trải dài theo bãi biển với bờ cát trắng. Những dãy núi
ở cao nguyên Còrạt hay những dãy núi trải ở phía đông bắc đã trở thành
những điểm du lịch nổi tiếng của Thái Lan.
Một tài nguyên tự nhiên nữa không thể không kể đến của Thái Lan là
tài nguyên rừng. Cả nước Thái Lan có ít nhất 8 loại rừng khác nhau, trong đó
không những chỉ có rừng mưa nhiệt đới với các loại rừng rụng lá hỗn hợp và
rừng đước trên nước thuỷ triều, mà còn có các loại rừng tre, rừng thông và
một số dạng rừng ôn đới ở độ cao trên 1.600m. Sự phong phú của các loài
thực vật này còn tạo thêm môi trường sống cho các loài động vật hoang dã
cùng với các loài côn trùng và thuỷ sản rất đa dạng về chủng loại.
Tất cả những tài nguyên về rừng, biển và núi là những nguồn lực vô
cùng quý giá góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển của du lịch
Thái Lan cũng như đa dạng các loại hình du lịch tại đất nước này.
Việt Nam
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Việt Nam có phong cảnh tự nhiên tươi đẹp trải dài từ Bắc vào Nam.
Việt Nam có bờ biển dài 3.260km với nhiều bãi biển nổi tiếng như Cửa Lò,
Nha Trang, Vũng Tàu, Mũi Né…Những hòn đảo như đảo Tuần Châu ở Hạ
Long, đảo Phú Quốc, đảo Cát Bà…cũng là những địa điểm thu hút rất nhiều
khách du lịch.
Việt Nam còn có những khu rừng nguyên sinh như rừng quốc gia Cúc
Phương, rừng ngập mặn U Minh, vườn quốc gia Bạch Mã, rừng Bình Châu –
Phước Bửu, rừng nguyên sinh Bằng Tạ…Và còn rất nhiều những cảnh quan
rất đẹp là nơi thu hút nhiều du khách đến tham quan thưởng lãm.
Có thể nói, phong cảnh tự nhiên của Việt Nam cũng không kém cạnh gì
Thái Lan. Thậm chí, còn có những nét hoang sơ hơn vì chưa bị khai thác triệt
để và điều đó cũng làm cho du khách rất thích thú. Như bãi biển Nha Trang
và Pattaya thì Nha Trang trong xanh, sạch và thoáng đãng hơn so với biển
Pattaya. Hay như đảo san hô ở Pattaya không thể so với Bãi Trũ, Hòn Tằm
của Nha Trang.
2. Tiềm năng du lịch nhân văn
Tài nguyên du lịch nhân văn của Thái Lan và Việt Nam rất phong phú,
đa dạng, mang các giá trị lịch sử văn hóa. Đó cũng là những tiềm năng để hai
nước phát triển ngành du lịch của mình.
Thái Lan
Nằm ở điểm giao nhau giữa đông và tây, và giữa nền văn hoá cổ như
Ấn Độ, Campuchia và Trung Quốc, Thái Lan có sự pha trộn khéo léo, duy
nhất của những sức hút lịch sử cũng như di sản còn sót lại từ các vương triều
Khơme. Hiện tại, 3 vị trí lịch sử được UNESCO xếp hạng là công viên
Sukhotha – Sri Satchnalai – Khamphaeng Phet; công viên Ayuthaya và khu
bảo tồn thiên nhiên hoang dã Patung Yai – Huai Kha Kaeng.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Thái Lan là một đất nước của Phật giáo và tín ngưỡng, vì vậy mà Thái
Lan còn nổi tiếng với đền chùa, miếu mạo…Thái Lan còn được gọi là “nước
Phật hoàng bào” với 95% dân số theo đạo Phật. Bangkok còn được gọi là
“kinh đô của chùa Phật”, chỉ riêng thành phố Bangkok đã có hơn 400 ngôi
đền chùa, với kiến trúc đẹp lộng lẫy. Trong đó Ngọc Phật Tự, Kim Phật Tự là
những ngôi chùa được coi là quốc bảo của Thái Lan. Đây là những nơi thu hút
du khách ở khắp nơi trên thế giới đến chiêm ngưỡng vẻ đẹp hiện đại mà vẫn
cổ kính của Thái Lan.
Thái Lan còn nổi tiếng với những lễ hội truyền thống, tháng nào cũng
diễn ra những ngày lễ văn hoá. Mỗi tháng có một chủ đề riêng, các lễ hội thì
phong phú và trải dài từ Bangkok đếng Chiang Mai. Đây cũng là cơ hội để
Thái Lan thu hút khách du lịch.
Phù hợp với một chế độ quân chủ, ngày sinh của đức vua và hoàng hậu
Thái Lan là những ngày quốc lễ quan trọng. Khắp nơi trên đất nước được
trang hoàng lộng lẫy, quanh khu vực hoàng cung ở Bangkok thắp đèn rực rỡ,
kèm theo là bắn pháo bông. Người Thái cũng tôn vinh ngày Chakri, tức là
ngày thành lập của triều đại hiện nay, và ngày đăng quang, tức là ngày nhà
vua Bhumihal lên ngai vàng. Vào những dịp như thế này, Thái Lan đã thiết kế
những chương trình để thu hút khách du lịch và đã thu được những thành
công lớn.
Là một nước theo đạo Phật, Thái Lan cử hành những ngày lễ quan
trọng với những nghi lễ trang trọng như lễ magha Oụa vào tháng 2, lễ Khao
Phansa vào tháng 7. Không thể không kể đến tết năm mới của người Thái,
được biết nhiều hơn với cái tên Tết té nước Songkran được tổ chức từ ngày 13
– 15/4 hàng năm. Đó là dịp không chỉ để làm công đức mà còn để vui chơi.
Trong thời gian diễn ra lễ hội, nhiều cuộc diễu hành, thi sắc đẹp được tổ chức.
Ngoài ra, người ta còn nấu các món ăn truyền thống và mặc trang phục nhiều
màu sắc. Tết té nước của Thái Lan mang tính cộng đồng cao nên được du
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
khách rất hưởng ứng. Do đó, lễ hội Songkran là một dịp lý tưởng để du khách
tới chứng kiến và tham gia ngày hội này.
Ngoài những lễ hội truyền thống, Thái Lan còn rất nhiều lễ hội vùng, lễ
hội Trung Hoa, lễ hội bộ lạc cũng thu hút không ít khách du lịch.
Nghệ thuật ẩm thực Thái Lan nổi tiếng trên khắp thế giới. Khách du
lịch đến Thái Lan không thể không thưởng thức những món ăn mang đậm
chất Thái. Dù món đó là món cay hay món rất nhạt, sự hài hòa là nguyên tắc
xuyên suốt trong mỗi món ăn. Về cơ bản, nghệ thuật ẩm thực Thái Lan là sự
pha trộn giữa ảnh hưởng phương Đông và phương Tây được kết tinh qua
nhiều thế kỷ để tạo nên một nét rất “Thái Lan”. Các món ăn đặc trưng của
Thái như Tipit, salad, Pla Tab Thim Samros, Som Tom, Koong Phad, Phong
Cari, Khao Phad Saparos, canh chua Tom yam gung…đã xây dựng nên một
hình ảnh về văn hóa ẩm thực của Thái Lan. Và nét văn hóa đó cũng là một
trong những nét thu hút khách du lịch và để lại ấn tượng tốt trong lòng du
khách.
Việt Nam
Việt Nam có một nền văn hoá dân tộc rất phong phú, đa dạng, đặc sắc,
mang các giá trị lịch sử văn hoá gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển
của đất nước.
Đến nay, Việt Nam có 7 di sản được UNESCO xếp hạng di sản văn hoá
thế giới, bao gồm cả văn hoá vật thể và phi vật thể và rất nhiều tài nguyên du
lịch nhân văn quý giá khác.
Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể ở nước ta gồm di tích khảo cổ, di
tích kiến trúc nghệ thuật, di tích lịch sử, di tích khảo cổ, các công trình đương
đại. Trong đó, các di tích kiến trúc nghệ thuật như chùa, đình, nhà thờ, nhà cổ,
lăng tẩm, cung điện chiếm số lượng lớn, lưu giữ nhiều giá trị lịch sử. Kiến
trúc nghệ thuật văn hóa có giá trị là những điểm tham quan, nghiên cứu hấp
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
dẫn khách du lịch. Có thể kể đến một số chùa nổi tiếng như chùa Thiên Mụ,
chùa Trấn Quốc, chùa Một Cột…
Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể: với sự đa dạng phong phú về
điều kiện tự nhiên, bề dày lịch sử và văn hóa nên nước ta cũng giàu có về tài
nguyên du lịch phi vật thể.
- Lễ hội
Việt Nam có gần 400 lễ hội lớn gắn liền với sự tưởng nhớ các anh hùng
dân tộc, những người có công với đất nước, các danh nhân và thường diễn ra
tại các di tích lịch sử văn hóa, gắn với sinh hoạt văn hóa dân gian truyền
thống. Hiện nay nước ta còn lưu giữ, tổ chức nhiều lễ hội lớn hấp dẫn du
khách như lễ hội Đền Hùng, lễ hội Chùa Hương, lễ hội đền Kiếp Bạc, lễ hội
đền Quan Âm (ở Ngũ Hành Sơn), lễ hội Ka Tê (của người Chăm)…
- Văn hóa nghệ thuật
Nước ta có nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật đã được phát triển lâu
đời và có giá trị về nhiều mặt, là tài nguyên hấp dẫn để phát triển du lịch như
Quan họ Bắc Ninh, Nhã nhạc cung đình Huế, hát Chèo, hát Bội, hát bài Chòi,
ca tài tử và rất nhiều nhiều loại hình nghệ thuật khác.
- Nghệ thuật ẩm thực
Việt Nam có rất nhiều món ăn ngon được chế biến khéo léo, tinh tế.
Mỗi vùng quê Việt Nam có các đặc sản nông nghiệp riêng. Vì vậy, Việt Nam
là quốc gia có nhiều món ăn ngon đồ uống ngon như phở Hà Nội, cốm, bánh
cốm Hà Nội, bánh cuốn Thanh Trì, chả cá Lã Vọng…bánh phu thê, nem chua
Từ Sơn, rượu làng Vân (Bắc Giang), Trương Xá (Cẩm Giàng - Hải Dương),
bánh gai Ninh Giang, bánh đậu Hải Dương, tương Bần (Hưng Yên), bún bò
Huế, cơm hến Huế, cao lầu Hội An, mỳ Quảng, hủ tiếu Nam Bộ, phở chua
Lạng Sơn, vịt quay Thất Khê…
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Nghệ thuật ẩm thực của nước ta được thể hiện từ khâu chọn nguyên
liệu, chế biến, bày đặc món ăn, cách ăn, cách uống tạo sự hấp dẫn với du
khách.
- Làng nghề cổ truyền
Việt Nam có trên 6.000 làng nghề, các địa phương có nhiều làng nghề
nổi tiếng như Hà Tây, Bắc Ninh, Hải Dương, Quảng Nam, Thái Bình…
Như vậy, qua nghiên cứu về Thái Lan và Việt Nam, chúng ta thấy cả
hai nước có một nền văn hóa đa dạng và phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đó là nguồn tài nguyên để phát triển du lịch nói chung, du lịch quốc tế nói
riêng.
3. Nguồn nhân lực
Thái Lan
Dân số Thái Lan hiện nay khoảng 70 triệu người. Cấu trúc dân số theo
độ tuổi của Thái Lan là cấu trúc trẻ, 25% dân số trong độ tuổi dưới 15. Lực
lượng lao động khoảng gần 40 triệu người, phần lớn là lao động dưới 30 tuổi,
hàng năm có khoảng gần 1 triệu người tham gia vào lực lượng lao động. Với
những đặc điểm về dân số như vậy, Thái Lan có nguồn lao động hiện tại dồi
dào, nguồn bổ sung lớn. Hơn nữa, nguồn nhân lực trong hoạt động du lịch của
Thái Lan được đào tạo một cách cơ bản và chuyên nghiệp, giỏi chuyên môn,
ngoại ngữ, am hiểu phép lịch sự và phong tục tập quán văn hoá của khách du
lịch, tinh thần thái độ phục vụ chu đáo. Đây cũng là một tiền đề quan trọng, vì
nguồn nhân lực luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu trong sự phát triển của bất
kỳ lĩnh vực nào.
Việt Nam
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Với dân số trên 80 triệu người, cơ cấu dân số trẻ, tỷ lệ trong độ tuổi lao
động cao. Đây là nguồn lực dồi dào để phát triển các ngành kinh tế nói chung
và ngành dịch vụ du lịch nói riêng.
Tuy nhiên, so với Thái Lan thì lực lượng lao động hoạt động trong
ngành du lịch của chúng ta còn rất nhiều yếu kém. Trong khi ở Thái Lan, lao
động được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ, giỏi ngoại ngữ, am hiểu văn hoá ứng
xử thì ở Việt Nam hiện nay còn thiếu các trường đào tạo lao động cho ngành
du lịch. Ngoài việc yếu kém về chất lượng, lao động trong ngành này còn
thiếu về chất lượng. Hiện nay có khoảng 400 công ty lữ hành quốc tế và hơn
10.000 công ty lữ hành nội địa đang hoạt động nhưng chỉ có 6.000 lao động
được cấp thẻ hành nghề. Trung bình một tháng Việt Nam đón trên dưới 40
vạn khách Trung Quốc nhưng các công ty lữ hành chỉ đáp ứng được 17% nhu
cầu, và chỉ có vài chục hướng dẫn viên cho 20 vạn khách Nhật Bản và Hàn
Quốc.
Có thể thấy, Thái Lan và Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào để phát
triển ngành du lịch. Tuy nhiên, nguồn nhân lực phục vụ du lịch của Việt Nam
chưa được đào tạo tốt. Vì vậy, cần thiết phải có chính sách đào tạo nhân lực
để đây thực sự trở thành một tiềm năng phát triển du lịch.
II. Những kết quả ngành du lịch Thái Lan và Việt Nam đạt được
Hiện nay, ngành dịch vụ du lịch đóng một vai trò rất quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân của hai nước và đóng góp một tỷ lệ cao trong GDP hàng
năm. Trong quá trình phát triển của mình, Thái Lan và Việt Nam đã đạt được
những thành tựu đáng kể.
Với những mục tiêu về số lượng khách du lịch đặt ra hàng năm, Thái
Lan đều đạt chỉ tiêu và có những năm còn vượt chỉ tiêu. Thái Lan đã thuyết
phục thế giới trong lĩnh vực du lịch bằng vị trí dẫn đầu khu vực Đông Nam Á
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
và nhận giải “Quốc gia du lịch tốt nhất thế giới năm 2006” (“The world‟s best
tourist coủnty 2006) do tạp chí Travel News (Nauy) trao tặng. Giải thưởng
này được tổ chức liên tục 11 năm qua do 300 thành viên ngành công nghiệp
du lịch Nauy bầu chọn. Ngoài ra, tạp chí The Lexury Travel (Úc) cũng đã
công bố “Danh sách vàng năm 2006” cho các giải thưởng trong ngành du lịch
và Thái Lan cũng giành được thứ hạng cao, xếp thứ 8 và là quốc gia châu Á
duy nhất nằm trong danh sách 10 nước đạt giải “Quốc gia tốt nhất”, Bangkok
được xếp thứ 8 trong số các thành phố giành giải “Thành phố tốt nhất”, 8 khu
nghỉ mát của Thái Lan lọt vào top 30 “Khu nghỉ mát tốt nhất”. Trong năm
2007, Bangkok đã vinh dự được xếp hạng nhất trong số “Thành phố tốt nhất”,
Thái Lan cũng giành giải vàng về môi trường do PATA trao tặng cùng rất
nhiều giải thưởng khác…Những thành tích xứng đáng trên đã phản ánh đúng
thực lực tiềm năng của ngành du lịch Thái Lan và dự báo trong tương lai
không xa, đất nước này thực sự là thiên đường của khách du lịch quốc tế.
Việt Nam với 47 năm hình thành và phát triển ngành du lịch, được
Đảng và Nhà nước quan tâm, các ngành, các cấp phối hợp, giúp đỡ, nhân dân
hưởng ứng, bạn bè quốc tế ủng hộ, cùng với sự cố gắng nỗ lực của cán bộ,
công nhân viên toàn ngành đã có những tiến bộ đáng ghi nhận.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng 1975, non sông thu về một
mối, hoạt động du lịch được mở rộng trên phạm vi toàn quốc. Ngành du lịch
đã tăng cường phát triển nguồn nhân lực, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật,
chuẩn bị điều kiện để mở rộng quy mô và đa dạng hoá các hình thức hoạt
động, hoàn thiện bộ máy quản lý và cơ chế chính sách, từng bước thích nghi
với cơ chế mới và khẳng định vai trò, vị trí của một ngành kinh tế tổng hợp.
Trong những năm qua, du lịch Việt Nam tăng trưởng tương đối ổn định
với tốc độ tăng trưởng trung bình ở mức tương đối cao (khoảng 20%), thị
phần du lịch của Việt Nam trong khu vực đã tăng từ 5% năm 1995 lên 8%
năm 2005, thu nhập từ ngành du lịch tăng lên nhiều lần. Đây là một thành
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
công lớn giúp du lịch trở thành một trong những ngành có đóng góp lớn vào
GDP (riêng GDP du lịch hiện chiếm khoảng 4% GDP cả nước, theo cách tính
của UNWTO) thì con số này khoảng 10%). Du lịch là một trong số ít những
ngành kinh tế ở nước ta mang lại nguồn thu trên 2 tỷ/năm.
Hơn 10 năm trước, du lịch Việt Nam đứng vào hàng thấp nhất khu vực,
nhưng đến nay khoảng cách này đã được rút ngắn, đã đuổi kịp và vượt
Philipin, chỉ còn đứng sau Malaysia, Singapore, Indonesia và Thái Lan. Theo
UNWTO, hiện nay Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng
cao nhất khu vực và thế giới. Năm 2004, du lịch Việt Nam được Hội đồng du
lịch và lữ hành thế giới xếp thứ 7 thế giới về tăng trưởng lượng khách trong
tổng số 174 nước, Việt Nam được xếp vào nhóm 10 điểm đến hàng đầu thế
giới.
Có thể thấy, lượng khách và thu nhập từ du lịch quốc tế của Việt Nam
đã có những bước tiến vượt bậc, nhưng so với tiềm năng của Việt Nam thì kết
quả này vẫn chưa tương xứng. Chúng ta càng thấy rõ sự nhỏ bé của những kết
quả mà Việt Nam thu được khi so sánh với những gì mà Thái Lan đã đạt
được.
Sau đây là tình hình cụ thể:
1. Lượng khách quốc tế
Nền công nghiệp du lịch của Thái Lan đóng một vai trò quan trọng
trong sự phát triển của nền kinh tế Thái Lan trong suốt hơn 40 năm qua. Sau
chiến tranh vùng vịnh 1991, du lịch Thái Lan tăng trưởng mạnh và liên tục.
Số lượng khách du lịch từ 1,2 triệu năm 1977 lên đến 5,7 triệu năm 1993. Từ
năm 1996, số du khách quốc tế đến Thái Lan tiếp tục tăng mạnh. Thái Lan trở
thành một trong 20 nước dẫn đầu có số khách du lịch lớn nhất thế giới. Chiến
dịch “Amazing Thailand” năm 1998 – 1999 được coi là một sự thành công
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
lớn, đóng góp một phần khồn nhỏ giúp Thái Lan lập kỷ lục về số lượng du
khách và số ngoại tệ mà ngành du lịch đã thu được. Số du khách tăng từ 5,29
triệu năm 1998 đến 8,58 triệu năm 1999. Ngành công nghiệp du lịch Thái Lan
phát triển không ngừng từ năm 1999 đến 2002.
Năm 2003 được coi là năm tồi tệ nhất trong lịch sử ngành du lịch Thái
Lan. Lần đầu tiên trong vòng 12 năm, ngành công nghiệp không khói phải
chứng kiến sự sụt giảm nghiêm trọng về số lượng khách du lịch và khoản lỗ
khổng lồ 4 tỷ Baht. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là do cuộc chiến
tranh tại Irắc và sự bùng nổ của nạn dịch SARS. “Hoạn nạn kép” trên đã làm
cho lượng khách du lịch vào Thái Lan nhanh chóng giảm. Lượng khách trong
tháng 4 năm 2003 giảm 46% so với cùng kỳ năm ngoái, chỉ còn 320.000 lượt
khách. Đầu tháng 5, số lượng khách tiếp tục giảm 55%. Sự sụt giảm ấy kéo
dài suốt năm 2003 làm cho lượng khách troang năm 2003 giảm 10%, tổng
doanh thu giảm khoảng 12%, lượng khách du lịch từ châu Á giảm 69% trong
tháng 4 ở hầu hết các thị trường du lịch chính, trong đó du khách Nhật Bản
giảm nhiều nhất.
Về tình hình kinh doanh du lịch quốc tế tại Việt Nam, giai đoạn 1990 –
2000 có thể khẳng định là giai đoạn bứt phá trong tăng trưởng khách du lịch
của Việt Nam. Khách quốc tế tăng trên 9 lần, từ 250 nghìn lượt năm 1990
tăng lên 2,05 triệu lượt năm 2000. 5 năm gần đây (2001 – 2005), tuy phải đối
mặt với rất nhiều khó khăn như chiến tranh, khủng bố, dịch SARS và cúm gia
cầm, nhưng nhờ áp dụng những biện pháp kịp thời nên lượng khách và thu
nhập du lịch hàng năm vẫn tiếp tục tăng trưởng 2 con số. Khách quốc tế năm
2001 đạt 2,33 triệu lượt, năm 2005 đạt gần 3,47 triệu lượt, năm 2006 đạt 3,58
triệu lượt và chỉ trong 9 tháng đầu năm 2007, lượng khách quốc tế đạt 3,2
triệu lượt, tăng khoảng 17%, ước tính năm 2007 đạt 4,3 triệu lượt.
Chúng ta hãy theo dõi bảng dưới đây để thấy được sự tăng trưởng về
lượng khách của Thái Lan và Việt Nam.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Bảng 2.1: Lượng du khách đến Thái Lan và Việt Nam từ 1997 đến 2006
Năm
Thái Lan Việt Nam
Lượng khách
(triệu người)Biến động(%)
Lượng khách
(triệu người)Biến động(%)
1997 7,22 +0,41 1,72 +7,51998 7,76 +7,53 1,52 -11,61999 8,58 1050 1,78 +172000 9,51 +10,82 2,15 +202001 10,06 +5,82 2,33 +8,42002 10,80 +7,33 2,63 +12,82003 10,00 -7,36 2,43 -7,62004 11,65 +16,46 2,93 +20,52005 11,52 -1,51 3,47 +18,52006 15,12 +13,00 3,58 +3,2
Nguồn: Tổng cục du lịch Thái Lan TAT[47], Tổng cục du lịch Việt Nam[40]
Qua bảng trên, chúng ta đã có thể thấy chênh lệch lượng khách đến
Thái Lan và Việt Nam. Hãy theo dõi biểu đồ dưới đây để thấy rõ hơn sự
tương quan về khách đến Thái Lan và Việt Nam.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Biểu đồ 2.1: Lượng khách đến Thái Lan và Việt Nam
TriÖu ng•êi16
14
12
10
8
6
4
2
0N¨m
L•îng kh¸ch ®Õn Th¸i Lan L•îng kh¸ch ®Õn ViÖt Nam
Nguồn: Tổng cục du lịch Thái Lan[47], Tổng cục du lịch Việt Nam[40]
Nhìn vào bảng số liệu và biểu đồ về tình hình khách du lịch quốc tế của
Thái Lan và Việt Nam ở trên ta thấy:
Tổng số khách du lịch của Thái Lan tăng qua các năm, chỉ có năm 2003
và 2005 là giảm với lượng khách quốc tế giảm lần lượt là -7,63% và -1,51%
so với năm trước do nguyên nhân cơ bản: chiến tranh Irắc đã làm cản trở tình
hình du lịch chung của thế giới và nguyên nhân trực tiếp là nạn dịch SARS ở
khu vực Châu Á vào năm 2003 và thảm họa sóng thần vào năm 2005. Năm
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
2006, với nhiều biện pháp khắc phục, ngành du lịch Thái Lan đã dần hồi phục
và lại tiếp tục phát triển.
Trong khi đó, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam tăng qua các
năm tuy sự tăng trưởng này không đều, chỉ có năm 1998 và năm 2003 lượng
khách giảm lần lượt là 11,6% và 7,6% do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ năm 1998 và nạn dịch SARS ở khu vực châu Á vào năm
2003. Năm 2005, trong khi các nước trong khu vực, đặc biệt là Thái Lan bị
ảnh hưởng bởi nạn sóng thần thì Việt Nam, được đánh giá là một điểm đến an
toàn vẫn thu hút khách du lịch. Do đó, lượng khách đến Việt Nam trong năm
đó vẫn tăng trưởng cao.
Nhìn vào biểu đồ chúng ta cũng có thể thấy, lượng khách du lịch đến
Việt Nam tăng trưởng cao hơn Thái Lan nhưng lượng khách đến Việt Nam ít
hơn lượng khách đến Thái Lan rất nhiều. Năm 1997, lượng khách của Thái
Lan là 7,22 triệu người, gấp hơn 4 lần lượng khách của Việt Nam (1,72 triệu
người), năm 2000 lượng du khách của Thái Lan là 9,51 triệu người, gấp gần
4,5 lần lượng khách của Việt Nam (2,15 triệu người) . Năm 2003, lượng
khách của cả 2 nước đều sụt giảm nhưng lượng khách của Thái Lan vẫn gấp
hơn 4 lần lượng khách của Thái Lan. Năm 2005, lượng khách của Thái Lan
sụt giảm do ảnh hưởng của sóng thần, chỉ còn 11,52 triệu người nhưng vẫn
gấp gần 3,5 lần lượng khách của Việt Nam (3,47 triệu người). Năm 2006, nhờ
những chính sách khắc phục hậu quả của sóng thần, Thái Lan đã thu hút du
khách trở lại đất nước mình. Lượng khách tăng đến 15,12 triệu lượt người,
gấp hơn 4 lần lượng khách của Việt Nam (3,58 triệu người).
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
2. Doanh thu từ du lịch quốc tế
Do lượng khách của Thái Lan lớn hơn của Việt Nam rất nhiều lần nên
kéo theo doanh thu từ du lịch của Thái Lan cũng gấp nhiều lần so với Việt
Nam. Theo dõi bảng dưới đây để biết thêm chi tiết:
Bảng 2.2: Doanh thu từ du lịch quốc tế của Thái Lan và Việt Nam từ
1998 đến 2006
Năm
Thái Lan Việt Nam
Doanh thu
(triệu USD)Biến động(%)
Doanh thu
(triệu USD)Biến động (%)
1998 6920 -6,7 400 -3
1999 7230 +4,48 440 +10
2000 8150 +12,75 1200 +170
2001 8544 +4,83 1390 +16
2002 9242 +8,17 1530 +10
2003 8836 -4,39 1250 -18
2004 10890 +24,28 1675 +34
2005 10400 -4,42 1910 +14
2006 15088 +18,44 2400 +25,5
Nguồn: Tổng cục du lịch Thái Lan[47], Tổng cục du lịch Việt Nam[40]
Theo dõi biểu đồ dưới đây để thấy rõ hơn sự tương quan doanh thu từ
du lịch quốc tế của hai quốc gia.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Biểu đồ 2.2: Doanh thu từ du lịch quốc tế của Thái Lan và Việt Nam
từ 1998 đến 2006
TriÖu USD
16000
14000
12000
10000
8000
6000
4000
2000
0 N¨m1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Doanh thu cña Th¸i Lan Doanh thu cña ViÖt Nam
Nguồn: Tổng cục du lịch Thái Lan[47], Tổng cục du lịch Việt Nam[40]
Nhìn vào bảng số liệu và biểu đồ về tình hình doanh thu từ du lịch quốc
tế của Thái Lan và Việt Nam ta thấy:
Doanh thu của Thái Lan tăng qua các năm, chỉ có năm 1998, 2003 và
2005 giảm lần lượt là -6,7%, -4,39% và -4,42% so với năm trước. Năm 1998,
lượng khách du lịch đến Thái Lan vẫn tăng nhưng doanh thu từ du lịch của
Thái Lan tính theo USD giảm do năm đó Thái Lan bị ảnh hưởng bởi cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ, đồng Baht Thái Lan mất giá so với USD do đó
du khách đến Thái Lan vẫn tăng nhưng doanh thu lại giảm. Hai năm 2003 và
2005 doanh thu giảm là điều hoàn toàn dễ hiểu bởi trong hai năm đó, lượng
khách du lịch đến Thái Lan giảm, kéo theo doanh thu giảm là điều tất nhiên.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Trong khi đó, doanh thu của Việt Nam cũng tăng qua các năm, chỉ có
năm 1998 và 2003 doanh thu giảm lần lượt là 3% và 18%. Năm 2000 doanh
thu của Việt Nam tăng đột biến mặc dù số khách chỉ tăng 20%. Đây là năm
đầu tiên Việt Nam thực hiện chiến lược du lịch 2000 – 2010 với những biện
pháp xúc tiến và thúc đẩy phát triển du lịch đã thu hút rất đông du khách đến
Việt Nam. Nguyên nhân thứ 2 là do chi tiêu của khách du lịch vào các dịch vụ
và hàng hóa có giá trị cao tăng lên.
Nhưng xét một cách toàn diện, doanh thu của Việt Nam tăng trưởng rất
nhanh nhưng vẫn ít hơn của Thái Lan rất nhiều lần. Nếu như năm 1998,
doanh thu của Việt Nam chỉ đạt 40 triệu USD thì cũng trong năm đó Thái Lan
đạt 6920 triệu USD về doanh thu, gấp 17,3 lần so với Việt Nam. Năm 2000,
doanh thu Việt Nam tăng đột biến, tăng 170% so với năm trước, nhưng cũng
chỉ đạt 1.200 triệu USD, bằng 1/6,8 so với Thái Lan (8150 USD). Năm 2003,
doanh thu của cả 2 nước đều giảm do nạn dịch SARS. Trong năm đó, doanh
thu của Việt Nam giảm 18%, chỉ còn 1.250 triệu USD, trong khi đó doanh thu
của Thái Lan giảm 4,39%, còn 8.836 triệu USD, gấp hơn 7 lần so với Việt
Nam. Năm 2005, do không bị ảnh hưởng của sóng thần nên du lịch Việt Nam
vẫn tiếp tục tăng trưởng, doanh thu tăng 14% so với năm trước, đạt 1.910
triệu USD. Cùng năm đó, doanh thu của Thái Lan giảm 4,42% so với năm
trước, đạt 10.400 triệu USD, gấp 5,45 lần doanh thu của Việt Nam. Năm
2006, với những biện pháp khắc phục hậu quả sóng thần, du lịch Thái Lan
tăng trưởng mạnh, đạt 15.088 triệu USD, tăng 18,44% so với năm trước, gấp
6,3 lần so với doanh thu của Việt Nam.Chỉ số năng lực cạnh tranh
Theo Từ điển thuật ngữ kinh tế học: Năng lực cạnh tranh là khả năng
giành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả
năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp.
Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế OECD định nghĩa: Năng lực cạnh
tranh là khả năng của các công ty, các ngành, các vùng, các quốc gia hoặc khu
vực siêu quốc gia trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều
kiện cạnh tranh quốc tế trên cơ sở bền vững.
Đối với ngành du lịch, năng lực cạnh tranh được định nghĩa là “khả
năng của một điểm đến duy trì vị trí thị trường và thị phần của nó và (hoặc)
để cải thiện chúng qua thời gian”.
Hiện nay, việc đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành dịch vụ du lịch
dần trở nên vô cùng quan trọng vì ngành này đã trở thành ngành chủ chốt
trong nền kinh tế thế giới, và là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế của nhiều quốc gia. Trong giai đoạn 1950 – 2004, doanh thu của
ngành du lịch quốc tế đã tăng từ 2,1 tỷ USD lên đến mức 622,7 tỷ USD. Tính
đến năm 2006, ngành dịch vụ du lịch đã đóng góp tới 10,3% tổng giá trị GDP
của thế giới. Cũng trong năm 2006, số lao động làm việc trong ngành này là
234 triệu người, chiếm 8,2% việc làm trên toàn thế giới[52]. Ngành dịch vụ
du lịch ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới là do số
lượng khách du lịch quốc tế tăng lên đáng kể. Theo Tổ chức du lịch quốc tế
UNWTO, số lượng khách du lịch quốc tế đã tăng từ 25 triệu người năm 1950
lên 763 triệu người năm 2004, với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm
trong giai đoạn trên là 6,5%.
Có thể nói, ngành dịch vụ du lịch đã trở thành một trong những hoạt
động kinh tế quốc tế quan trọng nhất, một ngành chủ chốt ở nhiều quốc gia,
đồng thời cũng là khu vực kinh tế phát triển nhanh nhất nếu xét trên phương
diện thu hút ngoại tệ và tạo việc làm. Đối với các nước đang phát triển, ngành
dịch vụ du lịch còn góp phần xóa đói giảm nghèo. Trên thực tế, theo
UNWTO, hầu hết số việc làm mới được tạo ra ở các nước đang phát triển là
trong ngành dịch vụ du lịch.
Ngành dịch vụ du lịch cũng có những tác động tích cực gián tiếp đối
với phát triển kinh tế. Nhằm phát triển ngành dịch vụ du lịch, các chính phủ
có điều kiện cải thiện cơ sở hạ tầng, ví dụ xây dựng đường sá, mạng lưới điện
thoại, giao thông, nâng cao khả năng cạnh tranh nói chung của cả nền kinh tế
và chất lượng cuộc sống cho người dân. Mối quan hệ giữa ngành du lịch và
môi trường tự nhiên cũng làm cho ngành này đóng vai trò quan trọng đối với
sự phát triển bền vững của môi trường.
Dựa trên những lợi ích tiềm năng to lớn của việc phát triển ngành dịch
vụ du lịch của các quốc gia trên thế giới, Tổ chức du lịch quốc tế UNWTO đã
phân tích những yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của ngành dịch vụ
du lịch.
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành du lịch, Hội đồng lữ hành
quốc tế WTTC đã đưa ra 8 chỉ số: năng lực cạnh tranh giá cả, phát triển kết
cấu hạ tầng, chất lượng môi trường, du lịch nhân văn, tiến bộ công nghệ,
nguồn nhân lực, sự mở cửa và phát triển xã hội. Dựa trên kết quả nghiên cứu
của WTTC, chúng ta có thể đánh giá tổng thể năng lực cạnh tranh của Việt
Nam so với Thái Lan như sau:
Bảng 2.3: Chỉ số năng lực cạnh tranh du lịch của Thái Lan và Việt Nam
Chỉ số Thái Lan Việt Nam
Giá cả 83,12 84,75
Du lịch nhân văn 62,90 na
Cơ sở hạ tầng 49,93 36,92
Môi trường 44,06 45,56
Công nghệ 72,45 17,38
Nguồn nhân lực 57,80 48,51
Mở cửa 71,40 46,90
Xã hội 47,93 35,76
Nguồn: Tổ chức lữ hành và du lịch quốc tế (WTTC)
Ghi chú: 1: khả năng cạnh tranh kém nhất
100: khả năng cạnh tranh tốt nhất
na: dữ liệu không có sẵn
Với thang điểm đã được đánh giá như trên, chúng ta có thể thấy rằng:
năng lực cạnh tranh du lịch của Việt Nam còn ở mức rất thấp so với Thái Lan.
Trong các chỉ số, Việt Nam chỉ có lợi thế về giá cả và môi trường so với Thái
Lan, tuy lợi thế đó là không nhiều. Trong khi đó, Thái Lan có lợi thế hơn Việt
Nam về rất nhiều mặt, đặc biệt là về cơ sở hạ tầng và công nghệ.
Qua nghiên cứu về tiềm năng cũng như thực trạng phát triển du lịch tại
Thái Lan và Việt Nam, có thể thấy tiềm năng để phát triển du lịch của hai
nước là tương đương nhau nhưng kết quả thu được trong hoạt động kinh
doanh du lịch lại khác nhau. Cụ thể, Thái Lan vượt trội hơn Việt Nam về
lượng khách, doanh thu cũng như năng lực cạnh tranh của ngành. Vậy lý do
nào đã khiến hai nước có cùng xuất phát điểm như nhau nhưng kết quả đạt
được lại khác nhau. Lời giải đáp có thể được quy tụ tại một điều: ngành du
lịch Thái Lan hoạt động một cách thực sự linh hoạt, hiệu quả và đồng bộ giữa
các ban ngành cũng như giữa các đơn vị kinh doanh dịch vụ du lịch. Hơn nữa,
các chính sách cũng như sự hỗ trợ của Nhà nước cũng là một động lực thúc
đẩy ngành du lịch của Thái Lan phát triển và đạt được kết quả như ngày hôm
nay.
ư III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ THÁI LAN VÀ GIẢI
PHÁP ĐỐI VỚI VIỆT NAM
I. Quan điểm, định hướng và mục tiêu phát triển du lịch quốc tế
của Việt Nam
Hiện nay du lịch đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng trong cơ
cấu kinh tế của nhiều nước và được coi là một trong những ngành kinh tế
hàng đầu của nền kinh tế thế giới. Theo đánh giá của Tổ chức du lịch Thế
giới, hoạt động du lịch ngày càng có tác động quan trọng đến tình hình phát
triển kinh tế, xã hội và môi trường trên phạm vi toàn cầu.
Du lịch Việt Nam đã và đang trên đà phát triển nhanh và đang tích cực
hội nhập với ngành du lịch toàn cầu. Trước sự phát triển vượt bậc của các
quốc gia trên thế giới và khu vực nói chung và của Thái Lan nói riêng, du lịch
Việt Nam cũng thu nhận được nhiều bài học quý báu. Nhưng trên thực tế,
ngành du lịch Việt Nam cũng phải đối mặt với nguy cơ tụt hậu ngày càng xa
và không thể cạnh tranh được với các nền du lịch khác trong xu thế toàn cầu
hoá.
Du lịch quốc tế của Việt Nam bên cạnh những hiệu quả kinh tế và xã
hội rõ rệt cũng tồn tại nhiều tác động tiêu cực gây ảnh hưởng trực tiếp và gián
tiếp tới vẻ đẹp văn hoá truyền thống quốc gia và hình ảnh của đất nước trong
con mắt bạn bè quốc tế. Chính vì thế, để thực sự phát triển du lịch quốc tế
đúng hướng với đặc thù du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, chịu tác động
của nhiều yếu tố khác nhau, Đảng và Nhà nước ta đã có những quan điểm,
định hướng cụ thể về vấn đề phát triển du lịch quốc tế.
1. Quan điểm phát triển hoạt động du lịch quốc tế
Phát triển du lịch thành một thành phần kinh tế mũi nhọn
Phát triển du lịch với vai trò là một ngành kinh tế mũi nhọn là hướng
tích cực để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy các ngành khác
phát triển, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Quan điểm này trước hết xuất phát từ điều kiện muốn đưa du lịch thành
một ngành kinh tế trọng điểm, phải đặt nó trên lợi thế phát triển để so sánh.
Du lịch nước ta có khả năng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn là vì: sự phát
triển của nó dựa trên nguồn tài nguyên du lịch to lớn của đất nước, đây chính
là lợi thế mà nhiều ngành không có. Hơn nữa quan điểm này còn dựa vào xu
hướng có tính quy luật về phát triển kinh tế trong điều kiện có sự tác động của
cuộc cách mạng khoa học – công nghệ: tỷ trọng thu nhập dịch vụ, du lịch tăng
lên nhanh chóng trong cơ cấu thu nhập quốc dân. Qua thực tiễn hoạt động của
ngành du lịch và các ngành kinh tế khác ở nước ta đã bộc lộ ngày càng rõ hơn
xu hướng phát triển có tính quy luật này.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định: phát triển du lịch thành
một ngành kinh tế mũi nhọn, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trên
cơ sở khai thác lợi thế và điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá
lịch sử.
Quan điểm xây dựng du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, trên giác
độ kinh tế thì ngành du lịch phải đóng góp đáng kể vào GDP của đất nước,
đồng thời hoạt động du lịch phải là động lực và chất xúc tác để chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân. Hơn nữa, hoạt động du lịch tạo ra
nhiều việc làm cho xã hội để giải quyết vấn đề kinh tế – xã hội của đất nước
và tạo ra những định hướng cơ bản phát triển kinh tế các vùng khó khăn và
thực hiện xóa đói giảm nghèo. Ngoài ra, hoạt động du lịch còn phải góp phần
vào việc phục hồi và phát huy bản sắc dân tộc cũng như tạo điều kiện thuận
lợi và cơ hội để các ngành hội nhập với kinh tế khu vực và quốc tế. Đạt được
những tiêu chuẩn này là Việt Nam đã đạt mục tiêu đưa ngành du lịch trở
thành một ngành kinh tế mũi nhọn.
Các quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước về phát triển du lịch có
mối quan hệ mật thiết với nhau, hợp thành một hệ thống quan điểm lý luận
thống nhất có tác dụng chỉ đạo phát triển du lịch nước ta đạt đến vị trí ngang
tầm so với nguồn tài nguyên sẵn có.
Phát triển du lịch quốc tế nhanh và bền vững, đạt hiệu quả nhiều mặt
Phát triển du lịch quốc tế nhanh và bền vững, tranh thủ khai thác mọi
tài nguyên và nguồn lực trong và ngoài nước, phát huy sức mạnh tổng hợp
của tất cả các thành phần kinh tế; nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản
phẩm du lịch là một yêu cầu bức thiết đối với sự phát triển của du lịch Việt
Nam.
Việc phát triển kinh tế và xã hội của nước ta đang nằm trong bối cảnh
lịch sử có nhiều thuận lợi nhưng cũng có không ít những khó khăn, thời cơ và
thuận lợi đan xen nhau ảnh hưởng xuyên suốt trong quá trình phát triển của
nền kinh tế nói chung, của ngành du lịch nói riêng.
Ngành du lịch phát triển nhanh cho thấy tiềm năng lớn của du lịch Việt
Nam. Tuy nhiên chính sự phát triển quá nhanh ấy đã lộ ra những khoảng
trống, sự mất cân đối trong quản lý và hoạt động của Nhà nước cũng như
doanh nghiệp. Đánh giá được tầm quan trọng của phát triển đi đôi với việc
bảo vệ, duy trì và củng cố các nguồn lực, cũng như việc cần thiết phải khác
thác một cách tối đa có hiệu quả các nguồn lực đó, Đảng và Nhà nước ta nêu
rõ quan điểm cần phát triển bền vững để du lịch nước ta ngày càng đủ sức
mạnh để cạnh tranh với thị trường bên ngoài và hạn chế được tối đa những tác
động tiêu cực của việc phát triển.
Quan điểm phát triển du lịch quốc tế đạt hiệu quả cao về nhiều mặt xuất
phát từ đặc điểm của ngành du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, nó không
thể tự mình phát triển mà cần sự hỗ trợ của nhiều ngành. Phát triển du lịch sẽ
thúc đẩy nhiều ngành kinh tế khác phát triển theo.
Quan điểm trên rất phù hợp với thực tế hiện nay ở nước ta: Phân công
lao động xã hội chưa thật sự sâu sắc, mức sống của người dân còn thấp, giải
quyết công ăn việc làm đang là yêu cầu bức xúc của xã hội. Phát triển du lịch
góp phần tích cực giải quyết những vấn đề chung đó.
Kết hợp cả hai yếu tố trên có thể thấy, phát triển du lịch quốc tế nhanh
và bền vững, đạt hiệu quả cao về nhiều mặt là một yêu cầu không dễ gì thực
hiện. Nó phải có một chiến lược cụ thể cho từng thời kỳ, từng giai đoạn, từng
vùng và hoàn thành một cách chắc chắn từng khâu của chiến lược đó mới đảm
bảo mang lại hiệu quả cho toàn ngành du lịch.
Phát triển du lịch quốc tế dựa trên nền tảng phát triển du lịch nội địa
Quan điểm này bắt nguồn từ xu thế hội nhập kinh tế quốc tế cũng như
đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta “Việt Nam muốn làm bạn với
tất cả các nước”. Thêm vào đó là xu hướng phát triển của du lịch trên thế giới
và đón trước thời cơ của làn sóng du lịch thế giới đang chuyển dịch về khu
vực châu Á- Thái Bình Dương, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á.
Chúng ta đang sống trong thời đại với sự phát triển không ngừng của
nền sản xuất xã hội. Khi trình độ kinh tế, xã hội và dân trí của con người ngày
càng phát triển thì nhu cầu của con người không chỉ dừng ở mức ăn mặc, đi
lại thông thường mà còn có cả nhu cầu vui chơi, giải trí, thưởng thức những
cái đẹp, thư giãn tinh thần, nâng cao hiểu biết xã hội v.v…Và du lịch chính là
một hoạt động giúp con người có thể thoả mãn được những nhu cầu nói trên.
Phát triển du lịch nội địa xuất phát từ đời sống vật chất và văn hoá của
người dân ngày càng được cải thiện, nhu cầu của người dân ngày càng tăng
lên. Phát triển du lịch nội địa với thị trường hơn 80 triệu dân, có sức mua
đang tăng lên trong 10 năm tới, nhằm thoả mãn nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí và
tái sản xuất sức lao động xã hội, tuyên truyền giáo dục, nâng cao hiểu biết về
truyền thống văn hoá, lịch sử, môi trường cho nhân dân đi đôi với việc nâng
cao hiệu quả kinh tế của ngành du lịch là một yêu cầu tất yếu và phải triển
khai thực hiện nhiều chương trình, phối hợp giữa các vùng miền trong cả
nước.
Đi đôi với phát triển du lịch nội địa là phát triển du lịch quốc tế, lấy
phát triển du lịch quốc tế làm trọng tâm, du lịch nội địa làm động lực. Trong
xu thế hội nhập của nền kinh tế thế giới, xu hướng phát triển của các ngành
dịch vụ nói chung cũng như xu hướng phát triển của ngành du lịch nói riêng,
việc xác định phát triển du lịch quốc tế dựa trên nền tảng phát triển du lịch nội
địa là hoàn toàn đúng đắn. Thị trường quốc tế đang rộng mở, nhiều tiềm năng
của đất nước bắt đầu được đi vào khai thác, đó là cơ hội cũng như thách thức
đối với đất nước ta. Chúng ta không thể phát triển du lịch quốc tế thành một
ngành kinh tế mũi nhọn khi du lịch nội địa của chúng ta chưa phát triển và
không vững chắc.
Để phát triển du lịch quốc tế, thu hút du khách nước ngoài, Việt Nam
phải không ngừng học hỏi những kinh nghiệm từ sự thành công cũng như thất
bại của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia láng giềng, để đưa
ra chiến lược, liên tục xây dựng những chương trình hành động có tính quyết
định. Quan điểm của Tổng cục du lịch Việt Nam trong “Chiến lược phát triển
du lịch Việt Nam 2001-2010 “ đã nêu ra quan điểm phát triển thị trường du
lịch quốc tế là “khai thác khách từ các thị trường khu vực Đông Nam Á - Thái
Bình Dương, Tây Âu, Bắc Mỹ, chú trọng thị trường ASEAN, Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc…”, mục tiêu đến năm 2010 sẽ thu hút được 5,5 đến 6
triệu khách quốc tế.
Phát triển du lịch quốc tế trên nền tảng phát triển du lịch nội địa là
chiến lược đúng hướng bởi trước bài toán hội nhập đang ngày càng nóng
bỏng như hiện nay thì ngành du lịch Việt Nam không còn con đường nào
khác ngoài xu hướng mở cửa hội nhập và cạnh tranh với du lịch của các nước
khác. Muốn đạt được điều đó, khi thực hiện quan điểm này, không được xem
nhẹ du lịch nội địa cũng như du lịch quốc tế trong chiến lược phát triển. Với
tiềm năng du lịch to lớn của đất nước, nếu khai thác và sử dụng có hiệu quả sẽ
đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch cũng như đảm bảo lợi ích kinh tế của
ngành.
2. Định hướng phát triển du lịch quốc tế
Trên quan điểm phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước ta như trên,
Tổng cục du lịch Việt Nam trong hội nghị quyết định chương trình hành động
quốc gia về du lịch giai đoạn 2001-2010 đã vạch rõ định hướng phát triển du
lịch nói chung và du lịch quốc tế nói riêng trong thời gian tới.
Định hướng về thị trường và phát triển sản phẩm
Để đạt được mục tiêu phát triển, chúng ta cần không ngừng củng cố và
mở rộng khai thác có hiệu quả những thị trường du lịch quốc tế trọng điểm,
song song với việc phát triển thị trường nội địa phù hợp với điều kiện cụ thể
của Việt Nam. Trên cơ sở định hướng thị trường chính xác và điều chỉnh linh
hoạt để xây dựng những sản phẩm du lịch độc đáo mang sắc thái riêng của
Việt Nam, đủ sức cạnh tranh trong khu vực và quốc tế. Trong đó, đặc biệt chú
trọng đến các sản phẩm du lịch sinh thái và văn hoá - lịch sử; đồng thời đa
dạng hoá sản phẩm du lịch với các sản phẩm chuyên đề phù hợp với từng
vùng, từng địa phương để thoả mãn nhu cầu đa dạng, ngày càng tăng của các
đối tượng khách, nâng cao hiệu quả hoạt động của du lịch.
Cụ thể hoá những định hướng nói trên, chúng ta cần có kế hoạch cụ thể
khai thác thị trường quốc tế trọng điểm ở khu vực Đông Á - Thái Bình
Dương, Tây Âu, Bắc Mỹ. Bên cạnh đó khôi phục và khai thác các thị trường
truyền thống các nước SNG, Đông Âu. Mặt khác, cần có những phương án
kịp thời điều chỉnh định hướng thị trường khi có biến động.
Một công tác khác cũng không thể lơ là là sát sao đánh giá thực trạng
các sản phẩm du lịch Việt Nam, gắn sản phẩm với thị trường và không ngừng
đa dạng hoá cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch Việt Nam.
Định hướng về đầu tư phát triển du lịch
Cơ sở hạ tầng du lịch gồm các hệ thống giao thông, các địa danh du
lịch trọng điểm, các khách sạn…Chỉ số cơ sở hạ tầng được đo bằng độ dài và
chất lượng đường sá, dịch vụ vệ sinh, cấp nước và xe lửa. Cơ sở hạ tầng yếu
kém là một nguyên nhân khiến khách du lịch quốc tế khó chịu nhất khi đi du
lịch Việt Nam. Cùng với tình trạng tắc nghẽn giao thông, quy định tốc độ giao
thông không hợp lý trên một số tuyến du lịch làm cho chỉ số cạnh tranh về cơ
sở hạ tầng của Việt Nam thấp.
Có năm yếu tố tạo nên sự thành công của ngành du lịch, đó là: phương
tiện giao thông (Accesibility); cơ sở tiện nghi (Amenities); điểm thắng cảnh
(Attraction); các dịch vụ hỗ trợ (Ancilliary services) và điều chỉnh của Chính
phủ (Adjustment).
Đầu tư du lịch là đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng du lịch sẽ đáp ứng
được ba trong số năm điều kiện trên. Vì vậy, cần tạo ra những chuyển biến
tích cực trong công tác đầu tư phát triển du lịch với những chính sách ưu đãi,
hướng đầu tư vào những điểm còn hạn chế của du lịch Việt Nam và hỗ trợ các
hướng phát triển ưu tiên trong việc xây dựng các khu, tuyến điểm du lịch
trong việc tôn tạo cảnh quan môi trường, các di tích lịch sử, văn hoá…Tập
trung đầu tư du lịch vào các địa bàn trọng điểm song song với việc nâng cấp
các khu, điểm du lịch ở các vùng du lịch.
Định hướng về phát triển nguồn nhân lực du lịch
Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên du lịch có trình độ và kỹ năng
nghiệp vụ, phẩm chất vững vàng, cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển
của ngành trong tiến trình hội nhập du lịch quốc tế và khu vực là vấn đề có
tính chiến lược của mọi quốc gia. Đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực du lịch là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với nâng cao chất lượng
sản phẩm du lịch, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành du lịch, góp phần
nhanh chóng đưa du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Nguồn
nhân lực phải phát triển một cách có hệ thống cả về số lượng và chất lượng.
Định hướng về hợp tác khu vực và hợp tác quốc tế
Trong xu thế hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực kinh tế cũng như
đời sống xã hội, Việt Nam không thể đứng ngoài vòng hội nhập đó. Để phát
triển du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, chúng ta cần tăng cường chủ
động hội nhập và hợp tác quốc tế, nâng cao hình ảnh, vị thế của du lịch Việt
Nam ở khu vực và thế giới. Bên cạnh đó cần đa dạng hoá, đa phương hoá hợp
tác phát triển du lịch với các nước, các cá nhân và các tổ chức quốc tế nhằm
tranh thủ nguồn lực bên ngoài, tăng nguồn khách, vốn đầu tư và kinh nghiệm
cho sự phát triển du lịch Việt Nam.
3. Mục tiêu phát triển du lịch quốc tế trong thời gian tới
Mục tiêu tổng quát
Phát triển nhanh và bền vững làm cho du lịch quốc tế thật sự trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn, đẩy mạnh xúc tiến du lịch, tập trung đầu tư có chọn
lọc một số khu, tuyến, điểm du lịch trọng điểm có ý nghĩa quốc gia và quốc
tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch hiện đại và phát triển nhanh nguồn
nhân lực, tạo sản phẩm du lịch đa dạng, chất lượng cao, giàu bản sắc dân tộc,
có sức cạnh tranh. Từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch có
tầm cỡ của khu vực, phấn đấu sau năm 2010 đưa du lịch Việt Nam vào nhóm
nước có ngành du lịch phát triển hàng đầu trong khu vực; phát triển nhanh
dịch vụ du lịch chất lượng cao; đảm bảo quan hệ hài hoà giữa phát triển du
lịch và quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên, môi trường và văn hoá.
Mục tiêu cụ thể
Để đạt được những định hướng trên, mục tiêu phát triển du lịch của
Việt Nam trước mắt là:
- Tăng cường thu hút khách du lịch quốc tế: Phấn đấu năm 2010 đón
5,5 – 6 triệu lượt khách quốc tế, tăng ba lần so với năm 2000, nhịp độ tăng
trưởng bình quân 11,4%/năm và 25 triệu lượt khách nội địa, tăng hơn hai lần
so với năm 2000[40].
- Nâng cao nguồn thu nhập cho du lịch: Dự tính thu nhập du lịch năm
2010 đạt 4- 5 tỷ USD; đưa tổng sản phẩm du lịch năm 2010 đạt 6,4% tổng
GDP của cả nước. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân thời kỳ 2001 – 2010
đạt 11 – 11,5%/năm. Kết hợp chặt chẽ với các ngành và địa phương để đẩy
mạnh xuất khẩu tại chỗ thông qua du lịch, tăng nguồn thu ngoại tệ[40].
Với mục tiêu trên, trong năm 2005 du lịch Việt Nam đã nỗ lực phấn
đấu và thu hút được hơn 3,4 triệu lượt khách, tăng 18,4 % so với cùng kỳ năm
2004; 6 tháng đầu năm 2007, lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt hơn 2,15
triệu lượt người, tăng 19,2% so với cùng kỳ năm 2006, doanh thu xã hội từ du
lịch đạt 20,7 tỷ đồng[40].
- Xây dựng mới, trang bị lại cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch: Xây dựng 4
khu du lịch tổng hợp quốc gia và 16 khu du lịch chuyên đề quốc gia; chỉnh
trang, nâng cấp các tuyến, điểm du lịch quốc gia và quốc tế, các khu du lịch
có ý nghĩa vùng và địa phương, đến năm 2010 cần có 130.000 phòng khách
sạn (xây mới cho thời kỳ 2006 – 2010 là 50.000 phòng). Nhu cầu vốn đầu tư
đến năm 2010 cần 2,5 tỷ USD, trong đó đầu tư cho kết cấu hạ tầng khu du
lịch là 1,58 tỷ USD[40].
- Tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội: Phấn đấu đến 2010 tạo thêm 1,4
triệu việc làm trực tiếp và gián tiếp cho xã hội[40].
- Du lịch còn phải đảm bảo mục tiêu về phát triển du lịch quốc tế bền
vững, tăng tốc độ phát triển du lịch đồng thời phải bảo vệ môi trường, gìn giữ
các giá trị truyền thống, giữ vững an ninh quốc phòng và trật tự xã hội, bảo
tồn các phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam.
II. Bài học kinh nghiệm từ Thái Lan và giải pháp đối với Việt Nam
Trong những năm qua, một số nước trong khu vực với xuất phát điểm
và điều kiện tương tự nước ta nhưng nhờ có những chính sách đầu tư, cơ chế
quản lý và những biện pháp phát triển du lịch thích hợp, đã đưa ngành du lịch
lên mức phát triển khá cao, được du khách và các chuyên gia về du lịch của
thế giới đánh giá cao. Trong số các quốc gia đó, phải kể đến sự thành công
của Thái Lan. Sự phát triển của du lịch Thái Lan là một tấm gương sáng cho
các nước trong khu vực học hỏi, trong đó có Việt Nam. Những kinh nghiệm
quý báu của ngành du lịch Thái Lan có thể được rút ra từ các chính sách phát
triển chung của Tổng cục du lịch Thái Lan TAT. Những bài học đó được rút
ra từ sự thành công cũng như những hạn chế của ngành du lịch Thái Lan. Và
những bài học đó là kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam để Việt Nam xây
dựng những giải pháp và đường lối để phát triển ngành du lịch non trẻ của
mình.
1. Kinh nghiệm từ sự phát triển của Thái Lan
1.1. Chất lượng dịch vụ du lịch hoàn hảo
Nhận thức được tầm quan trọng của du lịch trong nền kinh tế quốc dân,
Thái Lan đã bắt tay vào làm du lịch từ rất sớm và ngày nay được mệnh danh
là “cường quốc du lịch” của khu vực.
Chất lượng dịch vụ hoàn hảo, cách làm du lịch chuyên nghiệp là một
trong những ưu thế vượt trội thu hút khách du lịch đến Thái Lan. Các dịch vụ
du lịch của Thái Lan, từ dịch vụ chuyên chở khách du lịch, dịch vụ lưu trú
đến hướng dẫn du lịch và các dịch vụ bổ trợ cho ngành du lịch cũng được
thực hiện một cách chu đáo và hoàn hảo, tạo thuận lợi tối đa cho khách du
lịch.
Người dân Thái Lan nhận thức được du lịch là một ngành mang lại
nhiều lợi nhuận cho quốc gia và cá nhân mình nên ý thức làm du lịch của họ
rất rõ ràng. Bản thân người Thái Lan cũng là những người có bản tính hiền
lành và thân thiện, điều đấy được thể hiện qua cách làm du lịch của họ. Đến
với Thái Lan, ta sẽ thấy đó thực sự là mảnh đất của những nụ cười (“Land of
Smiles”), bởi đâu đâu, người làm du lịch hay người dân cũng đón tiếp khách
du lịch với nụ cười rạng rỡ trên môi.
Điều đầu tiên du khách sẽ ấn tượng đó là cung cách phục vụ của các
hãng hàng không Thái Lan, đúng như slogan của Thai Airways “Smooth as
silk” (“mềm mại như lụa”). Cung cách ấy được thể hiện trong từng hành động
cử chỉ phục vụ khách du lịch của tiếp viên hàng không Thái. Chỉ riêng cách
nhân viên chắp tay cúi chào đã làm cho hành khách cảm thấy mình được tôn
kính. Các nam nữ tiếp viên phục vụ nhiệt tình và lịch sự không phân biệt
khách Thái, người da trắng hay da màu. Cung cách phục vụ ấy là đặc trưng
của người Thái Lan trong du lịch. Đến tất cả các điểm du lịch, trên đường
phố, khu giải trí, khách sạn, nhà hàng, khách du lịch đều được đón tiếp một
cách nồng hậu, cách phục vụ nhiệt tình, chu đáo.
Những điều tưởng chừng rất đơn giản như vậy nhưng du lịch Việt Nam
cũng chưa làm được. Nhân viên phục vụ du lịch của chúng ta vẫn cáu gắt với
khách du lịch và đôi khi có sự phân biệt giữa khách hạng sang và khách hạng
thường, hay giữa những người da trắng và da màu.
Những dịch vụ trong du lịch bao gồm như: đăng ký visa, vé máy bay,
đăng ký khách sạn, thuê xe, hướng dẫn du lịch đều được thực hiện một cách
chuyên nghiệp hoàn hảo. Chỉ riêng việc làm thủ tục hải quan của Thái Lan
cũng đáng để ta học hỏi. Dù du khách rất đông nhưng chỉ sau khoảng 10 phút
là đã làm xong thủ tục nhập cảnh, nhân viên hải quan rất cởi mở và nhiệt tình.
Thủ tục đăng ký visa của Thái Lan rất nhanh gọn, không gây phiền toái gì cho
khách du lịch. Đối với khách du lịch đi chữa bệnh, tại bệnh viện còn có dịch
vụ gia hạn visa cho những khách có visa hết hạn.
Hiện nay, chúng ta đã có những bước tiến đáng kể trong việc cải cách
những thủ tục liên quan đến khách du lịch như thủ tục hải quan, thủ tục
visa…Nhưng so với Thái Lan thì thủ tục của chúng ta vẫn còn quá rườm rà và
phức tạp. Chúng ta cần tiếp tục đơn giản hoá các thủ tục xuất nhập cảnh, quá
cảnh đối với người và hành lý của khách du lịch phù hợp với khả năng quản
lý của nước ta và thông lệ quốc tế. Cải tiến quy trình, tăng cường trang thiết bị
hiện đại tại các cửa khẩu quốc tế trong việc kiểm tra người và hành lý; sửa
đổi, bổ sung các quy định về đồ giả cổ, đồ thủ công mỹ nghệ dân gian; mở
thêm các dịch vụ thuận tiện cho khách du lịch (đổi tiền, thu trực tiếp ngoại tệ,
cửa hàng miễn thuế, quầy thông tin du lịch…).
Cho đến nay Việt Nam đã miễn thị thực cho công dân của các nước
ASEAN và một số nước khác. Điều này đã có một tác động rất lớn thúc đẩy
sự phát triển của ngành du lịch. Trên cơ sở những bước đầu như vậy, Việt
Nam cần nghiên cứu và xúc tiến để miễn visa cho khách du lịch ở những thị
trường trọng điểm khác.
Có thể thấy, chất lượng dịch vụ là một trong những yếu tố cơ bản tạo
ưu thế vượt trội và lợi thế cạnh tranh to lớn, là nền tảng vững chắc để phát
triển du lịch quốc tế. Vì vậy, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Việt
Nam cần thiết phải nâng cao chất lượng các dịch vụ du lịch của mình, từ dịch
vụ đón đưa khách đến các dịch vụ hướng dẫn du lịch và lưu trú nhằm thoả
mãn những nhu cầu của khách, thu hút khách du lịch quốc tế đến với đất nước
xinh đẹp của chúng ta.
1.2. Loại hình du lịch đa dạng
Trong kinh doanh du lịch, quan trọng nhất là biết tạo điều kiện thuận
lợi nhất để thu hút được nhiều lượt khách du lịch, kéo dài thời gian lưu trú của
khách du lịch. Một trong những biện pháp hữu hiệu là đa dạng hoá sản phẩm
du lịch. Việc đa dạng hoá sản phẩm du lịch và dịch vụ du lịch hướng tới làm
phong phú và đảm bảo chất lượng của các sản phẩm và dịch vụ có thể kích
thích được nhu cầu tiêu dùng của khách du lịch.
Để thu hút khách du lịch đến với đất nước mình, Thái Lan đã không
ngừng nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch và đa dạng hoá các hình
thức du lịch. Trong một tour du lịch Thái thường kết hợp các loại hình du lịch
khác nhau để có thể thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách du lịch. Có thể kể đến
các hình thức du lịch mà Thái Lan có thế mạnh như:
Du lịch sinh thái (Ecotourism)
Những năm gần đây, xu hướng đi du lịch sinh thái ngày càng phát triển
vì du khách ngày càng muốn gần gũi thiên nhiên. Cơ quan quản lý du lịch
Thái Lan và các bộ phận tư nhân đã nhanh chóng nắm bắt được xu hướng này
của khách du lịch và đã có những hình thức hợp lý để phát triển hình thức du
lịch này.
Thái Lan được tạo hóa ban tặng những kỳ quan thiên nhiên tuyệt đẹp,
với những cảnh tự nhiên hoang dã thích hợp để phát triển loại hình du lịch
này. Thái Lan đã trở thành một điểm đến quen thuộc của những du khách yêu
thích khám phá và tìm hiểu tự nhiên. Trong suốt những thập kỷ phát triển du
lịch, những hoạt động như xe đạp leo núi, thả bè trên sông, cắm trại, ngắm
chim chóc, tự nhiên, lặn biển, leo núi đá…đã phát triển trong những khu du
lịch tự nhiên của Thái Lan. Và hiện tại nó lại càng được chú ý hơn do phần
lớn khách du lịch thích đến những miền đất hoang dã, ít người đặt chân đến.
Những hoạt động du lịch sinh thái như vậy có ở hầu hết các vùng miền của
Thái Lan, nổi bật là khu vực núi ở phía Bắc, Đông và Nam của Thái Lan.
Việt Nam cũng có những phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, những
điểm tham quan lý thú nhưng hiện nay ở Việt Nam, loại hình du lịch sinh thái
chưa phát triển. Hầu hết chỉ là sự phát triển tự phát và manh mún, chỉ lợi dụng
những gì sẵn có mà không có sự đầu tư lâu dài cũng như kế hoạch bảo vệ và
phát triển những nguồn tài nguyên đó. Vì vậy, trong điều kiện nguồn vốn còn
hạn hẹp, Việt Nam cần phải có kế hoạch phát triển cụ thể cũng như quy hoạch
địa bàn phát triển loại hình du lịch này.
Du lịch mạo hiểm (Adventure tourism)
Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều du khách muốn khám
phá và thử thách bản thân mình qua những hình thức du lịch mạo hiểm. Nắm
bắt được nhu cầu của khách du lịch, Chính phủ cũng như Tổng cục du lịch
Thái Lan đã nghiên cứu và đầu tư để phát triển các loại hình du lịch mạo
hiểm.
Với tài nguyên rừng núi cũng như thác ghềnh sông ngòi, Thái Lan đã
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật cũng như những biện pháp đảm bảo an
toàn cho du khách tham gia du lịch mạo hiểm. Các loại hình du lịch mạo hiểm
như lướt sóng, chèo thuyền vượt thác ghềnh, leo núi hay đi xe đạp xuyên rừng
đã được triển khai ở hầu hết các tỉnh thành có tiềm năng phát triển loại hình
du lịch này. Dự báo trong tương lai không xa, đây sẽ là loại hình du lịch phát
triển và thu hút khách nhiều nhất trong các loại hình du lịch của Thái Lan.
Việt Nam với địa hình lắm đồi núi, hệ thống sông ngòi chằng chịt, các
dãy núi đá vôi, nhiều hang động đẹp, nhiều khu rừng nguyên sinh nhiệt đới
cũng như các khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia rộng lớn, với hơn 3000
km bờ biển tạo nên bức tranh phong cảnh sinh động trải dài từ bắc đến nam.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã bắt đầu khai thác loại hình du
lịch này nhưng việc phát triển còn rất hạn chế do nhiều nguyên nhân khác
nhau. Để thúc đẩy sự phát triển của loại hình du lịch này trong thời gian tới,
chúng ta cần tập trung khảo sát và quy hoạch những địa điểm, khu vực thích
hợp cho việc tổ chức các chương trình du lịch mạo hiểm. Đồng thời chúng ta
cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, xác định được các đoạn thị
trường và khách hàng mục tiêu để có chiến lược quảng bá và thu hút khách.
Song song với các công tác trên là sự cần thiết phải hỗ trợ các doanh nghiệp
lữ hành xây dựng, phát triển và chào bán các chương trình du lịch mạo hiểm
và công tác bảo vệ cảnh quan môi trường tại những nơi tổ chức du lịch mạo
hiểm.
Du lịch hoa:
Du lịch hoa là một loại hình du lịch tự nhiên, du khách được tạo điều
kiện để cảm nhận giá trị cũng như tìm hiểu, nghiên cứu những bí ẩn của các
loài hoa trong thiên nhiên. Tuy nhiên, trong thực tế du lịch hoa không chỉ
nhắm tới giá trị các loài hoa trong tự nhiên mà còn được hiểu theo nghĩa rộng
với các công viên hoa chuyên đề, các làng hoa cây cảnh truyền thống đặc
trưng cho mỗi quốc gia, mỗi vùng miền nơi có những đặc trưng địa lý khác
nhau.
Thái Lan với khí hậu và địa hình đa dạng đã tạo ra hệ sinh thái và thảm
thực vật đa dạng phong phú. Nắm bắt được nhu cầu của khách du lịch muốn
gần gũi với thiên nhiên, Tổng cục du lịch Thái Lan đã phát triển loại hình du
lịch hoa và đưa vào các tour du lịch. Trong thời gian ngắn, loại hình du lịch
này thu hút được sự quan tâm, trí tò mò của du khách và đã đạt được những
thành công đáng kể.
Việt Nam là đất nước có sự đa dạng cao về các hệ sinh thái và tính đa
dạng sinh học. Sự đa dạng này cũng thể hiện ở các loài hoa. Hoa ở Việt Nam
rất đa dạng và phong phú, trong đó ở những lãnh thổ địa lý, các tỉnh thành
khác nhau sẽ có những loài hoa đặc trưng. Đất nước ta có tiềm năng để phát
triển loại hình du lịch hoa như vậy nhưng thực trạng phát triển hoa còn hạn
chế, chưa tương xứng với tiềm năng.
Để có thể phát triển loại hình du lịch này, Việt Nam cần chú trọng xây
dựng phát triển các vùng hoa, các công viên của bản địa chuyên đề gắn với
các địa danh nổi tiếng và có truyền thống về hoa; xây dựng những chính sách
khuyến khích phục hồi các làng hoa, cây cảnh truyền thống, các lễ hội gắn với
hoa.
Du lịch MICE
MICE là viết tắt của Meeting (hội họp), Incentive (khen thưởng),
Convention (hội nghị, hội thảo) và Exhibition (triển lãm). MICE là loại hình
du lịch hiện đại dựa trên sự kết hợp của các hoạt động hội nghị, hội thảo, triển
lãm, tổ chức sự kiện, du lịch khen thưởng của các công ty cho nhân viên hoặc
đối tác hoặc khách hàng thân thuộc v.v...
Theo thống kê của Tổ chức du lịch thế giới, thị trường du lịch MICE
toàn cầu hàng năm có trị giá khoảng 300 tỷ USD, và tạo ra một guồng máy
hoạt độn kinh tế trị giá 5.490 tỷ USD, chiếm khoảng 10,5% GDP thế giới, thu
hút khoảng 214 triệu việc làm. Lợi điểm của du lịch MICE là mang lại giá trị
cao gấp 6 lần so với loại hình du lịch thông thường vì các đoàn khách MICE
thường rất đông, có khi đến vài trăm khách và đặc biệt mức chi tiêu cao hơn
khách đi tour bình thường. Đây là ngành đem lại nguồn khách lớn, có gia trị
kinh tế cao, sử dụng tổng hợp các dịch vụ: phòng họp, hội nghị, lưu trú,
tiệc…tại các khách sạn và dịch vụ của các hãng lữ hành như phương tiện vận
chuyển, hướng dẫn, các tour du lịch tham quan kết hợp…
Nắm bắt được xu hướng này, ngành du lịch đã bắt tay vào làm loại hình
du lịch này từ rất sớm. Một mặt Thái Lan có những tiền đề để phát triển loại
hình du lịch này như cơ sở hạ tầng hiện đại, có những trung tâm hội nghị, hội
chợ triển lãm lớn đạt tiêu chuẩn quốc tế. Thêm vào đó là thủ tục xuất nhập
cảnh của Thái Lan thuận tiện, nhanh chóng và đội ngũ nguồn nhân lực hùng
hậu chuyên phục vụ du lịch MICE...
Du lịch MICE đã rất phát triển trên thế giới và Thái Lan, nhưng đối với
Việt Nam là loại hình du lịch còn mới mẻ. Trong những năm gần đây Việt
Nam đã phát triển loại hình du lịch này nhưng thực tế, hiện tại Việt Nam đang
vấp phải rất nhiều khó khăn nếu muốn đẩy mạnh khai thác loại hình du lịch
này. Đó là những khó khăn về cơ sở hạ tầng, về kinh nghiệm tổ chức, khai
thác. Đặc biệt là hiện nay tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh các trung tâm
hội nghị, triển lãm nào có đủ tầm cỡ mang tính khu vực và quốc tế như ở các
nước Thái Lan, Singapore, Malaysia…còn rất thiếu.
Để phát triển loại hình du lịch MICE, Việt Nam không thể chỉ dựa vào
hệ thống khách sạn từ 3 – 5 sao hiện có tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh
và một số điểm du lịch khác. Nhất là trong bối cảnh lượng khách quốc tế vào
Việt Nam ngày một tăng thì nhanh thì hệ thống khách sạn cao cấp này cũng
thường xuyên hết phòng. Các tổ chức nước ngoài muốn chọn Việt Nam là nơi
tổ chức một hội nghị quốc tế hay một triển lãm tầm cỡ thì cũng khó có thể
chọn được một nơi nào đáp ứng được yêu cầu của họ. Điều quan trọng nữa là
Việt Nam vẫn chưa hình thành được một tổ chức chuyên nghiệp về MICE để
điều phối hoạt động của loại hình du lịch này. Hiện tại cũng đã có những hoạt
động về MICE nhưng đó chỉ là những hoạt động đơn lẻ của một số khách sạn,
công ty nên không phát huy được hiệu quả kinh tế.
Như vậy, việc sớm cho ra đời một tổ chức chuyên nghiệp của loại hình
kinh doan này và sớm xúc tiến, kêu gọi đầu tư xây dựng các trung tâm triển
lãm, hội chợ, hội nghị quốc tế mang tầm khu vực và quốc tế như các nước
trong khu vực và trên thế giới là những việc làm rất cấp thiết. Đây cũng chính
là một trong những giải pháp quan trọng thúc đẩy ngành du lịch Việt Nam
phát triển trong những năm tới.
1.3. Chính sách xúc tiến quảng bá du lịch hiệu quả của Thái Lan
Theo thống kê của Cơ quan du lịch Thái Lan TAT, hàng năm Thái Lan
đón một lượng khách quốc tế trên 10 triệu lượt người, tỷ lệ du khách quay trở
lại nước này khoảng 40 -50 %[47]. Điều này cũng dễ hiểu bởi công nghiệp du
lịch Thái Lan năng động và luôn bắt kịp thị hiếu của du khách. Đóng góp một
phần không nhỏ vào sự thành công đó là chính sách xúc tiến quảng bá du lịch.
Công tác xúc tiến quảng bá phát triển du lịch được thực hiện bởi Cơ
quan du lịch Thái Lan TAT. TAT hoạt động chuyên nghiệp gồm các đại diện
vùng và các văn phòng đại diện ở nước ngoài. Trong tổ chức bộ máy, TAT có
quy định rất rõ về nhân sự bao gồm số lượng và vị trí công tác của các đại
diện tại trung ương và địa phương tại mỗi văn phòng đại diện. Do vậy, các
chính sách và công tác quản lý thể hiện sự liên kết chặt chẽ giữa chính sách vĩ
mô và điều kiện triển khai của từng địa phương.
Công tác xúc tiến quảng bá đặc biệt tại các thị trường quốc tế được
ngành du lịch Thái Lan rất quan tâm và tổ chức đồng bộ từ việc mở văn
phòng đại diện tại các thị trường trọng điểm đến hoạt động thăm dò ý kiến
khách du lịch để tạo ra sản phẩm đặc trưng thu hút khách, thống kê các hiệu
ứng thị trường để có những chính sách phù hợp và đem lại hiệu quả cao cho
hoạt động xúc tiến đối với từng thị trường cụ thể.
Thông qua TAT, ngành du lịch Thái Lan dành nguồn kinh phí khá lớn
cho hoạt động xúc tiến thị trường, các văn phòng đại diện hàng năm được cấp
khoảng 0,5 triệu USD cho hoạt động xúc tiến, vì vậy việc triển khai xúc tiến
quảng bá du lịch tới các thị trường được tiến hành tương đối đồng bộ[47].
Ngoài ra, để thúc đẩy hoạt động quảng bá hình ảnh quốc gia và thu hút
khách du lịch, còn có sự kết hợp chặt chẽ của cơ quan du lịch Thái Lan với
đại diện cơ quan ngoại giao và hãng hàng không quốc gia thông qua hoạt
động quảng bá truyền thống dân tộc, sự kiện thể thao, đặc biệt tận dụng vai
trò trung tâm trong khu vực ASEAN.
Dịch vụ cung cấp thông tin cho khách du lịch của Thái Lan cũng rất tốt.
Tại các sân bay, các điểm du lịch đều có Trung tâm hỗ trợ thông tin cho
khách, cung cấp nhiều loại ấn phẩm giới thiệu các sản phẩm du lịch cụ thể và
đa dạng.
Xúc tiến tuyên truyền quảng bá du lịch là biện pháp quan trọng để tạo
lập và nâng cao hình ảnh du lịch của đất nước. Hiện nay công tác này của
Việt Nam thật sự yếu kém. Từ những kinh nghiệm của Thái Lan, Việt Nam
cần có những biện pháp để giới thiệu và quảng bá hình ảnh đất nước mình
cũng như cung cấp thông tin du lịch nước ta tới du khách một cách thường
xuyên, mọi lúc, mọi nơi. Cụ thể:
Thứ nhất, cần nghiên cứu tâm lý, thị hiếu, tập quán, thói quen tiêu dùng
của các đối tượng khách để có những sản phẩm phù hợp với thị trường thông
qua các hình thức tuyên truyền quảng cáo.
Thứ hai, thường xuyên tham gia các hội chợ, triển lãm, hội nghị, hội
thảo du lịch quốc tế ở nước ngoài; đồng thời tổ chức hội chợ, triển lãm, hội
nghị, hội thảo du lịch quốc tế ở trong nước; phối hợp với các ngành, địa
phương, đơn vị liên quan tiến hành các chiến dịch phát động thị trường.
Thứ ba, đầu tư ngân sách hơn nữa trong công tác xúc tiến quảng bá du
lịch Việt Nam. Cần quảng bá du lịch Việt Nam như một thương hiệu của một
đất nước với cảnh thiên nhiên đẹp và hoang sơ, với một nền văn hoá mang
đậm tính lịch sử truyền thống và nhân văn, một đất nước Việt Nam với “vẻ
đẹp tiềm ẩn” (“The hidden charm”). Nếu không có sự đầu tư về ngân sách,
chắc chắn công tác này sẽ không thể thực hiện được hoặc thực hiện mà không
đạt hiệu quả như mong đợi. Chúng ta nên đầu tư thuê những công ty quảng
cáo quốc tế chuyên nghiệp nhằm quảng bá hình ảnh của Việt Nam đến với thế
giới; quảng bá trên những phương tiện thông tin đại chúng quốc tế như
BCC,CNN…và những tạp chí du lịch có tên tuổi trên thế giới.
Thứ tư, tiến hành thiết lập những đại diện du lịch Việt Nam ở những
nước là đầu mối giao lưu quốc tế và thị trường trọng điểm như Nhật Bản, Mỹ,
Châu Âu. Tại mỗi văn phòng đại diện cần có những chiến lược hoạt động cụ
thể để không ngừng quảng bá du lịch Việt Nam.
Thứ năm, nhóm các giải pháp quảng bá qua các công cụ chính như
quảng bá qua website, email nhằm giới thiệu về hình ảnh đất nước con người,
những cảnh quan thiên nhiên, phong tục tập quán, lễ hội sự kiện văn hoá du
lịch nổi tiếng, hấp dẫn của Việt Nam, kết nối các đoạn chương trình để khách
hàng dễ truy cập, nắm bắt thông tin cũng như liên hệ; kết nối với các trang
web nổi tiếng như Google, MSN…
1.4. Chính sách giá cả trong du lịch Thái Lan
Giá du lịch Thái Lan có thể nói là một trong những giá du lịch hấp dẫn
nhất thế giới. Từ vé máy bay đến khách sạn, rồi đến các dịch vụ, mua sắm
trên đất nước Thái Lan đều rất rẻ. Đó là lý do tại sao du khách trong khu vực
từ Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc đến các nước ở lục địa khác đều đổ xô
đến Thái Lan.
Vậy lý do vì sao giá du lịch Thái Lan lại rẻ như vậy? Câu trả lời đó là:
cùng xuất phát điểm như Việt Nam nhưng chính phủ Thái Lan đã sớm bắt tay
vào làm du lịch từ nhiều năm trước. Ngành du lịch luôn nhận được sự hỗ trợ
từ phía chính phủ, từ việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đường sá, khách
sạn, các điểm du lịch cho đến việc ban hành các chính sách và thể chế hợp lý
khuyến khích mọi thành phần kinh tế cũng như nhân dân làm du lịch. Hơn
nữa, các công ty du lịch của Thái Lan được chuyên môn hoá và có mối liên
kết rất chặt chẽ với nhau tạo thành những chuỗi, những tập đoàn du lịch.
Chính phủ Thái Lan còn có những chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp kinh
doanh du lịch. Điều này đã khiến các doanh nghiệp yên tâm kinh doanh mà
không phải lo đương đầu với những biến động trên thị trường thế giới như giá
xăng dầu tăng hay giá thực phẩm, các mặt hàng tiêu dùng tăng. Chính vì
những lý do trên mà các doanh nghiệp kinh doanh du lịch của Thái Lan luôn
giữ mức giá tour ổn định. Các khách sạn, nhà hàng và các cơ sở hạ tầng khác
cũng được đầu tư lâu dài và đang trong quá trình khai thác, chịu mức khấu
hao thấp, không như ở Việt Nam các khách sạn phải chịu mức khấu hao rất
lớn. Điều này cũng làm giảm giá thành của các tour du lịch đến Thái Lan.
Để có thể cạnh tranh với các nước trong khu vực, đặc biệt với Thái Lan
về chính sách giá cả, Việt Nam cần có những biện pháp về tài chính, về đầu tư
cũng như có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ ngành liên quan.
Cụ thể:
Chính sách tài chính: ưu tiên thuế nhập khẩu với thuế suất bằng thuế
nhập khẩu tư liệu sản xuất đối với các trang thiết bị khách sạn, cơ sở vui chơi
giải trí, phương tiện vận chuyển khách du lịch, vật tư phục vụ du lịch mà
trong nước chưa sản xuất được hoặc không đáp ứng được yêu cầu hiện đại
hoá cơ sở du lịch theo nhu cầu du khách. Trước mắt ưu tiên vốn vay đầu tư
đối với các dự án ưu tiên và tại các vùng trọng điểm phát triển du lịch, khu du
lịch quốc gia. Nhà nước cần có chế độ hợp lý về thuế, về giá điện, nước trong
kinh doanh khách sạn đồng thời phải tiến hành rà soát điều chỉnh các phương
pháp tính thuế, các loại phí, lệ phí, các hình thức vé liên quan đến du lịch.
Tăng cường quản lý áp dụng thống nhất chính sách một giá trong phạm vi cả
nước. Hoạt động du lịch là hoạt động xuất khẩu tại chỗ, Do đó, cho phép kinh
doanh du lịch quốc tế được hưởng chế độ ưu đãi khuyến khích xuất khẩu.
Chính sách đầu tư: Nhà nước cần có chính sách đầu tư hợp lý phát
triển kết cấu hạ tầng tại các vùng du lịch trọng điểm, các khu du lịch quốc gia
cũng như các điểm du lịch quốc gia, các điểm du lịch tiềm năng ở các vùng xa
xôi, hẻo lánh; đồng thời chú trọng đầu tư xúc tiến quảng bá du lịch. Trên cơ
sở xem xét các thế mạnh và tốc độ phát triển của từng vùng, từng lĩnh vực,
tạo cơ chế thông thoáng về đầu tư cho sự phát triển du lịch ở từng địa phương,
áp dụng chính sách ưu đãi đầu tư trong nước đối với các lĩnh vực, ngành
nghề, dự án trọng điểm đầu tư du lịch.
Tăng cường phối hợp liên ngành: Là một ngành kinh tế tổng hợp mang
tính liên ngành, liên vùng nên muốn du lịch phát triển đem lại lợi ích quốc gia
cần có sự phối hợp hành động giữa các ngành với ngành Du lịch dưới một sự
chỉ đạo tập trung thống nhất. Chúng ta cần nghiên cứu tiếp tục đổi mới vai trò
và hoạt động của ban chỉ đạo nhà nước về du lịch, nhất là sự phối hợp đồng
bộ hiệu quả trong công tác hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện. Hơn
nữa, các bộ, ngành như môi trường, đầu tư, giáo dục, chính quyền địa phương
phải tham gia vào hoạt động xây dựng thể chế, các quy định và cử đại diện
vào các Uỷ ban liên ngành để cùng phối hợp quản lý, giám sát sự hoạt động
và kịp thời có những điều chỉnh tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch phát triển.
Như vậy, nếu có sự liên kết giữa các ngành hàng không, các cơ sở lưu
trú và các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực du lịch thì việc tạo ra lợi thế cạnh
tranh về giá cả là một điều không quá khó để thực hiện.
1.5. Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong phát triển du lịch
Công nghệ thông tin hiện đang phát triển cả về cơ sở hạ tầng và dịch vụ
viễn thông, công nghiệp phần cứng và công nghiệp phần mềm. Rất nhanh
chóng, công nghệ thông tin và du lịch đã trở thành hai đối tác gắn bó chặt chẽ
với nhau.
Nhận thức được tầm quan trọng của khoa học kỹ thuật và để đáp ứng
được nhu cầu thu hút, đảm bảo vị trí trong thế phát triển cạnh tranh, du lịch
Thái Lan áp dụng nhanh chóng tiến bộ của khoa học kỹ thuật hiện đại trong
các lĩnh vực hoạt động, từ quy hoạch thiết kế công trình du lịch, các công
nghệ dịch vụ du lịch đến các dịch vụ hạ tầng giao thông, bưu chính viễn
thông, ngân hàng…để tạo sự hài lòng cho khách du lịch. Đặc biệt là trong lĩnh
vực vui chơi giải trí và mua sắm được các nhà đầu tư áp dụng triệt để nhằm
tạo cảm giác “bằng lòng trả tiền” của du khách.
Chính quyền tại các khu vực phát triển du lịch đầu tư lớn để ứng dụng
công nghệ hiện đại trong quản lý du lịch như Hội đồng thành phố Pattaya có
hệ thống camera khá hiện đại để giám sát quản lý nhiều điểm tập trung đông
khách du lịch trên địa bàn để đảm bảo an ninh trật tự.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tổ chức và vận hành các
Trung tâm thông tin du lịch để cung cấp các sản phẩm du lịch ấn tượng đã
thực sự tạo môi trường thuận lợi cho du khách.
Thực tế việc ứng dụng khoa học kỹ thuật ở nước ta hiện nay còn rất
nhiều tồn tại do nguồn vốn của Việt Nam còn hạn chế, ứng dụng khoa học kỹ
thuật hiện đại một cách đồng bộ chưa thể thực hiện một sớm một chiều. Vì
vậy, trước mắt chúng ta chỉ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào những khâu cơ
bản của quá trình phát triển du lịch như công tác tuyên truyền quảng bá du
lịch.
Để ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác tuyên truyền quảng bá
du lịch có hiệu quả chúng ta cần:
Phối hợp chặt chẽ giữa các trung tâm xúc tiến du lịch – thương mại tại
các địa phương với các trung tâm tin học trong việc thống nhất cơ chế cung
cấp thông tin trên website chung của Tổng cục du lịch, đồng thời với việc duy
trì và quảng bá website du lịch riêng của các địa phương.
Tiếp tục duy trì các hoạt động hỗ trợ miễn phí cho hoạt động của các
doanh nghiệp trong ngành qua việc cung cấp các thông tin cơ bản của doanh
nghiệp trên các website chính thức của Tổng cục du lịch Việt Nam với cơ chế
linh hoạt; quảng bá rộng rãi hơn đối với các website mới lập để đông đảo
khách du lịch được biết đến.
Giới thiệu rộng rãi hơn nữa các giải pháp, công nghệ đã nghiên cứu và
ứng dụng, sẵn sàng chuyển giao công nghệ khi các đơn vị có nhu cầu.
Chủ động hơn nữa trong việc hỗ trợ các Hiệp hội du lịch tại các tỉnh
trong công tác tuyên truyền quảng bá ứng dụng công nghệ thông tin.
Ngoài ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong công tác quảng bá
xúc tiến du lịch, chúng ta cần đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong việc quy hoach, thiết kế và quản lý các công trình du lịch cũng như phát
triển các ngành dịch vụ bổ trợ như ngân hàng, bưu chính viễn thông…
1.6. Phát triển nguồn nhân lực
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, muốn hội nhập sâu rộng vào
nền kinh tế thế giới nói chung và ngành du lịch quốc tế nói riêng, chúng ta
phải huy động các nguồn lực cho sự phát triển, trong đó nguồn lực quan trọng
nhất, mang tính quyết định là nguồn lực con người.
Nhận thức được tầm quan trọng của yếu tố con người trong sự phát
triển, ngay từ rất sớm Thái Lan đã có những chính sách để phát triển nguồn
lực này. Thái Lan có các trường đào tạo chuyên nghiệp cũng như có các khóa
học để không ngừng nâng cao nhận thức cũng như chuyên môn nghiệp vụ cho
lực lượng lao động trong ngành du lịch.
Trong khi đó, nguồn nhân lực phục vụ du lịch quốc tế của chúng ta
thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Để khắc phục tình trạng này, chúng ta
phải phát huy những thành tích đã đạt được và hạn chế những khuyết điểm,
yếu kém trong việc đào tạo nhân lực.
Thứ nhất, xây dựng và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật, các cơ chế chính sách và quy chế quản lý hoạt động đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực du lịch, chế độ đãi ngộ nhân tài và quy định về lương, thưởng
phù hợp. Thực hiện chương trình phát triển nhân lực dài hạn giai đoạn 2002 –
2015. Bên cạnh đó hình thành đội ngũ cán bộ chuyên trách đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực du lịch. Tăng cường kiểm tra, thanh tra các hoạt động đào tạo,
bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực du lịch, từng bước hiện đại hóa công tác
thống kê nhân lực du lịch và đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học về đào
tạo, bồi dưỡng du lịch.
Thứ hai, tiêu chuẩn hóa nguồn nhân lực du lịch. Chúng ta cần xây dựng
hệ thống tiêu chuẩn đối với các chức danh và cấp bậc ngành nghề du lịch như
tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo cấp vụ, giám đốc sở, giám đốc doanh nghiệp
du lịch, tiêu chuẩn nghề du lịch làm cơ sở cho người học, cơ sở đào tạo và
người sử dụng lao động.
Thứ ba, chúng ta phải xây dựng quy hoạch mạng lưới cơ sở đào tạo du
lịch toàn quốc. Trước hết, thành lập các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ du
lịch. Song song việc đào tạo là nâng cấp cơ sở đào tạo hiện có, đầu tư mới
một số cơ sở đào tạo trọng điểm đạt tiêu chuẩn quốc tế ở các địa phương là
trọng điểm du lịch và nơi có xu hướng phát triển mạnh du lịch. Đồng thời,
hình thành bộ phận đào tạo du lịch ở các trường nghề ở địa phương và khuyến
khích mở các cơ sở đào tạo du lịch ngoài công lập và các cơ sở có vốn đầu tư
nước ngoài. Phối hợp các công tác trên với việc tăng cường liên kết các cơ sở
đào tạo du lịch trong và ngoài mạng lưới.
Thứ 4, tăng cường xã hội hóa mạnh công tác đào tạo du lịch. Sử dụng
hiệu quả ngân sách nhà nước và khuyến khích các thành phần kinh tế, nhân
dân, người lao động đóng góp công sức tiền của cho đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực du lịch. Đồng thời, tạo điều kiện cho các cơ sở đào tạo du lịch
lập cơ sở dịch vụ phù hợp ngành nghề đào tạo để sinh viên, học sinh thực
hành, hoạt động với thuế suất ưu đãi để tạo thêm kinh phí hoạt động cho đào
tạo. Một biện pháp hữu hiệu nữa là đa dạng hóa sở hữu các loại hình cơ sở
đào tạo, bồi dưỡng bên cạnh việc huy động kiến thức và kinh nghiệm của các
nhà khoa học đầu ngành trong nước cũng như nước ngoài để phục vụ công tác
phát triển nguồn nhân lực du lịch. Song song với những công tác trên cần tăng
cường phối hợp chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo với cơ quan quản lý nhà nước về
du lịch và doanh nghiệp du lịch để đào tạo, mở rộng và tăng cường liên kết
giữa cơ sở đào tạo với các ngành, địa phương, các điểm, khu du lịch, các
doanh nghiệp du lịch.
2. Kinh nghiệm từ những mặt hạn chế trong quá trình phát triển
du lịch Thái Lan
2.1. Du lịch sex và những tác động tiêu cực
Hiện nay trên thế giới có không ít các quốc gia kinh doanh loại hình du
lịch này. Thái Lan là một trong số các nước đó.
Thái Lan đã phát triển ngành công nghiệp không khói dựa trên nguồn
tài nguyên thiên nhiên phong phú và chất lượng các dịch vụ hoàn hảo. Bên
cạnh đó, Thái Lan còn thu hút một lượng lớn khách du lịch đến với loại hình
du lịch sex.
Xuất phát từ nhu cầu lớn của khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch
châu Âu, coi sex như một nhu cầu cơ bản không thể thiếu trong đời sống,
Thái Lan đã biến nhu cầu này trở thành một ngành công nghiệp. Ngành công
nghiệp sex tại Thái Lan được công khai, thừa nhận trước pháp luật và được
nhà nước quản lý. Có thể nói, ngành công nghiệp này đã mang về cho Thái
Lan không ít du khách mà đi kèm theo đó là lợi nhuận. Tuy nhiên mặt trái của
loại hình du lịch ăn khách này là nạn mại dâm tràn lan trong xã hội, là đại
dịch AIDS và khai thác tình dục trẻ em. Thái Lan là quốc gia ảnh hưởng bởi
bệnh AIDS nhiều nhất tại châu Á. Theo thống kê của tổ chức sức khoẻ thế
giới (WHO), mỗi năm tại Thái Lan có khoảng 60.000 người chết vì bệnh
AIDS và khiến cho khoảng 300.000 trẻ mồ côi. Theo những con số được Bộ
Y Tế Thái Lan cung cấp, tính đến tháng 5 năm 2003, Thái Lan có khoảng
217.000 người bị nhiễm virus HIV.
Tình trạng lạm dụng tình dục trẻ em cũng diễn ra tương tự. Thái Lan là
một trong số các nước trên thế giới có tỷ lệ trẻ vị thành nhiên hành nghề mại
dâm lớn nhất. Theo thống kê của Quỹ nhi đồng thế giới UNICEF, số trẻ em
hành nghề mãi dâm ở Thái Lan vào khoảng 60.000 đến 200.000 em. Đây là
con số đáng báo động đối với chính quyền Thái Lan.
Hiện tại Thái Lan đã nhận ra những điều tệ hại của hình thức du lịch
này. Mặc dù không loại bỏ loại hình du lịch này nhưng Thái Lan đang cố
gắng kéo du khách tham gia vào các loại hình du lịch lành mạnh khác.
Hiện tượng này ở Việt Nam không phải là không có. Nó hoạt động ít lộ
liễu công khai, trá hình rất tinh vi dưới nhiều hình thức linh hoạt. Để ngăn
chặn mầm mống cũng như sự phát triển của hiện tượng này trong quá trình
phát triển kinh tế nói chung, du lịch quốc tế nói riêng, Việt Nam phải có
những biện pháp cứng rắn để ngăn ngừa mầm mống phát triển của loại hình
du lịch này cũng như ngăn ngừa những tác hại của du lịch đến đời sống kinh
tế xã hội. Đặc biệt tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước cũng như các bộ
ngành, địa phương về vấn đề này.
2.2. Vấn đề vệ sinh môi trường trong quá trình phát triển du lịch
Thực tế cho thấy, phát triển kinh tế thường đi kèm với những tác động
đến môi trường. Hoạt động phát triển du lịch đồng nghĩa với việc gia tăng
lượng khách du lịch tới các địa điểm tham quan du lịch, tăng cường phát triển
cơ sở hạ tầng, dịch vụ và gia tăng nhu cầu sử dụng tài nguyên. Từ đó dẫn đến
sự gia tăng gây áp lực đến môi trường.
Từ trước tới nay, các nước đang phát triển đều “mang tiếng” với vấn đề
bảo vệ môi trường trong quá trình phát triển. Mặc dù đã có rất nhiều biện
pháp trong quá trình phát triển du lịch, Thái Lan cũng không nằm ngoài
những nước đang phát triển không kiểm soát nổi vấn đề môi trường của mình.
Tài nguyên thiên nhiên là nhân tố cơ bản để tạo ra sản phẩm du lịch.
Chính nhu cầu về sự thay đổi môi trường đã tạo ra dòng luân chuyển của du
khách ngày càng mạnh mẽ trong những năm qua. Lượng khách tham quan du
lịch lớn đã mang lại những tác động ngoài mong muốn tới môi trường: ảnh
hưởng tới nhu cầu và chất lượng nước sạch, tăng lượng nước thải và rác thải,
ô nhiễm không khí, tiếng ồn…Du lịch đã mang đến cho Thái Lan nguồn lợi
nhuận khổng lồ nhưng đồng thời cũng phần nào phá huỷ môi trường cảnh
quan của Thái Lan. Có những bãi biển ở Pattaya không thể tắm được nữa vì ô
nhiễm quá nặng nề. Bãi biển Patong nổi tiếng ở Phuket đã ô nhiễm tới mức
cácc loài cá và hải sản không thể sống được. Kênh đào Mae Kah ở trung tâm
Chiang Mai cũng đen đặc rác thải và ô nhiễm nặng nề.
Đó chỉ là những ví dụ rất điển hình về sự ảnh hưởng của hoạt động du
lịch tới môi trường của đất nước Thái Lan. Do những ảnh hưởng tiêu cực này
mà đã làm giảm sự hấp dẫn của các điểm du lịch đối với du khách.
Việt Nam cũng đang trong quá trình phát triển du lịch và vấn đề môi
trường cũng là một vấn đề nóng bỏng. Sớm nhận thức được tầm quan trọng
của vấn đề môi trường du lịch, Chính phủ đã có những chỉ thị cũng như các
chương trình hành động nhằm giữ gìn trật tự, trị an, vệ sinh môi trường tại các
điểm tham quan du lịch. Nhưng thực tế sau một thời gian triển khai và thực
hiện các chương trình bảo vệ môi trường du lịch thì kết quả không được như
mong muốn. Vì vậy, để công tác bảo vệ môi trường du lịch có hiệu quả thiết
nghĩ cần làm ngay những vấn đề sau:
Thứ nhất, cơ quan có trách nhiệm cần ban hành ngay hệ thống tiêu
chuẩn chất lượng môi trường du lịch Việt Nam trong từng lĩnh vực.Từ đó tạo
cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý chung và hoạt động kiểm tra, giám sát
của cơ quan nhà nước nói riêng đối với vấn đề bảo vệ môi trường du lịch.
Thứ hai, các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch từ trung ương đến địa
phương cần tăng cường phối hợp thực hiện bảo vệ môi trường du lịch. Đặc
biệt cần có một số chế tài chính, bộ máy, con người cụ thể thực hiện công tác
này.
Thứ ba, cần tổ chức tuyên truyền việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi
trường du lịch đến toàn bộ các đơn vị quản lý khu, điểm du lịch, các đơn vị
kinh doanh trong lĩnh vực du lịch . Đồng thời tăng cường ý thức bảo vệ môi
trường trong cộng đồng dân cư.
Bảo vệ môi trường du lịch là một nhiệm vụ sống còn của ngành du lịch.
Môi trường du lịch không tách rời khỏi môi trường chung của xã hội, bởi vậy
công việc này là trách nhiệm của các ngành, các cấp và của cộng đồng dân cư,
nhưng trách nhiệm chính thuộc về ngành du lịch.
KẾT LUẬNTrong phạm vi trình bày của ba chương, đến đây đề tài có thể chốt lại
các vấn đề cốt lõi sau đây:
Thứ nhất, những năm gần đây ngành du lịch phát triển với tốc độ vượt
bậc, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của nhiều
quốc gia cũng như trong nền kinh tế toàn cầu. Nhu cầu về du lịch của con
người ngày càng tăng cao kéo theo những sự phát triển của ngành cũng như
làm thay đổi xu hướng phát triển của du lịch trên thế giới. Đồng thời, làm
phát sinh nhiều loại hình du lịch mô hình kinh doanh du lịch mới. Bên cạnh
những tác động tích cực do sự phát triển của hoạt động du lịch mang lại cho
nền kinh tế và xã hội cũng có không ít những tác động tiêu cực đến kinh tế, xã
hội và môi trường.
Thứ hai, Thái Lan và Việt Nam là hai đất nước giàu tài nguyên thiên
nhiên, có một nền văn hóa dân tộc đậm đà bản sắc dân tộc, nguồn nhân lực
dồi dào để phát triển hoạt động du lịch quốc tế. Cả hai nước đã đạt được
những thành tựu đáng kể trong quá trình phát triển du lịch của mình, nhưng
xét một cách toàn diện ngành du lịch của Thái Lan phát triển vượt trội hơn
hẳn Việt Nam. Điều này đặt ra một câu hỏi lớn mà chúng ta phải trả lời: cùng
có một xuất phát điểm như nhau, tại sao Thái Lan lại đạt được những thành
tựu to lớn khiến cả thế giới biết đến và khâm phục còn ngành du lịch Việt
Nam vẫn mãi chỉ là tiềm ẩn.
Thứ ba, du lịch Việt Nam nhìn chung còn hoạt động tự phát, phần lớn
dưới sự bảo hộ của Nhà nước, việc khai thác các nguồn lực không hiệu quả,
không có kế hoạch và nhiều khi gây lãng phí. Quan điểm và định hướng phát
triển ngành du lịch của Đảng và Nhà nước ta rất hợp lý nhưng việc biến
những quan điểm, mục tiêu đó thành hiện thực lại là một điều xa vời. Những
giải pháp nêu ra trong Chương III dựa trên cơ sở tham khảo những bài học
kinh nghiệm từ sự thành công cũng như những hạn chế trong quá trình phát
triển du lịch quốc tế của Thái Lan - đất nước có nhiều điểm tương đồng với
Việt Nam nhưng hoạt động kinh doanh du lịch của họ lại phát triển hơn chúng
ta rất nhiều. Hy vọng những giải pháp đó sẽ thúc đẩy quá trình phát triển của
hoạt động du lịch quốc tế tại Việt Nam trong thời gian tới.
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới, đặc biệt là sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ
chức thương mại thế giới (WTO) thì càng có nhiều vấn đề đặt ra đối với nền
kinh tế quốc dân nói chung, ngành dịch vụ du lịch nói riêng. Việt Nam sẽ có
rất nhiều cơ hội cũng như phải đối mặt với không ít thách thức. Điều quan
trọng là Việt Nam phải nắm bắt được cơ hội, phát huy lợi thế, đẩy lùi thách
thức và hạn chế những yếu kém để biến ngành du lịch Việt Nam trở thành
một ngành công nghiệp thực sự, là ngành kinh tế mũi nhọn đáp ứng được nhu
cầu của nền kinh tế quốc dân. Và để ngành du lịch của Việt Nam khẳng định
được thương hiệu của mình trên trường quốc tế, sánh ngang và vượt các nước
trong khu vực trong lĩnh vực này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Thế Đạt, (2005), "Tài nguyên du lịch Việt Nam", NXB Chính trị
quốc gia.2. Nguyễn Văn Đính, Nguyễn Anh Tuấn, (2007), "Nâng cao năng lực
cạnh tranh của du lịch Việt Nam", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 3/2007.
3. Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa, (2004), "Giáo trình kinh tếdu lịch", NXB Lao động - xã hội.
4. Tú Anh, (2006), "Ứng dông c«ng nghÖ th«ng tin trong c«ng t¸c tuyªn truyÒn qu¶ng b¸ du lÞch ViÖt Nam", T¹p chÝ du lÞch ViÖt Nam, sè 9/2006.
5. Hương Bình, (2006), "Công tác tiêu chuẩn hóa trong ngành dulịch", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 10/2006.
6. Thái Bình, (2006), "Phát triển nguồn nhân lực du lịch trong hộinhập sâu và toàn diện sau khi gia nhập WTO", Tạp chí Du lịch Việt Nam số 11/2006.
7. Vũ Thế Bình, (2006), "Du lịch với công tác bảo vệ môi trường", Tạpchí du lịch Việt Nam, số 8/2006.
8. Trần Vĩnh Bảo, (2005), "Một vòng quanh các nước: Thái Lan",NXB Văn hóa thông tin.
9. Phạm Huỳnh Côn, (2006), "Để bảo vệ môi trờng du lịch", số 5/2006.10. Phong Châu, (2006), "Đẩy mạnh các hoạt động và giải pháp phòng
chống tệ nạn mại dâm”, T¹p chÝ du lÞch ViÖt Nam, sè 9/2006.11. Trịnh Xuân Dũng, (2004), "Tiêu chuẩn để đánh giá du lịch là một
ngành kinh tế mũi nhọn", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 10/2004.12. Nguyễn Mạnh Hiền, (2006), "Một thoáng Thái Lan", Tạp chí du lịch
Việt Nam, số 10/2006.13. Phạm Quang Hưng, (2007), "Du lịch Việt Nam trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 7/2004.14. Đỗ Thanh Hoa, (2007), "Kinh nghiệm của một số quốc gia về phát
triển du lịch gắn với bảo vệ môi trường", Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 3/2007.
15. Nguyễn Phi Lân, (2006), "Phát triển các địa bàn du lịch trọng điểmở Việt Nam", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 7/2006.
16. Phạm Trung Lương, (2007), "Cần phát triển loại hình du lịch hoa", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 6/2007.
17. Phan Đức Mấn, (2007), "Tìm tòi đa dạng hóa sản phẩm du lịch",Tạp chí du lịch Việt Nam, số 2/2007.
18. Phạm Hữu Minh, (2006), "Đổi mới cơ chế xúc tiến quảng bá du lịchViệt Nam", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 12/2006.
19. Phạm Ngọc Thắng, (2006), "Một số giải pháp phát triển du lịchthành ngành kinh tế mũi nhọn", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 8/2006.
20. Võ Thị Thắng, (2006), "Cơ hội, thách thức và giải pháp phát triểndu lịch sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 12/2006..
21. Võ Thị Thắng, (2006), "Phát huy truyền thống 45 năm du lịch ViệtNam vững bớc tiến lên trong thế kỷ 21", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 1/2006.
22. Võ Thị Thắng, (2007), "Phát huy truyền thống 46 năm, quyết tâmđẩy mạnh phát triển du lịch nhanh và bền vững tron giai đoạn cách mạng mới", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 1/2007.
23. Trịnh Đăng Thanh, (2006), "Để du lịch Việt Nam nâng cao sức cạnhtranh", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 3/2007.
24. Hoàng Thị Diệu Thúy, (2006), "Thái Lan, những kế hoạch lớn nhằmgia tăng lượng khách du lịch", Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 7/2006.
25. Nguyễn Hoài Thu, (2007), "Đặc thù hóa sản phẩm du lịch để nângcao sức cạnh tranh", số 4/2007.
26. Vũ Quốc Trí, (2006), "Tác động kinh tế của du lịch", Tạp chí du lịchViệt Nam, số 4/2006.
27. Đào Duy Tuấn, (2006), "Công tác tuyên truyền quảng bá du lịchViệt Nam", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 9/2006.
28. Nguyễn Anh Tuấn, (2007), "Phát triển du lịch mạo hiểm ở ViệtNam", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 7/2007.
29. Đỗ Thị ánh Tuyết, (2007), "Bài học kinh nghiệm về tổ chức và quảnlý phát triển du lịch của một số nước", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 2/2007.
30. Phan Huy Xu, Mai Phú Thanh, 2005, "Địa lý Đông Nam Á, nh÷ng vÊn ®Ò kinh tÕ x· héi", NXB Gi¸o dôc 2005.
31. Bùi Thị Hải Yến, (2004), "Tuyến điểm du lịch Việt Nam", NXB Giáodục.
32. Tạp chí du lịch Việt Nam, (2005), "Kết luận của Phó thủ tướng VũKhoan: đa du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn vào 2010", số 10/2005.
33. Tạp chí Du lịch Việt Nam, (2005), "Tăng cường đẩy mạnh bồi dư-ỡng phát triển nhân lực du lịch", số 7/2005.
34. Tạp chí Du lịch Việt Nam, (2006), "Du lịch Việt Nam đang trênđường hội nhập", số 6/2005.
35. Tạp chí Du lịch Việt nam, (2007), "Kinh nghiệm quản lý Nhà nướcvề du lịch ở Thái lan", số 8/2007.
36. Luật Du lịch Việt Nam
37. http://vst.vista.gov.vn/ 38. http://www.ncseif.gov.vn 39. www.nciec.gov.vn 40. www.vietnamtourism.gov.vn/ 41. www.dulichvn.org.vn 42. www.tuoitre.com.vn 43. www.gso.gov.vn 44. www.cpv.org.vn 45. www.vneconomy.com.vn 46. www.vista.gov.vn/ 47. www.tourismthailand.org 48. www.thailandtourismdirectory.com/ 49. www.thailandtravelsearch.com 50. www.tatnews.org 51. http://www.patavietnam.org/vn/ 52. www.unwto.org 53. www.world-tourism.org