Upload
others
View
9
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRƯƠNG THỊ HỒNG NGA
ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2015
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HÀ NỘI - 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRƯƠNG THỊ HỒNG NGA
ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2015
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Mã số: 62 22 03 15
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. TRẦN THỊ THU HƯƠNG
2. TS. PHẠM VĂN BÚA
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận án
Trương Thị Hồng Nga
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 8
1.1. Các công trình khoa học liên quan đến đề tài luận án 8
1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình liên quan đến đề
tài luận án và những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu 24
Chương 2: ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG VẬN DỤNG CHỦ
TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TỪ
NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2005 29
2.1. Các yếu tố tác động đến quá trình phát triển nguồn nhân lực của
tỉnh Vĩnh Long 29
2.2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long về phát triển
nguồn nhân lực từ năm 2000 đến năm 2005 46
Chương 3: ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2015 78
3.1. Yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và chủ trương của Đảng về
đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực trong tình hình mới 78
3.2. Chủ trương và chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long đẩy mạnh
phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu mới 86
Chương 4: NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM 112
4.1. Nhận xét về quá trình lãnh đạo phát triển nguồn nhân lực của
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long (2000 - 2015) 112
4.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu 130
KẾT LUẬN 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 175
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
CB,CC,VC Cán bộ, công chức, viên chức
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
GD-ĐT Giáo dục và Đào tạo
HĐND Hội đồng Nhân dân
KH-CN Khoa học - công nghệ
KT-XH Kinh tế xã hội
NNL Nguồn nhân lực
UBND Ủy ban Nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguồn nhân lực là nguồn tài nguyên quý giá nhất so với tất các các nguồn
tài nguyên khác, là nhân tố cơ bản quyết định sự phát triển của lực lượng sản
xuất trong mọi thời đại.
Vai trò của nguồn nhân lực (NNL) càng đặc biệt quan trọng khi bước
vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) trong tình
trạng nền kinh tế phát triển chưa bền vững, tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào
tăng đầu tư và khai thác nguồn tài nguyên, năng suất lao động xã hội còn thấp,
chất lượng NNL chưa cao và còn nhiều hạn chế so với các nước trong khu vực.
Do đó, để tiếp cận xu thế toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ
(KH-CN) phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành kinh tế tri thức,
từng bước đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX (2001) của Đảng chỉ rõ:
Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết
định sự phát triển đát nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo. Bồi
dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn
dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp
luật, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo
hèn. Đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng
nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý
thức vươn lên về khoa học và công nghệ. Xây dựng đội ngũ công nhân
lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà kinh
doanh, nhà quản lý.... phát huy mọi tiềm năng của các tập thể và cá
nhân phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước [30, tr.202-203].
Để thực hiện mục tiêu đó, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
(2001 - 2010) Đảng đã đề ra khâu đột phá then chốt để làm chuyển động toàn
bộ tình hình kinh tế - xã hội (KT-XH) là: “Tạo bước chuyển mạnh về phát triển
nguồn nhân lực, trọng tâm là giáo dục và đạo tạo, khoa học và công nghệ” [30,
tr.206] nhằm phát triển nhanh NNL.
2
Kế thừa và phát triển quan điểm phát triển NNL các đại hội trước và thực
tiễn sau 25 đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011) của Đảng xác
định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và
toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với
phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ” [37, tr.78] được khẳng định là khâu
đột phá thứ hai trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế phát triển về quy mô, mức độ
và hình thức đan xen phức tạp, đặc biệt là quá trình quốc tế hóa sản xuất và phân
công lao động diễn ra ngày càng sâu rộng.
Là tỉnh đồng bằng nằm giữa hai nhánh sông Cửu Long (sông Tiền và
sông Hậu), nhìn bao quát tỉnh Vĩnh Long như hình con thoi nằm ở vị trí trung
tâm của đồng bằng hạ lưu sông Mê Kông, địa hình chia cắt bởi sông rạch chằng
chịt, là tỉnh đầu mối giao thông nối liền giữa hai trung tâm kinh tế lớn của vùng
Nam Bộ là thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ. Là tỉnh có lịch sử
hình thành sớm nhất của khu vực, với đặc điểm của vùng đất “địa linh nhân
kiệt” đã sinh ra những nhân tài, những người hiền tài có công với nhân dân với
Tổ quốc, nhưng là tỉnh có gánh nặng về tỷ lệ dân số đứng hàng thứ hai so với
các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (sau tỉnh Tiền Giang). Theo thống kê toàn
tỉnh Vĩnh Long có 1.045.037 người với mật độ dân số 685 người/km2 [20].
Trong đó, dân cư sinh sống ở thành thị chiếm tỷ lệ 16,87% và dân cư sinh sống
ở nông thôn chiếm 83,13%, nhân dân chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa nước,
hoa màu, đánh bắt thủy sản và nguồn lực lao động trở thành thế mạnh của tỉnh
để phát triển KT-XH [20].
Quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng bước vào thời kỳ đổi
mới và hội nhập quốc tế, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long chú trọng đến sự nghiệp phát
triển KT-XH ở địa phương, trong đó tỉnh đã tập trung vốn cho xây dựng cơ sở
vật chất, đào tạo NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long
chú trọng phát triển NNL, trong đó tập trung vào lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng
để hình thành đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức, viên chức, đội ngũ
3
trí thức và lực lượng lao động có tay nghề cao trên các lĩnh vực đời sống xã hội
nhằm thực hiện mục tiêu phát triển KT-XH ở địa phương. Phấn đấu đưa Vĩnh
Long trở thành một tỉnh phát triển trung bình khá trong khu vực vào năm 2015
như Nghị quyết Đại hội IX Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long (2010 - 2015) đã nêu.
Tuy nhiên, sau gần 30 năm đổi mới, NNL của tỉnh Vĩnh Long vẫn chưa
đáp ứng với yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, NNL địa
phương vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội bền vững, NNL
vẫn còn nhiều bất cập, thiếu về số lượng, yếu về chất lượng đặc biệt là tình
trạng thiếu NNL có trình độ chuyên môn cao thuộc các nhóm ngành khoa học
- kỹ thuật, thiếu các chuyên gia đầu ngành trên các lĩnh vực trọng yếu trong
các cơ quan nhà nước, cơ cấu nguồn lực cán bộ, công chức, viên chức là lãnh
đạo, quản lý chưa phù hợp, chưa linh hoạt trong công tác đào tạo, bồi dưỡng
quy hoạch cán bộ; thiếu lực lượng lao động công nhân lành nghề phục vụ trực
tiếp trong các ngành then chốt thuộc lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp; vấn đề
giải quyết việc làm, chuyển đổi ngành nghề lao động chuyên môn kỹ thuật khu
vực nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế, mất cân đối và chưa quan tâm đúng
mức; dự báo khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hiện tại còn rất nhiều khó
khăn do tình trạng bất cập nêu trên.
Bởi vậy, đi sâu nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long về
phát triển NNL trong những năm đầu thế kỉ XXI là nhằm làm sáng tỏ tính
đúng đắn, sáng tạo và những thành công của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long trong
việc vận dụng chủ trương của Đảng về phát triển NNL, qua đó chỉ rõ những
hạn chế, khiếm khuyết để góp phần tổng kết thực tiễn, đúc kết kinh nghiệm
thực tiễn có giá trị về công tác này trong những năm tiếp theo là một việc
làm cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề nghiên cứu “Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Long lãnh đạo phát triển nguồn nhân lực từ năm 2000 đến năm 2015” làm
đề tài Luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
4
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Làm sáng tỏ quá trình lãnh đạo phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Long từ năm 2000 đến năm 2015, từ đó đúc kết những kinh nghiệm có thể vận
dụng vào thực tiễn phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh trong thời gian tới có hiệu
quả hơn.
2.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những yếu tố tác động đến quá trình phát triển NNL của tỉnh
Vĩnh Long trong 15 năm từ năm 2000 đến năm 2015.
- Hệ thống, khái quát hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
về phát triển NNL và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long về phát triển NNL
từ năm 2000 đến năm 2015.
- Làm rõ quá trình chỉ đạo thực hiện phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Long từ năm 2000 đến năm 2015.
- Đánh giá khách quan những thành tựu đạt được và hạn chế, khiếm
khuyết, nguyên nhân thành công và hạn chế của quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Long lãnh đạo phát triển NNL từ năm 2000 đến năm 2015.
- Đúc kết những kinh nghiệm từ thực tiễn hoạch định chủ trương và tổ
chức chỉ đạo phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long qua ba nhiệm kỳ đại
hội Đảng bộ tỉnh từ năm 2001 đến năm 2015.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Quá trình hoạch định chủ trương và chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long
về phát triển NNL.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung:
Nguồn nhân lực là khái niệm rộng bao gồm toàn bộ dân cư có khả
năng lao động, có trình độ chuyên môn được phân bố vào ngành nghề, lĩnh
vực, khu vực... Phát triển NNL là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính
5
sách và biện pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đặc biệt về năng
lực, trình độ, khả năng làm việc nhằm đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực cho
sự phát triển KT-XH trong từng giai đoạn phát triển. Trong đó, chất lượng
NNL được đánh giá bằng các chỉ tiêu: một là, trình độ học vấn của nguồn
nhân lực; hai là, trình độ chuyên môn - kỹ thuật của NNL. Như vậy, một
trong những trọng tâm để phát triển NNL là thông qua giáo dục và đào tạo để
tạo ra một lực lượng lao động có khả năng đáp ứng nhu cầu của một quốc gia,
một vùng, một ngành hay một tổ chức nào đó. Do vậy, trong phạm vi nghiên
cứu luận án tập trung đi sâu nội dung về chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng
bộ tỉnh Vĩnh Long về phát triển giáo dục, đào tạo thông qua cơ cấu về số
lượng và chất lượng nguồn lực thuộc các ngành nghề, lĩnh vực… cho các đối
tượng ưu tiên để phát triển và thông qua chương trình dự án, đề án, kế hoạch,
cơ chế chính sách…
Nhóm đối tượng luận án tập trung khảo sát: một là, NNL cán bộ, công
chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống chính trị; hai là,
NNL lao động chuyên môn kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
- Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo trong 15 năm,
qua 03 nhiệm kỳ Đại hội của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long từ khóa VII năm 2001 đến
kết thúc nhiệm kỳ Đại hội của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long khóa IX năm 2015. Luận
án lấy mốc nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ lần thứ VIII (2005) chia thành hai giai
đoạn: Giai đoạn từ năm 2000 đến 2005 và giai đoạn từ năm 2005 đến 2015.
- Không gian: Công tác phát triển NNL trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long.
4. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai
trò NNL, phát triển NNL trong phát triển KT-XH, đặc biệt là quan điểm
của Đảng về phát triển NNL gắn với công tác đào tạo NNL trong công cuộc
đổi mới.
6
4.2. Nguồn tư liệu
- Dựa vào hệ thống các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
của Nhà nước; các văn kiện của tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân (UBND), Hội đồng
nhân dân (HĐND), các sở, ban, ngành tỉnh Vĩnh Long đề cập đến phát triển
NNL nói chung và lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng phát triển NNL trong thời kỳ đổi
mới. Đặc biệt luận án tập trung nghiên cứu giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2015
qua các văn kiện của ba kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long, các Chương trình
hành động của tỉnh ủy, UBND, HĐND tỉnh như: Chương trình hành động của
tỉnh ủy Vĩnh Long số: 09-CTr/TU ngày 08/11/2011 về phát triển và nâng cao
chất lượng NNL giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020; Quyết định
số: 1375/QĐ-UBND, ngày 28/8/2012 của Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long về
việc ban hành Kế hoạch phát triển và nâng cao chất lượng NNL giai đoạn 2012-
2015 và định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số: 80/NQ-HĐND ngày
5/12/2013 của HĐND tỉnh Vĩnh Long về tiếp tục đào tạo cán bộ có trình độ thạc
sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài của tỉnh Vĩnh Long đến năm 2020...
- Các công trình khoa học của tập thể, cá nhân liên quan đến vai trò NNL,
phát triển NNL và lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng phát triển NNL nói chung và
Vĩnh Long nói riêng.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận án chủ yếu sử
dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic là chủ yếu và tích hợp hai
phương pháp đó để làm rõ nội hàm khái niệm “phát triển nguồn nhân lực” trên
phạm vi nghiên cứu của tổng thể lực lượng lao động theo trình độ đào tạo cho
các ngành nghề, lĩnh vực có trình độ chuyên môn từ trung cấp nghề đến sau đại
học thuộc các đối tượng là NNL cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan
nhà nước và NNL lao động chuyên môn kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn ở tỉnh Vĩnh Long. Ngoài ra, tác giả đã vận dụng một số phương khác
như: phương pháp thống kê, khảo sát, phân tích, tổng hợp...nhằm làm nổi bật
thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long từ năm
2000 đến năm 2015.
7
5. Đóng góp của luận án
- Góp phần tái hiện một cách có hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Long lãnh đạo phát triển NNL từ năm 2000 đến năm 2015.
- Bước đầu nêu lên những nhận xét trong lãnh đạo phát triển NNL và rút
ra các kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh đạo phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Long từ năm 2000 đến năm 2015.
- Kết quả nghiên cứu là góp thêm tài liệu tham khảo cho đảng bộ các tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long nói chung và Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long nói riêng tiếp
tục bổ sung chủ trương, chính sách phát triển NNL trong thời gian tới có hiệu
quả hơn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Giải quyết những mục tiêu cơ bản nhất về tính cấp thiết phải xây dựng và
phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Vĩnh Long; đúc kết những kinh nghiệm có ý
nghĩa về lý luận và thực tiễn trong chính sách phát triển nguồn nhân lực cả nước
nói chung.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua quá trình thực tiễn về nguồn nhân lực tỉnh Vĩnh Long sẽ là kinh
nghiệm tham khảo không chỉ ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, mà còn có ý
nghĩa rất lớn đối với một tỉnh mới tái lập như Vĩnh Long cần được tổng kết và
bổ sung.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục công trình khoa học của tác giả
đã công bố liên quan đến luận án, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận
án được kết cấu thành 4 chương, 8 tiết.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Vấn đề NNL, phát triển NNL nói chung và lĩnh vực đào tạo NNL nói riêng
là vấn đề vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn xuất phát từ yêu cầu phát
triển của đất nước trong công cuộc đổi mới, vì vậy có nhiều công trình của tập thể
và cá nhân đề cập, khai thác từ nhiều góc độ khác nhau. Qua quá trình khảo cứu
các công trình khoa học liên quan đến đề tài luận án, có thể chia các nhóm công
trình liên quan đến NNL, phát triển NNL nói chung, công tác đào tạo NNL và vấn
đề phát triển NNL ở tỉnh Vĩnh Long như sau:
1.1.1. Các công trình khoa học nghiên cứu về nguồn nhân lực, phát
triển nguồn nhân lực nói chung
* Sách đã xuất bản
Cuốn sách "Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn
nước ta" của Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm [133]. Các tác giả đã giới thiệu khái quát
về vai trò NNL trong thời kỳ đổi mới và kinh nghiệm phát triển NNL ở khía cạnh
phát triển giáo dục của một số nước trên thế giới; đồng thời nêu lên chính sách
phát triển NNL dưới góc độ phát triển giáo dục Việt Nam.
Cuốn sách “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của Mai Quốc Chánh [14]. Tác giả đã làm
rõ vai trò của NNL, sự cần thiết phải nâng cao chất lượng NNL và thực trạng
chất lượng NNL đối với sự nghiệp CNH, HĐH. Đồng thời tác giả cũng đã trình
bày những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng NNL trong đó đặc biệt nhấn
mạnh đến yêu cầu xây dựng NNL là đội ngũ trí thức - một vấn đề cấp bách cho
công cuộc CNH, HĐH đất nước;
Cuốn sách Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo kinh
nghiệm Đông Á của Lê Thị Ái Lâm [59]. Tác giả tập trung khai thác kinh nghiệm
9
phát triển NNL của một số nước Đông Á và khẳng định vai trò của giáo dục và
đào tạo luôn là nhân tố quyết định cho sự phát triển NNL của một số quốc gia tiêu
biểu như: Trung Quốc thông qua vai trò của nền giáo dục đã đem lại những thành
tựu rực rỡ của những chính sách cải cách và mở cửa với thế giới bên ngoài, là cơ
sở để Trung quốc tập trung phát triển NNL đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế và hiện đại hóa đất nước; Nhật Bản chú trọng giáo dục và đào tạo để tập trung
phát triển NNL có tính năng động, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, khả năng
tư duy và làm việc độc lập, khả năng giao tiếp để đáp ứng những đòi hỏi của thế
giới và xu thế cạnh tranh, hợp tác toàn cầu mà Nhật Bản đóng vai trò then chốt
trong việc chinh phục đỉnh cao của khoa học công nghệ; Bí quyết của Hàn Quốc
là dựa vào giáo dục để phát triển NNL, giáo dục là điều kiện để đưa Hàn Quốc từ
một quốc gia không giàu về tài nguyên thiên nhiên trở thành quốc gia có sức ảnh
hưởng trong khu vực, là nhân tố để nâng cao chất lượng NNL và chính sách về
giáo dục luôn được xây dựng phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế Hàn Quốc.
Cuốn sách “Nhân lực Việt Nam trong chiến lược kinh tế 2001 - 2010” của
Nguyễn Văn Đễ, Bùi Xuân Trường và Nguyễn Kim Liệu [38]. Đây là công trình
tập hợp các bài viết về vai trò của NNL Việt Nam trong chiến lược phát triển
kinh tế 2001 - 2010. Cuốn sách xoay quanh nội dung phát triển NNL do Đại hội
IX (2001) của Đảng đề ra về nguồn lực con người yếu tố cơ bản để phát triển xã
hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. NNL là nhân tố quyết định sự phát
triển đất nước thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
Cuốn sách “Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận
thực tiễn” của Viện Khoa học giáo dục Việt Nam [216]. Là cuốn sách chuyên
khảo đã làm rõ những vấn đề về chính sách, giải pháp và định hướng phát triển
NNL ở Việt Nam. Đồng thời, cuốn sách còn trình bày những đặc điểm về công tác
quản lý NNL trong một số ngành, vùng đặc thù tiêu biểu trong cả nước.
Cuốn sách Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước của Đoàn Văn Khái [53]. Tác giả lý giải khá sâu sắc về vai trò của
nguồn lực con người là nhân tố quyết định trong quá trình tiến hành sự nghiệp
10
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế của đất nước. Từ đó đánh giá thực trạng khách
quan nguồn lực con người của Việt Nam, đưa ra những định hướng và giải pháp
để xây dựng nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của đất nước trong bối cảnh
tình hình mới.
Cuốn sách “Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng” của
Trần Văn Tùng [135]. Tác giả chủ yếu bàn về thực trạng chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng NNL tài năng của đất nước, những bất cập quá trình sử dụng NNL tài năng.
Tác giả đề cập giải pháp thiết thực, nhằm đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng NNL tài
năng của đất nước có hiệu quả.
Cuốn sách “Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” của Vũ Bá Thể [83]. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm phát triển NNL
một số nước trên thế giới và thực trạng NNL ở Việt Nam, tác giả đưa ra quan
điểm về phát triển NNL, vai trò của NNL đối với tăng trưởng kinh tế và sự nghiệp
CNH, HĐH, đồng thời đưa ra định hướng và giải pháp nhằm phát huy nguồn lực
con người ở nước ta hiện nay.
Cuốn sách “Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước” của Nguyễn Thanh [81]. Tác giả luận giải phát triển NNL là yếu tố
quyết định thành công sự nghiệp CNH, HĐH, đồng thời nêu lên thực trạng về phát
triển NNL có chất lượng, từ đó đưa ra một số định hướng chủ yếu để phát triển
NNL cho CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
Cuốn sách Phát triển văn hóa con người và nguồn nhân lực thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Phạm Minh Hạc [45]. Tác giả tập trung
nghiên cứu chủ yếu về con người trong bối cảnh sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước; những vấn đề tác động đến sự phát triển toàn diện của con người và NNL
như: sức khỏe, trí tuệ, y tế, giáo dục và đào tạo,... Từ đó đề ra giải pháp chiến
lược nhằm phát triển toàn diện con người nói chung và NNL nói riêng trong
công cuộc CNH, HĐH.
Cuốn sách Đào tạo và sử dụng nhân lực trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam của Phan Văn Kha [52]. Cuốn sách đã luận giải về vai trò quan trọng của
11
việc đào tạo và sử dụng nhân lực trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN) ở Việt Nam; xác định rõ cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa đào tạo với sử
dụng nhân lực trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế;
Đồng thời, cuốn sách đã khái quát thực trạng giữa đào tạo với sử dụng nhân lực của
Việt Nam và một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả hơn giữa công tác đào tạo
và công tác sử dụng nhân lực ở các cấp, các hệ đào tạo ở Việt Nam.
Cuốn sách Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI của
Trần Khánh Đức [41]. Tác giả trình bày một số vấn đề lý luận và thực tiễn của
giáo dục, quản lý giáo dục và vai trò của giáo dục đối với phát triển NNL; những
vấn đề triết lý xã hội khi bàn đến nền giáo dục hiện đại; lý thuyết về hệ thống giáo
dục hiện đại gắn với nhà trường và những kịch bản nhà trường tương lai (như mô
hình sư phạm kỹ thuật và công nghệ dạy học, chương trình giáo dục hiện đại, đo
lường và đánh giá kết quả học tập,...) nhằm tạo điều kiện để nền giáo dục làm tốt
chức năng đào tạo, bồi dưỡng NNL cho đất nước trong thế kỷ XXI.
Cuốn sách Nguồn lực trí tuệ Việt Nam - lịch sử, hiện trạng và triển vọng
của Nguyễn Văn Khánh [54]. Tác giả tập trung trình bày bức tranh tổng thể về
tình hình, thực trạng và triển vọng nguồn lực trí tuệ Việt Nam được đóng góp
bằng thành tựu của tri thức trong suốt chiều dài lịch sử; phân tích quá trình xây
dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ, những yếu tố thúc đẩy, cản trở việc phát huy
nguồn lực; từ đó tác giả đề xuất những giải pháp và khuyến nghị về mặt chính
sách đối với Đảng và Nhà nước nhằm phát triển nguồn lực trí tuệ con người Việt
Nam phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước thế kỷ XXI.
Cuốn sách Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, nhân tài - Một số
kinh nghiệm của thế giới của Tạ Ngọc Tấn [79]. Tác giả đã tập trung trình bày vấn
đề NNL và nhân tài thông qua vai trò của phát triển giáo dục và đào tạo (GD-ĐT) ở
một số nước tiêu biểu trên thế giới. Từ kinh nghiệm của thế giới, tác giả đã khẳng
định phát triển giáo dục và đào tạo là vấn đề ưu tiên hàng đầu trong cơ chế hoạch
định chính sách phát triển NNL, nhân tài ở Việt Nam. Đồng thời từ những kinh
nghiệm, bài học thành công, thất bại của thế giới, tác giả đã tập trung phân tích về
12
giáo dục và đào tạo NNL, nhân tài ở Việt Nam và vận dụng kinh nghiệm thế giới để
thực hiện thành công sự nghiệp GD-ĐT trong những giai đoạn tiếp theo.
* Các luận án tiến sĩ
Luận án: Vai trò nhà nước trong việc tạo tiền đề nguồn nhân lực cho công
nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta của Hà Quý Tình [90], đã nhấn mạnh đến vai
trò của Nhà nước trong dự báo, quy hoạch nguồn nhân lực; đặc biệt tác giả nhấn
mạnh đến vai trò của nhà nước trong vấn đề mở rộng quy mô, chương trình, hình
thức đào tạo để phát triển NNL cho đất nước.
Luận án: Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta - đặc điểm và xu hướng phát triển của Nguyễn Ngọc Sơn
[77]. Tác giả đã làm rõ thực trạng của việc sử dụng, phát triển NNL ở nông thôn
nước ta từ năm 1986 đến 2000. Nêu lên đặc điểm và xu hướng phát triển NNL ở
nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đề xuất những giải pháp
chủ yếu có tính khả thi nhằm phát huy hiệu quả NNL nông thôn trong quá trình
CNH, HĐH đất nước.
Luận án: Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của giáo dục - đào tạo đối với
phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước
ta hiện nay của Nguyễn Thanh [80] đã khẳng định phát triển NNL là yếu tố quyết
định sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nướ, đồng thời để phát triển NNL
có chất lượng thì phải xác định giáo dục và đào tạo làm “quốc sách hàng đầu”, là điều
kiện tiên quyết để nâng cao chất lượng NNL. Trên cơ sở đó, luận án đã phân tích thực
trạng và đề ra một số định hướng chủ yếu của việc phát triển NNL ở nước ta.
Luận án: Những giải pháp phát triển đào tạo nghề góp phần đáp ứng nhu
cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Phan Chính Thức
[89] đã nêu rõ vai trò của đào tạo nghề đối với phát triển NNL và qua khảo sát
thực tế ở các cơ sở dạy nghề trong cả nước, tác giả cũng chỉ rõ những hạn chế về
vấn đề dạy nghề cho lực lượng lao động; đề xuất những giải pháp phát triển đào
tạo nghề góp phần đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH.
13
Luận án: Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông thôn Việt Nam của Trần Thanh Bình [12] đã đi sâu vào cơ sở
lý luận và thực tiễn về đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quá trình CNH, HĐH
nông thôn. Nêu thực trạng đào tạo NNL cho nông nghiệp và nông thôn và các
giải pháp hoàn thiện công tác đào tạo này.
Luận án: Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực khoa học
công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa của Phạm Văn Quý
[64] đã đánh giá thực trạng NNL KH-CN ở Việt Nam hiện nay; đề xuất phương
hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển NNL KH-CN đáp ứng yêu cầu của
thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Trong đó, tác giả nhấn mạnh đến giải pháp giáo
dục, đào tạo.
Luận án: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri thức ở
Việt Nam của Lê Thị Ngân [63] đã trình bày những vấn đề lý luận về NNL, chất
lượng NNL, nâng cao chất lượng NNL tiếp cận kinh tế tri thức; những tác động
tới NNL của quốc gia và kinh nghiệm thực tiễn của một số nước, khẳng định
chất lượng NNL là động lực cho quá trình CNH, HĐH của Việt Nam. Trên cơ sở
đó, tác giả phân tích, đánh giá thực trạng của NNL hiện nay, đề xuất giải pháp và
phương hướng nhằm khắc phục những hạn chế về chất lượng của NNL, tạo điều
kiện để tiếp cận nền kinh tế tri thức ở Việt Nam trong thời gian tới.
Luận án: Phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn của Đào Quang Vinh [218] trình bày kết quả nghiên cứu
một số vấn đề lý luận và thực tiễn về NNL cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn; đồng thời nêu thực trạng phát triển NNL cho nông nghiệp, nông thôn Việt
Nam và những phương hướng, giải pháp chủ yếu để phát triển NNL cho CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Luận án: Nghiên cứu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt Nam
của Bùi Tôn Hiến [47], tập trung khái quát lý luận về việc làm của lao động qua
đào tạo nghề; làm rõ thực trạng cơ hội việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở
Việt Nam khi bước vào công cuộc đổi mới, từ đó luận giải về mối quan hệ biện
14
chứng giữa việc làm với đào tạo nghề và đề xuất những giải pháp cho việc đào tạo
nghề và giải quyết việc làm trước yêu cầu của đất nước khi đẩy mạnh sự nghiệp
CNH, HĐH...
* Chương trình nghiên cứu và kỷ yếu hội thảo khoa học
Chương trình KH-CN cấp Nhà nước: Đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hoá và
hội nhập quốc tế của Nguyễn Minh Đường, Phan Văn Kha [42]: Đề tài đã tập
trung làm rõ cơ sở lý luận về đào tạo nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trường,
toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Đặc biệt công trình nhấn mạnh đặc điểm thực
trạng lực lượng lao động và đào tạo nhân lực để có cái nhìn đúng đắn trong
chiến lược đào nhân lực ở Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH.
Kỷ yếu Hội thảo Đào tạo nghề giữ vai trò trọng tâm trong chính sách phát
triển của Học viện Chính sách và Phát triển [49], các chuyên luận tập trung phân
tích những nhân tố tác động đến công tác đào tạo nghề ở Việt Nam, chỉ rõ trước
yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, đào tạo nghề có vai trò
trọng tâm trong chính sách phát triển KT-XH và bảo đảm an ninh, quốc phòng.
Đồng thời, đưa ra các giải pháp chủ yếu đề thực hiện công tác đào tạo nghề đáp
ứng với nhu cầu nâng cao chất lượng NNL của đất nước.
* Các công trình tiêu biểu đã được đăng tải trên các tạp chí
Có thể kể đến các công trình như: Cơ hội và thách thức đối với việc đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế của
Trương Thu Hà [44]; Thành tựu bước đầu và những vấn đề cấp thiết đặt ra
trong đào tạo nhân lực ở nước ta của Phạm Tất Dong [21]; Giáo dục - đào tạo
với sự phát triển nguồn nhân lực” của Trần Thanh Đức [40]; Về công tác đào
tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ đổi mới của Nguyễn Thắng Lợi [61]; Đào tạo
và sử dụng đội ngũ trí thức tinh hoa Việt Nam 30 năm đổi mới - Thành tựu và
những vấn đề đặt ra của Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Cẩm Ngọc [55];...
Hầu hết các bài viết của các tác giả đều đề cập đến vai trò của NNL, của
công tác đào tạo NNL và làm rõ những cơ sở khoa học để chỉ ra thực trạng đào
15
tạo NNL nhằm xây dựng những giải pháp về mối quan hệ giữa GD-ĐT với phát
triển NNL một khi nó đã trở thành vấn đề quyết sách liên quan đến phát triển
NNL ở Việt Nam trong thế kỷ XXI. Đồng thời, cung cấp khá đầy đủ các quan
điểm nhận định về tình hình, thực trạng và giải pháp chủ yếu trong đào tạo NNL
phục vụ cho CNH, HĐH từ việc lập kế hoạch, dự báo, tạo nguồn đến cải cách
giáo dục trong lĩnh vực dạy nghề và đào tạo NNL. Vì vậy, các công trình đều
khẳng định đào tạo NNL đáp ứng thời kỳ mới của đất nước là công việc chung
của toàn xã hội.
1.1.2. Các công trình khoa học nghiên cứu về nguồn nhân lực, phát
triển nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực trên các lĩnh vực và vùng
miền, địa phương
* Sách đã xuất bản
Cuốn sách “Kinh nghiệm của một số nước về phát triển giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ gắn với xây dựng đội ngũ trí thức” của Viện Khoa
học giáo dục Việt Nam, xuất bản năm 2008 [217]. Đây là cuốn sách chuyên
khảo khẳng định vai trò của phát triển GD-ĐT, KH-CN luôn gắn liền với xây
dựng đội ngũ trí thức, là quá trình được thực tiễn kiểm nghiệm và chứng
minh, là cơ sở để mỗi quốc gia trên thế giới đúc rút kinh nghiệm để vận dụng
tốt hơn trong phát triển NNL đặc biệt là đội ngũ trí thức. Cuốn sách nêu lên
kinh nghiệm của các nước tiêu biểu như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Cộng hòa Liên
bang Đức là những nước phát triển hiện đại, có trình độ khoa học kỹ thuật cao
và có quá trình CNH, HĐH lâu dài; Hàn Quốc và Singapo là những nước
công nghiệp mới, đã vươn lên mạnh mẽ trở thành những nước phát triển mới;
Trung Quốc là nước có nhiều đặc điểm tương đồng với Việt Nam đang có tốc
độ tăng trưởng nhanh và sẽ trở thành một trong ba nền kinh tế lớn nhất thế
giới. Vì vậy, đây là một cuốn sách có giá trị tham khảo cho các nhà nghiên
cứu và hoạch định chính sách ở Việt Nam về phát triển NNL thông qua vai trò
GD-ĐT, KH-CN với xây dựng đội ngũ trí thức của từng nước.
16
Cuốn sách Phát triển nguồn nhân lực công nghiệp Việt Nam trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và vai trò của công đoàn của Lê
Thanh Hà [43]. Tác giả đã đề xuất các giải pháp phát triển NNL công nghiệp
Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của công đoàn trong
việc phát triển NNL trong bối cảnh tình hình mới.
Cuốn sách Giáo dục nghề nghiệp cho học sinh phổ thông nhằm góp phần
phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh hội nhập quốc tế của Bùi Đức Tú [132].
Tác giả đã đi sâu phân tích vai trò giáo dục nghề nghiệp cho học sinh phổ thông là
một trong những bước đi căn bản, mang tính nền tảng, góp phần định hướng nghề
nghiệp quan trọng cho việc xây dựng NNL đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy
mạnh đổi mới toàn diện và hội nhập quốc tế. Từ đó, tác giả đã đưa ra một số giải
pháp cụ thể, như giáo dục nghề nghiệp cho học sinh phổ thông theo hướng gắn với
KT-XH, tổ chức hoạt động giáo dục nghề phổ thông gắn với đặc điểm cụ thể của
sự phát triển KT-XH vùng miền...
* Các luận án tiến sĩ
Luận án: Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta - đặc điểm và xu hướng phát triển của Nguyễn Ngọc Sơn [77],
đã phác họa thực trạng của việc sử dụng, phát triển NNL ở nông thôn nước ta
từ năm 1986 đến 2000; nêu lên đặc điểm và xu hướng phát triển NNL ở nước
ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; đề xuất những giải pháp chủ
yếu có tính khả thi nhằm phát huy hiệu quả NNL nông thôn trong CNH, HĐH
đất nước.
Luận án: Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng
bằng sông Cửu Long của Phạm Công Khâm [56], đã tập trung làm rõ vị trí vai trò
của cấp xã nói chung, cấp xã đồng bằng sông Cửu Long nói riêng từ đó tác giả đã
đề ra những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã trong
sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện
nay. Đồng thời nghiên cứu thực trạng KT-XH, đội ngũ cán bộ và công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long,
17
đề xuất kinh nghiệm và vấn đề đặt ra, từ đó đưa ra mục tiêu, quan điểm và những
giải pháp chủ yếu để làm tốt công tác trên.
Luận án: Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất với vấn đề đào tạo
người lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện
nay (từ thực tiễn đồng bằng sông Cửu Long) của Trần Thanh Đức [39], đã làm rõ
vấn đề con người và nhân tố con người trong lực lượng sản xuất hiện đại theo
quan điểm của triết học mác xít về con người, phát huy nhân tố con người trong
lực lượng sản xuất thông qua quá trình đào tạo người lao động đáp ứng yêu cầu
CNH, HĐH ở Việt Nam. Từ những cơ sở trên, tác giả đã chỉ rõ thực trạng và
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo người lao động, phát huy nhân
tố con người trong lực lượng sản xuất đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước từ
thực tiễn đồng bằng sông Cửu Long.
Luận án: Nâng cao dân trí ở đồng bằng sông Cửu Long, thực trạng và giải
pháp của tác giả Lương Văn Tám [78] đã phân tích khái niệm dân trí và nâng cao
dân trí, mối quan hệ biện chứng giữa dân trí và nâng cao dân trí với sự phát triển
kinh tế, xã hội, giữa nâng cao dân trí với quá trình CNH, HĐH. Đồng thời tác giả
đánh giá thực trạng dân trí và nguyên nhân dẫn đến thực trạng dân trí còn thấp như
hiện nay ở đồng bằng sông Cửu Long và đề ra giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
dân trí phục vụ CNH, HĐH.
Luận án: Phát triển nguồn lực lao động ở vùng đồng bằng sông Cửu Long
phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Phạm Thế Chi [15] đã nêu lên khái
niệm và vai trò của NNL và sự tất yếu của việc phát triển NNL ở đồng bằng sông
Cửu Long. Qua đó, đề ra phương hướng và giải pháp phát triển NNL ở đồng bằng
sông Cửu Long giai đoạn 2001-2010.
Luận án: Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông thôn Việt Nam của Trần Thanh Bình [12] đi sâu vào cơ sở lý
luận và thực tiễn về đào tạo NNL phục vụ quá trình CNH, HĐH nông thôn; nêu
thực trạng đào tạo NNL cho nông nghiệp và nông thôn và các giải pháp hoàn
thiện công tác đào tạo này.
18
Luận án: Đảng bộ tỉnh Lào Cai lãnh đạo đào tạo NNL từ năm 2001 đến
năm 2010 của Nguyễn Thị Thu Hằng [46] đã phân tích Lào Cai là một tỉnh
miền núi giàu về tài nguyên khoáng sản, có cấu tạo địa hình và cộng đồng dân cư
đa dạng, là nơi hội tụ của văn hóa truyền thống dân tộc như chợ phiên vùng cao,
chợ tình… nên đã thành trung tâm du lịch thắng cảnh và nghỉ mát của cả nước.
Trải qua những biến động, thăng trầm của lịch sử và những tác động của tự
nhiên Lào Cai không tránh khỏi những khó khăn của một tỉnh miền núi khi trình
độ văn hóa xã hội thấp nên về cơ bản Lào Cai vẫn là tỉnh nghèo. Do vậy, để khai
thác những tiềm năng của tỉnh đẩy mạnh phát triển KT-XH, Đảng bộ tỉnh Lào
Cai cần tập trung đẩy mạnh phát triển NNL, đặc biệt chú trọng đến đào tạo NNL
nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh. Đây là đề tài được khai thác khá thành
công về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trong công tác đào tạo NNL thuộc vùng
miền núi phía Bắc và cung cấp những bài học rất cần thiết cho các Đảng bộ có
điểm tương đồng, đặc thù như Lào Cai nghiên cứu và vận dụng.
Luận án: Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo đào tạo NNL cho nông nghiệp
từ năm 2001 đến năm 2010 của Phạm Thị Kim Lan [58] đã làm rõ một tỉnh Thái
Bình thuộc khu vực đồng bằng Bắc Bộ nổi tiếng là vùng đất đạt năng suất lúa 5
tấn/ha được ghi đậm dấu ấn trong lịch sử đấu tranh cách mạng. Để thực hiện
CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, vấn đề đào tạo NNL cho nông nghiệp luôn
là vấn đề cấp bách và cần thiết để tỉnh Thái Bình duy trì tốc độ tăng trưởng. Tác
giả đã làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ về đào tạo NNL trong 10
năm từ năm 2001 đến năm 2010, qua đó rút ra những nhận xét và kinh nghiệm
có giá trị và thực tiễn có thể làm tư liệu tham khảo cho các cấp, các ngành của
tỉnh Thái Bình nói riêng, cả nước nói chung.
Luận án: Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng NNL từ năm 2001
đến năm 2013 của Hà Vũ Tuyến [136] đã đi sâu nghiên cứu vào hai đối tượng
chính để phát triển NNL trên góc độ đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng NNL lãnh
đạo, quản lý, công chức, viên chức, người lao động ở các cơ quan hành chính sự
nghiệp trong khu vực Nhà nước và các khu vực khác; NNL chuyên môn kỹ thuật
19
trong khu vực công nghiệp, thành thị và khu vực nông nghiệp, nông thôn. Từ đó
gởi mở những giải pháp thiết thực có tính đính hướng cho công tác phát triển
NNL của tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng và giải pháp cho các tỉnh có điểm tương đồng
như Vĩnh Phúc tham khảo và nghiên cứu.
* Các chương trình nghiên cứu, kỷ yếu hội thảo khoa học
Chương trình KH-CN cấp Nhà nước: Gia đình, nhà trường, xã hội với
việc phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài của
Nguyễn Trọng Bảo [11]. Đề tài phân tích vai trò của gia đình, nhà trường, xã hội
với việc phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài
để đưa ra những giải pháp để phát triển nguồn lực con người nói chung. Đây là
đề tài rất thực tế đã đem luồng gió mới trong việc nghiên cứu, đánh giá góc nhìn
đời thường từ gia đình, nhà trường đến xã hội, đặc biệt là tuyển chọn, đào tạo,
bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài.
Kỷ yếu Hội thảo quốc tế lần thứ ba: Việt Nam hội nhập và phát triển, Tập
6: Giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực. Những nghiên cứu tổng hợp theo khu vực.
Quan hệ quốc tế của Việt Nam với các nước và khu vực do Đại học Quốc gia Hà
Nội tổ chức [22]. Một số chuyên luận trong kỷ yếu đề cập đến nhu cầu NNL của
đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế; về vai trò, hiệu quả của những chính
sách giáo dục, thực trạng giáo dục và đào tạo NNL của Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay; Từ đó đưa ra các định hướng, giải pháp về đổi mới cơ cấu hệ thống giáo
dục quốc dân đáp ứng nhu cầu nhân lực, chính sách quốc gia về giáo dục và phát
triển NNL...
Kỷ yếu hội thảo của Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Hội đồng quốc gia giáo dục Trung ương và Phát triển nhân lực. Có các chuyên
luận Những luận cứ khoa học của việc phát triển NNL công nghiệp cho vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam của Trương Thị Minh Sâm [9]; Phát triển nguồn nhân lực
phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Nguyễn Thanh [9]; Đa dạng
hóa cơ cấu để phát triển số lượng và chất lượng NNL của Nguyễn Thanh Tuấn
[9]; Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng NNL đáp ứng yêu cầu công
20
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam của Phạm Văn Sơn [9];... các bài viết đã tập
trung làm rõ nhiều vấn đề và mang tính toàn diện về đào tạo và phát triển NNL
như: Quan niệm về NNL, phát triển NNL và vai trò của phát triển NNL Việt Nam
trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Kinh nghiệm của một số quốc gia
về phát triển NNL; đánh giá thực trạng phát triển NNL của Việt Nam trong những
năm qua, nhất là trong hơn 25 năm đổi mới: thành tựu, hạn chế và nguyên nhân
của những thành tựu, hạn chế; những đóng góp của NNL trong những năm qua
đối với sự phát triển KT-XH của đất nước. Trên cơ sở quan điểm và các mục tiêu
phát triển NNL theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, những bài viết
trong Hội thảo đã đề xuất những giải pháp chủ yếu để phát triển NNL đáp ứng yêu
cầu CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Những giải pháp được đưa ra gồm: Giải
pháp về giáo dục, đào tạo; giải pháp phát triển và ứng dụng tiến bộ của khoa học,
công nghệ; giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu hút NNL chất lượng cao ở nước
ngoài và việc phát triển thị trường lao động góp phần cân bằng cung cầu NNL cả
về chất lượng và số lượng.
* Các bài đăng trên tạp chí
- Các tạp chí đề cập NNL, phát triển NNL nói chung như: Nguyễn Trọng
Chuẩn, Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Triết học,
số 2 năm 1994; Nguyễn Thị Hằng, Phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam đến
năm 2010, Tạp chí Cộng sản, số 7 năm 1999; Nguyễn Đình Hoà, Mối quan hệ
giữa phát triển nguồn nhân lực và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp
chí Triết học, số 1 năm 2004; Mạc Văn Tiến, Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hoá, Tạp chí Lao động xã hội, số 264 năm 2006; Nguyễn
Thanh Tuấn, Phát triển nguồn nhân lực và lĩnh vực xã hội theo tinh thần văn kiện
Đại hội X của Đảng, Tạp chí Lao động xã hội, số 284 năm 2006; Vũ Hùng,
Nguồn nhân lực lao động của Việt Nam - cơ hội và thách thức sau khi hình
thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Tạp chí Báo cáo viên, số 8 năm 2015.
- Về đào tạo NNL như: Trương Thu Hà, Cơ hội và thách thức đối với việc
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế,
21
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4/ 2005; Đặng Hữu, Đào tạo nhân lực cho
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá dựa trên tri thức ở nước ta hiện nay,
Tạp chí Cộng sản, số 4/2005; Phạm Tất Dong, Thành tựu bước đầu và những
vấn đề cấp thiết đặt ra trong đào tạo nhân lực ở nước ta, Tạp chí Cộng sản, số
9/2006; Nguyễn Thắng Lợi, Công tác đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ đổi
mới, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 12/2007; Phan Trần Phú Lộc, Quản lý liên kết
đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu nhân lực của các khu công nghiệp theo mô hình
quản lý mục tiêu (MBO), Tạp chí Quản lý giáo dục, số 2 năm 2015; Chu Văn
Nguyên, Nâng cao chất lượng đào tạo công nhân kỹ thuật trong các trường
chuyên nghiệp, Tạp chí Quản lý giáo dục, số 4 năm 2015; Đỗ Văn Trung, Xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước hiện nay theo Tư tưởng Hồ Chí Minh,
Tạp chí Phát triển nhân lực, số 3 năm 2015; Nguyễn Văn Sáu, Đội ngũ cán bộ
quản lý trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế, Tạp chí Kinh tế và Quản lý, số 5 năm 2015;
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến hệ thống cơ sở lý
luận cơ bản, quan trọng giúp tác giả luận giải về vai trò, tầm quan trọng của
NNL và phát triển NNL gắn với đào tạo NNL, qua đó nhằm hệ thống, khái quát
hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển NNL từ nhiều
góc độ khác nhau với đa dạng lĩnh vực trên các vùng, miền và địa phương khác
trong cả nước. Đây là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng, giúp tác giả tham
khảo và giải quyết những vấn đề có liên quan đến chủ trương phát triển NNL của
Đảng bộ Tỉnh Vĩnh Long.
1.1.3. Các công trình khoa học nghiên cứu về phát triển nguồn nhân
lực ở tỉnh Vĩnh Long
Từ khi tái lập tỉnh đến nay, tỉnh Vĩnh Long được sự quan tâm rất lớn của
Đảng và Nhà nước nhưng do đặc điểm vùng miền còn nhiều khó khăn nên chưa
có công trình khoa học nghiên cứu độc lập tình hình phát triển NNL ở địa phương
kể cả những bài viết đăng trên các tạp chí của Đảng và Nhà nước, đây là khó khăn
cho người nghiên cứu lĩnh vực này. Tuy vậy, với sự trăn trở của cá nhân đối với
22
trách nhiệm phát triển NNL ở địa phương, tác giả đã tìm hiểu, tìm tòi những
nguồn tư liệu quý báu để phục vụ quá trình nghiên cứu. Có thể kể đến các công
trình đã có đề cập ít nhiều đến đề tài như:
Cuốn sách “Lịch sử tỉnh Vĩnh Long (1732 - 2000)” của Ban Tuyên giáo
tỉnh ủy Vĩnh Long [7] đã đề cập khá toàn diện về điều kiện tự nhiên, đất đai,
thổ nhưỡng, khí hậu, con người, truyền thống lịch sử, truyền thống đấu tranh
cách mạng đến quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,.. Đồng thời, nêu
bật những thế mạnh, tiềm năng, những đặc trưng riêng biệt độc đáo của một
địa phương thuộc vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long. Đây là nguồn
tư liệu quý có giá trị khảo cứu, lưu giữ giá trị truyền thống và tinh hoa văn
hóa của tỉnh Vĩnh Long, cuốn sách như một “cẩm nang” cho cán bộ, công
chức, viên chức, các nhà doanh nghiệp và người con quê hương tỉnh Vĩnh
Long đang sinh sống, làm việc trên mọi miền đất nước, ở nước ngoài giúp
nắm bắt đầy đủ, toàn diện về vùng đất và con người Vĩnh Long trong suốt
chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển hiện nay. Cuốn sách đã trở thành người bạn đồng hành phục vụ cho mục
đích học tập, nghiên cứu, trao đổi thông tin về mặt giá trị lịch sử của một
vùng đất giàu truyền thống nơi đây.
Các cuốn sách: Vĩnh Long 20 năm phát triển kinh tế - xã hội (1975 -
1995) [92]; Vĩnh Long lịch sử và phát triển (tập 1 và 2) [98]; Kinh tế Vĩnh
Long trong sự nghiệp phát triển ở thập niên đầu thế kỷ XXI [97]; Vĩnh Long
30 năm xây dựng và phát triển [8]; 20 năm xây dựng và phát triển Tỉnh Vĩnh
Long (1992 - 2012) [122]; Đây là các công trình khoa học do tỉnh ủy, UBND
tỉnh, Ban Tuyên giáo tỉnh ủy chỉ đạo biên soạn nhằm tổng kết những thành
tựu quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển tỉnh Vĩnh Long trên tất
cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong tất cả các lĩnh vực
đó, hầu hết công trình đã đề cập và đánh giá cao vai trò NNL trong sự nghiệp
phát triển KT-XH của tỉnh, nhất là công tác phát triển NNL đối với phát triển
nông nghiệp, nông thôn theo đặc thù của một vùng trũng có hệ thống sông
23
ngòi dày đặc. Có thể nói đây là cơ sở quan trọng để tác giả giải quyết các vấn
đề mang tính đặc trưng rõ rệt của một tỉnh thuần nông trong vùng đồng bằng
sông Cửu Long.
Cuốn sách Lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long (1930 - 2010) của Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long [1] là một công trình khoa học công phu, ghi lại
những trang sử hào hùng, vẻ vang của lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long từ khi ra
đời năm 1930 đến giai đoạn thực hiện cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công,
hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược và bước vào thực hiện sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước.
Cuốn sách trở thành ấn phẩm đặc biệt, ghi nhận những ngày mới ra đời và
trong quá trình xây dựng quê hương của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Vĩnh Long
đã luôn nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, khắc phục mọi khó khăn,
gian khổ vượt qua những thời kỳ cam go của cách mạng, tin tưởng vào đường
lối lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh để cùng dân tộc đi đến thắng
lợi hoàn toàn. Đồng thời cuốn sách còn có ý nghĩa lớn lao nhằm khơi dậy niềm
tự hào của mọi tầng lớp nhân dân, đồng thời đúc rút ra những bài học kinh
nghiệm quý báu giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh vững bước
đi lên, cùng với cả nước hoàn thành sự nghiệp CNH, HĐH, trong đó phát triển
NNL là một trong những nhiệm vụ quan trọng được Đảng bộ ghi nhận trong
cuốn sách này.
Nhìn chung từ nhiều góc độ phạm vi nghiên cứu, thể loại sách khác
nhau, hầu hết các công trình trên đều đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
khoa học, nhà nghiên cứu, giới học giả đã khẳng định giá trị truyền thống văn
hóa, xã hội, địa lý và con người nơi đây. Là nguồn tư liệu tin cậy để luận án
tham khảo xây dựng nội dung về các yếu tố tác động đến NNL và công tác lãnh
đạo, chỉ đạo phát triển NNL của Tỉnh theo từng giai đoạn lịch sử mà tác giả đã
xác định trong phạm vi thời gian nghiên cứu. Ngoài ra, các công trình đã góp
phần làm rõ những quan điểm chủ yếu về phát triển KT-XH của tỉnh Vĩnh
Long trước yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH vì mục tiêu phát triển nhanh và
24
bền vững, nhất là những quan điểm tạo sức lan tỏa cho các tỉnh và khu vực
nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế gắn với mục tiêu nâng cao chất lượng trong
công tác phát triển NNL, đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho nhân dân trong những giai đoạn tiếp theo. Đây là những gợi mở
quý giá, là vấn đề để nghiên cứu sinh khai thác triệt để trong luận án khi nêu ra
tính cấp thiết và nhiệm vụ nghiên cứu về phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Long từ năm 2000 đến năm 2015.
Tuy nhiên, có rất ít các công trình nghiên cứu về phát triển NNL như đặc
thù tỉnh Vĩnh Long và có quá ít các công trình nghiên cứu khi đề cập đến phát
triển NNL ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nhất là những vấn đề phát
triển NNL từ góc độ khoa học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là vấn đề
đã thôi thúc nghiên cứu sinh quyết tâm chọn đề tài, nhằm góp phần nhỏ xây
dựng quê hương tỉnh Vĩnh Long phát triển.
1.2. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG
NGHIÊN CỨU
1.2.1. Những nội dung liên quan đến đề tài luận án đã được đề cập
Một là, các công trình khoa học được tiếp cận từ nhiều góc độ, phạm vi
và lĩnh vực khác nhau nhưng đều khẳng định tầm quan trọng và yêu cầu khách
quan phải phát triển NNL, là cơ sở quan trọng để đẩy mạnh sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước. Các công trình đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng qua các kỳ
đại hội, đặc biệt là Đại hội Đảng lần thứ IX với quan điểm nhất quán: “Nguồn
nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào
tạo”. Đồng thời, bước đầu các công trình khoa học đã đi sâu, luận giải vai trò
của phát triển NNL trong quá trình phát triển KT-XH của đất nước với mục
tiêu “phát triển nguồn nhân lực là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu, là nhân tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Và muốn phát
triển nhanh và bền vững, NNL phải được đào tạo, bồi dưỡng nhằm đảm bảo
25
yêu cầu về số lượng và chất lượng, trong đó chất lượng NNL đóng vai trò
không thể thiếu cho công cuộc phát triển của các địa phương. Vì vậy, các công
trình nghiên cứu đều khẳng định phát triển NNL luôn gắn kết chặt chẽ với công
tác đào tạo, là yêu cầu khách quan, cấp thiết đối với sự phát triển của mỗi quốc
gia, dân tộc trước bối cảnh phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ và
xu thế toàn cầu hóa.
Hai là, một số công trình khoa học đã đề cập đến những vấn đề lý luận
dựa trên học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người, nguồn lực con người và những
vấn đề lý luận chung về NNL, phát triển NNL nhằm làm rõ thực trạng, kết quả
kinh nghiệm trong phát triển NNL ở Việt Nam. Đây là cơ sở quan trọng để tác
giả kế thừa, tham khảo để có những nhận định, đánh giá khách quan khi thực
hiện đề tài.
Ba là, các công trình đã hệ thống, khái quát các quan điểm cơ bản, chủ
trương lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các nhiệm kỳ đại hội của Đảng
về phát triển NNL trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Đồng thời đã phác
họa những thành tựu, hạn chế, khiếm khuyết từ quá trình lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện chủ trương phát triển NNL, đúc kết những phương hướng và giải
pháp để phát triển NNL đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trên các lĩnh
vực khác nhau.
Bốn là, công trình khoa học đều có đối tượng, mục tiêu nghiên cứu khác
nhau nhưng về cơ bản các công trình đã chỉ ra mối quan hệ giữa phát triển NNL
với nhiệm vụ đào tạo NNL là cán bộ, công chức, viên chức (CB,CC,VC) trong các
cơ quan nhà nước thuộc HTCT và NNL là lực lượng lao động lành nghề trong lĩnh
vực nông nghiệp, nông thôn ở các cấp Đảng bộ địa phương, cấp vùng miền. Đây
là những gợi ý quan trọng giúp nghiên cứu sinh kế thừa có chọn lọc và tiếp cận
phương pháp nghiên cứu đạt hiệu quả và có cơ sở khoa học hơn để giải quyết mục
tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.
26
Năm là, hầu hết công trình khoa học tập trung trình bày có hệ thống những
quan điểm của Đảng về vai trò của GD-ĐT đối với việc nâng cao chất lượng
NNL, đặc biệt nhấn mạnh GD-ĐT ở hệ đại học, cao đẳng và đào tạo nghề trong
việc thúc đẩy phát triển NNL, trên cơ sở đó đề ra phương hướng giải pháp NNL
cho sự phát triển nhanh và bền vững một cách hiệu quả. Đây là tiền đề quan trọng
để nghiên cứu sinh làm sáng tỏ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long
khi NNL gắn với công tác đào tạo được xem là khâu trọng yếu để nâng cao số
lượng và chất lượng phát triển NNL tỉnh nhà.
Như vậy, nhìn chung những công trình khoa học trên đã đề cập đến khá rõ
về các khái niệm liên quan đến NNL, phát triển NNL và tính cấp thiết phát triển
NNL được tập trung khai thác trong lĩnh vực GD-ĐT và ở một số vấn đề mang
tính vùng miền, địa phương trong bối cảnh CNH, HĐH, hội nhập quốc tế. Đồng
thời các công trình đều thể hiện ý chí, quan điểm của Đảng, Nhà nước bằng những
chủ trương, chính sách phù hợp với điều kiện của thực tiễn ở Việt Nam, từ đó đề
ra định hướng, giải pháp để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác
phát triển NNL những năm tiếp theo. Đây là những tài liệu quý để luận án kế thừa,
giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn chung được đặt ra trong mục đích và
nhiệm vụ của đề tài.
Qua khảo cứu các công trình nghiên cứu đã được công bố, cho đến nay
chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về quá trình Đảng
bộ tỉnh Vĩnh Long lãnh đạo phát triển NNL từ năm 2000 đến năm 2015 từ góc độ
nghiên cứu Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu của các công trình trên, Luận án
sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác phát triển NNL của Đảng
bộ tỉnh Vĩnh Long trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, nhất là từ năm
2000 đến năm 2015.
27
- Khảo sát thực trạng phát triển NNL của tỉnh Vĩnh Long qua hai giai đoạn
từ năm 2000 đến năm 2005 và từ năm 2005 đến năm 2015, từ đó chỉ ra những
thành tựu, hạn chế, nguyên nhân hạn chế trong công tác phát triển NNL của Đảng
bộ tỉnh Vĩnh Long.
- Hệ thống hóa các văn kiện chủ yếu của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long về chủ
trương phát triển NNL qua ba nhiệm kỳ đại hội Đảng bộ tỉnh từ năm 2001 đến
năm 2015, từ đó phân tích quá trình vận dụng sáng tạo chủ trương của Trung ương
Đảng vào thực tế địa phương góp phần nâng cao chất lượng NNL.
- Khảo sát quá trình thực hiện chủ trương phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Long gồm cơ chế, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, chính sách thu hút nguồn
nhân lực,… trong phạm vi quản lý của tỉnh qua hai giai đoạn, từ năm 2000 đến
năm 2005 và từ năm 2005 đến năm 2015.
- Luận án khái quát những thành công, những hạn chế, khiếm khuyết và
nguyên nhân của những thành công, những hạn chế, khiếm khuyết từ quá trình
hoạch định chủ trương đến chỉ đạo thực tiễn và kết quả phát triển NNL của Đảng
bộ tỉnh Vĩnh Long qua hơn 15 năm, với ba nhiệm kỳ đại hội từ năm 2001 đến
năm 2015.
- Từ thực tiễn lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long, luận án có nhiệm vụ
đúc kết, gợi mở những kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ trong công tác
phát triển NNL nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện, bền vững trong những
năm tiếp theo.
Tiểu kết chương 1
Qua khảo cứu các công trình khoa học đã được công bố dưới nhiều thể loại:
sách đã xuất bản; luận án tiến sĩ đã bảo vệ; các đề tài, chương trình khoa học, kỷ
yếu hội thảo khoa học đến các bài được đăng tải trên các tạp chí khác nhau, có thể
chia thành ba nhóm công trình: Một là, các công trình khoa học nghiên cứu về
NNL, phát triển NNL và nói chung; Hai là, các công trình khoa học nghiên cứu về
28
NNL, phát triển NNL và đào tạo NNL nói chung từ thực tiễn các lĩnh vực, các
vùng, miền, địa phương trên cả nước; Ba là, các công trình khoa học nghiên cứu
có liên quan đến phát triển NNL nói chung ở tỉnh Vĩnh Long. Các công trình trên
đã cung cấp cho luận án về tình hình tổng quan nghiên cứu chung ở cả hai phương
diện lý luận và thực tiễn, qua đó các công trình đều khẳng định quan điểm chủ
trương của Đảng về phát triển NNL là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng
và Nhà nước xuyên suốt trong các Văn kiện, Nghị quyết và ngày càng được đề
cập nhiều hơn trong các Đại hội IX, X, XI của Đảng. Đây là cơ sở lý luận và thực
tiễn để tác giả tham khảo, kế thừa giải quyết nhiệm vụ đặt ra cho công tác phát
triển NNL ở tỉnh Vĩnh Long. Tuy nhiên, nhìn chung chưa có công trình nào đề cập
một cách thấu đáo về quá trình hoạch định chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng
bộ tỉnh Vĩnh Long về phát triển NNL từ năm 2000 đến năm 2015. Vì vậy tình
hình tổng quan nghiên cứu của luận án là cơ sở để Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long đúc
kết những kinh nghiệm phát triển NNL có giá trị trên phương diện lý luận và thực
tiễn một cách khách quan, đó là những nội dung chủ yếu của luận án cần tiếp tục
nghiên cứu như đã nêu trên.
29
Chương 2
ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG VẬN DỤNG
CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2005
2.1. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC CỦA TỈNH VĨNH LONG
2.1.1. Nguồn nhân lực và chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về
phát triển nguồn nhân lực những năm đầu thế kỷ XXI
2.1.1.1. Tầm quan trọng của nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là nguồn tài nguyên quý giá, là vấn đề then chốt trong sự
phát triển của mỗi quốc gia, nhất là trong điều kiện các nước đang phát triển tiến
hành hội nhập quốc tế trên hầu khắp các lĩnh vực thì NNL đã trở thành xu thế tất
yếu chiếm vị trí trọng yếu trong thước đo giá trị về mặt tăng trưởng kinh tế. Quốc
gia nào có chiến lược xây dựng nguồn lực con người đúng đắn và chuẩn bị được
NNL có trình độ chuyên môn, tay nghề cao thì năng lực cạnh tranh của quốc gia đó
sẽ tăng trưởng mạnh mẽ trong nền kinh tế toàn cầu và tạo ra sự phát triển bền vững.
Cho đến nay, khái niệm nguồn nhân lực được hiểu theo nhiều nghĩa rộng, nghĩa hẹp
và các cách tiếp cận khác nhau.
- Theo nghĩa rộng, NNL là số dân và chất lượng dân số bao gồm cả thể chất
và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, thái độ và tác phong làm
việc. Đó là toàn bộ nguồn vốn của một con người, là tổng hợp trình độ chuyên môn
mà một người lao động tích lũy được, hay đó còn là tổng thể tiềm năng của con
người của một quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương có khả năng huy động vào quá
trình phát triển KT-XH.
- Theo nghĩa hẹp, NNL được hiểu là nguồn lao động của xã hội (tổng số
người đang làm việc, người thất nghiệp và lao động dự phòng), hay bao gồm các
nhóm dân cư trong độ tuổi lao động được đào tạo và không được đào tạo, có thể
đang làm việc hoặc không có nhu cầu làm việc tham gia vào nền sản xuất xã hội.
Thậm chí, NNL này còn được hiểu là đối tượng lao động bao gồm những người có
việc làm (nguồn nhân lực có sẵn trong dân cư) và những người chưa có việc làm
(lao động dự trữ). Cách hiểu này có ý nói đến NNL là những người có việc làm
30
được đào tạo chuyên môn nghề nghiệp đang hoạt động trong các ngành kinh tế,
trong các lĩnh vực chính trị, xã hội nhằm cung cấp cho xã hội một lực lượng lao
động có chất lượng, bởi vì trong bối cảnh biến đổi nhanh chóng của thế giới như
hiện nay, vấn đề đào tạo NNL là để nâng cao năng suất lao động là điểm then chốt
nhằm mục đích duy trì và nâng cao sức cạnh tranh của mỗi quốc gia.
Như vậy, có thể hiểu NNL là một bộ phận của dân số, bao gồm các đối
tượng trong độ tuổi lao động khác nhau. Là bộ phận quan trọng nhất quyết định khả
năng nhu cầu lao động trong xã hội và là nguồn lực lao động mang tính tích cực
hoặc không tích cực trong một cộng đồng. Tuy nhiên NNL này còn được tiếp cận ở
vấn đề của một bộ phận số dân phụ thuộc vào điều kiện trình độ chuyên môn được
đào tạo đồng nghĩa là bộ phận số dân mang lại yếu tố tích cực cho sự phát triển kinh
tế hoặc đào tạo nhưng không đáp ứng được nhu cầu xã hội. Đồng thời NNL thường
gắn với độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật. Hiện nay, nhiều quốc gia đều
quy định tuổi lao động tối thiểu là 15, song độ tuổi lao động tối đa lại có sự khác
nhau giữa các nhóm nước phát triển và nhóm các nước đang phát triển. Ở Việt Nam
theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2012, tuổi lao động được quy định là từ đủ
15 đến 60 đối với nam và đủ từ 15 đến 55 đối với nữ.
Từ những khái niệm đã phân tích trên, có thể rút ra khái niệm NNL như sau:
NNL là toàn bộ lực lượng lao động của xã hội được quy định số dân trong độ tuổi
lao động, gồm những người có việc làm và chưa có việc làm. Là bộ phận những
người được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, có trình độ lành nghề, kiến thức, năng
lực và sức khỏe nhất định, là nguồn lực quyết định cho sự phát triển KT-XH trong
một cộng đồng.
Phát triển NNL chính là quá trình biến đổi NNL nhằm phát huy, khơi dậy
tiềm năng con người. Theo quan niệm của Tổ chức quốc tế về Lao động (ILO) phát
triển NNL là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đặc biệt về năng lực, trình độ, khả năng làm
việc nhằm đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự phát triển KT-XH trong từng
giai đoạn phát triển.
Tựu chung lại, quan niệm phát triển NNL được xem xét trên hai mặt chủ
yếu là: số lượng và chất lượng. Số lượng NNL được đánh giá bằng các chỉ tiêu: tỉ
lệ NNL trong dân số; tỉ lệ lực lượng lao động trong dân số; tỉ lệ lực lượng lao
31
động trong độ tuổi lao động; tỉ lệ lao động có việc làm trong lực lượng lao động.
Chất lượng NNL được đánh giá bằng các chỉ tiêu, đó là: chỉ tiêu trình độ học vấn
của nguồn nhân lực, đây là chỉ tiêu rất quan trọng phản ánh chất lượng nguồn
nhân lực và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển KT-XH. Trình độ học
vấn cao sẽ tạo điều kiện và khả năng tiếp thu, vận dụng có hiệu quả những tiến bộ
mới của KH-CN trong thực tiễn; chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn - kỹ thuật
của NNL được thể hiện bằng tỉ lệ NNL có trình độ cao đẳng, đại học và sau đại
học so với NNL chung.
Đối với Việt Nam, khi nghiên cứu phát triển NNL thì trước tiên đồng nghĩa
với lý thuyết về chính sách phát triển nguồn lực con người theo nhiều cách tiếp cận
khác nhau. Cách tiếp cận thứ nhất, phát triển NNL là việc xây dựng, phân bổ và sử
dụng nguồn nhân lực cùng với các hoạt động có liên quan nhằm hình thành các
chuẩn mực và mạng lưới xã hội dưới sự trợ giúp của nhà nước, của cơ quan phát
triển nhân lực địa phương, các tổ chức giáo dục và các tổ chức khác. Cách tiếp cận
thứ hai, phát triển NNL là việc thông qua giáo dục và đào tạo để tạo ra một lực
lượng lao động có khả năng đáp ứng nhu cầu của một quốc gia, một vùng, một
ngành hay một tổ chức nào đó. Đây là quá trình tạo dựng lực lượng lao động năng
động có kỹ năng và sử dụng chúng có hiệu quả. Tuy nhiên phạm vi tiếp cận trên
bình diện là vai trò quan trọng của phát triển NNL đối với sự phát triển của xã hội
thì phát triển NNL được hiểu là những con người có trình độ chuyên môn cao, có
vốn tri thức và tay nghề giỏi, có khả năng nhận thức và tiếp thu nhanh những kiến
thức mới. Đây là chìa khóa chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa học kỹ thuật và
công nghệ trên con đường chống nguy cơ tụt hậu của tri thức, hay có thể hiểu phát
triển NNL là khái niệm để chỉ một con người, một người lao động cụ thể được đào
tạo lành nghề và chuyên môn kỹ thuật nhất định (trên đại học, cao đẳng, công nhân
kỹ thuật lành nghề).
Bên cạnh quan niệm về phát triển NNL được tiếp cận ở trên, còn có những
quan niệm có nội hàm hẹp hơn để chỉ người lao động thông qua quá trình đào tạo
và được xã hội chấp nhận trong những lĩnh vực chủ yếu như: Lĩnh vực sản xuất vật
chất là những người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo được đào tạo bởi
một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học, công nghệ hiện đại họ là
những chuyên gia, nghệ nhân, công nhân lành nghề, những người lao động trí óc
32
bên cạnh trình độ học hàm, học vị như giáo viên, giảng viên, nhà lãnh đạo, quản lý,
cán bộ, công chức, viên chức. Lĩnh vực kinh tế là các doanh nhân. Lĩnh vực an ninh
quốc phòng, đối ngoại là những tướng lĩnh, nhà ngoại giao để chỉ NNL này. Ngoài
ra, để tôn vinh và phát triển NNL, xã hội còn chú ý đến đối tượng để thực hiện phát
triển NNL là học sinh, sinh viên ưu tú họ là nhân tài là lực lượng kế thừa của tinh
hoa đất nước hay nguồn “nguyên khí quốc gia”.
2.1.1.2. Chủ trương của Đảng về phát triển nguồn nhân lực trong công
cuộc đổi mới
Thực hiện đường lối đổi mới được khởi xướng từ Đại hội hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI, trong đó có việc thực hiện phát triển NNL là vấn đề mấu chốt để
đẩy nhanh tốc độ phát triển KT-XH của đất nước, yêu cầu cấp bách nhất cần giải
quyết là nhanh chóng đào tạo NNL có tri thức đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới
toàn diện đất nước. Tuy nhiên trong quá trình đổi mới đất nước từ năm 1986, Đảng
đã nhìn nhận vai trò của sự nghiệp giáo dục khi xem xét NNL. Đại hội Đảng lần thứ
VI của Đảng chỉ rõ: Giáo dục nhằm mục tiêu hình thành và phát triển toàn diện
nhân cách XHCN của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ lao động có kỹ thuật, đồng bộ về
ngành nghề, phù hợp với yêu cầu phân công lao động của xã hội. Sự nghiệp giáo
dục, nhất là giáo dục đại học và chuyên nghiệp, trực tiếp góp phần vào việc đổi mới
công tác quản lý kinh tế và xã hội [34, tr.772].
Đất nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước những diễn
biến như vũ bão của cách mạng KH-CN và bối cảnh toàn cầu hóa, Đảng xác định
vai trò đặc biệt của NNL là nhằm để phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư
cách là động lực xây dựng xã hội mới thì phải tập trung: “Phát triển sự nghiệp khoa
học, giáo dục, văn hóa nhằm phát huy nhân tố con người và vì con người trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [24, tr.79]. Đặc biệt khi bước vào công cuộc
đổi mới, vấn đề nguồn lực con người gắn với phát triển KT-XH đã được Đảng
Cộng sản Việt Nam quán triệt và được coi là vấn đề sống còn của đất nước, là yêu
cầu cấp bách của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đảng đã chỉ đạo: “Lấy việc phát
huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”
[35, tr.106], đây là lần đầu tiên quan điểm về nguồn lực con người được đặt ở vị trí
trung tâm của chính sách phát triển.
33
Từ quan điểm trên, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (1991), Đảng đã chỉ rõ nguồn lực con người rất dồi dào, con
người Việt Nam có truyền thống cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hóa, giáo dục, có
khả năng nắm bắt nhanh KH-CN đó là nguồn lực quan trọng nhất. Tuy nhiên, người
Việt Nam đang có những hạn chế về thể lực, kiến thức, tay nghề, còn mang thói
quen sản xuất lạc hậu và dấu ấn của cơ chế cũ. Để khắc phục được những nhược
điểm đó thì vai trò của NNL phải thật sự trở thành thế mạnh của đất nước, NNL
không thể đứng ngoài mục tiêu của sự phát triển, Đảng chỉ rõ:
Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con
người. Chiến lược kinh tế - xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm, giải
phóng sức sản xuất, khơi dậy tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao
động và cả cộng đồng dân tộc, động viên và tạo điều kiện cho mọi người
Việt Nam phát huy ý chí tự lực tự cường, cần kiệm xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước [25, tr.12-13].
Như vậy, khi đất nước bước vào công cuộc xây dựng đất nước, Đảng đã
nhận thức rõ lực lượng lao động với những tiêu chí cụ thể là “hình thành đội ngũ lao
động có tri thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng
tạo... bồi dưỡng nhiều người giỏi về khoa học, công nghệ, kinh doanh, về quản lý
kinh tế và nhiều công nhân lành nghề; nâng cao trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật
cho người lao động” [24, tr.511]. Đây chính là những tiêu chí cụ thể của Đảng để
phát triển NNL, trong đó muốn phát triển NNL phải hình thành đội ngũ lao động có
tri thức, có tay nghề để đáp ứng nhu cầu phát triển toàn diện của đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) quyết định đưa đất
nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Do đó, nguồn lực con người trở nên
quan trọng hơn bao giờ hết. Đây là Đại hội có nhiều chuyển biến tích cực, mạnh mẽ
trong chính sách phát triển NNL, trên quan điểm NNL coi con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, các chính sách giáo dục đào tạo, KH-CN đều
hướng đến mục tiêu là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Cụ
thể hóa chủ trương của Đại hội VIII, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Hai Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 12/1996) đã thực sự coi GD-ĐT là quốc
sách hàng đầu, là nhân tố quyết định tǎng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư
34
cho GD-ĐT là đầu tư phát triển, các cá nhân đều có trách nhiệm trách nhiệm góp
phần phát triển sự nghiệp GD-ĐT. Đồng thời Đảng chủ trương GD-ĐT luôn gắn
liền với nhu cầu phát triển KT-XH nhằm hình thành và phát triển đội ngũ lao động
lành nghề, bảo đảm có nhiều nhân tài cho đất nước bước vào thế kỷ XXI.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) Đảng tiếp tục chủ trương đẩy
mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó nhấn mạnh về động lực phát triển đất
nước là phát huy sức mạnh của đại đoàn kết tất cả các giai tầng, các dân tộc và của
toàn xã hội. Đồng thời chỉ rõ xã hội ta là xã hội vì con người, đặt con người vào vị
trí trung tâm của phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và lấy việc nâng cao chất lượng
cuộc sống con người làm mục tiêu phục vụ. Đảng luôn nhấn mạnh phát triển kinh tế
phải đi đôi với giải quyết tốt những vấn đề xã hội và chính là thực hiện mục tiêu xây
dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng khẳng định: “Tăng cường
kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục,… nâng cao dân trí, giáo dục và
đào tạo con người, xây dựng và phát triển NNL của đất nước” [30, tr.169] và mọi
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ mục đích vì con
người, chăm sóc bồi dưỡng con người, phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước. Với vai trò là động lực thúc đẩy sự phát triển KT-XH, đẩy
mạnh CNH, HĐH, văn hóa và giáo dục, KH&CN có nhiệm vụ khơi dậy mọi tiềm
năng, phát triển sức sáng tạo của con người Việt Nam, tạo ra nguồn lực nội sinh
quyết định sự nghiệp CNH, HĐH. Đồng thời cần “tăng cường đầu tư vào phát triển
con người thông qua phát triển mạnh giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ.
Đảm bảo nguồn nhân lực về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [30, tr.257].
Với quan điểm nêu trên, lần đầu tiên Đảng đã chỉ ra nhiệm vụ phát triển
NNL được cụ thể hóa bằng chủ trương chính sách cụ thể, trong đó nhấn mạnh chủ
trương cơ bản nhất là khẳng định sự nghiệp GD-ĐT phải là nhiệm vụ hàng đầu để
đẩy mạnh CNH, HĐH, nhằm mục tiêu:
Đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề
nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức
vươn lên về khoa học và công nghệ. Xây dựng đội ngũ công nhân lành
nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hoá, nhà kinh doanh, nhà
35
quản lý. Chính sách sử dụng lao động và nhân tài phải tận dụng mọi
năng lực, phát huy mọi tiềm năng của các tập thể và cá nhân phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước [30, tr.201-202].
Với quan điểm tích cực về phát triển NNL, có thể khẳng định quan điểm
nhất quán của Đảng là tăng cường chính sách đầu tư cho GD-ĐT, coi GD-ĐT là
nhiệm vụ hàng đầu để phát triển NNL, vì NNL là nguồn lực quan trọng nhất để
thực hiện sự nghiệp đổi mới, xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó
với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí
kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, muốn phát triển NNL bền
vững yêu cầu nhiệm vụ của GD-ĐT là phải tạo ra đội ngũ con người có trí tuệ cao,
có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp được đào tạo bồi dưỡng và phát huy
bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học công nghệ hiện đại.
Như vậy, phát triển NNL được Đảng đặc biệt quan tâm, là một khâu đột phá
trong chiến lược phát triển KT-XH. So với quan điểm chung thời kỳ trước, đây là
bước phát triển hơn hẳn trong nhận thức của Đảng về NNL và phát triển NNL. Đây
chính là những định hướng cơ bản cho các địa phương, trong đó có tỉnh Vĩnh Long
vận dụng vào thực tế của tỉnh để triển khai phát triển NNL đáp ứng yêu cầu đẩy
mạnh CNH, HĐH của địa phương.
2.1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Vĩnh Long tác động
đến phát triển nguồn nhân lực
Tỉnh Vĩnh Long được thành lập vào năm 1732 [7] với nhiều tên gọi địa
danh khác nhau. Năm 1832 toàn bộ vùng đất Nam Bộ được chia thành 6 tỉnh gọi
là Nam kỳ lục tỉnh, trấn Vĩnh Thanh được gọi là tỉnh Vĩnh Long gồm có 4 phủ, 8
huyện, 47 tổng.
Từ giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thôn tính,
xác lập hệ thống chính quyền thực dân để bóc lột khai thác. Ngày 5/1/1876, Thống
đốc Nam kỳ Dupere ra nghị định phân chia toàn bộ Nam kỳ thành 4 khu vực hành
chính lớn là Sài Gòn, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Bassac. Mỗi khu vực hành chính lớn lại
chia nhỏ thành nhiều tiểu khu hành chính, trong đó khu vực hành chính Vĩnh Long
gồm 4 tiểu khu là Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh và Sa Đéc. Ngày 20/12/1899, Toàn
36
quyền Đông Dương Paul Doumer ký Nghị định chính thức đổi tên gọi tiểu khu thành
tỉnh, hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh sáp nhập lại thành tỉnh Vĩnh Trà.
Từ cuối năm 1954 đến 1975, chính quyền Sài Gòn đã tách tỉnh Vĩnh Trà thành
hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng
(30/4/1975) đất nước thống nhất, ngày 15/2/1976 tỉnh Cửu Long được thiết lập trên
cơ sở của hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh.
Ngày 26/12/1991, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa VIII đã quyết định tách
tỉnh Cửu Long thành hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh. Tỉnh Vĩnh Long được phân
chia thành 8 đơn vị hành chính: thành phố Vĩnh Long, thị xã Bình Minh và 6 huyện
(Long Hồ, Mang Thít, Vũng Liêm, Tam Bình, Trà Ôn và Bình Tân) với 107 đơn vị
xã, phường, thị trấn và 846 khóm, ấp. Diện tích tự nhiên Vĩnh Long rộng 148.737
ha (1.487,37 km2), trong đó có 114.528 ha trồng lúa và cây ăn trái. Dân số tính đến
thời điểm năm 2000 có tổng 1.013.423 người, đứng hàng thứ hai trong 13 tỉnh
thành khu vực các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Tuyệt đại đa số dân cư sống ở
nông thôn chiếm 85,66%, số người sống ở thành thị 14,34% [19].
Là tỉnh ít bị nhiễm phèn trong đất, có tầng đất sét ở độ sâu từ 5m đến 20m
thích hợp trồng lúa và cây ăn trái ngắn ngày. Khí hậu Vĩnh Long nằm trong khu vực
có lượng gió lớn và thường có 3 hướng gió chính là gió Tây Nam, Đông Bắc, và gió
Đông Nam nên ít chịu ảnh hưởng của những cơn bão từ biển Đông. Mặc dù ít bị
mưa lũ diễn ra bởi thời tiết tương đối điều hòa, nhưng hiện tượng bị ngập lụt vẫn
xảy ra ở nhiều nơi như ở các tuyến sông, kênh rạch thuộc các huyện Mang Thít, Trà
Ôn, Vũng Liêm, Tam Bình. Hiện tượng ngập lụt cũng đã làm cản trở đời sống sinh
hoạt của dân cư nơi đây và cũng chính dân cư sống ở vùng ngập lụt họ cũng chịu
những ảnh hưởng nhất định về điều kiện để đảm bảo giữ vững quốc phòng an ninh,
ổn định xã hội ở địa phương.
Vĩnh Long nằm giữa hai trung tâm kinh tế lớn là thành phố Hồ Chí Minh và
thành phố Cần Thơ, rất thuận lợi cho hệ thống giao thông huyết mạch đường bộ và
đường thủy đi qua, trong đó hệ thống đường bộ nội địa có năm Quốc lộ kết nối với
các tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long như các tỉnh: Tiền Giang, Bến Tre, Cần
thơ, Trà Vinh, Đồng Tháp tạo điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu kinh tế và là
cửa ngõ vị trí chiến lược quốc phòng an ninh khu vực Tây Nam Bộ. Là tỉnh có vị trí
địa lý nằm giữa hai nhánh sông lớn là sông Tiền và sông Hậu, Vĩnh Long có thế
37
mạnh về sản xuất nông nghiệp và nông nghiệp được xem là mặt trận hàng đầu trong
quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế của địa phương. Đồng thời sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp, thương mại và dịch vụ cũng là những lĩnh vực chiếm tỷ trọng
trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Có thể khái quát điều kiện kinh tế Vĩnh Long có hai
vùng trọng điểm: Vùng kinh tế thuộc khu vực sông Tiền là các xã phường thị trấn
gần trung tâm thành phố, huyện nối liền với trục giao thông chính trên 3 Quốc lộ:
Quốc lộ 1A, Quốc 54, Quốc lộ 57 rất thuận lợi để phát triển KT-XH; Vùng kinh tế
thuộc khu vực sông Hậu là các xã, thị trấn cách trung tâm thành phố Vĩnh Long
khoảng 20km2 đến 58km2 nối liền với trục giao thông thủy bộ thuộc một bộ phận
của tuyến Quốc lộ 1A, Quốc lộ 53 và Quốc lộ 80. Gồm 68 xã, thị trấn thuộc các
huyện Tam Bình, huyện Bình Minh, huyện Bình Tân, huyện Vũng Liêm, huyện Trà
Ôn. Với vị trí địa lý xa trung tâm thành phố, tỉnh lỵ nhưng đặc trưng vùng kinh tế
trong khu vực này chịu ảnh hưởng rất lớn từ sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản
xuất lúa gạo.
Là tỉnh thuộc vùng châu thổ sông Cửu Long - một trong ba vùng trọng điểm
của đất nước, ngoài người Kinh ở Vĩnh Long còn là vùng cư trú tự nhiên của nhiều
dân tộc: dân tộc Kinh 978.893 người, chiếm tỷ lệ 97,40%; dân tộc Khmer 22.350
người, chiếm tỷ lệ 2,14%; dân tộc Hoa 5.710 người, chiếm tỷ lệ 0,56%; còn lại các
dân tộc khác 223 người, chiếm tỷ lệ 0,3%. Các dân tộc có quá trình đoàn kết lâu
đời, chung sức chung lòng khai khẩn, chống thiên tai và ngoại xâm xây dựng mãnh
đất Vĩnh Long giàu đẹp, tạo nên cộng đồng đa dân tộc là nhân tố quyết định tình
hình phát triển KT-XH, xây dựng đời sống văn hóa và bảo vệ quê hương, đất nước.
Mặc dù, là tỉnh có hai vùng kinh tế trọng điểm là khu vực sông Tiền và khu
vực sông Hậu, nhưng kinh tế Vĩnh Long chưa tương xứng với tiềm năng, chưa
chuyển dịch tốt cơ cấu kinh tế vẫn còn hình thức độc canh cây lúa. Lĩnh vực tiểu
thủ công nghiệp và xây dựng kém phát triển, thiếu nhiều cơ sở hạ tầng phục vụ cho
CNH, HĐH, có nơi cơ sở hạ tầng còn tụt hậu xa so với các tỉnh đồng bằng sông
Hồng, có mặt yếu kém hơn một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long [94, tr.27].
Tuy nhiên, do những khó khăn của một tỉnh vùng trũng trong khu vực đồng
bằng sông Cửu Long có lực lượng lao động chiếm 44% dân số, trong đó lao động
nông nghiệp chiếm trên 90% (năm 1991) và lao động nữ chiếm 53% tổng số lao
động toàn tỉnh. Tuy nhiên lực lượng lao động không có việc làm rất lớn. Từ năm
38
1992 đến năm 2000, hàng năm có khoảng 16.000 - 18.000 lao động [94, tr.14]
không có việc làm nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và những
ngành khác về lĩnh vực tài chính, ngân hàng, y tế,...
Phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ chất lượng chưa cao, chưa vững
chắc, đội ngũ giáo viên còn thiếu và yếu, nhận thức của người dân vùng đồng bằng
về nhu cầu học tập còn hạn chế, kinh phí cho sự nghiệp ứng dụng khoa học kỹ thuật
và chuyển giao công nghệ còn chậm, các hoạt động văn hóa ở cơ sở chưa sâu rộng
và mức hưởng thu chưa cao, thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể thao
còn hạn chế, thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội truyền
thống, tệ mê tín dị đoan có xu hướng gia tăng và còn nhiều bất cập [94, tr.28]. Tỷ lệ
người nghèo, thiếu việc làm và chưa được đào tạo còn là vấn đề nóng bỏng nhưng
chưa được giải quyết tốt.
Vào cuối năm 1999, Vĩnh Long có 528.416 lao động có tay nghề kỹ thuật,
chiếm 13,6% [122, tr.63]. Trong đó lao động khu vực nông, lâm, ngư nghiệp là
56,99%; lao động thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng cơ bản là 12,1% và lao
động thuộc khu vực dịch vụ là 30,91%. Trình độ đại học và trên đại học 5.118
người chiếm 0,96%, cao đẳng 4.125 người chiếm 0,78%, công nhân kỹ thuật và
trung cấp 15.893 người chiếm 3%. Đây là tỷ lệ khá thấp so với mặt bằng chung cả
nước và đang mất cân đối đào tạo giữa các ngành, nhất là các ngành kỹ thuật trong
nền kinh tế quốc dân. Nếu cơ cấu kinh tế Vĩnh Long dựa vào nông nghiệp chiếm
71% thì lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật chỉ mới đạt khoảng
10% [100, tr.62]. Riêng đối với lao động khu vực Nhà nước, tỷ lệ lao động có kỹ
thuật chiếm tỷ lệ khá nhưng chỉ ở trình độ trung cấp trở lên chiếm 90%, trong đó lao
động có nghiệp vụ, lao động quản lý, lao động kỹ thuật có trình độ cao đẳng, đại
học trở lên chiếm 16% [100, tr.63] trong tổng số công nhân viên chức toàn tỉnh.
Tình hình trên cho thấy, thực trạng NNL trong tỉnh rất đông về số lượng
nhưng cũng thấp về chất lượng, đồng thời lực lượng lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật thiếu và mất cân đối trong các ngành thuộc lĩnh vực nông nghiệp,
công nghiệp và dịch vụ, xây dựng. Nếu theo cơ cấu đào tạo (1- 4-10; 1 đại học, 4
trung cấp, 10 công nhân kỹ thuật) thì tỉnh Vĩnh Long đang thiếu khoảng 44.000
lao động [100, tr.62] có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao để đáp ứng cho các
39
ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, nhất là các ngành nghề được xem là thế mạnh
của địa phương.
Do vậy, để khai thác những tiềm năng của tỉnh để đẩy mạnh phát triển KT-
XH, tỉnh Vĩnh Long cần đẩy mạnh phát triển NNL, đặc biệt chú trọng đến đào tạo
NNL đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh nói riêng và của cả nước nói chung.
2.1.3. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Vĩnh Long từ khi
tái lập tỉnh đến năm 2000
Nguồn nhân lực trước năm 2000 nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Thiếu đội ngũ có trình độ chuyên môn giỏi
trong các lĩnh vực khoa học - kỹ thuật, thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi và lực
lượng lao động công nhân lành nghề; thiếu sự phân bố, quy hoạch trong chủ trương
chính sách về cơ cấu và chất lượng NNL, nhất là CBCCVC trong các cơ quan hành
chính sự nghiệp và lao động có trình chuyên môn kỹ thuật (lao động lành nghề);
thiếu cơ chế chính sách trong công tác đào tạo theo ngành nghề, lĩnh vực trước yêu
cầu của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Cụ thể như sau:
Nguồn nhân lực cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước
Từ năm 1996 đến năm 2000, toàn tỉnh có 13.793 CBCCVC, trong đó khối
quản lý Nhà nước cấp tỉnh có 751 người, khối quản lý Nhà nước cấp huyện có 549
người, khối sự nghiệp GD-ĐT 10.113 người, khối sự nghiệp văn hóa, thể thao 78
người, khối y tế 1.786 người và sự nghiệp khác 580 người. Trình độ chuyên môn: 01
tiến sỹ, 22 thạc sỹ, 2.184 đại học, 4.046 cao đẳng, 5.025 trung cấp [122, tr.96-99].
Là một tỉnh đi lên từ nông nghiệp, NNL trong các cơ quan nhà nước luôn
đóng vai trò không thể thiếu trong nhiệm vụ thực hiện phát triển KT-XH của tỉnh.
Năm 1996 đến năm 2000, đây là nhiệm kỳ đầu tiên trong điều kiện tỉnh Vĩnh Long
vừa chia tách, nguồn lực cán bộ hụt hẫng, công nợ lớn nhưng tỉnh đã khắc phục mọi
khó khăn để vươn lên với tốc độ tăng trưởng khá liên tục, GDP bình quân hàng năm
đạt 8,01% (so với nhiệm kỳ khóa V (1992-1995) GDP chỉ đạt 7,65% cho cả tỉnh
Vĩnh Long và Trà Vinh), đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, GDP bình
quân đầu người tăng 18,65% năm (cuối năm 1995 GDP đầu người là 2.356.500
đồng, so với năm 1991 là 1.190.000 đồng) cơ bản xóa được đói, giảm được nghèo,
tình hình quốc phòng - an ninh được củng cố, tổ chức cơ sở Đảng được kiện toàn
đến cuối năm 1995 toàn Đảng bộ có 11.910 đảng viên (năm 1992 có 459 đảng viên)
40
đã góp phần thúc đẩy ổn định chính trị, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Chính
quyền và chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố.
Tuy nhiên, để đánh giá về số lượng và chất lượng NNL là CB,CC,VC trong
các cơ nhà nước vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu trong giai đoạn mới - giai đoạn
CNH, HĐH tỉnh nhà. Giai đoạn này tỉnh thiếu cán bộ khoa học đầu đàn, thiếu cán
bộ có chuyên môn giỏi, số cán bộ có trình độ sau đại học ít, trình độ ngoại ngữ hầu
hết CB,CC,VC còn thấp, nhất là nguồn CB,CC,VC trong các lĩnh vực ngành nông
nghiệp, quản lý hành chính công, xây dựng, giao thông,... Bên cạnh đó công tác
quản lý đội ngũ CB,CC,VC bộc lộ bất cập, thiếu căn cứ đánh giá năng lực, hiệu
quả của CB,CC,VC trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ, trong bồi dưỡng quy
hoạch và phát triển đội ngũ công chức. Mặt khác, NNL ở một số ngành như tài
chính, ngân hàng, bưu chính, bảo hiểm và các ngành dịch vụ khác có tăng dần về
số lượng và chất lượng, phản ánh khách quan xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nhưng chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển KT-XH khi so sánh với các
tỉnh lân cận trong khu vực như tỉnh Đồng Tháp, Bến Tre, Hậu Giang. Số lượng
CB,CC,VC làm việc trong ngành trọng yếu, mũi nhọn như viễn thông, công nghệ
phần mềm, tài chính, pháp luật, kiểm toán, thiết kế, nghiên cứu khoa học… còn rất
ít và rất thấp so với yêu cầu.
Nguyên nhân của thực trạng trên chủ yếu là sự nhận thức về vị trí và vai trò
của sự nghiệp GD-ĐT trong quá trình phát triển ở cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn
thể chưa sâu sắc, chưa toàn diện nên còn hạn chế và hiệu quả chưa cao nhất là
NNL có trình độ đại học và sau đại học. Thiếu sự quan tâm chỉ đạo của cấp uỷ
đảng, chính quyền đối với GD-ĐT, KH-CN theo Nghị quyết Trung ương Hai khóa
VIII (tháng 12/1996), chưa thực sự coi “giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ
là quốc sách hàng đầu” là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng và phát triển KT-
XH. Công tác đào tạo, sử dụng và đào tạo lại CB,CC,VC còn nhiều bất cập về cơ
chế, chính sách, chế độ đối với NNL là cán bộ làm công tác khoa học. Đồng thời,
NNL ứng dụng trong khoa học - kỹ thuật còn nhiều hạn chế, nhiều nơi vẫn trong
tình trạng vừa thừa vừa thiếu, lực lượng kế thừa còn mỏng. Công tác quy hoạch,
sử dụng NNL có trình độ khoa học - kỹ thuật chưa rõ ràng, thiếu đồng bộ, thiếu cơ
chế chính sách đào tạo theo nhu cầu. Chính sách sử dụng và đãi ngộ nguồn lực
con người nói chung gồm cán bộ khoa học - kỹ thuật chưa thỏa đáng, thiếu động
41
lực khuyến khích và thu hút chất xám. Từ đây bài toán phát triển và sử dụng
nguồn nhân lực cần có lời giải cho sự đóng góp phát triển KT-XH của địa phương
trong thời gian tới là cấp thiết.
Nguồn nhân lực chuyên môn kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
So với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh Vĩnh Long có mật độ dân số
đông, với tốc độ tăng dân số trung bình hàng năm từ năm 1995 đến năm 2000 là
0,33%. Trong đó dân số trong độ tuổi lao động từ 15 tuổi trở lên là 627.682 người,
số người có khả năng lao động là 616.166 người và số người không tham gia hoạt
động kinh tế là 112.394 người, chiếm 18,24% dân số. Số dân có trình độ chuyên
môn kỹ thuật là 3,61% (cao gấp đôi cả nước là 7,6%), trong đó khu vực thành thị là
17,4% khu vực nông thôn là 3,4% (cao gấp 5,12 lần của cả nước) [8, tr.58; 60-61].
Tính đến năm 2000, số người có chứng chỉ chuyên môn kỹ thuật là 6.168 người, số
người có trình độ Trung học chuyên nghiệp là 11.284 người, số người có trình độ
Cao đẳng là 4.401 người, số người tốt nghiệp Đại học là 5.574 người, giai đoạn từ
1992 - 2000 có 37 thạc sĩ, 5 tiến sĩ chủ yếu là các ngành nông nghiệp chiếm tỷ lệ rất
nhỏ 0,89% [8, tr.66-71]. Hầu hết lực lượng lao động nông nghiệp, nông thôn có
trình độ chứng chỉ chuyên môn sơ cấp hoặc tập huấn nghề ngắn hạn được gọi là gọi
là công nhân kỹ thuật nhưng thực tế chưa được cấp bất kỳ loại văn bằng hoặc chứng
chỉ nghề nghiệp nào đã làm cho chất lượng NNL của tỉnh không cao và thấp hơn rất
nhiều so với mức trung bình của cả nước và khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Đây là một trở ngại rất lớn đến tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh
Vĩnh Long.
Lực lượng lao động của tỉnh tập trung chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất nông -
lâm nghiệp là 349.517 người chiếm tỷ lệ 71%, lao động công nghiệp 49.228 người
chiếm tỷ lệ 10%, dịch vụ 93.533 người chiếm tỷ lệ 19%. Nếu so tỷ trọng lực lượng
lao động giữa nông - lâm nghiệp và công nghiệp, dịch vụ thì có sự mất cân đối và
chênh lệch lớn so với tốc độ tăng trưởng của thời kỳ CHN, HĐH đất nước. Tuy
nhiên nếu so với thời điểm năm 1995, lực lượng lao động trong lĩnh vực nông
nghiệp chiếm tỷ lệ rất lớn là 82%, thì đến năm 2000 nguồn lực lao động này có xu
hướng giảm dần khoảng 10% nhưng so với mặt bằng khu vực đồng bằng sông Cửu
Long thì đây là vấn đề gay gắt trong việc giải quyết việc làm. Bởi vì nguồn lực lao
động khu vực nông nghiệp, nông thôn Vĩnh Long tính thời điểm năm 1995 chỉ có
42
khoảng 10% [100, tr.87] có trình độ chuyên môn kỹ thuật nhưng tập trung khu vực
kinh tế Nhà nước. Đây thực sự là thách thức lớn đối với việc đáp ứng nhu cầu lao
động kỹ thuật lành nghề của các doanh nghiệp cũng như đầu vào cho các cơ sở đào
tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của địa phương ở những giai đoạn
tiếp theo.
Về sự chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp sang các ngành công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ tuy có đạt được những kết quả nhưng tốc độ chuyển
dịch còn chậm so với các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Trong
vòng 5 năm (từ 1995 đến 2000) lao động ngành công nghiệp - xây dựng chỉ tăng
6.635 người, bình quân mỗi năm tăng 2.212 người, lao động dịch vụ tăng 14,477
người, bình quân mỗi năm tăng 4.826 người. Với tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao
động đã làm cho nền kinh tế của tỉnh có bước chuyển dịch tăng dần tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ trong GDP, cơ cấu lao động cũng chuyển đổi theo hướng tăng tỷ
lệ lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ và giảm lao động trong ngành nông
nghiệp. Tính đến cuối năm 2000 đã đạt cơ cấu kinh tế theo tỷ trọng nông nghiệp
61,32%, công nghiệp xây dựng 11,17% và dịch vụ 27,51% [100, tr.4]. Tuy nhiên
với kết quả bước đầu đã đạt được nhưng tình hình thực tế về chất lượng NNL vẫn
chưa đáp ứng được sự đòi hỏi của địa phương. Phần lớn NNL có trình độ chuyên
môn, tay nghề còn ở mức thấp, ý thức tác phong thái độ làm việc và chấp hành pháp
luật chưa cao. Tình hình dịch chuyển lao động sẽ rất lớn trong thời gian tới, cụ thể
là từ nông thôn ra thành thị và khu công nghiệp tập trung. Trình độ học vấn của các
đối tượng trong độ tuổi lao động còn nhiều hạn chế nên việc đào tạo nghề cũng gặp
không ít khó khăn. Đặc biệt, một số lao động xem học nghề là một việc bất khả
kháng nên chưa có ý chí phấn đấu, hầu hết lao động nông thôn chỉ làm nghề thuần
nông và các hoạt động liên quan đến nông nghiệp. Bên cạnh đó nguồn lực lao động
nông nghiệp, nông thôn thiếu kiến thức và kỹ năng, chưa bắt kịp tiến trình đô thị
hóa và tiến trình hội nhập nên chất lượng lao động không cao. Đồng thời NNL dồi
dào, trẻ nhưng phân bố lao động chưa hợp lý, lao động nông nghiệp quá nhiều
(71%) điều này nói lên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm. Số người không
tham gia hoạt động kinh tế còn cao, số người thiếu công ăn việc làm còn đông
(32.594 người, tỷ lệ 5,3%). Thời gian lao động sử dụng ở mức độ thấp (mới đạt
khoảng 70%). Lao động qua đào tạo còn ít, đại bộ phận là lao động giản đơn, thủ
43
công; chủ yếu là lao động theo kinh nghiệm lưu truyền, tập quán. Trình độ học vấn,
tay nghề thấp. Toàn tỉnh tỷ lệ lao động qua đào tạo mới đạt 10,1% (khu vực nông
thôn chỉ đạt 6%) đã mang lại hiệu quả cho sản phẩm lao động còn đơn giản chưa có
sức cạnh tranh trong nước và khu vực [100, tr.3-4; 7-9].
2.1.4. Những vấn đề đặt ra trong công tác phát triển nguồn nhân lực
Ngày 5/5/1992 tỉnh Vĩnh Long đã chính thức đi vào hoạt động, việc tái lập
tỉnh là phù hợp với xu thế phát triển, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Đại hội
đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ V nhiệm kỳ (1991-1995) xác định: “Phải
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Coi trọng giáo dục chính trị, đạo đức,
truyền thống, lịch sử địa phương và kiến thức văn hóa, khoa học tự nhiên và xã hội,
đảm bảo đến năm 1995 thoát dốt cho đại bộ phận người từ 15 tới 35 tuổi” [23,
tr.56]. Đến Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long (khóa V) tiếp
tục khẳng định: Ra sức tạo một bước chuyển biến mới về chất lượng trong sự
nghiệp nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài gắn với chương trình
xóa đói giảm nghèo. Củng cố và nâng cao chất lượng trường trung học và cao đẳng
sư phạm, phối hợp với các trường dạy nghề của tỉnh và Trung ương đóng trên địa
bàn tỉnh mở các lớp dạy nghề, gắn học chữ với học nghề. Có kế hoạch bồi dưỡng,
đào tạo lại, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên. Phấn đấu đến năm 1995 hoàn thành chỉ
tiêu phổ cập tiểu học, xóa 50% mù chữ. Đến năm 2000 xóa xong mù chữ (trong độ
tuổi), hai phần ba cán bộ chủ chốt của tỉnh đủ chuẩn văn hóa. Nâng một bước chất
lượng lao động, đào tạo đủ nhân viên kỹ thuật cho các ngành kinh tế kỹ thuật của
tỉnh [91, tr.38-39].
Xuất phát yêu cầu phát triển NNL để thúc đẩy phát triển KT-XH, Đại hội
lần thứ VI của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long (1996-2000) xác định phát triển NNL là
một trong những giải pháp chủ yếu để thực hiện mục tiêu KT-XH của tỉnh trong
giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2000. Đại hội mạnh dạn nhìn thẳng vào sự thật và
đánh giá đúng sự thật về bối cảnh tình hình thực tế diễn ra, trong đó tập trung xác
định những vấn đề còn yếu kém trong đại hội trước để tập trung lãnh đạo. Đại hội
xác định một số vấn đề trọng tâm và chỉ đạo cụ thể như sau: Từ nay đến năm
2000, Vĩnh Long ra sức đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hành tiết
kiệm tăng tích lũy để tái đầu tư sản xuất, phấn đấu tăng trưởng bình quân (GDP)
đầu người đến năm 2000 tăng 1,7 lần so với năm 1995. Tiếp tục củng cố và giữ
44
vững ổn định về mọi mặt, bằng mọi giá khắc phục tình trạng hụt hẫng về đội ngũ
cán bộ lãnh đạo có trình độ đại học; đội ngũ trí thức là nhà quản lý, nhà nghiên
cứu, nhà giáo; đội ngũ lao động trình độ cao đang công tác các sở ban ngành tỉnh.
Mở rộng các loại hình thức đào tạo và dạy nghề để đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng về lao động kỹ thuật; khuyến khích đội ngũ cán bộ, công chức tự học để sớm
chuẩn hóa chức danh, rút ngắn khoảng cách về chất lượng NNL giữa vùng này với
vùng khác [122, tr.154].
Với ý nghĩa và tầm quan trọng về chăm lo phát triển nguồn lực con người
nhằm đẩy nhanh nhịp độ phát triển KT-XH, làm đòn bẩy thực hiện chiến lược phát
triển kinh tế 5 năm theo Nghị quyết của tỉnh Đảng bộ. Trong 5 năm đội ngũ NNL
của tỉnh Vĩnh Long từng bước được nâng lên cả về số lượng và chất lượng, góp
phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển KT-XH của tỉnh. Tuy nhiên tỉnh Vĩnh
Long vẫn còn trong tình trạng chậm phát triển, nền kinh tế thuần nông vẫn chưa
chuyển biến kịp với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, vốn đầu tư từ bên
ngoài chưa nhiều, trình độ dân trí thấp, đội ngũ CB,CC,VC còn nhiều bất cập so với
yêu cầu của công cuộc đổi mới, nguồn lực con người nói chung vẫn còn thiếu và
yếu. Có thể khái quát một số vấn đề đặt ra trong công tác phát triển NNL như sau:
Một là, để phát huy và khai thác tối đa ưu thế từ NNL đem lại, tỉnh Vĩnh
Long cần có chiến lược lâu dài, đột phá toàn diện trên các mặt và đồng thời có
những hoạch định chính sách phù hợp với xu thế phát triển chung của đất nước và
địa phương, đặc biệt là hình thành đội ngũ CB,CC,VC có trình độ chuyên môn cao,
đội ngũ lao động lành nghề. Đây cũng là mối quan tâm hàng đầu và cũng là trăn trở
khi nghiên cứu vấn đề này.
Hai là, là tỉnh có nền kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp là
chính nhưng nền nông nghiệp trong thời kỳ đổi mới phát triển chưa vững chắc,
ruộng vườn hoang hóa nhiều, sản xuất nông nghiệp mới chỉ khai thác trong điều
kiện tự nhiên sẵn có theo lối quảng canh, chưa vận dụng sự tiến bộ khoa học - kỹ
thuật vào sản xuất nông nghiệp. Nền công nghiệp vẫn còn nhỏ bé, tiểu thủ công
nghiệp chưa phát triển mạnh, máy móc, kỹ thuật và công nghệ còn lạc hậu. Hoạt
động thương mại và dịch vụ chưa có đầu tư thỏa đáng và phát triển mạnh mẽ,… Vì
vậy để phát triển NNL đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH trong thời kỳ phát triển đất
nước và hội nhập quốc tế, tỉnh Vĩnh Long cần có những chủ trương chính sách hợp
45
lý, đẩy mạnh công tác GD-ĐT, nhất là công tác giáo dục bậc đại học và sau đại học.
Đồng thời cần chú trọng công tác bố trí, sử dụng đội cán bộ trong hệ thống chính trị,
công tác phát hiện và trọng dụng nhân tài, hình thành được đội ngũ lao động có
trình độ cao đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế, thúc đẩy KT-XH phát triển.
Ba là, NNL vào thời điểm năm cuối 1991 đến năm 2000, lực lượng lao động
toàn tỉnh (từ 15 tuổi trở lên) chiếm khoảng 44% dân số, trong đó lao động nông
nghiệp chiếm trên 70% tổng số lao động toàn tỉnh [96], phần lớn lao động không có
việc làm ổn định, trình độ lao động rất thấp chủ yếu là học sinh mới tốt nghiệp phổ
thông cơ sở và phổ thông trung học, đa phần chưa có trình độ chuyên môn nhất
định. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức, viên chức, giáo
viên, bác sĩ vừa thiếu lại vừa yếu, hạn chế nhiều về kiến thức quản lý Nhà nước
cũng như trình độ chuyên môn, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức xã phường thị
trấn hầu hết chưa qua quá trình đào tạo kể cả bậc đại học, đặc biệt là đào tạo quản lý
Nhà nước trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là một trong những vấn đề
đặt ra đối với một địa phương có ưu thế về điều kiện vị trí địa lý và tiềm năng của
trung tâm đồng bằng sông Cửu Long. Nhiệm vụ của địa phương trong những năm
tiếp theo là tập trung phát triển NNL, nhất là NNL có trình độ chuyên môn là kỹ sư,
nhà nghiên cứu, nhà khoa học,...
Bốn là, trước yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH nhiệm vụ chủ yếu của Đảng bộ
tỉnh Vĩnh Long là cần có chiến lược đầu tư cho con người, lấy con người làm mục
tiêu, động lực để phát triển kinh tế. Mặt khác là tỉnh có bề dày quá trình lịch sử khai
khẩn vùng đất, có lợi thế rất lớn về điều kiện vị trí địa lý nhưng Vĩnh Long vẫn
chưa đạt được mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, GDP bình quân đầu người đạt
thấp, năng suất lao động thấp, sản xuất nông nghiệp vẫn là tự túc, tự cấp, tình trạng
nghèo đói vẫn chiếm tỷ lệ cao trong dân cư. Trình độ giáo dục các bậc học chưa
cao, chưa đạt được vị trí xứng tầm của một địa phương nằm giữa hai trung tâm kinh
tế lớn là thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ, nhất là NNL có trình độ
bậc đại học. Lực lượng lao động chuyên môn kỹ thuật, lao động lành nghề có trình
độ đại học, sau đại học còn thiếu và yếu, nhận thức của người dân về nhu cầu học
tập còn hạn chế, kinh phí cho sự nghiệp GD-ĐT trong các ngành nghề trọng yếu
như y tế, giáo dục, tài chính còn thấp chưa thỏa đáng. Công tác ứng dụng khoa học -
kỹ thuật và chuyển giao công nghệ còn chậm, các hoạt động văn hóa ở cơ sở chưa
46
sâu rộng và mức hưởng thu chưa cao, thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa,
thể thao còn hạn chế, tỷ lệ người nghèo mù chữ chiếm tỷ lệ cao trong dân cư, nhất
là vùng đồng bào dân tộc vùng sâu vùng xa. Chính vì vậy, phát triển NNL là điều
kiện tất yếu của sự phát triển, là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển lâu dài
và bền vững.
2.2. CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG
VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2005
2.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long về phát triển nguồn
nhân lực
Bước vào thế kỷ XXI, thành tựu KHCN ngày càng tác động mạnh mẽ đến
toàn nhân loại. Trong khi đó, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp chậm phát
triển, đất hẹp, người đông, nguồn tài nguyên ít. Con đường để đưa đất nước phát
triển, đủ sức cạnh tranh với các nước trên thế giới là nhanh chóng phát triển NNL
Do vậy, khâu đột phá quan trọng nhất là cải tiến hệ thống GD-ĐT để phát
triển NNL phục vụ CNH, HĐH. Trước tình hình đó, nối tiếp tư tưởng, chủ trương
về phát tiển NNL của các kỳ đại hội trước, Đại hội IX của Đảng (4/2001), đã nhấn
mạnh tầm quan trọng của sự nghiệp GD-ĐT: “Để đáp ứng yêu cầu về con người và
nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần tạo chuyển biến cơ bản về giáo dục - đào tạo” [30,
tr.201]. Đảng chỉ rõ đối tượng, nội dung và mục đích GD-ĐT là:
Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự
tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng
pháp luật, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu
nghèo hèn. Đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ
năng nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới,
có ý thức vươn lên về khoa học và công nghệ. Xây dựng đội ngũ công
nhân lành nghề, các chuyên gia và các nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà
kinh doanh, nhà quản lý [30, tr.201-202].
Đại hội xác định mục tiêu trong 10 năm tới là:
Tạo điều kiện cho mọi người, ở mọi lứa tuổi được học tập thường xuyên,
suốt đời. Có cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng trong hệ
thống giáo dục và đào tạo phù hợp yêu cầu học tập của nhân dân, yêu
47
cầu phát triển kinh tế - xã hội và các mục tiêu của Chiến lược. Mở rộng
đào tạo công nhân, kỹ thuật viên và nhân viên nghiệp vụ theo nhiều trình
độ. Phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo đại học, sau đại học; tập
trung đầu tư xây dựng một số trường đại học trọng điểm quốc gia ngang
tầm khu vực, tiến tới đạt trình độ quốc tế [30, tr.202-203].
Về loại hình, đối tượng và phạm vi lĩnh vực đào tạo, Đảng chủ trương:
Phát triển giáo dục thường xuyên và đào tạo từ xa. Đưa người giỏi đi đào
tạo ở các nước phát triển, khuyến khích tạo thuận lợi cho việc học tập và
nghiên cứu ở nước ngoài. Coi trọng đào tạo đội ngũ công nhân tay nghề
cao, kỹ sư thực hành và nhà kinh doanh giỏi. Ưu tiên đào tạo nhân lực
phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, miền núi, xuất khẩu lao
động, một số ngành mũi nhọn [30, tr.203].
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 7/2002) đã ban hành Kết luận số 14-KL/TW
Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, phương hướng phát triển
GD-ĐT, KH-CN từ nay đến năm 2005 và đến năm 2010. Kết luận đã nhấn mạnh
một số nhiệm vụ sau:
Một là, nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục và đào tạo nhân tài. Thực hiện
giáo dục toàn diện, tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, nhất là trong các
trường đại học, cao đẳng.
Hai là, tăng cường giáo dục hướng nghiệp, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân
lực của đất nước và các địa phương, vùng, miền. Một số trường đại học phải sớm
đạt chất lượng ở trình độ quốc tế. Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, phát
hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.
Ba là, phát triển hợp lý quy mô giáo dục trên cơ sở bảo đảm chất lượng và
điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với yêu cầu phát triển KT-XH, đào tạo với
sử dụng. Điều chỉnh cơ cấu đào tạo, tăng nhanh dạy nghề và trung học chuyên
nghiệp. Hiện đại hoá một số trường dạy nghề nhằm chuẩn bị đội ngũ công nhân bậc
cao có trình độ tiếp thu và sử dụng công nghệ mới và công nghệ cao. Phát triển giáo
dục không chính quy, các hình thức học tập cộng đồng ở các xã, phường gắn với
48
nhu cầu thực tế của đời sống KT-XH, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người có thể
học tập suốt đời, hướng tới xã hội học tập.
Trên cơ sở chủ trương của Đảng, Chính phủ cụ thể hóa và ban hành nhiều
văn bản liên quan đến phát triển NNL của cả nước nói chung.
Ngày 9/1/2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 02/2001/NĐ-CP quy định
chi tiết thi hành Bộ Luật Lao động và Luật Giáo dục về dạy nghề. Nghị định này đã
quy định những hình thức hoạt động dạy nghề và hoạt động dịch vụ tư vấn về dạy
nghề, các loại hình tổ chức cơ sở dạy nghề; quyền, lợi ích và trách nhiệm của cơ sở
dạy nghề, người dạy nghề, người học nghề; chính sách đầu tư, ưu đãi cho dạy nghề;
quản lý Nhà nước về dạy nghề. Loại hình này bao gồm: Trường dạy nghề, trung
tâm dạy nghề, lớp dạy nghề (gọi chung là cơ sở dạy nghề) được tổ chức độc lập
hoặc gắn với cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, cơ sở giáo dục khác.
Phương thức đào tạo nghề nhằm khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho tổ
chức, cá nhân trong nước và ngoài nước đầu tư xây dựng, phát triển cơ sở dạy nghề
đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH của đất nước.
Ngày 7/5/2001, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 74/2001/QĐ-
TTg về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn
2001 - 2005. Quyết định này đã chú trọng nâng cao kiến thức, năng lực quản lý,
điều hành và thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp CNH, HĐH.
Nhận rõ vị trí chiến lược phát triển NNL, ngày 9 tháng 1 năm 2003, Thủ
tướng Chính phủ ban hành Chương trình hành động theo Quyết định số
06/2003/QĐ-TTg về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Kết luận
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về giáo dục và đào
tạo. Đây là Chương trình hành động có ý nghĩa lịch sử đối với sự nghiệp CNH,
HĐH theo tinh thần Nghị quyết Trung ương hai khóa VIII (1996). Mục tiêu của
chương trình hành động xác định các nhiệm vụ của Chính phủ trong việc tổ chức
thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ phát triển GD-ĐT và dạy nghề.
Nhận thức toàn diện quan điểm của Đảng về công tác phát triển NNL, phát
huy những thành tích đã đạt được gần 10 năm tái lập tỉnh. Đại hội đại biểu Đảng
bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ VII (1/2001) xác định: Chăm lo công tác phát triển
NNL gồm đội ngũ cán bộ, công chức, lực lượng lao động qua đào tạo nghề và đội
49
ngũ công nhân có trình độ chuyên môn kỹ thuật, làm động lực để phát triển KT-
XH trong giai đoạn CNH, HĐH [100, tr.89]. Đại hội nhấn mạnh: Vấn đề con
người luôn là yếu tố hàng đầu của sự phát triển kinh tế, đặc biệt trong điều kiện
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Để có nguồn nhân lực phù hợp với
yêu cầu phát triển CNH, HĐH, tăng trưởng và phát triển kinh tế phải coi việc đầu
tư cho giáo dục - đào tạo là một trong những hướng đi chính của đầu tư phát triển;
phải đào tạo một cơ cấu nhân lực đồng bộ bao gồm các lĩnh vực khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội, khoa học - kỹ thuật, cán bộ quản lý nghiệp vụ kinh tế,
công nhân kỹ thuật [100, tr.90].
Đại hội xác định nhiệm vụ trọng tâm: Sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đòi
hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, nhằm xây dựng những con người và thế
hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức
trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc, có nǎng lực thực hành
nghề nghiệp, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri
thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ nǎng thực hành giỏi,
có tác phong công nghiệp [100, tr.90-91].
Về mục tiêu, Đại hội chỉ rõ: Phát triển nguồn lực con người có tính tổ chức
kỷ luật, có sức khoẻ, là những người có năng lực chuyên môn giỏi, có phẩm chất
đạo đức tốt vì mục đích lý tưởng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân, trên tất cả
mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học - kỹ thuật và lực lượng
lao động lành nghề có trình độ chuyên môn cao [100, tr.53].
Thực hiện chủ trương trên, Đại hội đã đề ra những giải pháp trọng tâm cơ
bản sau:
Một là, tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục trong nhân dân thực sự
coi giáo dục - đào tạo, là quốc sách hàng đầu. Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của
giáo dục và đào tạo là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó
với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí
kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc; sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước là nhằm giữ gìn và phát huy các giá trị vǎn hoá của dân tộc, có nǎng lực
tiếp thu tinh hoa vǎn hoá nhân loại, phát huy tiềm nǎng của con người Việt Nam, có
ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học
và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ nǎng thực hành giỏi, có tác phong
50
công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật; có sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng
chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên". Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn
Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Mọi người đi học, học thường xuyên, học
suốt đời. Các cấp uỷ và tổ chức Đảng, các cấp chính quyền, các đoàn thể nhân dân,
các tổ chức kinh tế, xã hội, các gia đình và các cá nhân đều có trách nhiệm trách
nhiệm góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, đóng góp trí tuệ, nhân lực,
vật lực, tài lực cho giáo dục - đào tạo. Đồng thời tiếp tục quán triệt sâu sắc và cụ thể
hóa các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện nền
giáo dục và đào tạo; tạo sự đồng thuận cao coi giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu, có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của địa phương. Cùng
với đó, cần nâng cao nhận thức về giáo dục hướng nghiệp và phân luồng học sinh,
hướng các hoạt động hướng nghiệp đáp ứng thị trường lao động, phục vụ phát triển
KT-XH. Ngành giáo dục cũng cần tăng cường kỷ cương, kỷ luật và nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện trong các cơ sở giáo dục, đào tạo. Bên cạnh đó các cơ sở
giáo dục cần tập trung đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, đáp ứng được đặc
thù của địa phương, nhất là trong các ngành nghề, lĩnh vực công nghệ thông tin, y
tế, tài chính, ngân hàng để đáp đáp ứng nhu cầu thị trường lao động trong thời kỳ
hội nhập quốc tế [99]; [100].
Hai là, tập trung mọi nguồn vốn để chăm lo phát triển nguồn lực con người
đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết Trương ương 2 khóa VIII chỉ rõ:
“Phát triển giáo dục - đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến
bộ khoa học - công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh. Coi trọng cả ba mặt: mở
rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Thực hiện giáo dục kết
hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, lý luận gắn với thực tế, học đi đôi
với hành”. Cần chú trọng xây dựng các chương trình mục tiêu quốc gia, trước hết là
chương trình mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực trong hệ thống cơ quan nhà nước,
phấn đấu đến năm 2005 có khoảng 10.000 cán bộ lãnh đạo quản lý, đội ngũ trí thức,
chuyên gia, nhà khoa học, công nhân kỹ thuật lành nghề [100, tr.86] được đào tạo
theo các khu vực kinh tế Nhà nước trong hệ thống các cơ quan nhà nước và nguồn
lực lao động phục vụ cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Tăng cường cơ sở vật
chất, ngân sách và đầu tư hợp lý cho các cơ sở đào tạo từ tỉnh đến huyện để mở
rộng quy mô đào tạo, bồi dưỡng ngành nghề theo kế hoạch cho đội ngũ lao động,
51
chăm lo xây dựng đội ngũ giáo viên trong các trường đại học, cao đẳng, trung cấp
chuyên nghiệp. Trích 1,5% nguồn thu ngân sách hàng năm của Tỉnh hỗ trợ đào tạo
nguồn nhân lực cho các sở, ban, ngành, đoàn thể, UBND các huyện, thị xã lập dự
toán hàng trình UBND tỉnh phê duyệt; Đối với chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn
nhân lực là cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ thuộc diện quy hoạch hỗ trợ 100% kinh
phí đào tạo; CBCCVC và người lao động trong các cơ quan hành chính sự nghiệp
và lực lượng lao động trong các khu vực kinh tế nhà nước được hỗ trợ theo quy
định hiện hành của Tỉnh. Khuyến khích các tổ chức và cá nhân thực hiện các
chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội mang lại hiệu quả cao đã được
UBND tỉnh phê duyệt sẽ được tỉnh hỗ trợ tối đa không quá 100 triệu đồng/một dự
án hoặc một chương trình. Đẩy mạnh cơ chế chính sách hỗ trợ kinh phí đầu tư cho
các trung tâm dạy nghề công lập huyện, thành phố về nhà xưởng, trang thiết bị dạy
nghề, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực hoạt động và chất lượng dạy nghề cho lao
động nông thôn ở địa phương. Thực hiện tốt Quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề
tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2002 - 2010, nhất là phát triển các trung tâm dạy nghề
tuyến huyện phục vụ cho dạy nghề lao động nông thôn. Đẩy mạnh đầu tư thực hiện
Dự án dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn và dạy nghề cho các đối tượng
lao động đặc thù ở khu vực nông thôn để góp phần nâng cao năng suất, hiệu quả sản
xuất nông nghiệp, phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, tạo việc làm, tăng
thu nhập; chuyển dịch một bộ phận lao động nông nghiệp trẻ sang làm việc trong
lĩnh vực công nghiệp - dịch vụ.
Kết hợp với các trường đào tạo chuyên môn trên địa bàn tỉnh và các trường
đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp ở khu vực thành phố Hồ Chí Minh, Cần
Thơ đào tạo đội ngũ các nhà doanh nghiệp giỏi, công nhân có tay nghề trong nhiều
lĩnh vực ngành nghề. Nâng cấp Trung tâm giáo dục thường xuyên thành đại học
Cộng đồng, đầu tư mở rộng Trường Cao đẳng sư phạm để đáp ứng sự nghiệp giáo
dục, đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh nhà. Chú trọng công tác trọng dụng và sử
dụng nhân tài [99]; [100].
Ba là, phát triển ngành nghề, lĩnh vực đáp ứng nhu cầu xã hội, tạo nền tảng
vững chắc cho phát triển nguồn nhân lực. Tiếp tục thực hiện Đề án số 02-ĐA/TU
(1997) [3] nhằm tạo nguồn CB,CC,VC và lực lượng lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật nhằm đảm bảo lực lượng kế thừa phục vụ lâu dài. Các trường đại học,
52
cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp cần có sự phối hợp chặt chẽ để phát triển đa
dạng các ngành nghề đào tạo nhằm mục tiêu góp phần thúc đẩy tiến trình CNH,
HĐH ở địa phương và vùng. Trong đó chú trọng các ngành kỹ thuật nông nghiệp,
công nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghệ sinh học, công nghệ chế biến
sau thu hoạch, công nghệ thực phẩm, kinh tế, pháp luật và y tế.
Mạnh dạn phát triển đa dạng hóa hình thức đào tạo kể cả chính quy và đào
tạo thường xuyên bao gồm các hình thức: đào tạo liên thông, vừa học vừa làm, từ xa
cho những ngành nghề có thế mạnh của địa phương như Công nghệ sau thu hoạch,
Công nghệ sinh học, điện và điện tử, cơ khí động lực, cơ khí chế tạo, điều dưỡng,
chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Tăng cường hợp tác, gắn kết giữa nhà trường và
doanh nghiệp trong đào tạo và sử dụng nhân lực cho xã hội, đáp ứng yêu cầu của
các nhà sử dụng lao động. Xây dựng đội ngũ giảng viên có quy mô hợp lý, phù hợp
với cơ cấu ngành nghề, bảo đảm chất lượng, có khả năng tiếp thu và ứng dụng khoa
học, công nghệ mới. Tập trung xây dựng đội ngũ giảng viên cốt cán về các lĩnh vực
chuyên môn ở các trường đại học chuyên ngành đóng trên địa bàn tỉnh.
Bốn là, các cấp ủy Đảng phải làm tốt công tác quy hoạch, xây dựng chiến
lược phát triển nguồn lực con người, để từ đó có kế hoạch cụ thể đào tạo, đào tạo lại
và phát triển NNL có chất lượng cao. Chú trọng đào tạo những cán bộ có năng lực
còn trẻ, cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ nữ và cán bộ dân tộc thiểu số bằng tất cả
mọi hình thức tập trung, tại chức, dài hạn, ngắn hạn, gửi đi đào tạo ở các trường
Trung ương, ở nước ngoài hoặc tại tỉnh. Đầu tư các cơ sở giáo dục nhằm tǎng quy
mô học nghề bằng mọi hình thức để phấn đấu hàng năm đạt 10 - 15% đội ngũ lao
động được qua đào tạo đến nǎm 2005. Kế hoạch đào tạo phải theo sát chương trình
KT-XH của địa phương nhằm phục vụ cho sự chuyển đổi lao động cho CNH, HĐH
nông thôn và nông nghiệp. Tǎng cường đầu tư, củng cố và phát triển các trường dạy
nghề, xây dựng trường trọng điểm, nâng cấp Trung tâm đào tạo thường xuyên thành
trường Cao đẳng cộng đồng, quy hoạch các trường trung cấp: y tế, tài chính, lương
thực - thực phẩm thành trường Đại học trực thuộc Tỉnh. Khuyến khích các trường
công lập của Trung ương và địa phương đóng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long mở rộng
các hình thức đào tạo thường xuyên với loại hình học từ xa. Đào tạo đủ công nhân
lành nghề cho các khu công nghiệp, khu chế xuất và công nhân có nhu cầu xuất
khẩu lao động. Có chính sách thỏa đáng để thu hút cán bộ có năng lực từ nơi khác
53
đến và về cơ sở vùng sâu, vùng xa làm việc. Phối hợp chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng với việc sử dụng lao động và có phương án phù hợp sử dụng phát huy
có hiệu quả chất xám của đội ngũ cán bộ đại học và trên đại học, nâng cao hiệu
quả của cán bộ làm lãnh đạo, quản lý ở các khu vực kinh tế Nhà nước và các khu
vực khác. Kết hợp giữa đào tạo kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp vỡi bồi dưỡng
phẩm chất đạo đức và thực hiện chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong các cơ
quan nhà nước. Quan tâm đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý, kỹ thuật, nghiệp
vụ và công nhân các doanh nghiệp. Phối hợp với Trường Chính trị tỉnh và các
Trường Chính trị thành phố, huyện thị tǎng cường đào tạo và bồi dưỡng cán bộ
lãnh đạo, cán bộ quản lý các cấp các ngành. Có chính sách quan tâm đào tạo bồi
dưỡng cán bộ chủ chốt xuất thân từ công nhân, nông dân và lao động ưu tú, con
em các gia đình thuộc diện chính sách. Xây dựng chính sách đãi ngộ cho đội ngũ
cán bộ là lãnh đạo, quản lý để phát huy tài năng cống hiến phục vụ lâu dài. Thực
hiện quy hoạch, đào tạo nâng cao và có chính sách thỏa đáng đối với cán bộ khoa
học kỹ thuật, kỹ sư, bác sĩ và đại học chuyên ngành phục vụ cho sự nghiệp phát
triển kinh tế của địa phương. Có hướng tuyển dụng sinh viên đại học giỏi mới ra
trường về công tác ở tỉnh, ưu tiên sinh viên được đào tạo các ngành trong lĩnh vực
kinh tế, lĩnh vực nông nghiệp [100, tr.70-75].
Thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long về phát
triển NNL, ngày 19 tháng 4 năm 2002 tỉnh ủy ban hành Chương trình hành động số
05-CTr/TU về đào tạo nhân lực và giải quyết việc làm cho người lao động tỉnh
Vĩnh Long, giai đoạn 2001 - 2005; và Chương trình hành động số 08-CTr/TU, ngày
1 tháng 10 năm 2002 của tỉnh ủy về thực hiện kết luận Hội nghị lần thứ VI Ban
Chấp hành Trung ương (khóa IX) về giáo dục - đào tạo, KHCN và nhiệm vụ phát
triển NNL đến năm 2010. Đây là hai Chương trình hành động của Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Long khi bước vào thế kỷ XXI với mục tiêu: Đầu tư phát triển NNL là đầu tư
quan trọng nhất, có hiệu quả nhất, là yếu tố quyết định bảo đảm thắng lợi của sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đồng thời, đào tạo nhân lực và giải quyết việc làm
cho người lao động là đảm bảo cho phát triển KT XH, an ninh, quốc phòng. Trong
đó vai trò GD-ĐT, KH-CN có nhiệm vụ quan trọng trong công tác phát triển NNL
đặc biệt là ngũ CB,CC,VC, công nhân kỹ thuật lành nghề [104].
54
Chương trình hành động cũng đã đánh giá toàn diện NNL từ khi tái lập tỉnh
đến nay, Tỉnh đã chú trọng đến sự phát triển của lực lượng lao động bằng việc đào
tạo kiến thức và sử dụng đội ngũ CB,CC,VC trong các cơ quan nhà nước bước đầu
đã thể hiện năng lực nhiệm vụ chính trị được giao. Đối với lực lượng lao động
chuyên môn kỹ thuật có tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, “đảm bảo giải
quyết hàng năm khoảng 10.000 lao động” [100, tr.117].
Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật được tạo điều kiện
tham gia trực tiếp sản xuất tại các trung tâm, chi cục, trạm, trại, các
doanh nghiệp Nhà nước, phát huy được thế mạnh của tỉnh nông nghiệp.
Từng bước sắp xếp, bố trí cơ cấu lao động theo hướng chuyển giao và
ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống thuộc lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn [104, tr.1-3].
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Chương trình hành động số 08-
CTr/TU đã chỉ ra những tồn tại, yếu kém của công tác phát triển NNL như:
Nguồn nhân lực còn mất cân đối do thiếu hụt nguồn lực lao động thuộc các
ngành nghề, đặc biệt là NNL khu vực nông nghiệp, nông thôn. Phân bố ngành nghề
đào tạo ở khu vực thành thị và khu vực nông thôn, đặc biệt là vùng, sâu vùng xa còn
nhiều bất cập. Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn chưa được đào tạo tương
xứng, vẫn còn thiếu nguồn lực lao động chất lượng cao (sau đại học) đối với khu
vực nông thôn. Cơ chế chính sách đầu tư cho phát triển NNL chưa được quan tâm
đúng mức, mặc dù NNL qua hai nhiệm kỳ có tăng đáng kể nhưng tình hình chung
vẫn chưa có sự đột phá và bền vững. NNL được đào tạo ở một số ngành, lĩnh vực
về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ hầu như chưa xác định được nhiệm
vụ và giải pháp cụ thể trong thời gian 5 năm 10 năm, chưa đặt nhiệm vụ trọng tâm
phát triển NNL gắn với các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, công nghệ thông tin
để làm mũi nhọn nền kinh tế, tạo bước đi đột phá góp phần đẩy mạnh tốc độ tăng
trưởng kinh tế trong những thập niên tiếp theo. Nền kinh tế của tỉnh vẫn còn trong
tình trạng chậm phát triển, GDP bình quân đầu người vẫn còn thấp so với một số
tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Nguồn lực con và diện mạo vùng đất
tỉnh Vĩnh Long chưa thật sự khởi sắc, chưa khai thác hết nguồn lực vốn có để làm
giàu quê hương, vùng đất trù phú thiên nhiên ban tặng vẫn chưa có sức hút mạnh
55
mẽ như vốn có của mảnh đất “đất lành chim đậu” và chảy máu chất xám ngày càng
tăng [122, tr.63, 110-111].
Trên cơ sở đó, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long đã đề ra nhiệm vụ trọng tâm phấn
đấu đến năm 2010 cho đối tượng CBCCVC trong các cơ quan nhà nước và công
nhân kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn được đào tạo bậc từ đại học
trở lên đạt 40% [100, tr.88] theo Nghị quyết Đại hội lần thứ VII (2001). Đồng thời,
tăng cường chính sách bồi dưỡng NNL đã qua đào tạo từ bậc trung học chuyên
nghiệp trở lên có xuất thân từ thành phần công nhân, nông dân, sinh viên ưu tú, con
em các gia đình thuộc diện chính sách tiến tới xây dựng NNL chất lượng cao trong
các cơ quan nhà nước. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long xác định một số nhiệm vụ trọng
tâm trong Chương trình hành động số: 05-CTr/TU và Chương trình hành động số
08-CTr/TU như sau:
Thứ nhất, về phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo
định hướng đến 2010. Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt các nội dung cơ bản của Nghị
quyết Trung ương 2 khóa VIII. Phấn đấu làm cho giáo dục thực sự là quốc sách
hàng đầu, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong nền giáo dục của tỉnh theo hướng
“chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
nhằm đào tạo có chất lượng NNL, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH theo
định hướng XHCN trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế tri thức.
Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối
sống trong các Trường Chính trị, các trường đại học, cao đẳng, trường nghề đóng
trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long, kết hợp hài hòa giữa “dạy chữ, dạy người, dạy nghề”,
song song với việc nâng cao chất lượng giáo dục cần phải chú trọng phát hiện, đào
tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài. Tập trung đẩy mạnh và nâng cao trình độ nguồn
nhân lực đảm bảo tính đồng bộ về cơ cấu và chuẩn hóa trình độ đào tạo.
Phát triển giáo dục đại học không chính quy ở hầu hết các trung tâm huyện,
thị, thành phố nhằm gắn kết chặt chẽ yêu cầu thực tế đời sống kinh tế, xã hội địa
phương, tạo môi trường cho mọi người tham gia học tập suốt đời.
Trên cơ sở đảm bảo chất lượng NNL và nâng cao hiệu quả GD-ĐT cần phải
gắn với phát triển KT-XH phục vụ quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, cơ cấu
lao động. Mở rộng quy mô đào tạo theo hướng dạy nghề ở các trường trung học
chuyên nghiệp.
56
Thực hiện chính sách điều tiết của Nhà nước tạo cơ hội học tập cho mọi
người, đặc biệt là tạo cơ hội học tập bậc đại học, cao đẳng cho con em gia đình
chính sách, đồng bào dân tộc, con em vùng sâu vùng xa nhằm đào tạo nguồn lực
con người tại chỗ. Thực hiện có hiệu quả các chế độ chính sách liên quan đến đối
tượng được đi học, cần thiết hỗ trợ kinh phí cho những ngành nghề có vị trí ưu tiên
như: kinh tế, nông nghiệp, xây dựng, bác sĩ.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự quản lý điều hành của
Chính quyền, sự hỗ trợ của các đoàn thể và các tổ chức xã hội trong công tác GD-
ĐT để nâng cao chất lượng NNL. Đây cũng là một trong những tiêu chí góp phần
xây dựng bộ máy tổ chức trong hệ thống chính trị vững mạnh ở địa phương.
Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
đến năm 2010 nhằm thực hiện mục tiêu NNL tham gia ứng dụng khoa học kỹ thuật
vào trong sản xuất, thúc đẩy các ngành nông nghiệp, công nghiệp, thương mại -
dịch vụ, du lịch phát triển, nhất là NNL phục vụ trực tiếp cho quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của tỉnh [104, tr.2-11].
Tiếp tục thực hiện các quan điểm, chủ trương Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long đáp
ứng với yêu cầu trong tình hình mới. Ngày 30 tháng 8 năm 2004, tỉnh uỷ Vĩnh
Long ban hành Kế hoạch số 39-KH/TU về việc xây dựng và nâng cao chất lượng
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trên địa bàn Tỉnh Vĩnh Long. Kế
hoạch nêu rõ: Để đáp ứng nhu cầu việc làm và định hướng nghề nghiệp, cần chú
trọng: Nâng cao chất lượng đào tạo nghề, chuẩn bị cho người lao động những khả
năng thích ứng với kinh tế thị trường định hướng XHCN; gắn đào tạo với nhu cầu
sử dụng và việc làm; mở rộng đào tạo công nhân lành nghề, kỹ thuật viên, nhân
viên nghiệp vụ có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp.
Tỉnh ủy Vĩnh Long xác định, việc phát triển giáo dục là nhằm đào tạo NNL
cho tỉnh, trong đó đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đóng vai trò then
chốt cho sự nghiệp phát triển GD-ĐT tại địa phương và yêu cầu “xây dựng được
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý đáp ứng đến cuối nhiệm kỳ đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục tăng lên 10.515 người” [105].
Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục trong thời kỳ
CNH, HĐH đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong tỉnh có những hạn
chế về phân bổ nguồn lực giáo viên tham gia giảng dạy, đặc biệt ở vùng nông thôn,
57
vùng sâu vùng xa. Bên cạnh đó năng lực của đội ngũ một số cán bộ quản lý giáo
dục còn hụt hẫng so yêu cầu phát triển giáo dục tỉnh nhà, chế độ, chính sách tuy
được cải thiện, nhưng chưa thật sự là đòn bẩy để tạo ra động lực phát huy tiềm năng
của cán bộ, giáo viên.
Xuất phát từ tình hình trên đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục trong tỉnh một cách toàn diện hơn. Đây là nhiệm vụ vừa đáp ứng
yêu cầu trước mắt, vừa mang tính chiến lược lâu dài trong sự nghiệp phát triển giáo
dục và đào tạo của tỉnh, cụ thể giai đoạn mới - giai đoạn (2005-2010) là “phải xây
dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hoá, bảo đảm chất
lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu” [105].
Để đạt được mục tiêu, Đảng bộ đề ra một số nhiệm vụ và giải pháp sau:
Củng cố, nâng cao chất lượng trường Cao đẳng sư phạm của tỉnh và quy
hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục có trình độ, năng lực đáp ứng kịp
yêu cầu CNH, HĐH; Tổ chức điều tra đánh giá đúng thực trạng đội ngũ giáo viên,
cán bộ quản lý giáo dục trong tỉnh về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp
giảng dạy, năng lực quản lý trong nhà trường và các cơ quan quản lý giáo dục.
Đổi mới phương pháp giáo dục theo hướng hiện đại và phù hợp với thực tế
địa phương; Đổi mới nâng cao chất lượng quản lý đội ngũ giáo viên và cán bộ quản
lý giáo dục trong tỉnh theo hướng phân công, phân cấp hợp lý giữa các cấp, các
ngành về trách nhiệm, quyền hạn quản lý nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
Kiểm tra việc thực hiện chính sách, chế độ đối với đội ngũ giáo viên, cán bộ
quản lý trên địa bàn tỉnh quản lý. Có chế độ phụ cấp ưu đãi thích hợp và kết hợp
giữa giảng dạy và nghiên cứu khoa học đối với đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý
giáo dục. Có chính sách thu hút chất lượng xám và sinh viên học các ngành học sư
phạm, quản lý giáo dục khi ra trường trở về phục vụ quê hương;
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với việc xây dựng và
nâng cao chất lượng, đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục trong tỉnh, làm
cho nhân dân và toàn xã hội nhận thức rõ vai trò quan trọng hàng đầu của đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong việc đào tạo NNL cho địa phương và
đất nước.
Như vậy có thể khẳng định rằng, phát triển NNL là một trong những nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu, là vấn đề sống còn quyết định sự nghiệp CNH, HĐH của
58
tỉnh Vĩnh Long. Là cơ sở quan trọng để thực hiện thành Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX và Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ VII đề ra về phát
triển NNL.
2.2.2. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long chỉ đạo phát triển nguồn nhân lực
2.2.2.1. Nguồn nhân lực cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan
nhà nước thuộc hệ thống chính trị
Cùng với cả nước Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long đã dồn sức tập trung lãnh đạo
phát triển NNL theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ
VII (2001) và nhiệm vụ trọng tâm trong Chương trình hành động số 05-CTr/TU
(2002) và Chương trình hành động số 08-CTr/TU (2002). Tỉnh ủy đã chỉ đạo các tổ
chức Đảng, Chính quyền huyện, thị ủy, đảng uỷ trực thuộc và các sở, ban, ngành,
đoàn thể, đơn vị trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long tiến hành triển khai sâu rộng chủ
trương của Đảng bộ về các mục tiêu, giải pháp phát triển NNL.
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long đã chỉ đạo các ngành các cấp liên quan, xây dựng
cơ chế chính sách phát triển NNL có trình độ chuyên môn cao cho các lĩnh vực kinh
tế, nông nghiệp, giáo dục, bác sỹ, tài chính, ngân hàng, xây dựng và chính sách bồi
dưỡng sử dụng nhân tài để làm cho tỉnh tránh tình trạng tụt hậu về nguồn lực con
người có trình độ cao trong các cơ quan bộ máy nhà nước và nguồn lực lao động có
tay nghề ở các khu vực kinh tế Nhà nước và các khu vực khác như tinh thần Đại hội
VII tỉnh Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long (1/2001): Không thể xem nhẹ công tác đào tạo,
bồi dưỡng, cần bố trí những con người có năng lực thật sự, lựa chọn những đối
tượng được đào tạo chuyên môn giỏi để đảm nhận vai trò chủ chốt trong các cơ
quan nhà nước và nguồn lực lao động có tay nghề ở các khu vực kinh tế do Nhà
nước quản lý. Bên cạnh đó cần thực hiện chính sách bồi dưỡng trọng dụng nhân tài
bằng nhiều hình thức, có thể dùng chính sách đãi ngộ bằng vật chất và tinh thần để
bổ sung NNL của tỉnh, góp phần tích cực định hướng phát triển nền kinh tế của tỉnh
nhà [99, tr.53-54].
Đảng bộ đã phân công đồng chí Phan Đức Hưởng - Phó Bí thư Tỉnh ủy phụ
trách lãnh đạo lĩnh vực văn hóa - xã hội và giao trực tiếp Ban Tổ chức tỉnh ủy, Sở
Nội vụ, Trường Chính trị Phạm Hùng tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng NNL đến năm 2010 theo tinh thần Nghị quyết Trung
ương lần thứ hai (1996) và Nghị quyết Trung ương lần thứ ba (1997) khóa VIII.
59
Ngày 27 tháng 7 năm 2001, UBND tỉnh Vĩnh Long ban hành Chỉ thị số
20/CT.UBT về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ - công chức giai đoạn 2001 - 2005 của
tỉnh Vĩnh Long. Chỉ thị đề ra mục tiêu gồm hai đối tượng CB,CC,VC trong các cơ
quan nhà nước sau:
Đối với CB,CC,VC hành chính: Đảm bảo 100% CB,CC,VC hành chính
thuộc các ngạch chuyên viên chính, chuyên viên đáp ứng yêu cầu theo tiêu chuẩn
ngạch về kiến thức quản lý nhà nước và lý luận chính trị; Những công chức dưới 50
tuổi tính đến năm 2001 thuộc các ngạch chuyên viên chính và chuyên viên chưa có
trình độ đại học phải được đào tạo trình độ đại học, bước đầu hình thành đội ngũ
chuyên gia đầu ngành về các lĩnh vực hành chính.
Đối với CB,CC,VC sự nghiệp: Phấn đấu đến năm 2005 có 50% CB,CC,VC
sự nghiệp được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp
vụ, 100% được bồi dưỡng về kiến thức pháp luật và đạo đức công chức.
Ủy ban nhân dân tỉnh cũng đề ra tiến độ và và nội dung đào tạo, bồi dưỡng
cho từng đối tượng. Trong đó: Đối tượng CB,CC,VC hành chính phải tập trung vào
những nhiệm vụ đào tạo như: Đào tạo tiền công vụ, tiêu chuẩn ngạch về kiến thức
quản lý nhà nước, đào tạo trình độ đại học và sau đại học, đào tạo bồi dưỡng cán bộ
nguồn để hình thành đội ngũ chuyên gia đầu ngành về các lĩnh vực quản lý nhà
nước tham gia hoạch định các chính sách phát triển KT-XH tỉnh nhà cho những giai
đoạn tiếp theo. Về bồi dưỡng, UBND tỉnh căn cứ Quyết định 874/TTg ngày 20
tháng 11 năm 1996 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đào tạo, bồi dưỡng
CB,CC,VC nhà nước phải đảm bảo về ngoại ngữ, tin học, bồi dưỡng kiến thức
nghiệp vụ. Đối với cán bộ lãnh đạo quản lý chủ chốt cấp huyện, thị xã và các sở,
ban ngành tỉnh chú trọng việc đào tạo về trình độ đại học và sau đại học để đảm bảo
năng lực lãnh đạo và quản lý điều hành chuẩn bị công tác dự nguồn cán bộ cho
nhiệm kỳ tới, phấn đấu đến năm 2005 có 100% cán bộ thuộc đối tượng nói trên có
trình độ đại học về chuyên môn, đồng thời đảm bảo được bồi dưỡng về kiến thức
quản lý nhà nước vì đây là đối tượng phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp cải cách hành
chính của tỉnh trong công cuộc CNH, HĐH đất nước.
Riêng đối với CB,CC,VC sự nghiệp cần được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức
về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, phương pháp thực hiện công vụ, bảo đảm mỗi
năm có ít nhất 10% công chức sự nghiệp được bồi dưỡng theo yêu cầu. Đồng thời
60
cần đẩy mạnh việc bồi dưỡng kiến thức theo tiêu chuẩn ngạch cho công chức sự
nghiệp. Hàng năm tổ chức bồi dưỡng nâng cao kiến thức pháp luật và đạo đức công
chức cho 20% công chức sự nghiệp thuộc các lĩnh vực y tế, giáo dục, tư pháp, tài
chính - ngân hàng,..
Là tỉnh đồng bằng còn nhiều khó khăn về mọi mặt, UBND tỉnh chú ý đến
việc tập trung đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật có
trình độ cao, các chuyên gia đầu ngành, đặc biệt là những ngành kinh tế, khoa học,
xã hội và các ngành kỹ thuật mũi nhọn của tỉnh làm cơ sở, tiền đề cho việc phát
triển kinh tế bền vững trong những năm tiếp theo. Phấn đấu đến năm 2005 đào tạo
được 50% đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật có trình độ cao đáp ứng những ngành
nghề, lĩnh vực mũi nhọn của địa phương.
Từ sự chỉ đạo của UBND tỉnh, trong nhiệm kỳ 5 năm (2001-2005) của Đại
hội lần thứ VII Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long, NNL địa phương đã tăng lên đáng kể. Số
lượng CB,CC,VC hành chính và sự nghiệp tỉnh đưa đi đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng
được nhu cầu lực lượng NNL thời kỳ CNH, HĐH. (Xem phụ lục 4, 5, 6, 7).
Nhìn chung, số lượng NNL có tăng như tốc độ tăng không đáng kể, đặc biệt
là NNL có trình độ sau đại học vẫn chiếm tỷ lệ rất thấp so với mức độ tăng trưởng
KT-XH toàn tỉnh. Đồng thời điểm chung của NNL địa phương là CB,CC,VC có
trình độ chuyên môn kỹ thuật vẫn còn thấp và phân bố không đồng đều. Có thể khái
quát những kết quả về công tác đào tạo NNL là đội ngũ CB,CC,VC trong các cơ
quan nhà nước như sau:
Công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước, quản lý hành chính
nhà nước và chuyên môn nghiệp vụ. Tỉnh đã tập trung đào tạo cho các đối tượng là
cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức, viên chức hành chính sự nghiệp cấp tỉnh,
huyện nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước ở địa
phương, đồng thời thực hiện tốt công tác cải cách hành chính và dự nguồn cán bộ,
công chức cho những năm tiếp theo. Nhận thức rõ vấn đề này, trong 05 năm đã cử
đi bồi dưỡng chuyên viên cao cấp 08 người, đại học và trên đại học 6 người (chủ
yếu cấp trưởng phòng, giám đốc sở, ban ngành) và tập trung mở nhiều lớp đào tạo
bồi dưỡng quản lý nhà nước ngạch chuyên viên chính là 231 người, chuyên viên
2.873 người, cán sự 137 người, tổ chức bồi dưỡng ngắn hạn nhằm cập nhật hoá chủ
trương đường lối về công tác quản lý nhà nước cho cán bộ, công chức trong tỉnh
61
được 1.798 người. Về chuyên môn nghiệp vụ đã thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cho
CBCCVC có trình độ sau đại học là 142 người, đại học 3.311 người, trong đó có
261 người học lớp Đại học hành chính hệ không tập trung. Đối với trung cấp hành
chính văn phòng, trung cấp hành chính, trung cấp tài chính kế toán đã bồi dưỡng
trên 2000 người, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ 4.761 người (trong đó có 3.175 đại
biểu Hội đồng nhân dân huyện, thị xã và cơ sở nhiệm kỳ 2004-2009 và 846 trưởng
ấp, khóm nhiệm kỳ 2004-2005). Ngoài ra, từ năm 2001 đến năm 2005, Trường Cao
đẳng cộng đồng đã mở 05 lớp Đại học Luật tại chức với 601 học viên. Tháng
12/2004, Sở Nội vụ phối hợp với Bộ Nội vụ tổ chức Bồi dưỡng kiến thức quản lý
nhà nước cho đại biểu Hội đồng nhân dân của 05 tỉnh là Vĩnh Long, Đồng Tháp,
Bến Tre, An Giang, Tiền Giang tổng số có 252 đại biểu dự học (tỉnh Vĩnh Long có
47 đồng chí) [151].
Công tác đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ Anh văn và Tin học, Sở Nội vụ đã
kết hợp với Trường Cao đẳng cộng đồng mở 09 lớp Anh văn theo chương trình
422, có 03 lớp trình độ A, 05 lớp trình độ B và 01 lớp trình độ C, tổng cộng có 362
học viên. Đối với các lớp Tin học đã mở được 08 lớp trong đó có 05 lớp trình độ A,
03 lớp trình độ B, tổng số có 813 học viên của các sở, ngành, huyện, thị xã và cơ sở.
Việc đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức sự nghiệp của tỉnh tuy chưa nhiều nhưng chất lượng hiệu quả được nâng lên,
phần nào đã đáp ứng yêu cầu công việc nhất là cấp cơ sở. Tổng số CB,CC,VC sự
nghiệp đã qua đào tạo, bồi dưỡng quản lý nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ và
ngoại ngữ, tin học trong 05 năm có 23.328 lượt người, trong đó có 256 đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp huyện, thị trong cả nhiệm kỳ.
Việc thực hiện các chỉ tiêu cụ thể. Đến năm 2005 CB,CC,VC được đào tạo,
bồi dưỡng theo ngạch chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp chưa
đạt yêu cầu đề ra. Đây là một trong những khó khăn để phát triển NNL theo
hướng toàn diện. Hầu hết các chỉ tiêu như đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý
nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ có trình độ sau đại học cho cán bộ chủ chốt của
các sở, ngành, huyện, thị nói chung gồm chuyên trách và không chuyên trách chỉ
đạt từ 60% trở lên. Trong đó, số cán bộ, công chức là lãnh đạo, quản lý cấp trưởng
phòng, giám đốc trở lên dưới 50 tuổi tính đến năm 2005 thì các chỉ tiêu này chưa
cao theo mục tiêu, nhiệm vụ của Chỉ thị số 20/CT-UBND của UBND tỉnh về đào
62
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2001-2005 của tỉnh Vĩnh Long. (Xem
phụ lục 9).
Về đánh giá công tác quản lý nhà nước và năng lực của các cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng. Hàng năm, Sở Nội vụ xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
CB,CC,VC trong tỉnh trình UBND tỉnh và Bộ Nội vụ, đồng thời phối hợp với các
cơ quan chức năng tham mưu xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho các sở,
ngành, huyện, thị xã. Định kỳ kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng của các cơ quan đơn vị kịp thời uốn nắn những yếu kém trong công tác đào
tạo. Trên cơ sở kế hoạch hàng năm, Sở Nội vụ kết hợp với các trường đào tạo trong
tỉnh tiến hành kế hoạch tuyển sinh theo đúng quy hoạch, đúng ngành nghề đào tạo,
bồi dưỡng nhằm phục vụ tốt công tác cải cách hành chính và nâng cao trình độ cho
CB,CC,VC trong tỉnh.
Hầu hết các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CB,CC,VC từ tỉnh đến huyện, thị, xã
phường từng bước được trang bị điều kiện cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy tốt, đội
ngũ cán bộ quản lý giáo dục và đội ngũ giảng viên từng bước được nâng lên đáp
ứng được nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở địa phương. Các cơ sở
đào tạo đáp ứng được các ngành nghề về kế toán, kỹ thuật môi trường, kế toán
doanh nghiệp, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi thú y, kỹ thuật điện, công nghệ thực
phẩm, xây dựng, điện công nghiệp, công nghệ xay xát và lau bóng gạo, kiểm tra
chất lượng lương thực. Tuy nhiên trước xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
đã kéo theo một loạt các ngành không chỉ còn trong phạm vi khu vực mà trở thành
quốc tế, giao thương toàn cầu như các ngành quản trị kinh doanh, thương mại,
ngoại ngữ, luật pháp quốc tế, công nghệ thông tin và viễn thông.. sẽ có xu hướng
phát triển trong tương lai. Điều này tỉnh Vĩnh Long cần có chiến lược mạnh mẽ
hơn, toàn diện hơn để nắm bắt xu hướng thời đại trong những năm tiếp theo.
Về kinh phí đào tạo, bồi dưỡng. Sở Nội vụ kết hợp với Sở Tài chính xây
dựng kế hoạch sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng CB,CC,VC trình UBND tỉnh và
Bộ Nội vụ trên cơ sở kế hoạch đào tạo bồi dưỡng CB,CC,VC của hàng năm. Tuy
tình hình KT-XH trong những năm qua còn nhiều khó khăn, nhưng với số lượng
kinh phí dùng cho việc đào tạo, bồi dưỡng CB,CC,VC trong tỉnh vẫn được đảm bảo
về số lượng cấp phát, sử dụng đúng mục đích và thanh quyết toán kịp thời. Qua 05
năm, từ năm 2001 đến năm 2005 tổng số kinh phí đào tạo bồi dưỡng đã được cấp và
63
sử dụng 2.772.000.000 đồng (mỗi năm 450 triệu đồng) trong đó có 550 triệu đồng
được sử dụng vào việc bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước [159].
Từ thực trạng và phân tích kết quả NNL trên, UBND tỉnh chỉ đạo các cơ
quan tham mưu lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CB,CC,VC theo quy trình,
quy hoạch phát triển NNL nhằm thực hiện mục tiêu tiết kiệm trong đào tạo, bồi
dưỡng và bố trí sử dụng nguồn lực con người, phấn đấu xây dựng tổ chức tinh gọn,
hoạt động hiệu quả, hiệu lực cao nhất đến năm 2005 CB,CC,VC trong tỉnh cơ bản
đạt tiêu chuẩn chức danh theo quy định. Bên cạnh đó, tỉnh chủ trương giao cho Ban
Tổ chức tỉnh ủy, Sở Nội vụ thực hiện các nội dung như: Tăng cường và nâng cao
chất lượng công tác quy hoạch, lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng CB,CC,VC đảm
bảo đúng đối tượng, gắn với nhu cầu và khả năng sử dụng cán bộ lâu dài. Trách
nhiệm của thủ trưởng đơn vị quan tâm thực hiện công tác quy hoạch, kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng của ngành và địa phương đầy đủ, có tinh thần trách nhiệm cao. Từng
bước cải tiến và nâng cao chất lượng nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng
phù hợp với đặc điểm của từng đối tượng CB,CC,VC. Có sự phân công phân cấp,
phối hợp chặt chẽ trong công tác đào tạo, bồi dưỡng giữa cơ quan quản lý nhà nước
với cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Trong đó đặc biệt yêu cầu các ngành, địa phương coi
trọng công tác phát triển NNL trên cơ sở thực hiện nhiệm vụ kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng nhằm từng bước đẩy mạnh sự CNH, HĐH tỉnh nhà với phương châm: Cán
bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của
Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng [4].
Tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo các cơ quan, ban ngành thực hiện một số nhiệm
vụ sau:
Đối với cơ quan quản lý cán bộ (Sở Nội vụ): Có nhiệm vụ thống kê, phân
tích, đánh giá đội ngũ CB,CC,VC từ tỉnh đến xã. Đối chiếu với các tiêu chuẩn, chức
danh, tiến hành lập đề án xây dựng và củng cố đội ngũ CB,CC,VC trong toàn tỉnh.
Phối hợp Ban Tổ chức tỉnh ủy thực hiện công tác quy hoạch cán bộ gồm quy hoạch
cán bộ dài hạn và quy hoạch ngắn hạn, gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng và sử
dụng cán bộ. Tạo nguồn cán bộ từ các đối tượng khác nhau như cán bộ hiện có, sinh
viên, học sinh… nhằm phát hiện, đầu tư, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài.
Về nhiệm vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng: Yêu cầu các cấp, các ngành định
hướng và xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhằm chuẩn hóa CB,CC,VC nâng
64
cao kiến thức, năng lực quản lý, điều hành và thực thi công vụ đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp CHN, HĐH đất nước theo từng đối tượng.
Về công tác bố trí cán bộ: Chủ trương xây dựng quy trình tuyển dụng, sử
dụng CB,CC,VC đảm bảo tuyển dụng mới các CB,CC,VC đủ tiêu chuẩn và công
bằng. Tiến hành sắp xếp NNL theo yêu cầu của các ngành, các khu vực hành chính
sự nghiệp. Chú ý việc sắp xếp, bố trí và sử dụng nguồn lực con người đúng theo
chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ đào tạo, tránh tình trạng bố trí sử dụng trái
ngành nghề đào tạo, sau đó phải đào tạo lại, gây lãng phí cả về thời gian và tiền
của… Các ngành, các cấp cùng với Ban Tổ chức tỉnh ủy xây dựng kế hoạch luân
chuyển cán bộ theo sự chỉ đạo của tỉnh ủy.
Về thực hiện các chính sách tài chính về phát triển nguồn lực con người:
Các đơn vị chức năng thực hiện tốt các chính sách quy định của Nhà nước và các
chính sách khuyến khích của địa phương như: tiền học phí, tiền tàu xe, tiền lưu trú,..
và các định mức được hưởng kèm theo hệ số phụ cấp chức vụ, phụ cấp ngành nghề
đặc thù. Nghiên cứu đề xuất, sửa đổi các chính sách để đảm bảo thực hiện tốt, có
hiệu quả nhiệm vụ của từng ngành và để bồi dưỡng NNL [4].
Trên cơ sở thực hiện có hiệu quả đào tạo NNL, UBND tỉnh đã kịp thời xây
dựng và ban hành các chính sách liên quan đến đào tạo phát triển NNL như: Hướng
dẫn liên ngành số 219/HDLN, ngày 16 tháng 5 năm 2002 quy định tạm thời về
chính sách trợ cấp cho CB,CC,VC đi học và cán bộ, công chức luân chuyển tăng
cường về công tác ở xã của tỉnh Vĩnh Long. Trong đó, kinh phí hỗ trợ 100% về học
phí, tiền lưu trú, tiền ăn,… cho công tác đào tạo NNL gồm các đối tượng
CB,CC,VC trong các cơ quan đảng, chính quyền, đoàn thể của tỉnh, huyện thị được
hưởng lương từ ngân sách địa phương; cán bộ, công chức thuộc diện quy hoạch và
chuẩn hóa chức danh do tỉnh ủy quản lý; CB,CC,VC đào tạo sau đại học do Ban Tổ
chức tỉnh ủy xét duyệt; CB,CC,VC chuyên môn kỹ thuật là giám đốc các sở ban
ngành, UBND các huyện thị được Ban Tổ chức chính quyền và Ban Tổ chức tỉnh
ủy duyệt. Về chính sách chế độ trợ cấp như sau: CB,CC,VC đi học khu vực phía
Bắc được hỗ trợ thêm 400.000đ/người/tháng đối với nam, 450.000đ/người/tháng
đối với nữ và dân tộc thiểu số. Đi học khu vực thành phố Hồ Chí Minh (gồm các
tỉnh miền Đông, miền Trung Nam bộ) được hỗ trợ 300.000đ/người/tháng đối với
nam, 350.000đ/người/tháng đối với nữ và dân tộc thiểu số. Đi học ở ngoài tỉnh
65
thuộc các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long được trợ cấp 250.000đ/người/tháng,
300.000đ/người/tháng đối với nữ và dân tộc thiểu số. Ngoài ra tỉnh hỗ trợ chi phí
nghiên cứu sinh, làm luận văn tốt nghiệp gồm: cử nhân 2.000.000đ/1 luận văn tốt
nghiệp, thạc sỹ 15.000.000đ/1 luận văn thạc sỹ, tiến sĩ 30.000.000/1 luận án tiến sỹ.
Ngoài ra đối với CB,CC,VC không thuộc diện nói trên sau khi tốt nghiệp đáp ứng
nhu cầu của cơ quan đơn vị được khuyến khích hỗ trợ bằng 50% các chế độ hỗ trợ
chi phí nêu trên. Đồng thời là tỉnh đặc thù thuần nông, khả năng tuyển dụng và chế
độ đãi ngộ CB,CC,VC được tỉnh chú trọng và quan tâm đúng mức nhằm thay thế số
về hưu và số phát triển thêm, riêng đối với các doanh nghiệp do phát triển chậm nên
chỉ tuyển theo nhu cầu. Theo Hướng dẫn liên ngành số 219, chủ trương về chế độ
tiền lương được tỉnh ưu đãi như sau: Đối với CBCCVC thuộc khu vực hành chính,
sự nghiệp chỉ hưởng chế độ tiền lương theo thang, bảng lương do Nhà nước quy
định; Đối với các doanh nghiệp nhà nước hưởng mức lương bình quân là 900.000
đồng/tháng; Đối với doanh nghiệp dân doanh do thu nhập còn thấp so với khu vực,
hưởng bình quân khoảng 700.000 đồng/tháng. Ngoài ra, tùy theo tình hình thực tế,
tỉnh có chính sách hỗ trợ ưu tiên cho CBCCVC vùng sâu, vùng dân tộc thiểu số,
những đối tượng gặp khó khăn.
Tạo tiền đề, nền tảng vững chắc để phát triển NNL cho giai đoạn phát
triển tiếp theo. Ngày 6 tháng 3 năm 2003, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch đào
tạo nguồn nhân lực và giải quyết việc làm cho người lao động tỉnh Vĩnh Long
(giai đoạn 2003 - 2005) theo Quyết định số 552/2003/QĐ.UB của UBND tỉnh,
với chủ trương:
Sự phát triển KT-XH chủ yếu dựa vào trình độ phát triển trí tuệ của con
người, trong đó, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật vì vậy muốn
vươn lên sánh vai cùng các nền kinh tế tiên tiến chúng ta phải đào tạo
NNL chất lượng cao, đây là một trong những động lực quan trọng thúc
đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững [104].
Căn cứ Kế hoạch phát triển NNL và giải quyết việc làm cho người lao động
tỉnh Vĩnh Long giai đoạn (2001-2005), tỉnh đã chỉ ra khả đào tạo NNL trên địa bàn
gồm có 3 trường Trung ương đóng trên địa bàn: Trường Cao đẳng Sư phạm Kỹ
thuật Vĩnh Long, Trường trung học Xây dựng Miền Tây, Trung tâm Dịch vụ việc
66
làm Quân khu 9 và nhiều trường đại học, cao đẳng trược thuộc tỉnh quản lý: Trường
Đại học dân lập Cửu Long, Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Long, Trường Cao
đẳng cộng đồng Vĩnh Long, Trường Trung học Kinh tế Tài chính, Trường Trung
học Kỹ thuật - Lương thực thực phẩm, Trường Trung học Y tế, Trường Chính trị
Phạm Hùng, Trường Nghiệp vụ Văn hóa Thông tin, Trường Dạy nghề Vĩnh Long
và các trung tâm dịch vụ việc làm thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, các
Trung tâm giáo dục thường xuyên huyện thị.
Đây là nơi có khả năng đáp ứng NNL cho phát triển KT-XH và đáp ứng tiến
trình CNH, HĐH của tỉnh nhà, đồng thời nâng cao chất lượng NNL là CB,CC,VC
đáp ứng phát triển NNL cho bộ máy chính quyền các cấp trong tỉnh theo tinh thần
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IX (2002) kiểm điểm 5 năm
thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII).
Là vùng đất có truyền thống hiếu học, mang đậm dấu ấn lịch sử “địa linh
nhân kiệt”, là nơi hội tụ điều kiện thiên nhiên và yếu tố vị trí địa lý trung tâm đồng
bằng sông Cửu Long. Những chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long về công tác
đào tạo để phát triển NNL đã được cụ thể hóa thành các chương trình kế hoạch,
quyết định, đề án và chính sách có ý nghĩa thiết thực, mang lại những kết quả bước
đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX (2001) của Đảng và Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ VII (2001).
2.2.2.2. Nguồn nhân lực lao động chuyên môn kỹ thuật trong lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn
Theo quan điểm của Đại hội Đảng lần thứ IX (2001), NNL nông nghiệp,
nông thôn là bộ phận cấu thành của NNL xã hội, là tổng thể sức lao động trong các
lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, thương mại. Đây là tiềm lực quan trọng
là yếu tố số một, là nguồn cội, động lực chính tạo nên lực lượng sản xuất - nhân tố
quyết định tốc độ và sự phát triển bền vững của phương thức sản xuất mới ở nước
ta trong điều kiện hội nhập quốc tế. Vì thế, “muốn đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH
một cách bền vững không thể không chăm lo phát triển con người” [28]. Trong
khuôn khổ nghiên cứu của luận án, quan niệm NNL lao động chuyên môn kỹ thuật,
chính là đội ngũ công nhân lành nghề, đội ngũ lao động trình độ cao, kỹ sư thực
hành,.. nhằm phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn và một số ngành KT-XH
mũi nhọn, có khả năng ứng dụng nhanh và linh hoạt những thành tựu của KH-CN
67
hiện đại vào quá trình sản xuất nhằm đạt hiệu quả cao. Đây là cơ sở để Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Long chỉ đạo phát triển NNL lao động chuyên môn kỹ thuật thời kỳ CNH,
HĐH sau gần 10 năm tái lập tỉnh.
Ngày 26 tháng 8 năm 2002, UBND tỉnh Vĩnh Long ban hành Kế hoạch số
1478/UB đào tạo nguồn nhân lực và giải quyết việc làm cho người lao động Tỉnh
Vĩnh Long giai đoạn 2002 - 2005. Với mục tiêu: Phát triển NNL hàng năm theo
định hướng là tăng tỷ lệ đào tạo trung học chuyên nghiệp và dạy nghề bậc cao đẳng,
đại học, trong đó đào tạo nghề tăng từ 20 đến 25%. Đào tạo trình độ từ trung học
chuyên nghiệp đến đại học hàng năm tăng 0,1 đến 0,2% so với dân số trong độ tuổi
lao động (tương đương từ 6.000 người đến 12.000 người). Trong giai đoạn từ năm
2001 đến năm 2005, tỉnh chủ trương hàng năm đưa đi đào tạo từ 11 đến 17 ngàn lao
động (trong đó có 2.000 người đến 2.500 người được đào tạo ở bậc trung học
chuyên nghiệp, 1.200 đến 1.500 được đào tạo ở bậc cao đẳng và đại học, phấn đấu
đến năm 2005 đạt 17 - 18% lao động qua đào tạo và tỷ lệ người học đại học, cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp bằng tỉ lệ chung của cả nước. Yêu cầu từ năm
2001 đến năm 2005 trung bình hàng năm giải quyết việc làm cho 25.000 lao động,
phấn đấu giảm tỷ lệ lao động thất nghiệp trong nông thôn nói chung và đến năm
2005 chỉ còn dưới 5% ở thành thị. Nâng cao khả năng sử dụng quỹ thời gian lao
động lên trên 80% vào năm 2005. Thực hiện tốt công tác đổi mới giáo dục phổ
thông, phát triển ngành học mầm non, tiếp tục củng cố, phát huy kết quả xóa mù
chữ và phổ cập trung học cơ sở, phấn đấu đến cuối năm 2005 hoàn thành phổ cập
trung học cơ sở trên toàn tỉnh. Điều chỉnh quy mô phát triển NNL, đảm bảo cơ cấu
lao động kỹ thuật hợp lý, từng bước xóa bỏ tình trạng mất cân đối giữa các loại
hình, ngạch bậc. Trong phát triển NNL cần ưu tiên cho các ngành mũi nhọn, các
ngành nghề truyền thống và các ngành nghề địa phương đang có thế mạnh như kỹ
thuật cơ khí, chế tạo, lắp ráp sửa chữa; xây dựng dân dụng; kỹ thuật điện, điện tử,
chế biến thực phẩm… [152].
Việc thực hiện kế hoạch phát triển NNL và giải quyết việc làm cho người lao
động trong tỉnh, từ năm 2001 đến năm 2005 đã có sự chuyển biến tích cực trong
công tác đào tạo nhằm phát triển NNL. Các cơ sở đào tạo đã thực hiện xây dựng các
chương trình đào tạo theo đơn đặt hàng đào tạo nghề và đào tạo theo chức danh
68
nhằm đẩy mạnh và tăng tốc độ phát triển NNL. UBND tỉnh đã đề xuất: Nâng cấp
các cơ sở đào tạo hiện có như các Trường Chính trị, các trung tâm Giáo dục thường
xuyên của các huyện, các trường trung học chuyên nghiệp trên địa bàn. Sở Lao
động Thương binh và Xã hội hoàn thành quy hoạch mạng lưới dạy nghề trên địa
bàn toàn tỉnh, tiến hành lập kế hoạch xây dựng các trung tâm dạy nghề ở các huyện
còn lại (Bình Minh, Mang Thít, Long Hồ) để đủ sức đảm đương công tác đào tạo
nghề ngày càng lớn của nhân dân, hình thành mạng lưới dạy nghề trên toàn tỉnh
nhằm hỗ trợ, bổ sung cho nhau trong công tác dạy nghề, đồng thời các trường và
trung tâm dạy nghề xây dựng mối liên kết chặt và bền vững với các trung tâm dịch
vụ việc làm để nâng tính hiệu quả trong công tác dạy nghề và tạo việc làm cho
người lao động. Thực hiện xã hội hóa trong công tác dạy nghề và việc làm; khuyến
khích các tổ chức, cá nhân mở các cơ sở dạy nghề ngoài công lập, các cơ sở truyền
nghề… để góp phần cùng Nhà nước thực hiện tốt công tác phát triển NNL về dạy
nghề và tạo việc làm cho người lao động. Đồng thời tăng cường công tác quản lý
nhà nước đối với các trung tâm dịch vụ việc làm tư nhân để đảm bảo quyền lợi của
người lao động.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII (2001) Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Long. Ngày 28 tháng 6 năm 2001 tại kỳ họp thứ 5 khóa VI, HĐND tỉnh đã
thông qua Nghị quyết số 16/2001/NQ.HĐND về phê duyệt chương trình giải
quyết việc làm tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2001-2005 với mục tiêu: Đào tạo nghề,
giải quyết việc làm chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với sự phát triển và
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, bảo đảm việc làm cho phần lớn người lao động có
nhu cầu, nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc
sống của nhân dân.
Với đặc thù là tỉnh thuần nông, việc chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất, mùa
vụ, cây trồng, vật nuôi, phát triển đa dạng ngành nghề trong các lĩnh vực công
nghiệp, thủ công mỹ nghệ, dịch vụ... dự kiến có thể thu hút và tạo thêm việc làm
cho khoảng 10 ngàn lao động, đưa số lao động có việc làm ở nông thôn vào năm
2005 khoảng 40 ngàn người, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển NNL đáp ứng
tình hình mới [68]. Ngày 10/2/2003, UBND tỉnh ban hành Quyết định số
69
348/2003/QĐ.UBT về việc phê duyệt quy hoạch mạng lưới dạy nghề tỉnh Vĩnh
Long thời kỳ 2002 - 2010. Với quan điểm và định hướng chung sau:
Về quan điểm, xem đào tạo nghề là nhiệm vụ trọng tâm phát triển NNL; gắn
đào tạo nghề với chương trình phát triển tổng thể KT-XH của tỉnh, của các ngành
kinh tế, vùng kinh tế, vùng dân cư, gắn với nhu cầu các doanh nghiệp và thị trường
sức lao động; Gắn đào tạo nghề với chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh; Đổi mới nội dung, chương trình và
phương pháp đào tạo nghề gắn với yêu cầu của thị trường lao động; Thực hiện đẩy
mạnh xã hội hóa công tác đào tạo nghề; đa dạng hóa các loại hình đào tạo nghề,
khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đào tạo nghề, lấy loại hình đào tạo
nghề Nhà nước đóng vai trò chủ đạo; Tăng ngân sách đầu tư cho đào tạo nghề, có
cơ chế chính sách hợp lý để huy động và sử dụng các nguồn đầu tư trong và ngoài
nước; Tăng cường quản lý Nhà nước về đào tạo nghề, chú trọng quản lý nâng cao
chất lượng đào tạo, đầu tư có trọng điểm để tạo nên một số cơ sở đào tạo nghề có
chất lượng làm chuẩn mực để đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề trình độ
cao. Phát triển mạng lưới các cơ sở đào tạo nghề cần có đủ năng lực đào tạo một
hoặc hai cấp trình độ (lành nghề và bán lành nghề), thành lập các trung tâm dạy
nghề mới ở các huyện chưa có cơ sở dạy nghề.
Về định hướng chung được xác định hai loại hình đào tạo dài hạn và
ngắn hạn:
Đào tạo dài hạn là với yêu cầu đào tạo hàng năm, mở rộng phát triển đào tạo
những ngành nghề mới đáp ứng nhu cầu phát triển và, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn. Đầu tư xây dựng mới một trường dạy nghề
làm nhiệm vụ chủ lực đào tạo nghề dài hạn, khuyến khích các doanh nghiệp, các
thành phần kinh tế và tổ chức xã hội tham gia công tác đào tạo nghề, cần có hợp
đồng liên kết đào tạo với các đơn vị có chức năng đào tạo nghề dài hạn của trung
ương và các tỉnh trong khu vực.
Đào tạo ngắn hạn là loại hình đào tạo theo yêu cầu đa dạng của thị trường
lao động, mỗi huyện trong tỉnh xây dựng một trung tâm dạy nghề đảm nhận vai trò
chính trong đào tạo nghề cho người lao động ở nông thôn và đào tạo những nghề
mà tư nhân không tham gia đào tạo, khuyến khích hình thành các cơ sở dạy nghề tư
70
nhân, kèm cặp tại nơi sản xuất, vừa học vừa làm ở các cụm dân cư nhất là các xã
vùng sâu vùng xa. Đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp, các thành phần kinh
tế và tổ chức xã hội tham gia công tác đào tạo nghề, mở rộng và da dạng hóa các
loại hình đào tạo nghề.
Từ những quan điểm và định hướng, UBND tỉnh yêu cầu các cơ sở dạy
nghề thực hiện xây dựng ba hệ thống dạy nghề đến năm 2010 đó là: Hệ thống
trường dạy nghề, trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề
và dịch vụ việc làm thuộc tỉnh quản lý làm nhiệm vụ chủ lực trong đào tạo nghề
dài hạn, ngắn hạn. Riêng hệ thống trường trực thuộc Trung ương, cần thực hiện
đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị theo kế hoạch, dự án của cơ quan chủ quản và
giao thêm chỉ tiêu đào tạo về ngành nghề, số lượng học viên, kinh phí tùy theo
điều kiện và năng lực để các trường thực hiện hợp đồng liên kết đào tạo nghề dài
hạn với tỉnh. Đối với hệ thống các trung tâm, cơ sở, lớp dạy nghề tư nhân, cơ sở
sản xuất, doanh nghiệp, cộng đồng trong tỉnh cần chú trọng phát triển mạnh hệ
thống dạy nghề này ở các trung tâm huyện, cụm dân cư, trung tâm xã vùng nông
thôn, vùng sâu vùng xa nhằm tăng cơ hội học nghề cho người lao động. Có thể nói
nhu cầu phát triển NNL là một trong những yếu tố để thúc đẩy KT-XH ở địa
phương. Ngày 22 tháng 10 năm 2004, UBND tỉnh đã ban hành Đề án số: 2015-
ĐA/UB đề án xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản
lý giáo dục trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long. Đề án đã cụ thể hóa Kế hoạch số: 39-
KH/TU ngày 30 tháng 8 năm 2004 của tỉnh ủy Vĩnh Long với những nhiệm vụ
trọng tâm sau:
Thứ nhất, Trường Cao đẳng sư phạm có vai trò trong đào tạo, bồi dưỡng và
nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo. Sở Giáo dục và Đào tạo cùng các cơ quan có
liên quan xây dựng kế hoạch củng cố, nâng cao năng lực đào tạo của trường Cao
đẳng sư phạm tỉnh. Tiếp tục quy hoạch đưa đi đào tạo đội ngũ nhà giáo, cán bộ
quản lý giáo dục của tỉnh ở các trường Sư phạm, trường cán bộ quản lý giáo dục ở
Trung ương. Đặc biệt chú ý quy hoạch đào tạo đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục của tỉnh có trình độ đạt chuẩn theo quy định, chú ý đào tạo trên đại học để
đáp ứng yêu cầu sự nghiệp phát triển GD-ĐT của tỉnh. Nhiệm vụ trọng tâm cần tập
trung tham gia vào đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy trong
71
các cấp học, bậc học. Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ nhà giáo cho các
trường ngoài trường Cao đẳng sư phạm, chú trọng đội ngũ giảng viên ở các trường
trung học chuyên nghiệp.
Thứ hai, giao cho Sở giáo dục và đào tạo tiến hành quy hoạch, kế hoạch
phát triển NNL thông qua công tác đào tạo, đào tạo lại, để nâng cao trình độ, chất
lượng NNL, đặc biệt là NNL đang thực hiện chức năng giảng dạy, quản lý; bảo
đảm đầy đủ số lượng, cân đối về cơ cấu, tiêu chuẩn. Chú trọng phát triển NNL có
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nhất là đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trong các
cơ sở giáo dục theo hướng chuyên nghiệp hoá. Ưu tiên phát triển NNL là đội ngũ
giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục trong các trường dạy nghề, trung
học chuyên nghiệp.
Thứ ba, các trường đào tạo và các cơ sở giáo dục, đặc biệt là trường Cao
đẳng sư phạm, trường Trung cấp nghề Vĩnh Long thực hiện phương pháp đào tạo
theo hướng hiện đại nhằm bồi dưỡng và phát huy NNL toàn diện. Khắc phục
phương pháp giáo dục nặng lý thuyết, bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu,
ứng dụng công nghệ thông tin vào việc dạy và học.
Thứ tư, Sở Giáo dục và Đào tạo và cơ sở đào tạo sự nghiệp trong tỉnh thực
hiện khâu quản lý chặt chẽ các loại hình đào tạo, nhất là đào tạo tại chức, từ xa. Có
chính sách điều động đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục về số lượng, cơ cấu
cho phù hợp với phát triển giáo dục của địa phương. Từng bước mở rộng hợp tác
quốc tế để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản
lý giáo dục đáp ứng yêu cầu.
Thứ năm, có kiểm tra, đánh giá việc thực hiện chính sách chế độ đối với
NNL là cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên; có chính sách động viên đội ngũ giáo
viên, cán bộ quản lý giáo dục có tâm huyết với sự nghiệp giáo dục tỉnh nhà. Có chế
độ phụ cấp ưu đãi thích hợp và kết hợp giữa giảng dạy và nghiên cứu khoa học đối
với đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục.
Thứ sáu, các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các cấp quản lý giáo dục trong
tỉnh cần tăng cường tuyên truyền giáo dục làm cho nhân dân và toàn xã hội nhận
thức rõ vai trò quan trọng hàng đầu của công tác phát triển NNL là đội ngũ nhà giáo
72
và cán bộ quản lý giáo dục cho địa phương và đất nước. Thường xuyên quan tâm
công tác chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức cách mạng, nắm chắc tư tưởng diễn
biến của nguồn lực này để có kế hoạch bồi dưỡng phù hợp.
Để thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng và tăng tốc
độ phát triển KT-XH của nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ VII,
ngày 12/12/2005 UBND tỉnh Vĩnh Long ban hành Đề án số: 1636/DA-SGD-ĐT
xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý ngành giáo
dục - đào tạo tỉnh Vĩnh Long (giai đoạn 2005-2010). Với mục tiêu xây dựng và
nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo chuẩn hóa,
nâng cao chất lượng, bảo đảm về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng
nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và
trình độ chuyên môn đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong
công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH của đất nước. Phấn đấu thực hiện 60% giáo viên
đạt trên chuẩn có trình độ cao đẳng và đại học, trong đó 20% có trình độ đại học.
Đồng thời có chủ trương đào tạo 50 cán bộ, giáo viên có trình độ thạc sĩ, nâng
chuẩn cho 1.000 giáo viên có trình độ chuẩn lên trình độ cao đẳng. Riêng đối với
giáo viên trường Cao đẳng sư phạm, nâng trình độ 100% giáo viên đạt chuẩn hóa và
có 20% trở lên đạt trình độ Cao học; đối với cán bộ quản lý giáo dục đạt 100% cán
bộ quản lý giáo dục đủ tiêu chuẩn về chuyên môn và được bồi dưỡng nghiệp vụ
quản lý theo từng ngành học, bậc học.
Căn cứ mục tiêu, chỉ tiêu, quan điểm và định hướng chung, tỉnh đã tập trung
chỉ đạo thực hiện tốt các chủ trương, các giải pháp phát triển kinh tế, giải quyết việc
làm. Cụ thể là trong nông nghiệp đã đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu nội bộ, thâm
canh, tăng vụ, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, tăng cường cơ giới hóa, phát triển
thêm nghề phụ, tạo thêm việc làm trong nông thôn; phát triển công nghiệp cơ khí,
công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, phát triển
nhanh ngành thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, tạo thêm việc làm tại chỗ; phát triển
thương mại, dịch vụ nội địa, đồng thời mở rộng thị trường trong và ngoài nước,
nhất là các thị trường tiêu thụ nông sản, thủy sản, tăng tỷ trọng các mặt hàng xuất
khẩu; khai thác tốt tiềm năng sông, nước, miệt vườn đầu tư phát triển ngành du lịch
sinh thái, thu hút lao động, giải quyết việc làm.
73
Đồng thời, tăng cường công tác quản lý Nhà nước về đào tạo nghề, quy
hoạch mạng lưới phát triển và từng bước xã hội hóa về đào tạo nghề. Cụ thể là
thành lập trường dạy nghề Vĩnh Long, kết hợp đào tạo dài hạn với đào tạo ngắn
hạn, khai thác có hiệu quả, phục vụ tốt cho sự nghiệp công nghiệp hóa và cho xuất
khẩu; hình thành một mạng lưới dạy nghề trên địa bàn tỉnh và các huyện thành lập
các trung tâm dạy nghề; khuyến khích các tổ chức đoàn thể, các hội quần chúng và
tư nhân thành lập các cơ sở dạy nghề các cụm xã, các khu dân cư tập trung; đẩy
mạnh công tác dạy nghề cho lao động nông thôn, nhất là các nghề chăn nuôi, trồng
trọt, thủy sản, các nghề thủ công và những nghề khác, tăng thêm việc làm cho lao
động nông thôn, tận dụng có hiệu quả thời gian nhàn rỗi trong nông nghiệp; củng cố
và phát triển các trung tâm, các cơ sở dịch vụ tư vấn, giới thiệu việc làm, tạo điều
kiện cho người lao động tìm kiếm việc làm dễ dàng, đồng thời đẩy mạnh công tác
đưa lao động đi làm việc ngoài tỉnh, ngoài nước, nhất là lao động xuất khẩu. Ưu tiên
phát triển NNL đã qua đào tạo nghề cho các doanh nghiệp ở địa phương.
Tỉnh đã chú trọng chỉ đạo thực hiện quản lý, sử dụng và tăng cường các
nguồn vốn vay, vốn đầu tư, nhất là Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm, quỹ xoá đói giảm
nghèo, tạo điều kiện cho người vay phát huy hiệu quả vốn đầu tư, hạn chế rủi ro,
nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống. Hàng năm, tuỳ theo tình hình thực tế, tỉnh
dành 0,5-1% ngân sách bổ sung cho quỹ giải quyết việc làm, tăng cường nguồn vốn
vay và hỗ trợ đào tạo nghề, nâng cao chất lượng NNL.
Đồng thời, đã nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 11,32% năm 2001 lên
18% năm 2005, trong đó tỷ lệ công nhân kỹ thuật chiếm 7,18% năm 2001 lên 12%
vào năm 2005. Tỷ lệ đào tạo dài hạn từ 6,56% năm 2001 lên 12% năm 2005 trong
tổng số đào tạo công nhân kỹ thuật là 47.780 công nhân kỹ thuật. Trong đó, đào
tạo phục vụ thị trường lao động là 38.280 người; đào tạo cung ứng cho xuất khẩu
lao động là 2.300 người; đào tạo cung ứng cho thị trường lao động ngoài tỉnh là
7.200 người. Về trình độ chuyên môn kỹ thuật toàn tỉnh chỉ đạt 18,66% (tương
đương 127.821 người), trong đó: trình độ đại học, cao đẳng chỉ chiếm 4,2%
(tương đương 28.770 người), trình độ trung học chuyên nghiệp 3,8% và trình độ
sơ cấp là 9% trong tổng số dân cư trong trong độ tuổi lao động, được phân bố
trong hoạt động kinh tế như sau: Lao động nông nghiệp 349.517 người, tỷ lệ 71%;
74
lao động công nghiệp 49.228 người, tỷ lệ 10%; lao động dịch vụ 93.533 người, tỷ
lệ 19%. Tuy nhiên, NNL được đào tạo chuyên môn cao chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong
cơ cấu NNL của khu vực tỉnh nhà [152].
Về nội dung đào tạo nghề đã thực hiện tốt theo tình hình, đặc thù của địa
phương như: Kỹ thuật điện tử dân dụng và công nghiệp, cơ khí, kỹ nghệ gò - hàn -
rèn, kỹ thuật điện xí nghiệp và điện dân dụng, kỹ thuật điện lạnh, kỹ thuật chăn nuôi
thú y, kỹ thuật nuôi trồng thủy sản, kỹ thuật trồng trọt, giao thông vận tải, may công
nghiệp,... Bằng sự nỗ lực phấn đấu của các ngành, các cấp và nhân dân trong tỉnh,
đến năm 2005 nền kinh tế của tỉnh cơ bản duy trì ổn định và phát triển, kết cấu hạ
tầng kinh tế được đầu tư, văn hóa - xã hội, đời sống nhân dân tiếp tục được cải
thiện, an ninh chính trị tiếp tục giữ vững, trật tự xã hội được tăng cường góp phần
mang lại tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng 8,7%, kim ngạch xuất khẩu đạt
50,53 triệu USD, giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) là 4,45%. Hàng năm tạo
việc làm cho người lao động từ 13 ngàn đến 25 ngàn lao động cho khu vực đồng
bằng sông Cửu Long, nâng thu nhập GDP bình quân đầu người 5,37 trđ/người/năm
(2002) lên 6 trđ/người/năm (năm 2005).
Tuy nhiên trước tình hình đặc điểm của tỉnh Vĩnh Long, tỷ lệ người thiếu
việc làm vẫn còn chiếm khá lớn trong dân cư là 60.000 người chiếm tỷ lệ 11,45%
(trong tổng số 685.000 người số người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ 65% dân
số toàn tỉnh), tỷ lệ người thất nghiệp là 10.000 người chiếm tỷ lệ 1,91% dân số
trong độ tuổi lao động [122].
Song song đó công tác phát triển NNL chưa đồng bộ, nhất là các ngành kinh
tế của tỉnh phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn vẫn chưa có sự đột phá, thiếu NNL
lao động chuyên môn kỹ thuật cao như ngành nông nghiệp thiếu từ 50 - 80 kỹ sư
trong các chuyên ngành trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản. Công nghiệp thiếu 30 - 50
kỹ sư trong các chuyên ngành khai khoáng, cơ khí chế tạo máy, tự động hóa; ngành
thương mại - dịch vụ thiếu 20 - 30 cử nhân trong các chuyên ngành tài chính - ngân
hàng - tiền tệ; ngành Giao thông - vận tải và xây dựng cũng thiếu từ 20 - 30 kỹ sư
cầu đường, giao thông, quy hoạch, kiến trúc. Trên cơ sở đó, tỉnh Vĩnh Long đã đẩy
mạnh công tác tuyển dụng nguồn lực lao động khoa học kỹ thuật cho các ngành ở
các lĩnh vực để đáp ứng nhiệm vụ của ngành cũng như phục vụ chương trình trọng
75
tâm của tỉnh. Từ 2002 đến 2005, tỉnh đã tuyển dụng được 750 công nhân kỹ thuật
bậc cao được đào tạo tại Trường Cao đẳng Sư phạm kỹ thuật Vĩnh Long và Trường
Cao đẳng xây dựng Miền Tây, nhưng do yêu cầu nhiệm vụ ngày một tăng của các
ngành trọng yếu đòi hỏi phải tăng cường nguồn lực chuyên môn kỹ thuật do vậy
vẫn cần phải tiếp tục bổ sung thêm trong thời gian tới từ 5.000 đến 10.000 người có
trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Nhiệm vụ đặt ra cho việc đào tạo, tuyển dụng là
phải đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng và cân đối, hợp lý giữa các ngành, lĩnh
vực cần phải nghiên cứu và xây dựng chiếm lược phát triển nguồn nhân lực của tỉnh
đến 2010 và xa hơn là đến 2020 [122].
Đánh giá chung về lực lượng lao động của tỉnh, nhìn chung khá dồi dào
nhưng phân bố lao động chưa hợp lý, lao động nông nghiệp quá nhiều (trên 70%)
so đầu năm 2000 và đến cuối năm 2005 tỷ lệ này không thay đổi, điều này nói lên
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm. Số người không tham gia hoạt động kinh
tế còn cao, số người thất nghiệp còn đông (10.000 người) [122], lao động qua đào
tạo còn ít, đại bộ phận là lao động giản đơn, thủ công, đào tạo ngắn hạn là chủ yếu.
Trước những nỗ lực của địa phương nhằm tăng tốc độ phát triển NNL đáp
ứng sự nghiệp CNH, HĐH tỉnh nhà. Ngày 15 tháng 8 năm 2005, UBND tỉnh ban
hành Công văn số 1451/UBND.VX về việc báo cáo nhu cầu đào tạo NNL có trình
độ thạc sỹ. Theo UBND tỉnh, đào tạo trình độ thạc sỹ là nhiệm vụ cơ bản để thực
hiện khâu đột phá cơ cấu nông nghiệp, nông thôn theo chủ trương của Đại hội IX.
Từ tháng 9/2005 đến tháng 12/2005, NNL được đào tạo thạc sỹ của tỉnh Vĩnh Long
là 220 người, trong đó ngành Giáo dục và Đào tạo có 181 người thuộc các ngành sư
phạm Văn, Sử, Địa, Toán, Anh văn, Quản lý giáo dục, Triết học; ngành Y dược 10
người; ngành Kinh tế - Tài chính 17 người; ngành Nông nghiệp 10 người và các
ngành khác gồm Kiến trúc, Quy hoạch 2 người.
Đến cuối năm 2005, Vĩnh Long cơ bản đã đạt được các mục tiêu của Đại
hội VII đề ra, trong đó có nhiều chỉ tiêu đạt và vượt so với yêu cầu, đã góp phần
quan trọng thúc đẩy KT-XH của tỉnh. Kinh tế luôn duy trì tốc độ tăng trưởng cao,
bình quân hằng năm tăng 8-9%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; văn hóa -
xã hội có nhiều tiến bộ; giáo dục - đào tạo có bước phát triển vượt bậc ở tất cả các
cấp học, ngành học; đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ đói,
76
nghèo giảm còn 3,51%; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững,
HTCT tiếp tục được củng cố, kiện toàn... Song, nhìn chung công phát triển tạo
NNL của tỉnh còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của
tỉnh. Nguyên nhân tình trạng trên là do công tác lãnh đạo, chỉ đạo của địa phương
chưa quan tâm đúng mức về công tác phát triển NNL. Cụ thể trong nhiệm kỳ, tỉnh
chưa ban hành một nghị quyết riêng về công tác phát triển NNL mà chỉ ban hành
Chương trình hành động số 05:-CTr/TU (2002) về đào tạo nguồn nhân lực và giải
quyết việc làm cho người lao động tỉnh Vĩnh Long, giai đoạn 2003 - 2005 và
Chương trình hành động số: 08-CTr/TU (2002) của tỉnh ủy về thực hiện kết luận
Hội nghị lần thứ VI Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về GD-ĐT, KH-CN và
nhiệm vụ phát triển NNL đến năm 2010 là chưa đủ. Đồng thời, một trong những
vấn đề then chốt phát triển NNL chuyên môn kỹ thuật phục vụ cho nông nghiệp,
nông thôn là chưa có sự phối hợp chỉ đạo của các cơ quan chức năng chưa có sự
quyết liệt, táo bạo nên giai đoạn 2001 - 2005 NNL có trình độ đại học trở lên
chiếm tỷ lệ rất ít, thậm chí NNL là các chuyên gia đầu đàn, nhà khoa học, kỹ sư
công nghệ - thông tin,… mặc dù có cố gắng nhưng vẫn thấp dẫn đến kết quả bảng
xếp hạng về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của VCCI, chỉ số lao động của Vĩnh
Long ở mức thấp. Do vậy, để thực hiện tốt công tác đào tạo phát triển NNL đạt kết
quả cao hơn, vững chắc hơn trong giai đoạn tiếp theo, Vĩnh Long cần tháo gỡ
những vấn đề tồn tại trên.
Tiểu kết chương 2
Vĩnh Long là tỉnh nông nghiệp có vị trí địa lý và hệ thống đường giao thông
thuận lợi nằm giữa hai trung tâm kinh tế lớn ở khu vực phía Nam là thành phố Hồ
Chí Minh và thành phố Cần Thơ, đã tạo nên thế mạnh về sản xuất nông nghiệp,
cung cấp một phần sản lượng lương thực cho toàn vùng và cả nước. Là vùng đất có
truyền thống hiếu học, có nguồn lực lao động dồi dào, là nơi được thiên nhiên ưu
đãi rất thuận lợi để phát triển những ngành nghề tương xứng với tiềm năng sẵn có.
Trước tình hình đó, tỉnh ủy Vĩnh Long đã tập trung lãnh đạo phát triển NNL, xem
NNL là nguồn lực đặc biệt, là nền tảng vững chắc quyết định sự phát triển KT-XH
77
bền vững. Tỉnh ủy chỉ đạo UBND tỉnh xây dựng kế hoạch, chương trình, đề án để
thực hiện mục tiêu, phương hướng và giải pháp đối với phát triển NNL từ năm 2001
đến năm 2005. Đó là nâng cao chất lượng NNL CB,CC,VC trong các cơ quan nhà
nước về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, về quản lý nhà nước, bồi dưỡng về ngoại
ngữ, tin học, chuyên viên,... Đối với NNL lao động chuyên môn kỹ thuật trong lĩnh
vực nông nghiệp, nông thôn, UBND tỉnh chỉ đạo thực hiện xây dựng mạng lưới dạy
nghề bao gồm định hướng dài hạn và ngắn hạn, nhằm khai thác và phát triển toàn
diện NNL về lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, xây dựng, nông nghiệp, nông thôn cho
những ngành nghề đặc thù của tỉnh, góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, phấn
đấu xây dựng “Vĩnh Long giàu đẹp, văn minh”, xứng đáng là một tỉnh trọng điểm
khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Tuy nhiên, dù có nhiều cố gắng nhưng tình trạng NNL của tỉnh Vĩnh Long
phát triển chưa vững mạnh, vẫn còn yếu và thiếu NNL có trình độ cao, NNL vẫn
chưa là đòn bẩy để thúc đẩy KT-XH địa phương phát triển toàn diện và bền vững.
Đây cũng là những kinh nghiệm bước đầu để Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long đúc rút kinh
nghiệm trong thời gian tới.
78
Chương 3
ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2015
3.1. YÊU CẦU PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC VÀ CHỦ TRƯƠNG
CỦA ĐẢNG VỀ ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG TÌNH
HÌNH MỚI
3.1.1. Yêu cầu đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực sớm đưa Việt Nam
ra khỏi tình trạng kém phát triển và chủ động hội nhập quốc tế
Việt Nam sau 20 năm đổi mới là khu vực phát triển năng động và sáng tạo,
có nhiều điều kiện khi tham gia phát triển kinh tế nhưng cũng có nhiều thách thức.
Muốn đứng vững được trên trường quốc tế, Việt Nam phải tập trung vào việc phát
triển kinh tế trong đó cần phải nâng cao chất lượng NNL. Và muốn phát triển
NNL đòi hỏi cần có một lực lượng đông đảo nhân lực có trình độ cao, có khả năng
làm việc trong môi trường công nghệ và cạnh tranh, có khả năng thích ứng nhanh
với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất đây là yếu tố then chốt
bảo đảm nền kinh tế Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại, bền vững.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ và xu thế phát triển kinh tế
tri thức, lấy tri thức làm tiền đề phát triển KT-XH thì vai trò của NNL có ý
nghĩa quyết định, là vấn đề then chốt trong sự nghiệp CNH, HĐH vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đối với Việt Nam, phát
triển NNL là một trong những mục tiêu cơ bản nhất, phấn đấu cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được mục tiêu đó, NNL phải
đảm bảo cả về số lượng và chất lượng, NNL phải trở thành khâu đột phá quan
trọng trong chiến lược, đó là phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao.
Từ khi bước vào công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đề ra
nhiều chủ trương, chính sách cho công tác phát triển NNL. Số lượng và chất lượng
NNL đã được nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, NNL nước ta hiện nay vẫn cón có
những hạn chế: Đó là trình độ, kỹ năng còn yếu; năng lực đổi mới và sáng tạo
79
khoa học, công nghệ của nguồn nhân lực Việt Nam rất thấp; đội ngũ kỹ thuật viên
và công nhân có tay nghề vừa thiếu, vừa yếu; nguồn nhân lực có năng lực quản lý,
nhất là quản trị doanh nghiệp vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chất lượng.
Đổi mới các chính sách phát triển NNL và liên quan đến sử dụng NNL chất
lượng cao sẽ tác động mạnh mẽ đến sự phát triển về quy mô, cơ cấu và chất lượng
NNL trong những năm tới. Những thách thức, cơ hội nêu trên có mối quan hệ tác
động qua lại, có thể chuyển hoá lẫn nhau. Cần phải nắm chắc cơ hội, tận dụng cơ
hội để vượt qua thách thức xây dựng NNL chất lượng cao đáp ứng yêu cầy phát
triển của đất nước. Đây là vấn đề nan giải cho toàn bộ nền kinh tế và ảnh hưởng
trực tiếp đến phát triển KT-XH và phát triển NNL Việt Nam nói chung và tỉnh
Vĩnh Long nói riêng.
Bối cảnh trong nước và quốc tế đem đến cho tỉnh Vĩnh Long nhiều cơ hội
mới, song cũng phải đối đầu với nhiều thách thức lớn, gay gắt hơn trước. Nhiệm
vụ quan trọng nhất của tỉnh trong lúc này là phải nhanh chóng nâng cao sức cạnh
tranh trên mọi phương diện, trong đó lấy tri thức làm động lực phát triển và đòi
hỏi cần có một lực lượng NNL đông đảo, có trình độ cao, từng bước tiến tới chiếm
lĩnh những thành tựu KH-CN tiên tiến. Muốn thực hiện được điều đó, trước hết
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân phải đặt ra nhiệm vụ cấp thiết là phát triển
NNL có trình độ đại học, sau đại học là đội ngũ CB,CC,VC trong các cơ quan nhà
nước thuộc HTCT có đủ năng lực, phẩm chất để thực hiện nhiệm vụ cách mạng
thời kỳ mới; phải có lực lượng lao động chuyên môn kỹ thuật cao để tiếp nhận,
chuyển giao và đề xuất những vấn đề khoa học, công nghệ, kỹ thuật, giải quyết
những những vấn đề cơ bản của sự nghiệp CNH, HĐH trong lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn, nhằm bảo đảm cho sự phát triển toàn diện của địa phương và
cùng với địa phương khác đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Đó là yếu tố then chốt đảm bảo cho sự nghiệp CNH, HĐH thành công.
Tuy nhiên, với bức tranh tổng thể khi đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, tỉnh Vĩnh Long vẫn không tránh khỏi những khó
khăn và thách thức lớn. Trong đó khó khăn và thách thức vẫn là trình độ, năng lực,
80
tư duy của đội ngũ CB,CC,VC và lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật còn
thiếu nghiêm trọng, không đủ sức để đưa tỉnh Vĩnh Long phát triển thành tỉnh khá
trong năm 2015 nếu như Vĩnh Long không có chiến lược đột phát để xây dựng và
phát triển NNL quan trọng này.
Để huy động mọi nguồn lực, tập trung khai thác tiềm năng, lợi thế để có tốc
độ tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, đến năm 2010 mức tăng trưởng kinh tế
(GDP) bình quân hàng năm đạt 14% [107, tr.36], Đại hội lần thứ VIII Đảng bộ
tỉnh Vĩnh Long (2005 - 2010) đã đề ra 05 chương trình mục tiêu KT-XH, trong đó
mục tiêu hàng đầu và cơ bản nhất là: Tập trung đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đẩy mạnh nhiều loại hình đào tạo, tạo
nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận KH-CN, chú trọng công tác đào tạo bồi
dưỡng cho đội ngũ cán bộ cơ sở, tập trung đào tạo sau đại học để xây dựng đội
ngũ trí thức phát triển đồng bộ trên các lĩnh vực, có chính sách thu hút nhân tài và
sử dụng nhân tài hiệu quả [107, tr.52].
Như vậy, để thực hiện mục tiêu phát triển KT-XH ở địa phương, tỉnh
Vĩnh Long phải thực hiện chủ trương phát triển NNL thông qua công tác đào
tạo, bồi dưỡng để thực hiện chính sách phát triển KT-XH, “phấn đấu đến cuối
nhiệm kỳ, lực lượng lao động chung của toàn tỉnh có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao đạt 35% và hàng năm giải quyết việc làm cho 27.000 lao động”
[114, tr.37].
Trước những nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Vĩnh Long,
ngày 17/7/2007, Bộ trưởng Bộ Xây dựng đã ký Quyết định số 1010/QĐ-BXD
công nhận thị xã Vĩnh Long là đô thị loại III và đến ngày 10 tháng 4 năm
2009 Chính phủ ban hành Nghị định số 16/NĐ-CP về việc nâng cấp thị xã Vĩnh
Long lên thành thành phố Vĩnh Long thuộc tỉnh Vĩnh Long. Đây là sự ghi nhận
của Đảng và Nhà nước, là niềm tự hào của con người vùng đất Vĩnh Long, sau
thành phố Cần Thơ và tỉnh Tiền Giang, tỉnh Vĩnh Long có vị trí ảnh hưởng đặc
biệt về địa chính trị và đứng hàng thứ 5 trong 13 tỉnh, thành đồng bằng sông Cửu
Long có đô thị loại III vào năm 2009.
81
3.1.2. Chủ trương của Đảng về đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực
Nhận thức được vai trò của phát triển NNL trong tình hình mới, Nghị quyết
Đại hội lần thứ X (2006) của Đảng đã khẳng định: Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng
kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền
vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải
thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh CNH,
HĐH và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Để thực hiện mục tiêu của Nghị quyết, Đại hội X của Đảng đã yêu cầu:
Phát triển NNL bảo đảm đến năm 2010 có NNL với cơ cấu đồng bộ và chất lượng
cao, trong đó tập trung đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào
tạo với sử dụng, trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển nhanh
nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành. Chú trọng phát
hiện, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài.
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, ngày 6 tháng 8 năm 2008
trong Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương đã thông qua 3 Nghị quyết
quan trọng gồm thanh niên, trí thức và nông dân đó là các Nghị quyết: Tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH;
Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; Về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn.
Đối với thanh niên, qua đánh giá, phân tích thực trạng của thanh niên, Đảng
đưa ra các quan điểm chỉ đạo: Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn coi thanh niên
là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thanh niên là tương lai
của dân tộc; đặt thanh niên ở vị trí trung tâm của chiến lược bồi dưỡng, phát huy
nhân tố và nguồn lực con người. Hội ngị đã nêu ra mục tiêu chung và mục tiêu cụ
thể trong những năm trước mắt, trọng tâm đến năm 2010 nhằm tiếp tục xây dựng
thế hệ thanh niên Việt Nam giàu lòng yêu nước, tự cường dân tộc; có sức khỏe, tri
thức, kỹ năng và tác phong công nghiệp trong lao động tập thể, trở thành những
công dân tốt của đất nước.
82
Với đội ngũ trí thức, Đảng yêu cầu: Ðến năm 2020, xây dựng đội ngũ trí
thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các
nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Về quan điểm chỉ đạo, Nghị quyết đã đề
ra 3 quan điểm như sau: (1) Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc
biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc
tế, xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc,
sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng và chất lượng hoạt
động của hệ thống chính trị. Ðầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát
triển bền vững. (2) Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã
hội, của cả hệ thống chính trị, trong đó trách nhiệm của Ðảng và Nhà nước giữ vai
trò quyết định. Trí thức không ngừng phấn đấu nâng cao phẩm chất chính trị, đạo
đức, năng lực chuyên môn, đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển đất nước và bảo
vệ Tổ quốc. (3) Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp
của trí thức. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và
kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước.
Về nhiệm vụ và giải pháp, Nghị quyết đã tập trung xây dựng theo 5 vấn đề
cơ bản: (1) Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí
thức; (2) Thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức; (3) Tạo
chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức; (4) Ðề cao trách nhiệm
của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các hội của trí thức; (5)
Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Ðảng đối với đội ngũ trí thức.
Đối với vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Hội nghị đã khẳng định,
nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp CNH, HĐH,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế -
xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn,
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước... Hội
nghị nêu lên mục tiêu đến năm 2020 và trước mắt đến năm 2010: Không ngừng
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn, hài hóa giữa các vùng,
83
tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn...Xây dựng nền nông
nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa, có
năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an
ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài... Để làm được điều này, một trong
những giải pháp mà hội nghị đã đưa ra: Phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao
và ứng dụng khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại
hóa nông nghiệp, công nghiệp hóa nông thôn.
Có thể khẳng định rằng quan điểm phát triển NNL của Đảng trong giai
đoạn mới không chỉ tập trung vào đối tượng phát triển NNL chung mà thể hiện rõ,
cụ thể quan điểm phát triển NNL là thanh niên, đội ngũ trí thức,... Đây là những
người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định,
có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những
sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội.
Như vậy với mục tiêu tổng quát của Đại hội X của Đảng, cả nước đã
thực hiện đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến
quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Có thể nói Nghị quyết Đại hội X của
Đảng đã khẳng định rõ hơn về phát triển NNL là những con người cụ thể như:
“…phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là chuyên gia đầu ngành. Chú trọng
phát hiện, bồi dưỡng, trọng đãi nhân tài,... các nhà khoa học đầu ngành, tổng
công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có
tay nghề cao” [33, tr.185-186], “là thanh niên, đội ngũ trí thức, vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn”... xác định từ nay đến năm 2020 phải phát triển
nhanh nguồn nhân lực, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền
giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và
ứng dụng khoa học, công nghệ.
Trước tình hình nền kinh tế tri thức phát triển nhanh, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thức XI (2011) của Đảng, xác định chiến lược phát triển KT-
XH 2011 - 2020 đề ra 5 quan điểm phát triển. Trong đó quan điểm phát triển
84
NNL có ý nghĩa quan trọng, đột phá của sự phát triển bền vững, cụ thể: Mở
rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể,
nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Ở đây Đại hội xác định
chiến lược phát triển KT-XH phải dựa vào 3 khâu đột phá, đặc biệt là đột phá
về phát triển NNL: “Phát triển nhanh NNL, nhất là NNL chất lượng cao, tập
trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết
chặt chẽ phát triển NNL với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ” [37,
tr.32]. Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển là yêu cầu
xuyên suốt trong chiến lược. Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh,
tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Nguồn lực phát triển chính là phát huy
tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là
mục tiêu của phát triển.
Trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập, vấn đề phát huy trí tuệ và tay nghề
của nguồn lực con người Việt Nam, nhất là nguồn nhân lực trình độ cao càng trở
nên quan trọng. Nguồn nhân lực đó được Đảng chú trọng đến là “đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành
nghề và cán bộ, khoa học, công nghệ đầu đàn”. Bởi vì đây là nguồn lực lực lượng
tinh tuý, kết tinh những gì ưu tú nhất của con người Việt Nam. Trình độ dân trí cao,
vốn tri thức và tay nghề giỏi, khả năng nhận thức và tiếp thu nhanh kiến thức mới sẽ
là chìa khoá chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa học, kỹ thuật và công nghệ trên
con đường phát triển chống nguy cơ tụt hậu.
Để thực hiện mục tiêu đó, yêu cầu nhiệm vụ đối với phát triển NNL là
đặt GD-ĐT vị trí cao hơn. Ngày 6 tháng 8 năm 2008, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Với quan điểm
tiếp tục được khẳng định: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự
nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư
phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển
85
KT-XH. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn
đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội
dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới
từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của
các cơ sở GD-ĐT và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân
người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Nghị quyết số 29-NQ/TW
đã chỉ ra những mục tiêu, giải pháp cụ thể cho từng đối tượng như: Đối với
giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài,
phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của
người học; Đối với giáo dục nghề nghiệp, tập trung đào tạo nhân lực có kiến
thức, kỹ năng và trách nhiệm nghề nghiệp. Hình thành hệ thống giáo dục nghề
nghiệp với nhiều phương thức và trình độ đào tạo kỹ năng nghề nghiệp theo
hướng ứng dụng, thực hành, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật công
nghệ của thị trường lao động trong nước và quốc tế.
Như vậy Đảng luôn quan tâm chú trọng đến công tác phát triển NNL và
thực chất công tác phát triển NNL là nói đến việc xây dựng và phát huy sức mạnh
của đội ngũ CB,CC,VC, đội ngũ trí thức, lực lượng lao động lành nghề, những đối
tượng này phải trở thành lực lượng nòng cốt và là nguồn lực quan trọng đặc biệt
phản ánh sức mạnh của quốc gia được phản ánh trong các kỳ Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X (2006), XI (2011) của Đảng nhằm nâng cao chất lượng NNL, đáp
ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước và phát triển kinh tế tri thức.
Tóm lại, Nghị quyết của Đảng một lần nữa đã khẳng định tính đúng đắn về
công tác phát triển NNL trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, thể hiện rõ nhất là
Đảng ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW (2008) về Xây dựng đội ngũ trí thức
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; Nghị quyết số 29-NQ/TW (2013).
Đây là hai nghị quyết có tính chiến lược trong chủ trương phát triển mạnh mẽ
NNL được đặt ra như một bức thiết cho thời kỳ mới, thời kỳ giải quyết một cách
căn bản hơn những vấn đề liên quan đến trí thức khoa học và công nghệ phù hợp
với yêu cầu, nhiệm vụ của sự phát triển bền vững
86
3.2. CHỦ TRƯƠNG VÀ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG ĐẨY
MẠNH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU MỚI
3.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long về đẩy mạnh phát triển
nguồn nhân lực
Sau 20 năm tiến hành đường lối đổi mới, tình hình KT-XH tỉnh Vĩnh
Long có nhiều khởi sắc nhưng vẫn là địa phương có tốc độ tăng trưởng chậm, tỷ
lệ nghèo đói trong nhân dân có xu hướng tăng và thoát nghèo không bền vững,
số lượng và chất lượng NNL vẫn còn trong tình trạng vừa thừa, vừa thiếu, chưa
khai thác đúng mức và vẫn loay hoay phạm vi của tỉnh nông nghiệp. Trong bối
cảnh đó, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ VIII nhiệm kỳ
(2005 - 2010) đã đề ra phương hướng lãnh đạo xây dựng và phát triển NNL ở địa
phương với mục tiêu: Tập trung phát triển NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH.
Trong đó chú trọng đến công tác phát triển đội ngũ CB,CC,VC có trình độ, phẩm
chất và năng lực từng bước thực hiện chuẩn hóa chức danh nghề nghiệp và vị trí
việc làm;… Đẩy mạnh xã hội hóa công tác dạy nghề, nâng cao chất lượng đào
tạo ở các trường và các trung tâm dạy nghề, tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp
nhận công nghệ tiên tiến, đẩy mạnh công tác dạy nghề cho lao động nông thôn.
Tập trung đào tạo sau đại học, xây dựng đội ngũ trí thức đồng bộ trên các lĩnh
vực, có chính sách thu hút nhân tài [107, tr.52].
Đây là Đại hội mở ra cho tỉnh một giai đoạn mới với nhiều chủ trương
chính sách phát triển KT-XH nhằm đẩy mạnh công tác phát triển NNL, trong đó
NNL là đội ngũ CB,CC,VC và lao động có trình độ chuyên môn trong lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn được Đảng bộ cụ thể hóa thành đội ngũ trí thức nói
chung, nhằm nâng bước phát triển mới về vai trò NNL trong giai đoạn này. Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long chỉ rõ: Thực hiện tốt cải cách giáo dục theo
chủ trương của trung ương từ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học
đúng theo phương châm: Dạy chữ, dạy người và dạy nghề... ở các trường đại học,
cao đẳng của tỉnh quản lý; đào tạo có địa chỉ nhằm tăng về số lượng, nâng cao về
chất lượng và cơ cấu hợp lý trong tất cả các ngành, lĩnh vực hoạt động. Thực hiện
87
tốt việc đưa CB,CC,VC, học sinh, sinh viên đi đào tạo ở các trường trong tỉnh,
trong nước ở các lĩnh vực mà tỉnh có nhu cầu bức thiết như: đào tạo chuyên gia
kinh tế trên các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, cán bộ KH-CN, cán bộ khoa
học tự nhiên, công nghệ thông tin, khoa học quản lý... Quan tâm đào tạo đội ngũ
trí thức trẻ, đồng thời bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ trí thức đã kinh qua công tác
thực tiễn.
Thường xuyên thông tin cho đội ngũ trí thức về các chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước; tình hình của tỉnh và đất nước, quốc tế. Tăng cường công tác
chính trị tư tưởng và trách nhiệm của trí thức trong học tập, rèn luyện, qua đó
phấn đấu trưởng thành, vươn lên ngang tầm thời kỳ mới, thực hiện theo phương
châm khoa học đi trước một bước bằng cách thông qua sự truyền bá của trí thức.
Tiếp tục cụ thể hóa các chính sách hiện có để thu hút con em tỉnh Vĩnh Long đang
học ở các trường đại học, học viện khi tốt nghiệp ra trường về công tác ở tỉnh nhà.
Nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị, xã hội về vai trò, vị trí của trí thức trong thời kỳ CNH,
HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Các cấp ủy Đảng, chính quyền cần xác định
công tác trí thức là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, tuyên truyền trong xã hội
hiểu đúng vai trò, vị trí của đội ngũ trí thức; đội ngũ trí thức nhận thức được trách
nhiệm của mình đối với xã hội. Mặt khác, cần phát huy tài năng, trọng dụng
những trí thức có đạo đức tốt, có năng lực làm công tác quản lý kể cả trong và
ngoài đảng; có phương thức và cơ chế quản lý, sử dụng trí thức phù hợp để phát
huy năng lực cống hiến của trí thức.
Những người đứng đầu cấp ủy Đảng, chính quyền định kỳ tiếp xúc, lắng
nghe ý kiến của trí thức đóng góp cho mục tiêu, giải pháp phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội của tỉnh. Các cấp ủy Đảng có trách nhiệm trực tiếp lãnh đạo trí thức và
công tác trí thức, đưa công tác trí thức vào nghị quyết, chương trình hành động
hàng năm, nhiệm kỳ để triển khai, tổ chức thực hiện có hiệu quả.
Về tổ chức thực hiện, tỉnh ủy đã chỉ đạo toàn diện trên các mặt trong đó tập
trung triển khai ở các cấp ủy đảng tổ chức triển khai quán triệt cho cán bộ, đảng
88
viên và xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện chương trình hành
động của tỉnh ủy. Mặt trận Tổ quốc tỉnh và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp
tổ chức triển khai quán triệt và tuyên truyền trong nhân dân. Đồng thời Ban cán sự
Đảng - đoàn, UBND tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ
trí thức đến năm 2020 của tỉnh. Chỉ đạo HĐND tỉnh thể chế hóa về thực hiện các
mục tiêu, nhiệm vụ, xây dựng đội ngũ trí thức từ nay đến năm 2020; đồng thời rà
soát lại các chủ trương liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ và
tôn vinh trí thức để sửa đổi, bổ sung, ban hành mới phù hợp với Nghị quyết của
Trung ương và Chương trình hành động của Tỉnh ủy.
Trên cơ sở chủ trương, Nghị quyết của Đảng, đặc biệt Nghị quyết Nghị
quyết số: 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X. Ngày
3/11/2008 Tỉnh ủy đã ban hành Chương trình hành động số: 21-CTr/TU về thực
hiện Nghị quyết số 27 của Đảng. Chương trình hành động nêu rõ: Cùng với sự
phát triển chung, đội ngũ trí thức của tỉnh đã tăng nhanh về số lượng, nâng lên về
chất lượng góp phần trực tiếp vào quá trình phát triển KT-XH ở địa phương, thực
hiện tốt công tác xóa đói giảm nghèo nâng cao chất lượng cuộc sống, đóng góp
tích cực trong xây dựng những luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định
chủ trương, nghị quyết, chính sách phát triển KT-XH của tỉnh, thực hiện đào tạo
NNL, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài, từng bước nâng cao trình độ KH-
CN tiếp cận với trình độ của khu vực và cả nước”. Như vậy để xác định mục tiêu
của Đảng về phát triển NNL, Chương trình hành động cũng đã chỉ rõ ba nhóm đối
tượng để thực hiện mục tiêu và đề ra nhiệm vụ, giải pháp quan trọng như sau:
Về mục tiêu: Đến năm 2010: Xây dựng xong quy hoạch đội ngũ trí thức
trong hệ thống chính trị các cấp. Đến năm 2015 có 50% cán bộ lãnh đạo, quản
lý, trưởng, phó ngành tỉnh và huyện, thị có trình độ thạc sĩ trở lên; 50% cán
bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn (từ ban thường vụ đảng uỷ) có trình độ đại
học trở lên.
Về nhiệm vụ và giải pháp yêu cầu: Có kế hoạch tập hợp, phát huy lực
lượng trí thức hiện có, quy hoạch đào tạo đội ngũ trí thức Tỉnh nhà. Từ nay đến
89
năm 2010, các cấp ủy Đảng tiến hành rà soát nắm chắc đội ngũ trí thức trên địa
bàn, quản lý chặt chẽ, có kế hoạch tập hợp, phát huy tối đa đội ngũ trí thức; nắm
chắc lực lượng trí thức hiện có trong các cơ quan nhà nước; bố trí, phân công lại
cho đúng ngành nghề, chuyên môn được đào tạo. Đồng thời, tiến hành xây dựng
quy hoạch đội ngũ trí thức đến năm 2020. Trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch đào
tạo phục vụ nhiệm vụ chính trị của ngành, địa phương, đơn vị.
Cụ thể hóa các chính sách của trung ương về dân chủ trong hoạt động
KH-CN, GD-ĐT, văn hóa, nghệ thuật; sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các chính sách
hiện có và ban hành các chính sách mới theo điều kiện cụ thể của tỉnh; tăng đầu tư
bằng nhiều nguồn lực tạo điều kiện cho trí thức tự khẳng định, phát triển, cống
hiến và được xã hội tôn vinh. Quy hoạch đào tạo, bố trí, sử dụng đội ngũ trí thức:
đào tạo bằng nhiều hình thức trong tỉnh, trong nước, ngoài nước để đạt được mục
tiêu đề ra từ nay cho đến năm 2020. Chú trọng đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ, phấn đấu
đến năm 2020 tỉnh có 150 cán bộ trở lên có trình độ tiến sĩ. Thực hiện chính sách
trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức, tạo điều kiện cho trí thức phát triển bằng
chính phẩm chất, tài năng và những kết quả cống hiến của mình cho tỉnh nhà và
đất nước. Ngoài các chính sách đãi ngộ hiện cần đề ra các chủ trương phù hợp
với tình hình mới, bảo đảm cho đội ngũ trí thức được hưởng đúng và đầy đủ các
lợi ích vật chất, tinh thần tương xứng với kết quả lao động sáng tạo; tôn vinh
những trí thức có đóng góp thiết thực, hiệu quả vào sự nghiệp CNH, HĐH của
tỉnh như: tham gia nghiên cứu các đề tài, dự án cấp nhà nước, cấp tỉnh, cấp cơ
sở,v.v. tạo điều kiện để cán bộ khoa học kỹ thuật tham gia hội thi sáng tạo kỹ
thuật của tỉnh, quốc gia, quốc tế. Đồng thời có chính sách tập hợp trí thức trong
và ngoài tỉnh, trí thức là người Việt Nam ở nước ngoài tích cực tham gia hiến kế,
hợp tác nghiên cứu khoa học mà tỉnh có nhu cầu.
Các cơ quan, đơn vị tiến hành rà soát lại đội ngũ cán bộ của cơ quan, đơn
vị mình chọn người có đức, có tài đưa vào quy hoạch đào tạo để đạt mục tiêu đề
ra cho giai đoạn 2010-2015 và 2015-2020. Giao Ban Tổ chức tỉnh ủy hướng dẫn
các ngành các cấp rà soát lại đội ngũ trí thức; phân công, bố trí lại cho đúng với
90
chuyên ngành được đào tạo và xây dựng quy hoạch đội ngũ trí thức đến năm
2010 với cơ cấu hợp lý và có kế hoạch đào tạo hàng năm theo mục tiêu đề ra
nhằm phục vụ tốt nhiệm vụ phát triển KT-XH, đảm bảo an ninh, quốc phòng.
Ban Tổ chức tỉnh ủy chủ trì phối hợp các ngành có liên quan giúp tỉnh ủy xây
dựng các định mức, chế độ, chính sách cho công tác đào tạo đội ngũ trí thức của
tỉnh nói chung, cho các cơ quan nhà nước nói riêng. Ban Tuyên giáo tỉnh ủy chủ
trì phối hợp với Sở KH-CN, các ban, ngành có liên quan giúp Ban Thường vụ
tỉnh ủy theo dõi, kiểm tra, định kỳ sơ, tổng kết báo cáo tình hình và đề xuất ý
kiến bổ sung, điều chỉnh các nhiệm vụ, giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả
công tác xây dựng đội ngũ trí thức từ nay đến năm 2020.
Với quan điểm “muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi
phải phát triển mạnh giáo dục - đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ
bản của sự phát triển nhanh và bền vững”. Ngày 15 tháng 6 năm 2010 tỉnh uỷ
Vĩnh Long ban hành Nghị quyết số: 09-NQ/TU về tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Trung ương 2 (khoá VIII) về giáo dục - đào tạo đến năm 2020 với quan điểm:
Kiên quyết thực hiện các quan điểm cơ bản của Nghị quyết Trung ương 2 (khoá
VIII) về định hướng phát triển GD-ĐT trong thời kỳ CNH, HĐH; phấn đấu sớm
đạt được mục tiêu phát triển GD-ĐT và đồng thời từng bước nâng cao chất
lượng giáo dục - đào tạo. Kiên trì thực hiện chủ trương GD-ĐT là đào tạo ra thế
hệ trẻ toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất; xem giáo GD-ĐT là quốc sách hàng
đầu. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, trợ cấp ưu đãi đối với học sinh nghèo học
giỏi, cán bộ được quy hoạch đào tạo mũi nhọn, tạo điều kiện cho những người
học giỏi phát triển tài năng.
Nghị quyết đề ra hai mục tiêu cơ bản sau: (1) Phát triển quy mô ở tất cả các
bậc học, ngành học bằng nhiều hình thức đa dạng, tập trung giáo dục nghề nghiệp
để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH. (2) Nâng cao chất lượng
giáo dục, trên cơ sở xây dựng đội ngũ giáo viên đạt chuẩn theo quy định, trang bị
phương tiện, dụng cụ hiện đại phục vụ dạy và học.
Song song công tác phát triển NNL với quan điểm thực sự coi giáo dục -
đào tạo, là quốc sách hàng đầu. Công tác đào tạo NNL được chú ý tập trung vào
91
hai nhóm nhiệm vụ: Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về
số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng, phẩm chất đạo đức và lối sống theo Chỉ
thị 40-CT/TW của Ban Bí thư và Kế hoạch 39-KH/TU (2004) của tỉnh ủy về xây
dựng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; đổi mới
mạnh mẽ phương pháp và nội dung đào tạo của các trường, nâng cao chất lượng
Trường Cao đẳng sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long thực sự trở thành trường trọng
điểm đủ khả năng đào tạo giáo viên dạy nghề.
Nhận thức tầm quan trọng của đội ngũ trí thức, cũng như chiến lược phát
triển và nâng cao chất lượng NNL phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế nhanh và bền
vững. Đại hội đại biểu lần thứ IX Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long nhiệm kỳ (2010 -
2015) đã nhấn mạnh chủ trương về nâng cao chất lượng NNL. Đồng chí Nguyễn
Sinh Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ chỉ đạo
“Vĩnh Long cần ưu tiên đầu tư, đẩy mạnh công tác giáo dục, đào tạo, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực” [114, tr.95], xem đây là một khâu quyết định để thực
hiện thắng lợi, nhiệm vụ của Đảng bộ đề ra trong những năm tiếp theo.
Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị, cũng như thực hiện Nghị
quyết Đại hội lần thứ IX Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long, ngày 8/11/2011 tỉnh ủy đã ban
hành Chương trình hành động số: 09-Ctr/TU về phát triển và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến năm 2020. Chương
trình hành động ra đời là quá trình quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
tỉnh Vĩnh Long quyết thực hiện chiến lược mục tiêu đến 2015 tỉnh Vĩnh Long
thành tỉnh trung bình khá trong khu vực. Chương trình hành động đã nêu ra mục
tiêu sau: Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm phát triển và nâng cao chất
lượng NNL, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH tỉnh nhà góp phần cùng
cả nước chuyển đổi mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất
lượng hiệu quả, phát triển kinh tế nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế. Trong đó,
tập trung đào tạo và đào tạo lại, bổ sung NNL cho những ngành, lĩnh vực có vai
trò quyết định, tạo bước đột phá trong lĩnh vực KT-XH tỉnh sau năm 2015, nhất là
xây dựng đội ngũ cán bộ, quản lý cho hệ thống chính trị; các lĩnh vực giáo dục và
92
đào tạo; y tế; đào tạo nghề; phát triển đội ngũ doanh nhân và văn hóa, thể thao và
du lịch.
Về chỉ tiêu cụ thể, Chương trình hành động số 09-Ctr/TU xác định: Đến
năm 2015 có 100% cán bộ lãnh đạo, quản lý và trưởng, phó ngành tỉnh,
huyện, thành phố và tương đương đạt trình độ đại học chuyên môn, có trình
độ lý luận chính trị cao cấp, ngoại ngữ, tin học theo chuẩn quy định, trong đó
có 30% có trình độ thạc sĩ trở lên; 100% cán bộ, công chức, viên chức các cơ
quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập từ trưởng, phó trưởng phòng và
tương đương có trình độ đại học chuyên môn, quản lý chuyên môn phù hợp,
có trình độ lý luận chính trị trung cấp trở lên, sử dụng thông thạo tin học trong
công việc; hoàn thành chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ vào năm 2012. Đến
năm 2020 có 60% cán bộ lãnh đạo, quản lý và trưởng, phó ngành tỉnh và
huyện, thành phố có trình độ thạc sĩ trở lên; 100% cán bộ chủ chốt xã,
phường, thị trấn có trình độ lý luận chính trị cao cấp và đại học, trong đó có
10% có trình độ thạc sĩ [207].
Để thực hiện chủ trương của tỉnh ủy, UBND tỉnh ra Quyết định số
1375/QĐ-UBND, ngày 28/8/2012 về việc ban hành Kế hoạch phát triển và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2012 - 2015 và định
hướng đến năm 2020. Đến ngày 7/9/2012, UBND tỉnh tiếp tục cụ thể hóa Quyết
định số 1375 và ra Quyết định số: 1917/QĐ-UBND, ngày 21 tháng 11 năm 2012
về việc thành lập Hội đồng phát triển NNL tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2011 -
2020, với nhiệm vụ cụ thể như sau: Nghiên cứu, đề xuất với UBND tỉnh những
biện pháp và điều kiện thực hiện quy hoạch phát triển nhân lực và đào tạo theo
nhu cầu xã hội; Giúp UBND tỉnh chỉ đạo sở, ban, ngành và huyện, thành phố
xây dựng các chính sách, chương trình, đề án đào tạo nhân lực, điều phối các
hoạt động và nguồn lực để phát triển nhân lực phù hợp với quy hoạch phát triển
kinh tế xã hội; Kiến nghị UBND tỉnh điều chỉnh quy hoạch nhân lực và các điều
kiện thực hiện quy hoạch, đào tạo NNL chất lượng cao gắn với phát triển KH-
CN; Giúp UBND tỉnh đôn đốc các sở, ngành và huyện, thành phố chỉ đạo kiểm
93
tra, giám sát, đánh giá kế hoạch và kết quả triển khai các hoạt động thực hiện
quy hoạch phát triển nhân lực và đào tạo theo nhu cầu xã hội hàng năm của sở,
ngành, địa phương; Báo cáo UBND tỉnh về tình hình, kết quả hoạt động định kỳ
6 tháng, năm và đột xuất theo yêu cầu của UBND tỉnh.
Trên cơ sở thực hiện Nghị quyết của hai nhiệm kỳ Đại hội tỉnh Đảng bộ
lần thứ VIII (2005 - 2010) và lần thứ IX (2010 - 2015) nhằm xây dựng đội ngũ
NNL chất lượng cao, đáp ứng đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước và phát
triển kinh tế tri thức. Hai đại hội đã khẳng định quan điểm phát triển NNL là:
Tiến hành đào tạo đội ngũ CB,CC,VC và xây dựng kế hoạch đào tạo đội
ngũ CB,CC,VC ngành mình, cấp mình theo mục tiêu chung là đủ số lượng, tiêu
chuẩn và cơ cấu đồng bộ. Chủ động tạo được nguồn cán bộ, trong đó tập trung
vào cán bộ lãnh đạo, quản lý; đặc biệt quan tâm tạo nguồn CB,CC,VC trẻ, nữ,
dân tộc thiểu số.
Đa dạng hóa các hình thức đào tạo, bồi dưỡng, tập trung đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức quản lý nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức cải cách
hành chính, kiến thức, kỹ năng chuyên ngành cho từng chức danh. Chú trọng đào
tạo chính quy cho cán bộ trẻ trong độ tuổi.
Bố trí cán bộ đúng chuyên môn đào tạo, tạo môi trường, điều kiện thuận
lợi cho CB,CC,VC thực hiện tốt nhiệm vụ được giao tại cơ quan, đơn vị. Chuẩn
bị dự nguồn CB,CC,VC cho tỉnh, sở, ban, ngành, huyện, thành phố,...cần đưa
đào tạo cơ bản trong nước, nước ngoài hoặc luân chuyển để nâng cao năng lực
thực tiễn và kinh nghiệm công tác.
Có chính sách phù hợp để thu hút nhân tài, chất xám vào làm việc trong
các tổ chức trong hệ thống chính trị, đặc biệt CB,CC,VC thuộc lĩnh vực khoa
học kỹ thuật.
Đến năm 2010 xây dựng xong quy hoạch đội ngũ trí thức trong hệ thống
chính trị các cấp. Sắp xếp các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý và trưởng,
phó ngành tỉnh theo hướng có đại học chuyên ngành và 10% có trình độ thạc sĩ
trở lên.
94
Đến năm 2015: Có 50% cán bộ lãnh đạo, quản lý, trưởng, phó ngành tỉnh
và huyện, thị có trình độ thạc sĩ trở lên. Có 100% cán bộ lãnh đạo, quản lý và
trưởng, phó ngành tỉnh, huyện, thành phố (trừ Hội Cựu chiến binh) và tương
đương đạt trình độ đại học chuyên môn, có trình độ lý luận chính trị cao cấp,
ngoại ngữ, tin học theo chuẩn quy định, trong đó có 30% có trình độ thạc sĩ trở
lên. 100% cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan hành chính, đơn vị sự
nghiệp công lập từ trưởng phòng, phó trưởng phòng và tương đương có trình độ
đại học chuyên môn, quản lý chuyên môn phù hợp, có trình độ lý luận chính trị
trung cấp trở lên, sử dụng thông thạo tin học trong công việc. Hoàn thành
chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ (Chương trình 100) vào năm 2012, tiến hành
tổng kết và tiếp tục xây dựng chương trình mới, đào tạo nước ngoài cho giai
đoạn 2013-2015 theo các chuyên ngành phát triển KT-XH phù họp trong thời kỳ
CNH, HĐH tỉnh nhà. Phối hợp các học viện, các trường, các trung tâm đào tạo
thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ,... bồi dưỡng ngoại ngữ phục vụ đào tạo thạc
sĩ, tiến sĩ cho 200 - 250 lượt đồng chí [207].
Tiếp tục đào tạo nghề cho lao động nông thôn nhằm nâng cao chất lượng
nguồn lao động của tỉnh và của từng địa phương; đào tạo nguồn nhân lực để
phát triển các ngành nghề thế mạnh của từng khu vực, từng mô hình điển hình
và theo chủ trương, định hướng phát triển KT-XH. Nâng cao chất lượng và hiệu
quả đào tạo nghề nhằm gắn liền việc đào tạo nghề với tạo việc làm, giải quyết
việc làm, tăng thu nhập của lao động nông thôn; góp phần chuyển dịch cơ cấu
lao động và cơ cấu kinh tế, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn. Trong đó chú trọng thực hiện:
Tập trung đào tạo nghề để chuyển đổi nghề cho lực lượng công nhân nghề
gốm bị thiếu việc làm do các lò gốm trên địa bàn tỉnh bị giải thể theo Đề án Tổ
chức lại ngành sản xuất gạch, gốm tỉnh Vĩnh Long theo Quyết định số 1831/QĐ-
UBND ngày 08/11/2013 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long về việc
ban hành Đề án “Tổ chức lại ngành sản xuất gạch, gốm tỉnh Vĩnh Long”.
95
Đào tạo nghề cung ứng lao động qua đào tạo cho các công ty, doanh
nghiệp, hợp tác xã,… để sử dụng lao động có trình độ tay nghề đạt chuẩn theo
quy định tại Khoản 8 Điều 52 Luật Giáo dục nghề nghiệp. Đào tạo nghề phục vụ
xuất khẩu lao động.
Đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn theo hướng chuyển
giao khoa học công nghệ, kỹ thuật canh tác mới, sử dụng cây trồng, vật nuôi chất
lượng cao, cải tạo mô hình kinh tế hộ gia đình nông thôn để tăng năng suất, tăng
chất lượng nông sản và tăng thu nhập cho người dân nông thôn. Chú trọng, tăng
cường thực hiện mở lớp dạy nghề và giải quyết việc làm, tạo việc làm cho lao
động nông thôn tại 22 xã nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long [75].
3.2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện phát triển nguồn nhân lực của
Đảng bộ Tỉnh Vĩnh Long
3.2.2.1. Phát triển toàn diện nguồn nhân lực cán bộ, công chức, viên
chức trong các cơ quan nhà nước đáp ứng yêu cầu mới
Phát triển NNL là một trong những nhiệm vụ then chốt được tỉnh đặc biệt
ưu tiên hàng đầu, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Nhận
thức được tính cấp thiết của công tác phát triển và nâng cao chất lượng NNL
theo tinh thần nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ X, lần thứ XI và Nghị quyết
của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ VIII, lần thứ IX. Ngày 26 tháng 6 năm
2006, UBND tỉnh Vĩnh Long ban hành Tờ trình số 37/TTr-UBND về việc đề
nghị Hội đồng Nhân dân tỉnh phê chuẩn Đề án: "Đào tạo ở nước ngoài nguồn
nhân lực có trình độ sau đại học cho tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2006-2011 (Đề
án Vĩnh Long 100)". Mục tiêu của Đề án là đào tạo ở nước ngoài NNL có trình
độ sau đại học cho tỉnh Vĩnh Long, đến năm 2015 toàn tỉnh có 100 cán bộ (gồm
đội ngũ các bộ công chức, viên chức trong hệ thống chính trị và đội ngũ trí thức)
có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ được đào tạo ở nước ngoài về các chuyên ngành cần
thiết nhằm tạo bước đột phá cho sự phát triển KT-XH của tỉnh, với cơ cấu ngành
nghề đào tạo gồm: công nghệ thông tin; công nghệ sinh học; nông nghiệp công
nghệ cao; công nghệ chế biến; công nghệ vật liệu, công nghệ hóa; kiến trúc, quy
96
hoạch đô thị; kinh tế thương mại; cơ khí chế tạo; y tế sức khỏe cộng đồng; khoa
học quan hệ quốc tế, luật, quản lý hành chính; kỹ thuật điện.
Để thực hiện có hiệu quả Đề án Vĩnh Long 100, trước mắt tỉnh chủ trương
phát triển NNL là CB,CC,VC phải được đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ
mọi mặt, vì đây là một trong các khâu đột phá của tỉnh để phát triển NNL chất
lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH giai đoạn từ nay đến năm 2015 và
chuẩn bị nguồn cán bộ cho giai đoạn 2015 - 2020. Năm 2011, UBND tỉnh Vĩnh
Long đã triển khai tiếp Đề án đào tạo bồi dưỡng CB,CC,VC theo hai giai đoạn
(2011 - 2015) và giai đoạn (2015 - 2020) với trên 32.000 lượt CB,CC,VC trong
các cơ quan nhà nước. Lực lượng CB,CC,VC này sẽ được đào tạo toàn diện cả
về quản lý Nhà nước và chuyên môn nghiệp vụ phù hợp với chức danh, vị trí
làm việc đáp ứng yêu cầu của công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành và thực thi
công vụ. Trong đó, Trường Chính trị Phạm Hùng và các Trường chính trị huyện,
thị, thành phố là đầu mối đào tạo, bồi dưỡng trình độ quản lý Nhà nước; Trung
tâm giáo dục thường xuyên và các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn là đầu
mối đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Ngoài ra, tỉnh còn liên
kết với các học viện, các trường cao đẳng, đại học, các trung tâm thuộc các Bộ,
Ngành Trung ương tổ chức đào tạo, bồi dưỡng CB,CC,VC theo nhu cầu.
Để phát triển đồng bộ NNL, ngày 24 tháng 4 năm 2007, UBND tỉnh ban
hành Quyết định số 08/2007/QĐ-UBND về chính sách hỗ trợ bác sĩ, dược sĩ đại
học, sinh viên tốt nghiệp các Trường Đại học Y Dược về công tác ở ngành Y tế
tỉnh Vĩnh Long [170]. Để đạt được mục tiêu theo đề án của Bộ Y tế đến năm
2010 phải đảm bảo 7 bác sĩ /10.000 dân và 01 dược sĩ Đại học/10.000 dân nhằm
thu hút nguồn nhân lực, động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho bác sĩ, dược sĩ
đại học, sinh viên tốt nghiệp các Trường Đại học Y Dược về công tác ở địa
phương, ngoài những quy định chung của Nhà nước, UBND tỉnh ban hành quy
định bổ sung chính sách hỗ trợ đối với bác sĩ, dược sĩ đại học, sinh viên tốt
nghiệp các Trường Đại học Y Dược về công tác ở Ngành Y tế tỉnh Vĩnh Long
với những nội dung chủ yếu sau: Về chính sách hỗ trợ: Bác sĩ, dược sĩ đại học từ
97
tỉnh khác chuyển về sẽ được trợ cấp một lần từ 10.000.000 - 12.000.000 đồng
đối với từng khu vực nhận công tác; Bác sĩ là chuyên khoa I và chuyên khoa 2 từ
nơi khác chuyển về tỉnh được hỗ trợ một lần từ 15 triệu đến 20 triệu đồng; Bác sĩ
có trình độ là Thạc sĩ và Tiến sĩ từ nơi khác chuyển đến làm việc trên địa bàn
tỉnh được hỗ trợ một lần từ 20 triệu đến 25 triệu đồng; đối với các sinh viên có
hoàn cảnh khó khăn hỗ trợ 02 năm cuối, mỗi năm 5.000.000đ/ sinh viên. Khi ra
trường về nhận công tác không được nhận thêm một khoản kinh phí nào ngoài
lương và các khoản phụ cấp lương. Mức hỗ trợ này kèm theo quy chế ràng buộc
như: Chấp hành sự phân công của Sở Y tế về nhận công tác tại các cơ sở y tế
trong tỉnh; Các đối tượng trên làm bảng cam kết làm việc trong ngành Y tế tỉnh
Vĩnh Long từ 5 năm trở lên trước khi nhận tiền hỗ trợ. Đối với sinh viên đang
học 2 năm cuối phải có sự bảo lãnh của gia đình (có xác nhận của chính quyền
địa phương). Trường hợp vi phạm hợp đồng đã cam kết đối với sinh viên đã tốt
nghiệp về nhận công tác tại tỉnh Vĩnh Long trong thời gian 5 năm kể từ ngày
nhận Quyết định, nếu tự ý bỏ việc không công tác trong ngành y tế tỉnh Vĩnh
Long sẽ bồi thường gấp 3 lần số tiền hỗ trợ đã nhận và chịu hình thức kỷ luật cao
nhất của Sở Y tế. Đây là một trong những chính sách được quy định chặt chẽ,
tuy nhiên đối tượng áp dụng không được phổ biến đại trà cho nhiều đối tượng
đào tạo các ngành khác. Đó cũng chính là những bất cập, thiếu xót trong cơ chế
quản lý chất lượng NNL.
Tăng cường đẩy mạnh NNL chất lượng cao nhằm nâng cao tốc độ tăng
trưởng KT-XH của địa phương đến 2010 và thực hiện nhất quán về phát triển đội
ngũ trí thức theo Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
X) trong bối cảnh tình hình phát triển chung của đất nước. Ngày 09 tháng 7 năm
2009 Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Long ban hành Nghị quyết số: 106/2009/NQ-
HĐND ngày 09 tháng 7 năm 2009 về xây dựng đội ngũ trí thức tỉnh Vĩnh Long
đến năm 2020 [51] với mục tiêu cụ thể: Đến năm 2020 nâng số lượng đội ngũ trí
thức có trình độ sau đại học lên gấp 2,5 lần so với hiện nay. Tạo môi trường
thuận lợi cho đội ngũ trí thức hoạt động có hiệu quả.
98
Trên cơ sở Nghị quyết của HĐND tỉnh, ngày 12 tháng 8 năm 2009
UBND tỉnh Vĩnh Long đã ra Quyết định số 1855/QĐ-UBND về việc ban hành
Đề án Xây dựng đội ngũ trí thức tỉnh Vĩnh Long đến năm 2020 [178]. Cụ thể
như sau: Đến năm 2010 xây dựng xong quy hoạch đội ngũ trí thức trong hệ
thống chính trị các cấp, sắp xếp các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý và
trưởng, phó ngành tỉnh theo hướng có đại học chuyên ngành và 10% có trình
độ thạc sĩ trở lên (khoảng 16 người). Đến năm 2015 có 50% cán bộ lãnh đạo,
quản lý và trưởng, phó ngành tỉnh và huyện, thành phố có trình độ thạc sỹ trở
lên (khoảng 80 người).
Trong quá trình thực hiện xây dựng đội ngũ trí thức đã đem lại những kết
quả bước đầu sau: Hoàn chỉnh quy hoạch cán bộ từ cán bộ chủ chốt cấp xã đến
các chức danh lãnh đạo, quản lý và trưởng, phó ngành tỉnh, huyện, thành phố, để
đảm bảo mỗi năm ít nhất có 100 cán bộ, công chức đi học sau đại học, trong đó
có 30% là cán bộ công chức thuộc diện quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản
lý và trưởng, phó ngành tỉnh, huyện, thành phố và cán bộ chủ chốt ở xã, đưa 30
cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn đi đào tạo đại học nhằm đạt được các mục
tiêu đã đề ra và đáp ứng, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của ngành, địa
phương, đơn vị. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức thông
qua các chương trình, đề án, kế hoạch đã được phê duyệt như: Chương trình đào
tạo nguồn nhân lực và giải quyết việc làm giai đoạn 2006 - 2010; Đề án Vĩnh
Long 100; kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng CB,CC,VC hàng năm. Đồng thời, đã
khuyến khích các cơ quan, đơn vị đưa đi đào tạo trên chuẩn nghề nghiệp, nhất là
đưa đi đào tạo sau đại học, để nâng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tạo nguồn
để bổ sung các chức danh lãnh đạo, quản lý và trưởng, phó ngành tỉnh và huyện,
thành phố.
Qua quá trình tổ chức thực hiện Đề án, tỉnh đã phân cấp cho các sở ban
ngành địa phương phối hợp, liên kết thực hiện như sau: Sở Nội vụ có chức năng
tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thường vụ tỉnh uỷ sắp xếp, bố trí các chức
danh cán bộ lãnh đạo, quản lý và trưởng, phó ngành tỉnh theo hướng có đại học
99
chuyên ngành và có trình độ thạc sỹ trở lên. Phối hợp với Ban Tổ chức tỉnh uỷ,
tham mưu cho Ban Thường vụ tỉnh uỷ trong việc sắp xếp các chức danh cán bộ
lãnh đạo, quản lý và trưởng, phó ngành tỉnh theo hướng có đại học chuyên ngành
và 50% có trình độ thạc sĩ trở lên (50% còn lại đưa vào kế hoạch đào tạo hàng
năm). Đưa đi đào tạo đại học và sau đại học theo kế hoạch đề ra, đảm bảo đến
năm 2020 đạt các mục tiêu của đề án. Xây dựng đề án trình HĐND tỉnh ban
hành các chính sách, chế độ thu hút người có học hàm, học vị cao về công tác tại
Vĩnh Long. Tham mưu cho UBND tỉnh trong việc thí điểm thi tuyển các chức
danh trưởng, phó phòng chuyên môn thuộc sở, ngành tỉnh và các phòng chuyên
môn thuộc UBND cấp huyện đến năm 2010 xây dựng xong quy hoạch đội ngũ
trí thức trong hệ thống chính trị các cấp và sắp xếp các chức danh cán bộ lãnh
đạo, quản lý và trưởng, phó ngành tỉnh theo hướng có đại học chuyên ngành và
10% có trình độ thạc sỹ trở lên. Đến năm 2015, có 50% cán bộ lãnh đạo, quản lý
và trưởng, phó ngành tỉnh và huyện, thành phố có trình độ thạc sỹ trở lên. Sở Tài
chính, Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Sở Nội vụ và thủ trưởng các sở,
ban, ngành tỉnh, chủ tịch UBND các huyện, thành phố tiến hành rà soát lại đội
ngũ CB,CC,VC của địa phương, đơn vị được phân công quản lý; tiến hành quy
hoạch, xây dựng kế hoạch đào tạo sau đại học theo kế hoạch chung của tỉnh.
Trong quá trình Đề án, UBND tỉnh ban hành Quyết định số: 12/2010/QĐ-
UBND, ngày 25 tháng 02 năm 2010 về việc sửa đổi phần II Quy định kèm theo
Quyết định số 2585/QĐ-UBND ngày 22/12/2008 về việc sửa đổi phần I quy định
quy định chính sách trợ cấp đối với cán bộ, công chức đi học và cán bộ, công
chức luân chuyển, tăng cường về công tác xã tỉnh Vĩnh Long [179]. Đây là kết
quả của quá trình chỉ đạo của Đảng bộ, Chính quyền tỉnh Vĩnh Long đối với phát
triển đội ngũ trí thức trẻ, đồng thời bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ trí thức đã
kinh qua công tác thực tiễn, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động
của đội ngũ trí thức bằng việc cụ thể hoá các chính sách của trung ương về dân
chủ trong hoạt động KH-CN, GD-ĐT, văn hoá, nghệ thuật; Sửa đổi, bổ sung
hoàn thiện các chính sách hiện có và ban hành các chính sách mới theo điều kiện
100
cụ thể của tỉnh; Tăng đầu tư bằng nhiều nguồn lực tạo điều kiện cho trí thức tự
khẳng định, phát triển, cống hiến và được xã hội tôn vinh.
Bên cạnh chủ trương chính sách phát triển đội ngũ trí thức, tỉnh Vĩnh
Long quan tâm chính sách trọng dụng và sử dụng nhân tài, UBND tỉnh ban hành
Quyết định số 1533/QĐ-UBND, ngày 11 tháng 8 năm 2011 về việc triển khai
Nghị quyết số 14/2011/NQ-HĐND ngày 28 tháng 7 năm 2011 của Hội đồng
nhân dân tỉnh về việc quy định mức chi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
thuộc diện quy hoạch nguồn của tỉnh, cán bộ, công chức được cơ quan cử đi học
thông qua Sở Nội vụ, Ban Tổ chức Tỉnh ủy [184]. Ngoài ra tỉnh cũng đã ban
hành chính sách hỗ trợ luân chuyển CB,CC,VC đang công tác ở các vùng khó
khăn, vùng sâu vùng xa và vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Đối với chủ
trương này, tỉnh cũng có sự khảo sát, sắp xếp, cơ cấu bộ máy tổ chức tinh gọn,
hiệu quả và tránh sự lãng phí trong quá trình sử dụng cán bộ. Tỉnh cũng đã quan
tâm thực hiện tốt chính sách đãi ngộ con em con em cán bộ công chức ở Vĩnh
Long đang học đại học ở ngoài tỉnh (như thành phố Hồ Chí Minh và thành phố
Cần Thơ) và thành lập các quỹ học bổng Phạm Hùng, Trần Đại Nghĩa để hỗ trợ
các em học tập có thành tích khá giỏi.
Tăng cường chủ trương chính sách chăm lo phát triển NNL bền vững,
ngày 10 tháng 1 năm 2012 UBND tỉnh ban hành Quyết định số: 31/QĐ-UBND
về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng CB,CC,VC tỉnh Vĩnh Long giai
đoạn 2011-2015 [185] với quan điểm đào tạo, bồi dưỡng CB,CC,VC kiến thức,
kỹ năng quản lý nhà nước theo chương trình quy định cho công chức các ngạch
và theo chức vụ lãnh đạo, quản lý. Đồng thời bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản
lý chuyên ngành và vị trí việc làm theo chế độ bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu hàng
năm, bồi dưỡng văn hoá công sở; kiến thức hội nhập về Tin học, Ngoại ngữ
chuyên ngành; đào tạo trình độ sau đại học cho cán bộ, công chức cấp tỉnh, cấp
huyện trên cơ sở quy hoạch cán bộ; bồi dưỡng trang bị kiến thức, kỹ năng hoạt
động cho đại biểu Hội đồng nhân nhân theo chương trình quy định. UBND tỉnh
đã chỉ đạo đối với CB,CC,VC từ tỉnh đến huyện đến năm 2015 có 100% được
101
đào tạo đáp ứng tiêu chuẩn quy định (còn phải đào tạo 1.281 người; tin học đạt
chuẩn 1.017/1.747 người, tỉ lệ 58,21%, còn phải đào tạo 730 người; ngoại ngữ
đạt chuẩn 820/1.747người, tỉ lệ 46,94%, còn phải đào tạo 927 người); 95% cán
bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý các cấp được đào tạo, bồi dưỡng
theo chương trình quy định phải đào tạo, bồi dưỡng 649/684 người; 90% cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp phòng được đào tạo, bồi dưỡng trước khi bổ nhiệm phải
đào tạo, bồi dưỡng 495/551người; 85% CB,CC,VC thực hiện chế độ bồi dưỡng
bắt buộc tối thiểu hàng năm phải bồi dưỡng 1.485/1.747 người. Đồng thời hàng
năm đưa khoảng 40 - 50 lượt đi đào tạo, bồi dưỡng tại các nước phát triển và
đang phát triển; 100% người hoạt động không chuyên trách được bồi dưỡng kiến
thức phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ; 100% đại biểu HĐND các cấp được bồi
dưỡng trang bị kiến thức, kỹ năng hoạt động vào đầu năm 2013 [125].
Trước bối cảnh đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đến năm 2020, ngày 21
tháng 11 năm 2012 UBND tỉnh ban hành Quyết định số: 1917/QĐ-UBND về việc
thành lập Hội đồng Phát triển nhân lực tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2011-2020
[191]. Hội đồng Phát triển nhân lực tỉnh gồm có 18 thành viên do ông Nguyễn
Văn Thanh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh làm Chủ tịch Hội đồng. Chức năng của Hội
đồng là giúp UBND tỉnh nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp giải quyết các công việc
quan trọng, liên ngành, liên quan đến việc thực hiện quy hoạch phát triển nhân lực
và đào tạo theo nhu cầu xã hội giai đoạn 2011 - 2020. Đồng thời đề ra bốn nhiệm
vụ cơ bản đó là: (1) Nghiên cứu, đề xuất những biện pháp và điều kiện thực hiện
quy hoạch phát triển nhân lực và đào tạo theo nhu cầu xã hội; (2) Giúp tỉnh chỉ
đạo sở, ban, ngành và huyện, thành phố xây dựng các chính sách, chương trình, đề
án đào tạo nhân lực, điều phối các hoạt động và nguồn lực để phát triển nhân lực
phù hợp với quy hoạch phát triển KT-XH; (3) Kiến nghị điều chỉnh quy hoạch
nhân lực và các điều kiện thực hiện quy hoạch, đào tạo nhân lực chất lượng cao
gắn với phát triển khoa học và công nghệ; (4) Giúp tỉnh đôn đốc các sở, ngành và
huyện, thành phố chỉ đạo kiểm tra, giám sát, đánh giá kế hoạch và kết quả triển
khai các hoạt động thực hiện quy hoạch phát triển nhân lực và đào tạo theo nhu
cầu xã hội hàng năm của sở, ngành, địa phương.
102
Có thể nói, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ và Chính quyền
tỉnh Vĩnh Long đã thể hiện sự quyết tâm đẩy mạnh NNL, nhất là NNL chất
lượng cao được xem là khâu quyết định để thực hiện mục tiêu nhiệm vụ của
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ IX (2010) đề ra. Ngày 25
tháng 07 năm 2013, UBND tỉnh ban hành Quyết định số: 04/2013/QĐ-UBND về
việc ban hành Quy chế tuyển dụng công chức cấp tỉnh, huyện thuộc tỉnh Vĩnh
Long [197] và Quyết định số: 1706/QĐ-UBND, ngày 22 tháng 10 năm 2013 phê
duyệt Kế hoạch thực hiện Đề án Quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ trí thức
tỉnh đến năm 2020 [198]. Mục tiêu chung của tỉnh đề ra là góp phần xây dựng
đội ngũ trí thức chuyên nghiệp, vững vàng về chính trị, tinh thông nghiệp vụ có
đủ năng lực góp phần xây dựng hệ thống chính trị, nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa tiên tiến, hiện đại. Đến năm 2015 cán bộ, công chức có trình độ sau
đại học đã đạt tỷ lệ 10% trong tổng số 2.057 cán bộ, công chức trong tỉnh [198];
Đối với viên chức đạt tỷ lệ đại học và sau đại học ước khoảng 80% trong tổng số
22.339 viên chức [198] và phấn đấu đến năm 2020 phải đạt mục tiêu 100% viên
chức có trình độ đại học trở lên. Có khoảng 95% CB,CC,VC giữ các chức vụ
lãnh đạo, quản lý các cấp được đào tạo, bồi dưỡng theo chương trình quy định,
trong đó có 50% cán bộ lãnh đạo, quản lý và trưởng, phó ngành tỉnh, huyện,
thành phố có trình độ thạc sĩ trở lên. Có gần 90% CB,CC,VC đủ tiêu chuẩn trước
khi bổ nhiệm phải đảm bảo thực hiện đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà
nước và chuyên môn nghiệp vụ theo quy định.
Để chủ động hơn nữa trong công tác lãnh đạo quản lý, đồng thời thực hiện
mục tiêu phát triển KT-XH bền vững, UBND tỉnh Vĩnh Long đã ra Chỉ thị số:
08/CT-UBND, ngày 13 tháng 6 năm 2014 về việc tăng cường thực hiện các biện
pháp nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) của tỉnh Vĩnh Long [202], trong
đó tỉnh đã chú trọng môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu phát
triển kinh tế tỉnh nhà và đồng thời chỉ đạo Sở Lao động Thương binh và Xã hội
theo dõi nhu cầu lao động của các doanh nghiệp và chỉ đạo cho các cơ sở đào tạo
xây dựng chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp và từng
bước cung cấp lao động có chất lượng cao.
103
Trên cơ sở nhận thức quan điểm của Đảng để xây dựng đội ngũ doanh
nhân đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Ngày 13/10/2013 tỉnh
Vĩnh Long đã thành lập Hội doanh nhân trẻ tỉnh Vĩnh Long theo Nghị định số:
45/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ quy định về tổ chức,
hoạt động và quản lý hội. Mục tiêu của Hội doanh nhân trẻ tỉnh Vĩnh Long là
thực hiện đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, kết nối giao thương quảng bá
sản phẩm, hình thành và phát triển những mô hình kinh tế thiết thực và hiệu quả,
thực hiện an sinh xã hội góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển KT-XH
của tỉnh nhà theo tinh thần Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X.
Cùng với sự ra đời của Hội doanh nhân trẻ tỉnh Vĩnh Long, tỉnh ủy,
UBND tỉnh đã có sự chỉ đạo các sở, ngành căn cứ các chức năng, nhiệm vụ được
giao thực hiện đầy đủ các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp theo quy định của
pháp luật. Đồng thời tôn vinh những doanh nhân có nhiều thành tích, đóng góp,
tạo điều kiện cho họ tham gia ngày càng hiệu quả vào quá trình hoạch định chính
sách KT-XH của địa phương. Đồng thời Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Vĩnh
Long cũng đã lắng nghe tiếng nói và ý kiến đóng góp của đội ngũ doanh nhân;
coi đó là một trong những kênh phản biện quan trọng để giúp Đảng và Nhà nước
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển KT-XH của tỉnh nhà.
Bên cạnh đó giải quyết kịp thời tâm tư nguyện vọng của doanh nhân, tạo điều
kiện thuận lợi cho họ hoạt động sản xuất, kinh doanh, làm giàu chính đáng, đóng
góp ngày càng nhiều cho xã hội.
3.2.2.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực lao động chuyên môn kỹ
thuật đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn
Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội Đảng khóa X (2006) và Đại hội Đảng bộ
tỉnh Vĩnh Long lần thứ VIII (2005), với quan điểm về phát triển nông nghiệp,
nông thôn, nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2006 - 2010, định hướng đến
năm 2020. Nông nghiệp, nông thôn, trước hết phải phát triển lực lượng sản xuất,
104
trong đó chú trọng phát huy nguồn lực con người, tạo môi trường thuận lợi để
giải phóng sức sản xuất của mọi thành phần kinh tế và tạo điều kiện cho nông
dân chủ động đầu tư phát triển nông nghiêp, nông thôn. Giải quyết tốt mối quan
hệ giữa tăng trưởng và phát triển, giữa tăng trưởng kinh tế với ổn định xã hội,
bảo vệ môi trường, phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, xây dựng nông thôn mới
nhằm giải quyết việc làm, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nông dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng núi, vùng khó khăn, các
xã nghèo. Từng bước thu hẹp khoảng cách mức sống giữa thành thị và nông
thôn, giữa nông dân và các thành phần xã hội khác; giữ gìn và phát huy các giá
trị văn hóa truyền thống. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển nông nghiệp, nông
thôn với giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, tăng cường
củng cố quốc phòng. Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho nhân dân. Phát
huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Xây dựng hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh. Phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời
sống nông dân với phương châm “Giảm đóng góp, tăng đầu tư, phát triển nông
thôn toàn diện”.
Để thực hiện quan điểm chỉ đạo phát triển nông thôn toàn diện, trước hết
UBND tỉnh và các ngành liên quan, khắc phục khó khăn, tập trung đầu tư mọi
nguồn lực để xây dựng NNL, đặc biệt là NNL chuyên môn kỹ thuật. Đây là
NNL quyết định đến sự phát triển khu vực nông nghiệp, nông thôn và nâng cao
đời sống nông dân ở tỉnh Vĩnh Long. Quan điểm chỉ đạo xây dựng NNL
chuyên môn kỹ thuật ở khu vực nông nghiệp, nông thôn được phản ánh sâu sắc
ở các mặt:
Về đào tạo ngành nghề: Khuyến khích và tạo điều kiện cho học sinh nông
thôn vào học tại các trường ĐH, CĐ, trung học chuyên nghiệp và học nghề. Đẩy
mạnh công tác đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở
thực hiện Quyết định số: 29/2008/QĐ-UBND về hỗ trợ tạm thời bồi dưỡng, nâng
cao kiến thức, huấn luyện nghề ngắn hạn và cung cấp thông tin cho nông dân
giai đoạn 2007-2010 [176]. Trong đào tạo, chú ý các ngành, nghề phù hợp với
105
nhu cầu xã hội, đồng thời nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu của
doanh nghiệp, phục vụ phát triển công nghiệp, dịch vụ, làng nghề và xuất khẩu
lao động.
Ngày 25 tháng 2 năm 2011, UBND tỉnh Vĩnh Long ban hành Quyết định
số 420/QĐ-UBND về việc thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Kế hoạch xây dựng
xã hội học tập giai đoạn 2011-2015 tỉnh Vĩnh Long [182]. Ban Chỉ đạo có nhiệm
vụ tổ chức thực hiện theo kế hoạch đã được phê duyệt, huy động các nguồn lực
xã hội tạo cơ hội học tập thường xuyên cho mọi người tại cộng đồng xã, phường,
thị trấn để nâng cao dân trí, bồi dưỡng nguồn nhân lực, góp phần nâng cao mức
sống cho mọi người dân, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá, xã
hội và xây dựng xã hội học tập ở địa phương, đáp ứng nhu cầu học tập của mọi
người trong cộng đồng.
Trên cơ sở nâng cao dân trí, bồi dưỡng phát triển NNL, ngày 11 tháng 3
năm 2011 UBND tỉnh ban hành tiếp Quyết định số: 514/QĐ-UBND về việc
thành lập Hội đồng Thẩm định hồ sơ thành lập, cho phép thành lập trường trung
cấp nghề và trung tâm dạy nghề; thành lập, cho phép thành lập phân hiệu/cơ sở
đào tạo thuộc trường, trung tâm dạy nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long [204],
trong đó tỉnh đề xuất quy hoạch lại hệ thống các trường nghề đóng trên địa bàn
tỉnh và nâng cấp trường Trung cấp nghề tỉnh Vĩnh Long thành trường Cao đẳng
nghề tỉnh Vĩnh Long, trường Cao đẳng sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long nâng cấp
thành trường Đại học Sư phạm kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long trực thuộc Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội.
Đẩy nhanh số lượng và chất lượng NNL, ngày 24 tháng 5 năm 2012,
UBND tỉnh ra Quyết định số: 822/QĐ-UBND về việc điều chỉnh chỉ tiêu đào tạo
giai đoạn 2012 - 2015 của Trường Cao đẳng Cộng đồng Vĩnh Long [190], nhằm
định hướng ngành nghề cho nguồn lực lao động của địa phương đáp ứng với
điều kiện và nhu cầu phát triển KT-XH. Trong đó chủ trương của tỉnh được quy
định tại khoản 9, Điều 1, Quyết định số 1789/QĐ-UBND, ngày 20 tháng 9 năm
2011 của Chủ tịch UBND tỉnh về nhu cầu đào tạo nghề phổ thông cho lao động
106
ở độ tuổi phù hợp, giúp chất lượng lao động và có thể chuyển đổi nghề, tìm kiếm
việc làm mới.
Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn sát với tình hình
thực tiễn, ngày 8 tháng 1 năm 2013 UBND tỉnh ban hành Quyết định số: 53/QĐ-
UBND về việc ban hành Kế hoạch hành động thực hiện quy hoạch phát triển
nguồn nhân lực tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2011-2020 [193]. UBND tỉnh yêu cầu
đề ra nhiệm vụ, thành lập cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp và quy định rõ về
thời gian hoàn thành và báo cáo việc thực hiện đề án.
Để thực hiện quyết liệt đào tạo nghề cho lao động nông thôn, từ năm
2013, hàng năm UBND đều ban hành Quyết định phê duyệt Kế hoạch đào tạo
nghề cho lao động nông thôn. Ngày 31 tháng 7 năm 2015, UBND tỉnh ban hành
Quyết định số: 1333/QĐ-UBND về việc phê duyệt Kế hoạch bổ sung đào tạo
nghề cho lao động nông thôn năm 2015 [208].
Kết quả thực hiện như sau: Đến năm 2015 đã tổ chức được 242 lớp đào
tạo nghề cho 7.336 lao động nông thôn, đạt 64,55% so với chỉ tiêu đào tạo của
kế hoạch đào tạo nghề được phê duyệt (Chỉ tiêu kế hoạch số 32/KHDN-BCĐ
ngày 13/3/2015: 11.364 người) và đạt 49,90% so với chỉ tiêu đào tạo nghề năm
2015 của Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Long. Với tổng kinh phí ước thực hiện là 3.641 triệu đồng. Bao
gồm ngân sách Trung ương (kinh phí Chương trình mục tiêu quốc gia việc làm
và dạy nghề năm 2015): 1.985 triệu đồng; ngân sách địa phương: 1.656 triệu
đồng cho các đối tượng học nghề gồm: Đối tượng 1 (lao động nông thôn thuộc
diện được hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, hộ nghèo,
người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người bị thu hồi đất canh tác): 4.400 người;
Đối tượng 2 (lao động nông thôn thuộc diện hộ có thu nhập tối đa bằng 150%
thu nhập của hộ nghèo): 900 người; Đối tượng 3 (lao động nông thôn khác):
9.400 người [75].
Tiếp tục dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn tính đến năm 2015 có
2.981 lao động nông thôn được đào tạo, đạt 97,59% so với chỉ tiêu đào tạo của
107
Đề án được duyệt [178]. Bên cạnh đó UBND tỉnh còn chủ trương đào tạo nghề
phi nông nghiệp cho lao động nông thôn nhằm nâng cao trình độ chuyên môn kỹ
thuật, tay nghề cho người lao động, góp phần nâng cao chất lượng nguồn lao
động của tỉnh, cung ứng lao động có chuyên môn kỹ thuật cho thị trường lao
động, góp phần tạo việc làm, giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động; thực
hiện chuyển dịch cơ cấu lao động, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp
nông thôn và chiến lược phát triển KT-XH từng địa phương.
Đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn theo hình thức truyền
nghề, phổ biến kiến thức, kỹ thuật canh tác, nuôi trồng; giới thiệu, phổ biến các
giống vật nuôi, cây trồng mới có hiệu quả, năng suất cao; các loại nông dược,
phân bón và kỹ thuật nuôi trồng, chăm sóc nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường,
nguồn nước; hướng dẫn cách xây dựng các mô hình nông nghiệp, mở rộng quy
mô canh tác, chăn nuôi, nuôi trồng theo quy mô hộ gia đình; hướng dẫn kỹ
thuật sơ chế, bảo quản nông sản và tiêu thụ hàng hoá. Góp phần nâng cao chất
lượng nông sản và năng suất canh tác, cải tạo và nâng cao hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp.
Quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI về đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục và đào tạo; Kết luận Hội nghị lần thứ ba và lần thứ sáu
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới mô hình tăng trưởng,
nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc nhận
thức và tư duy về giáo dục và đào tạo; công tác quản lý giáo dục; cơ chế, chính
sách đầu tư tài chính cho giáo dục đại học. Gắn kết chặt chẽ giáo dục đào tạo với
chiến lược phát triển KT-XH, củng cố quốc phòng, an ninh, nhu cầu nhân lực
trình độ cao của đất nước, xu thế phát triển của khoa học, công nghệ và yêu cầu
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học Việt Nam đến năm 2020.
Tỉnh đã cơ những dự báo nhu cầu nhân lực qua đào tạo nghề nghiệp. Tính
đến năm 2015, tỉnh Vĩnh Long đang ở thời kỳ ” cơ cấu vàng”, độ tuổi lao động từ
18 - 39 chiếm tỷ lệ lớn trong lực lượng lao động, năm 2010 chiếm 51,65%, ước
năm 2015, năm 2020 là 51,48% và 51,49%. Nguồn cung lao động ngắn hạn, có
108
thể huy động ngay của tỉnh (lực lượng lao động) hiện có năm 2010 là 622,1 ngàn
lao động, năm 2011 là 628,95 ngàn lao động. Dự báo năm 2015 là 656,2 ngàn lao
động; năm 2020 là 686,7 ngàn lao động. Lực lượng lao động tăng trung bình mỗi
năm hơn 6 ngàn lao động. Lao động có việc làm: hiện có năm 2010 là 604,095
ngàn lao động, năm 2011 là 611,25 ngàn lao động; Dự báo năm 2015 là 636,9
ngàn lao động; năm 2020 là 667,6 ngàn lao động. Tỷ lệ lao động có việc làm trong
lực lượng lao động của Tỉnh luôn được duy trì ở mức trên 97%. Lao động có việc
làm ở các khu vực: cơ cấu lao động có việc làm ở các khu vực của tỉnh năm 2010:
56,59% - 15,25% - 28,16%; năm 2011: 54,51% - 16,59% - 28,9%. Dự báo nguồn
cung lao động trong những năm tới có xu hướng giảm dần khu vực I và tăng dần ở
khu vực II, III. Cụ thể: năm 2015: 46,48% - 21,51% - 32,01%; Lực lượng lao
động không có việc làm (thất nghiệp) của Tỉnh đang có xu hướng giảm dần. Hiện
tại năm 2010 khoảng 15,7 ngàn người, chiếm 2,52 lực lượng lao động của Tỉnh.
Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp thành thị khoảng 4,05%, giảm 1% so với năm 2009, do
sau thời kỳ suy giảm kinh tế của tỉnh, vùng và cả nước hồi phục và phát triển, tạo
thêm nhiều việc làm nên tỷ lệ thất nghiệp giảm [75].
Lao động của tỉnh Vĩnh Long chủ yếu là dân tộc Kinh (chiếm 97,38%
năm 2010). Lao động theo giới tính không có sự chênh lệch lớn. Ước đến năm
2015 tỷ trọng lao động nam là 53,4% và lao động nữ 46,6% so với lực lượng lao
động. Ước năm 2020 tỷ trọng lao động nam và nữ không thay đổi nhiều so với
năm 2015. Đồng thời lao động thành thị có xu hướng tăng nhanh hơn lao động
nông thôn. Tỷ trọng lao động thành thị tăng từ 13,61% (năm 2010) lên 15,88%
(năm 2015), ước đạt 19,75% (năm 2020). Điều này gây nên áp lực lớn trong
công tác giải quyết việc làm tại các đô thị lớn và đặt ra các vấn đề về đào tạo
nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn [128, tr.67].
Về dự báo cầu lao động của tỉnh Vĩnh Long không có sự tăng đột biến,
trung bình mỗi năm tăng khoảng 8-10 ngàn lao động. Ngoài các hộ sản xuất
nông lâm thủy sản, hiện nay trên địa bàn tỉnh có trên 65 ngàn cơ sở kinh tế, hành
chính, sự nghiệp đang thu hút trên 180 ngàn lao động.
109
Về cầu lao động qua đào tạo có sự chuyển biến theo hướng tích cực. Dự
báo tỷ trọng cầu lao động trong lĩnh vực nông nghiệp - thủy sản giảm từ 58,5%
(năm 2010) xuống còn 47,89% (năm 2015) và 32,95% (năm 2020), trong khi đó
tỷ trọng cầu lao động của các ngành phi nông nghiệp có xu hướng tăng nhanh
[128, tr.28].
Theo kết quả NNL qua đào tạo của tỉnh Vĩnh Long trong giai đoạn 2011 -
2020 tăng mạnh, trung bình mỗi năm tăng khoảng 30 ngàn đến 40 ngàn lao
động. Cầu lao động tăng chủ yếu ở trình độ sơ cấp và cao đẳng. Cầu lao động ở
trình độ đại học và trên đại học có tăng nhưng không nhiều. Nhu cầu nhân lực
qua đào tạo có xu hướng tăng rất nhanh, từ 23,7% năm 2011 lên 35% năm 2015
và đạt 50% năm 2020. Điều này tạo áp lực rất lớn trong công cuộc đào tạo và thu
hút nhân lực có trình độ về làm việc cho tỉnh. Tuy nhiên, trong thời gian tới nếu
tỉnh thu hút hết được lượng lao động được đào tạo ra tại tỉnh thì vấn đề nâng cao
năng lực lao động qua đào tạo của tỉnh sẽ được giải quyết.
Đối với nhu cầu đào tạo trong khu vực doanh nghiệp có 1.845 doanh
nghiệp với khoảng 54 ngàn lao động, tăng 446 doanh nghiệp và 07 ngàn lao
động so với năm 2010. Về trình độ lao động trong doanh nghiệp: trình độ trên
đại học 76 người chiếm 0,14%; Đại học 3.522 người chiếm 6,53%; Cao đẳng
1.083 người chiếm 2,01%; Trung cấp chuyên nghiệp 3.225 người chiếm 5,98%;
Trung cấp nghề 1.536 người chiếm 2,85%; Sơ cấp nghề 2.367 người chiếm
4,39%; Trình độ khác 46.137 người chiếm 85,52% [215].
Nhìn chung trình độ lao động trong doanh nghiệp trên địa bàn Tỉnh còn
thấp, chủ yếu là lao động giản đơn (chiếm 89,91%). Lao động ở trình độ đại học
6,53% và trung cấp 8,83% chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều so với trình độ cao đẳng
2,01%. Kết quả đến năm 2015, cầu lao động trong doanh nghiệp 85.946 người.
Trong đó trình độ trên đại học 120 người chiếm 0,14%; Đại học 7.224 người
chiếm 8,41%; Cao đẳng 1.806 người chiếm 2,1%; Trung cấp chuyên nghiệp:
4.283 người chiếm 4,98%; Trung cấp nghề: 5.278 người chiếm 6,14%; Sơ cấp
nghề: 10.511 chiếm 12,23%; Trình độ khác 56.724 người chiếm 66% [215].
110
Đối với lao động được đào tạo ở các khu, tuyến công nghiệp là một bộ
phận lao động trong doanh nghiệp, cầu lao động ở các khu, cụm tuyến công
nghiệp cũng chủ yếu là lao động giản đơn; cầu lao động trình độ trung cấp, đại
học cao hơn cầu lao động trình độ cao đẳng. Doanh nghiệp trong các khu, tuyến
công nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp sản xuất thâm dụng lao động nên cầu lao
động trình độ trung cấp về học nghề cao hơn trình độ trung cấp chuyên nghiệp.
Lao động được đào tạo ở các khu, tuyến công nghiệp năm 2011 là 14.019 lao
động, năm 2015 đạt 17.098 lao động, bình quân mỗi năm giai đoạn 2011 - 2015
tăng khoảng 5,09% lao động [215].
Tiểu kết chương 3
Như vậy, từ chủ trương đẩy mạnh phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Long giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2015 đạt kết quả quan trọng, cụ thể: Nhận
thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về phát triển NNL phục vụ CNH, HĐH
được nâng lên. Các cấp, các ngành tập trung chỉ đạo đầu tư phát triển NNL, coi
đây là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa có tính chiến lược lâu dài; chiến lược phát
triển NNL luôn gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển KT-XH của tỉnh, các
địa phương.
Công tác chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ
thống chính trị được đổi mới toàn diện ở các khâu tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng,
phân cấp quản lý, quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ trong hệ thống chính trị từ tỉnh
đến cơ sở. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ được nâng lên đáng
kể. Phần lớn cán bộ giữ các chức danh lãnh đạo được đào tạo bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ, về quản lý nhà nước, quản lý ngành nghề từng bước đáp ứng yêu
cầu phát triển KT-XH ở địa phương.
Công tác dạy nghề trình độ cao bước đầu khẳng định được vị trí, vai trò
đối với phát triển KT-XH; đáp ứng nhu cầu học nghề của người lao động; góp
phần thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, giải
111
quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động. Nhìn chung chất lượng
đào tạo nghề ở các cấp trình độ có chuyển biến tích cực, riêng đào tạo trình độ
cao đẳng nghề được doanh nghiệp tuyển dụng 100% ngay sau đào tạo. Tuy
nhiên việc đẩy mạnh phát triển NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trên thực tế vẫn
còn nhiều nảy sinh và khó khăn hạn chế của một tỉnh thuần nông như: Cơ cấu lao
động mất cân đối trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỉ trọng nông
nghiệp và tăng tỉ trọng công nghiệp, thương mại - dịch vụ trong GDP; chính sách
lao động và giải quyết việc làm gắn với tiềm năng, thế mạnh phát triển nền kinh tế
của tỉnh chưa đồng bộ, công tác xóa giảm nghèo mặc dù giảm khu vực nông nghiệp
nông thôn nhưng chưa thật sự đảm bảo an sinh xã hội của tỉnh. Quá trình chuyển
biến về cơ cấu lao động gắn với sự thay đổi cơ cấu dân cư thành thị và nông thôn,
với sự phát triển các ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa phản ánh
bước phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trên địa bàn tỉnh. Đây
chính là bài toán cho Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long trong những năm tiếp theo của Đại
hội Đảng bộ khóa mới.
112
Chương 4
NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM
4.1. NHẬN XÉT VỀ QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH LONG (2000 - 2015)
4.1.1. Ưu điểm và những kết quả đạt được
Thứ nhất, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long đã thể hiện sự năng động và vận dụng
linh hoạt, sáng tạo trong quá trình hoạch định chủ trương của Trung ương
Đảng về phát triển nguồn nhân lực qua hai giai đoạn phát triển.
Từ thực tiễn công tác phát triển NNL từ năm 2000 đến năm 2015, Đảng
bộ tỉnh Vĩnh Long đã thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm trong nhận thức và
hành động về thực trạng, vị trí vai trò, tiềm năng thế mạnh để phát triển NNL
cho quá trình phát triển KT-XH. Trong quá trình hành động, Đảng bộ cụ thể
hóa Nghị quyết Trung ương Đảng ban hành chương trình hành động nhằm xác
định mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng của từng giai đoạn, đặc biệt là sự sự
phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan Đảng, chính quyền, các sở ban ngành,
các doanh nghiệp trong quá trình vận dụng chủ trương chính sách của Đảng
vào tình hình thực tế tỉnh Vĩnh Long. Đảng bộ luôn chú trọng công tác thông
tin tuyên truyền, phổ biến các nội dung chính sách về phát triển NNL qua các hội
nghị và các phương tiện thông tin đại chúng như Báo Vĩnh Long, Đài phát thanh -
truyền hình tỉnh, đặc biệt là Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Long nhằm nâng cao
nhận thức về tầm quan trọng của việc phát triển NNL trước bối cảnh CNH, HĐH
được xem là nhiệm vụ trọng tâm để phát triển nhanh và bền vững. Tạo môi trường
xã hội thuận lợi để nâng cao chất lượng NNL, lấy chất lượng NNL thông qua công
tác đào tạo NNL làm thước đo cho sự phát triển toàn diện con người vì mục tiêu
CNH, HĐH tỉnh nhà. Phấn đấu phát triển NNL cho các ngành nghề, lĩnh vực mũi
nhọn đặc thù nhằm tạo động lực cho nền kinh tế của tỉnh phát triển toàn diện, sớm
đưa một tỉnh vùng đồng bằng trở thành tỉnh khá vào năm 2015.
Từ năm 2000 đến năm 2005 cụ thể hóa chủ trương phát triển NNL,
Đảng bộ kịp thời ban hành Chương trình hành động số 05-CTr/TU (2002) về
113
đào tạo nhân lực và giải quyết việc làm cho người lao động tỉnh Vĩnh Long,
giai đoạn 2001 - 2005 và Chương trình hành động số 08-CTr/TU (2002) về
thực hiện kết luận Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX)
về GD-ĐT, KH-CN và nhiệm vụ phát triển NNL đến năm 2010. Đây là hai
Chương trình hành động của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long khi bước vào thế kỷ
XXI đã đem lại những kết quả cao, bước đầu hình thành được đội ngũ
CB,CC,VC và NNL lao động chuyên môn kỹ thuật trong lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn cho những giai đoạn tiếp theo. Trong giai đoạn đã đào tạo
và phát triển 15.536 người có trình độ từ trung cấp trở lên, trong đó có 5 tiến
sỹ gấp 3 lần so với những năm đầu tái lập tỉnh. Riêng đối với NNL lao động
chuyên môn kỹ thuật đã đào tạo từ 11 ngàn đến 17 ngàn lao động, trong đó
hàng năm đào tạo 1.500 người có trình độ từ cao đẳng trở lên, so với năm
1991 số lao động chuyên môn kỹ thuật cao gấp 2 lần.
Để có được kết quả giai đoạn này, Đảng bộ đã huy động nhiều nguồn
lực hiện có, trong đó chú trọng nguồn lực tại chỗ là đối tượng CB,CC,VC
trong các cơ quan hệ thống chính trị và nguồn lực lao động khu vực nông
nghiệp nông thôn. Tỉnh đã bám sát tình hình thực tế khi bước vào thế kỷ XXI bằng
thể chế hóa các văn bản pháp quy, các cơ chế chính sách, đề án để triển khai thực
hiện và nhanh chóng xây dựng chương trình hành động phù hợp với từng đối tượng
là CB,CC,VC và đông đảo quần chúng nhân dân khu vực nông nghiệp nông thôn.
Cùng với các sở ban ngành, các bộ phân tham mưu như: Sở Nội vụ, Sở tài chính,
Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Lao động Thương binh và Xã hội đã chủ động trong
việc thực hiện nhiệm vụ báo cáo, khảo sát, đánh giá, thống kê NNL nhằm thực hiện
tốt khâu đào tạo, bồi dưỡng NNL, đặc biệt là nâng cao NNL có trình độ đại học, sau
đại học. Bên cạnh tăng cường chính sách phát triển NNL, tỉnh đã chú trọng ban
hành một số chính sách tương đối đồng bộ để thúc đẩy phát triển NNL như phối
hợp các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp phát triển đa dạng
các ngành nghề đào tạo NNL nhất là đào tạo các ngành nghề thúc đẩy tiến trình
CNH, HĐH ở địa phương và vùng như: các ngành kỹ thuật nông nghiệp, công
114
nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghệ sinh học, công nghệ chế biến
sau thu hoạch, công nghệ thực phẩm, kinh tế, pháp luật và y tế. Mặt khác, bằng
sự nỗ lực toàn diện, tỉnh đã đầu tư phát triển NNL trong lĩnh vực khoa học và
công nghệ nhằm thực hiện “mục tiêu NNL tham gia ứng dụng khoa học kỹ thuật
vào trong sản xuất, thúc đẩy các ngành nông nghiệp, công nghiệp, thương mại -
dịch vụ, du lịch phát triển, nhất là NNL phục vụ trực tiếp cho quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh” [104]. Có chính sách thu hút NNL là cán bộ khoa học
- kỹ thuật, chuyên gia nghiên cứu, cán bộ khoa học đầu ngành và công nhân có tay
nghề cao đến làm việc tại tỉnh, đặc biệt là quan tâm chế độ đãi ngộ NNL tại chỗ đi
học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nhằm phục vụ thiết thực cho phát
triển KT-XH địa phương. Tỉnh chú trọng quan tâm phát triển NNL là đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo tinh thần Kế hoạch số 39-KH/TU cuả Tỉnh
ủy, nhằm đáp ứng trước yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục trong thời kỳ
CNH, HĐH làm đòn bẩy để tạo động lực cho phát triển NNL trong những năm
tiếp theo.
Để việc phát triển NNL của tỉnh đi đúng định hướng, tỉnh đã mạnh dạn
chủ trương cử CB,CC,VC đi đào tạo ở các Học viện, các trường Đại học trọng
điểm ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, thành phố Hồ Chí Minh và đào
tạo nước ngoài; hỗ trợ CB,CC,VC đi đào tạo sau đại học; có chế độ thu hút
sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác ở tỉnh Vĩnh Long… Đối với công tác
phát triển NNL cho lao động nông nghiệp nông thôn, tỉnh đã định hướng công
tác đào tạo nghề với chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp nhằm từng bước
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh. Đồng thời trong công tác đào tạo
nghề cần đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo nghề gắn với
yêu cầu của thị trường lao động, tăng ngân sách đầu tư cho đào tạo nghề, ban
hành cơ chế chính sách hợp lý để huy động và sử dụng các nguồn đầu tư trong
và ngoài nước. Tỉnh huy động nguồn vốn đầu tư có trọng điểm một số cơ sở
đào tạo nghề có chất lượng để đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề
trình độ cao nhằm nâng cao trình độ, chất lượng NNL, đặc biệt là NNL có thế
115
mạnh về sản xuất nông nghiệp thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp nông
thôn. Có thể khẳng định rằng phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long là
một thành công trong quá trình thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng
của những năm đầu thế kỷ XXI.
Giai đoạn 2005 - 2015, là giai đoạn đột phá trong công tác phát triển
NNL theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006)
và lần thứ XI (2011) của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Long lần thứ VIII (2005) và lần thứ IX (2010) đề ra. Đảng bộ tập trung chỉ
đạo, tổ chức thực hiện sâu sát từng ngành từng lĩnh vực, nhất là lĩnh vực giáo
dục và đào tạo theo tinh thần Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X (2008). Đảng bộ cụ thể hóa và ban hành Chương trình
hành động số 21-CTr/TU (2008) và Chương trình hành động số 09-Ctr/TU
(2011) để chỉ đạo tổ chức thực hiện. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng bộ tập
trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt chủ trương của Đảng về phát
triển NNL ở các cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể, thường xuyên tổng
kết đánh giá tình thực hiện chủ trương, đúc rút kinh nghiệm và đề ra phương
hướng nhiệm vụ theo tình hình thực tế của địa phương.
Đảng bộ chỉ đạo trực tiếp các cơ quan tham mưu như Ban Tổ chức tỉnh
ủy, Sở Nội vụ, Sở Tài chính, Sở Giáo dục và Đào tạo trong việc thực hiện chủ
trương của Đảng, rõ nét nhất là sự phối hợp thực hiện chủ trương Đề án Vĩnh
Long 100 tạo sự đồng tình và thống nhất cao trong việc phát triển đội ngũ trí
thức nói chung, CB,CC,VC trong HTCT và đội ngũ công nhân lành nghề khu
vực nông nghiệp nông thôn nói riêng.
Phát huy sức mạnh của HTCT trong việc phát triển NNL, Đảng bộ chủ
động hoạch định chính sách theo đặc điểm tình hình mới, trong đó tăng cường
phát triển NNL sau đại học thuộc các ngành nghề có tính chất mũi nhọn cho
việc phát triển nền kinh tế của tỉnh như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ chế biến... và linh hoạt trong việc
tìm địa chỉ liên kết với các đại học, học viện thuộc các Bộ, Ngành Trung ương
116
để đào tạo, bồi dưỡng NNL theo nhu cầu. Có thể nói, công tác phát triển NNL
của tỉnh ngày càng đi vào trọng tâm trọng điểm, các chủ trương chính sách
đều đáp ứng được nhu cầu của xã hội, chính vì vậy tỉnh nhiệm kỳ đại hội
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long khóa VIII đã tổng kết. Đảng bộ cũng đã xác định
việc phát triển KT-XH là nhiệm vụ trọng tâm, công tác phát triển NNL là
khâu then chốt và luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. NNL trong giai
đoạn này được xác định là một trong ba khâu đột phá để góp phần tăng trưởng
và thúc đẩy KT-XH của tỉnh và luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp
của Tỉnh ủy, HĐND, UBND, sự tham gia tích cực của các cấp, các ngành liên
quan trong tỉnh. Đảng bộ đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo Nghị quyết số: 27-
NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X. Bước đầu hình thành
được đội ngũ CB,CC,VC chuyên sâu, đầu ngành trên một số lĩnh vực. Chất
lượng đội ngũ trí thức của tỉnh ngày càng được nâng lên, đội ngũ trí thức công
tác trong các cơ quan QLNN, các đơn vị sự nghiệp của tỉnh tăng. Đến năm
2015 cán bộ, công chức chủ chốt các cấp có trình độ sau đại học đạt tỷ lệ 10%
trong tổng số 2.057 cán bộ, công chức trong tỉnh [198]. Việc áp dụng chính
sách sửa đổi, bổ sung về hỗ trợ đào tạo và thu hút cán bộ khoa học kỹ thuật có
trình độ chuyên môn cao về làm việc tại tỉnh đã tạo động lực thúc đẩy đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh tích cực tham gia đào tạo chuyên sâu
theo các chuyên ngành trong đó các ngành nghề đã đạt số lượng theo nhu cầu
như lĩnh vực văn hóa - xã hội, y tế, pháp luật, tài chính,… Đối với công tác
phát triển NNL chuyên môn kỹ thuật khu vực nông nghiệp nông thôn đã mang
lại nhiều kết quả tích cực. Trong lãnh đạo chỉ đạo, Đảng bộ luôn chú trọng và
vận dụng linh hoạt chủ trương chính sách của Nhà nước như cụ thể hóa Nghị
quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về công
tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH; về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn, tỉnh đã triển khai chính sách nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa
học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực nhằm tạo đột phá để hiện đại hóa
nông nghiệp và công nghiệp hóa nông thôn. Đồng thời vận dụng linh hoạt
117
Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
XHCN và hội nhập quốc tế.
Bằng sự nỗ lực toàn diện để tăng nhanh số lượng và chất lượng NNL,
Đảng bộ nhận thức rõ vị trí, vai trò quan trọng của NNL trong việc khai thác
tiềm năng thế mạnh của tỉnh để đưa KT-XH phát triển, đưa tỉnh Vĩnh Long
có mức thu nhập GDP bình quân đầu người đứng hàng thứ tư khu vực đồng
bằng sông Cửu Long [207], trong quá trình lãnh đạo công tác phát triển NNL
các cấp ủy Đảng và chính quyền tỉnh Vĩnh Long luôn gắn kết việc phát triển
KT-XH với phát triển NNL, coi đó là mối quan hệ tương hỗ. NNL phát triển
sẽ góp phần phát triển KT-XH và ngược lại. Bởi vậy, công tác phát triển
NNL tỉnh Vĩnh Long trong thập niên đầu của thế kỉ XXI luôn nhận được sự
quan tâm chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh, sự tham gia tích
cực của các cấp, các ngành, địa phương trong tỉnh và được cụ thể hoá bằng
các nghị quyết chuyên đề của tỉnh và các địa phương. Công tác phát triển
NNL luôn gắn liền với mục tiêu phát triển KT-XH, an ninh quốc phòng, trở
thành nền tảng khai thác, phát huy các tiềm năng thế mạnh của tỉnh phục vụ
nâng cao đời sống của nhân dân. Tập trung vào những ngành nghề xã hội
cần, đào tạo nghề gắn với các chương trình, dự án phát triển KT-XH của
tỉnh. Việc tăng cường liên kết đào tạo nghề đã đáp ứng được nhu cầu NNL
kỹ thuật, tay nghề cao phục vụ sản xuất tại những khu công nghiệp của tỉnh
và khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó, công tác đào tạo ngành
nghề trong tỉnh đã có mục tiêu rõ ràng hơn, điển hình như việc liên kết đào
tạo công nhân kỹ thuật phục vụ cho nông nghiệp, công nghiệp chế biến thủy
sản, dịch vụ, làng nghề và xuất khẩu lao động, tạo điều kiện để NNL công
nhân kỹ thuật tiếp cận và ứng dụng kỹ thuật mới vào sản xuất, tăng năng
suất lao động, cải thiện đời sống, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
lao động ở khu vực nông thôn.
118
Thứ hai, quá trình chỉ đạo thực hiện phát triển nguồn nhân lực, Đảng
bộ luôn bám sát thực tiễn, từng bước cụ thể hóa các đề án, kế hoạch, chương
trình, giải pháp có khả năng thực thi.
Có thể kể đến là Quyết định số 1612/2006/QĐ.UBND về việc Ban hành Đề
án “Đào tạo ở nước ngoài nguồn nhân lực có trình độ sau đại học cho tỉnh Vĩnh
Long giai đoạn 2006 - 2011” gọi tắt là “Đề án Vĩnh Long 100”. Đây là Đề án có
ý nghĩa quan trọng làm thay đổi diện mạo NNL tỉnh Vĩnh Long, đánh dấu giai
đoạn mới về NNL đã đóng góp cho sự nghiệp phát triển kinh tế tỉnh nhà, đưa
tỉnh Vĩnh Long trở thành tỉnh khá trong khu vực. Với đặc trưng được đúc kết
từ mô hình điển hình ở thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh đã mạnh dạn đầu tư
nguồn kinh phí địa phương và tranh thủ sự quan tâm của các bộ ngành Trung
ương đã nâng đội ngũ NNL đến cuối năm 2015 có trình độ chuyên môn từ cao
đẳng đại học, sau đại học trở lên trong các cơ quan HTCT là khoảng 2.400
người tăng gấp 7 lần thời kỳ trước năm 2000 và NNL có trình độ chuyên môn
kỹ thuật đạt hơn 55% [207]. Có thể khẳng định qua Đề án Vĩnh Long 100 đã
mang lại nhiều thành tựu quan trọng trong việc phát triển KT-XH của tỉnh, là
một thành tựu cho Đảng bộ, chính quyền tỉnh Vĩnh Long quyết tâm nâng cao
chất lượng NNL trong giai đoạn mới.
Đối với tỉnh Vĩnh Long, việc thực hiện Đề án đào tạo ở nước ngoài
NNL có trình độ sau đại học đã mang lại nhiều màu sắc và sức sống cho một
tỉnh đồng bằng giàu tiềm năng về KT-XH và quốc phòng - an ninh, là điều
kiện thuận lợi để góp phần quan trọng tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy các ngành,
lĩnh vực khác cùng phát triển. Tỉnh đã bám sát mục tiêu, chương trình, Nghị
quyết của Đảng để khai thác triệt để các lợi thế so sánh, đặc biệt là thế mạnh về
vị trí địa lý của tỉnh nằm giữa hai trung tâm đầu tàu kinh tế phía Nam là thành
phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ. Vì vậy việc Đề án ra đời không chỉ là
cơ hội mà còn là thách thức cho Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân tỉnh Vĩnh
Long trong những năm đầu thế kỷ XXI, khi mà tỉnh chưa có nhiều kinh
nghiệm trong chủ trương phát triển NNL như thực tiễn đặt ra.
119
Để thực hiện đồng bộ và bền vững NNL của tỉnh, Đảng bộ chỉ đạo các
ngành các cấp đưa ra đề xuất, kiến nghị phát triển NNL với cơ cấu ngành nghề
đào tạo hợp lý có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ nhằm tạo bước đột phá cho sự phát
triển KT-XH của tỉnh. Ưu tiên các ngành nghề trong lĩnh vực y tế, tài chính,
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học phục vụ cho nền nông nghiệp công
nghiệp, cơ khí, xây dựng,... Tuy nhiên, là tỉnh có tốc độ tăng trưởng chậm, đời
sống nhân dân còn nghèo, sự hưởng thụ về văn hóa, y tế, giáo dục chưa được
thỏa đáng nhất là NNL phục vụ cho y tế, giáo dục còn thiếu nhân lực có trình
độ chuyên môn cao. Trước những yêu cầu của xã hội, Đảng bộ kịp thời và chỉ
đạo HĐND, UBND ban hành nhiều Quyết định để phát triển NNL đến năm
2020, trong đó Quyết định số 1855/QĐ-UBND về việc ban hành Đề án Xây
dựng đội ngũ trí thức tỉnh Vĩnh Long đến năm 2020 là sự đột phá về tư duy
phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long để đẩy mạnh sự nghiệp CNH,
HĐH. Phấn đấu đến 2015, hoàn thành cơ bản đội ngũ CB,CC,VC chủ chốt từ
cấp huyện đến cấp tỉnh có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ và được bồi dưỡng các chức
danh chủ chốt theo chuyên môn nghiệp vụ.
Tiếp tục khẳng định đầu tư phát triển NNL là nhân tố quan trọng, tạo điều
kiện phát triển các lĩnh vực văn hóa - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh,
cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, phát triển đô thị và xây dựng nông thôn
mới, xây dựng đời sống văn hóa. Đảng bộ đặc biệt quan tâm chỉ đạo phát triển
theo nhu cầu xã hội giai đoạn 2011 - 2020, trong đó nhiệm vụ trọng tâm là xây
dựng các chính sách, chương trình, đề án đào tạo nhân lực, điều phối các hoạt
động và nguồn lực để phát triển nhân lực phù hợp với quy hoạch phát triển KT-
XH. Đồng thời Đảng bộ chỉ đạo các sở, ngành và huyện, thành phố thực hiện
kiểm tra, giám sát, đánh giá kế hoạch và kết quả triển khai của sở, ngành, địa
phương. Có thể nói, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ và Chính quyền
tỉnh Vĩnh Long đã thể hiện sự quyết tâm đẩy mạnh NNL, nhất là NNL chất lượng
cao được xem là khâu quyết định để thực hiện mục tiêu nhiệm vụ của Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ IX (2010) đề ra.
120
Về đào tạo NNL lao động chuyên môn kỹ thuật, Đảng bộ kịp thời đề ra
những nhiệm vụ, phương hướng mang tính chiến lược lâu dài như Đề án số:
1636/ĐA-SGD-ĐT (2005) về xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên và cán bộ quản lý ngành giáo dục tỉnh Vĩnh Long (giai đoạn 2005-2010).
Sự ra đời của Đề án một lần nữa đã khẳng định tính đúng đắn của sự nghiệp
giáo dục và đào tạo mà Nghị quyết Trung ương hai khóa VIII khẳng định, qua
đó nhiều chủ trương biện pháp phù hợp và cùng với các cấp ủy Đảng, chính
quyền, đoàn thể và nhân dân đã làm chuyển biến đến sự nghiệp phát triển giáo
dục tỉnh nhà.
Cùng với các chương trình mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ IX (2010), HĐND, UBND đã cụ thể hóa thành 6 chương trình hành
động chuyên đề cùng với việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới, trong đó là Chương trình phát triển và nâng cao chất
lượng NNL giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến năm 2020 đã mang lại
nhiều kết quả quan trọng. Để thực hiện phát triển NNL, tỉnh quyết tâm đẩy
mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nhất là đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo,
quản lý trong HTCT và đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp, nông thôn
đáp ứng phát triển KT-XH của địa phương. Qua quá trình thực hiện đến cuối
nhiệm kỳ năm 2015, hầu hết các chỉ tiêu về phát triển và nâng cao chất lượng
NNL đã đạt so với kế hoạch Nghị quyết đề ra như đạt 10% cán bộ, công chức
có trình độ đại học, sau đại học, 80% viên chức có trình độ sau đại học và bồi
dưỡng nghiệp vụ thường xuyên, 50% cán bộ lãnh đạo, quản lý và trưởng, phó
ngành tỉnh, huyện, thành phố có trình độ thạc sĩ,..
Có thể khẳng định, Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Vĩnh Long đã thực
hiện đồng bộ, bám sát tình hình thực tiễn đề ra các chính sách đào tạo nhằm
nâng cao chất lượng NNL. Cùng các cấp, các ngành liên quan triển khai thực
hiện đồng bộ, lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình
phát triển KT-XH của địa phương để thực hiện tốt công tác đào tạo nghề cho
lao động nông thôn từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số: 02/2001/NĐ-
121
CP quy định chi tiết thi hành Bộ Luật Lao động và Luật giáo dục dạy nghề
và Quyết định số: 20/2006/QĐ-TTg về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy
nghề vùng đồng bằng Sông Cửu Long đến năm 2010 và 2015.
Như vậy, một trong những nhiệm vụ cơ bản của phát triển NNL là Đảng
bộ luôn chủ động nắm bắt kịp thời chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhu cầu
học tập của nhân dân để xây dựng chương trình, kế hoạch, giải pháp thực hiện.
Tỉnh đã tích cực, chủ động đa dạng hóa hình thức đào tạo, thực hiện liên kết để
đào tạo nhân lực với nhiều trình độ khác nhau nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển
KT-XH của tỉnh, góp phần thay đổi diện mạo NNL, thực hiện nâng cao dân trí
và chất lượng nguồn nhân lực. Phấn đấu tạo điều kiện cho NNL có cơ hội học
tập nâng cao trình độ, mở ra cơ hội phát triển con người toàn diện, phấn đấu
xây dựng một xã hội học tập vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực về số lượng và chất lượng từng bước
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Đảng bộ triển khai tốt việc thực hiện đường lối chủ trương Đảng và
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ về phát triển NNL. Qua ba nhiệm kỳ đại hội, với
sự chỉ đạo sát sao của các cấp ủy đảng, chính quyền và sự đồng thuận nhân
dân, NNL của địa phương có kết quả đáng ghi nhận. Các ngành, nghề được
đào tạo đa dạng, nhiều trình độ và cơ cấu ngành nghề phân bổ đồng đều cho
các lĩnh vực như: kinh tế, tài chính, sư phạm, công nghệ thông tin, khai thác,
chế biến lương thực thực phẩm, xây dựng, kiến trúc,… cho quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của địa phương.
Chất lượng đào tạo đã từng bước đáp ứng được yêu cầu thị trường lao
động, trong cuối nhiệm kỳ 2010 - 2015 đào tạo nghề cho 173.669 lao động,
đạt 100,5% chỉ tiêu chương trình góp phần nâng tỷ lệ lao động chuyên môn
kỹ thuật toàn tỉnh lên 55% [129]. Giải quyết việc làm cho 136.241 lao động,
xuất khẩu lao động 2.321 người, giảm nhanh tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi
lao động ở khu vực nông thôn 4%/năm [129]. Đồng thời kéo giảm tỷ lệ hộ
122
nghèo bình quân hàng năm 1,56%, đến cuối năm 2015 số hộ nghèo còn 2,5%
[129] trong tổng số hộ nghèo trên địa bàn, góp phần đạt được mục tiêu xóa
nghèo bền vững của Chính phủ. Khái quát những đóng góp tích cực trong
công tác đào tạo NNL sau:
Một là, đào tạo nghề cung ứng lao động cho các công ty, doanh nghiệp,
hợp tác xã… để sử dụng lao động có trình độ tay nghề đạt chuẩn theo quy
định tại Khoản 8 Điều 52 Luật Giáo dục nghề nghiệp. Đào tạo nghề phục vụ
xuất khẩu lao động.
Hai là, đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn theo hướng
chuyển giao khoa học công nghệ, kỹ thuật canh tác mới, sử dụng cây trồng
vật nuôi, cải tạo mô hình kinh tế hộ gia đình nông nghiệp nông thôn để tăng
năng suất, tăng chất lượng nông sản, tăng thu nhập cho người dân nông thôn
góp phần thực hiện thành công Kế hoạch số 928/KH-UBND, ngày 16/4/2014
của Chủ tịch UBND tỉnh thực hiện Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh
Vĩnh Long theo hướng nâng cao giá trị, hiệu quả và phát triển bền vững” giai
đoạn 2014 - 2020.
Ba là, chú trọng tăng cường thực hiện mở lớp dạy nghề và giải quyết
việc làm, tạo việc làm cho lao động nông thôn tại 22 xã nông thôn mới trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Long.
Kết quả cụ thể đối với NNL lao động chuyên môn kỹ thuật khu vực
nông nghiệp nông thôn.
Thực hiện đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 theo tinh
thần Nghị quyết số: 140/2010/NQ-HĐND của HĐND tỉnh, đến năm 2015 tỷ
lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật đạt 55%; trong đó tỷ lệ lao động
qua dạy nghề đạt 35% và phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật đạt 75%; trong đó tỷ lệ lao động qua dạy nghề đạt 50%.
Về công tác dạy nghề đã đào tạo 68.900 lao động nông thôn, trong đó người
học nghề nông nghiệp là 24.800 người, chiếm tỷ lệ 36%; người học nghề phi
nông nghiệp là 44.100 người, chiếm tỷ lệ 64%. Tỷ lệ có việc làm sau khi học
nghề trong giai đoạn này tối thiểu đạt 70% [129].
123
Đối với đội ngũ CB,CC,VC trong các cơ quan nhà nước
Song song với thành tựu đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp, nông
thôn, Đảng bộ còn đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng NNL CB,CC,VC
trong các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống chính trị với mục tiêu từng bước
tạo chuyển biến trong quá trình thực hiện chính sách lao động nói chung và
CB,CC,VC gắn với tiềm năng, thế mạnh để phát triển nền kinh tế toàn diện
trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo an
sinh xã hội của tỉnh Vĩnh Long mà đối tượng CB,CC,VC phải là lực lượng
tiên phong trong việc thực hiện nhiệm vụ này. Cùng với sự phát triển các
ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đồng thời phản ánh bước phát
triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trên địa bàn tỉnh. Bằng nhiều
hình thức và loại hình đào tạo, số lượng và chất lượng đội ngũ CB,CC,VC
trong các cơ quan nhà nước đã được nâng lên. Đến năm 2015 công tác đào
tạo, bồi dưỡng CB,CC,VC được các cấp ủy quan tâm, đào tạo, bồi dưỡng có
trọng tâm trọng điểm theo nhu cầu nhiệm vụ chính trị và yêu cầu chuẩn hóa
theo quy định. Việc sử dụng, phân công CB,CC,VC sau đào tạo được chú ý,
nhiều đồng chí đã phát huy tốt và trưởng thành đóng góp tích cực cho công
cuộc phát triển KT-XH ở địa phương.
Từng bước hoàn thiện đội ngũ CB,CC,VC nâng cao về trình độ chuyên
môn, trình độ quản lý, tin học, ngoại ngữ, đặc biệt xu hướng trẻ hóa đội ngũ
nhằm phát huy tính năng động và đảm bảo nguồn cán bộ kế thừa. Đa số
CB,CC,VC thực hiện tốt việc vận dụng trình độ chuyên môn vào công tác
quản lý và công tác phục vụ nhân dân như giáo dục, y tế, ngân hàng,… bước
đầu hình thành được đội ngũ CB,CC,VC chuyên sâu, đầu ngành trên một số
lĩnh vực. Cùng với phát triển đội ngũ CB,CC,VC đội ngũ trí thức của tỉnh
ngày càng được nâng lên, nhiều chuyên gia đầu đàn trong lĩnh vực nông
nghiệp, nhà khoa học trong hoạt động nghiên cứu khoa học đã được hình
thành góp phần đáng kể nâng cao chất lượng NNL làm việc tại địa phương,
124
góp phần phát triển vững chắc cho chất lượng của nguồn nhân lực trong
những năm tiếp theo.
Đến năm 2015, tổng số công chức viên chức trong khu vực nhà nước
20.550 người trong đó công chức 1.820 người chiếm 8,86%, viên chức 18.730
người chiếm 91,14% [128, tr.29]. So với năm 2005, cán bộ có trình độ sau đại
học tăng gần 400 người, đại học và cao đẳng tăng khoảng 2.400 người. Tuy
nhiên số lượng và chất lượng có tăng nhưng vẫn còn khoảng 2.700
CB,CC,VC chưa qua đào tạo chuyên môn nghiệp vụ bậc đại học trở lên, tỷ lệ
này khá khiêm tốn so với tổng số nguồn nhân lực toàn tỉnh đến thời điểm
tháng 12 năm 2005 là khoảng 5.200 người [128, tr.112].
Để đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH và hội nhập
quốc tế, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long đã quyết tâm xây dựng và phát triển NNL với
mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 có 100% cán bộ lãnh đạo, quản lý có trình độ
đại học, 50% cán bộ chủ chốt có trình độ sau đại học, 60% cán bộ lãnh đạo,
quản lý và trưởng, phó ngành tỉnh và huyện, thành phố có trình độ thạc sĩ trở
lên đã đạt được những kết quả ban đầu nhất định. Đó là kết quả phát triển NNL
từ Đề án Vĩnh Long 100, đã phát triển 41 người có trình độ thạc sỹ trở lên ở
nước ngoài từng bước chuẩn hóa và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong
các cơ quan nhà nước của tỉnh, bước đầu phát huy được tác dụng trong từng
lĩnh vực, đáp ứng được những đòi hỏi trong công tác lãnh đạo, quản lý của các
sở ngành cũng như địa phương. Hơn thế nữa, khắc phục được những hạn chế
yếu kém về công tác cán bộ và mở ra triển vọng mới trong chiến lược cán bộ
của tỉnh. Một điều quan trọng là ý thức cán bộ nâng lên rõ rệt, thể hiện ở tinh
thần, thái độ, trách nhiệm phục vụ tổ chức và nhân dân tốt hơn, tạo ra năng
suất, hiệu quả trong công việc và có sự đóng góp quan trọng trong phát triển
KT-XH của tỉnh nhà.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Đảng bộ đã có những linh hoạt trong
việc chủ trương ban hành nhiều chính sách thiết thực đối với đội ngũ trí thức
theo tinh thần Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X.
125
Theo số liệu từ năm 2010 đến 2015, đội ngũ trí thức tỉnh Vĩnh Long đã tăng
nhanh cả về số lượng, chất lượng. Đây là lực lượng trưởng thành trong công
cuộc đổi mới và để thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện và bền vững, đội
ngũ trí thức phải trở thành những con người đầu đàn, đang nắm những trọng
trách quan trọng để góp phần phát triển KT-XH địa phương. Họ là những người
đi đầu trong việc nghiên cứu, sáng tạo ra những phát minh có giá trị phục vụ
cho thực tiễn xây dựng đất nước. Có thể khẳng định rằng, Đảng chủ trương xây
dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước là nghị quyết ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với phát triển nguồn
nhân lực đất nước mà còn có ý nghĩa quyết định đối với Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Long trong thời kỳ xây dựng và phát triển NNL bền vững thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Cụ thể và nổi bật là Đảng bộ chủ trương ban
hành Chương trình hành động số 21- CTr/TU, ngày 3-11-2008 về xây dựng đội
ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong đó nêu rõ: “Cùng với sự phát triển chung, đội ngũ trí thức của tỉnh đã
tăng nhanh về số lượng, nâng lên về chất lượng góp phần trực tiếp vào quá
trình phát triển KT-XH ở địa phương, thực hiện tốt công tác xóa đói giảm
nghèo nâng cao chất lượng cuộc sống, đóng góp tích cực trong xây dựng những
luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định chủ trương, nghị quyết, chính
sách phát triển KT-XH của tỉnh, thực hiện phát triển NNL, nâng cao dân trí và
bồi dưỡng nhân tài, từng bước đáp ứng trình độ KH-CN tiếp cận với trình độ
của khu vực và cả nước”. Là kết quả quá trình đẩy mạnh phát triển NNL có
trình độ chuyên môn cao theo chủ trương của Đảng, tỉnh Vĩnh Long được tập
trung chủ yếu trong các ngành vận hành kỹ thuật máy móc trong các lĩnh vực
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, thương mại và đặc biệt là trong công tác
quản lý nhà nước. Trong đó đối với khối ngành có tỷ lệ nguồn lực có trình độ
lao động cao nhất là lĩnh vực nông, lâm, thủy sản trên 57%. Với nguồn lực này
tỉnh có thế mạnh để phát triển kinh tế nông ngư nghiệp, nhiều năm liên tục,
Vĩnh Long vẫn duy trì chỉ số năng lực cạnh tranh đứng hàng thứ 5 cấp tỉnh vào
126
năm 2010, hàng thứ 2 và đứng hàng thứ 3 khu vực đồng bằng sông Cửu Long
vào năm 2015.
Song song những kết quả đạt được, việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ
phát triển NNL được xã hội ghi nhận, đặc biệt từ khi Đảng ban hành Nghị
quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương về thanh niên, đội ngũ
trí thức, vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân đã trở thành nguồn động lực
quan trọng nhất để đưa tỉnh Vĩnh Long trở thành tỉnh có mức thu nhập và tăng
trưởng khá qua hai nhiệm kỳ (2001-2005) và nhiệm kỳ (2010-2015).
Thành quả phát triển về số lượng và chất lượng NNL đã góp phần quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đến năm 2015, KT-XH
tỉnh Vĩnh Long đã có bước phát triển vượt bậc, tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP
tăng bình quân hàng năm đạt 6,97%. GDP bình quân đầu người đạt 36,690 triệu
đồng tương đương 1.862 USD, tăng 1,7 lần so với năm 2010 [129]. Cơ cấu
kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: Khu vực công nghiệp - xây dựng tăng
2,5% và dịch vụ tăng 3,5%, tỷ trọng nông lâm thủy sản giảm. Từ chuyển dịch
cơ cấu kinh tế đã kích thích chuyển dịch cơ cấu lao động tích cực đúng hướng,
lao động khu vực nông nghiệp đến năm 2010 giảm 6,65%, khu vực công
nghiệp, xây dựng tăng 1,755 và dịch vụ tăng 4,9% [129]. Năm 2015 Vĩnh Long
là một trong những tỉnh có mức độ cạnh tranh cao cấp tỉnh trong khu vực đồng
bằng sông Cửu Long. Đời sống nhân dân được cải thiện, kết cấu hạ tầng phát
triển. Có được thành tích đó là sự nỗ lực lớn của Đảng bộ và nhân dân tỉnh
Vĩnh Long trong thực hiện các chủ trương lớn của tỉnh ủy về phát triển KT-XH
của tỉnh, trong đó có công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Trong vòng
15 năm, tỉnh Vĩnh Long đã đạt được những kết quả to lớn trên công tác này.
4.1.2. Hạn chế, khiếm khuyết và nguyên nhân
Trong 15 năm (2000-2015) tỉnhVĩnh Long lãnh đạo phát triển NNL đã
thu được những kết quả quan trọng, góp phần to lớn vào phát triển KT-XH của
địa phương. Tuy nhiên, trong công tác phát triển NNL cũng còn nhiều hạn chế.
Đó là:
127
Quá trình hoạch định chủ trương, chính sách phát triển NNL còn chưa
đồng bộ.
Đó là việc lãnh đạo thực hiện phát triển NNL chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đội ngũ cán bộ còn bất cập
về số lượng, chất lượng và cơ cấu, thiếu chuyên gia, lãnh đạo đầu ngành; lao
động kỹ thuật còn ít, đào tạo nghề chưa theo kịp nhu cầu phát triển, cơ chế
quản lý, đào tạo, luân chuyển,...còn không ít khó khăn, vướng mắc.
Chính sách thu hút NNL tuy đã được quan tâm, nhưng chưa được ban
hành đồng bộ ở các cấp địa phương. Việc thu hút, giữ chân người tài hiệu quả
chưa cao. Môi trường làm việc, cơ chế sử dụng, đãi ngộ còn nhiều bất cập nên
chưa thu hút một bộ phận con em Vĩnh Long học tập thành tài, kinh doanh
thành đạt về quê hương làm việc.
Cơ cấu nhân lực chưa hợp lý, còn tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”; số
chuyên gia và công nhân lành nghề trong lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ cao còn
quá ít. Nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế vẫn còn rất thiếu lao động kỹ thuật bậc
cao như công nghệ chế biến, chế tạo, vật liệu xây dựng, kỹ thuật nông nghiệp,
lâm nghiệp và chế biến thủy, hải sản,…
Cung - cầu về lao động mất cân đối, số doanh nghiệp trên địa bàn đa số có
quy mô nhỏ chưa thu hút nhiều lao động vào làm việc. Tỷ lệ lao động chưa qua
đào tạo còn lớn, chất lượng lao động nói chung còn thấp, khả năng tiếp cận thị
trường và cạnh tranh của lao động còn yếu, cơ cấu ngành nghề và cấu trúc đào
tạo không hợp lý, thiếu lao động lành nghề, thiếu các chuyên gia kỹ thuật giỏi.
Việc thành lập, xây dựng bộ máy tổ chức Hội trí thức Vĩnh Long hoạt
động chưa mạnh, chưa khai thác nguồn lực chất xám của đội ngũ trí thức để
phục vụ mục tiêu phát triển KT-XH ở địa phương. Trong quá trình hoạch định
cơ chế, chính sách tài chính về hoạt động KH-CN, văn hóa, nghệ thuật cũng
như trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo và ứng dụng chưa đặt trọng tâm của
từng thời kỳ, từ đó sau 20 năm tái lập tỉnh, “Vĩnh Long vẫn còn ở ngưỡng phát
triển trung bình”.
128
Một số chính sách phát triển, thu hút và sử dụng nhân tài chưa thỏa
đáng và đúng trọng tâm, trọng điểm.
Một thực tế rất phổ biến ở nhiều ngành, nhiều cấp hiện nay là coi trọng
việc thu hút nhân tài nhưng lại không coi trọng việc sử dụng nhân tài. Thu hút
nhân tài không chỉ tạo điều kiện làm việc, mà phải tạo điều kiện cho nhân tài
phát triển. Nhiều địa phương có chính sách thu hút nhân tài, nhưng lại không
bố trí, sắp xếp công việc phù hợp, không tạo điều kiện cho nhân tài phát huy
khả năng. Do đó, nhiều nhân tài đã tự rời bỏ công việc đã được bố trí để tìm
những nơi làm việc mới có cơ hội thăng tiến hơn.
Những người thực sự là nhân tài thường quan tâm nhiều nhất đến môi
trường làm việc, nơi họ thể hiện được năng lực của mình. Một môi trường thiếu
tính năng động, mang nặng dấu ấn phong cách quản lý hành chính quan liêu sẽ
làm hao hụt trí tuệ, giảm đi sự nhiệt tình và khả năng sáng tạo của nhân tài,
nhất là lớp trẻ và những người được đào tạo trong môi trường năng động ở
nước ngoài. Họ cần được sử dụng bởi những người lãnh đạo có tư duy quản lý
mới, dám thay đổi và chấp nhận rủi ro, luôn ủng hộ những sáng tạo tích cực
của cấp dưới.
Sẽ là bất hợp lý và lãng phí "chất xám" nhân tài nếu đơn vị, địa
phương "trải thảm đỏ" để thu hút một nhân tài về làm việc nhưng bố trí, sắp
xếp họ không đúng chuyên môn, năng lực và vị trí việc làm. Điều đó dẫn đến
tình trạng người được thu hút về thiếu khả năng độc lập, quyết đoán trong giải
quyết công việc, thụ động trong thực thi nhiệm vụ, chậm thích ứng với nhiệm
vụ mới, là một trong những nguyên nhân của tình trạng "chảy máu chất xám",
đặc biệt là các ngành y tế, giáo dục, ngành tài chính - ngân hàng. Theo số liệu
thống kê của Ban Tổ chức tỉnh ủy Vĩnh Long từ năm 2005 đến 2015 có
khoảng 300 người có trình độ sau đại học và đang học cao học xin nghỉ việc
để tìm đến những tổ chức tư nhân tại các trung tâm kinh tế, đô thị lớn như:
thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, tỉnh Bình Dương... tìm công việc thích hợp
có thu nhập cao.
129
Bên cạnh đó sử dụng nhân tài ở nhiều cơ quan, đơn vị còn có những
khoảng cách đáng kể như bố trí công việc không hợp lý, thu nhập không cao,...
không tạo điều kiện để nhân tài có thể phát triển tài năng là một sự lãng phí
không chỉ với bản thân nhân tài mà với toàn xã hội. Đó cũng là câu trả lời vì
sao thời gian qua một số địa phương không giữ chân thu hút nhân tài, khiến cho
nhiều nhân tài, đặc biệt là những người trẻ đang có xu hướng rời bỏ khu vực
nhà nước ra ngoài làm việc cho các doanh nghiệp. Đây chính là một trong
những nguyên nhân dẫn tới việc khó thu hút nhân tài vào làm việc trong khu
vực nhà nước ở tỉnh Vĩnh Long. (Xem phụ lục 11).
Công tác phát triển NNL thông qua công tác đào tạo nghề còn nhiều bất
cập so với thực tiễn.
Tuy có sự phát triển, đổi mới trong công tác phát triển NNL về đào tạo
nghề nhưng chất lượng đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh chưa đồng đều, còn có
một số cơ sở dạy nghề có chất lượng đào tạo chưa cao, học viên sau khi tốt
nghiệp khóa học nghề chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động của các
doanh nghiệp. Nguyên nhân chính là do các cơ sở dạy nghề hiện nay còn thiếu
giáo viên cơ hữu rất nhiều, một số Trung tâm dạy nghề công lập cấp huyện
chưa được biên chế giáo viên cơ hữu; công tác đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết
bị thực hành nghề còn hạn chế, chưa đồng bộ theo quy mô đào tạo; chương
trình, giáo trình dạy nghề chậm đổi mới, chưa thực hiện cập nhật kịp thời so
với sự tiến bộ của khoa học công nghệ kỹ thuật hiện đại; trong quá trình tổ
chức đào tạo, còn một số cơ sở dạy nghề chưa chú trọng việc tổ chức thực hành
thực tế tại doanh nghiệp.
Công tác tuyển sinh học nghề gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với việc
tuyển sinh học nghề các cấp trình độ cao như cao đẳng nghề, trung cấp nghề do
thời gian đào tạo dài (từ 2 đến 3 năm), mặt khác, do nhu cầu tập trung lao động
về các khu đô thị lớn để làm việc, do đó lực lượng lao động còn lại của tỉnh chủ
yếu là lao động lớn tuổi, từ đó gây khó khăn cho việc tổ chức tuyển sinh học
nghề các ngành nghề công nghệ kỹ thuật. Công tác giải quyết việc làm, tạo việc
130
làm cho người lao động chưa được phát huy toàn diện. Một số ngành nghề
chưa thực sự bền vững, thu nhập còn thấp, công tác xuất khẩu lao động còn hạn
chế về số lượng lao động tham gia, đặc biệt là khu vực nông nghiệp, nông thôn,
vùng đồng bàn dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa ở tỉnh Vĩnh Long.
Việc thực hiện Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn, tuy Ban Chỉ
đạo Đề án các cấp đã được thành lập đầy đủ nhưng hiệu quả triển khai, tổ chức
thực hiện, quản lý giám sát công tác dạy nghề còn nhiều hạn chế; đa số cán bộ
quản lý dạy nghề cấp huyện, xã là cán bộ kiêm nhiệm, chưa am hiểu nhiều về
các chính sách, quy định dạy nghề cũng như chính sách của Đề án. Trong quá
trình thực hiện, các ban ngành đoàn thể địa phương còn chưa thực hiện tốt việc
lồng ghép các hoạt động của Đề án vào các nhiệm vụ công tác của ngành, địa
phương quản lý để nâng cao hiệu quả và chất lượng thực hiện Đề án đối với
việc đẩy nhanh phát triển NNL tại chỗ cho khu vực nông nghiệp, nông thôn.
4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU
4.2.1. Vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ trương của Đảng về phát triển
nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện thực tế kinh tế - xã hội ở địa phương
Thực tế lịch sử qua15 năm (2000 - 2005) đã chứng minh phát triển NNL
là một trong những nhiệm vụ đột phá để giúp cho tỉnh Vĩnh Long hoàn thiện về
chương trình, kế hoạch phát triển KT-XH của tỉnh, từng bước thực hiện tốt an
sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất - tinh thần cho nhân dân. Để có được
kết quả đó, tỉnh đã đánh giá đúng tình hình thực trạng gần 10 năm tái lập, là
thành quả của một quá trình vận dụng đường lối chủ trương của Đảng khi tỉnh
Vĩnh Long là tỉnh nghèo trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long chưa có kinh
nghiệm thực hiện phát triển NNL. Bằng sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ,
Chính quyền, Nhân dân, tỉnh Vĩnh Long đã xây dựng một tập thể đoàn kết,
thống nhất, sâu sát, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành ở tất cả các
cấp ủy và HTCT. Tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính
phủ, các bộ ban ngành Trung ương, huy động vào cuộc của cả HTCT, tranh thủ
sự ủng hộ nhân dân để tổ chức lãnh đạo thực hiện đạt hiệu quả. Trên cơ sở nắm
131
đầy đủ thông tin về việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, chế độ
trong giai đoạn tái lập tỉnh; nhận thức đầy đủ những khó khăn, thuận lợi, đánh
giá đúng kết quả thực hiện là cơ sở để nâng cao năng lực thể chế hóa các chủ
trương đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước thành các chương trình
kế hoạch thực hiện, phù hợp với thực tiễn địa phương, coi đây là nhiệm vụ có
tính chất chiến lược trước mắt và lâu dài trong sự phát triển toàn diện của tỉnh.
Trong đó, Chương trình hành động số: 09-Ctr/TU về phát triển và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến năm 2020
đã thể hiện rõ sự đột phá, sáng tạo trong lãnh đạo chỉ đạo công tác phát triển
NNL của tỉnh, thể hiện sự phát triển về nhận thức của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long
về vị trí vai trò của công tác phát triển NNL đối với sự phát triển KT-XH của
địa phương. Đồng thời, sự quyết tâm của Đảng bộ còn thể hiện trong việc đề ra
các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp để mở ra một giai đoạn mới cho công tác
phát triển NNL.
Khi xác định đặc điểm, thế mạnh về phát triển NNL của tỉnh, Đảng bộ và
UBND tỉnh có sự chỉ đạo, phân công các sở ngành chủ quản chủ trì, phối hợp
làm đầu mối xây dựng chương trình, kế hoạch, giải pháp đề xuất với Trung
ương về chủ trương phát triển NNL theo cơ chế, chính sách đặc thù phục vụ
cho sự phát triển của tỉnh. Tích cực chủ động đổi mới chính sách phát triển
NNL và thường xuyên đánh giá những mặt được, chưa được, hạn chế, nguyên
nhân trong phát triển NNL để có kế hoạch điều chỉnh, uốn nắn kịp thời nhằm
tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc nhất là việc xây dựng quy hoạch và kế
hoạch phân bổ NNL là CB,CC,VC có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ
chính trị ở địa phương còn khó khăn, vùng sâu vùng xa.
Đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước, tập trung chỉ đạo và triển khai
trọng tâm, trọng điểm chính sách phát triển NNL, ưu tiên phát triển NNL là
CB,CC,VC và lao động chuyên môn kỹ thuật, theo đó bám sát đặc điểm, ưu tế
phát triển KT-XH của tỉnh, Đảng bộ đã chỉ đạo UBND tỉnh xây dựng ban hành
các Chỉ thị, Nghị quyết, đề án, chương trình, kế hoạch phục vụ nhu cầu phát
132
triển NNL. Trong đó kinh nghiệm thành công là Chỉ thị số 20/CT.UBT về đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ - công chức giai đoạn 2001-2005 của tỉnh Vĩnh Long; Kế
hoạch số 1478/UB đào tạo nguồn nhân lực và giải quyết việc làm cho người lao
động Tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2002-2005; Nghị quyết số 16/2001/NQ.HĐND
về phê duyệt chương trình giải quyết việc làm tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2001-
2005; Quyết định số 1612/2006/QĐ.UBND về việc Ban hành Đề án “Đào tạo ở
nước ngoài nguồn nhân lực có trình độ sau đại học cho tỉnh Vĩnh Long giai
đoạn 2006 - 2011” gọi tắt là “Đề án Vĩnh Long 100”; Quyết định số 1855/QĐ-
UBND về việc ban hành Đề án Xây dựng đội ngũ trí thức tỉnh Vĩnh Long đến
năm 2020; Quyết định số 420/QĐ-UBND về việc thành lập Ban Chỉ đạo thực
hiện Kế hoạch xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2011-2015 tỉnh Vĩnh Long;
Quyết định số: 53/QĐ-UBND về việc ban hành Kế hoạch hành động thực hiện
quy hoạch phát triển nguồn nhân lực tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2011-2020;
Quyết định số: 1333/QĐ-UBND về việc phê duyệt Kế hoạch bổ sung đào tạo
nghề cho lao động nông thôn năm 2015;... đồng thời Đảng bộ, UBND tỉnh cũng
đã chủ trương chỉ đạo các cơ quan tham mưu Sở Xây dựng, Sở Kế hoạch và
đầu tư, Sở Giáo dục và đào tạo,.. xây dựng một số cơ chế chính sách các hoạt
động trong lĩnh vực giáo dục dạy nghề, thành lập trường đại học đa ngành,
quy hoạch lại các cơ sở đào tạo đóng trên địa bàn tỉnh theo tinh thần Nghị
quyết số: 09-NQ/TU về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá
VIII) về giáo dục - đào tạo đến năm 2020 và theo Quyết định số: 1375/QĐ-
UBND của UBND tỉnh Vĩnh Long về phát triển và nâng cao chất lượng NNL
giai đoạn 2012-2015 và định hướng đến năm 2020. Theo chủ trương của
Trung ương Đảng, tỉnh trước hết phải phát triển lực lượng sản xuất, trong đó
chú trọng phát huy nguồn lực con người, tạo môi trường thuận lợi để giải
phóng sức sản xuất của mọi thành phần kinh tế và tạo điều kiện cho tổ chức
và cá nhân chủ động đầu tư phát triển nông nghiêp, nông thôn. Tỉnh tăng
cường bám sát thực tiễn, có đánh giá tổng kết và dự báo NNL nhằm giải quyết
tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với ổn định xã hội, bảo vệ môi
133
trường, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân. Tỉnh cũng đã nâng cao hiệu quả hiệu lực quản lý nhà nước, xây
dựng kế hoạch và giải pháp thực hiện hàng năm, 5 năm và dài hạn trong chiến
lược phát triển NNL của từng ngành, từng địa phương. Thực hiện tốt việc
phân cấp và phân định rõ việc sử dụng NNL trong các cơ quan nhà nước, các
đơn vị sự nghiệp công lập, các doanh nghiệp,...
Hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển NNL nhằm đổi mới phương pháp
quản lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý. Trước
hết nâng cao phương thức quản lý phát triển NNL khu vực công như: Sở Kế hoạch
và Đầu tư, Sở Nội vụ, Sở Lao động- Thương binh và Xã hội, Sở Giáo dục và Đào
tạo và các bộ phận phụ trách công tác tổ chức, nhân sự của các cơ quan quản lý
hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Củng cố hiệu lực, hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý nhà nước nhằm
nâng cao chất lượng NNL đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH. Thường xuyên
đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tham mưu, giúp việc
về công tác quản lý phát triển NNL. Phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm
quản lý của UBND các cấp, các sở ban ngành trong việc theo dõi, dự báo, xây
dựng kế hoạch phát triển NNL.
Xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị sử dụng lao
động với các cơ sở đào tạo NNL, giữa các đơn vị hành chính, sự nghiệp với Sở
Nội vụ, Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở
Giáo dục và Đào tạo; giữa doanh nghiệp với các trường đại học, cao đẳng,
trung cấp chuyên nghiệp, cơ sở dạy nghề… nhằm tạo đồng thuận và thống nhất
giữa cung và cầu lao động trong thời gian tới, hạn chế đến mức thấp nhất sự
lãng phí trong phát triển NNL của cá nhân, tổ chức và xã hội. Đồng thời, tăng
cường sự chủ động, sáng tạo của từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trong
công tác phát triển NNL.
Là tỉnh thuần nông, NNL được xem là một trong những nhiệm vụ rất
quan trọng trong bối cảnh thực hiện CNH, HĐH địa phương, là vấn đề then
134
chốt cho sự nghiệp phát triển KT-XH, là mục tiêu cơ bản để đưa tỉnh Vĩnh
Long thoát khỏi tỉnh nghèo trong khu vực, trước những đặc điểm đó Đảng bộ
không chỉ dừng lại khâu chủ trương, chỉ đạo mà học tập kinh nghiệm công tác
phát triển NNL của các tỉnh thành trong cả nước, đặc biệt là khi ban hành Đề
án Vĩnh Long 100 đã tạo ra bước ngoặc mới về tư duy về nhận thức trong chiến
lược phát triển NNL tỉnh nhà.
Với những kết quả đạt được, kinh nghiệm rút ra cho tỉnh là từ quá trình
lãnh đạo công tác phát triển NNL giai đoạn 2000 - 2015 luôn bám sát đặc điểm
tình hình thực tiễn địa phương, làm tiền đề Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long thực hiện
thành công phát triển NNL, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH, góp phần thực hiện
thành công công cuộc đổi mới đất nước.
4.2.2. Nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của phát triển nguồn
nhân lực là nhiệm vụ trọng tâm của hệ thống chính trị và xã hội đáp ứng
yêu cầu phát triển toàn diện của tỉnh
Để phát huy hiệu quả công tác phát triển NNL, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long
xác định nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong mục tiêu phát triển KT-XH là
phải nâng cao nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của phát triển NNL, đặc biệt
là NNL trong HTCT và khu vực nông nghiệp, nông thôn. Bởi vì NNL là những
chủ thể không thể thiếu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và cũng không
thể thiếu đối với việc tăng trưởng kinh tế mà còn đóng vai trò quyết định đối
với phát triển kinh tế địa phương. Chính vì vậy để phát triển toàn diện của một
tỉnh nông nghiệp là phải tận dụng, tranh thủ các cơ hội để nâng cao chất lượng
NNL, nhất là NNL có phẩm chất chính trị, có trình độ chuyên môn và tay nghề
cao để góp phần quan trọng trong việc hoạch định chiến lược phát triển KT-
XH. Đồng thời đánh dấu bước ngoặc thành công của Đảng bộ đã mở đầu sự
nghiệp phát triển NNL từ khi tái lập tỉnh đến nay.
Là tỉnh có vị trí địa lý rất thuận lợi để phát triển kinh tế, ngay từ những
năm tái lập tỉnh và qua quá trình khảo sát, đánh giá thực trạng NNL, Đảng bộ
và chính quyền tỉnh Vĩnh Long tập trung thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp cơ
135
bản. Trong đó chủ trương của tỉnh là đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng
nhằm phát triển và nâng cao chất lượng NNL, bổ sung NNL cho những ngành,
lĩnh vực có vai trò quyết định, tạo đột phá trong lĩnh vực KT-XH, nhất là xây
dựng đội ngũ CB,CC,VC trong HTCT, đội ngũ NNL trong lĩnh vực y tế, giáo
dục và tập trung phương hướng xây dựng kế hoạch dài hạn, ngắn hạn đào tạo
NNL chuyên môn kỹ thuật cho khu vực nông nghiệp nông thôn. Trong vòng 15
năm, Đảng bộ và Chính quyền đã ban hành 03 Chương trình hành động, 03 Đề
án và 06 Quyết định phát triển và nâng cao chất lượng NNL nói chung. Trong
đó Chương trình hành động số 09-CT/TU của Tỉnh ủy về phát triển và nâng cao
chất lượng NNL giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến 2020 và Quyết định
số 1375/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc ban hành Kế hoạch phát
triển và nâng cao chất lượng NNL giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến
2020 được xem là sự phát triển nhận thức đúng đắn của Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Long về vị trí vai trò, tầm quan trọng phát triển NNL thời kỳ CNH,HĐH và hội
nhập quốc tế, đồng thời mở đầu một giai đoạn mới trong sự nghiệp phát triển
NNL đã trở thành hiện thực.
Với tinh thần trách nhiệm cao, Đảng bộ tin tưởng rằng khi đã xác định rõ
vai trò trách nhiệm từng đơn vị, địa phương khi ban hành mục tiêu, nhiệm vụ,
định hướng phát triển NNL là đồng nghĩa việc coi trọng và quyết tâm thực thi
chính sách sao cho phù hợp với quy hoạch phát triển chung, phát triển các
ngành nghề và chiến lược phát triển NNL quốc gia theo mục tiêu chung là đủ
số lượng, đúng tiêu chuẩn cơ cấu đồng bộ. Xây dựng chương trình, kế hoạch
phát triển NNL phải gắn liền với ngành nghề đào tạo có trọng tâm, trọng điểm
bảo đảm NNL trong các ngành, các thành phần kinh tế được nâng lên, tạo ra
năng suất, hiệu quả cao trong công việc, đóng góp tích cực vào phát triển KT-
XH của tỉnh theo hướng nhanh và bền vững.
Định hướng công tác tuyên truyền sâu rộng thông qua phương tiện thông
tin đại chúng về chương trình hành động, kế hoạch, nghị quyết, chỉ thị trong
các cơ quan HTCT và nhân dân để định hướng, mục tiêu, vai trò, trách nhiệm
136
phát triển NNL, từ đó có ý thức trách nhiệm hơn trong thực hiện phát triển
NNL thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Nâng cao và tạo sự chuyển biến
thật sự mạnh mẽ trong nhận thức của các cấp, các ngành và cả trong đội ngũ
CB,CC,VC và nhân dân về vai trò phát triển NNL phục vụ sự nghiệp phát triển
KT-XH, quốc phòng, an ninh, đặc biệt là nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của thời kỳ mới. Trong lãnh đạo điều hành,
Đảng bộ luôn phát huy tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu cấp uỷ các
cấp, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức Đảng, chính
quyền, đoàn thể trong HTCT nhằm thực hiện tốt có hiệu quả để nâng cao chất
lượng NNL đáp ứng tình hình mới.
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với các cơ quan quản lý nhà nước,
thực hành dân chủ, huy động nhiều nguồn lực xã hội, xây dựng cơ chế chính
sách trên cơ sở xây dựng những luận cứ khoa học trên cơ sở thực tiễn để luận
giải cho việc đề ra các chủ trương phát triển NNL đáp ứng yêu cầu tình hình
mới luôn đồng bộ, toàn diện để vận dụng linh hoạt các quy định hiện hành của
nhà nước đối với các lĩnh vực liên quan sao cho phù hợp với điều kiện thực tế
của Vĩnh Long và đem lại kết quả tốt nhất.
Tập trung rà soát, điều chỉnh, bổ sung cơ chế chính đãi ngộ, thu hút nhân
tài, đội ngũ là nhà khoa học, quản lý, đội ngũ trí thức, lưc lượng lao động trình
độ chuyên môn cao thuộc các lĩnh vực mà NNL chiếm tỷ lệ cao trong các lĩnh
vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, thương mai, xây dựng,... Chủ động xây
dựng cơ chế chính sách thu hút nhân tài, chính sách luân chuyển NNL làm việc
vùng sâu vùng xa, động viên khuyến khích CB,CC,VC đi học, bồi dưỡng nâng
cao trình độ chuyên môn sau đại học ở các trường đại học, học viện của Trung
ương và các trường đại học nước ngoài theo Đề án Vĩnh Long 100. Bổ sung
chính sách trọng dụng nhân tài là lực lượng học sinh sinh viên, đặc biệt là lực
lượng kỹ sư, bác sĩ, nhà khoa học, chuyên gia, doanh nhân trẻ có tài năng đến
làm việc tại địa phương trong các ngành công nghiệp, cơ khí, điện tử, công
nghệ thông tin, chế biến nông lâm thủy sản, thực phẩm,..
137
Tổng kết, đánh giá, đúc rút kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo phát triển
NNL ở các cấp ủy Đảng nhằm đảm bảo sự tập trung thống nhất, sự phối hợp
thông suốt, nhịp nhàng và linh hoạt, tránh tình trạng một số cấp ủy, chính
quyền, các cơ quan ban ngành chưa tích cực. Đây là một kinh nghiệm quan
trọng có ý nghĩa rất to lớn trong sự nghiệp phát triển NNL ở địa phương.
Thực hiện đồng bộ có hiệu quả mục tiêu phát triển NNL của một tỉnh
thuần nông, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu để phát triển kinh tế. Tuy
nhiên, trong bối cảnh đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH thì nông nghiệp nông
thôn cần có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, có cách làm, bước đi
phù hợp, đặc biệt là xác định NNL để phục vụ sự chuyển dịch kinh tế đòi hỏi
NNL phải có tay nghề và kinh nghiệm giỏi. Coi trọng các ngành công nghiệp
chế biến để nâng cao giá trị nông sản, đáp ứng nhu cầu tiều dùng ngày càng cao
ở trong nước và xuất khẩu theo Quyết định số 650/QĐ-UBND về việc thành
lập Đề án "Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020" trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Long”, Quyết định số 315/QĐ-UNND về việc phê duyệt Danh mục
ngành nghề đào tạo cho lao động nông thôn quá tuổi lao động. Tỉnh chủ trương
phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp, các ngành dịch vụ, thương mại
phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và nhu cầu ngày càng tăng của xã hội; phát
triển các ngành du lịch, coi trọng du lịch sinh thái để thu hút khách du lịch. Có
thể thấy, phát triển NNL đúng hướng đúng nguyện vọng của nhân dân đã phát
huy hiệu quả và khai thác tối đa nguồn lực con người, tạo chuyển biến mạnh
mẽ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, nghĩa là lao động trong
ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ phải tương đối đồng đều lao động
ngành nông nghiệp; lao động ngành nông nghiệp phải giảm đi tuyệt đối và
tương đối để đảm bảo thực hiện thành công của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
lần thứ VIII, lần thứ IX của tỉnh Vĩnh Long toàn diện hơn.
Như vậy phát triển NNL trên hai đối tượng chính là CB,CC,VC trong
HTCT và lao động chuyên môn kỹ thuật trong khu vực nông nghiệp, nông thôn
đã mang lại hiệu quả về cơ cấu, bố trí, quy hoạch và đầu tư cho nguồn lực con
138
người một cách cân đối, hài hòa giữa lợi ích chính trị với lợi ích kinh tế. Quá
trình lãnh đạo luôn sâu sát, có trọng tâm, trọng điểm, đối tường nhân lực nào
còn yếu, yếu mặt nào, chuyên môn nào cần được bổ sung và tập trung đầu tư
sức lực vào đối tượng đó. Theo nhận định của cá nhân, phát triển NNL của tỉnh
Vĩnh Long chưa ổn định và chưa đảm bảo về số lượng và chất lượng trong bình
diện mặt bằng chung của tỉnh so với khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Nguyên nhân dẫn đến thiếu và yếu đội ngũ NNL vẫn là cán bộ, công chức, trí
thức, doanh nhân và quản lý doanh nghiệp, trước tiên là do địa phương chưa
chú trọng đến khâu lựa chọn vào đào tạo bồi dưỡng, đặc biệt là lựa chọn, đào
tạo và sử dụng nhân tài; thứ hai, chưa quan tâm đến khâu quản lý, kiểm tra chặt
chẽ hoạt động của đội ngũ NNL này, hiện đây là khâu yếu, có nhiều bất cập
trong xây dựng chiến lược phát triển NNL lâu dài, tỉnh chỉ chú trọng xây dựng
chủ trương chứ chưa có sự đột phát trong thực thi chính sách phát triển NNL
dẫn đến NNL được đào tạo nhưng không cống hiến lâu dài.
4.2.3. Đảm bảo sự nhất quán, thống nhất từ khâu dự báo, tạo nguồn,
đào tạo, bồi dưỡng trong quá trình lãnh đạo phát triển nguồn nhân lực
Trên cơ sở xác định mục tiêu phát triển NNL theo Nghị quyết của Đảng
các cấp, Đảng bộ quán triệt sự nhất quán, thống nhất từ dự báo, tạo nguồn, đào
tạo, bồi dưỡng đến rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển các ngành
kinh tế phù hợp kết cấu hạ tầng kinh tế theo từng cơ sở, từng địa phương, bảo
đảm NNL được thực hiện đồng bộ đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, tốc độ phát
triển kinh tế trong khu vực và cả nước. Xác định phát triển và nâng cao chất
lượng NNL trong mỗi cơ quan, đơn vị và cả xã hội là nhiệm vụ mang tính
chiến lược, bảo đảm cho KT-XH phát triển nhanh và bền vững. Phát huy vai
trò, trách nhiệm của đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp trong việc phát triển,
nâng cao chất lượng NNL của tỉnh. Tạo môi trường xã hội thuận lợi để xây
dựng xã hội học tập, quan tâm đào tạo các ngành, nghề mũi nhọn, có ý nghĩa
quyết định đối với sự phát triển KT-XH của một tỉnh đồng bằng nhiều khó
khăn nhưng cũng có nhiều tiềm năng để phát triển.
139
Quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp, vùng công nghiệp trọng
điểm và các khu, cụm công nghiệp đồng bộ với quy hoạch phát triển NNL như:
hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp, các công trình hạ tầng xã hội phục vụ
người lao động. Cơ cấu lại NNL trong lĩnh vực công nghiệp theo hướng phát
triển mạnh những ngành có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự
phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền
kinh tế thuần nông của tỉnh, từng bước có khả năng tham gia sâu vào các công
đoạn sản xuất và mạng lưới phân phối toàn cầu như một số ngành nghề truyền
thống như: gốm, giày da, chế biến nông sản,... Đề cao trách nhiệm của người
đứng đầu trong xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển NNL gắn
với tiềm lực KT-XH, bảo đảm hiệu quả và tính khả thi.
Ưu tiên phát triển NNL cho các ngành công nghiệp, sắp xếp quy hoạch,
phân bổ các trường đại học, cao đẳng nghề, trung cấp nghề,... theo hướng tổ
chức đào tạo sát hơn với yêu cầu của xã hội. Cấp ủy, chính quyền các cấp đã
đặt đào tạo nguồn nhân lực thành công tác trọng tâm, đẩy mạnh xã hội hóa
công tác đào tạo, huy động các thành phần kinh tế tham gia vào quá trình đào
tạo phát triển NNL, nhất là NNL chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc
tế phù hợp với luật pháp Việt Nam. Ưu tiên phát triển NNL ở các địa bàn kinh
tế trọng điểm, đặc biệt là địa bàn có khu, cụm, tuyến công nghiệp của 2 huyện
Long Hồ và Bình Minh theo Quyết định: số 455/QĐ-UBND về việc phê duyệt
dự án dạy nghề cho người nghèo giai đoạn 2008 - 2010. Phát triển các lớp dạy
nghề hoặc cơ sở dạy nghề trong doanh nghiệp; thực hiện liên kết, liên doanh
giữa doanh nghiệp với các cơ sở dạy nghề, gắn việc dạy lý thuyết tại các cơ sở
dạy nghề với thực hành tại doanh nghiệp, tạo nguồn lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật phù hợp với yêu cầu phát triển các ngành nghề thời kỳ hội
nhập quốc tế.
Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi đầu tư của Nhà nước, tranh thủ các
nguồn vốn của Trung ương, của tỉnh, nguồn vốn từ các chương trình dự án,
nguồn vốn tín dụng đầu tư của các Ngân hàng Thương mại, Ngân hàng Nông
140
nghiệp - PTNT, Ngân hàng Chính sách. Mặt khác, áp dụng nhiều hình thức vay
vốn linh hoạt nhằm khai thác tốt các nguồn vốn nội lực trong các doanh nghiệp
trên địa bàn và trong nhân dân để đầu tư phát triển các ngành nghề mới đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4.2.4. Nâng cao nhận thức và phối hợp chặt chẽ của các cấp ủy đảng
trong phát triển nguồn nhân lực
Gần 10 năm để mở đầu cho giai đoạn phát triển NNL từ khi tái lập tỉnh,
Đảng bộ và chính quyền tỉnh đã trăn trở, nghiên cứu, đề xuất, đi khảo sát cơ sở
để lãnh đạo chỉ đạo mỗi cấp, mỗi ngành về nhiệm vụ phát triển NNL là quá
trình nâng cao nhận thức chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của các cấp ủy đảng
trong công tác này. Bằng sự tâm huyết và tinh thần trách nhiệm với xã hội,
Đảng bộ luôn sâu sát, quyết liệt điều hành trong tất cả các cấp ủy của HTCT,
trong nhân dân để tạo sự chuyển biến trong nhận thức về tầm quan trọng của
công tác phát triển NNL, phấn đấu xây dựng xã hội học tập, nâng cao dân trí,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, sớm đưa tỉnh ra khỏi diện tỉnh nghèo. Điều này
được quán triệt sâu sắc, thể hiện trong các nghị quyết, chủ trương, biện pháp
lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện phát triển NNL của ngành, địa phương,
đơn vị mình.
Từ trong nhận thức, Đảng bộ quán triệt các chủ trương, đường lối, chính
sách, chế độ của Đảng và Nhà nước phối hợp chặt chẽ giữa Trung ương và địa
phương, giữa các cấp ủy đảng với chính quyền thực thi cơ chế chính sách đúng
hướng, đúng trọng tâm trọng điểm được thể hiện bằng các văn bản pháp quy,
chương trình hành động, chỉ thị, nghị quyết,… để triển khai thực hiện. Các cấp,
các ngành đã có sự chủ động hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ dự báo nhu
cầu, đánh giá, quy hoạch NNL; nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng, thu
hút NNL; thực hiện tốt việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng hợp lý và hiệu
quả NNL, đổi mới cơ chế, chính sách phục vụ phát triển NNL. Đồng thời, tỉnh
đã ban hành một số chính sách tương đối đồng bộ, đóng vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy phát triển nhanh NNL như: hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo
141
nghề cho công nhân; hỗ trợ đối với CB,CC,VC được cử đi đào tạo trong và
ngoài nước; thu hút CB,CC,VC và những người có trình độ cao đến công tác
tại tỉnh,…
Để thực hiện thành công, Đảng bộ đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
giáo dục pháp luật đến các cơ quan ban ngành trong HTCT và trong nhân dân
để thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển NNL. Trên thực tế đã tạo được nhận thức
đúng đắn và đồng thuận trước hết trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và phần lớn
dân cư về vai trò, vị trí của việc phát triển và nâng cao chất lượng NNL, về tính
cấp thiết và ý nghĩa nâng cao trình độ lao động chuyên môn kỹ thuật. Thông
qua công tác phát triển NNL, HTCT và tổ chức quần chúng nhân dân ngày
càng phát huy vai trò, đáp ứng công tác lãnh đạo, quản lý địa phương. Thái độ,
phong cách làm việc của các cơ quan nhà nước được nâng lên rõ rệt, thể hiện
được tinh thần, thái độ, trách nhiệm phục vụ nhân dân. Đối với chất lượng
NNL trong các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế được nâng lên, tạo
ra năng suất, hiệu quả cao hơn trong công việc, đóng góp tích cực vào phát
triển KT-XH của tỉnh theo hướng nhanh và bền vững.
Cần tuyên truyền đổi mới nhận thức về phát triển ngành nghề của các
ngành các cấp, nhất là việc hoạch định chủ trương chính sách trên các lĩnh vực
trọng yếu của địa phương về phát triển ngành nghề, thực hiện đúng theo quan
điểm đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước. Xác định rõ việc phát triển
ngành nghề là nội dung quan trọng nhằm góp phần thúc đẩy tiến trình CNH,
HĐH. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực ngành nghề,
thực hiện tốt công tác quy hoạch, kế hoạch định hướng phát triển, tổ chức tuyên
truyền phổ biến rộng rãi các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và của
các tỉnh, thành phố về khuyến khích phát triển ngành nghề để mọi tổ chức, cá
nhân được biết để yên tâm đầu tư phát triển.
Củng cố và tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý Nhà nước
về ngành nghề trên địa bàn. Nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp
ủy, chính quyền các cấp từ trung ương đến địa phương đối với các doanh
142
nghiệp đầu tư phát triển ngành nghề mới. Chính quyền ở địa phương cần chủ
động xây dựng các kế hoạch và biện pháp cụ thể để đẩy mạnh việc vận động,
xúc tiến đầu tư và huy động vốn nhằm khôi phục, phát triển ngành nghề đáp
ứng yêu cầu CNH, HĐH.
Rà soát, hoàn thiện thể chế để tạo môi trường thuận lợi thu hút mạnh mẽ
và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính, bảo đảm thông thoáng, thuận lợi, khắc phục phiền hà và giảm chi phí
cho doanh nghiệp khi đầu tư phát triển các ngành nghề mới. Khuyến khích ứng
dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước. Hoàn thiện cơ chế phân cấp
để vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của cấp dưới, vừa bảo đảm sự quản lý
thống nhất của cấp trên, đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát và
xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.
4.2.5. Chú trọng cơ chế, chính sách đối với công tác phát triển nguồn
nhân lực, phù hợp với điều kiện của địa phương và đáp ứng sự phát triển
bền vững
Cơ chế, chính sách đối với công tác phát triển NNL được xem như là chủ
thể trực tiếp quan trọng nhất, giữ vai trò quyết định toàn bộ quá trình phát triển
NNL. Cơ chế, chính sách cũng chính là thước đo để xác định mục tiêu, nội
dung, cách thức tiến hành phù hợp với điều kiện của địa phương và đáp ứng sự
phát triển bền vững. Đồng thời, có cơ chế, chính sách tốt sẽ tháo gỡ những khó
khăn vướng mắc nhất là về vốn đầu tư phát triển nguồn lực con người, vì bản
thân nguồn lực con người không thể tự mình tham gia vào quá trình phát triển
cần có sự hỗ trợ về cơ chế, chính sách. Cơ chế, chính sách có ý nghĩa đối với
sự phát triển KT-XH và thực sự trở thành công cụ quan trọng khi được kết hợp
với sức lực và trí tuệ con người. Thực tế cho thấy, cơ chế, chính sách thông
thoáng, phù hợp với thực tế thì sẽ khai thác hiệu quả tối đa nguồn lực do con
người mang lại, về năng lực, phẩm chất, về tâm lý xã hội và trở thành đối
tượng không cạn kiệt của tiến trình CNH, HĐH. Nguồn lực tự nhiên dù có
phong phú và giàu có đến mấy thì cũng sẽ bị cạn kiệt trước sự khai thác của
143
con người, chỉ có con người mới là tài nguyên vô tận. Do đó, khi đề cập đến
phát triển NNL, đặc biệt là NNL là CB,CC,VC và lao động chuyên môn kỹ
thuật là những đối tượng cần tiên phong xung kích, làm động lực quan trọng
thúc đẩy phát triển KT-XH, bởi vì nói đến chất lượng NNL chính là nói đến
trình độ chuyên môn, năng lao động sáng tạo, phẩm chất đạo đức tốt. Để thực
hiện tốt hơn nữa trong công tác phát triển NNL, Đảng bộ cần thực hiện tốt một
số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Trọng dụng, sử dụng chính sách nhân tài đúng đắn và hợp lý. Cái gốc
của chính sách nhân tài nằm ở việc nuôi dưỡng, bảo vệ và phát triển nhân tài.
Nhân tài cần phải được trọng dụng, được giao nhiệm vụ xứng đáng và phù hợp
với tài năng của họ; được tôn trọng, đánh giá đúng mức thành quả lao động và
được ghi nhận, tôn vinh những gì mà họ cống hiến. Ngoài ra, cần chú trọng tạo
điều kiện về cơ sở vật chất, môi trường làm việc và có chế độ đãi ngộ xứng
đáng đối với nhân tài.
Cần mạnh dạn không áp dụng những quy định mang tính chất ép buộc
nhân tài phải tuân thủ tiêu chuẩn xác định về thời gian, địa điểm làm việc.
Lương được trả theo hiệu quả công việc và thường xuyên được điều chỉnh, đảm
bảo cạnh tranh được với khối tư nhân. Đồng thời, coi trọng việc tạo lập môi
trường cạnh tranh để các nhân tài, đặc biệt là nhân tài trẻ phát huy năng lực cá
nhân của mình. Việc bổ nhiệm lên chức danh, chức vụ cao hơn, tạo điều kiện
thăng tiến trong công việc cho nhân tài dựa trên tài năng chứ không dựa trên
thâm niên hay tuổi tác. Đây thực sự là việc vận dụng sáng tạo mô hình việc
làm, dần thay thế mô hình chức nghiệp vốn tồn tại rất lâu đời ở nhiều nước
châu Á.
Trong điều kiện hiện nay, với ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, để giải
quyết vấn đề trên, tỉnh Vĩnh Long có thể lựa chọn những lĩnh vực, ngành
nghề đang có thế mạnh, có nhiều nhân tài để thực hiện thí điểm. Cần xây
dựng hệ thống thang, bảng lương riêng cho đội ngũ nhân tài. Lao động chất
lượng cao phải được trả lương tương xứng để thúc đẩy khả năng sáng tạo của
144
họ. Cần áp dụng thước đo của thị trường để trả công xứng đáng cho những
nhân tài. Thu nhập của đối tượng này cần được điều chỉnh một cách mềm dẻo,
linh hoạt để thích ứng với những biến động của thị trường lao động. Như vậy
mới giữ được những người tài năng làm việc lâu dài trong khu vực nhà nước.
Tăng cường quản lý nhà nước về nhân tài. Với chủ trương: "Đầu tư cho
nhân lực khoa học và công nghệ, đãi ngộ người tài là đầu tư cho phát triển
bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc", công tác quản
lý nhà nước về nhân tài cần được ưu tiên và chú trọng trong bối cảnh tiếp
theo. Quản lý nhà nước về nhân tài bao gồm các nội dung như ban hành và tổ
chức thực hiện chính sách thu hút, sử dụng nhân tài; xây dựng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển nhân tài; tăng cường các
nguồn lực để phát triển nhân tài; hợp tác quốc tế về đào tạo và bồi dưỡng
nhân tài; kiểm tra, thanh tra, giám sát thực hiện chính sách và pháp luật về
nhân tài;... Để đạt hiệu lực, hiệu quả, các nội dung quản lý nhà nước về nhân
tài cần được thực hiện đồng bộ, có hệ thống, đảm bảo tính thống nhất với các
chính sách khác của Nhà nước để đội ngũ nhân tài phục vụ sự nghiệp phát
triển đất nước là cần thiết phải đổi mới chính sách thu hút, sử dụng nhân tài.
Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nên cần có chế độ, chính sách đặc biệt,
đồng thời thay đổi một cách hệ thống những cách thức hiện nay để tìm kiếm,
giữ chân, thu hút và phát triển nguồn trí tuệ của người Việt Nam phục vụ cho
sự nghiệp phát triển đất nước.
Việc đào tạo nhân tài cần phải có cơ chế, chính sách toàn diện, đồng bộ,
đổi mới căn bản để nhằm mục đích đào tạo được nhiều nhân tài ở nhiều cấp độ,
nhiều lĩnh vực bằng nhiều loại hình thích hợp, có chất lượng, hiệu quả cao
nhất. Có chính sách ưu tiên đối với ngành sư phạm để có đội ngũ giáo viên
giỏi, chất lượng cao, đủ phẩm chất, năng lực thực hiện sự nghiệp “trồng người”
của đất nước. Xây dựng cơ chế, mô hình đào tạo cử nhân tài năng có chất
lượng, hiệu quả ở một số trường đại học trọng điểm quốc gia; đồng thời, xây
145
dựng một số trường đại học, cao đẳng đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Nhanh chóng thực hiện mô hình liên kết với các trường đại học có uy tín, tầm
cỡ quốc tế trong đào tạo nhân tài, nhất là các ngành, các lĩnh vực mũi nhọn mà
nước ta có lợi thế trong hiện tại và cả tương lai.
Lựa chọn một số trí thức có năng lực, trí tuệ nổi trội để bồi dưỡng họ trở
thành những nhân tài trên một số lĩnh vực trọng điểm, mũi nhọn, đồng thời
phát triển đội ngũ trí thức này trở thành cán bộ lãnh đạo trong tương lai. Xây
dựng một chiến lược phát triển NNL với những phương án quy hoạch đào tạo
khả thi, đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực khoa học công nghệ trong cả nước.
Tăng cường và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ ở các
cấp, các ngành theo hướng đạt chuẩn mực quốc tế và phù hợp với đặc điểm của
Việt Nam.
Tỉnh Vĩnh Long cần phải thay đổi các chính sách thu hút đối với người
trúng tuyển vào một ngạch công chức, viên chức và có cam kết công tác tại tỉnh
ít nhất là 5 năm trở lên thì sẽ được hưởng chính sách, chế độ thu hút. Ví dụ
như: Hỗ trợ một lần đối với người tốt nghiệp (có bằng) sau đại học trong nước,
tuyển dụng mới (hoặc xét tuyển) về công tác tại cơ quan hành chính, đơn vị sự
nghiệp công lập cấp tỉnh, huyện. Đối với Tiến sĩ là 50.000.000 đồng/người;
Thạc sĩ 30.000.000 đồng/người; Bác sĩ Chuyên khoa II 35.000.000 đồng/người;
Bác sĩ Chuyên khoa I 20.000.000 đồng/người để theo kịp với các địa phương
khác trong khu vực.
Đồng thời hỗ trợ cho đối trượng được đào tạo, học tập ở nước ngoài một
lần đối với người tốt nghiệp (có bằng) đại học, sau đại họcđược tuyển dụng
mới (hoặc xét tuyển) về công tác tại cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công
lập cấp tỉnh, huyện như một số địa phương khác trong cả nước đã thực hiện:
Tiến sĩ 350.000.000 đồng/người; Thạc sĩ: 250.000.000 đồng/người.
146
Tiểu kết chương 4
Qua 15 năm với ba nhiệm kỳ Đại hội (đại hội lần thứ VII, VIII, IX),
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long đã xác định đúng đắn tầm quan trọng của NNL và
công tác phát triển NNL đối với sự phát triển KT-XH trước yêu cầu đẩy mạnh
CNH,HĐH và hội nhập quốc tế. Từ những đặc điểm của tỉnh thuần nông, với
những khó khăn của địa phương, Đảng bộ tỉnh đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo
trong định hướng chiến lược phát triển NNL bằng các chủ trương, biện pháp,
giải pháp,.. chính vì vậy qua ba nhiệm kỳ, đặc biệt từ năm 2005 đến 2015 đã có
những bước đột phá quan trọng nhất là đột phá về cơ chế, chính sách được tăng
cường, từng bước đưa đến sự thay đổi về số lượng và chất lượng NNL cho địa
phương. Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề còn tồn tại, hạn chế, khiếm khuyết,
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long cần tiếp tục tháo gỡ, khắc phục để nâng cao hơn nữa
chất lượng NNL đáp ứng yêu cầu phát triển trước tình hình mới, nhưng những
thành công và hạn chế của quá trình hoạch định chủ trương cũng như chỉ đạo
thực hiện trong 15 năm đã góp thêm những cơ sở lịch sử quan trọng để tỉnh
Vĩnh Long tiếp tục thực hiện phát triển NNL có hiệu quả hơn.
147
KẾT LUẬN
Là tỉnh nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long khi bước vào thế kỷ
XXI, trước yêu cầu đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, Đảng bộ
tỉnh Vĩnh Long đã quán triệt các chủ trương của Đảng về phát triển NNL, coi
đây là nhân tố quyết định thực hiện thành công công cuộc đổi mới ở địa phương.
1. Nhìn lại quá trình hoạch định chủ trương và chỉ đạo thực hiện phát triển
NNL của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long từ năm 2000 đến năm 2015, trong đó Đảng bộ
đã tập trung và lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng gồm hai đối tượng: CB,CC,VC trong
các cơ quan nhà nược thuộc HTCT và lao động chuyên môn kỹ thuật. Đảng bộ đã
chủ trương chỉ đạo cụ thể hóa từ việc ban hành kế hoạch, chương trình, đề án để
thực hiện mục tiêu, phương hướng và giải pháp đối với phát triển NNL. Đó là
nâng cao số lượng và chất lượng NNL CB,CC,VC trong các cơ quan nhà nước
về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, về quản lý nhà nước, bồi dưỡng về ngoại
ngữ, tin học, chuyên viên,... Đối với NNL lao động chuyên môn kỹ thuật trong
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, Đảng bộ chỉ đạo thực hiện xây dựng mạng lưới
dạy nghề bao gồm định hướng dài hạn và ngắn hạn, nhằm khai thác và phát triển
toàn diện NNL về lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, xây dựng, nông nghiệp, nông
thôn cho những ngành nghề đặc thù của tỉnh, góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH và
hội nhập quốc tế.
Công tác phát triển NNL được Đảng bộ gắn kết chặt chẽ với quy hoạch
phát triển KT-XH của tỉnh, quy hoạch phát triển các ngành, quy hoạch mạng lưới
đào tạo chung của cả nước và xu thế phát triển NNL của các tỉnh, thành phố trong
khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Do vậy, xây dựng NNL là trách nhiệm của
các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Đảng bộ xác định mục tiêu mở rộng, phát triển hợp lý, nâng cao chất lượng
các cơ sở giáo dục chuyên nghiệp, đào tạo nghề, nhất là bậc cao đẳng, đại học.
Gắn đào tạo với nhu cầu của xã hội, đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH. Thực hiện
chuẩn hóa đội ngũ CB,CC,VC và lao động chuyên môn kỹ thuật với những chính
sách đặc thù chung của từng ngành, từng lĩnh vực. Bên cạnh đó tập trung xây
148
dựng cơ cấu NNL hợp lý để có kế hoạch phát triển, phân bổ phù hợp. Xác định rõ
các lợi thế so sánh về NNL của tỉnh do cấp mình quản lý để có sự sâu sát trong
việc đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng NNL cả trong tỉnh và ngoài tỉnh.
Trong quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện phát triển NNL đạt được một số
thành tựu cơ bản, dồi dào về số lượng phát huy được truyền thống hiếu học, cần
cù, chịu khó, thông minh sáng tạo trong lao động. Số lượng nhân lực qua đào tạo
tăng nhanh qua các năm. Chất lượng nhân lực được nâng lên một bước, thể hiện
một bộ phận NNL đã thích ứng với công nghệ tiên tiến, hiện đại ở một số lĩnh
vực. Cơ cấu nhân lực được đào tạo ngày một hợp lý hơn, nhiều chuyên gia, nhà
khoa học, CB,CC,VC có trình độ tiến sỹ và thạc sỹ chiếm số lượng lớn; đội ngũ
lao động chuyên môn kỹ thuật từng bước hình thành đáng kể, tạo điều kiện cho
tỉnh Vĩnh Long trở thành tỉnh khá vào năm 2015.
2. Trên thực tế, qua khảo cứu 15 năm (2000-2015) chỉ đạo thực hiện chủ
trương phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long vẫn còn một số hạn chế. Về
chủ trương và chỉ đạo thực hiện: Quá trình hoạch định chủ trương, chính sách
phát triển NNL còn chưa đồng bộ; một số chính sách phát triển, thu hút và sử
dụng nhân tài chưa thỏa đáng và đúng trọng tâm, trọng điểm. Về kết quả cụ thể:
Tỷ lệ lao động qua đào tạo khá cao nhưng nhìn chung chất lượng NNL chưa đáp
ứng yêu cầu. Mặt khác, chính sách trọng dụng, thu hút nhân tài chưa được chú
trọng và quan tâm đúng mức, hiện tượng chảy máu chất xám NNL vẫn còn phổ
biến, tình trạng NNL có trình độ cao chưa tha thiết gắn bó lâu dài để xây dựng
tỉnh Vĩnh Long, trái lại có xu hướng tìm công việc thích hợp, thu nhập cao ở các
thành phố lớn.
Chất lượng nguồn nhân lực Vĩnh Long đã được nâng cao, nhưng vẫn còn
chưa thực sự đáp ứng với yêu cầu mới trong những lĩnh vực KH-CN cao, những
lĩnh vực có ý nghĩa quyết định đối với hiện đại hóa nền kinh tế và nâng cao năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế. Người lao động còn thiếu tính chuyên nghiệp và
năng lực trong xử lý công việc, lề lối, phong cách, tác phong làm việc, tinh thần
kỷ luật, ý thức trách nhiệm, chưa đáp ứng các yêu cầu của hoạt động sản xuất
công nghiệp.
149
Đa dạng hóa các loại hình giáo dục đào tạo còn hạn chế nhất là loại hình
chất lượng giáo dục cao chưa được phổ biến trong các trường đại học của tỉnh.
Chỉ đạo công tác hướng nghiệp, công tác đào tạo nghề theo phương châm xã hội
hóa tuy có nhiều tiến bộ, nhưng chưa đáp ứng kịp yêu cầu của thị trường lao động
trong và ngoài nước, mới chỉ tập trung đào tạo đại trà, dẫn đến một phần không
nhỏ nhân lực qua đào tạo có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết tốt, nhưng lại kém
về năng lực thực hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công
nghiệp. Đào tạo nhân lực chưa dựa trên cơ sở nhu cầu của xã hội, chưa có sự tham
gia phát triển nhân lực từ các đơn vị sử dụng nhân lực.
Quản lý nhà nước về phát triển NNL chưa theo kịp với yêu cầu. Cơ chế,
chính sách nhằm ưu đãi, thu hút nhân lực trong một số ngành, lĩnh vực mũi
nhọn chưa đủ lớn, hấp dẫn, thuyết phục để thu hút lực lượng lao động có trình
độ, tay nghề cao tham gia. NNL có năng lực quản lý vừa thiếu về số lượng, vừa
yếu về chất lượng. Thị trường lao động kém linh hoạt, thông tin thị trường lao
động thiếu.
3. Từ những thành công và hạn chế, khiếm khuyết của quá trình lãnh đạo
phát triển NNL (trong đó chú trọng là đào tạo, bồi dưỡng để phát triển NNL) của
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long qua ba nhiệm kỳ đại hội (từ năm 2000 đến năm 2015) đã
để lại nhiều kinh nghiệm quan trọng: Một là, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ
trương của Đảng về phát triển nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện thực tế
kinh tế - xã hội ở địa phương; Hai là, nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng
của phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ trọng tâm của hệ thống chính trị và
xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện của tỉnh; Ba là, đảm bảo sự nhất
quán, thống nhất từ khâu dự báo, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng trong quá
trình lãnh đạo phát triển nguồn nhân lực; Bốn là, nâng cao nhận thức và phối
hợp chặt chẽ của các cấp ủy đảng trong phát triển nguồn nhân lực; Năm là, chú
trọng cơ chế, chính sách đối với công tác phát triển nguồn nhân lực, phù hợp
với điều kiện của địa phương và đáp ứng sự phát triển bền vững.
150
4. Lãnh đạo phát triển NNL ở tỉnh Vĩnh Long tuy đạt được kết quả tích cực,
song còn một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục giải quyết, như: Cơ cấu trình độ chuyên
môn của người lao động trong khu vực sản xuất công nghiệp chưa hợp lý, thiếu
tính năng động và tác phong làm việc. Chất lượng lao động trong các ngành kinh
tế còn bất cập về năng lực, thiếu đội ngũ có trình độ chuyên môn giỏi, tay nghề
cao trong các lĩnh vực. Đội ngũ CB,CC,VC chưa đồng bộ, năng lực thực tiễn và
trình độ chuyên môn chưa đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới. Công tác quản
lý nhà nước một số khâu trong phát triển NNL còn buông lỏng, hình thức, chạy
theo số lượng. Phát triển NNL chất lượng cao nhằm đáp ứng chuyển đổi mô hình
tăng trưởng trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế của tỉnh chưa mang tính
chất mũi nhọn và là điểm nhấn của tỉnh công nghiệp. Cần có giải pháp liên kết
toàn diện về hợp tác đào tạo và nghiên cứu khoa học với các trường trong khu vực
Đồng bằng Sông Cửu Long và thành phố Hồ Chí Minh; giải pháp về chính sách
khuyến khích và hỗ trợ học tập từ ngân sách nhà nước, nhà trường đối với người
học. Tăng cường cơ sở vật chất cho công tác GD-ĐT, đổi mới nội dung, chương
trình đào tạo và phương pháp giảng dạy để nắm rõ tính bất cập về lý thuyết, kỹ
năng trong đào tạo trước đòi hỏi của sự biến động của xu thế thời đại. Tin tưởng
rằng khi giải quyết được các vấn đề đó, đặc biệt là công tác phát triển NNL của
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long sẽ góp phần quan trọng vào công cuộc hiện thực các mục
tiêu, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao phó trong những giai đoạn tiếp theo.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Trương Thị Hồng Nga (2014), “Xây dựng đội ngũ trí thức của Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Long sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương
lần thứ năm khóa X”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (209), tr.81-83; 87.
2. Trương Thị Hồng Nga (2017), “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long với việc phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí
Nội chính Trung ương, (48), tr.34-38.
3. Trương Thị Hồng Nga (2017), “Công tác dạy nghề ở Vĩnh Long góp phần nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực (2011-2015)”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (10),
tr.114-118.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh Vĩnh Long (2015), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Long (1930 - 2010), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2012), Nghị quyết số 20-NQ/TW, Hội nghị lần
thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (Khóa XI) về Phát triển khoa học và
công nghệ phục vụ sự nghiệpcông nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế
được ban hành ngày 01 tháng 11 năm 2012, Hà Nội.
3. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Long (1997), Tiếp tục ban hành Đề án số 02-
ĐA/TU ngày 12/12/1997 về xây dựng đội ngũ cán bộ của tỉnh từ nay đến
năm 2020 nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương Hai (12/1996) và Nghị
quyết Trung ương Ba khóa VIII, Vĩnh Long.
4. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Vĩnh Long (2006), Báo cáo kết quả thực hiện công tác
tổ chức, cán bộ và chính sách cán bộ giai đoạn 2001 - 2005, số 37-
BC/TU, Vĩnh Long.
5. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Vĩnh Long (2011), Báo cáo kết quả thực hiện công tác
tổ chức, cán bộ và chính sách cán bộ giai đoạn 2005 - 2010, số 42-
BC/TU, Vĩnh Long.
6. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Vĩnh Long (2015), Báo cáo tình hình thực hiện công tác
tổ chức, cán bộ và chính sách cán bộ năm 2014 và phương kế hoạch
thực hiện năm 2015, số 33-BC/TU, Vĩnh Long.
7. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long (2002), Lịch sử Tỉnh Vĩnh Long (1732 -
2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long (2005), Vĩnh Long 30 năm xây dựng và
phát triển, Nxb Nguyễn Văn Thảnh, Vĩnh Long.
9. Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hội đồng quốc gia giáo
dục Trung ương và Phát triển nhân lực (Chủ biên) (2014), Kỷ yếu hội
thảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
153
10. Đặng Quốc Bảo (Chủ biên), Trương Thị Thúy Hằng và Đặng Thị Thanh
Huyền (2008), Nghiên cứu chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Trọng Bảo (Chủ nhiệm) (2005), Gia đình, nhà trường, xã hội với việc
phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài do
Chương trình Khoa học - công nghệ cấp Nhà nước, mã số đề tài KX-07,
Hà Nội.
12. Trần Thanh Bình (2003), Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn Việt Nam, Luận án tiến sĩ chuyên
ngành Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
13. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Ban Tuyên giáo Trung ương (2014), Tài liệu hội
thảo khoa học - Đổi mới công tác đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Hà Nội.
14. Mai Quốc Chánh (1999), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng nhu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
15. Phạm Thế Chi (2003), Phát triển nguồn lực lao động ở vùng đồng bằng sông
Cửu Long phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ chuyên
ngành Kinh tế, quản lý và kế hoạch hóa kinh tế quốc dân, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
16. Chính phủ (2005), Nghị quyết về Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại
học Việt Nam giai đoạn 2006-2010, Hà Nội.
17. Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Long (2005), Niên giám thống kê tình hình kinh tế -
xã hội năm 2000, Vĩnh Long.
18. Cục Thống kê Vĩnh Long (2005), Số liệu thống kê kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh
Long 1976 - 2005, Vĩnh Long.
19. Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Long (2012), Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Long,
Vĩnh Long.
20. Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Long (2015), Niên giám thống kê tình hình kinh tế -
xã hội năm 2015, Vĩnh Long.
154
21. Phạm Tất Dong (2006), "Thành tựu bước đầu và những vấn đề cấp thiết đặt
ra trong đào tạo nhân lực ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, (9), tr.19-20.
22. Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), "Giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực.
Những nghiên cứu tổng hợp theo khu vực. Quan hệ quốc tế của Việt
Nam với các nước và khu vực", Kỷ yếu Hội thảo quốc tế lần thứ ba: Việt
Nam hội nhập và phát triển, tập 6, Hà Nội.
23. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long (1995), Văn kiện Đại hội tỉnh Đảng bộ Vĩnh Long
lần thứ V nhiệm kỳ (1991 - 1995), Vĩnh Long.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung
ương khoá VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ương khóa IX kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2
(khóa VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
155
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập (1986), tập 47, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập (1996), tập 55, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần
thứ 7 khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Nguyễn Văn Đễ, Bùi Xuân Trường và Nguyễn Kim Liệu (2004), Nhân lực
Việt Nam trong chiến lược kinh tế 2001-2010, Nxb Hà Nội.
39. Trần Thanh Đức (2002), Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất với vấn đề
đào tạo người lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam hiện nay (từ thực tiễn đồng bằng sông Cửu Long), Luận án tiến sĩ
chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
40. Trần Thanh Đức (2007), "Giáo dục - đào tạo với sự phát triển nguồn nhân
lực”, Tạp chí Thương mại, (42), tr.58-59.
41. Trần Khánh Đức (2010), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ
XXI, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
42. Nguyễn Minh Đường, Phan Văn Kha (2005), Đào tạo nhân lực đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường,
toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, Chương trình Khoc học và công
nghệ Nhà nước, Hà Nội.
43. Lê Thanh Hà (2009), Phát triển nguồn nhân lực công nghiệp Việt Nam trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và vai trò của công
đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội.
44. Trương Thu Hà (2005), "Cơ hội và thách thức đối với việc đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế", Tạp chí
Khoa học xã hội Việt Nam, (4), tr.19-21.
156
45. Phạm Minh Hạc (2007), Phát triển văn hóa con người và nguồn nhân lực
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
46. Nguyễn Thị Thu Hằng (2011), Đảng bộ tỉnh Lào Cai lãnh đạo đào tạo
nguồn nhân lực từ năm 2001 đến năm 2010, Luận văn thạc sĩ Lịch sử,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
47. Bùi Tôn Hiến (2009), Nghiên cứu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt
Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
48. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Chỉ đạo biên soạn
Tạ Ngọc Tấn (2012), Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực,
nhân tài - Một số kinh nghiệm của thế giới, Nxb Chính trị - Hành chính,
Hà Nội.
49. Học viện Chính sách và Phát triển (2008), "Đào tạo nghề giữ vai trò trọng tâm
trong chính sách phát triển", Kỷ yếu Hội thảo, Hà Nội.
50. Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2006), Nghị quyết số 26/2006/NQ-HĐND
về việc quy định chính sách trợ cấp đối với cán bộ, công chức đi học và
cán bộ, công chức luân chuyển, tăng cường về công tác xã - tỉnh Vĩnh
Long, Vĩnh Long.
51. Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2009), Nghị quyết số 106/2009/NQ-
HĐND ngày 09 tháng 7 năm 2009 về xây dựng đội ngũ trí thức tỉnh Vĩnh
Long đến năm 2020, Vĩnh Long.
52. Phan Văn Kha (2007), Đào tạo và sử dụng nhân lực trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Đoàn Văn Khái (2005), Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Nguyễn Văn Khánh (Chủ biên) (2012), Nguồn lực trí tuệ Việt Nam - Lịch sử,
hiện trạng và triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
55. Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Cẩm Ngọc (2017), Đào tạo và sử dụng đội ngũ
trí thức tinh hoa Việt Nam 30 năm đổi mới - Thành tựu và những vấn đề
đặt ra", Tạp chí Lịch sử Đảng, (1), tr.33-34.
157
56. Phạm Công Khâm (2000), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng
nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Xây
dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
57. Bùi Thị Ngọc Lan (2000), Phát huy nguồn lực trí tuệ trong công cuộc đổi mới
ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa cộng sản
khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
58. Phạm Thị Kim Lan (2012), Đảng Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo đào tạo
nguồn nhân lực cho nông nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010, Luận án
tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
59. Lê Thị Ái Lâm (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào
tạo kinh nghiệm Đông Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
60. Liên sở Sở Tài chính - Vật giá - Ban Tổ chức chính quyền - Ban Tổ chức Tỉnh
ủy (2002), Hướng dẫn Liên ngành số 219/LN về quy định tạm thời về
chính sách trợ cấp cho cán bộ, công chức đi học và cán bộ, công chức
luân chuyển tăng cường về công tác ở xã của tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Long.
61. Nguyễn Thắng Lợi (2007), "Về công tác đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ
đổi mới", Tạp chí Lịch sử Đảng, (12), tr.23-35.
62. Vũ Thị Phương Mai (2012), Nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại học ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ
chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
63. Lê Thị Ngân (2005), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri
thức ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị xã hội
chủ nghĩa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
64. Phạm Văn Quý (2005), Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn
nhân lực khoa học công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa
hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Kinh tế, Viện Kinh tế
Việt Nam, Hà Nội.
158
65. Sở Kế hoạch và Đầu tư (2003), Báo cáo số 289/KHĐT về việc xây dựng kế
hoạch đào tạo năm 2004, Vĩnh Long.
66. Sở Lao động - Thương binh Xã hội (2004), Báo cáo số 09/BC-SLĐTBXH về
việc sơ kết thực hiện công tác dạy nghề lao động nông thôn năm 2003 -
kế hoạch năm 2004, Vĩnh Long.
67. Sở Lao động - Thương binh Xã hội (2004), Báo cáo số 26/BC-SLĐTBXH về
việc đánh giá việc thực hiện, triển khai dự án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
XĐGN và xây dựng kế hoạch năm 2005, Vĩnh Long.
68. Sở Lao động - Thương binh Xã hội (2004), Báo cáo số 42/BC-SLĐTBXH về
kết quả thực hiện kế hoạch Đào tạo nhân lực và GQVL (phần công tác
đào tạo nghề), Vĩnh Long.
69. Sở Lao động - Thương binh Xã hội (2004), Báo cáo số 68/BC-SLĐTBXH về
việc thực hiện kinh phí chương trình mục tiêu thuộc dự án “tăng cường
năng lực đào tạo nghề” năm 2004, Vĩnh Long.
70. Sở Lao động - Thương binh Xã hội (2005), Báo cáo số 56/BC-SLĐTBXH về
phục vụ xây dựng đề cương Chương trình hành động của UBND tỉnh
Vĩnh Long thực hiện Chỉ thị số 49/2004/CT-TTg ngày 24/12/2004 của
Thủ tướng Chính phủ về phát triển dịch vụ trong kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2005 - 2010, Vĩnh Long.
71. Sở Lao động - Thương binh Xã hội (2006), Báo cáo số 07/BC-SLĐTBXH về
việc tổng kết thực hiện công tác đào tạo nghề năm 2005, nhiệm vụ kế
hoạch năm 2006, Vĩnh Long.
72. Sở Lao động - Thương binh Xã hội (2006), Báo cáo số 62/BC-SLĐTBXH về
kết quả thực hiện dự án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác giảm
nghèo năm 2006 và kế hoạch 2007, Vĩnh Long.
73. Sở Lao động - Thương binh Xã hội (2007), Báo cáo số 30/SLĐTBXH về kết
quả thẩm định dự án đầu tư “tăng cường năng lực dạy nghề” thuộc
chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục - đào tạo giai đoạn 2006 -
2010, Vĩnh Long.
159
74. Sở Lao động - Thương binh Xã hội (2009), Báo cáo số 31/BC-SLĐTBXH về
việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và đào tạo
nghề năm 2008 nhiệm vụ, kế hoạch năm 2009, Vĩnh Long.
75. Sở Lao động - Thương binh Xã hội (2015), Báo cáo số 48/BC.SLĐTBXH
ngày 24/4/2015 về thực trạng công tác đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Long giai đoạn 2011 - 2015 và kế hoạch 2016 - 2020, Vĩnh Long.
76. Sở Tài chính (2006), Tờ trình số 80/TTr.STC về việc đề nghị mức chi đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức Nhà nước, Vĩnh Long.
77. Nguyễn Ngọc Sơn (2000), Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta - đặc điểm và xu hướng phát triển,
Luận án tiến sĩ chuyên ngành Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Hà Nội.
78. Lương Văn Tám (2003), Nâng cao dân trí ở đồng bằng sông Cửu Long
thực trạng và giải pháp, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa cộng
sản khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
79. Tạ Ngọc Tấn (2012), Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực,
nhân tài - Một số kinh nghiệm của Thế giới, Nxb Chính trị - Hành
chính, Hà Nội.
80. Nguyễn Thanh (2001), Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của giáo dục -
đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
81. Nguyễn Thanh (2005), Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
82. Dương Ngọc Thành (2014), Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng
đào tạo nghề ở nông thôn tỉnh Vĩnh Long, Kết quả khoa học công nghệ,
Trường Đại học Cần Thơ, Cần Thơ.
83. Vũ Bá Thể (2005), Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
160
84. Thủ tướng Chính phủ (2000), Quyết định số 322/QĐ-TTg về việc phê duyệt
Đề án Đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật tại các cơ sở nước ngoài bằng
ngân sách nhà nước, Hà Nội.
85. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 47/2001/QĐ-TTg về việc phê
duyệt Quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2001 -
2010, Hà Nội.
86. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 71/2001/QĐ-TTg về các chương
trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2001 - 2005, Hà Nội.
87. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 201/2001/QĐ-TTg về việc phê
duyệt chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010, Hà Nội.
88. Thủ tướng Chính phủ (2005), Quyết định số 69/2005/QĐ-TTg về đổi mới cơ
bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2010, Hà Nội.
89. Phan Chính Thức (2003), Những giải pháp phát triển đào tạo nghề góp
phần đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Giáo dục học, Trường Đại học sư
phạm Hà Nội, Hà Nội.
90. Hà Quý Tình (1999), Vai trò nhà nước trong việc tạo tiền đề nguồn nhân
lực cho công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta, Luận án tiến sĩ,
Trường Đại học Kinh tế Quốc, Hà Nội.
91. Tỉnh ủy Vĩnh Long (1994), Văn kiện Đại hội đại biểu giữa nhiệm kỳ Đảng
bộ tỉnh Vĩnh Long (khóa V), Lưu hành nội bộ, Vĩnh Long.
92. Tỉnh ủy Vĩnh Long (1995), Vĩnh Long 20 năm phát triển kinh tế - xã hội
(1975 - 1995), Nxb Nguyễn Văn Thảnh, Lưu hành nội bộ, Vĩnh Long.
93. Tỉnh ủy Vĩnh Long (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ VI Đảng bộ
tỉnh Vĩnh Long (1996 - 2000), tập 1, Lưu hành nội bộ, Vĩnh Long.
94. Tỉnh ủy Vĩnh Long (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ VI Đảng bộ
tỉnh Vĩnh Long (1996 - 2000), tập 2, Lưu hành nội bộ, Vĩnh Long.
95. Tỉnh ủy Vĩnh Long (1998), Nghị quyết số 03-NQ/TU về đẩy mạnh công tác
cán bộ đến năm 2010, Vĩnh Long.
161
96. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2000), Vĩnh Long 25 năm xây dựng và phát triển kinh tế
- xã hội 1975 - 2000, Vĩnh Long.
97. Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2000), Kinh tế Vĩnh Long trong
sự nghiệp phát triển ở thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb Nguyễn Văn
Thảnh, Vĩnh Long.
98. Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2000), Vĩnh Long lịch sử và phát
triển (tập 1 và 2), Lưu hành nội bộ, Nxb Nguyễn Văn Thảnh, Vĩnh Long.
99. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2001), Văn kiện Đại hội lần thứ VII Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Long (2001 - 2005), tập 1, Lưu hành nội bộ, Vĩnh Long.
100. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2001), Văn kiện Đại hội lần thứ VII Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Long (2001 - 2005), tập 2, Lưu hành nội bộ, Vĩnh Long.
101. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2001), “Vĩnh Long lịch sử và phát triển”, Kỷ yếu hội
thảo, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
102. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2002), Báo cáo số 39-BC/TU về tình hình thực hiện
Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về giáo dục - đào tạo và khoa học -
công nghệ, Vĩnh Long.
103. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2002), Chương trình hành động số 06-CTr/TU về thực
hiện các Nghị quyết và Kết luận Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ sáu (khóa IX) của Tỉnh ủy Vĩnh Long, Vĩnh Long.
104. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2002), Chương trình hành động số 08-CTr/TU về thực
hiện Kết luận Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX)
về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ của Tỉnh ủy Vĩnh Long,
Vĩnh Long.
105. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2004), Kế hoạch số 39-KH/TU về việc thực hiện Chỉ thị
số 40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về xây dựng và nâng cao
chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Long, Vĩnh Long.
106. Tỉnh uỷ Vĩnh Long (2005), Báo cáo số 139-BC-TU ngày 08/10/2005 thực
trạng và giải pháp chính sách đối với đội ngũ trí thức Vĩnh Long,
Vĩnh Long.
162
107. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ VIII Đảng bộ
tỉnh Vĩnh Long (2005 - 2010), Vĩnh Long.
108. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2006), Thông báo kết luận số 11-TB/TU của Ban Thường
vụ Tỉnh ủy về đề án đào tạo ở nước ngoài nguồn nhân lực có trình độ sau
đại học cho tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2006 - 2010, Vĩnh Long.
109. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2008), Kế hoạch số 02/KH-TU về triển khai thực hiện
nghị quyết của Tỉnh ủy về công tác cán bộ đến năm 2000 và quy hoạch
phát triển nguồn nhân lực khoa học và kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long đến năm
2010, Vĩnh Long.
110. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2008), Chương trình hành động số 17-CTr/TU về việc
thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Khóa X về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, Vĩnh
Long.
111. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2008), Chương trình hành độngsố 21-CTr/TU về việc
thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Khóa X về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Vĩnh Long.
112. Tỉnh uỷ Vĩnh Long (2008), Báo cáo số 125-BC/TU ngày 17/11/2008 tổng kết
10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) về đào tạo nghề,
Vĩnh Long.
113. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2010), Báo cáo số 243-BC/TU về công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ năm 2010 và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ năm
2011, Vĩnh Long.
114. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ IX Đảng bộ
tỉnh Vĩnh Long (2010 - 2015), Vĩnh Long.
115. Tỉnh uỷ Vĩnh Long (2010), Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 15/6/2010 về tiếp
tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) về giáo dục - đào tạo
đến năm 2020, Vĩnh Long.
163
116. Tỉnh uỷ Vĩnh Long (2010), Báo cáo số 237-BC/TU ngày 07/9/2010
về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; thu hút, đào tạo, sử dụng
nhân tài trong hệ thống chính trị từ năm 2006 đến năm 2010,
Vĩnh Long.
117. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2011), Chương trình hành động số 09-Ctr/TU về phát
triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giai đoạn 2011 - 2015 và
định hướng đến năm 2020, Vĩnh Long.
118. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2011), Báo cáo số 38-BC/TU về thực trạng đội ngũ cán
bộ dân vận, mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, quần chúng của
tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Long.
119. Tỉnh uỷ Vĩnh Long (2011), Báo cáo số 42-BC/TU ngày 27/7/2011 về công
tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ
dân tộc thiểu số trong 5 năm từ 2006-2011, Vĩnh Long.
120. Tỉnh uỷ Vĩnh Long (2011), Báo cáo số 59-BC/TU ngày 25/10/2011 về công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ năm 2011 và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ năm 2012, Vĩnh Long.
121. Tỉnh uỷ Vĩnh Long (2011), Báo cáo số 57-BC/TU ngày 24/10/2011 tổng kết
4 năm thực hiện Kế hoạch số 14-KH/TU, ngày 07/8/2006 của Ban
Thường vụ Tinh ruỷ khoá VIII về việc thực hiện Nghị quyết số 42-
NQ/TW, ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị khoá IX về công tác quy
hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Vĩnh Long.
122. Tỉnh ủy Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam tỉnh Vĩnh Long (2012), 20 năm xây dựng và phát triển tỉnh Vĩnh
Long (1992 - 2012), Nxb Nguyễn Văn Thảnh, Vĩnh Long.
123. Tỉnh uỷ Vĩnh Long (2012), Báo cáo số 138-BC/TU ngày 01/11/2012 sơ kết 2
năm triển khai thực hiện Nghị quyết 09-NQ/Tu của Tỉnh uỷ ngày
15/6/2010 tiếp tục thực hiện Nghị quyết trung ương 2 (khoá VIII) về giáo
dục và đào tạo đến năm 2020, Vĩnh Long.
164
124. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2012), Báo cáo số 152-BC/TU công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ năm 2012 và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ năm
2013, Vĩnh Long.
125. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2013), Báo cáo số 222-BC/TU về công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ năm 2013 và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ năm
2014, Vĩnh Long.
126. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2014), Báo cáo số 115-BC/TU về công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ năm 2014 và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ năm
2015, Vĩnh Long.
127. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2014), Báo cáo số 331-BC/TU về tình hình bố trí và sử
dụng cán bộ, công chức trong hệ thống các cơ quan công tác Đảng Vĩnh
Long, Vĩnh Long.
128. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Long (2015 - 2020), Lưu hành nội bộ, Vĩnh Long.
129. Tỉnh ủy Vĩnh Long (2016), Báo cáo số 36-BC/TU, ngày 24/5/2016 báo cáo
tổng kết Chương trình 05-CTr/TU của Tỉnh ủy về giải quyết việc làm và
giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011- 2015 và phương hướng, nhiệm
vụ giai đoạn 2016 - 2020, Vĩnh Long.
130. Phạm Thế Tri (2003), Phát triển nguồn lực lao động ở vùng đồng bằng sông
Cửu Long phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ chuyên
ngành Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
131. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (Đồng chủ biên) (2001), Luận cứ khoa
học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
132. Bùi Đức Tú (2013), Giáo dục nghề nghiệp cho học sinh phổ thông nhằm góp
phần phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
133. Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm (1996), Phát triển nguồn nhân lực kinh nghiệm
thế giới và thực tiễn nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
165
134. Trần Văn Tùng (2001), Nền kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo dục
Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
135. Trần Văn Tùng (2005), Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài
năng, Nxb Thế giới, Hà Nội.
136. Hà Vũ Tuyến (2017), Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng nguồn
nhân lực từ năm 2001 đến năm 2013, Luận án tiến sĩ Lịch sử Đảng, Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
137. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (1994), Quyết định số 112/QĐ-UBND về
việc xây dựng mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo ở Vĩnh
Long đến năm 2005 và định hướng năm 2010, Vĩnh Long.
138. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (1999), Quyết định về số 1332/QĐ-
UBND quy hoạch tổng thể hệ thống các cơ sở dạy nghề đến năm 2010,
Vĩnh Long.
139. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2001), Báo cáo số 07/BC.UB về đánh giá
tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2000 và định hướng
phát triển kinh tế - xã hội năm 2001, Vĩnh Long.
140. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2001), Chỉ thị số 20/CT.UBT về việc đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ - công chức giai đoạn 2001 - 2005 của tỉnh Vĩnh
Long, Vĩnh Long.
141. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2001), Chỉ thị số 29/2001/CT.UB về việc
phân công cán bộ phụ trách công nghệ thông tin và đào tạo công nghệ
thông tin cho công chức nhà nước, Vĩnh Long.
142. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2002), Báo cáo số 03/BC.UB về việc đánh
giá tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2001 và định
hướng phát triển kinh tế - xã hội năm 2002, Vĩnh Long.
143. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2002), Báo cáo số 798/BC.UB về việc
chấp thuận cho trường Cao đẳng sư phạm Vĩnh Long mở chuyên ngành
đào tạo giáo viên dạy Sử - Công tác đội, Vĩnh Long.
144. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2002), Báo cáo số 1921/BC.UB về việc
chuyển chỉ tiêu đào tạo nghề dài hạn của trường Công nhân Kỹ thuật
giao thông vận tải cho trường Dạy nghề, Vĩnh Long.
166
145. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2002), Báo cáo số 1478/BC.UB về việc
đóng góp dự thảo kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực và giải quyết việc
làm cho người lao động, Vĩnh Long.
146. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2002), Báo cáo số 1802/BC.UB về việc
đóng góp dự thảo kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực và giải quyết việc
làm cho người lao động, Vĩnh Long.
147. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2003), Báo cáo số 03/BC.UB về tình hình
thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2003 và kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội năm 2004, Vĩnh Long.
148. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2003), Quyết định số 552/2003/QĐ.UBND về
việc ban hành Kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực và giải quyết việc làm
cho người lao động tỉnh Vĩnh Long (giai đoạn 2003 - 2005), Vĩnh Long.
149. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2003), Hướng dẫn “Một số điểm bổ sung,
sửa đổi công văn liên ngành số 219/LN Sở TC-VG, Ban TCCQ, Ban
TCTU, Liên Sở TC-VG, Ban TCCQ, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, số 74/HDLN,
Vĩnh Long.
150. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2004), Thông báo Kết luận của Ủy ban
nhân dân tỉnh tại cuộc họp về đào tạo nghề giải quyết việc làm, cung ứng
lao động cho các khu công nghiệp, số 41/TB-UB, Vĩnh Long.
151. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2004), Báo cáo đào tạo nguồn nhân lực
của tỉnh Vĩnh Long, số 84/BC-UB, Vĩnh Long.
152. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2004), Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch đào tạo
nhân lực và giải quyết việc làm tỉnh Vĩnh Long, số 95/BC.UB, Vĩnh Long.
153. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2004), Về việc chấp thuận cho lập dự án
đầu tư xây dựng cơ sở Trường Trung học kinh tế tài chính Vĩnh Long lên
Trường Cao đẳng kinh tế tài chính Vĩnh Long, số 492/UB, Vĩnh Long.
154. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2004), Về việc Báo cáo kết quả thực hiện
các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục - đào tạo giai
đoạn 2001 - 2004, số 1116/UB, Vĩnh Long.
167
155. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2004), Về việc lập Đề án “Xây dựng và
nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Long, số 2015/UB, Vĩnh Long.
156. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2005), Quyết định về việc triệu tập cán bộ
công chức các sở ban ngành tỉnh tham dự lớp đào tạo thuộc đề án
112CP, số 109/QĐ-VPUBND, Vĩnh Long.
157. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2005), Về việc báo cáo nhu cầu đào tạo
thạc sỹ năm 2005, số 1451/UBND.VX, Vĩnh Long.
158. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2005), Quyết định của Ủy ban nhân dân
tỉnh Vĩnh Long về việc ban hành quy định chế độ công tác phí, chế độ
hội nghị đối với cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập trong
tỉnh, số 1785/2005/QĐ.UBND, Vĩnh Long.
159. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2006), Báo cáo tình hình thực hiện các
chương trình mục tiêu quốc gia năm 2005, số 12/BCĐ-CTMTQG,
Vĩnh Long.
160. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2006), Quyết định về việc phê duyệt Đề án
“Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
ngành Giáo dục - Đào tạo tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2005 - 2010”, số
16/QĐ.UBND, Vĩnh Long.
161. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2006), Tờ trình về việc đề nghị Hội đồng
nhân dân tỉnh phê chuẩn Đề án: “Đào tạo ở nước ngoài nguồn nhân lực
có trình độ sau đại học cho tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2006 - 2011 (Đề án
Vĩnh Long 100)”, số 37/TTr-UBND, Vĩnh Long.
162. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2006), Về việc Xây dựng kế hoạch phát
triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề đến năm 2010, số 245/UBND.VX,
Vĩnh Long.
163. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2006), Về việc tuyển sinh đào tạo đại học
tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước năm 2006, số
354/UBND, Vĩnh Long.
168
164. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2006), Quyết định về việc Ban hành Đề án
“Đào tạo ở nước ngoài nguồn nhân lực có trình độ sau đại học cho tỉnh
Vĩnh Long giai đoạn 2006 - 2011” gọi tắt là “Đề án Vĩnh Long 100”, số
1612/2006/QĐ.UBND, Vĩnh Long.
165. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2006), Về việc Dự tuyển đi học sau đại
học tại Canada năm học 2007 - 2008, số 2606/UBND-VX, Vĩnh Long.
166. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2006), Về việc cử cán bộ tham gia khóa
đào tạo tại Thái Lan, số 2892/UBND-VX, Vĩnh Long.
167. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2006), Về việc Đề nghị thẩm định dự thảo
NQ.HĐND tỉnh về việc “phê chuẩn Chương trình đào tạo nguồn nhân
lực và giải quyết việc làm tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2006 - 2010”, số
440/VP-UBND, Vĩnh Long.
168. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2007), Báo cáo tình hình thực hiện các
chương trình mục tiêu quốc gia năm 2006, số 29/BC-UBND, Vĩnh Long.
169. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2007), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2007, định hướng phát triển kinh tế -
xã hội năm 2008, số 105/BC.UBND, Vĩnh Long.
170. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2007), Quyết định số 08/2007/QĐ-UBND
ngày 24/4/2007 về chính sách hỗ trợ bác sĩ, dược sĩ đại học, sinh viên tốt
nghiệp các Trường Đại học Y Dược về công tác ở ngành Y tế tỉnh Vĩnh
Long, Vĩnh Long.
171. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2007), Quyết định v/v ban hành “Chương
trình đào tạo nguồn nhân lực và giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Long, giai đoạn 2006 - 2010”, số 357/QĐ-UBND, Vĩnh Long.
172. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2008), Báo cáo tình hình thực hiện các
chương trình mục tiêu quốc gia năm 2007, số 14/BC-UBND, Vĩnh Long.
173. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2008), Quyết định thành lập Ban tổ chức
thực hiện Đề án số 02/1998/ĐA-UBND theo chủ trương của Tỉnh ủy “về
định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến nǎm 2000, tầm nhìn đến năm
2010”, Vĩnh Long.
169
174. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2008), Quyết định về việc phê duyệt dự án
“dạy nghề cho người nghèo giai đoạn 2008 - 2010, số 455/QĐ-UBND,
Vĩnh Long.
175. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2008), Báo cáo tình hình thực hiện kế
hoạch đào tạo nghề năm 2008 và kế hoạch đào tạo nghề năm 2009, số
104/BC-UND, Vĩnh Long.
176. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2008), Quyết định số 29/2008/QĐ-
UBND về hỗ trợ tạm thời bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, huấn luyện
nghề ngắn hạn và cung cấp thông tin cho nông dân giai đoạn 2007 -
2010, Vĩnh Long.
177. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2009), Báo cáo tình hình thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2008, kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội năm 2009, số 07/BC-UBND, Vĩnh Long.
178. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2009), Quyết định số 1855/QĐ-UBND
ngày 12/8/2009 về việc ban hành Đề án Xây dựng đội ngũ trí thức tỉnh
Vĩnh Long đến năm 2020, Vĩnh Long.
179. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2010), Ban hành Quyết định số
12/2010/QĐ-UBND, ngày 25/02/2010 về việc sửa đổi phần II Quy định
kèm theo Quyết định số 2585/QĐ-UBND ngày 22/12/2008 về việc sửa
đổi phần I quy định quy định chính sách trợ cấp đối với cán bộ, công
chức đi học và cán bộ, công chức luân chuyển, tăng cường về công tác
xã tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Long.
180. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2010), Báo cáo đánh giá tình hình thực
hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 tỉnh Vĩnh
Long, số 193/BC-UBND, Vĩnh Long.
181. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2010), Báo cáo tình hình thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010, kế hoạch năm 2011 và một
số kiến nghị, góp ý dự thảo nghị quyết của Chính phủ về những giải pháp
chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
và dự toán NSNN năm 2011, số 249/BC-UBND, Vĩnh Long.
170
182. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2011), Quyết định về việc thành lập Ban
Chỉ đạo thực hiện Kế hoạch xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2011 -
2015 tỉnh Vĩnh Long, số 420/QĐ-UBND, ngày 25/2/2011, Vĩnh Long.
183. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2011), Quyết định về việc thành lập Ban
Chỉ đạo thực hiện Đề án "Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm
2020" trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long, số 650/QĐ-UBND, ngày 25/3/2011,
Vĩnh Long.
184. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2011), Quyết định về việc triển khai Nghị
quyết số 14/2011/NQ-HĐND ngày 28/ 7/2011 của Hội đồng nhân dân
tỉnh về việc quy định mức chi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
thuộc diện quy hoạch nguồn của tỉnh, cán bộ, công chức được cơ quan
cử đi học thông qua Sở Nội vụ, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, số 1533/QĐ-
UBND, Vĩnh Long.
185. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2012), Quyết định về việc phê duyệt Kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tỉnh Vĩnh Long giai đoạn
2011 - 2015, số 31/QĐ-UBND, 10/1/2012, Vĩnh Long.
186. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2012), Quyết định gia hạn thời gian thực
hiện Đề án đào tạo ở nước ngoài nguồn nhân lực có trình độ sau đại học
cho tỉnh Vĩnh Long đến năm 2012, số 320/QĐ-UBND, ngầy 2/3/2012,
Vĩnh Long.
187. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2012), Quyết định về việc phân công
nhiệm vụ thành viên Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long, số 405/QĐ-
UBND, ngày 20/3/2012, Vĩnh Long.
188. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2012), Quyết định về việc ban hành Kế
hoạch triển khai thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Vĩnh Long thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, số
994/QĐ-UBND, Vĩnh Long.
189. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2012), Quyết định về việc ban hành Kế
hoạch phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Vĩnh Long
giai đoạn 2012 - 2015 và định hướng đến năm 2020, số 1375/QĐ-
UBND, Vĩnh Long.
171
190. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2012), Quyết định số 822/QĐ-UBND
ngày 24/5/2012 về việc điều chỉnh chỉ tiêu đào tạo giai đoạn 2012 -
2015 của Trường Cao đẳng Cộng đồng Vĩnh Long, Vĩnh Long.
191. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2012), Quyết định số số 1917/QĐ-UBND
ngày 21/11/2012 ban hành về việc thành lập Hội đồng Phát triển nhân
lực tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2011-2020, Vĩnh Long.
192. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2012), Kế hoạch phát triển và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2012 - 2015 và
định hướng đến năm 2020, Vĩnh Long.
193. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2013), Quyết định về việc ban hành Kế
hoạch hành động thực hiện quy hoạch phát triển nguồn nhân lực tỉnh
Vĩnh Long giai đoạn 2011 - 2020, số 53/QĐ-UBND, ngày 8/1/2013,
Vĩnh Long.
194. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2013), Quyết định về việc phê duyệt Danh
mục ngành nghề đào tạo cho lao động nông thôn quá tuổi lao động, số
315/QĐ-UNND, ngày 4//2/2013, Vĩnh Long.
195. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2013), Quyết định Về việc phê duyệt Kế
hoạch “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020” tỉnh Vĩnh Long,
số 684/QĐ-UBND, ngày 24/4/2013, Vĩnh Long.
196. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2013), Nghị quyết về tiếp tục đào tạo cán
bộ có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài của tỉnh Vĩnh Long đến năm
2020, số 80/NQ-HĐND, ngày 5/12/2013, Vĩnh Long.
197. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2013), Quyết định số 04/2013/QĐ-UBND
ngày 25/07/2013 ban hành về việc ban hành Quy chế tuyển dụng công
chức cấp tỉnh, huyện thuộc tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Long.
198. Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2013), Quyết định số 1706/QĐ-UBND,
ngày 22/10/2013 phê duyệt Kế hoạch thực hiện Đề án Quy hoạch, đào
tạo bồi dưỡng đội ngũ trí thức tỉnh đến năm 2020, Vĩnh Long.
172
199. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2014), Quyết định Về việc phê duyệt Kế
hoạch đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ và
cộng đồng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long đến năm 2020, số 733/QĐ-
UBND, ngày 19/5/2014, Vĩnh Long.
200. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2014), Quyết định về việc phê duyệt Kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Vĩnh Long,
năm 2015, số 158/QĐ-UBND, ngày 19/2/2014, Vĩnh Long.
201. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2014), Quyết định về việc phê duyệt Kế
hoạch bồi dưỡng cán bộ, công chức xã trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long năm
2014, số 295/QĐ-UBND, ngày 7/3/2014, Vĩnh Long.
202. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2014), Chỉ thị số 08/CT-UBND, ngày
13/6/2014 về việc tăng cường thực hiện các biện pháp nâng cao chỉ số
năng lực cạnh tranh (PCI) của tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Long.
203. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2015), Quyết định về việc phê duyệt Kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Vĩnh Long,
năm 2015, số 90/QĐ-UBND, ngày 21/1/2015, Vĩnh Long.
204. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2015), Quyết định về việc thành lập Hội
đồng Thẩm định hồ sơ thành lập, cho phép thành lập trường trung cấp
nghề và trung tâm dạy nghề; thành lập, cho phép thành lập phân hiệu/cơ
sở đào tạo thuộc trường, trung tâm dạy nghề trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Long, số 514/QĐ-UBND, ngày 11/3/2015, Vĩnh Long.
205. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2015), Quyết định về việc phê duyệt Kế
hoạch đào tạo nghề cho lao động nông thôn năm 2015, số 513/QĐ-
UBND, ngày 7/4/2015, Vĩnh Long.
206. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2015), Quyết định tạm giao số lượng
người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập năm 2015 cho các ngành
tỉnh, Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố, số 712/QĐ-UBND,
ngày 4/5/2015, Vĩnh Long.
173
207. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2015), Báo cáo tóm tắt tình hình phát triển
kinh tế - xã hội năm 2014 và chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
năm 2015 (Phục vụ buổi làm việc với đồng chí Nguyễn Xuân Phúc - Phó
Thủ tướng Chính phủ), số 69/BC-UBND, Vĩnh Long.
208. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2015), Quyết định số 1333/QĐ-UBND
ngày 31/7/2015 ban hành về việc phê duyệt Kế hoạch bổ sung đào tạo
nghề cho lao động nông thôn năm 2015, Vĩnh Long.
209. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2015), Quyết định Ban hành Kế hoạch
thực hiện Nghị quyết số 45/NQ-CP ngày 11/9/2009 của Chính phủ về
thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Long, giai đoạn 2016 - 2020, số 809/QĐ-UBND, ngày
8/4/2016, Vĩnh Long.
210. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2016), Quyết định Ban hành Kế hoạch
thực hiện Chương trình phát triển thanh niên tỉnh Vĩnh Long, giai đoạn
2016 - 2020, số 232/QĐ-UBND, 28/1/2016, Vĩnh Long.
211. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2016), Quyết định Ban hành Kế hoạch
thực hiện Đề án “Củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu
đổi mới, phát triển của đất nước” năm 2016 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long,
số 342/QĐ-UBND, 17/2/2016, Vĩnh Long.
212. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2016), Quyết định về việc phê duyệt Kế
hoạch đào tạo nghề cho lao động nông thôn năm 2016, số 948/QĐ-
UBND, ngày 26/4/2016, Vĩnh Long.
213. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2016), Quyết định phê duyệt Kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Vĩnh Long, giai đoạn
2016 - 2025, số 1163/QĐ-UBND, ngày 24/5/2016, Vĩnh Long.
174
214. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2016), Quyết định phê duyệt Kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long,
giai đoạn 2016-2020 theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg và Quyết định số
971/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, số 1157/QĐ-UBND, 24/5/2016,
Vĩnh Long.
215. Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2016), Quyết định số 2402/QĐ-UBND
ngày 10/10/2016 về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo nghề cho lao
động nông thôn giai đoạn 2017-2020 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long,
Vĩnh Long.
216. Viện Khoa học giáo dục Việt Nam (2004), Quản lý nguồn nhân lực ở Việt
Nam một số vấn đề lý luận thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
217. Viện Khoa học giáo dục Việt Nam (Đồng chủ biên) (2008), Kinh nghiệm của
một số nước về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ
gắn với xây dựng đội ngũ trí thức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
218. Đào Quang Vinh (2006), Phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Viện
Kinh tế Việt Nam, Hà Nội.
176
Phụ lục 2
Kết quả đạt được trong công tác giải quyết việc làm giai đoạn 2011 - 2015
Kết quả đạt được
TT Nội dung ĐVT KH 2011-
2015 Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
Năm 2014
Năm 2015
Tổng cộng 2011-2015
Tỷ lệ đạt so KH
2011-2015 (%)
1 2 3 4 5 6 7 8 9
1 Công tác tạo việc làm
1,1 Tổng số lao động được tạo việc làm mới Người 130.800 26.900 26.550 27.143 28.648 28.530 137.771 105,33%
a) Xuất khẩu lao động Người 4.800 400 450 505 466 626 2.447 50,98%
b)Trong nước Người 126.000 26.500 26.100 26.638 28.182 27.904 135.324 107,40%
Trong đó:
Giải quyết việc làm thông qua sàn giao dịch việc làm Người - 4.700 1.039 1.054 3.200 680 10.673 -
Giải quyết việc làm thông qua Dự án cho vay vốn từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm
Người 23.100 5.610 4.600 4.760 4.800 4.976 24.746 107,13%
Giải quyết việc làm thông qua các Chương trình phát triển kinh tế xã hội khác
Người - 16.190 20.461 20.824 17.900 22.248 97.623 -
Tự tạo việc làm - 14.376 18.501 18.728 14.900 17.248 83.753 -
Có việc làm mới trong các cơ sở sản xuất kinh doanh, HTX, DNTN, hộ kinh doanh … trong tỉnh
- 1.251 1.372 1.468 2.000 3.500 9.591 -
Có việc làm mới thông qua đi làm việc ngoài tỉnh - 563 588 628 1.000 1.500 4.279 -
1,1 Tỷ lệ thất nghiệp % - 4,70 4,43 4,06 3,50 3,35 -
Thành thị % - 4,70 4,43 4,06 3,50 3,35 -
Nông thôn % - - - - - - 0 -
177
2 Dự án cho vay giải quyết việc làm 0
2,1 Số dư nợ cho vay Tr đồng 104.432 63.610 67.092 68.502 81.432 91.966 372.602 356,79%
Ngân sách trung ương Tr đồng 75.445 60.065 64.275 64.915 65.445 65.725 320.425 424,71%
Ngân sách địa phương Tr đồng 28.987 3.545 2.817 3.587 15.987 26.241 52.177 180,00%
2,2 Số tiền cho vay Tr đồng 169.500 36.028 32.000 25.965 39.900 35.994 169.887 100,23%
2,3 Số người vay Người 23.100 5.610 4.600 4.760 4.800 4.976 24.746 107,13%
3 Hỗ trợ đầu tư hệ thống Trung tâm GTVL, hệ thống thông tin thị trường lao động
Tr đồng 17.093 1.994 629 576 2.000 2.000 7.199 42,12%
Ngân sách Trung ương Tr đồng 17.093 1.994 629 576 2.000 2.000 7.199 42,12%
Ngân sách địa phương Tr đồng - - - - - - 0 -
4 Hỗ trợ tổ chức giao dịch việc làm 0
4,1 Ngân sách Tr đồng 900 186 129 149 - 150 614 68,22%
Ngân sách trung ương Tr đồng 900 186 129 149 - 150 614 68,22%
Ngân sách địa phương Tr đồng - - - - - - 0 -
4,2 Hoạt động của các Trung tâm giới thiệu việc làm
0
Số người được tư vấn Người - 23.915 9.409 6.977 4.500 10.060 54.861 -
Số người tìm được việc Người - 6.957 2.995 2.692 1.500 798 14.942 -
4,3 Hoạt động của Sàn giao dịch việc làm 0
Số người được tư vấn Người - 20.000 6.700 4.439 4.000 1.015 36.154 -
Số người tìm được việc Người - 4.700 700 1.054 3.200 680 10.334 -
5 Hỗ trợ thu thập cơ sở dữ liệu thị trường lao động
0
5,1 Ngân sách Tr đồng - 625,6 403 580 490 750 2.849 -
Ngân sách trung ương Tr đồng - 625,6 403 330 260 750 2.369 -
Ngân sách địa phương Tr đồng - - - 250 230 - 480 -
5,2 Số hộ được cập nhật thông tin hộ - 245.671 249.065 248.461 255.669 260.301 1.259.167 -
178
6 Tập huấn nâng cao năng lực cán bộ lao động việc làm
0
6,1 Ngân sách Tr đồng - - 96,528 18,28 30 30 175 -
Ngân sách trung ương Tr đồng - - 96,528 18,28 30 30 175 -
Ngân sách địa phương Tr đồng - - - - - - 0 -
6,2 Số cán bộ được tập huấn Người 4.430 - 1.189 186 234 351 1.960 44,24%
7 Truyền thông Chương trình việc làm 0
7,1 Ngân sách Tr đồng - - 40 50 50 50 190 -
Ngân sách Trung ương Tr đồng - - 40 50 50 50 190 -
Ngân sách địa phương Tr đồng - - - - - - 0 -
7,2 Số cuộc truyền thông Cuộc - - 12 23 25 26 86 -
Số lượt người tham dự Người - - 360 693 750 760 2.563 -
8 Giám sát, đánh giá Chương trình việc làm 0
8,1 Ngân sách Tr đồng - 84 60 60 90 120 414 -
Ngân sách trung ương Tr đồng - 84 60 60 90 120 414 -
Ngân sách địa phương Tr đồng - - - - - - 0 -
8,2 Số cuộc giám sát, đánh giá Cuộc - 60 53 65 70 72 320 -
+ Cấp tỉnh Cuộc - 5 4 5 5 6 25 -
+ Cấp huyện Cuộc - 55 49 60 65 66 295 -
9 Hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
0
9,1 Ngân sách Tr đồng - - - - - - 0 -
Ngân sách trung ương Tr đồng - - - - - - 0 -
Ngân sách địa phương Tr đồng - - - - - - 0 -
9,2 Số người được hỗ trợ Người - - - - - - 0 -
Nguồn: [129]
179
Phụ lục 3
Nguồn nhân lực tỉnh Vĩnh Long giai đoạn từ năm 2000-2015
Giai đoạn đến 2000 Giai đoạn 2001 - 2005 Giai đoạn 2006 - 2010 Giai đoạn 2011 - 2015 Giai đoạn 2016 - 2020
Tổng: 1.996 1.997 1.998 1.999 2.000 Tổng: 2.001 2.002 2.003 2.004 2.005 Tổng 2.006 2.007 2.008 2.009 2.010 Tổng 2.011 2.012 2.013 2.014 2.015 Tổng 2.016 2.017 2.018 2.019 2.020
583 70 88 88 137 200 6.603 950 1.170 1.309 1.900 1.274 291 66 98 127 1.885 172 277 640 365 431 8.641 1.441 1.200 1.700 2.000 2.300
7.350 1.090 1.600 1.743 1.550 1.367 7.640 891 1.282 1.550 1.823 2.094 21.396 2.396 3.700 4.500 5.000 5.800
19.650 2.425 2.417 2.958 3.550 8.300 38.182 4.010 5.539 9.117 8.040 11.476 19.144 2.000 2.690 3.222 4.210 7.022 50.410 9.785 6.729 9.033 12.126 12.737 44.535 7.535 8.500 9.000 9.500 10.000
69.888 10.560 11.831 14.390 15.666 17.441 114.741 22.300 24.369 23.857 21.570 22.645 86.541 24.241 13.600 14.800 16.500 17.400
20.233 2.495 2.505 3.046 3.687 8.500 44.785 4.960 6.709 10.426 9.940 12.750 96.673 13.650 16.121 19.421 21.524 25.957 174.676 33.148 32.657 35.080 35.884 37.907 161.113 35.613 5.500 6.000 6.500 7.000
7,50 8,80 10,00 18,50 23,50 26,38 29,87 32,80 35,96 38,11 41,89 45,04 50,05 55,16 60,74 63,00 67,00 71,00 75,00
4,80 5,60 7,00 14,00 15,80 17,80 17,98 19,60 21,58 23,81 26,42 29,34 32,13 35,12 39,31 42,00 46,00 50,00 55,00
Nguồn: [129]
180
Phụ lục 4 Cán bộ, công chức, viên chức khối sự nghiệp được đào tạo,
bồi dưỡng từ năm 2001 đến năm 2005
5222
703 550 485
1279
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
Số lư
ợng
tính
: N
gư
ời
Chuyên
môn
nghiệp vụ
Quản lý
Nhà nước
Ngoại ngữ Tin học Bồi dưỡng
nghiệp vụ
Nguồn: [159]; [160]; [161]
Phụ lục 5
Cán bộ, công chức, viên chức khối hành chính được đào tạo, bồi dưỡng từ năm 2001 đến năm 2005
1375
456534
634
109
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
Số
lư
ợn
g t
ính
: N
gư
ời
Đại học, sau
đại học
Quản lý Nhà
nước
Ngoại ngữ Tin học Bồi dưỡng
nghiệp vụ
Nguồn: [159]; [160]; [161]
181
Phụ lục 6 Cán bộ, công chức, viên chức có trình độ chuyên môn
trong các cơ quan nhà nước đến năm 2000
3 33
28913569
6656
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
Số
lư
ợn
g t
ính
: N
gư
ời
Tiến sĩ Thạc sĩ Đại học Cao đẳng Trung cấp
Nguồn: [159]; [160]; [161]
Phụ lục 7
Cán bộ, công chức, viên chức có trình độ chuyên môn
trong các cơ quan nhà nước đến năm 2005
5 60
3511
64456097
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
Số
lư
ợn
g t
ính
:Ng
ườ
i
Tiến sĩ Thạc sĩ Đại học Cao đẳng Trung cấp
Nguồn: [159]; [160]; [161]
182
Phụ lục 8
Cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước
được đào tạo, bồi dưỡng đến năm 2015
22339
495 820 1017 1485
0
5000
10000
15000
20000
25000
Số
lư
ợn
g t
ính
: N
gư
ời
Đại học, sau
đại học
Quản lý Nhà
nước
Ngoại ngữ Tin học Bồi dưỡng
nghiệp vụ
Nguồn: [207]
Phụ lục 9
Chỉ tiêu và kết quả cán bộ, công chức, viên chức
đào tạo, bồi dưỡng đến 2005
Kết quả
năm 2005
TT Nội dung đào tạo, bồi dưỡng
Số lượng
CB,CC,VC
đào tạo, bồi
dưỡng theo
chỉ tiêu
Số
lượng Tỷ lệ %
Ghi
chú
1 Đào tạo ngạch chuyên viên, chuyên
viên chính, chuyên viên cao cấp 357 84 23.52
2 Đào tạo đại học, sau đại học 275 236 85.81
3 Bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà
nước 3.852 3.013 78.21
4 Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
theo Nghị định 116/2003/NĐ-CP 3.213 2.175 67.69
Nguồn: [159]; [160]; [161]
183
Phụ lục 10
Nguồn nhân lực lao động chuyên môn kỹ thuật
được đào tạo, bồi dưỡng từ 2001 đến năm 2005
2210
4603
12174
6368
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
14000
Số
lư
ợn
g t
ính
: N
gư
ời
Đào tạo đại học, sau đại học
Đào tạo cao đẳng
Đào tạo trung cấp chuyên nghiệp
Bồi dưỡng chứng chỉ chuyên môn nghiệp vụ
Nguồn: [148]
184
Phụ lục 10
Nguồn nhân lực lao động chuyên môn kỹ thuật
được đào tạo, bồi dưỡng từ 2005 đến năm 2015
7224
1806
10784
56724
0
10000
20000
30000
40000
50000
60000
Số
lư
ợng t
ính
: N
gư
ời
Đào tạo đại học, sau đại học
Đào tạo cao đẳng
Đào tạo trung cấp chuyên nghiệp
Bồi dưỡng chứng chỉ chuyên môn nghiệp vụ khác
Nguồn: [148]
185
Phụ lục 11
Chính sách thu hút nhân tài của một số tỉnh trong khu vực
đồng bằng sông Cửu Long
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chính sách thu hút nhân tài
TT Tỉnh Tiến sỹ Thạc sỹ
Chuyên
khoa II
Chuyên
khoa I Đại học
1 Trà Vinh 35 20 20 15
2 Cà Mau 100 50 50 40
3 Kiên Giang 80 30 20 5
4 Tiền Giang 80 60 70 50 10 - 20
5 An Giang 60 40 50 40
6 Bình Phước 40 20 25 15 5
7 Vĩnh Long 35 20 25 14
Nguồn: [82]