Click here to load reader
Upload
dang-nguyen
View
261
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
MỐI QUAN HỆ GIỮA KẾ TOÁN VÀ THUẾ, MỤC TIÊU LOẠI TRỪ TƯƠNG QUAN
GIỮA NGUYÊN TẮC THẬN TRỌNG, NGUYÊN TẮC TRUNG THỰC VÀ NGUYÊN
TẮC HỢP LÝ
Dan D. Cuzdriorean, Đại học Babes Bolyai -, Cluj-Napoca, Romania
Catalin N. Albu, The Bucharest Viện Nghiên cứu kinh tế, Bucharest, Romania
Nadia Albu, The Bucharest Viện Nghiên cứu kinh tế, Bucharest, Romania
TÓM TẮT
Trong bài này, chúng tôi phân tích tác động của liên kết thuế-hạch toán kế toán trong sự hài
hòa của kế toán châu Âu và mục tiêu chính nhằm loại bỏ mối tương quan xoay quanh các
tranh chấp giữa nguyên tắc thận trọng, nguyên tắc trung thực và nguyên tắc công bằng. Sự độc
lập so với sự phụ thuộc của kế toán đối với thuế hoặc thuế đối với kế toán. Phân tích nhằm
giải thích sự khác biệt giữa các quốc gia có sự liên kết chặt chẽ giữa kế toán và thuế trong đó
thận trọng là nguyên tắc chính và các quốc gia chi phối bởi các quy định linh hoạt hơn và nơi
nguyên tắc trung thực và hợp lý đóng vai trò quan trọng. Liên kết thuế-kế toán được coi là một
trở ngại trong trường hợp hài hòa kế toán của EU, về mặt này, ba yếu tố quan trọng đang được
định hình. Nghiên cứu kết luận rằng các liên kết thuế kế toán đóng một vai trò quan trọng
trong quá trình hài hòa kế toán, việc thông qua IFRS cho doanh nghiệp nhỏ ( các công ty bị
ảnh hưởng nhất bởi liên kết về thuế, kế toán) được coi là một giải pháp cho mục tiêu loại trừ
tương quan.
Từ khóa : mối quan hệ giữa kế toán và thuế, nguyên tắc thận trọng, nguyên tắc trung thực và
nguyên tắc hợp lí, sự hài hòa kế toán EU
1. GIỚI THIỆU
Những quan sát đề cập đến bởi Aisbitt (2002 ) trình bày nguồn gốc của cuộc tranh luận này và
đặt ra câu hỏi mới : Ta có thể nói về nguyên tắc trung thực và công bằng miễn là nó là tương
quan giữa kế toán và thuế hay không ? Có thể tiếp cận được mục tiêu này khi báo cáo tài
chính được lập trên cơ sở các quy định tài chính cũng như các điều khoản đánh giá dựa trên vị
thế và hiệu năng của các tổ chức kinh tế hay không ?
Một câu trả lời cho các câu hỏi đề cập trên đây chắc chắn sẽ làm nảy sinh một loạt các cuộc
tranh luận không hồi kết giống như việc tạo ra các cuộc thảo luận về khoản thuế đã hoãn lại,
đây là một bước tiến trong việc chặn các tương quan mà Tác giả đã trích dẫn trong một bài
đăng cũ trong cuốn Hoogendoorn (1996) và lập luận rằng các cuộc tranh luận về liên kết kế
toán-thuế không thể mang lại sự chú ý, tính toàn vẹn của nguyên tắc trung thực và nguyên tắc.
Hoogendoorn (1996 ) xác định bốn hướng cụ thể về sự phụ thuộc giữa kế toán và thuế như
sau: (1) sự lựa chọn khác nhau của chính sách kế toán thay thế theo tác động tài chính (ví dụ
sử dụng LIFO làm phương pháp đánh giá cổ phiếu ở Đức hoặc phương pháp khấu hao số dư
giảm dần tại Bỉ ), (2 ) sự tồn tại của dự trữ pháp lý mà không bị đánh thuế ở các quốc gia châu
Âu, (3) những quy định thuế được áp đặt dẫn đến việc giảm lợi nhuận (ví dụ như thiết lập quy
định khấu trừ có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận kế toán thông qua tầm quan trọng của giá trị
xem xét), (4) áp dụng các quy tắc tài chính mà không kèm theo giải pháp kế toán (ví dụ giải
pháp cho thuê hay trợ cấp chính phủ tại Đức). Trong trường hợp đặc biệt, hướng thứ hai và
thứ ba có thể thể hiện những điểm mâu thuẫn với nguyên tắc trung thực và hợp lý
(Hoogendoorn, 1996)
Sự hiện diện xu hướng dẫn đến ngắt tương quan giữa kế toán và thuế, và một số nỗ lực phù
hợp nhất trong vấn đề này được thể hiện trong phương pháp tiếp cận CCCTB ở tầm châu Âu
và việc thực hiện IFRS (Schon, 2004, 2005) từ năm 2009 tại các doanh nghiệp nhỏ (ví dụ như
IFRS ở SMEs).
Điều gì sẽ xảy ra trong bối cảnh nguyên tắc thận trọng ngôn từ ở hệ thống kế toán Đức cho
rằng nguyên tắc này không hề là tầm thường và cũng không phi lịch sử?
Sau một phân tích tóm lược văn từ liên quan đến mối quan hệ giữa kế toán và thuế bắt đầu bởi
xung đột xoay quanh nguyên tắc thận trọng, nguyên tắc trung thực và nguyên tắc hợp lí (phần
2), phần 3 phát triển các phân tích liên quan đến sự phụ thuộc so với tính độc lập của kế toán
đối với thuế. Liên kết thuế-kế toán theo quan điểm của sự hài hòa kế toán EU được phân tích
trong phần 4. Phần 5 đưa ra những kết luận của nghiên cứu.
2. ĐÁNH GIÁ VĂN TỪ
Dưới đây giả sử tất cả các đơn vị phải đóng thuế, phạm vi nghiên cứu về tương quan giữa kế
toán và thuế được đánh giá cao tranh luận trong các tài liệu quốc tế. Tương tự như vậy, thông
tin từ các báo cáo tài chính có liên quan với sự quan tâm trong nghiên cứu quốc tế thông qua
tổng quát mức độ hài lòng của không chỉ riêng người sử dụng thông tin kế toán.
Trong trường hợp bất tương quan giữa kế toán và thuế, những lựa chọn dẫn đến sự khác biệt
giữa kế toán và lợi nhuận trước thuế, trong đó hỗ trợ phạm vi nghiên cứu khác nhau như : thủ
thuật kế toán ; quy tắc phù hợp với hệ thống thuế và chi phí vốn ; ưu đãi thuế ; khía cạnh trung
thực và hợp lí; nguyên tắc thận trọng; chủ nghĩa bảo thủ trong kế toán ; các nghiên cứu dựa
trên học thuyết Scholes - Wolson trong các lĩnh vực liên quan như tài chính và kinh tế
(Hoogendoorn, 1996; Artsberg năm 1996; Shackelford và Shevlin năm 2001; Graham, năm
2003; Gallego, 2004;. Dhaliwal et a / 2008 ; Ayers et a / 2009;. Crabtree và Maher, 2009 ;
Hanlon và Heitzman, 2010 ;. Gee et et, 2010 ; Graham et et, 2011 )..
Trong số đó, bài nghiên cứu này đề xuất một cách tổng quan về các mối quan hệ giữa kế toán
và thuế có liên quan trực tiếp với nguyên tắc trung thực, nguyên tắc hợp lí và nguyên tắc thận
trọng cần có trong cả hai hệ thống kế toán. Trong khi hệ thống kế toán Continental châu Âu
chủ yếu đề cập đến nguyên tắc thận trọng, thì hệ thống kế toán Anglo-Saxon yêu cầu rõ ràng
nguyên tắc trung thực và nguyên tắc hợp lý, cả hai vẫn còn tạo ra các cuộc tranh luận cần
được giải quyết trong lĩnh thuế, kế và trong cả mối quan hệ giữa chúng.
Trong khi nguyên tắc thực và hợp lý đã được tranh luận rộng rãi trong Liên minh châu Âu về
sự linh hoạt sẵn có nhằm cho phép các công ty hoạch toán chuẩn nhất có thể về thực trạng
kinh doanh, thì quan điểm hệ thống Anglo-Saxon, trong đó đề cao nguyên tắc thận trọng lại là
một trong những mục cần được nêu ra trong các cuộc thảo luận, vẫn chưa được phổ biến.
Giới thiệu một mục mới ví dụ như Sự Đề cao Nguyên tắc trung thực và Nguyên tắc Hợp Lí
làm cho các cuộc thảo luận trở nên dai dẳng hơn, đặc biệt ở những nước mà sự thận trọng
được coi là nguyên tắc cơ bản, dựa trên các mục cố hữu đã được công nhận lâu nay từ báo cáo
tài chính (ví dụ như Đức ).
Ba yêu cầu quy định trong Chỉ thị thứ tư của Liên minh châu Âu liên quan đến sự trung thực
và hợp lý (yêu cầu chuẩn bị các báo cáo tài chính theo nguyên tắc đó; vai trò thông tin bổ sung
trong việc đạt được mục tiêu đề xuất; sự đề cáo tính trung thực và hợp lý) đã thể hiện một
cách rõ ràng và yêu cầu nước thành viên tuân thủ chặt chẽ. Tuy nhiên nhiều quốc gia không
quy định tất cả các yêu cầu này mà chỉ quy định một phần (ví dụ Thụy Điển, Áo, cho phép
việc giới thiệu chỉ hai yêu cầu).
Các tranh luận giữa hai hệ thống kế toán thể hiện trong khái niệm và ưu thế của hai nguyên
tắc. Với lịch sử lâu hơn nhiều so với của nguyên tắc trung thực và hợp lí (Maltby, 2000),
nguyên tắc thận trọng đã được áp dụng trong hệ thống kế toán châu Âu, do đó, dự án đầu tiên
được phát triển bởi Liên minh châu Âu vào năm 1973, ảnh hưởng của nguyên tắc này đã áp
đảo (theo thủ tục của Đức và Pháp) và áp đặt một loạt chi tiết chặt chẽ của các quy tắc kế toán,
cá biệt hóa quy trình thông qua chủ nghĩa hà khắc và bảo thủ. Vương quốc Anh là một trong
những quốc gia một mực giới thiệu cách tiếp cận theo nguyên tắc trung thực và hợp lí mà
chúng có thể thể hiện sự thay đổi nhỏ xu hướng từ bảo thủ và hà khắc đến linh hoạt, cho phép
nước này giữ vững quan điểm của mình.
Nghiên cứu tiến hành bởi Hoogendoorn (1996) và Lamb và những người khác (1998) đã phân
nhóm một số nước châu Âu dựa trên mối quan hệ giữa kế toán và thuế, có tham khảo quan
điểm của Nobes và Parker (1995) về việc giải quyết môi trường kinh doanh dưới tác động ảnh
hưởng từ hai hệ thống kế toán. Đó là một trong những nghiên cứu đầu tiên về liên kết này,
cùng với các nghiên cứu được tiến hành bởi Haller (1992), Radcliffe (1993) và Quere (1994)
và một quan điểm khác liên quan đến vấn đề này, cách tiếp cận của họ là hoàn toàn cần thiết
đặc biệt là kể từ khi dự báo của họ tỏ ra rất xác thực. Các nghiên cứu thực nghiệm được tiến
hành bởi Hoogendoorn (1996) tìm ra sự phân nhóm các mối quan hệ giữa kế toán và thuế tại
13 quốc gia, dựa trên một hạng mục quan trọng, đó là thuế hoãn lại và mối tương quan giữa kế
toán thuế và báo cáo tài chính.
Hơn nữa, rất cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu cấp độ này, phủ rộng khắp châu Âu nhiều mô
phỏng và nghiên cứu sau này, giới thiệu đến các quốc gia mới, phấn đấu để có được một mô
hình tương quan hoặc bất tương quan khác ( Blake et a /. năm 1997; Blake et AI, 1998;
Gallego, 2004; Nobes và Schwencke, 2006).
Thuế thu nhập hoãn lại được xem như là một yếu tố bất tương quan và mức độ của các mối
quan hệ giữa kế toán và thuế được phân tích theo yếu tố này. Tại những nơi không có những
quy định về các yếu tố này hoặc những thông tin không đáng kể, các mối quan hệ giữa kế toán
và thuế khá mạnh mẽ, hệ thống kế toán lại bị ảnh hưởng bởi thuế.
Kết luận của các nghiên cứu này đề cập đến khó khăn trong việc giải thích kết quả báo cáo tài
chính khi kế toán bị ảnh hưởng bởi thuế. Từ khi áp dụng IFRS, đã có dấu hiệu giảm dần ảnh
hưởng thuế đối với kế toán nhưng chưa có nghiên cứu thực nghiệm nào được tiến hành để xác
nhận liệu liên kết thuế kế toán có bị thay đổi hay không, chẳng hạn như trong các nghiên cứu
thực nghiệm được tiến hành bởi Hoogendoorn (1996) và Lamb và những nhân vật khác.
(1998) cũng vậy. Điều quan trọng là đòi hỏi những nghiên cứu khác có thể được thành lập bởi
các nghiên cứu thực nghiệm phải chỉ ra được các liên kết thuế kế toán sau khi thông qua IFRS.
Tác giả của cả hai nghiên cứu đã đề cập đến sự phụ thuộc cũng như nađộc lập giữa kế toán và
thuế phải nhìn nhận là có tính biến động, do đó các kết luận của các nghiên cứu được thực
hiện tại thời điểm đó có thể không phản ánh đầy đủ trong hiện tại.
3. LIÊN KẾT THUẾ - KẾ TOÁN: SỰ TƯƠNG QUAN VÀ ĐỘC LẬP
Sự tương quan giữa kế toán và thuế không phải luôn thể hiện trong mọi trường hợp như mong
muốn. Những biểu hiện của mối tương quan có được không theo nguyên tắc trung thực và
hợp lí vì người ta nhận ra rằng không có sự tương thích với nhiều trường hợp mà ở đó kế toán
chịu ảnh hưởng mạnh bởi thuế ( Aisbitt, 2002), nguyên tắc thận trọng do đó được áp dụng.
Trong trường hợp này, thu nhập bị đánh giá thấp ( Blake, 1997), điều này được hiểu là thận
trọng. Người ta cho rằng thực nghiệm hành vi đã được xác nhận do sự thận trọng dựa trên mối
quan hệ mạnh mẽ giữa kế toán và thuế với mong muốn giảm gánh nặng thuế. Một ý kiến khác
thuộc nghiên cứu của Niskanen (2000) không xem sự thận trọng là đánh giá thấp thu nhập và
kết hợp cách tiếp cận này với gánh nặng thuế bổ sung nảy sinh từ những chế tài áp dụng bởi
các cơ quan quản lý thuế. Nguyên tắc thận trọng sau đó được thay thế bằng kế toán thủ thuật,
gian lận thuế hoặc tối ưu hóa thuế quan.
Mặt khác, Langot (2002) khẳng định tầm quan trọng lớn hơn của sự thận trọng trong hệ thống
Kế toán EU-Continental, nhưng không cho rằng cách tiếp cận này tạo nên các sự kiện không
mong muốn. Các quy tắc kế toán liên quan đến các quy định và điều chỉnh là khác nhau trong
các hệ thống kế toán được ấn định thông qua tầm quan trọng của nguyên tắc thận trọng trong
hệ thống kế toán EU-Continental và liên quan đến các quy tắc tài chính trong việc tính toán
lợi nhuận. Tương tự như vậy, hệ thống này đề cao tầm quan trọng của chi phí gốc hơn trong
hệ thống EU - Continental – hoặc là kết hợp trực tiếp với nguyên tắc thận trọng quan trọng
hơn giá trị hợp lý ( Hung và Subramanyam, 2007).
Từ quan điểm lịch sử, mối quan hệ giữa kế toán và thuế được phân tích từ hai quan điểm: kế
toán bị ảnh hưởng bởi thuế, tương tự thuế bị ảnh hưởng bởi kế toán. Không phân biệt xu
hướng ảnh hưởng như thế nào, đó là một tương quan và theo quan điểm này thì không thể tồn
tại sự độc lập và mọi sự bất tương quan nào. Tuy nhiên, người ta có thể chỉ ra sự tương quan
này theo học thuyết của hai hệ thống khác nhau với những lý giải khác nhau về tầm quan
trọng.
Sự độc lập, yếu tố được tiếp cận đầu tiên, theo Hoogendoorn (1996 ) có nghĩa là lợi nhuận
được xác định cho mục đích kế toán và tính toán phải độc lập với bất kỳ mục đích thuế nào.
Theo đó, các công ty có thể lựa chọn các chính sách kế toán khác nhau nhưng không phải cho
mục đích tính thuế và không được sử dụng ưu đãi thuế để thay đổi lợi nhuận kế toán.Việc
được chấp nhận trong các tài liệu quốc tế có giá trị cao hơn việc không thể độc lập hoàn toàn
như đã được quy định trước đây, bởi vì nguyên tắc kế toán có thể ảnh hưởng đến quy định về
thuế và quy định về thuế có thể được áp dụng tự nguyện để đạt được mục đích kế toán nhất
định, đặc biệt là áp dụng trong trường hợp các doanh nghiệp nhỏ. Đó là điều cần thiết để xác
định cấu trúc nào là sự tự do của công ty nhằm áp dụng các chính sách kế toán khác nhau
không phân biệt tối ưu hóa thuế (Hoogendoorn, 1996).
Sự phụ thuộc giữa kế toán và thuế được xác định thông qua các chỉ tiêu đối lập với sự độc lập,
trong khi việc chuẩn bị báo cáo tài chính có tính đến hoặc khi tính toán lợi nhuận trước thuế
được thực hiện theo các quy tắc kế toán, tình hình không đủ giải quyết trong Romania ví dụ
như khi kế toán bị ảnh hưởng bởi thuế. Cấu trúc này phụ thuộc như mục đích kinh tế, tiến
hành để giảm thiểu các khoản thuế phải nộp, càng nhiều càng tốt. Thông thường, sự phụ thuộc
giữa kế toán và thuế được trích dẫn để cấp độ quốc tế như hiện diện trong báo cáo tài chính cá
nhân.
Còn lại trong cùng một khu vực, có thể đề cập đến các nghiên cứu thực nghiệm được tiến
hành bởi Blake và các cộng sự. (1993) đã phân tích tầm quan trọng của liên kết này bất kể
theo hướng thống trị trong trường hợp của Anh, Đức và Tây Ban Nha. Các tác giả đề cập đến
trường hợp của Tây Ban Nha như ví dụ về tiết lộ của hướng thống trị giữa kế toán và thuế.
Như sự hỗ trợ của ngắt kết nối giữa kế toán và thuế các hướng dẫn sau đây đã được đặc biệt
đề cập đến trong các tài liệu quốc tế : thuế hoãn lại, tăng tầm quan trọng gắn liền với khái
niệm về quản trị doanh nghiệp và giá trị do các cổ đông đặc biệt là những xảy ra trong các tài
khoản hợp nhất; chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường; ảnh hưởng lẫn nhau mà tồn tại giữa
các nước châu Âu (xem các biến văn hóa giới thiệu của Gray (1988), túc văn hóa, có sự tham
khảo nước đang phát triển văn hóa thống trị ) ; khuyến nghị của OECD cho các thành viên để
giảm sự liên kết giữa kế toán và thuế để để đạt được sự hài hoà kế toán; quá trình hài hòa kế
toán; ảnh hưởng của quá trình phát triển liên quan đến một cơ sở thuế chung của công ty hợp
nhất - CCCTB.
Thuế thu nhập hoãn lại là kết quả của sự khác biệt giữa lợi nhuận trước thuế và lợi nhuận kế
toán và nó được coi là một bước quan trọng đầu tiên trong quá trình ngắt kết nối. Gee et al.
(2010) tuyên bố rằng có thể được nhìn thấy một xu hướng mạnh mẽ đến một sự độc lập giữa
kế toán và thuế ở cấp châu Âu, vì ở các nước Đông Âu, nơi cường độ của kết nối này giảm.
Quá trình này là có thể sau khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ( Gee và cộng sự,
2010 ;. Blake và các cộng sự, 1997;. Hoogendoorn, 1996). Sự quan tâm cho quản trị doanh
nghiệp tăng đáng kể trong những năm gần đây, và mang lại rất nhiều khía cạnh tích cực. Còn
lại trong khu vực nghiên cứu mối quan hệ giữa kế toán và thuế, quản trị doanh nghiệp được
xem là một hạng mục quan trọng trong việc ngắt kết nối ( Blake et al., 1997).
Ảnh hưởng lẫn nhau mà tồn tại giữa các nước châu Âu cũng dẫn đến sự thay đổi của mối quan
hệ giữa kế toán và thuế. Hoogendoorn (1996) nhắc nhở các mối quan hệ đã tồn tại giữa Anh
và Ireland, dẫn đến ảnh hưởng của kế toán Ailen và hệ thống thuế của một người Anh, sau
năm 1922. Trường hợp của Thụy Điển cũng được phân tích trong nghiên cứu được tiến hành
bởi Blake và các cộng sự. (1997) như được đặc biệt chịu ảnh hưởng của Đan Mạch, Phần Lan
và Na Uy kế toán và hệ thống thuế liên quan đến một hình thức trước đó của hiện tại, ảnh
hưởng rất lớn giữa kế toán và thuế.
Hơn nữa, hệ thống kế toán và thuế Đan Mạch và Na Uy đã lần lượt ảnh hưởng bởi kế toán
Anh và hệ thống thuế, dẫn đến sự suy yếu của liên kết giữa kế toán và thuế sau năm 1970.
Hoogendoorn (1996) cũng khẳng định ảnh hưởng của hệ thống kế toán Anh trong hệ thống kế
toán Pháp sau năm 1970. Tất cả các hướng ảnh hưởng dẫn đến những gì được bây giờ thu
được trong các quốc gia đã đề cập trước đó: một ngắt kết nối giữa kế toán và thuế, hoặc giảm
một liên kết giữa chúng ( kế toán và thuế ).
Ảnh hưởng hệ thống kế toán áp đảo trên các hệ thống khác không chỉ đối với ngắt kết nối, mà
còn để tăng cường kết nối trong trường hợp như vậy. Trường hợp Đức là trong lĩnh vực này
giải quyết rộng rãi ( Hoogendoorn, 1996;. Gee et a / 2010 ). Các ảnh hưởng của Đức trên hệ
thống kế toán Ý và một phần trong hệ thống kế toán của Thụy Điển và Bỉ, đã dẫn đến một sự
hợp nhất của mối quan hệ giữa kế toán và thuế số những người khác
4. THUẾ - KẾ TOÁN LINK :
Trở ngại chính TRONG KẾ TOÁN hài hòa EU Về quá trình hài hòa kế toán cho cấp độ EU,
điều này nén thành công khác nhau và trở ngại. Một mục quan trọng từ các thể loại thứ hai chỉ
là sự kết nối giữa kế toán và thuế và trên một góc độ khác nhau, chúng tôi có thể nói rằng
những mong muốn của phá vỡ liên kết thuế kế toán, hài hòa là một phương pháp có thể đóng
vai trò quan trọng nhất.
Trích dẫn trên một thời gian mở rộng những khoảnh khắc quan trọng nhất trong quá trình hài
hòa, chúng ta có thể nói rằng điểm khởi đầu là cuối những năm 1960, do đó năm 1973 được
thành lập cơ quan kế toán ( IASC ) sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến các quá trình này.
Năm 1978 được ban hành lần thứ tư Chỉ thị của Liên minh châu Âu số 78/660/EEC mà giới
thiệunguyên tắc thực và hợp lý xem, cùng với sự phát triển của tầm quan trọng của đánh giá
chuyên môn. các
Thứ tư EU Chỉ thị không thực hiện bất kỳ tuyên bố về mối quan hệ giữa kế toán và thuế, trong
sự tôn trọng của mục đích quy định thể chế, để lại nhiệm vụ này cho các nước thành viên
quyết định để lựa chọn các loại cường độ của kết nối giữa kế toán và thuế theo yêu cầu của họ
và hệ thống thuế.
Mặc dù không được nhấn mạnh trên một quy chế, Chỉ thị thứ tư đã đề cập đến các công ty để
xuất bản các ảnh hưởng của thuế về kế toán, cho các quốc gia mà có một mối quan hệ phụ
thuộc giữa chúng. Tương tự như vậy, ở các nước nơi mà các kế toán đã không được kết nối
với thuế ( độc lập ) đã được ủng hộ khi công bố báo cáo tài chính tác động của thuế hoãn lại.
The Seventh Chỉ thị của EU được thiết kế cho các công ty yêu cầu chuẩn bị báo cáo tài chính
hợp nhất. 1990 là một năm với nhiều tranh chấp liên quan đến quá trình hài hòa, do nhiều yếu
kém kèm theo. Vì nó đã được quyết định tiếp tục quá trình này, vào năm 1995 Lass được ưa
thích chế độ kế toán được áp dụng trong EU. Năm 2001 mang lại những thay đổi của IASC
trong IASB, và Lass sẽ được đưa vào các thiết lập mới các quy định kế toán sẽ được áp dụng
trong Liên minh châu Âu. Năm 2005 là quan trọng bởi vì, từ thời điểm này sẽ bắt đầu thực
hiện hiệu quả IFRS theo Quy chế Hội đồng không có. 1606/2005.
Phát triển đề cập đến thông tin trên mà không tính đến quy mô thời gian, không gian cung cấp
dưới đây sẽ nén vai trò của các kết nối chặt chẽ giữa kế toán và thuế trong quá trình hài hòa
hóa kế toán ở cấp độ EU.
Kể từ khi thực hiện chỉ thị của châu Âu, nó có thể nói rằng tất cả các nước thành viên đóng
một vai trò quan trọng trong sự thành công của phương pháp này. Đơn giản ngay từ cái nhìn
đầu tiên, phương pháp này là không phải không có trở ngại. Mối quan hệ chặt chẽ giữa kế
toán và thuế, liên quan đến nguyên tắc kế toán cụ thể cho doanh nghiệp nhỏ, các quá trình
thực hiện đã dẫn đến cuộc tranh luận về việc có nên tiếp tục quá trình hài hòa hóa. Trong lĩnh
vực này đã được bổ nhiệm làm đại diện của các thẩm quyền để cung cấp các giải pháp xây
dựng để đạt được một sự đồng thuận giữa các nước thành viên ( Nobes và Parker, 2002;
Gielen và Hegarty, 2007).
Không tiếp cận này được dễ dàng cho xem quang học khác nhau giữa Đức và Anh, cả hai nỗ
lực đáng kể để áp đặt ý kiến của mình đến mức EU. Kể từ khi hai quốc gia là đại diện của hai
hệ thống kế toán chính, quan điểm quang học liên quan đến quá trình hài hòa là khác nhau.
Trong khi Đức đã cố gắng để áp đặt hệ thống Continental châu Âu và nguyên tắc thận trọng,
Vương quốc Anh tuyên bố những lợi ích hệ thống kế toán Anglo-Saxon và tính linh hoạt giới
thiệu thông qua thực và hợp lý xem. Trong những cuộc tranh luận, mong muốn của Đức
không từ bỏ mối liên hệ giữa kế toán và thuế theo với mục tiêu của hệ thống thuế của Đức,
tiến hành cho co hồi của phương pháp tiếp cận đầu.
Chúng ta có thể nói về vấn đề này rằng mối quan hệ chặt chẽ giữa kế toán và thuế ghi một
chiến thắng đầu tiên chống lại quá trình hài hòa kế toán, trong số các yếu tố khác. Năm 1990
mang đến cho các Ủy ban châu Âu mong muốn quyết định tương lai của quá trình hài hòa,
trong bối cảnh này, hội nghị được tổ chức trong lĩnh vực này với các thành viên đại diện từ
mỗi thẩm quyền là quá lạc quan cho tương lai của cách tiếp cận này.
Chống lại quyết định tiếp tục quá trình hài hòa, nó đã được áp đặt tầm quan trọng ngày càng
tăng của thị trường vốn quốc tế và sự cần thiết phải chấp nhận báo cáo tài chính của các công
ty quốc tế về những thị trường ( Schultz và Fogarty, 2009) cho các nhu cầu thông tin của các
nhà đầu tư rằng hoạt động trên các thị trường này và cho các báo cáo tài chính chuẩn bị theo
với chỉ thị của EU không thể cung cấp cho các hiệu ứng.
Trong lĩnh vực này đã được tạo ra sự cần thiết phải xây dựng một bộ tiêu chuẩn mới có thể
giải quyết tình trạng này, nhưng, với chi phí phát sinh và thời gian, sự chú ý của Ủy ban châu
Âu đã chuyển sang gói quy định kế toán hiện hành, IAS / IFRS. Việc áp dụng IAS / IFRS yêu
cầu phân chia giữa báo cáo tài chính cá nhân và hợp nhất như gói kế toán quy định và phương
pháp tiếp cận này đã dẫn đến một bế tắc khá quan trọng : trong các quốc gia mà là một liên kết
về thuế kế toán gần, việc áp dụng IAS / IFRS sẽ dẫn đến thay đổi trên cơ sở thuế ( Gielen và
Hergaty, 2007). Nếu được coi là thời điểm thứ hai của sự hài hoà kế toán khi mối quan hệ
giữa kế toán và thuế có thể được coi là một trở ngại lớn.
Kể từ khi áp dụng IAS / IFRS không đại diện cho một điểm xung đột với các Chỉ thị của EU,
năm 2000 là năm mà đã được quyết định rằng ứng dụng của IAS / IFRS cho báo cáo tài chính
hợp nhất, ứng dụng vào có hiệu lực từ năm 2005. Thời điểm thứ ba là trở ngại trong quá trình
hài hòa kế toán đã được đại diện bởi các liên kết thuế kế toán, khi nào, vì nó ảnh hưởng của sự
tồn tại của nó, việc thực hiện đầy đủ các quy định này là không thể trong các quốc gia mà nó
tồn tại.
Ngay sau khi thông qua quy định này, với mức độ khái niệm nó đã được dự kiến thực hiện đầy
đủ và chỉ có một phần. Đối với phương pháp này, đã được đánh giá tác động của IAS / IFRS
mức kinh tế vĩ mô và vi mô và tiếp tục tác động trên các hệ thống thuế đặc trưng châu Âu
thông qua sự đa dạng.
Có thể được coi IAS / IFRS là phù hợp về mặt tính toán gánh nặng thuế ? Nó có thể là một
điểm liên quan cho phương pháp này ? Những gì nó có lẽ là dễ đoán, những câu hỏi này đã trở
thành một nét chủ đạo trong văn học Đức và Áo, quốc gia với sự tham gia trực tiếp vào quá
trình hài hòa và những người đã được yêu cầu để đạt được một sự đồng thuận (ví dụ
Eberhartinger năm 2003; Hennrichs năm 2005; Spengel, 2006) cho sự lựa chọn của họ về thực
hiện một phần của quy định do mục tiêu khác nhau của họ với mục tiêu theo đuổi hài hòa kế
toán.
Làm thế nào an toàn và chi phí lịch sử là cơ sở chính để đánh giá, việc chấp nhận giá trị hợp lý
tạo ra tranh cãi đặc biệt là từ sự tham gia của quản lý thuế trên dòng của quyết tâm gánh nặng
thuế cao và theo ý kiến của họ cơ sở đánh giá này không đảm bảo sự bình đẳng cho mục đích
tính thuế. Hơn nữa, sự khác biệt từ đánh giá bằng cách sử dụng giá trị hợp lý hoặc dẫn đến sự
khác biệt chi phí lịch sử mà công nhận tài khoản lỗ lãi là cần thiết, mà sẽ dẫn đến thuế lợi
nhuận chưa thực hiện. Tương tự như vậy, việc áp dụng đầy đủ IAS / IFRS yêu cầu công nhận
thời gian trước khi thu nhập đối với các quy định phù hợp với các nguyên tắc thận trọng
Như IASIIFRS không cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà nước như người sử dụng báo
cáo tài chính so với những người dùng khác của báo cáo tài chính, một cách khác để cuộc
tranh luận đã được mở ra và làm thế nào đã không đạt được một sự đồng thuận, chấp nhận
một phần của quy định này là giải pháp tốt nhất.
Nhiều cuộc tranh luận để đánh giá sự liên quan của IFRS làm cơ sở cho mục đích tính thuế
( Schon, 2004) đã tăng lên trong biên giới của Đức và Áo, khi đưa vào tài khoản thực hiện
IFRS cho doanh nghiệp nhỏ. Điều quan trọng là phân tích phương pháp này, vì nó đã được
thảo luận rộng rãi trong các tài liệu mà các ứng dụng đầy đủ IFRS, có thể được coi như là một
cơ sở phù hợp với tính toán gánh nặng thuế với mức độ doanh nghiệp nhỏ ( Cuzdriorean et al.,
2010 ).
Sử dụng đầy đủ IFRS cho doanh nghiệp nhỏ được coi là không đứng vững và dự phòng (Van
Hulle, 2004; Hennrichs, 2005)
và mặt khác những tác động khác nhau với các hiệu ứng vô cùng khó khăn để định lượng
( Haller và Eierle,
2004; Nobes, 2006; Kvaal và Nobes, 2010 ). Cho rằng các nước thành viên nên cung cấp cho
một số chủ quyền để áp đặt một hệ thống thuế phù hợp với nhu cầu của thẩm quyền, phương
pháp này được coi là ít nhất khó khăn để đạt được (Van Hulle, 2004; Hennrichs, 2005). Mặt
khác IAS / IFRS được phát triển để đáp ứng không với nhu cầu của doanh nghiệp nhỏ
( Ballwieser, 2006; Kufsrnaul và Henkes, 2006; Niehus,
2006). Trong lĩnh vực này, trong năm 2009, IASB phát triển IFRS cho SMES mà nó là trong
thời điểm này đang được thảo luận đến mức độ của mỗi thẩm quyền từ Liên minh châu Âu.
Kế toán thuế được dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau đây ( Gielen và Hegarty, 2007) : tính
trung lập ; đơn giản, năng lực tài chính; thành tích của thuế thu nhập thường xuyên tối thiểu
đối với cơ quan thuế ; cụ tích cực của các chính sách công. Để giải quyết sự liên quan hoặc
IFRS dự phòng như cơ sở thuế nó phải được thực hiện trong mối quan hệ với họ, hỏi những
câu dưới đây : Liệu thực hiện theo IFRS với nguyên tắc thuế kế toán ?
Việc tuân thủ cung cấp các tham số thích hợp nhất để chấp nhận hoặc từ chối các IAS / IFRS
từ vị trí của cơ sở thuế, không chỉ là một cơ sở của báo cáo tài chính. Một câu trả lời cho các
câu hỏi đề cập ở trên, khi chúng tôi khẳng định, sẽ là một câu trả lời cho một cuộc tranh luận
hiện nay và trên diện rộng.
Trong khi đó, không có nghiên cứu thực nghiệm đã được tiến hành để đánh giá nếu IFRS tôn
trọng đề cập đến nguyên tắc trên, không quá nhiều kết luận có thể được rút ra, nhưng đề cập
đến các nguyên tắc thứ hai, cụ thể là sự đơn giản trong tính toán của cơ sở thuế, dựa trên các
tài liệu quốc tế cơ bản tiến hành, có thể được thực hiện một phản ứng đầu tiên : dựa trên
nguyên tắc này, IASIIFRS không có thể được đặc trưng bởi sự đơn giản do sự phức tạp liên
kết với một hệ thống thuế cổ điển (Van Hulle, 2004; Hennrichs, 2005).
Nó là đủ để tham khảo các khu vực công cụ tài chính định giá và đã kết luận có liên quan có
thể được thực hiện. Như một nguyên tắc đánh thuế, sự đơn giản không được nhìn thấy chỉ tĩnh
và cũng năng động. Vì vậy, câu hỏi tiếp theo sẽ được, nếu IAS / IFRS có khả năng lái xe qua
những thay đổi có thể được thực hiện sau đó để đạt được sự đơn giản hóa hơn, hoặc cho các
xu hướng toàn cầu của nền kinh tế, sự gia tăng đến một mức độ phức tạp.
Một nguyên tắc thức theo đó có thể được thực hiện quan sát. nhưng có lẽ chỉ một phần. là
khẩu phần chi phí lợi ích, phân tích lợi nhuận của IAS / IFRS như một hệ thống thuế. Không
có tài liệu tham khảo có thể được thực hiện về những lợi ích, nhưng nếu chúng ta dừng lại để
phân tích chi phí. việc thực hiện IAS / IFRS yêu cầu chi phí cao ( Ballwieser, 2006;. Niehus
2006). Lĩnh vực này đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu dựa trên các bài kiểm tra thực nghiệm về
sự thống nhất giữa các nguyên tắc kế toán thuế và thực hiện các IFRS như cơ sở thuế. Chỉ sau
phương pháp này, nó có thể kết luận có hay không quy định này là phù hợp cho mục đích này.
5. KẾT LUẬN
Trong bài này, chúng tôi đã phân tích mối quan hệ giữa kế toán và thuế từ quan điểm ảnh
hưởng trong sự hài hòa kế toán của EU. Phân tích của chúng tôi được dựa trên các xung đột
giữa nguyên tắc thận trọng, trung thực và hợp lý đóng vai trò là hạng yếu tố chính của mục
tiêu bất tương quan hóa.
Dựa trên các tài liệu, phân tích nghiên cứu mối quan hệ giữa kế toán và thuế từ quan điểm của
sự phụ thuộc so với sự độc lập. Nghiên cứu nhấn mạnh rằng, sự phụ thuộc chiếm hơn thuế
hoặc thuế về kế toán nó không phải là trong thực tế không mong muốn, nhưng các pha của
quan điểm này cho rằng trong trường hợp này theo nguyên tắc trung thực và hợp xem nó
không được tôn trọng.
Nghiên cứu cũng cho thấy những ví dụ về hệ thống kế toán mà nó là một liên kết chặt chẽ
giữa kế toán và thuế, trong lĩnh vực này là trường hợp của Đức là đại diện.
Mặt khác, nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng chính liên kết thuế kế toán đã có hơn hài hòa kế
toán của EU. Trong lĩnh vực này đã được đề cập ba khoảnh khắc quan trọng mà liên kết này
được coi là một trở ngại trong quá trình hài hòa kế toán : (1) việc thực hiện Chỉ thị của EU và
các tranh chấp giữa Đức, nơi nó là một liên kết chặt chẽ giữa kế toán và thuế, nguyên tắc
chính của kế toán là nguyên tắc thận trọng và Vương quốc Anh mà bị chi phối bởi các quy tắc
kế toán linh hoạt hơn và nơi nguyên tắc thực và hợp lý có tác động quan trọng trong báo cáo
tài chính, (2 ) thực hiện Las / tôi FRS, mà thực hiện một phân chia giữa cá nhân và báo cáo tài
chính hợp nhất và cũng dẫn đến những thay đổi trên cơ sở tính thuế trong trường hợp của các
công ty từ các nước có liên kết về thuế kế toán chiếm ưu thế, (3) là hiệu ứng của bắt buộc áp
dụng của Las / FRS tôi trong trường hợp báo cáo tài chính hợp nhất ( từ ngày 01 tháng 1 năm
2005 ), việc thực hiện đầy đủ các quy định này là không thể trong những nước có liên kết về
thuế kế toán tồn tại.
Cũng dựa trên các liên kết thuế kế toán là trở ngại chính của sự hài hòa kế toán, IASB được
thông qua trong năm 2009 một phiên bản đơn giản hóa của toàn Las / Tôi FRS cho các nhu
cầu của doanh nghiệp nhỏ ( IFRS cho SMEs) là trong thời điểm này theo phân tích trong các
nước EU. Các tiêu chuẩn này (IFRS cho SMEs) muốn được là một thay thế cho Chỉ thị Kế
toán EU và một giải pháp cho một nền độc lập của chiếm hơn thuế trong trường hợp các
doanh nghiệp nhỏ mà thực tế chi phối bởi các liên kết thuế kế toán.
Ngoài ra, sự liên quan của IFRS như cơ sở thuế đã đề cập đến, mặt hàng này được coi là một
điểm quan trọng của cuộc tranh luận, mà phải được phân tích như tiếp tục nghiên cứu, kiểm
tra thực nghiệm được chào đón trong trường hợp này.
LỜI CẢM ƠN :
Công trình này được hỗ trợ bởi CNCSIS
Chiến lược hành động quốc gia_ UEFISCSU, số dự án PN II -RU TE_341/2010 của IFRS cho
doanh nghiệp nhỏ ở Romania ".