Upload
others
View
6
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
VIỆN KHOA HỌC
KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
NGUYỄN ĐĂNG MẬU
NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ VÀ DỰ TÍNH BIẾN ĐỘNG
CỦA CÁC ĐẶC TRƯNG GIÓ MÙA MÙA HÈ Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC TRÁI ĐẤT
Hà Nội - 2018
BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
VIỆN KHOA HỌC
KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ VÀ DỰ TÍNH BIẾN ĐỘNG
CỦA CÁC ĐẶC TRƯNG GIÓ MÙA MÙA HÈ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Khí tượng và khí hậu học
Mã số: 62440222
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC TRÁI ĐẤT
Tác giả luận án
Nguyễn Đăng Mậu
Giáo viên hướng dẫn 1
PGS. TS. Nguyễn Văn Thắng
Giáo viên hướng dẫn 2
TS. Mai Văn Khiêm
THỦ TRƯỞNG CƠ SỞ ĐÀO TẠO
(Ký, đóng dấu)
Hà Nội - 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi.
Các kết quả nghiên cứu được nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Đăng Mậu
ii
LỜI CẢM ƠN
Tác giả gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới hai Thầy hướng dẫn khoa học:
(1) PGS. TS. Nguyễn Văn Thắng; (2) TS. Mai Văn Khiêm.
Tác giả chân thành cảm ơn GS. TS. Nguyễn Trọng Hiệu, các nhà khoa học
và đồng nghiệp đã giúp đỡ và góp ý cho các nội dung của Luận án.
Tác giả chân thành cảm ơn cơ sở đạo tạo và lãnh đạo cơ quan đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi nhất trong suốt thời gian học tập.
Đặc biệt, tác giả luôn nhận được sự động viên vô cùng quan trọng từ bố mẹ,
người vợ và hai con gái, cũng như những người thân trong gia đình và bạn bè.
Tác giả
Nguyễn Đăng Mậu
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... ii
MỤC LỤC .........................................................................................................iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................ vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU ............................................................................... ix
DANH MỤC HÌNH VẼ ..................................................................................... x
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ ĐÁNH GIÁ VÀ DỰ
TÍNH BIẾN ĐỘNG GIÓ MÙA MÙA HÈ ......................................................... 4
1.1. Khái quát hoạt động của gió mùa mùa hè ................................................ 4
1.2. Các nghiên cứu trên thế giới .................................................................... 8
1.2.1. Đánh giá biến động gió mùa mùa hè ................................................. 8
1.2.2. Dự tính biến động của các đặc trưng gió mùa mùa hè ..................... 19
1.3. Các nghiên cứu ở trong nước ................................................................. 24
1.3.1. Các nghiên cứu về đánh giá biến động của gió mùa mùa hè............ 24
1.3.2. Các nghiên cứu về dự tính biến động gió mùa mùa hè .................... 25
1.4. Tổng quan chỉ số gió mùa mùa hè.......................................................... 27
1.5. Nhật xét cuối Chương 1 ......................................................................... 31
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP VÀ SỐ LIỆU NGHIÊN CỨU ........................ 33
2.1. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 33
2.1.1. Phương pháp xác định chỉ số gió mùa mùa hè ................................ 33
2.1.2. Phương pháp tính toán các đặc trưng gió mùa mùa hè .................... 36
2.1.3. Tính toán biến động của các đặc trưng gió mùa mùa hè .................. 37
2.2. Số liệu sử dụng trong nghiên cứu........................................................... 42
2.2.1. Số liệu tái phân tích và quan trắc tại trạm ....................................... 42
2.2.2. Số liệu kịch bản biến đổi khí hậu được sử dụng .............................. 48
2.3. Nhận xét cuối Chương 2 ........................................................................ 49
iv
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ BIẾN ĐỘNG CỦA MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG GIÓ
MÙA MÙA HÈ ................................................................................................ 51
3.1. Đề xuất chỉ số gió mùa mùa hè cho khu vực Việt Nam .......................... 51
3.1.1. Xác định yếu tố và vùng chỉ số gió mùa mùa hè ............................. 51
3.1.2. Kiểm nghiệm sự phù hợp của chỉ số VSMI..................................... 57
3.2. Biến động nội mùa của các đặc trưng gió mùa mùa hè........................... 66
3.2.1. Biến động nội mùa của các đặc trưng quy mô lớn ........................... 66
3.2.2. Diễn biến quy mô lớn trong thời kỳ bắt đầu và kết thúc gió mùa mùa
hè.............................................................................................................. 72
3.2.3. Biến động nội mùa của lượng mưa theo số liệu quan trắc ............... 83
3.3. Biến động năm của một số đặc trưng gió mùa mùa hè ........................... 88
3.3.1. Mối quan hệ giữa các đặc trưng gió mùa mùa hè ............................ 88
3.3.2. Biến động năm của các đặc trưng theo chỉ số VSMI ....................... 89
3.3.3. Biến động năm của lượng mưa gió mùa mùa hè.............................. 99
3.4. Nhận xét cuối Chương 3 .......................................................................103
CHƯƠNG 4: DỰ TÍNH BIẾN ĐỘNG CỦA MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG GIÓ MÙA
MÙA HÈ .........................................................................................................105
4.1. Đánh giá mô phỏng của mô hình PRECIS đối với các đặc trưng gió mùa
mùa hè ở khu vực Việt Nam ........................................................................105
4.2. Dự tính biến động của trường U850hPa ................................................115
4.2.1. Dự tính biến động vào giữa thế kỷ 21 ............................................115
4.2.2. Dự tính biến động vào cuối thế kỷ 21 ............................................118
4.3. Dự tính biến động các đặc trưng gió mùa mùa hè theo chỉ số VSMI .....121
4.3.1. Dự tính biến động của thời điểm bắt đầu gió mùa mùa hè..............121
4.3.2. Dự tính biến động của thời điểm kết thúc gió mùa mùa hè.............124
4.3.3. Dự tính biến động của độ dài mùa gió mùa mùa hè........................128
4.3.4. Dự tính biến động của số đợt gián đoạn gió mùa mùa hè ...............132
4.3.5. Dự tính biến động cường độ gió mùa mùa hè.................................134
v
4.4. Dự tính biến động lượng mưa trong mùa gió mùa mùa hè ở khu vực Tây
Nguyên và Nam Bộ .....................................................................................138
4.5. Nhận xét cuối Chương 4 .......................................................................141
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .........................................................................143
1. Kết luận ...................................................................................................143
2. Kiến nghị .................................................................................................144
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ......145
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................146
PHẦN PHỤ LỤC ............................................................................................159
Phụ lục 1: Danh sách trạm quan trắc được sử dụng trong nghiên cứu ..........159
Phụ lục 2: Kết quả tính toán chỉ số VSMI thời kỳ bắt đầu GMMH ..............161
Phụ lục 3: Kết quả tính toán chỉ số VSMI thời kỳ kết thúc GMMH .............163
Phụ lục 4: Chỉ số ONI thời kỳ 1981-2010 của CPC .....................................165
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT Ý NGHĨA
ASM Gió mùa mùa hè châu Á
ÂĐD Ấn Độ Dương
BĐKH Biến đổi khí hậu
BCB Bán cầu Bắc
BCN Bán cầu Nam
CFSR Số liệu tái phân tích từ Hệ thống dự báo khí hậu
CMAP Số liệu tái phân tích lượng mưa toàn cầu của CPC
CMIP3 Dự án so sánh đa mô hình khí hậu pha thứ 3
CMIP5 Dự án so sánh đa mô hình khí hậu pha thứ 5
CPC Trung tâm Dự báo Khí hậu Hoa Kỳ
CSGM Chỉ số gió mùa
CSHL Chỉ số hoàn lưu
Cv Biến suất
ENSO El Niño – Dao động Nam
EOF Hàm trực giao tự nhiên
KNK Khí nhà kính
GMMH Gió mùa mùa hè
HGT Độ cao địa thế vị
HMM Mô hình Markov
IAV Biến động năm
vii
CHỮ VIẾT TẮT Ý NGHĨA
IDV Biến động thập kỷ
IPCC Ban liên chính phủ về Biến đổi khí hậu
ISV Biến động nội mùa
ITCZ Dải hội tụ nhiệt đới
JTWC Trung tâm cảnh báo bão
MJO Dao động Nam
MT Rãnh gió mùa
MSLP Khí áp mực nước biển
NCAR Trung tâm Nghiên cứu Khí quyển quốc gia Hoa Kỳ
NCEP Trung tâm Dự báo Môi trường Quốc gia Hoa Kỳ
nnk Những người khác
OLR Bức xạ sóng dài đi ra từ đỉnh khí quyển
ONI Chỉ số Nino đại dương (được tính bằng trung bình trượt mùa 3
tháng của SSTA tại khu vực Nino3.4)
PENTAD Hậu (được tính bằng trung bình 5 ngày liên tiếp)
PRECIS Mô hình cung cấp thông tin khí hậu khu vực phục vụ nghiên
cứu tác động
PRECIS-
CNRM
Mô hình PRECIS được chạy với số liệu đầu vào từ mô hình
toàn cầu CNRM-CM3
PRECIS-
GFDL
Mô hình PRECIS được chạy với số liệu đầu vào từ mô hình
toàn cầu GFDL-CM5
U Gió vĩ hướng
viii
CHỮ VIẾT TẮT Ý NGHĨA
U300hPa Gió vĩ hướng mực 300hPa
U500hPa Gió vĩ hướng mực 500hPa
U700hPa Gió vĩ hướng mực 700hPa
U850hPa Gió vĩ hướng mực 850hPa
RCP đường nồng độ khí nhà kính đại diện
RI Chỉ số lượng mưa GMMH Ấn Độ
SCSSM Chỉ số gió mùa mùa hè Biển Đông
STD Độ lệch tiêu chuẩn
SST Nhiệt độ mặt nước biển
TBD Thái Bình Dương
VSMI Chỉ số gió mùa mùa hè cho Việt Nam
XTNĐ Xoáy thuận nhiệt đới
WMO Tổ chức Khí tượng thế giới
ix
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Tổng hợp các chỉ số GMMH cho khu vực gió mùa châu Á – TBD... 28
Bảng 2.1. Kết quả xác định mùa hè El Nino thời kỳ 1981-2010 ....................... 44
Bảng 2.2. Kết quả xác định mùa hè La Nina thời kỳ 1981-2010 ....................... 45
Bảng 2.3. Kết quả xác định mùa hè trung gian của ENSO (trung gian - pha ấm;
trung gian - pha lạnh) ....................................................................................... 46
Bảng 2.4. Kết quả xác định mùa hè ENSO thời kỳ 1981-2004 ......................... 46
Bảng 2.5. Số liệu dự tính khí hậu bằng mô hình PRECIS ................................. 49
Bảng 3.1. Lượng mưa GMMH (mm/ngày) và chỉ số Cv (%) thời kỳ 1981-2010
tại các trạm thuộc khu vực Tây Nguyên ........................................................... 84
Bảng 3.2. Lượng mưa mùa GMMH (mm/ngày) và chỉ số Cv (%) thời kỳ 1981-
2010 tại các trạm thuộc khu vực Nam Bộ ......................................................... 87
Bảng 3.3. Ma trận hệ số tương quan giữa các đặc trưng GMMH ...................... 88
Bảng 3.4. STD của đặc trưng GMMH thời kỳ 1981-2010 và các thập kỷ ........ 99
Bảng 4.1. Kết quả tính toán các đặc trưng thống kê giữa số liệu lương mưa mô
phỏng và số liệu quan trắc ...............................................................................115
Bảng 4.2. Kết quả dự tính biến đổi lượng mưa vào giữa và cuối thế kỷ 21 so với
thời kỳ cơ sở ở các vùng khí hậu .....................................................................139
Bảng 4.3. Kết quả dự tính biến đổi chỉ số STD của lượng mưa vào giữa và cuối
thế kỷ 21 so với thời kỳ cơ sở ở các vùng khí hậu ...........................................141
x
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1. Sơ đồ phân định vùng có gió mùa (Nguồn: Ramage C, 1971) [94] ..... 5
Hình 1.2. Sơ đồ phân các khu vực gió mùa mùa hè trong hệ thống gió mùa mùa
hè châu Á - TBD: Đông Á, Ấn Độ và Tây Bắc TBD . ........................................ 5
Hình 1.3. Biểu đồ Hovmoeller mô tả diễn biến của dải mây đối lưu trên khu vực
(a) 80oE - 90oE (Ấn Độ) và (b) 125oE-135oE (Đông Á). Khoảng cách giữa các
đường contour là 0,02. Vùng đổ màu sáng và màu đen lần lượt tương ứng với
phần mây 0,02 -0,06 và lớn hơn 0,06 .............................................................. 13
Hình 1.5. Diễn biến độ lệch của một số đặc trưng so với trung bình mùa: a) Lượng
mưa (mm/ngày, đổ màu), gió mức 850hPa (m/s, mũi tên); b) Độ cao z500 (m, đổ
màu) và gió mức 200hPa (m/s, mũi tên). Trong đó: “0 ngày” là thời điểm bùng
phát mưa GMMH; “-12,5 ngày”, “+12,5 ngày” và “+25 ngày” lần lượt tương ứng
với trước 12,5 ngày, sau 12,5 và sau 25 ngày so với thời điểm bắt đầu bùng phát
mưa GMMH ................................................................................................... 15
Hình 1.6. Biến động nội mùa (trước hoạt động, hoạt động và sau hoạt động) của
GMMH Ấn Độ được xác định thông qua lượng mưa ngày (mm). Đường thẳng -
liền nét là lượng mưa trong mùa GMMH trung bình nhiều năm ở các vùng khí
hậu Ấn Độ ....................................................................................................... 16
Hình 1.7. Phân bố vĩ hướng-thời gian của lượng mưa CMAP cho các khu vực (a)
120o-125oE, (b) 125o-130oE, và (c)130o-140oE; và biểu đồ lượng mưa các khu vực
tương ứng (d) Đài Loan (20oN-25oN, 120oE–125oE), (e) Hà Quốc (35oN-40oN,
125oE-130oE), và (f ) Nhật Bản (32,5oN- 40oN, 130oE-140oE). Các pha khác nhau
của gió mùa mùa hè ở các khu vực được xác định bởi hoạt động (active), gián
đoạn (break) và hoạt động lại (revival). Khoảng cách các đường đẳng trị mưa là
1mm/ngày, các vùng tô màu là vùng có lượng mưa lớn hơn 5mm/ngày ......... 18
Hình 1.8. Dự tính biến đổi (%) của chỉ số STD (ký hiệu là std) lượng mưa GMMH
vào nửa cuối thế kỷ 21 (2050-2100) so với nửa đầu thế kỷ 20 (1900-1950) theo
kịch bản RCP8.5 (đỏ), RCP6.0 (cảm), RCP4.5 (xanh lá cây), RCP2.6 (xanh lam)
......................................................................................................................... 22
xi
Hình 1.8. Dự tính biến động IAV của chỉ số GMMH (%) trong thời kỳ 2051-2099
so với thời kỳ 1951-1999 theo kịch bản RCP8.5 trong các năm có cường độ
GMMH mạnh và yếu (mạnh - màu xanh; yếu - màu đỏ) từ 4 phương án mô hình
và phương án tổ hợp (B4MMM) ..................................................................... 23
Hình 2.2. Minh họa biến động IAV và biến đổi khí hậu: Biến động khí hậu được
tính ở quy mô thời gian ngắn (năm đến thập kỷ); dao động khí hậu được tính từ
biến động khí hậu nhưng ở quy mô thời gian dài hơn (thập kỷ đến nhiều thập kỷ);
biến đổi khí hậu là xu thế dịch chuyển của điều kiện khí hậu ở quy mô thời gian
dài (nhiều thập kỷ đến hàng thế kỷ) ................................................................ 38
Hình 2.3. Vị trí của 70 trạm quan trắc được sử dụng trong nghiên cứu ............. 47
Hình 3.1. Kết quả tính toán trung bình giai đoạn 1981-2010 của giá trị trung bình
kinh hướng (100oE -110oE) và phân bố vĩ hướng-thời gian từ số liệu CFSR: a)
U850hPa (m/s); b) OLR (W/m2) ....................................................................... 53
Hình 3.2. Kết quả tính toán các thành phần véc tơ riêng (Mode) của U580hPa mùa
hè (tháng 5-tháng 9) thời kỳ 1981-2010 từ số liệu CFSR: a) Mode1; b) Mode2 56
Hình 3.3. Trường gió (m/s) mực 850hPa trung bình mùa GMMH (tháng 5 - tháng
9) thời kỳ 1981-2010 theo số liệu CFSR. Vùng ô vuông màu đỏ là vùng đề tính
chỉ số GMMH (5oN -15oN; 100oE -110oE) ....................................................... 57
Hình 3.4. Hệ số tương quan giữa chỉ số VSMI với U850hPa trung bình mùa
GMMH (tháng 5-tháng 9) thời kỳ 1981-2010. Vùng đổ màu là vùng có hệ số
tương quan vượt 95% độ tin cậy theo kiểm nghiệm t-test ................................. 59
Hình 3.5. Hệ số tương quan giữa chỉ số VSMI với U700hPa trung bình mùa
GMMH (tháng 5-tháng 9) thời kỳ 1981-2010. Vùng đổ màu là vùng có hệ số
tương quan vượt 95% độ tin cậy theo kiểm nghiệm t-test ................................. 59
Hình 3.6. Hệ số tương quan giữa chỉ số VSMI với U500hPa trung bình mùa
GMMH (tháng 5-tháng 9) thời kỳ 1981-2010. Vùng đổ màu là vùng có hệ số
tương quan vượt 95% độ tin cậy theo kiểm nghiệm t-test ................................. 60
xii
Hình 3.7. Hệ số tương quan giữa chỉ số VSMI với U300hPa trung bình mùa
GMMH (tháng 5-tháng 9) thời kỳ 1981-2010. Vùng đổ màu là vùng có hệ số
tương quan vượt 95% độ tin cậy theo kiểm nghiệm t-test ................................. 60
Hình 3.8. Hệ số tương qua giữa các chỉ số GMMH với lượng mưa quan trắc thời
kỳ 1981-2010 trung bình hậu (pentad) trong các tháng mùa hè (tháng 5 - tháng 9):
(a) Chỉ số VSMI; (b) Chỉ số SCSSM; (c) CSHL. Giá trị hệ số tương quan lớn hơn
0,1 (tô màu) thỏa mãn độ tin cậy thống kê 95%................................................ 64
Hình 3.9. Diễn biến cường độ GMMH trung bình hậu (m/s) ở khu vực Việt Nam
(chỉ số VSMI trung bình hậu) thời kỳ 1981-2010 theo số liệu CFSR................ 67
Hình 3.10. Chuẩn sai trường gió mực 850hPa (m/s) so với trung bình mùa trong
giai đoạn 1981-2010 theo số liệu CFSR: (a) tháng 5, (b) tháng 6, (c) tháng 7, (d)
tháng 8, (e) tháng 9 và (f) tháng 10................................................................... 70
Hình 3.11. Chuẩn sai của trường HGT mực 850hPa (gpm) so với trung bình mùa
trong giai đoạn 1981-2010 theo số liệu CFSR: (a) tháng 6, (b) tháng 7, (c) tháng
8 và (d) tháng 9 ................................................................................................ 72
Hình 3.12. Diễn biến trường gió mực 850hPa tại các thời điểm trong quá trình bắt
đầu GMMH ở Việt Nam: (a) Hậu trước bắt đầu (pentad-1); (b) Hậu bắt đầu
(Pentad 0); (c) Hậu sau bắt đầu (pentad+1)....................................................... 74
Hình 3.13. Diễn biến trường gió OLR (W/m2) tại các thời điểm trong quá trình
bắt đầu GMMH ở Việt Nam: (a) Hậu trước bắt đầu (pentad-1); (b) Hậu bắt đầu
(Pentad 0); (c) Hậu sau bắt đầu (pentad+1)....................................................... 76
Hình 3.14. Nhiệt độ (K) và trường gió (m/s) mực 300hPa trung bình trong giai
đoạn 1981-2010 tương ứng với các pentad trong giai đoạn bắt đầu GMMH: (a)
Hậu trước bắt đầu (pentad-1); (b) Hậu bắt đầu (Pentad 0); (c) Hậu sau bắt đầu
(pentad+1) ........................................................................................................ 77
Hình 3.15. Diễn biến trường gió mực 850hPa tại các thời điểm trong quá trình kết
thúc GMMH ở Việt Nam: (a) Hậu trước kết thúc (pentad-1); (b) Hậu kết thúc
(Pentad0); (c) Hậu sau kết thúc (pentad+1) ...................................................... 80
xiii
Hình 3.16. Diễn biến trường gió OLR (W/m2) tại các thời điểm trong quá trình
bắt đầu GMMH ở Việt Nam: (a) Hậu trước kết thúc (pentad-1); (b) Hậu kết thúc
(Pentad0); (c) Hậu sau kết thúc (pentad+1) ...................................................... 81
Hình 3.17. Nhiệt độ và trường gió mực 300hPa trung bình 1981-2010 trong giai
đoạn kết thúc GMMH: (a) Hậu trước kết thúc (pentad-1); (b) Hậu kết thúc
(Pentad0); (c) Hậu sau kết thúc (pentad+1) ...................................................... 82
Hình 3.18. Diễn biến lượng mưa quy mô hậu (mm/ngày) và chuẩn sai lượng mưa
(mm/ngày) so với trung bình mùa GMMH ở khu vực Tây Nguyên .................. 85
Hình 3.19. Diễn biến lượng mưa quy mô hậu (mm/ngày) và độ lệch lượng mưa
(mm/ngày) so với trung bình mùa GMMH ở khu vực Nam Bộ ........................ 87
Hình 3.20. Diễn biến chuẩn sai của thời điểm bắt đầu GMMH (hậu) so với trung
bình trong thời kỳ 1981-2010 trong các pha ENSO .......................................... 91
Hình 3.21. Diễn biến chuẩn sai của thời điểm kết thúc GMMH (hậu) so với trung
bình trong thời kỳ 1981-2010 trong các pha ENSO .......................................... 92
Hình 3.22. Diễn biến chuẩn sai của độ dài mùa GMMH (hậu) so với trung bình
trong thời kỳ 1981-2010 trong các pha ENSO .................................................. 93
Hình 3.23. Diễn biến số đợt gián đoạn GMMH (đợt) thời kỳ 1981-2010 trong các
pha ENSO ........................................................................................................ 94
Hình 3.24. Diễn biến chuẩn sai của cường độ GMMH (m/s) so với trung bình
trong thời kỳ 1981-2010 trong các pha ENSO .................................................. 95
Hình 3.25. Khác biệt giữa năm gió mùa mạnh với năm gió mùa yếu ở mực 850hPa:
(a) Trường hoàn lưu gió (m/s), (b) Trường HGT (gpm).................................... 97
Hình 4.1. Biểu đồ Hovmoller trường U850 hPa (m/s) khu vực 100oE -110oE trung
bình thời kỳ 1986-2005 ở quy mô hậu: (a) PRECIS-CNRM; (b) PRECIS-GFDL;
(c) CFSR .........................................................................................................107
Hình 4.2. Kết quả tính toán biến trình năm của chỉ số VSMI ở quy mô hậu trung
bình thời kỳ 1986-2010: (a) PRECIS-CNRM; (b) PRECIS-GFDL; (c) CFSR .108
Hình 4.3. Kết quả tính toán trung bình kinh hướng (100oE-110oE) phân bố vĩ
hưỡng (5oN -24oN) và thời gian (tháng 1-tháng 12) của trường gió (m/s) mực
xiv
850hPa trung bình 1986-2005: (a) PRECIS-CNRM; (b) PRECIS-GFDL; (c)
PRECIS - Tổ hợp; (d) CFSR ...........................................................................110
Hình 4.4. Kết quả tính toán trung bình kinh hướng (100oE-110oE) phân bố vĩ
hưỡng (5oN -24oN) và thời gian (tháng 1-tháng 12) của chỉ số STD trường gió
(m/s) mực 850hPa trung bình 1986-2005: (a) PRECIS-CNRM; (b) PRECIS-
GFDL; (c) PRECIS-Tổ hợp; (d) CFSR ............................................................111
Hình 4.5. Chênh lệch giữa mô phỏng bằng PRECIS với số liệu quan trắc (tháng
5-tháng 9) thời kỳ 1986-2005: (a) Lượng mưa (mm/ngày); (b) chỉ số STD
(mm/ngày) .......................................................................................................113
Hình 4.6. Hệ số tương quan giữa chuối số liệu của lượng mưa quy mô hậu trung
bình thời kỳ 1986-2005 diễn ra trong mùa GMMH theo các phương án mô hình
PRECIS với số liệu quan trắc ..........................................................................113
Hình 4.7. Diễn biến lượng mưa (mm/ngày) quy mô hậu trung bình thời kỳ 1986-
2005 trong các phương án mô phỏng PRECIS (PRECIS-CNRM và PRECIS-
GFDL) với số liệu quan trắc thực tế ở 7 vùng khí hậu .....................................114
Hình 4.8. Mức độ biến đổi chỉ số STD (%) của U850hPa trung bình mùa GMMH
vào giữa thế kỷ 21 so với thời kỳ cơ sở theo kịch bản RCP4.5: (a) PRECIS-
CNRM; (b) PRECIS-GFDL; (c) Tổ hợp trung bình .........................................117
Hình 4.9. Mức độ biến đổi chỉ số STD (%) của U850hPa trung bình mùa GMMH
vào giữa thế kỷ 21 so với thời kỳ cơ sở theo kịch bản RCP8.5: (a) PRECIS-
CNRM; (b) PRECIS-GFDL; (c) Tổ hợp các dự tính........................................118
Hình 4.10. Mức độ biến đổi chỉ số STD (%) của U850hPa trung bình mùa GMMH
vào cuối thế kỷ 21 so với thời kỳ cơ sở theo kịch bản RCP4.5: (a) PRECIS-
CNRM; (b) PRECIS-GFDL; (c) Tổ hợp các dự tính........................................120
Hình 4.11. Mức độ biến đổi chỉ số STD (%) của U850hPa trung bình mùa GMMH
vào cuối thế kỷ 21 so với thời kỳ cơ sở theo kịch bản RCP8.5: (a) PRECIS-
CNRM; (b) PRECIS-GFDL; (c) Tổ hợp các dự tính........................................121
xv
Hình 4.12. Mức biến đổi của thời điểm bắt đầu GMMH (hậu) ở các thời kỳ trong
tương lai so với thời kỳ cơ sở theo các kịch bản (RCP4.5 và RCP8.5) và phương
án tổ hợp trung bình: a) 2046-2065; b) 2080-2099 ..........................................123
Hình 4.13. Tương tự như Hình 4.5 nhưng đối với chỉ số STD (%) của thời điểm
bắt đầu GMMH: a) 2046-2065; b) 2080-2099 .................................................124
Hình 4.14. Mức biến đổi của thời điểm kết thúc GMMH (hậu) ở các thời kỳ trong
tương lai so với thời kỳ cơ sở theo các kịch bản (RCP4.5 và RCP8.5) và phương
án tổ hợp trung bình: a) 2046-2065; b) 2080-2099 ..........................................126
Hình 4.15. Tương tự như Hình 4.7 nhưng đối với chỉ số STD (%) của thời điểm
kết thúc GMMH: a) 2046-2065; b) 2080-2099 ................................................128
Hình 4.16. Mức biến đổi của độ dài mùa GMMH (hậu) ở các thời kỳ trong tương
lai so với thời kỳ cơ sở theo các kịch bản (RCP4.5 và RCP8.5) và phương án tổ
hợp trung bình: a) 2046-2065; b) 2080-2099 ...................................................130
Hình 4.17. Tương tự như Hình 4.9 nhưng đối với chỉ số STD (%) của độ dài mùa
GMMH: a) 2046-2065; b) 2080-2099 .............................................................131
Hình 4.18. Mức biến đổi của số đợt gián đoạn GMMH (hậu) ở các thời kỳ trong
tương lai so với thời kỳ cơ sở theo các kịch bản (RCP4.5 và RCP8.5) và phương
án tổ hợp trung bình: a) 2046-2065; b) 2080-2099 ..........................................133
Hình 4.19. Tương tự như Hình 4.11 nhưng đối với chỉ số STD (%) của số đợt gián
đoạn GMMH: a) 2046-2065; b) 2080-2099 .....................................................134
Hình 4.20. Mức biến đổi của cường độ GMMH (hậu) ở các thời kỳ trong tương
lai so với thời kỳ cơ sở theo các kịch bản (RCP4.5 và RCP8.5) và phương án tổ
hợp trung bình: a) 2046-2065; b) 2080-2099 ...................................................136
Hình 4.21. Tương tự như Hình 4.13 nhưng đối với chỉ số STD (%) của cường độ
GMMH: a) 2046-2065; b) 2080-2099 .............................................................137
1
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Lãnh thổ Việt Nam nằm trong khu vực giao tranh của các hệ thống gió mùa
mùa hè Châu Á -TBD [112]. Do vậy, biến động của GMMH ở khu vực Việt Nam
có mối quan hệ với biến động của các hệ thống GMMH này. Trong các tháng mùa
hè, đường dòng chủ yếu ở gần mặt đất là Tây Nam ở phía Nam và Nam hoặc
Đông Nam ở phía Bắc lãnh thổ Việt Nam. Các luồng không khí thịnh hành là
không khí xích đạo, nhiệt đới, xuất phát từ áp cao bán cầu Nam (BCN) và không
khí nhiệt đới biển xuất phát từ rìa Tây Nam của áp cao Bắc TBD [16]. Bên cạnh
đó, đới gió Tây có nguồn gốc từ áp thấp nóng Nam Á [16] và ngoại nhiệt đới
[112] cũng ảnh hưởng đến khu vực phía Bắc trong các tháng trước và trong mùa
hè.
Do ảnh hưởng của điều kiện địa hình núi cao ở phía Bắc và dãy Trường
Sơn, điều kiện khí hậu và tác động của GMMH có sự phân hóa rõ rệt theo không
gian. Bên cạnh đó, El Nino - Dao động Nam (ENSO) cũng được coi là nguyên
nhân chính gây ra sự biến động hàng năm của gió mùa ở Việt Nam [16, 26].
GMMH là nhân tố chính chi phối điều kiện thời tiết, khí hậu và các hiện
tượng cực đoan trong các tháng mùa hè. Sự biến động của GMMH có ảnh hưởng
đến các hoạt động sản xuất kinh tế - xã hội và sinh hoạt của người dân. Đặc biệt
trong bối cảnh nóng lên toàn cầu, vấn đề nghiên cứu dự tính biến động của các
đặc trưng GMMH có ý nghĩa quan trọng phục vụ công tác ứng phó với biến đổi
khí hậu (BĐKH). Xuất phát từ những thực tiễn khoa học trên, nghiên cứu sinh
(NCS) lựa chọn thực hiện đề tài nghiên cứu luận án “Nghiên cứu đánh giá và dự
tính biến động của các đặc trưng gió mùa mùa hè ở khu vực Việt Nam”.
Mục tiêu của luận án:
(1) Đánh giá được biến động của một số đặc trưng gió mùa mùa hè ở khu
vực Việt Nam;
(2) Đưa ra được dự tính biến động của một số đặc trưng gió mùa mùa hè ở
khu vực Việt Nam do tác động của biến đổi khí hậu.
2
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Chỉ số gió mùa mùa hè;
+ Biến động của một số đặc trưng gió mùa mùa hè ở khu vực Việt Nam;
- Phạm vị nghiên cứu:
+ Khảo sát đề xuất chỉ số GMMH: Các tính toán và khảo sát số liệu được
thực hiện trên phạm vi không gian 60oE - 160oE và từ 15oS - 40oS;
+ Tính toán và dự tính biến động được thực hiện trong phạm vi không gian
của chỉ số VSMI: 100oE-110oE và 5oN -15oN;
+ Tính toán biến động lượng mưa gió mùa mùa hè được thực hiện ở khu
vực Tây Nguyên và Nam Bộ.
Những đóng góp mới của luận án
(1) Luận án đã đề xuất được chỉ số gió mùa mùa hè VSMI đặc trưng bởi
trường gió mực 850hPa (U850hPa) trung bình khu vực 5oN -15oN và 100oE-
110oE. Chỉ số VSMI phản ánh tốt hoàn lưu quy mô lớn, cũng như hệ quả mưa của
GMMH trên lãnh thổ Việt Nam.
(2) Đánh giá được sự biến động nội mùa (ISV) và biến động năm (IAV)
của các đặc trưng GMMH. Biến động ISV của GMMH có dạng 35-85 ngày với
hai lần đạt cực đại về cường độ vào hậu thứ 36 và 40. Các đặc trưng GMMH có
biến động IAV và biến động trong các pha ENSO. Trong các mùa hè El Nino,
thời điểm bắt đầu thường đến muộn, kết thúc sớm, số đợt gián đoạn ít hơn và
cường độ mạnh hơn trung bình nhiều năm. Ngược lại trong mùa hè La Nina, thời
điểm bắt đầu đến sớm, kết thúc muộn, số đợt gián đoạn nhiều hơn và cường độ
yếu hơn trung bình nhiều năm.
(3) Bước đầu, các kết quả dự tính biến động IAV của GMMH vào giữa
(2046-2065) và cuối thế kỷ 21 (2080-2099) từ mô hình PRECIS đã được thực
hiện. Biến động IAV của thời điểm bắt đầu được dự tính giảm nhẹ vào giữa và
cuối thế kỷ 21. Ngược lại, các đặc trưng khác (thời điểm kết thúc, độ dải mùa, số
3
đợt gián đoạn, cường độ, lượng mưa ở Tây Nguyên và Nam Bộ) được dự tính gia
tăng vào giữa và cuối thế kỷ 21.
Các luận điểm bảo vệ
(1) Chỉ số gió mùa mùa hè VSMI có thể đặc trưng cho hoạt động của
GMMH ở khu vực Việt Nam.
(2) Một số đặc trưng GMMH ở khu vực Việt Nam có tính biến động nội
mùa (ISV) và biến động năm (IAV).
(3) Sự gia tăng nồng độ KNK trong tương lai theo kịch bản RCP4.5 và
RCP8.5 có tác động đến biến động của một số đặc trưng GMMH ở khu vực Việt
Nam.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
(1) Chỉ số gió mùa mùa hè VSMI được đề xuất phản ánh tốt diễn biến hoạt
động của GMMH ở khu vực Việt Nam.
(2) Chỉ số gió mùa mùa hè VSMI có thể được ứng dụng trong nghiệp vụ
giám sát và dự báo biến động của các đặc trưng GMMH ở khu vực Việt Nam.
(3) Kết quả đánh giá biến động của các đặc trưng GMMH góp phần phục
vụ công tác dự báo hoạt động của GMMH ở khu vực Việt Nam.
(4) Củng cố thêm cơ sở khoa học về khả năng tác động của BĐKH đến biến
động của các đặc trưng GMMH ở khu vực Việt Nam.
Cấu trúc của luận án
Cấu trúc của luận án được trình bày như sau:
Chương 1: Tổng quan về nghiên cứu đánh giá và dự tính biến động gió mùa
mùa hè
Chương 2: Phương pháp và số liệu nghiên cứu
Chương 3: Đánh giá biến động của một số đặc trưng gió mùa mùa hè
Chương 4: Dự tính biến động của một số đặc trưng gió mùa mùa hè
Kết luận và kiến nghị
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ ĐÁNH GIÁ
VÀ DỰ TÍNH BIẾN ĐỘNG GIÓ MÙA MÙA HÈ
1.1. Khái quát hoạt động của gió mùa mùa hè
Gió mùa là hệ thống hoàn lưu quy mô lớn có vai trò rất quan trọng trong
cân bằng nhiệt, ẩm quy mô toàn cầu, khu vực và có ảnh hướng lớn đến điều kiện
thời tiết, khí hậu ở nhiều nơi trên thế giới. Do vậy, nghiên cứu về gió mùa là chủ
đề được rất nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm. Theo quan điểm cổ điển,
tương phản đốt nóng khí quyển - đại dương được xem là nhân tố chính gây ra gió
mùa [56]. Khu vực gió mùa là khu vực có hoàn lưu của khí quyển trên một phạm
vi rộng lớn, thịnh hành vào mùa đông và mùa hè có hướng gần như ngược nhau.
Khromov (1975) đưa ra chỉ tiêu xác định gió mùa: (1) Hướng gió giữa hai mùa
phải lệch nhau tối thiểu một góc 120o (được gọi là góc gió mùa); (2) Tần suất gió
thịnh hành tối thiểu là 40% [17, 22]. Về sau, chỉ tiêu xác định khu vực gió mùa
được bổ sung [94]: (1) Hướng gió thịnh hành trong tháng 1 và tháng 7 phải lệch
nhau một góc lớn hơn hoặc bằng 120o; (2) Tần suất trung bình của hướng gió
thịnh hành trong tháng 1 và tháng 7 phải lớn hơn hoặc bằng 40%; (3) Tốc độ gió
hợp thành trung bình của ít nhất một trong hai tháng 1 và 7 phải lớn hơn hoặc
bằng 3m/s; (4) Sự luân phiên của hoàn lưu xoáy thuận/nghịch xảy ra trong tháng
1 và 7 của hai năm liên tiếp, trên một vùng có kích thước 5 kinh/vĩ độ (Hình 1.1).
Theo chu kỳ hàng năm, diễn ra quy luật đổi hướng gió gần như đối lập nhau
giữa mùa đông và mùa hè ở mực thấp và trên cao trên khu vực gió mùa châu Á
Thái Bình Dương (TBD). Cùng với quy luật thay đổi đó, là sự thay đổi về các đặc
trưng thời tiết và khí hậu. Nguyên nhân của sự thay đổi này là do sự thay đổi của
chế độ bức xạ nhiệt từ mặt trời xuống trái đất, dẫn đến những thay đổi của các hệ
thống khí áp duy trì theo mùa.
5
Hình 1.1. Sơ đồ phân định vùng có gió mùa (Nguồn: Ramage C, 1971) [94]
Khu vực châu Á - TBD bao gồm 3 hệ thống GMMH chính: Ấn Độ, Đông
Á và Tây Bắc TBD (Hình 1.2) [106]. Hình 1.2 cho thấy, lãnh thổ Việt Nam nằm
trong vùng chuyển tiếp của 3 hệ thống GMMH này. Do vậy, khi chưa đề cập đến
tác động của các nhân tố địa phương, hoạt động của GMMH ở khu vực Việt Nam
cũng đã rất phức tạp và chịu chi phối bởi sự mạnh/yếu của các hệ thống gió mùa
khác. Một số tác giả trong nước cho rằng [16], GMMH ở Việt Nam chịu tác động
bởi: (1) Hoàn lưu từ GMMH Ấn Độ; (2) Tây Bắc TBD; (3) Hệ thống hoàn lưu
nhiệt đới và cận nhiệt đới bán cầu Nam (BCN).
Hình 1.2. Sơ đồ phân các khu vực gió mùa mùa hè trong hệ thống gió mùa mùa
hè châu Á - TBD: Đông Á, Ấn Độ và Tây Bắc TBD (Nguồn: Wang B, LinHo,
2002) [106].
6
Vào mùa hè ở bán cầu Bắc (BCB), bức xạ mặt trời hoạt động mạnh mẽ và
đốt nóng lục địa châu Á được tăng cường. Trong thời kỳ này, áp cao lục địa châu
Á không còn nữa và hình thành áp thấp Nam Á có tâm ở khu vực Ấn Độ - Pakistan.
Áp thấp Nam Á là áp thấp nóng và phát triển đến độ cao khoảng 3km. Đồng thời
trên khu vực Bắc TBD, áp thấp Aleut nhường chỗ cho áp cao Bắc TBD. Ở bán cầu
Nam, tồn tại dải áp cao cận chí tuyến với trung tâm nằm trên đại lục châu Úc [13].
Trong đó, vai trò của dải áp cao nội chí tuyến này là trung tâm phát gió; áp thấp
Nam Á và dải áp thấp nội chí tuyến ở BCB đóng vai trò là trung tâm hút gió. Khi
đó, chi phối ở mực thấp là đới gió Tây Nam (gió mùa mùa hè) ở quy mô lớn từ khu
vực Đông Phi đến đến Phillipine và khu vực Đông Á.
Trên lãnh thổ Việt Nam, đặc điểm nổi bật vào mùa hè là sự chi phối của
gió mùa Tây Nam ở mực thấp hay còn gọi là GMMH [1, 4, 17, 26]. Gió mùa Tây
Nam có nguồn gốc từ vùng xích đạo ÂĐD; chủ yếu là dòng vượt xích đạo và một
phần là phát sinh tại chỗ. Một số tác giả đã chỉ ra, hoàn lưu GMMH ở khu vực
Việt Nam là một phần mở rộng về phía Đông của GMMH Ấn Độ [16]. Khi mở
rộng đến Việt Nam, đới gió này bị biến tính đáng kể do tác động của các nhân tố
địa phương (địa hình, lãnh thổ trải dài trên nhiều vĩ độ, tương tác với các hoàn lưu
gió khác). Do vậy, tác động của GMMH có sự phân hóa theo không gian. Trong
đó, bản chất khối khí xích đạo nóng ẩm và gây mưa của GMMH được thể hiện
nhất ở khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ [16]. Bên cạnh chịu tác động của GMMH,
khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ còn chịu sự tác động của đới gió Tây có nguồn
gốc từ áp thấp nóng Nam Á và có nguồn gốc ngoại nhiệt đới [16]. Khi áp thấp
nóng Nam Á hoạt động mạnh, có thể gây ra kiểu thời tiết khô nóng cực đoan như
đợt nắng nóng vào đầu tháng 6 năm 2017 ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Tuy nhiên,
gió Tây có nguồn gốc từ áp thấp nóng Nam Á không duy trì ổn định. Ngoài ra,
khu vực Bắc Bộ và Trung Bộ còn chịu sự tác động của đới gió Đông Nam có
nguồn gốc từ đới gió Tây Nam đổi hướng khi dịch chuyển lên phía Bắc và từ rìa
phía Nam của áp cao Bắc TBD [16]. Do các nhân tố địa phương và quy mô lớn
7
này, hệ quả thời tiết trong mùa GMMH ở khu vực Việt Nam có sự phân hóa theo
không gian sâu sắc và biến động mạnh mẽ.
GMMH bắt đầu hoạt động trong khoảng thời gian từ nửa cuối tháng 4 đến
đầu tháng 5 [10, 16]. Trong giai đoạn đầu, áp thấp Nam Á phát triền về phía Đông
và dải hội tụ nhiệt đới (ITCZ) có trục vượt sang BCB. Ở mực trên cao, dòng xiết
gió Tây cận nhiệt đới suy yếu và chỉ còn nhánh phía Bắc cao nguyên Tây Tạng
[16]. Thời kỳ hoạt động mạnh mẽ nhất của GMMH diễn ra từ tháng 6 đến tháng
7 [16]. Trong thời gian này, gió Tây Nam trong lớp khí quyển tầng thấp (lên tới
độ cao 5km) chi phối trên khu vực rộng lớn từ Đông Phi mở rộng sang Phillip ine.
Trong thời gian này, ITCZ có trục ngang qua khu vực Bắc Bộ. Tiếp theo đó là
giai đoạn suy yếu của GMMH diễn ra vào khoảng từ cuối tháng 8 đến cuối tháng
9, với sự dịch chuyển của ITCZ về phía Nam [16]. Tháng 10 là tháng chuyển tiếp
từ mùa hè sang mùa đông, với những diễn biến phức tạp của các hệ thống thời
tiết. Trong tháng 10, về cơ bản GMMH đã kết thúc, ITCZ ở khoảng 6oN [16].
Diễn biến mùa mưa ở nhiều vùng khí hậu cũng có sự tương đồng với hoạt
động của GMMH [16], sớm nhất vào cuối tháng 4 đến đầu tháng 5 ở Bắc Bộ, Tây
Nguyên và Nam Bộ. Ngược lại, diễn biến mưa là rất khác ở khu vực dải duyên
hải ven biển Trung Bộ. Các tháng đầu mùa là thời kỳ có lượng mưa rất thấp ở khu
vực Trung Bộ. Mùa mưa ở khu vực này bắt đầu diễn ra vào khoảng tháng 9 và
tăng rất nhanh, kéo dài đến tháng 11 - tháng 12 hoặc có thể đến tháng 1 năm sau.
Khu vực Bắc Trung Bộ, đỉnh điểm của mưa thường vào tháng 9 - tháng 10; vào
tháng 10 - tháng 11 ở Nam Trung Bộ. Một số nghiên cứu đã khẳng định, mưa ở
khu vực Trung Bộ chủ yếu do hoạt động của không khí lạnh và nhiễu động
(XTNĐ, ITCZ) mang lại [8, 16, 148]. Khu vực Tây Nguyên, mùa mưa gắn với
thời kỳ hoạt động của GMMH. Đối với khu vực Nam Bộ, mùa mưa vẫn tiếp tục
kéo dài khi mùa GMMH đã kết thúc [16].
8
1.2. Các nghiên cứu trên thế giới
1.2.1. Đánh giá biến động gió mùa mùa hè
Nghiên cứu biến động của GMMH là một chủ đề thu hút rất nhiều nhà khoa
học trên thế giới và được thực hiện từ rất sớm với những nghiên cứu đầu tiên được
thực hiện vào năm 1686 của Hadley. Rất nhiều nghiên cứu về biến động của
GMMH đã được thực hiện cho các khu vực gió mùa châu Á – TBD. Trong đó,
các nghiên cứu tập trung chủ yếu vào các loại biến động chính của GMMH [107]:
(1) Biến động nội mùa (Intraseasonal Variability - ISV); (2) Biến động năm
(Interannual Variability - IAV); (3) Biến động thập kỷ (Interdecadal Variability -
IDV). Đến nay, rất nhiều công trình nghiên cứu về biến động của GMMH ở khu
các khu vực GMMH điển hình đã được thực hiện. Mặc dù vậy, các nghiên cứu
biến động của các đặc trưng GMMH ở khu vực Đông Nam Á còn nhiều hạn chế
[90].
Biến động ISV: Biến động ISV của GMMH được thể hiện qua chu kỳ
tăng/giảm của đặc trưng GMMH so với trung bình mùa [105]. Nhìn chung, biến
động ISV của các đặc trưng GMMH là có tính biến động qua các năm; có năm
biến động ISV rõ ràng và cũng có năm biến động không nhiều [105]. Các nghiên
cứu biến động ISV của GMMH được thực hiện từ rất sớm, có thể kể đến nghiên
cứu cho khu vực Ấn Độ được thực hiện từ năm 1886 [37]. Trong nghiên cứu này,
biến động ISV của lượng mưa GMMH được cho rằng có quan hệ chặt chẽ với
biến động của hoàn lưu gió mực thấp. Năm 1971, dao động MJO được phát hiện
[76]. Từ đó, các nghiên cứu biến động ISV của GMMH được rất nhiều nhà khoa
học quan tâm [52, 105]. Một số nghiên cứu đã khẳng định, biến động ISV của
GMMH Ấn Độ gắn liền với dao động MJO [39, 40, 77, 105]. Biến động ISV được
thể hiện ràng qua các quá trình phát triển của GMMH (sự bắt đầu, tăng cường,
gián đoạn, cao điểm, hoạt động lại, kết thúc) [39, 52, 105]. Trên khu vực châu Á,
quá trình bắt đầu - tăng cường GMMH gắn liền với quá trình phát triển hoàn lưu
gió mực thấp, dải mưa [39, 86, 105] và các nhiễu động (ITCZ, xoáy thuận) [97,
105]. Ngược lại, giai đoạn xảy ra gián đoạn GMMH thường gắn liền với sự thay
9
đổi hoàn lưu và hình thành xoáy nghịch [97]. Mức độ biến động và quá trình dịch
chuyển của các đặc trưng GMMH thường được thể hiện một cách rõ nét thông
qua các phương pháp phân tích thống kê (độ lệch, phương sai, độ lệch tiêu chuẩn,
phân tích trực giao) so với trung bình mùa [39, 105]. Đối với các khu vực GMMH
châu Á - TBD, biến động ISV có những đặc điểm khác nhau ở quy mô lớn.
Biến động ISV của GMMH Ấn Độ được thể hiện qua diễn biến của đới gió
Tây Nam, dải mưa và ITCZ [105]. Quá trình bắt đầu - tăng cường thường trải qua
khoảng từ 3 đến 4 tuần để chi phối toàn bộ khu vực GMMH Ấn Độ (kể từ ngày
31 tháng 5 bắt đầu ở khu vực Kerala đến giữa tháng 6 để chi phối ở khu vực miền
Trung Pakistan). Trong giai đoạn đầu, ITCZ và rãnh gió mùa (MT) ở Nam Á dịch
chuyển lên phía Bắc cao hơn so với ở khu vực Tây Bắc TBD. Trong thời kỳ cao
điểm gió mùa, dải mưa do ITCZ và MT dịch chuyển lên phía Bắc; đồng thời hình
thành một dải mưa mới ở phía Nam (khu vực xích đạo) [52].
Biến động ISV của GMMH Đông Á được thể hiện qua biến động của hệ
thống front Meiyu - Baiu [39, 40, 105]. Đối với khu vực Tây Bắc TBD, biến động
ISV được phản ánh qua sự dịch chuyển của ITCZ [105]. Sự dịch chuyển của dải
mưa xích đạo và ITCZ diễn ra trong khoảng từ 5oN đến 25oN. Cường độ GMMH
đạt cực đại khi ITCZ dịch chuyển cao nhất lên phía Bắc vào tháng 7 (khoảng
25oN). Khi đó, áp cao Bắc TBD dịch chuyển lên phía Bắc. Đồng thời, xuất hiện
một dải mưa nằm ở phía Bắc trục ITCZ, dải mưa này được tách ra từ ITCZ. Sau
khi tách ra từ ITCZ, dải mưa này tiếp tục dịch chuyển nhảy vọt đi lên phía Bắc
[86]. Biến động ISV của dải mưa này trải qua 3 giai đoạn duy trì ổn định và 2 giai
đoạn nhảy vọt [47]. Sự nhảy vọt của dải mưa này gắn liền với biến động hoàn lưu
quy mô lớn trong hệ thống front Meiyu-Baiu, dòng xiết gió Tây trên cao và áp
cao Bắc TBD. Trong giai đoạn phát triển ổn định, dải mưa này gây ra lượng mưa
nhiều nhất và là thời kỳ cao điểm mùa mưa (các lần cực đại lượng mưa). Trong
đó, lần cực đại đầu tiên xuất hiện vào khoảng từ tháng 5 đến giữa tháng 6, là thời
kỳ đầu mùa mưa ở khu vực Đông Nam Trung Quốc - Đài Loan. Giai đoạn cực đại
thứ hai xảy ra vào khoảng từ giữa tháng 6 đến giữa tháng 7, là mùa mưa Meiyu -
10
Baiu - Changma. Giai đoạn cực đại thứ 3 xảy ra vào khoảng từ giữa tháng 7 đến
giữa tháng 8, là giai đoạn mùa mưa ở Đông Bắc Trung Quốc và Tây Bắc TBD.
Kể từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 9, dải mưa GMMH dịch chuyển nhanh xuống
phía Nam Trung Quốc, đánh dấu giai đoạn kết thúc GMMH Đông Á [47]. Nhìn
chung, mùa mưa ở khu vực Đông Á ngắn và cường độ mưa yếu hơn khu vực Nam
Á và Tây Bắc TBD [109].
Biến động IAV: Biến động IAV của GMMH là sự thay đổi hàng năm so
với trạng thái trung bình nhiều năm [119]. Trên khu vực gió mùa châu Á - TBD,
biến động IAV của GMMH có sự phân hóa theo không gian. Do vậy, hình thành
các hệ thống GMMH khác nhau trên khu vực [106]. Trên khu vực GMMH châu
Á - TBD, biến động IAV của lượng mưa chịu sự chi phối rõ ràng bởi biến động
của các đặc trưng quy mô lớn [48, 119]. Mối quan hệ thống kê giữa hoàn lưu
GMMH và hệ quả mưa là căn cứ quan trọng trong xây dựng mô hình thống kê dự
báo khí hậu mùa [52, 70]. Về tính chất, biến động IAV của GMMH là dạng dao
động tựa hai năm một lần (TBO) [119]. Về mặt định lượng, mức độ biến động
IAV thường được xác định thông qua các đặc trưng thống kê như độ lệch (dị
thường), độ lệch tiêu chuẩn, biến suất, phương sai [46].
Các nghiên cứu đầu tiên về biến động IAV của GMMH chủ yếu tập trung
ở khu vực GMMH Ấn Độ. Tiếp đó, nhiều nghiên cứu biến động IAV của GMMH
Đông Á và TBTBD [46, 119]. Tổng hợp từ các nghiên cứu cho thấy, các đặc trưng
chủ yếu được xác định thông qua chỉ số GMMH (bắt đầu, kết thúc, gián đoạn, độ
dài mùa), các đặc trưng quy mô lớn (hoàn lưu, đối lưu) và hệ quả mưa. Bên cạnh
đó, các nghiên cứu biến động IAV cũng thường xem xét đến các nhân tố tác động
như các trung tâm khí áp (áp cao Bắc TBD, áp thấp Nam Á, áp cao BCN) hoặc
các nhân tố khác (ENSO, SST, TBO, MJO). Đặc biệt, một số nghiên cứu gần đây
có xem xét vấn đề tác động của sự gia tăng nồng độ KNK gây ấm lên toàn cầu với
biến động IAV của GMMH [119].
ENSO được xem là nhân tố quan trọng gây ra biến động IAV của GMMH
[34, 69, 71, 90, 99, 116, 117]. Tác động của ENSO đến biến động của GMMH
11
cũng có sự phân hóa theo không gian [34, 119]. Tác động của ENSO đến hoạt
động của GMMH thông qua cơ chế trong mô hình phân lớp vận tải ẩm ở khu vực
châu Á - TBD trong hoàn lưu Walker [115, 116]. Một số nghiên cứu cho thấy,
mối quan hệ giữa ENSO và biến động GMMH ở có xu thế yếu đi [70], đặc biệt là
ở khu vực GMMH Ấn Độ [67, 71]. Trên khu vực Tây Bắc TBD, mối quan hệ của
ENSO với hoạt động của GMMH được duy trì ổn định hơn [109]. Trên khu vực
Đông Nam Á, một số nghiên cứu đánh giá biến động IAV của GMMH đã được
thực hiện ở Indonesia [57] và Thái Lan [90].
Biến động IDV: Biến động IDV thường được xem xét trong một thời gian
dài, lên tới hàng trăm năm [46, 53, 54]. Các nghiên cứu biến động IDV của
GMMH trên khu vực châu Á - TBD đã được thực hiện từ khá sớm [38, 84, 99,
117]. Yêu cầu quan trọng trong các nghiên cứu biến động IDV là bộ số liệu phải
đủ dài. Do vậy, số lượng các nghiên cứu biến động IDV của GMMH còn nhiều
hạn chế hơn so với ở quy mô nội mùa và năm [53, 54]. Thực tế, số liệu quan trắc
bề mặt (nhiệt độ, lượng mưa) có thể kéo dài đến trên 140 năm. Tuy nhiên, số liệu
khí quyển chỉ kéo dài khoảng 50 năm [46].
Biến động IDV được cho là nhân tố chi phối biến động IAV của các đặc
trưng GMMH [53, 122]. Do vậy, các nghiên cứu biến động IDV của GMMH có
vai trò quan trọng đối với bài toán dự báo mùa. Tỷ trọng đóng góp của biến động
IDV đối với biến động IAV của GMMH châu Á là khoảng 20 đến 35% [122].
Đánh giá dựa trên số liệu thời kỳ 1871 – 2000 cho thấy, biến động IDV của
GMMH Ấn Độ có chu kỳ khoảng 55 - 60 năm [53]. Biến động IDV của GMMH
Đông Á có chu kỳ 60 - 70 năm [46]. Sự gia tăng biến động IDV của GMMH Đông
Á được nhận thấy rõ ràng vào các thập kỷ 1960s, 1970s và 1990s [46].
Tóm tắt kết quả từ một số nghiên cứu tiêu biểu:
Thông qua việc sử dụng chỉ số thống kê (STD và Cv), biến động của
GMMH Ấn Độ đã được đánh giá [85]. Các tác giả cho rằng, biến động ISV là một
đặc điểm rất nổi bật của GMMH Ấn Độ và không ổn định qua các năm. Trong
giai đoạn nghiên cứu, biến động IAV và IDV mạnh mẽ xảy ra trong nhiều giai
12
đoạn. Một số tác giả khác so sánh biến động ISV với IAV ở khu vực GMMH châu
Á - TBD (Hình 1.3) [105]. Các tác giả cho rằng, biến động ISV và IAV lượng
mưa GMMH diễn ra mạnh mẽ nhất trong khu vực dưới 20oN. Trong đó, biến động
ISV là mạnh mé hơn rõ ràng so với IAV, với chênh lệch chỉ số STD từ 0 đến 2,0
mm/ngày.
Biến động ISV của GMMH Ấn Độ được thể hiện qua sự dịch chuyển của
dải mây đối lưu từ vùng vĩ độ thấp đi lên vĩ độ cao có chu kỳ khoảng 20 - 25 ngày
[105]. Hình 1.3a cho thấy, dải mây đối lưu gần như không phát triển ở khu vực
Ấn Độ trước khi GMMH bắt đầu. Trong thời gian này, dải mây đối lưu chủ yếu
phát triển ở khu vực từ 10oS đến 5oN. Điều này cho thấy, ITCZ thống trị ở khu
vực xích đạo và chưa ảnh hưởng đến khu vực đất liền. Từ cuối tháng 5 đến cuối
tháng 6, dải mây đối lưu phát triển rất mạnh mẽ ở khu vực 10 - 20oN. Thời gian
này là thời kỳ bắt đầu-tăng cường GMMH Ấn Độ, dải mây đối lưu phát triển mạnh
và tồn tại ở khu vực phía Nam trong khoảng 20 - 25 ngày. Đến giữa tháng 7 là
thời kỳ phát triển mạnh mẽ của GMMH Ấn Độ, dải mây này có thể phát triển lên
đến khoảng 30oN. Tuy nhiên, trong thời kỳ cao điểm của GMMH là thời kỳ suy
giảm mây đối lưu ở phía Nam của Ấn Độ (Hình 1.3a) [105].
Trên khu vực Đông Á, từ đầu tháng 5, hình thành dải mây Meiu - Baiu sớm
nhất ở phía Nam Trung Quốc, sau đó mở rộng dần lên phía Bắc, lên tới 40oN vào
khoảng giữa tháng 7. Khi dải mây lên vĩ độ cao nhất, là thời kỳ bắt đầu suy giảm
ở khu vực phía Nam Trung Quốc, theo thời gian sự suy giảm này lan tới 40oN vào
đầu tháng 8, cũng là thời kỳ bắt đầu kết thúc GMMH ở khu vực Nhật Bản - Hàn
Quốc. Ngay sau khi đạt đỉnh và suy yếu, dải mây này dịch chuyển xuống phía
Nam (Hình 1.3b) [105].
Như vậy, biến động ISV của GMMH ở Ấn Độ và Đông Á có dạng hai cực
đại và hai cực tiểu. Trên khu vực GMMH Ấn Độ, cực đại chính xảy ra từ cuối
tháng 5 đến gần cuối tháng 6 ở khu vực 5oN - 20oN; sau đó, dải mây này mở rộng
dần lên phía Bắc lên tới 30oN vào giữa tháng 7. Cực đại thứ hai xuất hiện vào
khoảng đầu tháng 8 ở phía Nam và mở rộng lên tới khoảng 25oN. Xen kẽ hai cực
13
đại là hai thời kỳ cực tiểu của dải mây GMMH. Trên khu vực Đông Á, dải mây
Mei - Baiu xuất hiện từ khoảng giữa tháng 5 ở Nam Trung Quốc, mở rộng dần
lên đến 40oN (vào khoảng giữa tháng 7). Cực đại thứ hai xuất hiện ở phía Nam
vào thời kỳ rút lui GMMH (bắt đầu từ đầu tháng 8). Thời kỳ cực tiểu xảy ra vào
trước khi đạt cực đại lần đầu và giữa hai lần cực đại.
Hình 1.3. Biểu đồ Hovmoeller mô tả diễn biến của dải mây đối lưu trên khu vực
(a) 80oE - 90oE (Ấn Độ) và (b) 125oE-135oE (Đông Á). Khoảng cách giữa các
đường contour là 0,02. Vùng đổ màu sáng và màu đen lần lượt tương ứng với
phần mây 0,02 -0,06 và lớn hơn 0,06 (Nguồn: Waliser, D. E. 2006) [105]
Đặc điểm biến động ISV của lượng mưa GMMH trên khu vực châu Á - TBD
được minh họa trên Hình 1.4 cho thấy [105], thời điểm 12,5 ngày (-12,5 ngày) trước
khi bùng phát mưa, gió Tây ở mực 850hPa chưa hoạt động ở khu vực Nam Á và áp
cao Bắc TBD hoạt động. Trong thời gian này, lượng mưa thấp hơn so với trung bình
mùa ở hầu hết khu vực Nam Á. Lượng mưa lớn hơn so với trung bình mùa xảy ra ở
14
khu vực Biển Đông mở rộng sang phía Đông Philippine (Hình 1.4a). Độ lệch của
z500 cho thấy hình thành một vùng thấp ở Bắc Biển Đông. Ở mực 200hPa, gió Đông
phát triển khá mạnh từ Biển Đông đến Trung tâm TBD (Hình 1.4b). Sang thời điểm
bùng phát (0 ngày), hình thế nổi bật là sự đảo ngược phân bố theo không gian của độ
lệch lượng mưa so với thời điểm trước. Vùng có lượng mưa lớn hơn trung bình mùa
bắt đầu xuất hiện ở khu vực xích đạo ÂĐD; thấp hơn xảy ra ở khu vực lục địa Ấn
Độ mở rộng đến phía Đông Philippine. Trong thời gian này, hình thành dòng vượt
xích đạo ở mực 850hPa. Tuy nhiên, đới gió Tây mực 850hPa vẫn yếu hơn so với
trung bình mùa (Hình 1.4a). Độ lệch của z500 hình thành vùng xoáy nghịch chi phối
ở khu vực từ Ấn Độ mở rộng sang Biển Đông. Ở mực 200hPa, hoàn lưu gió đảo
ngược hoàn toàn so với thời điểm 12,5 ngày. Sang thời điểm 12,5 ngày (+12,5 ngày),
hình thế cơ bản của pha hoạt động vẫn tiếp tục được duy trì. Tuy nhiên, vùng chuẩn
sai dương của lượng mưa được mở rộng hơn lên phía Bắc, vùng chuẩn sai âm thu
hẹp lại, vùng áp cao dịch chuyển dần lên phía Bắc. Sau 25 ngày (+25 ngày) so với
thời điểm bắt đầu hoạt động, hình thế của pha trước pha hoạt động (-12,5 ngày) lại
được lặp lại. Như vậy, biến động ISV được thể hiện rất rõ nét với chu kỳ giữa pha
hoạt động và pha gián đoạn là khoảng 25 ngày [105].
15
Hình 1.5. Diễn biến độ lệch của một số đặc trưng so với trung bình mùa: a)
Lượng mưa (mm/ngày, đổ màu), gió mức 850hPa (m/s, mũi tên); b) Độ cao
z500 (m, đổ màu) và gió mức 200hPa (m/s, mũi tên). Trong đó: “0 ngày” là thời
điểm bùng phát mưa GMMH; “-12,5 ngày”, “+12,5 ngày” và “+25 ngày” lần
lượt tương ứng với trước 12,5 ngày, sau 12,5 và sau 25 ngày so với thời điểm
bắt đầu bùng phát mưa GMMH (Nguồn: Waliser, D. E. 2006) [105]
Biến động của GMMH Ấn Độ được thực hiện thông qua phân tích diễn
biến lượng mưa các thời điểm trước, trong và sau khi bùng phát mưa gió mùa
(Hình 1.6). Chỉ tiêu xác định các pha hoạt động khác nhau của GMMH được thực
hiện dựa trên lượng mưa trung bình mùa GMMH (từ tháng 6 đến tháng 9). Biến
động ISV của GMMH có chu kỳ khoảng 30 - 60 ngày. Biến động IAV có sự phân
hóa theo không gian, với độ dài mùa lớn nhất là 103 ngày ở Đông Bắc và ngắn
nhất là 75 - 78 ngày ở khu vực Trung tâm. Biến động IAV của lượng mưa GMMH
diễn ra mạnh mẽ nhất ở các khu vực phía Bắc, với STD lượng mưa dao động từ
16
113mm đến 132mm; ít biến động nhất ở khu vực phía Nam, với STD của lượng
mưa đạt giá trị 98mm. Kết quả đánh giá biến động IDV của lượng mưa GMMH
cho thấy, thời kỳ biến động mạnh từ 1930 đến 1965 và biến động yếu từ 1895 đến
1930 [85].
Hình 1.6. Biến động nội mùa (trước hoạt động, hoạt động và sau hoạt động) của
GMMH Ấn Độ được xác định thông qua lượng mưa ngày (mm). Đường thẳng -
liền nét là lượng mưa trong mùa GMMH trung bình nhiều năm ở các vùng khí
hậu Ấn Độ (Nguồn: Munot, A.A và nnk, 2000) [85]
17
Trên khu vực GMMH Đông Á, biến động ISV của lượng mưa GMMH được
đánh giá theo số liệu mưa CMAP (Hình 1.7). Biến động của lượng mưa GMMH
Đông Á được thể hiện qua các đặc điểm sau [39]:
- Bắt đầu hoạt động xảy ra sớm nhất vào giữa đến cuối tháng 5 ở khu vực
Nam Trung Quốc và Đài Loan; đến đầu hoặc giữa tháng 6 ở khu vực Nam Nhật
Bản và khu vực sông Dương Tử; muộn nhất vào cuối tháng 6 hoặc đầu tháng 7 ở
Bắc Trung Quốc, Hàn Quốc và Bắc Nhật Bản.
- Thời kỳ gián đoạn (break) diễn ra trong khoảng 1 tháng, kéo dài từ cuối
tháng 6 đến giữa tháng 7 ở khu vực Nam Trung Quốc và Đài Loan; từ cuối tháng
7 đến đầu tháng 8 ở khu vực sông Dương Tử và Nam Trung Quốc; và khoảng nửa
tháng ở khu vực Bắc Trung Quốc, Hàn Quốc và Bắc Nhật Bản.
- Thời kỳ hoạt động lại (revival) diễn sau ngay sau thời kỳ gián đoạn mưa
GMMH, kéo dài từ tháng 8 đến tháng 9 - tháng 10.
Theo các tác giả [39], nguyên nhân gây ra biến động ở khu vực Đông Á là
do hệ thống front Meiu-Baiu và XTNĐ. Khu vực Nam Trung Quốc - Đài Loan,
vai trò của hệ thống front vĩ độ trung bình đóng vai trò quyết định đối với bắt đầu
mùa mưa GMMH. Tuy nhiên, XTNĐ là nhân tố quyết định đối với giai đoạn hoạt
động lại của mưa GMMH. Khu vực Hàn Quốc, gián đoạn GMMH xảy ra trong
khoảng 2 tuần, trùng với thời điểm suy yếu của hệ thống front Changma và giai
đoạn hoạt động lại cũng là thời kỳ hoạt động mạnh của front Changma. Khu vực
Nhật Bản, biến động của mưa GMMH gắn liền với hoạt động của hệ thống front
Baiu và XTNĐ.
18
Hình 1.7. Phân bố vĩ hướng-thời gian của lượng mưa CMAP cho các khu vực
(a) 120o-125oE, (b) 125o-130oE, và (c)130o-140oE; và biểu đồ lượng mưa các
khu vực tương ứng (d) Đài Loan (20oN-25oN, 120oE–125oE), (e) Hà Quốc
(35oN-40oN, 125oE-130oE), và (f ) Nhật Bản (32,5oN- 40oN, 130oE-140oE). Các
pha khác nhau của gió mùa mùa hè ở các khu vực được xác định bởi hoạt động
(active), gián đoạn (break) và hoạt động lại (revival). Khoảng cách các đường
đẳng trị mưa là 1mm/ngày, các vùng tô màu là vùng có lượng mưa lớn hơn
5mm/ngày (Nguồn: Chen, S và nnk, 2004) [39].
Mô hình Markov (HMM) được ứng dụng trong đánh giá biến động ISV và
IAV của GMMH châu Á [121]. Chỉ tiêu về lượng mưa quy mô hậu được sử dụng
để đại diện cho hoạt động của GMMH châu Á. Các tác giả cho rằng, HMM là một
công cụ phù hợp cho việc xác định sóng chính trong mùa GMMH châu Á. Biến
19
động ISV của GMMH châu Á lan truyền theo hướng mở rộng về phía Đông - Bắc,
với dạng sóng có chu kỳ 40 - 50 ngày. Mức độ biến động ISV được thể hiện qua
kết quả tính toán phương sai của lượng mưa. Kết quả nghiên cứu này cũng phù
hợp với các tác giả trước đó dựa theo số liệu OLR (Lau và Chan, 1986; Lawrence
và Webster, 2001). Đối với biến động IAV, các đánh giá tập trung vào biến động
trong các pha ENSO (dựa trên chỉ số Nino3.4). Dị thường thiếu hụt mưa trong
mùa hè El Nino là rõ ràng. Tuy nhiên, dị thường mưa không có xu thế rõ ràng
trong mùa hè La Nina.
1.2.2. Dự tính biến động của các đặc trưng gió mùa mùa hè
Hệ thống khí hậu toàn cầu được dự tính có những thay đổi đáng kể trong
tương lai. Đến cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình toàn cầu có thể tăng thêm 4oC
so với thời kỳ cơ sở theo kịch bản RCP8.5 [62]. Sự gia tăng nồng độ khí nhà kính
theo các kịch bản phát thải có tác động đến biến động GMMH [36, 62, 67, 79,
82]. Cùng với xu thế ấm lên toàn cầu trong tương lai theo các kịch bản, hoạt động
của GMMH châu Á được dự tính biến đổi khác nhau ở các khu vực. Theo IPCC,
thời điểm bắt đầu gió mùa mùa hè sớm hơn và kết thúc muộn hơn dẫn đến sự
chậm pha của mùa mưa [62]. Nhìn chung, các nhận định về biến động của GMMH
trong tương lai theo các phương án kịch bản nồng độ KNK còn ở mức độ chưa
chắc chắn cao [32, 62]. Điều này là do sự không đồng nhất cao giữa các phương
án mô hình trong dự tính biến động GMMH [32, 61, 62, 70, 78]. Hay nói cách
khác, vẫn tồn tại hạn chế trong việc nắm bắt được các quá trình động lực có thể
dẫn đến sự thay đổi của hệ thống khí hậu của các mô hình. Ví dụ như các mô hình
chưa nắm bắt được các quá trình hồi tiếp trong khí quyển do sự gia tăng nồng độ
KNK. Do vậy, dẫn đến sự sai khác nhau giữa các kết quả mô hình và có thể là các
kết quả chưa chính xác. Hơn nữa, tính chưa chắc chắn ở đây còn liên quan đến
tính chưa chắc chắn của các kịch bản nồng độ KNK.
Nhiều nghiên cứu so sánh chất lượng mô phỏng khí hậu bằng hệ thống mô
hình CMIP5 và CMIP3 đã được thực hiện [62, 74, 98, 101, 110]. Những cải tiến
rõ ràng về mặt vật lý mô hình, sơ đồ sol khí và độ phân giải đã được công bố
20
[101], cùng với các đánh giá kỹ năng mô phỏng của hệ thống mô hình CMIP5.
Kỹ năng nắm bắt hoạt động của GMMH châu Á, Úc và Tây Bắc TBD trong mô
hình CMIP5 đã được cải thiện đáng kể so với CMIP3 [74, 110].
Do khác nhau về phân bố lục địa - đại dương và các nhân tố địa phương,
biến đổi của GMMH trong tương lai do sự ấm lên toàn cầu là không đồng nhất
giữa các khu vực [32, 41, 51, 102]. Xu thế chung là lượng mưa GMMH được dự
tính gia tăng cùng với sự ấm lên toàn cầu theo các kịch bản nồng độ KNK. Đồng
thời, lượng ẩm trong khí quyển và biến động lượng mưa GMMH được dự tính gia
tăng trong tương lai [41, 60, 68, 70, 79, 81]. Tuy nhiên, dòng vượt xích đạo và
hoàn lưu kinh hướng vùng nhiệt đới trong mùa GMMH được dự tính yếu đi [100,
103]. Các tác giả cho rằng, sự gia tăng lượng ẩm trong bầu khí quyển khiến lượng
mưa tăng. Dòng vượt xích đạo và hoàn lưu kinh hướng hướng vùng nhiệt đới giảm
là do gradient nhiệt độ kinh hướng giảm (nhân tố nhiệt lực) [32]. Sự ấm lên của
các đại dương khiến gia tăng hội tụ ẩm ở mực thấp và gia tăng lượng mưa trong
mùa GMMH ngay cả khi hoạt động của đới gió Tây Nam yếu đi [43, 80, 103].
Các hiện tượng cực đoan do mưa lớn trong mùa GMMH cũng được dự tính gia
tăng trong tương lai theo các kịch bản KNK [32, 33, 60, 66, 74]. Biến động lượng
mưa trong mùa GMMH ở ngưỡng mưa nhỏ đến trung bình không có xu thế biến
đổi rõ ràng [55, 67]. Bên cạnh đó, một số nhận định cho thấy nguy cơ mùa hè sẽ
khô hơn trong tương lai do quá trình hồi tiếp động lực (dynamical feedback) trong
bối cảnh gia tăng nồng độ KNK [33, 36].
Hầu hết các nghiên cứu tập trung vào dự tính biến động IAV của GMMH.
Trong khi đó, rất ít các nghiên cứu đánh giá về biến động ISV. Một trong số các
nghiên cứu biến động ISV của một số đặc trưng GMMH đã được thực hiện dựa
vào các kết quả mô hình CMIP3 [78], dự tính gián đoạn GMMH tăng cường về
tần suất và độ dài. Sau này, với những cái tiến đáng kể của hệ thống mô hình
CMIP5, nhiều nghiên cứu dự tính biến động GMMH đã được thực hiện. Kết quả
tổ hợp 20 mô hình CMIP5 [74] vào cuối thế kỷ 21 cho thấy, gió mùa mùa hè Châu
Á có xu thế bắt đầu sớm hơn và kết thúc muộn hơn so với hiện tại. Đồng thời
21
cường độ gió mùa mùa hè vào cuối thế kỷ cũng mạnh hơn. Vùng hoạt động của
gió mùa sẽ mở rộng sang phía Đông. Sự biến động này có tương quan chặt chẽ
với sự biến động của ENSO. Lượng mưa và các hiện tượng cực đoan mưa lớn
trong mùa GMMH được dự tính gia tăng; tăng nhiều nhất theo kịch bản RCP8.5
[66]. Trên khu vực Đông Á, dự tính biến động theo kịch bản RCP4.5 và RCP8.5
[93] cho thấy, biến động ISV của GMMH gia tăng trong tương lai. Kết quả nghiên
cứu cho thấy, biến động IAV của lượng mưa GMMH được dự tính gia tăng về
cường độ và mức độ biến động. Thời điểm chuyển mùa diễn ra đột ngột hơn tại
thời điểm bắt đầu. Tuy nhiên, thời điểm bắt đầu sớm/muộn và mức độ biến động
của thời điểm bắt đầu được dự tính không biến đổi rõ ràng so với thời kỳ cơ sở.
Dự tính biến động IAV của GMMH ở khu vực Ấn Độ vào cuối thế kỷ 21
theo kịch bản RCP8.5 từ sản phẩm của 20 mô hình CMIP5 [82] đã sử dụng chỉ
tiêu về lượng mưa đại diện cho hoạt động của GMMH. Chỉ số thống kê STD được
sử dụng để xác định mức độ biến động IAV của GMMH. Dự tính biến động IAV
của GMMH được thực hiện bằng cách so sánh chỉ số STD trong tương lai (2050-
2100) với STD trong quá khứ (1900-1950). Minh họa kết quả được trình bày trên
Hình 1.8 cho thấy hầu hết các phương án (17/20 phương án mô hình) đều dự tính
gia tăng biến động GMMH vào nửa cuối thế kỷ 21 so với thời kỳ quá khứ. Trong
đó, biến động IAV được dự tính gia tăng đáng kể nhất theo kịch bản RCP8.5, với
mức độ tăng của chỉ số STD lên tới 60% (theo phương án mô hình: FGOALS-s2,
BCC-CSM1.1, HadGEM2-ES). Mức độ biến động IAV của GMMH là thấp hơn
hoặc thậm chí giảm theo các phương án kịch bản RCP2.6 và RCP4.5.
22
Hình 1.8. Dự tính biến đổi (%) của chỉ số STD (ký hiệu là std) lượng mưa
GMMH vào nửa cuối thế kỷ 21 (2050-2100) so với nửa đầu thế kỷ 20 (1900-
1950) theo kịch bản RCP8.5 (đỏ), RCP6.0 (cảm), RCP4.5 (xanh lá cây), RCP2.6
(xanh lam) (Nguồn: Menon, A và nnk, 2013) [82]
Trên cơ sở 20 mô hình CMIP5 như trong nghiên cứu [82], một số tác giả
khác đã thực hiện đánh giá mô phỏng khí hậu thời kỳ 1951-1999 và lựa chọn 4
phương án mô hình có kỹ năng mô phỏng tốt nhất để thực hiện dự tính biến động
ISV và IAV của GMMH ở khu vực Ấn Độ thời kỳ 2051-2099 theo kịch bản
RCP8.5 [95]. Trong nghiên cứu này, các tác giả đã lựa chọn 4 phương án mô hình
23
và 1 phương án tổ hợp để đưa ra dự tính biến động. Cùng với sự gia tăng nồng độ
KNK theo kịch bản RCP8.5, biến động IAV của GMMH được dự tính gia tăng
vào nửa cuối thế kỷ 21 so với thời kỳ quá khứ. Kết quả này là phù hợp với nghiên
cứu của các tác giả trước đó [82] cho khu vực Ấn Độ. Mức độ biến động IAV
được dự tính gia tăng trong cả trường hợp GMMH hoạt động mạnh và GMMH
hoạt động yếu (Hình 1.8). Một điểm đáng lưu ý, gia tăng biến động GMMH có
thể liên quan đến tác động của tác động của sự ấm lên toàn cầu đối với hoạt động
của ENSO [95] đã được đề cập đến trong nghiên cứu khác.
Hình 1.8. Dự tính biến động IAV của chỉ số GMMH (%) trong thời kỳ 2051-
2099 so với thời kỳ 1951-1999 theo kịch bản RCP8.5 trong các năm có cường
độ GMMH mạnh và yếu (mạnh - màu xanh; yếu - màu đỏ) từ 4 phương án mô
hình và phương án tổ hợp (B4MMM) (Nguồn: S. Sharmila và nnk, 2015) [95]
Trên cơ sở chỉ số RI [95], biến động ISV của GMMH Ấn Độ được dự tính
gia tăng trong tương lai do sự gia tăng của các hiện tượng cực đoan mưa lớn. Kết
quả dự tính biến động ISV cho thấy, gia tăng biến động đối với mưa vừa (RI trong
khoảng 10-40 mm/ngày) và mưa lớn (RI lớn hơn 40 mm/ngày); giảm biến động
đối với mưa nhỏ (RI nhỏ hơn 10 mm/ngày). Bên cạnh đó, tính toán đối với dao
động 10-90 ngày cho thấy, chu kỳ dưới 30 ngày được dự tính giảm; tăng với chu
kỳ trên 30 ngày. Số đợt hoạt động của GMMH ở quy mô thời gian ngắn được dự
24
tính giảm từ 5 đến 15%; tăng từ 8 đến 18% đối với số đợt có quy mô thời gian dài
hơn. Số đợt gián đoạn GMMH ở quy mô thời gian ngắn và dài đều được dự tính
gia tăng, với mức tăng từ 10 đến 20%.
Một số nghiên cứu khác sử dụng mô hình khí hậu khu vực (RCM) trong
nghiên cứu dự tính biến động GMMH ở khu vực Đông Á [58] và Đông Nam Á
[35]. Với mô phỏng (1976-2005) và dự tính (2070-2099) bằng mô hình RegCM4
sử dụng số liệu đầu vào từ GFDL-ESM2M theo kịch bản RCP4.5 và RCP8.5 [58]
cho thấy, lượng mưa và mức độ biến động được dự tính gia tăng trong tương lai
ở Đông Á. Trên khu vực Đông Nam Á, lượng mưa trong thế kỷ 21 được dự tính
là tăng lên ở phần phía Bắc (từ vĩ tuyến 20o Bắc trở ra); giảm đi ở phía Nam; gió
Tây mực 850hPa được tăng cường [35].
1.3. Các nghiên cứu ở trong nước
Nghiên cứu GMMH là một chủ đề khoa học quan trọng và thu hút nhiều
nhà khoa học trong nước quan tâm. Các nghiên cứu đầu tiên được thực hiện từ rất
sớm và đã đúc kết được những nét đặc trưng cơ bản của GMMH ở Việt Nam [27].
Sau này, nhiều nghiên cứu khác đã được thực hiện dựa trên bộ số liệu dài hơn và
đầy đủ hơn. Hoạt động của GMMH có liên quan chặt chẽ với hoạt động của các
trung tâm tác động [1, 11, 13, 17, 22, 28, 29]. Trong các chủ đề về GMMH, chủ
đề nghiên cứu thời điểm bắt đầu hoạt động [5, 24, 49, 118] và bắt đầu mùa mưa
[6, 50] đã thu hút nhiều nhà khoa học. Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu đã đề cập
đến vấn đề về hệ quả mưa GMMH [6, 44] và mối quan hệ với ENSO [2, 15, 16,
25, 26]. Một số nghiên cứu đã đề xuất chỉ tiêu và chỉ số xác định đặc trưng GMMH
ở khu vực Việt Nam [5, 18, 19, 12, 25, 49, 44, 118], cũng như dự báo hoạt động
của GMMH [10].
1.3.1. Các nghiên cứu về đánh giá biến động của gió mùa mùa hè
Nghiên cứu đánh giá biến động GMMH là một khía cạnh vẫn còn khá mới
mẻ, nổi bật hơn cả là các đánh giá biến động IAV trong các pha ENSO. Tác động
của ENSO đến GMMH là quá trình tác động gián tiếp thông qua sự biến đổi của
hoàn lưu Walker [15]. Các nghiên cứu đã cho thấy, hoàn lưu Walker hoạt động
25
mạnh hơn trong pha La Nina và yếu hơn trong pha El Nino. Những thay đổi về
hoàn lưu quy mô lớn tương ứng với các pha ENSO, dẫn đến những hệ quả thời
tiết khác nhau và tác động của các pha ENSO thường mang tính trễ pha [26]. Biến
động ISV của hoàn lưu GMMH cũng đã được đề cập thông qua đánh giá quá trình
tăng cường/suy yếu gió mùa Tây Nam [7] và các chỉ số gió mùa [2, 25, 26]. Tuy
nhiên, các nghiên cứu này chỉ đánh giá cho khu vực nhỏ [25, 26] hoặc sử dụng
chỉ số chưa kiểm chứng tính phù hợp [2].
Trên cơ sở số liệu mưa CMAP, hoàn lưu gió và OLR của NCEP/NCAR,
các đánh giá tác động của ENSO đến biến động của GMMH ở khu vực Nam Bộ
[26] cho thấy, có sự ảnh hưởng trễ pha từ 1 đến 3 tháng của ENSO đến biến động
GMMH và lượng mưa. GMMH biến động mạnh hơn trong giai đoạn hậu ENSO
so với giai đoạn ENSO phát triển. Lượng mưa GMMH giảm trong mùa hè El Nino
và tăng trong mùa hè La Nina; tuy nhiên tác động của ENSO không đồng đều giữa
các tháng. Trong những năm ENSO được thiết lập, biến động lượng mưa GMMH
có sự phân hóa giữa khu vực Đông và Tây Nam Bộ.
Nghiên cứu dựa trên số liệu U850hPa của NCAR/NCEP thời kỳ 1950 -
2010, các đặc trưng GMMH có biến động qua các năm [2]. Trong đó, ngày bắt
đầu GMMH có xu thế đến sớm và ngày kết thúc có xu thế đến muộn dần, dẫn đến
độ dài mùa có xu thế gia tăng. Số nhịp GMMH có xu thế tăng, nhưng không rõ
ràng; cực đại số nhịp là 18 và 13 vào các năm 1998 và 2010; cực tiểu số nhịp là 2
và đều xảy ra vào thời kỳ đầu và giữa giai đoạn nghiên cứu. Tác giả cũng cho
rằng, cường độ GMMH có xu thế yếu dần và biến động mạnh mẽ qua các năm.
1.3.2. Các nghiên cứu về dự tính biến động gió mùa mùa hè
Ở Việt Nam, bài toán dự tính khí hậu được quan tâm nghiên cứu với các
kết quả dự tính chủ yếu dựa vào mô hình thống kê. Cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học tính toán, nhiều nghiên cứu dự tính khí hâ dựa trên các phương
án mô hình động lực hiện đại đã được thực hiện [3, 9, 65]. Gần đây, các kết quả
nghiên cứu dự tính khí hậu bằng mô hình động lực đã được công bố trong kịch
bản quốc gia về biến đổi khí hậu [19].
26
Một trong những nghiên cứu dự tính GMMH đầu tiên cho khu vực Việt
Nam được thực hiện năm 2014 [65]. Trong nghiên cứu này, dự tính biến đổi thời
điểm bắt đầu và lượng mưa gió mùa được tính toán theo kết quả mô phỏng (1986-
2005) và dự tính (2045 - 2065; 2080 - 2099) với kịch bản RCP8.5 từ sản phẩm
mô hình CSIRO/CCAM. Chỉ tiêu được sử dụng để xác định thời điểm bắt đầu
GMMH dựa trên trung bình trượt 5 ngày của U850hPa và lượng mưa. Cụ thể, chỉ
tiêu xác định thời điểm bắt đầu: (1) Lượng mưa trung bình 5 ngày (mm/ngày) lớn
hơn giá trị ở ngưỡng phân vị 50% thời kỳ 1986-2005; (2) Trung bình 5 ngày của
U850hPa là gió Tây (giá trị dương); (3) Cả hai chỉ tiêu nêu trên phải kéo dài trong
5 ngày liên tục. Chỉ tiêu đánh giá mức độ biến động là chỉ số STD cho 7 vùng khí
hậu Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu cho thấy [65], cường độ có xu thế giảm và thời điểm
bắt đầu GMMH có xu thế đến sớm hơn vào giữa và cuối thế kỷ 21 so với thời kỳ
cơ sở. Tuy nhiên, mức độ biến đổi của thời điểm bắt đầu GMMH được dự tính là
không thay đổi đáng kể. Thời điểm bắt đầu được dự tính biến đổi nhiều nhất vào
giữa thế kỷ 21 là sớm hơn 6 ngày ở khu vực Bắc Trung Bộ. Mùa mưa được dự
tính ngắn lại ở các thời kỳ trong tương lai do thời điểm kết thúc đến sớm. Mức độ
giảm của độ dài mùa GMMH vào cuối thế kỷ 21 có thể đến 43% ở Nam Trung
Bộ (tương ứng 33 ngày) và 59% ở Bắc Trung Bộ (tương ứng 58 ngày). Tương
ứng với xu thế đó, lượng mưa GMMH cũng được dự tính giảm đáng kể ở các thời
kỳ trong tương lai, với mức giảm từ 11 đến 59%.
Như vậy có thể thấy, mặc dù thời điểm bắt đầu GMMH được dự tính biến
đổi và biến động không nhiều; độ dài mùa và lượng mưa biến đổi rất đáng kể [65].
Một điều đáng lưu ý, các tác giả chưa phân tích khách quan lựa chọn các chỉ tiêu
này. Do vậy, đây có thể là nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi rất nhiều về độ dài
mùa và lượng mưa trong dự tính. Đối với khu vực chịu sự tác động bởi nhiều nhân
tố như Việt Nam, việc sử dụng kết hợp đồng thời chỉ tiêu mưa và U850hPa để xác
định các đặc trưng GMMH là không hợp lý [112].
27
Gần đây, các kết quả dự tính biến đổi thời điểm bắt đầu GMMH cho 7 vùng
khí hậu Việt Nam dựa trên sản phẩm dự tính bằng mô hình PRECIS [9] và được
sử dụng trong kịch bản quốc gia về biến đổi khí hậu [19]. Kết quả cho thấy,
GMMH ở khu vực Việt Nam được dự tính đến sớm hơn vào giữa và cuối thế kỷ
21.
1.4. Tổng quan chỉ số gió mùa mùa hè
Chỉ số gió mùa là một dạng của chỉ số khí hậu dùng để phản ánh một cách
đặc trưng nhất diễn biến của gió mùa trên các khu vực khác nhau. Do vậy, chỉ số
gió mùa là một công cụ quan trong phục vụ các nghiên cứu gió mùa và biến động
của chúng. Để xây dựng được chỉ số GMMH, điểm mấu chốt quan trọng nhất là
cần phải dựa vào định nghĩa và bản chất vật lý của GMMH [108].
Một số chỉ số GMMH đã được đề xuất cho khu vực gió mùa châu Á – TBD
[12] chủ yếu dựa trên chỉ tiêu về hoàn lưu (Bảng 1.1). Trên cơ sở phân tích về
những ưu/nhược điểm của các chỉ tiêu cho khu vực Biển Đông, các tác giả [112]
cho rằng, không nên kết hợp giữa U850hPa với lượng mưa để xác định các đặc
trưng GMMH, cũng như xây dựng chỉ số.
Chỉ số SCSSM đã được công bố và sử dụng để mô tả hoạt động của GMMH
ở khu vực Biển Đông [112] là trung bình U850hPa (5oN - 15oN và 110oE - 120oE).
Chỉ số này có thể mô tả được sự bùng phát đột ngột của GMMH ở khu vực Biển
Đông. Tuy nhiên, việc xác định thời điểm bắt đầu và kết thúc hoạt động của
GMMH ở khu vực này là hết sức phức tạp do các nguyên nhân: (1) Xâm nhập
từng đợt về phía Nam của front lạnh; (2) Bắt đầu GMMH “giả” ở phía Bắc do
hoạt động của đới gió Tây từ khu vực Nam Á; (3) Tác động của đới gió Đông
mực thấp có nguồn gốc từ rìa của áp cao Bắc TBD; (4) Dòng vượt xích đạo ở khu
vực Indonesia. Do vậy, miền tính của chỉ số GMMH có thiên hướng dịch chuyển
xuống phía Nam của khu vực Biển Đông.
28
Bảng 1.1. Tổng hợp các chỉ số GMMH cho khu vực gió mùa châu Á – TBD
(Nguồn: Trần Việt Liễn, 2007) [12]
Chỉ số Loại chỉ
số Khu vực Phương pháp tính Tác giả
AIMR Mưa Ấn Độ Lượng mưa toàn Ấn Độ Parthasarathy
(1992)
WYI Hoàn lưu
vĩ hướng
Nhiệt đới
Châu Á
U850-U200
(0-20oN, 40-110
oE)
Weber và Yang
(1992)
DU2
(SEAM)
Hoàn lưu
vĩ hương
Đông Nam
Á
U850(5-15oN, 90-130
oE) -
U850(22.5-32.5oN, 110-
140oE)
Wang và Fan
(1999)
RM1 Hoàn lưu
kinh hướng Nam Á
(V850 – V200)
(10o – 30oN, 70 – 110oE)
Lau và nnk
(2000)
RM2
(EAMI)
Hoàn lưu
vĩ hướng Đông Á
U200(40-50oN, 110-150
oE)-
U200(25-35oN, 110-150
oE)
Lau và nnk
(2000)
IMI Hoàn lưu
vĩ hướng Nam Á
U850(5-15oN, 40-80
oE)-
U850(20-30oN, 60-90
oE)
Wang và nnk
(2001)
WNPMI Hoàn lưu
vĩ hướng
Tây Bắc
TBD
U850(5-15oN, 100-130
oE)-
U850(20-30oN, 110-140
oE)
Wang và nnk
(2001)
AUSMI Hoàn lưu
vĩ hướng Australia U850(0-10
oS,120-150
oE
McBride và
nnk (1995)
SCSSM Hoàn lưu
vĩ hướng Biển Đông U850(5-15
oN,105-120
oE)
B. Wang, Lin
Ho, Y Zhang.
M.M. Lu,
(2004)
EASMI Hoàn lưu
vĩ hướng
Mùa hè
Đông Á
U850(10-20oN, 100-150
oE)-
U850(25-35oN, 100-150
oE)
Quingyun
Zhang,
Shiyang Tao
(1998)
29
Chỉ số Loại chỉ
số Khu vực Phương pháp tính Tác giả
SSI Hoàn lưu
kinh hướng
Ấn Độ
Dương
V850(15-30oN,85-100
oE) +
V850(0-15oS,40-55
oE)
Wang và Fan
(1999)
MHI
(HSAC
ELL)
Hoàn lưu
kinh hướng
Nam Á
(Harley
cell)
V850-V200
(10-30oN, 70-110
oE)
Goswami và
nnk (1999)
CI1 Đối lưu Bengal OLR(10-25oN, 70-100
oE)
Wang và Fan
(1999)
CI2 Đối lưu Philippine OLR(10-20oN, 115-140
oE)
Wang và Fan
(1999)
CSHL Hoàn lưu
vĩ hướng
Nam Bộ
Việt Nam
U850(2,5-12,5oN, 90-110
oE)
- U850(20,0-27,5oN, 105-
120oE)
Nguyễn Thị
Hiền Thuận
(2008)
Lưu ý: U, V là thành phần gió vĩ hướng và kinh hướng ở các mực tương
ứng; OLR là phát xạ sóng dài
Ở trong nước, nghiên cứu đề xuất các chỉ tiêu và chỉ số GMMH [2, 5, 12,
26, 28, 44, 118] chủ yếu tập trung xác định bắt đầu GMMH cho khu vực Tây
Nguyên và Nam Bộ. Đối với khu vực Tây Nguyên, chỉ tiêu xác định bắt đầu
GMMH dựa trên trung bình 5 ngày của lượng mưa và U850hPa [5] cho thấy, bắt
đầu GMMH ở khu vực Tây Nguyên xảy ra khi đồng thời tổng lượng mưa 5 ngày
vượt ngưỡng 25 mm và U850hPa chuyển từ Đông sang Tây. Cùng quan điểm này,
nghiên cứu xác định thời điểm bắt đầu GMMH trên khu vực Nam Bộ cũng đã
được thực hiện [118] và kiến nghị chỉ tiêu phù hợp mô tả bắt đầu GMMH là: (1)
Lượng mưa ngày vượt quá 5 mm/ngày và kéo dài liên tục trong 5 ngày; (2) Tốc
độ gió vĩ hướng trung bình ngày lớn hơn 0,5 m/s để tính toán ngày bùng phát cho
khu vực Nam Bộ. Nghiên cứu cho thấy ngày bắt đầu GMMH trung bình là ngày
12 tháng 5 với độ lệch chuẩn 11,6 ngày; bất đầu sớm nhất là ngày 19 tháng 4 năm
30
1979 và muộn nhất là ngày 9 tháng 6 năm 1993. Khi phân tích chỉ tiêu U850hPa
và gradient nhiệt độ mực trên cao [28], các tác giả chỉ ra rằng chỉ tiêu U850hPa
là phù hợp hơn cả để xác định thời điểm bắt đầu và có thể sử dụng để xây dựng
chỉ số GMMH cho khu vực Nam Bộ. Khảo sát của các tác giả cho thấy, chỉ tiêu
U850hPa vừa phản ánh được hoàn lưu quy mô lớn, đồng thời cũng phản ánh được
diễn biến mưa ở khu vực nghiên cứu.
Phân tích, đánh giá và lựa chọn chỉ số GMMH cho khu vực Việt Nam dựa
trên cơ sở mối quan hệ với lượng mưa quan cho thấy, các chỉ số GMMH ở khu
vực châu Á - TBD đều có quan hệ khá tốt với lượng mưa mùa hè. Trong đó, các
chỉ số hoàn lưu thể hiện rõ hơn mối quan hệ giữa GMMH châu Á với lượng mưa
[12]. Điều này cho thấy, hoạt động của GMMH ở khu vực Việt Nam là một bộ
phận khăng khít của GMMH châu Á - TBD. Tác giả [12] cũng cho rằng, khu vực
lựa chọn chỉ số ở Nam Trung Quốc hoặc Bắc Biển Đông sẽ phản ánh tốt hơn diễn
biến mưa ở khu vực ven biển Trung Bộ. Ngược lại, khu vực lựa chọn chỉ số
GMMH ở phía Nam sẽ phản ánh tốt hơn diễn biến lượng mưa ở Bắc Bộ, Tây
Nguyên và Nam Bộ.
Năm 2008, chỉ số hoàn lưu (CSHL) là U850hPa (2,5oN - 12,5oN, 90oE -
110oE) - U850hPa (20,0oN - 27,5oN, 105oE - 120oE) và chỉ số đối lưu (CSĐL)
được tính bằng -1x∆OLR(5-15oN, 100-115oE) được đề xuất và đánh giá là phù
hợp cho mô tả hoạt động của GMMH ở khu vực Nam Bộ. Trong đó, chỉ số CSHL
là phù hợp hơn trong việc mả diễn biến hoạt động của GMMH vào thời kỳ kết
thúc [26]. Theo tác giả, chỉ số CSHL được tính bằng hiệu số U850hPa giữa vùng
phía Nam và phía Bắc nhằm phản ánh được sự lấn át của đới gió từ phía Nam lên
so với đới gió của hoàn lưu vĩ độ trung bình. Đến nay, hai chỉ số này vẫn được
xem là các chỉ số GMMH duy nhất phục vụ nghiên cứu ở khu vực Nam Bộ.
Nhưng, chưa thể khẳng định có thể sử dụng các chỉ số này làm đại diện cho hoạt
động của GMMH ở Việt Nam. Hơn nữa, các chỉ số này mới chỉ dừng lại ở việc
phục vụ tính cường độ GMMH ở quy mô từ tháng đến mùa.
31
Gần đây, một cách tiếp cận mới trong đánh giá biến động mưa GMMH cho
các khu vực gió mùa trên thế giới [44] theo chỉ số NRM (NRM = sign (U850) x
abs (MSLP x U850)). Theo các tác giả [44], chỉ số NRM có thể áp dụng để xác
định bắt đầu mùa mưa GMMH trên các khu vực dựa trên quan điểm mưa là hệ
quả của GMMH. Thực tế, mưa không diễn ra liên tục và có thể là trễ pha so với
hoàn lưu gió, nên khí áp mực nước biển (MSLP) được lựa chọn để đại diện cho
lượng mưa. Kết quả nghiên cứu thử nghiệm cho khu vực Việt Nam và Biển Đông
cho thấy [44], chỉ số NRM phản ánh tốt diễn biến bắt đầu - gián đoạn - kết thúc
mưa GMMH. Nhìn chung, có thể thấy rõ ưu điểm của chỉ số này là phục vụ đánh
giá biến động mưa ở nhiều khu vực GMMH. Tuy nhiên, chỉ số này chưa chắc đã
phản ánh được biến động của GMMH ở khu vực như Việt Nam có sự giao tranh
của các hệ thống gió mùa và tác động của nhiều nhân tố địa phương.
1.5. Nhật xét cuối Chương 1
Nghiên cứu biến động của GMMH châu Á -TBD là một chủ đề được nhiều
nhà khoa học trên thế giới quan tâm và được thực hiện từ rất sớm. Các nghiên cứu
chủ yếu tập trung cho các khu vực GMMH điển hình như Ấn Độ, Đông Á và Tây
Bắc TBD. Các loại biến động của GMMH thường được đề cập đến là ISV, IAV
và IDV.
Trong những năm gần đây, vấn đề tác động của sự gia tăng nồng độ KNK
đến biến động của các đặc trưng GMMH là một chủ đề được nhiều tác giả quan
tâm. Tuy nhiên, các nhận định về biến đổi của sự biến động GMMH trong thế kỷ
21 do sự gia tăng KNK có tính không chắc chắn cao.
Ở trong nước, tác động của ENSO đến biến động của GMMH ở Nam Bộ
đã được đánh giá. Bên cạnh đó, đánh giá xu thế biến động của hầu hết các đặc
trưng quan trọng của GMMH đã được thực hiện theo chỉ số SCSSM. Tuy nhiên,
chỉ số GMMH được sử dụng trong hai nghiên cứu này vẫn chưa được kiếm chứng
tính đại diện cho hoạt động của GMMH trên lãnh thổ Việt Nam. Đối với bài toán
dự tính biến động của GMMH, đây là vấn đề còn mới mẻ và các kết quả mới chỉ
đề cập đến một phần nào đó của đặc trưng bắt đầu GMMH.
32
Chỉ số gió mùa là công cụ đơn giản và hiệu quả trong phản ánh hoạt động
của GMMH. Do vậy, rất nhiều chỉ số GMMH đã được nghiên cứu và đề xuất cho
3 khu vực gió mùa châu Á - TBD. Ở Việt Nam, chỉ số GMMH đã được đề xuất
cho khu vực Nam Bộ và chỉ số NRM được đề xuất phục vụ nghiên cứu biến động
mưa GMMH. Tuy nhiên, chưa có chỉ số nào được đề xuất để xác định diễn biến
hoạt động của GMMH trên lãnh thổ Việt Nam một cách đầy đủ nhất.
33
CHƯƠNG 2:
PHƯƠNG PHÁP VÀ SỐ LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Phương pháp nghiên cứu
2.1.1. Phương pháp xác định chỉ số gió mùa mùa hè
a) Cách tiếp cận nghiên cứu đề xuất chỉ số
Đề xây dựng và đề xuất chỉ số gió mùa, điểm quan trọng nhất là cần phải
dựa vào định nghĩa và bản chất vật lý của nó. Từ đó, các đánh giá lựa chọn yếu tố
và khu vực đặc trưng được thực hiện. Bản chất của GMMH ở khu vực Việt Nam
là gió mùa Tây Nam xuất phát từ khu vực xích đạo Ấn Độ Dương (Nguyễn Đức
Ngữ, Nguyễn Trọng Hiệu, 2004); đới gió này có nguồn gốc là dòng vượt xích đạo
từ BCN lên BCB hoặc có thể là do phát sinh tại chỗ. Cũng theo các tác giả, hướng
gió và đường dòng ở tầng thấp về cơ bản là tương đồng nhau; từ trên mực 500hPa,
hướng chủ yếu của đường dòng là hướng Đông. Do vậy, chỉ số GMMH được đề
xuất phải phản ánh được diễn biến hoàn lưu quy mô lớn này.
Do lãnh thổ Việt Nam chịu sự tác động đồng thời của nhiều đới gió khác
nhau trong mùa GMMH, do vậy khu vực lựa chọn chỉ số phải có tín hiệu hoạt
động của đới gió Tây Nam mạnh mẽ và ổn định nhất; giảm thiểu tác động của các
đới gió khác.
Trên khu vực GMMH, hệ quả thời tiết rõ ràng nhất là gây mưa; đặc biệt là
khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ. Hơn nữa, do tác động của dãy Trường Sơn và
Hoàng Liên Sơn, hoạt động của GMMH gây hiệu ứng phơn tạo thời tiết khô nóng.
Do vậy, bên cạnh phản ánh được hoàn lưu quy mô lớn, chỉ số GMMH được gọi
là phù hợp cho khu vực Việt Nam khi đồng thời phản ánh được hệ quả mưa.
Tùy thuộc vào khu vực, diễn biến hoạt động của GMMH có thể được xác
định thông qua trường yếu tố khí hậu phù hợp. Trong đó, hai yếu tố phổ biến để
xây dựng chỉ số GMMH là OLR (phản ánh hoạt động đối lưu) và gió vĩ hướng
mực thấp (phản ánh hoàn lưu gió mùa). GMMH xuất hiện được đánh đấu bởi sự
thay thế đới gió Đông bởi đới gió Tây ở mực thấp (thông thường lựa chọn
U850hPa làm đại diện). Khi gió Tây xuất hiện cũng đồng thời kéo theo sự xuất
34
hiện của mưa quy mô lớn. Tuy nhiên, gió Tây và mưa thường xuất hiện lệch pha
nhau. Đặc biệt ở một số khu vực có địa hình phức tạp hoặc nơi chuyển giao giữa
các đới gió mùa, gió Tây và mưa thường có mối quan hệ yếu với nhau. Hơn nữa
ở các khu vực này, diễn biến mưa không diễn ra một cách đều đặn như diễn biến
của hoàn lưu gió.
b) Phương pháp giải quyết bài toán đề xuất chỉ số gió mùa:
(1) Lựa chọn trường khí tượng và miền tính phù hợp để phản ánh tốt diễn
biến hoạt động của GMMH ở khu vực Việt Nam.
- Lựa chọn trường khí tượng: Trên cơ sở phân tích kế thừa các nghiên cứu
trước đó, trường U850hPa được lựa chọn làm đại diện cho hoạt động GMMH ở
khu vực Việt Nam thông qua đề xuất chỉ số VSMI.
GMMH hoạt động là sự thay đổi về hoàn lưu quy mô lớn, kéo theo đó là
những thay đổi về đối lưu, hội tụ ẩm và hệ quả là gây mưa. Hay nói cách khác quá
trình đối lưu và mưa thường trễ pha so với sự thay đổi về hoàn lưu quy mô lớn.
Đặc biệt đối với khu vực như Việt Nam, hệ quả mưa không chỉ đến từ hoạt động
của GMMH, mà còn do tác động của nhiều nhân tố khác gây ra (nhiễu động,
ITCZ, XTNĐ, gió đất - biển, địa hình, xâm nhập lạnh, …). Do vậy, việc sử dụng
kết hợp đồng thời chỉ tiêu gió với các chỉ tiêu khác (đối lưu, mưa) có thể dẫn đến
những sai lầm. Một số nghiên cứu gần đây đã khẳng định, chỉ tiêu gió (U850hPa)
là phù hợp hơn cả để xây dựng chỉ số GMMH [12, 26, 28, 29].
- Lựa chọn miền tính: Do tính chất phức tạp của hoàn lưu gió ở khu vực Việt
Nam, việc lựa chọn miền tính để xây dựng chỉ số GMMH là rất quan trọng. Miền
tính được lựa chọn sao cho phản ánh được là khu vực chịu sự chi phối chính của
GMMH và tránh tác động của các đới gió khác. Mặt khác, miền tính chỉ số GMMH
cần được mở rộng trên phạm vi không gian đủ lớn để loại bỏ những nhiễu động
mang tính địa phương và nắm bắt được sự mở rộng của đới gió Tây Nam trên quy
mô lớn. Phương pháp nghiên cứu chính là phân tích bản đồ phân bố theo không
gian của trường gió mực 850hPa trong mùa hè.
35
Phương pháp phân tích hàm trực giao tự nhiên (EOF) [45] đối với trường
U850hPa theo lý thuyết phân tích chuỗi của Fourier với đối số là thời gian được
ứng dụng. Mục đích của việc sử dụng phương pháp phân tích EOF là nhằm xác
định phân bố theo không gian của thành phần chính U850hPa chi phối trong mùa
GMMH ở khu vực Việt Nam. Về mặt bản chất, phân tích EOF là một dạng của
phương pháp phân tích thành phần chính (Principal Component - PC). Trong
nghiên cứu khí hậu, phương pháp phân tích EOF thường được ứng dụng để phân
tích theo không gian (hình thế phân bố) và thời gian (dạng dao động). Về mặt
thống kê, phân tích EOF không xét đến giả thuyết phân bố xác suất và không thực
hiện kiểm nghiệm thống kê. Bản chất của phương pháp này là tách trường khí
tượng thành các ma trận trực giao (độc lập) về mặt toán học.
(2) Chỉ số GMMH phản ánh được hoàn lưu quy mô lớn và hệ quả mưa
Để kiểm nghiệm khả năng phản ánh hoàn lưu quy mô lớn và hệ quả mưa,
chúng tôi tiến hành tính toán hệ số tương quan với trường gió vĩ hướng (U) ở các
mực (850, 700, 500 và 300hPa) và với lượng mưa quan trắc. Kết quả tính toán hệ
số tương quan được kiểm nghiệm mức độ tin cậy 95 và 99% theo kiểm nghiệm t-
test [45]. Kết quả kiểm nghiệm khả năng phản ánh hệ quả mưa của chỉ số GMMH
được đề xuất (VSMI) sẽ được so sánh chỉ số SCSSM [110] và chỉ số CSHL [26].
Các chỉ số GMMH này (Hình 2.1) được tính toán như sau:
SCSSM = U850hPa(5 - 15oN,110 - 120oE)
CSHL = U850hPa(2,5-12,5oN; 90-120oE)-U850hPa(20-27,5oN; 105-120oE)
VSMI = U850hPa(5 - 15oN, 100 - 110oE)
Tính toán kiểm nghiệm khả năng phản ánh hoàn lưu quy mô lớn được thực
hiện đối với chỉ số VSMI. Phương pháp kiểm nghiệm được thực hiện dựa trên hệ
số tương quan giữa chuối số liệu VSMI với số liệu ô lưới CFSR của trường U các
mực khí quyển (850, 700, 500 và 300hPa) ở quy mô trung bình mùa. Mức độ tin
cậy được đánh giá theo kiểm nghiệm t-test [45].
36
Tính toán hệ số tương quan để kiểm nghiệm khả năng phản ánh mưa
GMMH được thực hiện ở quy mô thời gian là hậu. Mức độ tin cậy được đánh giá
theo kiểm nghiệm t-test [45].
Hình 2.1. Mô tả khu vực tính toán các chỉ số gió mùa mùa hè
2.1.2. Phương pháp tính toán các đặc trưng gió mùa mùa hè
Các đặc trưng được tính theo chỉ số VSMI:
- Thời điểm bắt đầu GMMH: Trong thời kỳ diễn ra bắt đầu GMMH, quá
trình biến đổi về hoàn lưu diễn ra nhanh, đột ngột và phản ánh sự thay thế gió
Đông bởi gió Tây trên quy mô lớn ở mực thấp. Để loại bỏ nhiễu động và đảm bảo
gió Tây đã hoạt động ổn định (GMMH hoạt động), thời điểm bắt đầu GMMH là
hậu (pentad) đầu tiên trong tối thiểu hai hậu liên tiếp tồn tại chỉ số VSMI có dấu
“dương” (gió Tây thay thế gió Đông). Trên cơ sở phân tích chuỗi số liệu chỉ số
VSMI thời kỳ 1981-2010 (Phụ lục 2), thời điểm bắt đầu GMMH được tính bắt
đầu từ hậu thứ 21.
- Thời điểm kết thúc GMMH: Thời điểm kết thúc hoạt động của GMMH
được đánh dấu bởi quá trình thay đổi hoàn lưu quy mô lớn từ gió Tây sang gió
Đông ở mực thấp. Quá trình kết thúc GMMH thường diễn ra chậm chạp và có sự
giao tranh của nhiều đới gió. Do vậy, việc xác định thời điểm kết thúc hoạt động
của GMMH thường rất phức tạp. Kết quả phân tích chuỗi số liệu thời kỳ 1981-
37
2010 (Phụ lục 3), chỉ tiêu đối với thời điểm kết thúc hoạt động của GMMH được
xác định là hậu đầu tiên trong ba hậu liên tục có chỉ số VSMI mang dấu “âm” (gió
Đông thay thế gió Tây). Thời điểm kết thúc hoạt động của GMMH được tính toán
kể từ sau hậu thứ 50.
- Độ dài mùa GMMH : Độ dài mùa GMMH được xác định là thời gian kéo
dài từ thời điểm bắt đầu (hậu bắt đầu) đến hậu trước thời điểm kết thúc (hậu kết
thúc).
- Cường độ của GMMH: Cường độ GMMH được xác định là giá trị của
chỉ số VSMI (m/s).
- Số đợt gián đoạn GMMH: Một đợt gián đoạn GMMH được xác định là
thời kỳ có chỉ số VSMI mang dấu “âm” và tồn tại trong một hậu hoặc duy trì liên
tục trong nhiều hậu. Do vậy, một đợt gián đoạn có thể chỉ duy trì trong một hậu
hoặc nhiều hậu.
Các đặc trưng khác:
- Hoàn lưu gió mực 850hPa: Về cơ bản, hoàn lưu mực thấp (dưới 500hPa)
có sự tương đồng nhau về mặt hướng [16] và để loại bỏ tác động của địa hình,
hoàn lưu gió mực 850hPa được lựa chọn làm đại diện cho hoàn lưu GMMH ở khu
vực Việt Nam.
- Mưa trong mùa GMMH ở khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ: Biến động
IAV được thực hiện đối với lượng mưa ở quy mô tháng và mùa GMMH (tháng 5
- tháng 9). Biến động ISV được thực hiện đối với lượng mưa quy mô hậu, tính từ
hậu bắt đầu đến thời điểm trước hậu kết thúc.
2.1.3. Tính toán biến động của các đặc trưng gió mùa mùa hè
Biến động của các đặc trưng
Biến động ISV được thể hiện qua chu kỳ tăng/giảm của các đặc trưng
GMMH so với trung bình mùa [105]. Chu kỳ tăng/giảm trong mùa được thể hiện
qua diễn biến thực tế và các chỉ số thống kê (chuẩn sai và biến suất)
38
Biến động IAV được xác định là sự thay đổi tăng/giảm của đặc trưng
GMMH xung quanh trạng thái trung bình nhiều năm, nghĩa là lớn hơn hoặc nhỏ
hơn giá trị trung bình nhiều năm [96, 119].
Hình 2.2 cho thấy, có sự khác nhau cơ bản giữa biến động khí hậu (Climate
Variability) với dao động khí hậu (Climate Oscillations) và biến đổi khí hậu
(Climate Change). Biến động khí hậu được xem xét sự thăng/giáng của yếu tố khí
hậu ở quy mô thời gian ngắn (năm đến thập kỷ) so với trạng thái trung bình; dao
động khí hậu là sự thăng/giáng của giá trị trung bình thời gian dài (thập kỷ đến
nhiều thập kỷ); biến đổi khí hậu là xu thế dịch chuyển của nền khí hậu ở quy mô
thời gian dài hơn (nhiều thập kỷ đến hàng thế kỷ) được tính từ biến động khí hậu.
Hình 2.2. Minh họa biến động IAV và biến đổi khí hậu: Biến động khí hậu được
tính ở quy mô thời gian ngắn (năm đến thập kỷ); dao động khí hậu được tính từ
biến động khí hậu nhưng ở quy mô thời gian dài hơn (thập kỷ đến nhiều thập
kỷ); biến đổi khí hậu là xu thế dịch chuyển của điều kiện khí hậu ở quy mô thời
gian dài (nhiều thập kỷ đến hàng thế kỷ) (Nguồn: Leung Wing-mo, 2005) [75]
39
Xác định mức độ biến động
Một số chỉ số thống kê mô tả sự phân tán của yếu tố khí hậu xung quanh
trạng thái trung bình ở quy mô thời gian xác định (tháng, mùa, năm, nhiều năm)
thường được sử dụng như [20]: Chuẩn sai (Anomaly-), độ lệch tiêu chuẩn
(Standard Deviation-STD), phương sai mẫu (Variance-D), độ nhọn (E), độ lệch
trung bình tuyệt đối (Va), biên độ (QA) và biến suất hay hệ số biến thiên (Cv).
Trong khuôn khổ nghiên cứu của luận án, một số chỉ thống kê sau được
tính toán:
(1) Chuẩn sai (hoặc độ lệch - ) được xác định theo công thức sau:
tx x (2.1)
Trong đó, x là giá trị trung bình thời kỳ 1981-2010 hoặc trung bình mùa.
(2) Độ lệch tiêu chuẩn (STD)
x xSD D (2.2)
Phương sai D được tính như sau:
2
1
1( )
n
x tt
D x xn
(2.3)
Trong đó xt, t=1...n là chuỗi các giá trị của yếu tố X.
Thực tế, phương sai (D) có thể đại diện cho tính biến động xung quanh đại
lượng trung bình của chuỗi. Trong khi đó, STD có cùng thứ nguyên với đại lượng
được tính toán. Do vậy, thông thường người ta sử dụng STD làm thước đo đánh
giá mức độ biến động (phân tán) của các thành phần trong chuỗi xung quanh giá
trị trung bình [20]. STD càng lớn, mức độ biến động (phân tán) của chuỗi càng
lớn và ngược lại.
(3) Hệ số biến thiên (Cv) còn được gọi là biến suất tương đối hay hệ số biến
động.
Cv phản ánh tương quan so sánh giữa STD và độ lớn của trung bình của
chuỗi x và được xác định theo công thức sau:
40
xv
SDC
x (2.4)
Thực tế Cv thường được lấy đơn vị là phần trăm (%) và được tính theo công
thức sau:
.100xv
SDC
x (2.5)
Đối với biến động ISV, phân tích diễn biến ở quy mô thời gian quy mô hậu
của các yếu tố (hoặc độ lệch so với trung bình mùa hè) xảy ra trong mùa GMMH
được thực hiện.
Biến động trong các pha ENSO
Phương pháp đánh giá được thực hiện dựa trên cơ sở so sánh các đặc trưng
thống kê trong các mùa hè ENSO. Do vậy, việc đầu tiên là cần phải phân định các
mùa hè ENSO, có thể được xác định thông qua các chỉ số: SOI, SSTA tại các
vùng Nino (Nino1, Nino2, Nino3, Nino4, Nino1.2 và Nino3.4), chỉ số ENSO hỗn
hợp và chỉ số ENSO tổng hợp (MEI).
Chỉ số Nino đại dương (ONI) được tính bằng trung bình trượt 3 tháng của
SSTA tại khu vực Nino3.4 (SSTA Nino3.4), sử dụng để xác định mùa hè ENSO.
Kết quả xác định các đợt ENSO thời kỳ 1981-2010 được kế thừa từ CPC (Phụ lục
4) [42]. Trong nghiên cứu này, mùa hè ENSO được xác định là mùa hè (tháng 5
đến tháng 9) thỏa mãn đồng thời hai điều kiện sau:
(1) Mùa hè ENSO là mùa hè phải nằm trong một đợt ENSO được xác định
theo chỉ số ONI và chỉ tiêu của CPC [42];
(2) Thỏa mãn điều kiện có chỉ số ONI đạt ngưỡng ±0,5oC trong 3 tháng liên
tục.
Kết quả xác định mùa hè ENSO được trình bày ở nội dung tiếp theo (Bảng
2.1 đến Bảng 2.3).
Dự tính biến động của GMMH
Các thời kỳ tính toán:
- Thời kỳ cơ sở: 1986-2005;
41
- Thời kỳ trong tương lai: Giữa thế kỷ 21 (2046 - 2065) và cuối thế kỷ 21 (2080
- 2099).
Phương pháp dự tính:
Phương pháp dự tính biến động của các đặc trưng GMMH được thực hiện
bằng cách so sánh kết quả tính toán chỉ số thống kê mô tả biến động trong tương
lai (2046-2065; 2080-2099) với kết quả tương ứng trong thời kỳ cơ sở (1986-
2005). Trong đó, chỉ số STD được sử dụng để mô tả mức độ biến động của các
đặc trưng GMMH trong các thời kỳ. Tùy thuộc vào đặc trưng khác nhau, phương
pháp so sánh khác nhau sẽ được thực hiện theo công thức (2.6) hoặc (2.7). Hai
phương pháp so sánh được áp dụng: (1) Tỷ số (2.6); (2) Hiệu số (2.7).
- Phương pháp tỷ số được xác định như công thức (2.6), đơn vị là% biến
đổi.
future 1986-2005
future
1986-2005
XΔX = *100
X
X
(2.6)
- Phương pháp hiệu số được thực hiện như công thức (2.8), đơn vị của mức
độ biến đổi trùng với đơn vị của đặc trưng GMMH.
future future 1986-2005ΔX =X - X (2.7)
Trong đó:
futureΔX là mức độ biến đổi chỉ số STD của các đặc trưng GMMH vào các
thời kỳ trong tương lai so với thời kỳ cơ sở.
futureX là giá trị chỉ số STD của các đặc trưng GMMH ở các thời kỳ trong
tương lai (2046 - 2065; 2080 - 2099) theo các kịch bản RCP4.5 và RCP8.5. *futureX
được tính toán từ các kết quả dự tính của mô hình PRECIS.
198 6-2005X là giá trị chỉ số STD của các đặc trưng GMMH thời kỳ cơ sở (1986-
2005) theo các kịch bản RCP4.5 và RCP8.5. 198 6-2005
X được tính toán từ các kết quả
mô phỏng của mô hình PRECIS.
42
Như vậy, bản chất của bài toán dự tính biến động của các đặc trưng GMMH
là bài toán so sánh kết quả tính toán chỉ số STD trong tương lai (2046-2065; 2080-
2099) với kết quả trong thời kỳ cơ sở (1986-2005).
2.2. Số liệu sử dụng trong nghiên cứu
Để thực hiện các nội dung nghiên cứu của luận án, các bộ số liệu chính
được sử dụng bao gồm:
(1) Số liệu tái phân tích và quan trắc tại trạm:
- Số liệu tái phân tích (CFSR, CMAP);
- Số liệu chỉ số ONI của CPC;
- Số liệu lượng mưa ngày quan trắc tại các trạm;
(2) Số liệu mô phỏng và dự tính khí hậu bằng mô hình PRECIS (Providing
Regional Climates for Impacts Studies). Chi tiết về các bộ số liệu này được mô tả
dưới đây.
2.2.1. Số liệu tái phân tích và quan trắc tại trạm
Số liệu tái phân tích CFSR (Climate Forecast System Reanalysis).
CFSR là bộ số liệu tái phân tích toàn cầu có độ phân giải ngang là 25x25km,
thời kỳ 1981-2010 được thu thập từ Trung tâm NCEP, Hoa Kỳ (National Centers
for Environmental Prediction) [87]. CFSR là bộ số liệu đồng bộ, liên tục và phản
ánh rất tốt tương tác khí quyển - đại dương và được đánh giá là một trong những
loại số liệu đáng tin cậy. Hiện nay, NCEP đang cung cấp số liệu CFSR tại địa chỉ
trang thông tin điện tử: https://climatedataguide.ucar.edu/climate-data/climate-
forecast-system-reanalysis-cfsr.
Trong khuôn khổ nghiên cứu của luận án, các trường số liệu sau được khai
thác từ bộ số liệu CFSR:
- Trường gió và độ cao địa thế vị (HGT) các mực 850, 700, 500 và 300hPa;
- Trường bức xạ sóng dài (OLR) và nhiệt độ mực 300hPa;
Số liệu ENSO (chỉ số ONI)
Số liệu ENSO được sử dụng trong luận án là chỉ số ONI (Oceanic Niño
Index). ONI là giá trị trung bình trượt 3 tháng của dị thường nhiệt độ mặt nước
43
biển (SSTA) tại khu vực Nino 3.4 (5oN-5oS, 120o-170oW) được cung cấp bởi
Trung tâm CPC, Hoa Kỳ [42]. Hiện nay, chỉ số ONI được sử dụng trong nghiệp
vụ giám sát và dự báo hoạt động ENSO của Hoa Kỳ và nhiều cơ quan khí tượng
trên thế giới.
Kết quả thu thập số liệu chỉ số ONI được trình bày trong Phụ lục 4. Trên
cơ sở phân tích chuỗi số liệu chỉ số ONI thời kỳ 1981-2010 của CPC và các chỉ
tiêu nêu trên, kết quả xác định mùa hè ENSO được trình bày trong Bảng 2.1 -
Bảng 2.3. Trong giai đoạn 1981-2010, đã xác định được 7 mùa hè El Nino: 1982,
1987, 1991, 1997, 2002, 2004, 2009 (Bảng 2.1) và 7 mùa hè La Nina: 1985, 1988,
1998, 1999, 2000, 2007, 2010. Trong đó, mùa hè có El Nino hoạt động mạnh nhất
là mùa hè 1997, với chỉ số ONI đạt giá trị lớn nhất là 2,1oC; mùa hè La Nina hoạt
động mạnh nhất là mùa hè 2010, với chỉ số ONI đạt giá -1,6oC.
Dựa trên số liệu SSTA trung bình tháng tại khu vực Nino3, mùa hè ENSO
cũng đã được xác định trong nghiên cứu trước đó cho khu vực Việt Nam [26].
Tác giả xác định mùa ENSO theo các tiêu chí sau: (1) Mùa hè ENSO phải thỏa
mãn có ít nhất 2 tháng của mùa hè nằm trong pha ENSO này; (2) Mùa hè năm sau
ENSO tiếp theo phải thỏa mãn điều kiện ENSO kéo dài ít nhất là sang hết quý 1
năm sau và duy trì dấu SSTA của kỳ ENSO đó cho tới ít nhất hai tháng của mùa
hè.
Có thể nhận thấy rõ những điểm khác biệt về kết quả xác định mùa hè
ENSO trong nghiên cứu của luận án (Bảng 2.1-Bảng 2.3) với kết quả trước đó
(Bảng 2.4). Điều này là do, sự khác nhau về chỉ tiêu và chỉ số Nino được sử dụng
và số liệu ENSO được CPC cập nhật theo quy trình đánh giá nghiệp vụ. Trong 24
mùa hè, sự khác nhau về kết quả xác định mùa hè ENSO xảy ra trong 8 mùa vào
các năm: 1984, 1985, 1987, 1995, 1998, 1999, 2000, 2004. Các sai khác đáng lưu
ý xảy ra vào mùa hè 1987, 1998 - 2000 và 2004. Theo CPC [42], mùa hè năm
1987 nằm trong đợt El Nino mạnh và kéo dài từ cuối năm 1986 đến đầu năm 1988;
ngược lại, theo [26] là mùa hè sau El Nino. Mùa hè năm 1998-2000 được xác định
là nằm trong đợt La Nina có cường độ rất mạnh và kéo dài [42]. Trong khi đó,
44
theo [26] các mùa hè này lần lượt được xác định là mùa hè sau El Nino (1998) và
sau La Nina (1999, 2000). Trong suốt các tháng mùa hè năm 2004, chỉ số ONI
vượt ngưỡng El Nino [42] và được xác định mà mùa hè El Nino. Ngược lại, tác
giả [26] xác định mùa hè 2004 không tồn tại ENSO.
Bảng 2.1. Kết quả xác định mùa hè El Nino thời kỳ 1981-2010
SST Mùa hè
El Nino Đặc điểm
1 1982 - Nằm trong đợt El Nino từ tháng 5/1982 đến tháng 6/1983;
- Chỉ số ONI tồn tại ở pha nóng kể từ tháng 2/1982;
- Chỉ số ONI lớn nhất trong mùa hè 1982 là 1,6oC.
2 1987 - Nằm trong đợt El Nino từ tháng 9/1986 đến tháng 2/1988;
- Đợt El Nino có cường độ mạnh (ONI lớn nhất là 1,7oC) và kéo
dài (17 tháng);
- Chỉ số ONI lớn nhất trong mùa hè 1987 là 1,7oC.
3 1991 - Nằm trong đợt El Nino từ tháng 5/1991 đến tháng 6/1992;
- Chỉ số ONI tồn tại ở pha nóng trong một thời gian dài (từ tháng
1/1990) trước khi đến mùa hè El Nino;
- Chỉ số ONI lớn nhất trong mùa hè 1991 là 0,7oC.
4 1997 - Nằm trong đợt El Nino từ tháng 5/1997 đến tháng 5/1998. Đây
là đợt El Nino có cường độ mạnh kỷ lục, với ONI lớn nhất đạt
2,4oC (từ tháng 11 đến tháng 12/1997);
- Đợt El Nino này có sự chuyển pha rất nhanh từ trạng thái ONI
ở pha Lạnh kéo dài từ tháng 7/1995 đến tháng 3/1997 và chuyển
sang El Nino và tháng 5/1997;
- Chỉ số ONI lớn nhất trong mùa hè 1997 là 2,1oC .
5 2002 - Nằm trong đợt El Nino có cường độ trung bình, kéo dài từ
tháng 6/2002 đến tháng 2/2003;
- Chỉ số ONI tồn tại ở pha nóng kể từ tháng 2 đến tháng 5/2002;
- Chỉ số ONI lớn nhất trong mùa hè 2002 là 1,0oC.
6 2004 - Nằm trong đợt El Nino yếu, kéo dài từ tháng 7/2004 đến tháng
2/2005;
- Chỉ số ONI tồn tại ở pha nóng kể từ tháng 7/2003 đến tháng
6/2004;
- Chỉ số ONI lớn nhất trong mùa hè 1982 là 0,7oC
45
7 2009 - Nằm trong đợt El Nino kéo dài từ tháng 7/2009 đến tháng
3/2010;
- Đợt El Nino này là nối tiếp của đợt La Nina mạnh và ONI ở
trạng thái pha lạnh;
- Chỉ số ONI lớn nhất trong mùa hè 2009 là 0,7oC.
Bảng 2.2. Kết quả xác định mùa hè La Nina thời kỳ 1981-2010
SST Mùa hè
La Nina Đặc điểm
1 1985 - Nằm trong đợt La Nina kéo dài từ tháng 10/1984 đến tháng
8/1985;
- Chỉ số ONI nhỏ nhất trong mùa hè 1985 là -0,8oC.
2 1988 - Nằm trong đợt La Nina kéo dài từ tháng 5/1988 đến tháng
5/1999;
- Đợt La Nina này là nối tiếp của đợt El Nino có cường độ khá
mạnh kéo dài từ tháng 9/1986 đến tháng 2/1988
- Chỉ số ONI nhỏ nhất trong mùa hè 1988 là -1,3oC.
3 1998 - Nằm trong đợt La Nina kéo dài từ tháng 7/1998 đến tháng
2/2001
- Đợt La Nina này là nối tiếp của đợt El Nino mạnh nhất trong
lịch sử quan trắc (từ tháng 5/1997 đến tháng 5/1998)
- Chỉ số ONI nhỏ nhất trong mùa hè 1998 là -1,3oC.
4 1999 - Nằm trong đợt La Nina kéo dài từ tháng 7/1998 đến tháng
2/2001;
- Chỉ số ONI nhỏ nhất trong mùa hè 1999 là -1,2oC
5 2000 - Nằm trong đợt La Nina kéo dài từ tháng 7/1998 đến tháng
2/2001;
- Chỉ số ONI nhỏ nhất trong mùa hè 2002 là -0,7oC.
6 2007 - Nằm trong đợt La Nina kéo dài từ tháng 7/2007 đến tháng
6/2008;
- Đợt La Nina này là nối tiếp của đợt El Nino (từ tháng 8/2006
đến tháng 1/2007);
- Chỉ số ONI nhỏ nhất trong mùa hè 2007 là -1,1oC.
7 2010 - Nằm trong đợt La Nina kéo dài từ tháng 6/2010 đến tháng
5/2011;
- Đợt La Nina này là nối tiếp của đợt El Nino (từ tháng 7/2009
đến tháng 3/2010);
- Chỉ số ONI nhỏ nhất trong mùa hè 1988 là -1,6oC.
46
Bảng 2.3. Kết quả xác định mùa hè trung tính của ENSO
SST Mùa hè
trung tính - pha ấm
Mùa hè
trung tính - pha lạnh
1 1983 1981
2 1986 1984
3 1990 1989
4 1992 1995
5 1993 1996
6 1994 2001
7 2003 2008
8 2005
9 2006
Bảng 2.4. Kết quả xác định mùa hè ENSO thời kỳ 1981-2004 (Nguồn: Nguyễn
Thị Hiền Thuận, 2008) [26]
STT Năm Mùa hè STT Năm Mùa hè
1 1981 Khg-ENSO 13 1993 Khg-ENSO
2 1982 ET 14 1994 Khg-ENSO
3 1983 SE 15 1995 LT
4 1984 LT 16 1996 SL
5 1985 SL 17 1997 ET
6 1986 Khg-ENSO 18 1998 SE
7 1987 SE 19 1999 SL
8 1988 LT 20 2000 SL
9 1989 SL 21 2001 Khg-ENSO
10 1990 Khg-ENSO 22 2002 ET
11 1991 ET 23 2003 Khg-ENSO
12 1992 SE 24 2004 Khg-ENSO
Ghi chú: ET - mùa hè El Nino; SE - Mùa hè sau El Nino; LT - Mùa hè La
Nina; SL - Mùa hè sau La Nina; Khg-ESNO - Mùa hè trung tính
47
Số liệu lượng mưa ngày quan trắc tại các trạm
Số liệu quan trắc lượng mưa ngày thời kỳ 1981-2014 tại 70 trạm (Hình 2.3
và Phục lục 1) được thu thập phục vụ các nội dung nghiên cứu của luận án. Bộ số
liệu này được thu thập từ Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu
[9]. Các trạm được lựa chọn là các trạm có đầy đủ số liệu, có tính đại diện và mỗi
vùng lựa chọn 10 trạm. Bộ số liệu này đã được kiểm nghiệm và sử dụng trong xây
dựng kịch bản biến đổi khí hậu cho Việt Nam được Bộ Tài nguyên và Môi trường
xuất bản năm 2016 [9].
Hình 2.3. Vị trí của 70 trạm quan trắc được sử dụng trong nghiên cứu
48
2.2.2. Số liệu kịch bản biến đổi khí hậu được sử dụng
Các luận cứ khoa học quan trọng trong xây dựng kịch bản biến đổi khí hậu
cho Việt Nam đã được thực hiện [3]. Trên cơ sở đó, Viện Khoa học Khí tượng
Thủy văn và Biến đổi khí hậu đã xây dựng thành công bộ số liệu về kịch bản biến
đổi khí hậu từ các phương án mô hình khí hậu khu vực dựa trên phương pháp hiệu
chỉnh thống kê [9].
Trong nghiên cứu này, luận án sử dụng số liệu dự tính biến đổi khí hậu từ
mô hình PRECIS [9] theo kịch bản RCP4.5 và RCP8.5 được thu thập từ Viện
Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu. Trong đó, số liệu về lượng
mưa đã được hiệu chỉnh thống kê bằng phương pháp hiệu chỉnh phân vị [9].
Bộ số liệu kịch bản khí hậu từ mô hình PRECIS
PRECIS (Providing Regional Climates for Impacts Studies) là một mô hình
khí hậu khu vực được phát triển bởi Trung tâm Hadley, Vương quốc Anh. PRECIS
được nghiên cứu và ứng dụng trong xây dựng kịch bản biến đổi khí hậu ở Việt
Nam kể từ năm 2004 [21]. Nghiên cứu đánh giá mô phỏng và xây dựng kịch bản
biến đổi khí hậu cho khu vực Việt Nam [3] cho thấy, PRECIS mô phỏng lượng
mưa tốt hơn các phương án mô hình khác đang được ứng dụng trong xây dựng
kịch bản biến đổi khí hậu ở Việt Nam [3, 9]. Năm 2016, các sản phẩm mô phỏng
và dự tính khí hậu theo kịch bản RCP4.5 và RCP8.5 đã được sử dụng trong tài
liệu “Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam” do Bộ Tài nguyên
và Môi trường xuất bản [19].
Bộ số liệu của mô hình PRECIS có độ phân giải ngang 25x25km theo kịch
bản RCP4.5 và RCP8.5 cho các thời kỳ 1986-2005 (thời kỳ cơ sở), 2046-2065
(giữa thế kỷ 21) và 2080-2099 (cuối thế kỷ 21) được mô tả như trong Bảng 2.5.
Trong đó, mô hình PRECIS được chạy với các phương án điều kiện biên từ mô
hình toàn cầu (GCM) lần lượt tương ứng là CNRM - CM5 (PRECIS-CNRM) và
GFDL - CM3 (PRECIS-GFDL).
49
Cụ thể, các yếu tố khí hậu sau được thu thập:
- Trường gió mực 850hPa mô phỏng và dự tính được thu thập phục vụ tính
toán các đặc trưng GMMH ở khu vực Việt Nam.
- Lượng mưa ngày mô phỏng và dự tính được thu thập tại 70 trạm (Hình
2.1 và Phụ lục 1) được thu thập. Bộ số liệu mưa mô phỏng và dự tính bằng mô
hình PRECIS là số liệu đã được hiểu chỉnh thống kê bằng phương pháp hiệu chỉnh
phân vị (Quantile Mapping) [9].
Bảng 2.5. Số liệu dự tính khí hậu bằng mô hình PRECIS (Nguồn: Viện Khoa
học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu, 2016) [9]
TT Phương án mô
hình PRECIS
Điều kiện
biên từ mô
hình toàn
cầu
Độ phân
giải mô
hình
PRECIS
Kịch
bản
Các thời kỳ
Thời kỳ
cơ sở
Giữa thế kỷ 21
Cuối thế kỷ 21
1 PRECIS-CNRM CNRM-CM5 25x25km RCP4.5,
RCP8.5
1986-
2005
2045-
2064
2080-
2099
2 PRECIS-GFDL GFDL-CM3 25x25km RCP4.5,
RCP8.5
1986-
2005
2045-
2064
2080-
2099
2.3. Nhận xét cuối Chương 2
Phương pháp nghiên cứu:
Chỉ số gió mùa được đề xuất dựa trên bản chất GMMH ở khu vực Việt Nam
là gió mùa Tây Nam ở mực thấp. Kiểm nghiệm chỉ số được thực hiện đối với khả
năng phản ánh hoàn lưu quy mô lớn ở các mực khí quyển (850, 700, 500 và
300hPa); mưa GMMH ở Tây Nguyên và Nam Bộ.
Các đặc trưng của GMMH được đề cập bao gồm: Thời điểm bắt đầu, thời
điểm kết thúc, độ dài mùa, số đợt gián đoạn, cường độ, hoàn lưu gió mực 850hPa
và lượng mưa trong mùa GMMH.
50
Đánh giá biến động ISV được thực hiện thông qua phân tích diễn biến trong
mùa của các đặc trưng ở quy mô hậu và tháng.
Biến động IAV được đánh giá thông qua chỉ số thống kê và so sánh trong
các pha ENSO.
Dự tính biến động được thực hiện bằng phương pháp so sánh kết quả tính
toán chỉ số STD vào giữa (2046-2065) và cuối thế kỷ 21 (2080-2099) so với thời
kỳ cơ sở (1986-2005).
Số liệu được sử dụng:
Số liệu quá khứ bao gồm các loại số liệu sau: (1) Số liệu CFSR; (2) Chỉ số
ONI; (3) Lượng mưa ngày tại 70 trạm.
Số liệu mô phỏng (1986-2005) và dự tính (2046-2065 và 2080-2099) bằng
mô hình PRECIS theo kịch bản RCP4.5 và RCP8.5.
51
CHƯƠNG 3
ĐÁNH GIÁ BIẾN ĐỘNG CỦA MỘT SỐ
ĐẶC TRƯNG GIÓ MÙA MÙA HÈ
3.1. Đề xuất chỉ số gió mùa mùa hè cho khu vực Việt Nam
3.1.1. Xác định yếu tố và vùng chỉ số gió mùa mùa hè
Hình 3.1 trình bày kết quả tính toán trung bình kinh hướng (100oE -110oE)
thời kỳ 1981-2010 phân bố vĩ hướng (5oS - 35oN) của trường U850hPa (Hình
3.1a) và OLR (Hình 3.1b). Ở phía Bắc (21oN - 30oN) tồn tại đới gió Tây ngoại
nhiệt đới phát triển từ khoảng giữa tháng 2. Đới gió Tây này dễ gây nhầm lẫn với
GMMH. Khu vực ít chịu sự tác động của đới gió tây ngoại nhiệt đới hơn nằm ở
dưới 21oN.
Hình 3.1a cho thấy, hình thế nổi bật ở mực 850hPa là đới gió Tây nhiệt đới
(GMMH) bắt đầu phát triển mạnh mẽ (U850hPa chuyển từ âm sang dương) trên
khu vực từ 5oN đến 15oN và mở rộng dần lên phía Bắc. Đến khoảng giữa tháng 5,
đới gió Tây này bắt đầu phát triển đến khoảng 22oN. Tuy nhiên, khu vực phía Bắc
còn chịu sự tác động của đới gió Tây có nguồn gốc từ áp thấp nóng Nam Á. Trong
giai đoạn cuối của GMMH, thời điểm kết thúc của đới gió Tây diễn ra vào khoảng
tuần đầu đến tuần thứ hai của tháng 9 và diễn ra khá đồng đều trên khu vực từ
15oN đến 22oN. Sau đó, quá trình này của đới gió Tây diễn ra chậm dần về phía
Nam. Đến khoảng đầu tháng 10, GMMH gần như kết thúc hoàn hoàn. Trong đó,
quá trình kết thúc của đới gió Tây mực 850hPa trên khu vực từ 5oN đến 10oN
được diễn ra một cách tương đối đồng đều nhau về mặt thời gian.
Hình 3.1b cho thấy, quá trình phát triển đối lưu sâu bắt đầu diễn ra vào
khoảng đầu tháng 5 (OLR nhỏ hơn 220 W/m2). Sự bùng phát của đối lưu sâu diễn
ra đột ngột (nhảy vọt của ITCZ lên BCB) và tương đồng với thời điểm bắt đầu
phát triển của đới gió Tây xích đạo. Khoảng từ đầu tháng 9 đến đầu tháng 10, diễn
ra quá trình ngược lại, gió Tây được thay thế bởi gió Đông chỉ thị cho sự kết thúc
GMMH. Tuy nhiên trong giai đoạn này, giá trị OLR thấp vẫn còn tồn tại và kéo
dài đến hết tháng 12.
52
Một khía cạnh quan trọng giữa giai đoạn bắt đầu và kết thúc của GMMH
là thời gian diễn ra của các quá trình. Có thể thấy, trong đầu mùa hè, quá trình bắt
đầu gió mùa diễn ra nhanh và đột ngột, được thể hiện bởi sự thay thế rất nhanh
của gió Đông bởi gió Tây và của giá trị OLR thấp. Trong Hình 3.1, góc nghiêng
của cả trường gió và OLR trong giai đoạn đầu mùa hè lớn, gần như thẳng đứng.
Trong giai đoạn cuối mùa, góc nghiêng này nhỏ hơn rất nhiều cho thấy một quá
trình chuyển tiếp mùa diễn ra chậm hơn. Nói cách khác, trong giai đoạn đầu mùa
hè, dải hội tụ nhiệt đới có sự di chuyển nhẩy vọt lên phía Bắc, gây nên mùa mưa
ở bán cầu Bắc. Nhưng trong giai đoạn kết thúc mùa hè, dải hội tụ nhiệt đới lại có
sự di chuyển xuống phía Nam chậm và từ từ hơn. Đây là nét đặc trưng của GMMH
châu Á, điều này đã khiến cho việc xác định thời điểm kết thúc của hệ thống gió
mùa trở nên rất phức tạp.
Từ các phân tích trên cho thấy, U850hPa phản ánh rõ ràng quá trình phát
triển của GMMH trên khu vực Việt Nam. Hay nói cách khác, yếu tố phù hợp hơn
cả để xây dựng chỉ số GMMH cho khu vực Việt Nam là U850hPa. Kết quả tính
toán trên Hình 3.1a cũng cho thấy rõ sự thay đổi hoàn lưu quy mô lớn trên dải vĩ
độ từ 5oN đến 15oN. Dải vĩ độ này bao phủ phần phía Nam của lãnh thổ Việt Nam;
là khu vực ít chịu sự tác động của đới gió Tây ngoại nhiệt đới và đới gió Tây có
nguồn gốc từ áp thấp nóng Nam Á. Do vậy, U850hPa trung bình trong dải vĩ độ
từ 5oN đến 15oN có thể sử dụng để xây dựng chỉ số GMMH cho khu vực Việt
Nam.
53
Hình 3.1. Kết quả tính toán trung bình giai đoạn 1981-2010 của giá trị trung
bình kinh hướng (100oE -110oE) và phân bố vĩ hướng-thời gian từ số liệu CFSR:
a) U850hPa (m/s); b) OLR (W/m2)
54
Một khía cạnh quan trọng cần đề cập đến đó là tác động của địa hình tới
hoàn lưu GMMH. Khi đới gió Tây nhiệt đới phát triển tới bán đảo Đông Dương
sẽ chịu tác động mạnh mẽ của điều kiện bề mặt và bị biến tính. Các đặc trưng mưa
ở khu vực này, do đó cũng sẽ có sự khác biệt so với các khu vực khác của gió mùa
mùa hè Châu Á. Các nghiên cứu trước đây sử dụng giá trị gió vĩ hướng ở khu vực
rất lớn làm chỉ số cho sự phát triển của gió mùa mùa hè Châu Á [116]. Chỉ số này
mặc dù phản ánh rất tốt cường độ của gió mùa Châu Á nói chung nhưng có mối
liên hệ yếu với trường mưa ở khu vực Việt Nam. Do đặc thù nêu trên, khu vực
được lựa chọn để xây dựng chỉ số gió mùa cho khu vực Việt Nam cần đủ nhỏ để
phản ánh các đặc trưng địa phương. Tuy nhiên, khu vực được lựa chọn cũng phải
đủ lớn để vẫn phản ánh được các đặc trưng gió mùa quy mô lớn. Hơn nữa, vùng
chỉ số GMMH không nên quá hẹp và mở rộng về các khu vực chịu sự tác động
của nhiều đới gió.
Để xác định giới hạn theo kinh độ của khu vực được lựa chọn làm chỉ số
GMMH cho khu vực Việt Nam, tính toán phân bố theo không giản của các véc tơ
riêng (EOF) của U850hPa trong mùa GMMH được thực hiện (Hình 3.2). Các tính
toán được thực hiện trên phạm vi không gian trong khoảng từ xích đạo đến 30oN
và từ 60oE đến 140oE. Kết quả cho thấy, thành phần véc tơ riêng thứ nhất (Mode1)
chứa khoảng 65,9% thông tin, với hình thế trải dài từ vùng xích đạo Trung tâm
ÂĐD tới Philippine. Khi tới khu vực Việt Nam, thành phần Mode1 này mở rộng
lên phía Bắc và phát triển về phía khu vực Đông Á (Hình 3.2a). Mode1 đại diện
cho biến động của trường gió Tây nhiệt đới phát triển đến khu vực Việt Nam và
có nguồn gốc từ vùng xích đạo ÂĐD (dòng vượt xích đạo từ BCN hoặc phát sinh
tại chỗ). Mode1 phản ánh rõ nét phạm vi không gian hoạt động của GMMH châu
Á. Kết quả tính toán cũng cho thấy, thành phần véc tơ riêng thứ hai (Mode2)
chiếm khoảng 6,3% thông tin, với hình thế trải dài từ Tây TBD tới bán đảo Đông
Dương (Hình 3.2b). Mode2 đại diện cho biến động của trường gió Đông ở rìa phía
Nam của áp cao Bắc TBD. Mặc dù, Mode1 có giá trị lớn hơn khoảng 10 lần so
với Mode 2. Tuy nhiên không thể bỏ qua hoàn toàn tác động của Mode2. Tổng
55
lượng thông tin của Mode1 và Mode2 là chiếm khoảng 75,8% trên khu vực phân
tích. Hay nói cách khác, gió mùa mùa hè ở nước ta không hoàn toàn là gió mùa
điển hình, hình thế hoàn lưu không đơn giản chỉ là sự mở rộng của GMMH Ấn
Độ, mà còn chịu tác động của áp cao Bắc TBD và một số đới gió khác.
Hình 3.2a cho thấy, đới gió Tây nhiệt đới mực 850hPa phát triển đến khu
vực Việt Nam đã biến tính đáng kể so với nơi khởi phát. Phương sai của U850hPa
trong dải vĩ độ 5oN - 15oN trên lãnh thổ Việt Nam (khoảng 0,5 đến 1,5 m/s) thấp
hơn rất nhiều so với trên khu vực từ ÂĐD đến vịnh Bengal (khoảng từ 1,5 đến 3
m/s). Vùng có tín hiệu hoạt động mạnh của Mode1 mở rộng đến khoảng kinh độ
110oE. Do vậy, có thể sử dụng giới hạn phía Đông của vùng chỉ số GMMH là
110oE. Để phản ánh tốt hoàn lưu quy mô lớn, vùng lựa chọn chỉ số GMMH cần
đủ rộng để nắm bắt được vùng có tín hiệu hoạt động mạnh của đới gió Tây nhiệt
đới này. Hơn nữa, vùng xác định chỉ số GMMH cần phải xác định sao cho vùng
đất liền phía Nam (dưới 15oN) nằm ở trung tâm. Do vậy, giới hạn về kinh độ của
vùng chỉ số GMMH có thể được xác định trên khu vực từ 100oE đến 110oE. Đây
là khu vực có phương sai của Mode1 dao động từ 0,5 đến 1,5 m/s.
56
Hình 3.2. Kết quả tính toán các thành phần véc tơ riêng (Mode) của U580hPa
mùa hè (tháng 5-tháng 9) thời kỳ 1981-2010 từ số liệu CFSR: a) Mode1; b)
Mode2
Hình 3.3 cho thấy, hướng gió chủ đạo ở 850hPa trên khu vực Việt Nam là
Tây Nam. Đới gió Tây Nam này là gió Tây nhiệt đới phát triển từ BCN tới BCB,
mở rộng đến khoảng 21oN và đóng vai trò kết nối vùng khí quyển nhiệt đới hai
bán cầu. Đới gió Tây Nam này có quy mô ngang trải dài từ khu vực Đông Phi đến
Philippine. Khi đến khu vực Philippine, đới gió này yếu đi và hòa cùng với hoàn
lưu từ áp cao Bắc TBD trở thành hoàn lưu ngoại nhiệt đới. Sự xuất hiện, mạnh
lên hay yếu đi của đới gió này có liên hệ chặt chẽ với sự phát triển của đối lưu
trên quy mô lớn trải dài từ Ấn Độ, vịnh Bengal và Việt Nam.
Xét về mặt phân bố theo không gian, vùng chỉ số GMMH được đề xuất là
5oN -15oN và 100oE -110oE nằm trọn vẹn trong khu vực chịu sự chi phối ổn định
của đới gió Tây nhiệt đới trong mùa GMMH. Do vậy, U850hPa trung bình khu
vực 5oN-15oN và 100oE-110oE được lựa chọn làm chỉ số GMMH cho khu vực
Việt Nam, gọi tắt là chỉ số VSMI.
57
Công thức tính toán chỉ số VSMI được thực hiện như sau:
VSMI = U850hPa (5oN – 15oN; 100oE - 110oE)
Hình 3.3. Trường gió (m/s) mực 850hPa trung bình mùa GMMH (tháng 5 -
tháng 9) thời kỳ 1981-2010 theo số liệu CFSR. Vùng ô vuông màu đỏ là vùng đề
tính chỉ số GMMH (5oN -15oN; 100oE -110oE)
3.1.2. Kiểm nghiệm sự phù hợp của chỉ số VSMI
Kiểm nghiệm chỉ số VSMI sẽ được thực hiện thông qua đánh giá khả năng
phản ánh hoàn lưu quy mô lớn và hệ quả mưa GMMH. Phương pháp kiểm nghiệm
được thực hiện thông qua tính toán hệ số tương quan giữa chỉ số VSMI với
U850hPa và lượng mưa quan trắc tại các trạm.
3.1.2.1. Khả năng phản ánh hoàn lưu quy mô lớn
Kết quả tính toán hệ số tương quan giữa chỉ số VSMI với trường gió vĩ
hướng (U) ở các mực khí quyển (850, 700, 500 và 300hPa) được trình bày trên
Hình 3.4-Hình 3.7. Trước khi tính toán hệ số tương quan, chỉ số VSMI và trường
U ở các mực được tính trung bình mùa hè (tháng 5 đến tháng 9). Như vậy, tổng
dung lượng mẫu tham gia tính toán là 30 trong thời kỳ 1981-2010. Vùng được tô
58
màu là vùng có độ tin cậy vượt ngưỡng 95% (ứng với p-value là 0,05) theo kiểm
nghiệm t-test. Cụ thể, một số nhận xét về kết quả tính toán như sau:
- Mực 850hPa (Hình 3.4): Kết quả cho thấy, hệ số tương quan dương thỏa
mãn trên 95% độ tin cậy trên khu vực khoảng 5-23oN trải dài từ khu vực ẤĐD
đến phía Đông Philippine. Hình thế này là phù hợp với hoàn lưu gió mực 850hPa
trong mùa GMMH.
- Mực 700hPa (Hình 3.5): Hình thế của hệ số tương quan là tương tự như ở
mực 850hPa. Hay nói cách khác, chỉ số VSMI cũng phản ánh được sự phát triển
của đới gió Tây trong mùa GMMH.
- Mực 500hPa (Hình 3.6): Chỉ số VSMI thể hiện tốt hoàn lưu gió Tây với
hình thế tương tự như mực 850hPa và 700hPa. Tuy nhiên, phạm vi không gian
thu hẹp hơn khi lên cao. Ngoài ra, sự phát triển của đới gió Đông từ vùng ngoại
nhiệt đới cũng được thể hiện rõ ràng ở khu vực trên 22oN, với hệ số tương quan
từ nhỏ hơn -0,55 đến -0,35. Điều này cho thấy, bên cạnh thể hiện tốt sự phát triển
của GMMH, chỉ số VSMI cũng thể hiện được sự liên kết vùng ngoại nhiệt đới với
vùng nhiệt đới ở mực trên cao.
- Mực 200hPa (Hình 3.7): Hình thế phát triển của đới gió Đông mực 200hPa
ở khu vực trên 15oN được thể hiện rất rõ ràng bởi chỉ số VSMI, với hệ số tương
quan từ nhỏ hơn -0,55 đến 0,35.
Từ các kết quả trên cho thấy, chỉ số VSMI thể hiện rất tốt sự phát triển của
đới gió Tây từ mực thấp đến mực 500hPa. Ngoài ra, sự phát triển của đới gió
Đông ở mực trên cao (500hPa và 300hPa) cũng được chỉ số VSMI nắm bắt rất rõ
ràng. Hệ số tương quan giữa chỉ số VSMI với trường U ở các mực khí quyển thỏa
mãn trên 95% độ tin cậy, phù hợp với sự phát triển của đới gió Tây mực thấp và
đới gió Đông mực trên cao.
59
Hình 3.4. Hệ số tương quan giữa chỉ số VSMI với U850hPa trung bình mùa
GMMH (tháng 5-tháng 9) thời kỳ 1981-2010. Vùng đổ màu là vùng có hệ số
tương quan vượt 95% độ tin cậy theo kiểm nghiệm t-test
Hình 3.5. Hệ số tương quan giữa chỉ số VSMI với U700hPa trung bình mùa
GMMH (tháng 5-tháng 9) thời kỳ 1981-2010. Vùng đổ màu là vùng có hệ số
tương quan vượt 95% độ tin cậy theo kiểm nghiệm t-test
60
Hình 3.6. Hệ số tương quan giữa chỉ số VSMI với U500hPa trung bình mùa
GMMH (tháng 5-tháng 9) thời kỳ 1981-2010. Vùng đổ màu là vùng có hệ số
tương quan vượt 95% độ tin cậy theo kiểm nghiệm t-test
Hình 3.7. Hệ số tương quan giữa chỉ số VSMI với U300hPa trung bình mùa
GMMH (tháng 5-tháng 9) thời kỳ 1981-2010. Vùng đổ màu là vùng có hệ số
tương quan vượt 95% độ tin cậy theo kiểm nghiệm t-test
61
3.1.2.2. Khả năng phản ánh mưa trong mùa GMMH
Kết quả tính toán hệ số tương quan giữa chuối số liệu ở quy mô hậu thời kỳ
1981-2010 của chỉ số VSMI, SCSSM và CSHL với lượng mưa trong mùa GMMH
(từ hậu bắt đầu đến hậu kết thúc) được trình bày trên Hình 3.8. Tính từ thời điểm
bắt đầu đến thời điểm kết thúc, số dung lượng mẫu được sử dụng lên tới khoảng
gần 900 mẫu trong 30 năm nghiên cứu. Vùng được tô màu là vùng có độ tin cậy
vượt ngưỡng 95% (ứng với p-value là 0,05) theo kiểm nghiệm t-test. Cụ thể, một
số nhận xét về kết quả tính toán (Hình 3.8) như sau:
Khu vực chỉ số GMMH:
- Khu vực Tây Nguyên: Hệ số tương quan của các chỉ số với lượng mưa
GMMH đều dương và vượt ngưỡng tin cậy 99%. Điều này cho thấy, cả ba chỉ số
GMMH đều phản ánh tốt diễn biến lượng mưa GMMH ở khu vực Tây Nguyên.
Hệ số tương quan của chỉ số VSMI và SCSSM với lượng mưa có phân bố theo
không gian khá tương đồng nhau (Hình 3.8a, b). Tương quan dương với lượng
mưa GMMH được thể hiện hơn theo chỉ số CSHL (Hình 3.8c).
- Khu vực Nam Bộ: Hệ số tương quan của các chỉ số với lượng mưa GMMH
trên khu vực Nam Bộ đều dương và vượt ngưỡng tin cậy 95%. Như vậy, các chỉ
số đều phản ánh được diễn biến mưa do GMMH trên khu vực Nam Bộ. Tuy nhiên,
hệ số tương quan giữa các chỉ số này với lượng mưa trên khu vực Nam Bộ là thấp
hơn so với khu vực Tây Nguyên. Trong 3 chỉ số, chỉ số VSMI có hệ số tương
quan với lượng mưa cao hơn so với hai chỉ số còn lại (SCSSM và CSHL).
- Khu vực Nam Trung Bộ: Hệ số tương quan với lượng mưa của chỉ số
VSMI và SCSSM có phân bố theo không gian là khá tương đồng nhau. Cả hai chỉ
số này đều có tương quan thấp đối với lượng mưa ở khu vực này. Chỉ số VSMI
phản ánh rõ hơn tác động của hiệu ứng phơn do địa hình gây thời tiết khô nóng ở
khu vực này, với hệ số tương quan từ -0,2 đến -0,13 ở khu vực Nam Quảng Nam
đến Phú Yên (vượt 95% độ tin cậy) (Hình 3.8a). Điều này là do khu vực Nam
Trung Bộ nằm trung vùng tính chỉ số VSMI nên chỉ số này phản ánh tính địa
phương tốt hơn. Cả hai chỉ số này đều có hệ số tương quan dương với lượng mưa
62
ở Bình Thuận (vượt 95% độ tin cậy) (Hình 3.8a, b). Hình 3.8c cho thấy, chỉ số
CSHL có tương quan dương với lượng mưa GMMH ở hầu hết khu vực Nam Trung
Bộ. Kết quả này không phù hợp với tác động của GMMH ở khu vực.
Khu vực Bắc Bộ:
- Khu vực Bắc Bộ: Như đã đề cập đến ở trong Chương 1, diễn biến mưa
trong mùa GMMH ở khu vực này là khá tương đồng với diễn biến cường độ
GMMH. Thời kỳ cao điểm mùa mưa trùng với thời kỳ GMMH hoạt động mạnh
nhất và có trục ITCZ ngang qua khu vực. Kết quả tính toán cho thấy (Hình 3.8a,b),
hệ số tương quan với lượng mưa của chỉ số VSMI và SCSSM là khá tương đồng
nhau (vượt 95% độ tin cậy). Cả hai chỉ số này đều phản ánh được tác động của
hiệu ứng phơn do dãy núi Hoàng Liên Sơn gây thời tiết khô ở sườn phía Đông.
Điểm khác biệt khá rõ ràng giữa hai chỉ số là vùng có tương quan dương (vượt
95% độ tin cậy) trong chỉ số VSMI được mở rộng hơn về phía Đông Bắc. Như
vậy có thể thấy, chỉ số VSMI phản ánh diễn biến mưa trong mùa GMMH là phù
hợp hơn so với chỉ số SCSSM.
- Chỉ số CSHL có hệ số tương quan dương (vượt 95% độ tin cậy) ở hầu hết
khu vực Bắc Bộ. Khu vực Tây Bắc, tương quan giữa chỉ số CSHL với lượng mưa
là rất thấp (không đạt 95% độ tin cậy). (Hình 3.8c). Thực tế cho thấy, diễn biến
mưa ở Tây Bắc có quan hệ gần gũi với hoạt động của GMMH ở khu vực Việt
Nam. Ngoài ra, tác động của dãy Hoàng Liên Sơn còn gây hiệu ứng phơn ở sườn
phía Đông trong mùa GMMH. Tuy nhiên, chỉ số CSHL cũng không phản ánh
được diễn biến này. Như vậy có thể thấy, chỉ số CSHL phản ánh tốt diễn biến mưa
trong mùa GMMH ở các khu vực Đông Bắc và Đồng Bằng Bắc Bộ. Tuy nhiên,
chỉ số này không phản ánh được diễn biến mưa trong mùa GMMH ở khu vực Tây
Bắc và sườn phía Đông của dãy Hoàng Liên Sơn.
Khu vực Bắc Trung Bộ:
- Nhìn chung, hệ số tương quan với lượng mưa có phân bố tương đồng nhau
theo chỉ số VSMI và SCSSM (Hình 3.8a, b). Cả hai chỉ số này đều phản ánh tương
quan dương (vượt 95% độ tin cậy) ở khu vực Thanh Hóa - Nghệ An và đều có
63
tương quan yếu với lượng mưa ở các địa phương khác. Điều này là do, diễn biến
lượng mưa ở khu vực Bắc Trung Bộ là rất phức tạp và chịu sự tác động của nhiều
nhân tố. Điểm khác biệt rõ ràng giữa hai chỉ số này là hiệu ứng phơn gây thời tiết
khô nóng khi cường độ GMMH mạnh được thể hiện ở khu vực Hà Tĩnh theo chỉ
số VSMI (hệ số tương quan từ -0,2 đến -0,13: vượt 95% độ tin cậy).
- Ngược lại với hai chỉ số nêu trên, chỉ số CSHL (Hình 3.8c) có tương quan
dương với lượng mưa trên toàn bộ khu vực Bắc Trung Bộ. Điều này là không phù
hợp với diễn biến thực tế của mưa trong mùa GMMH ở khu vực Việt Nam.
Cả ba chỉ số được so sánh đều được tính toán từ trường U850hPa để xây
dựng. Nhưng do khác nhau về cách tính và vùng tính chỉ số, dẫn đến khả năng
phản ánh diễn biến lượng mưa trong mùa GMMH của các chỉ số là khác nhau.
- Chỉ số CSHL được xây dựng nhằm phản ánh hoạt động của GMMH ở
khu vực Nam Bộ. Chỉ số này có xét đến hoàn lưu gió ở các vĩ độ thuộc phía Nam
Trung Quốc - Bắc Biển Đông. Hay nói cách khác, tác động của hoàn lưu ở phía
Bắc cũng được đúc kết trong chỉ số này. Do vậy, hệ số tương quan giữa chỉ số
CSHL với lượng mưa phổ biến là tương quan dương trên hầu hết diện tích cả
nước. Chỉ số VSMI khác với chỉ số SCSSM về khu vực tính toán, nhưng tương
đồng nhau về cách tính toán. Do vậy, phân bố theo không gian của hệ số tương
quan với lượng mưa là tương đồng nhau. Tuy nhiên, chỉ số VSMI phản ánh rõ nét
diễn biến mưa ở các địa phương hơn so với chỉ số SCSSM.
- Chỉ số VSMI là phù hợp hơn chỉ số SCSSM và CSHL trong phản ánh diễn
biến hệ quả mưa trong mùa GMMH ở khu vực Việt Nam. Điều này có thể thấy rõ
qua khả năng phản ánh diễn biến mưa ở các khu vực có mùa mưa trùng với mùa
GMMH như Tây Nguyên, Nam Bộ và Bắc Bộ. Đặc biệt, tác động của địa hình
gây hiệu ứng phơn tạo thời tiết khô nóng cũng được thể hiện thông qua chỉ số
VSMI. Do vậy, việc sử dụng chỉ số VSMI trong đánh giá biến động của các đặc
trưng GMMH ở khu vực Việt Nam là phù hợp hơn cả.
Như vậy, chỉ số VSMI phản ánh rõ nét hơn diễn biến mưa trong mùa
GMMH ở các vùng khí hậu so với các chỉ số SCSSM và CSHL. Đối với các vùng
64
chịu sự tác động trực tiếp, hệ quả mưa do GMMH được thể hiện tốt ở khu vực
Tây Nguyên và Nam Bộ (vượt ngưỡng 95% dộ tin cậy). Ngoài ra, chỉ số VSMI
cũng phản ánh được hiệu ứng phơn do địa hình gây thời tiết khô nóng ở khu vực
Trung Bộ. Đối với các khu vực khác, diễn biến mưa ở địa phương trong mùa
GMMH cũng được thể hiện phù hợp.
(a) (b)
Hình 3.8. Hệ số tương qua giữa các chỉ
số GMMH với lượng mưa quan trắc
thời kỳ 1981-2010 trung bình hậu
(pentad) trong các tháng mùa hè (tháng
5 - tháng 9): (a) Chỉ số VSMI; (b) Chỉ
số SCSSM; (c) CSHL. Giá trị hệ số
tương quan lớn hơn 0,1 (tô màu) thỏa
mãn độ tin cậy thống kê 95%
(c)
102°E 104°E 106°E 108°E 110°E 112°E 114°E
8°N
10°N
12°N
14°N
16°N
18°N
20°N
22°N
24°N
Trung quèc
C¨m pu chia
Th¸i Lan
-0.6
-0.4
-0.3
-0.2
-0.13
0
0.13
0.2
0.3
0.4
102°E 104°E 106°E 108°E 110°E 112°E 114°E
8°N
10°N
12°N
14°N
16°N
18°N
20°N
22°N
24°N
Trung quèc
C¨m pu chia
Th¸i Lan
-0.6
-0.4
-0.3
-0.2
-0.13
0
0.13
0.2
0.3
0.4
102°E 104°E 106°E 108°E 110°E 112°E 114°E
8°N
10°N
12°N
14°N
16°N
18°N
20°N
22°N
24°N
Trung quèc
C¨m pu chia
Th¸i Lan
-0.6
-0.4
-0.3
-0.2
-0.13
0
0.13
0.2
0.3
0.4
65
Nhận xét về chỉ số VSMI:
Phương pháp tính và khả năng áp dụng: Chỉ số VSMI được tính bằng
U850hPa trung bình khu vực 5oN -15oN và 100oE -110oE. Đây là chỉ số đơn giản
và có thể ứng dụng trong giám sát, dự báo và đánh giá biến động của GMMH ở
khu vực Việt Nam. Kết quả phân tích cũng cho thấy, chỉ số VSMI phản ánh rõ
ràng diễn biến hoạt động của đới gió Tây mực 850hPa. Hay nói cách khác, các
đặc trưng như thời điểm bắt đầu, kết thúc, gián đoạn và cường độ của GMMH ở
khu vực Việt Nam được tính toán thông qua chỉ số VSMI.
Phản ánh tốt hoàn lưu quy mô lớn và hệ quả mưa: Chỉ số VSMI phản ánh
tốt hoàn lưu quy mô lớn ở các mực khí quyển (850, 700, 500 và 300hPa) trong
mùa GMMH ở khu vực Việt Nam. Trong đó, không chỉ thể hiện tốt sự phát triển
của đới gió Tây mực thấp, chỉ số VSMI cũng thể hiện được sự phát triển của đới
gió Đông mực trên cao có nguồn gốc ngoại nhiệt đới. Đối với quy mô địa phương,
kết quả kiểm nghiệm cho thấy chỉ số VSMI nắm bắt được hệ quả mưa trong mùa
GMMH ở các vùng khí hậu
So sánh với chỉ số CSHL: Chỉ số CSHL [26] được đề xuất cho khu vực Nam
Bộ và có khả năng phản ánh hệ quả mưa do hoạt động của GMMH ở khu vực Tây
Nguyên và Nam Bộ. Tuy nhiên, CSHL có tương quan dương với lượng mưa ở khu
vực Trung Bộ và không thể hiện được mưa trong mùa GMMH ở khu vực Tây Bắc.
Chỉ số này có tương quan đồng biến với lượng mưa ở khu vực Trung Bộ có thể là
do cách tính chỉ số có xét đến hoàn lưu ở phía Nam Trung Quốc-Bắc Biển Đông.
Do vậy, CSHL phù hợp cho mô tả diễn biến hoạt động của GMMH ở khu vực Nam
Bộ, nhưng không phù hợp để đại diện cho hoạt động của GMMH ở khu vực Việt
Nam.
So sánh với chỉ số SCSSM: Điểm khác biệt giữa chỉ số VSMI với chỉ số
SCSSM [112] là ở khu vực tính toán chỉ số. Chỉ số VSMI được tính toán trên khu
vực bao trùm phần lãnh thổ đất liền Việt Nam chịu sự tác động của GMMH. Khu
vực tính toán chỉ số VSMI được lựa chọn dựa trên phân tích vùng có tín hiệu hoạt
động mạnh mẽ và ổn định nhất của GMMH. Trong khi đó, khu vực tính toán chỉ
66
số SCSSM bao trùm phía Nam Biển Đông. Do sự khác biệt về miền tính, dẫn đến
những khác nhau đáng kể giữa hai chỉ số này:
- Do khu vực tính toán ở phía Nam Biển Đông, chỉ số SCSSM chịu sự tác
động thường xuyên hơn bởi hoàn lưu từ khu vực GMMH Tây TBD và hoạt động
của tín phong. Do vậy, các đặc trưng của GMMH tính toán từ chỉ số SCSSM sẽ
khác với tính từ chỉ số VSMI. Tính theo chỉ số SCSSM, thời điểm bắt đầu đến
muộn hơn và thời điểm kết thúc gió mùa Tây Nam đến sớm hơn so với tính theo
chỉ số VSMI. Số đợt gián đoạn hoạt động của gió mùa Tây Nam tính theo chỉ số
SCSSM lớn hơn so với theo cách tính từ chỉ số VSMI. Do vậy, cường độ của gió
mùa sẽ yếu hơn và độ dài mùa ngắn hơn theo cách tính bằng chỉ số SCSSM so với
chỉ số VSMI.
- Chỉ số SCSSM và chỉ số VSMI đều phản ánh tốt diễn biến mưa trong mùa
GMMH ở các khu vực trên lãnh thổ Việt Nam. Mặc dù vậy, hệ số tương quan với
lượng mưa của chỉ số VSMI là rõ ràng hơn so với chỉ số SCSSM. Hay nói cách
khác, chỉ số VSMI phản ánh tính địa phương của diễn biến mưa trong mùa GMMH
ở các khu vực Việt Nam tốt hơn so với chỉ số SCSSM.
Từ những phân tích trên cho thấy, chỉ số VSMI là phù hợp hơn so với chỉ số
CSHL và SCSSM trong phản ánh hoạt động và hệ quả mưa GMMH trên khu vực
Việt Nam. Do vậy, chỉ số VSMI được lựa chọn để xác định các đặc trưng GMMH
ở khu vực Việt Nam trong nghiên cứu của luận án.
3.2. Biến động nội mùa của các đặc trưng gió mùa mùa hè
3.2.1. Biến động nội mùa của các đặc trưng quy mô lớn
Thời điểm bắt đầu GMMH ở khu vực Việt Nam xảy ra vào hậu thứ 27 (ngày
11/5), là thời điểm chỉ số VSMI chuyển từ dấu “âm” sang dấu “dương”. Ngược
lại, thời điểm kết thúc hoạt động của GMMH vào hậu 58 (ngày 11/10), là thời
điểm VSMI chuyển từ dấu “dương” sang dấu “âm”. Trung bình giai đoạn 1981-
2010, mùa GMMH kéo dài trong 30 hậu (tương ứng 150 ngày). Trung mình thời
kỳ 1981-2010, cường độ GMMH đạt giá trị 4,97m/s. Tuy nhiên, cường độ GMMH
không duy trì ổn định trong cả mùa, mà biến động rõ ràng qua các thời kỳ khác.
67
Biến động ISV của cường độ GMMH là rõ ràng với hệ số biến thiên (Cv) là 45,4%
(tương ứng STD là 2,26 m/s) (Hình 3.9).
Từ khi bắt đầu hoạt động (vào hậu thứ 27), cường độ GMMH liên tục được
tăng cường đều đặn và đạt cực đại lần thứ nhất vào hậu thứ 36 (VSMI đạt giá trị
là 6,7 m/s). Sau khi đạt cực đại, cường độ GMMH bắt đầu suy yếu dần và đạt cực
tiểu vào hậu thứ 40 (VSMI đạt giá trị 5,0 m/s). Sau đó, cường độ GMMH lại tiếp
tục được tăng cường và đạt cực đại lần thứ hai vào hậu thứ 44 (VSMI đạt giá trị
7,44 m/s). Ngày sau khi đạt cực đại lần thứ hai, cường độ GMMH tiếp tục trải qua
quá trình suy yếu dần, đạt ngưỡng giá trị trung bình mùa vào hậu thứ 51 và kết
thúc vào hậu thứ 57 (Hình 3.7). Như vậy, biến động ISV của cường độ GMMH
có dạng hai cực đại và xen giữa là một cực tiểu. Chu kỳ biến động ISV của cường
độ GMMH trung bình thời kỳ 1981-2010 là 35 - 85 ngày.
Hình 3.9. Diễn biến cường độ GMMH trung bình hậu (m/s) ở khu vực Việt Nam
(chỉ số VSMI trung bình hậu) thời kỳ 1981-2010 theo số liệu CFSR
Biến động của cường độ GMMH gắn liền với biến động của hoàn lưu quy
mô lớn mực 850hPa (Hình 3.10) và độ cao địa thế vị (HGT) (Hình 3.8). Trong đó,
những biến động của hoàn lưu gió và HGT rõ ràng nhất ở khu vực Trung tâm xích
đạo ẤĐD và vùng biển phía Đông Trung Quốc. Sự biến động này gắn liền với dị
thường xoáy nghịch/xoáy thuận và tăng/giảm của HGT. Kết quả tính toán chuẩn
68
sai của trường gió mực 850hPa so với trung bình mùa GMMH (Hình 3.10) cho
thấy rõ điều này như sau:
- Trong tháng 5, hình thế nổi bật là dị thường xoáy nghịch ở Tây Bắc TBD
với rìa phía Tây bao phủ Việt Nam và xoáy thuận ở khu vực xích đạo ÂĐD. Dị
thường xoáy thuận ở khu vực xích đạo ÂĐD đóng vai trò tạo điều kiện thuận lợi
cho dòng vượt xích đạo được hình thành và tăng cường. Thời điểm này, dòng vượt
xích đạo chủ yếu xuất hiện ở khu vực phía Đông Nam biển Ả Rập và Vịnh Bengal.
Trong thời gian này, hoạt động của GMMH chưa mạnh ở khu vực Việt Nam là do
tác động của áp cao Bắc TBD (Hình 3.10a).
- Sang tháng 6, chứng kiến sự biến đổi đáng chú ý về trường hoàn lưu khi
áp cao Bắc TBD dịch chuyển lên phía Bắc, với trục ở vị trí khoảng 20oN và gần
như không tác động tới Việt Nam. Bên cạnh đó, dị thường xoáy thuận ở khu vực
ÂĐD cũng dịch chuyển lên phía Bắc. Sự thay đổi trong hoàn lưu quy mô lớn này
đã tạo điều kiện cho đới gió Tây được tăng cường, với dị thường dương của gió
Tây mở rộng tới Việt Nam (Hình 3.10b).
- Đến tháng 7, áp cao Bắc TBD tiếp tục di chuyển lên phía Bắc với trục ở
vị trí vào khoảng 25oN. Trong thời gian này, dòng xiết Somali hoạt động mạnh,
dòng vượt xích đạo chủ yếu phát triển ở Đông Phi. Đây cũng là thời kỳ hoạt động
mạnh mẽ nhất ở của GMMH châu Á (Hình 3.10c).
- Đến tháng 8, áp cao Bắc TBD yếu hơn và dịch chuyển dần xuống phía
Nam so với tháng 7. Trên khu vực ÂĐD, dòng xiết Somali hoạt động yếu hơn so
với tháng 7. Dòng vượt xích đạo phát triển mạnh ở quy mô ngang lớn (tới
Phillipine) và nằm dưới 15oN (Hình 3.10d).
- Sự thay đổi mạnh nhất diễn ra trong giai đoạn suy yếu và kết thúc GMMH
(tháng 9 - tháng 10). Hình thế nổi bật của dị thường gió mực 850hPa là sự phát
triển của gió Đông trên khu vực từ phía Đông Trung Quốc tới biển Ả Rập (Hình
3.10e, f).
69
70
Hình 3.10. Chuẩn sai trường gió mực 850hPa (m/s) so với trung bình mùa trong
giai đoạn 1981-2010 theo số liệu CFSR: (a) tháng 5, (b) tháng 6, (c) tháng 7, (d)
tháng 8, (e) tháng 9 và (f) tháng 10
71
Biến động của trường gió mực 850hPa là phù hợp với biến động của trường
HGT mực 850hPa. Kết quả trên Hình 3.11 cho thấy, biến động của trường HGT
nổi bật nhất là hai xu thế trái ngược nhau ở Tây Bắc TBD và ÂĐD. Trong tháng
6, HGT tại ÂĐD giảm mạnh; ngược lại xu thế tăng mạnh ở khu vực Tây Bắc TBD
(Hình 3.8a). Trong các tháng tiếp theo, HGT tại Tây Bắc TBD giảm dần, thể hiện
sự di chuyển của áp cao này lên phía Bắc (Hình 3.8b, c, d). Cùng thời gian này,
giá trị HGT tại trung tâm ÂĐD lại tăng lên, cho thấy sự hoạt động mạnh của áp
cao cận nhiệt đới biển Ả Rập. Như vậy trong giai đoạn đầu mùa, áp cao tại Ả Rập
yếu đi đã tạo điều kiện cho đới gió Tây từ BCN phát triển lên phía Bắc và mùa
mưa bắt đầu. Trong giai đoạn chính mùa, dải áp cao này dịch chuyển lên phía Bắc
tạo điều kiện thuận lợi cho đới gió Tây duy trì đều đặn.
72
Hình 3.11. Chuẩn sai của trường HGT mực 850hPa (gpm) so với trung bình mùa
trong giai đoạn 1981-2010 theo số liệu CFSR: (a) tháng 6, (b) tháng 7, (c) tháng
8 và (d) tháng 9
3.2.2. Diễn biến quy mô lớn trong thời kỳ bắt đầu và kết thúc gió mùa mùa hè
3.2.2.1. Thời kỳ bắt đầu gió mùa mùa hè
Hoàn lưu gió mực 850hPa:
Tại thời điểm trước khi bắt đầu GMMH (Hình 3.12a), đới gió Tây chi phối
ở khu vực xích đạo ÂĐD và vịnh Bengal. Trong thời gian này, hoàn lưu ở khu
vực Biển Đông chịu sự chi phối bởi áp cao Bắc TBD. Trên khu vực lục địa Ấn
Độ, gió Tây cũng đã xuất hiện. Tuy nhiên, đới gió Tây này là đới gió Tây ngoại
73
nhiệt đới, không phải GMMH, nên thời điểm này vẫn chưa phải là mùa mưa ở Ấn
Độ.
Tại thời điểm hậu bắt đầu GMMH (Hình 3.12b), đới gió Tây bùng phát hoạt
động ở khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ. Ở thời điểm này, gió Tây xích đạo tại
Sri Lanka và Ấn Độ tiếp tục được tăng cường và phát triển đến Việt Nam. Trong
khi đó, lưỡi áp cao Bắc TBD rút lui dần sang phía Đông. Mặc dù là thời điểm bắt
đầu GMMH, nhưng tốc độ gió Tây quan sát được là khá yếu. Điều này có thể là
do tác động của dòng phân kỳ từ áp cao Bắc TBD, khiến gió Tây phát triển đến
lãnh thổ Việt Nam bị suy yếu (Hình 3.12b).
Thời điểm sau khi bắt đầu GMMH (Hình 3.13c), hình thế rõ ràng so với
thời điểm bắt đầu là sự rút lui của lưỡi áp cao Bắc TBD về phía Đông rõ ràng hơn.
Thời điểm này, hoàn lưu của áp cao Bắc TBD hầu như không ảnh hưởng đến lãnh
thổ Việt Nam. Gió tây tại khu vực Sri Lanka tiếp tục phát triển mạnh mẽ và thống
trị khu vực rộng lớn, kéo dài đến bán đảo Đông Dương.
Như vậy, sự thay đổi rõ ràng nhất về hoàn lưu quy mô lớn được quan sát
thấy là hình thế tăng cường đới gió Tây rõ ràng nhất là giữa thời điểm bắt đầu và
thời điểm trước đó. Sang thời điểm sau khi bắt đầu, sự khác nhau về hoàn lưu thể
hiện sự rút lui dần về phía Đông của lưỡi áp cao Bắc TBD. Hay nói cách khác,
quá trình bắt đầu của GMMH diễn ra rất nhanh và chỉ trong khoảng 5 ngày (1
hậu).
74
Hình 3.12. Diễn biến trường gió mực 850hPa tại các thời điểm trong quá trình
bắt đầu GMMH ở Việt Nam: (a) Hậu trước bắt đầu (pentad-1); (b) Hậu bắt đầu
(Pentad 0); (c) Hậu sau bắt đầu (pentad+1)
75
Biến động OLR (đối lưu) là khá rõ ràng trong thời kỳ bắt đầu GMMH ở
Việt Nam. Vao thời điểm trước khi bắt đầu GMMH (Hình 3.13a), chuỗi OLR có
giá trị lớn bao phủ hoàn toàn Tây Bắc TBD và Ấn Độ, biểu thị cho sự phát triển
của dải áp cao cận nhiệt đới tại hai khu vực này. Việt Nam nằm giữa hai trung
tâm OLR cao và kết nối hai áp cao này, với giá trị OLR khoảng 230-240 W/m2.
Phía Nam của dải áp cao này, hình thành một khu vực có OLR thấp, đại diện cho
sự phát triển của đối lưu sâu tại khu vực bán đảo Malaysia. Vào thời điểm bắt đầu
GMMH (Hình 3.13b), lưỡi áp cao Bắc TBD dịch chuyển về phía Đông, đối lưu
sâu từ Malaysia phát triển tới Việt Nam, đánh dấu thời điểm bắt đầu hoạt động
GMMH. Sang thời điểm sau bắt đầu (Hình 3.13c), sự rút lui rất nhanh sang phía
Đông của lưỡi áp cao Bắc TBD. Quá trình rút lui này tiếp tục tạo điều kiện để đối
lưu sâu từ phía Nam phát triển lên phía Bắc gây mưa tại bán đảo Đông Dương
(Hình 3.13c).
Hình 3.14 trình bày kết quả tính toán trường gió (m/s) và nhiệt độ (K) mực
300hPa trung bình các thời điểm trong quá trình bắt đầu GMMH (pentad-1,
pentad0 và pentad+1). Kết quả tính toán cho thấy, hoàn lưu xoáy nghịch di chuyển
dần từ BCN lên BCB ở khu vực Nam Á. Sự thay đổi này hình thành khu vực gió
Đông trên khu vực từ Nam Á tới Tây TBD. Hoàn lưu xoáy nghịch này có vai trò
quan trọng trong việc hình thành nên đới gió Tây mực thấp do định luật bảo toàn
mô men động lượng. Với sự di chuyển lên phía Bắc của hoàn lưu xoáy nghịch
mực cao và sự hình thành của đới gió Tây mực thấp, cấu trúc thẳng đứng của khí
quyển trong giai đoạn bắt đầu GMMH có sự đảo ngược quy mô lớn.
76
Hình 3.13. Diễn biến trường gió OLR (W/m2) tại các thời điểm trong quá trình
bắt đầu GMMH ở Việt Nam: (a) Hậu trước bắt đầu (pentad-1); (b) Hậu bắt đầu
(Pentad 0); (c) Hậu sau bắt đầu (pentad+1)
77
Hình 3.14. Nhiệt độ (K) và trường gió (m/s) mực 300hPa trung bình trong giai
đoạn 1981-2010 tương ứng với các pentad trong giai đoạn bắt đầu GMMH: (a)
Hậu trước bắt đầu (pentad-1); (b) Hậu bắt đầu (Pentad 0); (c) Hậu sau bắt đầu
(pentad+1)
78
Theo quan điểm cổ điển, tương phản đốt nóng giữa lục địa và đại dương là
nguyên nhân chính dẫn đến sự hình thành của gió mùa mùa hè Châu Á. Tuy nhiên
đốt nóng bề mặt không đủ để dẫn đến sự chuyển mùa rất nhanh của gió mùa mùa
hè Châu Á. Để phản ứng với sự đốt nóng bề mặt, khí quyển phải cần một thời gian
rất dài (khoảng 100 ngày) để có thể sinh ra hoàn lưu nghịch như được phân tích ở
trên.
Kết quả phân tích (Hình 3.14) cho thấy, trước khi GMMH bắt đầu, khí
quyển mực trên cao tại khu vực xích đạo Indonesia có nhiệt độ cao, ứng với sự
đốt nóng do đối lưu rất mạnh. Các trung tâm đốt nóng này có xu hướng di chuyển
dần lên phía Bắc, kéo theo là hoàn lưu xoáy nghịch mực cao. Trong thời gian này,
khu vực có nhiệt độ lớn hơn 243,50K chỉ giới hạn ở phía Nam Việt Nam (Hình
3.14a). Đến thời điểm bắt đầu GMMH, khu vực có nhiệt độ cao mở rộng lên phía
Bắc và Đông. Trong thời gian này, khu vực khí quyển mực cao ở Việt Nam có
nhiệt độ cao hơn so với khu vực cùng kinh độ ở BCN, đánh dấu sự đảo ngược của
gradient nhiệt độ kinh hướng mực cao. Sự đảo ngược gradient nhiệt độ kinh hướng
kéo theo sự đảo ngược độ đứt gió thẳng đứng, đồng thời làm tăng cường gió Tây
mực thấp (Hình 3.14b).
Như vậy có thể thấy, cơ chế vật lý thật sự của bắt đầu GMMH ở Việt Nam
có liên quan chặt chẽ với đốt nóng khí quyển mực trên cao do giải phỏng ẩn nhiệt
từ hoạt động đối lưu trong giai đoạn trước khi bắt đầu GMMH.
3.2.2.2. Thời kỳ kết thúc gió mùa mùa hè
Hình thế nổi bật nhất ở mực 850hPa trong thời kỳ kết thúc GMMH là sự
rút lui của đới gió Tây về phía Tây và sự lấn sâu của lưỡi áp cao Bắc TBD về phía
Tây. Do nằm trong khu vực giao tranh của các đới gió mùa, hình thế hoàn lưu quy
mô lớn mực 850hPa không có sự thay đổi nhiều trong quá trình kết thúc GMMH
(Hình 3.15). Tại thời điểm trước khi kết thúc GMMH (Hình 3.15a), lưỡi áp cao
lấn sâu xuống bờ biển Nam Trung Bộ. Vào thời điểm này, hoàn lưu ở khu vực
Biển Đông (từ quần đảo Trường Sa trở lên) chịu sự chi phối bởi áp cao Bắc TBD.
Đới gió Tây tồn tại ở khu vực đất liền và vùng biển phía Nam quần đảo Trường
79
Sa (Hình 3.15a). Đến thời điểm kết thúc GMMH (Hình 3.15b), lưỡi áp cao lấn
sâu về phía Tây sang lãnh thổ Campuchia. Trong thời gian này, lưỡi áp cao Bắc
TBD chi phối hoàn lưu ở hầu hết khu vực đất liền. Sang thời điểm sau khi kết thúc
GMMH (Hình 3.15c), lưỡi áp cao tiếp tục lấn xa hơn về phía Tây. Nhìn chung,
hình thế hoàn lưu quy mô lớn mực 850hPa tại thời điểm này không khác nhiều so
với thời điểm kết thúc GMMH.
Diễn biến của trường OLR (Hình 3.16) trong giai đoạn kết thúc GMMH co
thể nhận thấy rõ ràng nhất có thể nhận thấy là sự lấn sâu dần của lưỡi áp cao Bắc
TBD và gia tăng HGT tại khu vực Ấn Độ. Tại thời điểm kết thúc GMMH (Hình
3.16b), dải đối lưu quy mô lớn vẫn tồn tại và thống trị tại Đông Dương và
Malaysia. Tại thời điểm sau khi kết thúc (Hình 3.16c), dải đối lưu này di chuyển
chậm xuống phía Nam. Tuy nhiên, giá trị của OLR vẫn thấp và phản ánh hoạt
động đối lưu xích đạo vẫn phát triển mạnh.
Trong suốt mùa GMMH, quá trình đốt nóng do ẩn nhiệt từ đối lưu khiến
cho khí quyển mực trên cao ở BCB (tại khu vực châu Á) có nhiệt độ cao hơn hẳn
so với ở BCN. Khác với giai đoạn bắt đầu, giai đoạn kết thúc (Hình 3.17) diễn ra
chậm hơn, các tín hiệu về nhiệt độ cũng không rõ ràng như giai đoạn bắt đầu.
Gradient nhiệt độ kinh hướng được nhận thấy giảm mạnh trong giai đoạn kết thúc
GMMH. Tuy nhiên không diễn ra sự đảo ngược gradient nhiệt độ trong giai đoạn
này. Điều này khiến cho mùa mưa có xu hướng kết thúc chậm hơn và kéo dài hơn.
Như vậy, so với thời kỳ bắt đầu, vai trò của ẩn nhiệt đối với quá trình rút
lui của GMMH là rất mờ nhạt.
80
Hình 3.15. Diễn biến trường gió mực 850hPa tại các thời điểm trong quá trình
kết thúc GMMH ở Việt Nam: (a) Hậu trước kết thúc (pentad-1); (b) Hậu kết
thúc (Pentad0); (c) Hậu sau kết thúc (pentad+1)
81
Hình 3.16. Diễn biến trường gió OLR (W/m2) tại các thời điểm trong quá trình
bắt đầu GMMH ở Việt Nam: (a) Hậu trước kết thúc (pentad-1); (b) Hậu kết thúc
(Pentad0); (c) Hậu sau kết thúc (pentad+1)
82
Hình 3.17. Nhiệt độ và trường gió mực 300hPa trung bình 1981-2010 trong giai
đoạn kết thúc GMMH: (a) Hậu trước kết thúc (pentad-1); (b) Hậu kết thúc
(Pentad0); (c) Hậu sau kết thúc (pentad+1)
83
3.2.3. Biến động nội mùa của lượng mưa theo số liệu quan trắc
Khu vực Tây Nguyên
Trung bình mùa GMMH, lượng mưa ở khu vực Tây Nguyên là 9,17
mm/ngày. Tuy nhiên, lượng mưa có sự phân hóa rõ ràng theo không gian, với giá
trị dao động từ 5,49 (tại M’ĐRắk) đến 12,40 mm/ngày (tại Bảo Lộc) (Bảng 3.1).
Trong đó, lượng mưa thấp nhất ở các trạm thuộc khu vực phía Đông của Trung
tâm khu vực Tây Nguyên. Lượng mưa lớn nhất ở khu vực phía Nam Tây Nguyên;
sau đó đến khu vực phía Bắc và dải phía Tây. Sự phân hóa lượng mưa một cách
rõ ràng theo không gian trong mùa GMMH là do tác động của địa hình.
Trung bình khu vực, lượng mưa trong mùa GMMH biến động ISV với chỉ
số Cv là 23,82% (Bảng 3.1) và chuẩn sai so với trung bình mùa dao động từ -2,4
đếm 2,62 mm/ngày (Hình 3.18). Biến động ISV của lượng mưa cũng có sự phân
hóa rõ ràng theo không gian ở khu vực Tây Nguyên, với chỉ số Cv dao động từ
14,83 (tại trạm Đà Lạt) đến 44,46% (tại trạm M’ĐRắk). Trong đó, biến động ISV
của lượng mưa diễn ra mạnh mẽ nhất ở các trạm có lượng mưa thấp và ít hơn ở
các trạm có lượng mưa lớn (Bảng 3.1). Về tính chất biến động có thế thấy rõ qua
các thời kỳ tăng/giảm, với chu kỳ 70-80 ngày. Quá trình kết thúc mùa mưa diễn
ra nhanh và phù hợp với diễn biến cường độ GMMH hơn so với quá trình bắt đầu
(Hình 3.18). Cụ thể, các giai đoạn biến động của lượng mưa GMMH ở khu vực
Tây Nguyên như sau:
Giai đoạn thứ nhất kéo dài từ thời điểm (hậu 27) đến hậu 40, lượng mưa
duy trì ở mức từ 6,43 đến 8,98 mm/ngày, thấp hơn trung bình mùa từ -2,4 đến -
0,4 mm/ngày. Giai đoạn có lượng mưa thấp hơn trung bình mùa này kéo dài liên
tục trong 14 hậu (tương ứng 70 ngày). Một điểm đáng chú ý khác, không có sự
gia tăng lượng mưa đột biến trong giai đoạn bắt đầu GMMH như sự thay đổi của
cường độ GMMH.
Giai đoạn thứ hai tồn tại từ hậu 41 đến hậu 56, với lượng mưa phổ biến từ
9,27 mm/ngày đến 11,68 mm/ngày, lớn hơn trung bình mùa từ 0,21 đến 2,62
mm/ngày. Đây là giai đoạn có lượng mưa lớn hơn trung bình mùa được duy trì
84
liên tục trong 16 hậu (tương ứng 80 ngày). Trong giai đoạn này, lượng mưa có hai
lần đạt cực đại tương ứng vào hậu 43 (trước hậu cực đại lần thứ hai của cường độ
GMMH) và hậu 52 (trong giai đoạn suy yếu GMMH), với lượng mưa lần lượt là
11,61 mm/ngày và 11,68 mm/ngày.
Tại thời điểm kết thúc GMMH (hậu 57), lượng mưa giảm nhanh và thấp
hơn so với trung bình mùa GMMH khoảng 0,73 mm/ngày. Xu thế giảm nhanh
của lượng mưa tiếp tục diễn ra trong các hậu tiếp theo. Quá trình này đánh dấu
quá trình kết thúc mùa mưa ở khu vực Tây Nguyên. Điều này cho thấy, quá trình
kết thúc mùa mưa ở khu vực Tây Nguyên là khá phù hợp với sự kết thúc GMMH.
Bảng 3.1. Lượng mưa GMMH (mm/ngày) và chỉ số Cv (%) thời kỳ 1981-2010
tại các trạm thuộc khu vực Tây Nguyên
Tên trạm Đặc trưng thống kê
Lượng mưa trung bình (mm/ngày)
Biến suất (Cv) (%)
Ayunpa 5,55 29,65
Bảo Lộc 12,40 20,75
B.M. Thuột 8,96 16,32
Đắk Nông 12,18 20,25
Đắk Tô 9,78 23,90
Đà Lạt 8,75 14,83
Kon Tum 9,35 18,17
Liên Khương 7,22 26,86
M'ĐRắk 5,49 44,46
PLây cu 12,02 23,01
Trung bình 9,17 23,82
85
Hình 3.18. Diễn biến lượng mưa quy mô hậu (mm/ngày) và chuẩn sai lượng
mưa (mm/ngày) so với trung bình mùa GMMH ở khu vực Tây Nguyên
Khu vực Nam Bộ
Trung bình mùa GMMH, lượng mưa khu vực Nam Bộ là 8,99 mm/ngày.
Tuy nhiên, lượng mưa ở khu vực Nam Bộ cũng phân hóa rõ ràng theo không gian,
với giá trị dao động từ 6,81 (tại trạm Mỹ Tho) đến 13,67 mm/ngày (tại trạm Phước
Long). Nhìn chung, sự phân hóa thể hiện lượng mưa thấp hơn ở các địa phương
ở rìa phía Đông và cao hơn ở rìa phía Tây của khu vực (Bảng 3.2).
Lượng mưa ở khu vực Nam Bộ cũng thể hiện rõ biến động ISV với chỉ số
Cv là 18,98% và chuẩn sai dao động từ -1,93 (hậu 29) đến 3,13 mm/ngày (hậu
55). Biến động ISV cũng thể hiện rõ sự phân hóa theo không gian, với chỉ số Cv
dao động từ 14,09 (tại trạm Bạc Liêu) đến 26,13% (tại trạm Mỹ Tho). Trong đó,
biến động của lượng mưa diễn ra mạnh mẽ nhất tại các trạm có lượng mưa thấp;
ít biến động hơn ở các trạm có lượng mưa lớn (Bảng 3.2). Về tính chất biến động,
có thể phân chia thành các giai đoạn tăng/giảm với chu kỳ 40 - 110 ngày (Hình
3.19). Cụ thể, các giai đoạn biến động của lượng mưa GMMH ở khu vực Nam Bộ
như sau:
86
Giai đoạn thứ nhất kéo dài từ thời điểm bắt đầu (hậu 27) đến hậu 49, lượng
mưa GMMH phổ biến duy trì từ 7,04 đến 9,54 mm/ngày và chuẩn sai so với trung
bình mùa hè dao động từ -1,93 đến 0,55 mm/ngày. Giai đoạn này kéo dài trong
22 hậu (tương ứng 110 ngày), với xu thế phổ biến là lượng mưa thấp hơn so với
trung bình mùa GMMH. Tuy nhiên, tồn tại một số thời điểm (hậu 34, 39, 42-44,
46) có lượng mưa lớn hơn so với trung bình mùa GMMH, với chuẩn sai dao động
từ 0,01 đến 1,13 mm/ngày. Kết quả cũng cho thấy, quá trình diến biến lượng mưa
ở thời điểm bắt đầu GMMH cũng không diễn ra sự thay đổi đột ngột.
Giai đoạn thứ hai kéo dài từ hậu 50 đến hậu 56, lượng mưa GMMH dao
động từ 9,06 đến 12,1 mm/ngày. Giai đoạn này là giai đoạn có lượng mưa lớn hơn
so với trung bình mùa GMMH, với chuẩn sai dao động từ 0,08 đến 3,13 mm/ngày.
Như vậy, giai đoạn có lượng mưa gia tăng mạnh mẽ kéo dài trong 8 hậu (tương
ứng 40 ngày), ngắn hơn đáng kể so với giai đoạn có sự giảm của lượng mưa so
với trung bình mùa. Lượng mưa GMMH lớn nhất là 12,1 mm/ngày vào hậu 54 và
55.
Tại thời điểm kết thúc GMMH, lượng mưa vẫn lớn hơn trung bình mùa và
xu thế này tiếp diễn trong 2 hậu sau đó. Đến hậu 60, lượng mưa ở khu vực Nam
Bộ giảm mạnh, thấp hơn trung bình mùa GMMH khoảng -1,8 mm/ngày và xu thế
này tiếp tục trong các hậu tiếp theo. Điều này cho thấy quá trình kết thúc mùa mưa
ở khu vực Nam Bộ diễn ra chậm pha hơn so với thời điểm kết thúc GMMH. Điều
nay là do, vào cuối mùa GMMH mưa vẫn xảy ra ở khu vực Nam Bộ do tác động
của ITCZ và tín phong.
87
Hình 3.19. Diễn biến lượng mưa quy mô hậu (mm/ngày) và độ lệch lượng mưa
(mm/ngày) so với trung bình mùa GMMH ở khu vực Nam Bộ
Bảng 3.2. Lượng mưa mùa GMMH (mm/ngày) và chỉ số Cv (%) thời kỳ 1981-
2010 tại các trạm thuộc khu vực Nam Bộ
Tên trạm
Đặc trưng thống kê
Lượng mưa trung bình
(mm/ngày)
Biến suất (Cv)
(%)
Bạc Liêu 9,13 14,09
Ba Tri 6,71 25,38
Cà Mau 10,77 13,37
Cần Thơ 7,35 17,52
Mỹ Tho 6,81 26,13
Phước Long 13,67 21,38
Rạch Giá 10,04 16,67
Sóc Trăng 9,00 13,38
Tây Ninh 8,78 23,63
Vũng Tàu 7,59 18,25
Trung bình 8,99 18,98
88
3.3. Biến động năm của một số đặc trưng gió mùa mùa hè 3.3.1. Mối quan hệ giữa các đặc trưng gió mùa mùa hè
Trong thời kỳ 1981-2010, các đặc trưng GMMH có mối quan hệ rõ ràng
với nhau (Bảng 3.3). Trong đó, có thể thấy một số điểm rất đáng chú ý:
- Thời điểm bắt đầu hoạt động của GMMH có quan hệ chặt chẽ với độ dài
mùa, với hệ số tương quan là -0,73 (vượt 99% độ tin cậy). Kết quả này cho thấy,
những năm có GMMH đến sớm kéo theo độ dài mùa tăng. Quan hệ giữa thời điểm
bắt đầu GMMH với số đợt gián đoạn là tương đối lỏng lẻo, với hệ số tương quan
đạt giá trị -0,29 (không thỏa đạt 95% độ tin cậy). Đặc biệt, thời điểm bắt đầu
GMMH có quan hệ rất kém với cường độ và thời điểm kết thúc, với hệ số tương
quan lần lượt tương ứng là 0,02 và -0,07 .
- Thời điểm kết thúc hoạt động của GMMH có quan hệ chặt chẽ với độ dài
mùa, cường độ và số đợt gián đoạn, với hệ số tương quan lần lượt tương ứng là
0,74, -0,56 và 0,48 (vượt 99% độ tin cậy). Kết quả này cho thấy, thời điểm kết
thúc hoạt động của GMMH đến muộn kéo theo độ dài mùa tăng, cường độ giảm
và số đợt gián đoạn gia tăng.
- Cường độ GMMH có quan hệ chặt chẽ với thời điểm bắt đầu, kết thúc, số
đợt gián đoạn và độ dài mùa (vượt 99% độ tin cậy). Hay nói cách khác, những
năm có cường độ GMMH yếu thường trùng với năm có thời điểm kết thúc muộn,
độ dài lớn và số đợt gián đoạn nhiều.
Bảng 3.3. Ma trận hệ số tương quan giữa các đặc trưng GMMH
Bắt đầu Kết thúc Gián đoạn Cường độ Độ dài mùa
Bắt đầu -0,07 -0,29 0,02 -0,63
Kết thúc -0,07 0,48 -0,56 0,78
Gián đoạn -0,29 0,48 -0,71 0,52
Cường độ 0,02 -0,56 -0,71 -0,51
Dộ dài mùa -0,63 0,78 0,52 -0,51
(Ghi chú: Chữ bôi đậm - vượt 99% độ tin cậy, với dung lượng mẫu là 30)
89
3.3.2. Biến động năm của các đặc trưng theo chỉ số VSMI
3.3.2.1. Biến động của thời điểm bắt đầu gió mùa mùa hè
Trung bình thời kỳ 1981-2010, thời điểm bắt đầu GMMH diễn ra vào
khoảng hậu thứ 27 (ngày 11 tháng 5). Tuy nhiên, thời điểm bắt đầu biến động từ
năm này qua năm khác (Hình 3.20) với chuẩn sai dao động từ -4,1 hậu đến 4,9
hậu và chỉ số STD là 1,9 hậu (khoảng 9,5 ngày). Như vậy, có những năm GMMH
đến rất sớm (sớm hơn 4,1 hậu – tương ứng 21 ngày) và rất muộn (muộn hơn 4,9
hậu - tương ứng 24,5 ngày). Hình 3.17 cho thấy, thời điểm bắt đầu GMMH có xu
thế đến sớm dần trong giai đoạn 1981-2010. Tuy nhiên, xu thế biến đổi này không
thỏa mãn mức tin cậy 95%.
Kết quả tính toán trong 30 năm cho thấy, hoạt động của GMMH đến sớm
(trước hậu 27) trong 18 năm và muộn (sau hậu 27) trong 12 năm. Thời điểm hoạt
động của GMMH đến sớm hơn so với trung bình nhiều năm dao động từ 0,1 hậu
(1 ngày) đến 4,1 hậu (21 ngày). Ngược lại, thời điểm hoạt động của GMMH đến
muộn hơn so với trung bình nhiều năm dao động từ 0,9 hậu (4,5 ngày) đến 4,9
hậu (24,5 ngày). Như vậy có thể thấy, biên độ dao động lớn nhất của thời điểm
bắt đầu GMMH ở khu vực Việt Nam là rất lớn, khoảng 9 hậu (45 ngày). Các năm
có thời điểm bắt đầu GMMH sớm nhất là 1985 và 1999, sớm 4,1 hậu so với trung
bình nhiều năm. Các năm có bắt đầu GMMH muộn nhất là 1991 (muộn 4,9 hậu)
và 1982 (muộn 3,9 hậu).
Hình 3.20 cũng cho thấy rõ vai trò ENSO đối với biến động của thời điểm
bắt đầu hoạt động của GMMH ở khu vực Việt Nam. Cụ thể như sau:
- Trong mùa hè El Nino: Thời điểm bắt đầu GMMH đến muộn trong 5
mùa (1982, 1987, 1991, 1997, 2009) và xấp xỉ trung bình nhiều năm trong 2 mùa
(2002 và 2004). Trong đó, chỉ số ONI đều ở trạng thái ấm hơn trung bình nhiều
năm trước mùa hè các năm 1982, 1987, 1991, 2002 và 2004. Ngược lại, chỉ số
ONI đều lạnh hơn trung bình nhiều năm trước mùa hè năm 1997 và 2009 (Bảng
2.1 và Phụ lục 4). Thời điểm bắt đầu GMMH đến muộn nhất trong thời kỳ 1981-
90
2010 đều trùng với mùa hè El Nino (1982 và 1991), là mùa hè nối tiếp của điều
kiện đại dương có chỉ số ONI ấm hơn trung bình nhiều năm.
- Trong các mùa hè La Nina: Thời điểm bắt đầu GMMH đến sớm trong
4 mùa (1985, 1999, 2000, 2007) và đến muộn trong 3 mùa (1988, 1998 và 2010).
Trong đó, các mùa hè 1985, 1999 và 2000 đều là nối tiếp của các tháng La Nina
hoặc chỉ chỉ số ONI lạnh hơn trung bình nhiều năm trong nhiều tháng. Ngược lại,
các mùa hè khác đều là nối tiếp sau của đợt El Nino hoặc tồn tại nhiều tháng có
chỉ số ONI ấm hơn trung bình nhiều năm (Bảng 2.2 và Phụ lục 4). Thời điểm bắt
đầu mùa GMMH đến sớm nhất trong giai đoạn 1981-2010 đều trùng với mùa hè
La Nina (1985 và 1999) và là các mùa hè nối tiếp của các tháng La Nina. Ngược
lại, thời điểm bắt đầu GMMH đến muộn trong các mùa hè La Nina đều là các mùa
hè nối tiếp của đợt El Nino. Điều này cho thấy, ENSO có tác động trễ pha đến
thời điểm bắt đầu GMMH ở khu vực Việt Nam.
- Trong các mùa hè trung tính: Thời điểm bắt đầu GMMH đến muộn
đáng kể nhất vào mùa hè năm 1993, muộn 2,9 hậu (14,5 ngày) so với trung bình
nhiều năm. Mùa hè năm 1993 có 2 tháng đạt ngưỡng El Nino và con tháng còn
lại là trung tính - pha ấm. Ngoài ra, mùa hè năm 1993 là sau trung tính - pha ấm
(Phụ lục 4). Thời điểm bắt đầu GMMH đến sớm đáng chú ý (sớm 2,1 hậu) vào
mùa hè năm 1989, 1994 và 2008. Trong đó, mùa hè 1989 và 2008 đều là mùa hè
nối tiếp đợt La Nina khá mạnh (đợt La Nina 5/1988-5/1989 và 7/2007-6/2008) và
trung tính - pha lạnh (Phục lục 4).
Nhận xét chung: Trong kỳ 1981-2010, thời điểm bắt đầu GMMH biến
động mạnh mẽ qua các năm với chỉ số STD là 1,9 hậu. Trong giai đoạn nghiên
cứu, thời điểm bắt đầu có xu thế giảm nhẹ (GMMH đến sớm hơn). Tuy nhiên, xu
thế này không thỏa mãn độ tin cậy 95%. Thời điểm bắt đầu GMMH đến muộn
nhất (1982 và 1991) đều trùng với mùa hè El Nino; đến sớm nhất (1985 và 1999)
đều trùng với mùa hè La Nina. Tiếp ngay sau đợt El Nino hoặc trung tính - pha
ấm, thời điểm bắt đầu GMMH thường đến muộn. Ngược lại, tiếp sau đợt La Nina
hoặc trung tính - pha lạnh, thời điểm bắt đầu mùa GMMH đến sớm.
91
Hình 3.20. Diễn biến chuẩn sai của thời điểm bắt đầu GMMH (hậu) so với trung
bình trong thời kỳ 1981-2010 trong các pha ENSO
3.3.2.2. Biến động của thời điểm kết thúc gió mùa mùa hè
Trung bình thời kỳ 1981-2010, thời điểm kết thúc hoạt động của GMMH
xảy ra vào khoảng hậu thứ 57 và có xu thế kết thúc sớm dần. Tuy nhiên, thời điểm
kết thúc hoạt động của GMMH biến động rất mạnh mẽ từ năm này qua năm khác
(Hình 3.21), với chuẩn sai dao động từ -5,7 hậu đến 3,3 hậu và chỉ số STD là 2,4
hậu (12 ngày). Kết quả này cho thấy, có những năm GMMH kết thúc rất sớm
(sớm hơn 5,7 hậu – tương ứng 28,5 ngày) và rất muộn (muộn hơn 3,3 hậu – tương
ứng 16,5 ngày). Ngoài ra, thời điểm kết thúc hoạt động của GMMH cũng biến
động mạnh mẽ hơn so với thời điểm bắt đầu. Những năm có kết thúc GMMH
muộn nhất đáng chú ý như 1983, 1985, 1988-1999, 1998, 2000, 2009-2010, muộn
hơn từ 2,3 hậu đến 3,3 hậu. Những năm có GMMH kết thúc sớm đáng chú ý như
1984, 1986-1987, 1992, 1999 và 2004, sớm hơn từ 2,7 hậu đến 5,7 hậu.
Kết quả trên Hình 3.21 cũng cho thấy vai trò ENSO đối với biến động của
thời điểm kết thúc hoạt động của GMMH ở khu vực Việt Nam.
- Hầu hết các mùa hè La Nina (1985, 1988, 1998, 2000, 2007 và 2010) đều
có kết thúc mùa muộn hơn so với trung bình nhiều năm. Trong đó, các mùa
GMMH có thời điểm kết thúc muộn nhất đều trùng với mùa hè La Nina (1985,
2000 và 2010).
92
- Hầu hết các mùa hè El Nino (1982, 1987, 1997, 2002, 2004) đều có thời
điểm kết thúc hoạt động của GMMH sớm hơn so với trung bình nhiều năm. Các
mùa hè El Nino có kết thúc hoạt động của GMMH sớm đáng chú ý nhất là 1987
và 2004, sớm hơn 3,7 hậu (18,5 ngày). Kết thúc mùa GMMH sớm nhất vào năm
1984, sớm hơn 5,7 hậu (28,5 ngày). Mùa GMMH năm 1987 là tiếp sau của đợt
La Nina và là mùa hè trung tính - pha lạnh. Những năm mùa hè trung gian của
ENSO có kết thúc GMMH muộn đáng chú ý là 1983 và 1989 (muộn hơn 2,5 Hậu).
Trong đó, các mùa hè này đều là mùa hè trung tính - pha lạnh.
Hình 3.21. Diễn biến chuẩn sai của thời điểm kết thúc GMMH (hậu) so với
trung bình trong thời kỳ 1981-2010 trong các pha ENSO
Nhận xét chung: Trong thời kỳ 1981-2010, thời điểm kết thúc hoạt động
GMMH có xu thế đến sớm hơn. Tuy nhiên, xu thế biến đổi của thời điểm kết thúc
cũng không thỏa mãn ngưỡng tin cậy 95%. Hầu hết các mùa hè La Nina (85,7%)
đều có kết thúc hoạt động GMMH muộn hơn so với trung bình nhiều năm. Trong
đó, các năm có kết thúc hoạt động của GMMH muộn nhất đều trùng với mùa hè
La Nina hoặc trung tính - pha lạnh. Hầu hết các mùa hè El Nino (71,4%) đều có
kết thúc hoạt động GMMH sớm hơn so với trung bình nhiều năm.
3.3.2.3. Biến động của độ dài mùa gió mùa mùa hè
Như đã phân tích, độ dài mùa có quan hệ chặt chẽ với thời điểm bắt đầu và
thời điểm kết thúc hoạt động GMMH. Do vậy, biến động của độ dài mùa phụ
thuộc vào biến động của các đặc trưng về bắt đầu và kết thúc. Trung bình thời kỳ
93
1981-2010, mùa GMMH ở khu vực Việt Nam kéo dài trong khoảng 30 hậu (150
ngày). Độ dài mùa GMMH biến động rõ ràng qua các năm (Hình 3.22), với chuẩn
sai dao động từ -6 (30 ngày) hậu đến 8 hậu (40 ngày) và chỉ số STD là 3,4 hậu.
Độ dài mùa GMMH ngắn nhất là 24 hậu (1984) và 25 hậu (1982); dài nhất là 38
hậu (2009) và 37 hậu (1985). Trong giai đoạn 1981-2010, độ dài mùa GMMH có
xu thế tăng nhẹ (Hình 3.19).Tuy nhiên, xu thế tăng của độ dài mùa GMMH cũng
không thỏa mãn độ tin cậy 95%.
Kết quả tính toán trên Hình 3.22 cũng tho thấy, ENSO có tác động rõ ràng
đến biến động IAV của độ dài mùa GMMH. Hầu hết mùa hè La Nina (85,7%)
đều có độ dài mùa GMMH dài hơn so với trung bình nhiều năm. Hầu hết mùa hè
El Nino (87,5%) đều có độ dài mùa GMMH ngắn hơn so với trung bình năm. Hay
nói cách khác, độ dài mùa GMMH có khuynh hướng ngắn hơn trong mùa hè El
Nino và dài hơn trong mùa hè La Nina.
Hình 3.22. Diễn biến chuẩn sai của độ dài mùa GMMH (hậu) so với trung bình
trong thời kỳ 1981-2010 trong các pha ENSO
3.3.2.4. Biến động của số đợt gián đoạn gió mùa mùa hè
Biến động số đợt gián đoạn GMMH có mối quan hệ chặt chẽ với độ dài
mùa và thời điểm kết thúc gió mùa. Do vậy, số đợt gián đoạn GMMH cũng biến
động rõ ràng qua những năm qua (Hình 3.23). Kết quả tính toán cho thấy, số đợt
gián đoạn trung bình là 1,5 đợt và biến động với STD là 1,3 đợt (tương ứng biến
suất là 83,9%). Chuẩn sai số đợt gián đoạn dao động từ -1,5 đợt đến 2,5 đợt.
94
Hình 3.23 cho thấy, số đợt gián đoạn của GMMH cũng biến động qua các
năm, năm có nhiều đợt gián đoạn nhất lên tới 4 đợt (1983, 1985, 1996 và 1998).
Ngược lại, nhiều năm có GMMH được duy trì liên tục (không xảy ra gián đoạn),
như: 1986, 1991, 1993, 1994, 2002, 2004 và 2005. Trong giai đoạn 1981-2010,
số đợt gián đoạn GMMH có xu thế giảm nhẹ. Tuy nhiên, xu thế biến đổi của số
đợt gián đoạn GMMH không thỏa mãn độ tin cậy 95%.
Trong hầu hết các mùa hè El Nino (71,4%) số đợt gián đoạn thấp hơn từ 0,5
đến 1,5 đợt so với trung bình nhiều năm. Gián đoạn GMMH ít xảy ra trong các mùa
hè El Nino, với số đợt dao động từ 0 đợt đến 2 đợt. Trong khi đó, số đợt gián đoạn
GMMH trong mùa hè La Nina phổ biến dao động từ 2 đến 4 đợt. Trong đó, có những
đợt gián đoạn kéo dài trong khoảng thời gian khoảng 4 hậu (1985 và 2000). So với
trung bình nhiều năm, hầu hết các mùa hè La Nina (71,4%) có số đợt gián đoạn
nhiều hơn từ 0,5 đến 2,5 đợt.
Như vậy, số đợt gián đoạn GMMH ở khu vực Việt Nam tuy không nhiều,
nhưng biến động rất mạnh mẽ. Biến động của ENSO có tác động đến biến động
của số đợt gián đoạn số đợt gián đoạn GMMH. Trong đó, trong các pha El Nino,
số đợt gián đoạn là ít hơn và tồn tại trong thời gian ngắn hơn; hoặc không gián
đoạn. Ngược lại, trong pha La Nina, số đợt gián đoạn nhiều hơn, với số đợt gián
đoạn dao động từ 2 đến 4 đợt và độ dài của các đợt cũng nhiều hơn.
Hình 3.23. Diễn biến số đợt gián đoạn GMMH (đợt) thời kỳ 1981-2010 trong
các pha ENSO
95
3.3.2.5. Biến động của cường độ gió mùa mùa hè
Trung bình thời kỳ 1981-2010, cường độ GMMH đạt giá trị khoảng
5,0m/s. Trong thời kỳ nghiên cứu, xu thế biến đổi về cường độ GMMH là không
rõ ràng và không thỏa mãn mức tin cậy 95%. Cường độ GMMH cũng biến động
rất mạnh mẽ qua các năm (Hình 3.24), với chuẩn sai dao động từ -2,7 m/s đến 1,6
m/s và với STD là 1,1 m/s (tương ứng biến suất 21,9%).
Hình 3.24 cũng tho thấy, ENSO có tác động đến biến động IAV của cường
độ GMMH ở khu vực Việt Nam. Cường độ GMMH đạt mức từ xấp xỉ đến lớn
hơn trung bình nhiều năm trong các mùa hè El Nino. Trong hầu hết mùa hè El
Nino (85,6%) và trung tính - pha ấm (77,8%), cường độ mạnh hơn trung bình
nhiều năm. Những năm có cường độ GMMH mạnh nhất (1982 và 2002) đều là
những năm có mùa hè El Nino. Cường độ GMMH đạt mức từ thấp hơn đến xấp
xỉ trung bình nhiều năm trong hầu hết mùa hè La Nina (85,6%) và trung tính - pha
lạnh (57,1%). Trong đó, những năm có cường độ GMMH yếu nhất (1998 và 2010)
đều là những năm có mùa hè La Nina.
Hình 3.24. Diễn biến chuẩn sai của cường độ GMMH (m/s) so với trung bình
trong thời kỳ 1981-2010 trong các pha ENSO
Như vậy, cường độ GMMH biến động mạnh mẽ qua các năm và trong các
pha ENSO. Cùng với sự biến động về cường độ, hoàn lưu GMMH và trường HGT
cũng có những biến động đáng kể (Hình 3.25).
96
Chênh lệch về trường hoàn lưu gió (m/s) mực 850hPa trung mình mùa
GMMH trong năm có cường độ mạnh (mùa hè El Nino) so với năm cường độ yếu
được trình bày trên Hình 3.25a. Kết quả cho thấy, trên khu vực Biển Đông xuất
hiện một hoàn lưu xoáy thấp với vị trí trùng với rìa của áp cao Bắc TBD. Điều
này cho thấy sự yếu đi của áp cao này tại Đông Dương. Sự thay đổi nhiều nhất
của hoàn lưu được nhận thấy là sự xuất hiện của đới gió tây mạnh ở vùng xích
đạo, trải dài từ khoảng 110oE tới ngoài 160oE. Theo trung bình khí hậu, khu vực
này thịnh hành đới gió đông nhiệt đới rìa phía nam áp cao Bắc TBD. Do đó, sự
xuất hiện của đới gió Tây này cho thấy áp cao Bắc TBD di chuyển lên phía Bắc
cao hơn.
Sự khác nhau về trường độ cao địa thế vị mực 850hPa (Hình 3.25b) cho
thấy, áp cao Bắc TBD yếu đi tại khu vực biển phía Đông Trung Quốc, với một
khu vực có chuẩn sai của HGT từ -9 đến -3 gpm. Sự yếu đi của áp cao này đã tạo
điều kiện để gió Tây xích đạo mạnh lên và phát triển sang phía Đông. Khu vực áp
cao Mascarene không nhận thấy sự thay đổi nào đáng kể. Điều này cho thấy,
không có sự tác động nhiều của áp cao Mascarene tới độ mạnh yếu của gió mùa
tại Việt Nam.
Từ kết quả này cho thấy, sự biến động mạnh (yếu) của GMMH ở khu vực
Việt Nam gắn liền với sự thay đổi của áp cao Bắc TBD. Trong những năm gió
mùa hoạt động yếu, áp cao Bắc TBD tăng cường và lấn sâu xuống phía Nam. Do
đó, chính sự lấn sâu xuống phía Nam của áp cao này đã ngăn cản sự phát triển của
dòng vượt xích đạo từ BCN lên BCB.
97
Hình 3.25. Khác biệt giữa năm gió mùa mạnh với năm gió mùa yếu ở mực
850hPa: (a) Trường hoàn lưu gió (m/s), (b) Trường HGT (gpm)
3.3.2.6. Xu thế biến động năm qua các thập kỷ
Bảng 3.4 trình bày kết quả tính toán chỉ số STD của các đặc trưng GMMH
thời kỳ 1981-2010 và qua các thập kỷ. Kết quả cho thấy, xu thế thay đổi chỉ số
STD (mức độ biến động IAV) của các đặc trưng GMMH qua các thập kỷ là khá
rõ ràng. Cụ thể như sau:
98
- Thời điểm bắt đầu GMMH biến động mạnh mẽ nhất trong thập kỷ 1991-
2000 (STD đạt giá trị 2,41 hậu) và 1981-1990 (STD đạt giá trị 2,04 hậu); lớn hơn
so với thập kỷ cuối (STD đạt 1,14 hậu) và giai đoạn 1981-2010 (STD đạt giá trị
1,9 hậu). Điều này cho thấy, mức độ biến động của thời điểm bắt đầu GMMH có
xu thế giảm đáng kể trong thập kỷ cuối của thời kỳ nghiên cứu.
- Biến động của thời điểm kết thúc hoạt động của GMMH cũng thay đổi
qua các thập kỷ. Trong đó, biến động của thời điểm kết thúc diễn ra mạnh mẽ nhất
vào thập kỷ 1981-1990, với STD đạt giá trị 3,01 hậu. Trong hai thập kỷ tiếp theo,
mức độ biến động của thời điểm kết thúc hoạt động của GMMH là khá tương
đồng nhau, với STD dao động từ 1,95 đến 2,18 hậu. Hay nói cách khác, biến động
của thời điểm kết thúc GMMH có xu thế giảm qua các thập kỷ trong thời kỳ
nghiên cứu.
- Biến động của độ dài mùa GMMH cũng thay đổi rõ ràng qua ba thập kỷ
của chuỗi số liệu nghiên cứu. Trong đó, độ dài mùa GMMH biến động mạnh mẽ
nhất vào thập kỷ 1981-1990, với STD đạt giá trị 4,15 hậu. Trong các thập kỷ tiếp
theo, mức độ biến động giảm, với STD lần lượt tương ứng là 2,69 hậu và 3,11
hậu.
- Biến động của đố đợt gián đoạn GMMH diễn ra mạnh mẽ nhất trong hai
thập kỷ đầu, với STD lần lượt tương ứng là 1,22 đợt và 1,43 đợt; yếu hơn trong
thập kỷ cuối, với STD là 0,89 hậu.
- Cùng với xu biến động IAV qua các thập kỷ của các đặc trưng nêu trên,
biến động của cường độ GMMH cũng thay đổi qua các thập kỷ. Trong đó, biến
động của cường độ GMMH biến động mạnh mẽ nhất trong hai thập kỷ đầu, với
STD là 1,16 m/s; yếu nhất trong thập kỷ cuối, với STD là 0,86 m/s.
Từ các kết quả này cho thấy, biến động IAV của các đặc trưng GMMH diễn
ra mạnh nhất trong hai thập kỷ đầu (1981-1990, 1991-2000) và yếu hơn trong thập
kỷ cuối (2001-2010).
99
Bảng 3.4. STD của đặc trưng GMMH thời kỳ 1981-2010 và các thập kỷ
Đặc trưng Bắt đầu
(số hậu)
Kết thúc
(số hậu)
Độ dài mùa
(số hậu)
Gián đoạn
(số đợt)
Cường độ
(m/s)
1981-1990 2,04 3,01 4,15 1,22 1,16
1991-2000 2,41 1,95 2,69 1,43 1,16
2001-2010 1,14 2,18 3,11 0,89 0,86
1981-2010 1,9 2,4 3,4 1,3 1,1
3.3.3. Biến động năm của lượng mưa gió mùa mùa hè
Khu vực Tây Nguyên
Kết quả tính toán cho thấy, lượng mưa trong mùa GMMH trung bình ở khu
vực Tây Nguyên có xu thế giảm nhẹ trong giai đoạn 1981-2010. Tuy nhiên xu thế
này không thỏa mãn mức độ tin cậy 95%. Trong số 10 trạm nghiên cứu, xu thế
tăng nhẹ của lượng mưa trong mùa GMMH thỏa mãn mức độ tin cậy 95% tại trạm
M'ĐRắk.
Lượng mưa trong mùa GMMH ở khu vực Tây Nguyên biến động với chuẩn
sai dao động từ -2 đến 2mm/ngày và chỉ số STD là 1,45 mm/ngày (tương ứng chỉ
số Cv là 18,06%). Biến động IAV của lượng mưa trong mùa GMMH khá tương
đồng giữa các trạm với chỉ số STD dao động từ 1,02 đến 1,95 mm/ngày và chỉ số
Cv dao động từ 15,45 đến 20,39%. Trong đó, biến động IAV diễn ra mạnh mẽ
nhất ở các trạm có lượng mưa lớn; ngược lại, ít biến động hơn ở các trạm có lượng
mưa thấp (Bảng 3.5).
Hình 3.26 cho thấy tác động của ENSO đối với biến động của lượng mưa
GMMH. Lượng mưa GMMH thấp hơn trung bình nhiều năm đáng chú ý nhất xảy
ra trong cả mùa hè El Nino (năm 1987) và La Nina (năm 1998 và 2010). Lượng
mưa GMMH lớn hơn trung bình nhiều năm đáng chú ý nhất xảy ra vào mùa hè
La Nina (năm 2000). Trong đa số mùa hè El Nino, lượng mưa GMMH thấp hơn
so với trung bình nhiều năm. Tuy nhiên, trong mùa hè trung tính - pha ấm, lượng
100
mưa GMMH có xu thế lớn hơn so với trung bình nhiều năm. Tác động của La
Nina đến lượng mưa GMMH ở khu vực Tây Nguyên là không rõ ràng bằng của
EL Nino. Có thể nhận thấy, các mùa hè có lượng mưa lớn hơn (năm 2000) và thấp
hơn (năm 1998 và 2010) trung bình nhiều năm rõ ràng nhất đều trùng với mùa hè
La Nina. Lượng mưa có thiên hướng lớn hơn so với trung bình nhiều năm trong
mùa hè trung tính - pha lạnh.
- Trong 7 mùa hè La Nina, lượng mưa GMMH thấp hơn trung bình nhiều
năm trong 4 mùa (chiếm 57,1%) và lớn hơn trong 3 mùa (chiếm 42,9%). Trong
khi đó, lượng mưa GMMH lớn hơn trung bình nhiều năm trong 4 mùa trung gian
- pha lạnh (chiếm 57,1%) và 3 mùa trung gian - pha ấm (chiếm 42,9%).
- Trong 7 mùa hè El Nino, lượng mưa thấp hơn trung bình nhiều năm 5 mùa
(chiếm 71,4%) và lớn hơn trong 1 mùa (2009). Trong số 9 mùa hè trung gian -
pha ấm, lượng mưa lớn hơn trung bình nhiều năm trong 6 mùa (chiếm 66,66%)
và nhỏ hơn trong 3 mùa (chiếm 33,33%).
Bảng 3.5. Kết quả tính toán các chỉ số thống kê của lượng mưa GMMH ở khu
vực Tây Nguyên
Tên trạm Chuẩn sai tiêu chuẩn (STD)
(mm/ngày)
Biến suất (Cv)
(%)
Ayunpa 1,02 20,10
Bảo Lộc 1,95 17,15
B.M. Thuột 1,45 18,10
Đắk Nông 1,72 16,20
Đắk Tô 1,64 20,39
Đà Lạt 1,32 16,58
Kon Tum 1,46 18,10
Liên Khương 1,02 15,45
M'ĐRắk 1,16 19,58
PLây cu 1,84 19,02
Trung bình 1,45 18,06
101
Hình 3.26. Diễn biến chuẩn sai của lượng mưa GMMH (mm/ngày) thời kỳ
1981-2010 ở khu vực Tây Nguyên
Khu vực Nam Bộ
Trong giai đoạn 1981-2010, lượng mưa trong mùa GMMH trung bình khu
vực Nam Bộ có xu thế tăng nhẹ (Hình 3.24). Tuy nhiên, xu thế biến đổi của lượng
mưa ở khu vực Nam Bộ không thỏa mãn mức tin cậy 95%. Trong số 10 trạm
nghiên cứu, xu thế giảm nhẹ của lượng mưa trong mùa GMMH tại trạm Vũng
Tàu là thỏa mãn mức tin cậy 95%.
Trung bình khu vực Nam Bộ, lượng mưa trong mùa GMMH biến động IAV
với chuẩn sai dao động từ -1,6 đến 1,7 mm/ngày và chỉ số STD là 1,27 mm/ngày
(tương ứng chỉ số Cv là 16,24%). Biến động của lượng mưa GMMH có sự tương
đồng tương đối giữa các trạm với chỉ số STD dao động từ 0,91 (tại trạm Vũng
Tàu) đến 1,73 mm/ngày (tại trạm Phước Long), chỉ số Cv dao động từ 13,67 đến
26,59 % (Bảng 3.6). Nhìn chung, biến động IAV mạnh mẽ hơn ở các trạm có
lượng mưa trong mùa GMMH lớn; ngược lại, ít hơn ở các trạm có lượng mưa
thấp.
Kết quả tính toán cũng cho thấy, hoạt động của ENSO có tác động đến biến
động của lượng mưa GMMH ở khu vực Nam Bộ. Lượng mưa GMMH thấp hơn
và lớn hơn trung bình nhiều năm đáng chú ý đều xảy ra trong mùa hè La Nina.
Trong đa số mùa hè La Nina và trung tính - pha lạnh, lượng mưa GMMH có thiên
102
hướng cao hơn so với trung bình nhiều năm. Trong các mùa hè El Nino và trung
tính - pha ấm, lượng mưa có thiên hướng thấp hơn so với trung bình nhiều năm.
- Trong 7 mùa hè La Nina, lượng mưa lớn hơn trung bình nhiều năm trong
5 mùa (chiếm 71,4%). Lượng mưa lớn hơn trung bình nhiều năm trong 5 mùa hè
trung gian - pha lạnh (chiếm 71,4%).
- Trong 7 mùa hè El Nino, lượng mưa ở mức xấp xỉ đến thấp hơn trung
bình nhiều năm trong 5 mùa (chiếm 71,4%). Trong các mùa hè trung gian - pha
ấm, lượng mưa có thiên hướng thấp hơn so với trung bình nhiều năm.
Bảng 3.6. Kết quả tính toán các chỉ số thống kê của lượng mưa GMMH ở khu
vực Nam Bộ
Tên trạm Chuẩn sai tiêu chuẩn (STD) (mm/ngày)
Biến suất (Cv) (%)
Bạc Liêu 1,26 15,75
Ba Tri 1,70 26,59
Cà Mau 1,43 14,88
Cần Thơ 1,03 15,97
Mỹ Tho 0,89 14,66
Phước Long 1,73 15,18
Rạch Giá 1,53 17,42
Sóc Trăng 1,15 14,40
Tây Ninh 1,09 13,67
Vũng Tàu 0,91 13,87
Trung bình 1,27 16,24
103
Hình 3.27. Diễn biến chuẩn sai của lượng mưa GMMH (mm/ngày) thời kỳ
1981-2010 ở khu vực Nam Bộ
3.4. Nhận xét cuối Chương 3
(1) Chỉ số gió mùa mùa hè (VSMI): Chỉ số VSMI phản ánh tốt hoàn lưu
quy mô lớn ở các mực khí quyển (850, 700, 500 và 300hPa) và hệ quả mưa trong
mùa GMMH. Do vậy, chỉ số VSMI hoàn toàn phù hợp phục vụ cho nghiên cứu
biến động GMMH ở khu vực Việt Nam.
(2) Biến động ISV của các đặc trưng GMMH
- Cường độ biến động ISV với chu kỳ 35 - 85 ngày; có hai lần đạt cực đại
vào hậu 36 (6,7 m/s) và hậu 44 (7,4m/s).
- Lượng mưa GMMH biến động ISV mạnh mẽ theo không gian ở khu vực
Tây Nguyên và Nam Bộ; biến động mạnh mẽ nhất ở các trạm có lượng mưa thấp
và ngược lại. Lượng mưa GMMH khu vực Tây Nguyên biến động ISV của lượng
mưa GMMH với chu kỳ 70 - 80 ngày và chuẩn sai từ -2,4 đến 2,62 mm/ngày.
Lượng mưa GMMH khu vực Nam Bộ biến động ISV với chu kỳ 40 - 110 ngày
và chuẩn sai từ -1,93 đến 3,13 mm/ngày.
(3) Biến động IAV của các đặc trưng GMMH
- Một số đặc trưng GMMH có quan hệ chặt chẽ với nhau (vượt 99% độ tin
cậy): Độ dài mùa có quan hệ với thời điểm bắt đầu và kết thúc; số đợt gián đoạn
GMMH có quan hệ với độ dài mùa và thời điểm kết thúc; cường độ có quan hệ
với độ dài mùa, thời điểm kết thúc và số đợt gián đoạn.
104
- Các đặc trưng GMMH biến động từ năm này qua năm khác và biến động
trong các pha ENSO, cụ thể:
+ Thời điểm bắt đầu GMMH biến động IAV với chuẩn sai dao động từ -
4,1 hậu đến 4,9 hậu và chỉ số STD là 1,9 hậu (khoảng 9,5 ngày). Trong đa số các
mùa hè La Nina (chiếm 57,1%) và trung tính - pha lạnh (chiếm 85,7%), thời điểm
bắt đầu thường đến sớm hơn; ngược lại, đến muộn hơn trong mùa hè El Nino và
trung tính - pha nóng.
+ Thời điểm kết thúc GMMH biến động IAV với chuẩn sai dao động từ -
5,7 hậu đến 3,3 hậu và chỉ số STD là 2,4 hậu (12 ngày). Trong hầu hết mùa hè La
Nina (chiếm 71,4%) và trung tính - pha lạnh (chiếm 57,1%), thời điểm kết thúc
GMMH đến muộn hơn; ngược lại, kết thúc sớm hơn trong mùa hè El Nino và
trung tính - pha nóng.
+ Độ dài mùa GMMH biến động IAV với chuẩn sai dao động từ -6 (30
ngày) hậu đến 8 hậu (40 ngày) và chỉ số STD là 3,4 hậu (17 ngày). Trong các mùa
hè La Nina và trung tính - pha lạnh, mùa GMMH kéo dài hơn; ngược lại, ngắn
hơn trong mùa hè El Nino và trung tính - pha ấm.
+ Số đợt gián đoạn GMMH biến động IAV với chuẩn sai từ -1,5 đợt đến
2,5 đợt và chỉ số STD là 1,3 đợt (tương ứng biến suất là 83,9%). Trong các mùa
hè La Nina, số đợt gián đoạn thường nhiều hơn và ngược lại trong các mùa hè El
Nino.
+ Cường độ GMMH biến động IAV với chuẩn sai dao động từ -2,7 đến
1,6 m/s và chỉ số STD là 1,1 m/s (tương ứng biến suất 21,9%). Trong hầu hết mùa
hè El Nino (chiếm 85,6%) và trung tính - pha ấm (chiếm 77,8%), cường độ mạnh
hơn; ngược lại, cường độ yếu nhất đều trùng với mùa hè La Nina.
+ Lượng mưa GMMH ở khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ có thiên hướng
lớn hơn trong mùa hè La Nina và ngược lại trong mùa hè El Nino. Lượng mưa
GMMH ở khu vực Tây Nguyên biến động IAV với chuẩn sai dao động từ -2 đến
2mm/ngày và chỉ số STD là 1,45 mm/ngày (tương ứng chỉ số Cv là 18,06%).
Lượng mưa GMMH ở khu vực Nam Bộ biến động IAV với chuẩn sai dao động
từ -1,6 đến 1,7 mm/ngày và chỉ số STD là 1,27 mm/ngày (tương ứng chỉ số Cv là
16,24%).
105
CHƯƠNG 4
DỰ TÍNH BIẾN ĐỘNG CỦA MỘT SỐ
ĐẶC TRƯNG GIÓ MÙA MÙA HÈ
4.1. Đánh giá mô phỏng của mô hình PRECIS đối với các đặc trưng gió mùa
mùa hè ở khu vực Việt Nam
Như đã trình bày trong Chương 2, các phương án dự tính biến đổi khí hậu
bằng mô hình PRECIS được sử dụng được kế thừa từ kết quả của Viện Khoa học
Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu. Kỹ năng mô phỏng khí hậu của mô hình
PRECIS trên khu vực Việt Nam đã được đánh giá chi tiết [3]. Theo các tác giả,
kỹ năng mô phỏng khí hậu, đặc biệt là với lượng mưa trên lãnh thổ Việt Nam của
mô hình PRECIS là tốt hơn so với các phương án mô hình khác (cl_WRF,
RegCM, CCAM). Trên cơ sở đánh giá này, các kết quả mô phỏng và dự tính biến
đổi khí hậu bằng mô hình PRECIS đã được sử dụng trong báo cáo “Kịch bản biến
đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam” do Bộ Tài nguyên và Môi trường công
bố năm 2016 [19].
Trong khuôn khổ nghiên cứu của luận án, đánh giá mô phỏng bằng mô hình
PRECIS chủ yếu được tập trung vào một số đặc trưng cơ bản của GMMH và biến
động IAV của chúng. Hình 4.1 trình bày kết quả tính toán trung bình kinh hướng
(100oE-110oE) phân bố vĩ hướng của trường gió U850hPa (m/s) trung bình thời
kỳ 1986-2005 từ kết quả mô phỏng bằng mô hình PRECIS-CNRM (Hình 4.1a),
PRECIS-GFDL (Hình 4.1b) và số liệu CFSR (Hình 4.1c). Hình 4.2 trình bày kết
quả so tính toán chỉ số VSMI trung bình thời kỳ 1986-2005 theo phương án mô
phỏng PRECIS-CNRM (Hình 4.2a), PRECIS-GFDL (Hình 4.2b) và CFSR (Hình
4.2c).
Hình 4.1c và Hình 4.2c cho thấy, số liệu CFSR phản ánh mùa gió mùa mùa
hè bắt đầu từ khoảng đầu tháng 5 đến cuối tháng 9, đới gió Tây phát triển đến
khoảng 21oN và cường độ GMMH lớn nhất đạt giá trị khoảng 8m/s xảy ra hai lần
vào khoảng cuối tháng 6 và cuối tháng 7 (Hình 4.1c). So sánh Hình 4.1a với Hình
4.1c cho thấy, phương án PRECIS-CNRM có thiên hướng mô phỏng mùa GMMH
106
đến sớm và kết thúc muộn hơn; vùng phát triển của đới gió Tây mở rộng hơn về
phía Bắc (lên tới khoảng 27oN) so với CFSR. So sánh Hình 4.1b với Hình 4.1c
cho thấy, phương án PRECIS-GFDL có thiên hướng mô phỏng mùa GMMH đến
muộn và kết thúc sớm hơn; vùng phát triển của đới gió Tây thu hẹp hơn so với
CFSR. Cường độ GMMH được mô phỏng bằng PRECIS-GFDL có thiên hướng
mạnh mẽ hơn so với CFSR.
Sự sai khác nhau về các đặc trưng GMMH có thể thấy rõ qua so sánh kết
quả tính toán chỉ số VSMI từ mô phỏng PRECIS-CNRM (Hình 4.2a) và PRECIS-
GFDL (Hình 4.2b) với kết quả từ số liệu CFSR (Hình 42.c). Các đặc trưng GMMH
trong mô phỏng PRECIS-CNRM (Hình 4.2a) có sự khác biệt so với CFSR (Hình
4.2c). Trong đó, thời điểm bắt đầu GMMH đến sớm hơn và quá trình bắt đầu diễn
ra mạnh mẽ hơn (độ dốc lớn hơn); thời điểm kết thúc muộn hơn và diễn ra mạnh
mẽ hơn. Bên cạnh đó, PRECIS-CNRM có thiên hướng mô phỏng thời điểm cực
đại cường độ GMMH lần thứ nhất đến sớm hơn (khoảng đầu tháng 6) và cực đại
lần hai đến muộn hơn (vào khoảng giữa tháng 9) so với CFSR. Ngược lại,
PRECIS-GFDL (Hình 4.2b) so với CFSR (Hình 4.2c) có thiên hướng mô phỏng
thời điểm bắt đầu GMMH đến muộn hơn và quá trình bắt đầu diễn ra yếu hơn;
thời điểm kết thúc cũng diễn ra sớm hơn và quá trình kết thúc diễn ra yếu hơn.
Phương án PRECIS-GFDL chỉ nắm bắt được một lần cực đại của cường độ
GMMH diễn ra vào khoảng giữa tháng 7 và có cường độ lớn nhất mạnh hơn
(khoảng 8,7m/s) so với CFSR.
107
Hình 4.1. Biểu đồ Hovmoller trường U850 hPa (m/s) khu vực 100oE -110oE
trung bình thời kỳ 1986-2005 ở quy mô hậu: (a) PRECIS-CNRM; (b) PRECIS-
GFDL; (c) CFSR
108
Hình 4.2. Kết quả tính toán biến trình năm của chỉ số VSMI ở quy mô hậu trung
bình thời kỳ 1986-2010: (a) PRECIS-CNRM; (b) PRECIS-GFDL; (c) CFSR
109
Hình 4.3 trình bày kết quả tính biến trình năm của trường U850hPa ở quy
mô hậu phân bố vĩ hướng (5oN - 24oN) trung bình kinh hướng 100oE - 110oE và
trung bình thời kỳ 1986-2005 từ các phương án mô phỏng PRECIS (Hình 4.3a, b,
c) và số liệu CFSR (Hình 4.3d).
Theo số liệu CFSR (Hình 4.3d), quá trình thay đổi hoàn lưu quy mô lớn ở
mực 850hPa diễn ra rất rõ ràng. Thời điểm bắt đầu mùa GMMH diễn ra vào
khoảng đầu tháng 5 trên phạm vi hầu hết các vĩ độ. Quá trình kết thúc GMMH
diễn ra dần dần từ Bắc xuống Nam, từ giữa tháng 9 (ở phía Bắc) đến thúc vào đầu
tháng 10 ở phía Nam (Hình 4.3d). Phạm vi không gian hoạt động của đới gió Tây
mực 850hPa chủ yếu chi phối ở khu vực dưới 20oN. Thời kỳ có cường độ gió
mạnh nhất (từ 5 đến 10m/s) bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 9 và hoạt động trên khu
vực từ 6oN đến 18oN.
Hình 4.3a - Hình 4.3c cho thấy, hình thế cơ bản của đới gió Tây mực
850hPa theo các mô phỏng là khá tương đồng với số liệu CFSR. Diễn biến của
đới gió này trong giai đoạn đầu, cuối và thời kỳ cực đại là khá phù hợp với CFSR.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại những điểm khác biệt khá rõ ràng so với số liệu CFSR. Các
phương án của mô hình PRECIS đều có thiên hướng mô phỏng cường độ gió
mạnh và phạm vi của vùng gió mạnh mở rộng hơn hơn CFSR
- So với CFSR (Hình 4.3d), PRECIS-CNRM (Hình 4.3a) có thiên hướng
mô phỏng cường độ gió mạnh hơn và mở rộng hơn trong mùa GMMH. Thời kỳ
bắt đầu phát triển của đới gió Tây được mô phỏng xảy ra sớm hơn và mạnh mẽ
hơn so với CFSR. Thời kỳ rút lui của đới gió này được mô phỏng gần với CFSR;
phù hợp hơn ở khu vực phía Nam.
- So với CFSR (Hình 4.3d), PRECIS-GFDL (Hình 4.3b) có thiên hướng mô
phỏng cường độ gió mạnh hơn; tuy nhiên, phạm vi hoạt động hẹp hơn so với
CFSR. Về mặt diễn biến, thời kỳ bắt đầu được mô phỏng đến muộn hơn và sớm
hơn đối với thời kỳ kết thúc.
110
- Phương án tổ hợp (Hình 4.3c) cho thấy sự hài hòa về diễn biến, cường độ
và phạm vi với số liệu CFSR (Hình 4.3d). Mặc dù vậy, phạm vi hoạt động của
vùng gió mạnh vẫn có thiên hướng mở rộng hơn so với CFSR.
(a)
(b)
(c)
(d)
Hình 4.3. Kết quả tính toán trung bình kinh hướng (100oE-110oE) phân bố vĩ
hưỡng (5oN -24oN) và thời gian (tháng 1-tháng 12) của trường gió (m/s) mực
850hPa trung bình 1986-2005: (a) PRECIS-CNRM; (b) PRECIS-GFDL; (c)
PRECIS - Tổ hợp; (d) CFSR
So sánh kỹ năng mô phỏng chỉ số STD của U850hPa (m/s) bằng mô hình
PRECIS (Hình 4.4a-c) với CFSR (Hình 4.4d) thời kỳ 1986-2005 trung bình kinh
hướng 100oE - 110oE phân bố vĩ hướng (5oN - 24oN). Nhìn chung, chỉ số STD
của U850hPa được mô phỏng cao hơn so với CFSR. Trong thời kỳ phát triển của
đới gió Tây, mức độ biến động của trường gió là khá phù hợp với thực tế. Ngược
lại, sự sai khác về chỉ số STD là rõ ràng hơn vào giai đoạn rút lui của đới gió Tây,
với thiên hướng cao hơn so với CFSR.
111
(a) (b)
(c) (d)
Hình 4.4. Kết quả tính toán trung bình kinh hướng (100oE-110oE) phân bố vĩ
hưỡng (5oN -24oN) và thời gian (tháng 1-tháng 12) của chỉ số STD trường gió
(m/s) mực 850hPa trung bình 1986-2005: (a) PRECIS-CNRM; (b) PRECIS-
GFDL; (c) PRECIS-Tổ hợp; (d) CFSR
Kết quả tính toán (Hình 4.5a và Bảng 4.1) cho thấy, lượng mưa trong mùa
GMMH thời kỳ 1986 - 2005 theo mô hình PRECIS không sai khác nhiều so với
số liệu quan trắc ở các vùng khí hậu, với sai số dao động từ -0,3 mm/ngày đến 0,7
mm/ngày. Bảng 4.1 cho thấy, bộ số liệu lượng mưa từ các phương án mô hình
phản ánh một cách phù hợp về quy luật biến động của lượng mưa ở các vùng khí
hậu. Trong đó, chỉ số STD của lượng mưa đều thấp nhất ở vùng Tây Nguyên và
Nam Bộ; lớn nhất ở khu vực Trung Bộ. Mức độ sai khác của chỉ số STD giữa mưa
mô phỏng với quan trắc dao động từ 0 (theo phương án PRECIS-GFDL tại khu
112
vực Tây Bắc) đến 1 mm/ngày (theo phương án PRECIS-GFDL tại khu vực Nam
Trung Bộ). Sai khác về chỉ số STD giữa các phương án mô hình với quan trắc là
rất thấp so với chỉ số STD tính từ số liệu quan trắc. Điều này cho thấy, số liệu mô
phỏng đã phản ánh tốt biến động IAV của lượng mưa GMMH.
Hình 4.6 và Hình 4.7 cho thấy, diễn biến trong mùa GMMH theo các
phương án mô hình PRECIS là phù hợp với thực tế. Trung bình giai đoạn 1986-
2005, hệ số tương quan giữa chuối số liệu lượng mưa trong mùa GMMH từ sản
phẩm mô hình với quan trắc ở các vùng khí hậu dao động từ 0,59 đến 0,9. Trong
đó, hệ số tương quan tốt nhất ở khu vực Trung Bộ, Nam Bộ, Tây Bắc và Đông
Bắc (Hình 4.6). Các hệ số tương quan này là đảm bảo ý nghĩa thống kê (vượt 99%
độ tin cậy). Mặc dù vậy, sai số về lượng trong một số trường hợp là khá rõ ràng,
với lượng mưa thấp hơn/cao hơn đáng kể so với thực tế (Hình 4.7). Điều này là
do biến động của lượng mưa mô hình là lớn hơn so với thực tế.
Nhìn chung, bộ số liệu về lượng mưa ngày từ các phương án mô hình
PRECIS là phù hợp với thực tế về giá trị và mức độ biến động. Bên cạnh đó, vẫn
tồn tại một số hạn chế như giá trị, biến động ISV và IAV theo các phương án mô
hình đều lớn hơn thực tế. Tuy nhiên, sai số giữa số liệu mưa từ các phương án mô
hình so với thực tế đều thấp hơn đáng kể so với mức độ biến động của số liệu
quan trắc.
113
Hình 4.5. Chênh lệch giữa mô phỏng bằng PRECIS với số liệu quan trắc (tháng
5-tháng 9) thời kỳ 1986-2005: (a) Lượng mưa (mm/ngày); (b) chỉ số STD
(mm/ngày)
Hình 4.6. Hệ số tương quan giữa chuối số liệu của lượng mưa quy mô hậu trung
bình thời kỳ 1986-2005 diễn ra trong mùa GMMH theo các phương án mô hình
PRECIS với số liệu quan trắc
114
Hình 4.7. Diễn biến lượng mưa
(mm/ngày) quy mô hậu trung bình thời
kỳ 1986-2005 trong các phương án mô
phỏng PRECIS (PRECIS-CNRM và
PRECIS-GFDL) với số liệu quan trắc
thực tế ở 7 vùng khí hậu
115
Bảng 4.1. Kết quả tính toán các đặc trưng thống kê giữa số liệu lương mưa mô
phỏng và số liệu quan trắc
Vùng khí hậu
Đặc trưng thống kê
Lượng mưa trung bình
(mm/ngày) STD (mm/ngày)
Quan trắc
PRECIS-CNRM
PRECIS-GFDL
Quan trắc
PRECIS-CNRM
PRECIS-GFDL
Tây Bắc 9,0 9,1 8,9 2,7 3,2 2,7
Đông Bắc 10,8 10,8 10,9 2,5 3,2 3,4
Đồng Bằng
Bắc Bộ
8,0 7,9 8,0 2,0 2,2 2,05
Bắc Trung
Bộ
7,1 6,9 7,3 3,8 3,9 4,7
Nam Trung
Bộ
4,8 5,2 5,5 2,6 3,1 3,6
Tây Nguyên 8,9 9,0 9,5 1,6 2,0 1,7
Nam Bộ 8,6 9,3 8,9 1,4 1,5 1,9
4.2. Dự tính biến động của trường U850hPa
4.2.1. Dự tính biến động vào giữa thế kỷ 21
Các phương án dự tính đều cho thấy sự gia tăng biến động U850hPa ở khu
vực Bắc Trung Bộ và vùng biển lân cận. Tuy nhiên, có sự bất đồng nhất về dự
tính biến động U850hPa ở các khu vực khác, đặc biệt là khu vực Bắc Bộ. Các
phương án mô hình PRECIS-GFDL và kịch bản RCP8.5 có thiên hướng dự tính
sự gia tăng biến động U850hPa vào giữa thế kỷ 21 ở khu vực phía Nam.
Hình 4.8 và Hình 4.9 cho thấy, điểm tương đồng nổi bất nhất giữa các
phương án mô hình và kịch bản là sự gia tăng biến động của U850hPa ở khu vực
116
Bắc Trung Bộ và vùng biến lân cận. Ngoài ra, giữa các phương án kịch bản trong
cùng một mô hình cũng thể sự hiện sự tương đồng cao về mặt hình thế phân bố
theo không gian. Tuy nhiên, có thể thấy rõ sự khác nhau giữa hai phương án mô
hình trong dự tính biến động U850hPa ở khu vực Bắc Bộ và phía Nam. Phương
án PRECIS-CNRM cho thấy, biến động trường U850hPa ở Bắc Bộ có thiên hướng
tăng theo kịch bản RCP4.5 và giảm theo RCP8.5; giảm ở các vùng khí hậu phía
Nam theo cả hai kịch bản. Mức tăng/giảm của chỉ số STD dao động từ -20 đến
20% so với thời kỳ cơ sở. Phương án PRECIS-GFDL cho thấy, giảm biến động ở
Bắc Bộ và tăng biến động ở phía Nam theo cả hai kịch bản RCP4.5 và RCP8.5.
Phương án tổ hợp cho thấy, giảm biến động ở Bắc Bộ và phía Nam; tăng biến
động ở khu vực Bắc Trung Bộ. Mức tăng/giảm của chỉ số STD so với thời kỳ cơ
sở dao động từ -20 đến 20%.
Theo kịch bản RCP4.5 (Hình 4.8): Theo phương án PRECIS-CNRM, hình
thế cơ bản là biến động của U850hPa được dự tính giảm ở phía Nam (từ Quảng
Bình trở vào) và tăng ở phía Bắc, với mức độ biến đổi của chỉ số STD so với thời
kỳ cơ sở dao động trong khoảng từ -40 đến 40% (Hình 4.8a). Ngược lại, biến động
được dự tính gia tăng ở đa phần diện tích cả nước và giảm ở Bắc Bộ, với mức độ
biến đổi của chỉ số STD so với thời kỳ cơ sở dao động trong khoảng từ -60 đến
60% (Hình 4.8b). Phương án tổ hợp trung bình (PRECIS-Tổ hợp) cho thấy, mức
độ biến đổi của chỉ số STD so với thời kỳ cơ sở dao động từ -20 đến 20% trên khu
vực đất liền và từ 0 đến 40% trên hầu hết khu vực Biển Đông. Trong đó, biến
động được dự tính giảm ở vùng núi phía Bắc và khu vực phía Nam (Tây Nguyên
và Nam Trung Bộ); tăng ở khu vực Đồng Bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và Nam
Bộ (Hình 4.8c).
Theo kịch bản RCP8.5 (Hình 4.9): Kết quả dự tính mức độ biến đổi chỉ số
STD của trường U850hPa theo kịch bản RCP8.5 có phân bố theo không gian là
tương đồng với theo kịch bản RCP4.5. Tuy nhiên, khu vực được dự tính giảm biến
động của U850hPa theo phương án PRECIS-CNRM được mở rộng ở phía Bắc
(Hình 4.9a). Vùng có biến động được dự tính gia tăng ở phía Nam được dự tính
117
mở rộng hơn về giá trị và phạm vi theo phương án PRECIS-GFDL. Bên cạnh đó,
phương án PRECIS-GFDL cũng cho thấy mức độ biến động giảm đáng kể ở một
phần khu vực Tây Nam Bộ và vùng biển phía Nam (Hình 4.9b). Do vậy, phương
án tổ hợp cho thấy giảm biến động ở hầu hết Bắc Bộ và Nam Bộ; tăng biến biến
động ở Trung Bộ và Tây Nguyên. Mức tăng/giảm biến động là rõ ràng hơn so với
kịch bản RCP4.5. Mức biến đổi của chỉ số STD so với thời kỳ cơ sở dao động từ
-40 đến 40% (Hình 4.9c).
(a)
(b)
(c)
Hình 4.8. Mức độ biến đổi chỉ số STD
(%) của U850hPa trung bình mùa
GMMH vào giữa thế kỷ 21 so với thời
kỳ cơ sở theo kịch bản RCP4.5: (a)
PRECIS-CNRM; (b) PRECIS-GFDL;
(c) Tổ hợp trung bình
118
(a)
(b)
(c)
Hình 4.9. Mức độ biến đổi chỉ số STD
(%) của U850hPa trung bình mùa
GMMH vào giữa thế kỷ 21 so với thời
kỳ cơ sở theo kịch bản RCP8.5: (a)
PRECIS-CNRM; (b) PRECIS-GFDL;
(c) Tổ hợp các dự tính
4.2.2. Dự tính biến động vào cuối thế kỷ 21
Hình thế biến động U850hPa vào cuối thế kỷ 21 là tương đồng với giữa thế
kỷ 21. Tuy nhiên, mức độ đồng nhất trong dự tính gia tăng biến động U850hPa ở
khu vực phía Nam là rõ ràng hơn so với thời kỳ giữa thế kỷ 21 theo kịch bản
RCP4.5. Theo phương án tổ hợp, biến động U850hPa được dự tính gia tăng ở hầu
hết diện tích cả nước, với mức tăng phổ biến từ 0 đến trên 20%. Theo kịch bản
RCP8.5, biến động U850hPa được dự tính giảm biến động ở Bắc Bộ và phía Nam;
119
tăng ở Bắc Trung Bộ. Mức tăng/giảm của chỉ số STD so với thời kỳ cơ sở dao
động từ -20 đến trên 20%.
Theo kịch bản RCP4.5 (Hình 4.10): Cả hai phương án mô hình PRECIS
đều dự tính gia tăng biến động của trường U850hPa ở khu vực Bắc Trung Bộ và
vùng biển lân cận, với mức tăng của chỉ số STD phổ biến từ 20 đến 60%. Sự sai
khác rõ ràng giữa hai phương án dự tính xảy ra ở khu vực Bắc Bộ và phía Nam.
Phương án PRECIS-CNRM dự tính gia tăng biến động của trường U850hPa ở
hầu hết Bắc Bộ và khu vực phía Nam (Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và Nam Bộ),
với mức biến đổi của chỉ số STD phổ biến từ -20 đến 0% (Hình 4.10a). Trong khi
đó, phương án PRECIS-GFDL dự tính gia tăng biến động của U850hPa ở hầu hết
Bắc Bộ, Tây Nguyên và Nam Trung Bộ; giảm ở Nam Bộ. Mức độ biến đổi của
chỉ số STD trong dự tính PRECIS-GFDL trên các khu vực này phổ biến trong
khoảng từ -20 đến 40% (Hình 4.10b). Theo phương án tổ hợp trung bình, gia tăng
biến động của trường U850hPa được dự tính xảy ra ở hầu hết các khu vực trên cả
nước, với mức tăng của chỉ số STD phổ biến từ 0 đến 40%. Trong đó, tăng nhiều
hơn ở khu vực Bắc Trung Bộ và vùng biển lân cận, với mức tăng của chỉ số STD
lớn hơn 20%. Đối với các khu vực còn lại, gia tăng biến động của trường U850hPa
là không rõ ràng bằng, với mức tăng của chỉ số STD thấp hơn 20% (Hình 4.10c).
Theo kịch bản RCP8.5: Nhìn chung, hình thế tăng/giảm biến động của
trường U850hPa theo phương án kịch bản RCP8.5 (Hình 4.11) là khá tương đồng
với phương án RCP4.5 (Hình 4.10). Những điểm khác biệt đáng chú ý là sự mở
rộng vùng giảm biến động và thu hẹp vùng tăng biến động của trường U850hPa.
Theo phương án mô hình PRECIS-CNRM, hình thế cơ bản là giảm biến động ở
Bắc Bộ và phía Nam; tăng biến động ở khu vực Bắc Trung Bộ và vùng biển lân
cận. Trong đó, mức tăng/giảm của chỉ số STD phổ biến dao động từ -20 đến 20%
(Hình 4.11a). Theo phương án, PRECIS-GFDL, hình thế cơ bản là gia tăng biến
động ở phía Bắc; giảm biến động ở phía Nam. Mức tăng/giảm của chỉ số STD
được dự tính phổ biến trong khoảng từ -20 đến trên 60% (Hình 4.11b). Phương
án tổ hợp trung bình cho thấy, hình thế cơ bản là tăng biến động ở hầu hết khu
120
vực phía Bắc; giảm biến động ở một phần vùng núi phía Bắc và khu vực phía
Nam. Mức tăng/giảm của chỉ số STD được dự tính dao động trong khoảng từ -20
đến trên 40% (Hình 4.11c).
(a)
(b)
(c)
Hình 4.10. Mức độ biến đổi chỉ số STD
(%) của U850hPa trung bình mùa
GMMH vào cuối thế kỷ 21 so với thời
kỳ cơ sở theo kịch bản RCP4.5: (a)
PRECIS-CNRM; (b) PRECIS-GFDL;
(c) Tổ hợp các dự tính
121
(a)
(b)
(c)
Hình 4.11. Mức độ biến đổi chỉ số STD (%) của U850hPa trung bình mùa GMMH vào cuối thế kỷ 21 so với thời kỳ cơ sở theo kịch bản RCP8.5: (a) PRECIS-CNRM; (b) PRECIS-GFDL; (c) Tổ hợp các dự tính
4.3. Dự tính biến động các đặc trưng gió mùa mùa hè theo chỉ số VSMI
4.3.1. Dự tính biến động của thời điểm bắt đầu gió mùa mùa hè
Nhìn chung, thời điểm bắt đầu vào giữa và cuối thế kỷ 21 được dự tính biến
đổi không nhiều so với thời kỳ cơ sở, với mức biến đổi theo phương án tổ hợp dao
động từ 0,1 đến 0,5 hậu. Biến động của thời điểm bắt đầu GMMH được dự tính
giảm vào giữa và cuối thế kỷ 21 so với thời kỳ cơ sở; với mức giảm của chỉ số
STD theo phương án tổ hợp lần lượt tương ứng từ 18,4% (RCP8.5) đến 24,8%
(RCP4.5) và từ 13,2% (RCP8.5) đến 19,7 (RCP4.5). Cụ thể như sau:
122
Thời điểm bắt đầu GMMH
Giữa thế kỷ 21: Các phương án dự tính cho thấy thời điểm bắt đầu đến
muộn hơn so với thời kỳ cơ sở từ 0 đến 0,9 hậu. Theo phương án tổ hợp trung
bình, thời điểm bắt đầu muộn 0,5 hậu hơn so với thời kỳ cơ sở theo cả hai phương
án kịch bản (Hình 4.12a)
Cuối thế kỷ 21: Phương án PRECIS-GFDL dự tính thời điểm bắt đầu đến
sớm hơn thời kỳ cơ sở từ 0,6 hậu (RCP8.5) đến 0,7 hậu (RCP4.5). Ngược lại,
phương án PRECIS-CNRM dự tính thời điểm bắt đầu đến muộn hơn 1 hậu so với
thời kỳ cơ sở. Theo phương án tổ hợp, thời điểm bắt đầu đến muộn hơn khoảng
0,1 đến 0,2 hậu (Hình 4.12b).
Nhìn chung, các phương án mô hình đều cho thấy thời điểm bắt đầu vào
giữa và cuối thế kỷ 21 biến đổi không nhiều so với thời kỳ cơ sở. Mức độ biến đổi
thời điểm bắt đầu so với thời kỳ dao động trong khoảng từ -0,7 đến 1,0 hậu. Trong
đó, toàn bộ các phương án mô hình đều dự tính thời điểm bắt đầu đến muộn hơn
vào giữa thế kỷ 21. Xét xu thế biến đổi của chuối số liệu thời điểm bắt đầu GMMH
ở các thời kỳ trong tương lai cho thấy, xu thế của các chuỗi số liệu này đều không
thỏa mãn độ tin cậy 95%.
Biến động của thời điểm bắt đầu GMMH
Giữa thế kỷ 21: Toàn bộ các phương án mô hình đều dự tính biến động của
thời điểm bắt đầu GMMH giảm so với thời kỳ cơ sở. Kết quả tính toán cho thấy,
mức biến đổi của chỉ số STD so với thời kỳ cơ sở được dự tính dao động từ -29,4
đến 13,8%. Trong đó, các kịch bản theo phương án PRECIS-CNRM có mức giảm
nhiều hơn so với PRECIS-GFDL; kịch bản RCP4.5 giảm nhiều hơn kịch bản
RCP8.5. Phương án tổ hợp trung bình cho thấy, chỉ số STD vào giữa thế kỷ giảm
từ 18,4% (RCP8.5) đến 24,8% (RCP4.5) (Hình 4.13a).
Cuối thế kỷ 21: Hầu hết các kết quả dự tính đều cho thấy biến động của
thời điểm bắt đầu GMMH giảm so với thời kỳ cơ sở. Kết quả tính toán cho thấy,
mức biến đổi của chỉ số STD dao động từ -41,6 đến 2,3%. Duy nhất kết quả mô
hình PRECIS-GFDL theo kịch bản RCP4.5 cho mức biến động tăng. Kết quả tổ
123
hợp trung bình cho thấy, biến động thời điểm bắt đầu giảm so với thời kỳ cơ sở
theo cả hai kịch bản, với mức biến đổi của chỉ số STD từ -19,7 (RCP4.5) đến -
13,2% (RCP8.5) (Hình 4.13b).
Hình 4.12. Mức biến đổi của thời điểm bắt đầu GMMH (hậu) ở các thời kỳ trong
tương lai so với thời kỳ cơ sở theo các kịch bản (RCP4.5 và RCP8.5) và phương
án tổ hợp trung bình: a) 2046-2065; b) 2080-2099
124
Hình 4.13. Tương tự như Hình 4.5 nhưng đối với chỉ số STD (%) của thời điểm
bắt đầu GMMH: a) 2046-2065; b) 2080-2099
4.3.2. Dự tính biến động của thời điểm kết thúc gió mùa mùa hè
Hình 4.14 và Hình 4.15 cho thấy, thời điểm kết thúc GMMH vào giữa và
cuối thế kỷ 21 được dự tính không biến đổi nhiều so với thời kỳ cơ sở, với mức
biến đổi theo phương án tổ hợp dao động từ -0,2 đến 1,4 hậu. Biến động của thời
điểm kết thúc GMMH được dự tính gia tăng trong đa số các trường hợp (chiếm
125
66,7%), với mức tăng của chỉ số STD theo phương án tổ hợp dao động từ 25 đến
47,8%. Cụ thể kết quả như sau:
Thời điểm kết thúc GMMH:
Cũng như thời điểm bắt đầu, thời điểm kết thúc GMMH ở các thời kỳ trong
tương lai được dự tính biến đổi không nhiều so với thời kỳ cơ sở (Hình 4.14).
Mức biến đổi của thời điểm kết thúc GMMH dao động từ -0,7 đến 1,5 hậu. Trong
đó, xu thế chung là GMMH kết thúc muộn hơn.
Giữa thế kỷ 21: Theo kịch bản RCP4.5, thời điểm kết thúc GMMH muộn
hơn 0,2 hậu theo dự tính PRECIS-GFDL và sớm hơn 0,7 hậu theo dự tính
PRECIS-CNRM. Phương án tổ hợp trung bình kịch bản RCP4.5 cho thấy, thời
điểm kết thúc GMMH đến sớm hơn 0,2 hậu so với thời kỳ cơ sở. Theo kịch bản
RCP8.5, toàn bộ các kết quả dự tính đều cho thấy thời điểm kết thúc GMMH đến
muộn hơn so với thời kỳ cơ sở, với mức biến đổi từ 0,9 đến 1,2 hậu. Kết quả tổ
hợp kịch bản RCP8.5 cho thấy, thời điểm kết thúc GMMH đến muộn hơn thời kỳ
cơ sở khoảng 1,0 hậu (Hình 4.14a).
Cuối thế kỷ 21, toàn bộ các kết quả dự tính đều cho thấy thời điểm kết thúc
GMMH đến muộn hơn so với thời kỳ cơ sở, với mức biến đổi từ 0 đến 1,5 hậu.
Kết quả tổ hợp cho thấy, thời điểm kết thúc GMMH đến muộn hơn 0,6 hậu theo
kịch bản RCP4.5 và 1,4 hậu theo kịch bản RCP8.5 (Hình 4.14b). Xu thế diễn biến
của các chuỗi số liệu thời điểm kết thúc GMMH ở các giai đoạn trong tương lai
đều không thỏa mãn mức tin cậy 95%.
126
Hình 4.14. Mức biến đổi của thời điểm kết thúc GMMH (hậu) ở các thời kỳ
trong tương lai so với thời kỳ cơ sở theo các kịch bản (RCP4.5 và RCP8.5) và
phương án tổ hợp trung bình: a) 2046-2065; b) 2080-2099
Biến động của thời điểm kết thúc GMMH
Mặc dù thời điểm kết thúc GMMH được dự tính không biến đổi nhiều so
với thời kỳ cơ sở. Tuy nhiên, mức độ biến động của thời điểm kết thúc được dự
tính thay đổi đáng kể so với thời kỳ cơ sở. Trong đó, mô hình PRECIS-GFDL có
thiên hướng dự tính giảm biến động của thời điểm kết thúc. Tuy nhiên, phương
127
án PRECIS-CNRM có thiên hướng dự tính tăng đáng kể về biến động của thời
điểm kết thúc.
Giữa thế kỷ 21: Theo kịch bản RCP4.5, mức độ biến động được dự tính
giảm theo mô hình PRECIS-GFDL và tăng theo phương án PRECIS-CNRM.
Trong đó, mức biến đổi của chỉ số STD lần lượt tương ứng với các mô hình là -
20,3 và 70,3%. Kết quả tổ hợp dự tính theo kịch bản RCP4.5 cho thấy, biến động
của thời điểm kết thúc GMMH được dự tính tăng so với thời kỳ cơ sở, với mức
tăng của chỉ số STD khoảng 25%. Theo kịch bản RCP8.5, xu thế dự tính biến
động của thời điểm kết thúc cũng tương tự như kịch bản RCP4.5. Trong đó, mức
biến đổi của chỉ số STD là -16,1% theo PRECIS-GFDL và 109,4% theo PRECIS-
CNRM. Kết quả tính toán tổ hợp trung bình cho thấy, chỉ số STD tăng khoảng
47,8% (Hình 4.15a).
Cuối thế kỷ 21: Xu thế dự tính biến động của thời điểm kết thúc GMMH
vào cuối thế kỷ là tương đồng với thời kỳ giữa thế kỷ 21. Tuy nhiên, mức biến
đổi vào cuối thế kỷ là thấp hơn so với thời kỳ giữa thế kỷ 21. Toàn bộ các kết quả
theo kịch bản RCP4.5 đều cho thấy sự gia tăng biến động của thời điểm kết thúc.
Trong đó, mức tăng của chỉ số STD dao động từ 2,3 (PRECIS-GFDL) đến 64%
(PRECIS-CNRM). Kết quả tổ hợp trung bình theo kịch bản RCP4.5 cho thấy, chỉ
số STD vào cuối thế kỷ 21 được dự tính tăng khoảng 47,8% so với thời kỳ cơ sở.
Theo kịch bản RCP8.5, mức biến đổi của chỉ số STD là -16,1% theo kết quả
PRECIS-GFDL và 13,0% theo kết quả PRECIS-CNRM. Kết quả tổ hợp trung
bình theo kịch bản RCP8.5 cho thấy, chỉ số STD giảm khoảng 1,6% (Hình 4.15b).
128
Hình 4.15. Tương tự như Hình 4.7 nhưng đối với chỉ số STD (%) của thời điểm
kết thúc GMMH: a) 2046-2065; b) 2080-2099
4.3.3. Dự tính biến động của độ dài mùa gió mùa mùa hè
Độ dài mùa GMMH là đặc trưng có mối quan hệ chặt chẽ với thời điểm bắt
đầu và kết thúc. Do vậy những biến đổi về biến động của hai đặc trưng này sẽ tác
động đến biến động của độ dài mùa (Hình 4.16 và Hình 4.17). Vào giữa thế kỷ
21, mùa GMMH được dự tính là ngắn hơn (chiếm 66,7% của tổng các phương án
dự tính) và gia tăng biến động (chiếm 66,7% của tổng các phương án dự tính).
Đến cuối thế kỷ 21, hầu hết các phương án đều dự tính mùa GMMH kéo dài hơn
129
(chiếm 83,3% của tổng các phương án dự tính) và giảm biến động (100% các kết
quả đều dự tính giảm biến động).
Độ dài mùa GMMH
Nhìn chung, mức độ biến đổi của độ dài mùa GMMH vào giữa (Hình 4.16a)
và cuối thế kỷ 21 (Hình 4.16b) so với thời kỳ cơ sở là không nhiều và phù hợp
với kết quả dự tính biến đổi của thời điểm bắt đầu (Hình 4.5) và thời điểm kết
thúc (Hình 4.7). Xu thế chung là độ dài mùa được dự tính tăng rõ ràng hơn theo
kịch bản RCP8.5 và vào cuối thể kỷ 21. Tuy nhiên, xét xu thế của chuỗi số liệu
độ dài mùa trong các kết quả dự tính đều không thỏa mãn độ tin cậy 95%.
Giữa thế kỷ 21: Các kết quả theo kịch bản RCP4.5 đều cho thấy độ dài mùa
GMMH vào giữa thế kỷ 21 được dự tính ngắn hơn từ 0,6 đến 1 hậu so với thời kỳ
cơ sở. Kết quả tổ hợp trung bình theo kịch bản RCP4.5 cho thấy, độ dài mùa
GMMH được dự tính ngắn hơn thời kỳ cơ sở khoảng 0,8 hậu. Ngược lại, dài mùa
GMMH đều được dự tính tăng theo các kết quả kịch bản RCP8.5, mức tăng nhiều
nhất là 1,2 hậu theo kết quả PRECIS-GFDL. Tổ hợp trung bình các kết quả theo
kịch bản RCP8.5 cho thấy, độ dài mùa GMMH được dự tính tăng khoảng 0,6 hậu
(Hình 4.16a).
Đến cuối thế kỷ 21: Độ dài mùa GMMH vào cuối thế kỷ 21 được dự tính
tăng so với thời kỳ cơ sở ở hầu hết các kết quả (chiếm 83,3%). Trong đó, mức
tăng của độ dài mùa dao động từ 0,4 hậu đến 2,2 hậu. Mức tăng của độ dài mùa
GMMH nhiều nhất trong các phương án dự tính bằng mô hình PRECIS-GFDL
(2,0 hậu theo kịch bản RCP4.5 và 2,2 hậu theo kịch bản RCP8.5). Kết quả tổ hợp
trung bình cho thấy, độ dài mùa tăng khoảng 0,5 hậu theo kịch bản RCP4.5 và 1,3
hậu theo kịch bản RCP8.5 (Hình 4.16b).
130
Hình 4.16. Mức biến đổi của độ dài mùa GMMH (hậu) ở các thời kỳ trong
tương lai so với thời kỳ cơ sở theo các kịch bản (RCP4.5 và RCP8.5) và phương
án tổ hợp trung bình: a) 2046-2065; b) 2080-2099
Biến động của độ dài mùa GMMH
Vào giữa thế kỷ 21: Đa số các kết quả dự tính (chiếm 66,7%) đều dự tính
biến động của độ dài mùa GMMH vào giữa thế kỷ là gia tăng so với thời kỳ cơ
sở, với mức tăng của chỉ số STD từ 5,0 đến 38,0%. Trong đó, các kết quả PRECIS-
CNRM đều cho thấy biến động gia tăng mạnh, với mức tăng của chỉ số STD từ
36,8% (RCP4.5) đến 38,0% (RCP8.5). Ngược lại, mức độ biến động được dự tính
giảm trong các dự tính PRECIS-GFDL, với mức giảm của chỉ số STD từ 0,1%
131
(RCP4.5) đến 28,0% (RCP8.5). Kết quả tính toán tổ hợp trung bình cho thấy, chỉ
số STD của độ dài mùa GMMH được dự tính gia tăng từ 5,0% (RCP8.5) đến
18,3% (RCP4.5) (Hình 4.17a).
Đến cuối thế kỷ 21: Hình 4.17b cho thấy, biến động của độ dài mùa GMMH
vào cuối thế kỷ 21 đều được dự tính giảm so với thời kỳ cơ sở trong toàn bộ các
phương án mô hình PRECIS. Trong đó, mức giảm của chỉ số STD vào cuối thế
kỷ 21 so với thời kỳ cơ sở dao động từ 2,3% đến 30,4%. Kết quả tổ hợp trung
bình các dự tính cho thấy, chỉ số STD của độ dài mùa giảm từ 4,1% (RCP8.5) đến
16,3% (RCP4.5) (Hình 4.17b).
Hình 4.17. Tương tự như Hình 4.9 nhưng đối với chỉ số STD (%) của độ dài
mùa GMMH: a) 2046-2065; b) 2080-2099
132
4.3.4. Dự tính biến động của số đợt gián đoạn gió mùa mùa hè
Số đợt gián đoạn GMMH là một đặc trưng có quan hệ thống kê chặt chẽ
với độ dài mùa và thời điểm kết thúc. Do vậy, đặc trưng về số đợt gián đoạn cũng
biến đổi ở các thời kỳ trong tương lai theo kịch bản RCP4.5 và RCP8.5. Tuy
nhiên, số đợt xảy ra gián đoạn GMMH là không nhiều (khoảng 1,5 đợt/mùa), dẫn
đến mức độ biến đổi của đặc trưng này trong tương lai cũng không lớn (Hình
4.18). Tuy nhiên, biến động của đặc trưng này trong tương lai được dự tính biến
đổi khá rõ ràng so với thời kỳ cơ sở theo từng phương án mô hình PRECIS (Hình
4.19).
Nhìn chung, số đợt gián đoạn GMMH được dự tính gia tăng vào giữa và
cuối thế kỷ 21 so với thời kỳ cơ sở, với mức tăng theo phương án tổ hợp là từ 0,1
đến 0,3 đợt. Tuy nhiên, có sự bất đồng nhất các giữa các phương án mô hình trong
dự tính mức độ biến động. Trong đó, PRECIS-GFDL có thiên hướng dự tính giảm
biến động; xu thế gia tăng theo PRECIS – CNRM.
Số đợt gián đoạn GMMH:
Kết quả cho thấy, mức độ biến đổi của số đợt gián đoạn GMMH ở các thời
kỳ trong thế kỷ 21 so với thời kỳ cơ sở dao động từ -0,4 đến 0,9 đợt. Vào giữa thế
kỷ 21, đa số các kết quả (chiếm 66,7%) là gia tăng số đợt gián đoạn từ 0,1 đến 0,6
đợt (Hình 4.18a). Xu thế này tiếp tục diễn ra vào giai đoạn cuối thế kỷ 21, với
mức tăng từ 0,1 đến 0,9 đợt (Hình 4.18b). Kết quả tính toán tổ hợp trung bình cho
thấy, số đợt gián đoạn tăng từ 0,1 đến 0,3 đợt. Trong đó, số đợt gián đoạn được
dự tính gia tăng nhiều hơn vào cuối thế kỷ 21. Xu thế của chuỗi số liệu số đợt gián
đoạn GMMH từ các kết quả dự tính đều không thỏa mãn mức tin cậy 95%.
133
Hình 4.18. Mức biến đổi của số đợt gián đoạn GMMH (hậu) ở các thời kỳ trong
tương lai so với thời kỳ cơ sở theo các kịch bản (RCP4.5 và RCP8.5) và phương
án tổ hợp trung bình: a) 2046-2065; b) 2080-2099
Biến động của số đợt gián đoạn GMMH
Có sự không đồng nhất rõ ràng giưa các phương án mô hình về dự tính biến
động của số đợt gián đoạn GMMH. Trong đó, phương án mô hình PRECIS-GFDL
có thiên hướng dự tính giảm biến động số đợt gián đoạn. Ngược lại, phương án
PRECIS-CNRM có thiên hướng dự tính gia tăng biến động của số đợt gián đoạn.
Vào giữa thế kỷ 21, phương án PRECIS-GFDL dự tính giảm chỉ số STD là 38,1%
(RCP4.5) và 4,5% (RCP8.5). Phương án PRECIS-CNRM dự tính tăng chỉ số STD
134
là 5,1% (RCP4.5) và 11,7% (RCP8.5) (Hình 4.19a). Đến cuối thế kỷ 21, xu thế
tăng/giảm của chỉ số STD trong hai phương án mô hình này là tương đương nhau,
với mức biến đổi dao động từ -37,1 đến 37,1% (Hình 4.19b).
Hình 4.19. Tương tự như Hình 4.11 nhưng đối với chỉ số STD (%) của số đợt
gián đoạn GMMH: a) 2046-2065; b) 2080-2099
4.3.5. Dự tính biến động cường độ gió mùa mùa hè
Cường độ GMMH là một đặc trưng có quan hệ chặt chẽ với độ dài mùa,
thời điểm kết thúc và số đợt gián đoạn. Do vậy, biến động của cường độ GMMH
vào giữa và cuối thế kỷ 21 được dự tính là biến đổi rõ ràng so với thời kỳ cơ sở
(Hình 4.21). Nhìn chung, cường độ GMMH được dự tính gia tăng vào giữa và
135
cuối thế kỷ 21 so với thời kỳ cơ sở, với mức tăng theo phương án tổ hợp là từ 0,2
đến 0,3 m/s. Đa số các kết quả dự tính cho thấy sự gia tăng biến động về cường
độ GMMH, với mức tăng của chỉ số STD theo phương án tổ hợp là từ 11,9 đến
16,1%. Trong đó, mô hình PRECIS-CNRM có thiên hướng dự tính gia tăng biến
động, đặc biệt là vào cuối thế kỷ 21. Ngược lại, mô hình PRECIS-GFDL có thiên
hướng dự tính giảm biến động vào cuối thể kỷ 21.
Cường độ GMMH
Giữa thế kỷ 21: Đa số kết quả dự tính (chiếm 66,7%) cho thấy cường độ
GMMH được tăng cường so với thời kỳ cơ sở, với mức tăng dao động từ 0,2 đến
0,7 m/s. Kết quả tổ hợp trung bình cho thấy cường độ GMMH tăng từ 0,2 m/s
(RCP4.5) đến 0,3 m/s (RCP8.5) (Hình 4.20a).
Cuối thế kỷ 21: Xu thế biến đổi của cường độ GMMH vào cuối thế kỷ là
tương tự vào giữa thế kỷ. Kết quả cho thấy, đa số các kết quả dự tính (chiếm
66,7%) cho thấy cường độ GMMH gia tăng so với thời kỳ cơ sở, với mức tăng từ
0,2 đến 1 m/s. Kết quả tổ hợp trung bình cũng cho thấy cường độ GMMH tăng từ
0,2 m/s (RCP4.5) đến 0,3 m/s (RCP8.5) (Hình 4.20b).
136
Hình 4.20. Mức biến đổi của cường độ GMMH (hậu) ở các thời kỳ trong tương
lai so với thời kỳ cơ sở theo các kịch bản (RCP4.5 và RCP8.5) và phương án tổ
hợp trung bình: a) 2046-2065; b) 2080-2099
Biến động của cường độ GMMH
Giữa thế kỷ 21: Đa số kết quả dự tính (chiếm 66,7%) cho thấy biến động
của cường độ GMMH gia tăng, với mức tăng của chỉ số STD từ 5,8 đến 18,0% so
với thời kỳ cơ sở. Kết quả tổ hợp trung bình cho thấy mức biến đổi của chỉ số
STD dao động từ -3,0% (RCP4.5) đến 11,9% (RCP8.5) (Hình 4.21a).
Cuối thế kỷ 21: Có sự không đồng nhất (trái ngược nhau) trong dự tính xu
thế biến động của cường độ GMMH giữa hai phương án mô hình PRECIS.
137
Phương án PRECIS-GFDL có thiên hướng dự tính biến động GMMH giảm so với
thời kỳ cơ sở, với mức giảm của chỉ số STD từ 9,4% (RCP4.5) đến 37,4%
(RCP8.5). Ngược lại, phương án PRECIS-CNRM có thiên hướng dự tính gia tăng
biến động, với mức tăng của chỉ số STD từ 26,6% (RCP8.5) đến 41,7% (RCP8.5).
Kết quả tính toán tổ hợp trung bình cho thấy biến động của cường độ GMMH
tăng khoảng 16,1% theo kịch bản RCP4.5 và giảm khoảng 5,4% theo kịch bản
RCP8.5 (Hình 4.21a).
Hình 4.21. Tương tự như Hình 4.13 nhưng đối với chỉ số STD (%) của cường độ
GMMH: a) 2046-2065; b) 2080-2099
138
4.4. Dự tính biến động lượng mưa trong mùa gió mùa mùa hè ở khu vực Tây
Nguyên và Nam Bộ
Các kết quả dự tính lượng mưa và mức độ biến động được trình bày trong
Bảng 4.2 và Bảng 4.3. Nhìn chung, lượng mưa và mức độ biến động đều được dự
tính gia tăng vào giữa và cuối thế kỷ 21 so với thời kỳ cơ sở ở khu vực Tây Nguyên
và Nam Bộ theo các phương án kịch bản RCP4.5 và RCP8.5. Trong đó, lượng
mưa được dự tính gia tăng nhiều hơn ở Tây Nguyên; nhiều hơn theo kịch bản
RCP8.5 và vào cuối thế kỷ 21. Ngược lại, mức độ biến động được dự tính gia tăng
nhiều hơn ở khu vực Nam Bộ; nhiều hơn theo kịch bản RCP8.5 và vào cuối thế
kỷ 21.
Biến đổi lượng mưa
Bảng 4.2 cho thấy, hầu hết các phương án đều có thiên hướng dự tính gia
tăng lượng mưa vào các thời kỳ trong tương lai so với thời kỳ cơ sở ở khu vực
Tây Nguyên và Nam Bộ. Trong đó, lượng mưa tăng nhiều hơn ở khu vực Tây
Nguyên so với Nam Bộ; tăng nhiều hơn theo kịch bản RCP8.5 so với RCP4.5 và
tăng nhiều hơn vào cuối thế kỷ so với giữa thế kỷ 21.
- Khu vực Tây Nguyên: Đến giữa thế kỷ 21, lượng mưa được dự tính gia
tăng ở hầu hết các phương án dự tính, với mức tăng lớn nhất lên tới 26,4% theo
kịch bản RCP8.5 (PRECIS-GFDL). Trong khi đó, mô hình PRECIS-CNRM dự
tính lượng mưa vào giữa thế kỷ 21 giảm khoảng 1,5% so với thời kỳ cơ sở theo
kịch bản RCP4.5. Theo phương án tổ hợp, lượng mưa trong mùa GMMH vào giữa
thế kỷ 21 tăng từ 10,2 (RCP4.5) đến 20,5% (RCP8.5) so với thời kỳ cơ sở. Đến
cuối thế kỷ 21, lượng mưa trong mùa GMMH được dự tính gia tăng từ 6,9 đến
33,5% so với thời kỳ cơ sở. Theo phương án tổ hợp, lượng mưa vào cuối thế kỷ
21 được dự tính gia tăng từ 16,8 (RCP4.5) đến 31,2% (RCP8.5) (Bảng 4.2).
- Khu vực Nam Bộ: Nhìn chung, mức độ biến đổi lượng mưa ở khu vực
Nam Bộ ở các thời kỳ trong tương lai là thấp hơn so với khu vực Tây Nguyên.
Trong đó, phương án mô hình PRECIS-CNRM có thiên hướng dự tính lượng mưa
giảm ở các thời kỳ trong tương lai theo cả hai phương án kịch bản. Đến giữa thế
139
kỷ 21, lượng mưa được dự tính giảm so với thời kỳ cơ sở theo phương án mô hình
PRECIS-CNRM, với mức giảm từ 2,3 (RCP8.5) đến 5,1% (RCP4.5). Ngược lại,
phương án mô hình PRECIS-GFDL có thiên hướng dự tính gia tăng lượng mưa,
với mức tăng từ 3,6 (RCP4.5) đến 7,2% (RCP8.5). Theo phương án tổ hợp, lượng
mưa vào giữa thế kỷ 21 được dự tính biến đổi từ -1,5 (RCP4.5) đến 2,4 %
(RCP8.5) so với thời kỳ cơ sở. Đến cuối thế kỷ 21, xu thế lượng mưa được dự
tính giảm từ 0,9 (RCP8.5) đến 4,0% (RCP4.5) theo phương án PRECIS-CNRM.
Phương án PRECIS-GFDL dự tính lượng mưa vào cuối thế kỷ 21 tăng từ 12,6
(RCP4.5) đến 16,6% (RCP8.5). Theo phương án tổ hợp, lượng mưa trong mùa
GMMH được dự tính gia tăng từ 4,3 (RCP4.5) đến 7,9% (RCP8.5) (Bảng 4.3).
Bảng 4.2. Kết quả dự tính biến đổi lượng mưa vào giữa và cuối thế kỷ 21 so với
thời kỳ cơ sở ở các vùng khí hậu
Kịch bản
Phương án
mô hình
Khu vực/thời kỳ
Tây Nguyên Nam Bộ
2046 - 2065 2080 - 2099 2046 - 2065
2080 - 2099
RCP4.5
PRECIS-CNRM -1,5 6,9 -5,1 -4,0
PRECIS-GFDL 21,9 26,7 3,6 12,6
Tổ hợp 10,2 16,8 -1,5 4,3
RCP8.5
PRECIS-CNRM 14,7 33,5 -2,3 -0,9
PRECIS-GFDL 26,4 28,9 7,2 16,6
Tổ hợp 20,5 31,2 2,4 7,9
140
Biến động lượng mưa
Bảng 4.3 cho thấy, hầu hết kết quả đều cho thấy sự gia tăng biến động lượng
mưa vào các thời kỳ trong tương lai so với thời kỳ cơ sở ở khu vực Tây Nguyên
và Nam Bộ. Mức tăng biến động của lượng mưa giữa hai vùng khí hậu là khá
tương đồng nhau. Trong đó, xu thế chung là biến động của lượng mưa tăng nhiều
hơn theo kịch bản RCP8.5 so với RCP4.5 và tăng nhiều hơn vào cuối thế kỷ so
với giữa thế kỷ 21.
- Khu vực Tây Nguyên: Hầu hết các kết quả dự tính đều cho thấy sự gia
tăng biến động của lượng mưa ở khu vực Tây Nguyên và giữa và cuối thế kỷ 21,
với mức tăng của chỉ số STD cao nhất lên tới 13,0%. Đến giữa thế kỷ 21, biến
động lượng mưa được dự tính gia tăng, với mức tăng của chỉ số STD trong khoảng
từ 0,2 đến 13,0%. Đến cuối thế kỷ 21, mức tăng biến động lượng mưa được dự
tính có thiên hướng nhiều hơn so với thời kỳ giữa thế kỷ 21. Mức tăng của chỉ số
STD vào cuối thế kỷ 21 được dự tính dao động trong khoảng từ 6,1 đến 13,0%.
Theo phương án tổ hợp, mức tăng của chỉ số STD vào giữa thế kỷ 21 trong khoảng
từ 0,2 (RCP4.5) đến 6,7% (RCP8.5); trong khoảng từ 6,1 (RCP4.5) đến 10,2%
(RCP8.5) vào cuối thế kỷ 21 (Bảng 4.3).
- Khu vực Nam Bộ: Hầu hết các kết quả dự tính đều cho thấy sự gia tăng
biến động lượng mưa ở khu vực Nam Bộ vào giữa thế kỷ 21 so với thời kỳ cơ sở,
với mức tăng của chỉ số STD cao nhất lên tới 14,0% vào giữa thế kỷ và 24,0%
vào cuối thế kỷ 21. Đến giữa thế kỷ 21, biến động lượng mưa được dự tính gia
tăng trong hầu hết các trường hợp, với mức tăng của chỉ số STD trong khoảng từ
2,1 đến 14,0%. Đến cuối thế kỷ 21, mức tăng biến động lượng mưa được dự tính
có thiên hướng cao hơn so với thời kỳ giữa thế kỷ 21, với mức tăng của chỉ số
STD trong khoảng từ 5,4 đến 24,0%. Theo phương án tổ hợp, biến động lượng
mưa được dự tính gia tăng vào giữa thế kỷ 21, với mức tăng của chỉ số STD trong
khoảng từ 2,1 (RCP4.5) đến 8,8% (RCP8.5). Mức tăng của chỉ số STD vào cuối
thế kỷ 21 là cao hơn một chút so với thời kỳ giữa thế kỷ 21, với mức tăng của chỉ
số STD trong khoảng từ 8,0 (RCP4.5) đến 14,7% (RCP8.5) (Bảng 4.3).
141
Bảng 4.3. Kết quả dự tính biến đổi chỉ số STD của lượng mưa vào giữa và cuối
thế kỷ 21 so với thời kỳ cơ sở ở các vùng khí hậu
Kịch bản
Phương án
mô hình
Khu vực/thời kỳ
Tây Nguyên Nam Bộ
2046-2065
2080-2099 2046-2065
2080-2099
RCP4.5
PRECIS-CNRM -8,4 -0,8 -8,8 -0,2
PRECIS-GFDL 8,6 13,0 13,0 16,1
Tổ hợp 0,2 6,1 2,1 8,0
RCP8.5
PRECIS-CNRM 0,5 8,4 3,5 5,4
PRECIS-GFDL 13,0 12,0 14,0 24,0
Tổ hợp 6,7 10,2 8,8 14,7
4.5. Nhận xét cuối Chương 4
(1) Các phương án dự tính cho thấy biến động của thời điểm bắt đầu
GMMH có xu thế giảm trong tương lai, với mức giảm của chỉ số STD theo phương
án tổ hợp dao động từ 13,2 đến 24,8%.
(2) Thời điểm kết thúc được dự tính gia tăng biến động trong hầu hết các
trường hợp dự tính, với mức tăng của chỉ số STD theo phương án tổ hợp khoảng
từ 25 đến 47,8%.
(3) Theo phương án tổ hợp, biến động của độ dài mùa GMMH được dự tính
gia tăng vào giữa thế kỷ và giảm vào cuối thể kỷ 21.
(4) Theo phương án tổ hợp, dự tính biến động của số đợt gián đoạn GMMH
được được thể hiện qua biến đổi của chỉ số STD so với thời kỳ cơ sở: từ -16,5
(RCP4.5) đến 3,6 % (RCP8.5) vào giữa thế kỷ 21 và từ -0,6 (RCP8.5) đến -0,2%
(RCP4.5) vào cuối thế kỷ 21.
142
(5) Biến động của cường độ GMMH được dự tính gia tăng so với thời kỳ
cơ sở trong đa số các trường hợp, với mức biến đổi của chỉ số STD theo phương
án tổ hợp là từ -3,0 (RCP4.5) đến 11,9% (RCP8.5) vào giữa thế kỷ và từ -5,4
(RCP8.5) đến 16,1% (RCP4.5) vào cuối thế kỷ 21.
(6) Biến động lượng mưa trong mùa GMMH
Hầu hết các phương án dự tính cho thấy, biến động của lượng mưa trong
mùa GMMH ở khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ vào giữa và cuối thế kỷ 21 gia
tăng so với thời kỳ cơ sở. Trong đó, mức tăng biến động lượng mưa là đáng kể
hơn theo kịch bản RCP8.5 so với RCP4.5; vào cuối thế kỷ so với giữa thế kỷ 21
và ở khu vực Nam Bộ so với khu vực Tây Nguyên.
143
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Từ các kết quả nghiên cứu về đánh giá và dự tính biến động của các đặc
trưng GMMH ở khu vực Việt Nam có thể rút ra một số kết luận sau:
(1) Chỉ số VSMI được tính bằng U850hPa (5oN - 15oN và 100oE - 110oE)
phản ánh được hoạt động của GMMH ở khu vực Việt Nam (tính chất, cường độ,
diễn biến) và hoàn lưu quy mô lớn, cũng như hệ quả mưa.
(2) Các đặc trưng GMMH ở Việt Nam có biến động ISV và IAV rõ ràng.
- Biến động ISV của các đặc trưng GMMH: Cường độ GMMH biến động
ISV với chu kỳ khoảng 35 - 85 ngày và chỉ số STD là 1,9 m/s (tương ứng chỉ số
Cv là 39,2%). Biến động ISV của lượng mưa mạnh mẽ hơn ở các trạm có lượng
mưa lớn và ngược lại ở các trạm có lượng mưa thấp hơn. Biến động ISV của lượng
mưa GMMH ở khu vực Tây Nguyên với chu kỳ 70 - 80 ngày và chuẩn sai so với
trung bình mùa dao động từ -2,4 đến 2,62 mm/ngày (chỉ số Cv là 23,82%). Biến
động ISV của lượng mưa ở khu vực Nam Bộ với chu kỳ 40 - 110 ngày và chuẩn
sai so với trung bình mùa dao động từ -1,93 đến 3,13 mm/ngày (chỉ số Cv là
18,98%).
- Biến động IAV của các đặc trưng GMMH:
Trung bình giai đoạn 1981 - 2010, bắt đầu GMMH xảy ra vào hậu thứ 7 và
kết thúc ở hậu thứ 56, tương ứng với độ dài mùa là 30 hậu, số đợt gián đoạn là 1,5
và cường độ là 5,0m/s. Biến động IAV của các đặc trưng là rõ ràng, với chỉ số
STD của thời điểm bắt đầu là 1,9; 2,4 hậu đối với thời điểm kết thúc; 3,1 hậu đối
với độ dài mùa; 1,3 đợt đối với số đợt gián đoạn và 1,1 m/s đối với cường độ.
Mức độ biến động IAV của các đặc trưng này có xu thế giảm trong thập kỷ gần
đây so với hai thập kỷ trước đó.
- Hoạt động của ENSO có tác động đến biến động của các đặc trưng
GMMH ở khu vực Việt Nam. Trong các mùa hè El Nino và trung gian - pha nóng,
các đặc trưng GMMH có đặc điểm: Thời điểm bắt đầu đến muộn, kết thúc sớm,
độ dài mùa ngắn, số đợt gián đoạn ít, cường độ mạnh và lượng mưa ở Tây Nguyên
144
thấp hơn so với trung bình nhiều năm. Trong các mùa hè La Nina và trung gian -
pha lạnh, các đặc trưng GMMH có đặc điểm: Thời điểm bắt đầu sớm, kết thúc
muộn, độ dài mùa tăng, số đợt gián đoạn nhiều, cường độ yếu và lượng mưa ở
Nam Bộ lớn hơn so với trung bình nhiều năm. Tuy nhiên, trong các mùa hè La
Nina vẫn xảy ra lượng mưa GMMH thấp hơn đáng kể so với trung bình nhiều
năm.
(3) Kết quả dự tính bằng mô hình PRECIS cho thấy, sự gia tăng nồng KNK
theo kịch bản RCP4.5 và RCP8.5 có tác động đến biến động của các đặc trưng
GMMH ở giữa và cuối thế kỷ 21. Trong đó, một số biến đổi đáng chú ý về biến
động của các đặc trưng GMMH vào giữa và cuối thế kỷ 21 so với thời kỳ cơ sở
như sau:
- Thời điểm bắt đầu, kết thúc và độ dài mùa GMMH được dự tính là biến
đổi không nhiều vào giữa và cuối thế kỷ 21 so với thời kỳ cơ sở. Biến động của
thời điểm bắt đầu được dự tính giảm; ngược lại, tăng biến động của thời điểm kết
thúc. Cùng với xu thế đó, độ dài mùa GMMH được dự tính biến đổi không nhiều;
gia tăng biến động vào giữa thế kỷ và giảm vào cuối thế kỷ 21.
- Cường độ GMMH và mức độ biến động được dự tính gia tăng vào giữa
và cuối thế kỷ 21 so với thời kỳ cơ sở. Cùng với xu thế đó, lượng mưa trong mùa
GMMH và mức độ biến động cũng được dự tính gia tăng ở khu vực Tây Nguyên
và Nam Bộ. Trong đó, lượng mưa được dự tính gia tăng nhiều hơn ở Tây Nguyên
so với Nam Bộ; nhiều hơn theo kịch bản RCP8.5 so với kịch bản RCP4.5 và nhiều
hơn vào cuối thế kỷ so với giữa thế kỷ 21. Biến động lượng mưa được dự tính
tăng nhiều hơn ở Nam Bộ so với Tây Nguyên; nhiều hơn theo kịch bản RCP8.5
so với kịch bản RCP4.5 và nhiều hơn vào cuối thế kỷ so với giữa thế kỷ 21.
2. Kiến nghị
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu đạt được, kiến nghị các hướng nghiên
cứu tiếp theo: Nghiên cứu dự tính sự biến động của gió mùa mùa hè trên cơ sở
xem xét tập hợp các mô hình khí hậu khác nhau.
145
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyen Dang Mau, Nguyen Van Thang, 2018. Definition of new summer
monsoon index for Vietnam region. Vietnam Journal of Science,Technology and
Engineering. Vol 60 No 1 (2018)
2. Nguyễn Đăng Mậu, Nguyễn Văn Thăng, Mai Văn Khiêm, 2017. Biến động
của một số đặc trưng gió mùa mùa hè ở Việt Nam trong thế kỷ 21: Dự tính bằng
mô hình PRECIS theo kịch bản RCP4.5 và RCP8.5. Tạp chí Khoa học BĐKH, Số
4, năm 2017.
3. Nguyễn Đăng Mậu, Mai Văn Khiêm, 2017. Biến động năm của một số đặc
trưng gió mùa mùa hè khu vực Việt Nam. Tạp chí KTTV, 9/2017.
4. N.D. Mau, N.V. Thang and M.V. Khiem, 2017. Projections of Variability and
Trends of Summer Monsoon Rainfall Over Vietnam. 2017 NOAA ESRL Global
Monitoring Annual Conference, May 23-24, 2017.
5. Nguyễn Đăng Mậu, Nguyễn Minh Trường, Hidetaka Sasaki, Izuru Takayabu,
2017. Dự tính biến đổi lượng mưa mùa ở khu vực Việt Nam vào cuối thế kỷ 21
bằng mô hình NHRCM. Tạp chí KTTV, 1/2017.
6. Nguyễn Đăng Mậu, Nguyễn Văn Thắng, Mai Văn Khiêm, 2016. Dự tính biến
đổi lượng mưa trong mùa gió mùa mùa hè ở khu vực Việt Nam bằng mô hình
PRECIS. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường,
Tập 32, Số 3S (2016).
7. Nguyễn Đăng Mậu, Nguyễn Văn Thắng, Mai Văn Khiêm, 2016. Hoàn lưu gió
mực 850hPa trong mùa gió mùa mùa hè trên khu vực Việt Nam. Tạp chí KTTV,
Số 664, 4/2016.
8. Nguyễn Đăng Mậu, Nguyễn Văn Thắng, Mai Văn Khiêm, Lưu Nhật Linh,
Nguyễn Trọng Hiệu, 2016. Nghiên cứu chỉ số gió mùa mùa hè cho khu vực Việt
Nam. Tạp chí KTTV Số 662, 2/2016.
9. M. NGUYEN-Dang, T. NGUYEN-Van, K. MAI-Van, L. LUU-Nhat, T. DO-
Thanh1and H. NGUYEN-Trong, 2016. Definition of Summer Monsoon Index for
Vietnam Region. 2016 NOAA ESRL Global Monitoring Annual Conference,
2016.
146
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1. Phạm Vũ Anh (1997), “Về những đặc điểm synop ở khu vực châu Á gió mùa”,
Tổng cục Khí tượng Thuỷ văn.
2. Trần Quang Đức (2011), “Xu thế biến động của một số đặc trưng gió mùa mùa
hè khu vực Việt Nam”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và
Công nghệ 27, Số 3S (2011) 14-20.
3. Nguyễn Văn Hiệp và nnk (2015), “Nghiên cứu luận cứ khoa học cập nhật
kịch bản và nước biển dâng cho Việt Nam”, BCTK đề tài KHCN cấp Nhà
nước BĐKH. 43.
4. Nguyễn Trọng Hiệu (1997), “Khái quát về hoàn lưu trên khu vực Đông Á và
Nam Á”, Viện KTTV, Hà Nội, 43tr.
5. Phạm Thị Thanh Hương và nnk (1999), “Nghiên cứu mở đầu gió mùa mùa hè
trên khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ và quan hệ của nó với hoạt động ENSO”,
Báo cáo tổng kết Đề tài Khoa học, Tổng cục Khí tượng Thủy văn, 80tr.
6. Ngô Thị Thanh Hương, Nguyễn Thị Thanh Huệ, Vũ Thanh Hằng, Ngô Đức Thành
(2013), “Nghiên cứu ngày bắt đầu mùa mưa trên khu vực Việt Nam thời kỳ 1961-
2000”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, KHTN và CN, Tập 29, Số 2S (2013) 72-80.
7. Trần Gia Khánh (1997), “Các đặc trưng hoàn lưu quá trình gió mùa Tây Nam
mạnh và suy yếu ảnh hưởng đến Việt Nam trong mùa hè”, Hội nghị Khoa học
lần thứ VI, Viện KTTV.
8. Mai Văn Khiêm và nnk (2015), “Nghiên cứu xây dựng Atlas khí hậu và biến
đổi khí hậu Việt Nam”, BCTK Đề tài KHCN cấp Nhà nước, BĐKH.17, Hà Nội.
9. Mai Văn Khiêm và nnk (2016), “Cập nhật kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển
dâng cho Việt Nam”, Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu,
BCTK Dự án cấp Bộ, Hà Nội, 2016.
10. Nguyễn Viết Lành và nnk (2007), “Nghiên cứu ảnh hưởng của gió mùa Á - Úc
đến thời tiết, khí hậu Việt Nam”, Báo cáo tổng kết đề tài cấp Bộ TNMT.
147
11. Nguyễn Viết Lành, Phan Bá Hùng (2005), “Các trung tâm khí áp tác động đến
hoạt động của gió mùa mùa hè ở Việt Nam”, Tuyển tập báo cáo khoa học Hội
thảo, Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn.
12. Trần Việt Liễn (2007), “Chỉ số gió mùa và việc sử dụng chúng trong đánh giá
mối quan hệ mưa - gió mùa ở các vùng lãnh thổ Việt Nam, phục vụ yêu cầu
nghiên cứu và dự báo gió mùa”, Tuyển tập báo cáo khoa học Hội thảo, Viện
Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường.
13. Trần Công Minh (2003), “Khí tượng Synốp nhiệt đới”, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
14. Nguyễn Đức Ngữ và Nguyễn Thị Hiền Thuận (2006), “Đề xuất chỉ số hoàn lưu
gió mùa để nghiên cứu tính biến động của gió mùa mùa hè ở NB”, Tạp chí Khí
tượng Thủy văn, số 5, trang 1-10.
15. Nguyễn Đức Ngữ và nnk (2003), “Tác động của ENSO đến thời tiết, khí hậu,
môi trường và kinh tế - xã hội ở Việt Nam”, BCTK đề tài KHCN Độc lập cấp
Nhà nước.
16. Nguyễn Đức Ngữ, Nguyễn Trọng Hiệu (2004), “Khí hậu và Tài nguyên Khí
hậu Việt Nam”, NXB Nông nghiệp.
17. Nguyễn Đức Ngữ, Phạm Thị Thanh Hương (2004), “Cơ chế hoạt động của
ENSO và quan hệ giữa ENSO với gió mùa châu Á”, Tạp chí KTTV,
3(519)/2004, tr. 7-14, (2004).
18. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2013), “Dự tính khí hậu tương lai với độ phân
giải cao cho Việt Nam”, BCTK Dự án.
19. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016), “Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển
dâng cho Việt Nam”, NXB Tài nguyên Môi trường và Bản đồ Việt Nam.
20. Phan Văn Tân (2005), “Phương pháp thống kê trong khí hậu”, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
21. Nguyễn Văn Thắng và nnk (2010), “Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí
hậu đến các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và đề xuất các giải pháp
chiến lược phòng tránh, giảm nhẹ và thích nghi, phục vụ phát triển bền vững
148
kinh tế- xã hội ở Việt Nam”, BCTK đề tài KHCN cấp Nhà nước, mã số
KC.08.13/06-10;
22. Nguyễn Văn Thắng và nnk (2012), “Gió mùa hoàn lưu khí quyển trên khu vực
Đông Á và Việt Nam”, NXB Khoa học Tự nhiên và Công nghệ.
23. Vũ Văn Thăng (2016), “Đặc điểm vận tải ẩm ở Việt Nam trong các đợt ENSO”,
BCTK luận án tiến sĩ cấp Viện KH Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu.
24. Nguyễn Thị Hiền Thuận (2001), “Gió mùa tây nam trong thời kỳ đầu mùa ở
Tây Nguyên và Nam Bộ”, Tạp chí Khí tượng Thuỷ văn, số 7, trang 1-7.
25. Nguyễn Thị Hiền Thuận (2005), “Sự biến động của chỉ số gió mùa mùa hè ở
NB trong các pha ENSO”, Tuyển tập báo cáo Hội thảo KH lần thứ 9 Viện
KTTV, Hà Nội - 12/2005 tr. 206-212.
26. Nguyễn Thị Hiền Thuận (2008), “Ảnh hưởng của ENSO đến gió mùa mùa hè
và mưa ở NB”, Luận án tiến sĩ.
27. Phạm Ngọc Toàn và Phan Tất Đắc (1978), “Khí hậu Việt Nam”, NXB Khoa
học Kỹ thuật, Hà Nội.
28. Nguyễn Minh Trường và nnk (2012), “Đặc điểm hoàn lưu và thời tiết thời tiết
thời kỳ bùng nổ gió mùa mùa hè trên khu vực Việt Nam”, Báo cáo tổng kết đề
tài cấp Đại học Quốc gia Hà Nội.
29. Bùi Minh Tuân và Nguyễn Minh Trường (2010), “Hoàn lưu qui mô lớn thời kỳ
bùng nổ gió mùa mùa hè trên khu vực NB năm 1998”, Tạp chí Khoa học Đại học
Quốc gia Hà Nội, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 470‐478.
30. Kiều Thị Xin, Phan Văn Tân, Phạm Thị Thanh Hương (1997), “Về hoàn lưu gió
mùa mùa hè ở Đông Á, quan hệ giữa nó với XTNĐ và ENSO”, Tập báo cáo công
trình NCKH, Hội nghị KH lần thứ VI, Viện KTTV, Hà Nội, Tập 1, 294-299.
Tiếng Anh
31. Annamalai, H., & Sperber, K. R. (2005), “Regional heat sources and the active
and break phases of boreal summer intraseasonal (30–50 day)
variability”, Journal of the atmospheric sciences, 62(8), 2726-2748.
https://doi.org/10.1175/JAS3504.1
149
32. Annamalai, H. (2011), “Modelling the monsoons in a changing climate. In:
Carayannis, Elias (Ed.), Planet Earth 2011 – Global warming challenges and
opportunities for policyand practice”. DOI: 10.5772/24041.
33. Annamalai, H., Hafner, J., Sooraj, K. P., & Pillai, P. (2013), “Global warming
shifts the monsoon circulation, drying South Asia”, Journal of Climate, 26(9),
2701-2718. https://doi.org/10.1175/JCLI-D-12-00208.1
34. Annamalai, H., Hamilton, K., & Sperber, K. R. (2007), “The South Asian
summer monsoon and its relationship with ENSO in the IPCC AR4
simulations” Journal of Climate, 20(6), 1071-1092.
https://doi.org/10.1175/JCLI4035.1
35. Archevararahuprok, B., and et al (2014), “A regional climate modelling
experiment for Southeast Asia: Using PRECIS regional climate Model and
selected CMIP3 global climate models”, Met Office Hadley Centre.
36. Ashfaq, M., Shi, Y., Tung, W., et al. (2009), “Suppression of south Asian
summer monsoon precipitation in the 21st century”, Geophys. Res. Lett. 36,
L01704. https://doi.org/10.1029/2008GL036500
37. Blandford, H.F (1886), “Rainfall of India”, Monsoon Monograph-India
Meteorological Department, No. 3, 658.
38. Chang, C. P., Y. Zhang, and T. Li (2001), “Interannual and interdecadal
variations of the east Asian summer and tropical Pacific SSTs. Part I: Roles of
the subtropical ridge”, J. Climate, 13, 4310 4325. https://doi.org/10.1175/1520-
0442(2000)013<4310:IAIVOT>2.0.CO;2
39. Chen, S.-Y. Wang, W.-R. Huang, and M.-C. Yen (2004), “Variation of the east
Asian summer monsoon rainfall”, J. Climate, 17,744-762.
https://doi.org/10.1175/1520-0442(2004)017<0744:VOTEAS>2.0.CO;2
40. Chen, T.-C. and M. Murakami (1988), “The 30-50-day variation of convective
activity over the western Pacific Ocean with the emphasis on the northwestern
region”, Mon. Wea. Rev, 116, 892-906. DOI: 1520-
0493(1988)116<0892:TDVOCA>2.0.CO;2
150
41. Cherchi, A., Alessandri, A., Masina, S., Navarra, A. (2011), “Effects of
increased CO2 levels on monsoon”, Clim. Dyn. 37, 83–101.
http://dx.doi.org/10.1007/s00382-010-0801-7
42. Climate Prediction Center (CPC), NOAA, “The Oceanic Niño Index (ONI) [3
month running mean of ERSST.v5 SST anomalies in the Niño 3.4 region (5oN-5oS,
120o-170oW)]”
http://origin.cpc.ncep.noaa.gov/products/analysis_monitoring/ensostuff/ONI_v5.php
43. Dairaku, K., Emori, S. (2006), “Dynamic and thermodynamic influences on
intensified daily rainfall during the Asian summer monsoon under doubled
atmospheric CO2 conditions”, Geophys. Res. Lett. 33, L01704.
http://dx.doi.org/10.1029/2005GL024754
44. Dang-Quang Nguyen, James Renwick, and James McGregor (2014),
“Variations of monsoon rainfall: A simple unified index”, Geophys. Res. Lett.,
41, 575–581, DOI:10.1002/2013GL058155.
45. Daniel S. Wilks (2005), “Statistical Methods in the Atmospheric Sciences”,
Volume 100, 2nd Edition, ISBN: 9780080456225, Academic Press, 648P.
46. Ding, Y (2007), “The variability of the Asian Summer Monsoon”, Journal of
the Meteorological Society of Japan, Vol. 85B, pp.21-54, 2007. DOI:
https://doi.org/10.2151/jmsj.85B.21
47. Ding, Y, Johnny C. L. Chan (2005), “The East Asian summer monsoon: an
overview”, Volume 89, Issue 1–4, pp 117–142, doi:10.1007/s00703-005-
0125-z.
48. Ding, Y., and D. R. Sikka (2006), “Synoptic systems and weather. The Asian
Monsoon”, B. Wang, Ed., Praxis, 141–201.
49. Dzung Nguyen-Le, Jun Matsumoto, Thanh Ngo-Duc (2013), “Climatological
onset date of summer monsoon in Vietnam”, International Journal of
Climatology. DOI: 10.1002/joc.3908.
151
50. Dzung Nguyen-Le, Jun Matsumoto, Thanh Ngo-Duc (2015), “Onset of the
Rainy Seasons in the Eastern Indochina Peninsula”, Journal of Climate. DOI:
10.1175/JCLI-D-14-00373.1
51. Ghosh, S., Das, D., Kao, S.C., Ganguly, A.R. (2012), “Lack of uniform trends
but increasing spatial variability in observed Indian rainfall extremes”, Nat.
Clim. Chang. 2, 86–91. http://dx.doi.org/10.1038/NCLIMATE1327
52. Ghulam Rasul, Q.Z. Chaudhry (2010), “Review of Advance in Research on
Asian Summer Monsoon”, Pakistan Journal of Meteorology, Vol. 6, Issue 12.
53. Goswami, B. N. (2006), “The Asian monsoon: Interdecadal variability”, The
Asian Monsoon, B. Wang, Ed., Springer/Praxis, 295–327.
54. Goswami, B.N. (2005), “South Asian Monsoon”, In: W.K.M. Lau and D.E.
Waliser (eds), Intraseasonal Variability in the Atmosphere-Ocean Climate
System. Praxis, Springer Berlin Heidelberg, pages 19-61.
55. Guhathakurta, P., Rajeevan, M. (2008), “Trends in the rainfall pattern over
India”, Int. J.Climatol. 28, 1453–1469. http://dx.doi.org/10.1002/joc
56. Hadley E. (1686), “An historical account of the trade winds and monsoons
observable in the seas between and near the tropics with an attempt to assign
a physical cause of the said winds”, Philos. Trans. R. Soc. London 16:153–68
57. Hamada, S. Mori, M.D. Yamanaka, U. Haryoko, S. Lestari, R. Sulistyowati, F.
Syamsudin (2012), “Interannual rainfall variability over northwestern Jawa
and its relation to the Indian Ocean dipole and El Niño-southern oscillation
events”, SOLA, 8 (2012), pp. 69-72. DOI: 10.2151/sola.2012-018
58. Hanssan, M., et al. (2015), “An Assessment of the South Asian Summer
Monsoon Variability for Present and Future Climatologies Using a High
Resolution RegionalClimate Model (RegCM4.3) under the AR5 Scenarios”,
Atmosphere 2015, 6, 1833-1857; doi:10.3390/atmos6111833
59. Hendon, H. H., C. Zhang, and J. D. Glick (1999), “Interannual variation of the
Madden–Julian oscillation during austral summer”, J. Climate, 12, 2538–
2550. https://doi.org/10.1175/1520-0442(1999)012<2538:IVOTMJ>2.0.CO;2
152
60. Hsu, P. C., Li, T., Luo, J. J., Murakami, H., Kitoh, A., & Zhao, M. (2012),
“Increase of global monsoon area and precipitation under global warming: A
robust signal?”, Geophysical Research Letters, 39(6). DOI:
https://doi.org/10.1029/2012GL051037
61. IPCC (2007), “Climate Change 2007: The Physical Science Basis”,
Contribution of Working Group I to the Fourth Assessment Report of the
Intergovernmental Panel on Climate Change [Solomon, S., D. Qin, M. Manning,
Z. Chen, M. Marquis, K.B. Averyt, M.Tignor and H.L. Miller (eds.)]. Cambridge
University Press, Cambridge, United Kingdom and New York, NY, USA.
62. IPCC (2013), “IPCC fifth assessment report: climate change 2013 - The physical
science basis”, Cambridge University Press, Cambridge, UK, 1535 pp.
63. Jun Matsumoto (1997), “Seasonal transition of summer rainy season over
indochina and adjacent monsoon region”, Advances in Atmospheric Sciences,
Volume 14, Issue 2, pp 231-245.
64. Kalnay, E., M. Kanamitsu, R. Kistler, et al. (1996), “The NCEP/NCAR 40-
year reanalysis project”, Bulletin of the American Meteorological Society,
77, 437-471. https://doi.org/10.1175/1520-
0477(1996)077<0437:TNYRP>2.0.CO;2
65. Katzfey, JJ, McGregor, JL and Suppiah, R. (2014), “High-Resolution Climate
Projections for Vietnam: Technical Report”, CSIRO, Australia. 266 pp.
66. Kitoh, A., Endo, H., Krishna Kumar, K., et al. (2013), “Monsoons in a
changing world: A regional perspective in a global context”, J. Geophys. Res.
Atmos. 118, 3053–3065. http://dx.doi.org/10.1002/jgrd.50258.
67. Kripalani, R.H., Kulkarni, A., Sabade, S.S. (2003), “Indian monsoon
variability in a global warming scenario”, Nat. Hazards 29, 189–206.
68. Kripalani, R.H., Oh, J.H., Kulkarni, A., Sabade, S.S., Chaudhari, H.S., (2007),
“South Asian summer monsoon precipitation variability: coupled climate
model simulations and projections under IPCC AR4”, Theor. Appl. Climatol.
90, 133–159.
153
69. Krishna Kumar, K., B. Rajagopalan, and M. A. Cane (1999), “On the
weakening relationship between the Indian monsoon and ENSO”, Science,
284, 2156–2159.
70. Krishna Kumar, K., Patwardhan, S.K., Kulkarni, A., Kamala, K., Rao, K.K.,
Jones, R. (2011), “Simulated projections for summer monsoon climate over
India by a high-resolution regional climate model (PRECIS)”, Curr. Sci.
(ISSN: 0011-3891) 101 (3), 312–326.
71. Krishnamurthy, V., & Goswami, B. N. (2000), “Indian monsoon–ENSO
relationship on interdecadal timescale”, Journal of Climate, 13(3), 579-595.
https://doi.org/10.1175/1520-0442(2000)013<0579:IMEROI>2.0.CO;2
72. Lau, W.K.M., Wu, H.T., Kim, K.M. (2013), “A canonical response of
precipitation characteristics to global warming from CMIP5 models”,
Geophys. Res. Lett. 40, 3163–3169. http://dx.doi.org/10.1002/grl.50420.
73. Lawrence, D. M., and P. J. Webster, (2001), “Interannual variations of the
intraseasonal oscillation in the South Asian summer monsoon region”, J.
Climate, 14, 2910–2922. https://doi.org/10.1175/1520-
0442(2001)014<2910:IVOTIO>2.0.CO;2
74. Lee, J.-Y., Wang, B. (2014), “Future change of global monsoons in the
CMIP5”, Clim. Dyn. 42,101–119. http://dx.doi.org/10.1007/s00382-012-
1564-0
75. Leung Wing-mo (2005), “Lecture 7, Hong Kong’s climate it’s long term
trends and variability”, LSGI1B02 Climate Change and Society.
76. Madden R. and P. Julian (1971), “Detection of a 40-50 day oscillation in the
zonal wind in the tropical Pacific”, J. Atmos. Sci., 28, 702-708.
https://doi.org/10.1175/1520-0469(1971)028<0702:DOADOI>2.0.CO;2
77. Madden R . and P. Julian (1994), “Observations of the 40-50 day tropical
oscillation: A review”, Mon. Wea. Rev., 112-814-837.
https://doi.org/10.1175/1520-0493(1994)122<0814:OOTDTO>2.0.CO;2
154
78. Mandke, S.K., Sahai, A.K., Shinde, M.A., Joseph, S., Chattopadhyay, R.,
(2007), “Simulated changes in active/break spells during the Indian summer
monsoon due to enhanced CO2 concentrations: assessment from selected
coupled atmosphere – ocean global climate models”, Int. J. Climatol. 27, 837–
859. https://doi.org/10.1002/joc.1440
79. May, W. (2011), “The sensitivity of the Indian summer monsoon to a global
warming of 20C with respect to pre-industrial times”, Clim. Dyn. 37 (9), 1843–
1868. http://dx.doi.org
80. Meehl, G.A., Covey, C., Delworth, T., Latif, M., et al. (2007), “The WCRP
CMIP3 multi-model dataset: a new era in climate change research”, Bull. Am.
Meteorol. Soc. 88,1383–1394. https://doi.org/10.1175/BAMS-88-9-1383
81. Meehl, G.A., Wahsington, W.M. (1993), “South asian summer monsoon
variability in a model with doubled atmospheric carbon dioxide
concentration”,Science 260 (5111), 1101–1104. DOI:
10.1126/science.260.5111.1101
82. Menon, A. Levermann, J. Schewe, J. Lehmann, and K. Frieler (2013),
“Consistent increase in Indian monsoon rainfall and its variability across
CMIP-5 models”, Earth Syst. Dynam., 4, 287-300, 2013.
https://doi.org/10.5194/esd-4-287-2013
83. Mesoscale Atmospheric Processes Laboratory, NASA Goddard Space Flight
Center, “Global Precipitation Analysis (GPCP)”, https://precip.gsfc.nasa.gov/
84. Mooley, D., and B. Parthasarathy, (1984), “Fluctuation in all-India summer
monsoon rainfall during 1871-1985”, Clim. Change, 6, 287 301.
85. Munot, A.A. and Kothawale, D.R. (2000), “Intra-seasonal, inter-annual and
decadal scale variability in summer monsoon rainfall over India”, Int. J.
Climatol., 20: 1387–1400. DOI:10.1002/1097-
0088(200009)20:11<1387::AID-JOC540>3.0.CO;2-Z.
86. Murakami, T., (1976), “Cloudiness fluctuations during the summer monsoon”,
J. Meteor. Soc. Japan, 54. DOI|: https://doi.org/10.2151/jmsj1965.54.3_175
155
87. National Center for Atmospheric Research Staff (Eds). Last modified 05 Jul
(2016), “The Climate Data Guide: Climate Forecast System Reanalysis
(CFSR)”, retrieved from https://climatedataguide.ucar.edu/climate-data/climate-
forecast-system-reanalysis-cfsr.
88. National Center for Atmospheric Research Staff (Eds). Last modified 22 Jul
2013. "The Climate Data Guide: Empirical Orthogonal Function (EOF)
Analysis and Rotated EOF Analysis", retrieved from
https://climatedataguide.ucar.edu/climate-data-tools-and-analysis/empirical-orthogonal-
function-eof-analysis-and-rotated-eof-analysis.
89. Nguyen, D.-Q., J. Renwick, and J. McGregor (2014), “Variations of monsoon
rainfall: A simple unified index”, Geophys. Res. Lett., 41, 575–581,
doi:10.1002/2013GL058155
90. Nkrintra Singhrattna, Balaji Rajagopalan, K. Krishna Kumar, Martyn Clark,
(2005), “Interannual and Interdecadal Variability of Thailand Summer
Monsoon Season”, AMS. https://doi.org/10.1175/JCLI3364.1
91. Palmer, T.N (1994), “Chaos and predicability in forecasting the monsoons”,
Proc. Indian Natl. Sci. Acad., 60A, No.1, 55-66.
92. Parthasarathy, B., Rupa Kumar, K., Kothawale, D. R. (1992), “Indian summer
monsoon rainfall indices: 1871–1990”, Meteorol. Mag. 121, 174–186.
93. Qing, B. (2012), “Projected changes in Asian summer monsoon in RCP
scenarios of CMIP5”, Atmospheric and Oceanic Science letters, 5, 43 – 48.
https://doi.org/10.1080/16742834.2012.11446959
94. Ramage C (1971), “ Monsoon Meteorology. International Geophysics Series”,
vol. 15. San Diego, CA: Academic Press.
95. S. Sharmila, S. Joseph, A.K. Sahai, S. Abhilash, R. Chattopadhyay (2015),
“Future projection of Indian summer monsoon variability under climate
change scenario: An assessment from CMIP5 climate models”, Global and
Planetary Change 124 (2015) 62–78.
https://doi.org/10.1016/j.gloplacha.2014.11.004
156
96. Serreze, M. C. and R. G. Barry. (2009), “Climate Change”, In Atmosphere,
Weather and Climate, Ninth Edition, eds. R.G. Barry and R.J. Chorley. Oxford:
Routledge Press.
97. Sikka, D. R. (1980), “Some Aspects of the Large-Scale Fluctuations of Summer
Monsoon Rainfall over India in Relation to Fluctuations in the Planetary and
Regional Scale Circulation Parameters”, Proceedings of the Indian Academy
of Sciences-Earth and Planetary Sciences, 89, 179-195
98. Sperber, Kenneth R., et al (2012), “The Asian summer monsoon: an
intercomparison of CMIP5 vs. CMIP3 simulations of the late 20th century”,
Climate Dynamics, 41.9-10: 2711-2744. DOI: 10.1007/s00382-012-1607-6
99. Sulochana Gadgil (2003), “The Indian Monsoon and Its variability”, Annu.
Rev. Earth Planet. Sci. 2003. 31:429–67.
https://doi.org/10.1146/annurev.earth.31.100901.141251
100. Tanaka, H.L., Ishizaki, N., Nohara, D. (2005), “Intercomparison of the
intensities and trends of Hadley, Walker, and Monsoon circulations in the
global warming projects”, SOLA 1,077–080. doi: 10.2151/sola. 2005‒021
101. Taylor, K.E., Stouffer, R.J., Meehl, G.A. (2012), “An overview of CMIP5 and
the experiment design”, Bull. Am. Meteorol. Soc. 93, 485–498.
http://dx.doi.org/10.1175/BAMS-D-11-00094.1
102. Turner, A.G., Annamalai, H. (2012), “Climate change and the south Asian
summer monsoon”, Nat. Clim. Chang. 2, 587–595. doi:10.1038/nclimate1495
103. Ueda, H., Iwai, A., Kuwako, K., Hori, M.E. (2006), “Impact of anthropogenic
forcing on the Asian summer monsoon as simulated by eight GCMs”, Geophys.
Res. Lett. 33,L06703. http://dx.doi.org/10.1029/2005GL025336.
104. V. E. Kousky and R. W. Higgins (2007), “An Alert Classification System for
Monitoring and Assessing the ENSO Cycle”, Wea. Forecasting, (22), pp.353-
371. https://doi.org/10.1175/WAF987.1
105. Waliser, D. E. (2006), “Intraseasonal variability”, In The Asian Monsoon (pp.
203-257).
157
106. Wang B, LinHo (2002), “Rainy season of the Asian-Pacific summer monsoon”,
Journal of Climate 15: 386–398. https://doi.org/10.1175/1520-
0442(2002)015<0386:RSOTAP>2.0.CO;2
107. Wang, B (2006), “The Asian Monsoon”, Praxis, Springer Berlin Heidelberg,
787 pages.
108. Wang, B., Fan, Z. (1999), “Choice of south Asian summer monsoon indices”,
Bull. Am. Meteorol. Soc. 80, 629–638. https://doi.org/10.1175/1520-
0477(1999)080<0629:COSASM>2.0.CO;2
109. Wang, B., T. Li, Y. H.Ding, et al. (2005), “East Asian-Western North Pacific
monsoon: A distinctive component of the Asian-Australian monsoon system”,
in: The Global Monsoon System: Research and Forecast, edited by C.-P.
Chang, B. Wang and N.-C. G. Lau, WMO/TD No. 1266 (TMRP Report No.
70), 72−94.
110. Wang, B., Yim, S.-Y., Lee, J.-Y., Liu, J., Ha, K.-J. (2014), “Future change of
Asian-Australian monsoon under RCP 4.5 anthropogenic warming scenario”,
Clim. Dyn. 42, 83–100. http://dx.doi.org/10.1007/s00382-013-1769-x
111. Wang, B.; Ding, Q. (2008), “Global monsoon: Dominant mode of annual
variation on the tropics”, Dyn Atmos Oceans 44(3): 165-183.
https://doi.org/10.1016/j.dynatmoce.2007.05.002
112. Wang, B.; Linho; Zhang, Yongsheng; Lu, M.-M., (2004), “Definition of South
China Sea Monsoon Onset and Commencement of the East Asia Summer
Monsoon”, Journal of Climate, vol. 17, Issue 4, pp.699-710.
DOI:10.1175/2932.1
113. Wang, Y. J., H. Cheng, R. L. Edwards, Y. He, X. Kong, Z. S. An, J. Wu, M. J.
Kelly, C. A. Dykoski, and X. Li (2005), “The Holocene Asian monsoon: Links
to solar changes and North Atlantic climate”, Science, 308, 854 – 857. DOI:
10.1126/science.1106296
114. Wayne GP (2013), “The beginner’s guide to representative concentration
pathways”, from https://www.skepticalscience.com/rcp.php
158
115. Webster, P.J. (1987), “The elementary monsoon”, In Monsoons, ed. JS Fein,
PL Stephens, pp. 3– 32. New York: Wiley.
116. Webster, P.J., Yang, S. (1992), “Monsoon and ENSO: Selectively interactive
systems”, Q. J. R.Meteorol. Soc. 118, 877–926.
https://doi.org/10.1002/qj.49711850705
117. Wu, R., and B. Wang (2002), “A contrast of the east Asian summer monsoon-
ENSO relationship between 1962-77 and 1978-93”, J. Climate, 15, 3266 -3279.
https://doi.org/10.1175/1520-0442(2002)015<3266:ACOTEA>2.0.CO;2
118. Xuan Thanh Pham, Bernard Fontaine, Nathalie Philippon, (2010), “Onset of
the Summer Monsoon over the Southern Vietnam and its Predactibility”,
Theoretical and Applied Climatology. DOI: 10.1007/s00704-009-0115-z
119. Yang, S., and K.-M. Lau (2006), “Interannual variability of the Asian
monsoon”, The Asian Monsoon, B. Wang, Ed., Praxis, 259–293.
120. Yasunari, T. (1980), “A quasi-stationary appearance of the 30-40 day period
in the cloudiness fluctuations during the summer monsoon over India”, J. Met.
Soc. Japan, 59, 336-354. DOI: https://doi.org/10.2151/jmsj1965.58.3_225
121. Yoo JH, Robertson AW, Kang IS (2010), “Analysis of intraseasonal and
interannual variability of the Asian summer monsoon using a hidden Markov
model”, J Clim 23:5498–5516. https://doi.org/10.1175/2010JCLI3473.1
122. Zveryaev, I. I. (2002), “Interdecadal changes in the zonal wind and the
intensity of intraseasonal oscillations during boreal summer Asian monsoon”,
Tellus, 54A, 288 298. https://doi.org/10.1034/j.1600-0870.2002.00235.x
159
PHẦN PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Danh sách trạm quan trắc được sử dụng trong nghiên cứu
STT Vùng khí hậu Tên trạm Kinh độ Vĩ độ
1
Tây Bắc
Điện Biên 103,0 21,35
2 Lai Châu 103,15 22,05
3 Mộc Châu 104,63 20,85
4 Mường Tè 102,83 21,37
5 Quỳnh Nhai 103,57 21,83
6 Sìn Hồ 103,25 22,35
7 Sông Mã 103,73 21,07
8 Sơn La 103,9 21,33
9 Tuần Giáo 103,42 21,58
10 Yên Châu 104,28 21,05
11
Đông Bắc
Bắc Quang 104,83 22,48
12 Bãi Cháy 107,07 20,45
13 Cao Bằng 106,23 22,65
14 Hà Giang 104,98 22,82
15 Lạng Sơn 106,77 21,83
16 Sa Pa 103,83 22,33
17 Thái Nguyên 105,83 21,58
18 Tuyên Quang 105,22 21,82
19 Uông Bí 106,75 21,02
20 Yên Bái 104,87 21,7
21
Đồng Bằng Bắc Bộ
Bắc Giang 106,2 21,28
22 Hải dương 106,3 20,95
23 Hà Nội 105,85 21,02
24 Hòa Bình 105,33 20,82
25 Nam Định 106,17 20,43
26 Ninh Bình 105,98 20,27
27 Phủ Liễn 106,63 20,8
28 Thái Bình 106,35 20,45
29 Việt Trì 105,42 21,3
30 Vĩnh Yên 105,6 21,3
31
Bắc Trung Bộ
A lưới 107,42 16,2
32 Bái Thượng 105,38 19,9
33 Đông Hà 107,83 16,83
34 Đồng Hới 106,62 17,47
35 Hà Tĩnh 105,9 18,35
36 Huế 107,68 16,4
37 Thanh Hóa 105,77 19,82
160
STT Vùng khí hậu Tên trạm Kinh độ Vĩ độ
38 Tương Dương 104,43 19,28
39 Tuyên Hóa 106,13 17,83
40 Vinh 105,67 18,67
41
Nam Trung Bộ
Ba Tơ 108,72 14,77
42 Đà nẵng 108,18 16,03
43 Nha Trang 109,2 12,25
44 Phan Thiết 108,1 10,93
45 Quảng Ngãi 108,78 15,13
46 Quy Nhơn 109,22 13,77
47 Sơn Hòa 108,98 13,05
48 Tam Kỳ 108,5 15,55
49 Trà My 108,22 15,35
50 Tuy Hòa 109,28 13,08
51
Tây Nguyên
Aunpa 108,9 13,42
52 Bảo Lộc 107,8 11,47
54 Đắc Nông 107,68 12
55 Đắc Tô 107,82 14,7
56 Đà Lạt 108,43 11,95
57 Kon Tum 107,62 14,33
58 Liên Khương 108,38 11,75
59 M'ĐRác 108,78 12,68
60 Playcu 108 13,98
61
Nam Bộ
Bạc Liêu 105,72 9,28
62 Ba Tri 106,6 10,03
63 Cà Mau 105,28 9,17
64 Cần Thơ 105,78 10,03
65 Mỹ Tho 106,38 10,35
66 Phước Long 106,95 11,82
67 Rạch Giá 105,08 10
68 Sóc Trăng 105,97 9,6
69 Tây Ninh 106,07 11,32
70 Vũng Tàu 107,08 10,33
161
Phụ lục 2: Kết quả tính toán chỉ số VSMI thời kỳ bắt đầu GMMH
Năm Chỉ số VSMI (m/s) qua các hậu (pentad) trong thời kỳ bắt đầu GMMH
pentad22 pentad23 pentad24 pentad25 pentad26 pentad27 pentad28 pentad29 pentad30 pentad31 pentad32 pentad33
1981 -0,14 -1,37 -4,07 -4,76 -1,46 2,41 1,01 -0,59 0,85 5,15 9,9 11,6
1982 -3,97 -1,02 -0,6 3,38 -1,55 -1,42 -1,29 -2,46 -0,05 1,99 2,65 5,37
1983 -1,87 -2,17 -3,15 -3,96 -1,83 0,53 0,34 4,43 3,09 2,44 6,11 -2,3
1984 0,28 -2,76 2,91 3,21 -0,41 -1,15 1,02 3,82 4,9 2,2 2,96 4,66
1985 -1,49 1,05 1,64 4,31 2,3 -0,99 -4,46 -1,33 2,28 3,99 7,23 9,12
1986 -2,41 -2,66 -4,42 -3,12 -1,61 6,41 9,87 8,42 5,09 5,02 3,95 3,6
1987 -4,93 -4,2 -5,71 -0,16 -0,44 -3,46 1,58 2,13 0,24 -2,08 1,94 8,19
1988 -3,9 -0,36 -4,42 -0,87 0,67 -1,76 -3,73 4,84 6,97 9,73 4,27 4,7
1989 1,22 1,45 -0,38 1,48 1,23 -2,33 3,71 8,05 4,26 1,53 6,26 5,35
1990 -4,48 1,79 -6,37 -3,02 -2,59 0,31 2,06 3,68 6,48 6 4,29 9,35
1991 -3,19 -5,63 -1,02 0,34 -2,49 -1,84 -2,16 -0,39 -5,44 -5,9 3,36 8,47
1992 -0,25 0,24 -4,98 -0,5 1,08 -3,12 2,26 1,99 1,89 3,56 0,1 1,66
1993 0,32 -1,94 0,68 -0,76 -0,52 -2,79 -2,6 -0,09 0,3 0,85 2,39 4,34
1994 -2,8 -2,29 -3,37 4,01 2,49 4,12 2,28 1,34 2,77 6,41 4,53 4,7
1995 -2,43 -2,91 -5,79 -4,25 -3,02 4,26 5,05 2,98 1,34 3,41 5,87 2,57
1996 0,04 -2,07 -1,62 -1,75 4,13 3,14 3,64 4,13 2,79 -1,08 -3,79 -2,43
1997 -0,52 -4,16 -4,32 0,14 -0,36 -1,93 3,63 7,6 8,7 6,91 3,31 1,08
162
Năm Chỉ số VSMI (m/s) qua các hậu (pentad) trong thời kỳ bắt đầu GMMH
pentad22 pentad23 pentad24 pentad25 pentad26 pentad27 pentad28 pentad29 pentad30 pentad31 pentad32 pentad33
1998 -2,56 -0,18 0,45 -1,26 -5,38 -3,27 0,89 4,09 5,63 4,48 3,53 2,2
1999 -1,01 5,41 4,65 1,3 2,39 -1,04 2,08 3,16 5,54 9,45 10,02 5,95
2000 -0,38 -0,1 0,05 -0,72 0,59 6,77 8,09 4,22 3,24 4,69 1,24 7,33
2001 -0,8 -2,24 -2,65 -1,9 3,06 4,83 5,28 6,19 4,78 -0,52 3,05 5,51
2002 -4,28 -3,91 -4,46 -5,28 -3,08 3,06 6,17 5,35 4,53 6,26 4,82 1,33
2003 -1,88 -2,43 -5,26 0,69 -3,09 0,67 5,11 5,73 9,39 5,93 4,04 4,63
2004 0,45 -2,53 -3,71 -2,76 -1,42 5,82 5,29 8,51 2,44 0,96 3,44 4,13
2005 -4,86 -1,63 0,12 -0,2 3,69 4,45 1,94 2,21 3,37 6,82 7,27 6,74
2006 -5,33 -1,28 0,55 -0,98 -1,07 -1,03 5,15 3,27 1,42 3,52 4,91 4,93
2007 -1,32 -2,77 -5,74 -1,45 3,93 1,23 0,43 5,64 3,7 2,53 1,58 1,5
2008 -0,69 -5,23 -2,37 4,46 5,32 6,96 6,75 4,53 4,29 2,72 0,34 4,36
2009 -0,99 -0,73 2,13 -0,37 2,74 -2,1 0,02 4,39 5,28 8,96 9,2 7,22
2010 -2,2 -2,7 -2,48 -1,59 0,21 -2,69 -2,56 4,34 4,27 3,9 3,22 1,18
Lưu ý: Giá trị được bôi đậm và tô màu vàng là thời điểm bắt đầu GMMH
163
Phụ lục 3: Kết quả tính toán chỉ số VSMI thời kỳ kết thúc GMMH
Năm Chỉ số VSMI (m/s) qua các hậu (pentad) trong thời kỳ kết thúc GMMH
pentad50 pentad51 pentad52 pentad53 pentad54 pentad55 pentad56 pentad57 pentad58 pentad59 pentad60 pentad61
1981 0,81 -4,49 -3,14 3,89 3,22 5,86 5,58 0,14 -0,05 -1,74 -8,17 -2,67
1982 11,1 6,64 3,38 1,36 4,25 -0,15 -0,68 -2,48 -2,88 0,7 -3,05 -9,49
1983 -0,77 0,27 -1,93 1,3 3,52 7,45 4,84 4,32 0,77 -5,29 -0,28 -3,01
1984 6,1 -0,69 -1,35 -1,2 1,57 -2,07 -1,97 -1,26 1,56 -1,68 -1,54 -0,37
1985 8,82 5,25 2,07 1,47 -2,58 0,01 -1,12 -2,05 3,04 0,62 -4,2 -5,56
1986 7,52 0,77 1,94 1,96 -2,74 -1,34 -3,16 -2,11 1,19 -0,35 -3,14 -6,5
1987 6,35 6,66 1,1 -1,62 -2,43 -2,33 -1,23 -1,97 -2,65 -3,49 -3,37 -4,55
1988 0,12 -0,94 1,22 0,51 1,99 2,26 6,54 5,45 5,06 -1,47 3,71 1,35
1989 8,67 7,68 3,2 -0,57 -3,18 1,25 0,99 1,07 0,36 -2,61 -3,36 -6,35
1990 7 7,49 4,22 4,02 -0,2 1,46 4,35 -3,89 -1,11 -2,56 -7,23 -8,55
1991 9,09 5,2 2,98 2,79 3,36 4,41 2,43 0,26 -2,76 -3,98 -3,77 -1,99
1992 6,97 6,9 4,22 5,35 -0,34 -3,98 -4,21 -2,88 -0,9 0,69 0,67 -2,44
1993 4,37 5,35 5,02 1,49 1,73 1,68 0,98 -1,57 -3,79 -3,49 -2,92 -9,74
1994 7,55 5,97 5,6 6,93 3,01 -2,12 -4,03 -0,58 -0,71 -6,6 -0,96 -5,72
1995 7,37 3,36 4,08 3,47 -1,53 0,27 1,47 1,44 -1,99 -3,91 -6,61 -3,13
1996 -1,36 5,81 10,6 8,95 3,73 0,79 -2,33 -4,46 -2,29 -0,56 -3,13 -2,81
1997 2,3 -0,85 1,48 2,41 3,8 2,06 -1,24 -4,07 -4,13 -2,42 -3,68 -5,94
164
1998 1,95 5,09 6,92 2,98 -1,35 2,66 0,77 -1,54 0,21 -3,02 -1,29 -7,59
1999 4,93 4,97 7,91 4,22 -1,87 -5,16 -3,44 -2,5 -3,23 -1,13 -4,06 0,12
2000 8,68 7,71 3,08 -3,03 -1,55 -1,67 -1,87 4,75 5,81 2,3 -1,99 -1,24
2001 4,38 6,16 1,95 3,2 2,97 -1,89 -1,18 -0,05 -1,73 -2,84 -5,27 -5,68
2002 6,76 6,18 7,6 5,26 0,86 -1,68 -2,18 -1,12 0,58 0,21 -3,25 -3,32
2003 7,59 8,17 5,79 3,4 1,27 -0,27 -3,9 -0,11 -2,05 -1,69 -2,53 -7,22
2004 4,3 5,15 2,63 -1,26 -3,95 -3,52 -1,98 -1,14 -2,58 -3,34 -7,93 -7,68
2005 3,05 5,61 5,81 5,17 6,63 0,27 0,52 -2,32 -3,34 -6,82 -5,79 -0,17
2006 2,18 1,43 2,35 3,21 5,68 6,17 5,96 1,6 -2,21 -5,88 -6,98 -4,36
2007 1,83 3,58 3,76 6,97 5,23 8,03 8,34 0,07 -4,81 -6,28 -4,05 -3,41
2008 -1,05 1,12 8,01 7,04 9,42 4,91 0,67 -4,28 -2,33 -5,22 -3,18 0,34
2009 9,7 5,88 3,87 2,61 7,64 9,52 2,7 3,64 1,62 2,97 -0,63 -5,58
2010 5,38 2,36 0,77 0,85 -2,32 -2,15 0,9 4,07 3,6 3,55 -1,1 -8,81
Lưu ý: Giá trị được bôi đậm và tô màu vàng là thời điểm kết thúc GMMH
165
Phụ lục 4: Chỉ số ONI thời kỳ 1981-2010 của CPC
(Nguồn: http://origin.cpc.ncep.noaa.gov/products/analysis_monitoring/ensostuff/ONI_v5.php)
Năm Mùa
DJF JFM FMA MAM AMJ MJJ JJA JAS ASO SON OND NDJ
1981 -0,3 -0,5 -0,5 -0,4 -0,3 -0,3 -0,3 -0,2 -0,2 -0,1 -0,2 -0,1
1982 0,0 0,1 0,2 0,5 0,7 0,7 0,8 1,1 1,6 2,0 2,2 2,2
1983 2,2 1,9 1,5 1,3 1,1 0,7 0,3 -0,1 -0,5 -0,8 -1,0 -0,9
1984 -0,6 -0,4 -0,3 -0,4 -0,5 -0,4 -0,3 -0,2 -0,2 -0,6 -0,9 -1,1
1985 -1,0 -0,8 -0,8 -0,8 -0,8 -0,6 -0,5 -0,5 -0,4 -0,3 -0,3 -0,4
1986 -0,5 -0,5 -0,3 -0,2 -0,1 0,0 0,2 0,4 0,7 0,9 1,1 1,2
1987 1,2 1,2 1,1 0,9 1,0 1,2 1,5 1,7 1,6 1,5 1,3 1,1
1988 0,8 0,5 0,1 -0,3 -0,9 -1,3 -1,3 -1,1 -1,2 -1,5 -1,8 -1,8
1989 -1,7 -1,4 -1,1 -0,8 -0,6 -0,4 -0,3 -0,3 -0,2 -0,2 -0,2 -0,1
1990 0,1 0,2 0,3 0,3 0,3 0,3 0,3 0,4 0,4 0,3 0,4 0,4
1991 0,4 0,3 0,2 0,3 0,5 0,6 0,7 0,6 0,6 0,8 1,2 1,5
1992 1,7 1,6 1,5 1,3 1,1 0,7 0,4 0,1 -0,1 -0,2 -0,3 -0,1
1993 0,1 0,3 0,5 0,7 0,7 0,6 0,3 0,3 0,2 0,1 0,0 0,1
1994 0,1 0,1 0,2 0,3 0,4 0,4 0,4 0,4 0,6 0,7 1,0 1,1
1995 1,0 0,7 0,5 0,3 0,1 0,0 -0,2 -0,5 -0,8 -1,0 -1,0 -1,0
1996 -0,9 -0,8 -0,6 -0,4 -0,3 -0,3 -0,3 -0,3 -0,4 -0,4 -0,4 -0,5
1997 -0,5 -0,4 -0,1 0,3 0,8 1,2 1,6 1,9 2,1 2,3 2,4 2,4
1998 2,2 1,9 1,4 1,0 0,5 -0,1 -0,8 -1,1 -1,3 -1,4 -1,5 -1,6
1999 -1,5 -1,3 -1,1 -1,0 -1,0 -1,0 -1,1 -1,1 -1,2 -1,3 -1,5 -1,7
2000 -1,7 -1,4 -1,1 -0,8 -0,7 -0,6 -0,6 -0,5 -0,5 -0,6 -0,7 -0,7
2001 -0,7 -0,5 -0,4 -0,3 -0,3 -0,1 -0,1 -0,1 -0,2 -0,3 -0,3 -0,3
2002 -0,1 0,0 0,1 0,2 0,4 0,7 0,8 0,9 1,0 1,2 1,3 1,1
2003 0,9 0,6 0,4 0,0 -0,3 -0,2 0,1 0,2 0,3 0,3 0,4 0,4
2004 0,4 0,3 0,2 0,2 0,2 0,3 0,5 0,6 0,7 0,7 0,7 0,7
2005 0,6 0,6 0,4 0,4 0,3 0,1 -0,1 -0,1 -0,1 -0,3 -0,6 -0,8
2006 -0,8 -0,7 -0,5 -0,3 0,0 0,0 0,1 0,3 0,5 0,7 0,9 0,9
2007 0,7 0,3 0,0 -0,2 -0,3 -0,4 -0,5 -0,8 -1,1 -1,4 -1,5 -1,6
2008 -1,6 -1,4 -1,2 -0,9 -0,8 -0,5 -0,4 -0,3 -0,3 -0,4 -0,6 -0,7
2009 -0,8 -0,7 -0,5 -0,2 0,1 0,4 0,5 0,5 0,7 1,0 1,3 1,6
2010 1,5 1,3 0,9 0,4 -0,1 -0,6 -1,0 -1,4 -1,6 -1,7 -1,7 -1,6
Lưu ý: Màu đò – El Nino; Màu xanh – La Nina