190
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRƯƠNG THỊ HỒNG NGA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2015 LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HÀ NỘI - 2018

ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN … Truong... · tiếp trong các ngành then chốt thuộc lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp; vấn đề

  • Upload
    others

  • View
    9

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRƯƠNG THỊ HỒNG NGA

ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG

LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2015

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

HÀ NỘI - 2018

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRƯƠNG THỊ HỒNG NGA

ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG

LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2015

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Mã số: 62 22 03 15

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. TRẦN THỊ THU HƯƠNG

2. TS. PHẠM VĂN BÚA

HÀ NỘI - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực,

có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả luận án

Trương Thị Hồng Nga

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 8

1.1. Các công trình khoa học liên quan đến đề tài luận án 8

1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình liên quan đến đề

tài luận án và những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu 24

Chương 2: ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG VẬN DỤNG CHỦ

TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TỪ

NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2005 29

2.1. Các yếu tố tác động đến quá trình phát triển nguồn nhân lực của

tỉnh Vĩnh Long 29

2.2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long về phát triển

nguồn nhân lực từ năm 2000 đến năm 2005 46

Chương 3: ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN

NGUỒN NHÂN LỰC TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2015 78

3.1. Yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và chủ trương của Đảng về

đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực trong tình hình mới 78

3.2. Chủ trương và chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long đẩy mạnh

phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu mới 86

Chương 4: NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM 112

4.1. Nhận xét về quá trình lãnh đạo phát triển nguồn nhân lực của

Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long (2000 - 2015) 112

4.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu 130

KẾT LUẬN 147

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152

PHỤ LỤC 175

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

CB,CC,VC Cán bộ, công chức, viên chức

CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

GD-ĐT Giáo dục và Đào tạo

HĐND Hội đồng Nhân dân

KH-CN Khoa học - công nghệ

KT-XH Kinh tế xã hội

NNL Nguồn nhân lực

UBND Ủy ban Nhân dân

XHCN Xã hội chủ nghĩa

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nguồn nhân lực là nguồn tài nguyên quý giá nhất so với tất các các nguồn

tài nguyên khác, là nhân tố cơ bản quyết định sự phát triển của lực lượng sản

xuất trong mọi thời đại.

Vai trò của nguồn nhân lực (NNL) càng đặc biệt quan trọng khi bước

vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) trong tình

trạng nền kinh tế phát triển chưa bền vững, tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào

tăng đầu tư và khai thác nguồn tài nguyên, năng suất lao động xã hội còn thấp,

chất lượng NNL chưa cao và còn nhiều hạn chế so với các nước trong khu vực.

Do đó, để tiếp cận xu thế toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ

(KH-CN) phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành kinh tế tri thức,

từng bước đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới. Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX (2001) của Đảng chỉ rõ:

Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết

định sự phát triển đát nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo. Bồi

dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn

dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp

luật, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo

hèn. Đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng

nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý

thức vươn lên về khoa học và công nghệ. Xây dựng đội ngũ công nhân

lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà kinh

doanh, nhà quản lý.... phát huy mọi tiềm năng của các tập thể và cá

nhân phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước [30, tr.202-203].

Để thực hiện mục tiêu đó, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

(2001 - 2010) Đảng đã đề ra khâu đột phá then chốt để làm chuyển động toàn

bộ tình hình kinh tế - xã hội (KT-XH) là: “Tạo bước chuyển mạnh về phát triển

nguồn nhân lực, trọng tâm là giáo dục và đạo tạo, khoa học và công nghệ” [30,

tr.206] nhằm phát triển nhanh NNL.

2

Kế thừa và phát triển quan điểm phát triển NNL các đại hội trước và thực

tiễn sau 25 đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011) của Đảng xác

định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực,

nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và

toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với

phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ” [37, tr.78] được khẳng định là khâu

đột phá thứ hai trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế phát triển về quy mô, mức độ

và hình thức đan xen phức tạp, đặc biệt là quá trình quốc tế hóa sản xuất và phân

công lao động diễn ra ngày càng sâu rộng.

Là tỉnh đồng bằng nằm giữa hai nhánh sông Cửu Long (sông Tiền và

sông Hậu), nhìn bao quát tỉnh Vĩnh Long như hình con thoi nằm ở vị trí trung

tâm của đồng bằng hạ lưu sông Mê Kông, địa hình chia cắt bởi sông rạch chằng

chịt, là tỉnh đầu mối giao thông nối liền giữa hai trung tâm kinh tế lớn của vùng

Nam Bộ là thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ. Là tỉnh có lịch sử

hình thành sớm nhất của khu vực, với đặc điểm của vùng đất “địa linh nhân

kiệt” đã sinh ra những nhân tài, những người hiền tài có công với nhân dân với

Tổ quốc, nhưng là tỉnh có gánh nặng về tỷ lệ dân số đứng hàng thứ hai so với

các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (sau tỉnh Tiền Giang). Theo thống kê toàn

tỉnh Vĩnh Long có 1.045.037 người với mật độ dân số 685 người/km2 [20].

Trong đó, dân cư sinh sống ở thành thị chiếm tỷ lệ 16,87% và dân cư sinh sống

ở nông thôn chiếm 83,13%, nhân dân chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa nước,

hoa màu, đánh bắt thủy sản và nguồn lực lao động trở thành thế mạnh của tỉnh

để phát triển KT-XH [20].

Quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng bước vào thời kỳ đổi

mới và hội nhập quốc tế, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long chú trọng đến sự nghiệp phát

triển KT-XH ở địa phương, trong đó tỉnh đã tập trung vốn cho xây dựng cơ sở

vật chất, đào tạo NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long

chú trọng phát triển NNL, trong đó tập trung vào lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng

để hình thành đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức, viên chức, đội ngũ

3

trí thức và lực lượng lao động có tay nghề cao trên các lĩnh vực đời sống xã hội

nhằm thực hiện mục tiêu phát triển KT-XH ở địa phương. Phấn đấu đưa Vĩnh

Long trở thành một tỉnh phát triển trung bình khá trong khu vực vào năm 2015

như Nghị quyết Đại hội IX Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long (2010 - 2015) đã nêu.

Tuy nhiên, sau gần 30 năm đổi mới, NNL của tỉnh Vĩnh Long vẫn chưa

đáp ứng với yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, NNL địa

phương vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội bền vững, NNL

vẫn còn nhiều bất cập, thiếu về số lượng, yếu về chất lượng đặc biệt là tình

trạng thiếu NNL có trình độ chuyên môn cao thuộc các nhóm ngành khoa học

- kỹ thuật, thiếu các chuyên gia đầu ngành trên các lĩnh vực trọng yếu trong

các cơ quan nhà nước, cơ cấu nguồn lực cán bộ, công chức, viên chức là lãnh

đạo, quản lý chưa phù hợp, chưa linh hoạt trong công tác đào tạo, bồi dưỡng

quy hoạch cán bộ; thiếu lực lượng lao động công nhân lành nghề phục vụ trực

tiếp trong các ngành then chốt thuộc lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp; vấn đề

giải quyết việc làm, chuyển đổi ngành nghề lao động chuyên môn kỹ thuật khu

vực nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế, mất cân đối và chưa quan tâm đúng

mức; dự báo khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hiện tại còn rất nhiều khó

khăn do tình trạng bất cập nêu trên.

Bởi vậy, đi sâu nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long về

phát triển NNL trong những năm đầu thế kỉ XXI là nhằm làm sáng tỏ tính

đúng đắn, sáng tạo và những thành công của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long trong

việc vận dụng chủ trương của Đảng về phát triển NNL, qua đó chỉ rõ những

hạn chế, khiếm khuyết để góp phần tổng kết thực tiễn, đúc kết kinh nghiệm

thực tiễn có giá trị về công tác này trong những năm tiếp theo là một việc

làm cần thiết.

Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề nghiên cứu “Đảng bộ tỉnh

Vĩnh Long lãnh đạo phát triển nguồn nhân lực từ năm 2000 đến năm 2015” làm

đề tài Luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

4

2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án

2.1. Mục đích

Làm sáng tỏ quá trình lãnh đạo phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh Vĩnh

Long từ năm 2000 đến năm 2015, từ đó đúc kết những kinh nghiệm có thể vận

dụng vào thực tiễn phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh trong thời gian tới có hiệu

quả hơn.

2.2. Nhiệm vụ

- Làm rõ những yếu tố tác động đến quá trình phát triển NNL của tỉnh

Vĩnh Long trong 15 năm từ năm 2000 đến năm 2015.

- Hệ thống, khái quát hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước

về phát triển NNL và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long về phát triển NNL

từ năm 2000 đến năm 2015.

- Làm rõ quá trình chỉ đạo thực hiện phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh

Vĩnh Long từ năm 2000 đến năm 2015.

- Đánh giá khách quan những thành tựu đạt được và hạn chế, khiếm

khuyết, nguyên nhân thành công và hạn chế của quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh

Long lãnh đạo phát triển NNL từ năm 2000 đến năm 2015.

- Đúc kết những kinh nghiệm từ thực tiễn hoạch định chủ trương và tổ

chức chỉ đạo phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long qua ba nhiệm kỳ đại

hội Đảng bộ tỉnh từ năm 2001 đến năm 2015.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng

Quá trình hoạch định chủ trương và chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long

về phát triển NNL.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung:

Nguồn nhân lực là khái niệm rộng bao gồm toàn bộ dân cư có khả

năng lao động, có trình độ chuyên môn được phân bố vào ngành nghề, lĩnh

vực, khu vực... Phát triển NNL là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính

5

sách và biện pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đặc biệt về năng

lực, trình độ, khả năng làm việc nhằm đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực cho

sự phát triển KT-XH trong từng giai đoạn phát triển. Trong đó, chất lượng

NNL được đánh giá bằng các chỉ tiêu: một là, trình độ học vấn của nguồn

nhân lực; hai là, trình độ chuyên môn - kỹ thuật của NNL. Như vậy, một

trong những trọng tâm để phát triển NNL là thông qua giáo dục và đào tạo để

tạo ra một lực lượng lao động có khả năng đáp ứng nhu cầu của một quốc gia,

một vùng, một ngành hay một tổ chức nào đó. Do vậy, trong phạm vi nghiên

cứu luận án tập trung đi sâu nội dung về chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng

bộ tỉnh Vĩnh Long về phát triển giáo dục, đào tạo thông qua cơ cấu về số

lượng và chất lượng nguồn lực thuộc các ngành nghề, lĩnh vực… cho các đối

tượng ưu tiên để phát triển và thông qua chương trình dự án, đề án, kế hoạch,

cơ chế chính sách…

Nhóm đối tượng luận án tập trung khảo sát: một là, NNL cán bộ, công

chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống chính trị; hai là,

NNL lao động chuyên môn kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.

- Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo trong 15 năm,

qua 03 nhiệm kỳ Đại hội của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long từ khóa VII năm 2001 đến

kết thúc nhiệm kỳ Đại hội của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long khóa IX năm 2015. Luận

án lấy mốc nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ lần thứ VIII (2005) chia thành hai giai

đoạn: Giai đoạn từ năm 2000 đến 2005 và giai đoạn từ năm 2005 đến 2015.

- Không gian: Công tác phát triển NNL trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long.

4. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai

trò NNL, phát triển NNL trong phát triển KT-XH, đặc biệt là quan điểm

của Đảng về phát triển NNL gắn với công tác đào tạo NNL trong công cuộc

đổi mới.

6

4.2. Nguồn tư liệu

- Dựa vào hệ thống các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương Đảng,

của Nhà nước; các văn kiện của tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân (UBND), Hội đồng

nhân dân (HĐND), các sở, ban, ngành tỉnh Vĩnh Long đề cập đến phát triển

NNL nói chung và lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng phát triển NNL trong thời kỳ đổi

mới. Đặc biệt luận án tập trung nghiên cứu giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2015

qua các văn kiện của ba kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long, các Chương trình

hành động của tỉnh ủy, UBND, HĐND tỉnh như: Chương trình hành động của

tỉnh ủy Vĩnh Long số: 09-CTr/TU ngày 08/11/2011 về phát triển và nâng cao

chất lượng NNL giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020; Quyết định

số: 1375/QĐ-UBND, ngày 28/8/2012 của Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long về

việc ban hành Kế hoạch phát triển và nâng cao chất lượng NNL giai đoạn 2012-

2015 và định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số: 80/NQ-HĐND ngày

5/12/2013 của HĐND tỉnh Vĩnh Long về tiếp tục đào tạo cán bộ có trình độ thạc

sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài của tỉnh Vĩnh Long đến năm 2020...

- Các công trình khoa học của tập thể, cá nhân liên quan đến vai trò NNL,

phát triển NNL và lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng phát triển NNL nói chung và

Vĩnh Long nói riêng.

4.3. Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận án chủ yếu sử

dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic là chủ yếu và tích hợp hai

phương pháp đó để làm rõ nội hàm khái niệm “phát triển nguồn nhân lực” trên

phạm vi nghiên cứu của tổng thể lực lượng lao động theo trình độ đào tạo cho

các ngành nghề, lĩnh vực có trình độ chuyên môn từ trung cấp nghề đến sau đại

học thuộc các đối tượng là NNL cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan

nhà nước và NNL lao động chuyên môn kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp,

nông thôn ở tỉnh Vĩnh Long. Ngoài ra, tác giả đã vận dụng một số phương khác

như: phương pháp thống kê, khảo sát, phân tích, tổng hợp...nhằm làm nổi bật

thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long từ năm

2000 đến năm 2015.

7

5. Đóng góp của luận án

- Góp phần tái hiện một cách có hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh

Long lãnh đạo phát triển NNL từ năm 2000 đến năm 2015.

- Bước đầu nêu lên những nhận xét trong lãnh đạo phát triển NNL và rút

ra các kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh đạo phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh Vĩnh

Long từ năm 2000 đến năm 2015.

- Kết quả nghiên cứu là góp thêm tài liệu tham khảo cho đảng bộ các tỉnh

đồng bằng sông Cửu Long nói chung và Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long nói riêng tiếp

tục bổ sung chủ trương, chính sách phát triển NNL trong thời gian tới có hiệu

quả hơn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

6.1. Ý nghĩa lý luận

Giải quyết những mục tiêu cơ bản nhất về tính cấp thiết phải xây dựng và

phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Vĩnh Long; đúc kết những kinh nghiệm có ý

nghĩa về lý luận và thực tiễn trong chính sách phát triển nguồn nhân lực cả nước

nói chung.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Qua quá trình thực tiễn về nguồn nhân lực tỉnh Vĩnh Long sẽ là kinh

nghiệm tham khảo không chỉ ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, mà còn có ý

nghĩa rất lớn đối với một tỉnh mới tái lập như Vĩnh Long cần được tổng kết và

bổ sung.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục công trình khoa học của tác giả

đã công bố liên quan đến luận án, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận

án được kết cấu thành 4 chương, 8 tiết.

8

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

Vấn đề NNL, phát triển NNL nói chung và lĩnh vực đào tạo NNL nói riêng

là vấn đề vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn xuất phát từ yêu cầu phát

triển của đất nước trong công cuộc đổi mới, vì vậy có nhiều công trình của tập thể

và cá nhân đề cập, khai thác từ nhiều góc độ khác nhau. Qua quá trình khảo cứu

các công trình khoa học liên quan đến đề tài luận án, có thể chia các nhóm công

trình liên quan đến NNL, phát triển NNL nói chung, công tác đào tạo NNL và vấn

đề phát triển NNL ở tỉnh Vĩnh Long như sau:

1.1.1. Các công trình khoa học nghiên cứu về nguồn nhân lực, phát

triển nguồn nhân lực nói chung

* Sách đã xuất bản

Cuốn sách "Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn

nước ta" của Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm [133]. Các tác giả đã giới thiệu khái quát

về vai trò NNL trong thời kỳ đổi mới và kinh nghiệm phát triển NNL ở khía cạnh

phát triển giáo dục của một số nước trên thế giới; đồng thời nêu lên chính sách

phát triển NNL dưới góc độ phát triển giáo dục Việt Nam.

Cuốn sách “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của Mai Quốc Chánh [14]. Tác giả đã làm

rõ vai trò của NNL, sự cần thiết phải nâng cao chất lượng NNL và thực trạng

chất lượng NNL đối với sự nghiệp CNH, HĐH. Đồng thời tác giả cũng đã trình

bày những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng NNL trong đó đặc biệt nhấn

mạnh đến yêu cầu xây dựng NNL là đội ngũ trí thức - một vấn đề cấp bách cho

công cuộc CNH, HĐH đất nước;

Cuốn sách Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo kinh

nghiệm Đông Á của Lê Thị Ái Lâm [59]. Tác giả tập trung khai thác kinh nghiệm

9

phát triển NNL của một số nước Đông Á và khẳng định vai trò của giáo dục và

đào tạo luôn là nhân tố quyết định cho sự phát triển NNL của một số quốc gia tiêu

biểu như: Trung Quốc thông qua vai trò của nền giáo dục đã đem lại những thành

tựu rực rỡ của những chính sách cải cách và mở cửa với thế giới bên ngoài, là cơ

sở để Trung quốc tập trung phát triển NNL đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc

tế và hiện đại hóa đất nước; Nhật Bản chú trọng giáo dục và đào tạo để tập trung

phát triển NNL có tính năng động, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, khả năng

tư duy và làm việc độc lập, khả năng giao tiếp để đáp ứng những đòi hỏi của thế

giới và xu thế cạnh tranh, hợp tác toàn cầu mà Nhật Bản đóng vai trò then chốt

trong việc chinh phục đỉnh cao của khoa học công nghệ; Bí quyết của Hàn Quốc

là dựa vào giáo dục để phát triển NNL, giáo dục là điều kiện để đưa Hàn Quốc từ

một quốc gia không giàu về tài nguyên thiên nhiên trở thành quốc gia có sức ảnh

hưởng trong khu vực, là nhân tố để nâng cao chất lượng NNL và chính sách về

giáo dục luôn được xây dựng phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế Hàn Quốc.

Cuốn sách “Nhân lực Việt Nam trong chiến lược kinh tế 2001 - 2010” của

Nguyễn Văn Đễ, Bùi Xuân Trường và Nguyễn Kim Liệu [38]. Đây là công trình

tập hợp các bài viết về vai trò của NNL Việt Nam trong chiến lược phát triển

kinh tế 2001 - 2010. Cuốn sách xoay quanh nội dung phát triển NNL do Đại hội

IX (2001) của Đảng đề ra về nguồn lực con người yếu tố cơ bản để phát triển xã

hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. NNL là nhân tố quyết định sự phát

triển đất nước thời kỳ CNH, HĐH đất nước.

Cuốn sách “Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận

thực tiễn” của Viện Khoa học giáo dục Việt Nam [216]. Là cuốn sách chuyên

khảo đã làm rõ những vấn đề về chính sách, giải pháp và định hướng phát triển

NNL ở Việt Nam. Đồng thời, cuốn sách còn trình bày những đặc điểm về công tác

quản lý NNL trong một số ngành, vùng đặc thù tiêu biểu trong cả nước.

Cuốn sách Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước của Đoàn Văn Khái [53]. Tác giả lý giải khá sâu sắc về vai trò của

nguồn lực con người là nhân tố quyết định trong quá trình tiến hành sự nghiệp

10

CNH, HĐH và hội nhập quốc tế của đất nước. Từ đó đánh giá thực trạng khách

quan nguồn lực con người của Việt Nam, đưa ra những định hướng và giải pháp

để xây dựng nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của đất nước trong bối cảnh

tình hình mới.

Cuốn sách “Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng” của

Trần Văn Tùng [135]. Tác giả chủ yếu bàn về thực trạng chất lượng đào tạo, bồi

dưỡng NNL tài năng của đất nước, những bất cập quá trình sử dụng NNL tài năng.

Tác giả đề cập giải pháp thiết thực, nhằm đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng NNL tài

năng của đất nước có hiệu quả.

Cuốn sách “Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hóa, hiện đại

hóa” của Vũ Bá Thể [83]. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm phát triển NNL

một số nước trên thế giới và thực trạng NNL ở Việt Nam, tác giả đưa ra quan

điểm về phát triển NNL, vai trò của NNL đối với tăng trưởng kinh tế và sự nghiệp

CNH, HĐH, đồng thời đưa ra định hướng và giải pháp nhằm phát huy nguồn lực

con người ở nước ta hiện nay.

Cuốn sách “Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước” của Nguyễn Thanh [81]. Tác giả luận giải phát triển NNL là yếu tố

quyết định thành công sự nghiệp CNH, HĐH, đồng thời nêu lên thực trạng về phát

triển NNL có chất lượng, từ đó đưa ra một số định hướng chủ yếu để phát triển

NNL cho CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.

Cuốn sách Phát triển văn hóa con người và nguồn nhân lực thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Phạm Minh Hạc [45]. Tác giả tập trung

nghiên cứu chủ yếu về con người trong bối cảnh sự nghiệp CNH, HĐH đất

nước; những vấn đề tác động đến sự phát triển toàn diện của con người và NNL

như: sức khỏe, trí tuệ, y tế, giáo dục và đào tạo,... Từ đó đề ra giải pháp chiến

lược nhằm phát triển toàn diện con người nói chung và NNL nói riêng trong

công cuộc CNH, HĐH.

Cuốn sách Đào tạo và sử dụng nhân lực trong nền kinh tế thị trường ở Việt

Nam của Phan Văn Kha [52]. Cuốn sách đã luận giải về vai trò quan trọng của

11

việc đào tạo và sử dụng nhân lực trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

(XHCN) ở Việt Nam; xác định rõ cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa đào tạo với sử

dụng nhân lực trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế;

Đồng thời, cuốn sách đã khái quát thực trạng giữa đào tạo với sử dụng nhân lực của

Việt Nam và một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả hơn giữa công tác đào tạo

và công tác sử dụng nhân lực ở các cấp, các hệ đào tạo ở Việt Nam.

Cuốn sách Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI của

Trần Khánh Đức [41]. Tác giả trình bày một số vấn đề lý luận và thực tiễn của

giáo dục, quản lý giáo dục và vai trò của giáo dục đối với phát triển NNL; những

vấn đề triết lý xã hội khi bàn đến nền giáo dục hiện đại; lý thuyết về hệ thống giáo

dục hiện đại gắn với nhà trường và những kịch bản nhà trường tương lai (như mô

hình sư phạm kỹ thuật và công nghệ dạy học, chương trình giáo dục hiện đại, đo

lường và đánh giá kết quả học tập,...) nhằm tạo điều kiện để nền giáo dục làm tốt

chức năng đào tạo, bồi dưỡng NNL cho đất nước trong thế kỷ XXI.

Cuốn sách Nguồn lực trí tuệ Việt Nam - lịch sử, hiện trạng và triển vọng

của Nguyễn Văn Khánh [54]. Tác giả tập trung trình bày bức tranh tổng thể về

tình hình, thực trạng và triển vọng nguồn lực trí tuệ Việt Nam được đóng góp

bằng thành tựu của tri thức trong suốt chiều dài lịch sử; phân tích quá trình xây

dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ, những yếu tố thúc đẩy, cản trở việc phát huy

nguồn lực; từ đó tác giả đề xuất những giải pháp và khuyến nghị về mặt chính

sách đối với Đảng và Nhà nước nhằm phát triển nguồn lực trí tuệ con người Việt

Nam phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước thế kỷ XXI.

Cuốn sách Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, nhân tài - Một số

kinh nghiệm của thế giới của Tạ Ngọc Tấn [79]. Tác giả đã tập trung trình bày vấn

đề NNL và nhân tài thông qua vai trò của phát triển giáo dục và đào tạo (GD-ĐT) ở

một số nước tiêu biểu trên thế giới. Từ kinh nghiệm của thế giới, tác giả đã khẳng

định phát triển giáo dục và đào tạo là vấn đề ưu tiên hàng đầu trong cơ chế hoạch

định chính sách phát triển NNL, nhân tài ở Việt Nam. Đồng thời từ những kinh

nghiệm, bài học thành công, thất bại của thế giới, tác giả đã tập trung phân tích về

12

giáo dục và đào tạo NNL, nhân tài ở Việt Nam và vận dụng kinh nghiệm thế giới để

thực hiện thành công sự nghiệp GD-ĐT trong những giai đoạn tiếp theo.

* Các luận án tiến sĩ

Luận án: Vai trò nhà nước trong việc tạo tiền đề nguồn nhân lực cho công

nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta của Hà Quý Tình [90], đã nhấn mạnh đến vai

trò của Nhà nước trong dự báo, quy hoạch nguồn nhân lực; đặc biệt tác giả nhấn

mạnh đến vai trò của nhà nước trong vấn đề mở rộng quy mô, chương trình, hình

thức đào tạo để phát triển NNL cho đất nước.

Luận án: Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa ở nước ta - đặc điểm và xu hướng phát triển của Nguyễn Ngọc Sơn

[77]. Tác giả đã làm rõ thực trạng của việc sử dụng, phát triển NNL ở nông thôn

nước ta từ năm 1986 đến 2000. Nêu lên đặc điểm và xu hướng phát triển NNL ở

nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đề xuất những giải pháp

chủ yếu có tính khả thi nhằm phát huy hiệu quả NNL nông thôn trong quá trình

CNH, HĐH đất nước.

Luận án: Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của giáo dục - đào tạo đối với

phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước

ta hiện nay của Nguyễn Thanh [80] đã khẳng định phát triển NNL là yếu tố quyết

định sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nướ, đồng thời để phát triển NNL

có chất lượng thì phải xác định giáo dục và đào tạo làm “quốc sách hàng đầu”, là điều

kiện tiên quyết để nâng cao chất lượng NNL. Trên cơ sở đó, luận án đã phân tích thực

trạng và đề ra một số định hướng chủ yếu của việc phát triển NNL ở nước ta.

Luận án: Những giải pháp phát triển đào tạo nghề góp phần đáp ứng nhu

cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Phan Chính Thức

[89] đã nêu rõ vai trò của đào tạo nghề đối với phát triển NNL và qua khảo sát

thực tế ở các cơ sở dạy nghề trong cả nước, tác giả cũng chỉ rõ những hạn chế về

vấn đề dạy nghề cho lực lượng lao động; đề xuất những giải pháp phát triển đào

tạo nghề góp phần đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH.

13

Luận án: Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quá trình công nghiệp hoá,

hiện đại hoá nông thôn Việt Nam của Trần Thanh Bình [12] đã đi sâu vào cơ sở

lý luận và thực tiễn về đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quá trình CNH, HĐH

nông thôn. Nêu thực trạng đào tạo NNL cho nông nghiệp và nông thôn và các

giải pháp hoàn thiện công tác đào tạo này.

Luận án: Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực khoa học

công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa của Phạm Văn Quý

[64] đã đánh giá thực trạng NNL KH-CN ở Việt Nam hiện nay; đề xuất phương

hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển NNL KH-CN đáp ứng yêu cầu của

thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Trong đó, tác giả nhấn mạnh đến giải pháp giáo

dục, đào tạo.

Luận án: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri thức ở

Việt Nam của Lê Thị Ngân [63] đã trình bày những vấn đề lý luận về NNL, chất

lượng NNL, nâng cao chất lượng NNL tiếp cận kinh tế tri thức; những tác động

tới NNL của quốc gia và kinh nghiệm thực tiễn của một số nước, khẳng định

chất lượng NNL là động lực cho quá trình CNH, HĐH của Việt Nam. Trên cơ sở

đó, tác giả phân tích, đánh giá thực trạng của NNL hiện nay, đề xuất giải pháp và

phương hướng nhằm khắc phục những hạn chế về chất lượng của NNL, tạo điều

kiện để tiếp cận nền kinh tế tri thức ở Việt Nam trong thời gian tới.

Luận án: Phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá

nông nghiệp, nông thôn của Đào Quang Vinh [218] trình bày kết quả nghiên cứu

một số vấn đề lý luận và thực tiễn về NNL cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông

thôn; đồng thời nêu thực trạng phát triển NNL cho nông nghiệp, nông thôn Việt

Nam và những phương hướng, giải pháp chủ yếu để phát triển NNL cho CNH,

HĐH nông nghiệp, nông thôn.

Luận án: Nghiên cứu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt Nam

của Bùi Tôn Hiến [47], tập trung khái quát lý luận về việc làm của lao động qua

đào tạo nghề; làm rõ thực trạng cơ hội việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở

Việt Nam khi bước vào công cuộc đổi mới, từ đó luận giải về mối quan hệ biện

14

chứng giữa việc làm với đào tạo nghề và đề xuất những giải pháp cho việc đào tạo

nghề và giải quyết việc làm trước yêu cầu của đất nước khi đẩy mạnh sự nghiệp

CNH, HĐH...

* Chương trình nghiên cứu và kỷ yếu hội thảo khoa học

Chương trình KH-CN cấp Nhà nước: Đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu

công nghiệp hoá hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hoá và

hội nhập quốc tế của Nguyễn Minh Đường, Phan Văn Kha [42]: Đề tài đã tập

trung làm rõ cơ sở lý luận về đào tạo nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trường,

toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Đặc biệt công trình nhấn mạnh đặc điểm thực

trạng lực lượng lao động và đào tạo nhân lực để có cái nhìn đúng đắn trong

chiến lược đào nhân lực ở Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH.

Kỷ yếu Hội thảo Đào tạo nghề giữ vai trò trọng tâm trong chính sách phát

triển của Học viện Chính sách và Phát triển [49], các chuyên luận tập trung phân

tích những nhân tố tác động đến công tác đào tạo nghề ở Việt Nam, chỉ rõ trước

yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, đào tạo nghề có vai trò

trọng tâm trong chính sách phát triển KT-XH và bảo đảm an ninh, quốc phòng.

Đồng thời, đưa ra các giải pháp chủ yếu đề thực hiện công tác đào tạo nghề đáp

ứng với nhu cầu nâng cao chất lượng NNL của đất nước.

* Các công trình tiêu biểu đã được đăng tải trên các tạp chí

Có thể kể đến các công trình như: Cơ hội và thách thức đối với việc đào

tạo, phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế của

Trương Thu Hà [44]; Thành tựu bước đầu và những vấn đề cấp thiết đặt ra

trong đào tạo nhân lực ở nước ta của Phạm Tất Dong [21]; Giáo dục - đào tạo

với sự phát triển nguồn nhân lực” của Trần Thanh Đức [40]; Về công tác đào

tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ đổi mới của Nguyễn Thắng Lợi [61]; Đào tạo

và sử dụng đội ngũ trí thức tinh hoa Việt Nam 30 năm đổi mới - Thành tựu và

những vấn đề đặt ra của Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Cẩm Ngọc [55];...

Hầu hết các bài viết của các tác giả đều đề cập đến vai trò của NNL, của

công tác đào tạo NNL và làm rõ những cơ sở khoa học để chỉ ra thực trạng đào

15

tạo NNL nhằm xây dựng những giải pháp về mối quan hệ giữa GD-ĐT với phát

triển NNL một khi nó đã trở thành vấn đề quyết sách liên quan đến phát triển

NNL ở Việt Nam trong thế kỷ XXI. Đồng thời, cung cấp khá đầy đủ các quan

điểm nhận định về tình hình, thực trạng và giải pháp chủ yếu trong đào tạo NNL

phục vụ cho CNH, HĐH từ việc lập kế hoạch, dự báo, tạo nguồn đến cải cách

giáo dục trong lĩnh vực dạy nghề và đào tạo NNL. Vì vậy, các công trình đều

khẳng định đào tạo NNL đáp ứng thời kỳ mới của đất nước là công việc chung

của toàn xã hội.

1.1.2. Các công trình khoa học nghiên cứu về nguồn nhân lực, phát

triển nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực trên các lĩnh vực và vùng

miền, địa phương

* Sách đã xuất bản

Cuốn sách “Kinh nghiệm của một số nước về phát triển giáo dục và đào

tạo, khoa học và công nghệ gắn với xây dựng đội ngũ trí thức” của Viện Khoa

học giáo dục Việt Nam, xuất bản năm 2008 [217]. Đây là cuốn sách chuyên

khảo khẳng định vai trò của phát triển GD-ĐT, KH-CN luôn gắn liền với xây

dựng đội ngũ trí thức, là quá trình được thực tiễn kiểm nghiệm và chứng

minh, là cơ sở để mỗi quốc gia trên thế giới đúc rút kinh nghiệm để vận dụng

tốt hơn trong phát triển NNL đặc biệt là đội ngũ trí thức. Cuốn sách nêu lên

kinh nghiệm của các nước tiêu biểu như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Cộng hòa Liên

bang Đức là những nước phát triển hiện đại, có trình độ khoa học kỹ thuật cao

và có quá trình CNH, HĐH lâu dài; Hàn Quốc và Singapo là những nước

công nghiệp mới, đã vươn lên mạnh mẽ trở thành những nước phát triển mới;

Trung Quốc là nước có nhiều đặc điểm tương đồng với Việt Nam đang có tốc

độ tăng trưởng nhanh và sẽ trở thành một trong ba nền kinh tế lớn nhất thế

giới. Vì vậy, đây là một cuốn sách có giá trị tham khảo cho các nhà nghiên

cứu và hoạch định chính sách ở Việt Nam về phát triển NNL thông qua vai trò

GD-ĐT, KH-CN với xây dựng đội ngũ trí thức của từng nước.

16

Cuốn sách Phát triển nguồn nhân lực công nghiệp Việt Nam trong quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và vai trò của công đoàn của Lê

Thanh Hà [43]. Tác giả đã đề xuất các giải pháp phát triển NNL công nghiệp

Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của công đoàn trong

việc phát triển NNL trong bối cảnh tình hình mới.

Cuốn sách Giáo dục nghề nghiệp cho học sinh phổ thông nhằm góp phần

phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh hội nhập quốc tế của Bùi Đức Tú [132].

Tác giả đã đi sâu phân tích vai trò giáo dục nghề nghiệp cho học sinh phổ thông là

một trong những bước đi căn bản, mang tính nền tảng, góp phần định hướng nghề

nghiệp quan trọng cho việc xây dựng NNL đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy

mạnh đổi mới toàn diện và hội nhập quốc tế. Từ đó, tác giả đã đưa ra một số giải

pháp cụ thể, như giáo dục nghề nghiệp cho học sinh phổ thông theo hướng gắn với

KT-XH, tổ chức hoạt động giáo dục nghề phổ thông gắn với đặc điểm cụ thể của

sự phát triển KT-XH vùng miền...

* Các luận án tiến sĩ

Luận án: Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa ở nước ta - đặc điểm và xu hướng phát triển của Nguyễn Ngọc Sơn [77],

đã phác họa thực trạng của việc sử dụng, phát triển NNL ở nông thôn nước ta

từ năm 1986 đến 2000; nêu lên đặc điểm và xu hướng phát triển NNL ở nước

ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; đề xuất những giải pháp chủ

yếu có tính khả thi nhằm phát huy hiệu quả NNL nông thôn trong CNH, HĐH

đất nước.

Luận án: Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng

bằng sông Cửu Long của Phạm Công Khâm [56], đã tập trung làm rõ vị trí vai trò

của cấp xã nói chung, cấp xã đồng bằng sông Cửu Long nói riêng từ đó tác giả đã

đề ra những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã trong

sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện

nay. Đồng thời nghiên cứu thực trạng KT-XH, đội ngũ cán bộ và công tác xây

dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long,

17

đề xuất kinh nghiệm và vấn đề đặt ra, từ đó đưa ra mục tiêu, quan điểm và những

giải pháp chủ yếu để làm tốt công tác trên.

Luận án: Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất với vấn đề đào tạo

người lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện

nay (từ thực tiễn đồng bằng sông Cửu Long) của Trần Thanh Đức [39], đã làm rõ

vấn đề con người và nhân tố con người trong lực lượng sản xuất hiện đại theo

quan điểm của triết học mác xít về con người, phát huy nhân tố con người trong

lực lượng sản xuất thông qua quá trình đào tạo người lao động đáp ứng yêu cầu

CNH, HĐH ở Việt Nam. Từ những cơ sở trên, tác giả đã chỉ rõ thực trạng và

những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo người lao động, phát huy nhân

tố con người trong lực lượng sản xuất đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước từ

thực tiễn đồng bằng sông Cửu Long.

Luận án: Nâng cao dân trí ở đồng bằng sông Cửu Long, thực trạng và giải

pháp của tác giả Lương Văn Tám [78] đã phân tích khái niệm dân trí và nâng cao

dân trí, mối quan hệ biện chứng giữa dân trí và nâng cao dân trí với sự phát triển

kinh tế, xã hội, giữa nâng cao dân trí với quá trình CNH, HĐH. Đồng thời tác giả

đánh giá thực trạng dân trí và nguyên nhân dẫn đến thực trạng dân trí còn thấp như

hiện nay ở đồng bằng sông Cửu Long và đề ra giải pháp cơ bản nhằm nâng cao

dân trí phục vụ CNH, HĐH.

Luận án: Phát triển nguồn lực lao động ở vùng đồng bằng sông Cửu Long

phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Phạm Thế Chi [15] đã nêu lên khái

niệm và vai trò của NNL và sự tất yếu của việc phát triển NNL ở đồng bằng sông

Cửu Long. Qua đó, đề ra phương hướng và giải pháp phát triển NNL ở đồng bằng

sông Cửu Long giai đoạn 2001-2010.

Luận án: Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quá trình công nghiệp hoá,

hiện đại hoá nông thôn Việt Nam của Trần Thanh Bình [12] đi sâu vào cơ sở lý

luận và thực tiễn về đào tạo NNL phục vụ quá trình CNH, HĐH nông thôn; nêu

thực trạng đào tạo NNL cho nông nghiệp và nông thôn và các giải pháp hoàn

thiện công tác đào tạo này.

18

Luận án: Đảng bộ tỉnh Lào Cai lãnh đạo đào tạo NNL từ năm 2001 đến

năm 2010 của Nguyễn Thị Thu Hằng [46] đã phân tích Lào Cai là một tỉnh

miền núi giàu về tài nguyên khoáng sản, có cấu tạo địa hình và cộng đồng dân cư

đa dạng, là nơi hội tụ của văn hóa truyền thống dân tộc như chợ phiên vùng cao,

chợ tình… nên đã thành trung tâm du lịch thắng cảnh và nghỉ mát của cả nước.

Trải qua những biến động, thăng trầm của lịch sử và những tác động của tự

nhiên Lào Cai không tránh khỏi những khó khăn của một tỉnh miền núi khi trình

độ văn hóa xã hội thấp nên về cơ bản Lào Cai vẫn là tỉnh nghèo. Do vậy, để khai

thác những tiềm năng của tỉnh đẩy mạnh phát triển KT-XH, Đảng bộ tỉnh Lào

Cai cần tập trung đẩy mạnh phát triển NNL, đặc biệt chú trọng đến đào tạo NNL

nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh. Đây là đề tài được khai thác khá thành

công về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trong công tác đào tạo NNL thuộc vùng

miền núi phía Bắc và cung cấp những bài học rất cần thiết cho các Đảng bộ có

điểm tương đồng, đặc thù như Lào Cai nghiên cứu và vận dụng.

Luận án: Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo đào tạo NNL cho nông nghiệp

từ năm 2001 đến năm 2010 của Phạm Thị Kim Lan [58] đã làm rõ một tỉnh Thái

Bình thuộc khu vực đồng bằng Bắc Bộ nổi tiếng là vùng đất đạt năng suất lúa 5

tấn/ha được ghi đậm dấu ấn trong lịch sử đấu tranh cách mạng. Để thực hiện

CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, vấn đề đào tạo NNL cho nông nghiệp luôn

là vấn đề cấp bách và cần thiết để tỉnh Thái Bình duy trì tốc độ tăng trưởng. Tác

giả đã làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ về đào tạo NNL trong 10

năm từ năm 2001 đến năm 2010, qua đó rút ra những nhận xét và kinh nghiệm

có giá trị và thực tiễn có thể làm tư liệu tham khảo cho các cấp, các ngành của

tỉnh Thái Bình nói riêng, cả nước nói chung.

Luận án: Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng NNL từ năm 2001

đến năm 2013 của Hà Vũ Tuyến [136] đã đi sâu nghiên cứu vào hai đối tượng

chính để phát triển NNL trên góc độ đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng NNL lãnh

đạo, quản lý, công chức, viên chức, người lao động ở các cơ quan hành chính sự

nghiệp trong khu vực Nhà nước và các khu vực khác; NNL chuyên môn kỹ thuật

19

trong khu vực công nghiệp, thành thị và khu vực nông nghiệp, nông thôn. Từ đó

gởi mở những giải pháp thiết thực có tính đính hướng cho công tác phát triển

NNL của tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng và giải pháp cho các tỉnh có điểm tương đồng

như Vĩnh Phúc tham khảo và nghiên cứu.

* Các chương trình nghiên cứu, kỷ yếu hội thảo khoa học

Chương trình KH-CN cấp Nhà nước: Gia đình, nhà trường, xã hội với

việc phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài của

Nguyễn Trọng Bảo [11]. Đề tài phân tích vai trò của gia đình, nhà trường, xã hội

với việc phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài

để đưa ra những giải pháp để phát triển nguồn lực con người nói chung. Đây là

đề tài rất thực tế đã đem luồng gió mới trong việc nghiên cứu, đánh giá góc nhìn

đời thường từ gia đình, nhà trường đến xã hội, đặc biệt là tuyển chọn, đào tạo,

bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài.

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế lần thứ ba: Việt Nam hội nhập và phát triển, Tập

6: Giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực. Những nghiên cứu tổng hợp theo khu vực.

Quan hệ quốc tế của Việt Nam với các nước và khu vực do Đại học Quốc gia Hà

Nội tổ chức [22]. Một số chuyên luận trong kỷ yếu đề cập đến nhu cầu NNL của

đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế; về vai trò, hiệu quả của những chính

sách giáo dục, thực trạng giáo dục và đào tạo NNL của Việt Nam trong giai đoạn

hiện nay; Từ đó đưa ra các định hướng, giải pháp về đổi mới cơ cấu hệ thống giáo

dục quốc dân đáp ứng nhu cầu nhân lực, chính sách quốc gia về giáo dục và phát

triển NNL...

Kỷ yếu hội thảo của Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Giáo dục và Đào tạo,

Hội đồng quốc gia giáo dục Trung ương và Phát triển nhân lực. Có các chuyên

luận Những luận cứ khoa học của việc phát triển NNL công nghiệp cho vùng kinh

tế trọng điểm phía Nam của Trương Thị Minh Sâm [9]; Phát triển nguồn nhân lực

phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Nguyễn Thanh [9]; Đa dạng

hóa cơ cấu để phát triển số lượng và chất lượng NNL của Nguyễn Thanh Tuấn

[9]; Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng NNL đáp ứng yêu cầu công

20

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam của Phạm Văn Sơn [9];... các bài viết đã tập

trung làm rõ nhiều vấn đề và mang tính toàn diện về đào tạo và phát triển NNL

như: Quan niệm về NNL, phát triển NNL và vai trò của phát triển NNL Việt Nam

trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Kinh nghiệm của một số quốc gia

về phát triển NNL; đánh giá thực trạng phát triển NNL của Việt Nam trong những

năm qua, nhất là trong hơn 25 năm đổi mới: thành tựu, hạn chế và nguyên nhân

của những thành tựu, hạn chế; những đóng góp của NNL trong những năm qua

đối với sự phát triển KT-XH của đất nước. Trên cơ sở quan điểm và các mục tiêu

phát triển NNL theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, những bài viết

trong Hội thảo đã đề xuất những giải pháp chủ yếu để phát triển NNL đáp ứng yêu

cầu CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Những giải pháp được đưa ra gồm: Giải

pháp về giáo dục, đào tạo; giải pháp phát triển và ứng dụng tiến bộ của khoa học,

công nghệ; giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu hút NNL chất lượng cao ở nước

ngoài và việc phát triển thị trường lao động góp phần cân bằng cung cầu NNL cả

về chất lượng và số lượng.

* Các bài đăng trên tạp chí

- Các tạp chí đề cập NNL, phát triển NNL nói chung như: Nguyễn Trọng

Chuẩn, Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Triết học,

số 2 năm 1994; Nguyễn Thị Hằng, Phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam đến

năm 2010, Tạp chí Cộng sản, số 7 năm 1999; Nguyễn Đình Hoà, Mối quan hệ

giữa phát triển nguồn nhân lực và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp

chí Triết học, số 1 năm 2004; Mạc Văn Tiến, Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam

trong bối cảnh toàn cầu hoá, Tạp chí Lao động xã hội, số 264 năm 2006; Nguyễn

Thanh Tuấn, Phát triển nguồn nhân lực và lĩnh vực xã hội theo tinh thần văn kiện

Đại hội X của Đảng, Tạp chí Lao động xã hội, số 284 năm 2006; Vũ Hùng,

Nguồn nhân lực lao động của Việt Nam - cơ hội và thách thức sau khi hình

thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Tạp chí Báo cáo viên, số 8 năm 2015.

- Về đào tạo NNL như: Trương Thu Hà, Cơ hội và thách thức đối với việc

đào tạo, phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế,

21

Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4/ 2005; Đặng Hữu, Đào tạo nhân lực cho

sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá dựa trên tri thức ở nước ta hiện nay,

Tạp chí Cộng sản, số 4/2005; Phạm Tất Dong, Thành tựu bước đầu và những

vấn đề cấp thiết đặt ra trong đào tạo nhân lực ở nước ta, Tạp chí Cộng sản, số

9/2006; Nguyễn Thắng Lợi, Công tác đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ đổi

mới, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 12/2007; Phan Trần Phú Lộc, Quản lý liên kết

đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu nhân lực của các khu công nghiệp theo mô hình

quản lý mục tiêu (MBO), Tạp chí Quản lý giáo dục, số 2 năm 2015; Chu Văn

Nguyên, Nâng cao chất lượng đào tạo công nhân kỹ thuật trong các trường

chuyên nghiệp, Tạp chí Quản lý giáo dục, số 4 năm 2015; Đỗ Văn Trung, Xây

dựng đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước hiện nay theo Tư tưởng Hồ Chí Minh,

Tạp chí Phát triển nhân lực, số 3 năm 2015; Nguyễn Văn Sáu, Đội ngũ cán bộ

quản lý trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội

nhập quốc tế, Tạp chí Kinh tế và Quản lý, số 5 năm 2015;

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến hệ thống cơ sở lý

luận cơ bản, quan trọng giúp tác giả luận giải về vai trò, tầm quan trọng của

NNL và phát triển NNL gắn với đào tạo NNL, qua đó nhằm hệ thống, khái quát

hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển NNL từ nhiều

góc độ khác nhau với đa dạng lĩnh vực trên các vùng, miền và địa phương khác

trong cả nước. Đây là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng, giúp tác giả tham

khảo và giải quyết những vấn đề có liên quan đến chủ trương phát triển NNL của

Đảng bộ Tỉnh Vĩnh Long.

1.1.3. Các công trình khoa học nghiên cứu về phát triển nguồn nhân

lực ở tỉnh Vĩnh Long

Từ khi tái lập tỉnh đến nay, tỉnh Vĩnh Long được sự quan tâm rất lớn của

Đảng và Nhà nước nhưng do đặc điểm vùng miền còn nhiều khó khăn nên chưa

có công trình khoa học nghiên cứu độc lập tình hình phát triển NNL ở địa phương

kể cả những bài viết đăng trên các tạp chí của Đảng và Nhà nước, đây là khó khăn

cho người nghiên cứu lĩnh vực này. Tuy vậy, với sự trăn trở của cá nhân đối với

22

trách nhiệm phát triển NNL ở địa phương, tác giả đã tìm hiểu, tìm tòi những

nguồn tư liệu quý báu để phục vụ quá trình nghiên cứu. Có thể kể đến các công

trình đã có đề cập ít nhiều đến đề tài như:

Cuốn sách “Lịch sử tỉnh Vĩnh Long (1732 - 2000)” của Ban Tuyên giáo

tỉnh ủy Vĩnh Long [7] đã đề cập khá toàn diện về điều kiện tự nhiên, đất đai,

thổ nhưỡng, khí hậu, con người, truyền thống lịch sử, truyền thống đấu tranh

cách mạng đến quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,.. Đồng thời, nêu

bật những thế mạnh, tiềm năng, những đặc trưng riêng biệt độc đáo của một

địa phương thuộc vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long. Đây là nguồn

tư liệu quý có giá trị khảo cứu, lưu giữ giá trị truyền thống và tinh hoa văn

hóa của tỉnh Vĩnh Long, cuốn sách như một “cẩm nang” cho cán bộ, công

chức, viên chức, các nhà doanh nghiệp và người con quê hương tỉnh Vĩnh

Long đang sinh sống, làm việc trên mọi miền đất nước, ở nước ngoài giúp

nắm bắt đầy đủ, toàn diện về vùng đất và con người Vĩnh Long trong suốt

chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, trong sự nghiệp xây dựng và phát

triển hiện nay. Cuốn sách đã trở thành người bạn đồng hành phục vụ cho mục

đích học tập, nghiên cứu, trao đổi thông tin về mặt giá trị lịch sử của một

vùng đất giàu truyền thống nơi đây.

Các cuốn sách: Vĩnh Long 20 năm phát triển kinh tế - xã hội (1975 -

1995) [92]; Vĩnh Long lịch sử và phát triển (tập 1 và 2) [98]; Kinh tế Vĩnh

Long trong sự nghiệp phát triển ở thập niên đầu thế kỷ XXI [97]; Vĩnh Long

30 năm xây dựng và phát triển [8]; 20 năm xây dựng và phát triển Tỉnh Vĩnh

Long (1992 - 2012) [122]; Đây là các công trình khoa học do tỉnh ủy, UBND

tỉnh, Ban Tuyên giáo tỉnh ủy chỉ đạo biên soạn nhằm tổng kết những thành

tựu quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển tỉnh Vĩnh Long trên tất

cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong tất cả các lĩnh vực

đó, hầu hết công trình đã đề cập và đánh giá cao vai trò NNL trong sự nghiệp

phát triển KT-XH của tỉnh, nhất là công tác phát triển NNL đối với phát triển

nông nghiệp, nông thôn theo đặc thù của một vùng trũng có hệ thống sông

23

ngòi dày đặc. Có thể nói đây là cơ sở quan trọng để tác giả giải quyết các vấn

đề mang tính đặc trưng rõ rệt của một tỉnh thuần nông trong vùng đồng bằng

sông Cửu Long.

Cuốn sách Lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long (1930 - 2010) của Ban Chấp

hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long [1] là một công trình khoa học công phu, ghi lại

những trang sử hào hùng, vẻ vang của lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long từ khi ra

đời năm 1930 đến giai đoạn thực hiện cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công,

hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc chống thực dân Pháp và đế quốc

Mỹ xâm lược và bước vào thực hiện sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước.

Cuốn sách trở thành ấn phẩm đặc biệt, ghi nhận những ngày mới ra đời và

trong quá trình xây dựng quê hương của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Vĩnh Long

đã luôn nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, khắc phục mọi khó khăn,

gian khổ vượt qua những thời kỳ cam go của cách mạng, tin tưởng vào đường

lối lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh để cùng dân tộc đi đến thắng

lợi hoàn toàn. Đồng thời cuốn sách còn có ý nghĩa lớn lao nhằm khơi dậy niềm

tự hào của mọi tầng lớp nhân dân, đồng thời đúc rút ra những bài học kinh

nghiệm quý báu giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh vững bước

đi lên, cùng với cả nước hoàn thành sự nghiệp CNH, HĐH, trong đó phát triển

NNL là một trong những nhiệm vụ quan trọng được Đảng bộ ghi nhận trong

cuốn sách này.

Nhìn chung từ nhiều góc độ phạm vi nghiên cứu, thể loại sách khác

nhau, hầu hết các công trình trên đều đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà

khoa học, nhà nghiên cứu, giới học giả đã khẳng định giá trị truyền thống văn

hóa, xã hội, địa lý và con người nơi đây. Là nguồn tư liệu tin cậy để luận án

tham khảo xây dựng nội dung về các yếu tố tác động đến NNL và công tác lãnh

đạo, chỉ đạo phát triển NNL của Tỉnh theo từng giai đoạn lịch sử mà tác giả đã

xác định trong phạm vi thời gian nghiên cứu. Ngoài ra, các công trình đã góp

phần làm rõ những quan điểm chủ yếu về phát triển KT-XH của tỉnh Vĩnh

Long trước yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH vì mục tiêu phát triển nhanh và

24

bền vững, nhất là những quan điểm tạo sức lan tỏa cho các tỉnh và khu vực

nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế gắn với mục tiêu nâng cao chất lượng trong

công tác phát triển NNL, đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất,

tinh thần cho nhân dân trong những giai đoạn tiếp theo. Đây là những gợi mở

quý giá, là vấn đề để nghiên cứu sinh khai thác triệt để trong luận án khi nêu ra

tính cấp thiết và nhiệm vụ nghiên cứu về phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh

Vĩnh Long từ năm 2000 đến năm 2015.

Tuy nhiên, có rất ít các công trình nghiên cứu về phát triển NNL như đặc

thù tỉnh Vĩnh Long và có quá ít các công trình nghiên cứu khi đề cập đến phát

triển NNL ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nhất là những vấn đề phát

triển NNL từ góc độ khoa học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là vấn đề

đã thôi thúc nghiên cứu sinh quyết tâm chọn đề tài, nhằm góp phần nhỏ xây

dựng quê hương tỉnh Vĩnh Long phát triển.

1.2. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG

NGHIÊN CỨU

1.2.1. Những nội dung liên quan đến đề tài luận án đã được đề cập

Một là, các công trình khoa học được tiếp cận từ nhiều góc độ, phạm vi

và lĩnh vực khác nhau nhưng đều khẳng định tầm quan trọng và yêu cầu khách

quan phải phát triển NNL, là cơ sở quan trọng để đẩy mạnh sự nghiệp CNH,

HĐH đất nước. Các công trình đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng qua các kỳ

đại hội, đặc biệt là Đại hội Đảng lần thứ IX với quan điểm nhất quán: “Nguồn

nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào

tạo”. Đồng thời, bước đầu các công trình khoa học đã đi sâu, luận giải vai trò

của phát triển NNL trong quá trình phát triển KT-XH của đất nước với mục

tiêu “phát triển nguồn nhân lực là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng

đầu, là nhân tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Và muốn phát

triển nhanh và bền vững, NNL phải được đào tạo, bồi dưỡng nhằm đảm bảo

25

yêu cầu về số lượng và chất lượng, trong đó chất lượng NNL đóng vai trò

không thể thiếu cho công cuộc phát triển của các địa phương. Vì vậy, các công

trình nghiên cứu đều khẳng định phát triển NNL luôn gắn kết chặt chẽ với công

tác đào tạo, là yêu cầu khách quan, cấp thiết đối với sự phát triển của mỗi quốc

gia, dân tộc trước bối cảnh phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ và

xu thế toàn cầu hóa.

Hai là, một số công trình khoa học đã đề cập đến những vấn đề lý luận

dựa trên học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường

lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người, nguồn lực con người và những

vấn đề lý luận chung về NNL, phát triển NNL nhằm làm rõ thực trạng, kết quả

kinh nghiệm trong phát triển NNL ở Việt Nam. Đây là cơ sở quan trọng để tác

giả kế thừa, tham khảo để có những nhận định, đánh giá khách quan khi thực

hiện đề tài.

Ba là, các công trình đã hệ thống, khái quát các quan điểm cơ bản, chủ

trương lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các nhiệm kỳ đại hội của Đảng

về phát triển NNL trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Đồng thời đã phác

họa những thành tựu, hạn chế, khiếm khuyết từ quá trình lãnh đạo, chỉ đạo

thực hiện chủ trương phát triển NNL, đúc kết những phương hướng và giải

pháp để phát triển NNL đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trên các lĩnh

vực khác nhau.

Bốn là, công trình khoa học đều có đối tượng, mục tiêu nghiên cứu khác

nhau nhưng về cơ bản các công trình đã chỉ ra mối quan hệ giữa phát triển NNL

với nhiệm vụ đào tạo NNL là cán bộ, công chức, viên chức (CB,CC,VC) trong các

cơ quan nhà nước thuộc HTCT và NNL là lực lượng lao động lành nghề trong lĩnh

vực nông nghiệp, nông thôn ở các cấp Đảng bộ địa phương, cấp vùng miền. Đây

là những gợi ý quan trọng giúp nghiên cứu sinh kế thừa có chọn lọc và tiếp cận

phương pháp nghiên cứu đạt hiệu quả và có cơ sở khoa học hơn để giải quyết mục

tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.

26

Năm là, hầu hết công trình khoa học tập trung trình bày có hệ thống những

quan điểm của Đảng về vai trò của GD-ĐT đối với việc nâng cao chất lượng

NNL, đặc biệt nhấn mạnh GD-ĐT ở hệ đại học, cao đẳng và đào tạo nghề trong

việc thúc đẩy phát triển NNL, trên cơ sở đó đề ra phương hướng giải pháp NNL

cho sự phát triển nhanh và bền vững một cách hiệu quả. Đây là tiền đề quan trọng

để nghiên cứu sinh làm sáng tỏ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long

khi NNL gắn với công tác đào tạo được xem là khâu trọng yếu để nâng cao số

lượng và chất lượng phát triển NNL tỉnh nhà.

Như vậy, nhìn chung những công trình khoa học trên đã đề cập đến khá rõ

về các khái niệm liên quan đến NNL, phát triển NNL và tính cấp thiết phát triển

NNL được tập trung khai thác trong lĩnh vực GD-ĐT và ở một số vấn đề mang

tính vùng miền, địa phương trong bối cảnh CNH, HĐH, hội nhập quốc tế. Đồng

thời các công trình đều thể hiện ý chí, quan điểm của Đảng, Nhà nước bằng những

chủ trương, chính sách phù hợp với điều kiện của thực tiễn ở Việt Nam, từ đó đề

ra định hướng, giải pháp để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác

phát triển NNL những năm tiếp theo. Đây là những tài liệu quý để luận án kế thừa,

giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn chung được đặt ra trong mục đích và

nhiệm vụ của đề tài.

Qua khảo cứu các công trình nghiên cứu đã được công bố, cho đến nay

chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về quá trình Đảng

bộ tỉnh Vĩnh Long lãnh đạo phát triển NNL từ năm 2000 đến năm 2015 từ góc độ

nghiên cứu Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu

Trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu của các công trình trên, Luận án

sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:

- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác phát triển NNL của Đảng

bộ tỉnh Vĩnh Long trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, nhất là từ năm

2000 đến năm 2015.

27

- Khảo sát thực trạng phát triển NNL của tỉnh Vĩnh Long qua hai giai đoạn

từ năm 2000 đến năm 2005 và từ năm 2005 đến năm 2015, từ đó chỉ ra những

thành tựu, hạn chế, nguyên nhân hạn chế trong công tác phát triển NNL của Đảng

bộ tỉnh Vĩnh Long.

- Hệ thống hóa các văn kiện chủ yếu của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long về chủ

trương phát triển NNL qua ba nhiệm kỳ đại hội Đảng bộ tỉnh từ năm 2001 đến

năm 2015, từ đó phân tích quá trình vận dụng sáng tạo chủ trương của Trung ương

Đảng vào thực tế địa phương góp phần nâng cao chất lượng NNL.

- Khảo sát quá trình thực hiện chủ trương phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh

Vĩnh Long gồm cơ chế, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, chính sách thu hút nguồn

nhân lực,… trong phạm vi quản lý của tỉnh qua hai giai đoạn, từ năm 2000 đến

năm 2005 và từ năm 2005 đến năm 2015.

- Luận án khái quát những thành công, những hạn chế, khiếm khuyết và

nguyên nhân của những thành công, những hạn chế, khiếm khuyết từ quá trình

hoạch định chủ trương đến chỉ đạo thực tiễn và kết quả phát triển NNL của Đảng

bộ tỉnh Vĩnh Long qua hơn 15 năm, với ba nhiệm kỳ đại hội từ năm 2001 đến

năm 2015.

- Từ thực tiễn lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long, luận án có nhiệm vụ

đúc kết, gợi mở những kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ trong công tác

phát triển NNL nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện, bền vững trong những

năm tiếp theo.

Tiểu kết chương 1

Qua khảo cứu các công trình khoa học đã được công bố dưới nhiều thể loại:

sách đã xuất bản; luận án tiến sĩ đã bảo vệ; các đề tài, chương trình khoa học, kỷ

yếu hội thảo khoa học đến các bài được đăng tải trên các tạp chí khác nhau, có thể

chia thành ba nhóm công trình: Một là, các công trình khoa học nghiên cứu về

NNL, phát triển NNL và nói chung; Hai là, các công trình khoa học nghiên cứu về

28

NNL, phát triển NNL và đào tạo NNL nói chung từ thực tiễn các lĩnh vực, các

vùng, miền, địa phương trên cả nước; Ba là, các công trình khoa học nghiên cứu

có liên quan đến phát triển NNL nói chung ở tỉnh Vĩnh Long. Các công trình trên

đã cung cấp cho luận án về tình hình tổng quan nghiên cứu chung ở cả hai phương

diện lý luận và thực tiễn, qua đó các công trình đều khẳng định quan điểm chủ

trương của Đảng về phát triển NNL là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng

và Nhà nước xuyên suốt trong các Văn kiện, Nghị quyết và ngày càng được đề

cập nhiều hơn trong các Đại hội IX, X, XI của Đảng. Đây là cơ sở lý luận và thực

tiễn để tác giả tham khảo, kế thừa giải quyết nhiệm vụ đặt ra cho công tác phát

triển NNL ở tỉnh Vĩnh Long. Tuy nhiên, nhìn chung chưa có công trình nào đề cập

một cách thấu đáo về quá trình hoạch định chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng

bộ tỉnh Vĩnh Long về phát triển NNL từ năm 2000 đến năm 2015. Vì vậy tình

hình tổng quan nghiên cứu của luận án là cơ sở để Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long đúc

kết những kinh nghiệm phát triển NNL có giá trị trên phương diện lý luận và thực

tiễn một cách khách quan, đó là những nội dung chủ yếu của luận án cần tiếp tục

nghiên cứu như đã nêu trên.

29

Chương 2

ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG VẬN DỤNG

CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2005

2.1. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NGUỒN

NHÂN LỰC CỦA TỈNH VĨNH LONG

2.1.1. Nguồn nhân lực và chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về

phát triển nguồn nhân lực những năm đầu thế kỷ XXI

2.1.1.1. Tầm quan trọng của nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực là nguồn tài nguyên quý giá, là vấn đề then chốt trong sự

phát triển của mỗi quốc gia, nhất là trong điều kiện các nước đang phát triển tiến

hành hội nhập quốc tế trên hầu khắp các lĩnh vực thì NNL đã trở thành xu thế tất

yếu chiếm vị trí trọng yếu trong thước đo giá trị về mặt tăng trưởng kinh tế. Quốc

gia nào có chiến lược xây dựng nguồn lực con người đúng đắn và chuẩn bị được

NNL có trình độ chuyên môn, tay nghề cao thì năng lực cạnh tranh của quốc gia đó

sẽ tăng trưởng mạnh mẽ trong nền kinh tế toàn cầu và tạo ra sự phát triển bền vững.

Cho đến nay, khái niệm nguồn nhân lực được hiểu theo nhiều nghĩa rộng, nghĩa hẹp

và các cách tiếp cận khác nhau.

- Theo nghĩa rộng, NNL là số dân và chất lượng dân số bao gồm cả thể chất

và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, thái độ và tác phong làm

việc. Đó là toàn bộ nguồn vốn của một con người, là tổng hợp trình độ chuyên môn

mà một người lao động tích lũy được, hay đó còn là tổng thể tiềm năng của con

người của một quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương có khả năng huy động vào quá

trình phát triển KT-XH.

- Theo nghĩa hẹp, NNL được hiểu là nguồn lao động của xã hội (tổng số

người đang làm việc, người thất nghiệp và lao động dự phòng), hay bao gồm các

nhóm dân cư trong độ tuổi lao động được đào tạo và không được đào tạo, có thể

đang làm việc hoặc không có nhu cầu làm việc tham gia vào nền sản xuất xã hội.

Thậm chí, NNL này còn được hiểu là đối tượng lao động bao gồm những người có

việc làm (nguồn nhân lực có sẵn trong dân cư) và những người chưa có việc làm

(lao động dự trữ). Cách hiểu này có ý nói đến NNL là những người có việc làm

30

được đào tạo chuyên môn nghề nghiệp đang hoạt động trong các ngành kinh tế,

trong các lĩnh vực chính trị, xã hội nhằm cung cấp cho xã hội một lực lượng lao

động có chất lượng, bởi vì trong bối cảnh biến đổi nhanh chóng của thế giới như

hiện nay, vấn đề đào tạo NNL là để nâng cao năng suất lao động là điểm then chốt

nhằm mục đích duy trì và nâng cao sức cạnh tranh của mỗi quốc gia.

Như vậy, có thể hiểu NNL là một bộ phận của dân số, bao gồm các đối

tượng trong độ tuổi lao động khác nhau. Là bộ phận quan trọng nhất quyết định khả

năng nhu cầu lao động trong xã hội và là nguồn lực lao động mang tính tích cực

hoặc không tích cực trong một cộng đồng. Tuy nhiên NNL này còn được tiếp cận ở

vấn đề của một bộ phận số dân phụ thuộc vào điều kiện trình độ chuyên môn được

đào tạo đồng nghĩa là bộ phận số dân mang lại yếu tố tích cực cho sự phát triển kinh

tế hoặc đào tạo nhưng không đáp ứng được nhu cầu xã hội. Đồng thời NNL thường

gắn với độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật. Hiện nay, nhiều quốc gia đều

quy định tuổi lao động tối thiểu là 15, song độ tuổi lao động tối đa lại có sự khác

nhau giữa các nhóm nước phát triển và nhóm các nước đang phát triển. Ở Việt Nam

theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2012, tuổi lao động được quy định là từ đủ

15 đến 60 đối với nam và đủ từ 15 đến 55 đối với nữ.

Từ những khái niệm đã phân tích trên, có thể rút ra khái niệm NNL như sau:

NNL là toàn bộ lực lượng lao động của xã hội được quy định số dân trong độ tuổi

lao động, gồm những người có việc làm và chưa có việc làm. Là bộ phận những

người được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, có trình độ lành nghề, kiến thức, năng

lực và sức khỏe nhất định, là nguồn lực quyết định cho sự phát triển KT-XH trong

một cộng đồng.

Phát triển NNL chính là quá trình biến đổi NNL nhằm phát huy, khơi dậy

tiềm năng con người. Theo quan niệm của Tổ chức quốc tế về Lao động (ILO) phát

triển NNL là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đặc biệt về năng lực, trình độ, khả năng làm

việc nhằm đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự phát triển KT-XH trong từng

giai đoạn phát triển.

Tựu chung lại, quan niệm phát triển NNL được xem xét trên hai mặt chủ

yếu là: số lượng và chất lượng. Số lượng NNL được đánh giá bằng các chỉ tiêu: tỉ

lệ NNL trong dân số; tỉ lệ lực lượng lao động trong dân số; tỉ lệ lực lượng lao

31

động trong độ tuổi lao động; tỉ lệ lao động có việc làm trong lực lượng lao động.

Chất lượng NNL được đánh giá bằng các chỉ tiêu, đó là: chỉ tiêu trình độ học vấn

của nguồn nhân lực, đây là chỉ tiêu rất quan trọng phản ánh chất lượng nguồn

nhân lực và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển KT-XH. Trình độ học

vấn cao sẽ tạo điều kiện và khả năng tiếp thu, vận dụng có hiệu quả những tiến bộ

mới của KH-CN trong thực tiễn; chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn - kỹ thuật

của NNL được thể hiện bằng tỉ lệ NNL có trình độ cao đẳng, đại học và sau đại

học so với NNL chung.

Đối với Việt Nam, khi nghiên cứu phát triển NNL thì trước tiên đồng nghĩa

với lý thuyết về chính sách phát triển nguồn lực con người theo nhiều cách tiếp cận

khác nhau. Cách tiếp cận thứ nhất, phát triển NNL là việc xây dựng, phân bổ và sử

dụng nguồn nhân lực cùng với các hoạt động có liên quan nhằm hình thành các

chuẩn mực và mạng lưới xã hội dưới sự trợ giúp của nhà nước, của cơ quan phát

triển nhân lực địa phương, các tổ chức giáo dục và các tổ chức khác. Cách tiếp cận

thứ hai, phát triển NNL là việc thông qua giáo dục và đào tạo để tạo ra một lực

lượng lao động có khả năng đáp ứng nhu cầu của một quốc gia, một vùng, một

ngành hay một tổ chức nào đó. Đây là quá trình tạo dựng lực lượng lao động năng

động có kỹ năng và sử dụng chúng có hiệu quả. Tuy nhiên phạm vi tiếp cận trên

bình diện là vai trò quan trọng của phát triển NNL đối với sự phát triển của xã hội

thì phát triển NNL được hiểu là những con người có trình độ chuyên môn cao, có

vốn tri thức và tay nghề giỏi, có khả năng nhận thức và tiếp thu nhanh những kiến

thức mới. Đây là chìa khóa chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa học kỹ thuật và

công nghệ trên con đường chống nguy cơ tụt hậu của tri thức, hay có thể hiểu phát

triển NNL là khái niệm để chỉ một con người, một người lao động cụ thể được đào

tạo lành nghề và chuyên môn kỹ thuật nhất định (trên đại học, cao đẳng, công nhân

kỹ thuật lành nghề).

Bên cạnh quan niệm về phát triển NNL được tiếp cận ở trên, còn có những

quan niệm có nội hàm hẹp hơn để chỉ người lao động thông qua quá trình đào tạo

và được xã hội chấp nhận trong những lĩnh vực chủ yếu như: Lĩnh vực sản xuất vật

chất là những người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo được đào tạo bởi

một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học, công nghệ hiện đại họ là

những chuyên gia, nghệ nhân, công nhân lành nghề, những người lao động trí óc

32

bên cạnh trình độ học hàm, học vị như giáo viên, giảng viên, nhà lãnh đạo, quản lý,

cán bộ, công chức, viên chức. Lĩnh vực kinh tế là các doanh nhân. Lĩnh vực an ninh

quốc phòng, đối ngoại là những tướng lĩnh, nhà ngoại giao để chỉ NNL này. Ngoài

ra, để tôn vinh và phát triển NNL, xã hội còn chú ý đến đối tượng để thực hiện phát

triển NNL là học sinh, sinh viên ưu tú họ là nhân tài là lực lượng kế thừa của tinh

hoa đất nước hay nguồn “nguyên khí quốc gia”.

2.1.1.2. Chủ trương của Đảng về phát triển nguồn nhân lực trong công

cuộc đổi mới

Thực hiện đường lối đổi mới được khởi xướng từ Đại hội hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VI, trong đó có việc thực hiện phát triển NNL là vấn đề mấu chốt để

đẩy nhanh tốc độ phát triển KT-XH của đất nước, yêu cầu cấp bách nhất cần giải

quyết là nhanh chóng đào tạo NNL có tri thức đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới

toàn diện đất nước. Tuy nhiên trong quá trình đổi mới đất nước từ năm 1986, Đảng

đã nhìn nhận vai trò của sự nghiệp giáo dục khi xem xét NNL. Đại hội Đảng lần thứ

VI của Đảng chỉ rõ: Giáo dục nhằm mục tiêu hình thành và phát triển toàn diện

nhân cách XHCN của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ lao động có kỹ thuật, đồng bộ về

ngành nghề, phù hợp với yêu cầu phân công lao động của xã hội. Sự nghiệp giáo

dục, nhất là giáo dục đại học và chuyên nghiệp, trực tiếp góp phần vào việc đổi mới

công tác quản lý kinh tế và xã hội [34, tr.772].

Đất nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước những diễn

biến như vũ bão của cách mạng KH-CN và bối cảnh toàn cầu hóa, Đảng xác định

vai trò đặc biệt của NNL là nhằm để phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư

cách là động lực xây dựng xã hội mới thì phải tập trung: “Phát triển sự nghiệp khoa

học, giáo dục, văn hóa nhằm phát huy nhân tố con người và vì con người trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [24, tr.79]. Đặc biệt khi bước vào công cuộc

đổi mới, vấn đề nguồn lực con người gắn với phát triển KT-XH đã được Đảng

Cộng sản Việt Nam quán triệt và được coi là vấn đề sống còn của đất nước, là yêu

cầu cấp bách của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đảng đã chỉ đạo: “Lấy việc phát

huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”

[35, tr.106], đây là lần đầu tiên quan điểm về nguồn lực con người được đặt ở vị trí

trung tâm của chính sách phát triển.

33

Từ quan điểm trên, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ

lên chủ nghĩa xã hội (1991), Đảng đã chỉ rõ nguồn lực con người rất dồi dào, con

người Việt Nam có truyền thống cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hóa, giáo dục, có

khả năng nắm bắt nhanh KH-CN đó là nguồn lực quan trọng nhất. Tuy nhiên, người

Việt Nam đang có những hạn chế về thể lực, kiến thức, tay nghề, còn mang thói

quen sản xuất lạc hậu và dấu ấn của cơ chế cũ. Để khắc phục được những nhược

điểm đó thì vai trò của NNL phải thật sự trở thành thế mạnh của đất nước, NNL

không thể đứng ngoài mục tiêu của sự phát triển, Đảng chỉ rõ:

Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con

người. Chiến lược kinh tế - xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm, giải

phóng sức sản xuất, khơi dậy tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao

động và cả cộng đồng dân tộc, động viên và tạo điều kiện cho mọi người

Việt Nam phát huy ý chí tự lực tự cường, cần kiệm xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc, ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước [25, tr.12-13].

Như vậy, khi đất nước bước vào công cuộc xây dựng đất nước, Đảng đã

nhận thức rõ lực lượng lao động với những tiêu chí cụ thể là “hình thành đội ngũ lao

động có tri thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng

tạo... bồi dưỡng nhiều người giỏi về khoa học, công nghệ, kinh doanh, về quản lý

kinh tế và nhiều công nhân lành nghề; nâng cao trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật

cho người lao động” [24, tr.511]. Đây chính là những tiêu chí cụ thể của Đảng để

phát triển NNL, trong đó muốn phát triển NNL phải hình thành đội ngũ lao động có

tri thức, có tay nghề để đáp ứng nhu cầu phát triển toàn diện của đất nước.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) quyết định đưa đất

nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Do đó, nguồn lực con người trở nên

quan trọng hơn bao giờ hết. Đây là Đại hội có nhiều chuyển biến tích cực, mạnh mẽ

trong chính sách phát triển NNL, trên quan điểm NNL coi con người vừa là mục

tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, các chính sách giáo dục đào tạo, KH-CN đều

hướng đến mục tiêu là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Cụ

thể hóa chủ trương của Đại hội VIII, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Hai Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 12/1996) đã thực sự coi GD-ĐT là quốc

sách hàng đầu, là nhân tố quyết định tǎng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư

34

cho GD-ĐT là đầu tư phát triển, các cá nhân đều có trách nhiệm trách nhiệm góp

phần phát triển sự nghiệp GD-ĐT. Đồng thời Đảng chủ trương GD-ĐT luôn gắn

liền với nhu cầu phát triển KT-XH nhằm hình thành và phát triển đội ngũ lao động

lành nghề, bảo đảm có nhiều nhân tài cho đất nước bước vào thế kỷ XXI.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) Đảng tiếp tục chủ trương đẩy

mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó nhấn mạnh về động lực phát triển đất

nước là phát huy sức mạnh của đại đoàn kết tất cả các giai tầng, các dân tộc và của

toàn xã hội. Đồng thời chỉ rõ xã hội ta là xã hội vì con người, đặt con người vào vị

trí trung tâm của phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và lấy việc nâng cao chất lượng

cuộc sống con người làm mục tiêu phục vụ. Đảng luôn nhấn mạnh phát triển kinh tế

phải đi đôi với giải quyết tốt những vấn đề xã hội và chính là thực hiện mục tiêu xây

dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng khẳng định: “Tăng cường

kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục,… nâng cao dân trí, giáo dục và

đào tạo con người, xây dựng và phát triển NNL của đất nước” [30, tr.169] và mọi

chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ mục đích vì con

người, chăm sóc bồi dưỡng con người, phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp

CNH, HĐH đất nước. Với vai trò là động lực thúc đẩy sự phát triển KT-XH, đẩy

mạnh CNH, HĐH, văn hóa và giáo dục, KH&CN có nhiệm vụ khơi dậy mọi tiềm

năng, phát triển sức sáng tạo của con người Việt Nam, tạo ra nguồn lực nội sinh

quyết định sự nghiệp CNH, HĐH. Đồng thời cần “tăng cường đầu tư vào phát triển

con người thông qua phát triển mạnh giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ.

Đảm bảo nguồn nhân lực về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu ngày càng

cao của công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [30, tr.257].

Với quan điểm nêu trên, lần đầu tiên Đảng đã chỉ ra nhiệm vụ phát triển

NNL được cụ thể hóa bằng chủ trương chính sách cụ thể, trong đó nhấn mạnh chủ

trương cơ bản nhất là khẳng định sự nghiệp GD-ĐT phải là nhiệm vụ hàng đầu để

đẩy mạnh CNH, HĐH, nhằm mục tiêu:

Đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề

nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức

vươn lên về khoa học và công nghệ. Xây dựng đội ngũ công nhân lành

nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hoá, nhà kinh doanh, nhà

35

quản lý. Chính sách sử dụng lao động và nhân tài phải tận dụng mọi

năng lực, phát huy mọi tiềm năng của các tập thể và cá nhân phục vụ sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước [30, tr.201-202].

Với quan điểm tích cực về phát triển NNL, có thể khẳng định quan điểm

nhất quán của Đảng là tăng cường chính sách đầu tư cho GD-ĐT, coi GD-ĐT là

nhiệm vụ hàng đầu để phát triển NNL, vì NNL là nguồn lực quan trọng nhất để

thực hiện sự nghiệp đổi mới, xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó

với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí

kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, muốn phát triển NNL bền

vững yêu cầu nhiệm vụ của GD-ĐT là phải tạo ra đội ngũ con người có trí tuệ cao,

có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp được đào tạo bồi dưỡng và phát huy

bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học công nghệ hiện đại.

Như vậy, phát triển NNL được Đảng đặc biệt quan tâm, là một khâu đột phá

trong chiến lược phát triển KT-XH. So với quan điểm chung thời kỳ trước, đây là

bước phát triển hơn hẳn trong nhận thức của Đảng về NNL và phát triển NNL. Đây

chính là những định hướng cơ bản cho các địa phương, trong đó có tỉnh Vĩnh Long

vận dụng vào thực tế của tỉnh để triển khai phát triển NNL đáp ứng yêu cầu đẩy

mạnh CNH, HĐH của địa phương.

2.1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Vĩnh Long tác động

đến phát triển nguồn nhân lực

Tỉnh Vĩnh Long được thành lập vào năm 1732 [7] với nhiều tên gọi địa

danh khác nhau. Năm 1832 toàn bộ vùng đất Nam Bộ được chia thành 6 tỉnh gọi

là Nam kỳ lục tỉnh, trấn Vĩnh Thanh được gọi là tỉnh Vĩnh Long gồm có 4 phủ, 8

huyện, 47 tổng.

Từ giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thôn tính,

xác lập hệ thống chính quyền thực dân để bóc lột khai thác. Ngày 5/1/1876, Thống

đốc Nam kỳ Dupere ra nghị định phân chia toàn bộ Nam kỳ thành 4 khu vực hành

chính lớn là Sài Gòn, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Bassac. Mỗi khu vực hành chính lớn lại

chia nhỏ thành nhiều tiểu khu hành chính, trong đó khu vực hành chính Vĩnh Long

gồm 4 tiểu khu là Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh và Sa Đéc. Ngày 20/12/1899, Toàn

36

quyền Đông Dương Paul Doumer ký Nghị định chính thức đổi tên gọi tiểu khu thành

tỉnh, hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh sáp nhập lại thành tỉnh Vĩnh Trà.

Từ cuối năm 1954 đến 1975, chính quyền Sài Gòn đã tách tỉnh Vĩnh Trà thành

hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng

(30/4/1975) đất nước thống nhất, ngày 15/2/1976 tỉnh Cửu Long được thiết lập trên

cơ sở của hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh.

Ngày 26/12/1991, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa VIII đã quyết định tách

tỉnh Cửu Long thành hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh. Tỉnh Vĩnh Long được phân

chia thành 8 đơn vị hành chính: thành phố Vĩnh Long, thị xã Bình Minh và 6 huyện

(Long Hồ, Mang Thít, Vũng Liêm, Tam Bình, Trà Ôn và Bình Tân) với 107 đơn vị

xã, phường, thị trấn và 846 khóm, ấp. Diện tích tự nhiên Vĩnh Long rộng 148.737

ha (1.487,37 km2), trong đó có 114.528 ha trồng lúa và cây ăn trái. Dân số tính đến

thời điểm năm 2000 có tổng 1.013.423 người, đứng hàng thứ hai trong 13 tỉnh

thành khu vực các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Tuyệt đại đa số dân cư sống ở

nông thôn chiếm 85,66%, số người sống ở thành thị 14,34% [19].

Là tỉnh ít bị nhiễm phèn trong đất, có tầng đất sét ở độ sâu từ 5m đến 20m

thích hợp trồng lúa và cây ăn trái ngắn ngày. Khí hậu Vĩnh Long nằm trong khu vực

có lượng gió lớn và thường có 3 hướng gió chính là gió Tây Nam, Đông Bắc, và gió

Đông Nam nên ít chịu ảnh hưởng của những cơn bão từ biển Đông. Mặc dù ít bị

mưa lũ diễn ra bởi thời tiết tương đối điều hòa, nhưng hiện tượng bị ngập lụt vẫn

xảy ra ở nhiều nơi như ở các tuyến sông, kênh rạch thuộc các huyện Mang Thít, Trà

Ôn, Vũng Liêm, Tam Bình. Hiện tượng ngập lụt cũng đã làm cản trở đời sống sinh

hoạt của dân cư nơi đây và cũng chính dân cư sống ở vùng ngập lụt họ cũng chịu

những ảnh hưởng nhất định về điều kiện để đảm bảo giữ vững quốc phòng an ninh,

ổn định xã hội ở địa phương.

Vĩnh Long nằm giữa hai trung tâm kinh tế lớn là thành phố Hồ Chí Minh và

thành phố Cần Thơ, rất thuận lợi cho hệ thống giao thông huyết mạch đường bộ và

đường thủy đi qua, trong đó hệ thống đường bộ nội địa có năm Quốc lộ kết nối với

các tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long như các tỉnh: Tiền Giang, Bến Tre, Cần

thơ, Trà Vinh, Đồng Tháp tạo điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu kinh tế và là

cửa ngõ vị trí chiến lược quốc phòng an ninh khu vực Tây Nam Bộ. Là tỉnh có vị trí

địa lý nằm giữa hai nhánh sông lớn là sông Tiền và sông Hậu, Vĩnh Long có thế

37

mạnh về sản xuất nông nghiệp và nông nghiệp được xem là mặt trận hàng đầu trong

quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế của địa phương. Đồng thời sản xuất nông

nghiệp, công nghiệp, thương mại và dịch vụ cũng là những lĩnh vực chiếm tỷ trọng

trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Có thể khái quát điều kiện kinh tế Vĩnh Long có hai

vùng trọng điểm: Vùng kinh tế thuộc khu vực sông Tiền là các xã phường thị trấn

gần trung tâm thành phố, huyện nối liền với trục giao thông chính trên 3 Quốc lộ:

Quốc lộ 1A, Quốc 54, Quốc lộ 57 rất thuận lợi để phát triển KT-XH; Vùng kinh tế

thuộc khu vực sông Hậu là các xã, thị trấn cách trung tâm thành phố Vĩnh Long

khoảng 20km2 đến 58km2 nối liền với trục giao thông thủy bộ thuộc một bộ phận

của tuyến Quốc lộ 1A, Quốc lộ 53 và Quốc lộ 80. Gồm 68 xã, thị trấn thuộc các

huyện Tam Bình, huyện Bình Minh, huyện Bình Tân, huyện Vũng Liêm, huyện Trà

Ôn. Với vị trí địa lý xa trung tâm thành phố, tỉnh lỵ nhưng đặc trưng vùng kinh tế

trong khu vực này chịu ảnh hưởng rất lớn từ sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản

xuất lúa gạo.

Là tỉnh thuộc vùng châu thổ sông Cửu Long - một trong ba vùng trọng điểm

của đất nước, ngoài người Kinh ở Vĩnh Long còn là vùng cư trú tự nhiên của nhiều

dân tộc: dân tộc Kinh 978.893 người, chiếm tỷ lệ 97,40%; dân tộc Khmer 22.350

người, chiếm tỷ lệ 2,14%; dân tộc Hoa 5.710 người, chiếm tỷ lệ 0,56%; còn lại các

dân tộc khác 223 người, chiếm tỷ lệ 0,3%. Các dân tộc có quá trình đoàn kết lâu

đời, chung sức chung lòng khai khẩn, chống thiên tai và ngoại xâm xây dựng mãnh

đất Vĩnh Long giàu đẹp, tạo nên cộng đồng đa dân tộc là nhân tố quyết định tình

hình phát triển KT-XH, xây dựng đời sống văn hóa và bảo vệ quê hương, đất nước.

Mặc dù, là tỉnh có hai vùng kinh tế trọng điểm là khu vực sông Tiền và khu

vực sông Hậu, nhưng kinh tế Vĩnh Long chưa tương xứng với tiềm năng, chưa

chuyển dịch tốt cơ cấu kinh tế vẫn còn hình thức độc canh cây lúa. Lĩnh vực tiểu

thủ công nghiệp và xây dựng kém phát triển, thiếu nhiều cơ sở hạ tầng phục vụ cho

CNH, HĐH, có nơi cơ sở hạ tầng còn tụt hậu xa so với các tỉnh đồng bằng sông

Hồng, có mặt yếu kém hơn một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long [94, tr.27].

Tuy nhiên, do những khó khăn của một tỉnh vùng trũng trong khu vực đồng

bằng sông Cửu Long có lực lượng lao động chiếm 44% dân số, trong đó lao động

nông nghiệp chiếm trên 90% (năm 1991) và lao động nữ chiếm 53% tổng số lao

động toàn tỉnh. Tuy nhiên lực lượng lao động không có việc làm rất lớn. Từ năm

38

1992 đến năm 2000, hàng năm có khoảng 16.000 - 18.000 lao động [94, tr.14]

không có việc làm nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và những

ngành khác về lĩnh vực tài chính, ngân hàng, y tế,...

Phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ chất lượng chưa cao, chưa vững

chắc, đội ngũ giáo viên còn thiếu và yếu, nhận thức của người dân vùng đồng bằng

về nhu cầu học tập còn hạn chế, kinh phí cho sự nghiệp ứng dụng khoa học kỹ thuật

và chuyển giao công nghệ còn chậm, các hoạt động văn hóa ở cơ sở chưa sâu rộng

và mức hưởng thu chưa cao, thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể thao

còn hạn chế, thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội truyền

thống, tệ mê tín dị đoan có xu hướng gia tăng và còn nhiều bất cập [94, tr.28]. Tỷ lệ

người nghèo, thiếu việc làm và chưa được đào tạo còn là vấn đề nóng bỏng nhưng

chưa được giải quyết tốt.

Vào cuối năm 1999, Vĩnh Long có 528.416 lao động có tay nghề kỹ thuật,

chiếm 13,6% [122, tr.63]. Trong đó lao động khu vực nông, lâm, ngư nghiệp là

56,99%; lao động thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng cơ bản là 12,1% và lao

động thuộc khu vực dịch vụ là 30,91%. Trình độ đại học và trên đại học 5.118

người chiếm 0,96%, cao đẳng 4.125 người chiếm 0,78%, công nhân kỹ thuật và

trung cấp 15.893 người chiếm 3%. Đây là tỷ lệ khá thấp so với mặt bằng chung cả

nước và đang mất cân đối đào tạo giữa các ngành, nhất là các ngành kỹ thuật trong

nền kinh tế quốc dân. Nếu cơ cấu kinh tế Vĩnh Long dựa vào nông nghiệp chiếm

71% thì lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật chỉ mới đạt khoảng

10% [100, tr.62]. Riêng đối với lao động khu vực Nhà nước, tỷ lệ lao động có kỹ

thuật chiếm tỷ lệ khá nhưng chỉ ở trình độ trung cấp trở lên chiếm 90%, trong đó lao

động có nghiệp vụ, lao động quản lý, lao động kỹ thuật có trình độ cao đẳng, đại

học trở lên chiếm 16% [100, tr.63] trong tổng số công nhân viên chức toàn tỉnh.

Tình hình trên cho thấy, thực trạng NNL trong tỉnh rất đông về số lượng

nhưng cũng thấp về chất lượng, đồng thời lực lượng lao động có trình độ chuyên

môn kỹ thuật thiếu và mất cân đối trong các ngành thuộc lĩnh vực nông nghiệp,

công nghiệp và dịch vụ, xây dựng. Nếu theo cơ cấu đào tạo (1- 4-10; 1 đại học, 4

trung cấp, 10 công nhân kỹ thuật) thì tỉnh Vĩnh Long đang thiếu khoảng 44.000

lao động [100, tr.62] có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao để đáp ứng cho các

39

ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, nhất là các ngành nghề được xem là thế mạnh

của địa phương.

Do vậy, để khai thác những tiềm năng của tỉnh để đẩy mạnh phát triển KT-

XH, tỉnh Vĩnh Long cần đẩy mạnh phát triển NNL, đặc biệt chú trọng đến đào tạo

NNL đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh nói riêng và của cả nước nói chung.

2.1.3. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Vĩnh Long từ khi

tái lập tỉnh đến năm 2000

Nguồn nhân lực trước năm 2000 nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu sự nghiệp

CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Thiếu đội ngũ có trình độ chuyên môn giỏi

trong các lĩnh vực khoa học - kỹ thuật, thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi và lực

lượng lao động công nhân lành nghề; thiếu sự phân bố, quy hoạch trong chủ trương

chính sách về cơ cấu và chất lượng NNL, nhất là CBCCVC trong các cơ quan hành

chính sự nghiệp và lao động có trình chuyên môn kỹ thuật (lao động lành nghề);

thiếu cơ chế chính sách trong công tác đào tạo theo ngành nghề, lĩnh vực trước yêu

cầu của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Cụ thể như sau:

Nguồn nhân lực cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước

Từ năm 1996 đến năm 2000, toàn tỉnh có 13.793 CBCCVC, trong đó khối

quản lý Nhà nước cấp tỉnh có 751 người, khối quản lý Nhà nước cấp huyện có 549

người, khối sự nghiệp GD-ĐT 10.113 người, khối sự nghiệp văn hóa, thể thao 78

người, khối y tế 1.786 người và sự nghiệp khác 580 người. Trình độ chuyên môn: 01

tiến sỹ, 22 thạc sỹ, 2.184 đại học, 4.046 cao đẳng, 5.025 trung cấp [122, tr.96-99].

Là một tỉnh đi lên từ nông nghiệp, NNL trong các cơ quan nhà nước luôn

đóng vai trò không thể thiếu trong nhiệm vụ thực hiện phát triển KT-XH của tỉnh.

Năm 1996 đến năm 2000, đây là nhiệm kỳ đầu tiên trong điều kiện tỉnh Vĩnh Long

vừa chia tách, nguồn lực cán bộ hụt hẫng, công nợ lớn nhưng tỉnh đã khắc phục mọi

khó khăn để vươn lên với tốc độ tăng trưởng khá liên tục, GDP bình quân hàng năm

đạt 8,01% (so với nhiệm kỳ khóa V (1992-1995) GDP chỉ đạt 7,65% cho cả tỉnh

Vĩnh Long và Trà Vinh), đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, GDP bình

quân đầu người tăng 18,65% năm (cuối năm 1995 GDP đầu người là 2.356.500

đồng, so với năm 1991 là 1.190.000 đồng) cơ bản xóa được đói, giảm được nghèo,

tình hình quốc phòng - an ninh được củng cố, tổ chức cơ sở Đảng được kiện toàn

đến cuối năm 1995 toàn Đảng bộ có 11.910 đảng viên (năm 1992 có 459 đảng viên)

40

đã góp phần thúc đẩy ổn định chính trị, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Chính

quyền và chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố.

Tuy nhiên, để đánh giá về số lượng và chất lượng NNL là CB,CC,VC trong

các cơ nhà nước vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu trong giai đoạn mới - giai đoạn

CNH, HĐH tỉnh nhà. Giai đoạn này tỉnh thiếu cán bộ khoa học đầu đàn, thiếu cán

bộ có chuyên môn giỏi, số cán bộ có trình độ sau đại học ít, trình độ ngoại ngữ hầu

hết CB,CC,VC còn thấp, nhất là nguồn CB,CC,VC trong các lĩnh vực ngành nông

nghiệp, quản lý hành chính công, xây dựng, giao thông,... Bên cạnh đó công tác

quản lý đội ngũ CB,CC,VC bộc lộ bất cập, thiếu căn cứ đánh giá năng lực, hiệu

quả của CB,CC,VC trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ, trong bồi dưỡng quy

hoạch và phát triển đội ngũ công chức. Mặt khác, NNL ở một số ngành như tài

chính, ngân hàng, bưu chính, bảo hiểm và các ngành dịch vụ khác có tăng dần về

số lượng và chất lượng, phản ánh khách quan xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nhưng chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển KT-XH khi so sánh với các

tỉnh lân cận trong khu vực như tỉnh Đồng Tháp, Bến Tre, Hậu Giang. Số lượng

CB,CC,VC làm việc trong ngành trọng yếu, mũi nhọn như viễn thông, công nghệ

phần mềm, tài chính, pháp luật, kiểm toán, thiết kế, nghiên cứu khoa học… còn rất

ít và rất thấp so với yêu cầu.

Nguyên nhân của thực trạng trên chủ yếu là sự nhận thức về vị trí và vai trò

của sự nghiệp GD-ĐT trong quá trình phát triển ở cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn

thể chưa sâu sắc, chưa toàn diện nên còn hạn chế và hiệu quả chưa cao nhất là

NNL có trình độ đại học và sau đại học. Thiếu sự quan tâm chỉ đạo của cấp uỷ

đảng, chính quyền đối với GD-ĐT, KH-CN theo Nghị quyết Trung ương Hai khóa

VIII (tháng 12/1996), chưa thực sự coi “giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ

là quốc sách hàng đầu” là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng và phát triển KT-

XH. Công tác đào tạo, sử dụng và đào tạo lại CB,CC,VC còn nhiều bất cập về cơ

chế, chính sách, chế độ đối với NNL là cán bộ làm công tác khoa học. Đồng thời,

NNL ứng dụng trong khoa học - kỹ thuật còn nhiều hạn chế, nhiều nơi vẫn trong

tình trạng vừa thừa vừa thiếu, lực lượng kế thừa còn mỏng. Công tác quy hoạch,

sử dụng NNL có trình độ khoa học - kỹ thuật chưa rõ ràng, thiếu đồng bộ, thiếu cơ

chế chính sách đào tạo theo nhu cầu. Chính sách sử dụng và đãi ngộ nguồn lực

con người nói chung gồm cán bộ khoa học - kỹ thuật chưa thỏa đáng, thiếu động

41

lực khuyến khích và thu hút chất xám. Từ đây bài toán phát triển và sử dụng

nguồn nhân lực cần có lời giải cho sự đóng góp phát triển KT-XH của địa phương

trong thời gian tới là cấp thiết.

Nguồn nhân lực chuyên môn kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn

So với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh Vĩnh Long có mật độ dân số

đông, với tốc độ tăng dân số trung bình hàng năm từ năm 1995 đến năm 2000 là

0,33%. Trong đó dân số trong độ tuổi lao động từ 15 tuổi trở lên là 627.682 người,

số người có khả năng lao động là 616.166 người và số người không tham gia hoạt

động kinh tế là 112.394 người, chiếm 18,24% dân số. Số dân có trình độ chuyên

môn kỹ thuật là 3,61% (cao gấp đôi cả nước là 7,6%), trong đó khu vực thành thị là

17,4% khu vực nông thôn là 3,4% (cao gấp 5,12 lần của cả nước) [8, tr.58; 60-61].

Tính đến năm 2000, số người có chứng chỉ chuyên môn kỹ thuật là 6.168 người, số

người có trình độ Trung học chuyên nghiệp là 11.284 người, số người có trình độ

Cao đẳng là 4.401 người, số người tốt nghiệp Đại học là 5.574 người, giai đoạn từ

1992 - 2000 có 37 thạc sĩ, 5 tiến sĩ chủ yếu là các ngành nông nghiệp chiếm tỷ lệ rất

nhỏ 0,89% [8, tr.66-71]. Hầu hết lực lượng lao động nông nghiệp, nông thôn có

trình độ chứng chỉ chuyên môn sơ cấp hoặc tập huấn nghề ngắn hạn được gọi là gọi

là công nhân kỹ thuật nhưng thực tế chưa được cấp bất kỳ loại văn bằng hoặc chứng

chỉ nghề nghiệp nào đã làm cho chất lượng NNL của tỉnh không cao và thấp hơn rất

nhiều so với mức trung bình của cả nước và khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Đây là một trở ngại rất lớn đến tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh

Vĩnh Long.

Lực lượng lao động của tỉnh tập trung chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất nông -

lâm nghiệp là 349.517 người chiếm tỷ lệ 71%, lao động công nghiệp 49.228 người

chiếm tỷ lệ 10%, dịch vụ 93.533 người chiếm tỷ lệ 19%. Nếu so tỷ trọng lực lượng

lao động giữa nông - lâm nghiệp và công nghiệp, dịch vụ thì có sự mất cân đối và

chênh lệch lớn so với tốc độ tăng trưởng của thời kỳ CHN, HĐH đất nước. Tuy

nhiên nếu so với thời điểm năm 1995, lực lượng lao động trong lĩnh vực nông

nghiệp chiếm tỷ lệ rất lớn là 82%, thì đến năm 2000 nguồn lực lao động này có xu

hướng giảm dần khoảng 10% nhưng so với mặt bằng khu vực đồng bằng sông Cửu

Long thì đây là vấn đề gay gắt trong việc giải quyết việc làm. Bởi vì nguồn lực lao

động khu vực nông nghiệp, nông thôn Vĩnh Long tính thời điểm năm 1995 chỉ có

42

khoảng 10% [100, tr.87] có trình độ chuyên môn kỹ thuật nhưng tập trung khu vực

kinh tế Nhà nước. Đây thực sự là thách thức lớn đối với việc đáp ứng nhu cầu lao

động kỹ thuật lành nghề của các doanh nghiệp cũng như đầu vào cho các cơ sở đào

tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của địa phương ở những giai đoạn

tiếp theo.

Về sự chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp sang các ngành công

nghiệp, xây dựng và dịch vụ tuy có đạt được những kết quả nhưng tốc độ chuyển

dịch còn chậm so với các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Trong

vòng 5 năm (từ 1995 đến 2000) lao động ngành công nghiệp - xây dựng chỉ tăng

6.635 người, bình quân mỗi năm tăng 2.212 người, lao động dịch vụ tăng 14,477

người, bình quân mỗi năm tăng 4.826 người. Với tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao

động đã làm cho nền kinh tế của tỉnh có bước chuyển dịch tăng dần tỷ trọng công

nghiệp và dịch vụ trong GDP, cơ cấu lao động cũng chuyển đổi theo hướng tăng tỷ

lệ lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ và giảm lao động trong ngành nông

nghiệp. Tính đến cuối năm 2000 đã đạt cơ cấu kinh tế theo tỷ trọng nông nghiệp

61,32%, công nghiệp xây dựng 11,17% và dịch vụ 27,51% [100, tr.4]. Tuy nhiên

với kết quả bước đầu đã đạt được nhưng tình hình thực tế về chất lượng NNL vẫn

chưa đáp ứng được sự đòi hỏi của địa phương. Phần lớn NNL có trình độ chuyên

môn, tay nghề còn ở mức thấp, ý thức tác phong thái độ làm việc và chấp hành pháp

luật chưa cao. Tình hình dịch chuyển lao động sẽ rất lớn trong thời gian tới, cụ thể

là từ nông thôn ra thành thị và khu công nghiệp tập trung. Trình độ học vấn của các

đối tượng trong độ tuổi lao động còn nhiều hạn chế nên việc đào tạo nghề cũng gặp

không ít khó khăn. Đặc biệt, một số lao động xem học nghề là một việc bất khả

kháng nên chưa có ý chí phấn đấu, hầu hết lao động nông thôn chỉ làm nghề thuần

nông và các hoạt động liên quan đến nông nghiệp. Bên cạnh đó nguồn lực lao động

nông nghiệp, nông thôn thiếu kiến thức và kỹ năng, chưa bắt kịp tiến trình đô thị

hóa và tiến trình hội nhập nên chất lượng lao động không cao. Đồng thời NNL dồi

dào, trẻ nhưng phân bố lao động chưa hợp lý, lao động nông nghiệp quá nhiều

(71%) điều này nói lên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm. Số người không

tham gia hoạt động kinh tế còn cao, số người thiếu công ăn việc làm còn đông

(32.594 người, tỷ lệ 5,3%). Thời gian lao động sử dụng ở mức độ thấp (mới đạt

khoảng 70%). Lao động qua đào tạo còn ít, đại bộ phận là lao động giản đơn, thủ

43

công; chủ yếu là lao động theo kinh nghiệm lưu truyền, tập quán. Trình độ học vấn,

tay nghề thấp. Toàn tỉnh tỷ lệ lao động qua đào tạo mới đạt 10,1% (khu vực nông

thôn chỉ đạt 6%) đã mang lại hiệu quả cho sản phẩm lao động còn đơn giản chưa có

sức cạnh tranh trong nước và khu vực [100, tr.3-4; 7-9].

2.1.4. Những vấn đề đặt ra trong công tác phát triển nguồn nhân lực

Ngày 5/5/1992 tỉnh Vĩnh Long đã chính thức đi vào hoạt động, việc tái lập

tỉnh là phù hợp với xu thế phát triển, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Đại hội

đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ V nhiệm kỳ (1991-1995) xác định: “Phải

nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Coi trọng giáo dục chính trị, đạo đức,

truyền thống, lịch sử địa phương và kiến thức văn hóa, khoa học tự nhiên và xã hội,

đảm bảo đến năm 1995 thoát dốt cho đại bộ phận người từ 15 tới 35 tuổi” [23,

tr.56]. Đến Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long (khóa V) tiếp

tục khẳng định: Ra sức tạo một bước chuyển biến mới về chất lượng trong sự

nghiệp nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài gắn với chương trình

xóa đói giảm nghèo. Củng cố và nâng cao chất lượng trường trung học và cao đẳng

sư phạm, phối hợp với các trường dạy nghề của tỉnh và Trung ương đóng trên địa

bàn tỉnh mở các lớp dạy nghề, gắn học chữ với học nghề. Có kế hoạch bồi dưỡng,

đào tạo lại, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên. Phấn đấu đến năm 1995 hoàn thành chỉ

tiêu phổ cập tiểu học, xóa 50% mù chữ. Đến năm 2000 xóa xong mù chữ (trong độ

tuổi), hai phần ba cán bộ chủ chốt của tỉnh đủ chuẩn văn hóa. Nâng một bước chất

lượng lao động, đào tạo đủ nhân viên kỹ thuật cho các ngành kinh tế kỹ thuật của

tỉnh [91, tr.38-39].

Xuất phát yêu cầu phát triển NNL để thúc đẩy phát triển KT-XH, Đại hội

lần thứ VI của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long (1996-2000) xác định phát triển NNL là

một trong những giải pháp chủ yếu để thực hiện mục tiêu KT-XH của tỉnh trong

giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2000. Đại hội mạnh dạn nhìn thẳng vào sự thật và

đánh giá đúng sự thật về bối cảnh tình hình thực tế diễn ra, trong đó tập trung xác

định những vấn đề còn yếu kém trong đại hội trước để tập trung lãnh đạo. Đại hội

xác định một số vấn đề trọng tâm và chỉ đạo cụ thể như sau: Từ nay đến năm

2000, Vĩnh Long ra sức đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hành tiết

kiệm tăng tích lũy để tái đầu tư sản xuất, phấn đấu tăng trưởng bình quân (GDP)

đầu người đến năm 2000 tăng 1,7 lần so với năm 1995. Tiếp tục củng cố và giữ

44

vững ổn định về mọi mặt, bằng mọi giá khắc phục tình trạng hụt hẫng về đội ngũ

cán bộ lãnh đạo có trình độ đại học; đội ngũ trí thức là nhà quản lý, nhà nghiên

cứu, nhà giáo; đội ngũ lao động trình độ cao đang công tác các sở ban ngành tỉnh.

Mở rộng các loại hình thức đào tạo và dạy nghề để đáp ứng nhu cầu ngày càng

tăng về lao động kỹ thuật; khuyến khích đội ngũ cán bộ, công chức tự học để sớm

chuẩn hóa chức danh, rút ngắn khoảng cách về chất lượng NNL giữa vùng này với

vùng khác [122, tr.154].

Với ý nghĩa và tầm quan trọng về chăm lo phát triển nguồn lực con người

nhằm đẩy nhanh nhịp độ phát triển KT-XH, làm đòn bẩy thực hiện chiến lược phát

triển kinh tế 5 năm theo Nghị quyết của tỉnh Đảng bộ. Trong 5 năm đội ngũ NNL

của tỉnh Vĩnh Long từng bước được nâng lên cả về số lượng và chất lượng, góp

phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển KT-XH của tỉnh. Tuy nhiên tỉnh Vĩnh

Long vẫn còn trong tình trạng chậm phát triển, nền kinh tế thuần nông vẫn chưa

chuyển biến kịp với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, vốn đầu tư từ bên

ngoài chưa nhiều, trình độ dân trí thấp, đội ngũ CB,CC,VC còn nhiều bất cập so với

yêu cầu của công cuộc đổi mới, nguồn lực con người nói chung vẫn còn thiếu và

yếu. Có thể khái quát một số vấn đề đặt ra trong công tác phát triển NNL như sau:

Một là, để phát huy và khai thác tối đa ưu thế từ NNL đem lại, tỉnh Vĩnh

Long cần có chiến lược lâu dài, đột phá toàn diện trên các mặt và đồng thời có

những hoạch định chính sách phù hợp với xu thế phát triển chung của đất nước và

địa phương, đặc biệt là hình thành đội ngũ CB,CC,VC có trình độ chuyên môn cao,

đội ngũ lao động lành nghề. Đây cũng là mối quan tâm hàng đầu và cũng là trăn trở

khi nghiên cứu vấn đề này.

Hai là, là tỉnh có nền kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp là

chính nhưng nền nông nghiệp trong thời kỳ đổi mới phát triển chưa vững chắc,

ruộng vườn hoang hóa nhiều, sản xuất nông nghiệp mới chỉ khai thác trong điều

kiện tự nhiên sẵn có theo lối quảng canh, chưa vận dụng sự tiến bộ khoa học - kỹ

thuật vào sản xuất nông nghiệp. Nền công nghiệp vẫn còn nhỏ bé, tiểu thủ công

nghiệp chưa phát triển mạnh, máy móc, kỹ thuật và công nghệ còn lạc hậu. Hoạt

động thương mại và dịch vụ chưa có đầu tư thỏa đáng và phát triển mạnh mẽ,… Vì

vậy để phát triển NNL đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH trong thời kỳ phát triển đất

nước và hội nhập quốc tế, tỉnh Vĩnh Long cần có những chủ trương chính sách hợp

45

lý, đẩy mạnh công tác GD-ĐT, nhất là công tác giáo dục bậc đại học và sau đại học.

Đồng thời cần chú trọng công tác bố trí, sử dụng đội cán bộ trong hệ thống chính trị,

công tác phát hiện và trọng dụng nhân tài, hình thành được đội ngũ lao động có

trình độ cao đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế, thúc đẩy KT-XH phát triển.

Ba là, NNL vào thời điểm năm cuối 1991 đến năm 2000, lực lượng lao động

toàn tỉnh (từ 15 tuổi trở lên) chiếm khoảng 44% dân số, trong đó lao động nông

nghiệp chiếm trên 70% tổng số lao động toàn tỉnh [96], phần lớn lao động không có

việc làm ổn định, trình độ lao động rất thấp chủ yếu là học sinh mới tốt nghiệp phổ

thông cơ sở và phổ thông trung học, đa phần chưa có trình độ chuyên môn nhất

định. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức, viên chức, giáo

viên, bác sĩ vừa thiếu lại vừa yếu, hạn chế nhiều về kiến thức quản lý Nhà nước

cũng như trình độ chuyên môn, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức xã phường thị

trấn hầu hết chưa qua quá trình đào tạo kể cả bậc đại học, đặc biệt là đào tạo quản lý

Nhà nước trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là một trong những vấn đề

đặt ra đối với một địa phương có ưu thế về điều kiện vị trí địa lý và tiềm năng của

trung tâm đồng bằng sông Cửu Long. Nhiệm vụ của địa phương trong những năm

tiếp theo là tập trung phát triển NNL, nhất là NNL có trình độ chuyên môn là kỹ sư,

nhà nghiên cứu, nhà khoa học,...

Bốn là, trước yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH nhiệm vụ chủ yếu của Đảng bộ

tỉnh Vĩnh Long là cần có chiến lược đầu tư cho con người, lấy con người làm mục

tiêu, động lực để phát triển kinh tế. Mặt khác là tỉnh có bề dày quá trình lịch sử khai

khẩn vùng đất, có lợi thế rất lớn về điều kiện vị trí địa lý nhưng Vĩnh Long vẫn

chưa đạt được mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, GDP bình quân đầu người đạt

thấp, năng suất lao động thấp, sản xuất nông nghiệp vẫn là tự túc, tự cấp, tình trạng

nghèo đói vẫn chiếm tỷ lệ cao trong dân cư. Trình độ giáo dục các bậc học chưa

cao, chưa đạt được vị trí xứng tầm của một địa phương nằm giữa hai trung tâm kinh

tế lớn là thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ, nhất là NNL có trình độ

bậc đại học. Lực lượng lao động chuyên môn kỹ thuật, lao động lành nghề có trình

độ đại học, sau đại học còn thiếu và yếu, nhận thức của người dân về nhu cầu học

tập còn hạn chế, kinh phí cho sự nghiệp GD-ĐT trong các ngành nghề trọng yếu

như y tế, giáo dục, tài chính còn thấp chưa thỏa đáng. Công tác ứng dụng khoa học -

kỹ thuật và chuyển giao công nghệ còn chậm, các hoạt động văn hóa ở cơ sở chưa

46

sâu rộng và mức hưởng thu chưa cao, thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa,

thể thao còn hạn chế, tỷ lệ người nghèo mù chữ chiếm tỷ lệ cao trong dân cư, nhất

là vùng đồng bào dân tộc vùng sâu vùng xa. Chính vì vậy, phát triển NNL là điều

kiện tất yếu của sự phát triển, là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển lâu dài

và bền vững.

2.2. CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG

VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2005

2.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long về phát triển nguồn

nhân lực

Bước vào thế kỷ XXI, thành tựu KHCN ngày càng tác động mạnh mẽ đến

toàn nhân loại. Trong khi đó, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp chậm phát

triển, đất hẹp, người đông, nguồn tài nguyên ít. Con đường để đưa đất nước phát

triển, đủ sức cạnh tranh với các nước trên thế giới là nhanh chóng phát triển NNL

Do vậy, khâu đột phá quan trọng nhất là cải tiến hệ thống GD-ĐT để phát

triển NNL phục vụ CNH, HĐH. Trước tình hình đó, nối tiếp tư tưởng, chủ trương

về phát tiển NNL của các kỳ đại hội trước, Đại hội IX của Đảng (4/2001), đã nhấn

mạnh tầm quan trọng của sự nghiệp GD-ĐT: “Để đáp ứng yêu cầu về con người và

nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần tạo chuyển biến cơ bản về giáo dục - đào tạo” [30,

tr.201]. Đảng chỉ rõ đối tượng, nội dung và mục đích GD-ĐT là:

Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự

tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng

pháp luật, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu

nghèo hèn. Đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ

năng nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới,

có ý thức vươn lên về khoa học và công nghệ. Xây dựng đội ngũ công

nhân lành nghề, các chuyên gia và các nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà

kinh doanh, nhà quản lý [30, tr.201-202].

Đại hội xác định mục tiêu trong 10 năm tới là:

Tạo điều kiện cho mọi người, ở mọi lứa tuổi được học tập thường xuyên,

suốt đời. Có cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng trong hệ

thống giáo dục và đào tạo phù hợp yêu cầu học tập của nhân dân, yêu

47

cầu phát triển kinh tế - xã hội và các mục tiêu của Chiến lược. Mở rộng

đào tạo công nhân, kỹ thuật viên và nhân viên nghiệp vụ theo nhiều trình

độ. Phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo đại học, sau đại học; tập

trung đầu tư xây dựng một số trường đại học trọng điểm quốc gia ngang

tầm khu vực, tiến tới đạt trình độ quốc tế [30, tr.202-203].

Về loại hình, đối tượng và phạm vi lĩnh vực đào tạo, Đảng chủ trương:

Phát triển giáo dục thường xuyên và đào tạo từ xa. Đưa người giỏi đi đào

tạo ở các nước phát triển, khuyến khích tạo thuận lợi cho việc học tập và

nghiên cứu ở nước ngoài. Coi trọng đào tạo đội ngũ công nhân tay nghề

cao, kỹ sư thực hành và nhà kinh doanh giỏi. Ưu tiên đào tạo nhân lực

phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, miền núi, xuất khẩu lao

động, một số ngành mũi nhọn [30, tr.203].

Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Hội nghị lần thứ sáu Ban

Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 7/2002) đã ban hành Kết luận số 14-KL/TW

Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, phương hướng phát triển

GD-ĐT, KH-CN từ nay đến năm 2005 và đến năm 2010. Kết luận đã nhấn mạnh

một số nhiệm vụ sau:

Một là, nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục và đào tạo nhân tài. Thực hiện

giáo dục toàn diện, tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, nhất là trong các

trường đại học, cao đẳng.

Hai là, tăng cường giáo dục hướng nghiệp, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân

lực của đất nước và các địa phương, vùng, miền. Một số trường đại học phải sớm

đạt chất lượng ở trình độ quốc tế. Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, phát

hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện

đại hoá.

Ba là, phát triển hợp lý quy mô giáo dục trên cơ sở bảo đảm chất lượng và

điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với yêu cầu phát triển KT-XH, đào tạo với

sử dụng. Điều chỉnh cơ cấu đào tạo, tăng nhanh dạy nghề và trung học chuyên

nghiệp. Hiện đại hoá một số trường dạy nghề nhằm chuẩn bị đội ngũ công nhân bậc

cao có trình độ tiếp thu và sử dụng công nghệ mới và công nghệ cao. Phát triển giáo

dục không chính quy, các hình thức học tập cộng đồng ở các xã, phường gắn với

48

nhu cầu thực tế của đời sống KT-XH, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người có thể

học tập suốt đời, hướng tới xã hội học tập.

Trên cơ sở chủ trương của Đảng, Chính phủ cụ thể hóa và ban hành nhiều

văn bản liên quan đến phát triển NNL của cả nước nói chung.

Ngày 9/1/2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 02/2001/NĐ-CP quy định

chi tiết thi hành Bộ Luật Lao động và Luật Giáo dục về dạy nghề. Nghị định này đã

quy định những hình thức hoạt động dạy nghề và hoạt động dịch vụ tư vấn về dạy

nghề, các loại hình tổ chức cơ sở dạy nghề; quyền, lợi ích và trách nhiệm của cơ sở

dạy nghề, người dạy nghề, người học nghề; chính sách đầu tư, ưu đãi cho dạy nghề;

quản lý Nhà nước về dạy nghề. Loại hình này bao gồm: Trường dạy nghề, trung

tâm dạy nghề, lớp dạy nghề (gọi chung là cơ sở dạy nghề) được tổ chức độc lập

hoặc gắn với cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, cơ sở giáo dục khác.

Phương thức đào tạo nghề nhằm khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho tổ

chức, cá nhân trong nước và ngoài nước đầu tư xây dựng, phát triển cơ sở dạy nghề

đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH của đất nước.

Ngày 7/5/2001, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 74/2001/QĐ-

TTg về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn

2001 - 2005. Quyết định này đã chú trọng nâng cao kiến thức, năng lực quản lý,

điều hành và thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của

sự nghiệp CNH, HĐH.

Nhận rõ vị trí chiến lược phát triển NNL, ngày 9 tháng 1 năm 2003, Thủ

tướng Chính phủ ban hành Chương trình hành động theo Quyết định số

06/2003/QĐ-TTg về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Kết luận

Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về giáo dục và đào

tạo. Đây là Chương trình hành động có ý nghĩa lịch sử đối với sự nghiệp CNH,

HĐH theo tinh thần Nghị quyết Trung ương hai khóa VIII (1996). Mục tiêu của

chương trình hành động xác định các nhiệm vụ của Chính phủ trong việc tổ chức

thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ phát triển GD-ĐT và dạy nghề.

Nhận thức toàn diện quan điểm của Đảng về công tác phát triển NNL, phát

huy những thành tích đã đạt được gần 10 năm tái lập tỉnh. Đại hội đại biểu Đảng

bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ VII (1/2001) xác định: Chăm lo công tác phát triển

NNL gồm đội ngũ cán bộ, công chức, lực lượng lao động qua đào tạo nghề và đội

49

ngũ công nhân có trình độ chuyên môn kỹ thuật, làm động lực để phát triển KT-

XH trong giai đoạn CNH, HĐH [100, tr.89]. Đại hội nhấn mạnh: Vấn đề con

người luôn là yếu tố hàng đầu của sự phát triển kinh tế, đặc biệt trong điều kiện

cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Để có nguồn nhân lực phù hợp với

yêu cầu phát triển CNH, HĐH, tăng trưởng và phát triển kinh tế phải coi việc đầu

tư cho giáo dục - đào tạo là một trong những hướng đi chính của đầu tư phát triển;

phải đào tạo một cơ cấu nhân lực đồng bộ bao gồm các lĩnh vực khoa học tự

nhiên, khoa học xã hội, khoa học - kỹ thuật, cán bộ quản lý nghiệp vụ kinh tế,

công nhân kỹ thuật [100, tr.90].

Đại hội xác định nhiệm vụ trọng tâm: Sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đòi

hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, nhằm xây dựng những con người và thế

hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức

trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc, có nǎng lực thực hành

nghề nghiệp, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri

thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ nǎng thực hành giỏi,

có tác phong công nghiệp [100, tr.90-91].

Về mục tiêu, Đại hội chỉ rõ: Phát triển nguồn lực con người có tính tổ chức

kỷ luật, có sức khoẻ, là những người có năng lực chuyên môn giỏi, có phẩm chất

đạo đức tốt vì mục đích lý tưởng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân, trên tất cả

mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học - kỹ thuật và lực lượng

lao động lành nghề có trình độ chuyên môn cao [100, tr.53].

Thực hiện chủ trương trên, Đại hội đã đề ra những giải pháp trọng tâm cơ

bản sau:

Một là, tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục trong nhân dân thực sự

coi giáo dục - đào tạo, là quốc sách hàng đầu. Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của

giáo dục và đào tạo là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó

với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí

kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc; sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá

đất nước là nhằm giữ gìn và phát huy các giá trị vǎn hoá của dân tộc, có nǎng lực

tiếp thu tinh hoa vǎn hoá nhân loại, phát huy tiềm nǎng của con người Việt Nam, có

ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học

và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ nǎng thực hành giỏi, có tác phong

50

công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật; có sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng

chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên". Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn

Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Mọi người đi học, học thường xuyên, học

suốt đời. Các cấp uỷ và tổ chức Đảng, các cấp chính quyền, các đoàn thể nhân dân,

các tổ chức kinh tế, xã hội, các gia đình và các cá nhân đều có trách nhiệm trách

nhiệm góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, đóng góp trí tuệ, nhân lực,

vật lực, tài lực cho giáo dục - đào tạo. Đồng thời tiếp tục quán triệt sâu sắc và cụ thể

hóa các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện nền

giáo dục và đào tạo; tạo sự đồng thuận cao coi giáo dục và đào tạo là quốc sách

hàng đầu, có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của địa phương. Cùng

với đó, cần nâng cao nhận thức về giáo dục hướng nghiệp và phân luồng học sinh,

hướng các hoạt động hướng nghiệp đáp ứng thị trường lao động, phục vụ phát triển

KT-XH. Ngành giáo dục cũng cần tăng cường kỷ cương, kỷ luật và nâng cao chất

lượng giáo dục toàn diện trong các cơ sở giáo dục, đào tạo. Bên cạnh đó các cơ sở

giáo dục cần tập trung đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, đáp ứng được đặc

thù của địa phương, nhất là trong các ngành nghề, lĩnh vực công nghệ thông tin, y

tế, tài chính, ngân hàng để đáp đáp ứng nhu cầu thị trường lao động trong thời kỳ

hội nhập quốc tế [99]; [100].

Hai là, tập trung mọi nguồn vốn để chăm lo phát triển nguồn lực con người

đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết Trương ương 2 khóa VIII chỉ rõ:

“Phát triển giáo dục - đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến

bộ khoa học - công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh. Coi trọng cả ba mặt: mở

rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Thực hiện giáo dục kết

hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, lý luận gắn với thực tế, học đi đôi

với hành”. Cần chú trọng xây dựng các chương trình mục tiêu quốc gia, trước hết là

chương trình mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực trong hệ thống cơ quan nhà nước,

phấn đấu đến năm 2005 có khoảng 10.000 cán bộ lãnh đạo quản lý, đội ngũ trí thức,

chuyên gia, nhà khoa học, công nhân kỹ thuật lành nghề [100, tr.86] được đào tạo

theo các khu vực kinh tế Nhà nước trong hệ thống các cơ quan nhà nước và nguồn

lực lao động phục vụ cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Tăng cường cơ sở vật

chất, ngân sách và đầu tư hợp lý cho các cơ sở đào tạo từ tỉnh đến huyện để mở

rộng quy mô đào tạo, bồi dưỡng ngành nghề theo kế hoạch cho đội ngũ lao động,

51

chăm lo xây dựng đội ngũ giáo viên trong các trường đại học, cao đẳng, trung cấp

chuyên nghiệp. Trích 1,5% nguồn thu ngân sách hàng năm của Tỉnh hỗ trợ đào tạo

nguồn nhân lực cho các sở, ban, ngành, đoàn thể, UBND các huyện, thị xã lập dự

toán hàng trình UBND tỉnh phê duyệt; Đối với chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn

nhân lực là cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ thuộc diện quy hoạch hỗ trợ 100% kinh

phí đào tạo; CBCCVC và người lao động trong các cơ quan hành chính sự nghiệp

và lực lượng lao động trong các khu vực kinh tế nhà nước được hỗ trợ theo quy

định hiện hành của Tỉnh. Khuyến khích các tổ chức và cá nhân thực hiện các

chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội mang lại hiệu quả cao đã được

UBND tỉnh phê duyệt sẽ được tỉnh hỗ trợ tối đa không quá 100 triệu đồng/một dự

án hoặc một chương trình. Đẩy mạnh cơ chế chính sách hỗ trợ kinh phí đầu tư cho

các trung tâm dạy nghề công lập huyện, thành phố về nhà xưởng, trang thiết bị dạy

nghề, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực hoạt động và chất lượng dạy nghề cho lao

động nông thôn ở địa phương. Thực hiện tốt Quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề

tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2002 - 2010, nhất là phát triển các trung tâm dạy nghề

tuyến huyện phục vụ cho dạy nghề lao động nông thôn. Đẩy mạnh đầu tư thực hiện

Dự án dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn và dạy nghề cho các đối tượng

lao động đặc thù ở khu vực nông thôn để góp phần nâng cao năng suất, hiệu quả sản

xuất nông nghiệp, phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, tạo việc làm, tăng

thu nhập; chuyển dịch một bộ phận lao động nông nghiệp trẻ sang làm việc trong

lĩnh vực công nghiệp - dịch vụ.

Kết hợp với các trường đào tạo chuyên môn trên địa bàn tỉnh và các trường

đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp ở khu vực thành phố Hồ Chí Minh, Cần

Thơ đào tạo đội ngũ các nhà doanh nghiệp giỏi, công nhân có tay nghề trong nhiều

lĩnh vực ngành nghề. Nâng cấp Trung tâm giáo dục thường xuyên thành đại học

Cộng đồng, đầu tư mở rộng Trường Cao đẳng sư phạm để đáp ứng sự nghiệp giáo

dục, đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh nhà. Chú trọng công tác trọng dụng và sử

dụng nhân tài [99]; [100].

Ba là, phát triển ngành nghề, lĩnh vực đáp ứng nhu cầu xã hội, tạo nền tảng

vững chắc cho phát triển nguồn nhân lực. Tiếp tục thực hiện Đề án số 02-ĐA/TU

(1997) [3] nhằm tạo nguồn CB,CC,VC và lực lượng lao động có trình độ chuyên

môn kỹ thuật nhằm đảm bảo lực lượng kế thừa phục vụ lâu dài. Các trường đại học,

52

cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp cần có sự phối hợp chặt chẽ để phát triển đa

dạng các ngành nghề đào tạo nhằm mục tiêu góp phần thúc đẩy tiến trình CNH,

HĐH ở địa phương và vùng. Trong đó chú trọng các ngành kỹ thuật nông nghiệp,

công nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghệ sinh học, công nghệ chế biến

sau thu hoạch, công nghệ thực phẩm, kinh tế, pháp luật và y tế.

Mạnh dạn phát triển đa dạng hóa hình thức đào tạo kể cả chính quy và đào

tạo thường xuyên bao gồm các hình thức: đào tạo liên thông, vừa học vừa làm, từ xa

cho những ngành nghề có thế mạnh của địa phương như Công nghệ sau thu hoạch,

Công nghệ sinh học, điện và điện tử, cơ khí động lực, cơ khí chế tạo, điều dưỡng,

chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Tăng cường hợp tác, gắn kết giữa nhà trường và

doanh nghiệp trong đào tạo và sử dụng nhân lực cho xã hội, đáp ứng yêu cầu của

các nhà sử dụng lao động. Xây dựng đội ngũ giảng viên có quy mô hợp lý, phù hợp

với cơ cấu ngành nghề, bảo đảm chất lượng, có khả năng tiếp thu và ứng dụng khoa

học, công nghệ mới. Tập trung xây dựng đội ngũ giảng viên cốt cán về các lĩnh vực

chuyên môn ở các trường đại học chuyên ngành đóng trên địa bàn tỉnh.

Bốn là, các cấp ủy Đảng phải làm tốt công tác quy hoạch, xây dựng chiến

lược phát triển nguồn lực con người, để từ đó có kế hoạch cụ thể đào tạo, đào tạo lại

và phát triển NNL có chất lượng cao. Chú trọng đào tạo những cán bộ có năng lực

còn trẻ, cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ nữ và cán bộ dân tộc thiểu số bằng tất cả

mọi hình thức tập trung, tại chức, dài hạn, ngắn hạn, gửi đi đào tạo ở các trường

Trung ương, ở nước ngoài hoặc tại tỉnh. Đầu tư các cơ sở giáo dục nhằm tǎng quy

mô học nghề bằng mọi hình thức để phấn đấu hàng năm đạt 10 - 15% đội ngũ lao

động được qua đào tạo đến nǎm 2005. Kế hoạch đào tạo phải theo sát chương trình

KT-XH của địa phương nhằm phục vụ cho sự chuyển đổi lao động cho CNH, HĐH

nông thôn và nông nghiệp. Tǎng cường đầu tư, củng cố và phát triển các trường dạy

nghề, xây dựng trường trọng điểm, nâng cấp Trung tâm đào tạo thường xuyên thành

trường Cao đẳng cộng đồng, quy hoạch các trường trung cấp: y tế, tài chính, lương

thực - thực phẩm thành trường Đại học trực thuộc Tỉnh. Khuyến khích các trường

công lập của Trung ương và địa phương đóng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long mở rộng

các hình thức đào tạo thường xuyên với loại hình học từ xa. Đào tạo đủ công nhân

lành nghề cho các khu công nghiệp, khu chế xuất và công nhân có nhu cầu xuất

khẩu lao động. Có chính sách thỏa đáng để thu hút cán bộ có năng lực từ nơi khác

53

đến và về cơ sở vùng sâu, vùng xa làm việc. Phối hợp chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo,

bồi dưỡng với việc sử dụng lao động và có phương án phù hợp sử dụng phát huy

có hiệu quả chất xám của đội ngũ cán bộ đại học và trên đại học, nâng cao hiệu

quả của cán bộ làm lãnh đạo, quản lý ở các khu vực kinh tế Nhà nước và các khu

vực khác. Kết hợp giữa đào tạo kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp vỡi bồi dưỡng

phẩm chất đạo đức và thực hiện chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong các cơ

quan nhà nước. Quan tâm đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý, kỹ thuật, nghiệp

vụ và công nhân các doanh nghiệp. Phối hợp với Trường Chính trị tỉnh và các

Trường Chính trị thành phố, huyện thị tǎng cường đào tạo và bồi dưỡng cán bộ

lãnh đạo, cán bộ quản lý các cấp các ngành. Có chính sách quan tâm đào tạo bồi

dưỡng cán bộ chủ chốt xuất thân từ công nhân, nông dân và lao động ưu tú, con

em các gia đình thuộc diện chính sách. Xây dựng chính sách đãi ngộ cho đội ngũ

cán bộ là lãnh đạo, quản lý để phát huy tài năng cống hiến phục vụ lâu dài. Thực

hiện quy hoạch, đào tạo nâng cao và có chính sách thỏa đáng đối với cán bộ khoa

học kỹ thuật, kỹ sư, bác sĩ và đại học chuyên ngành phục vụ cho sự nghiệp phát

triển kinh tế của địa phương. Có hướng tuyển dụng sinh viên đại học giỏi mới ra

trường về công tác ở tỉnh, ưu tiên sinh viên được đào tạo các ngành trong lĩnh vực

kinh tế, lĩnh vực nông nghiệp [100, tr.70-75].

Thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long về phát

triển NNL, ngày 19 tháng 4 năm 2002 tỉnh ủy ban hành Chương trình hành động số

05-CTr/TU về đào tạo nhân lực và giải quyết việc làm cho người lao động tỉnh

Vĩnh Long, giai đoạn 2001 - 2005; và Chương trình hành động số 08-CTr/TU, ngày

1 tháng 10 năm 2002 của tỉnh ủy về thực hiện kết luận Hội nghị lần thứ VI Ban

Chấp hành Trung ương (khóa IX) về giáo dục - đào tạo, KHCN và nhiệm vụ phát

triển NNL đến năm 2010. Đây là hai Chương trình hành động của Đảng bộ tỉnh

Vĩnh Long khi bước vào thế kỷ XXI với mục tiêu: Đầu tư phát triển NNL là đầu tư

quan trọng nhất, có hiệu quả nhất, là yếu tố quyết định bảo đảm thắng lợi của sự

nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đồng thời, đào tạo nhân lực và giải quyết việc làm

cho người lao động là đảm bảo cho phát triển KT XH, an ninh, quốc phòng. Trong

đó vai trò GD-ĐT, KH-CN có nhiệm vụ quan trọng trong công tác phát triển NNL

đặc biệt là ngũ CB,CC,VC, công nhân kỹ thuật lành nghề [104].

54

Chương trình hành động cũng đã đánh giá toàn diện NNL từ khi tái lập tỉnh

đến nay, Tỉnh đã chú trọng đến sự phát triển của lực lượng lao động bằng việc đào

tạo kiến thức và sử dụng đội ngũ CB,CC,VC trong các cơ quan nhà nước bước đầu

đã thể hiện năng lực nhiệm vụ chính trị được giao. Đối với lực lượng lao động

chuyên môn kỹ thuật có tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, “đảm bảo giải

quyết hàng năm khoảng 10.000 lao động” [100, tr.117].

Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật được tạo điều kiện

tham gia trực tiếp sản xuất tại các trung tâm, chi cục, trạm, trại, các

doanh nghiệp Nhà nước, phát huy được thế mạnh của tỉnh nông nghiệp.

Từng bước sắp xếp, bố trí cơ cấu lao động theo hướng chuyển giao và

ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống thuộc lĩnh vực nông

nghiệp, nông thôn [104, tr.1-3].

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Chương trình hành động số 08-

CTr/TU đã chỉ ra những tồn tại, yếu kém của công tác phát triển NNL như:

Nguồn nhân lực còn mất cân đối do thiếu hụt nguồn lực lao động thuộc các

ngành nghề, đặc biệt là NNL khu vực nông nghiệp, nông thôn. Phân bố ngành nghề

đào tạo ở khu vực thành thị và khu vực nông thôn, đặc biệt là vùng, sâu vùng xa còn

nhiều bất cập. Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn chưa được đào tạo tương

xứng, vẫn còn thiếu nguồn lực lao động chất lượng cao (sau đại học) đối với khu

vực nông thôn. Cơ chế chính sách đầu tư cho phát triển NNL chưa được quan tâm

đúng mức, mặc dù NNL qua hai nhiệm kỳ có tăng đáng kể nhưng tình hình chung

vẫn chưa có sự đột phá và bền vững. NNL được đào tạo ở một số ngành, lĩnh vực

về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ hầu như chưa xác định được nhiệm

vụ và giải pháp cụ thể trong thời gian 5 năm 10 năm, chưa đặt nhiệm vụ trọng tâm

phát triển NNL gắn với các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, công nghệ thông tin

để làm mũi nhọn nền kinh tế, tạo bước đi đột phá góp phần đẩy mạnh tốc độ tăng

trưởng kinh tế trong những thập niên tiếp theo. Nền kinh tế của tỉnh vẫn còn trong

tình trạng chậm phát triển, GDP bình quân đầu người vẫn còn thấp so với một số

tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Nguồn lực con và diện mạo vùng đất

tỉnh Vĩnh Long chưa thật sự khởi sắc, chưa khai thác hết nguồn lực vốn có để làm

giàu quê hương, vùng đất trù phú thiên nhiên ban tặng vẫn chưa có sức hút mạnh

55

mẽ như vốn có của mảnh đất “đất lành chim đậu” và chảy máu chất xám ngày càng

tăng [122, tr.63, 110-111].

Trên cơ sở đó, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long đã đề ra nhiệm vụ trọng tâm phấn

đấu đến năm 2010 cho đối tượng CBCCVC trong các cơ quan nhà nước và công

nhân kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn được đào tạo bậc từ đại học

trở lên đạt 40% [100, tr.88] theo Nghị quyết Đại hội lần thứ VII (2001). Đồng thời,

tăng cường chính sách bồi dưỡng NNL đã qua đào tạo từ bậc trung học chuyên

nghiệp trở lên có xuất thân từ thành phần công nhân, nông dân, sinh viên ưu tú, con

em các gia đình thuộc diện chính sách tiến tới xây dựng NNL chất lượng cao trong

các cơ quan nhà nước. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long xác định một số nhiệm vụ trọng

tâm trong Chương trình hành động số: 05-CTr/TU và Chương trình hành động số

08-CTr/TU như sau:

Thứ nhất, về phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo

định hướng đến 2010. Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt các nội dung cơ bản của Nghị

quyết Trung ương 2 khóa VIII. Phấn đấu làm cho giáo dục thực sự là quốc sách

hàng đầu, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong nền giáo dục của tỉnh theo hướng

“chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,

nhằm đào tạo có chất lượng NNL, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH theo

định hướng XHCN trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế tri thức.

Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối

sống trong các Trường Chính trị, các trường đại học, cao đẳng, trường nghề đóng

trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long, kết hợp hài hòa giữa “dạy chữ, dạy người, dạy nghề”,

song song với việc nâng cao chất lượng giáo dục cần phải chú trọng phát hiện, đào

tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài. Tập trung đẩy mạnh và nâng cao trình độ nguồn

nhân lực đảm bảo tính đồng bộ về cơ cấu và chuẩn hóa trình độ đào tạo.

Phát triển giáo dục đại học không chính quy ở hầu hết các trung tâm huyện,

thị, thành phố nhằm gắn kết chặt chẽ yêu cầu thực tế đời sống kinh tế, xã hội địa

phương, tạo môi trường cho mọi người tham gia học tập suốt đời.

Trên cơ sở đảm bảo chất lượng NNL và nâng cao hiệu quả GD-ĐT cần phải

gắn với phát triển KT-XH phục vụ quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, cơ cấu

lao động. Mở rộng quy mô đào tạo theo hướng dạy nghề ở các trường trung học

chuyên nghiệp.

56

Thực hiện chính sách điều tiết của Nhà nước tạo cơ hội học tập cho mọi

người, đặc biệt là tạo cơ hội học tập bậc đại học, cao đẳng cho con em gia đình

chính sách, đồng bào dân tộc, con em vùng sâu vùng xa nhằm đào tạo nguồn lực

con người tại chỗ. Thực hiện có hiệu quả các chế độ chính sách liên quan đến đối

tượng được đi học, cần thiết hỗ trợ kinh phí cho những ngành nghề có vị trí ưu tiên

như: kinh tế, nông nghiệp, xây dựng, bác sĩ.

Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự quản lý điều hành của

Chính quyền, sự hỗ trợ của các đoàn thể và các tổ chức xã hội trong công tác GD-

ĐT để nâng cao chất lượng NNL. Đây cũng là một trong những tiêu chí góp phần

xây dựng bộ máy tổ chức trong hệ thống chính trị vững mạnh ở địa phương.

Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học và công nghệ

đến năm 2010 nhằm thực hiện mục tiêu NNL tham gia ứng dụng khoa học kỹ thuật

vào trong sản xuất, thúc đẩy các ngành nông nghiệp, công nghiệp, thương mại -

dịch vụ, du lịch phát triển, nhất là NNL phục vụ trực tiếp cho quá trình chuyển dịch

cơ cấu kinh tế của tỉnh [104, tr.2-11].

Tiếp tục thực hiện các quan điểm, chủ trương Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long đáp

ứng với yêu cầu trong tình hình mới. Ngày 30 tháng 8 năm 2004, tỉnh uỷ Vĩnh

Long ban hành Kế hoạch số 39-KH/TU về việc xây dựng và nâng cao chất lượng

đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trên địa bàn Tỉnh Vĩnh Long. Kế

hoạch nêu rõ: Để đáp ứng nhu cầu việc làm và định hướng nghề nghiệp, cần chú

trọng: Nâng cao chất lượng đào tạo nghề, chuẩn bị cho người lao động những khả

năng thích ứng với kinh tế thị trường định hướng XHCN; gắn đào tạo với nhu cầu

sử dụng và việc làm; mở rộng đào tạo công nhân lành nghề, kỹ thuật viên, nhân

viên nghiệp vụ có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp.

Tỉnh ủy Vĩnh Long xác định, việc phát triển giáo dục là nhằm đào tạo NNL

cho tỉnh, trong đó đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đóng vai trò then

chốt cho sự nghiệp phát triển GD-ĐT tại địa phương và yêu cầu “xây dựng được

đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý đáp ứng đến cuối nhiệm kỳ đội ngũ nhà giáo và

cán bộ quản lý giáo dục tăng lên 10.515 người” [105].

Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục trong thời kỳ

CNH, HĐH đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong tỉnh có những hạn

chế về phân bổ nguồn lực giáo viên tham gia giảng dạy, đặc biệt ở vùng nông thôn,

57

vùng sâu vùng xa. Bên cạnh đó năng lực của đội ngũ một số cán bộ quản lý giáo

dục còn hụt hẫng so yêu cầu phát triển giáo dục tỉnh nhà, chế độ, chính sách tuy

được cải thiện, nhưng chưa thật sự là đòn bẩy để tạo ra động lực phát huy tiềm năng

của cán bộ, giáo viên.

Xuất phát từ tình hình trên đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ

quản lý giáo dục trong tỉnh một cách toàn diện hơn. Đây là nhiệm vụ vừa đáp ứng

yêu cầu trước mắt, vừa mang tính chiến lược lâu dài trong sự nghiệp phát triển giáo

dục và đào tạo của tỉnh, cụ thể giai đoạn mới - giai đoạn (2005-2010) là “phải xây

dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hoá, bảo đảm chất

lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu” [105].

Để đạt được mục tiêu, Đảng bộ đề ra một số nhiệm vụ và giải pháp sau:

Củng cố, nâng cao chất lượng trường Cao đẳng sư phạm của tỉnh và quy

hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục có trình độ, năng lực đáp ứng kịp

yêu cầu CNH, HĐH; Tổ chức điều tra đánh giá đúng thực trạng đội ngũ giáo viên,

cán bộ quản lý giáo dục trong tỉnh về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp

giảng dạy, năng lực quản lý trong nhà trường và các cơ quan quản lý giáo dục.

Đổi mới phương pháp giáo dục theo hướng hiện đại và phù hợp với thực tế

địa phương; Đổi mới nâng cao chất lượng quản lý đội ngũ giáo viên và cán bộ quản

lý giáo dục trong tỉnh theo hướng phân công, phân cấp hợp lý giữa các cấp, các

ngành về trách nhiệm, quyền hạn quản lý nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.

Kiểm tra việc thực hiện chính sách, chế độ đối với đội ngũ giáo viên, cán bộ

quản lý trên địa bàn tỉnh quản lý. Có chế độ phụ cấp ưu đãi thích hợp và kết hợp

giữa giảng dạy và nghiên cứu khoa học đối với đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý

giáo dục. Có chính sách thu hút chất lượng xám và sinh viên học các ngành học sư

phạm, quản lý giáo dục khi ra trường trở về phục vụ quê hương;

Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với việc xây dựng và

nâng cao chất lượng, đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục trong tỉnh, làm

cho nhân dân và toàn xã hội nhận thức rõ vai trò quan trọng hàng đầu của đội ngũ

nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong việc đào tạo NNL cho địa phương và

đất nước.

Như vậy có thể khẳng định rằng, phát triển NNL là một trong những nhiệm

vụ quan trọng hàng đầu, là vấn đề sống còn quyết định sự nghiệp CNH, HĐH của

58

tỉnh Vĩnh Long. Là cơ sở quan trọng để thực hiện thành Nghị quyết Đại hội Đảng

toàn quốc lần thứ IX và Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ VII đề ra về phát

triển NNL.

2.2.2. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long chỉ đạo phát triển nguồn nhân lực

2.2.2.1. Nguồn nhân lực cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan

nhà nước thuộc hệ thống chính trị

Cùng với cả nước Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long đã dồn sức tập trung lãnh đạo

phát triển NNL theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ

VII (2001) và nhiệm vụ trọng tâm trong Chương trình hành động số 05-CTr/TU

(2002) và Chương trình hành động số 08-CTr/TU (2002). Tỉnh ủy đã chỉ đạo các tổ

chức Đảng, Chính quyền huyện, thị ủy, đảng uỷ trực thuộc và các sở, ban, ngành,

đoàn thể, đơn vị trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long tiến hành triển khai sâu rộng chủ

trương của Đảng bộ về các mục tiêu, giải pháp phát triển NNL.

Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long đã chỉ đạo các ngành các cấp liên quan, xây dựng

cơ chế chính sách phát triển NNL có trình độ chuyên môn cao cho các lĩnh vực kinh

tế, nông nghiệp, giáo dục, bác sỹ, tài chính, ngân hàng, xây dựng và chính sách bồi

dưỡng sử dụng nhân tài để làm cho tỉnh tránh tình trạng tụt hậu về nguồn lực con

người có trình độ cao trong các cơ quan bộ máy nhà nước và nguồn lực lao động có

tay nghề ở các khu vực kinh tế Nhà nước và các khu vực khác như tinh thần Đại hội

VII tỉnh Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long (1/2001): Không thể xem nhẹ công tác đào tạo,

bồi dưỡng, cần bố trí những con người có năng lực thật sự, lựa chọn những đối

tượng được đào tạo chuyên môn giỏi để đảm nhận vai trò chủ chốt trong các cơ

quan nhà nước và nguồn lực lao động có tay nghề ở các khu vực kinh tế do Nhà

nước quản lý. Bên cạnh đó cần thực hiện chính sách bồi dưỡng trọng dụng nhân tài

bằng nhiều hình thức, có thể dùng chính sách đãi ngộ bằng vật chất và tinh thần để

bổ sung NNL của tỉnh, góp phần tích cực định hướng phát triển nền kinh tế của tỉnh

nhà [99, tr.53-54].

Đảng bộ đã phân công đồng chí Phan Đức Hưởng - Phó Bí thư Tỉnh ủy phụ

trách lãnh đạo lĩnh vực văn hóa - xã hội và giao trực tiếp Ban Tổ chức tỉnh ủy, Sở

Nội vụ, Trường Chính trị Phạm Hùng tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng kế

hoạch đào tạo, bồi dưỡng NNL đến năm 2010 theo tinh thần Nghị quyết Trung

ương lần thứ hai (1996) và Nghị quyết Trung ương lần thứ ba (1997) khóa VIII.

59

Ngày 27 tháng 7 năm 2001, UBND tỉnh Vĩnh Long ban hành Chỉ thị số

20/CT.UBT về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ - công chức giai đoạn 2001 - 2005 của

tỉnh Vĩnh Long. Chỉ thị đề ra mục tiêu gồm hai đối tượng CB,CC,VC trong các cơ

quan nhà nước sau:

Đối với CB,CC,VC hành chính: Đảm bảo 100% CB,CC,VC hành chính

thuộc các ngạch chuyên viên chính, chuyên viên đáp ứng yêu cầu theo tiêu chuẩn

ngạch về kiến thức quản lý nhà nước và lý luận chính trị; Những công chức dưới 50

tuổi tính đến năm 2001 thuộc các ngạch chuyên viên chính và chuyên viên chưa có

trình độ đại học phải được đào tạo trình độ đại học, bước đầu hình thành đội ngũ

chuyên gia đầu ngành về các lĩnh vực hành chính.

Đối với CB,CC,VC sự nghiệp: Phấn đấu đến năm 2005 có 50% CB,CC,VC

sự nghiệp được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp

vụ, 100% được bồi dưỡng về kiến thức pháp luật và đạo đức công chức.

Ủy ban nhân dân tỉnh cũng đề ra tiến độ và và nội dung đào tạo, bồi dưỡng

cho từng đối tượng. Trong đó: Đối tượng CB,CC,VC hành chính phải tập trung vào

những nhiệm vụ đào tạo như: Đào tạo tiền công vụ, tiêu chuẩn ngạch về kiến thức

quản lý nhà nước, đào tạo trình độ đại học và sau đại học, đào tạo bồi dưỡng cán bộ

nguồn để hình thành đội ngũ chuyên gia đầu ngành về các lĩnh vực quản lý nhà

nước tham gia hoạch định các chính sách phát triển KT-XH tỉnh nhà cho những giai

đoạn tiếp theo. Về bồi dưỡng, UBND tỉnh căn cứ Quyết định 874/TTg ngày 20

tháng 11 năm 1996 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đào tạo, bồi dưỡng

CB,CC,VC nhà nước phải đảm bảo về ngoại ngữ, tin học, bồi dưỡng kiến thức

nghiệp vụ. Đối với cán bộ lãnh đạo quản lý chủ chốt cấp huyện, thị xã và các sở,

ban ngành tỉnh chú trọng việc đào tạo về trình độ đại học và sau đại học để đảm bảo

năng lực lãnh đạo và quản lý điều hành chuẩn bị công tác dự nguồn cán bộ cho

nhiệm kỳ tới, phấn đấu đến năm 2005 có 100% cán bộ thuộc đối tượng nói trên có

trình độ đại học về chuyên môn, đồng thời đảm bảo được bồi dưỡng về kiến thức

quản lý nhà nước vì đây là đối tượng phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp cải cách hành

chính của tỉnh trong công cuộc CNH, HĐH đất nước.

Riêng đối với CB,CC,VC sự nghiệp cần được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức

về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, phương pháp thực hiện công vụ, bảo đảm mỗi

năm có ít nhất 10% công chức sự nghiệp được bồi dưỡng theo yêu cầu. Đồng thời

60

cần đẩy mạnh việc bồi dưỡng kiến thức theo tiêu chuẩn ngạch cho công chức sự

nghiệp. Hàng năm tổ chức bồi dưỡng nâng cao kiến thức pháp luật và đạo đức công

chức cho 20% công chức sự nghiệp thuộc các lĩnh vực y tế, giáo dục, tư pháp, tài

chính - ngân hàng,..

Là tỉnh đồng bằng còn nhiều khó khăn về mọi mặt, UBND tỉnh chú ý đến

việc tập trung đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật có

trình độ cao, các chuyên gia đầu ngành, đặc biệt là những ngành kinh tế, khoa học,

xã hội và các ngành kỹ thuật mũi nhọn của tỉnh làm cơ sở, tiền đề cho việc phát

triển kinh tế bền vững trong những năm tiếp theo. Phấn đấu đến năm 2005 đào tạo

được 50% đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật có trình độ cao đáp ứng những ngành

nghề, lĩnh vực mũi nhọn của địa phương.

Từ sự chỉ đạo của UBND tỉnh, trong nhiệm kỳ 5 năm (2001-2005) của Đại

hội lần thứ VII Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long, NNL địa phương đã tăng lên đáng kể. Số

lượng CB,CC,VC hành chính và sự nghiệp tỉnh đưa đi đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng

được nhu cầu lực lượng NNL thời kỳ CNH, HĐH. (Xem phụ lục 4, 5, 6, 7).

Nhìn chung, số lượng NNL có tăng như tốc độ tăng không đáng kể, đặc biệt

là NNL có trình độ sau đại học vẫn chiếm tỷ lệ rất thấp so với mức độ tăng trưởng

KT-XH toàn tỉnh. Đồng thời điểm chung của NNL địa phương là CB,CC,VC có

trình độ chuyên môn kỹ thuật vẫn còn thấp và phân bố không đồng đều. Có thể khái

quát những kết quả về công tác đào tạo NNL là đội ngũ CB,CC,VC trong các cơ

quan nhà nước như sau:

Công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước, quản lý hành chính

nhà nước và chuyên môn nghiệp vụ. Tỉnh đã tập trung đào tạo cho các đối tượng là

cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức, viên chức hành chính sự nghiệp cấp tỉnh,

huyện nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước ở địa

phương, đồng thời thực hiện tốt công tác cải cách hành chính và dự nguồn cán bộ,

công chức cho những năm tiếp theo. Nhận thức rõ vấn đề này, trong 05 năm đã cử

đi bồi dưỡng chuyên viên cao cấp 08 người, đại học và trên đại học 6 người (chủ

yếu cấp trưởng phòng, giám đốc sở, ban ngành) và tập trung mở nhiều lớp đào tạo

bồi dưỡng quản lý nhà nước ngạch chuyên viên chính là 231 người, chuyên viên

2.873 người, cán sự 137 người, tổ chức bồi dưỡng ngắn hạn nhằm cập nhật hoá chủ

trương đường lối về công tác quản lý nhà nước cho cán bộ, công chức trong tỉnh

61

được 1.798 người. Về chuyên môn nghiệp vụ đã thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cho

CBCCVC có trình độ sau đại học là 142 người, đại học 3.311 người, trong đó có

261 người học lớp Đại học hành chính hệ không tập trung. Đối với trung cấp hành

chính văn phòng, trung cấp hành chính, trung cấp tài chính kế toán đã bồi dưỡng

trên 2000 người, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ 4.761 người (trong đó có 3.175 đại

biểu Hội đồng nhân dân huyện, thị xã và cơ sở nhiệm kỳ 2004-2009 và 846 trưởng

ấp, khóm nhiệm kỳ 2004-2005). Ngoài ra, từ năm 2001 đến năm 2005, Trường Cao

đẳng cộng đồng đã mở 05 lớp Đại học Luật tại chức với 601 học viên. Tháng

12/2004, Sở Nội vụ phối hợp với Bộ Nội vụ tổ chức Bồi dưỡng kiến thức quản lý

nhà nước cho đại biểu Hội đồng nhân dân của 05 tỉnh là Vĩnh Long, Đồng Tháp,

Bến Tre, An Giang, Tiền Giang tổng số có 252 đại biểu dự học (tỉnh Vĩnh Long có

47 đồng chí) [151].

Công tác đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ Anh văn và Tin học, Sở Nội vụ đã

kết hợp với Trường Cao đẳng cộng đồng mở 09 lớp Anh văn theo chương trình

422, có 03 lớp trình độ A, 05 lớp trình độ B và 01 lớp trình độ C, tổng cộng có 362

học viên. Đối với các lớp Tin học đã mở được 08 lớp trong đó có 05 lớp trình độ A,

03 lớp trình độ B, tổng số có 813 học viên của các sở, ngành, huyện, thị xã và cơ sở.

Việc đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên

chức sự nghiệp của tỉnh tuy chưa nhiều nhưng chất lượng hiệu quả được nâng lên,

phần nào đã đáp ứng yêu cầu công việc nhất là cấp cơ sở. Tổng số CB,CC,VC sự

nghiệp đã qua đào tạo, bồi dưỡng quản lý nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ và

ngoại ngữ, tin học trong 05 năm có 23.328 lượt người, trong đó có 256 đại biểu Hội

đồng nhân dân cấp huyện, thị trong cả nhiệm kỳ.

Việc thực hiện các chỉ tiêu cụ thể. Đến năm 2005 CB,CC,VC được đào tạo,

bồi dưỡng theo ngạch chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp chưa

đạt yêu cầu đề ra. Đây là một trong những khó khăn để phát triển NNL theo

hướng toàn diện. Hầu hết các chỉ tiêu như đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý

nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ có trình độ sau đại học cho cán bộ chủ chốt của

các sở, ngành, huyện, thị nói chung gồm chuyên trách và không chuyên trách chỉ

đạt từ 60% trở lên. Trong đó, số cán bộ, công chức là lãnh đạo, quản lý cấp trưởng

phòng, giám đốc trở lên dưới 50 tuổi tính đến năm 2005 thì các chỉ tiêu này chưa

cao theo mục tiêu, nhiệm vụ của Chỉ thị số 20/CT-UBND của UBND tỉnh về đào

62

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2001-2005 của tỉnh Vĩnh Long. (Xem

phụ lục 9).

Về đánh giá công tác quản lý nhà nước và năng lực của các cơ sở đào tạo,

bồi dưỡng. Hàng năm, Sở Nội vụ xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng

CB,CC,VC trong tỉnh trình UBND tỉnh và Bộ Nội vụ, đồng thời phối hợp với các

cơ quan chức năng tham mưu xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho các sở,

ngành, huyện, thị xã. Định kỳ kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi

dưỡng của các cơ quan đơn vị kịp thời uốn nắn những yếu kém trong công tác đào

tạo. Trên cơ sở kế hoạch hàng năm, Sở Nội vụ kết hợp với các trường đào tạo trong

tỉnh tiến hành kế hoạch tuyển sinh theo đúng quy hoạch, đúng ngành nghề đào tạo,

bồi dưỡng nhằm phục vụ tốt công tác cải cách hành chính và nâng cao trình độ cho

CB,CC,VC trong tỉnh.

Hầu hết các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CB,CC,VC từ tỉnh đến huyện, thị, xã

phường từng bước được trang bị điều kiện cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy tốt, đội

ngũ cán bộ quản lý giáo dục và đội ngũ giảng viên từng bước được nâng lên đáp

ứng được nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở địa phương. Các cơ sở

đào tạo đáp ứng được các ngành nghề về kế toán, kỹ thuật môi trường, kế toán

doanh nghiệp, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi thú y, kỹ thuật điện, công nghệ thực

phẩm, xây dựng, điện công nghiệp, công nghệ xay xát và lau bóng gạo, kiểm tra

chất lượng lương thực. Tuy nhiên trước xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

đã kéo theo một loạt các ngành không chỉ còn trong phạm vi khu vực mà trở thành

quốc tế, giao thương toàn cầu như các ngành quản trị kinh doanh, thương mại,

ngoại ngữ, luật pháp quốc tế, công nghệ thông tin và viễn thông.. sẽ có xu hướng

phát triển trong tương lai. Điều này tỉnh Vĩnh Long cần có chiến lược mạnh mẽ

hơn, toàn diện hơn để nắm bắt xu hướng thời đại trong những năm tiếp theo.

Về kinh phí đào tạo, bồi dưỡng. Sở Nội vụ kết hợp với Sở Tài chính xây

dựng kế hoạch sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng CB,CC,VC trình UBND tỉnh và

Bộ Nội vụ trên cơ sở kế hoạch đào tạo bồi dưỡng CB,CC,VC của hàng năm. Tuy

tình hình KT-XH trong những năm qua còn nhiều khó khăn, nhưng với số lượng

kinh phí dùng cho việc đào tạo, bồi dưỡng CB,CC,VC trong tỉnh vẫn được đảm bảo

về số lượng cấp phát, sử dụng đúng mục đích và thanh quyết toán kịp thời. Qua 05

năm, từ năm 2001 đến năm 2005 tổng số kinh phí đào tạo bồi dưỡng đã được cấp và

63

sử dụng 2.772.000.000 đồng (mỗi năm 450 triệu đồng) trong đó có 550 triệu đồng

được sử dụng vào việc bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước [159].

Từ thực trạng và phân tích kết quả NNL trên, UBND tỉnh chỉ đạo các cơ

quan tham mưu lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CB,CC,VC theo quy trình,

quy hoạch phát triển NNL nhằm thực hiện mục tiêu tiết kiệm trong đào tạo, bồi

dưỡng và bố trí sử dụng nguồn lực con người, phấn đấu xây dựng tổ chức tinh gọn,

hoạt động hiệu quả, hiệu lực cao nhất đến năm 2005 CB,CC,VC trong tỉnh cơ bản

đạt tiêu chuẩn chức danh theo quy định. Bên cạnh đó, tỉnh chủ trương giao cho Ban

Tổ chức tỉnh ủy, Sở Nội vụ thực hiện các nội dung như: Tăng cường và nâng cao

chất lượng công tác quy hoạch, lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng CB,CC,VC đảm

bảo đúng đối tượng, gắn với nhu cầu và khả năng sử dụng cán bộ lâu dài. Trách

nhiệm của thủ trưởng đơn vị quan tâm thực hiện công tác quy hoạch, kế hoạch đào

tạo, bồi dưỡng của ngành và địa phương đầy đủ, có tinh thần trách nhiệm cao. Từng

bước cải tiến và nâng cao chất lượng nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng

phù hợp với đặc điểm của từng đối tượng CB,CC,VC. Có sự phân công phân cấp,

phối hợp chặt chẽ trong công tác đào tạo, bồi dưỡng giữa cơ quan quản lý nhà nước

với cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Trong đó đặc biệt yêu cầu các ngành, địa phương coi

trọng công tác phát triển NNL trên cơ sở thực hiện nhiệm vụ kế hoạch đào tạo, bồi

dưỡng nhằm từng bước đẩy mạnh sự CNH, HĐH tỉnh nhà với phương châm: Cán

bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của

Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng [4].

Tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo các cơ quan, ban ngành thực hiện một số nhiệm

vụ sau:

Đối với cơ quan quản lý cán bộ (Sở Nội vụ): Có nhiệm vụ thống kê, phân

tích, đánh giá đội ngũ CB,CC,VC từ tỉnh đến xã. Đối chiếu với các tiêu chuẩn, chức

danh, tiến hành lập đề án xây dựng và củng cố đội ngũ CB,CC,VC trong toàn tỉnh.

Phối hợp Ban Tổ chức tỉnh ủy thực hiện công tác quy hoạch cán bộ gồm quy hoạch

cán bộ dài hạn và quy hoạch ngắn hạn, gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng và sử

dụng cán bộ. Tạo nguồn cán bộ từ các đối tượng khác nhau như cán bộ hiện có, sinh

viên, học sinh… nhằm phát hiện, đầu tư, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài.

Về nhiệm vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng: Yêu cầu các cấp, các ngành định

hướng và xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhằm chuẩn hóa CB,CC,VC nâng

64

cao kiến thức, năng lực quản lý, điều hành và thực thi công vụ đáp ứng yêu cầu của

sự nghiệp CHN, HĐH đất nước theo từng đối tượng.

Về công tác bố trí cán bộ: Chủ trương xây dựng quy trình tuyển dụng, sử

dụng CB,CC,VC đảm bảo tuyển dụng mới các CB,CC,VC đủ tiêu chuẩn và công

bằng. Tiến hành sắp xếp NNL theo yêu cầu của các ngành, các khu vực hành chính

sự nghiệp. Chú ý việc sắp xếp, bố trí và sử dụng nguồn lực con người đúng theo

chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ đào tạo, tránh tình trạng bố trí sử dụng trái

ngành nghề đào tạo, sau đó phải đào tạo lại, gây lãng phí cả về thời gian và tiền

của… Các ngành, các cấp cùng với Ban Tổ chức tỉnh ủy xây dựng kế hoạch luân

chuyển cán bộ theo sự chỉ đạo của tỉnh ủy.

Về thực hiện các chính sách tài chính về phát triển nguồn lực con người:

Các đơn vị chức năng thực hiện tốt các chính sách quy định của Nhà nước và các

chính sách khuyến khích của địa phương như: tiền học phí, tiền tàu xe, tiền lưu trú,..

và các định mức được hưởng kèm theo hệ số phụ cấp chức vụ, phụ cấp ngành nghề

đặc thù. Nghiên cứu đề xuất, sửa đổi các chính sách để đảm bảo thực hiện tốt, có

hiệu quả nhiệm vụ của từng ngành và để bồi dưỡng NNL [4].

Trên cơ sở thực hiện có hiệu quả đào tạo NNL, UBND tỉnh đã kịp thời xây

dựng và ban hành các chính sách liên quan đến đào tạo phát triển NNL như: Hướng

dẫn liên ngành số 219/HDLN, ngày 16 tháng 5 năm 2002 quy định tạm thời về

chính sách trợ cấp cho CB,CC,VC đi học và cán bộ, công chức luân chuyển tăng

cường về công tác ở xã của tỉnh Vĩnh Long. Trong đó, kinh phí hỗ trợ 100% về học

phí, tiền lưu trú, tiền ăn,… cho công tác đào tạo NNL gồm các đối tượng

CB,CC,VC trong các cơ quan đảng, chính quyền, đoàn thể của tỉnh, huyện thị được

hưởng lương từ ngân sách địa phương; cán bộ, công chức thuộc diện quy hoạch và

chuẩn hóa chức danh do tỉnh ủy quản lý; CB,CC,VC đào tạo sau đại học do Ban Tổ

chức tỉnh ủy xét duyệt; CB,CC,VC chuyên môn kỹ thuật là giám đốc các sở ban

ngành, UBND các huyện thị được Ban Tổ chức chính quyền và Ban Tổ chức tỉnh

ủy duyệt. Về chính sách chế độ trợ cấp như sau: CB,CC,VC đi học khu vực phía

Bắc được hỗ trợ thêm 400.000đ/người/tháng đối với nam, 450.000đ/người/tháng

đối với nữ và dân tộc thiểu số. Đi học khu vực thành phố Hồ Chí Minh (gồm các

tỉnh miền Đông, miền Trung Nam bộ) được hỗ trợ 300.000đ/người/tháng đối với

nam, 350.000đ/người/tháng đối với nữ và dân tộc thiểu số. Đi học ở ngoài tỉnh

65

thuộc các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long được trợ cấp 250.000đ/người/tháng,

300.000đ/người/tháng đối với nữ và dân tộc thiểu số. Ngoài ra tỉnh hỗ trợ chi phí

nghiên cứu sinh, làm luận văn tốt nghiệp gồm: cử nhân 2.000.000đ/1 luận văn tốt

nghiệp, thạc sỹ 15.000.000đ/1 luận văn thạc sỹ, tiến sĩ 30.000.000/1 luận án tiến sỹ.

Ngoài ra đối với CB,CC,VC không thuộc diện nói trên sau khi tốt nghiệp đáp ứng

nhu cầu của cơ quan đơn vị được khuyến khích hỗ trợ bằng 50% các chế độ hỗ trợ

chi phí nêu trên. Đồng thời là tỉnh đặc thù thuần nông, khả năng tuyển dụng và chế

độ đãi ngộ CB,CC,VC được tỉnh chú trọng và quan tâm đúng mức nhằm thay thế số

về hưu và số phát triển thêm, riêng đối với các doanh nghiệp do phát triển chậm nên

chỉ tuyển theo nhu cầu. Theo Hướng dẫn liên ngành số 219, chủ trương về chế độ

tiền lương được tỉnh ưu đãi như sau: Đối với CBCCVC thuộc khu vực hành chính,

sự nghiệp chỉ hưởng chế độ tiền lương theo thang, bảng lương do Nhà nước quy

định; Đối với các doanh nghiệp nhà nước hưởng mức lương bình quân là 900.000

đồng/tháng; Đối với doanh nghiệp dân doanh do thu nhập còn thấp so với khu vực,

hưởng bình quân khoảng 700.000 đồng/tháng. Ngoài ra, tùy theo tình hình thực tế,

tỉnh có chính sách hỗ trợ ưu tiên cho CBCCVC vùng sâu, vùng dân tộc thiểu số,

những đối tượng gặp khó khăn.

Tạo tiền đề, nền tảng vững chắc để phát triển NNL cho giai đoạn phát

triển tiếp theo. Ngày 6 tháng 3 năm 2003, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch đào

tạo nguồn nhân lực và giải quyết việc làm cho người lao động tỉnh Vĩnh Long

(giai đoạn 2003 - 2005) theo Quyết định số 552/2003/QĐ.UB của UBND tỉnh,

với chủ trương:

Sự phát triển KT-XH chủ yếu dựa vào trình độ phát triển trí tuệ của con

người, trong đó, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật vì vậy muốn

vươn lên sánh vai cùng các nền kinh tế tiên tiến chúng ta phải đào tạo

NNL chất lượng cao, đây là một trong những động lực quan trọng thúc

đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng

trưởng kinh tế nhanh và bền vững [104].

Căn cứ Kế hoạch phát triển NNL và giải quyết việc làm cho người lao động

tỉnh Vĩnh Long giai đoạn (2001-2005), tỉnh đã chỉ ra khả đào tạo NNL trên địa bàn

gồm có 3 trường Trung ương đóng trên địa bàn: Trường Cao đẳng Sư phạm Kỹ

thuật Vĩnh Long, Trường trung học Xây dựng Miền Tây, Trung tâm Dịch vụ việc

66

làm Quân khu 9 và nhiều trường đại học, cao đẳng trược thuộc tỉnh quản lý: Trường

Đại học dân lập Cửu Long, Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Long, Trường Cao

đẳng cộng đồng Vĩnh Long, Trường Trung học Kinh tế Tài chính, Trường Trung

học Kỹ thuật - Lương thực thực phẩm, Trường Trung học Y tế, Trường Chính trị

Phạm Hùng, Trường Nghiệp vụ Văn hóa Thông tin, Trường Dạy nghề Vĩnh Long

và các trung tâm dịch vụ việc làm thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, các

Trung tâm giáo dục thường xuyên huyện thị.

Đây là nơi có khả năng đáp ứng NNL cho phát triển KT-XH và đáp ứng tiến

trình CNH, HĐH của tỉnh nhà, đồng thời nâng cao chất lượng NNL là CB,CC,VC

đáp ứng phát triển NNL cho bộ máy chính quyền các cấp trong tỉnh theo tinh thần

Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IX (2002) kiểm điểm 5 năm

thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII).

Là vùng đất có truyền thống hiếu học, mang đậm dấu ấn lịch sử “địa linh

nhân kiệt”, là nơi hội tụ điều kiện thiên nhiên và yếu tố vị trí địa lý trung tâm đồng

bằng sông Cửu Long. Những chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long về công tác

đào tạo để phát triển NNL đã được cụ thể hóa thành các chương trình kế hoạch,

quyết định, đề án và chính sách có ý nghĩa thiết thực, mang lại những kết quả bước

đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX (2001) của Đảng và Nghị quyết Đại

hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ VII (2001).

2.2.2.2. Nguồn nhân lực lao động chuyên môn kỹ thuật trong lĩnh vực

nông nghiệp, nông thôn

Theo quan điểm của Đại hội Đảng lần thứ IX (2001), NNL nông nghiệp,

nông thôn là bộ phận cấu thành của NNL xã hội, là tổng thể sức lao động trong các

lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, thương mại. Đây là tiềm lực quan trọng

là yếu tố số một, là nguồn cội, động lực chính tạo nên lực lượng sản xuất - nhân tố

quyết định tốc độ và sự phát triển bền vững của phương thức sản xuất mới ở nước

ta trong điều kiện hội nhập quốc tế. Vì thế, “muốn đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH

một cách bền vững không thể không chăm lo phát triển con người” [28]. Trong

khuôn khổ nghiên cứu của luận án, quan niệm NNL lao động chuyên môn kỹ thuật,

chính là đội ngũ công nhân lành nghề, đội ngũ lao động trình độ cao, kỹ sư thực

hành,.. nhằm phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn và một số ngành KT-XH

mũi nhọn, có khả năng ứng dụng nhanh và linh hoạt những thành tựu của KH-CN

67

hiện đại vào quá trình sản xuất nhằm đạt hiệu quả cao. Đây là cơ sở để Đảng bộ tỉnh

Vĩnh Long chỉ đạo phát triển NNL lao động chuyên môn kỹ thuật thời kỳ CNH,

HĐH sau gần 10 năm tái lập tỉnh.

Ngày 26 tháng 8 năm 2002, UBND tỉnh Vĩnh Long ban hành Kế hoạch số

1478/UB đào tạo nguồn nhân lực và giải quyết việc làm cho người lao động Tỉnh

Vĩnh Long giai đoạn 2002 - 2005. Với mục tiêu: Phát triển NNL hàng năm theo

định hướng là tăng tỷ lệ đào tạo trung học chuyên nghiệp và dạy nghề bậc cao đẳng,

đại học, trong đó đào tạo nghề tăng từ 20 đến 25%. Đào tạo trình độ từ trung học

chuyên nghiệp đến đại học hàng năm tăng 0,1 đến 0,2% so với dân số trong độ tuổi

lao động (tương đương từ 6.000 người đến 12.000 người). Trong giai đoạn từ năm

2001 đến năm 2005, tỉnh chủ trương hàng năm đưa đi đào tạo từ 11 đến 17 ngàn lao

động (trong đó có 2.000 người đến 2.500 người được đào tạo ở bậc trung học

chuyên nghiệp, 1.200 đến 1.500 được đào tạo ở bậc cao đẳng và đại học, phấn đấu

đến năm 2005 đạt 17 - 18% lao động qua đào tạo và tỷ lệ người học đại học, cao

đẳng, trung học chuyên nghiệp bằng tỉ lệ chung của cả nước. Yêu cầu từ năm

2001 đến năm 2005 trung bình hàng năm giải quyết việc làm cho 25.000 lao động,

phấn đấu giảm tỷ lệ lao động thất nghiệp trong nông thôn nói chung và đến năm

2005 chỉ còn dưới 5% ở thành thị. Nâng cao khả năng sử dụng quỹ thời gian lao

động lên trên 80% vào năm 2005. Thực hiện tốt công tác đổi mới giáo dục phổ

thông, phát triển ngành học mầm non, tiếp tục củng cố, phát huy kết quả xóa mù

chữ và phổ cập trung học cơ sở, phấn đấu đến cuối năm 2005 hoàn thành phổ cập

trung học cơ sở trên toàn tỉnh. Điều chỉnh quy mô phát triển NNL, đảm bảo cơ cấu

lao động kỹ thuật hợp lý, từng bước xóa bỏ tình trạng mất cân đối giữa các loại

hình, ngạch bậc. Trong phát triển NNL cần ưu tiên cho các ngành mũi nhọn, các

ngành nghề truyền thống và các ngành nghề địa phương đang có thế mạnh như kỹ

thuật cơ khí, chế tạo, lắp ráp sửa chữa; xây dựng dân dụng; kỹ thuật điện, điện tử,

chế biến thực phẩm… [152].

Việc thực hiện kế hoạch phát triển NNL và giải quyết việc làm cho người lao

động trong tỉnh, từ năm 2001 đến năm 2005 đã có sự chuyển biến tích cực trong

công tác đào tạo nhằm phát triển NNL. Các cơ sở đào tạo đã thực hiện xây dựng các

chương trình đào tạo theo đơn đặt hàng đào tạo nghề và đào tạo theo chức danh

68

nhằm đẩy mạnh và tăng tốc độ phát triển NNL. UBND tỉnh đã đề xuất: Nâng cấp

các cơ sở đào tạo hiện có như các Trường Chính trị, các trung tâm Giáo dục thường

xuyên của các huyện, các trường trung học chuyên nghiệp trên địa bàn. Sở Lao

động Thương binh và Xã hội hoàn thành quy hoạch mạng lưới dạy nghề trên địa

bàn toàn tỉnh, tiến hành lập kế hoạch xây dựng các trung tâm dạy nghề ở các huyện

còn lại (Bình Minh, Mang Thít, Long Hồ) để đủ sức đảm đương công tác đào tạo

nghề ngày càng lớn của nhân dân, hình thành mạng lưới dạy nghề trên toàn tỉnh

nhằm hỗ trợ, bổ sung cho nhau trong công tác dạy nghề, đồng thời các trường và

trung tâm dạy nghề xây dựng mối liên kết chặt và bền vững với các trung tâm dịch

vụ việc làm để nâng tính hiệu quả trong công tác dạy nghề và tạo việc làm cho

người lao động. Thực hiện xã hội hóa trong công tác dạy nghề và việc làm; khuyến

khích các tổ chức, cá nhân mở các cơ sở dạy nghề ngoài công lập, các cơ sở truyền

nghề… để góp phần cùng Nhà nước thực hiện tốt công tác phát triển NNL về dạy

nghề và tạo việc làm cho người lao động. Đồng thời tăng cường công tác quản lý

nhà nước đối với các trung tâm dịch vụ việc làm tư nhân để đảm bảo quyền lợi của

người lao động.

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII (2001) Đảng bộ tỉnh

Vĩnh Long. Ngày 28 tháng 6 năm 2001 tại kỳ họp thứ 5 khóa VI, HĐND tỉnh đã

thông qua Nghị quyết số 16/2001/NQ.HĐND về phê duyệt chương trình giải

quyết việc làm tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2001-2005 với mục tiêu: Đào tạo nghề,

giải quyết việc làm chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với sự phát triển và

chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, bảo đảm việc làm cho phần lớn người lao động có

nhu cầu, nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc

sống của nhân dân.

Với đặc thù là tỉnh thuần nông, việc chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất, mùa

vụ, cây trồng, vật nuôi, phát triển đa dạng ngành nghề trong các lĩnh vực công

nghiệp, thủ công mỹ nghệ, dịch vụ... dự kiến có thể thu hút và tạo thêm việc làm

cho khoảng 10 ngàn lao động, đưa số lao động có việc làm ở nông thôn vào năm

2005 khoảng 40 ngàn người, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển NNL đáp ứng

tình hình mới [68]. Ngày 10/2/2003, UBND tỉnh ban hành Quyết định số

69

348/2003/QĐ.UBT về việc phê duyệt quy hoạch mạng lưới dạy nghề tỉnh Vĩnh

Long thời kỳ 2002 - 2010. Với quan điểm và định hướng chung sau:

Về quan điểm, xem đào tạo nghề là nhiệm vụ trọng tâm phát triển NNL; gắn

đào tạo nghề với chương trình phát triển tổng thể KT-XH của tỉnh, của các ngành

kinh tế, vùng kinh tế, vùng dân cư, gắn với nhu cầu các doanh nghiệp và thị trường

sức lao động; Gắn đào tạo nghề với chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với

chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh; Đổi mới nội dung, chương trình và

phương pháp đào tạo nghề gắn với yêu cầu của thị trường lao động; Thực hiện đẩy

mạnh xã hội hóa công tác đào tạo nghề; đa dạng hóa các loại hình đào tạo nghề,

khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đào tạo nghề, lấy loại hình đào tạo

nghề Nhà nước đóng vai trò chủ đạo; Tăng ngân sách đầu tư cho đào tạo nghề, có

cơ chế chính sách hợp lý để huy động và sử dụng các nguồn đầu tư trong và ngoài

nước; Tăng cường quản lý Nhà nước về đào tạo nghề, chú trọng quản lý nâng cao

chất lượng đào tạo, đầu tư có trọng điểm để tạo nên một số cơ sở đào tạo nghề có

chất lượng làm chuẩn mực để đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề trình độ

cao. Phát triển mạng lưới các cơ sở đào tạo nghề cần có đủ năng lực đào tạo một

hoặc hai cấp trình độ (lành nghề và bán lành nghề), thành lập các trung tâm dạy

nghề mới ở các huyện chưa có cơ sở dạy nghề.

Về định hướng chung được xác định hai loại hình đào tạo dài hạn và

ngắn hạn:

Đào tạo dài hạn là với yêu cầu đào tạo hàng năm, mở rộng phát triển đào tạo

những ngành nghề mới đáp ứng nhu cầu phát triển và, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,

chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn. Đầu tư xây dựng mới một trường dạy nghề

làm nhiệm vụ chủ lực đào tạo nghề dài hạn, khuyến khích các doanh nghiệp, các

thành phần kinh tế và tổ chức xã hội tham gia công tác đào tạo nghề, cần có hợp

đồng liên kết đào tạo với các đơn vị có chức năng đào tạo nghề dài hạn của trung

ương và các tỉnh trong khu vực.

Đào tạo ngắn hạn là loại hình đào tạo theo yêu cầu đa dạng của thị trường

lao động, mỗi huyện trong tỉnh xây dựng một trung tâm dạy nghề đảm nhận vai trò

chính trong đào tạo nghề cho người lao động ở nông thôn và đào tạo những nghề

mà tư nhân không tham gia đào tạo, khuyến khích hình thành các cơ sở dạy nghề tư

70

nhân, kèm cặp tại nơi sản xuất, vừa học vừa làm ở các cụm dân cư nhất là các xã

vùng sâu vùng xa. Đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp, các thành phần kinh

tế và tổ chức xã hội tham gia công tác đào tạo nghề, mở rộng và da dạng hóa các

loại hình đào tạo nghề.

Từ những quan điểm và định hướng, UBND tỉnh yêu cầu các cơ sở dạy

nghề thực hiện xây dựng ba hệ thống dạy nghề đến năm 2010 đó là: Hệ thống

trường dạy nghề, trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề

và dịch vụ việc làm thuộc tỉnh quản lý làm nhiệm vụ chủ lực trong đào tạo nghề

dài hạn, ngắn hạn. Riêng hệ thống trường trực thuộc Trung ương, cần thực hiện

đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị theo kế hoạch, dự án của cơ quan chủ quản và

giao thêm chỉ tiêu đào tạo về ngành nghề, số lượng học viên, kinh phí tùy theo

điều kiện và năng lực để các trường thực hiện hợp đồng liên kết đào tạo nghề dài

hạn với tỉnh. Đối với hệ thống các trung tâm, cơ sở, lớp dạy nghề tư nhân, cơ sở

sản xuất, doanh nghiệp, cộng đồng trong tỉnh cần chú trọng phát triển mạnh hệ

thống dạy nghề này ở các trung tâm huyện, cụm dân cư, trung tâm xã vùng nông

thôn, vùng sâu vùng xa nhằm tăng cơ hội học nghề cho người lao động. Có thể nói

nhu cầu phát triển NNL là một trong những yếu tố để thúc đẩy KT-XH ở địa

phương. Ngày 22 tháng 10 năm 2004, UBND tỉnh đã ban hành Đề án số: 2015-

ĐA/UB đề án xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản

lý giáo dục trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long. Đề án đã cụ thể hóa Kế hoạch số: 39-

KH/TU ngày 30 tháng 8 năm 2004 của tỉnh ủy Vĩnh Long với những nhiệm vụ

trọng tâm sau:

Thứ nhất, Trường Cao đẳng sư phạm có vai trò trong đào tạo, bồi dưỡng và

nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo. Sở Giáo dục và Đào tạo cùng các cơ quan có

liên quan xây dựng kế hoạch củng cố, nâng cao năng lực đào tạo của trường Cao

đẳng sư phạm tỉnh. Tiếp tục quy hoạch đưa đi đào tạo đội ngũ nhà giáo, cán bộ

quản lý giáo dục của tỉnh ở các trường Sư phạm, trường cán bộ quản lý giáo dục ở

Trung ương. Đặc biệt chú ý quy hoạch đào tạo đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý

giáo dục của tỉnh có trình độ đạt chuẩn theo quy định, chú ý đào tạo trên đại học để

đáp ứng yêu cầu sự nghiệp phát triển GD-ĐT của tỉnh. Nhiệm vụ trọng tâm cần tập

trung tham gia vào đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy trong

71

các cấp học, bậc học. Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ nhà giáo cho các

trường ngoài trường Cao đẳng sư phạm, chú trọng đội ngũ giảng viên ở các trường

trung học chuyên nghiệp.

Thứ hai, giao cho Sở giáo dục và đào tạo tiến hành quy hoạch, kế hoạch

phát triển NNL thông qua công tác đào tạo, đào tạo lại, để nâng cao trình độ, chất

lượng NNL, đặc biệt là NNL đang thực hiện chức năng giảng dạy, quản lý; bảo

đảm đầy đủ số lượng, cân đối về cơ cấu, tiêu chuẩn. Chú trọng phát triển NNL có

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nhất là đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trong các

cơ sở giáo dục theo hướng chuyên nghiệp hoá. Ưu tiên phát triển NNL là đội ngũ

giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục trong các trường dạy nghề, trung

học chuyên nghiệp.

Thứ ba, các trường đào tạo và các cơ sở giáo dục, đặc biệt là trường Cao

đẳng sư phạm, trường Trung cấp nghề Vĩnh Long thực hiện phương pháp đào tạo

theo hướng hiện đại nhằm bồi dưỡng và phát huy NNL toàn diện. Khắc phục

phương pháp giáo dục nặng lý thuyết, bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu,

ứng dụng công nghệ thông tin vào việc dạy và học.

Thứ tư, Sở Giáo dục và Đào tạo và cơ sở đào tạo sự nghiệp trong tỉnh thực

hiện khâu quản lý chặt chẽ các loại hình đào tạo, nhất là đào tạo tại chức, từ xa. Có

chính sách điều động đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục về số lượng, cơ cấu

cho phù hợp với phát triển giáo dục của địa phương. Từng bước mở rộng hợp tác

quốc tế để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản

lý giáo dục đáp ứng yêu cầu.

Thứ năm, có kiểm tra, đánh giá việc thực hiện chính sách chế độ đối với

NNL là cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên; có chính sách động viên đội ngũ giáo

viên, cán bộ quản lý giáo dục có tâm huyết với sự nghiệp giáo dục tỉnh nhà. Có chế

độ phụ cấp ưu đãi thích hợp và kết hợp giữa giảng dạy và nghiên cứu khoa học đối

với đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục.

Thứ sáu, các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các cấp quản lý giáo dục trong

tỉnh cần tăng cường tuyên truyền giáo dục làm cho nhân dân và toàn xã hội nhận

thức rõ vai trò quan trọng hàng đầu của công tác phát triển NNL là đội ngũ nhà giáo

72

và cán bộ quản lý giáo dục cho địa phương và đất nước. Thường xuyên quan tâm

công tác chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức cách mạng, nắm chắc tư tưởng diễn

biến của nguồn lực này để có kế hoạch bồi dưỡng phù hợp.

Để thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng và tăng tốc

độ phát triển KT-XH của nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ VII,

ngày 12/12/2005 UBND tỉnh Vĩnh Long ban hành Đề án số: 1636/DA-SGD-ĐT

xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý ngành giáo

dục - đào tạo tỉnh Vĩnh Long (giai đoạn 2005-2010). Với mục tiêu xây dựng và

nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo chuẩn hóa,

nâng cao chất lượng, bảo đảm về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng

nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và

trình độ chuyên môn đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong

công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH của đất nước. Phấn đấu thực hiện 60% giáo viên

đạt trên chuẩn có trình độ cao đẳng và đại học, trong đó 20% có trình độ đại học.

Đồng thời có chủ trương đào tạo 50 cán bộ, giáo viên có trình độ thạc sĩ, nâng

chuẩn cho 1.000 giáo viên có trình độ chuẩn lên trình độ cao đẳng. Riêng đối với

giáo viên trường Cao đẳng sư phạm, nâng trình độ 100% giáo viên đạt chuẩn hóa và

có 20% trở lên đạt trình độ Cao học; đối với cán bộ quản lý giáo dục đạt 100% cán

bộ quản lý giáo dục đủ tiêu chuẩn về chuyên môn và được bồi dưỡng nghiệp vụ

quản lý theo từng ngành học, bậc học.

Căn cứ mục tiêu, chỉ tiêu, quan điểm và định hướng chung, tỉnh đã tập trung

chỉ đạo thực hiện tốt các chủ trương, các giải pháp phát triển kinh tế, giải quyết việc

làm. Cụ thể là trong nông nghiệp đã đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu nội bộ, thâm

canh, tăng vụ, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, tăng cường cơ giới hóa, phát triển

thêm nghề phụ, tạo thêm việc làm trong nông thôn; phát triển công nghiệp cơ khí,

công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, phát triển

nhanh ngành thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, tạo thêm việc làm tại chỗ; phát triển

thương mại, dịch vụ nội địa, đồng thời mở rộng thị trường trong và ngoài nước,

nhất là các thị trường tiêu thụ nông sản, thủy sản, tăng tỷ trọng các mặt hàng xuất

khẩu; khai thác tốt tiềm năng sông, nước, miệt vườn đầu tư phát triển ngành du lịch

sinh thái, thu hút lao động, giải quyết việc làm.

73

Đồng thời, tăng cường công tác quản lý Nhà nước về đào tạo nghề, quy

hoạch mạng lưới phát triển và từng bước xã hội hóa về đào tạo nghề. Cụ thể là

thành lập trường dạy nghề Vĩnh Long, kết hợp đào tạo dài hạn với đào tạo ngắn

hạn, khai thác có hiệu quả, phục vụ tốt cho sự nghiệp công nghiệp hóa và cho xuất

khẩu; hình thành một mạng lưới dạy nghề trên địa bàn tỉnh và các huyện thành lập

các trung tâm dạy nghề; khuyến khích các tổ chức đoàn thể, các hội quần chúng và

tư nhân thành lập các cơ sở dạy nghề các cụm xã, các khu dân cư tập trung; đẩy

mạnh công tác dạy nghề cho lao động nông thôn, nhất là các nghề chăn nuôi, trồng

trọt, thủy sản, các nghề thủ công và những nghề khác, tăng thêm việc làm cho lao

động nông thôn, tận dụng có hiệu quả thời gian nhàn rỗi trong nông nghiệp; củng cố

và phát triển các trung tâm, các cơ sở dịch vụ tư vấn, giới thiệu việc làm, tạo điều

kiện cho người lao động tìm kiếm việc làm dễ dàng, đồng thời đẩy mạnh công tác

đưa lao động đi làm việc ngoài tỉnh, ngoài nước, nhất là lao động xuất khẩu. Ưu tiên

phát triển NNL đã qua đào tạo nghề cho các doanh nghiệp ở địa phương.

Tỉnh đã chú trọng chỉ đạo thực hiện quản lý, sử dụng và tăng cường các

nguồn vốn vay, vốn đầu tư, nhất là Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm, quỹ xoá đói giảm

nghèo, tạo điều kiện cho người vay phát huy hiệu quả vốn đầu tư, hạn chế rủi ro,

nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống. Hàng năm, tuỳ theo tình hình thực tế, tỉnh

dành 0,5-1% ngân sách bổ sung cho quỹ giải quyết việc làm, tăng cường nguồn vốn

vay và hỗ trợ đào tạo nghề, nâng cao chất lượng NNL.

Đồng thời, đã nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 11,32% năm 2001 lên

18% năm 2005, trong đó tỷ lệ công nhân kỹ thuật chiếm 7,18% năm 2001 lên 12%

vào năm 2005. Tỷ lệ đào tạo dài hạn từ 6,56% năm 2001 lên 12% năm 2005 trong

tổng số đào tạo công nhân kỹ thuật là 47.780 công nhân kỹ thuật. Trong đó, đào

tạo phục vụ thị trường lao động là 38.280 người; đào tạo cung ứng cho xuất khẩu

lao động là 2.300 người; đào tạo cung ứng cho thị trường lao động ngoài tỉnh là

7.200 người. Về trình độ chuyên môn kỹ thuật toàn tỉnh chỉ đạt 18,66% (tương

đương 127.821 người), trong đó: trình độ đại học, cao đẳng chỉ chiếm 4,2%

(tương đương 28.770 người), trình độ trung học chuyên nghiệp 3,8% và trình độ

sơ cấp là 9% trong tổng số dân cư trong trong độ tuổi lao động, được phân bố

trong hoạt động kinh tế như sau: Lao động nông nghiệp 349.517 người, tỷ lệ 71%;

74

lao động công nghiệp 49.228 người, tỷ lệ 10%; lao động dịch vụ 93.533 người, tỷ

lệ 19%. Tuy nhiên, NNL được đào tạo chuyên môn cao chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong

cơ cấu NNL của khu vực tỉnh nhà [152].

Về nội dung đào tạo nghề đã thực hiện tốt theo tình hình, đặc thù của địa

phương như: Kỹ thuật điện tử dân dụng và công nghiệp, cơ khí, kỹ nghệ gò - hàn -

rèn, kỹ thuật điện xí nghiệp và điện dân dụng, kỹ thuật điện lạnh, kỹ thuật chăn nuôi

thú y, kỹ thuật nuôi trồng thủy sản, kỹ thuật trồng trọt, giao thông vận tải, may công

nghiệp,... Bằng sự nỗ lực phấn đấu của các ngành, các cấp và nhân dân trong tỉnh,

đến năm 2005 nền kinh tế của tỉnh cơ bản duy trì ổn định và phát triển, kết cấu hạ

tầng kinh tế được đầu tư, văn hóa - xã hội, đời sống nhân dân tiếp tục được cải

thiện, an ninh chính trị tiếp tục giữ vững, trật tự xã hội được tăng cường góp phần

mang lại tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng 8,7%, kim ngạch xuất khẩu đạt

50,53 triệu USD, giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) là 4,45%. Hàng năm tạo

việc làm cho người lao động từ 13 ngàn đến 25 ngàn lao động cho khu vực đồng

bằng sông Cửu Long, nâng thu nhập GDP bình quân đầu người 5,37 trđ/người/năm

(2002) lên 6 trđ/người/năm (năm 2005).

Tuy nhiên trước tình hình đặc điểm của tỉnh Vĩnh Long, tỷ lệ người thiếu

việc làm vẫn còn chiếm khá lớn trong dân cư là 60.000 người chiếm tỷ lệ 11,45%

(trong tổng số 685.000 người số người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ 65% dân

số toàn tỉnh), tỷ lệ người thất nghiệp là 10.000 người chiếm tỷ lệ 1,91% dân số

trong độ tuổi lao động [122].

Song song đó công tác phát triển NNL chưa đồng bộ, nhất là các ngành kinh

tế của tỉnh phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn vẫn chưa có sự đột phá, thiếu NNL

lao động chuyên môn kỹ thuật cao như ngành nông nghiệp thiếu từ 50 - 80 kỹ sư

trong các chuyên ngành trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản. Công nghiệp thiếu 30 - 50

kỹ sư trong các chuyên ngành khai khoáng, cơ khí chế tạo máy, tự động hóa; ngành

thương mại - dịch vụ thiếu 20 - 30 cử nhân trong các chuyên ngành tài chính - ngân

hàng - tiền tệ; ngành Giao thông - vận tải và xây dựng cũng thiếu từ 20 - 30 kỹ sư

cầu đường, giao thông, quy hoạch, kiến trúc. Trên cơ sở đó, tỉnh Vĩnh Long đã đẩy

mạnh công tác tuyển dụng nguồn lực lao động khoa học kỹ thuật cho các ngành ở

các lĩnh vực để đáp ứng nhiệm vụ của ngành cũng như phục vụ chương trình trọng

75

tâm của tỉnh. Từ 2002 đến 2005, tỉnh đã tuyển dụng được 750 công nhân kỹ thuật

bậc cao được đào tạo tại Trường Cao đẳng Sư phạm kỹ thuật Vĩnh Long và Trường

Cao đẳng xây dựng Miền Tây, nhưng do yêu cầu nhiệm vụ ngày một tăng của các

ngành trọng yếu đòi hỏi phải tăng cường nguồn lực chuyên môn kỹ thuật do vậy

vẫn cần phải tiếp tục bổ sung thêm trong thời gian tới từ 5.000 đến 10.000 người có

trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Nhiệm vụ đặt ra cho việc đào tạo, tuyển dụng là

phải đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng và cân đối, hợp lý giữa các ngành, lĩnh

vực cần phải nghiên cứu và xây dựng chiếm lược phát triển nguồn nhân lực của tỉnh

đến 2010 và xa hơn là đến 2020 [122].

Đánh giá chung về lực lượng lao động của tỉnh, nhìn chung khá dồi dào

nhưng phân bố lao động chưa hợp lý, lao động nông nghiệp quá nhiều (trên 70%)

so đầu năm 2000 và đến cuối năm 2005 tỷ lệ này không thay đổi, điều này nói lên

sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm. Số người không tham gia hoạt động kinh

tế còn cao, số người thất nghiệp còn đông (10.000 người) [122], lao động qua đào

tạo còn ít, đại bộ phận là lao động giản đơn, thủ công, đào tạo ngắn hạn là chủ yếu.

Trước những nỗ lực của địa phương nhằm tăng tốc độ phát triển NNL đáp

ứng sự nghiệp CNH, HĐH tỉnh nhà. Ngày 15 tháng 8 năm 2005, UBND tỉnh ban

hành Công văn số 1451/UBND.VX về việc báo cáo nhu cầu đào tạo NNL có trình

độ thạc sỹ. Theo UBND tỉnh, đào tạo trình độ thạc sỹ là nhiệm vụ cơ bản để thực

hiện khâu đột phá cơ cấu nông nghiệp, nông thôn theo chủ trương của Đại hội IX.

Từ tháng 9/2005 đến tháng 12/2005, NNL được đào tạo thạc sỹ của tỉnh Vĩnh Long

là 220 người, trong đó ngành Giáo dục và Đào tạo có 181 người thuộc các ngành sư

phạm Văn, Sử, Địa, Toán, Anh văn, Quản lý giáo dục, Triết học; ngành Y dược 10

người; ngành Kinh tế - Tài chính 17 người; ngành Nông nghiệp 10 người và các

ngành khác gồm Kiến trúc, Quy hoạch 2 người.

Đến cuối năm 2005, Vĩnh Long cơ bản đã đạt được các mục tiêu của Đại

hội VII đề ra, trong đó có nhiều chỉ tiêu đạt và vượt so với yêu cầu, đã góp phần

quan trọng thúc đẩy KT-XH của tỉnh. Kinh tế luôn duy trì tốc độ tăng trưởng cao,

bình quân hằng năm tăng 8-9%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; văn hóa -

xã hội có nhiều tiến bộ; giáo dục - đào tạo có bước phát triển vượt bậc ở tất cả các

cấp học, ngành học; đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ đói,

76

nghèo giảm còn 3,51%; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững,

HTCT tiếp tục được củng cố, kiện toàn... Song, nhìn chung công phát triển tạo

NNL của tỉnh còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của

tỉnh. Nguyên nhân tình trạng trên là do công tác lãnh đạo, chỉ đạo của địa phương

chưa quan tâm đúng mức về công tác phát triển NNL. Cụ thể trong nhiệm kỳ, tỉnh

chưa ban hành một nghị quyết riêng về công tác phát triển NNL mà chỉ ban hành

Chương trình hành động số 05:-CTr/TU (2002) về đào tạo nguồn nhân lực và giải

quyết việc làm cho người lao động tỉnh Vĩnh Long, giai đoạn 2003 - 2005 và

Chương trình hành động số: 08-CTr/TU (2002) của tỉnh ủy về thực hiện kết luận

Hội nghị lần thứ VI Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về GD-ĐT, KH-CN và

nhiệm vụ phát triển NNL đến năm 2010 là chưa đủ. Đồng thời, một trong những

vấn đề then chốt phát triển NNL chuyên môn kỹ thuật phục vụ cho nông nghiệp,

nông thôn là chưa có sự phối hợp chỉ đạo của các cơ quan chức năng chưa có sự

quyết liệt, táo bạo nên giai đoạn 2001 - 2005 NNL có trình độ đại học trở lên

chiếm tỷ lệ rất ít, thậm chí NNL là các chuyên gia đầu đàn, nhà khoa học, kỹ sư

công nghệ - thông tin,… mặc dù có cố gắng nhưng vẫn thấp dẫn đến kết quả bảng

xếp hạng về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của VCCI, chỉ số lao động của Vĩnh

Long ở mức thấp. Do vậy, để thực hiện tốt công tác đào tạo phát triển NNL đạt kết

quả cao hơn, vững chắc hơn trong giai đoạn tiếp theo, Vĩnh Long cần tháo gỡ

những vấn đề tồn tại trên.

Tiểu kết chương 2

Vĩnh Long là tỉnh nông nghiệp có vị trí địa lý và hệ thống đường giao thông

thuận lợi nằm giữa hai trung tâm kinh tế lớn ở khu vực phía Nam là thành phố Hồ

Chí Minh và thành phố Cần Thơ, đã tạo nên thế mạnh về sản xuất nông nghiệp,

cung cấp một phần sản lượng lương thực cho toàn vùng và cả nước. Là vùng đất có

truyền thống hiếu học, có nguồn lực lao động dồi dào, là nơi được thiên nhiên ưu

đãi rất thuận lợi để phát triển những ngành nghề tương xứng với tiềm năng sẵn có.

Trước tình hình đó, tỉnh ủy Vĩnh Long đã tập trung lãnh đạo phát triển NNL, xem

NNL là nguồn lực đặc biệt, là nền tảng vững chắc quyết định sự phát triển KT-XH

77

bền vững. Tỉnh ủy chỉ đạo UBND tỉnh xây dựng kế hoạch, chương trình, đề án để

thực hiện mục tiêu, phương hướng và giải pháp đối với phát triển NNL từ năm 2001

đến năm 2005. Đó là nâng cao chất lượng NNL CB,CC,VC trong các cơ quan nhà

nước về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, về quản lý nhà nước, bồi dưỡng về ngoại

ngữ, tin học, chuyên viên,... Đối với NNL lao động chuyên môn kỹ thuật trong lĩnh

vực nông nghiệp, nông thôn, UBND tỉnh chỉ đạo thực hiện xây dựng mạng lưới dạy

nghề bao gồm định hướng dài hạn và ngắn hạn, nhằm khai thác và phát triển toàn

diện NNL về lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, xây dựng, nông nghiệp, nông thôn cho

những ngành nghề đặc thù của tỉnh, góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, phấn

đấu xây dựng “Vĩnh Long giàu đẹp, văn minh”, xứng đáng là một tỉnh trọng điểm

khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Tuy nhiên, dù có nhiều cố gắng nhưng tình trạng NNL của tỉnh Vĩnh Long

phát triển chưa vững mạnh, vẫn còn yếu và thiếu NNL có trình độ cao, NNL vẫn

chưa là đòn bẩy để thúc đẩy KT-XH địa phương phát triển toàn diện và bền vững.

Đây cũng là những kinh nghiệm bước đầu để Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long đúc rút kinh

nghiệm trong thời gian tới.

78

Chương 3

ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN

NGUỒN NHÂN LỰC TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2015

3.1. YÊU CẦU PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC VÀ CHỦ TRƯƠNG

CỦA ĐẢNG VỀ ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG TÌNH

HÌNH MỚI

3.1.1. Yêu cầu đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực sớm đưa Việt Nam

ra khỏi tình trạng kém phát triển và chủ động hội nhập quốc tế

Việt Nam sau 20 năm đổi mới là khu vực phát triển năng động và sáng tạo,

có nhiều điều kiện khi tham gia phát triển kinh tế nhưng cũng có nhiều thách thức.

Muốn đứng vững được trên trường quốc tế, Việt Nam phải tập trung vào việc phát

triển kinh tế trong đó cần phải nâng cao chất lượng NNL. Và muốn phát triển

NNL đòi hỏi cần có một lực lượng đông đảo nhân lực có trình độ cao, có khả năng

làm việc trong môi trường công nghệ và cạnh tranh, có khả năng thích ứng nhanh

với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất đây là yếu tố then chốt

bảo đảm nền kinh tế Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại, bền vững.

Trong bối cảnh toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ và xu thế phát triển kinh tế

tri thức, lấy tri thức làm tiền đề phát triển KT-XH thì vai trò của NNL có ý

nghĩa quyết định, là vấn đề then chốt trong sự nghiệp CNH, HĐH vì mục tiêu

dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đối với Việt Nam, phát

triển NNL là một trong những mục tiêu cơ bản nhất, phấn đấu cơ bản trở thành

nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được mục tiêu đó, NNL phải

đảm bảo cả về số lượng và chất lượng, NNL phải trở thành khâu đột phá quan

trọng trong chiến lược, đó là phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn

nhân lực chất lượng cao.

Từ khi bước vào công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đề ra

nhiều chủ trương, chính sách cho công tác phát triển NNL. Số lượng và chất lượng

NNL đã được nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, NNL nước ta hiện nay vẫn cón có

những hạn chế: Đó là trình độ, kỹ năng còn yếu; năng lực đổi mới và sáng tạo

79

khoa học, công nghệ của nguồn nhân lực Việt Nam rất thấp; đội ngũ kỹ thuật viên

và công nhân có tay nghề vừa thiếu, vừa yếu; nguồn nhân lực có năng lực quản lý,

nhất là quản trị doanh nghiệp vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chất lượng.

Đổi mới các chính sách phát triển NNL và liên quan đến sử dụng NNL chất

lượng cao sẽ tác động mạnh mẽ đến sự phát triển về quy mô, cơ cấu và chất lượng

NNL trong những năm tới. Những thách thức, cơ hội nêu trên có mối quan hệ tác

động qua lại, có thể chuyển hoá lẫn nhau. Cần phải nắm chắc cơ hội, tận dụng cơ

hội để vượt qua thách thức xây dựng NNL chất lượng cao đáp ứng yêu cầy phát

triển của đất nước. Đây là vấn đề nan giải cho toàn bộ nền kinh tế và ảnh hưởng

trực tiếp đến phát triển KT-XH và phát triển NNL Việt Nam nói chung và tỉnh

Vĩnh Long nói riêng.

Bối cảnh trong nước và quốc tế đem đến cho tỉnh Vĩnh Long nhiều cơ hội

mới, song cũng phải đối đầu với nhiều thách thức lớn, gay gắt hơn trước. Nhiệm

vụ quan trọng nhất của tỉnh trong lúc này là phải nhanh chóng nâng cao sức cạnh

tranh trên mọi phương diện, trong đó lấy tri thức làm động lực phát triển và đòi

hỏi cần có một lực lượng NNL đông đảo, có trình độ cao, từng bước tiến tới chiếm

lĩnh những thành tựu KH-CN tiên tiến. Muốn thực hiện được điều đó, trước hết

Đảng bộ, chính quyền và nhân dân phải đặt ra nhiệm vụ cấp thiết là phát triển

NNL có trình độ đại học, sau đại học là đội ngũ CB,CC,VC trong các cơ quan nhà

nước thuộc HTCT có đủ năng lực, phẩm chất để thực hiện nhiệm vụ cách mạng

thời kỳ mới; phải có lực lượng lao động chuyên môn kỹ thuật cao để tiếp nhận,

chuyển giao và đề xuất những vấn đề khoa học, công nghệ, kỹ thuật, giải quyết

những những vấn đề cơ bản của sự nghiệp CNH, HĐH trong lĩnh vực nông

nghiệp, nông thôn, nhằm bảo đảm cho sự phát triển toàn diện của địa phương và

cùng với địa phương khác đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.

Đó là yếu tố then chốt đảm bảo cho sự nghiệp CNH, HĐH thành công.

Tuy nhiên, với bức tranh tổng thể khi đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh

CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, tỉnh Vĩnh Long vẫn không tránh khỏi những khó

khăn và thách thức lớn. Trong đó khó khăn và thách thức vẫn là trình độ, năng lực,

80

tư duy của đội ngũ CB,CC,VC và lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật còn

thiếu nghiêm trọng, không đủ sức để đưa tỉnh Vĩnh Long phát triển thành tỉnh khá

trong năm 2015 nếu như Vĩnh Long không có chiến lược đột phát để xây dựng và

phát triển NNL quan trọng này.

Để huy động mọi nguồn lực, tập trung khai thác tiềm năng, lợi thế để có tốc

độ tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, đến năm 2010 mức tăng trưởng kinh tế

(GDP) bình quân hàng năm đạt 14% [107, tr.36], Đại hội lần thứ VIII Đảng bộ

tỉnh Vĩnh Long (2005 - 2010) đã đề ra 05 chương trình mục tiêu KT-XH, trong đó

mục tiêu hàng đầu và cơ bản nhất là: Tập trung đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng

yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đẩy mạnh nhiều loại hình đào tạo, tạo

nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận KH-CN, chú trọng công tác đào tạo bồi

dưỡng cho đội ngũ cán bộ cơ sở, tập trung đào tạo sau đại học để xây dựng đội

ngũ trí thức phát triển đồng bộ trên các lĩnh vực, có chính sách thu hút nhân tài và

sử dụng nhân tài hiệu quả [107, tr.52].

Như vậy, để thực hiện mục tiêu phát triển KT-XH ở địa phương, tỉnh

Vĩnh Long phải thực hiện chủ trương phát triển NNL thông qua công tác đào

tạo, bồi dưỡng để thực hiện chính sách phát triển KT-XH, “phấn đấu đến cuối

nhiệm kỳ, lực lượng lao động chung của toàn tỉnh có trình độ chuyên môn kỹ

thuật cao đạt 35% và hàng năm giải quyết việc làm cho 27.000 lao động”

[114, tr.37].

Trước những nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Vĩnh Long,

ngày 17/7/2007, Bộ trưởng Bộ Xây dựng đã ký Quyết định số 1010/QĐ-BXD

công nhận thị xã Vĩnh Long là đô thị loại III và đến ngày 10 tháng 4 năm

2009 Chính phủ ban hành Nghị định số 16/NĐ-CP về việc nâng cấp thị xã Vĩnh

Long lên thành thành phố Vĩnh Long thuộc tỉnh Vĩnh Long. Đây là sự ghi nhận

của Đảng và Nhà nước, là niềm tự hào của con người vùng đất Vĩnh Long, sau

thành phố Cần Thơ và tỉnh Tiền Giang, tỉnh Vĩnh Long có vị trí ảnh hưởng đặc

biệt về địa chính trị và đứng hàng thứ 5 trong 13 tỉnh, thành đồng bằng sông Cửu

Long có đô thị loại III vào năm 2009.

81

3.1.2. Chủ trương của Đảng về đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực

Nhận thức được vai trò của phát triển NNL trong tình hình mới, Nghị quyết

Đại hội lần thứ X (2006) của Đảng đã khẳng định: Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng

kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền

vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải

thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh CNH,

HĐH và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành

một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Để thực hiện mục tiêu của Nghị quyết, Đại hội X của Đảng đã yêu cầu:

Phát triển NNL bảo đảm đến năm 2010 có NNL với cơ cấu đồng bộ và chất lượng

cao, trong đó tập trung đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào

tạo với sử dụng, trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển nhanh

nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành. Chú trọng phát

hiện, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài.

Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, ngày 6 tháng 8 năm 2008

trong Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương đã thông qua 3 Nghị quyết

quan trọng gồm thanh niên, trí thức và nông dân đó là các Nghị quyết: Tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH;

Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; Về nông

nghiệp, nông dân, nông thôn.

Đối với thanh niên, qua đánh giá, phân tích thực trạng của thanh niên, Đảng

đưa ra các quan điểm chỉ đạo: Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn coi thanh niên

là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thanh niên là tương lai

của dân tộc; đặt thanh niên ở vị trí trung tâm của chiến lược bồi dưỡng, phát huy

nhân tố và nguồn lực con người. Hội ngị đã nêu ra mục tiêu chung và mục tiêu cụ

thể trong những năm trước mắt, trọng tâm đến năm 2010 nhằm tiếp tục xây dựng

thế hệ thanh niên Việt Nam giàu lòng yêu nước, tự cường dân tộc; có sức khỏe, tri

thức, kỹ năng và tác phong công nghiệp trong lao động tập thể, trở thành những

công dân tốt của đất nước.

82

Với đội ngũ trí thức, Đảng yêu cầu: Ðến năm 2020, xây dựng đội ngũ trí

thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu

phát triển đất nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các

nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Về quan điểm chỉ đạo, Nghị quyết đã đề

ra 3 quan điểm như sau: (1) Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc

biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc

tế, xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc,

sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng và chất lượng hoạt

động của hệ thống chính trị. Ðầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát

triển bền vững. (2) Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã

hội, của cả hệ thống chính trị, trong đó trách nhiệm của Ðảng và Nhà nước giữ vai

trò quyết định. Trí thức không ngừng phấn đấu nâng cao phẩm chất chính trị, đạo

đức, năng lực chuyên môn, đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển đất nước và bảo

vệ Tổ quốc. (3) Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp

của trí thức. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và

kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước.

Về nhiệm vụ và giải pháp, Nghị quyết đã tập trung xây dựng theo 5 vấn đề

cơ bản: (1) Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí

thức; (2) Thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức; (3) Tạo

chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức; (4) Ðề cao trách nhiệm

của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các hội của trí thức; (5)

Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Ðảng đối với đội ngũ trí thức.

Đối với vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Hội nghị đã khẳng định,

nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp CNH, HĐH,

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế -

xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn,

phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước... Hội

nghị nêu lên mục tiêu đến năm 2020 và trước mắt đến năm 2010: Không ngừng

nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn, hài hóa giữa các vùng,

83

tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn...Xây dựng nền nông

nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa, có

năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an

ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài... Để làm được điều này, một trong

những giải pháp mà hội nghị đã đưa ra: Phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao

và ứng dụng khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại

hóa nông nghiệp, công nghiệp hóa nông thôn.

Có thể khẳng định rằng quan điểm phát triển NNL của Đảng trong giai

đoạn mới không chỉ tập trung vào đối tượng phát triển NNL chung mà thể hiện rõ,

cụ thể quan điểm phát triển NNL là thanh niên, đội ngũ trí thức,... Đây là những

người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định,

có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những

sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội.

Như vậy với mục tiêu tổng quát của Đại hội X của Đảng, cả nước đã

thực hiện đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến

quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa

nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Có thể nói Nghị quyết Đại hội X của

Đảng đã khẳng định rõ hơn về phát triển NNL là những con người cụ thể như:

“…phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là chuyên gia đầu ngành. Chú trọng

phát hiện, bồi dưỡng, trọng đãi nhân tài,... các nhà khoa học đầu ngành, tổng

công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có

tay nghề cao” [33, tr.185-186], “là thanh niên, đội ngũ trí thức, vấn đề nông

nghiệp, nông dân, nông thôn”... xác định từ nay đến năm 2020 phải phát triển

nhanh nguồn nhân lực, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền

giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và

ứng dụng khoa học, công nghệ.

Trước tình hình nền kinh tế tri thức phát triển nhanh, Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thức XI (2011) của Đảng, xác định chiến lược phát triển KT-

XH 2011 - 2020 đề ra 5 quan điểm phát triển. Trong đó quan điểm phát triển

84

NNL có ý nghĩa quan trọng, đột phá của sự phát triển bền vững, cụ thể: Mở

rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể,

nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Ở đây Đại hội xác định

chiến lược phát triển KT-XH phải dựa vào 3 khâu đột phá, đặc biệt là đột phá

về phát triển NNL: “Phát triển nhanh NNL, nhất là NNL chất lượng cao, tập

trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết

chặt chẽ phát triển NNL với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ” [37,

tr.32]. Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển là yêu cầu

xuyên suốt trong chiến lược. Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh,

tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Nguồn lực phát triển chính là phát huy

tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là

mục tiêu của phát triển.

Trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập, vấn đề phát huy trí tuệ và tay nghề

của nguồn lực con người Việt Nam, nhất là nguồn nhân lực trình độ cao càng trở

nên quan trọng. Nguồn nhân lực đó được Đảng chú trọng đến là “đội ngũ cán bộ

lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành

nghề và cán bộ, khoa học, công nghệ đầu đàn”. Bởi vì đây là nguồn lực lực lượng

tinh tuý, kết tinh những gì ưu tú nhất của con người Việt Nam. Trình độ dân trí cao,

vốn tri thức và tay nghề giỏi, khả năng nhận thức và tiếp thu nhanh kiến thức mới sẽ

là chìa khoá chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa học, kỹ thuật và công nghệ trên

con đường phát triển chống nguy cơ tụt hậu.

Để thực hiện mục tiêu đó, yêu cầu nhiệm vụ đối với phát triển NNL là

đặt GD-ĐT vị trí cao hơn. Ngày 6 tháng 8 năm 2008, Ban Chấp hành Trung

ương Đảng ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện

giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều

kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Với quan điểm

tiếp tục được khẳng định: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự

nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư

phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển

85

KT-XH. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn

đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội

dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới

từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của

các cơ sở GD-ĐT và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân

người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Nghị quyết số 29-NQ/TW

đã chỉ ra những mục tiêu, giải pháp cụ thể cho từng đối tượng như: Đối với

giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài,

phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của

người học; Đối với giáo dục nghề nghiệp, tập trung đào tạo nhân lực có kiến

thức, kỹ năng và trách nhiệm nghề nghiệp. Hình thành hệ thống giáo dục nghề

nghiệp với nhiều phương thức và trình độ đào tạo kỹ năng nghề nghiệp theo

hướng ứng dụng, thực hành, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật công

nghệ của thị trường lao động trong nước và quốc tế.

Như vậy Đảng luôn quan tâm chú trọng đến công tác phát triển NNL và

thực chất công tác phát triển NNL là nói đến việc xây dựng và phát huy sức mạnh

của đội ngũ CB,CC,VC, đội ngũ trí thức, lực lượng lao động lành nghề, những đối

tượng này phải trở thành lực lượng nòng cốt và là nguồn lực quan trọng đặc biệt

phản ánh sức mạnh của quốc gia được phản ánh trong các kỳ Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ X (2006), XI (2011) của Đảng nhằm nâng cao chất lượng NNL, đáp

ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước và phát triển kinh tế tri thức.

Tóm lại, Nghị quyết của Đảng một lần nữa đã khẳng định tính đúng đắn về

công tác phát triển NNL trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, thể hiện rõ nhất là

Đảng ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW (2008) về Xây dựng đội ngũ trí thức

trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; Nghị quyết số 29-NQ/TW (2013).

Đây là hai nghị quyết có tính chiến lược trong chủ trương phát triển mạnh mẽ

NNL được đặt ra như một bức thiết cho thời kỳ mới, thời kỳ giải quyết một cách

căn bản hơn những vấn đề liên quan đến trí thức khoa học và công nghệ phù hợp

với yêu cầu, nhiệm vụ của sự phát triển bền vững

86

3.2. CHỦ TRƯƠNG VÀ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG ĐẨY

MẠNH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU MỚI

3.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long về đẩy mạnh phát triển

nguồn nhân lực

Sau 20 năm tiến hành đường lối đổi mới, tình hình KT-XH tỉnh Vĩnh

Long có nhiều khởi sắc nhưng vẫn là địa phương có tốc độ tăng trưởng chậm, tỷ

lệ nghèo đói trong nhân dân có xu hướng tăng và thoát nghèo không bền vững,

số lượng và chất lượng NNL vẫn còn trong tình trạng vừa thừa, vừa thiếu, chưa

khai thác đúng mức và vẫn loay hoay phạm vi của tỉnh nông nghiệp. Trong bối

cảnh đó, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ VIII nhiệm kỳ

(2005 - 2010) đã đề ra phương hướng lãnh đạo xây dựng và phát triển NNL ở địa

phương với mục tiêu: Tập trung phát triển NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH.

Trong đó chú trọng đến công tác phát triển đội ngũ CB,CC,VC có trình độ, phẩm

chất và năng lực từng bước thực hiện chuẩn hóa chức danh nghề nghiệp và vị trí

việc làm;… Đẩy mạnh xã hội hóa công tác dạy nghề, nâng cao chất lượng đào

tạo ở các trường và các trung tâm dạy nghề, tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp

nhận công nghệ tiên tiến, đẩy mạnh công tác dạy nghề cho lao động nông thôn.

Tập trung đào tạo sau đại học, xây dựng đội ngũ trí thức đồng bộ trên các lĩnh

vực, có chính sách thu hút nhân tài [107, tr.52].

Đây là Đại hội mở ra cho tỉnh một giai đoạn mới với nhiều chủ trương

chính sách phát triển KT-XH nhằm đẩy mạnh công tác phát triển NNL, trong đó

NNL là đội ngũ CB,CC,VC và lao động có trình độ chuyên môn trong lĩnh vực

nông nghiệp, nông thôn được Đảng bộ cụ thể hóa thành đội ngũ trí thức nói

chung, nhằm nâng bước phát triển mới về vai trò NNL trong giai đoạn này. Nghị

quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long chỉ rõ: Thực hiện tốt cải cách giáo dục theo

chủ trương của trung ương từ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học

đúng theo phương châm: Dạy chữ, dạy người và dạy nghề... ở các trường đại học,

cao đẳng của tỉnh quản lý; đào tạo có địa chỉ nhằm tăng về số lượng, nâng cao về

chất lượng và cơ cấu hợp lý trong tất cả các ngành, lĩnh vực hoạt động. Thực hiện

87

tốt việc đưa CB,CC,VC, học sinh, sinh viên đi đào tạo ở các trường trong tỉnh,

trong nước ở các lĩnh vực mà tỉnh có nhu cầu bức thiết như: đào tạo chuyên gia

kinh tế trên các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, cán bộ KH-CN, cán bộ khoa

học tự nhiên, công nghệ thông tin, khoa học quản lý... Quan tâm đào tạo đội ngũ

trí thức trẻ, đồng thời bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ trí thức đã kinh qua công tác

thực tiễn.

Thường xuyên thông tin cho đội ngũ trí thức về các chủ trương, chính sách

của Đảng, Nhà nước; tình hình của tỉnh và đất nước, quốc tế. Tăng cường công tác

chính trị tư tưởng và trách nhiệm của trí thức trong học tập, rèn luyện, qua đó

phấn đấu trưởng thành, vươn lên ngang tầm thời kỳ mới, thực hiện theo phương

châm khoa học đi trước một bước bằng cách thông qua sự truyền bá của trí thức.

Tiếp tục cụ thể hóa các chính sách hiện có để thu hút con em tỉnh Vĩnh Long đang

học ở các trường đại học, học viện khi tốt nghiệp ra trường về công tác ở tỉnh nhà.

Nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc

và các đoàn thể chính trị, xã hội về vai trò, vị trí của trí thức trong thời kỳ CNH,

HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Các cấp ủy Đảng, chính quyền cần xác định

công tác trí thức là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, tuyên truyền trong xã hội

hiểu đúng vai trò, vị trí của đội ngũ trí thức; đội ngũ trí thức nhận thức được trách

nhiệm của mình đối với xã hội. Mặt khác, cần phát huy tài năng, trọng dụng

những trí thức có đạo đức tốt, có năng lực làm công tác quản lý kể cả trong và

ngoài đảng; có phương thức và cơ chế quản lý, sử dụng trí thức phù hợp để phát

huy năng lực cống hiến của trí thức.

Những người đứng đầu cấp ủy Đảng, chính quyền định kỳ tiếp xúc, lắng

nghe ý kiến của trí thức đóng góp cho mục tiêu, giải pháp phát triển kinh tế, văn

hóa, xã hội của tỉnh. Các cấp ủy Đảng có trách nhiệm trực tiếp lãnh đạo trí thức và

công tác trí thức, đưa công tác trí thức vào nghị quyết, chương trình hành động

hàng năm, nhiệm kỳ để triển khai, tổ chức thực hiện có hiệu quả.

Về tổ chức thực hiện, tỉnh ủy đã chỉ đạo toàn diện trên các mặt trong đó tập

trung triển khai ở các cấp ủy đảng tổ chức triển khai quán triệt cho cán bộ, đảng

88

viên và xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện chương trình hành

động của tỉnh ủy. Mặt trận Tổ quốc tỉnh và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp

tổ chức triển khai quán triệt và tuyên truyền trong nhân dân. Đồng thời Ban cán sự

Đảng - đoàn, UBND tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ

trí thức đến năm 2020 của tỉnh. Chỉ đạo HĐND tỉnh thể chế hóa về thực hiện các

mục tiêu, nhiệm vụ, xây dựng đội ngũ trí thức từ nay đến năm 2020; đồng thời rà

soát lại các chủ trương liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ và

tôn vinh trí thức để sửa đổi, bổ sung, ban hành mới phù hợp với Nghị quyết của

Trung ương và Chương trình hành động của Tỉnh ủy.

Trên cơ sở chủ trương, Nghị quyết của Đảng, đặc biệt Nghị quyết Nghị

quyết số: 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X. Ngày

3/11/2008 Tỉnh ủy đã ban hành Chương trình hành động số: 21-CTr/TU về thực

hiện Nghị quyết số 27 của Đảng. Chương trình hành động nêu rõ: Cùng với sự

phát triển chung, đội ngũ trí thức của tỉnh đã tăng nhanh về số lượng, nâng lên về

chất lượng góp phần trực tiếp vào quá trình phát triển KT-XH ở địa phương, thực

hiện tốt công tác xóa đói giảm nghèo nâng cao chất lượng cuộc sống, đóng góp

tích cực trong xây dựng những luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định

chủ trương, nghị quyết, chính sách phát triển KT-XH của tỉnh, thực hiện đào tạo

NNL, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài, từng bước nâng cao trình độ KH-

CN tiếp cận với trình độ của khu vực và cả nước”. Như vậy để xác định mục tiêu

của Đảng về phát triển NNL, Chương trình hành động cũng đã chỉ rõ ba nhóm đối

tượng để thực hiện mục tiêu và đề ra nhiệm vụ, giải pháp quan trọng như sau:

Về mục tiêu: Đến năm 2010: Xây dựng xong quy hoạch đội ngũ trí thức

trong hệ thống chính trị các cấp. Đến năm 2015 có 50% cán bộ lãnh đạo, quản

lý, trưởng, phó ngành tỉnh và huyện, thị có trình độ thạc sĩ trở lên; 50% cán

bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn (từ ban thường vụ đảng uỷ) có trình độ đại

học trở lên.

Về nhiệm vụ và giải pháp yêu cầu: Có kế hoạch tập hợp, phát huy lực

lượng trí thức hiện có, quy hoạch đào tạo đội ngũ trí thức Tỉnh nhà. Từ nay đến

89

năm 2010, các cấp ủy Đảng tiến hành rà soát nắm chắc đội ngũ trí thức trên địa

bàn, quản lý chặt chẽ, có kế hoạch tập hợp, phát huy tối đa đội ngũ trí thức; nắm

chắc lực lượng trí thức hiện có trong các cơ quan nhà nước; bố trí, phân công lại

cho đúng ngành nghề, chuyên môn được đào tạo. Đồng thời, tiến hành xây dựng

quy hoạch đội ngũ trí thức đến năm 2020. Trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch đào

tạo phục vụ nhiệm vụ chính trị của ngành, địa phương, đơn vị.

Cụ thể hóa các chính sách của trung ương về dân chủ trong hoạt động

KH-CN, GD-ĐT, văn hóa, nghệ thuật; sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các chính sách

hiện có và ban hành các chính sách mới theo điều kiện cụ thể của tỉnh; tăng đầu tư

bằng nhiều nguồn lực tạo điều kiện cho trí thức tự khẳng định, phát triển, cống

hiến và được xã hội tôn vinh. Quy hoạch đào tạo, bố trí, sử dụng đội ngũ trí thức:

đào tạo bằng nhiều hình thức trong tỉnh, trong nước, ngoài nước để đạt được mục

tiêu đề ra từ nay cho đến năm 2020. Chú trọng đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ, phấn đấu

đến năm 2020 tỉnh có 150 cán bộ trở lên có trình độ tiến sĩ. Thực hiện chính sách

trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức, tạo điều kiện cho trí thức phát triển bằng

chính phẩm chất, tài năng và những kết quả cống hiến của mình cho tỉnh nhà và

đất nước. Ngoài các chính sách đãi ngộ hiện cần đề ra các chủ trương phù hợp

với tình hình mới, bảo đảm cho đội ngũ trí thức được hưởng đúng và đầy đủ các

lợi ích vật chất, tinh thần tương xứng với kết quả lao động sáng tạo; tôn vinh

những trí thức có đóng góp thiết thực, hiệu quả vào sự nghiệp CNH, HĐH của

tỉnh như: tham gia nghiên cứu các đề tài, dự án cấp nhà nước, cấp tỉnh, cấp cơ

sở,v.v. tạo điều kiện để cán bộ khoa học kỹ thuật tham gia hội thi sáng tạo kỹ

thuật của tỉnh, quốc gia, quốc tế. Đồng thời có chính sách tập hợp trí thức trong

và ngoài tỉnh, trí thức là người Việt Nam ở nước ngoài tích cực tham gia hiến kế,

hợp tác nghiên cứu khoa học mà tỉnh có nhu cầu.

Các cơ quan, đơn vị tiến hành rà soát lại đội ngũ cán bộ của cơ quan, đơn

vị mình chọn người có đức, có tài đưa vào quy hoạch đào tạo để đạt mục tiêu đề

ra cho giai đoạn 2010-2015 và 2015-2020. Giao Ban Tổ chức tỉnh ủy hướng dẫn

các ngành các cấp rà soát lại đội ngũ trí thức; phân công, bố trí lại cho đúng với

90

chuyên ngành được đào tạo và xây dựng quy hoạch đội ngũ trí thức đến năm

2010 với cơ cấu hợp lý và có kế hoạch đào tạo hàng năm theo mục tiêu đề ra

nhằm phục vụ tốt nhiệm vụ phát triển KT-XH, đảm bảo an ninh, quốc phòng.

Ban Tổ chức tỉnh ủy chủ trì phối hợp các ngành có liên quan giúp tỉnh ủy xây

dựng các định mức, chế độ, chính sách cho công tác đào tạo đội ngũ trí thức của

tỉnh nói chung, cho các cơ quan nhà nước nói riêng. Ban Tuyên giáo tỉnh ủy chủ

trì phối hợp với Sở KH-CN, các ban, ngành có liên quan giúp Ban Thường vụ

tỉnh ủy theo dõi, kiểm tra, định kỳ sơ, tổng kết báo cáo tình hình và đề xuất ý

kiến bổ sung, điều chỉnh các nhiệm vụ, giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả

công tác xây dựng đội ngũ trí thức từ nay đến năm 2020.

Với quan điểm “muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi

phải phát triển mạnh giáo dục - đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ

bản của sự phát triển nhanh và bền vững”. Ngày 15 tháng 6 năm 2010 tỉnh uỷ

Vĩnh Long ban hành Nghị quyết số: 09-NQ/TU về tiếp tục thực hiện Nghị quyết

Trung ương 2 (khoá VIII) về giáo dục - đào tạo đến năm 2020 với quan điểm:

Kiên quyết thực hiện các quan điểm cơ bản của Nghị quyết Trung ương 2 (khoá

VIII) về định hướng phát triển GD-ĐT trong thời kỳ CNH, HĐH; phấn đấu sớm

đạt được mục tiêu phát triển GD-ĐT và đồng thời từng bước nâng cao chất

lượng giáo dục - đào tạo. Kiên trì thực hiện chủ trương GD-ĐT là đào tạo ra thế

hệ trẻ toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất; xem giáo GD-ĐT là quốc sách hàng

đầu. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, trợ cấp ưu đãi đối với học sinh nghèo học

giỏi, cán bộ được quy hoạch đào tạo mũi nhọn, tạo điều kiện cho những người

học giỏi phát triển tài năng.

Nghị quyết đề ra hai mục tiêu cơ bản sau: (1) Phát triển quy mô ở tất cả các

bậc học, ngành học bằng nhiều hình thức đa dạng, tập trung giáo dục nghề nghiệp

để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH. (2) Nâng cao chất lượng

giáo dục, trên cơ sở xây dựng đội ngũ giáo viên đạt chuẩn theo quy định, trang bị

phương tiện, dụng cụ hiện đại phục vụ dạy và học.

Song song công tác phát triển NNL với quan điểm thực sự coi giáo dục -

đào tạo, là quốc sách hàng đầu. Công tác đào tạo NNL được chú ý tập trung vào

91

hai nhóm nhiệm vụ: Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về

số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng, phẩm chất đạo đức và lối sống theo Chỉ

thị 40-CT/TW của Ban Bí thư và Kế hoạch 39-KH/TU (2004) của tỉnh ủy về xây

dựng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; đổi mới

mạnh mẽ phương pháp và nội dung đào tạo của các trường, nâng cao chất lượng

Trường Cao đẳng sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long thực sự trở thành trường trọng

điểm đủ khả năng đào tạo giáo viên dạy nghề.

Nhận thức tầm quan trọng của đội ngũ trí thức, cũng như chiến lược phát

triển và nâng cao chất lượng NNL phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế nhanh và bền

vững. Đại hội đại biểu lần thứ IX Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long nhiệm kỳ (2010 -

2015) đã nhấn mạnh chủ trương về nâng cao chất lượng NNL. Đồng chí Nguyễn

Sinh Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ chỉ đạo

“Vĩnh Long cần ưu tiên đầu tư, đẩy mạnh công tác giáo dục, đào tạo, nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực” [114, tr.95], xem đây là một khâu quyết định để thực

hiện thắng lợi, nhiệm vụ của Đảng bộ đề ra trong những năm tiếp theo.

Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị, cũng như thực hiện Nghị

quyết Đại hội lần thứ IX Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long, ngày 8/11/2011 tỉnh ủy đã ban

hành Chương trình hành động số: 09-Ctr/TU về phát triển và nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến năm 2020. Chương

trình hành động ra đời là quá trình quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân

tỉnh Vĩnh Long quyết thực hiện chiến lược mục tiêu đến 2015 tỉnh Vĩnh Long

thành tỉnh trung bình khá trong khu vực. Chương trình hành động đã nêu ra mục

tiêu sau: Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm phát triển và nâng cao chất

lượng NNL, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH tỉnh nhà góp phần cùng

cả nước chuyển đổi mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất

lượng hiệu quả, phát triển kinh tế nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế. Trong đó,

tập trung đào tạo và đào tạo lại, bổ sung NNL cho những ngành, lĩnh vực có vai

trò quyết định, tạo bước đột phá trong lĩnh vực KT-XH tỉnh sau năm 2015, nhất là

xây dựng đội ngũ cán bộ, quản lý cho hệ thống chính trị; các lĩnh vực giáo dục và

92

đào tạo; y tế; đào tạo nghề; phát triển đội ngũ doanh nhân và văn hóa, thể thao và

du lịch.

Về chỉ tiêu cụ thể, Chương trình hành động số 09-Ctr/TU xác định: Đến

năm 2015 có 100% cán bộ lãnh đạo, quản lý và trưởng, phó ngành tỉnh,

huyện, thành phố và tương đương đạt trình độ đại học chuyên môn, có trình

độ lý luận chính trị cao cấp, ngoại ngữ, tin học theo chuẩn quy định, trong đó

có 30% có trình độ thạc sĩ trở lên; 100% cán bộ, công chức, viên chức các cơ

quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập từ trưởng, phó trưởng phòng và

tương đương có trình độ đại học chuyên môn, quản lý chuyên môn phù hợp,

có trình độ lý luận chính trị trung cấp trở lên, sử dụng thông thạo tin học trong

công việc; hoàn thành chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ vào năm 2012. Đến

năm 2020 có 60% cán bộ lãnh đạo, quản lý và trưởng, phó ngành tỉnh và

huyện, thành phố có trình độ thạc sĩ trở lên; 100% cán bộ chủ chốt xã,

phường, thị trấn có trình độ lý luận chính trị cao cấp và đại học, trong đó có

10% có trình độ thạc sĩ [207].

Để thực hiện chủ trương của tỉnh ủy, UBND tỉnh ra Quyết định số

1375/QĐ-UBND, ngày 28/8/2012 về việc ban hành Kế hoạch phát triển và nâng

cao chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2012 - 2015 và định

hướng đến năm 2020. Đến ngày 7/9/2012, UBND tỉnh tiếp tục cụ thể hóa Quyết

định số 1375 và ra Quyết định số: 1917/QĐ-UBND, ngày 21 tháng 11 năm 2012

về việc thành lập Hội đồng phát triển NNL tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2011 -

2020, với nhiệm vụ cụ thể như sau: Nghiên cứu, đề xuất với UBND tỉnh những

biện pháp và điều kiện thực hiện quy hoạch phát triển nhân lực và đào tạo theo

nhu cầu xã hội; Giúp UBND tỉnh chỉ đạo sở, ban, ngành và huyện, thành phố

xây dựng các chính sách, chương trình, đề án đào tạo nhân lực, điều phối các

hoạt động và nguồn lực để phát triển nhân lực phù hợp với quy hoạch phát triển

kinh tế xã hội; Kiến nghị UBND tỉnh điều chỉnh quy hoạch nhân lực và các điều

kiện thực hiện quy hoạch, đào tạo NNL chất lượng cao gắn với phát triển KH-

CN; Giúp UBND tỉnh đôn đốc các sở, ngành và huyện, thành phố chỉ đạo kiểm

93

tra, giám sát, đánh giá kế hoạch và kết quả triển khai các hoạt động thực hiện

quy hoạch phát triển nhân lực và đào tạo theo nhu cầu xã hội hàng năm của sở,

ngành, địa phương; Báo cáo UBND tỉnh về tình hình, kết quả hoạt động định kỳ

6 tháng, năm và đột xuất theo yêu cầu của UBND tỉnh.

Trên cơ sở thực hiện Nghị quyết của hai nhiệm kỳ Đại hội tỉnh Đảng bộ

lần thứ VIII (2005 - 2010) và lần thứ IX (2010 - 2015) nhằm xây dựng đội ngũ

NNL chất lượng cao, đáp ứng đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước và phát

triển kinh tế tri thức. Hai đại hội đã khẳng định quan điểm phát triển NNL là:

Tiến hành đào tạo đội ngũ CB,CC,VC và xây dựng kế hoạch đào tạo đội

ngũ CB,CC,VC ngành mình, cấp mình theo mục tiêu chung là đủ số lượng, tiêu

chuẩn và cơ cấu đồng bộ. Chủ động tạo được nguồn cán bộ, trong đó tập trung

vào cán bộ lãnh đạo, quản lý; đặc biệt quan tâm tạo nguồn CB,CC,VC trẻ, nữ,

dân tộc thiểu số.

Đa dạng hóa các hình thức đào tạo, bồi dưỡng, tập trung đào tạo, bồi

dưỡng kiến thức quản lý nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức cải cách

hành chính, kiến thức, kỹ năng chuyên ngành cho từng chức danh. Chú trọng đào

tạo chính quy cho cán bộ trẻ trong độ tuổi.

Bố trí cán bộ đúng chuyên môn đào tạo, tạo môi trường, điều kiện thuận

lợi cho CB,CC,VC thực hiện tốt nhiệm vụ được giao tại cơ quan, đơn vị. Chuẩn

bị dự nguồn CB,CC,VC cho tỉnh, sở, ban, ngành, huyện, thành phố,...cần đưa

đào tạo cơ bản trong nước, nước ngoài hoặc luân chuyển để nâng cao năng lực

thực tiễn và kinh nghiệm công tác.

Có chính sách phù hợp để thu hút nhân tài, chất xám vào làm việc trong

các tổ chức trong hệ thống chính trị, đặc biệt CB,CC,VC thuộc lĩnh vực khoa

học kỹ thuật.

Đến năm 2010 xây dựng xong quy hoạch đội ngũ trí thức trong hệ thống

chính trị các cấp. Sắp xếp các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý và trưởng,

phó ngành tỉnh theo hướng có đại học chuyên ngành và 10% có trình độ thạc sĩ

trở lên.

94

Đến năm 2015: Có 50% cán bộ lãnh đạo, quản lý, trưởng, phó ngành tỉnh

và huyện, thị có trình độ thạc sĩ trở lên. Có 100% cán bộ lãnh đạo, quản lý và

trưởng, phó ngành tỉnh, huyện, thành phố (trừ Hội Cựu chiến binh) và tương

đương đạt trình độ đại học chuyên môn, có trình độ lý luận chính trị cao cấp,

ngoại ngữ, tin học theo chuẩn quy định, trong đó có 30% có trình độ thạc sĩ trở

lên. 100% cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan hành chính, đơn vị sự

nghiệp công lập từ trưởng phòng, phó trưởng phòng và tương đương có trình độ

đại học chuyên môn, quản lý chuyên môn phù hợp, có trình độ lý luận chính trị

trung cấp trở lên, sử dụng thông thạo tin học trong công việc. Hoàn thành

chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ (Chương trình 100) vào năm 2012, tiến hành

tổng kết và tiếp tục xây dựng chương trình mới, đào tạo nước ngoài cho giai

đoạn 2013-2015 theo các chuyên ngành phát triển KT-XH phù họp trong thời kỳ

CNH, HĐH tỉnh nhà. Phối hợp các học viện, các trường, các trung tâm đào tạo

thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ,... bồi dưỡng ngoại ngữ phục vụ đào tạo thạc

sĩ, tiến sĩ cho 200 - 250 lượt đồng chí [207].

Tiếp tục đào tạo nghề cho lao động nông thôn nhằm nâng cao chất lượng

nguồn lao động của tỉnh và của từng địa phương; đào tạo nguồn nhân lực để

phát triển các ngành nghề thế mạnh của từng khu vực, từng mô hình điển hình

và theo chủ trương, định hướng phát triển KT-XH. Nâng cao chất lượng và hiệu

quả đào tạo nghề nhằm gắn liền việc đào tạo nghề với tạo việc làm, giải quyết

việc làm, tăng thu nhập của lao động nông thôn; góp phần chuyển dịch cơ cấu

lao động và cơ cấu kinh tế, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông

thôn. Trong đó chú trọng thực hiện:

Tập trung đào tạo nghề để chuyển đổi nghề cho lực lượng công nhân nghề

gốm bị thiếu việc làm do các lò gốm trên địa bàn tỉnh bị giải thể theo Đề án Tổ

chức lại ngành sản xuất gạch, gốm tỉnh Vĩnh Long theo Quyết định số 1831/QĐ-

UBND ngày 08/11/2013 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long về việc

ban hành Đề án “Tổ chức lại ngành sản xuất gạch, gốm tỉnh Vĩnh Long”.

95

Đào tạo nghề cung ứng lao động qua đào tạo cho các công ty, doanh

nghiệp, hợp tác xã,… để sử dụng lao động có trình độ tay nghề đạt chuẩn theo

quy định tại Khoản 8 Điều 52 Luật Giáo dục nghề nghiệp. Đào tạo nghề phục vụ

xuất khẩu lao động.

Đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn theo hướng chuyển

giao khoa học công nghệ, kỹ thuật canh tác mới, sử dụng cây trồng, vật nuôi chất

lượng cao, cải tạo mô hình kinh tế hộ gia đình nông thôn để tăng năng suất, tăng

chất lượng nông sản và tăng thu nhập cho người dân nông thôn. Chú trọng, tăng

cường thực hiện mở lớp dạy nghề và giải quyết việc làm, tạo việc làm cho lao

động nông thôn tại 22 xã nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long [75].

3.2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện phát triển nguồn nhân lực của

Đảng bộ Tỉnh Vĩnh Long

3.2.2.1. Phát triển toàn diện nguồn nhân lực cán bộ, công chức, viên

chức trong các cơ quan nhà nước đáp ứng yêu cầu mới

Phát triển NNL là một trong những nhiệm vụ then chốt được tỉnh đặc biệt

ưu tiên hàng đầu, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Nhận

thức được tính cấp thiết của công tác phát triển và nâng cao chất lượng NNL

theo tinh thần nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ X, lần thứ XI và Nghị quyết

của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ VIII, lần thứ IX. Ngày 26 tháng 6 năm

2006, UBND tỉnh Vĩnh Long ban hành Tờ trình số 37/TTr-UBND về việc đề

nghị Hội đồng Nhân dân tỉnh phê chuẩn Đề án: "Đào tạo ở nước ngoài nguồn

nhân lực có trình độ sau đại học cho tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2006-2011 (Đề

án Vĩnh Long 100)". Mục tiêu của Đề án là đào tạo ở nước ngoài NNL có trình

độ sau đại học cho tỉnh Vĩnh Long, đến năm 2015 toàn tỉnh có 100 cán bộ (gồm

đội ngũ các bộ công chức, viên chức trong hệ thống chính trị và đội ngũ trí thức)

có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ được đào tạo ở nước ngoài về các chuyên ngành cần

thiết nhằm tạo bước đột phá cho sự phát triển KT-XH của tỉnh, với cơ cấu ngành

nghề đào tạo gồm: công nghệ thông tin; công nghệ sinh học; nông nghiệp công

nghệ cao; công nghệ chế biến; công nghệ vật liệu, công nghệ hóa; kiến trúc, quy

96

hoạch đô thị; kinh tế thương mại; cơ khí chế tạo; y tế sức khỏe cộng đồng; khoa

học quan hệ quốc tế, luật, quản lý hành chính; kỹ thuật điện.

Để thực hiện có hiệu quả Đề án Vĩnh Long 100, trước mắt tỉnh chủ trương

phát triển NNL là CB,CC,VC phải được đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ

mọi mặt, vì đây là một trong các khâu đột phá của tỉnh để phát triển NNL chất

lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH giai đoạn từ nay đến năm 2015 và

chuẩn bị nguồn cán bộ cho giai đoạn 2015 - 2020. Năm 2011, UBND tỉnh Vĩnh

Long đã triển khai tiếp Đề án đào tạo bồi dưỡng CB,CC,VC theo hai giai đoạn

(2011 - 2015) và giai đoạn (2015 - 2020) với trên 32.000 lượt CB,CC,VC trong

các cơ quan nhà nước. Lực lượng CB,CC,VC này sẽ được đào tạo toàn diện cả

về quản lý Nhà nước và chuyên môn nghiệp vụ phù hợp với chức danh, vị trí

làm việc đáp ứng yêu cầu của công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành và thực thi

công vụ. Trong đó, Trường Chính trị Phạm Hùng và các Trường chính trị huyện,

thị, thành phố là đầu mối đào tạo, bồi dưỡng trình độ quản lý Nhà nước; Trung

tâm giáo dục thường xuyên và các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn là đầu

mối đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Ngoài ra, tỉnh còn liên

kết với các học viện, các trường cao đẳng, đại học, các trung tâm thuộc các Bộ,

Ngành Trung ương tổ chức đào tạo, bồi dưỡng CB,CC,VC theo nhu cầu.

Để phát triển đồng bộ NNL, ngày 24 tháng 4 năm 2007, UBND tỉnh ban

hành Quyết định số 08/2007/QĐ-UBND về chính sách hỗ trợ bác sĩ, dược sĩ đại

học, sinh viên tốt nghiệp các Trường Đại học Y Dược về công tác ở ngành Y tế

tỉnh Vĩnh Long [170]. Để đạt được mục tiêu theo đề án của Bộ Y tế đến năm

2010 phải đảm bảo 7 bác sĩ /10.000 dân và 01 dược sĩ Đại học/10.000 dân nhằm

thu hút nguồn nhân lực, động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho bác sĩ, dược sĩ

đại học, sinh viên tốt nghiệp các Trường Đại học Y Dược về công tác ở địa

phương, ngoài những quy định chung của Nhà nước, UBND tỉnh ban hành quy

định bổ sung chính sách hỗ trợ đối với bác sĩ, dược sĩ đại học, sinh viên tốt

nghiệp các Trường Đại học Y Dược về công tác ở Ngành Y tế tỉnh Vĩnh Long

với những nội dung chủ yếu sau: Về chính sách hỗ trợ: Bác sĩ, dược sĩ đại học từ

97

tỉnh khác chuyển về sẽ được trợ cấp một lần từ 10.000.000 - 12.000.000 đồng

đối với từng khu vực nhận công tác; Bác sĩ là chuyên khoa I và chuyên khoa 2 từ

nơi khác chuyển về tỉnh được hỗ trợ một lần từ 15 triệu đến 20 triệu đồng; Bác sĩ

có trình độ là Thạc sĩ và Tiến sĩ từ nơi khác chuyển đến làm việc trên địa bàn

tỉnh được hỗ trợ một lần từ 20 triệu đến 25 triệu đồng; đối với các sinh viên có

hoàn cảnh khó khăn hỗ trợ 02 năm cuối, mỗi năm 5.000.000đ/ sinh viên. Khi ra

trường về nhận công tác không được nhận thêm một khoản kinh phí nào ngoài

lương và các khoản phụ cấp lương. Mức hỗ trợ này kèm theo quy chế ràng buộc

như: Chấp hành sự phân công của Sở Y tế về nhận công tác tại các cơ sở y tế

trong tỉnh; Các đối tượng trên làm bảng cam kết làm việc trong ngành Y tế tỉnh

Vĩnh Long từ 5 năm trở lên trước khi nhận tiền hỗ trợ. Đối với sinh viên đang

học 2 năm cuối phải có sự bảo lãnh của gia đình (có xác nhận của chính quyền

địa phương). Trường hợp vi phạm hợp đồng đã cam kết đối với sinh viên đã tốt

nghiệp về nhận công tác tại tỉnh Vĩnh Long trong thời gian 5 năm kể từ ngày

nhận Quyết định, nếu tự ý bỏ việc không công tác trong ngành y tế tỉnh Vĩnh

Long sẽ bồi thường gấp 3 lần số tiền hỗ trợ đã nhận và chịu hình thức kỷ luật cao

nhất của Sở Y tế. Đây là một trong những chính sách được quy định chặt chẽ,

tuy nhiên đối tượng áp dụng không được phổ biến đại trà cho nhiều đối tượng

đào tạo các ngành khác. Đó cũng chính là những bất cập, thiếu xót trong cơ chế

quản lý chất lượng NNL.

Tăng cường đẩy mạnh NNL chất lượng cao nhằm nâng cao tốc độ tăng

trưởng KT-XH của địa phương đến 2010 và thực hiện nhất quán về phát triển đội

ngũ trí thức theo Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa

X) trong bối cảnh tình hình phát triển chung của đất nước. Ngày 09 tháng 7 năm

2009 Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Long ban hành Nghị quyết số: 106/2009/NQ-

HĐND ngày 09 tháng 7 năm 2009 về xây dựng đội ngũ trí thức tỉnh Vĩnh Long

đến năm 2020 [51] với mục tiêu cụ thể: Đến năm 2020 nâng số lượng đội ngũ trí

thức có trình độ sau đại học lên gấp 2,5 lần so với hiện nay. Tạo môi trường

thuận lợi cho đội ngũ trí thức hoạt động có hiệu quả.

98

Trên cơ sở Nghị quyết của HĐND tỉnh, ngày 12 tháng 8 năm 2009

UBND tỉnh Vĩnh Long đã ra Quyết định số 1855/QĐ-UBND về việc ban hành

Đề án Xây dựng đội ngũ trí thức tỉnh Vĩnh Long đến năm 2020 [178]. Cụ thể

như sau: Đến năm 2010 xây dựng xong quy hoạch đội ngũ trí thức trong hệ

thống chính trị các cấp, sắp xếp các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý và

trưởng, phó ngành tỉnh theo hướng có đại học chuyên ngành và 10% có trình

độ thạc sĩ trở lên (khoảng 16 người). Đến năm 2015 có 50% cán bộ lãnh đạo,

quản lý và trưởng, phó ngành tỉnh và huyện, thành phố có trình độ thạc sỹ trở

lên (khoảng 80 người).

Trong quá trình thực hiện xây dựng đội ngũ trí thức đã đem lại những kết

quả bước đầu sau: Hoàn chỉnh quy hoạch cán bộ từ cán bộ chủ chốt cấp xã đến

các chức danh lãnh đạo, quản lý và trưởng, phó ngành tỉnh, huyện, thành phố, để

đảm bảo mỗi năm ít nhất có 100 cán bộ, công chức đi học sau đại học, trong đó

có 30% là cán bộ công chức thuộc diện quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản

lý và trưởng, phó ngành tỉnh, huyện, thành phố và cán bộ chủ chốt ở xã, đưa 30

cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn đi đào tạo đại học nhằm đạt được các mục

tiêu đã đề ra và đáp ứng, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của ngành, địa

phương, đơn vị. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức thông

qua các chương trình, đề án, kế hoạch đã được phê duyệt như: Chương trình đào

tạo nguồn nhân lực và giải quyết việc làm giai đoạn 2006 - 2010; Đề án Vĩnh

Long 100; kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng CB,CC,VC hàng năm. Đồng thời, đã

khuyến khích các cơ quan, đơn vị đưa đi đào tạo trên chuẩn nghề nghiệp, nhất là

đưa đi đào tạo sau đại học, để nâng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tạo nguồn

để bổ sung các chức danh lãnh đạo, quản lý và trưởng, phó ngành tỉnh và huyện,

thành phố.

Qua quá trình tổ chức thực hiện Đề án, tỉnh đã phân cấp cho các sở ban

ngành địa phương phối hợp, liên kết thực hiện như sau: Sở Nội vụ có chức năng

tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thường vụ tỉnh uỷ sắp xếp, bố trí các chức

danh cán bộ lãnh đạo, quản lý và trưởng, phó ngành tỉnh theo hướng có đại học

99

chuyên ngành và có trình độ thạc sỹ trở lên. Phối hợp với Ban Tổ chức tỉnh uỷ,

tham mưu cho Ban Thường vụ tỉnh uỷ trong việc sắp xếp các chức danh cán bộ

lãnh đạo, quản lý và trưởng, phó ngành tỉnh theo hướng có đại học chuyên ngành

và 50% có trình độ thạc sĩ trở lên (50% còn lại đưa vào kế hoạch đào tạo hàng

năm). Đưa đi đào tạo đại học và sau đại học theo kế hoạch đề ra, đảm bảo đến

năm 2020 đạt các mục tiêu của đề án. Xây dựng đề án trình HĐND tỉnh ban

hành các chính sách, chế độ thu hút người có học hàm, học vị cao về công tác tại

Vĩnh Long. Tham mưu cho UBND tỉnh trong việc thí điểm thi tuyển các chức

danh trưởng, phó phòng chuyên môn thuộc sở, ngành tỉnh và các phòng chuyên

môn thuộc UBND cấp huyện đến năm 2010 xây dựng xong quy hoạch đội ngũ

trí thức trong hệ thống chính trị các cấp và sắp xếp các chức danh cán bộ lãnh

đạo, quản lý và trưởng, phó ngành tỉnh theo hướng có đại học chuyên ngành và

10% có trình độ thạc sỹ trở lên. Đến năm 2015, có 50% cán bộ lãnh đạo, quản lý

và trưởng, phó ngành tỉnh và huyện, thành phố có trình độ thạc sỹ trở lên. Sở Tài

chính, Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Sở Nội vụ và thủ trưởng các sở,

ban, ngành tỉnh, chủ tịch UBND các huyện, thành phố tiến hành rà soát lại đội

ngũ CB,CC,VC của địa phương, đơn vị được phân công quản lý; tiến hành quy

hoạch, xây dựng kế hoạch đào tạo sau đại học theo kế hoạch chung của tỉnh.

Trong quá trình Đề án, UBND tỉnh ban hành Quyết định số: 12/2010/QĐ-

UBND, ngày 25 tháng 02 năm 2010 về việc sửa đổi phần II Quy định kèm theo

Quyết định số 2585/QĐ-UBND ngày 22/12/2008 về việc sửa đổi phần I quy định

quy định chính sách trợ cấp đối với cán bộ, công chức đi học và cán bộ, công

chức luân chuyển, tăng cường về công tác xã tỉnh Vĩnh Long [179]. Đây là kết

quả của quá trình chỉ đạo của Đảng bộ, Chính quyền tỉnh Vĩnh Long đối với phát

triển đội ngũ trí thức trẻ, đồng thời bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ trí thức đã

kinh qua công tác thực tiễn, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động

của đội ngũ trí thức bằng việc cụ thể hoá các chính sách của trung ương về dân

chủ trong hoạt động KH-CN, GD-ĐT, văn hoá, nghệ thuật; Sửa đổi, bổ sung

hoàn thiện các chính sách hiện có và ban hành các chính sách mới theo điều kiện

100

cụ thể của tỉnh; Tăng đầu tư bằng nhiều nguồn lực tạo điều kiện cho trí thức tự

khẳng định, phát triển, cống hiến và được xã hội tôn vinh.

Bên cạnh chủ trương chính sách phát triển đội ngũ trí thức, tỉnh Vĩnh

Long quan tâm chính sách trọng dụng và sử dụng nhân tài, UBND tỉnh ban hành

Quyết định số 1533/QĐ-UBND, ngày 11 tháng 8 năm 2011 về việc triển khai

Nghị quyết số 14/2011/NQ-HĐND ngày 28 tháng 7 năm 2011 của Hội đồng

nhân dân tỉnh về việc quy định mức chi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

thuộc diện quy hoạch nguồn của tỉnh, cán bộ, công chức được cơ quan cử đi học

thông qua Sở Nội vụ, Ban Tổ chức Tỉnh ủy [184]. Ngoài ra tỉnh cũng đã ban

hành chính sách hỗ trợ luân chuyển CB,CC,VC đang công tác ở các vùng khó

khăn, vùng sâu vùng xa và vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Đối với chủ

trương này, tỉnh cũng có sự khảo sát, sắp xếp, cơ cấu bộ máy tổ chức tinh gọn,

hiệu quả và tránh sự lãng phí trong quá trình sử dụng cán bộ. Tỉnh cũng đã quan

tâm thực hiện tốt chính sách đãi ngộ con em con em cán bộ công chức ở Vĩnh

Long đang học đại học ở ngoài tỉnh (như thành phố Hồ Chí Minh và thành phố

Cần Thơ) và thành lập các quỹ học bổng Phạm Hùng, Trần Đại Nghĩa để hỗ trợ

các em học tập có thành tích khá giỏi.

Tăng cường chủ trương chính sách chăm lo phát triển NNL bền vững,

ngày 10 tháng 1 năm 2012 UBND tỉnh ban hành Quyết định số: 31/QĐ-UBND

về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng CB,CC,VC tỉnh Vĩnh Long giai

đoạn 2011-2015 [185] với quan điểm đào tạo, bồi dưỡng CB,CC,VC kiến thức,

kỹ năng quản lý nhà nước theo chương trình quy định cho công chức các ngạch

và theo chức vụ lãnh đạo, quản lý. Đồng thời bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản

lý chuyên ngành và vị trí việc làm theo chế độ bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu hàng

năm, bồi dưỡng văn hoá công sở; kiến thức hội nhập về Tin học, Ngoại ngữ

chuyên ngành; đào tạo trình độ sau đại học cho cán bộ, công chức cấp tỉnh, cấp

huyện trên cơ sở quy hoạch cán bộ; bồi dưỡng trang bị kiến thức, kỹ năng hoạt

động cho đại biểu Hội đồng nhân nhân theo chương trình quy định. UBND tỉnh

đã chỉ đạo đối với CB,CC,VC từ tỉnh đến huyện đến năm 2015 có 100% được

101

đào tạo đáp ứng tiêu chuẩn quy định (còn phải đào tạo 1.281 người; tin học đạt

chuẩn 1.017/1.747 người, tỉ lệ 58,21%, còn phải đào tạo 730 người; ngoại ngữ

đạt chuẩn 820/1.747người, tỉ lệ 46,94%, còn phải đào tạo 927 người); 95% cán

bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý các cấp được đào tạo, bồi dưỡng

theo chương trình quy định phải đào tạo, bồi dưỡng 649/684 người; 90% cán bộ

lãnh đạo, quản lý cấp phòng được đào tạo, bồi dưỡng trước khi bổ nhiệm phải

đào tạo, bồi dưỡng 495/551người; 85% CB,CC,VC thực hiện chế độ bồi dưỡng

bắt buộc tối thiểu hàng năm phải bồi dưỡng 1.485/1.747 người. Đồng thời hàng

năm đưa khoảng 40 - 50 lượt đi đào tạo, bồi dưỡng tại các nước phát triển và

đang phát triển; 100% người hoạt động không chuyên trách được bồi dưỡng kiến

thức phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ; 100% đại biểu HĐND các cấp được bồi

dưỡng trang bị kiến thức, kỹ năng hoạt động vào đầu năm 2013 [125].

Trước bối cảnh đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đến năm 2020, ngày 21

tháng 11 năm 2012 UBND tỉnh ban hành Quyết định số: 1917/QĐ-UBND về việc

thành lập Hội đồng Phát triển nhân lực tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2011-2020

[191]. Hội đồng Phát triển nhân lực tỉnh gồm có 18 thành viên do ông Nguyễn

Văn Thanh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh làm Chủ tịch Hội đồng. Chức năng của Hội

đồng là giúp UBND tỉnh nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp giải quyết các công việc

quan trọng, liên ngành, liên quan đến việc thực hiện quy hoạch phát triển nhân lực

và đào tạo theo nhu cầu xã hội giai đoạn 2011 - 2020. Đồng thời đề ra bốn nhiệm

vụ cơ bản đó là: (1) Nghiên cứu, đề xuất những biện pháp và điều kiện thực hiện

quy hoạch phát triển nhân lực và đào tạo theo nhu cầu xã hội; (2) Giúp tỉnh chỉ

đạo sở, ban, ngành và huyện, thành phố xây dựng các chính sách, chương trình, đề

án đào tạo nhân lực, điều phối các hoạt động và nguồn lực để phát triển nhân lực

phù hợp với quy hoạch phát triển KT-XH; (3) Kiến nghị điều chỉnh quy hoạch

nhân lực và các điều kiện thực hiện quy hoạch, đào tạo nhân lực chất lượng cao

gắn với phát triển khoa học và công nghệ; (4) Giúp tỉnh đôn đốc các sở, ngành và

huyện, thành phố chỉ đạo kiểm tra, giám sát, đánh giá kế hoạch và kết quả triển

khai các hoạt động thực hiện quy hoạch phát triển nhân lực và đào tạo theo nhu

cầu xã hội hàng năm của sở, ngành, địa phương.

102

Có thể nói, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ và Chính quyền

tỉnh Vĩnh Long đã thể hiện sự quyết tâm đẩy mạnh NNL, nhất là NNL chất

lượng cao được xem là khâu quyết định để thực hiện mục tiêu nhiệm vụ của

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ IX (2010) đề ra. Ngày 25

tháng 07 năm 2013, UBND tỉnh ban hành Quyết định số: 04/2013/QĐ-UBND về

việc ban hành Quy chế tuyển dụng công chức cấp tỉnh, huyện thuộc tỉnh Vĩnh

Long [197] và Quyết định số: 1706/QĐ-UBND, ngày 22 tháng 10 năm 2013 phê

duyệt Kế hoạch thực hiện Đề án Quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ trí thức

tỉnh đến năm 2020 [198]. Mục tiêu chung của tỉnh đề ra là góp phần xây dựng

đội ngũ trí thức chuyên nghiệp, vững vàng về chính trị, tinh thông nghiệp vụ có

đủ năng lực góp phần xây dựng hệ thống chính trị, nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa tiên tiến, hiện đại. Đến năm 2015 cán bộ, công chức có trình độ sau

đại học đã đạt tỷ lệ 10% trong tổng số 2.057 cán bộ, công chức trong tỉnh [198];

Đối với viên chức đạt tỷ lệ đại học và sau đại học ước khoảng 80% trong tổng số

22.339 viên chức [198] và phấn đấu đến năm 2020 phải đạt mục tiêu 100% viên

chức có trình độ đại học trở lên. Có khoảng 95% CB,CC,VC giữ các chức vụ

lãnh đạo, quản lý các cấp được đào tạo, bồi dưỡng theo chương trình quy định,

trong đó có 50% cán bộ lãnh đạo, quản lý và trưởng, phó ngành tỉnh, huyện,

thành phố có trình độ thạc sĩ trở lên. Có gần 90% CB,CC,VC đủ tiêu chuẩn trước

khi bổ nhiệm phải đảm bảo thực hiện đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà

nước và chuyên môn nghiệp vụ theo quy định.

Để chủ động hơn nữa trong công tác lãnh đạo quản lý, đồng thời thực hiện

mục tiêu phát triển KT-XH bền vững, UBND tỉnh Vĩnh Long đã ra Chỉ thị số:

08/CT-UBND, ngày 13 tháng 6 năm 2014 về việc tăng cường thực hiện các biện

pháp nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) của tỉnh Vĩnh Long [202], trong

đó tỉnh đã chú trọng môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu phát

triển kinh tế tỉnh nhà và đồng thời chỉ đạo Sở Lao động Thương binh và Xã hội

theo dõi nhu cầu lao động của các doanh nghiệp và chỉ đạo cho các cơ sở đào tạo

xây dựng chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp và từng

bước cung cấp lao động có chất lượng cao.

103

Trên cơ sở nhận thức quan điểm của Đảng để xây dựng đội ngũ doanh

nhân đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Ngày 13/10/2013 tỉnh

Vĩnh Long đã thành lập Hội doanh nhân trẻ tỉnh Vĩnh Long theo Nghị định số:

45/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ quy định về tổ chức,

hoạt động và quản lý hội. Mục tiêu của Hội doanh nhân trẻ tỉnh Vĩnh Long là

thực hiện đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, kết nối giao thương quảng bá

sản phẩm, hình thành và phát triển những mô hình kinh tế thiết thực và hiệu quả,

thực hiện an sinh xã hội góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển KT-XH

của tỉnh nhà theo tinh thần Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khóa X.

Cùng với sự ra đời của Hội doanh nhân trẻ tỉnh Vĩnh Long, tỉnh ủy,

UBND tỉnh đã có sự chỉ đạo các sở, ngành căn cứ các chức năng, nhiệm vụ được

giao thực hiện đầy đủ các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp theo quy định của

pháp luật. Đồng thời tôn vinh những doanh nhân có nhiều thành tích, đóng góp,

tạo điều kiện cho họ tham gia ngày càng hiệu quả vào quá trình hoạch định chính

sách KT-XH của địa phương. Đồng thời Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Vĩnh

Long cũng đã lắng nghe tiếng nói và ý kiến đóng góp của đội ngũ doanh nhân;

coi đó là một trong những kênh phản biện quan trọng để giúp Đảng và Nhà nước

hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển KT-XH của tỉnh nhà.

Bên cạnh đó giải quyết kịp thời tâm tư nguyện vọng của doanh nhân, tạo điều

kiện thuận lợi cho họ hoạt động sản xuất, kinh doanh, làm giàu chính đáng, đóng

góp ngày càng nhiều cho xã hội.

3.2.2.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực lao động chuyên môn kỹ

thuật đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong lĩnh vực nông nghiệp,

nông thôn

Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội Đảng khóa X (2006) và Đại hội Đảng bộ

tỉnh Vĩnh Long lần thứ VIII (2005), với quan điểm về phát triển nông nghiệp,

nông thôn, nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2006 - 2010, định hướng đến

năm 2020. Nông nghiệp, nông thôn, trước hết phải phát triển lực lượng sản xuất,

104

trong đó chú trọng phát huy nguồn lực con người, tạo môi trường thuận lợi để

giải phóng sức sản xuất của mọi thành phần kinh tế và tạo điều kiện cho nông

dân chủ động đầu tư phát triển nông nghiêp, nông thôn. Giải quyết tốt mối quan

hệ giữa tăng trưởng và phát triển, giữa tăng trưởng kinh tế với ổn định xã hội,

bảo vệ môi trường, phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, xây dựng nông thôn mới

nhằm giải quyết việc làm, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần

của nông dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng núi, vùng khó khăn, các

xã nghèo. Từng bước thu hẹp khoảng cách mức sống giữa thành thị và nông

thôn, giữa nông dân và các thành phần xã hội khác; giữ gìn và phát huy các giá

trị văn hóa truyền thống. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển nông nghiệp, nông

thôn với giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, tăng cường

củng cố quốc phòng. Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho nhân dân. Phát

huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Xây dựng hệ thống chính

trị trong sạch, vững mạnh. Phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời

sống nông dân với phương châm “Giảm đóng góp, tăng đầu tư, phát triển nông

thôn toàn diện”.

Để thực hiện quan điểm chỉ đạo phát triển nông thôn toàn diện, trước hết

UBND tỉnh và các ngành liên quan, khắc phục khó khăn, tập trung đầu tư mọi

nguồn lực để xây dựng NNL, đặc biệt là NNL chuyên môn kỹ thuật. Đây là

NNL quyết định đến sự phát triển khu vực nông nghiệp, nông thôn và nâng cao

đời sống nông dân ở tỉnh Vĩnh Long. Quan điểm chỉ đạo xây dựng NNL

chuyên môn kỹ thuật ở khu vực nông nghiệp, nông thôn được phản ánh sâu sắc

ở các mặt:

Về đào tạo ngành nghề: Khuyến khích và tạo điều kiện cho học sinh nông

thôn vào học tại các trường ĐH, CĐ, trung học chuyên nghiệp và học nghề. Đẩy

mạnh công tác đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở

thực hiện Quyết định số: 29/2008/QĐ-UBND về hỗ trợ tạm thời bồi dưỡng, nâng

cao kiến thức, huấn luyện nghề ngắn hạn và cung cấp thông tin cho nông dân

giai đoạn 2007-2010 [176]. Trong đào tạo, chú ý các ngành, nghề phù hợp với

105

nhu cầu xã hội, đồng thời nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu của

doanh nghiệp, phục vụ phát triển công nghiệp, dịch vụ, làng nghề và xuất khẩu

lao động.

Ngày 25 tháng 2 năm 2011, UBND tỉnh Vĩnh Long ban hành Quyết định

số 420/QĐ-UBND về việc thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Kế hoạch xây dựng

xã hội học tập giai đoạn 2011-2015 tỉnh Vĩnh Long [182]. Ban Chỉ đạo có nhiệm

vụ tổ chức thực hiện theo kế hoạch đã được phê duyệt, huy động các nguồn lực

xã hội tạo cơ hội học tập thường xuyên cho mọi người tại cộng đồng xã, phường,

thị trấn để nâng cao dân trí, bồi dưỡng nguồn nhân lực, góp phần nâng cao mức

sống cho mọi người dân, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá, xã

hội và xây dựng xã hội học tập ở địa phương, đáp ứng nhu cầu học tập của mọi

người trong cộng đồng.

Trên cơ sở nâng cao dân trí, bồi dưỡng phát triển NNL, ngày 11 tháng 3

năm 2011 UBND tỉnh ban hành tiếp Quyết định số: 514/QĐ-UBND về việc

thành lập Hội đồng Thẩm định hồ sơ thành lập, cho phép thành lập trường trung

cấp nghề và trung tâm dạy nghề; thành lập, cho phép thành lập phân hiệu/cơ sở

đào tạo thuộc trường, trung tâm dạy nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long [204],

trong đó tỉnh đề xuất quy hoạch lại hệ thống các trường nghề đóng trên địa bàn

tỉnh và nâng cấp trường Trung cấp nghề tỉnh Vĩnh Long thành trường Cao đẳng

nghề tỉnh Vĩnh Long, trường Cao đẳng sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long nâng cấp

thành trường Đại học Sư phạm kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long trực thuộc Bộ Lao động

Thương binh và Xã hội.

Đẩy nhanh số lượng và chất lượng NNL, ngày 24 tháng 5 năm 2012,

UBND tỉnh ra Quyết định số: 822/QĐ-UBND về việc điều chỉnh chỉ tiêu đào tạo

giai đoạn 2012 - 2015 của Trường Cao đẳng Cộng đồng Vĩnh Long [190], nhằm

định hướng ngành nghề cho nguồn lực lao động của địa phương đáp ứng với

điều kiện và nhu cầu phát triển KT-XH. Trong đó chủ trương của tỉnh được quy

định tại khoản 9, Điều 1, Quyết định số 1789/QĐ-UBND, ngày 20 tháng 9 năm

2011 của Chủ tịch UBND tỉnh về nhu cầu đào tạo nghề phổ thông cho lao động

106

ở độ tuổi phù hợp, giúp chất lượng lao động và có thể chuyển đổi nghề, tìm kiếm

việc làm mới.

Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn sát với tình hình

thực tiễn, ngày 8 tháng 1 năm 2013 UBND tỉnh ban hành Quyết định số: 53/QĐ-

UBND về việc ban hành Kế hoạch hành động thực hiện quy hoạch phát triển

nguồn nhân lực tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2011-2020 [193]. UBND tỉnh yêu cầu

đề ra nhiệm vụ, thành lập cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp và quy định rõ về

thời gian hoàn thành và báo cáo việc thực hiện đề án.

Để thực hiện quyết liệt đào tạo nghề cho lao động nông thôn, từ năm

2013, hàng năm UBND đều ban hành Quyết định phê duyệt Kế hoạch đào tạo

nghề cho lao động nông thôn. Ngày 31 tháng 7 năm 2015, UBND tỉnh ban hành

Quyết định số: 1333/QĐ-UBND về việc phê duyệt Kế hoạch bổ sung đào tạo

nghề cho lao động nông thôn năm 2015 [208].

Kết quả thực hiện như sau: Đến năm 2015 đã tổ chức được 242 lớp đào

tạo nghề cho 7.336 lao động nông thôn, đạt 64,55% so với chỉ tiêu đào tạo của

kế hoạch đào tạo nghề được phê duyệt (Chỉ tiêu kế hoạch số 32/KHDN-BCĐ

ngày 13/3/2015: 11.364 người) và đạt 49,90% so với chỉ tiêu đào tạo nghề năm

2015 của Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” trên địa

bàn tỉnh Vĩnh Long. Với tổng kinh phí ước thực hiện là 3.641 triệu đồng. Bao

gồm ngân sách Trung ương (kinh phí Chương trình mục tiêu quốc gia việc làm

và dạy nghề năm 2015): 1.985 triệu đồng; ngân sách địa phương: 1.656 triệu

đồng cho các đối tượng học nghề gồm: Đối tượng 1 (lao động nông thôn thuộc

diện được hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, hộ nghèo,

người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người bị thu hồi đất canh tác): 4.400 người;

Đối tượng 2 (lao động nông thôn thuộc diện hộ có thu nhập tối đa bằng 150%

thu nhập của hộ nghèo): 900 người; Đối tượng 3 (lao động nông thôn khác):

9.400 người [75].

Tiếp tục dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn tính đến năm 2015 có

2.981 lao động nông thôn được đào tạo, đạt 97,59% so với chỉ tiêu đào tạo của

107

Đề án được duyệt [178]. Bên cạnh đó UBND tỉnh còn chủ trương đào tạo nghề

phi nông nghiệp cho lao động nông thôn nhằm nâng cao trình độ chuyên môn kỹ

thuật, tay nghề cho người lao động, góp phần nâng cao chất lượng nguồn lao

động của tỉnh, cung ứng lao động có chuyên môn kỹ thuật cho thị trường lao

động, góp phần tạo việc làm, giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động; thực

hiện chuyển dịch cơ cấu lao động, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp

nông thôn và chiến lược phát triển KT-XH từng địa phương.

Đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn theo hình thức truyền

nghề, phổ biến kiến thức, kỹ thuật canh tác, nuôi trồng; giới thiệu, phổ biến các

giống vật nuôi, cây trồng mới có hiệu quả, năng suất cao; các loại nông dược,

phân bón và kỹ thuật nuôi trồng, chăm sóc nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường,

nguồn nước; hướng dẫn cách xây dựng các mô hình nông nghiệp, mở rộng quy

mô canh tác, chăn nuôi, nuôi trồng theo quy mô hộ gia đình; hướng dẫn kỹ

thuật sơ chế, bảo quản nông sản và tiêu thụ hàng hoá. Góp phần nâng cao chất

lượng nông sản và năng suất canh tác, cải tạo và nâng cao hiệu quả sử dụng đất

nông nghiệp.

Quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI về đổi mới căn

bản và toàn diện giáo dục và đào tạo; Kết luận Hội nghị lần thứ ba và lần thứ sáu

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới mô hình tăng trưởng,

nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc nhận

thức và tư duy về giáo dục và đào tạo; công tác quản lý giáo dục; cơ chế, chính

sách đầu tư tài chính cho giáo dục đại học. Gắn kết chặt chẽ giáo dục đào tạo với

chiến lược phát triển KT-XH, củng cố quốc phòng, an ninh, nhu cầu nhân lực

trình độ cao của đất nước, xu thế phát triển của khoa học, công nghệ và yêu cầu

đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học Việt Nam đến năm 2020.

Tỉnh đã cơ những dự báo nhu cầu nhân lực qua đào tạo nghề nghiệp. Tính

đến năm 2015, tỉnh Vĩnh Long đang ở thời kỳ ” cơ cấu vàng”, độ tuổi lao động từ

18 - 39 chiếm tỷ lệ lớn trong lực lượng lao động, năm 2010 chiếm 51,65%, ước

năm 2015, năm 2020 là 51,48% và 51,49%. Nguồn cung lao động ngắn hạn, có

108

thể huy động ngay của tỉnh (lực lượng lao động) hiện có năm 2010 là 622,1 ngàn

lao động, năm 2011 là 628,95 ngàn lao động. Dự báo năm 2015 là 656,2 ngàn lao

động; năm 2020 là 686,7 ngàn lao động. Lực lượng lao động tăng trung bình mỗi

năm hơn 6 ngàn lao động. Lao động có việc làm: hiện có năm 2010 là 604,095

ngàn lao động, năm 2011 là 611,25 ngàn lao động; Dự báo năm 2015 là 636,9

ngàn lao động; năm 2020 là 667,6 ngàn lao động. Tỷ lệ lao động có việc làm trong

lực lượng lao động của Tỉnh luôn được duy trì ở mức trên 97%. Lao động có việc

làm ở các khu vực: cơ cấu lao động có việc làm ở các khu vực của tỉnh năm 2010:

56,59% - 15,25% - 28,16%; năm 2011: 54,51% - 16,59% - 28,9%. Dự báo nguồn

cung lao động trong những năm tới có xu hướng giảm dần khu vực I và tăng dần ở

khu vực II, III. Cụ thể: năm 2015: 46,48% - 21,51% - 32,01%; Lực lượng lao

động không có việc làm (thất nghiệp) của Tỉnh đang có xu hướng giảm dần. Hiện

tại năm 2010 khoảng 15,7 ngàn người, chiếm 2,52 lực lượng lao động của Tỉnh.

Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp thành thị khoảng 4,05%, giảm 1% so với năm 2009, do

sau thời kỳ suy giảm kinh tế của tỉnh, vùng và cả nước hồi phục và phát triển, tạo

thêm nhiều việc làm nên tỷ lệ thất nghiệp giảm [75].

Lao động của tỉnh Vĩnh Long chủ yếu là dân tộc Kinh (chiếm 97,38%

năm 2010). Lao động theo giới tính không có sự chênh lệch lớn. Ước đến năm

2015 tỷ trọng lao động nam là 53,4% và lao động nữ 46,6% so với lực lượng lao

động. Ước năm 2020 tỷ trọng lao động nam và nữ không thay đổi nhiều so với

năm 2015. Đồng thời lao động thành thị có xu hướng tăng nhanh hơn lao động

nông thôn. Tỷ trọng lao động thành thị tăng từ 13,61% (năm 2010) lên 15,88%

(năm 2015), ước đạt 19,75% (năm 2020). Điều này gây nên áp lực lớn trong

công tác giải quyết việc làm tại các đô thị lớn và đặt ra các vấn đề về đào tạo

nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn [128, tr.67].

Về dự báo cầu lao động của tỉnh Vĩnh Long không có sự tăng đột biến,

trung bình mỗi năm tăng khoảng 8-10 ngàn lao động. Ngoài các hộ sản xuất

nông lâm thủy sản, hiện nay trên địa bàn tỉnh có trên 65 ngàn cơ sở kinh tế, hành

chính, sự nghiệp đang thu hút trên 180 ngàn lao động.

109

Về cầu lao động qua đào tạo có sự chuyển biến theo hướng tích cực. Dự

báo tỷ trọng cầu lao động trong lĩnh vực nông nghiệp - thủy sản giảm từ 58,5%

(năm 2010) xuống còn 47,89% (năm 2015) và 32,95% (năm 2020), trong khi đó

tỷ trọng cầu lao động của các ngành phi nông nghiệp có xu hướng tăng nhanh

[128, tr.28].

Theo kết quả NNL qua đào tạo của tỉnh Vĩnh Long trong giai đoạn 2011 -

2020 tăng mạnh, trung bình mỗi năm tăng khoảng 30 ngàn đến 40 ngàn lao

động. Cầu lao động tăng chủ yếu ở trình độ sơ cấp và cao đẳng. Cầu lao động ở

trình độ đại học và trên đại học có tăng nhưng không nhiều. Nhu cầu nhân lực

qua đào tạo có xu hướng tăng rất nhanh, từ 23,7% năm 2011 lên 35% năm 2015

và đạt 50% năm 2020. Điều này tạo áp lực rất lớn trong công cuộc đào tạo và thu

hút nhân lực có trình độ về làm việc cho tỉnh. Tuy nhiên, trong thời gian tới nếu

tỉnh thu hút hết được lượng lao động được đào tạo ra tại tỉnh thì vấn đề nâng cao

năng lực lao động qua đào tạo của tỉnh sẽ được giải quyết.

Đối với nhu cầu đào tạo trong khu vực doanh nghiệp có 1.845 doanh

nghiệp với khoảng 54 ngàn lao động, tăng 446 doanh nghiệp và 07 ngàn lao

động so với năm 2010. Về trình độ lao động trong doanh nghiệp: trình độ trên

đại học 76 người chiếm 0,14%; Đại học 3.522 người chiếm 6,53%; Cao đẳng

1.083 người chiếm 2,01%; Trung cấp chuyên nghiệp 3.225 người chiếm 5,98%;

Trung cấp nghề 1.536 người chiếm 2,85%; Sơ cấp nghề 2.367 người chiếm

4,39%; Trình độ khác 46.137 người chiếm 85,52% [215].

Nhìn chung trình độ lao động trong doanh nghiệp trên địa bàn Tỉnh còn

thấp, chủ yếu là lao động giản đơn (chiếm 89,91%). Lao động ở trình độ đại học

6,53% và trung cấp 8,83% chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều so với trình độ cao đẳng

2,01%. Kết quả đến năm 2015, cầu lao động trong doanh nghiệp 85.946 người.

Trong đó trình độ trên đại học 120 người chiếm 0,14%; Đại học 7.224 người

chiếm 8,41%; Cao đẳng 1.806 người chiếm 2,1%; Trung cấp chuyên nghiệp:

4.283 người chiếm 4,98%; Trung cấp nghề: 5.278 người chiếm 6,14%; Sơ cấp

nghề: 10.511 chiếm 12,23%; Trình độ khác 56.724 người chiếm 66% [215].

110

Đối với lao động được đào tạo ở các khu, tuyến công nghiệp là một bộ

phận lao động trong doanh nghiệp, cầu lao động ở các khu, cụm tuyến công

nghiệp cũng chủ yếu là lao động giản đơn; cầu lao động trình độ trung cấp, đại

học cao hơn cầu lao động trình độ cao đẳng. Doanh nghiệp trong các khu, tuyến

công nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp sản xuất thâm dụng lao động nên cầu lao

động trình độ trung cấp về học nghề cao hơn trình độ trung cấp chuyên nghiệp.

Lao động được đào tạo ở các khu, tuyến công nghiệp năm 2011 là 14.019 lao

động, năm 2015 đạt 17.098 lao động, bình quân mỗi năm giai đoạn 2011 - 2015

tăng khoảng 5,09% lao động [215].

Tiểu kết chương 3

Như vậy, từ chủ trương đẩy mạnh phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh Vĩnh

Long giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2015 đạt kết quả quan trọng, cụ thể: Nhận

thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về phát triển NNL phục vụ CNH, HĐH

được nâng lên. Các cấp, các ngành tập trung chỉ đạo đầu tư phát triển NNL, coi

đây là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa có tính chiến lược lâu dài; chiến lược phát

triển NNL luôn gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển KT-XH của tỉnh, các

địa phương.

Công tác chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ

thống chính trị được đổi mới toàn diện ở các khâu tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng,

phân cấp quản lý, quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ trong hệ thống chính trị từ tỉnh

đến cơ sở. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ được nâng lên đáng

kể. Phần lớn cán bộ giữ các chức danh lãnh đạo được đào tạo bồi dưỡng chuyên

môn nghiệp vụ, về quản lý nhà nước, quản lý ngành nghề từng bước đáp ứng yêu

cầu phát triển KT-XH ở địa phương.

Công tác dạy nghề trình độ cao bước đầu khẳng định được vị trí, vai trò

đối với phát triển KT-XH; đáp ứng nhu cầu học nghề của người lao động; góp

phần thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, giải

111

quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động. Nhìn chung chất lượng

đào tạo nghề ở các cấp trình độ có chuyển biến tích cực, riêng đào tạo trình độ

cao đẳng nghề được doanh nghiệp tuyển dụng 100% ngay sau đào tạo. Tuy

nhiên việc đẩy mạnh phát triển NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trên thực tế vẫn

còn nhiều nảy sinh và khó khăn hạn chế của một tỉnh thuần nông như: Cơ cấu lao

động mất cân đối trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỉ trọng nông

nghiệp và tăng tỉ trọng công nghiệp, thương mại - dịch vụ trong GDP; chính sách

lao động và giải quyết việc làm gắn với tiềm năng, thế mạnh phát triển nền kinh tế

của tỉnh chưa đồng bộ, công tác xóa giảm nghèo mặc dù giảm khu vực nông nghiệp

nông thôn nhưng chưa thật sự đảm bảo an sinh xã hội của tỉnh. Quá trình chuyển

biến về cơ cấu lao động gắn với sự thay đổi cơ cấu dân cư thành thị và nông thôn,

với sự phát triển các ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa phản ánh

bước phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trên địa bàn tỉnh. Đây

chính là bài toán cho Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long trong những năm tiếp theo của Đại

hội Đảng bộ khóa mới.

112

Chương 4

NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM

4.1. NHẬN XÉT VỀ QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN

LỰC CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG (2000 - 2015)

4.1.1. Ưu điểm và những kết quả đạt được

Thứ nhất, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long đã thể hiện sự năng động và vận dụng

linh hoạt, sáng tạo trong quá trình hoạch định chủ trương của Trung ương

Đảng về phát triển nguồn nhân lực qua hai giai đoạn phát triển.

Từ thực tiễn công tác phát triển NNL từ năm 2000 đến năm 2015, Đảng

bộ tỉnh Vĩnh Long đã thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm trong nhận thức và

hành động về thực trạng, vị trí vai trò, tiềm năng thế mạnh để phát triển NNL

cho quá trình phát triển KT-XH. Trong quá trình hành động, Đảng bộ cụ thể

hóa Nghị quyết Trung ương Đảng ban hành chương trình hành động nhằm xác

định mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng của từng giai đoạn, đặc biệt là sự sự

phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan Đảng, chính quyền, các sở ban ngành,

các doanh nghiệp trong quá trình vận dụng chủ trương chính sách của Đảng

vào tình hình thực tế tỉnh Vĩnh Long. Đảng bộ luôn chú trọng công tác thông

tin tuyên truyền, phổ biến các nội dung chính sách về phát triển NNL qua các hội

nghị và các phương tiện thông tin đại chúng như Báo Vĩnh Long, Đài phát thanh -

truyền hình tỉnh, đặc biệt là Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Long nhằm nâng cao

nhận thức về tầm quan trọng của việc phát triển NNL trước bối cảnh CNH, HĐH

được xem là nhiệm vụ trọng tâm để phát triển nhanh và bền vững. Tạo môi trường

xã hội thuận lợi để nâng cao chất lượng NNL, lấy chất lượng NNL thông qua công

tác đào tạo NNL làm thước đo cho sự phát triển toàn diện con người vì mục tiêu

CNH, HĐH tỉnh nhà. Phấn đấu phát triển NNL cho các ngành nghề, lĩnh vực mũi

nhọn đặc thù nhằm tạo động lực cho nền kinh tế của tỉnh phát triển toàn diện, sớm

đưa một tỉnh vùng đồng bằng trở thành tỉnh khá vào năm 2015.

Từ năm 2000 đến năm 2005 cụ thể hóa chủ trương phát triển NNL,

Đảng bộ kịp thời ban hành Chương trình hành động số 05-CTr/TU (2002) về

113

đào tạo nhân lực và giải quyết việc làm cho người lao động tỉnh Vĩnh Long,

giai đoạn 2001 - 2005 và Chương trình hành động số 08-CTr/TU (2002) về

thực hiện kết luận Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX)

về GD-ĐT, KH-CN và nhiệm vụ phát triển NNL đến năm 2010. Đây là hai

Chương trình hành động của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long khi bước vào thế kỷ

XXI đã đem lại những kết quả cao, bước đầu hình thành được đội ngũ

CB,CC,VC và NNL lao động chuyên môn kỹ thuật trong lĩnh vực nông

nghiệp, nông thôn cho những giai đoạn tiếp theo. Trong giai đoạn đã đào tạo

và phát triển 15.536 người có trình độ từ trung cấp trở lên, trong đó có 5 tiến

sỹ gấp 3 lần so với những năm đầu tái lập tỉnh. Riêng đối với NNL lao động

chuyên môn kỹ thuật đã đào tạo từ 11 ngàn đến 17 ngàn lao động, trong đó

hàng năm đào tạo 1.500 người có trình độ từ cao đẳng trở lên, so với năm

1991 số lao động chuyên môn kỹ thuật cao gấp 2 lần.

Để có được kết quả giai đoạn này, Đảng bộ đã huy động nhiều nguồn

lực hiện có, trong đó chú trọng nguồn lực tại chỗ là đối tượng CB,CC,VC

trong các cơ quan hệ thống chính trị và nguồn lực lao động khu vực nông

nghiệp nông thôn. Tỉnh đã bám sát tình hình thực tế khi bước vào thế kỷ XXI bằng

thể chế hóa các văn bản pháp quy, các cơ chế chính sách, đề án để triển khai thực

hiện và nhanh chóng xây dựng chương trình hành động phù hợp với từng đối tượng

là CB,CC,VC và đông đảo quần chúng nhân dân khu vực nông nghiệp nông thôn.

Cùng với các sở ban ngành, các bộ phân tham mưu như: Sở Nội vụ, Sở tài chính,

Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Lao động Thương binh và Xã hội đã chủ động trong

việc thực hiện nhiệm vụ báo cáo, khảo sát, đánh giá, thống kê NNL nhằm thực hiện

tốt khâu đào tạo, bồi dưỡng NNL, đặc biệt là nâng cao NNL có trình độ đại học, sau

đại học. Bên cạnh tăng cường chính sách phát triển NNL, tỉnh đã chú trọng ban

hành một số chính sách tương đối đồng bộ để thúc đẩy phát triển NNL như phối

hợp các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp phát triển đa dạng

các ngành nghề đào tạo NNL nhất là đào tạo các ngành nghề thúc đẩy tiến trình

CNH, HĐH ở địa phương và vùng như: các ngành kỹ thuật nông nghiệp, công

114

nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghệ sinh học, công nghệ chế biến

sau thu hoạch, công nghệ thực phẩm, kinh tế, pháp luật và y tế. Mặt khác, bằng

sự nỗ lực toàn diện, tỉnh đã đầu tư phát triển NNL trong lĩnh vực khoa học và

công nghệ nhằm thực hiện “mục tiêu NNL tham gia ứng dụng khoa học kỹ thuật

vào trong sản xuất, thúc đẩy các ngành nông nghiệp, công nghiệp, thương mại -

dịch vụ, du lịch phát triển, nhất là NNL phục vụ trực tiếp cho quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh” [104]. Có chính sách thu hút NNL là cán bộ khoa học

- kỹ thuật, chuyên gia nghiên cứu, cán bộ khoa học đầu ngành và công nhân có tay

nghề cao đến làm việc tại tỉnh, đặc biệt là quan tâm chế độ đãi ngộ NNL tại chỗ đi

học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nhằm phục vụ thiết thực cho phát

triển KT-XH địa phương. Tỉnh chú trọng quan tâm phát triển NNL là đội ngũ nhà

giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo tinh thần Kế hoạch số 39-KH/TU cuả Tỉnh

ủy, nhằm đáp ứng trước yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục trong thời kỳ

CNH, HĐH làm đòn bẩy để tạo động lực cho phát triển NNL trong những năm

tiếp theo.

Để việc phát triển NNL của tỉnh đi đúng định hướng, tỉnh đã mạnh dạn

chủ trương cử CB,CC,VC đi đào tạo ở các Học viện, các trường Đại học trọng

điểm ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, thành phố Hồ Chí Minh và đào

tạo nước ngoài; hỗ trợ CB,CC,VC đi đào tạo sau đại học; có chế độ thu hút

sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác ở tỉnh Vĩnh Long… Đối với công tác

phát triển NNL cho lao động nông nghiệp nông thôn, tỉnh đã định hướng công

tác đào tạo nghề với chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp nhằm từng bước

chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh. Đồng thời trong công tác đào tạo

nghề cần đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo nghề gắn với

yêu cầu của thị trường lao động, tăng ngân sách đầu tư cho đào tạo nghề, ban

hành cơ chế chính sách hợp lý để huy động và sử dụng các nguồn đầu tư trong

và ngoài nước. Tỉnh huy động nguồn vốn đầu tư có trọng điểm một số cơ sở

đào tạo nghề có chất lượng để đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề

trình độ cao nhằm nâng cao trình độ, chất lượng NNL, đặc biệt là NNL có thế

115

mạnh về sản xuất nông nghiệp thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp nông

thôn. Có thể khẳng định rằng phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long là

một thành công trong quá trình thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng

của những năm đầu thế kỷ XXI.

Giai đoạn 2005 - 2015, là giai đoạn đột phá trong công tác phát triển

NNL theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006)

và lần thứ XI (2011) của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh

Long lần thứ VIII (2005) và lần thứ IX (2010) đề ra. Đảng bộ tập trung chỉ

đạo, tổ chức thực hiện sâu sát từng ngành từng lĩnh vực, nhất là lĩnh vực giáo

dục và đào tạo theo tinh thần Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa X (2008). Đảng bộ cụ thể hóa và ban hành Chương trình

hành động số 21-CTr/TU (2008) và Chương trình hành động số 09-Ctr/TU

(2011) để chỉ đạo tổ chức thực hiện. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng bộ tập

trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt chủ trương của Đảng về phát

triển NNL ở các cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể, thường xuyên tổng

kết đánh giá tình thực hiện chủ trương, đúc rút kinh nghiệm và đề ra phương

hướng nhiệm vụ theo tình hình thực tế của địa phương.

Đảng bộ chỉ đạo trực tiếp các cơ quan tham mưu như Ban Tổ chức tỉnh

ủy, Sở Nội vụ, Sở Tài chính, Sở Giáo dục và Đào tạo trong việc thực hiện chủ

trương của Đảng, rõ nét nhất là sự phối hợp thực hiện chủ trương Đề án Vĩnh

Long 100 tạo sự đồng tình và thống nhất cao trong việc phát triển đội ngũ trí

thức nói chung, CB,CC,VC trong HTCT và đội ngũ công nhân lành nghề khu

vực nông nghiệp nông thôn nói riêng.

Phát huy sức mạnh của HTCT trong việc phát triển NNL, Đảng bộ chủ

động hoạch định chính sách theo đặc điểm tình hình mới, trong đó tăng cường

phát triển NNL sau đại học thuộc các ngành nghề có tính chất mũi nhọn cho

việc phát triển nền kinh tế của tỉnh như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh

học, nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ chế biến... và linh hoạt trong việc

tìm địa chỉ liên kết với các đại học, học viện thuộc các Bộ, Ngành Trung ương

116

để đào tạo, bồi dưỡng NNL theo nhu cầu. Có thể nói, công tác phát triển NNL

của tỉnh ngày càng đi vào trọng tâm trọng điểm, các chủ trương chính sách

đều đáp ứng được nhu cầu của xã hội, chính vì vậy tỉnh nhiệm kỳ đại hội

Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long khóa VIII đã tổng kết. Đảng bộ cũng đã xác định

việc phát triển KT-XH là nhiệm vụ trọng tâm, công tác phát triển NNL là

khâu then chốt và luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. NNL trong giai

đoạn này được xác định là một trong ba khâu đột phá để góp phần tăng trưởng

và thúc đẩy KT-XH của tỉnh và luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp

của Tỉnh ủy, HĐND, UBND, sự tham gia tích cực của các cấp, các ngành liên

quan trong tỉnh. Đảng bộ đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo Nghị quyết số: 27-

NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X. Bước đầu hình thành

được đội ngũ CB,CC,VC chuyên sâu, đầu ngành trên một số lĩnh vực. Chất

lượng đội ngũ trí thức của tỉnh ngày càng được nâng lên, đội ngũ trí thức công

tác trong các cơ quan QLNN, các đơn vị sự nghiệp của tỉnh tăng. Đến năm

2015 cán bộ, công chức chủ chốt các cấp có trình độ sau đại học đạt tỷ lệ 10%

trong tổng số 2.057 cán bộ, công chức trong tỉnh [198]. Việc áp dụng chính

sách sửa đổi, bổ sung về hỗ trợ đào tạo và thu hút cán bộ khoa học kỹ thuật có

trình độ chuyên môn cao về làm việc tại tỉnh đã tạo động lực thúc đẩy đội ngũ

cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh tích cực tham gia đào tạo chuyên sâu

theo các chuyên ngành trong đó các ngành nghề đã đạt số lượng theo nhu cầu

như lĩnh vực văn hóa - xã hội, y tế, pháp luật, tài chính,… Đối với công tác

phát triển NNL chuyên môn kỹ thuật khu vực nông nghiệp nông thôn đã mang

lại nhiều kết quả tích cực. Trong lãnh đạo chỉ đạo, Đảng bộ luôn chú trọng và

vận dụng linh hoạt chủ trương chính sách của Nhà nước như cụ thể hóa Nghị

quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về công

tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH; về nông nghiệp, nông dân, nông

thôn, tỉnh đã triển khai chính sách nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa

học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực nhằm tạo đột phá để hiện đại hóa

nông nghiệp và công nghiệp hóa nông thôn. Đồng thời vận dụng linh hoạt

117

Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,

đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng

XHCN và hội nhập quốc tế.

Bằng sự nỗ lực toàn diện để tăng nhanh số lượng và chất lượng NNL,

Đảng bộ nhận thức rõ vị trí, vai trò quan trọng của NNL trong việc khai thác

tiềm năng thế mạnh của tỉnh để đưa KT-XH phát triển, đưa tỉnh Vĩnh Long

có mức thu nhập GDP bình quân đầu người đứng hàng thứ tư khu vực đồng

bằng sông Cửu Long [207], trong quá trình lãnh đạo công tác phát triển NNL

các cấp ủy Đảng và chính quyền tỉnh Vĩnh Long luôn gắn kết việc phát triển

KT-XH với phát triển NNL, coi đó là mối quan hệ tương hỗ. NNL phát triển

sẽ góp phần phát triển KT-XH và ngược lại. Bởi vậy, công tác phát triển

NNL tỉnh Vĩnh Long trong thập niên đầu của thế kỉ XXI luôn nhận được sự

quan tâm chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh, sự tham gia tích

cực của các cấp, các ngành, địa phương trong tỉnh và được cụ thể hoá bằng

các nghị quyết chuyên đề của tỉnh và các địa phương. Công tác phát triển

NNL luôn gắn liền với mục tiêu phát triển KT-XH, an ninh quốc phòng, trở

thành nền tảng khai thác, phát huy các tiềm năng thế mạnh của tỉnh phục vụ

nâng cao đời sống của nhân dân. Tập trung vào những ngành nghề xã hội

cần, đào tạo nghề gắn với các chương trình, dự án phát triển KT-XH của

tỉnh. Việc tăng cường liên kết đào tạo nghề đã đáp ứng được nhu cầu NNL

kỹ thuật, tay nghề cao phục vụ sản xuất tại những khu công nghiệp của tỉnh

và khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó, công tác đào tạo ngành

nghề trong tỉnh đã có mục tiêu rõ ràng hơn, điển hình như việc liên kết đào

tạo công nhân kỹ thuật phục vụ cho nông nghiệp, công nghiệp chế biến thủy

sản, dịch vụ, làng nghề và xuất khẩu lao động, tạo điều kiện để NNL công

nhân kỹ thuật tiếp cận và ứng dụng kỹ thuật mới vào sản xuất, tăng năng

suất lao động, cải thiện đời sống, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế và

lao động ở khu vực nông thôn.

118

Thứ hai, quá trình chỉ đạo thực hiện phát triển nguồn nhân lực, Đảng

bộ luôn bám sát thực tiễn, từng bước cụ thể hóa các đề án, kế hoạch, chương

trình, giải pháp có khả năng thực thi.

Có thể kể đến là Quyết định số 1612/2006/QĐ.UBND về việc Ban hành Đề

án “Đào tạo ở nước ngoài nguồn nhân lực có trình độ sau đại học cho tỉnh Vĩnh

Long giai đoạn 2006 - 2011” gọi tắt là “Đề án Vĩnh Long 100”. Đây là Đề án có

ý nghĩa quan trọng làm thay đổi diện mạo NNL tỉnh Vĩnh Long, đánh dấu giai

đoạn mới về NNL đã đóng góp cho sự nghiệp phát triển kinh tế tỉnh nhà, đưa

tỉnh Vĩnh Long trở thành tỉnh khá trong khu vực. Với đặc trưng được đúc kết

từ mô hình điển hình ở thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh đã mạnh dạn đầu tư

nguồn kinh phí địa phương và tranh thủ sự quan tâm của các bộ ngành Trung

ương đã nâng đội ngũ NNL đến cuối năm 2015 có trình độ chuyên môn từ cao

đẳng đại học, sau đại học trở lên trong các cơ quan HTCT là khoảng 2.400

người tăng gấp 7 lần thời kỳ trước năm 2000 và NNL có trình độ chuyên môn

kỹ thuật đạt hơn 55% [207]. Có thể khẳng định qua Đề án Vĩnh Long 100 đã

mang lại nhiều thành tựu quan trọng trong việc phát triển KT-XH của tỉnh, là

một thành tựu cho Đảng bộ, chính quyền tỉnh Vĩnh Long quyết tâm nâng cao

chất lượng NNL trong giai đoạn mới.

Đối với tỉnh Vĩnh Long, việc thực hiện Đề án đào tạo ở nước ngoài

NNL có trình độ sau đại học đã mang lại nhiều màu sắc và sức sống cho một

tỉnh đồng bằng giàu tiềm năng về KT-XH và quốc phòng - an ninh, là điều

kiện thuận lợi để góp phần quan trọng tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy các ngành,

lĩnh vực khác cùng phát triển. Tỉnh đã bám sát mục tiêu, chương trình, Nghị

quyết của Đảng để khai thác triệt để các lợi thế so sánh, đặc biệt là thế mạnh về

vị trí địa lý của tỉnh nằm giữa hai trung tâm đầu tàu kinh tế phía Nam là thành

phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ. Vì vậy việc Đề án ra đời không chỉ là

cơ hội mà còn là thách thức cho Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân tỉnh Vĩnh

Long trong những năm đầu thế kỷ XXI, khi mà tỉnh chưa có nhiều kinh

nghiệm trong chủ trương phát triển NNL như thực tiễn đặt ra.

119

Để thực hiện đồng bộ và bền vững NNL của tỉnh, Đảng bộ chỉ đạo các

ngành các cấp đưa ra đề xuất, kiến nghị phát triển NNL với cơ cấu ngành nghề

đào tạo hợp lý có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ nhằm tạo bước đột phá cho sự phát

triển KT-XH của tỉnh. Ưu tiên các ngành nghề trong lĩnh vực y tế, tài chính,

công nghệ thông tin, công nghệ sinh học phục vụ cho nền nông nghiệp công

nghiệp, cơ khí, xây dựng,... Tuy nhiên, là tỉnh có tốc độ tăng trưởng chậm, đời

sống nhân dân còn nghèo, sự hưởng thụ về văn hóa, y tế, giáo dục chưa được

thỏa đáng nhất là NNL phục vụ cho y tế, giáo dục còn thiếu nhân lực có trình

độ chuyên môn cao. Trước những yêu cầu của xã hội, Đảng bộ kịp thời và chỉ

đạo HĐND, UBND ban hành nhiều Quyết định để phát triển NNL đến năm

2020, trong đó Quyết định số 1855/QĐ-UBND về việc ban hành Đề án Xây

dựng đội ngũ trí thức tỉnh Vĩnh Long đến năm 2020 là sự đột phá về tư duy

phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long để đẩy mạnh sự nghiệp CNH,

HĐH. Phấn đấu đến 2015, hoàn thành cơ bản đội ngũ CB,CC,VC chủ chốt từ

cấp huyện đến cấp tỉnh có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ và được bồi dưỡng các chức

danh chủ chốt theo chuyên môn nghiệp vụ.

Tiếp tục khẳng định đầu tư phát triển NNL là nhân tố quan trọng, tạo điều

kiện phát triển các lĩnh vực văn hóa - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh,

cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, phát triển đô thị và xây dựng nông thôn

mới, xây dựng đời sống văn hóa. Đảng bộ đặc biệt quan tâm chỉ đạo phát triển

theo nhu cầu xã hội giai đoạn 2011 - 2020, trong đó nhiệm vụ trọng tâm là xây

dựng các chính sách, chương trình, đề án đào tạo nhân lực, điều phối các hoạt

động và nguồn lực để phát triển nhân lực phù hợp với quy hoạch phát triển KT-

XH. Đồng thời Đảng bộ chỉ đạo các sở, ngành và huyện, thành phố thực hiện

kiểm tra, giám sát, đánh giá kế hoạch và kết quả triển khai của sở, ngành, địa

phương. Có thể nói, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ và Chính quyền

tỉnh Vĩnh Long đã thể hiện sự quyết tâm đẩy mạnh NNL, nhất là NNL chất lượng

cao được xem là khâu quyết định để thực hiện mục tiêu nhiệm vụ của Nghị quyết

Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ IX (2010) đề ra.

120

Về đào tạo NNL lao động chuyên môn kỹ thuật, Đảng bộ kịp thời đề ra

những nhiệm vụ, phương hướng mang tính chiến lược lâu dài như Đề án số:

1636/ĐA-SGD-ĐT (2005) về xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo

viên và cán bộ quản lý ngành giáo dục tỉnh Vĩnh Long (giai đoạn 2005-2010).

Sự ra đời của Đề án một lần nữa đã khẳng định tính đúng đắn của sự nghiệp

giáo dục và đào tạo mà Nghị quyết Trung ương hai khóa VIII khẳng định, qua

đó nhiều chủ trương biện pháp phù hợp và cùng với các cấp ủy Đảng, chính

quyền, đoàn thể và nhân dân đã làm chuyển biến đến sự nghiệp phát triển giáo

dục tỉnh nhà.

Cùng với các chương trình mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh

lần thứ IX (2010), HĐND, UBND đã cụ thể hóa thành 6 chương trình hành

động chuyên đề cùng với việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây

dựng nông thôn mới, trong đó là Chương trình phát triển và nâng cao chất

lượng NNL giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến năm 2020 đã mang lại

nhiều kết quả quan trọng. Để thực hiện phát triển NNL, tỉnh quyết tâm đẩy

mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nhất là đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo,

quản lý trong HTCT và đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp, nông thôn

đáp ứng phát triển KT-XH của địa phương. Qua quá trình thực hiện đến cuối

nhiệm kỳ năm 2015, hầu hết các chỉ tiêu về phát triển và nâng cao chất lượng

NNL đã đạt so với kế hoạch Nghị quyết đề ra như đạt 10% cán bộ, công chức

có trình độ đại học, sau đại học, 80% viên chức có trình độ sau đại học và bồi

dưỡng nghiệp vụ thường xuyên, 50% cán bộ lãnh đạo, quản lý và trưởng, phó

ngành tỉnh, huyện, thành phố có trình độ thạc sĩ,..

Có thể khẳng định, Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Vĩnh Long đã thực

hiện đồng bộ, bám sát tình hình thực tiễn đề ra các chính sách đào tạo nhằm

nâng cao chất lượng NNL. Cùng các cấp, các ngành liên quan triển khai thực

hiện đồng bộ, lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình

phát triển KT-XH của địa phương để thực hiện tốt công tác đào tạo nghề cho

lao động nông thôn từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số: 02/2001/NĐ-

121

CP quy định chi tiết thi hành Bộ Luật Lao động và Luật giáo dục dạy nghề

và Quyết định số: 20/2006/QĐ-TTg về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy

nghề vùng đồng bằng Sông Cửu Long đến năm 2010 và 2015.

Như vậy, một trong những nhiệm vụ cơ bản của phát triển NNL là Đảng

bộ luôn chủ động nắm bắt kịp thời chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhu cầu

học tập của nhân dân để xây dựng chương trình, kế hoạch, giải pháp thực hiện.

Tỉnh đã tích cực, chủ động đa dạng hóa hình thức đào tạo, thực hiện liên kết để

đào tạo nhân lực với nhiều trình độ khác nhau nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển

KT-XH của tỉnh, góp phần thay đổi diện mạo NNL, thực hiện nâng cao dân trí

và chất lượng nguồn nhân lực. Phấn đấu tạo điều kiện cho NNL có cơ hội học

tập nâng cao trình độ, mở ra cơ hội phát triển con người toàn diện, phấn đấu

xây dựng một xã hội học tập vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công

bằng, văn minh.

Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực về số lượng và chất lượng từng bước

đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

Đảng bộ triển khai tốt việc thực hiện đường lối chủ trương Đảng và

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ về phát triển NNL. Qua ba nhiệm kỳ đại hội, với

sự chỉ đạo sát sao của các cấp ủy đảng, chính quyền và sự đồng thuận nhân

dân, NNL của địa phương có kết quả đáng ghi nhận. Các ngành, nghề được

đào tạo đa dạng, nhiều trình độ và cơ cấu ngành nghề phân bổ đồng đều cho

các lĩnh vực như: kinh tế, tài chính, sư phạm, công nghệ thông tin, khai thác,

chế biến lương thực thực phẩm, xây dựng, kiến trúc,… cho quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế của địa phương.

Chất lượng đào tạo đã từng bước đáp ứng được yêu cầu thị trường lao

động, trong cuối nhiệm kỳ 2010 - 2015 đào tạo nghề cho 173.669 lao động,

đạt 100,5% chỉ tiêu chương trình góp phần nâng tỷ lệ lao động chuyên môn

kỹ thuật toàn tỉnh lên 55% [129]. Giải quyết việc làm cho 136.241 lao động,

xuất khẩu lao động 2.321 người, giảm nhanh tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi

lao động ở khu vực nông thôn 4%/năm [129]. Đồng thời kéo giảm tỷ lệ hộ

122

nghèo bình quân hàng năm 1,56%, đến cuối năm 2015 số hộ nghèo còn 2,5%

[129] trong tổng số hộ nghèo trên địa bàn, góp phần đạt được mục tiêu xóa

nghèo bền vững của Chính phủ. Khái quát những đóng góp tích cực trong

công tác đào tạo NNL sau:

Một là, đào tạo nghề cung ứng lao động cho các công ty, doanh nghiệp,

hợp tác xã… để sử dụng lao động có trình độ tay nghề đạt chuẩn theo quy

định tại Khoản 8 Điều 52 Luật Giáo dục nghề nghiệp. Đào tạo nghề phục vụ

xuất khẩu lao động.

Hai là, đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn theo hướng

chuyển giao khoa học công nghệ, kỹ thuật canh tác mới, sử dụng cây trồng

vật nuôi, cải tạo mô hình kinh tế hộ gia đình nông nghiệp nông thôn để tăng

năng suất, tăng chất lượng nông sản, tăng thu nhập cho người dân nông thôn

góp phần thực hiện thành công Kế hoạch số 928/KH-UBND, ngày 16/4/2014

của Chủ tịch UBND tỉnh thực hiện Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh

Vĩnh Long theo hướng nâng cao giá trị, hiệu quả và phát triển bền vững” giai

đoạn 2014 - 2020.

Ba là, chú trọng tăng cường thực hiện mở lớp dạy nghề và giải quyết

việc làm, tạo việc làm cho lao động nông thôn tại 22 xã nông thôn mới trên

địa bàn tỉnh Vĩnh Long.

Kết quả cụ thể đối với NNL lao động chuyên môn kỹ thuật khu vực

nông nghiệp nông thôn.

Thực hiện đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 theo tinh

thần Nghị quyết số: 140/2010/NQ-HĐND của HĐND tỉnh, đến năm 2015 tỷ

lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật đạt 55%; trong đó tỷ lệ lao động

qua dạy nghề đạt 35% và phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ lao động có trình độ

chuyên môn kỹ thuật đạt 75%; trong đó tỷ lệ lao động qua dạy nghề đạt 50%.

Về công tác dạy nghề đã đào tạo 68.900 lao động nông thôn, trong đó người

học nghề nông nghiệp là 24.800 người, chiếm tỷ lệ 36%; người học nghề phi

nông nghiệp là 44.100 người, chiếm tỷ lệ 64%. Tỷ lệ có việc làm sau khi học

nghề trong giai đoạn này tối thiểu đạt 70% [129].

123

Đối với đội ngũ CB,CC,VC trong các cơ quan nhà nước

Song song với thành tựu đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp, nông

thôn, Đảng bộ còn đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng NNL CB,CC,VC

trong các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống chính trị với mục tiêu từng bước

tạo chuyển biến trong quá trình thực hiện chính sách lao động nói chung và

CB,CC,VC gắn với tiềm năng, thế mạnh để phát triển nền kinh tế toàn diện

trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo an

sinh xã hội của tỉnh Vĩnh Long mà đối tượng CB,CC,VC phải là lực lượng

tiên phong trong việc thực hiện nhiệm vụ này. Cùng với sự phát triển các

ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đồng thời phản ánh bước phát

triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trên địa bàn tỉnh. Bằng nhiều

hình thức và loại hình đào tạo, số lượng và chất lượng đội ngũ CB,CC,VC

trong các cơ quan nhà nước đã được nâng lên. Đến năm 2015 công tác đào

tạo, bồi dưỡng CB,CC,VC được các cấp ủy quan tâm, đào tạo, bồi dưỡng có

trọng tâm trọng điểm theo nhu cầu nhiệm vụ chính trị và yêu cầu chuẩn hóa

theo quy định. Việc sử dụng, phân công CB,CC,VC sau đào tạo được chú ý,

nhiều đồng chí đã phát huy tốt và trưởng thành đóng góp tích cực cho công

cuộc phát triển KT-XH ở địa phương.

Từng bước hoàn thiện đội ngũ CB,CC,VC nâng cao về trình độ chuyên

môn, trình độ quản lý, tin học, ngoại ngữ, đặc biệt xu hướng trẻ hóa đội ngũ

nhằm phát huy tính năng động và đảm bảo nguồn cán bộ kế thừa. Đa số

CB,CC,VC thực hiện tốt việc vận dụng trình độ chuyên môn vào công tác

quản lý và công tác phục vụ nhân dân như giáo dục, y tế, ngân hàng,… bước

đầu hình thành được đội ngũ CB,CC,VC chuyên sâu, đầu ngành trên một số

lĩnh vực. Cùng với phát triển đội ngũ CB,CC,VC đội ngũ trí thức của tỉnh

ngày càng được nâng lên, nhiều chuyên gia đầu đàn trong lĩnh vực nông

nghiệp, nhà khoa học trong hoạt động nghiên cứu khoa học đã được hình

thành góp phần đáng kể nâng cao chất lượng NNL làm việc tại địa phương,

124

góp phần phát triển vững chắc cho chất lượng của nguồn nhân lực trong

những năm tiếp theo.

Đến năm 2015, tổng số công chức viên chức trong khu vực nhà nước

20.550 người trong đó công chức 1.820 người chiếm 8,86%, viên chức 18.730

người chiếm 91,14% [128, tr.29]. So với năm 2005, cán bộ có trình độ sau đại

học tăng gần 400 người, đại học và cao đẳng tăng khoảng 2.400 người. Tuy

nhiên số lượng và chất lượng có tăng nhưng vẫn còn khoảng 2.700

CB,CC,VC chưa qua đào tạo chuyên môn nghiệp vụ bậc đại học trở lên, tỷ lệ

này khá khiêm tốn so với tổng số nguồn nhân lực toàn tỉnh đến thời điểm

tháng 12 năm 2005 là khoảng 5.200 người [128, tr.112].

Để đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH và hội nhập

quốc tế, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long đã quyết tâm xây dựng và phát triển NNL với

mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 có 100% cán bộ lãnh đạo, quản lý có trình độ

đại học, 50% cán bộ chủ chốt có trình độ sau đại học, 60% cán bộ lãnh đạo,

quản lý và trưởng, phó ngành tỉnh và huyện, thành phố có trình độ thạc sĩ trở

lên đã đạt được những kết quả ban đầu nhất định. Đó là kết quả phát triển NNL

từ Đề án Vĩnh Long 100, đã phát triển 41 người có trình độ thạc sỹ trở lên ở

nước ngoài từng bước chuẩn hóa và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong

các cơ quan nhà nước của tỉnh, bước đầu phát huy được tác dụng trong từng

lĩnh vực, đáp ứng được những đòi hỏi trong công tác lãnh đạo, quản lý của các

sở ngành cũng như địa phương. Hơn thế nữa, khắc phục được những hạn chế

yếu kém về công tác cán bộ và mở ra triển vọng mới trong chiến lược cán bộ

của tỉnh. Một điều quan trọng là ý thức cán bộ nâng lên rõ rệt, thể hiện ở tinh

thần, thái độ, trách nhiệm phục vụ tổ chức và nhân dân tốt hơn, tạo ra năng

suất, hiệu quả trong công việc và có sự đóng góp quan trọng trong phát triển

KT-XH của tỉnh nhà.

Bên cạnh những kết quả đạt được, Đảng bộ đã có những linh hoạt trong

việc chủ trương ban hành nhiều chính sách thiết thực đối với đội ngũ trí thức

theo tinh thần Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X.

125

Theo số liệu từ năm 2010 đến 2015, đội ngũ trí thức tỉnh Vĩnh Long đã tăng

nhanh cả về số lượng, chất lượng. Đây là lực lượng trưởng thành trong công

cuộc đổi mới và để thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện và bền vững, đội

ngũ trí thức phải trở thành những con người đầu đàn, đang nắm những trọng

trách quan trọng để góp phần phát triển KT-XH địa phương. Họ là những người

đi đầu trong việc nghiên cứu, sáng tạo ra những phát minh có giá trị phục vụ

cho thực tiễn xây dựng đất nước. Có thể khẳng định rằng, Đảng chủ trương xây

dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước là nghị quyết ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với phát triển nguồn

nhân lực đất nước mà còn có ý nghĩa quyết định đối với Đảng bộ tỉnh Vĩnh

Long trong thời kỳ xây dựng và phát triển NNL bền vững thời kỳ đẩy mạnh

CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Cụ thể và nổi bật là Đảng bộ chủ trương ban

hành Chương trình hành động số 21- CTr/TU, ngày 3-11-2008 về xây dựng đội

ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong đó nêu rõ: “Cùng với sự phát triển chung, đội ngũ trí thức của tỉnh đã

tăng nhanh về số lượng, nâng lên về chất lượng góp phần trực tiếp vào quá

trình phát triển KT-XH ở địa phương, thực hiện tốt công tác xóa đói giảm

nghèo nâng cao chất lượng cuộc sống, đóng góp tích cực trong xây dựng những

luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định chủ trương, nghị quyết, chính

sách phát triển KT-XH của tỉnh, thực hiện phát triển NNL, nâng cao dân trí và

bồi dưỡng nhân tài, từng bước đáp ứng trình độ KH-CN tiếp cận với trình độ

của khu vực và cả nước”. Là kết quả quá trình đẩy mạnh phát triển NNL có

trình độ chuyên môn cao theo chủ trương của Đảng, tỉnh Vĩnh Long được tập

trung chủ yếu trong các ngành vận hành kỹ thuật máy móc trong các lĩnh vực

công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, thương mại và đặc biệt là trong công tác

quản lý nhà nước. Trong đó đối với khối ngành có tỷ lệ nguồn lực có trình độ

lao động cao nhất là lĩnh vực nông, lâm, thủy sản trên 57%. Với nguồn lực này

tỉnh có thế mạnh để phát triển kinh tế nông ngư nghiệp, nhiều năm liên tục,

Vĩnh Long vẫn duy trì chỉ số năng lực cạnh tranh đứng hàng thứ 5 cấp tỉnh vào

126

năm 2010, hàng thứ 2 và đứng hàng thứ 3 khu vực đồng bằng sông Cửu Long

vào năm 2015.

Song song những kết quả đạt được, việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ

phát triển NNL được xã hội ghi nhận, đặc biệt từ khi Đảng ban hành Nghị

quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương về thanh niên, đội ngũ

trí thức, vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân đã trở thành nguồn động lực

quan trọng nhất để đưa tỉnh Vĩnh Long trở thành tỉnh có mức thu nhập và tăng

trưởng khá qua hai nhiệm kỳ (2001-2005) và nhiệm kỳ (2010-2015).

Thành quả phát triển về số lượng và chất lượng NNL đã góp phần quan

trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đến năm 2015, KT-XH

tỉnh Vĩnh Long đã có bước phát triển vượt bậc, tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP

tăng bình quân hàng năm đạt 6,97%. GDP bình quân đầu người đạt 36,690 triệu

đồng tương đương 1.862 USD, tăng 1,7 lần so với năm 2010 [129]. Cơ cấu

kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: Khu vực công nghiệp - xây dựng tăng

2,5% và dịch vụ tăng 3,5%, tỷ trọng nông lâm thủy sản giảm. Từ chuyển dịch

cơ cấu kinh tế đã kích thích chuyển dịch cơ cấu lao động tích cực đúng hướng,

lao động khu vực nông nghiệp đến năm 2010 giảm 6,65%, khu vực công

nghiệp, xây dựng tăng 1,755 và dịch vụ tăng 4,9% [129]. Năm 2015 Vĩnh Long

là một trong những tỉnh có mức độ cạnh tranh cao cấp tỉnh trong khu vực đồng

bằng sông Cửu Long. Đời sống nhân dân được cải thiện, kết cấu hạ tầng phát

triển. Có được thành tích đó là sự nỗ lực lớn của Đảng bộ và nhân dân tỉnh

Vĩnh Long trong thực hiện các chủ trương lớn của tỉnh ủy về phát triển KT-XH

của tỉnh, trong đó có công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Trong vòng

15 năm, tỉnh Vĩnh Long đã đạt được những kết quả to lớn trên công tác này.

4.1.2. Hạn chế, khiếm khuyết và nguyên nhân

Trong 15 năm (2000-2015) tỉnhVĩnh Long lãnh đạo phát triển NNL đã

thu được những kết quả quan trọng, góp phần to lớn vào phát triển KT-XH của

địa phương. Tuy nhiên, trong công tác phát triển NNL cũng còn nhiều hạn chế.

Đó là:

127

Quá trình hoạch định chủ trương, chính sách phát triển NNL còn chưa

đồng bộ.

Đó là việc lãnh đạo thực hiện phát triển NNL chưa đáp ứng yêu cầu phát

triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đội ngũ cán bộ còn bất cập

về số lượng, chất lượng và cơ cấu, thiếu chuyên gia, lãnh đạo đầu ngành; lao

động kỹ thuật còn ít, đào tạo nghề chưa theo kịp nhu cầu phát triển, cơ chế

quản lý, đào tạo, luân chuyển,...còn không ít khó khăn, vướng mắc.

Chính sách thu hút NNL tuy đã được quan tâm, nhưng chưa được ban

hành đồng bộ ở các cấp địa phương. Việc thu hút, giữ chân người tài hiệu quả

chưa cao. Môi trường làm việc, cơ chế sử dụng, đãi ngộ còn nhiều bất cập nên

chưa thu hút một bộ phận con em Vĩnh Long học tập thành tài, kinh doanh

thành đạt về quê hương làm việc.

Cơ cấu nhân lực chưa hợp lý, còn tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”; số

chuyên gia và công nhân lành nghề trong lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ cao còn

quá ít. Nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế vẫn còn rất thiếu lao động kỹ thuật bậc

cao như công nghệ chế biến, chế tạo, vật liệu xây dựng, kỹ thuật nông nghiệp,

lâm nghiệp và chế biến thủy, hải sản,…

Cung - cầu về lao động mất cân đối, số doanh nghiệp trên địa bàn đa số có

quy mô nhỏ chưa thu hút nhiều lao động vào làm việc. Tỷ lệ lao động chưa qua

đào tạo còn lớn, chất lượng lao động nói chung còn thấp, khả năng tiếp cận thị

trường và cạnh tranh của lao động còn yếu, cơ cấu ngành nghề và cấu trúc đào

tạo không hợp lý, thiếu lao động lành nghề, thiếu các chuyên gia kỹ thuật giỏi.

Việc thành lập, xây dựng bộ máy tổ chức Hội trí thức Vĩnh Long hoạt

động chưa mạnh, chưa khai thác nguồn lực chất xám của đội ngũ trí thức để

phục vụ mục tiêu phát triển KT-XH ở địa phương. Trong quá trình hoạch định

cơ chế, chính sách tài chính về hoạt động KH-CN, văn hóa, nghệ thuật cũng

như trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo và ứng dụng chưa đặt trọng tâm của

từng thời kỳ, từ đó sau 20 năm tái lập tỉnh, “Vĩnh Long vẫn còn ở ngưỡng phát

triển trung bình”.

128

Một số chính sách phát triển, thu hút và sử dụng nhân tài chưa thỏa

đáng và đúng trọng tâm, trọng điểm.

Một thực tế rất phổ biến ở nhiều ngành, nhiều cấp hiện nay là coi trọng

việc thu hút nhân tài nhưng lại không coi trọng việc sử dụng nhân tài. Thu hút

nhân tài không chỉ tạo điều kiện làm việc, mà phải tạo điều kiện cho nhân tài

phát triển. Nhiều địa phương có chính sách thu hút nhân tài, nhưng lại không

bố trí, sắp xếp công việc phù hợp, không tạo điều kiện cho nhân tài phát huy

khả năng. Do đó, nhiều nhân tài đã tự rời bỏ công việc đã được bố trí để tìm

những nơi làm việc mới có cơ hội thăng tiến hơn.

Những người thực sự là nhân tài thường quan tâm nhiều nhất đến môi

trường làm việc, nơi họ thể hiện được năng lực của mình. Một môi trường thiếu

tính năng động, mang nặng dấu ấn phong cách quản lý hành chính quan liêu sẽ

làm hao hụt trí tuệ, giảm đi sự nhiệt tình và khả năng sáng tạo của nhân tài,

nhất là lớp trẻ và những người được đào tạo trong môi trường năng động ở

nước ngoài. Họ cần được sử dụng bởi những người lãnh đạo có tư duy quản lý

mới, dám thay đổi và chấp nhận rủi ro, luôn ủng hộ những sáng tạo tích cực

của cấp dưới.

Sẽ là bất hợp lý và lãng phí "chất xám" nhân tài nếu đơn vị, địa

phương "trải thảm đỏ" để thu hút một nhân tài về làm việc nhưng bố trí, sắp

xếp họ không đúng chuyên môn, năng lực và vị trí việc làm. Điều đó dẫn đến

tình trạng người được thu hút về thiếu khả năng độc lập, quyết đoán trong giải

quyết công việc, thụ động trong thực thi nhiệm vụ, chậm thích ứng với nhiệm

vụ mới, là một trong những nguyên nhân của tình trạng "chảy máu chất xám",

đặc biệt là các ngành y tế, giáo dục, ngành tài chính - ngân hàng. Theo số liệu

thống kê của Ban Tổ chức tỉnh ủy Vĩnh Long từ năm 2005 đến 2015 có

khoảng 300 người có trình độ sau đại học và đang học cao học xin nghỉ việc

để tìm đến những tổ chức tư nhân tại các trung tâm kinh tế, đô thị lớn như:

thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, tỉnh Bình Dương... tìm công việc thích hợp

có thu nhập cao.

129

Bên cạnh đó sử dụng nhân tài ở nhiều cơ quan, đơn vị còn có những

khoảng cách đáng kể như bố trí công việc không hợp lý, thu nhập không cao,...

không tạo điều kiện để nhân tài có thể phát triển tài năng là một sự lãng phí

không chỉ với bản thân nhân tài mà với toàn xã hội. Đó cũng là câu trả lời vì

sao thời gian qua một số địa phương không giữ chân thu hút nhân tài, khiến cho

nhiều nhân tài, đặc biệt là những người trẻ đang có xu hướng rời bỏ khu vực

nhà nước ra ngoài làm việc cho các doanh nghiệp. Đây chính là một trong

những nguyên nhân dẫn tới việc khó thu hút nhân tài vào làm việc trong khu

vực nhà nước ở tỉnh Vĩnh Long. (Xem phụ lục 11).

Công tác phát triển NNL thông qua công tác đào tạo nghề còn nhiều bất

cập so với thực tiễn.

Tuy có sự phát triển, đổi mới trong công tác phát triển NNL về đào tạo

nghề nhưng chất lượng đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh chưa đồng đều, còn có

một số cơ sở dạy nghề có chất lượng đào tạo chưa cao, học viên sau khi tốt

nghiệp khóa học nghề chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động của các

doanh nghiệp. Nguyên nhân chính là do các cơ sở dạy nghề hiện nay còn thiếu

giáo viên cơ hữu rất nhiều, một số Trung tâm dạy nghề công lập cấp huyện

chưa được biên chế giáo viên cơ hữu; công tác đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết

bị thực hành nghề còn hạn chế, chưa đồng bộ theo quy mô đào tạo; chương

trình, giáo trình dạy nghề chậm đổi mới, chưa thực hiện cập nhật kịp thời so

với sự tiến bộ của khoa học công nghệ kỹ thuật hiện đại; trong quá trình tổ

chức đào tạo, còn một số cơ sở dạy nghề chưa chú trọng việc tổ chức thực hành

thực tế tại doanh nghiệp.

Công tác tuyển sinh học nghề gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với việc

tuyển sinh học nghề các cấp trình độ cao như cao đẳng nghề, trung cấp nghề do

thời gian đào tạo dài (từ 2 đến 3 năm), mặt khác, do nhu cầu tập trung lao động

về các khu đô thị lớn để làm việc, do đó lực lượng lao động còn lại của tỉnh chủ

yếu là lao động lớn tuổi, từ đó gây khó khăn cho việc tổ chức tuyển sinh học

nghề các ngành nghề công nghệ kỹ thuật. Công tác giải quyết việc làm, tạo việc

130

làm cho người lao động chưa được phát huy toàn diện. Một số ngành nghề

chưa thực sự bền vững, thu nhập còn thấp, công tác xuất khẩu lao động còn hạn

chế về số lượng lao động tham gia, đặc biệt là khu vực nông nghiệp, nông thôn,

vùng đồng bàn dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa ở tỉnh Vĩnh Long.

Việc thực hiện Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn, tuy Ban Chỉ

đạo Đề án các cấp đã được thành lập đầy đủ nhưng hiệu quả triển khai, tổ chức

thực hiện, quản lý giám sát công tác dạy nghề còn nhiều hạn chế; đa số cán bộ

quản lý dạy nghề cấp huyện, xã là cán bộ kiêm nhiệm, chưa am hiểu nhiều về

các chính sách, quy định dạy nghề cũng như chính sách của Đề án. Trong quá

trình thực hiện, các ban ngành đoàn thể địa phương còn chưa thực hiện tốt việc

lồng ghép các hoạt động của Đề án vào các nhiệm vụ công tác của ngành, địa

phương quản lý để nâng cao hiệu quả và chất lượng thực hiện Đề án đối với

việc đẩy nhanh phát triển NNL tại chỗ cho khu vực nông nghiệp, nông thôn.

4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU

4.2.1. Vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ trương của Đảng về phát triển

nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện thực tế kinh tế - xã hội ở địa phương

Thực tế lịch sử qua15 năm (2000 - 2005) đã chứng minh phát triển NNL

là một trong những nhiệm vụ đột phá để giúp cho tỉnh Vĩnh Long hoàn thiện về

chương trình, kế hoạch phát triển KT-XH của tỉnh, từng bước thực hiện tốt an

sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất - tinh thần cho nhân dân. Để có được

kết quả đó, tỉnh đã đánh giá đúng tình hình thực trạng gần 10 năm tái lập, là

thành quả của một quá trình vận dụng đường lối chủ trương của Đảng khi tỉnh

Vĩnh Long là tỉnh nghèo trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long chưa có kinh

nghiệm thực hiện phát triển NNL. Bằng sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ,

Chính quyền, Nhân dân, tỉnh Vĩnh Long đã xây dựng một tập thể đoàn kết,

thống nhất, sâu sát, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành ở tất cả các

cấp ủy và HTCT. Tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính

phủ, các bộ ban ngành Trung ương, huy động vào cuộc của cả HTCT, tranh thủ

sự ủng hộ nhân dân để tổ chức lãnh đạo thực hiện đạt hiệu quả. Trên cơ sở nắm

131

đầy đủ thông tin về việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, chế độ

trong giai đoạn tái lập tỉnh; nhận thức đầy đủ những khó khăn, thuận lợi, đánh

giá đúng kết quả thực hiện là cơ sở để nâng cao năng lực thể chế hóa các chủ

trương đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước thành các chương trình

kế hoạch thực hiện, phù hợp với thực tiễn địa phương, coi đây là nhiệm vụ có

tính chất chiến lược trước mắt và lâu dài trong sự phát triển toàn diện của tỉnh.

Trong đó, Chương trình hành động số: 09-Ctr/TU về phát triển và nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến năm 2020

đã thể hiện rõ sự đột phá, sáng tạo trong lãnh đạo chỉ đạo công tác phát triển

NNL của tỉnh, thể hiện sự phát triển về nhận thức của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long

về vị trí vai trò của công tác phát triển NNL đối với sự phát triển KT-XH của

địa phương. Đồng thời, sự quyết tâm của Đảng bộ còn thể hiện trong việc đề ra

các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp để mở ra một giai đoạn mới cho công tác

phát triển NNL.

Khi xác định đặc điểm, thế mạnh về phát triển NNL của tỉnh, Đảng bộ và

UBND tỉnh có sự chỉ đạo, phân công các sở ngành chủ quản chủ trì, phối hợp

làm đầu mối xây dựng chương trình, kế hoạch, giải pháp đề xuất với Trung

ương về chủ trương phát triển NNL theo cơ chế, chính sách đặc thù phục vụ

cho sự phát triển của tỉnh. Tích cực chủ động đổi mới chính sách phát triển

NNL và thường xuyên đánh giá những mặt được, chưa được, hạn chế, nguyên

nhân trong phát triển NNL để có kế hoạch điều chỉnh, uốn nắn kịp thời nhằm

tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc nhất là việc xây dựng quy hoạch và kế

hoạch phân bổ NNL là CB,CC,VC có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ

chính trị ở địa phương còn khó khăn, vùng sâu vùng xa.

Đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước, tập trung chỉ đạo và triển khai

trọng tâm, trọng điểm chính sách phát triển NNL, ưu tiên phát triển NNL là

CB,CC,VC và lao động chuyên môn kỹ thuật, theo đó bám sát đặc điểm, ưu tế

phát triển KT-XH của tỉnh, Đảng bộ đã chỉ đạo UBND tỉnh xây dựng ban hành

các Chỉ thị, Nghị quyết, đề án, chương trình, kế hoạch phục vụ nhu cầu phát

132

triển NNL. Trong đó kinh nghiệm thành công là Chỉ thị số 20/CT.UBT về đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ - công chức giai đoạn 2001-2005 của tỉnh Vĩnh Long; Kế

hoạch số 1478/UB đào tạo nguồn nhân lực và giải quyết việc làm cho người lao

động Tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2002-2005; Nghị quyết số 16/2001/NQ.HĐND

về phê duyệt chương trình giải quyết việc làm tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2001-

2005; Quyết định số 1612/2006/QĐ.UBND về việc Ban hành Đề án “Đào tạo ở

nước ngoài nguồn nhân lực có trình độ sau đại học cho tỉnh Vĩnh Long giai

đoạn 2006 - 2011” gọi tắt là “Đề án Vĩnh Long 100”; Quyết định số 1855/QĐ-

UBND về việc ban hành Đề án Xây dựng đội ngũ trí thức tỉnh Vĩnh Long đến

năm 2020; Quyết định số 420/QĐ-UBND về việc thành lập Ban Chỉ đạo thực

hiện Kế hoạch xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2011-2015 tỉnh Vĩnh Long;

Quyết định số: 53/QĐ-UBND về việc ban hành Kế hoạch hành động thực hiện

quy hoạch phát triển nguồn nhân lực tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2011-2020;

Quyết định số: 1333/QĐ-UBND về việc phê duyệt Kế hoạch bổ sung đào tạo

nghề cho lao động nông thôn năm 2015;... đồng thời Đảng bộ, UBND tỉnh cũng

đã chủ trương chỉ đạo các cơ quan tham mưu Sở Xây dựng, Sở Kế hoạch và

đầu tư, Sở Giáo dục và đào tạo,.. xây dựng một số cơ chế chính sách các hoạt

động trong lĩnh vực giáo dục dạy nghề, thành lập trường đại học đa ngành,

quy hoạch lại các cơ sở đào tạo đóng trên địa bàn tỉnh theo tinh thần Nghị

quyết số: 09-NQ/TU về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá

VIII) về giáo dục - đào tạo đến năm 2020 và theo Quyết định số: 1375/QĐ-

UBND của UBND tỉnh Vĩnh Long về phát triển và nâng cao chất lượng NNL

giai đoạn 2012-2015 và định hướng đến năm 2020. Theo chủ trương của

Trung ương Đảng, tỉnh trước hết phải phát triển lực lượng sản xuất, trong đó

chú trọng phát huy nguồn lực con người, tạo môi trường thuận lợi để giải

phóng sức sản xuất của mọi thành phần kinh tế và tạo điều kiện cho tổ chức

và cá nhân chủ động đầu tư phát triển nông nghiêp, nông thôn. Tỉnh tăng

cường bám sát thực tiễn, có đánh giá tổng kết và dự báo NNL nhằm giải quyết

tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với ổn định xã hội, bảo vệ môi

133

trường, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho

nhân dân. Tỉnh cũng đã nâng cao hiệu quả hiệu lực quản lý nhà nước, xây

dựng kế hoạch và giải pháp thực hiện hàng năm, 5 năm và dài hạn trong chiến

lược phát triển NNL của từng ngành, từng địa phương. Thực hiện tốt việc

phân cấp và phân định rõ việc sử dụng NNL trong các cơ quan nhà nước, các

đơn vị sự nghiệp công lập, các doanh nghiệp,...

Hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển NNL nhằm đổi mới phương pháp

quản lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý. Trước

hết nâng cao phương thức quản lý phát triển NNL khu vực công như: Sở Kế hoạch

và Đầu tư, Sở Nội vụ, Sở Lao động- Thương binh và Xã hội, Sở Giáo dục và Đào

tạo và các bộ phận phụ trách công tác tổ chức, nhân sự của các cơ quan quản lý

hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Củng cố hiệu lực, hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý nhà nước nhằm

nâng cao chất lượng NNL đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH. Thường xuyên

đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tham mưu, giúp việc

về công tác quản lý phát triển NNL. Phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm

quản lý của UBND các cấp, các sở ban ngành trong việc theo dõi, dự báo, xây

dựng kế hoạch phát triển NNL.

Xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị sử dụng lao

động với các cơ sở đào tạo NNL, giữa các đơn vị hành chính, sự nghiệp với Sở

Nội vụ, Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở

Giáo dục và Đào tạo; giữa doanh nghiệp với các trường đại học, cao đẳng,

trung cấp chuyên nghiệp, cơ sở dạy nghề… nhằm tạo đồng thuận và thống nhất

giữa cung và cầu lao động trong thời gian tới, hạn chế đến mức thấp nhất sự

lãng phí trong phát triển NNL của cá nhân, tổ chức và xã hội. Đồng thời, tăng

cường sự chủ động, sáng tạo của từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trong

công tác phát triển NNL.

Là tỉnh thuần nông, NNL được xem là một trong những nhiệm vụ rất

quan trọng trong bối cảnh thực hiện CNH, HĐH địa phương, là vấn đề then

134

chốt cho sự nghiệp phát triển KT-XH, là mục tiêu cơ bản để đưa tỉnh Vĩnh

Long thoát khỏi tỉnh nghèo trong khu vực, trước những đặc điểm đó Đảng bộ

không chỉ dừng lại khâu chủ trương, chỉ đạo mà học tập kinh nghiệm công tác

phát triển NNL của các tỉnh thành trong cả nước, đặc biệt là khi ban hành Đề

án Vĩnh Long 100 đã tạo ra bước ngoặc mới về tư duy về nhận thức trong chiến

lược phát triển NNL tỉnh nhà.

Với những kết quả đạt được, kinh nghiệm rút ra cho tỉnh là từ quá trình

lãnh đạo công tác phát triển NNL giai đoạn 2000 - 2015 luôn bám sát đặc điểm

tình hình thực tiễn địa phương, làm tiền đề Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long thực hiện

thành công phát triển NNL, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH, góp phần thực hiện

thành công công cuộc đổi mới đất nước.

4.2.2. Nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của phát triển nguồn

nhân lực là nhiệm vụ trọng tâm của hệ thống chính trị và xã hội đáp ứng

yêu cầu phát triển toàn diện của tỉnh

Để phát huy hiệu quả công tác phát triển NNL, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long

xác định nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong mục tiêu phát triển KT-XH là

phải nâng cao nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của phát triển NNL, đặc biệt

là NNL trong HTCT và khu vực nông nghiệp, nông thôn. Bởi vì NNL là những

chủ thể không thể thiếu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và cũng không

thể thiếu đối với việc tăng trưởng kinh tế mà còn đóng vai trò quyết định đối

với phát triển kinh tế địa phương. Chính vì vậy để phát triển toàn diện của một

tỉnh nông nghiệp là phải tận dụng, tranh thủ các cơ hội để nâng cao chất lượng

NNL, nhất là NNL có phẩm chất chính trị, có trình độ chuyên môn và tay nghề

cao để góp phần quan trọng trong việc hoạch định chiến lược phát triển KT-

XH. Đồng thời đánh dấu bước ngoặc thành công của Đảng bộ đã mở đầu sự

nghiệp phát triển NNL từ khi tái lập tỉnh đến nay.

Là tỉnh có vị trí địa lý rất thuận lợi để phát triển kinh tế, ngay từ những

năm tái lập tỉnh và qua quá trình khảo sát, đánh giá thực trạng NNL, Đảng bộ

và chính quyền tỉnh Vĩnh Long tập trung thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp cơ

135

bản. Trong đó chủ trương của tỉnh là đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng

nhằm phát triển và nâng cao chất lượng NNL, bổ sung NNL cho những ngành,

lĩnh vực có vai trò quyết định, tạo đột phá trong lĩnh vực KT-XH, nhất là xây

dựng đội ngũ CB,CC,VC trong HTCT, đội ngũ NNL trong lĩnh vực y tế, giáo

dục và tập trung phương hướng xây dựng kế hoạch dài hạn, ngắn hạn đào tạo

NNL chuyên môn kỹ thuật cho khu vực nông nghiệp nông thôn. Trong vòng 15

năm, Đảng bộ và Chính quyền đã ban hành 03 Chương trình hành động, 03 Đề

án và 06 Quyết định phát triển và nâng cao chất lượng NNL nói chung. Trong

đó Chương trình hành động số 09-CT/TU của Tỉnh ủy về phát triển và nâng cao

chất lượng NNL giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến 2020 và Quyết định

số 1375/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc ban hành Kế hoạch phát

triển và nâng cao chất lượng NNL giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến

2020 được xem là sự phát triển nhận thức đúng đắn của Đảng bộ tỉnh Vĩnh

Long về vị trí vai trò, tầm quan trọng phát triển NNL thời kỳ CNH,HĐH và hội

nhập quốc tế, đồng thời mở đầu một giai đoạn mới trong sự nghiệp phát triển

NNL đã trở thành hiện thực.

Với tinh thần trách nhiệm cao, Đảng bộ tin tưởng rằng khi đã xác định rõ

vai trò trách nhiệm từng đơn vị, địa phương khi ban hành mục tiêu, nhiệm vụ,

định hướng phát triển NNL là đồng nghĩa việc coi trọng và quyết tâm thực thi

chính sách sao cho phù hợp với quy hoạch phát triển chung, phát triển các

ngành nghề và chiến lược phát triển NNL quốc gia theo mục tiêu chung là đủ

số lượng, đúng tiêu chuẩn cơ cấu đồng bộ. Xây dựng chương trình, kế hoạch

phát triển NNL phải gắn liền với ngành nghề đào tạo có trọng tâm, trọng điểm

bảo đảm NNL trong các ngành, các thành phần kinh tế được nâng lên, tạo ra

năng suất, hiệu quả cao trong công việc, đóng góp tích cực vào phát triển KT-

XH của tỉnh theo hướng nhanh và bền vững.

Định hướng công tác tuyên truyền sâu rộng thông qua phương tiện thông

tin đại chúng về chương trình hành động, kế hoạch, nghị quyết, chỉ thị trong

các cơ quan HTCT và nhân dân để định hướng, mục tiêu, vai trò, trách nhiệm

136

phát triển NNL, từ đó có ý thức trách nhiệm hơn trong thực hiện phát triển

NNL thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Nâng cao và tạo sự chuyển biến

thật sự mạnh mẽ trong nhận thức của các cấp, các ngành và cả trong đội ngũ

CB,CC,VC và nhân dân về vai trò phát triển NNL phục vụ sự nghiệp phát triển

KT-XH, quốc phòng, an ninh, đặc biệt là nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài

đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của thời kỳ mới. Trong lãnh đạo điều hành,

Đảng bộ luôn phát huy tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu cấp uỷ các

cấp, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức Đảng, chính

quyền, đoàn thể trong HTCT nhằm thực hiện tốt có hiệu quả để nâng cao chất

lượng NNL đáp ứng tình hình mới.

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với các cơ quan quản lý nhà nước,

thực hành dân chủ, huy động nhiều nguồn lực xã hội, xây dựng cơ chế chính

sách trên cơ sở xây dựng những luận cứ khoa học trên cơ sở thực tiễn để luận

giải cho việc đề ra các chủ trương phát triển NNL đáp ứng yêu cầu tình hình

mới luôn đồng bộ, toàn diện để vận dụng linh hoạt các quy định hiện hành của

nhà nước đối với các lĩnh vực liên quan sao cho phù hợp với điều kiện thực tế

của Vĩnh Long và đem lại kết quả tốt nhất.

Tập trung rà soát, điều chỉnh, bổ sung cơ chế chính đãi ngộ, thu hút nhân

tài, đội ngũ là nhà khoa học, quản lý, đội ngũ trí thức, lưc lượng lao động trình

độ chuyên môn cao thuộc các lĩnh vực mà NNL chiếm tỷ lệ cao trong các lĩnh

vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, thương mai, xây dựng,... Chủ động xây

dựng cơ chế chính sách thu hút nhân tài, chính sách luân chuyển NNL làm việc

vùng sâu vùng xa, động viên khuyến khích CB,CC,VC đi học, bồi dưỡng nâng

cao trình độ chuyên môn sau đại học ở các trường đại học, học viện của Trung

ương và các trường đại học nước ngoài theo Đề án Vĩnh Long 100. Bổ sung

chính sách trọng dụng nhân tài là lực lượng học sinh sinh viên, đặc biệt là lực

lượng kỹ sư, bác sĩ, nhà khoa học, chuyên gia, doanh nhân trẻ có tài năng đến

làm việc tại địa phương trong các ngành công nghiệp, cơ khí, điện tử, công

nghệ thông tin, chế biến nông lâm thủy sản, thực phẩm,..

137

Tổng kết, đánh giá, đúc rút kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo phát triển

NNL ở các cấp ủy Đảng nhằm đảm bảo sự tập trung thống nhất, sự phối hợp

thông suốt, nhịp nhàng và linh hoạt, tránh tình trạng một số cấp ủy, chính

quyền, các cơ quan ban ngành chưa tích cực. Đây là một kinh nghiệm quan

trọng có ý nghĩa rất to lớn trong sự nghiệp phát triển NNL ở địa phương.

Thực hiện đồng bộ có hiệu quả mục tiêu phát triển NNL của một tỉnh

thuần nông, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu để phát triển kinh tế. Tuy

nhiên, trong bối cảnh đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH thì nông nghiệp nông

thôn cần có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, có cách làm, bước đi

phù hợp, đặc biệt là xác định NNL để phục vụ sự chuyển dịch kinh tế đòi hỏi

NNL phải có tay nghề và kinh nghiệm giỏi. Coi trọng các ngành công nghiệp

chế biến để nâng cao giá trị nông sản, đáp ứng nhu cầu tiều dùng ngày càng cao

ở trong nước và xuất khẩu theo Quyết định số 650/QĐ-UBND về việc thành

lập Đề án "Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020" trên địa bàn

tỉnh Vĩnh Long”, Quyết định số 315/QĐ-UNND về việc phê duyệt Danh mục

ngành nghề đào tạo cho lao động nông thôn quá tuổi lao động. Tỉnh chủ trương

phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp, các ngành dịch vụ, thương mại

phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và nhu cầu ngày càng tăng của xã hội; phát

triển các ngành du lịch, coi trọng du lịch sinh thái để thu hút khách du lịch. Có

thể thấy, phát triển NNL đúng hướng đúng nguyện vọng của nhân dân đã phát

huy hiệu quả và khai thác tối đa nguồn lực con người, tạo chuyển biến mạnh

mẽ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, nghĩa là lao động trong

ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ phải tương đối đồng đều lao động

ngành nông nghiệp; lao động ngành nông nghiệp phải giảm đi tuyệt đối và

tương đối để đảm bảo thực hiện thành công của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ

lần thứ VIII, lần thứ IX của tỉnh Vĩnh Long toàn diện hơn.

Như vậy phát triển NNL trên hai đối tượng chính là CB,CC,VC trong

HTCT và lao động chuyên môn kỹ thuật trong khu vực nông nghiệp, nông thôn

đã mang lại hiệu quả về cơ cấu, bố trí, quy hoạch và đầu tư cho nguồn lực con

138

người một cách cân đối, hài hòa giữa lợi ích chính trị với lợi ích kinh tế. Quá

trình lãnh đạo luôn sâu sát, có trọng tâm, trọng điểm, đối tường nhân lực nào

còn yếu, yếu mặt nào, chuyên môn nào cần được bổ sung và tập trung đầu tư

sức lực vào đối tượng đó. Theo nhận định của cá nhân, phát triển NNL của tỉnh

Vĩnh Long chưa ổn định và chưa đảm bảo về số lượng và chất lượng trong bình

diện mặt bằng chung của tỉnh so với khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Nguyên nhân dẫn đến thiếu và yếu đội ngũ NNL vẫn là cán bộ, công chức, trí

thức, doanh nhân và quản lý doanh nghiệp, trước tiên là do địa phương chưa

chú trọng đến khâu lựa chọn vào đào tạo bồi dưỡng, đặc biệt là lựa chọn, đào

tạo và sử dụng nhân tài; thứ hai, chưa quan tâm đến khâu quản lý, kiểm tra chặt

chẽ hoạt động của đội ngũ NNL này, hiện đây là khâu yếu, có nhiều bất cập

trong xây dựng chiến lược phát triển NNL lâu dài, tỉnh chỉ chú trọng xây dựng

chủ trương chứ chưa có sự đột phát trong thực thi chính sách phát triển NNL

dẫn đến NNL được đào tạo nhưng không cống hiến lâu dài.

4.2.3. Đảm bảo sự nhất quán, thống nhất từ khâu dự báo, tạo nguồn,

đào tạo, bồi dưỡng trong quá trình lãnh đạo phát triển nguồn nhân lực

Trên cơ sở xác định mục tiêu phát triển NNL theo Nghị quyết của Đảng

các cấp, Đảng bộ quán triệt sự nhất quán, thống nhất từ dự báo, tạo nguồn, đào

tạo, bồi dưỡng đến rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển các ngành

kinh tế phù hợp kết cấu hạ tầng kinh tế theo từng cơ sở, từng địa phương, bảo

đảm NNL được thực hiện đồng bộ đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, tốc độ phát

triển kinh tế trong khu vực và cả nước. Xác định phát triển và nâng cao chất

lượng NNL trong mỗi cơ quan, đơn vị và cả xã hội là nhiệm vụ mang tính

chiến lược, bảo đảm cho KT-XH phát triển nhanh và bền vững. Phát huy vai

trò, trách nhiệm của đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp trong việc phát triển,

nâng cao chất lượng NNL của tỉnh. Tạo môi trường xã hội thuận lợi để xây

dựng xã hội học tập, quan tâm đào tạo các ngành, nghề mũi nhọn, có ý nghĩa

quyết định đối với sự phát triển KT-XH của một tỉnh đồng bằng nhiều khó

khăn nhưng cũng có nhiều tiềm năng để phát triển.

139

Quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp, vùng công nghiệp trọng

điểm và các khu, cụm công nghiệp đồng bộ với quy hoạch phát triển NNL như:

hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp, các công trình hạ tầng xã hội phục vụ

người lao động. Cơ cấu lại NNL trong lĩnh vực công nghiệp theo hướng phát

triển mạnh những ngành có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự

phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền

kinh tế thuần nông của tỉnh, từng bước có khả năng tham gia sâu vào các công

đoạn sản xuất và mạng lưới phân phối toàn cầu như một số ngành nghề truyền

thống như: gốm, giày da, chế biến nông sản,... Đề cao trách nhiệm của người

đứng đầu trong xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển NNL gắn

với tiềm lực KT-XH, bảo đảm hiệu quả và tính khả thi.

Ưu tiên phát triển NNL cho các ngành công nghiệp, sắp xếp quy hoạch,

phân bổ các trường đại học, cao đẳng nghề, trung cấp nghề,... theo hướng tổ

chức đào tạo sát hơn với yêu cầu của xã hội. Cấp ủy, chính quyền các cấp đã

đặt đào tạo nguồn nhân lực thành công tác trọng tâm, đẩy mạnh xã hội hóa

công tác đào tạo, huy động các thành phần kinh tế tham gia vào quá trình đào

tạo phát triển NNL, nhất là NNL chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc

tế phù hợp với luật pháp Việt Nam. Ưu tiên phát triển NNL ở các địa bàn kinh

tế trọng điểm, đặc biệt là địa bàn có khu, cụm, tuyến công nghiệp của 2 huyện

Long Hồ và Bình Minh theo Quyết định: số 455/QĐ-UBND về việc phê duyệt

dự án dạy nghề cho người nghèo giai đoạn 2008 - 2010. Phát triển các lớp dạy

nghề hoặc cơ sở dạy nghề trong doanh nghiệp; thực hiện liên kết, liên doanh

giữa doanh nghiệp với các cơ sở dạy nghề, gắn việc dạy lý thuyết tại các cơ sở

dạy nghề với thực hành tại doanh nghiệp, tạo nguồn lao động có trình độ

chuyên môn kỹ thuật phù hợp với yêu cầu phát triển các ngành nghề thời kỳ hội

nhập quốc tế.

Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi đầu tư của Nhà nước, tranh thủ các

nguồn vốn của Trung ương, của tỉnh, nguồn vốn từ các chương trình dự án,

nguồn vốn tín dụng đầu tư của các Ngân hàng Thương mại, Ngân hàng Nông

140

nghiệp - PTNT, Ngân hàng Chính sách. Mặt khác, áp dụng nhiều hình thức vay

vốn linh hoạt nhằm khai thác tốt các nguồn vốn nội lực trong các doanh nghiệp

trên địa bàn và trong nhân dân để đầu tư phát triển các ngành nghề mới đáp ứng

yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

4.2.4. Nâng cao nhận thức và phối hợp chặt chẽ của các cấp ủy đảng

trong phát triển nguồn nhân lực

Gần 10 năm để mở đầu cho giai đoạn phát triển NNL từ khi tái lập tỉnh,

Đảng bộ và chính quyền tỉnh đã trăn trở, nghiên cứu, đề xuất, đi khảo sát cơ sở

để lãnh đạo chỉ đạo mỗi cấp, mỗi ngành về nhiệm vụ phát triển NNL là quá

trình nâng cao nhận thức chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của các cấp ủy đảng

trong công tác này. Bằng sự tâm huyết và tinh thần trách nhiệm với xã hội,

Đảng bộ luôn sâu sát, quyết liệt điều hành trong tất cả các cấp ủy của HTCT,

trong nhân dân để tạo sự chuyển biến trong nhận thức về tầm quan trọng của

công tác phát triển NNL, phấn đấu xây dựng xã hội học tập, nâng cao dân trí,

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, sớm đưa tỉnh ra khỏi diện tỉnh nghèo. Điều này

được quán triệt sâu sắc, thể hiện trong các nghị quyết, chủ trương, biện pháp

lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện phát triển NNL của ngành, địa phương,

đơn vị mình.

Từ trong nhận thức, Đảng bộ quán triệt các chủ trương, đường lối, chính

sách, chế độ của Đảng và Nhà nước phối hợp chặt chẽ giữa Trung ương và địa

phương, giữa các cấp ủy đảng với chính quyền thực thi cơ chế chính sách đúng

hướng, đúng trọng tâm trọng điểm được thể hiện bằng các văn bản pháp quy,

chương trình hành động, chỉ thị, nghị quyết,… để triển khai thực hiện. Các cấp,

các ngành đã có sự chủ động hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ dự báo nhu

cầu, đánh giá, quy hoạch NNL; nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng, thu

hút NNL; thực hiện tốt việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng hợp lý và hiệu

quả NNL, đổi mới cơ chế, chính sách phục vụ phát triển NNL. Đồng thời, tỉnh

đã ban hành một số chính sách tương đối đồng bộ, đóng vai trò quan trọng

trong việc thúc đẩy phát triển nhanh NNL như: hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo

141

nghề cho công nhân; hỗ trợ đối với CB,CC,VC được cử đi đào tạo trong và

ngoài nước; thu hút CB,CC,VC và những người có trình độ cao đến công tác

tại tỉnh,…

Để thực hiện thành công, Đảng bộ đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền,

giáo dục pháp luật đến các cơ quan ban ngành trong HTCT và trong nhân dân

để thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển NNL. Trên thực tế đã tạo được nhận thức

đúng đắn và đồng thuận trước hết trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và phần lớn

dân cư về vai trò, vị trí của việc phát triển và nâng cao chất lượng NNL, về tính

cấp thiết và ý nghĩa nâng cao trình độ lao động chuyên môn kỹ thuật. Thông

qua công tác phát triển NNL, HTCT và tổ chức quần chúng nhân dân ngày

càng phát huy vai trò, đáp ứng công tác lãnh đạo, quản lý địa phương. Thái độ,

phong cách làm việc của các cơ quan nhà nước được nâng lên rõ rệt, thể hiện

được tinh thần, thái độ, trách nhiệm phục vụ nhân dân. Đối với chất lượng

NNL trong các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế được nâng lên, tạo

ra năng suất, hiệu quả cao hơn trong công việc, đóng góp tích cực vào phát

triển KT-XH của tỉnh theo hướng nhanh và bền vững.

Cần tuyên truyền đổi mới nhận thức về phát triển ngành nghề của các

ngành các cấp, nhất là việc hoạch định chủ trương chính sách trên các lĩnh vực

trọng yếu của địa phương về phát triển ngành nghề, thực hiện đúng theo quan

điểm đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước. Xác định rõ việc phát triển

ngành nghề là nội dung quan trọng nhằm góp phần thúc đẩy tiến trình CNH,

HĐH. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực ngành nghề,

thực hiện tốt công tác quy hoạch, kế hoạch định hướng phát triển, tổ chức tuyên

truyền phổ biến rộng rãi các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và của

các tỉnh, thành phố về khuyến khích phát triển ngành nghề để mọi tổ chức, cá

nhân được biết để yên tâm đầu tư phát triển.

Củng cố và tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý Nhà nước

về ngành nghề trên địa bàn. Nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp

ủy, chính quyền các cấp từ trung ương đến địa phương đối với các doanh

142

nghiệp đầu tư phát triển ngành nghề mới. Chính quyền ở địa phương cần chủ

động xây dựng các kế hoạch và biện pháp cụ thể để đẩy mạnh việc vận động,

xúc tiến đầu tư và huy động vốn nhằm khôi phục, phát triển ngành nghề đáp

ứng yêu cầu CNH, HĐH.

Rà soát, hoàn thiện thể chế để tạo môi trường thuận lợi thu hút mạnh mẽ

và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành

chính, bảo đảm thông thoáng, thuận lợi, khắc phục phiền hà và giảm chi phí

cho doanh nghiệp khi đầu tư phát triển các ngành nghề mới. Khuyến khích ứng

dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước. Hoàn thiện cơ chế phân cấp

để vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của cấp dưới, vừa bảo đảm sự quản lý

thống nhất của cấp trên, đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát và

xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.

4.2.5. Chú trọng cơ chế, chính sách đối với công tác phát triển nguồn

nhân lực, phù hợp với điều kiện của địa phương và đáp ứng sự phát triển

bền vững

Cơ chế, chính sách đối với công tác phát triển NNL được xem như là chủ

thể trực tiếp quan trọng nhất, giữ vai trò quyết định toàn bộ quá trình phát triển

NNL. Cơ chế, chính sách cũng chính là thước đo để xác định mục tiêu, nội

dung, cách thức tiến hành phù hợp với điều kiện của địa phương và đáp ứng sự

phát triển bền vững. Đồng thời, có cơ chế, chính sách tốt sẽ tháo gỡ những khó

khăn vướng mắc nhất là về vốn đầu tư phát triển nguồn lực con người, vì bản

thân nguồn lực con người không thể tự mình tham gia vào quá trình phát triển

cần có sự hỗ trợ về cơ chế, chính sách. Cơ chế, chính sách có ý nghĩa đối với

sự phát triển KT-XH và thực sự trở thành công cụ quan trọng khi được kết hợp

với sức lực và trí tuệ con người. Thực tế cho thấy, cơ chế, chính sách thông

thoáng, phù hợp với thực tế thì sẽ khai thác hiệu quả tối đa nguồn lực do con

người mang lại, về năng lực, phẩm chất, về tâm lý xã hội và trở thành đối

tượng không cạn kiệt của tiến trình CNH, HĐH. Nguồn lực tự nhiên dù có

phong phú và giàu có đến mấy thì cũng sẽ bị cạn kiệt trước sự khai thác của

143

con người, chỉ có con người mới là tài nguyên vô tận. Do đó, khi đề cập đến

phát triển NNL, đặc biệt là NNL là CB,CC,VC và lao động chuyên môn kỹ

thuật là những đối tượng cần tiên phong xung kích, làm động lực quan trọng

thúc đẩy phát triển KT-XH, bởi vì nói đến chất lượng NNL chính là nói đến

trình độ chuyên môn, năng lao động sáng tạo, phẩm chất đạo đức tốt. Để thực

hiện tốt hơn nữa trong công tác phát triển NNL, Đảng bộ cần thực hiện tốt một

số nhiệm vụ trọng tâm sau:

Trọng dụng, sử dụng chính sách nhân tài đúng đắn và hợp lý. Cái gốc

của chính sách nhân tài nằm ở việc nuôi dưỡng, bảo vệ và phát triển nhân tài.

Nhân tài cần phải được trọng dụng, được giao nhiệm vụ xứng đáng và phù hợp

với tài năng của họ; được tôn trọng, đánh giá đúng mức thành quả lao động và

được ghi nhận, tôn vinh những gì mà họ cống hiến. Ngoài ra, cần chú trọng tạo

điều kiện về cơ sở vật chất, môi trường làm việc và có chế độ đãi ngộ xứng

đáng đối với nhân tài.

Cần mạnh dạn không áp dụng những quy định mang tính chất ép buộc

nhân tài phải tuân thủ tiêu chuẩn xác định về thời gian, địa điểm làm việc.

Lương được trả theo hiệu quả công việc và thường xuyên được điều chỉnh, đảm

bảo cạnh tranh được với khối tư nhân. Đồng thời, coi trọng việc tạo lập môi

trường cạnh tranh để các nhân tài, đặc biệt là nhân tài trẻ phát huy năng lực cá

nhân của mình. Việc bổ nhiệm lên chức danh, chức vụ cao hơn, tạo điều kiện

thăng tiến trong công việc cho nhân tài dựa trên tài năng chứ không dựa trên

thâm niên hay tuổi tác. Đây thực sự là việc vận dụng sáng tạo mô hình việc

làm, dần thay thế mô hình chức nghiệp vốn tồn tại rất lâu đời ở nhiều nước

châu Á.

Trong điều kiện hiện nay, với ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, để giải

quyết vấn đề trên, tỉnh Vĩnh Long có thể lựa chọn những lĩnh vực, ngành

nghề đang có thế mạnh, có nhiều nhân tài để thực hiện thí điểm. Cần xây

dựng hệ thống thang, bảng lương riêng cho đội ngũ nhân tài. Lao động chất

lượng cao phải được trả lương tương xứng để thúc đẩy khả năng sáng tạo của

144

họ. Cần áp dụng thước đo của thị trường để trả công xứng đáng cho những

nhân tài. Thu nhập của đối tượng này cần được điều chỉnh một cách mềm dẻo,

linh hoạt để thích ứng với những biến động của thị trường lao động. Như vậy

mới giữ được những người tài năng làm việc lâu dài trong khu vực nhà nước.

Tăng cường quản lý nhà nước về nhân tài. Với chủ trương: "Đầu tư cho

nhân lực khoa học và công nghệ, đãi ngộ người tài là đầu tư cho phát triển

bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc", công tác quản

lý nhà nước về nhân tài cần được ưu tiên và chú trọng trong bối cảnh tiếp

theo. Quản lý nhà nước về nhân tài bao gồm các nội dung như ban hành và tổ

chức thực hiện chính sách thu hút, sử dụng nhân tài; xây dựng chiến lược, quy

hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển nhân tài; tăng cường các

nguồn lực để phát triển nhân tài; hợp tác quốc tế về đào tạo và bồi dưỡng

nhân tài; kiểm tra, thanh tra, giám sát thực hiện chính sách và pháp luật về

nhân tài;... Để đạt hiệu lực, hiệu quả, các nội dung quản lý nhà nước về nhân

tài cần được thực hiện đồng bộ, có hệ thống, đảm bảo tính thống nhất với các

chính sách khác của Nhà nước để đội ngũ nhân tài phục vụ sự nghiệp phát

triển đất nước là cần thiết phải đổi mới chính sách thu hút, sử dụng nhân tài.

Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nên cần có chế độ, chính sách đặc biệt,

đồng thời thay đổi một cách hệ thống những cách thức hiện nay để tìm kiếm,

giữ chân, thu hút và phát triển nguồn trí tuệ của người Việt Nam phục vụ cho

sự nghiệp phát triển đất nước.

Việc đào tạo nhân tài cần phải có cơ chế, chính sách toàn diện, đồng bộ,

đổi mới căn bản để nhằm mục đích đào tạo được nhiều nhân tài ở nhiều cấp độ,

nhiều lĩnh vực bằng nhiều loại hình thích hợp, có chất lượng, hiệu quả cao

nhất. Có chính sách ưu tiên đối với ngành sư phạm để có đội ngũ giáo viên

giỏi, chất lượng cao, đủ phẩm chất, năng lực thực hiện sự nghiệp “trồng người”

của đất nước. Xây dựng cơ chế, mô hình đào tạo cử nhân tài năng có chất

lượng, hiệu quả ở một số trường đại học trọng điểm quốc gia; đồng thời, xây

145

dựng một số trường đại học, cao đẳng đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.

Nhanh chóng thực hiện mô hình liên kết với các trường đại học có uy tín, tầm

cỡ quốc tế trong đào tạo nhân tài, nhất là các ngành, các lĩnh vực mũi nhọn mà

nước ta có lợi thế trong hiện tại và cả tương lai.

Lựa chọn một số trí thức có năng lực, trí tuệ nổi trội để bồi dưỡng họ trở

thành những nhân tài trên một số lĩnh vực trọng điểm, mũi nhọn, đồng thời

phát triển đội ngũ trí thức này trở thành cán bộ lãnh đạo trong tương lai. Xây

dựng một chiến lược phát triển NNL với những phương án quy hoạch đào tạo

khả thi, đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực khoa học công nghệ trong cả nước.

Tăng cường và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ ở các

cấp, các ngành theo hướng đạt chuẩn mực quốc tế và phù hợp với đặc điểm của

Việt Nam.

Tỉnh Vĩnh Long cần phải thay đổi các chính sách thu hút đối với người

trúng tuyển vào một ngạch công chức, viên chức và có cam kết công tác tại tỉnh

ít nhất là 5 năm trở lên thì sẽ được hưởng chính sách, chế độ thu hút. Ví dụ

như: Hỗ trợ một lần đối với người tốt nghiệp (có bằng) sau đại học trong nước,

tuyển dụng mới (hoặc xét tuyển) về công tác tại cơ quan hành chính, đơn vị sự

nghiệp công lập cấp tỉnh, huyện. Đối với Tiến sĩ là 50.000.000 đồng/người;

Thạc sĩ 30.000.000 đồng/người; Bác sĩ Chuyên khoa II 35.000.000 đồng/người;

Bác sĩ Chuyên khoa I 20.000.000 đồng/người để theo kịp với các địa phương

khác trong khu vực.

Đồng thời hỗ trợ cho đối trượng được đào tạo, học tập ở nước ngoài một

lần đối với người tốt nghiệp (có bằng) đại học, sau đại họcđược tuyển dụng

mới (hoặc xét tuyển) về công tác tại cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công

lập cấp tỉnh, huyện như một số địa phương khác trong cả nước đã thực hiện:

Tiến sĩ 350.000.000 đồng/người; Thạc sĩ: 250.000.000 đồng/người.

146

Tiểu kết chương 4

Qua 15 năm với ba nhiệm kỳ Đại hội (đại hội lần thứ VII, VIII, IX),

Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long đã xác định đúng đắn tầm quan trọng của NNL và

công tác phát triển NNL đối với sự phát triển KT-XH trước yêu cầu đẩy mạnh

CNH,HĐH và hội nhập quốc tế. Từ những đặc điểm của tỉnh thuần nông, với

những khó khăn của địa phương, Đảng bộ tỉnh đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo

trong định hướng chiến lược phát triển NNL bằng các chủ trương, biện pháp,

giải pháp,.. chính vì vậy qua ba nhiệm kỳ, đặc biệt từ năm 2005 đến 2015 đã có

những bước đột phá quan trọng nhất là đột phá về cơ chế, chính sách được tăng

cường, từng bước đưa đến sự thay đổi về số lượng và chất lượng NNL cho địa

phương. Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề còn tồn tại, hạn chế, khiếm khuyết,

Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long cần tiếp tục tháo gỡ, khắc phục để nâng cao hơn nữa

chất lượng NNL đáp ứng yêu cầu phát triển trước tình hình mới, nhưng những

thành công và hạn chế của quá trình hoạch định chủ trương cũng như chỉ đạo

thực hiện trong 15 năm đã góp thêm những cơ sở lịch sử quan trọng để tỉnh

Vĩnh Long tiếp tục thực hiện phát triển NNL có hiệu quả hơn.

147

KẾT LUẬN

Là tỉnh nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long khi bước vào thế kỷ

XXI, trước yêu cầu đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, Đảng bộ

tỉnh Vĩnh Long đã quán triệt các chủ trương của Đảng về phát triển NNL, coi

đây là nhân tố quyết định thực hiện thành công công cuộc đổi mới ở địa phương.

1. Nhìn lại quá trình hoạch định chủ trương và chỉ đạo thực hiện phát triển

NNL của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long từ năm 2000 đến năm 2015, trong đó Đảng bộ

đã tập trung và lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng gồm hai đối tượng: CB,CC,VC trong

các cơ quan nhà nược thuộc HTCT và lao động chuyên môn kỹ thuật. Đảng bộ đã

chủ trương chỉ đạo cụ thể hóa từ việc ban hành kế hoạch, chương trình, đề án để

thực hiện mục tiêu, phương hướng và giải pháp đối với phát triển NNL. Đó là

nâng cao số lượng và chất lượng NNL CB,CC,VC trong các cơ quan nhà nước

về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, về quản lý nhà nước, bồi dưỡng về ngoại

ngữ, tin học, chuyên viên,... Đối với NNL lao động chuyên môn kỹ thuật trong

lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, Đảng bộ chỉ đạo thực hiện xây dựng mạng lưới

dạy nghề bao gồm định hướng dài hạn và ngắn hạn, nhằm khai thác và phát triển

toàn diện NNL về lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, xây dựng, nông nghiệp, nông

thôn cho những ngành nghề đặc thù của tỉnh, góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH và

hội nhập quốc tế.

Công tác phát triển NNL được Đảng bộ gắn kết chặt chẽ với quy hoạch

phát triển KT-XH của tỉnh, quy hoạch phát triển các ngành, quy hoạch mạng lưới

đào tạo chung của cả nước và xu thế phát triển NNL của các tỉnh, thành phố trong

khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Do vậy, xây dựng NNL là trách nhiệm của

các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Đảng bộ xác định mục tiêu mở rộng, phát triển hợp lý, nâng cao chất lượng

các cơ sở giáo dục chuyên nghiệp, đào tạo nghề, nhất là bậc cao đẳng, đại học.

Gắn đào tạo với nhu cầu của xã hội, đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH. Thực hiện

chuẩn hóa đội ngũ CB,CC,VC và lao động chuyên môn kỹ thuật với những chính

sách đặc thù chung của từng ngành, từng lĩnh vực. Bên cạnh đó tập trung xây

148

dựng cơ cấu NNL hợp lý để có kế hoạch phát triển, phân bổ phù hợp. Xác định rõ

các lợi thế so sánh về NNL của tỉnh do cấp mình quản lý để có sự sâu sát trong

việc đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng NNL cả trong tỉnh và ngoài tỉnh.

Trong quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện phát triển NNL đạt được một số

thành tựu cơ bản, dồi dào về số lượng phát huy được truyền thống hiếu học, cần

cù, chịu khó, thông minh sáng tạo trong lao động. Số lượng nhân lực qua đào tạo

tăng nhanh qua các năm. Chất lượng nhân lực được nâng lên một bước, thể hiện

một bộ phận NNL đã thích ứng với công nghệ tiên tiến, hiện đại ở một số lĩnh

vực. Cơ cấu nhân lực được đào tạo ngày một hợp lý hơn, nhiều chuyên gia, nhà

khoa học, CB,CC,VC có trình độ tiến sỹ và thạc sỹ chiếm số lượng lớn; đội ngũ

lao động chuyên môn kỹ thuật từng bước hình thành đáng kể, tạo điều kiện cho

tỉnh Vĩnh Long trở thành tỉnh khá vào năm 2015.

2. Trên thực tế, qua khảo cứu 15 năm (2000-2015) chỉ đạo thực hiện chủ

trương phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long vẫn còn một số hạn chế. Về

chủ trương và chỉ đạo thực hiện: Quá trình hoạch định chủ trương, chính sách

phát triển NNL còn chưa đồng bộ; một số chính sách phát triển, thu hút và sử

dụng nhân tài chưa thỏa đáng và đúng trọng tâm, trọng điểm. Về kết quả cụ thể:

Tỷ lệ lao động qua đào tạo khá cao nhưng nhìn chung chất lượng NNL chưa đáp

ứng yêu cầu. Mặt khác, chính sách trọng dụng, thu hút nhân tài chưa được chú

trọng và quan tâm đúng mức, hiện tượng chảy máu chất xám NNL vẫn còn phổ

biến, tình trạng NNL có trình độ cao chưa tha thiết gắn bó lâu dài để xây dựng

tỉnh Vĩnh Long, trái lại có xu hướng tìm công việc thích hợp, thu nhập cao ở các

thành phố lớn.

Chất lượng nguồn nhân lực Vĩnh Long đã được nâng cao, nhưng vẫn còn

chưa thực sự đáp ứng với yêu cầu mới trong những lĩnh vực KH-CN cao, những

lĩnh vực có ý nghĩa quyết định đối với hiện đại hóa nền kinh tế và nâng cao năng

lực cạnh tranh của nền kinh tế. Người lao động còn thiếu tính chuyên nghiệp và

năng lực trong xử lý công việc, lề lối, phong cách, tác phong làm việc, tinh thần

kỷ luật, ý thức trách nhiệm, chưa đáp ứng các yêu cầu của hoạt động sản xuất

công nghiệp.

149

Đa dạng hóa các loại hình giáo dục đào tạo còn hạn chế nhất là loại hình

chất lượng giáo dục cao chưa được phổ biến trong các trường đại học của tỉnh.

Chỉ đạo công tác hướng nghiệp, công tác đào tạo nghề theo phương châm xã hội

hóa tuy có nhiều tiến bộ, nhưng chưa đáp ứng kịp yêu cầu của thị trường lao động

trong và ngoài nước, mới chỉ tập trung đào tạo đại trà, dẫn đến một phần không

nhỏ nhân lực qua đào tạo có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết tốt, nhưng lại kém

về năng lực thực hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công

nghiệp. Đào tạo nhân lực chưa dựa trên cơ sở nhu cầu của xã hội, chưa có sự tham

gia phát triển nhân lực từ các đơn vị sử dụng nhân lực.

Quản lý nhà nước về phát triển NNL chưa theo kịp với yêu cầu. Cơ chế,

chính sách nhằm ưu đãi, thu hút nhân lực trong một số ngành, lĩnh vực mũi

nhọn chưa đủ lớn, hấp dẫn, thuyết phục để thu hút lực lượng lao động có trình

độ, tay nghề cao tham gia. NNL có năng lực quản lý vừa thiếu về số lượng, vừa

yếu về chất lượng. Thị trường lao động kém linh hoạt, thông tin thị trường lao

động thiếu.

3. Từ những thành công và hạn chế, khiếm khuyết của quá trình lãnh đạo

phát triển NNL (trong đó chú trọng là đào tạo, bồi dưỡng để phát triển NNL) của

Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long qua ba nhiệm kỳ đại hội (từ năm 2000 đến năm 2015) đã

để lại nhiều kinh nghiệm quan trọng: Một là, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ

trương của Đảng về phát triển nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện thực tế

kinh tế - xã hội ở địa phương; Hai là, nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng

của phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ trọng tâm của hệ thống chính trị và

xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện của tỉnh; Ba là, đảm bảo sự nhất

quán, thống nhất từ khâu dự báo, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng trong quá

trình lãnh đạo phát triển nguồn nhân lực; Bốn là, nâng cao nhận thức và phối

hợp chặt chẽ của các cấp ủy đảng trong phát triển nguồn nhân lực; Năm là, chú

trọng cơ chế, chính sách đối với công tác phát triển nguồn nhân lực, phù hợp

với điều kiện của địa phương và đáp ứng sự phát triển bền vững.

150

4. Lãnh đạo phát triển NNL ở tỉnh Vĩnh Long tuy đạt được kết quả tích cực,

song còn một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục giải quyết, như: Cơ cấu trình độ chuyên

môn của người lao động trong khu vực sản xuất công nghiệp chưa hợp lý, thiếu

tính năng động và tác phong làm việc. Chất lượng lao động trong các ngành kinh

tế còn bất cập về năng lực, thiếu đội ngũ có trình độ chuyên môn giỏi, tay nghề

cao trong các lĩnh vực. Đội ngũ CB,CC,VC chưa đồng bộ, năng lực thực tiễn và

trình độ chuyên môn chưa đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới. Công tác quản

lý nhà nước một số khâu trong phát triển NNL còn buông lỏng, hình thức, chạy

theo số lượng. Phát triển NNL chất lượng cao nhằm đáp ứng chuyển đổi mô hình

tăng trưởng trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế của tỉnh chưa mang tính

chất mũi nhọn và là điểm nhấn của tỉnh công nghiệp. Cần có giải pháp liên kết

toàn diện về hợp tác đào tạo và nghiên cứu khoa học với các trường trong khu vực

Đồng bằng Sông Cửu Long và thành phố Hồ Chí Minh; giải pháp về chính sách

khuyến khích và hỗ trợ học tập từ ngân sách nhà nước, nhà trường đối với người

học. Tăng cường cơ sở vật chất cho công tác GD-ĐT, đổi mới nội dung, chương

trình đào tạo và phương pháp giảng dạy để nắm rõ tính bất cập về lý thuyết, kỹ

năng trong đào tạo trước đòi hỏi của sự biến động của xu thế thời đại. Tin tưởng

rằng khi giải quyết được các vấn đề đó, đặc biệt là công tác phát triển NNL của

Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long sẽ góp phần quan trọng vào công cuộc hiện thực các mục

tiêu, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao phó trong những giai đoạn tiếp theo.

151

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Trương Thị Hồng Nga (2014), “Xây dựng đội ngũ trí thức của Đảng bộ tỉnh

Vĩnh Long sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương

lần thứ năm khóa X”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (209), tr.81-83; 87.

2. Trương Thị Hồng Nga (2017), “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long với việc phát triển

nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí

Nội chính Trung ương, (48), tr.34-38.

3. Trương Thị Hồng Nga (2017), “Công tác dạy nghề ở Vĩnh Long góp phần nâng

cao chất lượng nguồn nhân lực (2011-2015)”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (10),

tr.114-118.

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh Vĩnh Long (2015), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh

Long (1930 - 2010), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Ban Chấp hành Trung ương (2012), Nghị quyết số 20-NQ/TW, Hội nghị lần

thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (Khóa XI) về Phát triển khoa học và

công nghệ phục vụ sự nghiệpcông nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều

kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế

được ban hành ngày 01 tháng 11 năm 2012, Hà Nội.

3. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Long (1997), Tiếp tục ban hành Đề án số 02-

ĐA/TU ngày 12/12/1997 về xây dựng đội ngũ cán bộ của tỉnh từ nay đến

năm 2020 nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương Hai (12/1996) và Nghị

quyết Trung ương Ba khóa VIII, Vĩnh Long.

4. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Vĩnh Long (2006), Báo cáo kết quả thực hiện công tác

tổ chức, cán bộ và chính sách cán bộ giai đoạn 2001 - 2005, số 37-

BC/TU, Vĩnh Long.

5. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Vĩnh Long (2011), Báo cáo kết quả thực hiện công tác

tổ chức, cán bộ và chính sách cán bộ giai đoạn 2005 - 2010, số 42-

BC/TU, Vĩnh Long.

6. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Vĩnh Long (2015), Báo cáo tình hình thực hiện công tác

tổ chức, cán bộ và chính sách cán bộ năm 2014 và phương kế hoạch

thực hiện năm 2015, số 33-BC/TU, Vĩnh Long.

7. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long (2002), Lịch sử Tỉnh Vĩnh Long (1732 -

2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long (2005), Vĩnh Long 30 năm xây dựng và

phát triển, Nxb Nguyễn Văn Thảnh, Vĩnh Long.

9. Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hội đồng quốc gia giáo

dục Trung ương và Phát triển nhân lực (Chủ biên) (2014), Kỷ yếu hội

thảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

153

10. Đặng Quốc Bảo (Chủ biên), Trương Thị Thúy Hằng và Đặng Thị Thanh

Huyền (2008), Nghiên cứu chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt

Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Nguyễn Trọng Bảo (Chủ nhiệm) (2005), Gia đình, nhà trường, xã hội với việc

phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài do

Chương trình Khoa học - công nghệ cấp Nhà nước, mã số đề tài KX-07,

Hà Nội.

12. Trần Thanh Bình (2003), Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn Việt Nam, Luận án tiến sĩ chuyên

ngành Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

13. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Ban Tuyên giáo Trung ương (2014), Tài liệu hội

thảo khoa học - Đổi mới công tác đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam đáp

ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Hà Nội.

14. Mai Quốc Chánh (1999), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng nhu

cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

15. Phạm Thế Chi (2003), Phát triển nguồn lực lao động ở vùng đồng bằng sông

Cửu Long phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ chuyên

ngành Kinh tế, quản lý và kế hoạch hóa kinh tế quốc dân, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

16. Chính phủ (2005), Nghị quyết về Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại

học Việt Nam giai đoạn 2006-2010, Hà Nội.

17. Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Long (2005), Niên giám thống kê tình hình kinh tế -

xã hội năm 2000, Vĩnh Long.

18. Cục Thống kê Vĩnh Long (2005), Số liệu thống kê kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh

Long 1976 - 2005, Vĩnh Long.

19. Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Long (2012), Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Long,

Vĩnh Long.

20. Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Long (2015), Niên giám thống kê tình hình kinh tế -

xã hội năm 2015, Vĩnh Long.

154

21. Phạm Tất Dong (2006), "Thành tựu bước đầu và những vấn đề cấp thiết đặt

ra trong đào tạo nhân lực ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, (9), tr.19-20.

22. Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), "Giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực.

Những nghiên cứu tổng hợp theo khu vực. Quan hệ quốc tế của Việt

Nam với các nước và khu vực", Kỷ yếu Hội thảo quốc tế lần thứ ba: Việt

Nam hội nhập và phát triển, tập 6, Hà Nội.

23. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long (1995), Văn kiện Đại hội tỉnh Đảng bộ Vĩnh Long

lần thứ V nhiệm kỳ (1991 - 1995), Vĩnh Long.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung

ương khoá VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung

ương khóa IX kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2

(khóa VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp

hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.

155

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập (1986), tập 47, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập (1996), tập 55, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần

thứ 7 khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Nguyễn Văn Đễ, Bùi Xuân Trường và Nguyễn Kim Liệu (2004), Nhân lực

Việt Nam trong chiến lược kinh tế 2001-2010, Nxb Hà Nội.

39. Trần Thanh Đức (2002), Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất với vấn đề

đào tạo người lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở

Việt Nam hiện nay (từ thực tiễn đồng bằng sông Cửu Long), Luận án tiến sĩ

chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

40. Trần Thanh Đức (2007), "Giáo dục - đào tạo với sự phát triển nguồn nhân

lực”, Tạp chí Thương mại, (42), tr.58-59.

41. Trần Khánh Đức (2010), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ

XXI, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

42. Nguyễn Minh Đường, Phan Văn Kha (2005), Đào tạo nhân lực đáp ứng yêu

cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường,

toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, Chương trình Khoc học và công

nghệ Nhà nước, Hà Nội.

43. Lê Thanh Hà (2009), Phát triển nguồn nhân lực công nghiệp Việt Nam trong

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và vai trò của công

đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội.

44. Trương Thu Hà (2005), "Cơ hội và thách thức đối với việc đào tạo, phát triển

nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế", Tạp chí

Khoa học xã hội Việt Nam, (4), tr.19-21.

156

45. Phạm Minh Hạc (2007), Phát triển văn hóa con người và nguồn nhân lực

thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

46. Nguyễn Thị Thu Hằng (2011), Đảng bộ tỉnh Lào Cai lãnh đạo đào tạo

nguồn nhân lực từ năm 2001 đến năm 2010, Luận văn thạc sĩ Lịch sử,

Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

47. Bùi Tôn Hiến (2009), Nghiên cứu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt

Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

48. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Chỉ đạo biên soạn

Tạ Ngọc Tấn (2012), Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực,

nhân tài - Một số kinh nghiệm của thế giới, Nxb Chính trị - Hành chính,

Hà Nội.

49. Học viện Chính sách và Phát triển (2008), "Đào tạo nghề giữ vai trò trọng tâm

trong chính sách phát triển", Kỷ yếu Hội thảo, Hà Nội.

50. Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2006), Nghị quyết số 26/2006/NQ-HĐND

về việc quy định chính sách trợ cấp đối với cán bộ, công chức đi học và

cán bộ, công chức luân chuyển, tăng cường về công tác xã - tỉnh Vĩnh

Long, Vĩnh Long.

51. Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2009), Nghị quyết số 106/2009/NQ-

HĐND ngày 09 tháng 7 năm 2009 về xây dựng đội ngũ trí thức tỉnh Vĩnh

Long đến năm 2020, Vĩnh Long.

52. Phan Văn Kha (2007), Đào tạo và sử dụng nhân lực trong nền kinh tế thị

trường ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

53. Đoàn Văn Khái (2005), Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

54. Nguyễn Văn Khánh (Chủ biên) (2012), Nguồn lực trí tuệ Việt Nam - Lịch sử,

hiện trạng và triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

55. Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Cẩm Ngọc (2017), Đào tạo và sử dụng đội ngũ

trí thức tinh hoa Việt Nam 30 năm đổi mới - Thành tựu và những vấn đề

đặt ra", Tạp chí Lịch sử Đảng, (1), tr.33-34.

157

56. Phạm Công Khâm (2000), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng

nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Xây

dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

57. Bùi Thị Ngọc Lan (2000), Phát huy nguồn lực trí tuệ trong công cuộc đổi mới

ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa cộng sản

khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

58. Phạm Thị Kim Lan (2012), Đảng Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo đào tạo

nguồn nhân lực cho nông nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010, Luận án

tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

59. Lê Thị Ái Lâm (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào

tạo kinh nghiệm Đông Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

60. Liên sở Sở Tài chính - Vật giá - Ban Tổ chức chính quyền - Ban Tổ chức Tỉnh

ủy (2002), Hướng dẫn Liên ngành số 219/LN về quy định tạm thời về

chính sách trợ cấp cho cán bộ, công chức đi học và cán bộ, công chức

luân chuyển tăng cường về công tác ở xã của tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Long.

61. Nguyễn Thắng Lợi (2007), "Về công tác đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ

đổi mới", Tạp chí Lịch sử Đảng, (12), tr.23-35.

62. Vũ Thị Phương Mai (2012), Nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại học ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ

chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

63. Lê Thị Ngân (2005), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri

thức ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị xã hội

chủ nghĩa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

64. Phạm Văn Quý (2005), Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn

nhân lực khoa học công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa

hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Kinh tế, Viện Kinh tế

Việt Nam, Hà Nội.

158

65. Sở Kế hoạch và Đầu tư (2003), Báo cáo số 289/KHĐT về việc xây dựng kế

hoạch đào tạo năm 2004, Vĩnh Long.

66. Sở Lao động - Thương binh Xã hội (2004), Báo cáo số 09/BC-SLĐTBXH về

việc sơ kết thực hiện công tác dạy nghề lao động nông thôn năm 2003 -

kế hoạch năm 2004, Vĩnh Long.

67. Sở Lao động - Thương binh Xã hội (2004), Báo cáo số 26/BC-SLĐTBXH về

việc đánh giá việc thực hiện, triển khai dự án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

XĐGN và xây dựng kế hoạch năm 2005, Vĩnh Long.

68. Sở Lao động - Thương binh Xã hội (2004), Báo cáo số 42/BC-SLĐTBXH về

kết quả thực hiện kế hoạch Đào tạo nhân lực và GQVL (phần công tác

đào tạo nghề), Vĩnh Long.

69. Sở Lao động - Thương binh Xã hội (2004), Báo cáo số 68/BC-SLĐTBXH về

việc thực hiện kinh phí chương trình mục tiêu thuộc dự án “tăng cường

năng lực đào tạo nghề” năm 2004, Vĩnh Long.

70. Sở Lao động - Thương binh Xã hội (2005), Báo cáo số 56/BC-SLĐTBXH về

phục vụ xây dựng đề cương Chương trình hành động của UBND tỉnh

Vĩnh Long thực hiện Chỉ thị số 49/2004/CT-TTg ngày 24/12/2004 của

Thủ tướng Chính phủ về phát triển dịch vụ trong kế hoạch phát triển

kinh tế - xã hội 5 năm 2005 - 2010, Vĩnh Long.

71. Sở Lao động - Thương binh Xã hội (2006), Báo cáo số 07/BC-SLĐTBXH về

việc tổng kết thực hiện công tác đào tạo nghề năm 2005, nhiệm vụ kế

hoạch năm 2006, Vĩnh Long.

72. Sở Lao động - Thương binh Xã hội (2006), Báo cáo số 62/BC-SLĐTBXH về

kết quả thực hiện dự án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác giảm

nghèo năm 2006 và kế hoạch 2007, Vĩnh Long.

73. Sở Lao động - Thương binh Xã hội (2007), Báo cáo số 30/SLĐTBXH về kết

quả thẩm định dự án đầu tư “tăng cường năng lực dạy nghề” thuộc

chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục - đào tạo giai đoạn 2006 -

2010, Vĩnh Long.

159

74. Sở Lao động - Thương binh Xã hội (2009), Báo cáo số 31/BC-SLĐTBXH về

việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và đào tạo

nghề năm 2008 nhiệm vụ, kế hoạch năm 2009, Vĩnh Long.

75. Sở Lao động - Thương binh Xã hội (2015), Báo cáo số 48/BC.SLĐTBXH

ngày 24/4/2015 về thực trạng công tác đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh

Vĩnh Long giai đoạn 2011 - 2015 và kế hoạch 2016 - 2020, Vĩnh Long.

76. Sở Tài chính (2006), Tờ trình số 80/TTr.STC về việc đề nghị mức chi đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức Nhà nước, Vĩnh Long.

77. Nguyễn Ngọc Sơn (2000), Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta - đặc điểm và xu hướng phát triển,

Luận án tiến sĩ chuyên ngành Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã

hội và Nhân văn, Hà Nội.

78. Lương Văn Tám (2003), Nâng cao dân trí ở đồng bằng sông Cửu Long

thực trạng và giải pháp, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa cộng

sản khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

79. Tạ Ngọc Tấn (2012), Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực,

nhân tài - Một số kinh nghiệm của Thế giới, Nxb Chính trị - Hành

chính, Hà Nội.

80. Nguyễn Thanh (2001), Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của giáo dục -

đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

81. Nguyễn Thanh (2005), Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

82. Dương Ngọc Thành (2014), Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng

đào tạo nghề ở nông thôn tỉnh Vĩnh Long, Kết quả khoa học công nghệ,

Trường Đại học Cần Thơ, Cần Thơ.

83. Vũ Bá Thể (2005), Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hóa, hiện

đại hóa, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

160

84. Thủ tướng Chính phủ (2000), Quyết định số 322/QĐ-TTg về việc phê duyệt

Đề án Đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật tại các cơ sở nước ngoài bằng

ngân sách nhà nước, Hà Nội.

85. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 47/2001/QĐ-TTg về việc phê

duyệt Quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2001 -

2010, Hà Nội.

86. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 71/2001/QĐ-TTg về các chương

trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2001 - 2005, Hà Nội.

87. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 201/2001/QĐ-TTg về việc phê

duyệt chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010, Hà Nội.

88. Thủ tướng Chính phủ (2005), Quyết định số 69/2005/QĐ-TTg về đổi mới cơ

bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2010, Hà Nội.

89. Phan Chính Thức (2003), Những giải pháp phát triển đào tạo nghề góp

phần đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện

đại hoá, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Giáo dục học, Trường Đại học sư

phạm Hà Nội, Hà Nội.

90. Hà Quý Tình (1999), Vai trò nhà nước trong việc tạo tiền đề nguồn nhân

lực cho công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta, Luận án tiến sĩ,

Trường Đại học Kinh tế Quốc, Hà Nội.

91. Tỉnh ủy Vĩnh Long (1994), Văn kiện Đại hội đại biểu giữa nhiệm kỳ Đảng

bộ tỉnh Vĩnh Long (khóa V), Lưu hành nội bộ, Vĩnh Long.

92. Tỉnh ủy Vĩnh Long (1995), Vĩnh Long 20 năm phát triển kinh tế - xã hội

(1975 - 1995), Nxb Nguyễn Văn Thảnh, Lưu hành nội bộ, Vĩnh Long.

93. Tỉnh ủy Vĩnh Long (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ VI Đảng bộ

tỉnh Vĩnh Long (1996 - 2000), tập 1, Lưu hành nội bộ, Vĩnh Long.

94. Tỉnh ủy Vĩnh Long (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ VI Đảng bộ

tỉnh Vĩnh Long (1996 - 2000), tập 2, Lưu hành nội bộ, Vĩnh Long.

95. Tỉnh ủy Vĩnh Long (1998), Nghị quyết số 03-NQ/TU về đẩy mạnh công tác

cán bộ đến năm 2010, Vĩnh Long.

161

96. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2000), Vĩnh Long 25 năm xây dựng và phát triển kinh tế

- xã hội 1975 - 2000, Vĩnh Long.

97. Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2000), Kinh tế Vĩnh Long trong

sự nghiệp phát triển ở thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb Nguyễn Văn

Thảnh, Vĩnh Long.

98. Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2000), Vĩnh Long lịch sử và phát

triển (tập 1 và 2), Lưu hành nội bộ, Nxb Nguyễn Văn Thảnh, Vĩnh Long.

99. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2001), Văn kiện Đại hội lần thứ VII Đảng bộ tỉnh Vĩnh

Long (2001 - 2005), tập 1, Lưu hành nội bộ, Vĩnh Long.

100. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2001), Văn kiện Đại hội lần thứ VII Đảng bộ tỉnh Vĩnh

Long (2001 - 2005), tập 2, Lưu hành nội bộ, Vĩnh Long.

101. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2001), “Vĩnh Long lịch sử và phát triển”, Kỷ yếu hội

thảo, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

102. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2002), Báo cáo số 39-BC/TU về tình hình thực hiện

Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về giáo dục - đào tạo và khoa học -

công nghệ, Vĩnh Long.

103. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2002), Chương trình hành động số 06-CTr/TU về thực

hiện các Nghị quyết và Kết luận Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương

Đảng lần thứ sáu (khóa IX) của Tỉnh ủy Vĩnh Long, Vĩnh Long.

104. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2002), Chương trình hành động số 08-CTr/TU về thực

hiện Kết luận Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX)

về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ của Tỉnh ủy Vĩnh Long,

Vĩnh Long.

105. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2004), Kế hoạch số 39-KH/TU về việc thực hiện Chỉ thị

số 40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về xây dựng và nâng cao

chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trên địa bàn tỉnh

Vĩnh Long, Vĩnh Long.

106. Tỉnh uỷ Vĩnh Long (2005), Báo cáo số 139-BC-TU ngày 08/10/2005 thực

trạng và giải pháp chính sách đối với đội ngũ trí thức Vĩnh Long,

Vĩnh Long.

162

107. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ VIII Đảng bộ

tỉnh Vĩnh Long (2005 - 2010), Vĩnh Long.

108. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2006), Thông báo kết luận số 11-TB/TU của Ban Thường

vụ Tỉnh ủy về đề án đào tạo ở nước ngoài nguồn nhân lực có trình độ sau

đại học cho tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2006 - 2010, Vĩnh Long.

109. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2008), Kế hoạch số 02/KH-TU về triển khai thực hiện

nghị quyết của Tỉnh ủy về công tác cán bộ đến năm 2000 và quy hoạch

phát triển nguồn nhân lực khoa học và kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long đến năm

2010, Vĩnh Long.

110. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2008), Chương trình hành động số 17-CTr/TU về việc

thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành

Trung ương Đảng Khóa X về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu

của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, Vĩnh

Long.

111. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2008), Chương trình hành độngsố 21-CTr/TU về việc

thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành

Trung ương Đảng Khóa X về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Vĩnh Long.

112. Tỉnh uỷ Vĩnh Long (2008), Báo cáo số 125-BC/TU ngày 17/11/2008 tổng kết

10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) về đào tạo nghề,

Vĩnh Long.

113. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2010), Báo cáo số 243-BC/TU về công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ năm 2010 và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ năm

2011, Vĩnh Long.

114. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ IX Đảng bộ

tỉnh Vĩnh Long (2010 - 2015), Vĩnh Long.

115. Tỉnh uỷ Vĩnh Long (2010), Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 15/6/2010 về tiếp

tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) về giáo dục - đào tạo

đến năm 2020, Vĩnh Long.

163

116. Tỉnh uỷ Vĩnh Long (2010), Báo cáo số 237-BC/TU ngày 07/9/2010

về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; thu hút, đào tạo, sử dụng

nhân tài trong hệ thống chính trị từ năm 2006 đến năm 2010,

Vĩnh Long.

117. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2011), Chương trình hành động số 09-Ctr/TU về phát

triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giai đoạn 2011 - 2015 và

định hướng đến năm 2020, Vĩnh Long.

118. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2011), Báo cáo số 38-BC/TU về thực trạng đội ngũ cán

bộ dân vận, mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, quần chúng của

tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Long.

119. Tỉnh uỷ Vĩnh Long (2011), Báo cáo số 42-BC/TU ngày 27/7/2011 về công

tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ

dân tộc thiểu số trong 5 năm từ 2006-2011, Vĩnh Long.

120. Tỉnh uỷ Vĩnh Long (2011), Báo cáo số 59-BC/TU ngày 25/10/2011 về công

tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ năm 2011 và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ năm 2012, Vĩnh Long.

121. Tỉnh uỷ Vĩnh Long (2011), Báo cáo số 57-BC/TU ngày 24/10/2011 tổng kết

4 năm thực hiện Kế hoạch số 14-KH/TU, ngày 07/8/2006 của Ban

Thường vụ Tinh ruỷ khoá VIII về việc thực hiện Nghị quyết số 42-

NQ/TW, ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị khoá IX về công tác quy

hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước, Vĩnh Long.

122. Tỉnh ủy Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam tỉnh Vĩnh Long (2012), 20 năm xây dựng và phát triển tỉnh Vĩnh

Long (1992 - 2012), Nxb Nguyễn Văn Thảnh, Vĩnh Long.

123. Tỉnh uỷ Vĩnh Long (2012), Báo cáo số 138-BC/TU ngày 01/11/2012 sơ kết 2

năm triển khai thực hiện Nghị quyết 09-NQ/Tu của Tỉnh uỷ ngày

15/6/2010 tiếp tục thực hiện Nghị quyết trung ương 2 (khoá VIII) về giáo

dục và đào tạo đến năm 2020, Vĩnh Long.

164

124. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2012), Báo cáo số 152-BC/TU công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ năm 2012 và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ năm

2013, Vĩnh Long.

125. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2013), Báo cáo số 222-BC/TU về công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ năm 2013 và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ năm

2014, Vĩnh Long.

126. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2014), Báo cáo số 115-BC/TU về công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ năm 2014 và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ năm

2015, Vĩnh Long.

127. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2014), Báo cáo số 331-BC/TU về tình hình bố trí và sử

dụng cán bộ, công chức trong hệ thống các cơ quan công tác Đảng Vĩnh

Long, Vĩnh Long.

128. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X Đảng bộ tỉnh

Vĩnh Long (2015 - 2020), Lưu hành nội bộ, Vĩnh Long.

129. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2016), Báo cáo số 36-BC/TU, ngày 24/5/2016 báo cáo

tổng kết Chương trình 05-CTr/TU của Tỉnh ủy về giải quyết việc làm và

giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011- 2015 và phương hướng, nhiệm

vụ giai đoạn 2016 - 2020, Vĩnh Long.

130. Phạm Thế Tri (2003), Phát triển nguồn lực lao động ở vùng đồng bằng sông

Cửu Long phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ chuyên

ngành Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

131. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (Đồng chủ biên) (2001), Luận cứ khoa

học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

132. Bùi Đức Tú (2013), Giáo dục nghề nghiệp cho học sinh phổ thông nhằm góp

phần phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

133. Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm (1996), Phát triển nguồn nhân lực kinh nghiệm

thế giới và thực tiễn nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

165

134. Trần Văn Tùng (2001), Nền kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo dục

Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.

135. Trần Văn Tùng (2005), Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài

năng, Nxb Thế giới, Hà Nội.

136. Hà Vũ Tuyến (2017), Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng nguồn

nhân lực từ năm 2001 đến năm 2013, Luận án tiến sĩ Lịch sử Đảng, Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

137. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (1994), Quyết định số 112/QĐ-UBND về

việc xây dựng mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo ở Vĩnh

Long đến năm 2005 và định hướng năm 2010, Vĩnh Long.

138. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (1999), Quyết định về số 1332/QĐ-

UBND quy hoạch tổng thể hệ thống các cơ sở dạy nghề đến năm 2010,

Vĩnh Long.

139. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2001), Báo cáo số 07/BC.UB về đánh giá

tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2000 và định hướng

phát triển kinh tế - xã hội năm 2001, Vĩnh Long.

140. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2001), Chỉ thị số 20/CT.UBT về việc đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ - công chức giai đoạn 2001 - 2005 của tỉnh Vĩnh

Long, Vĩnh Long.

141. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2001), Chỉ thị số 29/2001/CT.UB về việc

phân công cán bộ phụ trách công nghệ thông tin và đào tạo công nghệ

thông tin cho công chức nhà nước, Vĩnh Long.

142. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2002), Báo cáo số 03/BC.UB về việc đánh

giá tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2001 và định

hướng phát triển kinh tế - xã hội năm 2002, Vĩnh Long.

143. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2002), Báo cáo số 798/BC.UB về việc

chấp thuận cho trường Cao đẳng sư phạm Vĩnh Long mở chuyên ngành

đào tạo giáo viên dạy Sử - Công tác đội, Vĩnh Long.

144. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2002), Báo cáo số 1921/BC.UB về việc

chuyển chỉ tiêu đào tạo nghề dài hạn của trường Công nhân Kỹ thuật

giao thông vận tải cho trường Dạy nghề, Vĩnh Long.

166

145. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2002), Báo cáo số 1478/BC.UB về việc

đóng góp dự thảo kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực và giải quyết việc

làm cho người lao động, Vĩnh Long.

146. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2002), Báo cáo số 1802/BC.UB về việc

đóng góp dự thảo kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực và giải quyết việc

làm cho người lao động, Vĩnh Long.

147. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2003), Báo cáo số 03/BC.UB về tình hình

thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2003 và kế hoạch phát triển kinh

tế - xã hội năm 2004, Vĩnh Long.

148. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2003), Quyết định số 552/2003/QĐ.UBND về

việc ban hành Kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực và giải quyết việc làm

cho người lao động tỉnh Vĩnh Long (giai đoạn 2003 - 2005), Vĩnh Long.

149. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2003), Hướng dẫn “Một số điểm bổ sung,

sửa đổi công văn liên ngành số 219/LN Sở TC-VG, Ban TCCQ, Ban

TCTU, Liên Sở TC-VG, Ban TCCQ, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, số 74/HDLN,

Vĩnh Long.

150. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2004), Thông báo Kết luận của Ủy ban

nhân dân tỉnh tại cuộc họp về đào tạo nghề giải quyết việc làm, cung ứng

lao động cho các khu công nghiệp, số 41/TB-UB, Vĩnh Long.

151. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2004), Báo cáo đào tạo nguồn nhân lực

của tỉnh Vĩnh Long, số 84/BC-UB, Vĩnh Long.

152. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2004), Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch đào tạo

nhân lực và giải quyết việc làm tỉnh Vĩnh Long, số 95/BC.UB, Vĩnh Long.

153. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2004), Về việc chấp thuận cho lập dự án

đầu tư xây dựng cơ sở Trường Trung học kinh tế tài chính Vĩnh Long lên

Trường Cao đẳng kinh tế tài chính Vĩnh Long, số 492/UB, Vĩnh Long.

154. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2004), Về việc Báo cáo kết quả thực hiện

các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục - đào tạo giai

đoạn 2001 - 2004, số 1116/UB, Vĩnh Long.

167

155. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2004), Về việc lập Đề án “Xây dựng và

nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trên

địa bàn tỉnh Vĩnh Long, số 2015/UB, Vĩnh Long.

156. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2005), Quyết định về việc triệu tập cán bộ

công chức các sở ban ngành tỉnh tham dự lớp đào tạo thuộc đề án

112CP, số 109/QĐ-VPUBND, Vĩnh Long.

157. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2005), Về việc báo cáo nhu cầu đào tạo

thạc sỹ năm 2005, số 1451/UBND.VX, Vĩnh Long.

158. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2005), Quyết định của Ủy ban nhân dân

tỉnh Vĩnh Long về việc ban hành quy định chế độ công tác phí, chế độ

hội nghị đối với cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập trong

tỉnh, số 1785/2005/QĐ.UBND, Vĩnh Long.

159. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2006), Báo cáo tình hình thực hiện các

chương trình mục tiêu quốc gia năm 2005, số 12/BCĐ-CTMTQG,

Vĩnh Long.

160. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2006), Quyết định về việc phê duyệt Đề án

“Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý

ngành Giáo dục - Đào tạo tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2005 - 2010”, số

16/QĐ.UBND, Vĩnh Long.

161. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2006), Tờ trình về việc đề nghị Hội đồng

nhân dân tỉnh phê chuẩn Đề án: “Đào tạo ở nước ngoài nguồn nhân lực

có trình độ sau đại học cho tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2006 - 2011 (Đề án

Vĩnh Long 100)”, số 37/TTr-UBND, Vĩnh Long.

162. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2006), Về việc Xây dựng kế hoạch phát

triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề đến năm 2010, số 245/UBND.VX,

Vĩnh Long.

163. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2006), Về việc tuyển sinh đào tạo đại học

tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước năm 2006, số

354/UBND, Vĩnh Long.

168

164. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2006), Quyết định về việc Ban hành Đề án

“Đào tạo ở nước ngoài nguồn nhân lực có trình độ sau đại học cho tỉnh

Vĩnh Long giai đoạn 2006 - 2011” gọi tắt là “Đề án Vĩnh Long 100”, số

1612/2006/QĐ.UBND, Vĩnh Long.

165. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2006), Về việc Dự tuyển đi học sau đại

học tại Canada năm học 2007 - 2008, số 2606/UBND-VX, Vĩnh Long.

166. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2006), Về việc cử cán bộ tham gia khóa

đào tạo tại Thái Lan, số 2892/UBND-VX, Vĩnh Long.

167. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2006), Về việc Đề nghị thẩm định dự thảo

NQ.HĐND tỉnh về việc “phê chuẩn Chương trình đào tạo nguồn nhân

lực và giải quyết việc làm tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2006 - 2010”, số

440/VP-UBND, Vĩnh Long.

168. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2007), Báo cáo tình hình thực hiện các

chương trình mục tiêu quốc gia năm 2006, số 29/BC-UBND, Vĩnh Long.

169. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2007), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm

vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2007, định hướng phát triển kinh tế -

xã hội năm 2008, số 105/BC.UBND, Vĩnh Long.

170. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2007), Quyết định số 08/2007/QĐ-UBND

ngày 24/4/2007 về chính sách hỗ trợ bác sĩ, dược sĩ đại học, sinh viên tốt

nghiệp các Trường Đại học Y Dược về công tác ở ngành Y tế tỉnh Vĩnh

Long, Vĩnh Long.

171. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2007), Quyết định v/v ban hành “Chương

trình đào tạo nguồn nhân lực và giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Vĩnh

Long, giai đoạn 2006 - 2010”, số 357/QĐ-UBND, Vĩnh Long.

172. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2008), Báo cáo tình hình thực hiện các

chương trình mục tiêu quốc gia năm 2007, số 14/BC-UBND, Vĩnh Long.

173. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2008), Quyết định thành lập Ban tổ chức

thực hiện Đề án số 02/1998/ĐA-UBND theo chủ trương của Tỉnh ủy “về

định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công

nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến nǎm 2000, tầm nhìn đến năm

2010”, Vĩnh Long.

169

174. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2008), Quyết định về việc phê duyệt dự án

“dạy nghề cho người nghèo giai đoạn 2008 - 2010, số 455/QĐ-UBND,

Vĩnh Long.

175. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2008), Báo cáo tình hình thực hiện kế

hoạch đào tạo nghề năm 2008 và kế hoạch đào tạo nghề năm 2009, số

104/BC-UND, Vĩnh Long.

176. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2008), Quyết định số 29/2008/QĐ-

UBND về hỗ trợ tạm thời bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, huấn luyện

nghề ngắn hạn và cung cấp thông tin cho nông dân giai đoạn 2007 -

2010, Vĩnh Long.

177. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2009), Báo cáo tình hình thực hiện kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2008, kế hoạch phát triển kinh tế -

xã hội năm 2009, số 07/BC-UBND, Vĩnh Long.

178. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2009), Quyết định số 1855/QĐ-UBND

ngày 12/8/2009 về việc ban hành Đề án Xây dựng đội ngũ trí thức tỉnh

Vĩnh Long đến năm 2020, Vĩnh Long.

179. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2010), Ban hành Quyết định số

12/2010/QĐ-UBND, ngày 25/02/2010 về việc sửa đổi phần II Quy định

kèm theo Quyết định số 2585/QĐ-UBND ngày 22/12/2008 về việc sửa

đổi phần I quy định quy định chính sách trợ cấp đối với cán bộ, công

chức đi học và cán bộ, công chức luân chuyển, tăng cường về công tác

xã tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Long.

180. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2010), Báo cáo đánh giá tình hình thực

hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 tỉnh Vĩnh

Long, số 193/BC-UBND, Vĩnh Long.

181. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2010), Báo cáo tình hình thực hiện kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010, kế hoạch năm 2011 và một

số kiến nghị, góp ý dự thảo nghị quyết của Chính phủ về những giải pháp

chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

và dự toán NSNN năm 2011, số 249/BC-UBND, Vĩnh Long.

170

182. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2011), Quyết định về việc thành lập Ban

Chỉ đạo thực hiện Kế hoạch xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2011 -

2015 tỉnh Vĩnh Long, số 420/QĐ-UBND, ngày 25/2/2011, Vĩnh Long.

183. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2011), Quyết định về việc thành lập Ban

Chỉ đạo thực hiện Đề án "Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm

2020" trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long, số 650/QĐ-UBND, ngày 25/3/2011,

Vĩnh Long.

184. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2011), Quyết định về việc triển khai Nghị

quyết số 14/2011/NQ-HĐND ngày 28/ 7/2011 của Hội đồng nhân dân

tỉnh về việc quy định mức chi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

thuộc diện quy hoạch nguồn của tỉnh, cán bộ, công chức được cơ quan

cử đi học thông qua Sở Nội vụ, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, số 1533/QĐ-

UBND, Vĩnh Long.

185. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2012), Quyết định về việc phê duyệt Kế

hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tỉnh Vĩnh Long giai đoạn

2011 - 2015, số 31/QĐ-UBND, 10/1/2012, Vĩnh Long.

186. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2012), Quyết định gia hạn thời gian thực

hiện Đề án đào tạo ở nước ngoài nguồn nhân lực có trình độ sau đại học

cho tỉnh Vĩnh Long đến năm 2012, số 320/QĐ-UBND, ngầy 2/3/2012,

Vĩnh Long.

187. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2012), Quyết định về việc phân công

nhiệm vụ thành viên Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long, số 405/QĐ-

UBND, ngày 20/3/2012, Vĩnh Long.

188. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2012), Quyết định về việc ban hành Kế

hoạch triển khai thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội

tỉnh Vĩnh Long thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, số

994/QĐ-UBND, Vĩnh Long.

189. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2012), Quyết định về việc ban hành Kế

hoạch phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Vĩnh Long

giai đoạn 2012 - 2015 và định hướng đến năm 2020, số 1375/QĐ-

UBND, Vĩnh Long.

171

190. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2012), Quyết định số 822/QĐ-UBND

ngày 24/5/2012 về việc điều chỉnh chỉ tiêu đào tạo giai đoạn 2012 -

2015 của Trường Cao đẳng Cộng đồng Vĩnh Long, Vĩnh Long.

191. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2012), Quyết định số số 1917/QĐ-UBND

ngày 21/11/2012 ban hành về việc thành lập Hội đồng Phát triển nhân

lực tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2011-2020, Vĩnh Long.

192. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2012), Kế hoạch phát triển và nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2012 - 2015 và

định hướng đến năm 2020, Vĩnh Long.

193. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2013), Quyết định về việc ban hành Kế

hoạch hành động thực hiện quy hoạch phát triển nguồn nhân lực tỉnh

Vĩnh Long giai đoạn 2011 - 2020, số 53/QĐ-UBND, ngày 8/1/2013,

Vĩnh Long.

194. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2013), Quyết định về việc phê duyệt Danh

mục ngành nghề đào tạo cho lao động nông thôn quá tuổi lao động, số

315/QĐ-UNND, ngày 4//2/2013, Vĩnh Long.

195. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2013), Quyết định Về việc phê duyệt Kế

hoạch “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020” tỉnh Vĩnh Long,

số 684/QĐ-UBND, ngày 24/4/2013, Vĩnh Long.

196. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2013), Nghị quyết về tiếp tục đào tạo cán

bộ có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài của tỉnh Vĩnh Long đến năm

2020, số 80/NQ-HĐND, ngày 5/12/2013, Vĩnh Long.

197. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2013), Quyết định số 04/2013/QĐ-UBND

ngày 25/07/2013 ban hành về việc ban hành Quy chế tuyển dụng công

chức cấp tỉnh, huyện thuộc tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Long.

198. Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2013), Quyết định số 1706/QĐ-UBND,

ngày 22/10/2013 phê duyệt Kế hoạch thực hiện Đề án Quy hoạch, đào

tạo bồi dưỡng đội ngũ trí thức tỉnh đến năm 2020, Vĩnh Long.

172

199. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2014), Quyết định Về việc phê duyệt Kế

hoạch đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ và

cộng đồng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long đến năm 2020, số 733/QĐ-

UBND, ngày 19/5/2014, Vĩnh Long.

200. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2014), Quyết định về việc phê duyệt Kế

hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Vĩnh Long,

năm 2015, số 158/QĐ-UBND, ngày 19/2/2014, Vĩnh Long.

201. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2014), Quyết định về việc phê duyệt Kế

hoạch bồi dưỡng cán bộ, công chức xã trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long năm

2014, số 295/QĐ-UBND, ngày 7/3/2014, Vĩnh Long.

202. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2014), Chỉ thị số 08/CT-UBND, ngày

13/6/2014 về việc tăng cường thực hiện các biện pháp nâng cao chỉ số

năng lực cạnh tranh (PCI) của tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Long.

203. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2015), Quyết định về việc phê duyệt Kế

hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Vĩnh Long,

năm 2015, số 90/QĐ-UBND, ngày 21/1/2015, Vĩnh Long.

204. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2015), Quyết định về việc thành lập Hội

đồng Thẩm định hồ sơ thành lập, cho phép thành lập trường trung cấp

nghề và trung tâm dạy nghề; thành lập, cho phép thành lập phân hiệu/cơ

sở đào tạo thuộc trường, trung tâm dạy nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh

Long, số 514/QĐ-UBND, ngày 11/3/2015, Vĩnh Long.

205. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2015), Quyết định về việc phê duyệt Kế

hoạch đào tạo nghề cho lao động nông thôn năm 2015, số 513/QĐ-

UBND, ngày 7/4/2015, Vĩnh Long.

206. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2015), Quyết định tạm giao số lượng

người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập năm 2015 cho các ngành

tỉnh, Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố, số 712/QĐ-UBND,

ngày 4/5/2015, Vĩnh Long.

173

207. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2015), Báo cáo tóm tắt tình hình phát triển

kinh tế - xã hội năm 2014 và chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

năm 2015 (Phục vụ buổi làm việc với đồng chí Nguyễn Xuân Phúc - Phó

Thủ tướng Chính phủ), số 69/BC-UBND, Vĩnh Long.

208. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2015), Quyết định số 1333/QĐ-UBND

ngày 31/7/2015 ban hành về việc phê duyệt Kế hoạch bổ sung đào tạo

nghề cho lao động nông thôn năm 2015, Vĩnh Long.

209. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2015), Quyết định Ban hành Kế hoạch

thực hiện Nghị quyết số 45/NQ-CP ngày 11/9/2009 của Chính phủ về

thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn

tỉnh Vĩnh Long, giai đoạn 2016 - 2020, số 809/QĐ-UBND, ngày

8/4/2016, Vĩnh Long.

210. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2016), Quyết định Ban hành Kế hoạch

thực hiện Chương trình phát triển thanh niên tỉnh Vĩnh Long, giai đoạn

2016 - 2020, số 232/QĐ-UBND, 28/1/2016, Vĩnh Long.

211. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2016), Quyết định Ban hành Kế hoạch

thực hiện Đề án “Củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu

đổi mới, phát triển của đất nước” năm 2016 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long,

số 342/QĐ-UBND, 17/2/2016, Vĩnh Long.

212. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2016), Quyết định về việc phê duyệt Kế

hoạch đào tạo nghề cho lao động nông thôn năm 2016, số 948/QĐ-

UBND, ngày 26/4/2016, Vĩnh Long.

213. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2016), Quyết định phê duyệt Kế hoạch đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Vĩnh Long, giai đoạn

2016 - 2025, số 1163/QĐ-UBND, ngày 24/5/2016, Vĩnh Long.

174

214. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2016), Quyết định phê duyệt Kế hoạch đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long,

giai đoạn 2016-2020 theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg và Quyết định số

971/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, số 1157/QĐ-UBND, 24/5/2016,

Vĩnh Long.

215. Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2016), Quyết định số 2402/QĐ-UBND

ngày 10/10/2016 về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo nghề cho lao

động nông thôn giai đoạn 2017-2020 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long,

Vĩnh Long.

216. Viện Khoa học giáo dục Việt Nam (2004), Quản lý nguồn nhân lực ở Việt

Nam một số vấn đề lý luận thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

217. Viện Khoa học giáo dục Việt Nam (Đồng chủ biên) (2008), Kinh nghiệm của

một số nước về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ

gắn với xây dựng đội ngũ trí thức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

218. Đào Quang Vinh (2006), Phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá,

hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Viện

Kinh tế Việt Nam, Hà Nội.

175

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

176

Phụ lục 2

Kết quả đạt được trong công tác giải quyết việc làm giai đoạn 2011 - 2015

Kết quả đạt được

TT Nội dung ĐVT KH 2011-

2015 Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

Năm 2015

Tổng cộng 2011-2015

Tỷ lệ đạt so KH

2011-2015 (%)

1 2 3 4 5 6 7 8 9

1 Công tác tạo việc làm

1,1 Tổng số lao động được tạo việc làm mới Người 130.800 26.900 26.550 27.143 28.648 28.530 137.771 105,33%

a) Xuất khẩu lao động Người 4.800 400 450 505 466 626 2.447 50,98%

b)Trong nước Người 126.000 26.500 26.100 26.638 28.182 27.904 135.324 107,40%

Trong đó:

Giải quyết việc làm thông qua sàn giao dịch việc làm Người - 4.700 1.039 1.054 3.200 680 10.673 -

Giải quyết việc làm thông qua Dự án cho vay vốn từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm

Người 23.100 5.610 4.600 4.760 4.800 4.976 24.746 107,13%

Giải quyết việc làm thông qua các Chương trình phát triển kinh tế xã hội khác

Người - 16.190 20.461 20.824 17.900 22.248 97.623 -

Tự tạo việc làm - 14.376 18.501 18.728 14.900 17.248 83.753 -

Có việc làm mới trong các cơ sở sản xuất kinh doanh, HTX, DNTN, hộ kinh doanh … trong tỉnh

- 1.251 1.372 1.468 2.000 3.500 9.591 -

Có việc làm mới thông qua đi làm việc ngoài tỉnh - 563 588 628 1.000 1.500 4.279 -

1,1 Tỷ lệ thất nghiệp % - 4,70 4,43 4,06 3,50 3,35 -

Thành thị % - 4,70 4,43 4,06 3,50 3,35 -

Nông thôn % - - - - - - 0 -

177

2 Dự án cho vay giải quyết việc làm 0

2,1 Số dư nợ cho vay Tr đồng 104.432 63.610 67.092 68.502 81.432 91.966 372.602 356,79%

Ngân sách trung ương Tr đồng 75.445 60.065 64.275 64.915 65.445 65.725 320.425 424,71%

Ngân sách địa phương Tr đồng 28.987 3.545 2.817 3.587 15.987 26.241 52.177 180,00%

2,2 Số tiền cho vay Tr đồng 169.500 36.028 32.000 25.965 39.900 35.994 169.887 100,23%

2,3 Số người vay Người 23.100 5.610 4.600 4.760 4.800 4.976 24.746 107,13%

3 Hỗ trợ đầu tư hệ thống Trung tâm GTVL, hệ thống thông tin thị trường lao động

Tr đồng 17.093 1.994 629 576 2.000 2.000 7.199 42,12%

Ngân sách Trung ương Tr đồng 17.093 1.994 629 576 2.000 2.000 7.199 42,12%

Ngân sách địa phương Tr đồng - - - - - - 0 -

4 Hỗ trợ tổ chức giao dịch việc làm 0

4,1 Ngân sách Tr đồng 900 186 129 149 - 150 614 68,22%

Ngân sách trung ương Tr đồng 900 186 129 149 - 150 614 68,22%

Ngân sách địa phương Tr đồng - - - - - - 0 -

4,2 Hoạt động của các Trung tâm giới thiệu việc làm

0

Số người được tư vấn Người - 23.915 9.409 6.977 4.500 10.060 54.861 -

Số người tìm được việc Người - 6.957 2.995 2.692 1.500 798 14.942 -

4,3 Hoạt động của Sàn giao dịch việc làm 0

Số người được tư vấn Người - 20.000 6.700 4.439 4.000 1.015 36.154 -

Số người tìm được việc Người - 4.700 700 1.054 3.200 680 10.334 -

5 Hỗ trợ thu thập cơ sở dữ liệu thị trường lao động

0

5,1 Ngân sách Tr đồng - 625,6 403 580 490 750 2.849 -

Ngân sách trung ương Tr đồng - 625,6 403 330 260 750 2.369 -

Ngân sách địa phương Tr đồng - - - 250 230 - 480 -

5,2 Số hộ được cập nhật thông tin hộ - 245.671 249.065 248.461 255.669 260.301 1.259.167 -

178

6 Tập huấn nâng cao năng lực cán bộ lao động việc làm

0

6,1 Ngân sách Tr đồng - - 96,528 18,28 30 30 175 -

Ngân sách trung ương Tr đồng - - 96,528 18,28 30 30 175 -

Ngân sách địa phương Tr đồng - - - - - - 0 -

6,2 Số cán bộ được tập huấn Người 4.430 - 1.189 186 234 351 1.960 44,24%

7 Truyền thông Chương trình việc làm 0

7,1 Ngân sách Tr đồng - - 40 50 50 50 190 -

Ngân sách Trung ương Tr đồng - - 40 50 50 50 190 -

Ngân sách địa phương Tr đồng - - - - - - 0 -

7,2 Số cuộc truyền thông Cuộc - - 12 23 25 26 86 -

Số lượt người tham dự Người - - 360 693 750 760 2.563 -

8 Giám sát, đánh giá Chương trình việc làm 0

8,1 Ngân sách Tr đồng - 84 60 60 90 120 414 -

Ngân sách trung ương Tr đồng - 84 60 60 90 120 414 -

Ngân sách địa phương Tr đồng - - - - - - 0 -

8,2 Số cuộc giám sát, đánh giá Cuộc - 60 53 65 70 72 320 -

+ Cấp tỉnh Cuộc - 5 4 5 5 6 25 -

+ Cấp huyện Cuộc - 55 49 60 65 66 295 -

9 Hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng

0

9,1 Ngân sách Tr đồng - - - - - - 0 -

Ngân sách trung ương Tr đồng - - - - - - 0 -

Ngân sách địa phương Tr đồng - - - - - - 0 -

9,2 Số người được hỗ trợ Người - - - - - - 0 -

Nguồn: [129]

179

Phụ lục 3

Nguồn nhân lực tỉnh Vĩnh Long giai đoạn từ năm 2000-2015

Giai đoạn đến 2000 Giai đoạn 2001 - 2005 Giai đoạn 2006 - 2010 Giai đoạn 2011 - 2015 Giai đoạn 2016 - 2020

Tổng: 1.996 1.997 1.998 1.999 2.000 Tổng: 2.001 2.002 2.003 2.004 2.005 Tổng 2.006 2.007 2.008 2.009 2.010 Tổng 2.011 2.012 2.013 2.014 2.015 Tổng 2.016 2.017 2.018 2.019 2.020

583 70 88 88 137 200 6.603 950 1.170 1.309 1.900 1.274 291 66 98 127 1.885 172 277 640 365 431 8.641 1.441 1.200 1.700 2.000 2.300

7.350 1.090 1.600 1.743 1.550 1.367 7.640 891 1.282 1.550 1.823 2.094 21.396 2.396 3.700 4.500 5.000 5.800

19.650 2.425 2.417 2.958 3.550 8.300 38.182 4.010 5.539 9.117 8.040 11.476 19.144 2.000 2.690 3.222 4.210 7.022 50.410 9.785 6.729 9.033 12.126 12.737 44.535 7.535 8.500 9.000 9.500 10.000

69.888 10.560 11.831 14.390 15.666 17.441 114.741 22.300 24.369 23.857 21.570 22.645 86.541 24.241 13.600 14.800 16.500 17.400

20.233 2.495 2.505 3.046 3.687 8.500 44.785 4.960 6.709 10.426 9.940 12.750 96.673 13.650 16.121 19.421 21.524 25.957 174.676 33.148 32.657 35.080 35.884 37.907 161.113 35.613 5.500 6.000 6.500 7.000

7,50 8,80 10,00 18,50 23,50 26,38 29,87 32,80 35,96 38,11 41,89 45,04 50,05 55,16 60,74 63,00 67,00 71,00 75,00

4,80 5,60 7,00 14,00 15,80 17,80 17,98 19,60 21,58 23,81 26,42 29,34 32,13 35,12 39,31 42,00 46,00 50,00 55,00

Nguồn: [129]

180

Phụ lục 4 Cán bộ, công chức, viên chức khối sự nghiệp được đào tạo,

bồi dưỡng từ năm 2001 đến năm 2005

5222

703 550 485

1279

0

1000

2000

3000

4000

5000

6000

Số lư

ợng

tính

: N

ời

Chuyên

môn

nghiệp vụ

Quản lý

Nhà nước

Ngoại ngữ Tin học Bồi dưỡng

nghiệp vụ

Nguồn: [159]; [160]; [161]

Phụ lục 5

Cán bộ, công chức, viên chức khối hành chính được đào tạo, bồi dưỡng từ năm 2001 đến năm 2005

1375

456534

634

109

0

200

400

600

800

1000

1200

1400

Số

ợn

g t

ính

: N

ời

Đại học, sau

đại học

Quản lý Nhà

nước

Ngoại ngữ Tin học Bồi dưỡng

nghiệp vụ

Nguồn: [159]; [160]; [161]

181

Phụ lục 6 Cán bộ, công chức, viên chức có trình độ chuyên môn

trong các cơ quan nhà nước đến năm 2000

3 33

28913569

6656

0

1000

2000

3000

4000

5000

6000

7000

Số

ợn

g t

ính

: N

ời

Tiến sĩ Thạc sĩ Đại học Cao đẳng Trung cấp

Nguồn: [159]; [160]; [161]

Phụ lục 7

Cán bộ, công chức, viên chức có trình độ chuyên môn

trong các cơ quan nhà nước đến năm 2005

5 60

3511

64456097

0

1000

2000

3000

4000

5000

6000

7000

Số

ợn

g t

ính

:Ng

ườ

i

Tiến sĩ Thạc sĩ Đại học Cao đẳng Trung cấp

Nguồn: [159]; [160]; [161]

182

Phụ lục 8

Cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước

được đào tạo, bồi dưỡng đến năm 2015

22339

495 820 1017 1485

0

5000

10000

15000

20000

25000

Số

ợn

g t

ính

: N

ời

Đại học, sau

đại học

Quản lý Nhà

nước

Ngoại ngữ Tin học Bồi dưỡng

nghiệp vụ

Nguồn: [207]

Phụ lục 9

Chỉ tiêu và kết quả cán bộ, công chức, viên chức

đào tạo, bồi dưỡng đến 2005

Kết quả

năm 2005

TT Nội dung đào tạo, bồi dưỡng

Số lượng

CB,CC,VC

đào tạo, bồi

dưỡng theo

chỉ tiêu

Số

lượng Tỷ lệ %

Ghi

chú

1 Đào tạo ngạch chuyên viên, chuyên

viên chính, chuyên viên cao cấp 357 84 23.52

2 Đào tạo đại học, sau đại học 275 236 85.81

3 Bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà

nước 3.852 3.013 78.21

4 Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ

theo Nghị định 116/2003/NĐ-CP 3.213 2.175 67.69

Nguồn: [159]; [160]; [161]

183

Phụ lục 10

Nguồn nhân lực lao động chuyên môn kỹ thuật

được đào tạo, bồi dưỡng từ 2001 đến năm 2005

2210

4603

12174

6368

0

2000

4000

6000

8000

10000

12000

14000

Số

ợn

g t

ính

: N

ời

Đào tạo đại học, sau đại học

Đào tạo cao đẳng

Đào tạo trung cấp chuyên nghiệp

Bồi dưỡng chứng chỉ chuyên môn nghiệp vụ

Nguồn: [148]

184

Phụ lục 10

Nguồn nhân lực lao động chuyên môn kỹ thuật

được đào tạo, bồi dưỡng từ 2005 đến năm 2015

7224

1806

10784

56724

0

10000

20000

30000

40000

50000

60000

Số

ợng t

ính

: N

ời

Đào tạo đại học, sau đại học

Đào tạo cao đẳng

Đào tạo trung cấp chuyên nghiệp

Bồi dưỡng chứng chỉ chuyên môn nghiệp vụ khác

Nguồn: [148]

185

Phụ lục 11

Chính sách thu hút nhân tài của một số tỉnh trong khu vực

đồng bằng sông Cửu Long

Đơn vị tính: Triệu đồng

Chính sách thu hút nhân tài

TT Tỉnh Tiến sỹ Thạc sỹ

Chuyên

khoa II

Chuyên

khoa I Đại học

1 Trà Vinh 35 20 20 15

2 Cà Mau 100 50 50 40

3 Kiên Giang 80 30 20 5

4 Tiền Giang 80 60 70 50 10 - 20

5 An Giang 60 40 50 40

6 Bình Phước 40 20 25 15 5

7 Vĩnh Long 35 20 25 14

Nguồn: [82]