Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Người Đàn Bà Hạnh Phúc
Tác giả: Ang Son Yoo
Lời Nói Đầu
"Với bó hoa lòng biết ơn ,
tôi khiêm cung dâng tặng quyển sách nầy lên cho
Chúa và Cưú Chúa Giê-xu Christ ,
người bạn đời và người bạn đồng công
trọn đời của tôi ."
Cùng Quí Độc Giả Việt Nam
Kính Thưa Quí Thân Hữu và Tín Hữu Việt Nam:
Một trăm mười năm về trước, ở Đại Hàn không có một tín hữu Tin Lành nào hết.
Hầu hết dân chúng theo Khổng Giáo hoặc Phật Giáo. Nhưng ngày nay, khoảng một
phần ba dân tộc Nam Hàn tin thờ Chúa. Bảy trong số mười Hội Thánh lớn nhất
trên thế giới nằm ở Nam Hàn. Có khoảng 7,000 Giáo sĩ Tin Lành người Đại Hàn
đang truyền giáo tại hơn 100 quốc gia trên thế giới.
Vì ảnh hưởng của cuộc Chiến Tranh Triều Tiên và áp lực quân sự thường xuyên
của Bắc Hàn, các tín hữu Tin Lành ở Nam Hàn đã học cách nương dựa nơi Chúa
và hết lòng hầu việc Chúa. Họ thực sự xác tín Chúa Giê-xu là Đấng sống và Ngài
là Đấng không hề thay đổi.
Dù sự phát triển của Hội Thánh đang chậm lại do tình hình kinh tế trong vòng
mười năm qua, hầu hết các Hội Thánh vẫn giữ những buổi nhóm cầu nguyện 5 giờ
sáng của họ. Mức độ dự phần truyền giáo và dâng hiến của họ vẫn được kể là đứng
đầu giữa các Hội Thánh ở Á Châu.
Sau Thế Chiến Thứ hai, càng ngày càng có nhiều người Đại Hàn di cư đến Hoa
Kỳ. Đi đến đâu họ cũng thành lập Hội Thánh. Trong khi người tín hữu Trung Hoa
với gần 200 năm lịch sử đã thiết lập được khoảng 1,000 Hội Thánh người Hoa tại
Hoa Kỳ; tín hữu người Việt trên 25 năm lịch sử đã xây dựng được hơn 200 Hội
Thánh người Việt tại Hoa Kỳ; thì người Đại Hàn với 50 năm lịch sử đã xây dựng
được hơn 4,000 Hội Thánh người Đại Hàn tại Hoa Kỳ.
Người tín hữu Đại Hàn đã kinh nghiệm nhiều về Chúa. Họ đã nêu gương sáng thờ
phượng và hầu việc Chúa cho nhiều dân tộc trên thế giới. Chúng ta có thể noi
gương họ và cùng với họ hiệp tác hầu việc Chúa, đem Tin Lành truyền bá khắp thế
giới, để hoàn thành Đại Mạng Lịnh Chúa giao.
Tôi có may mắn hiệp tác với một số Hội Thánh và tín hữu Đại Hàn. Nay tôi lại
may mắn hiệp tác để chuyển ngữ quyển sách "Người Đàn Bà Hạnh Phúc" của Nữ
Mục sư Yoo, Ang Son, từ Anh Ngữ sang Việt Ngữ. Tôi được khích lệ rất nhiều khi
đọc và dịch quyển sách nầy. Đây là quyển sách rất có giá trị vì nó không phải là lý
thuyết nhưng là kinh nghiệm thực tế. Đây là từng trải của một người kinh nghiệm
sự hiện diện của Chúa giữa những khổ đau, giống như từng trải của nhiều người
Việt Nam trên con đường theo Chúa.
Tôi hết lòng giới thiệu quí độc giả Việt Nam quyển sách nầy và xin quí vị tiếp tay
giới thiệu quyển sách nầy cho nhiều người cùng đọc. Ước mong Đức Chúa Trời
dùng quyển sách nầy để dẫn quí vị đến nguồn hạnh phúc mà chỉ có Chúa Giê-xu có
khả năng ban cho những người đặt trọn niềm tin nơi Ngài. Muốn thật hết lòng.
Chân thành cảm ơn quí vị.
Mục sư Nguyễn Văn Huệ , Dallas .
Lời Tựa
Đề tài quyển sách nầy đang thu hút rất nhiều người.
Ai lại không muốn hạnh phúc?
Tác giả quyển sách nầy là một nữ Mục sư. Số phận của bà thật kỳ diệu. Khi lên
mười hai tuổi bà được kêu gọi để phục vụ những người già. Đời sống của bà đầy
dẫy những thăng trầm, ánh sáng và bóng tối, vui vẻ và buồn bã, bình an và rắc rối.
Bà đã từng trải tất cả trong suốt đời bà. Nhưng đời sống bà cũng đầy dẫy sức sống
thuộc linh. Bà vâng giữ giao ước của Đức Chúa Trời. Trong Ngài bà đi theo những
qui luật của tình yêu thương chân thật, của sự thương xót và của sự trung tín là
những điều làm nên người đàn bà hạnh phúc. Tất cả chúng ta đều muốn noi theo và
bắt chước đời sống của những vĩ nhân. Bà Yoo, Ang Son là người đàn bà biết rõ sự
thật về những điều có thể thay đổi đồng thời cũng biết chấp nhận những gì không
thể thay đổi. Đức Chúa Trời đã ban cho bà ân tứ khôn ngoan để biết phân biệt giữa
hai điều nầy.
Ý tưởng về quyển sách nầy ra đời như thế nào? Tôi đã nghe về Mục sư Yoo, Ang
Son ở Nước Nga là nơi Hội Thánh Truyền Giáo Manna rất nổi danh giữa vòng các
tín hữu Tin Lành. Vào tháng Mười Một năm 1998 khi tôi đến Hoa Kỳ, tôi có cơ
hội dự nhóm ở Hội Thánh nầy. Tôi được khích lệ khi tôi nghe bà rao giảng với
quyền năng của ân điển, tình yêu và niềm hy vọng trong tiếng nói của bà. Vào
tháng Giêng năm 1999, tôi được mời đến nhà bà.
Chúng tôi thông công nhau cách ấm áp trong sự đầy dẫy Thánh Linh và ân điển
Chúa. Lúc đó có một số tín hữu của Hội Thánh đang có mặt. Khi tôi nhìn bà Mục
sư, tôi cảm thấy như Đức Thánh Linh đang phán với tôi rằng bà phải kể lại cho
mọi người trên thế giới về bà. Tôi không biết gì hết về câu chuyện đời bà. Tôi đã
nghĩ về những phụ nữ Nga, những buồn đau, khó khăn và đời sống vô vọng của
họ. Tôi nói, "Mục sư ơi, xin hãy viết một quyển sách cho những phụ nữ Nga về
cách nào bà đã trở thành một người đàn bà hạnh phúc. Ở Nga những người bị áp
bức nhiều nhất là người phu nữ. Bà phải kể cho họ nghe cách làm thể nào để họ
cũng có thể trở thành những người hạnh phúc. Tôi bắt đầu nói và nhấn mạnh cách
tha thiết dường như có Ai đó đang nói qua tôi. Bà Mục sư chỉ lắng nghe tôi và mỉm
cười khi tôi tiếp tục thuyết phục bà viết quyển sách nầy. Và, một phép lạ xảy ra!
Sau ba tháng, quyển "Người Đàn Bà Hạnh Phúc" đã được viết ra, xuất bản bằng
tiếng Đại Hàn và đã dược dịch sang tiếng Anh và tiếng Nga.
Quyển sách "Người Đàn Bà Hạnh Phúc" cung cấp con đường dẫn đến dòng sông
hạnh phúc đồng thời đem lại hy vọng và niềm tin rằng chỉ có tình yêu của Đấng
Christ và Đức Chúa Trời mới có thể làm cho một người hạnh phúc. Tôi tin rằng
quyển sách nầy sẽ dẫn dắt nhiều người đàn bà bất hạnh đến cùng Đức Chúa Giê-xu
Christ là nguồn gốc thực sự của hạnh phúc. Hội Thánh Truyền Giáo Manna đã
hưởng ứng sự kêu gọi cao cả của Đức Chúa Trời. Ngợi khen Chúa.
Tháng Hai năm 1999
Svetlana Nemchevska
Phóng viên Truyền Thanh và Truyền Hình
Nga và Hoa Kỳ.
Mời bạn đến “Dòng sông Hạnh phúc"
Ngày nay khi nhìn lại cuộc đời 75 tuổi của tôi, tôi muốn mời quí độc giả hãy đến
với cái nguồn mạch của niềm vui chân thật vốn đã khiến tôi trở thành người đàn bà
hạnh phúc nhất thế giới!
Tôi muốn giới thiệu bạn đến với Ngài, là Đấng đã ban phước cho tôi trước khi tôi
lọt lòng mẹ. Ngài cũng là Đấng chẳng bao giờ thất hứa.
Ngài đã chẳng bao giờ để cho tôi sống trong đói khát, trần truồng hay không nhà
không cửa. Ngài đã luôn luôn bồng ẳm tôi khi tôi cô đơn, thương tổn hay khóc
than.
Ngài đã nói chuyện với tôi, luôn luôn với lời nói yêu thương, an bình và an ủi.
Ngài đã đi với tôi trong những đường hầm tối tăm của cuộc đời. Ngài đã hứa ban
cho tôi sự sống vĩnh cửu cũng như sự hiện diện của Ngài trên thế giới nầy.
Ngài nắm tay dắt tôi lên tận đỉnh núi. Ngài bảo vệ tôi và trở nên nơi ẩn náu của tôi.
Nếu tôi có một lời ước trước khi chấm dứt cuộc đời, thì đó là lời ước được mời bạn
đến cùng dòng sông hạnh phúc nầy và bạn được đích thân gặp Ngài. Tôi cầu mong
bạn bước vào con thuyền tình yêu đẹp đẽ của Ngài mà Ngài đã chuẩn bị cho bạn từ
lâu. Tôi cầu mong bạn đồng hành với Ngài từ nay cho đến đời đời.
Ang Son Yoo
Tháng Hai, 1999
Mười Hai Giỏ Đầy Hạnh Phúc
Giỏ Đầy Thứ Nhất Phước Lành Của Gia-cốp
Giỏ Đầy Thứ Hai Người Tôi Gặp
Năm Hai Mươi Ba Tuổi
Giỏ Đầy Thứ Ba Tha Thứ Và Lại Tha Thứ
Giỏ Đầy Thứ Tư Con Có Thật Lòng
Yêu Ta Chăng?
Giỏ Đầy Thứ Năm An Ủi Kẻ Hèn Mọn
Giỏ Đầy Thứ Sáu Tôi Nghĩ Mọi Sự
Đều Là Của Tôi
Giỏ Đầy Thứ Bảy Thấp Hèn Nơi Đồng Vắng
Giỏ Đầy Thứ Tám Con Có Thể Nào Đi Qua
Trũng Tội Lỗi Chăng?
Giỏ Đầy Thứ Chín Và Rồi, Sau Đó
Giỏ Đầy Thứ Mười Mang Những Quả Thật Đẹp
Giỏ Đầy Thứ Mười Một Người Đàn Bà Gieo Giống
Giỏ Đầy Thứ Mười Hai Chén Tôi Đầy Tràn
Giỏ Đầy Thứ Nhất: PHƯỚC LÀNH CỦA GIA-CỐP
Ông Nội Yêu Dấu Của Tôi
Qua Trũng Bóng Chết
Giỏ Đầy Thứ Nhất
Ông Nội Yêu Dấu Của Tôi
Lần cuối cùng tôi nhìn thấy ông nội tôi còn sống là lúc ông đang nằm trên giường
tại phòng mình. Tôi ra khỏi phòng ông nội và vào phòng mình để ngủ. Nhưng vào
lúc tôi sắp thiếp đi thì có tiếng ai đó la lên, "Ông nội qua đời rồi!" Cả nhà tôi khóc.
Tôi nhảy ra khỏi giường và chạy đến phòng của ông.
Một tấm vải trắng được phủ lên thi thể của ông nội tôi, người hết lòng thương yêu
tôi. Chỉ mới đây thôi, ông còn đặt một tay lên đầu tôi, còn tay kia giơ qua khỏi đầu
mình và nói điều gì đó mà tôi không thể hiểu. Rồi ông bảo, "Ang Son, bây giờ
cháu về ngủ đi."
Tôi vẫn còn cảm thấy bàn tay run run và giọng nói yếu ớt của ông ở gần tôi lắm.
Tôi không tin rằng ông nội đã chết.
Khi ông nội còn sống, ông rất yêu thương tôi. Tôi khóc lớn và nói rằng, "Tại sao
ông nội qua đời mà không phải là bà nội?" Rồi tôi lại khóc.
Cả làng ai cũng biết ông nội rất thương tôi. Ông bồng ẵm tôi từ khi tôi còn nhỏ, đã
được gần mười năm từ lúc con trai trưởng của ông (là cha tôi) lập gia đình. Ông
nội đặt cho tôi cái tên độc nhất vô nhị, "Ang Son" nghĩa là "con của chim sơn ca."
Đây là một loài chim đẹp trên thế giới thuộc họ này. Ông rất sung sướng khi đặt
cho tôi cái tên như thế.
Mẹ tôi là con dâu đầu tiên của ông nội tôi. Bà đi đến một ngôi làng khác, cải trang
để đi tới một Shaman (nơi cử hành nghi thức tôn giáo của người đa thần) để
nguyền rủa cái tên "Ang Son" vì bà rất ghét cái tên đó. Một ngày nọ, ông nội về
nhà với bàn tay đầy máu, ông đã dùng tay không đánh vào một thân cây. Sau đó,
ông nói với gia đình là ông không thể tiếp tục sống chung với người con dâu thờ
lạy hình tượng. Ông thu dọn đồ đạc và đi lên Seoul, nơi con trai thứ hai của ông
đang sống. Trước khi ông qua đời, ông gọi cha tôi, lúc đó đang ở Wonsan, bảo đem
tôi lên Seoul. Cha tôi xin phép trường học của tôi và đưa tôi lên Seoul bằng xe lửa.
Khi thấy tôi, cô tôi hét to lên, "Ang Son tới rồi!" Ông nội tôi bình thường vốn im
lặng, nhưng hôm đó ông đã kêu lớn tên tôi và cười rất tươi.
Vào đêm thứ ba ở Seoul, lúc tôi đang ngủ thì cha tôi đánh thức tôi dậy và đưa tôi
đến phòng ông nội. Khi tôi bước vào phòng với đôi mắt còn mơ ngủ, ông nội bảo
mọi người trong nhà đi ra để tôi ở lại. Trong căn phòng hầu như trống trải, ông nội
yên lặng nhìn tôi với cái nhìn trìu mến. Lúc đó, tôi vẫn còn nửa mê nửa tỉnh nên
không biết chuyện gì đang xảy ra. Một lúc sau, ông đặt bàn tay yếu ớt của mình lên
đầu tôi, còn tay kia giơ lên cao. Ông bắt đầu nói chuyện "với một người nào đó,"
và tôi không biết đó là ai. Tôi vẫn còn buồn ngủ. Tôi định hỏi ông là," Ông ơi, ông
đang làm gì vậy?" Nhưng tôi chưa kịp hỏi thì ông đã nói với giọng run run rằng,
"Ang Son ạ, xong rồi cháu. Bây giờ, cháu có thể về phòng ngủ." Tôi gật đầu, mắt
mở một cách khó khăn. Tôi đứng dậy và rời phòng ông nội.
Và tôi, đứa bé gái 12 tuổi trong bộ đồ tang "ricksha," đứng đó trong dòng người
đến viếng lễ tang ông nội. Tôi miên man suy nghĩ và tò mò về những điều mà ông
nội đã nói và làm năm ngày trước đó. Tôi tiếc vì đã không hỏi ông những điều đó
có ý nghĩa như thế nào. Suốt đám tang, tôi khóc trong niềm thương tiếc khôn nguôi
vì biết mình sẽ không bao giờ gặp lại ông nữa. Ông nội thương yêu tôi lắm. Và mọi
ký ức này dường như mới chỉ xảy ra hôm qua mà thôi.
Tôi nay đã 75 tuổi. Giờ đây, khi nhìn lại quãng đời của mình, tôi hiểu ra điều ông
nội tôi đã làm vào buổi tối hôm ấy.
Ông đã đặt tay lên tôi và chúc phước cho tôi, đứa cháu gái mà ông rất mực yêu
thương. Đó là những ơn phước mà không tiền bạc nào có thể mua được.
Giờ đây, đứa cháu gái đó đã lớn, gần bằng tuổi của ông nội lúc đó. Và tôi đã nhận
biết những ơn phước vô cùng quý giá mà ông đã chúc lành cho tôi nhiều năm về
trước.
Tình yêu bao la của ông nội xuất phát từ đâu? Tình yêu mà bằng một chút hơi tàn
của mình, ông đã dốc đổ ra cho tôi? Ông biết rằng những điều ông có đến từ Đấng
là nguồn của mọi phước lành.
Đó là lý do tại sao ông nội đợi tôi đến và bằng hơi thở cuối cùng của mình, ông đã
cầu xin Đấng ấy chăm sóc đứa cháu yêu dấu của mình. Và Đấng đã nhậm lời cầu
xin của ông nội thật đã nắm tay đứa bé gái ấy và đồng đi với cô trong suốt 75 năm
qua.
Qua Trũng Bóng Chết
Ông nội tôi, người đã đưa tôi đến với Đấng là nguồn của mọi phước lành, khi còn
trẻ đã gặp một nhà Truyền giáo người Mỹ, lúc Đại Hàn đang ở dưới triều đại nhà
Lee. Sau đó, ông đã cắt đi búi tóc của mình và hằng ngày theo chân nhà Truyền
giáo ấy đi khắp mọi nơi. Cha mẹ của ông vốn cực kỳ bảo thủ, đã rất tức giận vì
nghĩ rằng đứa con thứ tư của mình đã bị ma quỷ phương Tây ám. Vì lẽ đó, gia đình
đã từ ông. Ông đã tự bươn chải kiếm sống và đã trở thành bác sĩ Đông Y ở
Wonsan, Bắc Hàn. Ông trở thành vị Trưởng lão thứ nhất của nhà thờ Tin Lành đầu
tiên trong thành phố.
Sau đó, ông đã cùng vợ và hai con trai lánh sang Trung Quốc vì ông phản đối việc
thờ lạy hình tượng Hoàng Đế dưới quyền lực của người Nhật. Ông mở phòng
khám Đông Y và trở nên giàu có. Ông đã hỗ trợ tài chính cho chính quyền lâm thời
Đại Hàn tại Thượng Hải, Trung Quốc, lúc đó đang trong tư thế chuẩn bị giành độc
lập. Ông đi đến nhiều thành phố của Trung Quốc và thành lập nhà thờ ở đó. Nhiều
người đã kể lại, có vô số bệnh nhân đã được chữa lành khi được bàn tay ông nội
chạm đến. Tiếng lành đồn xa, và ông luôn bận rộn với bệnh nhân đến từ khắp nơi
xa gần trong cả nước.
Cha tôi tốt nghiệp trường Đại Học Meigi nổi tiếng ở Nhật Bản và quyết định theo
gương của cha ông, tức ông nội tôi, là người căm ghét người Nhật vì sự thờ lạy
hình tượng của họ. Cuối cùng, cha tôi mở tiệm kinh doanh dược thảo Đông Y. Sau
khi Đại Hàn được giải phóng khỏi sự chiếm đóng của quân Nhật, ông trở thành Thị
trưởng của thành phố Wonsan. Ông cưới mẹ tôi, và tôi chào đời vào ngày 10 tháng
Ba, 1924.
Trong những năm tháng đi học, tôi rất hay mắc cỡ, chủ yếu là vì cái tên độc nhất
vô nhị mà ông nội đã đặt cho tôi. Vì cái tên ấy mà có một lần, trong lúc điểm danh,
giáo viên đã kêu tôi đứng dậy.
Tôi lớn lên trong môt gia đình đầy tình yêu thương. Là con một của một gia đình
giàu có, tôi được dành trọn mọi sự quan tâm chăm sóc. Tôi tốt nghiệp phổ thông
Trung học ở trường Luci, nằm gần bãi biển tuyệt đẹp ở Wonsan; và sau đó tốt
nghiệp Đại Học Nữ Ehwa sau khi học xong Kinh Tế Đối Nội. Năm tôi tốt nghiệp
Đại học (lúc đó tôi 20 tuổi), chú tôi, Tiến sĩ Sukchan Yoo, giới thiệu tôi với ông Jin
Ho Kim. Ông Jin Ho Kim đã học quản trị kinh doanh tại Đại Học Meigi, Nhật Bản.
Chúng tôi cưới nhau cũng vào năm ấy.
Khi tôi đang sống ở Wonsan, Bắc Hàn, thì quốc gia đang ở trong giai đoạn cực kỳ
rối ren dưới sự cai quản của Liên-xô và Mỹ. Chồng tôi phải ngưng việc kinh doanh
và đi xuống miền Nam.
Chồng tôi một mình ra đi vào tháng năm, 1947, hứa sẽ sớm trở về với gia đình.
Hoàn cảnh ngày càng trở nên tồi tệ và tôi buộc phải đi xuống miền Nam cùng với
hai đứa con còn nhỏ của mình.
Đứa con đầu lòng của tôi được người dẫn đường cõng trên lưng, còn tôi cõng đứa
bé hơn. Chúng tôi phải trèo lên núi Odai trong bóng tối dầy đặc. Tôi chưa từng đi
bộ một mình trong ban đêm bao giờ. Tôi không thể kiểm soát đôi chân đang run
lẩy bẩy của mình. Tôi tự hỏi, "Làm sao mình có thể qua nổi cái dốc núi này với
đứa con trên lưng trong đêm tối mịt mùng như thế ?"
Tôi nghe nói ngọn núi này nổi tiếng có nhiều rắn độc. Tim tôi đập mạnh trong nỗi
sợ hãi và tuyệt vọng cùng cực khi tôi cất bước trong bóng đêm mù mịt ấy. Bất
thình lình, tôi nhìn thấy ánh sáng.
Đó là một thứ ánh sáng rất đặc biệt. Nó giống như tia sáng phát ra từ cây đèn pin
và dẫn tôi đi từng bước một. Tôi không nhìn thấy môt cái gì ngoại trừ bước đi kế
tiếp mà tôi sắp sửa bước.
Cả vùng núi tối đen như mực, ấy thế mà tia sáng nhỏ bé ấy, cùng với gang bàn
chân tôi đã chỉ đường cho tôi, chính xác chỗ tôi cần phải bước. Tia sáng này từ đâu
ra nhỉ? Ai đang làm việc này? Nếu quân đội Bắc Hàn phát hiện ra chúng tôi, chắc
chắn chúng tôi sẽ bị giết. Vào thời điểm ấy, sự sống của tôi không nằm trong tay
tôi nữa. Nếu như đứa con nhỏ tôi đang cõng cất tiếng khóc thì… Ấy thế mà nó
đang ngủ rất say trên lưng của tôi. Ai là người đang giúp tôi bước qua trũng bóng
chết?
Chúng tôi đi bộ, rồi leo núi suốt đêm, và cuối cùng thì tới được bờ sông Imjn. Nấp
mình trong bụi cây, chúng tôi chờ cho đến khi trời sụp tối trở lại. Cuối cùng, có
một chiếc thuyền cập vào bờ sông. Những người lánh nạn xuống miền Nam ra khỏi
những bụi cây và lẳng lặng bước xuống thuyền. Người dẫn đường với đứa con nhỏ
của tôi trên lưng cùng tôi cũng bước xuống thuyền.
Đúng lúc ấy, một giọng nói thấp cùng với tiếng suỵt vang lên từ phía sau lưng tôi,
"Tất cả sẽ chết nếu đứa bé này khóc, hãy ra khỏi thuyền đi!" Chúng tôi đã leo núi
suốt đêm với ước mong được vào thuyền. Điều này có nghĩa là chúng tôi đang cầm
chắc cái chết trong tay. Chúng tôi khóc và nài nỉ xin được vào thuyền, và người
đàn ông nói, "Tôi sẽ để bà lên nếu bà liệng hai đứa trẻ xuống sông."
Làm sao tôi có thể giết con để cứu lấy mạng sống của mình? Những con mắt trên
thuyền làm tôi hoảng sợ. Rốt cuộc, họ đẩy người dẫn đường và tôi ra khỏi thuyền
và rời bến.
Chiếc thuyền bắt đầu băng qua sông, bỏ lại chúng tôi đằng sau. Tôi khóc với tấm
lòng buồn bã và sự đau đớn tột cùng. Người dẫn đường bảo tôi đi dọc theo con
sông, tìm chỗ cạn và hẹp đủ để có thể băng qua. Chúng tôi đi bộ hai mươi phút
trong sự tuyệt vọng hoàn toàn.
Thình lình, tôi nghe tiếng súng máy chát chúa vang lên từ đàng sau. Chúng tôi vội
tìm chỗ trốn và nhìn lại hướng bờ sông. Một số đông quân lính đang bắn xả vào
chiếc thuyền, lúc bấy giờ đã đi được nửa đoạn đường. Một vài phút sau, chiếc
thuyền chìm xuống cùng với tiếng la khóc thảm thiết của những người trong
thuyền ấy. Dòng sông tỉnh lặng trở lại, một lần nữa sự chết đã kề cận tôi.
Tôi không tài nào nhấc chân lên nổi sau khi chứng kiến những gì vừa xảy ra ngay
trước mắt. Ai đã giải cứu tôi khỏi cái chết khủng khiếp này? Người cứu tôi dường
như đã biết trước tất cả những việc sắp xảy ra. Ai đã đem tôi ra khỏi những giây
phút hiểm nghèo đó?
Những hòn đá phủ đầy rêu khiến lòng sông vô cùng trơn trợt. Người dẫn đường
phải lấy dây rơm cột chặt những đôi giày cao su của chúng tôi lại để phòng khi
chúng tôi trợt chân khỏi những hòn đá ấy. Tôi bước chầm chậm theo người dẫn
đường. Đầu tháng Năm, nước sông lạnh buốt. Càng lúc, sông trở nên sâu hơn và
nước dâng lên tới ngực tôi; con tôi ở đàng sau thì nước đã ngập qua khỏi lưng gần
tới cổ. Tôi cố vươn mình càng cao càng tốt bằng cách đi nhón gót. Nhưng dòng
nước chảy mạnh khiến tôi không thể bước thêm một bước nào nữa. Tôi tự nhủ,
"Mình sẽ chết chìm thôi."
Chính vào lúc ấy, một người nào đó nhẹ nhàng nâng đôi vai tôi lên, và tôi biết chắc
rằng chân tôi không còn đụng đáy sông nữa. Ai đã nâng cánh tay và đôi vai tôi lên
để tôi có thể vượt qua dòng nước tối đen ấy?
Tôi không biết Đấng cứu mạng sống tôi, con tôi và người dẫn đường khỏi những
tình thế nguy nan và những nỗi ưu phiền là ai. Nhưng ba năm sau, tôi đã khám phá
ra Đấng ấy khi tôi gặp Ngài trên đường đi tị nạn lúc cuộc chiến tranh Đại Hàn diễn
ra. Chính Ngài đã giải cứu tôi khỏi những tình thế tưởng chừng đã bế tắc.
Rốt cuộc, chúng tôi tới được Seoul và gặp chú tôi, Tiến sĩ Sukhan Yoo, đang tiếp
tế cho người nghèo tại dưỡng đường Nhân Dân của ông. Vào lúc ông nghĩ rằng
đứa cháu gái của mình đã chết, thì tôi bước vào cùng với hai đứa con nhỏ. Chú tôi
và chồng tôi khóc lên vì sung sướng.
"Ôi! Ang Son, nếu cháu có mệnh hệ gì thì làm sao chú dám gặp mặt ông nội của
cháu đây?" Ông cầm tay tôi và khóc rất nhiều. Sau chiến tranh Triều Tiên, chú tôi
mua một mảnh đất ở Seoul và dự trù xây một bệnh viện. Nhưng cuối cùng ông đã
quyết thực hiện theo di chúc của ông nội.
Việc giáo dục thế hệ trẻ là một vấn đề vô cùng hệ trọng đối với tương lai của Đại
Hàn. Vì thế ông mở trường dạy kinh tế chính trị, và đây chính là cơ sở cho sự ra
đời của trường Đại học Kunkook. Sau này chồng tôi, lúc đó đã có công việc kinh
doanh của riêng mình, đã cùng chú tôi mua bảy trăm mẫu đất ở ngoại ô, thành lập
trường Đại học Kunkook (mang ý nghĩa xây dựng đất nước.)
Chồng tôi vừa là Giám đốc Điều hành, vừa là Chủ tịch Hội đồng Quản trị cho đến
khi ông mất vào tháng 12, 1968. Chú tôi, Tiến sĩ Yoo được Tổng Thống Đại Hàn
ban tặng huân chương vì sự đóng góp của ông cho sự nghiệp giáo dục ở Đại Hàn.
Ông là tác giả của quyển sách nổi tiếng "Cuộc Cách Mạng Thầm Lặng," sau này đã
trở thành nền tảng cho quyển "Phong Trào Mới Ở Làng Xã" của Tổng Thống Park
Chung Hee.
Chú thích :
Phần chú thích này nhằm giúp cho độc giả nắm rõ về các con của Mục sư Yoo
được đề cập tới trong sách. Bà có cả thảy bảy người con. Con đầu lòng của bà là bé
trai được người dẫn đường cõng trên lưng, cháu đã qua đời ở Seoul khi chưa đầy
một tuổi. Người con thứ nhì là bé gái mà bà cõng lúc vượt sông. Hiện giờ, cô đang
sống ở Los Angeles. Người con thứ ba là bé gái đã qua đời lúc chín tuổi vì bệnh
bạch hầu. Người con thứ tư được sinh ra trong khoảng thời gian tị nạn và hiện giờ
đang sống ở Los Angeles. Người con trai thứ năm đang sinh sống ở San Diego,
California. Người con gái thứ sáu của bà về sau đã qua đời ở Los Angeles. Và
người con trai thứ bảy hiện đang định cư ở Los Angeles, Hoa Kỳ.
Giỏ Đầy Thứ Hai: NGƯỜI TÔI GẶP NĂM HAI MƯƠI BA TUỔI
Đường Tới Trại Tị Nạn
Bình Minh Của Tuổi Hai Mươi Ba
Bà Điên Từ Seoul Đến
Một Trái Nhỏ Đường Tới Trại Tị Nạn
Sau khi sống được ba năm ở Seoul trong suốt cuộc Chiến tranh Triều Tiên, vào
tháng Sáu năm 1950, tôi đi lánh nạn ở Bugok, cách Seoul 25 dặm về phía Nam.
Ngày 31 tháng Mười Hai, 1950, con trai thứ hai của tôi chào đời. Một vài ngày
sau, ngày 4 tháng Giêng, tôi phải đi tị nạn vì quân đội Trung Hoa bắt đầu dính líu
vào cuộc chiến Triều Tiên.
Đó là một ngày mùa đông trời rét mướt, và tôi phải ra đi với đứa con mới chào đời
được vài ngày của mình. Cha tôi phải ở lại Bugok để chăm sóc bà nội tôi, lúc ấy đã
91 tuổi.
Tất cả những người còn lại trong gia đình đều phải đi tìm chỗ lánh nạn. Khi quân
đội Trung Hoa kéo đến Bugok, cha tôi đã làm thông dịch cho cả làng vì ông nói
thạo tiếng Trung Quốc; nhờ vậy mà cả làng thoát chết.
Tôi rời khỏi Bugok bằng xe bò. Tôi nung một hòn đá lớn để tôi và hai con ngồi lên
cho ấm. Tôi cắm bốn khúc cây ở bốn góc chiếc xe kéo và phủ lên đó một cái mền
để che cho bớt lạnh, dầu vậy tuyết vẫn cứ len vào căn lều nhỏ xíu ấy của chúng tôi.
Cha tôi đã khóc lóc thảm thiết vì không có dấu hiệu nào đảm bảo cho sự trở lại của
đứa con gái của mình. Cô mới vừa sanh con được vài ngày! Thời tiết tháng Giêng
ở Đại Hàn lúc nào cũng giá rét. Trời rét buốt và chúng tôi cảm thấy sợ hãi và tuyệt
vọng.
Tôi thấy nhiều xác chết bên đường, hoặc chết vì đạn của quân lính hoặc chết vì
lạnh. Có nhiều vết máu trải dài trên tuyết trắng. Tôi ôm chặt lấy đứa con mới được
bốn ngày tuổi của mình. Tôi run rẩy trong cái lạnh kinh hồn của mùa đông, còn
hàm răng thì đánh lập cập một cách không thể kiểm soát. Dường như chúng tôi đã
ngồi trên chiếc xe lắc lư ấy đã lâu lắm.
Rốt cuộc, chúng tôi tới một ngôi làng nhỏ bé tên là Donjitgol, nằm trên đường dẫn
tới thành phố Suwol. Tôi muốn dừng lại ở một quán trọ để được sưởi ấm nhưng bị
từ chối vì tôi có quá nhiều con nhỏ. Tôi chỉ biết đứng ngoài cửa mà khóc. Rồi thì
có ai đó bảo tôi đến xin trọ ở ngôi nhà bán gạo cũng nằm trên con đường đó.
Tôi nài nỉ chủ quán xem chừng mấy đứa con của tôi một lúc để tôi đi đến cửa hàng
gạo. Tôi đến và gõ cửa nhưng không thấy ai lên tiếng. Mặt trời mùa đông ngắn
ngủi đã sắp sửa khuất bóng. Tôi nghĩ mình sẽ chết cóng cùng với đứa con của
mình. Vào chính lúc ấy, đứa con đang ngủ trong lòng tôi thình lình khóc ré lên một
cách khác thường. Cánh cửa mà nãy giờ vẫn khóa chặt trước những cú nện thình
thịch của tôi cuối cùng đã cót két mở ra. Một bà cụ già ló đầu ra khỏi cánh cửa.
Trông bà có vẻ phúc hậu. Bà nói, "Đứa bé mới sinh à? Chị đi tị nạn sao?" "Con dâu
tôi cùng cháu tôi cũng đã đi tị nạn. Tôi cứ tưởng như cháu tôi đã quay về."
Rồi bà nói, giọng nghẹn ngào,"Chị hãy vào đây."
Bà nói với tôi rằng bà chưa hề mở cửa cho bất kỳ người tị nạn nào, dù trời có giá
lạnh bao nhiêu đi chăng nữa. Tâm hồn của bà cụ lạnh lùng và băng giá cũng giống
như mùa đông vậy. Nhưng lần này, ai đã làm cho tấm lòng ấy tan chảy để bà có thể
mở cửa nhà mình ra cho tôi?
Tôi bước vào một căn phòng nhỏ, ấm áp và đặt con tôi nằm trên một cái mền. Nó
thôi khóc và ngủ thiếp đi. Bà cụ đem cho tôi bữa ăn tối nhưng tôi không thể ăn vì
mãi lo cho hai đứa con mà tôi đã để lại quán trọ. Tôi kể lại toàn bộ câu chuyện cho
bà cụ nghe và bà nói, "Chị đem mấy đứa kia lại đây luôn đi." Tức thì, tôi phóng ra
cửa và chạy tới quán trọ. Có đến hơn ba mươi người đang chen chúc trong căn
phòng chật hẹp. Tôi thấy hai con tôi đang đứng ở góc phòng trong nước mắt và sợ
hãi. Tôi đưa chúng về nhà bà cụ.
Không biết bao nhiêu người đã bị chết cóng. Nhưng ai đã quan tâm săn sóc tôi?
Ngôi nhà này vốn là nơi bán gạo trước khi chiến tranh bùng nổ, vì thế bà cụ luôn
có đủ gạo để ăn, còn căn phòng thì lúc nào cũng ấm cúng. Tôi cứ luôn tự hỏi ai
đang chăm sóc tôi giữa một nơi bị chiến tranh tàn phá như thế này.
Tôi ở lại nhà bà cụ trong nhiều ngày. Tôi sửa soạn nhanh những buổi cơm trưa cho
những người lính đi ngang qua nhà. Tôi trở nên giống như con dâu của bà cụ. Tôi
chăm sóc bà và trông coi nhà cửa với tất cả tấm lòng của mình. Tôi còn may đồ
cho bà bằng chiếc máy may mà một người tị nạn đã đưa cho bà để đổi lấy gạo và
lúa mạch. Bà cụ rất sung sướng khi thấy bộ đồ tôi may cho bà.
Mùa xuân đến cũng là lúc hòa bình trở lại mang theo những tin tức về việc ngừng
bắn. Tôi muốn rời khỏi nhà bà cụ đã tiếp đãi tôi cùng các con tôi vô cùng tử tế.
Nhưng tôi không thể ra đi cùng hai con nhỏ và đứa bé mới sinh trên lưng. Mỗi
ngày trôi qua, tôi lại thở dài và nôn nóng về nhà. Và đến một ngày, một bàn tay
cứu giúp xuất hiện. Đó là những người lính mà nhiều lần tôi đã nấu cơm trưa cho
họ ăn. Họ vui mừng được trả ơn tôi bằng cách cõng hai đứa con tôi trên lưng.
Ngày khởi hành đã tới. Bà cụ rất buồn khi thấy chúng tôi ra đi nên xin chúng tôi
nán lại thêm một ngày nữa. Tôi không thể nói lời từ chối với bà và để bà lại một
mình nên chúng tôi ở lại nhà bà thêm một đêm nữa.
Sáng sớm hôm sau, chúng tôi từ giã bà cụ đáng mến ở làng Dongjitol để trở về
Bugok. Đi bộ được nửa ngày thì chúng tôi đến chợ Balahn. Chúng tôi để ý dường
như nó bị bỏ trống và không có một bóng người nào ở đó cả. Một ông cụ trong
làng đã rướm nước mắt khi cho chúng tôi hay là tất cả phụ nữ trong làng đều đã bị
quân địch hãm hiếp khi chúng rút quân. Tôi thấy những chiếc ủng cao su phụ nữ
nằm rải rác trên mặt đất. Một lần nữa, tôi dâng lên những lời cảm tạ đầy nước mắt.
Nếu tôi đi khỏi làng sớm hơn một ngày, thì tôi đã trở thành một trong những nạn
nhân rồi. Tôi ở lại làng một đêm để bình tĩnh trở lại. Tôi lại đặt câu hỏi, "Ai đã
luôn bảo vệ và cứu giúp tôi trong những hoàn cảnh hiểm nguy và kinh khiếp này?"
Tôi cứ trằn trọc suốt đêm với câu hỏi ấy và đến gần sáng mới có thể chợp mắt
được.
Khi chúng tôi về tới con đường làng của Bugok, một người đàn bà biết tôi đã chạy
đến nhà cha tôi và hét ầm lên, "Ang Son đang về đến, cô ấy và lũ trẻ vẫn còn
sống."
Cha tôi nghĩ tôi và các con tôi đã chết trên đường đi lánh nạn. Ông chạy chân
không đến và giang tay ôm chầm lấy tôi; ông khóc như một đứa trẻ. Ông không thể
nào tin rằng không một ai trong chúng tôi bị thương và chúng tôi đều còn sống
khoẻ mạnh. Chồng tôi, trước đó chia tay chúng tôi để đi lánh nạn, giờ đây từ Busan
đã trở về. Hai tháng sau, chồng, chú và cha tôi cùng lên Seoul để phát triển dự án
xây dựng một Trường Đại Học. Tôi ở lại Bugok với các con vì Seoul vẫn còn là
một thành phố hoang tàn và đổ nát do hậu quả của chiến tranh.
Buổi Bình Minh Của Tuổi Hai Mươi Ba
Một ngày đầu hè, khi tôi đang ngồi nghỉ trên đồng lúa thì có một người phụ nữ trẻ
đến gần. Bà mặc một chiếc áo jogori trắng (áo truyền thống Đại Hàn của nữ giới)
và một chiếc chima đen (loại váy đặc thù của Đại Hàn.) Quần áo của bà trông gọn
gàng và sạch sẽ, bà không giống như một phụ nữ nhà quê. Bà ngồi xuống cạnh tôi
và bắt đầu nói về những chuyện lặt vặt. Rồi bà hỏi tôi có biết bài hát, "Tôi nghe
Chúa Cứu Thế phán sức lực của con thật nhỏ mọn thay" hay không? Tôi ghét cay
ghét đắng sự nhã nhặn của bà ấy. Dẫu đang sống tị nạn ở nông thôn, nhưng từ nhỏ
tôi đã đi nhà thờ và thậm chí đã tốt nghiệp Đại Học (vốn là một điều hiếm thấy,
nhất là đối với phụ nữ vào thời ấy.) Tôi không hề giống như những phụ nữ quê
mùa như bà ấy nghĩ. Nhưng vì phép lịch sự, tôi đã hát bài Thánh ca đó.
Bà ấy quan sát tôi một cách tỉ mỉ và xin tôi hát lại một lần nữa, và trong lúc hát thì
suy nghĩ về ý nghĩa của lời bài hát. Tôi tự nhủ, "Tại sao bà ấy lại yêu cầu mình làm
việc này nhỉ?" Hát là hát chứ có khác gì đâu. Tôi cố che giấu lòng kiêu hãnh của
mình. Nhưng có một cảm giác không thể cưỡng lại được đã khiến tôi mở miệng hát
và chiêm nghiệm ý nghĩa của bài hát đó. Tôi hát nhiều lần liên tục và một lúc lâu
sau, niềm kiêu hãnh của tôi bị chế ngự, nước mắt tôi bắt đầu lăn dài trên má.
Tôi suy nghĩ đến đất nước đang đau khổ vì chiến tranh. Tôi cảm thấy mình thật
nhỏ bé và yếu ớt giữa tất cả những nỗi đau thương này. Trong suốt cuộc đời ngắn
ngủi, nhiều lần cái chết chỉ cách tôi trong gang tấc. Tôi suy nghĩ và biết rằng tôi
không còn ở đây nếu không có một người nào đó ra tay giúp đỡ. Tôi sẽ không còn
ngồi đây nếu bàn tay ấy không đưa dắt tôi qua thung lũng của bóng chết.
Tiếng khóc thổn thức của tôi dần dần trở nên to hơn. Tôi đau đớn vô cùng khi nhìn
lại cuộc đời đầy những gian nan của mình. Và người phụ nữ ấy bảo tôi phải ăn năn.
Thế là cơn giận của tôi bắt đầu nổi lên. Tôi nghĩ, "Bà ấy là ai mà dám nói với mình
như thế?"
"Tại sao mình phải bối rối trước người phụ nữ này?" Trong cơn tức giận, tôi đã đáp
rằng, "Tôi không phải là một tội nhân. Tôi không phạm tội gì cả. Đừng có sỉ nhục
tôi như thế. Tôi sinh ra trong một gia đình giàu có. Tôi chỉ giúp người khác chứ
chưa hề lấy của ai, thậm chí một cây bút chì cũng không. Tôi chưa hề đắm đuối
khuôn mặt của người đàn ông nào ngoài chồng tôi ra. Trong đời mình, tôi chưa hề
phạm tội bao giờ."
Người phụ nữ ấy chỉ lắng nghe trong yên lặng. Sau đó, bà cười và nói với tôi,
"Trong thành phố có nhà thờ Giám Lý Bugok. Nhà thờ đã bị hư hại nhiều vì chiến
tranh nhưng cô có thể đến và nhóm với chúng tôi."
Người phụ nữ ấy đã không đáp trả lại những câu nói ngây ngô của tôi. Bà đứng
dậy và đi khỏi cánh đồng. Tôi về nhà lòng buồn bực. Suốt đêm tôi không ngừng
suy nghĩ về người phụ nữ lạ mặt mà tôi đã gặp hồi sáng. "Người đàn bà ấy là ai?
Tại sao lại bảo mình phải ăn năn?"
Vài ngày sau, tôi thức dậy vào lúc rạng đông. Tôi để những củ khoai tây cùng
những trái bắp luộc cạnh gối của các con tôi lúc chúng vẫn còn say giấc. Tôi ra
khỏi phòng và chặn một hòn đá lớn trước cửa. Tôi đi đến nhà thờ với đứa con út
trên lưng. Nhà thờ cách khoảng chừng bốn dặm về phía bên kia đường rày. Tôi
bước vào ngôi nhà thờ không một bóng người và quỳ xuống nền nhà. Những lời
đầu tiên của tôi là, "Chúa yêu dấu của con, bà ấy bảo con phải ăn năn nhưng con
không nghĩ ra được mình đã phạm lỗi gì. Nhưng nếu Ngài nghĩ con là tội nhân, thì
xin hãy chỉ cho con biết."
Tôi ngồi một mình trong nhà thờ và cầu nguyện; nhưng vẫn không nghĩ ra được
một tội nào. Tôi cõng con tôi trở về nhà. Tôi lập lại việc này trong vòng một tuần.
Vào rạng sáng ngày thứ bảy, tôi lại ra khỏi nhà và đặt đứa con nhỏ trên sàn nhà bên
cạnh tôi. Tôi lặp lại cùng một lời cầu nguyện, "Lạy Chúa yêu dấu, xin hãy chỉ cho
con biết tội của mình." Và khi lời cầu nguyện chưa kết thúc thì tôi đã thấy một khải
tượng bằng chính mắt của mình.
Khải tượng đầu tiên tôi nhìn thấy là khi tôi học Tiểu học. Mẹ tôi may cho tôi một
bộ đồ lót bằng vải hoa rất đẹp nhưng tôi không thích. Tôi cởi ra và quẳng xuống
cánh đồng lúa. Mẹ tôi nhặt bộ đồ lên và đi theo tôi đến Trường vì sợ rằng tôi sẽ bị
cảm lạnh. Nhưng tôi đã nổi giận với bà về việc ấy.
Trong khải tượng kế tiếp, tôi thấy mẹ tôi đem hộp cơm trưa đến Trường cho tôi (vì
đang là mùa đông nên nếu bỏ cơm sẵn vào cặp thì đến trưa cơm sẽ trở nên nguội
lạnh); bà đứng đợi trước lớp học tay cầm hộp cơm. Thế mà tôi đã cáu gắt với bà vì
bà đã làm tôi ngượng ngùng trước đám bạn của tôi. Bà đã xin lỗi tôi.
Rồi sau đó, tôi thấy mình đang chơi đùa với các bạn. Tôi thường hất tung tấm trải
lên rồi bỏ đi khi tôi không thích chơi những trò chơi đó. Nếu tôi gây lộn với các
bạn tôi thì không bao giờ tôi muốn làm hòa mà biến chúng thành kẻ thù của tôi.
Lúc đã lập gia đình, có lần chồng tôi nhờ tôi khâu lại mấy cái nút bị lỏng, tôi đã
đáp trả chồng tôi,"Sao anh lại kêu em? Anh làm hư thì bây giờ hãy tự mình khâu
lại đi." Trong suốt cuộc đời mình, tôi đã đối xử thô lỗ với chồng tôi và nhiều người
khác. Tôi thấy từng tội lỗi tôi đã phạm trong hai mươi ba năm của cuộc đời mình
chạy qua như phim đèn chiếu. Tâm hồn tôi đau đớn tột cùng. Tôi thấy mình đầy tội
lỗi và vô cùng xấu xa, thế mà tôi đã chối những tội lỗi ấy. Tôi hổ thẹn vì con người
mình. Lần này, tôi khóc trong sự thống hối sâu xa về những tội lỗi ấy. Tôi đấm
ngực với lòng ăn năn chân thành. Và việc ấy bắt đầu từ buổi bình minh kéo dài cho
đến khi mặt trời lặn.
Người phụ nữ ấy đã đem con tôi ra ngoài và chăm sóc nó, nhưng thậm chí tôi cũng
không hề biết. Tôi bò lê, lăn lộn, khóc lóc và ăn năn tội lỗi mình. "Chúa có thể tha
thứ cho một người đàn bà vô dụng như con chăng? Con thật sự ăn năn, Chúa ôi.
Xin hãy tha thứ cho sự kiêu ngạo, sự bướng bỉnh, tính ích kỷ và trái tim không có
tình thương của con."
Từ trên trời cao, Ngài đã nghe thấy tiếng khóc của tâm hồn tôi. Bằng giọng nói thật
dịu dàng và đầy lòng thương xót, Ngài đã gọi tôi và phán rằng, "Ang Son, con yêu
dấu của Ta, Ta đã chết cho tội lỗi của con rồi." Lúc tôi đang khóc và ăn năn tội
mình, tôi quay đầu nhìn về nơi phát ra tiếng nói. Tôi lẩm nhẩm, "Ôi, Chúa tôi!" Tôi
thấy Ngài bị hành hình trên thập tự giá vì tội lỗi của tôi. Chính mắt tôi đã trông
thấy rõ ràng.
Ngài bị treo trên cây thập tự. Chiếc mão gai Ngài đội khiến cho đầu Ngài chảy
máu. Máu tuôn lai láng từ trán Ngài, ướt đẫm khuôn mặt của Ngài. Tôi thấy những
vết thương sâu huắm do bị gai đâm. Thân thể Ngài rã rời và đau đớn cùng cực ở
từng chiếc xương và từng khớp nối. Bàn tay, bàn chân Ngài đầy những vết máu
khô đỏ sậm. Hông Ngài bị toát ra vì giáo đâm. Máu từ vết thương vẫn còn chảy.
Toàn thân Ngài rách nát và đầy máu vì bị đánh bởi roi da. Không có sự chết nào dã
man và rùng rợn hơn thế. Tôi nhắm mắt lại vì không còn đủ can đảm để tiếp tục
nhìn thấy cảnh tượng ấy.
Nhưng ngay cả khi tôi nhắm mắt lại, hình ảnh Ngài chịu khổ trên cây thập giá vẫn
không hề biến mất. Tôi thét lớn vì ghê tởm tội lỗi của mình và vì tình yêu vĩ đại và
lòng thương xót vô biên mà Ngài đã dành cho tôi.
"Chúa ôi, chính con đã khiến Chúa phải chết thảm thương trên thập hình như thế.
Ôi Chúa của con, xin hãy tha thứ cho con, con xin Ngài."
Tôi ăn năn tội mình rất lâu. Sự ngạo mạn, sự ích kỷ và sự công bình của tôi, tất cả
đều vỡ vụn ra trước mặt Ngài. Chính trong ngôi nhà thờ nhỏ bé ở Bugok ấy, một
người đàn bà tội lỗi đã được tái sinh. Quỳ trên tấm thảm rơm trải sàn, tôi khóc như
một đứa trẻ. Tôi đã đối diện với thân vị của Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Tôi đã không biết chính Ngài là Đấng đã dẫn dắt và đem tôi ra khỏi những giờ phút
nguy nan khi tôi đi trong trũng bóng chết. Tôi vô cùng hổ thẹn trước mặt Ngài. Tôi
úp mặt xuống đất và không tài nào dịch chuyển khỏi tư thế ấy.
Chính ngày hôm ấy, tôi đã quyết định hiến dâng cuộc đời mình cho Chúa. "Con chỉ
là một người vợ, một người mẹ của ba đứa con, nhưng giờ đây con sẽ trở nên một
đầy tớ trung tín của Ngài." Tôi giơ cao tay lên và hứa nguyện dâng mình cho Chúa.
Bà Điên Từ Seoul Đến
"Bà điên từ Seoul đến ấy là ai vậy?" Mọi người trong thành phố hỏi nhau. Đó là
biệt danh mà người dân Bugok gán cho tôi. Họ có lý do khi gọi tôi là "bà điên."
Mỗi ngày họ thấy tôi xuất hiện vào lúc bình minh, cõng con trên lưng và hướng về
nhà thờ. Con đường dẫn tới nhà thờ thì hẹp và tối. Đó là một con đường rùng rợn
và đáng sợ. Thỉnh thoảng, có vài thây người chết được tìm thấy trên con đường ấy.
Nhưng tôi không hề run sợ và kinh khủng. Họ nghĩ tôi khùng mới dám băng qua
cái nghĩa địa ấy mỗi ngày.
Chồng tôi từ Seoul trở về nói mọi việc đã đâu vào đấy. Ông bảo tôi và ba con lên
Seoul. Nhưng tôi không thể dễ dàng bỏ đi, vì chính tại nơi ấy, vào một buổi bình
minh, tôi đã gặp Ngài một cách thật sống động và rõ ràng.
Người phụ nữ gặp tôi trên cánh đồng lúa là bà Mục sư Myung Hwa Young. Bà làm
Mục sư Phụ tá cho Mục sư Yoo Jaehun, đang phục vụ trên một ngọn núi cầu
nguyện. Vì vậy, bà được bổ nhiệm về Hội Thánh Giám Lý Thứ Nhất ở Bugok.
Hàng ngày, tôi theo chân Mục sư Myung, học cách yêu thương và phục vụ người
khác trong đời sống. Cùng đi với chúng tôi có bà Lee, cũng là một thuộc viên của
Hội Thánh. Bà xuất thân từ một gia đình nghèo và thường bị chồng chửi rủa, đánh
đập. Tuy vậy, bà vẫn cố gắng đi nhóm vào ngày Chúa nhật.
Bà Lee chở con mình đến nhà thờ bằng xe đạp. Mục sư Myung dành sự quan tâm
đặc biệt cho người đàn bà ấy và dường như không đoái hoài gì đến tôi. Tôi là
người tín hữu tận tụy với bà nhất, vậy mà bà chỉ chú ý đến bà Lee. Tôi bỏ về nhà,
vô cùng tức tối và nghĩ rằng mình sẽ không đi nhà thờ nữa.
Đến một buổi trưa nọ, con trai tôi bị sốt cao. Tôi cầu nguyện và đặt túi chườm lên
đầu thằng bé, nhưng nó vẫn không hạ sốt chút nào. Tôi sợ hãi cõng con chạy đến
nhà thờ. Tôi mở cửa nhà thờ và thấy Mục sư Myung đang quỳ gối cầu nguyện
trước tòa giảng. Tôi rón rén lại gần, trong lòng sợ rằng bà sẽ nổi giận với tôi vì việc
tôi bỏ về sớm ngày hôm ấy. Rồi lời cầu nguyện của bà đến tai tôi, "Chúa yêu dấu
của con, xin Ngài tha thứ cho cô ấy. Cô ấy vẫn còn là một đứa trẻ trong đức tin của
mình. Xin Ngài hãy đem cô ấy đến với nhà thờ một lần nữa." Tôi cảm thấy hối hận
và hổ thẹn khi nghe lời cầu nguyện ấy.
Bà Mục sư thấy tôi và vui mừng bắt tay tôi. Tôi khóc và nói với bà rằng con tôi bị
sốt rất cao. Bà đặt tay lên trán con tôi và khẩn thiết cầu nguyện. Ngay tức khắc,
nhiệt độ con tôi trở lại bình thường. Sự việc này làm tôi ngại ngùng trong một thời
gian khá lâu. Tuy nhiên, câu chuyện này sau đó đã trở nên một bài làm chứng tuyệt
vời cho những thành viên nữ trong chức vụ của tôi như là một bài học về hậu quả
của sự ganh tị và lòng đố kỵ.
Một Trái Nhỏ
"Cô à, tôi sẽ trả lương cho cô như thế nào đây?" vợ của ông Cảnh sát trưởng địa
phương hỏi tôi khi tôi đang giặt tã cho con của bà ở gần máy bơm nước. "Hãy lên
đây ăn trưa với tôi trước khi về nhà." Bà ấy nổi tiếng khắp vùng vì tính tình hung
tợn, bà thường chửi bới và nắm tóc chồng mình. Khi tôi tiếp xúc với bà lần đầu
tiên, tôi muốn biến người phụ nữ bất hạnh nhất vùng ấy thành một người hạnh
phúc bằng cách nói cho bà nghe về Chúa Giê-xu. Tôi muốn chia sẻ với bà tình yêu
của Ngài và niềm hạnh phúc thật mà tôi đã từng trải. Nhưng không một người phụ
nữ nào dám đến gần bà vì tính tình của bà. Thậm chí, họ còn tránh chào hỏi bà.
Vậy là tôi quyết định tiếp cận bà. Một ngày nọ, tôi gõ cửa nhà bà. Bà nghĩ tôi là
một người tị nạn lao động chân tay muốn xin thức ăn nên bà không ngần ngại mở
cửa. Hằng ngày, tôi đến nhà bà giặt tã lót và quần áo cho đứa con nhỏ của bà.
Nhiều ngày trôi qua, cuối cùng bà hỏi tôi, "Tại sao cô làm việc cho tôi mà không
hề nhận tiền công? Thậm chí cô cũng không nhận lời mời ăn bữa trưa với tôi. Lý
do nào khiến cô đến đây mỗi ngày và làm việc không công?" Câu hỏi của bà khiến
tôi vô cùng sung sướng. Tôi đáp, "Tôi không muốn bất cứ điều gì cả, nhưng chỉ
mong bà giúp cho một chuyện. Tôi muốn bà đến nhà thờ, dù chỉ một lần." Bà nói,
"Chỉ thế thôi sao? Vậy thì tôi có thể đi đến đó một lần."
Vậy là cuối cùng, vợ của ông Cảnh sát trưởng địa phương đã đến nhà thờ! Nhưng
rõ ràng bà không cảm thấy thoải mái, suốt buổi nhóm, bà trông có vẻ sợ sệt. Niềm
hy vọng và sự mong chờ của tôi tan biến. Trông bà thật lạnh lùng, không một chút
cảm động. Sau buổi nhóm, bà lặng lẽ ra về.
Tôi hơi do dự nhưng tự hỏi mình rằng, "Mình có nên dừng ở đây hay là thử hỏi bà
ấy thêm một lần nữa?" Tôi cầu xin Chúa ban cho tôi sự mạnh dạn, và tôi quyết
định quay trở lại nhà người phụ nữ ấy. Tôi lại đến nhà bà mỗi ngày để giặt tã lót và
quần áo cho con của bà.
"Cô à, lần này cô muốn gì ở tôi?" Tôi nói, "Nếu bà đến nhà thờ một lần nữa thì đó
là tiền công mà bà trả cho tôi." Bà đáp, "Điều ấy không khó. Và tôi không mất gì
cả." Nhưng bà lại trở về nhà mà không được cảm động hay biến đổi một chút nào
cả. Sự việc này lặp lại một vài lần cho đến một ngày Chúa Nhật nọ, tôi để ý thấy bà
đưa tay lên mặt nhiều lần, và sau đó đôi vai bà rung lên.
Buổi nhóm đã kết thúc, nhưng bà vẫn ngồi yên tại chỗ. Bà đang lau nước mắt của
mình. Cuối cùng tia sáng tình yêu của Chúa đã làm tan chảy trái tim lạnh giá và vô
cảm của bà. Tia sáng đến từ Đức Chúa Trời đã làm bà biến đổi. Từ một người bất
hạnh, bà đã trở thành một người đàn bà hạnh phúc.
Một ngày kia, ông Cảnh sát trưởng gửi lá thư nói rằng ông muốn gặp chúng tôi.
Mục sư Myung cùng tôi đi đến Sở Cảnh sát của thị trấn. Ông chào hỏi chúng tôi
với một lòng biết ơn sâu xa vì vợ ông nay đã là một con người được đổi mới hoàn
toàn. Để đền đáp lại việc này, ông hỏi liệu ông có thể giúp gì cho chúng tôi. Vào
thời điểm đó, chúng tôi đang cầu nguyện cho ngôi nhà thờ bị hư hại nặng nề của
chúng tôi. Ông nói một cách thận trọng, "Chúng tôi tìm thấy thi thể của một người
lính ngoài chiến trường. Chúng tôi đã lục soát người anh ta để xem có họ hàng thân
thích gì không. Chúng tôi không tìm thấy bất cứ giấy tờ gì, nhưng chúng tôi phát
hiện một túi vàng cục được cột chặt vào miếng băng quấn ngang hông của anh ta.
Nếu số vàng có thể giúp gì cho các cô, thì tôi muốn các cô dùng chỗ này cho nhà
thờ; vì nếu tôi có thuật lại việc này cho chính quyền thì một ai đó ở cấp trên cũng
sẽ giữ lấy số vàng này làm của riêng. Chẳng thà tôi thấy số vàng này được sử dụng
cho một mục đích tốt."
Chúng tôi cảm ơn ông Cảnh sát trưởng và dùng số vàng để mua vật liệu xây dựng
cần thiết. Cứ mỗi sáng, những người phụ nữ trong nhà thờ được chia vào từng
nhóm và bắt đầu công việc kiến thiết nhà thờ. Một hôm, khi tôi ở công trường và
đang đẩy một chiếc xe goòng cũ kỹ chất đầy gạch thì bỗng nhiên một cái báng xe
rớt ra khỏi càng xe. Thế là cả chiếc xe cùng với số gạch chất trên đó nghiêng qua
và đổ lên bàn chân trái của tôi.
Tôi nghe tiếng rắc nơi chân trái, cùng tiếng xương gãy. Tôi té xuống trong sự đau
đớn dữ dội.
"Ôi Chúa ôi!" Tôi cất tiếng khóc. Trong đầu tôi hiện lên khuôn mặt của chồng tôi
bảo tôi lên Seoul.
Tôi sẽ giải thích với chồng tôi việc này như thế nào đây? Tôi hình dung hình ảnh
tôi bước về nhà với cái chân trái bị thương. Mục sư Myung hoảng hốt chạy đến và
giúp tôi trấn tĩnh lại. Bà đem cái xe và lượm từng viên gạch ra khỏi chân tôi. Cái
chân trái của tôi đong đưa vì xương bị gãy. Tôi khóc trong sự hốt hoảng và run rẩy.
Bà đặt tôi nằm xuống đất, nhẹ nhàng đặt tay lên chân trái của tôi và bắt đầu cầu
nguyện khẩn thiết. Bà xin Chúa cất khỏi tôi sự đau đớn và chữa lành cái chân gãy
của tôi, hầu sự vinh hiển được quy về danh Chúa. Trong lúc bà cầu nguyện, những
giọt nước mắt của bà rơi xuống chân tôi. Và trong chính khoảnh khắc ấy, tôi nghe
một tiếng rắc ở chân trái và cơn đau lập tức biến mất. Tôi kinh ngạc vô cùng! Tôi
nhìn xuống chân mình và thử sờ nắn. Nó đã lành hẳn và tôi không còn cảm thấy
đau đớn gì cả! Điều duy nhất còn lại là một vết thâm trên chân nơi cái xương bị
gãy.
Chúng tôi đồng thanh thốt lên trong niềm hân hoan, "Chính Ngài đã làm điều đó!"
Ngài đã đến với tôi khi tôi ở trong tình trạng nguy kịch. Bàn tay bị đinh đóng đầy
máu của Ngài đã chạm vào tôi. Tôi đứng dậy và chạy. Các chị em đứng quanh tôi
đều vỗ tay tung hô Chúa. Ngài đã luôn hiện diện khi tôi cần Ngài. Tôi quì gối
xuống và dâng lên Ngài lời cảm tạ và ngợi khen chân thành của mình.
Nhà thờ Giám Lý Bugok gần nhà ga xe lửa, xây bằng xi-măng trải qua bốn mươi
lăm năm vẫn còn đứng đó. Dĩ nhiên là nhà thờ không thể nói được, nhưng chắc
chắn là chúng tôi biết và nhớ tất cả những điều lạ lùng đã xảy ra ở đó.
Giỏ Đầy Thứ Ba: Tha Thứ Và Lại Tha Thứ
Cuộc Tình Bí Mật Của Chồng Tôi
Cây Thông Con Bật Gốc
Đứa Con Gái Chôn Cất Trong Lòng Tôi .
Ngôi Nhà Nguyện Không Còn Nữa
Không Còn Chỗ Đứng
Cuộc Tình Bí Mật Của Chồng Tôi
"Bây giờ, hãy lựa chọn, hoặc tôi hoặc người tên Giê-xu." Một ngày nọ, chồng tôi
từ Trường trở về nhà sớm và yêu cầu tôi phải chọn lựa giữa ông và Chúa Giê-xu.
Tôi đã đến Seoul để đoàn tụ với chồng tôi sau ba năm sống trong tình yêu thương
và sự thông công nhân ái với Mục sư Myung và các tín hữu trong Hội Thánh mà
tôi không thể nào quên.
Chồng tôi đã cùng với chú tôi lập Trường Đại học Kunkook. Hai người cùng nhau
làm việc cật lực để tìm kiếm và huấn luyện nhân tài cho đất nước Đại Hàn.
Sau khi lên Seoul, tôi đi nhóm ở Hội Thánh Giám lý Pildong. Lúc ấy, nhà thờ đang
được xây mới lại. Vậy là tôi bảo chồng tôi, lúc ấy đang điều hành một công ty cung
cấp gỗ, hãy dâng những loại gỗ tốt nhất cho công việc xây cất nhà thờ. Tôi nỗ lực
giúp đỡ và phục vụ Hội Thánh cùng các vị Mục sư và những Sinh viên Thần đạo
với tất cả những vật liệu cùng tiền bạc mà tôi có thể dâng.
Mỗi Chúa Nhật, chồng tôi muốn tôi đi dã ngoại với ông, nhưng tôi luôn từ chối và
thay vào đó tôi đi đến nhà thờ để phục vụ Chúa.
Lối sống này kéo dài được ba năm, và chồng tôi buộc tôi phải đi đến quyết định
cuối cùng. "Cô không bao giờ đi chơi với tôi vào những ngày Chúa Nhật. Còn
những ngày lễ, khi bà con họ hàng đến nhà ta chơi đánh bài thì cô không bao giờ
tham gia. Cô đã làm tôi vô cùng mắc cở trước mặt các chị em và họ hàng của tôi.
Tôi đã hết sức chịu đựng rồi. Bây giờ, cô phải chọn giữa tôi và người tên Giê-xu
kia. Tôi không muốn cô tiếp tục đến nhà thờ nữa. Hoặc là tôi sẽ cưới vợ bé để có
thể cùng tôi chia sẻ những thú vui của mình."
Tôi nhìn chồng tôi, tim tôi tan vỡ khi biết rằng mình sẽ phải đi đến quyết định này.
Chồng tôi thở dài và chờ đợi câu trả lời của tôi. Ông là một người chồng đặc biệt
đối với tôi. Ông có tài, có giáo dục và danh vọng. Ông là một người cha đáng kính
của bốn đứa con của tôi và là một người chồng mà tôi phải nhờ cậy cho đến suốt
đời. Ông là một người chồng không chỗ trách được. Tôi nghĩ thầm, tôi chưa bao
giờ tận hưởng tình thương thật sự mà ông dành cho tôi vì chiến tranh và ly tán.
Chẳng lẽ cuộc sống gia đình tôi đến đây là chấm dứt sao?
Khi chồng tôi đẩy tôi vào chỗ phải chọn lựa, tôi đã nghĩ tôi không thể bỏ người
chồng đã chu cấp cho tôi trong ngần ấy năm. Và chính lúc ấy, ngay trước mắt tôi
hiện ra rõ ràng một gương mặt. Đó chính là Ngài, Đấng đã tuôn huyết vì tôi.
Ai đã yêu thương, bồng ẵm tôi những lúc tôi bước đi trong trũng bóng chết?
Ai đã luôn cận kề bên tôi bất chấp thời gian và không gian? Không ai khác ngoại
trừ Ngài.
Ai đã gánh lấy mọi án phạt, chịu đau đớn trăm bề; ai đã bị khinh bạc, bị sỉ nhục vì
cớ tội lỗi của tôi?
Làm sao tôi có thể nói lời đoạn tuyệt với Ngài được? Tôi cố gắng tự chủ và mở
miệng nói cách chậm rãi và thận trọng, "Anh yêu, em yêu anh. Anh là một người
chồng tuyệt vời và là một người cha đáng kính đối với các con, nhưng em không
thể quên được Đấng đã ban cho em sự sống và tình yêu thương thật."
"Dù khó khăn đến đâu, em cũng sẽ phục tùng và nghe lời anh với tư cách là một
người vợ và người mẹ của bốn đứa con. Em sẽ cố gắng hết sức. Nhưng xin anh hãy
hiểu cho em và thay đổi ý kiến của anh."
"Nếu thế thì anh muốn em hãy cùng anh tận hưởng những thú vui đời này. Anh
muốn em đi chơi với anh và các con vào ngày Chúa Nhật."
"Em xin anh, anh bảo em làm chuyện gì cũng được, nhưng chỉ trong sáu ngày, còn
ngày Chúa Nhật em phải đến nhà thờ. Em không thể bỏ Chúa được."
Chồng tôi nghe những lời tôi nói. Và dường như ông đã có quyết định cho riêng
mình.
"Thế à? Vậy nếu đó là điều em muốn, thì em cứ làm theo cách của mình. Còn anh
sẽ theo cách của anh để hưởng thụ cuộc sống trên thế giới này."
Chồng tôi cảm thấy như ông đã bị phản bội. Ông rời khỏi nhà trong tiếng thở dài.
Khi nhìn thấy ông rời khỏi nhà, tôi ngã quỵ xuống đất như là trời sập vậy.
Lúc đó, tôi hai mươi tám tuổi. Tôi phục vụ chồng tôi trong mười bảy năm nữa cho
đến khi ông qua đời trong cô đơn và đau đớn. Một trong những từng trải đau lòng
nhất của tôi là khi chồng tôi bảo tôi chuẩn bị bữa trưa ngoài trời để ông có thể đi
chơi cùng với một người bạn khác phái vào ngày Chúa Nhật. Hầu như mỗi Chúa
Nhật, tôi đều dậy sớm để chuẩn bị đồ ăn trưa cho ông và người phụ nữ kia. Tôi
thường nhìn họ đi khỏi nhà trong lúc nước mắt cứ trào ra. Sau đó, tôi dẫn các con
đến nhà thờ.
Tôi ngửa trông nơi Chúa, chờ đợi một cách hạ mình và nhẫn nại. Tôi tin rằng
chồng tôi sẽ nhận biết Chúa khi ông thấy tấm lòng chân thật của tôi. Vì thế tôi
vâng phục trong yên lặng.
Một ngày kia, chú tôi gọi điện hỏi, "Chú nghe có tin đồn về chồng cháu, điều đó có
phải là sự thật không?"
"Không đâu chú ơi. Điều đó hoàn toàn không đúng. Chắc có ai đó ganh tị nên dựng
chuyện nói xấu vì ảnh sẽ là người nối nghiệp chú. Xin hãy tin cháu. Cháu là người
biết rõ mọi chuyện."
"Vì cháu đã nói vậy nên chú sẽ xem đây chỉ là tin đồn mà thôi." Rồi ông cúp máy.
Trở về thời điểm cách đây năm mươi năm, nếu một nhà mô phạm có vợ bé thì ông
ta phải từ chức vì tai tiếng trong xã hội. Sau sự việc ấy, có vài câu hỏi được đặt ra
nhưng tôi phủ nhận tất cả mọi lời cáo buộc và nhất định bảo vệ chồng tôi. Sau này,
khi biết chuyện, chồng tôi đã cảm ơn tôi. Tôi nói với ông rằng ấy là chính Chúa đã
làm điều đó. Tôi sẽ chờ đợi và vượt qua mọi nỗi đau để giữ cho gia đình được êm
ấm và nuôi dạy tốt các con tôi. Có nhiều lúc chồng tôi không về nhà, lúc ấy tôi
nhìn chiếc giường trống trải và chỉ biết quỳ gối xuống trước Chúa. Và cứ mỗi lần
như thế, Ngài khỏa lấp tâm hồn cô quạnh của tôi bằng sự bình an và sự vỗ về của
Ngài. Sự can đảm Ngài ban cho tôi đã giúp tôi tiếp tục bước đi và tha thứ cho
chồng tôi một lần nữa.
Chính sự tha thứ vô biên mà Ngài đã đặt trong tâm hồn tôi đã khiến cho người vợ
bé của chồng tôi có thể có mặt tại tang lễ của ông khi ông qua đời. Việc người vợ
bé xuất hiện trước công chúng trong lễ tang của chồng mình chưa hề được nghe
thấy bao giờ. Tôi có một sự sắp xếp đặc biệt để bà có thể đến nhà bày tỏ lòng
thương tiếc trước cái chết của chồng tôi. Hôm trước khi qua đời vì bệnh cao huyết
áp và tiểu đường, ông nhờ tôi chuẩn bị một ngân phiếu có ghi một số tiền đáng kể.
Tôi đã đưa tấm ngân phiếu cho người phụ nữ ấy. Bà có hai con trai, và số tiền ấy
được dùng để trang trải học phí cho hai đứa bé. Không phải tôi mà chính Chúa đã
khiến tôi có thể tha thứ.
Ngoài ra, tôi còn sắp xếp để tên hai con trai của bà ấy được khắc chung với tên các
con tôi trên bia mộ chồng tôi. Tôi vẫn muốn dành cho bà ấy phần đất trống bên
cạnh mộ chồng tôi khi bà qua đời. Tôi biết sống không có chồng, người mà bà có
thể nhờ cậy, thật là chật vật biết bao. Cuộc sống hôn nhân của bà là một cuộc sống
hoàn toàn trong bóng tối, không hề có chút ánh sáng. Tình yêu chớm nở của bà thật
ngắn ngủi vì chẳng bao lâu, bà đã mất người chồng của mình. Chắc chắn bà cảm
thấy cô đơn và trống vắng lắm.
Sự khoan dung trong trái tim tôi đã giúp tôi có thể bỏ qua cuộc tình lén lút của
chồng tôi. Nhưng nó không xuất phát từ tôi mà chỉ từ Ngài mà thôi. Dù chồng tôi
không hiểu được tấm lòng của tôi nhưng tôi vẫn yêu thương và kính trọng ông.
Ông yêu đất nước và con người Đại Hàn. Ông đã cống hiến cuộc đời mình cho cho
việc giáo dục trí tuệ của những con người trẻ tuổi hầu có thể dẫn dắt tương lai của
nước Đại Hàn. Thậm chí trước khi chết, ông cũng không đi nhà thờ với tôi. Tôi
nghĩ rằng ông không đến nhà thờ vì mặc cảm về gia đình thứ hai của mình và vì
ông bị dày vò bởi nỗi ân hận đã làm tổn thương tôi. Tuy vậy, ông đã hỗ trợ tôi rất
nhiều trong những công tác của nhà thờ như giúp đỡ người nghèo cùng nhiều việc
khác nữa.
Nhiều lần tôi suy nghĩ về chồng tôi và tự hỏi không biết trên thế giới có bao nhiêu
gia đình đang trải qua những gì mà tôi đã từng trải.
Thậm chí tôi không thể nhớ đã bao nhiêu lần tôi cầu nguyện trong nước mắt để
chồng tôi được cứu. Tôi đã cầu khẩn với Chúa không thôi. Duy chỉ mình Ngài thấu
hiểu tấm lòng của tôi.
Cây Thông Con Bật Gốc
Lại một cây thông con bị bứng gốc.
Tôi đang ở trên núi gần ngôi nhà nguyện với đứa con trên lưng. Trời mưa tầm tã,
tôi chỉ có một tấm nylon che vừa con tôi và đầu tôi. Tôi ghì chặt cây thông con và
khóc lớn với Chúa.
"Con không thể làm được. Con đã cố gắng tha thứ cho ông ấy nhưng không thể.
Xin Ngài giúp con. Xin hãy giúp con."
Người tôi ướt đẫm mưa và nước mắt. Tôi vật lộn với cây thông bé nhỏ. Cuôi cùng
cây thông bật gốc và tôi ngã vào vũng sình bên đồi.
Tôi không thể nào tha thứ cho ông ta. Tôi đã quyết định hàng trăm lần trong đầu là
sẽ tha thứ cho ông ta. Nhưng ngay lúc tôi nghe thấy giọng nói của ông thì lòng căm
hờn lại nổi lên trong tôi. Cuối cùng, tôi đã chạy lên ngọn núi cầu nguyện và khẩn
cầu thâu đêm ở đó. Nhưng sự căm ghét vẫn tồn tại trong lòng tôi. Tôi bỏ cuộc và
quay về nhà với con tim trống rỗng và một thân xác rã rời.
Ngày hôm sau, chồng tôi bảo tôi chuẩn bị cơm tối cho một người khách, Giáo sư
D. H. Lee. Tôi cay đắng với cái tên đó. Ông ta đã làm tôi xấu hổ trước mặt chồng
tôi khi ông gọi tôi là "người đàn bà ngu xuẩn, hóa điên vì Chúa Giê-xu." Ông bảo
chồng tôi bỏ tôi và nhiều lần giới thiệu cho chồng tôi những người phụ nữ khác.
Ông ta là một con người độc ác và đã đem đến cho tôi không biết bao nhiêu là đau
khổ.
Tôi bước vào phòng sau khi làm xong bữa tối trong nhà bếp. Làm thế nào tôi có
thể tha thứ cho một kẻ thù như người đàn ông này. Tôi đã cố gắng nhưng vẫn
không thể. Tôi thật sự cần Chúa. Tôi cầu xin Ngài giúp tôi tha thứ cho ông ta.
Chuông cửa reo và tôi mĩm cười một cách gắng gượng khi ông Lee bước vào. Tôi
mời ông vào với một giọng điệu khác hẳn.
"Xin mời ông vào đây. Tôi đã chuẩn bị một bữa tối thịnh soạn. Chúc ông ngon
miệng và xin cứ ở lại đây chừng nào ông muốn." Tôi không còn là tôi nữa. Tôi véo
vào tay mình và nhận thấy tôi hoàn toàn tỉnh táo nhưng đấy không phải là tôi. Tất
cả mọi sự thù hận còn chất chứa trong lòng tôi mới vài phút trước đây bỗng tan
biến hết. Tôi thấy mình đang bày tỏ cho người đàn ông này một sự quan tâm trìu
mến cùng sự ấm áp thật sự từ trong nơi sâu thẳm của trái tim tôi.
Dáng điệu vụng về của ông từ từ tiến vào phòng khách. Tôi đi theo ông và từ đằng
sau tôi nhìn thấy chiếc áo sơ-mi nhăn nhúm của ông. Vợ ông đã qua đời một vài
năm trước đó. Hiện ông sống với các con. Tôi muốn an ủi ông ta. Tôi phục vụ bữa
tối với một tấm lòng chân thành và yêu thương. Ông nán lại khá lâu với chồng tôi.
Lúc ông sắp sửa ra về, tôi tặng ông một món ăn đặc biệt để ông mang về.
Khuya hôm đó, tôi cứ trằn trọc mãi vì những điều đã xảy đến với tôi. Tôi không
hiểu việc gì đã xảy ra. Làm sao việc ấy có thể xảy ra được. Tôi cứ nằm trở qua trở
lại trên chiếc gối của mình. Chính lúc ấy, tôi nghe giọng nói ngọt ngào của Ngài.
"Này con yêu dấu, chẳng phải con đã xin Ta giúp đỡ những gì con không thể tự
mình làm được đó sao? Ta há chẳng phán rằng hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ gặp
sao? Con không biết rằng Ta đã ban cho con tấm lòng của Ta để con thay mặt cho
Ta mà cư xử với mọi người sao?"
"Vâng, đúng vậy, thưa Chúa." Tôi bật dậy trong niềm phấn chấn. Ngài biết rõ
những nan đề của tôi, và Ngài đã thực hiện công tác tuyệt vời của Ngài trong tôi.
Không những Ngài đã chữa lành chân của tôi mà còn hàn gắn con tim bị thương
tổn của tôi và đã biến nó thành một con tim kỳ diệu. Ngài đã thấy tôi khép kín cửa
lòng mình và Ngài đã đến để ban cho tôi một tấm lòng tuyệt vời. Giờ đây, tôi đã có
thể nếm trải được lòng thương xót của Ngài. Lòng khoan dung của con người thật
là ít ỏi. Một khi lòng tự ái của họ bị tổn thương thì ngọn lửa căm ghét sẽ thổi
phừng lên và điều đó chỉ làm xuất hiện thêm nhiều kẻ thù mà thôi. Thậm chí trong
mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ và chồng, giữa những người bạn và
những người láng giềng, con người cũng không thể đập vỡ được bức tường ganh
ghét ấy. Nhưng Ngài đã phán đó không phải là đường lối đúng đắn.
Ngài giúp tất cả những ai đưa tay xin Ngài cứu giúp và Ngài ban cho họ một tấm
lòng đầy tình thương và sự thương xót để có thể hạ bức tường ghen ghét và than
vãn xuống. Lòng yêu thương và vị tha của Ngài đã biến rễ đắng trở nên rễ ngọt.
Chính Ngài đã gieo hạt giống hạnh phúc vào lòng của con người.
Từ hôm ấy trở đi, ông Lee đã trở nên nhu mì hơn. Một ngày nọ, ông hỏi tôi,
"Chẳng lẽ cô không ghét tôi sao? Làm sao cô có thể thân thiện với tôi như thế
được?"
Tôi mỉm cười với ông và giới thiệu về Chúa cho ông và tặng cho ông quyển Kinh
Thánh bìa da để ông đọc. Một thời gian sau, tôi nghe chồng tôi nói đứa con út của
ông Lee đang nằm trong bệnh viện. Thằng bé phải nhập viện vì bệnh lao và thấp
khớp. Mỗi ngày, tôi đều đến bệnh viện thăm cháu. Tôi tắm rửa, thay đồ cho nó và
đem cho nó trái cây như mẹ nó đã từng làm.
Từ giờ phút ấy trở đi, ông Lee đã gặp được Đấng mà tôi đã gặp năm tôi hai mươi
ba tuổi. Ông đã ăn năn thống hối với một tấm lòng tan vỡ khi ông tiếp nhận Chúa.
Ngày ông gặp Chúa, ông đã đến gặp tôi và xin tôi tha thứ cho ông không biết bao
nhiêu lần. Ông thuật lại cho tôi những gì mà đứa con út đã nói với ông.
"Ba ơi, con thấy hình ảnh của mẹ con trong cô ấy. Con thì nặng, nhưng cô ấy đã
bồng con lên, gội đầu và rửa mặt cho con. Con nghĩ chắc chắn đó là mẹ của con.
Sau ba, cô ấy là người con thương yêu nhất. Con đã cảm ơn cô ấy rồi, nhưng tại
sao ba lại không?" Từ lúc ấy, Giáo sư Lee trở thành một người đàn ông hạnh phúc.
Và ông trở nên một trong những người bạn thân thiết nhất của chồng tôi.
Đứa Con Gái Chôn Trong Lòng Tôi
"Ông nói sao? Kyungsook, con gái tôi không sống được tới ngày mai sao?"
Tôi khóc với vị Bác sĩ đến thăm viếng nhà tôi. Ông nói vi trùng bạch hầu đã lan
đến tim của con tôi. Đã quá trễ. Ông nói nếu được phát hiện hai ba ngày trước thì
đã có thể cứu sống đứa bé. Tôi quỵ xuống sàn nhà và khóc như một đứa trẻ.
Một vài ngày trước đó, Kyungsook đi học về và kêu rằng cháu bị sốt. Tôi đem
cháu đến một Bác sĩ Nhi khoa ở khu lân cận. Bác sĩ nói cháu chỉ bị cảm lạnh. Ông
bảo tôi đừng lo lắng và ông kê đơn thuốc cảm lạnh cho cháu. Nhưng sau hai ngày
uống thuốc, cháu không những không hạ sốt mà lại còn trở nên khó thở. Chúng tôi
gọi điện cho một Bác sĩ chuyên khoa và mời ông đến nhà. Và ông kết luận vi trùng
bạch hầu đã lan đến tim của cháu. Nhưng vì không được phát hiện ở giai đoạn đầu
nên bây giờ đã quá trễ để có thể cứu cháu. Điều đó hoàn toàn không chấp nhận
được. Chúng tôi có tiền. Thuốc thang có sẵn. Chính việc chẩn đoán sai trật của vị
Bác sĩ Nhi khoa ấy đã đưa đến cái chết của đứa con gái đầu lòng của tôi.
Kyungsook là một đứa bé đặc biệt. Cháu có nhiều tài. Cháu chơi được đàn dương
cầm và đoạt giải quốc gia trong một cuộc thi vẽ. Trong lớp, cháu luôn được xếp
hạng danh dự. Cháu chỉ mới học lớp hai ở trường Tiểu học. Tôi yêu cháu nhất nhà.
Một Giáo viên Trường Chúa Nhật đang theo học tại Đại Chủng Viện của Hội
Thánh Giám Lý được nghỉ phép dài hạn vì bị bệnh đã đến thăm tôi. Cô đã nằm mơ
thấy Kyungsook mặc áo đầm trắng đang đi tới một nơi nào đó. Kyungsook nắm tay
cô và trò chuyện với cô. Rồi cháu nhắm mắt lại và chìm vào một giấc ngủ dài.
Kyungsook đã ra đi một cách đẹp đẽ và lặng lẽ.
Ngày đám tang của cháu, tôi trở về từ nơi mai táng và ngã vật ra giường, mọi tấm
rèm cửa hạ xuống. Tại sao bi kịch này lại xảy đến cho tôi? Tôi đã làm điều gì sai
trái trước mặt Ngài? Tôi cảm thấy con gái yêu dấu của tôi đang dang rộng đôi tay
và chạy đến với tôi. Tôi không tài nào chịu đựng nỗi cơn đau đang dằn xé tâm can
mình. Mọi sự thống khổ, mọi nỗi ưu phiền trong cuộc đời của tôi không thể nào
sánh được với nỗi đau mất cháu Kyungsook. Tôi căm ghét vị Bác sĩ đã chẩn đoán
sai bệnh trạng của con tôi.
Tối hôm ấy, lúc tôi đã rơi vào nỗi tuyệt vọng hoàn toàn, thậm chí không còn cử
động được ngón tay của mình thì Ngài đã đến thăm tôi. Đêm ấy, trời rất tối và
dường như đó là một đêm dài vô tận. Ngài đã đến với tôi bằng tình yêu không biến
đổi của Ngài, "Con yêu dấu của Ta, không lâu nữa con sẽ gặp lại cháu và ở với
cháu mãi mãi." Khi Ngài đang nói chuyện với tôi bằng giọng nói thân thương trìu
mến của Ngài, tôi nghe tiếng hát của muôn vàn thiên sứ rằng, "Ôi thiên đàng tuyệt
đẹp, lòng tôi tràn ngập niềm hân hoan. Thời tiết buốt giá của mùa đông sẽ biến nên
những ngày xuân mát dịu. Chúa đã sửa soạn một chỗ, và đó sẽ là nơi ở vĩnh cửu
của tôi."
Bài hát tuyệt vời của các thiên sứ đến với đôi tai và tâm hồn tôi, nó lấp đầy trong
tôi sự bình an thiên thượng mà không gì có thể so sánh được. Nỗi ưu phiền tức thì
trở nên niềm vui. Sự đau đớn dày vò phút chốc tiêu biến và tôi cảm nhận sự an ủi
kỳ diệu đến từ trên cao. Tiếng thở dài trở nên bài hát ngợi khen, bóng tối sự chết
lập tức bị xua tan bởi ánh sáng của sự sống. Vâng đúng rồi, lời Chúa phán, "Vì
chưng của cải ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó," đã trở nên sống động và
mang đến cho tôi một nguồn an ủi vô biên.
Sau khi chôn cất đứa con gái chín tuổi của tôi, tôi lại trở thành một người đàn bà
hạnh phúc. Một vài ngày sau, toàn bộ gia đình và họ hàng của tôi họp lại để bàn về
việc đệ đơn kiện vị Bác sĩ đã chẩn đoán sai gây nên cái chết của con gái tôi. Sắc
mặt ai nấy đều rất giận dữ. Tôi lấy lại niềm hạnh phúc của mình và mở miệng nói
với họ, "Nếu chúng ta khởi tố ông ta và đưa ông ta vào tù, liệu điều đó có làm
Kyungsook sống lại chăng? Ông ta đã phải bị dằn vặt suốt đời vì việc này rồi. Hơn
nữa, vợ và con ông ta đâu có lỗi gì mà phải mang lấy mặc cảm tội lỗi ấy. Nếu
chúng ta không thể đem cho họ sự an ủi, thì xin đừng làm cho họ đau đớn thêm.
Hãy để chuyện này lại phía sau và quên nó đi."
Nếu có ai đó muốn truy tố vụ này, thì người đó phải là tôi, với tư cách là mẹ của
cháu. Nhưng là mẹ của cháu, tôi đã nài xin họ đừng đệ đơn kiện. Không ai bàn cãi
thêm với sự nài xin chân thành của tôi. Ai có thể thương Kyungsook hơn chính mẹ
của cháu chứ?
Tất cả sự tha thứ ấy không phải từ tôi mà ra nhưng đến từ Đấng đã ban cho tôi
quyền năng tha thứ lạ lùng và sức lực mới mẻ để bươn tới phía trước.
Từ tận đáy lòng mình, tôi dâng lời cảm tạ lên Đấng đã giúp tôi có khả năng thực
hiện những việc này.
Ngôi Nhà Nguyện Không Còn Nữa
"Bà Yoo ơi, xin hãy về đây mau. Mọi người chúng tôi đang ở trong tình trạng nguy
cấp." Đó là giọng nói của một bà lớn tuổi điện thoại từ nước Đại Hàn bên kia Thái
Bình Dương. Tôi có thể nhận ra giọng nói của bà ngay lập tức. Đó là một bà cụ già
ở Agok-ri, một làng nhỏ ở Đại Hàn. Tôi đã giật mình tỉnh thức vào lúc nửa đêm
sau khi nhận cú điện đó. Tôi không thể tin được những điều đã nghe trên điện
thoại. Chẳng lẽ tấm lòng của người đàn ông ấy đã trở nên nghèo ngặt và không còn
đáng tin cậy nữa sao?
Cách đây khoảng bốn mươi năm, có một Mục sư trẻ đến với tôi. Ông nói ông
muốn cầu nguyện cho đất nước Đại Hàn và mong muốn có một nhà nguyện hoạt
động theo kiểu tự túc tự dưỡng. Ông ta đầy những ước vọng và năng lực. Điều đó
khiến tôi cảm phục lắm. Ông đề xuất việc xây dựng một nhà nguyện và một nông
trang, nơi những vị Mục sư về hưu có thể đến cư ngụ và cầu nguyện suốt những
năm tháng còn lại của đời họ.
Tôi bị thu hút bởi ý tưởng ấy và đồng tình với đề xuất của ông. Tôi để dành tiền và
mua đất ở Yougin từng chút một. Rốt cuộc là vùng đất mua được gồm có một ngọn
núi nhỏ, một mảnh đất nông trang nhân tạo và một dòng suối (sau này thành bể lai
cá giống).
Chúng tôi thu hoạch lúa và nhiều loại rau trong mảnh đất nông trang rộng lớn. Tất
cả mọi người trong thị trấn đều tham gia vào việc xây dựng ngôi nhà nguyện.
Thậm chí những đứa bé cũng góp phần bằng việc chuyển đá và dọn dẹp. Mọi
người đều hiệp một lòng trong đức tin để dự phần vào công tác này. Vị Mục sư trẻ
rao giảng Tin Lành và cầu nguyện ngày và đêm khắp nơi trong làng. Tôi đã từ
Seoul đến thăm làng mỗi tháng một lần và cùng tham dự những bữa tiệc yêu
thương lẫn những phước hạnh thuộc linh. Thật là một dự án đầy vinh hiển. Chúng
tôi hết thảy đều tạ ơn Ngài. Những dân làng có tâm hồn thật đẹp. Khi tôi di cư sang
Mỹ năm năm sau ngày chồng tôi qua đời, họ đã cùng khóc với tôi. Chúng tôi hẹn
gặp nhau trên thiên đàng.
Thế mà giờ đây, ngôi nhà nguyện trông thật xấu xí. Ngôi nhà nhỏ bị nứt toạt ra,
còn tòa giảng, nơi dùng để cầu nguyện cho quốc gia thì bị đổ vỡ. Làm sao người ta
có thể làm những việc như thế được? Tôi có thể hình dung ra những người dân vô
tội ở Agok-ri. Tôi là người duy nhất có thể giải quyết vấn đề. Vì thế, tôi quyết định
trở lại Đại Hàn.
Khi tôi đến nơi, tôi thấy đúng như những điều tôi đã nghe trên điện thoại. Tôi thấy
sự căm ghét hiện ra trên khuôn mặt của họ hơn là niềm vui và sự hạnh phúc. Tôi
gặp riêng vị Mục sư trẻ và nghe ông ta kể lại đầu đuôi sự việc. Tôi bảo ông nên rời
khỏi làng.
“Vấn đề đang vượt khỏi tầm kiểm soát. Họ không tin cậy ông vì ông đã làm tổn
thương họ. Tôi muốn ông rời khỏi làng với một mảnh đất nào đó. Hãy bán mảnh
đất ấy đi và dựng một nhà thờ mới ở một làng khác.”
Mục sư lắng nghe và đáp, “Tôi sẽ làm theo những điều bà nói.” Và ông rời khỏi
làng. Tôi cảm ơn ông ta vì đã hợp tác với tôi để giải quyết vấn đề rắc rối này. Tôi ở
lại qua đêm với dân làng, tôi an ủi họ và cầu nguyện cho họ.
Nhưng ngày hôm sau, vị Mục sư đó đến gặp tôi. Ông nói, “Bà Yoo ạ, bây giờ mọi
chuyện đã ổn rồi. Giấy tờ đã được giải quyết và ghi vô sổ bộ xong. Xin bà đừng
dính dáng vào việc này và xin hãy lìa khỏi thị trấn này đi.”
Tôi không thể tin vào tai mình. Sự phản bội này là gì đây? Làm sao ông ta có thể
nói như thế? Người đàn ông này không còn là một tôi tớ Chúa nữa. Ông đã thay
đổi và trở thành một con người có tấm lòng độc ác. Ông đã khởi đầu với một mục
đích đúng đắn cho Chúa nhưng cuối cùng đã chọn đường lối tham lam của Ma quỷ.
Đức Chúa Trời đã đem tôi trở về Đại Hàn vì cớ ông ta và cho ông có một cơ hội để
ăn năn nhưng ông đã chọn con đường dẫn tới sự hủy hoại. Ông đã từng tràn trề
năng lực và khao khát phục vụ Chúa. Ông đã từng rao giảng Tin Lành cho ba lễ
trong một ngày. Ông vui sướng vì được làm việc và đổ mồ hôi vì sự vinh hiển của
Chúa.
Điều gì đã khiến ông trở nên mù quáng đến thế? Chẳng lẽ ân điển cứu chuộc của
Ngài đã bị đem ra đổi chác bằng sự đam mê của xác thịt và lòng tham của mắt? Tôi
sụp xuống sàn nhà và ngửa trông nơi Chúa. Bà cụ gọi điện cho tôi vào lúc nửa đêm
đứng cạnh tôi. Bà cũng đang khóc, nước mắt chảy dài trên khuôn mặt nhăn nheo
của bà. Khi tôi nhìn thấy khuôn mặt cháy nắng và đôi bàn tay thô ráp vì công việc
đồng án của bà, lòng tôi lại càng quặn thắt hơn nữa.
Từ lúc tôi đi Mỹ, hàng ngày vào lúc bình minh, có một số dân làng đến nhà nguyện
để cầu nguyện với Chúa. Họ rất yêu mến Chúa. Từng viên gạch xây nhà thờ là
bằng chứng cho tình yêu chân thật và mồ hôi nước mắt của họ đổ ra vì cớ Chúa.
Nhưng giờ đây, tội lỗi của một người đã đem đến cho họ lòng hận thù và sự tuyệt
vọng. Đây chính là trái đắng sinh ra từ tội lỗi độc hại.
Tôi rời Agok-ri mà lòng trống không và tuyệt vọng vô cùng. Tôi bước đi trên con
đường làng; ngọn núi, nông trang, dòng suối, những hàng cây, trời xanh và bầu
không khí trong trẻo tất cả vẫn y nguyên. Chỉ có một điều thay đổi, đó là tấm lòng
của vị Mục sư ấy.
Tôi còn nhớ như in bốn mùa hết sức đặc biệt và xinh đẹp. Mùa xuân với tiếng suối
chảy róc rách lúc tuyết tan, mùa hè với tiếng ve kêu ra rả, tiếng dế kêu trong những
đêm mùa thu khuya khoắc, và tiếng tuyết rơi lặng lẽ vào mùa đông.
Trong những buổi thông công thâu đêm của chúng tôi, chúng tôi nói về ân điển dư
dật và tình yêu vô đối của Chúa, và ca tụng Ngài bằng những bài hát chất ngất
niềm vui xuất phát từ tấm lòng chân thành của chúng tôi.
Tôi lấy khăn tay lau nước mắt khi đi ngang những ruộng lúa trên đường ra khỏi
làng và tự hứa rằng, “Cho đến chết tôi cũng sẽ không trở lại nơi này nữa.”
Tôi trở về Los Angeles với một vết sẹo hằn sâu tiềm ẩn trong lòng. Trong căn hộ
nhỏ của mình, tôi chỉ biết cầu nguyện xin Chúa tha thứ cho vị Mục sư không biết
suy xét ấy và an ủi dân làng Agok-ri cùng con tim tan vỡ của tôi. Chẳng mấy chốc,
một dòng bình an đã tràn ngập tâm hồn tôi. Thần linh Ngài đến và ôm lấy đôi vai
tôi một cách vô cùng êm dịu.
Không Còn Chỗ Đứng
"Thưa Mục sư, ông không thể buộc ông ấy từ chức. Ông ấy là một một Mục sư trẻ
tuổi. Vì tương lai ông ấy, hãy yêu cầu ông ấy tự từ chức vì lý do cá nhân."
Trong nhà thờ là hơn năm trăm thuộc viên chính thức của Hội Thánh đang trong
tâm trạng căng thẳng. Một phụ nữ khoảng ba mươi tuổi giơ tay và đứng dậy phát
biểu như thế. Bầu không khí im lặng bao trùm cả phòng nhóm.
Tôi rời Hội Thánh Giám lý Pildong và đến nhóm ở một Hội Thánh lớn ở Seoul.
Tôi đã làm hết sức mình để trung tín phục vụ Chúa và giúp đỡ các Mục sư. Tôi đặc
biệt thân thiết với vị Mục sư Quản Nhiệm và giúp đỡ cho gia đình ông về mặt tài
chính bằng cách này hay cách khác.
Một ngày nọ, một thử thách lớn xảy đến với Hội Thánh. Người vợ trẻ tuổi của vị
Mục sư phụ tá bị ngộ độc khí carbondioxide. Bà không thể làm việc nhà nên Hội
Thánh sắp xếp để một thiếu nữ đến giúp bà.
Mấy hôm sau, lúc cô gái chuẩn bị ra về thì ông Mục sư cũng vừa đi thăm viếng
một gia đình tín hữu về đến. Ông ngỏ lời cám ơn cô gái và vỗ lưng cô. Cô gái xoay
người lại và vô tình, tay của vị Mục sư chạm vào ngực của cô. Không biết bằng
cách nào mà việc này lại trở thành một vấn đề nghiêm trọng được đem ra bàn luận
trong cuộc họp của các tín hữu. Họ đồng ý cách chức ông.
Nhưng tôi tin tưởng vị Mục sư trẻ này. Bản thân ông ấy cũng là dân tị nạn từ miền
Bắc và đã học ở Trường Thần Học trải qua những năm chiến tranh và mọi sự kham
khổ. Dù ông nghèo nhưng ông thỏa lòng với cuộc sống giản dị và trong sạch của
mình. Trong mắt tôi, ông là người đáng kính về nhiều mặt.
Rõ ràng là có một số người vì lòng đố kỵ đã tung tin đồn này để gieo rắc tiếng xấu.
Và vấn đề này đã được đem ra xem xét tại cuộc họp của Hội Đồng Hội Thánh bao
gồm ba mươi Trưởng lão và hơn năm trăm thuộc viên chính thức của Hội Thánh.
Khi buổi họp đang sắp đi đến chỗ kết thúc với sự nhất trí là vị Mục sư Phụ tá phải
bị cách chức, theo như vị Mục sư Quản Nhiệm đã khẳng định. Ngay lúc đó có một
giọng nói rất rõ ràng lọt vào tai tôi và hỏi rằng,
"Con cũng tin như vậy à?"
"Không phải thế đâu, ông ấy chỉ là nạn nhân."
"Thế thì, hãy đứng dậy."
Tôi giơ tay phải xin phát biểu và đứng dậy, thậm chí tôi chưa biết gì về điều ấy. Cả
Hội Thánh xao động và mọi người đổ dồn sự chú ý của họ vào tôi. Tôi biết đó là ý
muốn của Chúa. Tôi mở miệng nói cách dạn dĩ. "Chính ở đây, tôi đã được dạy phải
tha thứ và khỏa lấp lỗi lầm của người khác. Đó là đường lối của Chúa và đó là
đường lối đúng đắn. Mục sư Phụ tá không hề cố ý chạm vào ngực của cô gái, đó
chỉ là một sự tình cờ. Nếu buộc phải cách chức ông ấy theo nguyên tắc của Hội
Thánh thì hãy bảo ông ấy từ chức vì lý do cá nhân chứ không phải vì Hội Thánh ép
buộc. Làm như thế, ít ra ông ấy cũng có thể từ giã các tín hữu trong Hội Thánh."
Vị Mục sư Quản Nhiệm hạ cặp mắt lạnh lùng của mình xuống tòa giảng nhưng tôi
không thể nào rút lời được. Nếu tôi biết điều phải mà lại vì số đông mà thỏa hiệp
thì tôi cũng sai lầm giống như họ. Tôi sẽ giống như muối mất mặn. Tôi cảm nhận
được sự tức giận thổi bùng lên trong lòng mình, nhưng đó không phải là cơn giận
của tôi mà là cơn giận của Chúa. Ngài thấy vị quan tòa bất công tự xem mình là
công bình. Ông ta đứng ra xét đoán người khác trong khi chính mình là kẻ giả
hình.
Người ta đem đến cho Ngài một người đàn bà bị buộc tội ngoại tình và chuẩn bị
hành quyết bà bằng cách ném đá. Nhưng Ngài đã phán với những người ấy rằng,
"Ai trong các ngươi là người vô tội, hãy trước nhất ném đá vào người." Khi họ
nghe những lời này, họ bị chính lương tâm mình cáo trách và từng người một bỏ
đi. Ngài phán với người đàn bà đang run rẫy vì sợ hãi, "Này bà kia, Ta không định
tội ngươi. Hãy đi, và đừng phạm tội nữa."
Đúng rồi, tôi đã nghe giọng nói phán những lời nầy. Chính Đấng Thánh khiết
không muốn kết án những tội nhân nhưng muốn tha thứ cho họ. Lẽ nào chúng ta
thánh khiết hơn Ngài sao? Chúng ta cũng là những tội nhân được tha thứ nhờ ân
điển của Ngài. Đoán xét người khác là hành động của lòng tự cao và sự vô ơn đối
với ân điển cứu chuộc của Ngài. Đó là bài học mà Ngài đã dạy cho tôi.
Nhưng ý tưởng tha thứ bởi ân điển của Ngài không được Hội Thánh đồng tình và
vị Mục sư trẻ đã bị Hội Thánh cách chức (dứt phép thông công.) Tôi cũng phải rời
khỏi Hội Thánh trước những ánh mắt lạnh lùng và sự căm ghét đổ dồn về phía
mình. Từ sau sự việc ấy, trong nhà tôi nảy sinh ra nhiều nan đề mới. Tôi đã nhận
được nhiều món quà do người ta gởi đến biếu chồng tôi. Và tôi đem hầu hết những
món quà ấy đến nhà Mục sư hoặc văn phòng của nhà thờ. Thậm chí chồng tôi còn
nói đùa tại sao lại không đem luôn những chai rượu whisky đến đó. Tôi đã toàn
tâm toàn ý tận hiến cho Hội Thánh ngày và đêm. Giờ đây, bằng cách nào tôi làm
cho ông ấy hiểu lý do tôi phải rời khỏi Hội Thánh đây?
Một hôm, lúc đang dùng bữa tối, tôi hỏi chồng tôi, "Anh yêu, nếu em bị bệnh nặng
và đang ở giai đoạn cuối thì anh có giúp chữa lành cho em không?" "Dĩ nhiên rồi,
anh sẽ giúp em chữa bệnh bất kể chi phí là bao nhiêu."
"Vậy thì hãy giúp cho mơ ước của em trở thành hiện thực như thể anh đang giúp
em thoát khỏi căn bệnh ấy vậy."
"Được rồi, hãy nói anh nghe mơ ước của em xem anh có thể làm gì được không."
"Xin hãy xây cho em một ngôi nhà thờ."
Chồng tôi là một người lanh trí và ông đọc được những suy nghĩ của tôi.
"Anh nghĩ anh có thể giúp em xây một nhà thờ mới. Anh luôn nghĩ đến sự hy sinh
của em, việc em nuôi dưỡng con cái và lo toan công việc nhà và anh muốn làm một
điều gì đó cho em."
Đó là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của ngôi nhà thờ nằm trên đồi Buam-dong,
nhà thờ "Samae" (Ba tình thương.)
Nhà thờ có diện tích 4,300 bộ vuông với 12,000 bộ vuông khuôn viên, trong đó có
1,000 bộ vuông dành cho tư thất Mục sư. Tôi cung hiến ngôi đền thờ này cho Chúa
vào tháng Năm, 1966. Tôi mời một Mục sư nổi tiếng đến lo cho Hội Thánh và cầu
nguyện cho sự tăng trưởng của Hội Thánh.
Một ngày kia, Mục sư đến gặp tôi và đưa đơn xin từ chức với lý do là tín hữu trong
Hội Thánh nghe theo tôi và kính trọng tôi hơn ông ấy. Ông không thể dắt dẫn tín
hữu, ngoài ra ông còn chỉ ra một số bất tiện trong công tác quản trị Hội Thánh. Vì
thế, ông quyết định từ chức. Ai đã gieo hạt giống của sự tối tăm này? Bấy giờ, tôi
mới nhận ra có đôi lần, Mục sư đã tránh mặt tôi. Tôi quyết định không hỏi ông bất
cứ điều gì cả. Tôi chỉ cầu hỏi Chúa trước cây thập tự và ngửa trông nơi Ngài. Tôi
không thể để ông ấy ra đi. Khi Hội Thánh được hoàn tất, nó đã được cung hiến cho
Chúa chứ không phải tôi. Nếu tôi trở thành trung tâm của Hội Thánh thì tôi nên đi
khỏi đây. Ngài đã dạy tôi, "Chớ tranh luận vì quyền lợi của con." Tôi phải theo ý
muốn của Ngài hơn là ý của tôi.
“Tôi sẽ đi khỏi đây, còn Mục sư hãy ở lại chăn dắt bầy chiên của Chúa.” Khi tôi đi
xuống đồi, bỏ lại phía sau ngôi nhà thờ, nước mắt tôi cứ trào ra. Ngôi nhà thờ này
là phần thưởng của chồng tôi cho tôi. Tôi nghĩ Chúa đã ban cho tôi món quà đó.
Tôi nghĩ rằng tôi sẽ phục vụ Hội Thánh tại đó cho đến khi tôi qua đời. Và đó là lời
cam kết của tôi lúc cung hiến đền thờ, chỉ cách đó chưa đầy hai năm.
Nhà của chúng tôi ở phía sau Nhà Xanh (tương tự như Toà Bạch Ốc ở Mỹ) và nhà
thờ thì nằm bên kia đường. Nhà thờ ở rất gần nhà của tôi nhưng tôi không bao giờ
đặt chân đến đó nữa. Tôi đi một con đường khác để tránh gặp mặt các tín hữu ở đó.
Nhiều lần tôi quyết đinh trở lại nhà thờ nhưng tôi không muốn đem đến sự hiểu
lầm cho bất cứ ai. Tôi đã không ghé lại nhà thờ ấy trong suốt ba mươi năm.
Năm vừa qua (1998), tôi trở về Đại Hàn và tôi đến thăm nhà thờ, lần đầu tiên kể từ
lúc tôi ra đi; bởi vì tôi có cảm giác đây sẽ là lần viếng thăm cuối cùng trước khi tôi
chết.
Có một lần chồng tôi hỏi, “Nhà thờ thế nào hả em? Không có vấn đề gì chứ?” Và
tôi không thể nói dối ông.
“Em không đi nhà thờ ấy nữa.”
“Sao? Em đã nói nếu anh xây nhà thờ cho em thì em sẽ ở đó cho đến khi chết kia
mà. Có phải không?” Ông rất đỗi ngạc nhiên vì tôi đã bỏ nhà thờ một cách quá dễ
dàng như vậy.
“Anh biết không, Hội Thánh sẽ không được tăng trưởng nếu như người đầu tiên
xây dựng nó cứ ở đó. Vì thế, người xây dựng nhà thờ không thể ở lại nhà thờ quá
lâu.”
“Thế à? Hội Thánh có nguyên tắc kể cũng lạ! Dầu sao đi nữa, nhà thờ cũng là nơi
nhóm họp cho những người lạ.” Ông đã giúp tôi tránh đi sâu vào cuộc nói chuyện
ấy. Kể từ lúc đó, chồng tôi không bao giờ hỏi tôi về nhà thờ Samae nữa.
Tha thứ ! “Xin Cha hãy tha thứ cho họ vì họ không biết mình đang làm gì.” Chúa
Giê-xu đã cầu xin Cha Ngài tha thứ cho những người lên án Ngài. Ngài dạy dỗ và
bày tỏ sự tha thứ bảy mươi lần bảy của mình. Ngài dạy những kẻ theo Ngài trở nên
thánh khiết và làm cho người khác hòa thuận.
Nếu không có điều này, bạn sẽ không thể thấy mặt Đức Chúa Trời. Bằng quyền
năng của Ngài, Ngài đã bày tỏ chân lý của Ngài trong đời sống tôi. Tôi đã đi theo
Ngài và Ngài đã nắm tay tôi trong sự an bình. Bằng nhiều cách sâu rộng hơn, tôi có
được đặc quyền làm một người đàn bà hạnh phúc.
Giỏ Đầy Thứ Tư: Con Có Thật Lòng Yêu Ta Chăng?
Hoa Nở Trong Bóng Tối
Các Bạn Thật Đẹp Đẽ Biết Bao
Người Cha Yêu Dấu Của Tôi
Vượt Qua Khó Khăn
Hoa Nở Trong Bóng Tối
“Xin hãy để tôi yên, tôi không cần sự giúp đỡ của ai hết.” Anh ta lại từ chối. Tôi
nhìn theo lưng anh khi anh quay vào xà lim của mình sau khi thoái thác cuộc viếng
thăm của tôi. Tôi quyết tâm quay trở lại nhà tù West Gate vào ngày hôm sau.
Nhà thờ tôi thường đi ở cách xa nơi tôi sống, nên tôi thường nhóm cầu nguyện
buổi sáng ở nhà thờ Shinik gần nhà. Một sáng nọ, lúc tôi đang khẩn thiết cầu
nguyện thì giọng nói của Ngài đến với lòng tôi thật sâu xa. Ngài hỏi tôi, “Đã bao
giờ con đi thăm một tù nhân trong ngục chưa?”
Tôi đáp, “Thưa chưa, nhưng con đã đi thăm nhiều người nghèo và người bệnh.”
“Nếu Ta ở tù thì con sẽ đến thăm Ta chứ?”
“Chắc chắn rồi, thưa Chúa.” Khi tôi trả lời như thế thì giọng nói Ngài biến mất.
Tiếng nói của Ngài đến với tâm linh tôi vào buổi bình minh ấy suốt ngày cứ văng
vẳng trong lòng tôi.
“Nếu Ta ở tù thì con sẽ đến thăm Ta chứ?”
“Vâng, thưa Chúa, nếu Ngài ở trong tù thì con sẽ đi đến tận cùng trái đất để thăm
Ngài.” Ngày hôm ấy, lòng tôi cứ không yên. Tôi gọi điện cho một tín hữu có mặt
trong buổi nhóm cầu nguyện sáng sớm hôm ấy. Đó là vợ của ông Bộ trưởng Ngoại
Giao. Tôi xin bà Byun giúp tôi đến thăm một nhà tù.
Sau vài khâu giới thiệu, tôi được đưa đến gặp Giám đốc nhà tù West Gate. Ông rất
tò mò về một người phụ nữ trong độ tuổi ba mươi muốn đến thăm các tù nhân này.
“Tại sao bà muốn gặp tôi?” Ông hỏi cách lịch sự.
“Tôi là một người nội trợ. Tôi chỉ muốn giúp các tù nhân. Nếu ông có thể giới
thiệu cho tôi bất kỳ một tù nhân nào không có họ hàng thân thích hoặc không có ai
đến thăm nuôi thì tôi sẽ chăm sóc anh ta như người trong gia đình.”
Ông ta dường như rất cảm động sau khi nghe câu chuyện của tôi. Ông nói, “Tôi sẽ
kiểm tra lại danh sách tù nhân và ngày mai sẽ báo cho bà hay.”
Sáng hôm sau, tôi đến nhà tù và có được tên một tù nhân. Tên anh ta là Hoon Kim.
Anh lớn lên trong sự chăm sóc của một bà mẹ độc thân. Anh học ở Trường Trung
Học Phổ Thông K và sau đó vào Đại học Seoul (giống như Đại học Harvard ở Hoa
Kỳ). Trong những ngày đầu, con tim đầy lý trí của anh đã dẫn anh đến với lý tưởng
của Karl Marx. Anh rời mẹ mình và đi đến Bắc Hàn để gia nhập vào nhóm những
người muốn làm cách mạng cho một nước Triều Tiên mới. Sau đó anh được huấn
luyện thành một gián điệp rồi được đưa về miền Nam. Một thời gian sau, anh bị
bắt và bị kết án tù chung thân.
Mẹ anh qua đời trong cô đơn vì quá trông ngóng tin con. Anh không có bà con
thân thích hoặc bất kỳ ai thăm viếng sau đó. Ngày hôm sau, tôi chuẩn bị bữa trưa
trong một cái giỏ và đi đến nhà tù. Tôi ngồi đợi ở phòng thăm thân nhân. Tim tôi
đập mạnh với nhiều ý nghĩ chạy dọc ngang trong đầu. Rốt cuộc, một thanh niên
cao gầy xuất hiện nơi cánh cửa trong góc phòng. Anh liếc nhìn tôi và ngồi xuống
ghế. Anh nói với giọng lạnh lùng, “Tại sao bà lại đến làm phiền tôi? Dù bà có tìm
mọi cách để làm tôi vui lòng, tôi cũng sẽ không thể thay đổi niềm tin của mình đối
với Cộng sản. Hãy nói với những người ở phe Chính quyền đã sai bà tới là hãy
buông tha cho tôi.”
Sự đáp trả của anh đối với bữa ăn trưa ấm áp của tôi đủ lạnh lùng để làm tê buốt
con tim của người nội trợ trẻ tuổi. Tôi lấy hết can đảm để nhìn vào anh. Mở giỏ đồ
ăn với đôi tay run rẩy, tôi nói, “Tôi không phải là người của Chính quyền. Tôi
không quan tâm đến lý tưởng của anh chút nào cả. Tôi chỉ là một người nội trợ
bình thường. Tôi chỉ muốn giúp những người tù không có ai thân thích hoặc không
ai thăm nuôi. Chỉ có thế thôi.”
Anh ta cười khẩy, “Tôi không phải là thằng ngu để bị kiểu nói dối này lừa phỉnh
đâu nhé.” Anh thậm chí cũng không ngó ngàng gì đến bữa ăn trưa mà tôi đem đến,
sau đó anh quay trở về xà-lim của mình. Tôi gởi lại đồ ăn cho mấy người coi ngục
và ra về trong nỗi thất vọng.
Sau nhiều lời cầu nguyện cùng nhiều lần viếng thăm, cuối cùng tôi cũng làm cho
anh ta tin rằng tôi không phải là người do Chính phủ phái đến. Thế rồi, anh bắt đầu
chịu trả lời những câu hỏi của tôi và trông chờ những lần viếng thăm của tôi.
Một ngày nọ, anh hỏi tôi một cách rất nghiêm túc. Anh gọi tôi là “Chị.”
“Thưa chị, chị có tất cả. Chị có một người chồng tốt, có con cái và sự giàu có.
Nhưng tại sao chị lại đến nhà tù để rồi phải hứng chịu những sự sỉ nhục và khinh bỉ
của các tù nhân như tôi? Xin hãy thật lòng nói cho tôi biết.”
Tôi không có câu trả lời. Tôi chỉ lắng nghe tiếng Ngài và vâng phục. Chỉ có thế.
Tôi nói với anh ấy, “Hoon à, tôi đến nhà tù để chia sẻ niềm hạnh phúc của tôi với
anh.”
“Dĩ nhiên rồi, thưa chị. Chị có tiền bạc, có danh vọng và mọi thứ để có thể chia sẻ
cho những người khác. Nhưng tại sao chị lại muốn chia sẻ với một tù nhân như tôi.
Chị đâu thể giúp mẹ tôi. Bà đã chết rồi. Chỉ vô ích thôi.”
“Tôi có thể chia sẻ đồ ăn và áo mặc cho anh nhưng Hoon à, điều tôi thật sự muốn
chia sẻ với anh là niềm hạnh phúc thật đáng giá gấp ngàn lần những nhu cầu vật
chất kia.”
“Một niềm hạnh phúc như thế không hiện hữu trên trái đất này.”
“Được rồi, chúng ta hãy xem thử niềm hạnh phúc như thế có tồn tại hay không.”
Chủ nghĩa Duy vật bén rễ sâu trong tư tưởng của anh Hoon khiến anh khó lòng
hiểu được sự tồn tại của một Thân vị vô hình. Sự việc trở nên khó khăn như thể lấy
trứng chọi đá. Thế giới của anh thấm đầy tư tưởng màu đỏ của Cộng sản và con
tim anh đã khép lại trong bóng đêm mịt mùng.
Thời gian và nhiều cuộc viếng thăm của tôi trôi qua. Cứ mỗi lần tôi đến, tôi lại nói
cho anh Hoon nghe về Chúa Giê-xu và anh lắng nghe một các miễn cưỡng. Rồi sau
đó anh lại quay trở về xà-lim của mình. Chẳng lẽ mọi chuyện chỉ tới đây thôi sao?
Cứ cách ngày tôi lại đến thăm anh Hoon. Nhưng những lần thăm nuôi của tôi thưa
thớt dần vì tôi còn bận bịu với nhiều việc khác. Sau hai tuần vắng mặt, tôi lại đến
thăm anh. Nhưng viên cai ngục bảo không ai được phép đến thăm anh Hoon. Mới
đây, anh đã bị trào máu miệng do bệnh lao. Anh được chuyển tới một xà-lim đặc
biệt để đề phòng bệnh lây sang các tù nhân khác. Vị Bác sĩ của nhà tù nói anh chỉ
còn sống được một hoặc hai ngày nữa. Tôi vô cùng sững sốt. Bác sĩ nói ông sẽ báo
cho tôi biết khi anh Hoon chết vì anh ta không có ai thân thích.
Tôi không thể quay đầu trở về nhà. Tôi khóc và nài nỉ viên cai ngục cho một cơ hội
được gặp mặt anh trước khi anh chết. Cuối cùng, ông đồng ý dù biết rằng làm như
thế là vi phạm nguyên tắc của nhà tù. Ông nói, “Vì nguy cơ bị lây nhiễm, tôi chỉ có
thể để cô gặp anh ta trong vòng hai phút và cô phải mang khẩu trang và găng tay
vào.”
Tôi đi theo viên cai ngục qua những dãy xà-lim dài và cuối cùng chúng tôi đến một
xà-lim tối tăm, nhỏ bé. Qua hàng song sắt và dưới ánh đèn điện lờ mờ, tôi nhìn
thấy có chiếc chiếu rơm trải trên sàn. Viên cai ngục vừa mở cửa vừa giục tôi mau
mau trở ra.
“Ôi Chúa ôi ! Xin hãy tha thứ cho tội của con. Tôi giở chiếc chiếu lên và thấy anh
Hoon nằm bất động trên sàn, còn khuôn mặt thì nhợt nhạt. Anh đang chết dần chết
mòn vì sự bỏ mặc của thế giới và con người. Bộ đồ tù màu xanh anh Hoon mặc ướt
đẫm máu của anh. Tôi tự trách mình vì đã không đến thăm anh sớm hơn. Tôi khóc.
Tôi bỏ găng tay và khẩu trang ra rồi quì xuống sàn nhà ôm lấy Hoon trong cánh tay
của mình.
“Hoon, Hoon ơi ! Hãy tỉnh lại và nhìn chị của em nè!” Tôi lay người anh Hoon và
khóc thét lên. Anh mở mắt cách yếu ớt và vô vọng. Anh nói, “Chị ơi, em muốn
trước khi chết được gặp chị dù chỉ một lần. Xin hãy tha thứ cho sự thô lỗ của
em…cám ơn chị về tất cả.”
Đó là lời xưng tội xuất phát từ tấm lòng của anh Hoon. Anh đang cầu xin được tha
thứ và cảm ơn tôi vì tình thương mà tôi đã dành cho anh trước khi anh chết.
“Hoon, nếu bây giờ em ra đi, em có chắc là mình sẽ đi tới nơi mà chị thường nói
cho em nghe không?” “Không, em không thấy gì cả. Em không tin được điều chị
nói. Em đã đến và giờ em sẽ ra đi trong sự hư không.” Tim tôi đau nhói và tan vỡ
ra. Tôi ôm cơ thể sắp chết của Hoon trong lòng mình và ngã vật ra sàn. Máu từ
miệng anh trào ra nhiều hơn và vấy lên chiếc áo sơ-mi xanh nhạt của tôi. “Ôi
Giê-xu, Chúa của con, con không thể để linh hồn của anh Hoon đáng thương ra đi
như vầy! Suốt cuộc đời, anh trải qua mọi đau khổ và thăng trầm của thế gian này.
Chịu đựng như thế là quá đủ rồi. Nếu anh Hoon phải chịu đựng hơn thế sau khi
chết thì con không thể để anh ấy ra đi được. Chúa ôi, xin hãy giúp anh ấy. Chúa
Giê-xu của con. Xin hãy cứu lấy mạng sống của Hoon. Thay vào đó, xin Ngài hãy
cất lấy mạng sống của con. Con sẽ nhận lấy căn bệnh này cùng những sự đau đớn
này. Hãy đổi sức khỏe và sự sống của con cho Hoon. Con không có gì hối tiếc vì
nếu con chết, con sẽ được ở với Ngài mãi mãi trong một thân thể vinh hiển. Xin
hãy cất con đi và cứu lấy Hoon.”
Tiếng khóc của tôi đã làm cho cái xà-lim nhỏ rung chuyển. Tôi không còn là tôi
nữa. Tôi tin cậy và nương dựa nơi Đấng có toàn quyền trên sự sống của Hoon và
tôi. Ngài đã giao cho tôi trọng trách dẫn đưa Hoon về với Ngài. Nhưng tôi đã
không làm được. Đó là lỗi của tôi. Tâm hồn của tôi vỡ ra. Hoon đã sống một cuộc
đời khó nhọc, phải chịu đựng đủ điều trong hai mươi lăm năm. Còn trẻ như thế vậy
mà Hoon đã sắp sửa đi vào bóng tối đời đời. Tôi không thể để anh ấy ra đi như thế
được.
Thế rồi khi tôi nhìn máu của Hoon trên nền nhà, trên bộ đồng phục của anh và
chiếc áo của tôi, tôi nhận ra đó chính là máu chảy ra từ vết đinh đóng trên cơ thể
của Chúa Giê-xu lúc tôi gặp Ngài năm tôi hai mươi ba tuổi. Đó là chính là máu của
Ngài khi chịu nhục hình trộn lộn với nhau trên nền nhà và trên quần áo.
Tôi lại khóc thét lên, “Chúa ơi, Chúa cũng đổ huyết ra vì cớ anh Hoon nữa. Ngài
không thể để anh ấy ra đi như thế này. Xin hãy cứu lấy anh ấy! Hãy cất lấy sự sống
của con thế cho anh ấy.”
Tôi không thể thở được vì tim tôi đau đớn tột bực. Tôi nhận thấy vết thương và sự
đau đớn của anh ta càng khủng khiếp và dữ dội hơn vì cớ tội lỗi của anh ta. Bàn
tay, khuôn mặt, áo váy tôi nhuốm đầy máu của anh Hoon. Tôi mang lấy gánh nặng
của anh Hoon và cầu xin lòng thương xót của Chúa.
Một lúc sau, từ trong bóng tối tôi dần dần hồi tỉnh và nhận thấy con tim của Hoon
đã có một chút sức sống. Anh mấp máy đôi môi xin nước uống. Tôi giựt dây cấp
cứu để gọi viên cai ngục. Ông ta và trưởng ngục chạy đến. Viên cai nói khi ông
nhìn thấy tôi bỏ khẩu trang cùng găng tay ra rồi ôm lấy người phạm nhân mà khóc
thì ông đã tường trình lại cho trưởng ngục và cả hai cùng chờ ở bên ngoài.
Ông đã vượt quá qui định của nhà tù về việc các phạm nhân chỉ được gặp thân
nhân của mình không quá mười phút khi ông nhìn thấy những gì diễn ra trong
xà-lim, một người nội trợ trẻ tuổi ôm choàng lấy một người tù đang hấp hối vì
bệnh lao. Viên trưởng ngục gọi Bác sĩ của nhà tù tới. Bác sĩ khám cho anh Hoon và
thấy mạch của anh bắt đầu xuất hiện trở lại. Sau đó, anh Hoon được chuyển tới
bệnh viện của nhà tù.
Tôi nhận ra quần áo của mình bê bết máu nên gọi điện bảo tài xế của chồng tôi
đem quần áo của tôi đến nhà tù. Khi anh ta đến và thấy tôi trong nhà tù với quần áo
đầy máu, anh ta hoảng hốt thật sự. Tôi nhìn thấy Hoon được đưa đến bệnh viện.
Tôi về đến nhà vào lúc hoàng hôn. Đó là một buổi hoàng hôn tuyệt đẹp.
Khuya đêm hôm đó, tôi đã quỳ gối xuống trước Ngài. Tôi không thốt ra được lời
nào nhưng những giọt nước mắt nóng hổi cứ chảy dài không dứt. Ngài đã không bẻ
gãy một cây lau đã bị dập nát, Ngài đã không dập tắt một niềm hy vọng còn le lói.
Tình yêu của Ngài đã đem một linh hồn từ cõi chết đến sự sống. Thần linh của
Ngài ngập tràn trong tôi. Tôi có thể cảm nhận sự đau đớn của Ngài khi một linh
hồn rơi vào bóng tối đời đời.
Sáng sớm hôm sau, tôi đến bệnh viện. Khi tôi mở cửa phòng, khuôn mặt xanh xao
của anh Hoon đang chờ đợi tôi. Đó không phải là thân thể và khuôn mặt mà tôi
thấy hôm qua. Đôi mắt của anh ta không còn vô hồn và tuyệt vọng nữa, nhưng
chúng chan chứa sự tha thứ và niềm hi vọng, sự bình an và tình yêu thương. Tôi
chưa bao giờ nhìn thấy một đôi mắt đẹp như thế.
Khi tôi đến bên giường, anh nhìn tôi và nói rằng, “Chị ơi, em đã thấy Chúa và đã
gặp được Ngài rồi. Đó chính là Đấng mà bấy lâu nay chị đã nói cho em nghe.”
Vậy là cuối cùng, anh Hoon cũng gặp được Đấng dù vô hình nhưng đã hiện diện ở
cái thế giới không ai thèm ngó ngàng tới này. Ngài đã đến để yêu thương anh và
cứu chuộc anh.
“Ngài đến với một người mù chỉ khăng khăng muốn nhìn những cái thấy được.
Nhưng Ngài đã chỉ cho em thấy có tồn tại một sự sống và niềm hy vọng thật. Chị
ơi, em đã chạm vào Ngài. Ngài đã cứu em thoát khỏi bệnh tật và bóng tối nơi sàn
xà-lim lạnh lẽo. Ngài đã ban cho em sự sống của Ngài.”
Đôi mắt của anh Hoon cũng long lanh nước mắt. Vâng, thật Ngài đã đến trong
xà-lim tối tăm ấy ngày hôm qua. Ngài đã ôm lấy một linh hồn bệnh tật và bị lãng
quên trong cánh tay của Ngài và đổ nước mắt ra vì một thanh niên đơn côi, không
nơi nương tựa. Đó là cách Ngài đã giải cứu một linh hồn vốn quý giá hơn cả thế
gian.
Sau khi hồi sức, anh Hoon trở lại xà lim trước đây của mình nhưng anh đã trở
thành một tạo vật mới. Khi anh nhận lấy quyển Kinh Thánh bìa da từ tay tôi, anh
đã tìm kiếm Chúa ngày và đêm để được hiểu biết thêm về Ngài. Anh trở thành một
tia sáng nơi nhà giam và chia sẻ câu chuyện của mình cho những người bạn tù
đang sống trong sự tối tăm. Anh đem cho họ tình yêu thương và niềm hy vọng mà
anh đã nhận lãnh từ nơi Chúa. Anh đem sự an ủi đến cho những người bạn tù của
mình; đó là những tên ăn cướp, những kẻ sát nhân, những tên trộm cắp và anh yêu
thương họ. Anh dành phần mình có cho người khác, anh ngủ bên cạnh nhà vệ sinh
và anh rửa chân cho họ.
Cuối cùng, người ta nhận thấy anh có hạnh kiểm tốt trong nhà tù nên anh được
giảm án thành án tù treo giới hạn. Cuối cùng anh được trả tự do vào ngày Lễ Độc
Lập. Lúc còn trong tù, anh đã đưa vô số tù nhân đến với Chúa. Trong số đó có một
phạm nhân được Chúa biến đổi sau khi phải vào tù vì tội làm tiền giả. Sau khi gặp
Chúa, anh nầy đã ăn năn hết những lỗi lầm của mình, và anh đã vẽ bức tranh Chúa
Giê-xu đang cầu nguyện nơi vườn Ghết-sê-ma-nê. Tôi đã tặng bức tranh ấy cho
một nhà tù khác ở Masan, Đại Hàn. Đây chính là động lực giúp tôi tích cực tiên
phong trong việc dấn thân vào chức vụ tại các nhà tù ở Đại Hàn.
Sau khi được Chúa biến cải, tại trong tù anh Hoon đã theo học một khóa Kinh
Thánh Hàm Thụ với một Đại Chủng Viện. Anh dạy đạo cho những người bạn tù
của mình, gần ba trăm người một năm. Sau khi họ hoàn tất những khóa học cần
thiết, tôi đã đến dự buổi lễ tốt nghiệp ấy và trao cho mỗi người một Chứng chỉ và
một quyển Kinh Thánh. Anh Hoon đã trở thành một người tự do và đã chia sẻ tình
yêu của Chúa cho nhiều người bên ngoài nhà tù. Hiện nay, anh là Mục sư tại một
Hội Thánh lớn ở Seoul, Đại Hàn.
Tôi thật sự cảm tạ Chúa vì Ngài đã cho phép những việc này xảy ra qua sự đụng
chạm vô hình của Ngài. Sau sự việc này, nhà tôi có nhiều khách lui tới hơn. Họ
không chỉ là những Mục sư hay Sinh viên Thần học mà còn có thành phần mới. Họ
là những người bạn của Chúa, Đấng đã hỏi tôi, “Nếu Ta ở trong tù thì con có đến
thăm Ta không?” Tất cả những người ấy đều có cùng một tên, đó là “Ân điển.”
Như Ngài đã phán, “Nơi nào tội lỗi thêm nhiều thì ân điển càng gia tăng.”
Họ là những người hạnh phúc và họ yêu mến Chúa hơn bất cứ ai.
Đôi lúc chồng tôi nói đùa rằng, “Em hãy ra ứng cử Quốc Hội đi, chắc chắn em sẽ
được trúng cử đấy.”
Tôi thật là một người phụ nữ hạnh phúc với nhiều người bạn, vốn trước tiên là
những bạn thân thiết nhất của Chúa Giê-xu.
Các Bạn Thật Đẹp Đẽ Biết Bao
“Chấp sự Yoo, xin hãy dùng quả trứng gà luộc này.” Bàn tay đang cầm quả trứng
chỉ còn lại ba ngón, hai ngón đã bị cắt bỏ và từ các kẻ ngón tay, mũ đang chảy ra.
“Ôi Chúa ôi, xin hãy giúp con ăn quả trứng này!”
Nhà Thờ Đời Sống Mới Của Người Cùi ở Milyang, Đại Hàn đang được một người
bạn Mục sư của tôi trông nom. Một ngày nọ, ông lên Seoul và được mời giảng tại
Hội Thánh của tôi. Ông đang sống chung và chăm sóc những con người bị xã hội
ruồng bỏ. Khi tôi đang lắng nghe bài giảng của ông thì một lần nữa Ngài đã đến
với tôi.
“Ta há chẳng đến với những kẻ bệnh tật, những kẻ nghèo hèn và đau khổ hay
sao?”
Ngài rờ đụng tôi và cảm động tôi cách sâu xa. Tôi có thể cảm nhận Ngài đang dẫn
tôi đến nơi ấy. Một vài nữ Chấp sự trong nhà thờ được bài giảng cảm động cũng đã
quyết định đến thăm và giúp đỡ những người ở đó.
Ngày đầu tiên chúng tôi đến thăm là một kỷ niệm không thể quên được. Mọi người
chúng tôi đều sợ hãi. Chúng tôi hết sức cẩn thận để đảm bảo không làm tổn thương
những con người vốn đã có một vết sẹo hằn sâu trong cả cơ thể lẫn tình cảm này.
Họ tiếp đón chúng tôi rất nồng hậu. Dù thân thể của họ bị biến dạng nhưng họ rất
yêu thương nhau. Không giống như chúng tôi, những người có diện mạo đẹp đẽ
nhưng trái tim thì không hề có chút tình thương dành cho nhau.
Ngài đã phán,“Ta ban cho các ngươi một điều răn mới, nghĩa là các ngươi phải yêu
nhau, như Ta đã yêu các ngươi thể nào, thì các ngươi cũng phải yêu nhau thể ấy.”
Họ là những người bị xã hội lãng quên lâu rồi. Nhưng họ đang giữ gìn lời quý báu
của Chúa. Tôi nhận ra rằng Ngài sai tôi đến không phải để giúp đỡ họ mà để biết
được ý nghĩa thật của tình yêu thương. Tôi có thể thấy rằng họ đang đi trong ánh
sáng của Chúa trước chúng tôi rất xa. Vào chính lúc ấy, tôi đã nhận biết lý do tại
sao tôi lại có mặt ở nơi này. Chúng tôi đến không phải để phục vụ nhưng chính
chúng tôi được phục vụ bằng những điều đến từ nơi Thiên thượng. Họ không còn
là những con người với hình hài xấu xí mà là những người bạn và những người
thầy của tôi.
Công việc của chúng tôi là chăm nom những khó khăn về mặt thể xác của họ.
Những người này đã hoàn toàn mất cảm giác của cơ thể. Họ mặc đồ ấm trong mùa
hè và vì không khí không lưu thông bên trong được nên da họ bị nhiễm trùng và
bốc mùi hôi thối. Vào mùa đông, họ lại mặc quần áo mùa hè khiến cho mình mẩy
đầy những ghẻ lở do cái lạnh gây ra.
Sau khi trở về từ cuộc viếng thăm ấy, chúng tôi quyết định rằng quần áo của họ
phải được thay đổi. Chúng tôi chuẩn bị những bộ quần áo mùa hè bằng sợi nylon
và quần áo mùa đông bằng len và vải dầy. Họ mừng rỡ lắm khi tiếp nhận những bộ
đồ này. Họ bỏ những bộ quần áo cũ hôi thối đi và mặc quần áo mới vào. Trông họ
thật thỏa mãn.
Một thời gian trôi qua, vào một ngày cuối xuân họ xin tôi lên giảng một bài. Ai nấy
đều tề tựu trong nhà thờ. Chúng tôi hát tôn vinh và chúc tụng Chúa. Họ không thể
theo kịp chúng tôi lúc chúng tôi vỗ tay vì nhiều người trong số họ không còn ngón
tay nào. Nhưng thay vào đó, họ đã tôn vinh Chúa bằng cách lắc lư thân thể mình.
Những bài ca từ môi miệng họ chính là những bản Thánh ca của lòng biết ơn và
niềm hân hoan thật sự. Sự thờ phượng này chắc chắn bay đến Thiên đàng. Sau đó
họ khởi sự cầu nguyện.
“Đức Chúa Trời ôi, chúng con cảm tạ Ngài. Chúng con là những kẻ bị ruồng bỏ, bị
lãng quên trong xã hội. Thân thể chúng con như nấm độc, không ai muốn đến gần.
Nhưng từ khi chúng con gặp Chúa thì, Chúa ôi, chúng con thật hạnh phúc và biết
ơn Chúa biết bao.
Ngài đã khiến chúng con trở nên con trai, con gái của Chúa Giê-xu. Đó quả là một
đặc ân tuyệt diệu, Chúa ôi! Chúng con hy vọng vào một ngày mà thân thể lở lói,
hôi thối của chúng con được biến hóa trở nên một thân thể vinh hiển. Lúc đó,
chúng con có thể chạy nhảy và thờ phượng Chúa với đôi bàn tay có đủ mười ngón
lành lặn. Chúa ôi! Thật đó là sự trông cậy của chúng con ngày hôm nay. Chúng
con cảm tạ Chúa Cứu Thế Giê-xu.”
Họ cầu nguyện và dâng lên Chúa lời cảm tạ trong nước mắt. Chưa bao giờ tôi
chứng kiến một tình yêu chân thật và một lòng tin cậy trọn vẹn nơi Chúa đến thế.
Một vài người chỉ còn lại nửa khuôn mặt, một số không có mũi, chỉ có hai lỗ nhỏ
để thở; có người chỉ còn một con mắt nhưng mở ra một cách khó khăn. Thế mà họ
vẫn ca ngợi và thờ phượng Chúa với cả thân thể của mình.
Đây là tình yêu không thể đo lường. Nó không giống như tình yêu vị kỷ của tôi.
Đó chính là tình yêu đến từ thiên thượng. Bằng tình yêu đối với Chúa, họ đã dâng
trọn bản thân của mình lên cho Ngài vì họ đã nhận được từ nơi Ngài một tình yêu
vô điều kiện. Tôi tin chắc rằng Ngài đã hiện diện ở đó giữa vòng những con người
này và Ngài tiếp nhận sự vinh hiển của họ trong niềm vui sướng.
Ngài không muốn ngự giữa những người mặc những bộ quần áo sang trọng, ngồi
trong ngôi nhà thờ rộng lớn nào đó nhưng chỉ biết tìm kiếm sự vinh hiển cho chính
mình. Còn đây là buổi nhóm của những con người bị ruồng bỏ vì khuôn mặt và
thân thể dị dạng của họ; họ bị xã hội và thậm chí chính gia đình của mình lãng
quên. Nhưng Ngài đã ở đây với họ và Ngài đang đón nhận những bài ca cảm tạ và
chúc tụng của họ. Bài giảng mà tôi đã giảng cho họ không là gì cả. Chính những
con người ấy đang yên lặng dạy dỗ tôi. Mùi hôi thối xông ra từ cơ thể lở loét của
họ giờ đây trở nên mùi thơm không thể diễn tả được. Tất cả chúng tôi đều cảm
nhận được sự bình an từ nơi thiên thượng và niềm hạnh phúc đang ngập tràn trong
ngôi nhà thờ bé nhỏ và xập xệ ấy.
Trong ngày hôm đó, mắt tôi đã trông thấy rõ ràng, những con người đang ngồi trên
sàn trước mặt tôi là những người mà Ngài yêu thương nhất. Nhiều người trên thế
giới nắm trong tay danh vọng, quyền thế và sự giàu có nhưng chính những điều
này đã khiến họ không gặp được Chúa và rờ đụng Ngài.
“Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy!"
Quả thật, tôi đã thấy Nước Trời trong họ. Những bài thánh ca chúng tôi hát trong
ngôi nhà thờ bé nhỏ ấy đã thấu đến ngôi thi ân của Chúa. Ngài đổ đầy tâm hồn họ
bằng sự an ủi và sự bình an của Ngài. Đó không phải là niềm hạnh phúc mà thế
gian đang tìm kiếm. Sự bình an thiên thượng đang tuôn chảy trong những con
người ấy.
Một ngày kia, khi tôi đến thăm họ thì có một bà cụ mỉm cười bẽn lẽn trao tặng cho
tôi một chiếc hộp nhỏ mà bà cầm bằng bàn tay chỉ có hai ngón của mình. Tôi cảm
ơn cụ và đưa hai tay đón nhận chiếc hộp đó. Tôi mở chiếc hộp ra và thấy bên trong
là một chiếc nhẫn nhỏ rất đẹp làm bằng pla-tin. Đó là một kỷ vật mà họ đã dùng để
bày tỏ lòng biết ơn đối với một người đã thật sự đến nói chuyện với họ, cười với
họ, khóc với họ và an ủi họ.
Đó là món quà vô cùng quý giá. Với tôi, nó quý giá hơn bất cứ trang sức bằng bạc
hay vàng nào trên thế giới. Họ chỉ có thể có chiếc nhẫn này từ việc đi ăn xin từ nhà
này sang nhà khác. Họ bị làm nhục, bị mắng nhiếc và bị nhổ vào mặt, nhưng họ đã
dành dụm những đồng tiền ấy trong nhiều tháng để có thể mua được chiếc nhẫn
này. Bằng số tiền dành dụm được, họ đã mua chiếc nhẫn đượm đầy tình yêu
thương này cho tôi. Họ đeo chiếc nhẫn vào tay tôi và xin tôi cầu thay cho họ mỗi
khi tôi nhìn thấy chiếc nhẫn trên ngón tay mình.
Tôi không xứng đáng với điều này. Tôi đã nhận được tình yêu dư dật từ nơi họ. Tôi
chẳng làm được gì nhiều cho họ. Tôi thật sự không xứng đáng nhận chiếc nhẫn này
nhưng họ cứ nài nỉ tôi mang nó vào. Tôi mới chính là người phung cùi thật sự. Tôi
muốn dâng chiếc nhẫn cho Đấng đã giúp tôi nhận ra rằng tôi quả thật là một người
phung. Tôi thấy Ngài dang tay về phía tôi, ở giữa bàn tay có một cái lỗ đinh nơi
máu vẫn còn chảy ra. Xương Ngài nát tan vì bị đinh đóng. Đó không phải là một
bàn tay đẹp đẽ, mềm mại và thơm tho mà là một bàn tay dị dạng, thô ráp nhuốm
đầy máu. Đó cũng chính là bàn tay tương tự như của những người phung ở đây mà
tôi đã thấy được như là dấu chỉ của những vết sẹo và những sự khổ đau. Tôi đã
khóc rất lâu. Tôi sẽ ra sao nếu không có Ngài? Chính Ngài đã đưa tôi đến đây.
Chính Ngài đã giúp tôi có thể yêu thương họ. Chính Ngài đã khiến tôi có thể cùng
ăn uống, cùng khóc, cùng cười với họ. Tôi dâng chiếc nhẫn cho Ngài trong lòng
tôi.
Cứ mỗi lần tôi đi thăm làng của những người phung về, chồng tôi buộc tôi phải cởi
giầy và quần áo trước khi vào nhà. Ông quát tháo bảo tôi phải tắm rửa bằng xà
bông trước rồi mới được vô nhà. Làm sao chồng tôi có thể hiểu được kho tàng quý
báu được chôn giấu ấy?
Ngài đã chẳng nói với tôi rằng những người phung ấy là những người sạch sẽ thật
sự trước mặt Ngài và rằng Ngài rất yêu thương họ sao? Một lần nữa, tôi dâng lời
cảm tạ ơn Chúa đã cho tôi cơ hội được biết họ và phục vụ họ. Trên hết tất cả, tôi
cảm tạ Ngài đã mở mắt cho tôi nhìn những thuộc viên tại Hội Thánh Sự Sống Mới
như những đứa con của Sự sáng.
Họ phục vụ lẫn nhau. Người có mắt trở thành mắt của người đui. Người có ngón
tay giúp đỡ người không tay. Người có chân trở thành chân cho những người
không thể đi được. Họ giúp đỡ lẫn nhau khi cần mà không có chút vị kỷ nào trong
tâm trí.
Thật là một bức tranh tuyệt đẹp của một Thân Thể Trong Đấng Christ! Họ đang
sống cuộc sống thiên đàng ngay trên đất. Họ không có chút kiêu căng, ganh tỵ và
ích kỷ trong lòng. Họ an ủi nhau, chăm sóc cho nhau và bày tỏ lòng thương xót đối
với nhau trong sự khiêm nhường và hạ mình.
Chúa đang nhỏ nhẹ phán với họ:
“Các con trông như thấp hèn nhất nhưng lại cao trọng nhất.
Các con trông như nghèo nàn nhất nhưng lại giàu có nhất.
Các con trông như phải chịu đựng nhiều nhất nhưng lại được an ủi nhiều nhất.
Các con trông như buồn bã nhất nhưng lòng lại tràn ngập niềm vui.
Các con trông như những kẻ thất vọng nhất nhưng lại là những người hạnh phúc
nhất.
Bởi vì Ta là Chúa, là Cha của các con và các con là những người mà Ta yêu quý
nhất.”
Họ thật sự là những người hạnh phúc nhất trên thế gian. Họ được Ngài cất nhắc lên
cao và ban cho đức tin, sự trông cậy và tình yêu cùng với tất cả những ơn phước
thiên thượng mà không điều gì trên trần gian này có thể mua được.
Người Cha Yêu Dấu Của Tôi
Tôi đi đến phòng hồi sức của bệnh viện, nơi cha tôi được đưa đến sau khi trải qua
cuộc giải phẫu kéo dài nhiều giờ liền. Thuốc mê khiến ông chưa thể hồi tỉnh lại,
còn đôi mắt ông thì bị băng kín. Cho đến thời điểm cách đây bốn mươi năm thì
việc giải phẫu cho những bệnh nhân bị đục thủy tinh thể vẫn còn là một trong
những ca giải phẫu phức tạp nhất. Bệnh nhân trải qua những cuộc phẫu thuật loại
này thường bị mù vĩnh viễn hoặc thậm chí có thể tử vong.
Người cha già của tôi có mắt bị đục thủy tinh thể lâu năm và việc này khiến cho thị
lực của ông mất hẳn. Ban đầu, các Bác sĩ do dự trong việc thực hiện cuộc phẫu
thuật, nhưng sau đó họ đã quyết định tiến hành ca mổ. Tim tôi thắt lại khi tôi bước
vào phòng nơi cha tôi nằm. Hằng ngày, tôi bận rộn đưa nhiều người lạc mất về với
Ngài nhưng tôi bất lực không thể đưa chính người cha của mình đến với Ngài.
Chuyện gì xảy ra nếu cha tôi qua đời trên giường bệnh? Ôngsẽ phải hư mất trong
bóng tối đời đời. Cha tôi rất thương yêu tôi vì tôi là con gái duy nhất của ông. Mọi
thứ tốt nhất có được, ông đều dành cho tôi. Tôi đã cố gắng nói nhiều lần nhưng ông
vẫn từ chối tiếp nhận Chúa. Tôi không thể để ông ra đi như thế được.
Tôi nắm chặt lấy tay cha tôi và cầu nguyện rất lâu cho sự cứu rỗi của linh hồn ông.
Ý nghĩ sẽ mất cha tôi vĩnh viễn khiến tôi bật khóc trong niềm đau đớn khôn nguôi.
Tôi nhìn cha tôi nằm trên giường và cảm thấy mình hoàn toàn bất lực.
“Cha ơi, xin mở mắt ra và nghe con nói đây! Đây là ước nguyện duy nhất của đứa
con gái của cha. Xin cha hãy mở lòng ra và tiếp nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu làm
Chúa của cuộc đời mình."
“Lạy Chúa Giê-xu, xin hãy giúp cha con; xin hãy kéo dài sự sống của ông, con
không thể để cha con ra đi khi chưa gặp được Ngài. Xin hãy mở đôi mắt mù lòa
của ông, xin hãy mở đôi mắt thuộc linh của ông để ông có thể thấy những điều
không thể nhìn thấy được, là thế giới tâm linh của thiên đàng." Tôi nắm tay cha tôi
và cầu nguyện trong nước mắt bên giường ông rất lâu.
“Con yêu của cha, cha hiểu rồi. Đừng khóc nữa. Khi mắt cha mở ra, cha sẽ gặp
được Đấng mà nhiều lần con đã thuyết phục cha đặt niềm tin vào. Rồi cha cũng sẽ
đi nhà thờ nữa. Hãy nín đi con.”
Sau khi từ bệnh viện trở về, cha tôi bắt đầu chống gậy đi nhà thờ như ông đã hứa.
Lúc ấy, ông được bảy mươi ba tuổi. Ông sống thêm được bảy năm nữa. Ông nói
với tôi trước lúc qua đời rằng, “Ang Son yêu dấu của cha, cha không biết tại sao
cha không gặp Ngài sớm hơn. Ngài quả là một Đấng kỳ diệu. Cha là một người có
tội, nhưng Ngài đã cất hết tội lỗi của cha đi. Giờ đây, Ngài sắp đem cha về với
Ngài. Cha biết ơn Ngài lắm!”
Bây giờ cha tôi đã về với Chúa. Lòng tôi ngập tràn sự bình an và lòng biết ơn đối
với Ngài.
“Giờ cha sẽ đi trước con. Hãy làm nhiều việc lành cho Ngài, bao gồm luôn cả phần
của cha mà cha không làm được. Cha sẽ lại đoàn tụ với con trong niềm hạnh phúc.
Con gái yêu dấu, cha cảm ơn con nhiều lắm.”
Cha tôi mỉm cười khi ông về với Chúa vì biết rằng một ngày nào đó ông sẽ gặp lại
tôi. Cha tôi nắm lấy tay Chúa khi ông ra đi về thiên đàng, là nơi không có than
khóc, kêu ca hay là đau đớn nữa mà chỉ có sự bình an và niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Bảy năm cuối đời của cha tôi là những chuỗi ngày tuyệt vời. Bảy năm trước đó
đang khi nằm trên giường bệnh, ông kể với tôi rằng ông đã tỉnh giấc với cảm giác
có một cái gì đó âm ấm đang nhỏ lên tay ông. Ông cố mở mắt ra nhưng không thể.
Nhưng ông biết có một người nào đó đang ở bên cạnh ông. Khi ông cố lắng tai
nghe thì ông nhận ra đó là con gái yêu dấu của ông. Đó là tình yêu thật sự mà một
người con gái dành cho cha của mình. Trong dòng nước mắt, ông đã quyết định
tiếp nhận Ngài. Đêm hôm đó, người rơi nước mắt không phải là tôi mà chính là
Ngài.
“Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu
cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.”
Những giọt nước mắt yêu thương của Ngài đã trở thành những giọt máu làm tan vỡ
tấm lòng cứng cỏi của cha tôi.
Vượt Qua Khó Khăn
"Thưa bà, nếu bà không trả đủ 400,000 won (đơn vị tiền Đại Hàn) cho tiền nhân
công và tiền vật liệu thì tôi buộc lòng phải đến làm phiền bà vào buổi nhóm sáng
mai.” Đó là lời Giám sát trưởng công trình nói với tôi. Tôi phải làm gì đây? Chồng
tôi chấp thuận lời thỉnh nguyện của tôi là xây một ngôi nhà thờ và công ty gỗ đã
hứa sẽ cung cấp gỗ cho chúng tôi. Họ nói sẽ bán loại gỗ cùng loại gạch nung tốt
nhất cho việc xây dựng nhà thờ.
Tôi mừng rỡ vô cùng và gọi điện cho Mục sư Quản Nhiệm để thông báo tin đó.
Ông nói phải tìm một người để trông coi vật liệu, nhân công và tiến trình xây dựng.
Tôi không cảm thấy thoải mái với ý tưởng ấy, nhưng tôi không thể tranh cãi với
ông khi ngôi nhà thờ đang được xây cất. Tôi thuyết phục chồng tôi chấp thuận dù
ông không hiểu về quá trình này. Tôi đưa toàn bộ số tiền xây nhà thờ cho vị Mục
sư Quản Nhiệm. Công ty xây dựng mà ông thuê thuộc quyền sở hữu của anh vợ
ông. Công trình được khởi công và trong hai tuần đầu tiên, mọi chuyện diễn tiến
tốt đẹp.
Tuy nhiên, sau đó thì chất lượng gạch và gỗ không còn tốt như lúc ban đầu nữa.
Tiền công trả cho thợ cũng không được phân phát đúng hạn. Chẳng bao lâu sau,
công trình buộc phải dừng lại. Tôi đến nhà anh vợ của Mục sư để theo dõi tình
hình. Ông là người đã lãnh toàn bộ số tiền cho công trình nhưng đã giảm chất
lượng vật liệu xây dựng và thậm chí còn bớt xén tiền công của thợ. Ông ta đã chạy
trốn cùng với số tiền còn lại.
Một vấn đề nan giải khác ập đến đó là chồng tôi bảo tôi cất bảy triệu rưỡi won vào
két sắt để lo cho kế hoạch chuyển nhà của chúng tôi. Đây là số tiền chúng tôi có
được khi bán ngôi nhà cũ. Một ngày nọ, chấp sự Cho đến hỏi mượn một số tiền
trong vòng một tháng. Vì có vị Mục sư mà tôi tin cậy đứng ra đảm bảo nên tôi đã
cho ông cho mượn số tiền đó.
Hai tháng trôi qua nhưng không hề có tin tức gì về chấp sự Cho, tôi đâm ra lo lắng.
Tôi hỏi ông Mục sư thì biết rằng ông Cho đã lừa những người trong nhà thờ. Ông
ta đã bán ngôi nhà của mình và biến mất dạng. Tôi phải làm gì đây? Số tiền cho
việc xây dựng đã bị mất và công trình đang bị đình trệ.
Trên hết mọi sự là số tiền mà chồng tôi nhờ tôi cất giữ đã không còn nữa. Tim tôi
đập mạnh trong nỗi sợ hãi mỗi khi tôi nghe thấy chồng tôi về tới nhà. Cuối cùng,
tôi quyết định tự tử để làm tròn bổn phận đạo lý đối với chồng tôi. Tôi không còn
sự chọn lựa nào khác. Tôi viện lý do để tránh mặt chồng tôi trong bữa ăn sáng.
Chồng tôi nghĩ là tôi bị bệnh nên bảo tôi đi khám Bác sĩ. Rồi tôi nhận ra rằng tôi
không thể tiếp tục nói dối ông được nữa. Dường như ông hiểu điều gì đang xảy đến
cho tôi. Tôi kể lại toàn bộ sự việc cho chồng tôi nghe và ông chỉ im lặng.
Sau đó, chồng tôi đã nói với tôi, “Nếu em chết đi, anh có thể tìm một người phụ nữ
khác để làm vợ, nhưng không ai có thể thay thế vị trí người mẹ của năm đứa con
của em. Anh sẽ nghĩ rằng anh đã trả số tiền bảy triệu rưỡi won để có được em. Vì
vậy, đừng nghĩ đến cái chết nữa mà hãy ăn uống đi.” Tôi thật lòng muốn mình
được chết đi. Nhưng tôi chỉ có thể nói được với chồng tôi là tôi rất hối hận về việc
đó. Tôi không biết một chút gì về thế giới bên ngoài. Tôi chỉ là một người nội trợ
bình thường. Khi người ta thấy tôi có một số tiền lớn thì họ liền đến lừa gạt tôi để
lấy số tiền đó.
Chồng tôi là một người vô cùng rộng lượng, nhưng bản chất của tôi là quá tin
người. Vì lẽ đó, tôi đã cho người khác mượn tiền mà không cân nhắc kỹ. Hậu quả
là tôi phải trả lại tiền cho người ta không biết bao nhiêu lần.
Sau này, tôi đọc phần Kinh Thánh nói rằng chớ làm người dễ dàng mắc nợ và tôi
nghĩ rằng tôi đáng phải gánh lấy sự đau đớn và mất mát này vì đã không vâng theo
lời Kinh Thánh.
Khi những việc này xảy ra và khi tôi quyết định tự tử, Ngài bảo tôi hãy làm một
sinh tế sống. Phải mất một thời gian dài tôi mới hiểu được ý nghĩa của việc sống
như một người tuận đạo và việc ấy đem đến cho tôi càng nhiều đau đớn hơn nữa.
Dầu sao đi nữa, bằng sự độ lượng của mình, chồng tôi đã tha thứ cho lỗi lầm của
tôi.
Về phần nhà thờ, tôi phải mượn tiền của cha tôi để công trình được tiếp tục. Trong
nhiều tháng liền, mỗi ngày tôi đội trên đầu bữa trưa và đem đến công trường cho
công nhân ăn. Việc này thật cực nhọc nhưng tôi rất vui khi thấy việc xây dựng nhà
thờ được tiến triển tốt đẹp.
Cuối cùng, ngôi nhà thờ cũng đã hoàn tất trong mồ hôi và nước mắt. Chúng tôi
đang chuẩn bị cho buổi lễ cung hiến đền thờ vào sáng ngày hôm sau thì những
người này đến dọa sẽ phá hỏng buổi thờ phượng nếu tôi không trả cho họ 400,000
won. Tôi ngồi xuống cạnh gốc cây gần ngôi nhà thờ và khóc.
Tôi không còn cách nào khác ngoài việc đi vay tiền. Rồi tài xế của chồng tôi về
nhà và đưa cho tôi một phong bì màu vàng. Anh nói chồng tôi bảo tôi cất 500,000
won để sau này có việc dùng tới. Tai tôi mở ra khi nghe đến chữ tiền. Tôi cầm lấy
phong bì và trích ngay 400,000 won là số tiền mà tôi còn nợ lại sau việc xây dựng.
Tôi chạy ngay đến công trường và trao cho họ số tiền. Tôi cảm tưởng như mình có
thể bay bổng lên. Vậy là ngày mai chúng tôi có thể dâng ngôi nhà thờ gạch đỏ này
lên cho Chúa. Thật là một điều vinh hiển danh Ngài biết bao.
Mọi khó khăn của tôi dường như tiêu biến. Nhưng không được bao lâu thì tôi nhận
ra tôi phải trả lại cho chồng tôi số tiền tôi đã rút ra. Làm sao tôi có thể nhìn mặt
chồng tôi đây? Chỉ mới vài ngày trước chồng tôi đã tha thứ cho tôi về những món
nợ mà tôi mang lại cho ông. Không còn con đường nào khác hơn là tìm đến cái
chết. Tôi không thể ăn uống gì cả. Tôi chỉ khóc và khóc mà thôi. Và tôi nghe một
giọng nói đàn ông trước cửa nhà.
“Có phải đây là nhà của bà Yoo không?”
Tôi nghĩ họ đến nhầm địa chỉ. Tôi phải lau nước mắt mình trước khi có thể trả lời
họ.
Giỏ Đầy Thứ Năm: AN ỦI KẺ HÈN MỌN
Đừng Cho Tay Tả Biết Tay Hữu Đang Làm Gì
An Ủi Kẻ Hèn Mọn
Người Láng Giềng Của Con Lâm Vào Tay Kẻ Cướp
Đừng Cho Tay Tả Biết Tay Hữu Đang Làm Gì
Ai đó lại cất tiếng gọi trước nhà. Đó là giọng một người đàn ông. Một người đàn
ông lạ mặt chào tôi và cất tiếng hỏi.
“Đây có phải là nhà của Viện Trưởng Trường Đại học Kunkook không?”
“Vâng, đúng rồi.”
“Vậy xin hỏi bà Kim có ở đây không?”
“Không, không có ai tên Kim ở đây cả.”
“Vậy xin được phép hỏi bà là ai?”
“Tôi là vợ của Ông Viện Trưởng, nhưng tôi không phải là bà Kim mà là chấp sự
Yoo.”
Thình lình, một vài người trong số họ bắt đầu chụp hình tôi, ánh đèn nhấp nháy
liên hồi. Một người rút ra một chiếc máy ghi âm nhỏ và bắt đầu đặt câu hỏi. Tôi
chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra. Tôi mời họ vào phòng khách. Một người mở
miệng nói.
“Thành thật xin lỗi bà vì sự đường đột của chúng tôi. Tôi là phóng viên của Nhật
Báo Sin-a. Bà là người được bình chọn cho danh hiệu “Người Mẹ Đảm Đang Nhất
Trong Năm” Lần Thứ Mười Một. Tất cả chúng tôi đến đây để phỏng vấn bà.
Chúng tôi có gọi điện cho bà nhưng không ai nhấc máy nên chúng tôi đến để chụp
hình và xin được phỏng vấn bà."
Tôi có làm gì đâu mà được nhận phần thưởng vinh dự này? Tôi nói chắc có sự
nhầm lẫn nào đó, tôi không phải là người họ muốn phỏng vấn. Một người nói,
"Danh hiệu Người Mẹ Đảm Đang được trao hằng năm bởi Bộ Trưởng Bộ Phúc Lợi
Xã Hội của Chính phủ Đại Hàn. Mỗi năm, các tổ chức công cộng và xã hội chọn ra
những ứng cử viên xuất sắc nhất đề nghị lên Bộ Phúc Lợi Xã Hội.
Sau khi đánh giá và xem xét kỹ lưỡng, Bộ Trưởng sẽ chọn ra người xứng đáng
nhất để trao danh hiệu. Có nhiều người được đề nghị cho giải thưởng năm nay,
nhưng bà là người nổi bật nhất trong số họ. Và họ đã nhất trí trao giải thưởng năm
nay cho bà.
Đặc biệt là họ nhận được lá thư từ Hoon Kim, là một gián điệp Bắc Hàn và là một
tù nhân bị kết án tử hình. Rồi cũng có nhiều lá thư được gửi đến từ nhà tù West
Gate, nhà tù Masan, trại cùi và từ những binh sĩ thuộc những Sư đoàn ở tuyến đầu
của khu phi quân sự (DMZ)."
Họ nói, “Một người nội trợ mà âm thầm làm được những công việc như thế sẽ là
một tấm gương sáng cho những người nội trợ khác ở Đại Hàn noi theo. Mọi người
đều tin rằng bà là người hoàn toàn xứng đáng cho giải thưởng năm nay.”
Vào giờ phút ấy, tôi cảm thấy là những việc mà tôi âm thầm thực hiện bấy lâu nay
đã bị khám phá ra hết. Tôi khoát tay tỏ ý từ chối và bảo họ, “Kinh Thánh dạy tôi là
đừng để tay tả biết tay hữu đang làm gì. Ai đã nói cho các ông biết những việc
ấy?”
Họ không trả lời câu hỏi của tôi mà càng đặt nhiều câu hỏi cho tôi hơn nữa. Nhưng
tôi chẳng thấy yên tâm chút nào cả vì tôi cứ mãi bồn chồn, lo lắng về việc hoàn trả
cho chồng tôi số tiền tôi đã mượn. Bên cạnh đó, tâm trí tôi hoàn toàn bị chiếm ngự
bởi buổi lễ cung hiến đền thờ và buổi nhóm đầy phước hạnh vào ngày hôm sau.
Sáng hôm sau, chồng tôi đến văn phòng và gọi điện về nhà cho tôi.
“Em đã làm những việc được đăng trên báo khi nào và bằng cách nào vậy? Thế mà
anh nghĩ em chỉ biết mỗi việc nhà cửa, nhà thờ và chợ búa thôi chứ! Dầu sao đi
nữa, mọi người ở đây đều chúc mừng cho cả anh và em. Tối nay anh sẽ về trễ vì
anh sẽ đãi họ bữa tối.” Trong giọng nói của chồng tôi là sự ngạc nhiên và niềm vui
sướng đan lẫn vào nhau.
Chồng tôi kể lại sáng hôm ấy khi ông vừa bước vào văn phòng thì mọi người ở đấy
ùa đến chúc mừng ông. Ông hỏi lý do và họ đưa tờ báo cho ông xem. Nó được
đăng trên tờ báo phát hành toàn quốc và đề mục được in ở phần tin tức xã hội. Đề
tài bài báo, “Chớ để tay tả biết tay hữu đang làm gì" kèm theo tấm hình của tôi
đang khoát tay từ chối.
Ban đầu, chồng tôi bảo họ chắc có sự nhầm lẫn nào đó. Có thể là một người nào đó
trùng tên. Nhưng khi đọc bài báo và xem bức hình, ông đã bị thuyết phục đó chính
là người vợ mà một giờ trước đó vừa mới ăn sáng cùng với ông.
Tôi phải thú thiệt là tôi vui mừng khi chồng tôi không hỏi han gì về số tiền đã giao
cho tôi hơn là nhận được giải thưởng uy tín kia. Nếu ông hỏi tôi về số tiền đó thì
tôi đã phải nói sự thật vì tôi không thể nói dối ông được. Việc đó thật đáng ngượng
ngùng và hổ thẹn biết bao! Mỗi khi nghĩ lại sự việc ấy là tôi lại bật cười. Một lần
nữa, chính Ngài là Đấng biết rõ tôi hơn bất kỳ người nào khác. Ngài đã xoay
chuyển mọi tình thế khó khăn và khiến chúng trở nên tốt lành.
An Ủi Kẻ Hèn Mọn
Ngày 8 tháng Năm, 1966 là ngày Mẫu Thân. Đó là một ngày xuân thật đẹp. Trong
bộ trang phục truyền thống Đại Hàn màu xanh nhạt, tôi tiến về trung tâm của buổi
lễ, bẽn lẽn như một cô gái nông thôn nhỏ nhắn. Phía trước tôi là một tấm thảm đỏ
được trải dài. Dàn nhạc của Quân đội, Hải quân và Không quân đang chơi nhạc
dọc theo lối đi. Buổi lễ năm nay có thêm phần đặc biệt vì có một vài sửa đổi trong
việc trao giải Bà Mẹ Đảm Đang của năm.
Buổi lễ được cử hành với sự có mặt của các quan khách đặc biệt, bao gồm Đệ nhất
Phu nhân Đại Hàn, Phu nhân của các Bộ trưởng, các Đại sứ từ nhiều quốc gia.
Nhiều bức thư được đọc lên, trong đó có thư của Đệ nhất Phu nhân. Nhưng bức thư
gây cho tôi ấn tượng sâu sắc nhất là thư của Tiến sĩ H. K. Koh, người đã cầm tay
tôi nói, “Thật là một vinh dự cho tôi khi có một học trò như em.” Bà đã ôm tôi và
khóc. Bà là Trưởng Khoa Kinh Tế Đối Nội khi tôi còn học ở Trường Đại Học Nữ
Ehwa.
Suốt buổi lễ, tôi không hề cảm thấy thoải mái chút nào. Tôi cảm giác như mình
đang đánh cắp sự vinh hiển của Chúa. Nói cho cùng, chính Ngài là Đấng đã làm
mọi việc. Phần thưởng này không phải dành cho tôi, mà là cho Đấng đã thực hiện
tất cả những việc này qua tôi. Ngài đã ban cho tôi con tim biết lắng nghe tiếng
Ngài. Ngài ban cho tôi sức mạnh để vâng phục và bước đi theo Ngài. Ngài ban cho
tôi niềm vui, sự bình an và niềm hạnh phúc từ trong tâm hồn. Tại sao tôi lại tự hào
về bản thân mình?
Tôi phải nói với Ngài như thế nào đây khi tôi đối mặt với Ngài trong tương lai?
Tôi thật sự muốn giữ kín tất cả những chuyện này, nhưng giờ đây mọi chuyện đã lộ
ra trước công chúng. Giờ đây, tôi đang nhận lãnh một phần thưởng to lớn và được
cả nước chú ý đến. Tôi có cảm tưởng mình là tên trộm trá hình. Buổi lễ gần đến
hồi kết thúc, ban nhạc chơi những bài thật hùng tráng và hàng trăm chim bồ câu
được tung lên bầu trời. Tôi ngước mắt lên trời và gởi lòng vào những cánh chim bồ
câu, “Chúa ơi, Chúa hiểu thấu lòng con.”
Qua sự kiện này, Ngài muốn tôi trở nên chứng nhân cho những người chưa từng
biết về niềm hạnh phúc thật mà Ngài là Đấng duy nhất có thể ban cho. Một trong
những điều mà tôi còn nhớ là tôi nhận được một lời mời từ Đài Phát Thanh Viễn
Đông. Họ nhờ tôi thực hiện một bài nói chuyện mười lăm phút phát sóng trực tiếp
cho những người đang sống tại Bắc Hàn. Suốt đêm, tôi cầu xin Chúa giúp sức cho
tôi. Ngài luôn luôn thành tín và không bao giờ để tôi phải thất vọng. Ngài phán,
“Đừng lo sợ về những điều con sắp phải nói vì Ta sẽ bày tỏ chính mình Ta cho
con.”
Vào ngày phát sóng, tôi đi đến Đài Phát Thanh FEBC. Tôi thấy nhiều bóng đèn đỏ
trong nhiều phòng khác nhau. Những người ở đó đang mang máy nghe và đứng
bên cạnh các thiết bị máy móc. Tôi lo sợ và cảm thấy choáng váng, chân tôi run lên
một cách không kiểm soát được. Tôi nhận được một vài chỉ dẫn và được đưa vào
một phòng nhỏ. Một vài phút sau, loa phát ra tín hiệu nhạc, đã đến lúc bắt đầu bài
nói chuyện với nhân dân miền Bắc Đại Hàn. Nhà sản xuất lấy tay ra hiệu cho tôi
bắt đầu.
Tôi căng thẳng quá đỗi, còn miệng thì khô khốc. Thình lình, tôi thấy đôi môi mình
bắt đầu cử động, “Hỡi nhân dân miền Bắc yêu dấu của tôi, chế độ Dân chủ và chế
độ Cộng sản không thể nào hòa hợp được. Nhưng có một con đường để trở nên
thống nhất một lần đủ cả. Chỉ một mình Đức Chúa Trời là Đấng toàn quyền trên
không gian và thời gian mới có thể khiến chúng ta trở nên hiệp nhất mà thôi…”
Khi tôi vừa nói lời cuối cùng của mình thì nhà sản xuất đứng bên kia phòng ra dấu
bảo thời gian cho phép đã hết. Cuối cùng, tôi lấy lại bình tĩnh và bước ra khỏi
phòng. Nhà sản xuất hỏi tôi một cách nghiêm túc, “Trước đây bà có kinh nghiệm
làm phát thanh viên không? Bà nói chuyện như một người chuyên nghiệp, thậm chí
không cần nhìn đồng hồ.” Tôi nói khẽ với ông, “Tôi chỉ là một người nội trợ. Như
chồng tôi nói, tôi chỉ biết nhà cửa, chợ búa và nhà thờ mà thôi.” Tôi bước ra khỏi
Đài Phát Thanh Viễn Đông. Ánh nắng rực rỡ ôm choàng lấy tôi.
Ngài bày tỏ chính Ngài cho con cái yêu dấu của Ngài bất cứ nơi nào họ đi tới và
Ngài gìn giữ họ trong đôi tay yêu thương của Ngài. Ngài luôn sẵn lòng giúp đỡ
những ai khiêm nhường quỳ gối xuống kêu cầu Ngài.
Một ngày nọ, tôi nhận được lời mời đến dự bữa trưa tại Nhà Xanh từ Đệ Nhất Phu
Nhân Đại Hàn. Tôi lịch sự từ chối vì đó là ngày của Chúa. Thay vào đó, tôi nhận
được lời mời đến nhà Ngài và đến với Ngài như một đứa con bé bỏng của Ngài.
Tôi chạy ùa vào đôi tay rộng lớn đầy tình yêu thương của Ngài. Tôi nghe giọng nói
trìu mến và ấm áp của Ngài đang phán với tôi.
“Con đây rồi, hỡi con gái yêu dấu của Ta.”
Người Láng Giềng Của Con Rơi Vào Tay Kẻ Cướp
“Ai là kẻ lân cận của con đã rơi vào tay kẻ cướp?”
Ngài hỏi trong tai tôi khi tôi đang ngủ trong chuyến đi đầu tiên ra nước ngoài. Đó
là vào tháng Mười, năm 1966. Tôi cùng bốn người bạn được mời tham dự một Hội
nghị do Tổng Thống Tưởng Giới Thạch tổ chức ở Đài Loan. Chúng tôi tới Nhật
Bản và Hồng Kông trước khi tới Đài Loan, rồi từ Đài Loan chúng tôi sẽ quay trở
lại Đại Hàn.
Tôi cố hiểu những điều mà tôi nghe được trong giấc ngủ. Vì thế tôi đi nằm lại.
Sáng hôm sau khi thức dậy, chúng tôi quyết định đi thăm viếng một nhà thờ tại Đài
Loan. Đất nước này nổi tiếng về việc thờ thần “baibai.” Nhà nào cũng thờ vị thần
nhuốm đầy màu sắc mê tín dị đoan này. Chúng tôi rời khách sạn và nhờ tài xế taxi
đưa đến bất kỳ nhà thờ nào gần đó. Ông ta ngừng lại ở một ngôi nhà thờ nhỏ nằm
trên một con đường yên tỉnh. Ông để chúng tôi xuống ở đó.
Cửa nhà thờ khóa chặt nên chúng tôi không thể vào. Chúng tôi quyết định cầu
nguyện tại thềm đá trước khi rời khỏi chỗ ấy. Chúng tôi vừa cầu nguyện xong thì
có một bà trung niên mỉm cười đi về hướng chúng tôi. May mắn là bà nói được
tiếng Nhật, nên chúng tôi có thể nói chuyện với bà. Bà là Trưởng ban Nữ Giới của
nhà thờ. Sau khi tự giới thiệu với nhau, bà mời chúng tôi dùng bữa tối. Khi chúng
tôi đang nói chuyện tại bàn ăn, bà cầm tay chúng tôi và mời chúng tôi hôm sau đến
dự Hội đồng Phụ nữ Cơ-đốc tại một trong những nhà thờ lớn nhất tại Đài Loan.
Chúng tôi nói không thể đến vì hôm sau là ngày chúng tôi phải rời Đài Loan,
nhưng bà nài mời chân thành đến nỗi chúng tôi không thể nào từ chối được.
Chúng tôi thay đổi lịch trình của mình và đến dự buổi nhóm Hội đồng vào sáng
hôm sau. Đến giữa buổi Hội nghị, họ hỏi chúng tôi về đức tin của phụ nữ Đại Hàn.
Các bạn tôi đẩy tôi về hướng bục hướng dẫn. Đây quả là một sự kiện ngoài dự kiến
và tôi chưa chuẩn bị gì cả. Bên cạnh đó, tôi không thể phát biểu bằng tiếng mẹ đẻ
của mình. Tôi sẽ nói tiếng Nhật và họ sẽ dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Hoa. Tôi
học tiếng Nhật từ hồi còn học Tiểu học và Trung học Cơ sở. Mọi thứ trở nên nhòa
đi trước mắt tôi.
Đúng vào lúc ấy, Ngài đến bên tôi phán rằng, “Hãy mạnh mẽ và can đảm lên.” Khi
tôi mở miệng nói, tôi nhận thấy không phải tôi đang nói mà chính Ngài đang nói
qua tôi. Làm sao tôi có thể nói tiếng Nhật lưu loát đến thế được? Tôi nói bằng tiếng
Nhật và họ chuyển sang tiếng Đài Loan, tiếng Quan Thoại và tiếng Quảng Đông.
Trong lúc đó, Ngài cho tôi thời gian để suy nghĩ về những điều cần phải nói kế
tiếp. Hội nghị được tiếp tục diễn ra trong sự bùng cháy thuộc linh thêm vài giờ
nữa. Khi buổi nhóm Hội đồng kết thúc, tôi thở phào nhẹ nhõm. Tôi bước xuống
khỏi bục giảng và bà Trưởng ban Phụ nữ xin tôi đến bệnh viện nơi cháu trai của bà
đang ở trong tình trạng nguy kịch, cháu đang thở với mặt nạ ô-xy. Bà nói, “Tôi tin
rằng cháu tôi sẽ được chữa lành khi bà cầu nguyện cho cháu.”
Làm sao tôi có thể từ chối được? Thế là chúng tôi cùng nhau đi đến bệnh viện.
Cánh cửa phòng mở ra và trước mắt tôi là một bé trai nhỏ thó gầy gò với nhiều ống
dẫn xung quanh người. Thằng bé nằm không nhúc nhích. Tôi động lòng thương xót
thằng bé tột độ. Nhưng làm thế nào tôi có thể cứu đứa bé này bằng sức lực của
mình đây? Tôi phải cầu xin sự giúp đỡ của Chúa. Chỉ có Ngài mới có thể chữa
lành người bệnh và khiến người chết sống lại mà thôi. Chính lúc ấy, tôi được nhắc
nhở về việc Mục sư Myung đã cầu nguyện chữa bệnh cho tôi khi tôi nằm sải trên
đất với mắt cá chân bị bể. Đúng rồi, Ngài đã phán,“Trong khi cầu nguyện, các
ngươi lấy đức tin xin việc gì bất kỳ, thảy đều được cả.”
Tôi nhắm mắt lại vì nếu tôi mở mắt ra và thấy thân thể ốm yếu bệnh hoạn của
thằng bé tội nghiệp, cảm xúc con người của tôi sẽ bị dao động ngay. Tôi cầu
nguyện tha thiết để thằng bé được chữa lành và trên hết là sự cứu rỗi linh hồn của
cháu. Thậm chí sau khi cầu nguyện xong, tôi vẫn còn lo sợ cho sức khỏe của thằng
bé. Tôi từ chối lời mời ăn trưa và quay trở về khách sạn.
Tôi nằm nghỉ trên giường của khách sạn. Nhiều mối lo lắng xâm chiếm tâm hồn
tôi. Tôi đại diện cho phụ nữ Đại Hàn đến Đài Loan và được nhờ cầu nguyện chữa
bệnh. Tôi lo lắng và bận tâm về nhiều việc quá đỗi đến nổi tôi thiếp đi lúc nào
không hay. Tôi thức giấc vì tiếng điện thoại reo. Tôi nhấc ống nghe. Đó là bà
Trưởng ban Phụ nữ ở ngôi nhà thờ kia.
Bà thốt lên trong niềm phấn khích, “Cám ơn bà thật nhiều! Sức khỏe của cháu tôi
đã tiến bộ rõ rệt. Họ đã cởi bỏ mặt nạ ô-xy cho cháu và chuyển cháu từ phòng
chăm sóc đặc biệt sang phòng bình thường. Bác sĩ của cháu nói ông không tin
được là thằng bé phục hồi nhanh chóng đến thế.”
Lòng tôi chất ngất niềm vui và mọi nỗi sợ hãi trong tôi tiêu biến sau khi tôi được
thông báo tin ấy. Một lần nữa, chính Ngài đã thực hiện việc ấy. Ngài đã làm những
việc bất khả thi vì cớ Danh Ngài. Qua sự việc này, Chúa đã mở ra một phương
hướng truyền giáo mới tại đất nước này. Người Trưởng ban Phụ nữ ấy lại mời tôi
tham dự những cuộc họp kế tiếp. Những người bạn đi cùng với tôi phải trở về Đại
Hàn, tôi ở lại một mình để thực hiện chức vụ Ngài giao, đó là gieo rắc Tin Lành tại
đất nước đầy mê tín dị đoan này.
Tôi đi từ nhà thờ này đến nhà thờ khác làm chứng về Chúa cho các nhóm phụ nữ
trong suốt một tháng ở lại Đài Loan. Đó là chuyến đi hoàn toàn ngoài kế hoạch và
dự kiến của tôi. Và đó chính là bước khởi đầu nhỏ cho công cuộc truyền bá Tin
Lành xuyên Đông Nam Á.
Một ngày kia, chồng tôi gọi điện và hỏi, “Em có ý định quay về không đó?” Tôi
thu dọn đồ đạc và suy nghĩ về tất cả những điều Ngài đã làm trong một tháng vừa
qua tại Đài Loan. Tôi nhìn ra cửa sổ và cầu nguyện tha thiết cho sự cứu rỗi của đất
nước này. Tôi cầu nguyện để Tin Lành đụng chạm đến từng ngõ ngách của Đài
Loan. Trong khi cầu nguyện, lòng tôi được cảm động một cách sâu xa. Ngài đến
bên tôi và bảo tôi làm chứng về Ngài cho đến tận cùng trái đất. Tôi nói, “Muốn thật
hết lòng” trong lòng mình. Đó là đêm cuối cùng tại Đài Loan trước khi tôi trở về
nhà.
Từ đó đến nay đã ba mươi ba năm và tôi không hề quên công tác rao giảng Tin
Lành cho đến tận cùng trái đất mà Ngài đã kêu gọi tôi bước vào. Đó là ước vọng
quý báu duy nhất mà Ngài đặt nơi tôi. Ngài đã đổ huyết ra vì tôi và chưa một lần từ
bỏ tôi trong suốt cuộc đời của tôi. Tôi sẽ phục vụ Ngài, dù cho lời kêu gọi ấy đòi
hỏi tôi phải trả bất cứ giá nào đi chăng nữa.
Năm sau đó, tôi lại có cơ hội đi sang vùng Đông Nam Á. Và khi thăm lại Đài
Loan, tôi thấy nhiều trái ngọt mà tôi đã trồng cách đó một năm đang lớn lên.
"Ai là kẻ lân cận của con đã rơi vào tay kẻ cướp?"
Chính Ngài đã hỏi tôi câu đó, nhưng cũng chính Ngài đã rơi vào tay kẻ cướp.
Chính Ngài đã đổ huyết vì chúng ta; Ngài chữa lành, an ủi chúng ta; xua tan đi sự
tối tăm của chúng ta bằng ánh sáng của đức tin, của niềm hy vọng và tình yêu
thương trong lòng chúng ta.
Giỏ Đầy Thứ Sáu: TÔI NGHĨ MỌI SỰ ĐỀU LÀ CỦA TÔI
Hướng Về Một Đồng Vắng Khác
Giấc Mơ Không Thành Của Tôi
Cái Chết Đột Ngột Của Chồng Tôi
Nỗi Đau Để Lại Đàng Sau
Hướng Về Một Đồng Vắng Khác
“Tại sao việc này lại xảy ra? Sao tôi lại đến nông nổi này? Sao tôi lại trắng tay và
ra đi như dân di cư như thế này?”
Tim tôi thổn thức trong nỗi buồn vô tận. Con trai út vừa tốt nghiệp Tiểu học của tôi
đang say mê ngắm nhìn những chiếc máy bay vì đó là chuyến đi bằng máy bay đầu
tiên của cháu. Tôi cùng các con sẽ sinh sống ra sao nơi xứ lạ quê người đây? Tôi
ước gì đó chỉ là một giấc mơ. Tôi nhìn lên bầu trời xanh và lau nước mắt mình
trong tiếng thở dài. Chính lúc ấy, Ngài đến bên tôi và nói chuyện với tôi, “Con gái
yêu dấu của ta, việc gì khiến con buồn lòng?”
“Chúa biết hết mọi sự, con đã mất tất cả.” Tôi trả lời Ngài trong lúc nước mắt tuôn
dài không dứt. Từ năm tôi hai mươi ba tuổi đến nay, đây là lần đầu tiên tôi nói
chuyện với Ngài một cách miễn cưỡng như thế.
“Con đã mất những gì?”
“Con mất chồng con, con gái con, bạn bè, sự giàu có, danh vọng và mọi điều
khác.”
“Ai bảo con rằng những điều đó thuộc về con? Con có chào đời với những điều mà
con nói đã bị mất không?”
“Ta ban cho con gia đình, một người chồng giỏi giang, sự giàu có và danh vọng.
Mọi sự đều từ Ta mà đến. Ta lấy lại những điều ấy vì muốn tốt cho con. Tại sao
con lại khóc lóc và nghĩ rằng con đã mất những điều con có?”
Ngài bảo tôi Ngài là Đấng Sáng Tạo và Ngài sở hữu mọi sự. Ngài cầm quyền trên
sự sống, sự chết, các phước lành và sự rủa sả của con người. Nhưng tôi không
muốn lắng nghe Ngài.
Tôi cố gắng lo cho gia đình tôi được trọn vẹn kể từ lúc chồng tôi qua đời năm năm
về trước. Còn giờ đây, tôi đang trên đường di cư mà không có gì hứa hẹn phía
trước. Tôi để lại bạn bè và mọi ký ức ở phía sau. Tất cả những gì tôi có là bảy trăm
Mỹ kim trong túi. Tâm hồn tôi quặn thắt với nỗi đắng cay không kiềm chế được.
Sau này, tôi mới thấy đó là phước hạnh cho tôi khi Ngài dạy tôi phải từ bỏ mọi sự
để chỉ ngửa trông nơi Ngài và sống với Ngài mỗi ngày trên con đường hẹp. Phải
mất hai mươi lăm năm tôi mới có thể khám phá ra rằng chính ân điển và tình yêu
của Chúa đã dẫn tôi qua đồng vắng đầy nước mắt ấy. Tôi và gia đình rời Đại Hàn
đi Los Angeles vào tháng Hai năm 1973. Thời tiết vẫn còn giá lạnh vì đang là giữa
mùa đông.
Giấc Mơ Không Thành Của Tôi
"Anh à, tháng Tư năm tới khi anh trở thành Chủ tịch Hội đồng Quản trị của
Trường Đại Học, em muốn anh xây một nhà nguyện nhỏ bên cạnh cái hồ nước
trong sân trường để làm kỷ niệm."
Bộ Giáo Dục đã tán thành việc chồng tôi tiếp quản chức Chủ tịch Hội đồng Quản
trị của Trường Đại Học và ông đang đợi đến buổi lễ nhậm chức. Tôi xin chồng tôi
làm cho tôi việc đó và tôi thật sung sướng khi ông đồng ý.
Tôi rất vui vì đó là giấc mơ bấy lâu của chồng tôi, và giờ đây nó sắp thành hiện
thực. Tôi sắp là vợ của vị Chủ tịch Hội đồng Quản trị của Trường Đại học. Kể từ
khi Trường được thành lập, tôi chỉ ao ước một điều, đó là một ngày nào đó ngôi
trường này không chỉ là nơi đào tạo sinh viên về mặt học thức mà còn là nơi gieo
mầm đức tin trong họ trong thời gian họ học tại đây. Khi rời nhà trường để bước ra
thế giới, các sinh viên sẽ không những được trang bị về mặt kiến thức mà còn có cả
Tin Lành. Tôi chẳng có mấy quan tâm đến việc điều hành Trường học, nhưng mỗi
khi giai đoạn tuyển sinh bắt đầu, tôi bao giờ cũng là người đưa ra nhiều đề nghị để
chồng tôi cân nhắc.
"Anh à, khi các sinh viên quá giỏi giang, họ sẽ trở nên ích kỉ và chúng ta sẽ không
trông cậy được gì nơi họ. Nhưng nếu họ không thông minh thì cũng vô ích. Vì thế,
anh hãy tuyển chọn những sinh viên có số điểm trên trung bình nhưng hãy nhớ
chọn những sinh viên Cơ-đốc xuất thân từ những gia đình nghèo."
Vào thời điểm ấy, Khoa Trồng trọt Chăn nuôi được nhiều người chọn thi vào nhất
vì tất cả sinh viên đều nhận được học bổng toàn phần. Chú tôi là người cung cấp
những học bổng này để thực hiện ý nguyện của ông nội tôi là muốn tái kiến thiết
tương lai của nền Nông nghiệp Đại Hàn. Vì vậy, tất cả sinh viên thuộc Khoa này
đều nhận được học bổng toàn phần.
Một ngày nọ, tôi đến thăm trường và thấy chú tôi đang khóc trong văn phòng của
ông. Tôi động lòng và hỏi chuyện gì đã khiến ông khóc. Ông nói, “Nếu muốn cải
thiện bộ mặt của đất nước thì các nông dân cũng phải được mở mang kiến thức.
Cháu biết điều đó phải không? Nhưng khi các sinh viên tốt nghiệp, họ không còn
muốn về vùng nông thôn nữa mà đi tìm việc làm ở thành phố. Mọi kế hoạch và nỗ
lực của chú trở nên luống công. Chú không còn mặt mũi nào để gặp mặt ông nội
cháu."
Tôi để ý thấy chiếc áo sơ-mi ông mặc đã trở nên cũ kỹ. Ông đã dành từng đồng để
đầu tư cho các sinh viên. Tôi biết đây là lúc tôi nên nói chuyện với ông, vì thế tôi
bắt đầu mở miệng.
“Chú yêu quý, dù cho sinh viên được tiếp nhận một lượng kiến thức nhiều bao
nhiêu, họ cũng trở nên vô ích nếu như họ không được mở mắt thuộc linh. Để có
được tình yêu đối với những người nông dân, với đồng ruộng và quê hương, họ cần
được giáo dục về mặt tâm linh. Tinh thần yêu thương chỉ có thể đến được từ đức
tin Cơ-đốc. Vì lẽ đó, chú hãy tuyển những sinh viên Cơ-đốc. Chú sẽ không phải
hối tiếc đâu.”
Sau khi lắng nghe tôi, ông nói, “Cháu nói đúng. Từ đây trở đi, chú sẽ chọn những
sinh viên Cơ-đốc cho khoa Trồng trọt Chăn nuôi. Từ lúc ấy, có nhiều sinh viên
Cơ-đốc được tuyển chọn. Một vài người trong số các sinh viên đã tốt nghiệp hiện
nay đang thi hành chức vụ tại một số nhà thờ ở Đại Hàn.
Cái Chết Đột Ngột Của Chồng Tôi
“Thưa bà, xin hãy đi với tôi.”
Tài xế của chồng tôi về nhà và bảo tôi như thế với vẻ mặt buồn bã.
“Anh muốn đưa tôi đi đâu? Có chuyện gì vậy?” Ông không trả lời mà chỉ nói, “Xin
bà hãy vào xe.” Vào trong xe rồi, tôi lại hỏi ông một lần nữa và ông trả lời, “Ông
Kim đã bị đột quỵ trong lúc đang làm việc tại văn phòng sáng nay. Ông đã được
ngay tới bệnh viện.” Chuyện tồi tệ gì đang xảy ra thế này?
Vài ngày trước đó, chồng tôi than là bị nhức đầu. Vì thế tôi bảo ông hãy đi Bác sĩ
và làm thủ tục nhập viện để xin khám tổng quát. Người tài xế đưa tôi đến Trung
tâm Y Khoa của Đại Học Seoul. Tôi mở cửa phòng và thấy chồng tôi đang nằm bất
tỉnh trên giường bệnh. Bác sĩ nói sở dĩ chồng tôi bị đột quỵ là do biến chứng của
bệnh tiểu đường và bệnh cao huyết áp. Bác sĩ có dùng thuốc để hạ huyết áp nhưng
không có kết quả. Tôi ngồi xuống cạnh giường, nắm lấy tay chồng tôi và khóc.
Con tim tôi đau nhói. Nhiều tư tưởng chạy dọc ngang trong đầu tôi. Chồng tôi đã
lấy tôi làm vợ, một người nhỏ hơn ông tám tuổi.
“Nếu có ai đó muốn cưới một cô gái là con một trong gia đình thì tôi nhất định
khuyên người ấy đừng nên cưới." Ông thường nói như thế để ám chỉ về tôi. Lỗi là
ở tôi nên ông mới nói những điều như thế. Trong một thời gian dài, ông đứng ra lo
liệu mọi vấn đề tài chính từ nhỏ đến lớn liên quan đến việc thành lập Trường. Ông
không bao giờ hé răng cho tôi biết về bất cứ khó khăn nào của ông. Có một lần, tôi
hỏi ông về công việc ở Trường và ông đáp, “Anh không nói cho em biết vì có biết
thì em cũng không thể giúp được gì. Thà là để một mình anh chịu. Đừng lo gì cả.
Em cứ chăm sóc con cái chu đáo là tốt rồi. Là chồng, anh sẽ lo toan mọi việc bên
ngoài cho em.”
Thỉnh thoảng tôi nổi cáu với chồng tôi. Vào những lúc ấy, ông không đi làm ngay
mà thay vào đó, ông ngồi tại phòng khách và lắng tai nghe tôi trút hết những nỗi
phiền muộn của mình. Sau đó, ông đưa tôi đến một trong những nhà hàng mà tôi
ưa thích và nói, “Chắc em đã mệt vì phải than phiền quá nhiều. Giờ thì hãy ăn đi để
bù đắp cho lượng dinh dưỡng bị hao hụt.” Sau khi tôi ăn xong, ông đưa tôi tiền để
đi chợ và mua sắm, rồi ông đi đến văn phòng ở Trường Đại học.
Ông là một người chồng đáng yêu. Khoảng thời gian trước lúc cha tôi qua đời,
chồng tôi bảo tôi đến thăm cha và cho ông gởi lời thăm. Ông căn dặn tôi là phải
nhớ mua thịt bò khi đi tới thăm cha. Khi gia sư đến dạy cho con gái đầu của tôi,
ông bảo tôi phải để mắt tới hai thầy trò. Chồng tôi là người cha rất mực thương
con. Ngày mà con gái đầu của tôi sang Mỹ học, ông đã khóc như một đứa trẻ. Tình
yêu thương của chồng tôi lúc nào cũng ấm áp và nhẹ nhàng như một đám mây
trắng. Nhiều người muốn tiếp xúc với ông vì họ muốn được đám mây ấy bao phủ
lấy. Nhiều lần tôi thấy ông đổ nước mắt vì động lòng thương xót người khác. Ông
kính trọng cha mẹ, thương người nghèo. Ông quả là một người đáng kính.
Tôi khóc trong lúc xoa bóp đôi chân sưng lên vì bệnh tiểu đường của ông. Ông
thường nhờ tôi xoa bóp chân cho ông vì ông bị bệnh tiểu đường. Tôi xoa bóp chân
cho ông và trong lòng thầm nguyện rằng một ngày nào đó, ông sẽ đến với Chúa.
Mỗi lần tôi bảo ông đi nhà thờ thì ông lại nói, “Anh sẽ đi khi thời gian thong thả
hơn. Giờ anh bận bịu lắm.” Làm sao ông biết được đây là ngày cuối cùng của ông
đây? Chú tôi ngưỡng mộ kiến thức và khả năng trong việc quản lý và trong quan
hệ với người khác của chồng tôi. Hai người đã cật lực làm việc từ lúc Trường mới
được thành lập. Họ đã cống hiến tuổi trẻ, những giấc mơ và hoài bão của mình cho
việc thành lập Trường Đại Học.
Giấc mơ được vươn tới đỉnh cao của chồng tôi sẽ thành hiện thực vào tháng Tư
năm tới. Nhưng tất cả mọi khả năng, sự hiểu biết, sự tôn trọng, cá tính, việc lành
của chồng tôi không thể đem ông tới thiên đàng. Chỉ có một con đường duy nhất
đó là tin nơi Chúa Cứu thế Giê-xu và nắm lấy tay Ngài trên bước đường tới thiên
đàng. Ông đã không tỉnh lại, thậm chí không thể mở mắt để nhìn thấy các con của
mình. Sự sống của ông chấm dứt vào đêm thứ ba sau ngày nhập viện, lúc đó ông
chỉ mới năm mươi ba tuổi. Ông có nhiều thời gian để gặp Ngài, nhưng ông mãi bận
rộn theo đuổi những tham vọng của đời này. Cuộc đời ông kết thúc vào ngày 15
tháng Mười Hai, 1968. Bên ngoài cửa sổ, bầu trời đầy mây và u ám. Ông bỏ lại vợ
và năm đứa con để đi đến một nơi không hẹn ngày trở lại.
Ông giàu có nhưng nghèo nàn. Ông thông minh nhưng tối dạ. Ông được người ta
tôn trọng nhưng lại là kẻ thấp hèn nhất trong thiên quốc. Chúa Giê-xu đã chờ đợi
chồng tôi đến với Ngài và ao ước đem ông vào vương quốc vĩnh cửu, nhưng chồng
tôi đã sống trong lòng tham của mắt và sự kiêu ngạo của đời. Ông đã khước từ lời
mời của Ngài và đi vào bóng tối đời đời.
Nỗi Đau Để Lại Đàng Sau
“Tôi phải làm gì đây? Tôi không còn một đồng để mua dầu cho máy sưởi. Nếu
không sử dụng, máy sẽ bị đóng băng và các đường ống sẽ bể ngay.”
Thời tiết buốt giá vào năm chồng tôi qua đời. Phải tốn một số tiền lớn để chạy máy
sưởi vào mùa đông. Lúc ấy, tôi bốn mươi lăm tuổi và không biết chút gì về thế giới
bên ngoài. Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có. Tôi sống cuộc sống
hôn nhân của tôi chỉ để chăm sóc cho chồng tôi. Tôi không biết thiếu thốn nghĩa là
gì. Thế mà giờ đây tôi phải sống mà không có sự bảo vệ và chăm sóc của chồng
tôi. Tôi hoàn toàn rỗng tuếch. Tất cả những điều tôi biết về tiền bạc đó là chỉ cần
đến xin chồng tôi. Cha tôi thật sự lo lắng cho tôi sau khi chồng tôi qua đời, nhưng
rồi ông cũng về với Chúa một năm sau đó. Tôi mất người chồng và người cha yêu
dấu của tôi. Bỗng nhiên, tôi trở nên một người vợ góa bụa và là một đứa con gái
mồ côi.
"Tôi có thể làm gì đây? Làm sao tôi có thể lo toan mọi việc đây?" Các hóa đơn
được gửi đến và các giấy hẹn cần được thanh toán. Tôi không biết làm gì ngoài
việc than khóc và thở dài. Chú tôi và Trường Đại học giúp tôi thanh toán mọi
khoản tiền. Món nợ duy nhất còn lại là số tiền sáu triệu won (20.000 Mỹ kim) tiền
vay thế chấp ngân hàng.
Họ hàng tôi nổi giận với tôi. Họ nói, “Đương lúc chồng cô còn sống, tại sao cô
không biết dành dụm tiền bạc gì cả? Cô chỉ mê mải với Chúa Giê-xu mà thôi. Giờ
thì cô chẳng còn tiền bạc để lo cho đám nhỏ. Các người sẽ sống như thế nào đây?"
Họ hỏi tôi, “Cô không có tiền nhưng cô có đồ trang sức không?” Nhưng tôi không
có một vật trang sức nào cả. Cả đời tôi, thậm chí đến một hạt kim cương tôi cũng
không có. Họ vô cùng bực tức khi biết rằng tôi không dành dụm được bất cứ vật gì.
Họ thu xếp ký thác vào ngân hàng cho tôi 17.000 Mỹ kim và bảo tôi nhận tiền lời.
Đó là số tiền trợ cấp và hưu bỗng mà chồng tôi có tại công ty xây dựng cũng như
tại Trường Đại học. Nhưng hai tháng sau đó, công ty xây dựng phá sản và tôi thậm
chí không nhận được khoản tiền mà chồng tôi đã đầu tư ban đầu. Tôi không còn lại
gì trong tay.
Tôi không biết phải làm cách nào để sinh sống. Có một câu ngạn ngữ của Đại Hàn
nói rằng, “Khi một người giàu qua đời, gia đình ông ta có thể sống được ba năm.”
Nhưng thậm chí ba tuần tôi cũng không sống nổi. Bạn bè khách khứa thường
xuyên viếng thăm nhà tôi khi chồng tôi còn sống giờ đây đã ngừng lui tới. Đó là
bản chất ích kỷ của con người.
Thật là chật vật khi trải qua những năm tháng khó khăn ấy. Nhưng khó khăn lớn
nhất của tôi là niềm tự hào và lòng tự tin vào bản thân mình đã bị đốn ngã. Tôi
không còn mặt mũi nào để gặp mặt mọi người. Giá dầu vào mùa đông cao như giá
vàng. Tôi căm ghét mùa đông. Người tài xế của chồng tôi cùng những người giúp
việc đã ra đi. Một gia đình nhỏ không có khách lui tới càng khiến cho căn nhà rộng
thênh thang của chúng tôi lạnh lẽo hơn.
Mọi người đều bỏ đi, nhưng Ngài vẫn ở đó với tôi. Ngài luôn ở với tôi trong năm
năm khốn đốn nhất. Ngài đưa đến cho tôi bà Yewon Inn, là Chủ tịch đầu tiên của
Hiệp Hội Y Tá Đại Hàn. Bà như là một người mẹ đức tin của tôi. Bà cũng là
Trưởng lão đầu tiên của Hội Thánh Giám Lý. Bà Inn được Chúa đem đến cho tôi.
Bà sống trong nhà tôi. Bà an ủi và nâng đỡ đức tin tôi như con gái ruột của bà cho
đến khi tôi rời Đại Hàn.
Tôi không thể tiếp tục sống tại Đại Hàn được nữa. Bốn năm sau khi chồng tôi qua
đời, tôi quyết định di cư sang Hoa kỳ. Tôi nhận được thư mời của đứa con gái của
tôi đang sống tại Hoa kỳ. Tôi chỉ muốn đến một vùng đất xa lạ và giấu mình ở đó.
Tôi không có tiền nên tôi bán một số mảnh đất mà tôi đã mua trước đó rất lâu. Tôi
trả nợ cho ngân hàng và sống nhờ vào số tiền còn lại nhưng rồi tiền cũng hết. Thế
là tôi đồng ý sang Hoa kỳ với con gái tôi. Đó là giải pháp duy nhất.
Miếng đất tại Bugok mà tôi mua đã lâu rộng 9 mẫu. Tôi tặng miếng đất đó cho
Hiệp Hội Y Tá Đại Hàn. Vào thời điểm đó, nhiều Y tá được đưa sang Đức để làm
việc. Tôi muốn giúp họ gởi thêm nhiều Y tá để truyền bá Tin Lành tại Đức.
Ngôi nhà tôi ở và mảnh đất tại Bu Am Dong rất đẹp và rộng. Tôi quyết định tặng
nó cho cho tổ chức Chiến Dịch Sinh Viên Vì Đấng Christ (Campus Crusade For
Christ) tại Đại Hàn. Tôi là thành viên nữ đầu tiên của ban lãnh đạo tổ chức này.
Vào thời điểm đó, con trai trưởng của tôi lập gia đình. Tôi xin phép con trai tôi vì
chồng tôi đứng tên căn nhà của chúng tôi và con trai trưởng của tôi là người thừa
kế. Tôi nói chuyện với Mục sư về việc tặng mảnh đất rộng 1,2 mẫu của tôi cho tổ
chức Chiến Dịch Sinh Viên Vì Đấng Christ. Tôi còn một mảnh đất khác rộng 1,5
mẫu mà tôi đã mua ở ngoại ô thành phố Seoul bị chính quyền giới hạn. Đó cũng là
nơi chồng tôi được chôn cất. Tôi để nó lại khi tôi ra đi. Tôi rửa tay mình và không
còn nợ nần gì cả. Tôi hoàn toàn trắng tay.
Nhưng trước khi ra đi, tôi cảm thấy vẫn còn một điều gì đó cần phải làm. Sau khi
đi thăm các nước vùng Đông Nam Á về, tôi đã thành lập một nhóm phụ nữ cầu
nguyện không hệ phái và tôi là Chủ tịch đầu tiên của nhóm Dowon (có nghĩa là
"Hỗ trợ nhau bằng lời cầu nguyện.") Mục đích của nhóm cầu nguyện là đẩy mạnh
công tác truyền giáo tại vùng Đông Nam Á.
Tôi tặng cho nhóm Dowon một số tiền là 500 ngàn won (1,700 Mỹ kim). Tôi lấy từ
ví của mình ra số tiền này, vốn là số tiền dùng để mua vé máy bay cho cả gia đình
đi Mỹ.Và đây chính là một mồi lửa vì sau đó, tất cả các thành viên của nhóm đã
cùng nhau đóng góp được số tiền là năm triệu won (17.000 Mỹ kim.) Họ đã dùng
số tiền ấy để mua một tòa nhà tại trung tâm mua sắm và cho thuê tòa nhà ấy. Số
tiền thuê nhà mỗi tháng được đưa vào quỹ truyền giáo. Tôi nghe rằng nhóm
Dowon hiện vẫn còn hoạt động mạnh mẽ tại Seoul, Đại Hàn.
Gia đình tôi bảy người bước lên máy bay rời quê hương, băng qua Thái Bình
Dương để đến đất Mỹ. Trong ví tôi còn lại 700 đô-la. Đó là ngày 13 tháng Hai,
1973.
Ghi chú :
Bảy thành viên gia đình gồm có ba con trai, một con gái, một con dâu, cháu trai tôi
và tôi.
Giỏ Đầy Thứ Bảy: THẤP HÈN NƠI ĐỒNG VẮNG
Niềm Khát Khao Sâu Xa Trong Lòng Tôi
Kho Báu Quý Giá Nhất Của Tôi
Sự Kêu Gọi Của Ngài
Niềm Khát Khao Sâu Xa Trong Lòng Tôi
“Mẹ à, đừng quá cố sức làm việc. Nếu mẹ ngã bệnh thì phải tốn nhiều tiền hơn
đấy.”
Con trai tôi an ủi tôi, nhưng tôi thiếp đi vì liều thuốc tôi uống khá mạnh.
Đã gần được một tháng từ lúc gia đình tôi đến Los Angeles. Chúng tôi sống trong
một căn hộ nhỏ. Các con trai tôi đều đi làm, và tôi cảm thấy mình cũng cần phải
làm việc. Nhờ người hàng xóm giúp đỡ, tôi kiếm được một việc làm ở nhà máy sản
xuất thơm đóng hộp. Việc của tôi là bỏ thơm vào hộp. Đó là công việc đầu tiên
trong đời tôi.
Nhưng tôi đã gặp rắc rối. Tay tôi không nhanh nhạy bằng các phụ nữ khác. Tôi làm
rớt nhiều thơm ra ngoài hơn là bỏ vào hộp. Tôi đã cố gắng rất nhiều nhưng lực bất
tùng tâm, và thơm cứ tiếp tục chất đống trước mắt tôi.
Đôi chân tôi sưng vù lên vì phải đứng suốt ngày. Tôi thậm chí không thể đi vào
nhà tắm. Tôi ngã bệnh chỉ sau bốn ngày làm việc. Lúc tôi bệnh phải nằm trên
giường, điều duy nhất mà tôi nghĩ đến là sự hứa nguyện dâng mình của tôi đối với
Chúa. Tôi biết nhiều người đi làm để mong kiếm được nhiều tiền, nhưng tôi cầu
nguyện xin Ngài giúp tôi có việc làm vì cớ Tin Lành.
Lúc đó, các con trai tôi đứa thì làm bảo vệ, đứa thì bơm xăng về đêm ở khu Trung
Nam Los Angeles. Mỗi đêm, khi các con tôi đi làm, tôi cầu xin Chúa gìn giữ chúng
được an toàn. Tôi thường cầu nguyện suốt đêm cho đến khi các con tôi về đến nhà
vào lúc gần sáng. Rồi tôi đi ngủ cùng lúc với các con. Cũng giống như trước đây,
Ngài đáp lời cầu xin của tôi và các con tôi được an toàn. Chúng làm việc rất chăm
chỉ.
Nhìn các con đi làm, nhiều lần tôi suy nghĩ giá mà chồng tôi còn sống thì chúng nó
không phải làm việc ban đêm như thế. Bảy người trong gia đình tôi sống nhờ vào
số tiền mà hai con trai của tôi nhận được từ công việc ban đêm cùng với khoản tiền
trợ cấp xã hội của Chính phủ.
Thỉnh thoảng, tôi thường đi tới tiệm bán bánh kẹp thịt McDonald. Tôi thèm mua
một cái bánh vô cùng, nhưng tôi không có tiền. Giá của mỗi cái bánh lúc đó chỉ có
25 xu nhưng trong túi tôi không có gì ngoài chìa khóa của căn hộ và mẫu giấy ghi
địa chỉ nhà. Tôi đi ngang qua cửa hàng McDonald và cố giấu đi những giọt nước
mắt của mình.
Tôi muốn đi học Anh văn để tận dụng thời gian của mình, nhưng tôi không có tiền,
cũng không có phương tiện đi lại. Nỗi xót xa của cuộc sống nghèo khó đã giúp tôi
hiểu được tấm lòng của những người nghèo.
Tôi chiêm nghiệm nhiều điều từ những năm tháng khó khăn ấy trong nỗi đau thầm
lặng. Suốt ngày tôi chỉ biết làm mỗi một việc là đi rảo xung quanh căn hộ, ngắm
nhìn những bông hoa, thở dài và cố quên đi những niềm đau của mình.
Thỉnh thoảng, tôi xin con trai tôi đưa tôi đến bãi biển Santa Monica. Tôi ngồi trên
bờ cát trắng ngắm nhìn những đợt sóng đến từ Thái Bình Dương. Chúng làm dậy
lên trong tôi nỗi nhớ nhà da diết. “Bên kia bờ đại dương là quê hương mình,” tôi
nghĩ. Tôi muốn trở lại quê nhà để thăm bạn bè của tôi.
Tôi bắt đầu học biết về sự cô đơn và khó khăn như thế nào khi phải đối diện với
nó. Cuộc sống giàu có ở Mỹ thật lạ lẫm đối với tôi. Tôi không thể giao tiếp với
những người xung quanh. Tôi như một con chim bị nhốt trong lồng. Ước mơ của
tôi là một ngày nào đó được thoát khỏi lồng và được tự do sải cánh bay đi. Việc tôi
sống ở Mỹ giống như việc đem một thân cây 50 tuổi đến trồng ở một vùng đất
mới. Thật là khó để nó châm rễ và mọc ổn định.
Tôi đi nhóm ở một nhà thờ Đại Hàn nhỏ. Lần đầu tiên tôi thấu hiểu được tấm lòng
của những người không có gì để dâng hiến cho nhà thờ. Chỉ cách đó vài năm, tôi
còn có những suy nghĩ không hợp lẽ về những người đến nhà thờ mà không dâng
bất cứ thứ gì. Người ta há có thể đến cùng Chúa với tay trắng thôi sao? Bây giờ tôi
trở nên nghèo nàn và tôi hiểu được lòng của những người không thể dâng hiến cho
Chúa. Tôi hối hận vì trước đây đã không hiểu được họ.
Tôi chết dần chết mòn theo từng ngày. Một thời gian dài, tôi được người ta khen
ngợi và tôn trọng. Nhưng lần hồi, Ngài đã lột bỏ lớp áo nhớp nhúa của tôi. Niềm
kiêu hãnh và lòng tự trọng giấu kín của tôi được âm thầm hạ xuống trước mặt
Ngài. Tôi nhận thấy mình trở nên thấp kém hơn. Tôi là người vô dụng. Tôi không
làm được bất cứ việc gì.
Trải qua những nỗi đau và những thời kỳ khó khăn, tôi nhận thấy mình đang được
tái sanh một lần nữa. Tôi học cách chết với bản ngã mình và sống với Chúa mỗi
ngày. Ngài khởi sự thay đổi con người tôi. Mỗi ngày, tôi trở nên mới từng chút
một.
Kho Báu Quý Giá Nhất Của Tôi
Điện thoại reo vào lúc nửa đêm. Đó là con gái đầu của tôi đang sống tại Ohio.
Tại sao con bé lại gọi cho tôi vào giờ này? Linh tính báo cho tôi biết là có chuyện
không hay xảy ra. “Mẹ ơi, xin mẹ bình tĩnh và lắng nghe những điều con sắp nói
đây. Cậu Lee vừa mới gọi điện cho con từ Los Angeles. Cậu ấy nói con gái út của
mẹ, cô Yoonsook, đã chết tối hôm qua trong một tai nạn xe hơi. Cậu ấy không đủ
cam đảm báo tin cho mẹ nên gọi điện cho con, là chị dâu của cậu ấy. Sáng mai,
con sẽ bay sang Los Angeles. Mẹ! Mẹ có đang nghe con nói không?”
Đột nhiên, tôi cảm thấy choáng váng và khó thở. Khi tôi mở mắt ra, tôi thấy mình
đang nằm trong Bệnh viện và ba con trai tôi đang nhìn tôi. Tôi mở miệng và cố nói
chuyện nhưng âm thanh cứ nghẹn ứ trong cổ. Tôi nghe đứa con trai út của tôi khóc
trong niềm đau đớn tột cùng. Yoonsook và Chonghwan Brian (tên đứa con trai út)
rất thân thiết với nhau. Chúng rất mực yêu thương nhau.
Lần đầu tôi đưa Chonghwan đến Ký túc xá của Trường Đại Học, tôi đã không rơi
nước mắt nhưng Yoonsook thì khóc suốt trên đường về nhà. Cháu nói với tôi cháu
có cảm giác như cháu đang bỏ con ruột của mình ở một nơi rất xa xôi nào đó.
Vào lúc mặt trời mọc, tôi cùng các con trai đã có mặt tại nhà Yoonsook. Mẹ chồng
của cháu đang bế đứa con trai một tuổi của cháu. Khi bà trông thấy tôi, bà khuỵu
xuống nền nhà và khóc lóc cách cay đắng.
Bao giờ tôi đến thăm nhà cháu, cháu cũng chạy ra đón với một nụ cười rất tươi;
cháu thường nắm lấy tay tôi và thốt lên, “Mẹ!” Nhưng giờ đây, cháu không còn
nữa. Thay vào đó là bức ảnh của cháu với dải băng màu đen đang nhìn tôi trong
căn phòng khách trống rỗng.
Đây là sự thật ư? Vậy mà tôi vẫn hy vọng, nhưng niềm hy vọng của tôi chỉ là một
giấc mơ. Con gái yêu dấu của tôi! Sự thật là cháu đã chết rồi ư? Làm sao tôi sống
được đây? Tôi khuỵu xuống đất và bất tỉnh. Tôi khóc nhưng không ra tiếng, và
cũng không có nước mắt. Tôi có cảm giác như một ngọn lửa nóng hực đang thiêu
đốt tâm can của tôi, còn thân thể tôi thì đang bị một con dao sắc nhọn cắt ra từng
mảnh. Đó là sự đau đớn tột bực mà tôi không tài nào chịu nổi. Trước mắt tôi chỉ là
bóng tối, còn lòng tôi thì nóng hực như đang bị đốt trong lò thiêu. Thế mà tôi
không thể uống được một giọt nước.
Tôi đã xót xa nhìn con trai đầu lòng của mình chết trong chiến tranh vì thiếu thuốc
men, Kyungsook chết lúc chín tuổi, sau đó là chồng tôi. Tất cả những gì tôi sở hữu
vuột mất khỏi tay tôi. Nhưng không có nỗi đau nào dày xéo tâm tôi như cái chết
của Yoonsook.
Yoonsook yêu dấu của tôi có một trái tim thiên thần. Cháu rất thông minh và nhạy
bén. Cháu có năng khiếu về âm nhạc, mỹ thuật và nhiều lãnh vực khác. Cháu là
nàng công chúa nhỏ trong nhà tôi. Chồng tôi rất mực thương cháu. Cái chết của
Kyungsook khiến chúng tôi rất đau buồn, nên chồng tôi nghĩ chúng tôi đang có
một người con gái giống hệt như cháu.
Yoonsook rất đặc biệt với tôi vì ngoài những khả năng vượt trội ra, cháu còn có
một niềm tin vững chắc nơi Chúa. Đức tin của cháu khiến chúng tôi rất gần gũi
nhau. Bảy năm trước khi Yoonsook lập gia đình, cháu đã ngủ chung với tôi và
chúng tôi không ngớt chia sẻ cho nhau về đức tin nơi Chúa. Cháu an ủi tôi về cuộc
sống vất vả nơi đất Mỹ. Tôi có thể cho cháu bất cứ điều gì, kể cả mạng sống của
tôi.
Khi con gái đầu của tôi từ Ohio đến và thấy tôi âu sầu quá đỗi, cháu nói, “Mẹ à,
sao mẹ lại xử sự như một người vô tín thế. Hãy cầu nguyện đi mẹ!”
Tôi đáp, “Đừng nói với mẹ điều đó! Nó là em con, nhưng là con gái của mẹ. Con
không hiểu được lòng người mẹ mất con là như thế nào đâu. Làm sao mẹ có thể
cầu nguyện đây? Cầu nguyện cái gì bây giờ? Chẳng lẽ mẹ cảm ơn Chúa đã đem
con mẹ đi à? Hay là mẹ tranh luận với Chúa và hỏi tại sao Ngài lại bắt mẹ phải
chịu đựng nỗi đau khủng khiếp này?”
Tôi sẵn sàng chết cùng với đứa con yêu dấu của tôi. Tôi đấm ngực mình trong nỗi
buồn vô hạn. Tôi khóc lóc cách cay đắng và tôi quỳ gối xuống trước Ngài.
Ngay chính lúc ấy, miệng tôi thình lình mở ra và tôi bắt đầu cầu nguyện bằng ngôn
ngữ thiên thượng mà chỉ có Chúa mới hiểu được. Một lúc sau, tôi nhận ra rằng tôi
đang cầu nguyện bằng tiếng lạ, ngôn ngữ cầu nguyện của tôi.
Ngài phán với tôi, “Đức Giê-hô-va có quyền ban cho và Đức Giê-hô-va có quyền
lấy lại. Tại sao con cứ khăng khăng cho rằng Yoonsook là của con? Tại sao con
sầu khổ đến như thế? Con có nhiều con cái. Con chỉ mất một con trong số đó. Con
buồn rầu vì chuyện đó chăng? Nếu như Ta đem tất cả các con của con đi thì sao?”
“Thưa Chúa, Ngài nói đúng,” tôi đáp. “Trước đây, Ngài đã nhiều lần bảo con rằng
con không có gì trong thế giới này cả. Thế mà con nghĩ con gái của con thuộc
quyền sở hữu của con. Ôi Chúa của con, Chúa là Đấng dựng nên loài người và con
chỉ là một trong những tạo vật nhỏ bé của Ngài. Một giờ trong tương lai thậm chí
con cũng không biết trước. Ngài đã yêu thương con đến nỗi đã đến thế gian đổ
huyết ra cho con một cách vô điều kiện. Giờ đây, con đã nhận ra sự dại dột của
mình. Chúa là Đấng duy nhất con yêu thương.”
Tôi xưng ra sự rồ dại của mình và cầu nguyện trong nước mắt. Đúng vậy, chính
Ngài đã ban cho tôi Yoonsook và cũng chính Ngài đã đem cháu về với Ngài. Chúa
biết điều gì tốt nhất cho con gái tôi. Việc Ngài đem cháu đi nằm trong thời điểm và
sự khôn ngoan của Ngài; và đó là điều tôi không nên lấy làm buồn bã.
Lòng tôi không còn là lò lửa nóng hực nữa, nhưng ngập tràn sự an ủi, sự bình an và
niềm vui trong Ngài. Điều gì sẽ xảy đến cho tôi nếu như Ngài không cứu tôi bằng
ân điển của Ngài? Cuộc hành trình tang tóc kéo dài tám giờ đồng hồ trong bóng
chết của tôi đã chấm dứt. Nếu người ta không biết Ngài, họ sẽ phải đời đời chìm
đắm trong bóng tối của sự đau đớn. Làm sao tôi có thể không nói cho người khác
biết rằng Chúa là đường đi, là sự sáng và là niềm hy vọng vĩnh cửu của chúng ta.
Sự hiện diện của Ngài trong tôi và tình yêu của Ngài đã khiến tôi hồi tỉnh. Tôi bảo
con tôi đem nước cho tôi uống và nói rằng chúng tôi sẽ ăn sáng cùng với nhau. Các
con tôi nắm lấy tay tôi và nhìn tôi một cách lạ lùng. Chúng nghĩ tôi không còn tỉnh
táo khi nhận thấy rằng tôi không còn đau buồn nữa mà trông thật bình an và đầy
tràn niềm vui.
Chúng lay người tôi và kêu, “Mẹ, hãy tỉnh lại. Xin hãy tỉnh lại đi mẹ.” Nhưng tôi
an ủi chúng vì chúng vừa mất đi người chị, người em yêu dấu của mình. Tôi nói,
“Mẹ khỏe rồi! Yoonsook yêu dấu của mẹ đi ở với Đấng mà nó hằng ao ước gặp
mặt. Vậy thì tại sao chúng ta lại đau buồn? Chúng ta hãy lau khô nước mắt và ca
ngợi Chúa.” Khi nghe tôi nói như thế, các con tôi thậm chí còn khóc lớn hơn nữa.
Con gái tôi khóc và nói khẽ vào tai tôi, “Mẹ, đây mới đúng là người mẹ thật sự của
con.”
Có nhiều người đến dự lễ tang. Tôi hôn lên mặt Yoonsook những cái hôn vĩnh biệt.
Cháu mặc chiếc áo đầm trắng, trông tựa như một nàng công chúa đang nằm ngủ.
Tôi nói với cháu, “Yoonsook, con ra đi và yên nghỉ với Ngài trước mẹ. Mẹ sẽ gặp
con trên đó. Rồi chúng ta sẽ hội ngộ trong niềm vui mừng.”
Tôi cảm tạ những người đến dự lễ tang và an ủi những người quá đau lòng trước sự
ra đi đột ngột của Yoonsook. “Kính thưa anh chị em yêu dấu, hôm nay là một ngày
vui mừng. Kể từ hôm nay, mọi nỗi đau đớn và sự buồn bã của Yoonsook đã chấm
dứt. Hôm nay cũng là buổi lễ mừng cháu bước vào thiên quốc để ở cùng với Chúa
Giê-xu cho đến đời đời. Xin đừng khóc nữa mà hãy vui mừng cho cháu.”
Bầu trời Los Angeles vào đầu tháng Năm sáng trong và xinh đẹp. Vào ngày an
táng Yoonsook, Ngài mở mắt tôi để tôi thấy một cách sống động các từng trời đang
mở ra và Yoonsook đang được Ngài ôm trong lòng, bên cạnh Ngài là Kyungsook,
cháu về với Chúa lúc chín tuổi. Kyungsook cười rất tươi khi cháu đón em của
mình!
Thiên đường tràn ngập hương hoa và dìu dặt âm thanh của những bản thánh ca
tuyệt vời không thể tả. Đó là bức tranh đẹp nhất mà tôi từng chiêm ngưỡng và giờ
đây tôi vẫn có thể hình dung ra nơi đó. Tôi cảm thấy thiên đàng gần với tôi lắm, vì
tại nơi đó kho báu quý giá vô ngần của tôi đang chờ đợi tôi.”
“Vì của báu các ngươi ở đâu, thì lòng các ngươi cũng ở đó.”
Những lúc tôi quá thương nhớ Yoonsook, tôi đem một bó hoa tới bên mộ cháu và
nói với cháu, “Yoonsook, con gái yêu của mẹ, mẹ nhớ con nhiều lắm.”
Chính vào ngày tôi phải chịu đựng nỗi đau cay đắng ấy cách đây 17 năm, Ngài đã
đến đem cho tôi nguồn an ủi vô biên từ thiên thượng. Ngài đã cho tôi niềm hy
vọng. Tôi thật sự biết ơn Ngài.
Ngài khiến chúng ta từng trải những nỗi đau và những hoàn cảnh khó khăn, rồi
bằng năng lực của Ngài, Ngài giúp chúng ta vượt qua những thử thách đó. “Vì của
báu các ngươi ở đâu, thì lòng các ngươi cũng ở đó.” Những lời này đem đến cho
tôi niềm an ủi và hy vọng khi Ngài cầm tay tôi và đưa tôi đi trong niềm hạnh phúc,
sự bình an và sự trông cậy nơi Ngài.
Sự Kêu Gọi Của Ngài
Tôi đang rửa chén dĩa trong bếp của nhà thờ sau buổi lễ thờ phượng sáng Chúa
Nhật thì có một cô gái đến hỏi tôi, “Trước đây bà có làm việc trong nhà hàng ở Đại
Hàn không?” Tôi không có câu trả lời. Tôi chỉ mỉm miệng cười với cô.
Hội Thánh của Ngài luôn cần nhiều sự giúp đỡ. Nhà thờ nơi tôi nhóm có một sự
quan tâm đặc biệt đối với các thanh niên đang thi hành chức vụ giữa vòng sinh
viên Đại học. Phục vụ thanh niên làm tôi cảm thấy được trẻ lại và tươi mới. Giấc
mơ chưa có kết thúc của tôi về sứ mạng giữa vòng các Trường Đại học vẫn luôn
canh cánh trong lòng tôi.
Mục sư Quản Nhiệm và một số thuộc viên Hội Thánh hiệp cùng nhau thành lập
một chương trình truyền giáo thế giới cho giới sinh viên Đại học. Phụ nữ chúng tôi
được chia ra từng nhóm để phục vụ bữa ăn cho họ trong những buổi huấn luyện.
Tôi cầu nguyện với họ và hết lòng hỗ trợ họ. Tôi tin rằng những sự phục vụ này sẽ
mở mang nước Chúa và tương lai của chúng tôi phụ thuộc vào tương lai của những
con người trẻ tuổi ấy.
Một ngày kia, một vài phụ huynh đến than phiền về các công tác truyền giáo. Họ
nói rằng các sinh viên đã dành quá nhiều thời gian để làm việc nhằm gây quỹ cho
những chuyến đi truyền giáo ngắn hạn, và đương nhiên họ không có đủ thời gian
cho việc học. Các phụ huynh muốn vị Mục sư cân nhắc lại kế hoạch đã đưa ra. Tôi
cũng nghĩ rằng việc tổ chức những chuyến đi truyền giáo thường xuyên là một trở
ngại cho việc học của các sinh viên. Tôi có con và tôi hiểu được tấm lòng của bậc
làm cha mẹ. Các sinh viên cần được tổ chức một cách tốt hơn. Tôi kể mối lo âu của
tôi cho vợ của vị Mục sư kia và nhờ bà nói với ông rằng tôi có thể hợp tác với họ
để có thể tổ chức các chương trình theo hướng khả quan hơn. Nhưng ngày hôm
sau, Mục sư gọi điện cho tôi và nói rằng, “Chấp sự Yoo, tôi là Mục sư của nhà thờ
này. Tôi nắm được hết các vấn đề và tôi sẽ đứng ra lo liệu mọi chuyện. Xin bà
đừng khiến những người ở đây gây nên xào xáo trong nhà thờ nữa.”
Tôi phải nói với Mục sư như thế nào đây? Thế là tôi đi khỏi nhà thờ nơi tôi đã
phục vụ trong hai năm và rời xa các sinh viên mà tôi đã chăm sóc như con ruột của
mình. Tôi ra khỏi nhà thờ và trở về căn hộ của mình.
Đêm ấy, tôi quỳ gối cầu nguyện với Chúa. Một hình ảnh hiện ra từ trong ký ức của
tôi. Đó là lúc chồng tôi công khai tuyên bố tình yêu của ông đối với một phụ nữ
khác bên lề cuộc hôn nhân của chúng tôi. Tôi còn nhớ lúc đó tôi đã đi lên núi và
gào khóc, “Chúa ơi, con không thể chờ đợi được nữa. Con muốn để lại phía sau
chồng và con cái của con cùng tất cả mọi sự. Con chỉ muốn vào Đại Chủng Viện
học Lời Chúa và hầu việc Chúa mà thôi.”
Tôi nghĩ trong lòng rằng việc tôi cam đoan tận hiến đời mình cho Chúa chắc sẽ
khiến Ngài vui lòng. Nhưng đột nhiên, Ngài phán với tôi cách lặng lẽ, “Ta không
dùng một tôi tớ như con.”
“Tại sao không, thưa Chúa?” Tôi hỏi Ngài, lòng chất đầy sự ngạc nhiên và tò mò.
“Ta bảo con vác thập tự giá mình và theo Ta. Ta không bảo con từ bỏ thập tự giá
đó. Ta không cần một đầy tớ như con.”
Bao giờ Chúa tôi cũng đúng cả.
Tôi đáng lẽ phải nhẫn nhục hơn đối với việc ngoại tình của chồng tôi, nhưng tôi đã
không làm được. Như thế, tôi đã tìm kiếm một nơi an toàn để thoát khỏi những rắc
rối của mình. Và việc học tại Đại Chủng Viện cũng là một giải pháp. Điều này
nghe có vẻ hay nhưng nó không xuất phát từ tình yêu thật của tôi đối với Ngài. Tôi
chỉ đi tìm sự vinh hiển cho riêng mình và quyết định của tôi chẳng liên quan gì đến
Ngài cả.
Ngài luôn nhìn vào tận trong sâu thẳm của lòng tôi. Tôi cúi đầu trước Ngài và nhắc
lại lời hứa nguyện của mình, “Thế thì thưa Chúa, khi các con của con khôn lớn,
con sẽ dâng mình trọn vẹn cho Chúa và đi theo Ngài."
Tôi đi xuống núi và tiếp tục vác cây thập tự của mình, đó là thực hiện bổn phận
người vợ, người mẹ của những đứa con còn nhỏ dại. Tôi hứa nguyện với Ngài
nhiều lần là tôi sẽ mang lấy thập tự của mình. Việc ấy xảy ra đã lâu lắm rồi. Sau 40
năm, tôi hoàn toàn quên lửng sự hứa nguyện của mình.
Tôi nhìn lại chính mình và nhận thấy rằng đứa con út của tôi vừa rời khỏi nhà để
đến sống trong Ký túc xá. Tôi quỳ xuống trước Ngài và bắt đầu thấy tia sáng của
niềm hy vọng mới lóe lên trong tim mình khi Ngài nhắc tôi nhớ lại lời hứa về sự
dâng mình của tôi.
Giỏ Đầy Thứ Tám: CON CÓ THỂ NÀO ĐI QUA TRŨNG TỘI LỖI CHĂNG?
Tới Trũng Achor
Những Viên Ngọc Trong Bùn
Đấng Đã Xuống Nơi Thấp Nhất .
Tới Trũng Achor
Ngay sau hôm được Chúa nhắc nhở về lời hứa nguyện bị lãng quên của mình, tôi
ghi danh vào Đại Chủng Viện Kinh Thánh Miền Nam California. Đây là Trường
Kinh Thánh duy nhất dạy bằng tiếng Đại Hàn lúc bấy giờ. Tôi không hề có ý định
sau khi tốt nghiệp sẽ làm Mục sư. Đơn giản tôi chỉ muốn biết thêm về Ngài đang
khi tôi có thời gian.
Tốt nghiệp xong, Chánh văn phòng của Hội Thánh Trưởng Lão đã bổ nhiệm tôi
làm Mục sư Phụ tá tại một nhà thờ Đại Hàn nhỏ. Tôi đấu tranh với bản thân mình
về danh hiệu đó vì tôi không muốn trở thành Mục sư.
Nhưng Ngài đến với tôi và phán rằng, “Tại sao con lại chần chừ? Con lo lắng về
chức vụ ấy chăng? Chẳng phải con đã hứa với Ta rằng con sẽ làm mọi sự vì cớ Ta
hay sao?” Ngay lập tức, tôi ăn năn tội của mình và nhận lời làm Mục sư Phụ tá.
Một ngày kia, văn phòng của Hội Thánh Trưởng Lão nhắn tôi đến để tường trình
về công việc của mình. Tôi đến văn phòng và thấy mình được giao cho nhiệm sở
mới. Cần có Mục sư đến giúp cho những phụ nữ người Đại Hàn đang sinh sống tại
căn cứ Không Quân Tucson, Tiểu Bang Arizona. Ứng cử viên đủ tiêu chuẩn phải
là một nữ Mục sư cao tuổi có thể được xem như một “người mẹ đức tin.”
Hội đồng tuyển chọn quyết định chọn tôi vì tôi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện nhất.
Họ muốn cử hành lễ tấn phong Mục sư và làm lễ tiễn tôi đi.
“Ồ không, chuyện này là như thế nào đây? Tôi không thể đi được.”
Ngay từ đầu, tôi đã không có ý định làm Mục sư Phụ tá, và càng không thể trở
thành Mục sư trọn thời gian. Tôi chỉ muốn hỗ trợ Hội Thánh một cách thầm lặng từ
phía sau. Tôi xin họ cho tôi một vài ngày để tôi có thể cầu nguyện. Tôi thậm chí
còn không rõ việc làm Mục sư trọn thời gian và gây dựng ngôi nhà thờ của chính
mình là như thế nào nữa. Nhưng nếu tôi không nhận lời thì kể như sự cam kết của
tôi đối với Ngài bị phá vỡ. Tôi băn khoăn lo lắng và không thể chợp mắt trong suốt
những ngày tôi cầu nguyện với Ngài.
Ngài lại đến, và bằng giọng nói dịu dàng, Ngài phán với tôi, “Con gái của Ta, tại
sao con lại lo lắng?”
“Con không thể làm được. Con không thể đi Tucson.”
“Sao con lại nghĩ mình không làm được? Hãy nhìn lại cuộc đời của con. Con có
tìm thấy được việc gì mà con làm bằng sức của mình không? Chính sự hiện diện
của Ta ở trong con đã giúp con thực hiện mọi việc đó. Chẳng phải con đã lớn tiếng
hát bản thánh ca rằng con sẽ đem Tin Lành thậm chí đến trũng Achor hay sao?”
Tôi không thể tranh luận với Ngài. Ngài biết từng ngõ ngách của tâm hồn tôi. Và
sự hổ thẹn về đời sống vị kỷ của tôi bị phơi bày ra trong ánh sáng của Ngài. Một
lần nữa, tôi lại tan vỡ ra trước Chúa và ăn năn về đức tin yếu đuối của mình.”
Vào lúc đó, tôi có thành kiến với những phụ nữ Đại Hàn lấy lính Mỹ và tôi không
thể công khai nói tiếng “vâng”. Nhưng tôi ăn năn về những thành kiến đó cùng
những tư tưởng ích kỷ của mình. Tôi phải thừa nhận rằng niềm kiêu hãnh vẫn còn
ngự trị trong tôi. Nó nói lên sự hư hoại của con người tôi. Tôi vẫn còn cách xa lối
sống thiên thượng.
Ngài đến và phán cách rõ ràng, “Con gái yêu dấu của Ta, tính cách của con và của
họ đều như nhau. Điểm khác biệt duy nhất là họ xuất thân từ gia đình nghèo và
không được giáo dục đến nơi đến chốn, còn con được sanh ra và nuôi dưỡng trong
một gia đình giàu có. Con sống đầy đủ, sung túc trong khi họ phải sống trong đói
khổ và bần hàn. Con mắc nợ họ nhiều lắm.”
Vâng, bao giờ Ngài cũng đúng. Một lần nữa, Ngài sửa dạy tôi khi tôi cố xét đoán
người khác bằng diện mạo bên ngoài của họ. Sự công bình của Ngài đã đập vỡ bức
tường thành kiến vốn châm rễ sâu trong lòng tôi. Tôi xưng tội với Ngài.
“Con sẽ vâng theo Chúa. Con sẽ đến đó và rửa chân cho họ. Chúa đã cho con thấy
Ngài đã rửa chân cho những người đánh cá thất học và khiến họ trở nên môn đồ
của Ngài như thế nào. Và Nước Ngài đã được rao truyền đi khắp thế giới qua
những con người đó. Tôi nói, “Vì Chúa đã khiến những con người ấy trở nên nền
móng của Nước Ngài thì chính mình con đây, con sẽ ra đi .”
“Nhưng Chúa ơi, Ngài biết con không có tài ăn nói và thiếu đức tin. Xin hãy ban
cho con cây gậy của Ngài.”
Ngài đã ghi khắc lời hứa của Ngài vào tâm khảm tôi bằng chính tiếng phán của
Ngài, giống như lúc Ngài khắc Mười Điều Răn vào hai bảng đá và trao cho
Môi-se.
‘Trong cơn gian truân, Ta sẽ ở cùng con,
Khi con mở miệng, Ta sẽ nói thay con,
Ta sẽ chữa lành cho những người bệnh mà con đặt tay cầu nguyện,
Con gái yêu dấu của Ta, hãy đi trong bình an vì đó là điều Ta muốn con làm.”
Một vài ngày sau, tôi bay đến Tucson, Arizona với cây gậy có ba lời hứa của Ngài.
Lúc ấy, tôi được năm mươi tám tuổi.
Những Viên Ngọc Trong Bùn
Hội Thánh phát hiện có một số người lấy cắp tiền trong giỏ tiền dâng bỏ vào túi
riêng của mình trong lễ thờ phượng sáng Chúa Nhật. Những việc làm không thể
tưởng tượng ấy đã nhiều lần làm tôi nản chí.
Một số người lê dép đến buổi nhóm thờ phượng sáng Chúa Nhật khi buổi nhóm
sắp kết thúc, một số nhai kẹo cao su trong nhà thờ cách trơ trẽn, một số đến nhóm
trong bộ đồ ngủ. Gương mặt của họ cho tôi biết họ vừa mới thức dậy; họ ngáp dài
mà không cần phải giấu giếm gì. Họ chửi rủa, đánh đập con cái; họ thường la hét
mà không có một lý do rõ ràng nào cả.
Khi tôi nhìn họ từ trên bục giảng, tôi có cảm tưởng đây là nhóm người không phải
ra từ nơi thờ phượng Chúa mà từ khu chợ lộn xộn trên đường. Nếp sống của họ
nằm ngoài sức tưởng tượng của tôi.
Một số người thậm chí không viết nỗi tên của mình. Họ được phân ra theo từng
thành phần, như vợ sĩ quan, vợ hạ sĩ quan, vợ người da trắng và vợ người da đen.
Họ ẩu đả nhau không biết bao nhiêu lần. Họ thường say rượu và ném chai lọ ra
đường. Có những lúc họ đánh nhau cho đến khi tất cả đều đổ máu. Họ không chải
đầu, cũng không trang điểm.
Tôi cố gắng để yêu thương họ, nhưng không kéo dài được bao lâu. Kiên nhẫn với
những con người này là một việc không dễ dàng chút nào. Mỗi ngày, tôi quỳ gối
cầu nguyện không biết bao nhiêu lần để tôi có thể nhìn họ bằng ánh mắt yêu
thương của Ngài.
Nhiều ngày trôi qua mà họ không tỏ ra có chút tiến bộ nào. Trong đôi mắt tuyệt
vọng của họ, tôi nhìn thấy những vết thương sâu hoắm và những vết sẹo từ sự phân
biệt đối xử của con người và xã hội. Tôi khám phá ở những con người này, những
suy nghĩ tự ti đang tranh chấp với lòng tự trọng cao độ của họ. Tôi nhận thấy
những vết thương lòng của họ đang được che đậy bằng sự kiêu kỳ một cách giả
tạo. Họ cố gắng sống còn bằng cách la hét trong khi bắt nạt kẻ khác.
Buổi đầu họ gặp tôi, trong đôi mắt họ đầy ắp sự ghen ghét. Nhưng thời gian trôi
qua, cũng chính những đôi mắt ấy mách bảo tôi rằng họ muốn nhận được tình yêu
thương, sự an ủi và sự thừa nhận từ người khác. Tôi nhận thấy họ cũng là những
con gái của Chúa. Những con người này phải sống xa quê hương và không được
chồng mình yêu thương. Họ đang chịu đựng một cuộc sống cô đơn và thiếu tình
yêu thương.
Cuối cùng, tôi cũng đã nhìn thấy con tim của họ. Tôi xắn tay áo và quỳ gối trước
họ. Tôi rửa chân họ trong nước của niềm an ủi và sự hy vọng. Khi tôi chăm sóc
những em bé bị bỏ rơi trong sa mạc như con của mình thì cũng chính lúc ấy tôi
đang đưa từng linh hồn đến với Chúa. Tôi xoa dịu những vết thương của sự cô đơn
hằn sâu trong lòng họ. Tôi thả chiếc gàu xuống giếng yêu thương không biết bao
nhiêu lần. Đó là tình yêu thương vô điều kiện.
Cuối cùng những tâm hồn đóng chặt của họ đã có hồi âm. Họ đến với tôi và mở
lòng ra một các chậm rãi và thận trọng. Tôi dạy những người chưa bao giờ có điều
kiện học hành những điều cơ bản nhất trong cách sống hằng ngày. Tôi dạy họ cách
xử sự như một người phụ nữ, một người vợ. Tôi dạy họ cách chăm sóc nhà cửa.
Tối thiểu một giờ trước khi chồng họ đi làm về, họ phải dọn dẹp sạch sẽ căn nhà
hay căn hộ của mình, phải tắm rửa, làm tóc, trang điểm, bận đồ sạch sẽ và nấu món
ăn mà chồng họ ưa thích. Tôi dạy họ như người mẹ dạy dỗ con mình.
Tôi dán lên vách một tấm biểu đồ lớn để thể hiện mức độ vâng lời của họ. Ai làm
theo những điều tôi dạy thì sẽ nhận chữ “O”, bằng không sẽ là chữ “X” bên cạnh
tên của mình. Sự cô đơn bấy lâu bị khinh khi, không ai đếm xỉa tới của họ nay
được đáp lại bằng một tình yêu vô điều kiện. Họ hưởng ứng bằng cách vâng phục
từng chút một. Một khoảng thời gian sau, tôi thấy trên biểu đồ xuất hiện nhiều chữ
“O” hơn là chữ “X.”
Tôi dạy họ sự hòa bình, vốn sẽ xóa đi sự ngăn cách giữa các sĩ quan và quân lính,
giữa da trắng và da đen. Họ bắt đầu nhận biết rằng không có sự phân biệt tầng lớp
trong nước của Ngài. Tại nơi đó không hề có sự khác nhau của màu da và cấp bậc.
Hầu hết những người phụ nữ ấy không đi làm nên sáng chiều họ cứ lui tới căn hộ
của tôi như ngôi nhà của mình. Tôi nấu những món ăn Đại Hàn mà họ ao ước được
ăn đã lâu. Trong lúc họ ăn, tôi nói cho họ nghe về Chúa. Họ nghe tôi kể một câu
chuyện nhiều lần, nhưng vẫn cứ muốn được nghe đi nghe lại. Đức tin đến từ sự
người ta nghe.
Có những lần bọn trẻ con bị bệnh, tôi đặt tay cầu nguyện cho chúng và cơn sốt biến
mất như lời Ngài đã hứa với tôi. Sau đó chúng đi ngủ với mẹ và được nghe kể
những câu chuyện mà tôi đã kể cho mẹ của chúng nghe.
Thánh Linh của Ngài đã đem cơn mưa phước lành tưới mát những ngọn đồi và
những thung lũng đã bị chiếm ngự bởi linh của sự khô khan và đổ vỡ. Bức tường
ngăn cách giữa họ đã biến mất. Những nụ cười trước đây không thấy thì bây giờ đã
xuất hiện trên gương mặt của những con người ấy. Những vết thương lòng dần dần
được rịt lành.
Đấng Đã Đến Nơi Thấp Nhất
“Hãy chỉ cho tôi thấy thì tôi sẽ tin lời bà.”
Tôi phục vụ bữa trưa cho một phòng đầy người. Sau khi họ ra về, tôi đi nằm nghỉ
trên ghế trường kỷ. Lúc ấy, bà Thompson bước vào phòng và bắt đầu kiếm chuyện
với tôi. Chồng bà là một sĩ quan da đen; khắp khu căn cứ đâu đâu cũng nghe tiếng
xấu của bà. Bà say rượu cả ngày lẫn đêm và là một kẻ quấy rối xã hội.
Khi bà say rượu, bà hét lên rằng đây không phải là chỗ của bà. Có người nói bà là
một trong số ít người có bằng Trung học. Họ gọi bà là một người trí thức. Tôi ở
đây được vài tháng và bà là người duy nhất không chào tôi. Bà tranh luận với
những phụ nữ khác và hỏi họ tại sao lại đi nhà thờ. Bà là nữ chúa của sự tối tăm;
không một ai có thể đến gần bà.
Tôi cầu nguyện rất nhiều cho bà. Thế rồi một ngày kia, bà đến trước cửa nhà tôi.
Dường như bà quyết tâm đấu với tôi trận cuối cùng.
“Tôi sẽ tin nếu bà chỉ cho tôi thấy. Hãy chỉ đi!”
Làm sao tôi có thể chỉ cho bà thấy điều mà một người chỉ có thể thấy được bằng
con mắt đức tin đây? Tôi giúp bà bình tĩnh trở lại và bắt đầu giải thích cho bà. Tôi
vẽ những hình ảnh ra giấy.
“Bà Thompson ơi, xin hãy lắng nghe những điều tôi sắp nói đây. Bà có thể hiểu dễ
dàng vì bà là một người thông minh và có học. Có hai thế giới khác nhau: thế giới
hữu hình và thế giới vô hình. Chẳng hạn, người ta có thể nhìn thấy bà nhưng tình
yêu và sự ghen ghét của bà thì không ai có thể thấy được. Dầu vậy, nó vẫn ở trong
bà. Nếu con gái bà đến hỏi bà có yêu cháu không thì chắc chắn bà sẽ trả lời có. Và
rồi em xin bà cho em thấy tình yêu đó của bà. Bà thật sự thương yêu em và bà biết
tình yêu đó hiện hữu nhưng làm cách nào bà có thể chỉ cho em thấy tình yêu đó
được? Có thể bà sẽ trả lời rằng, “Mẹ yêu con. Hãy tin lời mẹ.”
Tôi vẽ một bức hình trên giấy. Đó là một thế giới có hoa cỏ, có loài vật, những chú
chó con, những con thỏ và con người. Nhưng bên cạnh đó còn có một thế giới khác
nữa.
“Bà có thể nhìn thấy thế giới hữu hình, nhưng còn có một thế giới vô hình nữa. Và
đó là thế giới cao siêu nhất, tồn tại trên tất cả các thế giới khác. Thế giới này vượt
quá sự khôn ngoan của loài người. Một con chó không thể hiểu hết tâm trí của chủ
mình. Cũng giống như vậy, thế giới tâm linh chỉ có thể được nhìn thấy bằng con
mắt đức tin mà thôi.”
Tôi vẽ hình và giải thích cho bà. Bà gật đầu tỏ vẻ đồng ý, nhưng rồi bà lại tiếp tục
tranh luận.
“Thưa Mục sư, tôi vẫn không thể hiểu nổi. Hãy chỉ cho tôi thấy Đấng mà bà đặt
lòng tin thì tôi sẽ tin.”
Tôi cảm thấy mệt mỏi. Sau cùng tôi bỏ cuộc. Tôi cầm tay bà và bắt đầu cầu nguyện
tha thiết trong lòng. Tôi không thể chỉ cho bà. Điều ấy chỉ có thể thực hiện được
bởi đức tin mà thôi.
Tôi cảm thương cho bà. Bà có mắt nhưng không thể thấy thế giới tâm linh. Tôi cầu
xin Ngài bày tỏ lòng thương xót đối với bà, để bà có thể nhìn thấy được Ngài. Lời
cầu nguyện khẩn thiết của tôi trở thành tiếng khóc thổn thức. Một lúc sau, tôi mở
mắt ra và thấy bà đang ngồi im bất động.
Bà ngồi không nhúc nhích khoảng mười đến mười lăm phút. Thình lình, bà gục
đầu vào lòng tôi và cất lên tiếng khóc.
“Mục sư ơi, tôi đã nhìn thấy rồi. Tôi trông thấy rất rõ. Những điều Mục sư nói với
tôi là sự thật.”
Giọng nói của bà đã trở nên nhẹ nhàng hơn. Tôi trấn an bà và hỏi bà đã thấy những
gì. Bà kể bà thấy trước mặt mình là một cây thập tự lòa sáng. Cả lúc nhắm mắt lẫn
lúc mở mắt, bà đều nhìn thấy cây thập tự ấy.
Ồ! Lại chính là Ngài đã làm điều đó. Vì lòng thương xót đối với bà, Chúa đã bày tỏ
cho bà thế giới không nhìn thấy được của Ngài. Sau đó, tính tình của bà thay đổi
một cách mãnh liệt. Bà đi nhà thờ. Bà đi ra và khởi sự nói cho người khác nghe về
Chúa. Bà đi thăm viếng từng căn nhà, căn hộ và mời họ đi nhà thờ. Tuần nào bà
cũng đem vài người đến nhà thờ.
Đây là một chức vụ khó khăn đòi hỏi nhiều công sức. Tôi phải lao động cực nhọc
hơn khi gieo hạt, nhưng đồng thời sự ngọt ngào của mùa gặt cũng tăng lên gấp bội.
Họ là những người thất học và dữ dằn, nhưng họ cũng đẹp đẽ và chân chất.
Ở đâu cũng có dấu vết của Ngài. Ngài đẩy từ phía sau, kéo từ phía trước và nhấc
lên từ trên cao. Họ được chữa lành mỗi khi linh hồn và con tim họ được bàn tay
yêu thương của Ngài rờ đụng đến. Và họ đến với Ngài từng bước một. Họ từng là
những người lấy trộm tiền dâng, nhưng giờ đây họ chuẩn bị tiền dâng trong phong
bì một ngày trước lễ thờ phượng với lòng biết ơn sâu xa. Đã có lần họ bị chia rẽ và
cãi vả với nhau về đủ mọi chuyện; còn bây giờ họ cảm thông, giúp đỡ lẫn nhau và
che đậy những sự yếu đuối của nhau.
Tủ lạnh của tôi đầy ắp thức ăn và trái cây mà họ âm thầm mang ra từ kho lương
thực của khu căn cứ. Họ thường khoe là đem được một số kẹo cho tôi. Họ từng say
rượu cả ngày lẫn đêm, nhưng giờ đây họ tránh xa rượu. Họ được biến đổi trở nên
những người mẹ tốt và những người vợ biết vâng phục chồng. Trong quá trình thay
đổi đó, người chồng sẵn sàng làm bất cứ điều gì để có thể giúp đỡ vợ mình. Khi vợ
họ cần gặp tôi, họ liền đưa vợ họ đến dù là có trễ bao nhiêu đi chăng nữa. Họ
thường ngủ gật trong khi chờ đợi chúng tôi kết thúc cuộc nói chuyện.
Sự đụng chạm đầy yêu thương của Ngài đã thay đổi con người họ. Ngài chữa lành
và xoa dịu những vết thương trong lòng họ và ban cho họ danh xưng mới khi họ
được sanh lại như một Cơ-đốc Nhân thật sự. Đã có lúc, những đôi mắt của họ đỏ
ngầu vì say rượu và vì những cuộc ẩu đả. Nhưng giờ đây, những đôi mắt đó đã trở
nên tinh sạch và sáng ngời hy vọng thiên thượng. Những môi miệng từng đầy dẫy
những lời xấu xa giờ đây được thay thế bằng những môi miệng của sự ca ngợi và
những lời làm chứng về danh của Ngài.
Họ từng bị khinh bỉ bởi những định kiến của xã hội, nhưng giờ đây họ mạnh dạn
cầm tay Ngài bước ra. Họ hát về niềm hy vọng trong bộ áo cứu rỗi màu trắng mà
Ngài đã ban tặng cho họ. Họ trở nên "những người phụ nữ hạnh phúc" từng ngày
một.
Qua những sự mệt mỏi và khó chịu trong người, tôi nhận ra mình đang bị tiểu
đường. Sức khỏe của tôi xuống dần và tôi không thể tiếp tục trong chức vụ được
nữa. Tôi thông báo cho Văn phòng của Hội Thánh Trưởng Lão và họ chấp thuận
cho tôi trở lại Los Angeles.
Trước ngày tôi ra đi, tất cả những người chồng đều xin nghỉ phép một ngày. Chúng
tôi cùng đến thăm một viện bảo tàng. Mọi người dường như rất vui về mọi sự trừ
việc ra đi của tôi. Chỉ nhìn thấy họ cũng đã làm rộn lên trong tôi niềm hạnh phúc
rồi. Lòng tôi cất tiếng ca ngợi Ngài trong lúc Lời Ngài vang vọng, “Tình yêu
thương hay nhịn nhục, tình yêu thương chẳng kiếm tư lợi, tình yêu thương nín chịu
mọi sự…”
Vào ngày tôi ra đi, cái sân bay nhỏ chật ních những phụ nữ ở nhà thờ cùng với
chồng của họ. Những người có mặt ở đó có vẻ tò mò khi nhìn thấy một phụ nữ cao
tuổi người Châu Á đang được mọi người vây quanh và ôm chầm lấy.
Không còn có sự phân biệt nào nữa giữa sĩ quan và quân lính, giữa da trắng và da
đen khi tất cả chúng tôi nắm tay nhau cùng chia sẻ nỗi buồn vào phút tiễn biệt.
Họ là những anh chị em hiệp một trong Đấng Christ. Giữa họ giờ đây không còn
bức tường ngăn cách nào nữa mà thay vào đó là bức tường yêu thương đẹp đẽ đang
bao bọc lấy họ.
Dòng sông bình an phát xuất từ nơi Ngài tuôn tràn trong lòng họ khi họ nhóm lại
trong danh Ngài. Chính Ngài đã bao bọc họ bằng bức tường của tình yêu thương.
Và cũng chính Ngài đã sơn lên mặt trong của bức tường ấy tình yêu thương, sự
bình an, sự hòa giải, sự khiêm nhường, sự nhơn từ và sự nhịn nhục rực rỡ sắc màu
thiên thượng. Ngài thật là Đức Chúa Trời hằng sống. Ánh sáng tình yêu của Ngài
chiếu rọi từng ngõ ngách tối tăm của thị trấn nhỏ trong khu căn cứ Không quân xa
xôi ở Tucson, Arizona ấy.
Ngài vui mừng kêu gọi những linh hồn bị lãng quên. Ngài gìn giữ họ trong cánh
tay của Ngài, Ngài đưa họ lên và khiến họ trở nên con cái Ngài. Khi tôi nhìn họ
qua hàng nước mắt lúc bước lên máy bay, Ngài phán nhỏ nhẹ trong lòng tôi, “Ta
đến để giải cứu tội nhân, chữa lành những kẻ bệnh tật và tìm kiếm những linh hồn
lạc mất.”sự dâng mình của tôi.
Giỏ Đầy Thứ Chín: VÀ RỒI, SAU ĐÓ
Những Con Đỏ Ngài Giao Tôi Chăm Sóc
Người Phụ Nữ Cõng Chồng Trên Lưng
Những Con Đỏ Ngài Giao Tôi Chăm Sóc
“Thưa chị, chúng tôi gặp nhiều rắc rối tại Trường. Tôi xin chị quay về đây và tiếp
quản chức Chủ tịch Hội đồng Quản trị của Trường. Chị là người duy nhất trong gia
đình có đủ khả năng để kế nhiệm chức vụ. Thưa chị, chị biết việc này quan trọng ra
sao. Xin hãy quay về và giúp tôi với.” Đó là cú điện thoại từ người bà con của tôi,
người đang giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quản trị của Trường Đại Học ở Đại
Hàn..
Nhưng sau mười lăm năm trở nên nhỏ bé và nghèo hèn nơi đất Mỹ, giờ đây tôi đã
hiểu được ý nghĩa thật của niềm hạnh phúc. Chức vụ mà tôi được mời làm ở Đại
Hàn chẳng có chút ý nghĩa gì đối với tôi.
Từ lúc trở về từ Tucson, Arizona năm 1983, sức khỏe tôi không được tốt, chủ yếu
là do bệnh tiểu đường gây ra, nhưng nhờ ơn Chúa tôi vẫn có thể làm Mục sư Cố
vấn cho một số nhà thờ trong khoảng thời gian chín năm. Tôi mất tất cả của cải và
danh vọng mà trong quá khứ tôi đã vui hưởng, nhưng thay vào đó là niềm hạnh
phúc thật mà tôi có được khi khám phá ra những kho tàng quý giá trong lòng tôi.
Tôi sống trong hạnh phúc tại căn hộ nhỏ của tôi ở Los Angeles.
Mỗi buổi sáng khi tôi mở cửa sổ của phòng mình, tâm hồn tôi ngập tràn sự vinh
hiển và sự phong phú từ nơi Ngài. À thì ra, niềm hạnh phúc thật không đến từ sự
giàu có và danh vọng. Hạnh phúc là vô hình, nhưng với niềm vui mừng, bạn có thể
cảm nhận và rờ đụng được nó. Đó là phước hạnh của sự bình an và sự yên nghỉ
thật nơi Chúa.
Tôi sống mỗi ngày như đứa bé sống trong vòng tay yêu thương của mẹ; tôi được
bảo bọc bởi tình thương của Ngài, giống như mặt hồ phẳng lặng trở lại vào lúc
hoàng hôn sau khi một cơn giông thổi qua. Tôi sống trong niềm vui và sự cảm tạ
với tấm lòng chỉ tin cậy nơi Chúa mà thôi. Mười lăm năm dài cực khổ nơi đồng
vắng là khoảng thời gian giá trị và quý báu nhất để tôi trở nên trống không và thấp
bé trong ơn của Ngài.
Các con tôi tất cả đều đã trưởng thành và có gia đình riêng. Nhưng tôi không đơn
độc trong căn hộ của mình vì ở đấy có tới hai người. Sự sáng của Ngài tràn ngập
trong tâm hồn tôi, xua tan tất cả niềm kiêu hãnh, sự ghen tỵ, sự cô đơn, những
thành kiến, sự nóng giận, lòng ghen ghét cùng mọi lời ta thán.
Ngài sửa soạn tôi tại nơi đồng vắng cho đến lúc tôi được sáu mươi chín tuổi. Ngài
đưa đến cho tôi những con chiên lạc mất và bảo tôi chăm sóc chúng. Vào thời điểm
ấy có tin đồn là Chúa Giê-xu sẽ tái lâm vào tháng Chín, 1988. Hành trình trên đất
của tôi chưa chấm dứt, nhưng tôi ao ước được về nhà trên trời biết bao. Lòng tôi
khao khát được sống bên Đấng mà tôi đã gặp năm hai mươi ba tuổi. Tôi bị ghép tội
đã tung ra những tin đồn thất thiệt đơn giản chỉ vì tôi trông mong Ngài trở lại.
Nhiều bạn bè và nhà thờ hiểu lầm ý của tôi.
Lúc tôi được bảy mươi lăm tuổi, mười năm sau biến cố đó, lòng tôi càng mong mỏi
gặp Chúa còn nhiều hơn trước, như cô dâu chờ đợi chú rể đến đón mình. Tôi muốn
mọi người hiểu rõ rằng người đầy tớ Chúa cao tuổi này ao ước được ở với Chúa
hơn bất cứ điều gì khác; đó là hy vọng duy nhất của tôi.
Vào mùa hè năm những tin đồn được tung ra, tiếng kèn báo hiệu “sự trở lại của
Ngài” đã thức tỉnh nhiều linh hồn đang ngủ say. Ngài đem đến cho tôi những phụ
nữ chưa tin Chúa nhưng có tấm lòng muốn tìm kiếm Ngài. Họ che đậy con người
mình bằng sự học thức, nền văn hóa, sự giáo dục và hình dáng tao nhã bên ngoài.
Lòng họ chất chứa niềm kiêu hãnh, sự tự tin, lòng tự trọng, tự tôn và sự giả hình,
nhưng họ không thấy được con người của chính mình. Đằng sau những khuôn mặt
được trang điểm đẹp đẽ là những vết sẹo hằn sâu của niềm kiêu hãnh và những
niềm đau được chôn giấu. Họ muốn thoát khỏi hoàn cảnh của mình, nhưng những
niềm đau của sự bất hạnh đã khiến họ sống một cách âm thầm lặng lẽ. Những điều
đó được sản sinh ra từ sự tự tin được giấu kín trong lòng họ. Họ trông có vẻ giàu
có, nhưng thật ra họ nghèo nàn và cô đơn. Họ đang sống thiếu hạnh phúc.
Những phụ nữ ở Tucson, Arizona đã trung thực khi nhìn biết rằng họ đang ở tận
đáy cuộc sống và họ đối chọi nhau không cần phải giấu giếm. Nhưng những người
phụ nữ có học thức này phải chịu đựng nhiều hơn gấp bội vì lòng kiêu hãnh về
nhân cách, nền văn hóa họ có được cùng lòng tự tin của họ. Dù giàu hay nghèo, có
học hay dốt nát, không có Chúa chúng ta sẽ như con chiên lạc.
Một số người đi nhà thờ, một số thừa hưởng niềm tin từ cha mẹ, một số đã làm
công việc Chúa trong một thời gian dài. Nhưng tấm lòng của họ không khác gì
những chiếc vỏ trống rỗng, họ hoàn toàn không có lòng trông cậy nơi sự dẫn dắt
của Chúa. Họ sống bằng những suy nghĩ và những quyết định của riêng mình. Họ
chỉ tin Chúa bởi sự hiểu biết của trí óc, còn trong lòng họ không hề có sự tin cậy
Chúa. Họ cần phải gặp Đấng mà tôi đã gặp năm hai mươi ba tuổi.
Việc đầu tiên Ngài khiến tôi làm đó là trở thành bà đỡ cho những con chiên lạc đó
được sanh ra một lần nữa. Tôi bắt đầu gặp gỡ họ khi Ngài hướng dẫn tôi đến với
từng người một.
Việc tin Chúa bởi đức tin hoàn toàn khác với việc tin Ngài bởi trí hiểu. Đó chính là
sự khác nhau giữa sự sống và sự chết, thiên đàng và địa ngục. Bạn thường đi nhà
thờ và làm nhiều việc lành, nhưng bạn không có mối thông công với Chúa. Chính
vì điều ấy mà bạn không có một mối liên hệ sống động với Ngài. Môi miệng bạn
xưng rằng Ngài đã chết vì tội lỗi của bạn nhưng tận trong sâu thẳm của lòng mình,
bạn không tin điều đó.
Tôi bảo họ hãy soi mình trong tấm gương của Mười Điều Răn mà Chúa đã khắc
vào bảng đá cho dân Ngài. Trong quá trình nhìn nhận lại con người mình dưới sự
dẫn dắt của ánh sáng Chúa, họ bắt đầu nhận ra những tội lỗi kinh khiếp của mình.
Họ thấy rằng không có lối thoát nào khỏi cái hố sâu vô cùng của tội lỗi mà không
cần đến huyết cứu chuộc của Ngài. Sự sáng của Ngài đã khiến họ ăn năn từng tội
lỗi dù nhỏ nhặt trong lòng họ.
Họ thật có phước khi được tái sanh và trở nên con cái của Ngài, đó là phước hạnh
mà không có điều gì của trần gian này có thể mua được. Làm sao một người có thể
đi và chạy nếu không được sanh ra? Và nếu không nhận được sự sống của Ngài thì
làm sao người ấy có thể từ bỏ bản ngã của mình để đi trên con đường hẹp dẫn tới
Thiên quốc? Từ trong bóng tối, tất cả những người ấy bước ra và được sanh lại như
những chú gà con vừa mới nở. Chính tình yêu sâu xa và lòng thương xót vô biên
của Đức Chúa Trời đã thay đổi con người họ. Họ trông thật đẹp đẽ khi được tái
sanh bởi sự sống của Ngài.
Ngài giao cho tôi một nhóm tín hữu con đỏ và hỏi tôi, “Con có thể cho họ uống sữa
và thay tả cho họ giúp Ta không?” Tôi chỉ có thể trả lời, “Thưa vâng” như một
người đầy tớ vô dụng.
Họ có những hình hài khác nhau và mỗi người một cách, giống như khuôn mặt của
con người, không ai giống ai: người cười, người khóc, người vấp ngã, người mù
lòa và người tức giận. Tôi đánh thức họ dậy để họ khỏi sa ngã. Họ bước đi như
những chú vịt con xấu xí, nhưng vẫn cố xếp hàng trước cổng vào đường hẹp dẫn
tới sự sống vĩnh hằng.
Đến một ngày nọ, tôi quá mệt mỏi với việc chăm sóc họ và tôi quyết định cùng đi
với một người bà con ở Đại Hàn đến Hawaii để nghỉ ngơi một vài ngày. Đã đến lúc
tôi phải rời Los Angeles. Tôi để mọi gánh nặng lại đằng sau để đi đến Hawaii. Tôi
rất phấn khởi và hài lòng với chuyến đi. Tôi đến nơi và thả mớ hành lý của mình
tại phòng khách sạn. Và rồi, tôi nghe tiếng Ngài gọi tôi.
“Con đang làm gì vậy? Hãy cầu nguyện ngay cho họ đi!”
Lập tức tôi cầu nguyện cho họ. Trong lúc cầu nguyện, Ngài cho tôi thấy hình ảnh
của những em bé bệnh hoạn. Chỉ mới vài giờ trước tôi còn cho họ uống sữa và thay
tả cho họ, nhưng Ngài cho tôi thấy họ vẫn còn đau đớn và quằn quại trong bệnh tật.
Niềm ao ước có một chuyến đi thư giãn của tôi tan vỡ. Cha mẹ nào có thể vui vẻ đi
chơi khi biết con mình đang bị bệnh ở nhà. Chuyến đi của tôi không còn là chuyến
đi nghỉ mát nữa. Tôi cầu nguyện cho họ tại phòng khách sạn hầu hết thời gian ở tại
Hawaii.
Tôi dạy dỗ một người, nhưng cô ta chóng quên những gì được dạy. Tôi đỡ người
này dậy thì người kia ngã xuống, những người cứng đầu thì gây rối bằng cách
kháng cự. Chúa ơi, sao Ngài lại giao cho con những đứa con bệnh hoạn như thế
này để gây phiền muộn cho cuộc sống của con? Ở tuổi này, con cần được nghỉ
ngơi. Con có cần phải trải qua những khó khăn trắc trở này không? Xin hãy thương
xót con Chúa ơi! Nhưng Ngài không rút lại ý định của mình. Ngài tiếp tục phán với
tôi, “Họ là những con chiên mà Ta yêu quý. Nếu con yêu Ta thì hãy chăn chiên
Ta.”
Mỗi khi tôi có cảm tưởng muốn gởi những đứa trẻ ấy vào trại mồ côi thì Ngài lại
đến và nhắc nhở tôi, “Họ là những con chiên bé bỏng mà Ta đã cứu chuộc bằng
chính huyết của mình.”
Trước sự công bình của Ngài, từng chút một họ bắt đầu nhận ra sự lệch lạc của
mình và ăn năn tội để được huyết của Ngài thanh tẩy. Lần hồi, sự kiêu ngạo, sự giả
hình, sự ghen tỵ và sự tham lam được lột bỏ khỏi tấm lòng của họ. Họ đi từng bước
về phía trước khi đôi mắt thuộc linh của họ mở ra. Khi họ nhìn thấy mình mỏng
manh chẳng khác nào làn sương sớm, họ thừa nhận rằng họ không thể làm gì nếu
không được Ngài giúp đỡ. Họ bắt đầu hiểu ra rằng chính tội lỗi đã chất chứa trong
lòng họ sự ghen ghét và khiến họ không thể tha thứ cho nhau. Vì thế, họ cắt đứt sợi
dây ghen ghét và ôm lấy nhau trên chiếc cầu của sự hoà giải.
Những tấm lòng hay xét đoán và phê phán được thay đổi khi họ nhận thấy sự thô bỉ
và những thiếu sót của chính con người mình. Họ bắt đầu lánh xa sự đam mê xác
thịt, lòng tham của mắt, sự kiêu ngạo của đời, những ham muốn cùng những sự
tham lam đời này vốn từ lâu đã là một phần của họ. Qua cánh cửa của niềm hy
vọng, họ hình dung ra phần thưởng đời đời trong vương quốc của Ngài mà Ngài đã
hứa cho họ.
Món quà đặc biệt mà Ngài dành cho tôi khi Ngài đem con gái út của tôi về với
Ngài là Ngài sử dụng tôi một cách đầy quyền năng trong việc chăm sóc bầy chiên
này. Những tội lỗi nhỏ cùng những tâm linh nhơ nhuốc mà thế gian xem nhẹ nay
được phơi bày ra trước mắt Ngài. Thanh gươm hai lưỡi của Ngài đã chia cắt hồn
linh họ, đã dạy họ biết tình yêu thương và sự công bình dẫn tới con đường thẳng và
hẹp của Ngài. Bầy chiên con được ban phước khi chúng ăn năn và xưng ra tội lỗi
mình. Chúng được dẫn tới đồng cỏ xanh tươi và mé nước bình tịnh.
Ánh sáng chiếu soi tâm hồn họ và họ được biến đổi thành những người phụ nữ
hạnh phúc ngày càng bước đến gần với Chúa hơn. Họ đến với tôi mỗi ngày và
được huấn luyện trong ba năm. Như đã làm tại Tucson, Arizona, tôi cho họ ăn trưa,
ăn tối và dạy họ đức tin thật nơi đường lối Ngài. Chúng tôi cầm tay nhau trong
nước mắt. Sự chết của tôi đã trở thành sự sống của họ. Bầy chiên còi cọc đang lớn
lên từng chút một bởi tình yêu và sự công chính của Ngài. Qua tôi, Ngài thực hiện
công việc của Ngài trong những con người ấy. Giữa tôi và họ không còn là quan hệ
giữa Mục sư và Chấp sự nữa mà là giữa một người mẹ đức tin và con gái đức tin
của mình.
Tôi thật cảm tạ Chúa vì mặc dầu Ngài đem con gái út tôi đi, nhưng Ngài ban cho
tôi nhiều con gái đức tin để thay vào chỗ của cháu. Ngài an ủi tôi và bày tỏ tình
yêu của Ngài cho tôi qua những đứa con ấy. Họ yêu thương tôi lúc tôi yếu đuối.
Những lúc tôi phải đi qua trũng bóng chết, họ giúp tôi bằng những lời cầu nguyện
chan đầy nước mắt.
Khi tôi không thấy đường, họ là đôi mắt của tôi và luôn sát cánh để giúp đỡ tôi.
Khi tôi không thể uống nước, họ mớm cho tôi từng muỗng một trong nước mắt.
Khi tôi khóc trong thất vọng, họ đến và tay trong tay, họ chia sẻ những ưu phiền
của tôi qua hai hàng nước mắt. Khi mắt tôi hoàn toàn khép chặt, họ khóc với Ngài
và xin được cho tôi đôi mắt của họ. Tôi có được những điều này là bởi tình yêu
thương mà Ngài bày tỏ cho tôi qua những người con đức tin này.
Từ trong sâu thẳm của tâm hồn, tôi muốn một lần nữa dâng lời cảm tạ ơn Chúa.
Tôi muốn tuyên xưng đức tin của mình đối với Chúa khi tôi hát bản Thánh ca này:
"Tất cả bản thân con và những gì con có là do ân điển Chúa ban; con xin dâng lên
Chúa yêu niềm vui, nỗi buồn, đời sống riêng mang; linh hồn con được rỗi suốt cõi
vĩnh hằng, lòng con vui thỏa khi con diện kiến Thiên nhan."
“Cảm tạ Chúa yêu dấu của con!”
Người Phụ Nữ Cõng Chồng Trên Lưng
“Thưa Mục sư, đây là món quà nhỏ chúng con xin gửi tặng Mục sư. Xin hãy nhận
lấy tấm lòng của chúng con.” Họ trao món quà cho tôi bằng hai tay. Bên trong
chiếc hộp được gói giấy xinh xắn là một chiếc đồng hồ đeo tay. Tôi là công cụ của
Ngài và giờ đây Ngài thưởng cho tôi.
Chuyện tưởng chừng như mới xảy ra hôm qua khi tôi quỳ trước chồng của cô van
xin anh tha thứ cho cô vì tôi không muốn con gái đức tin của tôi đau đớn. Mắt tôi
tuôn tràn giọt lệ khi đứng trước mặt tôi bây giờ là hai con người hoàn toàn khác
trước. Đó là những giọt nước mắt ấm áp tuôn ra từ lòng biết ơn Đấng đã giải cứu
họ khỏi bóng đêm mịt mù và chăm sóc gia đình họ.
Tôi gặp cô gái vào tháng Mười Một năm 1991. Lần đầu tôi trông thấy cô, cô gầy
gò đến mức tưởng chừng gió có thể thổi bay đi. Sự phiền muộn cùng sự chịu đựng
kéo dài khiến cho đôi mắt của cô không còn sức sống nữa. Cô sống mà dường như
đã chết. Tôi lắng nghe câu chuyện của cô mà không ngăn được nước mắt.
Cô là con út trong một gia đình khá giả có bảy anh chị em. Cô lớn lên trong tình
yêu thương và sự đùm bọc của các anh chị trong nhà. Tại Trường Cao đẳng, cô
được giới thiệu với một người mà sau đó là bạn trai của cô, và cô đã lấy anh ta
trước sự phản đối của gia đình.
Sau này, người ta được biết rằng chồng cô bị tổn thương tình cảm nghiêm trọng vì
bị mẹ hành hạ trong giai đoạn anh đang phát triển. Sau khi lập gia đình, tính tình
anh trở nên dữ dằn và anh đánh đập vợ mình mỗi khi anh say rượu. Sự thù hằn vì
thiếu tình thương giấu kín trong anh bấy lâu giờ đây lộ ra mỗi khi anh say rượu.
Điều đó hoàn toàn trái ngược với thời niên thiếu của cô gái. Cô chết đi sống lại sau
những lần bị ném vào góc nhà, bị đánh đập, tra tấn và làm nhục. Một hôm, anh
muốn lấy món quà kỷ niệm bằng vàng của con gái đem bán để mua rượu. Đó là
món quà cháu bé được ông ngoại tặng cho nhân dịp sinh nhật lần thứ nhất của
cháu. Cô hỏi, “Anh còn muốn bán luôn cả quà sinh nhật của con mình để mua rượu
uống sao?”
Lúc đó, đầu óc anh đã không còn tỉnh táo nữa. Thân hình nặng nề của anh lắc lư dữ
dội và anh đã lấy cây vợt tennis đánh vào chân cô. Khi cô ngất xỉu trên sàn nhà,
anh liền chộp lấy món quà và đi khỏi. Mãi đến ba năm sau, những vết bầm đó mới
biến mất.
Một ngày nọ, anh lại về nhà trong tình trạng say khướt. Biết trước chuyện gì sắp
xảy ra, trong lúc anh đang thay đồ, cô ẵm con và chạy trốn khỏi nhà với đôi chân
trần giữa mùa đông giá lạnh. Anh đuổi theo cô và hét lớn, “Tao sẽ giết mày.” Cô
nghĩ nếu chạy ra đường thì chắc chắn anh sẽ tóm được cô vì anh chạy nhanh hơn.
Vì thế cô chạy lên tầng năm của khu cư xá và tìm một chỗ để trốn và cô tìm thấy
một lò sưởi đốt bằng than. Cô chui vào trong với con mình và kéo nắp lò đậy lại.
Cô hầu như ngừng thở khi nghe chồng mình tiến lại gần. Lần đầu tiên trong đời, cô
khẩn cầu với một người nào đó, “Xin hãy giữ tôi an toàn ở đây.”
Cô không muốn đứa bé cất tiếng khóc và cũng không muốn chồng mình phát hiện
ra chỗ ẩn núp của mình. Hơi nóng phả ra từ lò sưởi tưởng chừng như đang đốt
cháy da cô. Bên ngoài lò sưởi, chồng cô đang tìm giết cô. Hơi nóng trong lò thật
dữ dội hầu như muốn thiêu sống cô. Cô cố lấy quần áo mình bọc lấy con và che
đậy cơ thể mình lại. Chồng cô tìm cô khắp nơi với cây đèn pin nhưng không phát
hiện ra cô. Anh buông lời chửi thề và bỏ đi xuống lầu. Cô nghe tiếng cửa nhà mình
đóng lại. Cô chui ra khỏi lò sưởi cùng với con mình và gục đầu vào chiếc mền của
đứa bé và khóc nức nở.
Thói say rượu và đánh đập vợ lại tiếp diễn. Cuộc sống của cô là sự chết và nỗi
thống khổ kéo dài vô tận. Cô muốn ly dị anh, nhưng cha cô phản đối quyết liệt và
nói rằng, “Đợi tao chết rồi mày muốn làm gì thì làm.” Cô không còn biết phải sống
như thế nào nữa. Cô không thể tiếp tục sống với chồng mình và con đường duy
nhất mà cô nghĩ tới là tìm đến cái chết. Cô mua và để dành nhiều viên thuốc ngủ.
Cô quyết định uống thuốc ngủ để có thể chết trong khi ngủ. Nhưng khi cô sắp sửa
bỏ thuốc vào miệng thì đứa bé chợt tỉnh giấc và mỉm cười với cô.
Cô đổi ý. Nếu mình chết đi, mình sẽ không còn phải đau đớn nữa, nhưng còn con
mình thì sao? Cô khuỵu xuống và khóc trên người đứa bé. Cô cố tự tử nhiều lần
nhưng không thành công. Mùa hè năm 1982, cô theo chồng sang Mỹ. Tại đó, niềm
hy vọng có thể trông cậy nơi cha mẹ cô tan biến. Sự tuyệt vọng lại tiếp tục kéo dài.
Bóng tối lại bao phủ cô thêm chín năm nữa trong sự hành hạ và nỗi cô đơn.
Đó không khác nào địa ngục trần gian. Nếu có ai hỏi cô, “Chị có thấy Địa ngục
bao giờ chưa?” thì cô sẽ trả lời không chút do dự là, “Tôi không những thấy Địa
ngục mà còn sống trong đó nữa kia.” Cô không có bạn bè hay ai đó ở bên để giúp
đỡ. Cô sống trong nỗi sợ hãi và sự hành hạ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Đôi mắt cô
thờ thẫn và cô chết lần mòn ở tuổi ba mươi.
“Tại sao mình phải sống như thế này?” Cô tự hỏi mình mỗi ngày. Ngày mai là một
từ quá xa vời với cô. Hôm nay, chính giờ này đang là niềm đau của cô. Cô mỏi mệt
và cô đơn trong chín năm. Cô muốn gặp ai đó vì cô biết mình không thể tự sống
còn được.
Cô tìm kiếm một người có thể chia sẻ thời gian với cô. Được sự giúp đỡ của một
người nào đó, cô được dẫn dắt đến một nhà thờ Tin Lành Đại Hàn ở miền Nam
Los Angeles. Ngày đầu tiên cô đến nhà thờ, có một phụ nữ nhẹ nhàng đến và nắm
tay cô sau giờ thờ phượng. Bà và chồng bà giúp cô đi nhà thờ. Nhờ người phụ nữ
ấy mà cô gái tội nghiệp đến được căn hộ của tôi.
Trong hàng giờ đồng hồ, tôi lắng nghe cô kể câu chuyện về cuộc sống trong nỗi
khiếp sợ và sự dày vò thể xác kéo dài mười bảy năm của mình. Khi tôi nhìn thấy
cô khóc, tim tôi đau nhói và tôi thấy xót xa cho cô. Và cô đã trở nên con cái của
Ngài. Kể từ đó, cô bắt đầu cầu nguyện cho người chồng mà cô căm ghét tới tận
xương tủy của mình.
Việc đó không dễ vì những vết thương trong lòng cô đã trở nên quá lớn. Nhưng
đến một hôm, tình yêu của Ngài đã giúp cô có thể tha thứ cho chồng mình một
cách trọn vẹn. Cô cầu nguyện trong nước mắt trước mặt Chúa.
“Chúa ơi, bây giờ con đã biết rằng chính vì tình yêu và sự đụng chạm của Ngài mà
Ngài đã để con trải qua cuộc sống đầy đau thương, dày vò và thử thách này như
một tội nhân. Nếu không có những thử thách này thì có lẽ con đã sống theo ý riêng
của mình và sẽ phải hư mất đời đời nơi địa ngục. Giờ đây, sau sự thử thách ấy,
Ngài giải cứu con từ nơi tối tăm và đội cho con mão triều của tình yêu thương. Đó
là ơn phước mà Ngài đã dành cho con. Con cảm tạ Chúa nhiều lắm. Trong mọi
từng trải của mình, con đã thấy được chính sự đụng chạm đầy tình yêu thương của
Ngài đã đem con đến với Ngài. Con nhận ra rằng chồng con đã được sử dụng như
một công cụ để Ngài giải cứu một tội nhân như con đây. Giờ thì Chúa ơi, con đã
tha thứ cho chồng con và bẻ gãy xiềng xích của lòng ghen ghét. Xin Ngài hãy cứu
lấy linh hồn của chồng con.”
Sau một tháng cầu nguyện không ngơi nghỉ, Ngài đã thấy những giọt nước mắt của
cô và đáp lời khẩn cầu của cô. Chồng cô đã bước từ bóng tối ra ánh sáng. Anh ăn
năn tội lỗi mình và kiểm soát hành vi và việc uống rượu của mình. Anh bắt đầu đến
với Ngài trong sự sáng. Tình yêu của Ngài là nguồn hạnh phúc thật đã cứu gia đình
cô và chữa lành những vết thương cùng những vết sẹo của mọi người. Sự an ủi, sự
bình an của Ngài đầy ắp linh hồn họ như ánh nắng mặt trời chan hòa trên vạn vật
khi xuân sang. Bây giờ họ thật sự là một gia đình hạnh phúc. Họ hầu việc Chúa với
những điều tốt nhất họ có được, giống như bà Ma-ri đã đập vỡ chai dầu thơm vì sự
công bình và vì nước của Ngài.
Hãy ca ngợi Chúa vì quyền năng giải cứu linh hồn của Ngài. Ngài đã đem tội nhân
từ bóng tối đến sự cứu rỗi sáng láng. Cô mỉm cười và kể cho tôi nghe giấc mơ của
mình.
Cô cõng chồng mình trên lưng đi băng qua dòng nước chảy xiết. Cô qua được dòng
nước và có người hỏi, “Có phải người cô cõng trên lưng là một con người vũ phu
không?” Cô đáp trong lòng rằng, “Bây giờ thì không phải nữa” và tiếp tục cõng
chồng bước đi. Đó là một cảnh tượng thật đẹp đẽ biết bao!
Giỏ Đầy Thứ Mười: Mang Những Quả Thật Đẹp
Sự Tha Thứ và Những Phước Hạnh Thiên Đàng
Bà Mẹ Kế
Con Chim Xấu Xí
Vác Thập Tự Giá
Đứa Bé Bị Bỏ Rơi
Sự Tha Thứ và Những Phước Hạnh Thiên Đàng
Ngài thực sự yêu thương những người con gái của đức tin đang ngồi trước mặt tôi
như những bé thơ. Ngài chăm sóc và bảo vệ những cô gái trẻ nầy đang cố gắng để
theo Ngài trong sự vâng phục và trong đức tin. Là tôi tớ của Ngài, tôi đã cố gắng
làm hết sức mình như một người mẹ nuôi khi Ngài cần đến tôi. Tôi đã rửa chân
cho chúng, an ủi tấm lòng của chúng, nắm tay chúng, la rầy khi chúng bước đi sai,
cầu nguyện cho chúng và gia đình chúng ngày đêm. Trong những năm đầu, Ngài
bày tỏ ra những vết thương sâu và những tấm lòng tan vỡ của chúng. Rồi Ngài
chữa lành và an ủi chúng.
Ngài đã dùng sự tha thứ để phá đổ bức tường ghen ghét trong mối quan hệ của con
người. Cho đến nay, Ngài vẫn muốn ban phước cho chúng ta với "sự tha thứ và
giải hòa" kỳ diệu khi Ngài tự bày tỏ chính mình ra cho thế giới nầy.
Có một cái móc rủa sả được gọi là "sự ghen ghét không chịu tha thứ." Cái móc bén
nhọn nầy phá hủy những linh hồn và ngăn họ đến trước mặt Chúa. Cái móc đó móc
vào mỗi quả tim và làm cho rướm máu đớn đau. Điều gian ác gọi là ghen ghét nầy
được dấu kín đàng sau thứ tình cảm bám rễ sâu trong lòng người giống như một
thứ nấm độc.
Chúng ta không thể nào tự mình loại bỏ được những gốc rễ nầy. Thứ nấm độc nầy
lan ra rất nhanh. Ngay lúc ta nhổ được một gốc nấm thì có một gốc nấm khác mọc
ra ngay kế bên. Chúng ta làm thương tổn lẫn nhau bởi một lời nói. Đã nhiều lần
chúng ta từng trải thể nào một tấm lòng tha thứ dễ dàng biến thành tấm lòng ghen
ghét trở lại. Chúng ta cố gắng thay đổi quyết tâm của chúng ta, nhưng chỉ vài ngày
sau thì đâu cũng hoàn đó.
Chỉ có một người có thể bức đứt được xích xiềng rủa sả nầy và làm cho chúng ta
giải hòa. Đó là chính mình Chúa Giê-xu. Ngài là Đấng duy nhất có thể tha thứ
hoàn toàn và vô điều kiện. Đó là cách Ngài đã bày tỏ sự tha thứ của Ngài ngay trên
thập tự giá trước khi Ngài chịu chết. Ngài nói với những người lính La-mã, những
người Pha-ri-si, những người chế giễu, những người rủa sả Ngài, "Lạy Cha, xin tha
cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì." Ngài đã bày tỏ cho chúng ta "sự tha
thứ và giải hoà" như là một sinh tế sống để nhờ đó chúng ta có thể bước đi theo
Ngài.
Sự tha thứ là một phước hạnh thiên đàng. Chỉ một mình Ngài làm được điều đó.
Ngài có thể bày tỏ quyền năng của Ngài trong lòng những người được tái sinh. Tôi
muốn làm chứng cho Ngài qua ngòi bút già nua về những đứa con gái đức tin của
tôi. Chúng đã đến gặp Ngài sau những ngày lang thang trong sa mạc. Ngài đồng
hành với những cô thiếu nữ trẻ, nắm lấy tay chúng dẫn qua những con đường hẹp
trong đời đến con đường thập giá suốt mấy năm. Ngài chia sẻ bông trái vui mừng
qua sự vâng lời tha thứ. Tôi muốn tâm linh chúng ta được sung mãn những bông
trái thiên đàng. Tôi cầu nguyện để tất cả những tấm lòng của những người đang
đọc quyển sách nầy sẽ nhận được ân điển diệu kỳ giống như lớp tuyết trắng bao
phủ tâm hồn hằn vết thương sâu.
* * *
Nếu bạn và tôi có tội lỗi nặng nề nào, chúng ta đều có thể đến cùng Chúa, giơ hai
tay lên kêu cầu Ngài. Ngài sẽ lấy huyết xóa sạch tội lỗi chúng ta và làm cho chúng
ta sạch trắng như tuyết.
Ngài mở rộng đôi tay đón bạn và nói, "Tại sao con cứ mang gánh nặng của thế giới
rối ren nầy? Hãy đến cùng Ta. Ta sẽ cất đi khỏi con tấm lòng nặng nề và Ta sẽ
đồng đi với con. Ta sẽ cho con yên nghỉ nhẹ nhàng trong cánh tay Ta."
Ngài đang gọi bạn bằng tiếng dịu êm của Ngài.
Hãy đến với Ngài,
Hãy đến với nguyên trạng của bạn,
Như khi bạn mệt mỏi, đói khát, trần truồng, thất vọng, với tấm lòng thương đau,
Hãy đến trước mặt Ngài
Hãy kêu cầu Danh "Chúa Giê-xu."
Ngài đang chờ đợi bạn từ lâu, ngay cả trước khi bạn ra đời.
Ngài sẽ chạy đến với bạn với vòng tay mở rộng để ôm choàng lấy bạn.
Ngài sẽ lau ráo những giọt nước mắt của bạn.
Ngài sẽ bồng ẵm bạn và bảo vệ bạn khỏi những rắc rối cuộc đời.
Ngài sẽ đưa bạn đến nước vĩnh cửu của Ngài trong ngày cuối cùng.
Bà Mẹ Kế
"Mẹ ơi, con không thể tha thứ cho mẹ kế của con bao giờ. Bà đánh con và em trai
con nhiều lần. Bây giờ em trai con đã chết. Con có vết thương lòng sâu lắm. Con
có thể tha thứ bất cứ ai trên thế giới, ngoại trừ bà mẹ kế của con."
Người thiếu phụ khóc như một em bé trước mặt tôi. Lúc ấy bà đã sáu mươi mốt
tuổi rồi. Bà là con gái đầu lòng của một gia đình giàu có. Bà là niềm hy vọng cho
gia đình. Bà thông minh, đẹp, tốt bụng và luôn luôn vui cười. Bà có mối thân tình
với người em trai chỉ trẻ hơn bà một tuổi. Chị em bà yêu thương và chăm sóc cho
nhau. Khi bà lên mười tuổi, mẹ bà bị bịnh qua đời, để lại bà và đứa em trai chín
tuổi. Cha bà là người đi xa làm ăn thường xuyên đã cưới vợ khác để chăm lo cho
mấy đứa con còn nhỏ dại.
Vào ngày bà mẹ kế đến nhà, bà đã khóa cửa phòng và khóc suốt mấy giờ liền với
bức ảnh của mẹ ruột cầm trên tay. Bà mẹ kế là gái đồng trinh khi lấy cha bà làm
chồng. Bà nầy lạnh lùng như gió mùa đông. Nhất là khi cha bà đi xa, bà và đứa em
quá sợ bà mẹ kế đến nỗi không dám nói chuyện với bà. Hai chị em ôm nhau và vừa
khóc vừa kêu "Mẹ ơi!"
Nổi khổ nầy quá lớn đối với bà và người em trai. Họ đang chết dần chết mòn dưới
ánh mắt thù ghét của bà mẹ kế. Sự cay nghiệt và tàn nhẫn của bà mẹ kế làm cho
hai chị em cứ trông ngóng tình yêu của người mẹ. Khi bà mẹ kế có con riêng, bà
càng thấy sự phân biệt rõ ràng giữa hai bên.
Em trai và em gái của bà mẹ kế được chuẩn bị cơm nước ngon lành, còn bà và em
của bà thì chỉ được ăn uống sơ sài. Bà không nói được lời nào nhưng thường chạy
vào phòng lặng lẽ khóc. Đứa em trai vui vẻ luôn miệng cười tươi bây giờ đã đổi
thay nhiều thành một cậu bé lặng lẽ và bị chèn ép. Cha bà rất cưng đứa em trai của
bà vì nó đẹp trai và học giỏi nhất lớp. Điều nầy đã làm bà mẹ kế càng ganh tức và
hành hạ chị em bà nhiều hơn.
Bà lớn lên với cảm giác căm ghét bà mẹ kế nung nấu trong lòng. Nhưng em trai
của bà đã kiên trì chờ đợi và lặng lẽ suốt mười sáu năm trước khi anh gia nhập
quân đội. Sau khi giải ngũ, anh đã qua Mỹ xây mộng làm ăn.
Một ngày kia, em bà từ Mỹ gọi về Đại Hàn cho bà. Lúc đó là độ hai tuần trước khi
anh chết. Bà vẫn còn nghe văng vẳng tiếng nói của cậu em trai và nhớ rõ những lời
sau chót.
"Chị yêu dấu, chị nên tìm gặp Chúa Giê-xu là Đấng em đã từng gặp tại đây. Nếu
em chết trước khi thấy chị, em muốn được gặp chị ở thiên đàng. Ngài đã chữa lành
những vết thương sâu hoắm trong lòng em và em không còn cảm giác căm ghét mẹ
kế của chị em ta. Chị cũng hãy làm ơn tha thứ cho bà ấy. Em muốn mẹ kế, em trai
và em gái kế cũng gặp gỡ Chúa Giê-xu. Em đang có bình an trong lòng và em đang
hạnh phúc."
Em của bà đã gặp được Ngài và đã được chữa lành những vết thương sâu. Ngài đã
an ủi và hồi phục em của bà. Chẳng những vậy, anh còn tha thứ cho bà mẹ kế trước
khi anh về với Ngài. Khi em trai của bà qua đời, bà càng buồn thương cho em
nhiều hơn nữa. Bà ghét người mẹ kế đã bạc đãi và ghét bỏ cậu em trai của bà đến
nỗi anh ấy đã chết khi còn quá trẻ.
Sau đó bà đã đến Hoa Kỳ khi đã năm mươi hai tuổi. Năm sau đó là năm 1989, bà
đã gặp tôi. Bà đến trước mặt Ngài, ăn năn tội lỗi và trở nên con gái của Ngài.
Vào một ngày hè năm 1992, cậu em trai con bà mẹ kế gọi điện thoại cho biết gia
đình bà mẹ kế đã đến Los Angeles. Họ muốn gặp bà. Bà không muốn thấy bà mẹ
kế còn sống và bà thề không tha thứ cho bà mẹ kế bao giờ. Bà đưa ra nhiều lý do
để từ chối gặp mặt. Nhưng cuối cùng vài tháng sau, bà đã gặp lại bà mẹ kế và
người em cùng cha khác mẹ của mình. Giây phút bà gặp lại người mẹ kế, năm
mươi năm ký ức cũ trở về giống như mới xảy ra ngày hôm qua khi bà và đứa em
trai lên chín bị đánh đập và chạy ra khỏi nhà khóc lóc đắng cay. Bà miễn cưỡng
đến nhà gặp người mẹ kế, nhưng lòng bà vẫn không yên.
Ngài chẳng từng phán, "Hãy yêu cả kẻ thù" đó sao?
Ngài há chẳng từng phán, "Khi con tha lỗi cho người khác thì tội lỗi của con sẽ
được tha?" Bà đã cầu xin Ngài giúp bà tha thứ được bà mẹ kế. Bà kêu khóc với
Ngài vì tự sức riêng bà không thể nào tha thứ được. Vết thương lòng của bà quá
sâu. Bà cầu nguyện và khóc lóc gần cả một năm.
Một ngày kia bà nghe Ngài phán, "Con gái yêu dấu của Ta! Ta đã từng nói nếu con
ghét anh em con, là con đã giết anh em con rồi. Con đã cố giữ con dao thù ghét
suốt năm mươi năm qua. Con đã giết chóc mỗi ngày trong năm mươi năm qua.
Con là kẻ giết người! Khi Ta đổ huyết ra trên thập tự giá để tha tội cho con, huyết
đó cũng bao phủ tội lỗi mẹ kế của con nữa. Em trai của con đã chịu khổ vì thù ghét
rất nhiều, nhưng anh ấy đã tha thứ cho mẹ kế của con và bây giờ anh đã yên nghỉ
với Ta. Con thì vẫn còn phủ kín vết thương sâu."
Suốt đêm bà ăn năn tội lỗi và sự thù ghét của mình. Bà đợi trời sáng và đích thân
đến nơi ở của bà mẹ kế. Ở đó, bà đã quì gối xuống trước bà mẹ kế và xin tha thứ
cho mối hận thù. Bà mẹ kế lên tiếng, "Chính mẹ mới là người cần được tha thứ.
Con hãy tha thứ cho mẹ." Hai người đàn bà ôm nhau và khóc. Lúc bấy giờ, sự hiện
diện của Ngài bao phủ cả hai người đàn bà biết tha thứ và được thứ tha.
Đó là sự đắc thắng mà chỉ một mình Ngài mới thực hiện được để giải phóng sợi
xích nô lệ cho hận thù kéo dài suốt năm mươi năm. Trong ngày hòa giải đó, ánh
sáng bình an, an ủi, yêu thương của Ngài đã chiếu sáng mái đầu của hai người đàn
bà khi những vết thương sâu lành lặn hẳn.
Con Chim Xấu Xí
"Mẹ ơi, con không thể đợi thêm được nữa. Một lần, chỉ một lần nữa xin để cho con
hỏi tại sao con lại đau đớn thế nầy. Con là một nạn nhân đau khổ."
Cô ấy đã chờ đợi khá lâu, nhưng cô không chịu đựng được nữa và cô đã bật khóc,
nước mắt chảy dài. Lòng tôi cũng cảm thấy đau khi nhìn cô gái khóc không ngừng.
Tôi ôm lấy đứa con còn thơ bé của cô và nói với cô, "Con yêu, không phải một
mình con chịu khổ đâu. Ngài cũng chịu khổ nữa. Nhưng Ngài không phàn nàn với
bất cứ lý do bào chữa nào cả. Hãy nghĩ đến Chúa Giê-xu. Nếu con học tập kiên
nhẫn và tha thứ qua sự đau khổ của con, thì kẻ thù của con sẽ trở thành ân nhân của
con. Hãy chờ đợi và kiên nhẫn. Hãy cầu nguyện cho kẻ thù của con.
Nếu con vâng theo lời Ngài, con có thể lấy thiện thắng ác. Hãy cầu xin Ngài tuôn
đổ dòng sông ân điển. Nếu nước cạn con sẽ thấy đá sỏi dưới lòng sông. Nhưng nếu
nước sâu, những đá sỏi làm con đau đớn sẽ không còn nhìn thấy nữa. Rồi chiếc
thuyền của con sẽ thẳng tiến tới Ngài. Con có hiểu không?"
Từ lúc đó, cô ghi nhớ lời Ngài trong lòng và khởi sự cầu nguyện cho dòng sông ân
điển bằng nước mắt. Cô đã chịu khổ vì những bạn bè trong Hội Thánh đã tố cáo,
đồn đại và hiểu lầm. Trước đây họ đã từng là bạn thân. Cô đã trở lại đạo nhưng đức
tin của cô giống như một em bé. Cô tin Ngài nhưng lòng cô xa cách khỏi lời dạy
của Ngài.
Một ngày vào Tháng Mười năm 1988, linh hồn trẻ nầy đã tìm đến gặp tôi. Từ đó,
cô đến thăm tôi thường xuyên mặc dầu đường đi lái xe khá xa xôi. Cô đã đến để
học biết đường về luật pháp và ân điển của Đức Chúa Trời. Cô thường ở lại cho tới
khuya. Cô khao khát Lời Ngài. Cô ham học hỏi để giữ gìn đường lối của Ngài như
một em bé đang đói đòi bú sữa.
Ngay sau khi gặp tôi, cô chịu khổ vì sự đàm tiếu của một người bạn thân. Bạn cô
tung tin đồn cô đi theo tà giáo và dự phần trong tà giáo đó. Người ta phải coi chừng
cô. Tin đồn từ người bạn của cô trở nên mũi dao nhọn đã phân rẽ cô với nhiều bạn
bè khác trong Hội Thánh. Hầu hết bạn hữu của cô đã xây lưng lại với cô và chế
giễu cô.
Sau khi ở nhà thờ về, cô đi ngay về nhà và khóc lóc với Ngài về nỗi khổ của cô.
Ngày tháng trôi qua, lời tố cáo của bạn cô trở nên mạnh mẽ hơn và vết thương của
cô trở nên sâu đậm hơn. Trong suốt ba năm trời, cô đã đấu tranh với tình cảm lẫn
lộn giữa tức giận và tha thứ. Ngay giữa lúc đau khổ đó, Ngài đã đến và thăm viếng
cô và nói với cô, "Con gái yêu dấu của ta, con không thể tự sức mình làm gì được
cả." Cô kể với tôi rằng cô than khóc đấm ngực trong phòng. "Lạy Chúa, con đã tha
thứ cho cô ấy nhiều lần nhưng con đã thất bại. Con nghĩ con có đức tin và tình yêu
để tha cho bạn con, nhưng đó chỉ là sự kiêu ngạo của con. Xin hãy tha thứ cho con.
Con cần Ngài giúp đỡ. Xin hãy đến và đổ đầy trong con tình yêu và sự tha thứ của
Ngài."
"Điều gì con buộc ở dưới đất sẽ buộc ở trên trời và điều gì con mở ở dưới đất sẽ
được mở ở trên trời." Những lời nầy từ Ngài đến có ý nghĩa với cô rất nhiều. Cô
biết rằng cô đã tự buộc chính mình khi cô buộc bạn cô với sự thù ghét và không tha
thứ. Cô đã buộc tâm linh cô bằng những xiềng sắt cũng y như cô đã làm cho các
bạn của cô. Cô đã xưng tội mình trước ánh sáng của Ngài.
"Lạy Chúa, con đã được Ngài tha thứ tội lỗi và những quá phạm. Xin tha thứ cho
con vì đã không bao phủ các bạn con bằng tình yêu thương."
Từ lúc đó, sự tức giận, ghen ghét, nóng nảy biến mất khỏi lòng cô bất kể những sự
khinh bỉ của bạn bè. Cô đã bước đến với Chúa Giê-xu là Đấng đã ban cho cô sự
sống, tình yêu và lòng thương xót.
Cô trở nên khiêm nhu hơn và lòng thanh thản khi sự kiêu ngạo và tự mãn bị tan vỡ
trải qua thời gian tám năm. Qua sự kiên nhẫn, cô đã trở nên một tia sáng thật cho
gia đình cô và cô đã dẫn đưa chồng của cô cùng ba đứa con đến con đường sống
thật. Cả nhà cô hiện đang phục vụ tại Hội Thánh chúng tôi, một Hội Thánh mà
Ngài đã hy sinh bằng chính thân Ngài.
Có lần cô nắm tay tôi và nói, "Mẹ ơi, con còn nhớ những gì mẹ đã nói với con, đó
thật là những lời an ủi lòng con."
Một bầy gà con và một cô chim trĩ sống chung lẫn lộn với nhau. Những con gà con
vàng vàng thật dễ thương, chúng chăm sóc lẫn nhau trong tình yêu và sự tử tế.
Nhưng cô chim trĩ bị những con gà con ghét bỏ vì cớ bộ lông đen đúa và trông có
vẻ xấu xí. Cô chim trĩ luôn luôn cô đơn. Cô ăn riêng và chơi riêng một mình khi cô
bị những con gà con trách móc. Chúng ghét cô và hay lấy mỏ cắn vào cô. Nhiều
khi cô bị mất lông và chảy máu. Rồi một ngày nắng đẹp, cô chim trĩ đã lớn giăng
đôi cánh của mình và bay lên trời cao nơi có những con chim trĩ khác đang lượn
cánh.
Mẹ ơi, khi con cô đơn và đau khổ, mẹ đã kể cho con nghe câu chuyện nầy và mẹ
đã nói, "Con là con chim trĩ đó." Đó là hy vọng duy nhất của con và con nhớ mãi
trong tim. Một ngày nào đó, khi trời nắng đẹp đến, con có thể bay lên trời cao, để
lại đàng sau tất cả những buồn đau, chán nản và hiểu lầm. Với hy vọng đó trong
lòng, con đã chịu đựng được những khổ đau."
Khi tôi nhìn vào đôi mắt của cô gái khi cô ấy nói chuyện, tôi có thể thấy niềm hy
vọng được chúc lành trong đôi mắt của cô.
Vác Thập Tự Giá
"Cho dù tha thứ là điều vô cùng khó khăn vì cớ sự ganh ghét trong lòng ta, chúng
ta cũng phải tha thứ bằng tình thương của Chúa Giê-xu. Nếu bỏ rơi những linh hồn
bịnh hoạn và đau khổ, chúng ta không phải là những người tin Chúa thật lòng. Con
hãy đón nhận lấy người chồng bệnh tật và chăm sóc cho chồng. Đây là việc khó
làm, nhưng chính Ngài đã bày tỏ cho chúng ta và nêu gương cho chúng ta. Hãy
tiến tới trước một bước nữa."
Thật là khó để tôi nói với một trong những người con gái đức tin còn non yếu của
tôi nhận lấy gánh nặng và đi theo Ngài. Đó là vào mười năm trước đây. Tôi nhận
được cú điện thoại khẩn cấp trong khi tôi đang dự lễ đón giao thừa năm mới 1989.
Tôi vội đến nhà chị của cô. Khi mở cửa, tôi ngã quị xuống trước cảnh tượng hãi
hùng. Khuôn mặt nhỏ và gầy của cô sưng lên to gấp đôi. Mặt cô bị đánh đập tàn
nhẫn và đầy cả máu. Cô bị đánh nặng quá đến nỗi máu văng khắp người cô.
Tôi trấn an cô và hỏi việc gì đã xảy ra cho cô. Đó là câu chuyện không tưởng
tượng nỗi. Chồng cô đi ra buổi sáng và trở về nhà. Anh khởi sự đánh cô như một
người điên và bảo cô phải xưng tội. Cô không hiểu anh muốn nói gì. Sau đó cô
nhận biết chồng cô đang tố cáo cô là phạm tội ngoại tình. Cô nói là cô không hề
phạm tội đó. Anh ta trở nên điên loạn và đánh thẳng vào mặt, vào thân của cô bằng
nắm tay và bằng bàn chân. Cô đau quá và chạy vô phòng riêng. Anh đi theo và đá
vào ngực cô. Cô bị đánh nhiều quá đến nỗi cô nghĩ mình sắp chết. Cô gọi cho bà
chị và xin chị giúp đỡ.
Cô vùi mặt vào giữa hai chân tôi và khóc lớn, "Mục sư ơi, tại sao lại như thế nầy?"
"Khi Chúa bảo người ta hãy tin Ngài, họ đã không chịu tin Ngài nhưng lại đóng
đinh Ngài trên thập tự giá. Lòng Ngài có đau đớn như lòng con không?" Cô có đủ
mọi lý do để đau buồn.
Tôi nhìn cô rất gần. Tôi biết cô yêu chồng và hai đứa con gái. Cô là mẫu người phụ
nữ Đại Hàn tiêu biểu thủy chung. Cô chỉ biết làm việc và lo cho gia đình. Cô đã lấy
một người chồng đã có đứa con trai ba tuổi trái với ý muốn của gia đình cô.
Lần đầu gặp cô, anh nói với cô là vợ anh đã ngoại tình. Anh nói anh cố thuyết phục
vợ trở về nhưng vợ anh không chịu đến nỗi anh phải li dị vợ. Câu chuyện đau buồn
của người đàn ông nầy đã cảm động lòng cô. Khi cưới nhau, anh là một người
chồng tốt. Họ yêu nhau và có một gia đình hạnh phúc.
Khi đứa con gái thứ hai ra đời, anh trở nên khác trước. Cuối cùng anh nói đứa con
gái đó không phải là con của anh và thậm chí anh không chịu bồng con bé. Lúc đó
cô không biết rằng anh có chứng bịnh nghi ngờ chí tử về sự thủy chung của vợ. Bề
ngoài anh bình thường, nhưng trong lòng anh dày xéo. Cô hy vọng anh sẽ sớm trở
lại bình thường. Cô chăm sóc cho anh và cố gắng giúp anh trở lại bình thường. Cô
sống như người đi trên lớp tuyết mỏng suốt hai năm.
Cuối cùng việc nầy đã xảy ra vào đêm giao thừa năm mới 1989. Chuyện đổ bể ra là
anh đã thuê thám tử tư theo dõi cô suốt hai năm trước khi xảy ra cớ sự. Viên thám
tử bảo anh, "Vợ anh trong sạch và cô ấy không làm gì sai cả. Tôi nghĩ anh mới có
vấn đề." Thế là sự việc của anh lắng đọng.
Câu chuyện được xác nhận khi người anh rễ của cô đến gặp viên thám tử. Họ bảo
anh hãy đi gặp Bác sĩ Phân Tâm Học trước khi anh gây chuyện lớn hơn.
Điều nầy đã làm anh giận dữ hơn, và anh quyết định tự mình theo dõi vợ. Mỗi
tiếng đồng hồ, anh gọi điện thoại cho vợ ở sở làm, kiểm tra những lần ăn của cô, và
thậm chí kiểm tra những lần đi chợ mua đồ ăn của cô cùng với các con. Nếu cô đi
làm hoặc đi về nhà trễ chừng năm phút là anh đã nghi ngờ. Hiện tượng bịnh hoạn
nầy càng ngày càng trầm trọng đến nỗi anh tin là vợ anh ngoại tình thật với người
đàn ông đang sống gần nơi cô làm việc.
Buổi sáng hôm đó, anh dẫn đứa con gái lớn ba tuổi đến chung cư mà anh nghi ngờ.
Anh gõ cửa nhà và người đàn ông ra mở cửa. Anh hỏi đứa con gái, "Có phải ông
nầy không?" Con bé gật đầu. Thế là anh trở về nhà và đánh đập vợ anh như một
người điên không một chút lý do.
Cô khám phá ra là anh mắc một chứng bịnh nghi ngờ vợ rất trầm trọng. Đó là lý do
anh đã ly dị người vợ thứ nhất. Lúc đó, anh đã uống thuốc do một Bác sĩ Phân Tâm
Học cho toa.
Từ lúc xảy ra vụ đánh đập đó, bệnh của anh càng trầm trọng. Anh bỏ nhà đi. Khi
cảm thấy khá hơn, anh trở về nhà. Anh trở đi trở lại như thế mấy lần. Khi cái chu
kỳ đó tái diễn, cô đã cố gắng giúp anh trở lại bình thường. Nhưng anh không khá
hơn. Anh cứ nói đi nói lại rằng anh là người duy nhất trên thế giới biết vợ bí mật
ngoại tình. Nhiều lần anh khóc lóc nài nỉ vợ trở lại với mình.
Một Chúa Nhật kia, khi cô từ nhà thờ về nhà, cô thấy nhà trống rỗng. Trong khi cô
đi nhà thờ với các con, anh đã thuê người dọn hết bàn ghế đồ đạc ra khỏi nhà. Hai
đứa con gái, đứa học lớp hai, đứa học lớp bốn đã ngã lăn ra đất và khóc lóc. Cô cố
gắng an ủi chúng nhưng rồi cô cũng bắt đầu khóc. Tất cả những cố gắng và gian
khổ của cô để cố đưa anh trở lại đã trở thành vô ích. Tin tưởng anh chỉ là hư
không.
Từ đó, cô đã sống một cuộc đời gian khổ cô đơn suốt bốn năm với hai đứa con.
Nhiều lần cô muốn ngã nhào xuống đất và kêu gào với một người nào đó. Lúc đó,
cô đã học đứng vững một mình với sự giúp đỡ của Ngài. Cô biết rõ chính là nhờ ân
điển của Ngài đã giữ gìn cô suốt bốn năm qua. Những khi cô đau đớn và buồn bã
nhất, Ngài đã đến thăm và an ủi cô. Những lúc như thế, Ngài bồng ẵm cô và vác cô
trên vai Ngài trong khi Ngài bước đi trên những nẻo đường tối tăm nhất của cuộc
đời.
Đó là cách cô trải qua trong bốn năm qua. Cô không nghe tin gì cả về người chồng.
Một ngày kia anh gọi cho cô và muốn gặp cô. Gương mặt anh xanh xao. Anh nói
anh bị bịnh tiểu đường. Anh nói anh bị ngã quị ở sở làm và được đưa vào bệnh
viện một thời gian. Anh nói khi anh khát nước lúc ban đêm, hai chân của anh đau
đớn quá và anh phải lăn người xuống nhà bếp để lấy nước uống. Anh muốn trở về
nhà gặp hai đứa con gái trước khi anh chết. Cô không muốn tiếp nhận anh lần nữa.
Cô không muốn tái diễn cảnh địa ngục trong đời sống cô. Cô chỉ muốn sống một
mình với hai đứa con thôi.
Cô không muốn đón anh về và cô cũng không tin về bịnh tiểu đường của anh. Cô
đã quá mệt mỏi. Cô không trả lời với anh và cô đã đến với tôi trong đêm hôm đó.
Tôi khuyên cô hãy vác thập tự giá và bước đi trong đường lối Ngài. Tôi đã cầu
nguyện tha thiết trong đêm hôm đó để cô có đủ sức mạnh đứng vững bởi đức tin.
Vài ngày sau, cô đã tha thứ cho anh bằng tình yêu của Ngài và cô đã đưa anh
chồng bệnh hoạn về nhà. Cô đã quyết định cầu nguyện xin Ngài cứu rỗi linh hồn
khốn khổ của anh, một người không biết đang đi về đâu. Cô tin rằng chính mình
Chúa là Đấng duy nhất có quyền năng cứu sống anh từ cõi chết.
Cô bước ra khỏi nơi ở của tôi khi cô đã hứa sẽ vác thập tự giá, dâng gánh nặng lên
cho Ngài và theo Ngài từng bước. Mắt tôi dâng tràn nước mắt khi tôi nhìn thấy đôi
vai nhỏ bé của cô bằng lòng vâng phục.
Ngài đã phán, "Hãy liều mình, vác thập giá mình mà theo Ta." Tôi ngước nhìn con
đường Ngài đã đi là con đường đầy nước mắt nhưng cũng là con đường dẫn đến sự
sống đời đời. Tôi cầu nguyện Ngài để cho cô được thịnh vượng trong mọi sự cũng
như linh hồn cô thịnh vượng vậy.
Đứa Bé Bị Bỏ Rơi
Khi cô nghe tin người mẹ qua đời, cô vừa khóc vừa chạy đến với tôi trong đêm
hôm đó.
"Mẹ con đã sống đau khổ suốt cuộc đời bà. Bà bị bệnh lâu ngày và cuối cùng bà đã
đi vào cõi tối tăm mà chưa được biết Ngài. Nhưng tại sao Mục sư lại muốn con
giúp ba con là người đã làm khổ suốt cuộc đời mẹ con. Tại sao ba con được gặp
Ngài và được vào nước thiên đàng? Con không muốn làm việc đó. Nếu Ngài cứu
ba con, thì Ngài không công bằng."
Một trong những đứa con gái thuộc linh của tôi đã kiên quyết cưỡng lại trong dòng
nước mắt. Nhưng tôi phải kể cho cô biết tấm lòng của Ngài. "Con gái yêu dấu của
ta, Ngài biết tấm lòng đau đớn của con. Khi con kêu khóc với vết thương sâu trong
lòng con, thì Ngài ở đó với con và khóc với con. Con không nhớ ta với con đã đến
gặp mẹ con và đã cố giúp bà tiếp nhận Ngài hay sao? Nhưng bà cứ nấn ná chờ
chồng đến nỗi bà không chịu tiếp nhận Ngài làm Chúa đời mình. Nếu ba con đã
gặp Ngài trước đây, liệu ông có bỏ rơi gia đình như ông đã làm hay không? Ngài
đã biết tội lỗi của ba con và Ngài đã tha cho ông rồi. Khi Ngài chịu chết trên thập
tự giá, Ngài đã mua chuộc hết thảy tội lỗi cho mọi người rồi. Con có quá công
chính đến nỗi không thể tha thứ cho chính ba con sao? Khi Ngài thấy một người
đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, Ngài đã phán với những thầy thông
giáo và người Pha-ri-si, "Ai trong các ngươi là người vô tội, hãy ném đá chị ấy
trước đi." Nếu con thực sự yêu Đấng đã chết vì tội của con trên thập tự giá, con sẽ
thấy rằng đưa được một linh hồn đến với Ngài là quí báu đối với Ngài rồi." Tôi đã
cầu nguyện với cô để xin Chúa chữa lành vết thương sâu trong lòng cô. Cô đã
không thể tha thứ cho quá khứ khó tha của cha cô.
Một ngày hè trước đây khi cô còn ở lớp hai, cô thấy mẹ cô khóc khi cô đang nằm
trong vòng tay mẹ. Cô yêu mẹ và hỏi mẹ, "Mẹ ơi, mẹ ơi, tại sao mẹ khóc? Có ai
làm mẹ đau không? Bà trấn an cô và nói, "Mẹ không sao. Mẹ chỉ buồn thôi."
"Tại sao? Tại sao mẹ khóc? Có phải mẹ xem phim buồn? Ai làm cho mẹ buồn?
Con sẽ trả thù người đó cho mẹ. Mẹ ơi, đừng khóc nữa." Khi nói với mẹ như thế,
cô cũng òa ra khóc. Mẹ cô càng khóc lớn hơn và ôm chặt lấy cô.
Cô thấy mẹ khóc nhiều lần nữa. Cô cứ nhắc lại với mẹ là sẽ trả thù cho người nào
đã làm mẹ khóc. Vài năm sau cô khám phá ra rằng ba cô là người thường đi xa làm
ăn đã có ngoại tình. Lúc đó là kỳ nghỉ hè khi cô đang học lớp hai. Những chuyến đi
xa làm ăn của ba cô tăng lên nhiều hơn và lâu hơn. Một ngày kia sau bữa ăn tối, mẹ
cô đã đưa cô đến một khu phố xa lạ. Bà dừng lại ở một ngôi nhà sau khi đi bộ một
khoảng đường.
Mẹ cô bảo cô gõ cửa ngôi nhà và hỏi, "Có ba tôi ở đây không?" "Nếu ông ấy bước
ra, con hãy trao thư nầy cho ông." Sau khi nói như vậy rồi, bà vội vã bỏ đi. Cô rất
bối rối. Nhà nầy là của ai? Tại sao mẹ cô nói ba cô đang ở đây? Khi cô thấy bảng
tên gắn trên cửa chính, cô thấy đó là tên của ba cô. Cô gõ cửa và kêu lớn, "Có ba
của tôi ở đây không?"
Cô nghe có tiếng người từ trong nhà bước ra. Đó là một người đàn bà cao hơn mẹ
của cô mở cửa ra và hỏi cô tìm ai. Khi cô nói muốn gặp ba cô, bà nhìn cô một lúc
rồi bước vào trong nhà. Vài phút sau, cô nghe tiếng cãi nhau trong nhà. Sau một lát
nữa, ba cô bước ra ngoài cửa. Cô rất ngạc nhiên thấy ba của cô ở đây. "Ba ơi, nhà
nầy của ai? Tại sao ba ở nhà nầy?" Ông không trả lời nhưng đã hỏi cô đi với ai.
Cô bảo cùng đi với mẹ. Cô trao cho ông lá thư của mẹ, lúc nầy lá thư đã ướt đẫm
mồ hôi trong tay cô. Ba cô lặng lẽ cầm lấy bức thư và vỗ vào đầu cô. Lúc nầy cô
vẫn còn sửng sốt. "Đây là nhà bạn của ba và ba sẽ sớm về nhà. Hãy đi và nói cho
mẹ con biết."
Cô thưa vâng với ba, nhưng lòng vẫn hoang mang khi cô đi xuống đường phố. Cô
đã thấy ba cô mặc bộ thường phục quen thuộc khi ông đi ra gặp cô. Đó là bộ đồ mẹ
cô đã may cho ông. Cô nghĩ rằng có thể ông đã mượn bộ đồ người bạn của ông. Cô
bước xuống đường, mẹ cô đang chờ đợi cô. Cô thưa với mẹ là ba sớm trở về nhà.
Trên đường về nhà, cô hỏi mẹ nhiều câu hỏi lắm. "Mẹ ơi, mẹ, tại sao ba lại ở nhà
bạn sau chuyến đi làm ăn xa? Tại sao ba không về nhà?" Mẹ cô không trả lời cô.
Bà cứ lặng thinh.
Việc nầy tái diễn mấy lần. Khi lớn lên, cô nhận biết rằng ba cô đã có một người vợ
khác đang ở một ngôi nhà khác. Khi cô lên Trung học, mẹ cô đã nắm tay cô dắt cô
đến ngôi nhà lần nữa mặc dầu cô miễn cưỡng ra đi.
Lần nầy là một ngôi nhà khác, to lớn hơn ngôi nhà trước. Cô bấm chuông với lá
thư của mẹ trên tay. Một lát sau, một nữ sinh bước ra và hỏi, "Bạn đi tìm ai?" Cô
trả lời, "Tôi tìm ba tôi." Khi cô nữ sinh thấy tên ba cô, cô ấy đã la lên lời rủa sả.
"Ông ấy không phải là ba của mầy. Hãy đi đi." Cô ấy đóng cửa lại.
Cô nhận biết ngay những người nầy đã làm cho mẹ cô khóc và họ là kẻ thù của cô.
Cô đẩy cửa vào nhà và hét to trở lại, "Mầy là đứa con gái tồi. Ông ấy là ba tao,
không phải của mầy đâu. Hãy trả ba lại cho tao."
Khi cô la to lớn tiếng, cô nữ sinh đã chống trả lại. Họ nắm lấy nhau và lăn ra trên
đất. Tiếng nói của người đàn bà, một giọng nói quen thuộc vang lên ngăn đôi hai
cô gái nhỏ. Họ nhìn chằm chằm vào nhau và khóc rống.
Cô cảm thấy mình là nạn nhân. Vì những người nầy mà mẹ cô đã khóc lóc nhiều
lần. Bây giờ cô nữ sinh kia lại dám nói ba cô không phải là ba của cô. Như vậy là
không được. Khi ba cô bảo cô đi, cô đã không chịu và nhìn họ chăm chăm. Ông đã
thuyết phục cô và dắt cô ra tới chỗ mẹ cô đang đứng đợi ở góc đường. Mẹ cô thấy
cô khóc, những vết bầm từ dấu những móng tay hằn trên mặt cô, tóc cô bù xù. Mẹ
cô đã khóc và ba cô đứng nhìn cũng khóc theo.
Ngày hôm đó, Chúa chắc đã biết nỗi buồn và những dòng lệ nóng của bà mẹ và cô
con gái.
Khi cô từ giã khu phố xa lạ đó cùng với mẹ, cô đã yêu cầu ba cô đi theo với cô.
Nhưng ông đã ở lại, vừa rờ đầu cô vừa nói lời tạm biệt.
Ông đã trở lại ngôi nhà của cô nữ sinh. Điều đó càng làm cho bà mẹ và cô gái buồn
thêm sâu nặng trong lòng. Họ đã khóc suốt chặng đường trở về nhà. Những vết sẹo
hằn sâu hơn. Cô cảm thấy bị phản bội bởi chính người cha thân yêu nhất của mình.
Từ đó, tâm trí cô đã quyết để trả thù cho nỗi buồn của mẹ. Cha cô có tên đứng đầu
danh sách, kế đến là người đàn bà cao cao và sau đó là cô con gái của họ. Thỉnh
thoảng, ba cô trở về nhà thăm, nhưng ông không còn là người cha như trước. Cô
không nói chuyện với ông và thậm chí không muốn nhìn mặt ông.
Trong ngày tốt nghiệp Tiểu Học, ba cô không đến dự bởi vì ông đã đến dự lễ tốt
nghiệp của cô nữ sinh kia. Thời ấy, những ngày lễ tốt nghiệp Tiểu Học đều được tổ
chức cùng một ngày.
Thời gian trôi qua, cô trông mong tình yêu vốn đã trống rỗng lâu ngày. Sau đó cô
lấy chồng và đến Mỹ. Cô gặp tôi vào Tháng Chín năm 1988. Cô đã nhận Ngài làm
Chúa và Cứu Chúa của mình.
Mẹ cô cũng đến Mỹ và sống với em trai cô. Một ngày kia, mẹ cô bị tai biến vì áp
huyết cao. Từ đó bà nằm mãi trên giường. Ba cô sống một mình sau khi người vợ
bé qua đời tại Đại Hàn. Cô và em trai cô nghĩ đến việc đưa ba cô đến sống với mẹ
trong những ngày cuối đời của họ. Nhưng bà nằm bại liệt trên giường và việc đoàn
tụ đó đã không xảy ra. Ai hiểu được cuộc đời buồn đau của mẹ cô hơn năm mươi
năm qua?
Sau ba năm cô con gái thuộc linh của tôi đã gặp Ngài, mẹ yêu của cô đã chết vào
tháng Giêng năm 1992. Bà muốn sống với người chồng cũ trước khi chết, nhưng
giấc mộng đó đã không thành. Ngày đưa đám tang của bà là một ngày mưa dầm
giông bão. Cô đã thấy tấm lòng đau buồn của Ngài về sự chia lìa vĩnh viễn với
người mẹ không bao giờ được nắm lấy tay Ngài.
Chúa đã cùng khóc với cô, người đã biết nỗi buồn thiên thu trong ngày tang lễ. Cô
đã đau đớn về mẹ và những nỗi khổ tâm trong lòng mẹ suốt đời bà. Hơn thế nữa,
cô rất buồn vì bà đã bị phân cách mãi mãi khỏi sự an ủi và thái an trong cõi vĩnh
hằng. Cô đã gặp ba cô trong ngày an táng, nhưng cô không đủ can đảm để nhìn
ông. Sau đó em trai cô cho biết cha cô đã đau khổ, ăn năn và đấm ngực. Ông biết
lỗi của ông.
Mẹ cô đã sanh trưởng trong một gia đình giàu có. Bà chưa bao giờ chịu khổ cho
đến khi lấy ba cô. Bà là người tử tế, yêu thương, và đáng kính, nhưng ông đã làm
bà đau khổ suốt đời. Khi ông nhìn lại gương mặt của bà lần cuối, ắt hẳn ông đã
cảm thấy đau lòng. Trời hôm đó mưa lớn quá đến nỗi người ta không thể chôn
được quan tài. Rồi cô thấy ba cô ôm lấy quan tài và khóc thảm thiết trong mưa.
Ông không còn là một kẻ thù, ông chỉ là một ông già cô đơn. Ông chỉ là một linh
hồn buồn bã khác nữa mà thôi.
Thời gian dài trôi qua. Khi cô đến với ông, cô chỉ là cô gái nhỏ. Rồi cô lớn lên, cô
yêu thương ông thật nhiều. Khi cô nắm lấy bàn tay run rẩy của ông và nhìn vào
mắt ông, cô đã thấy mắt ông ửng đỏ vì khóc và những mạch máu vỡ ra. Ông chào
cô, nắm tay cô buồn bã. Vài cái răng còn sót trong miệng đã làm cho ông trông
càng cô độc và buồn bã hơn. Trên đường về, cô nắm lấy tay ông và mời ông đến
nhà cô ở Los Angeles. "Ba ơi, hãy đến nhà con và nghỉ ngơi với chúng con bao lâu
ba muốn. Con sẽ đưa ba đi Bác sĩ để chữa mắt và làm răng." Ông nói đi nói lại,
"Cảm ơn con."
Ở phi trường khi cô từ giã ông, một người cha nay đã ngoài tuổi bảy mươi, cô nhận
biết rằng ấy là Chúa đã khiến cho cô nói những lời đó với cha cô. Ngài đã chữa
lành những vết thương sâu của cô trong quá khứ, chữa lành cho cô về nỗi xấu hổ
về bà vợ bé của cha cô và thậm chí Ngài đã chữa lành nỗi cô đơn của cô trong ngày
hôm đó.
Cô đã nghĩ về cha của cô. Ông mất cả hai người vợ. Chắc hẳn ông buồn bã lắm. Cô
đã quyết định an ủi cha cô và dẫn dắt ông đến cùng Chúa.
Năm vừa qua khi cô đến thăm viếng Đại Hàn, cô đã bắt một nhịp cầu mới của "sự
tha thứ và giải hòa" với người em khác mẹ của cô sau ba mươi hai năm dài xa
cách. Điều đó chỉ xảy ra được nhờ ân điển dư dật của Ngài.
Giỏ Đầy Thứ Mười Một: Người Đàn Bà Gieo Giống
Bánh Ma-na
Dâng Sinh Tế Sống
Sống Lại Từ Cõi Chết
Bánh Ma-na
Buổi sáng mùa thu bầu trời trên công viên Griffith ở Los Angeles đặc biệt sáng và
xanh. Bầu trời xanh lơ chiếu sáng giống như mái nhà của ngôi thánh đường có tấm
lợp trắng phủ trên nền bằng cỏ xanh khi người ta cùng nhau tụ họp để thờ phượng
Đức Chúa Trời trong ngày thánh nhật.
Mãi về sau mỗi tín hữu mới nhận biết rằng đó là ý Chúa và kế hoạch kỳ diệu của
Ngài. Họ không thể nào hiểu được tại sao họ phải rời những nhà thờ mà họ đã từng
phục vụ khá lâu.
Tuy nhiên, đó chính là kế hoạch ẩn giấu của Ngài về một Hội Thánh Truyền Giáo
Thế Giới phải được khai sinh qua quá trình của sự đau khổ và giải cưú. Ngợi khen
và vinh hiển qui thuộc về Ngài! Buổi nhóm đầu tiên thờ phượng Ngài ở công viên
thật là một hình ảnh đẹp.
Có một bài thơ mà tôi yêu thích phát xuất từ đáy lòng tôi:
"Như đóa hoa bị gai đâm và gió thổi,
Nỡ nụ cười tươi và lan tỏa hương thơm theo gió.
Đức Chúa Trời đón nhận con và khen ngợi con.
Phước hạnh của sự phục sinh sẽ đến sau thập tự giá.
Khi hạt giống chết đi, cây lúa mới có kết qủa.
Hãy chiến thắng khó khăn và không hề lui bước.
Chúa sẽ ban cho con mão triều đắc thắng."
Mỗi khi tôi cảm thấy cô đơn, Ngài nhắc lại bài thơ nầy và khích lệ tôi, "Đừng bỏ
cuộc. Đừng chán nãn, đừng để kẻ thù thắng trận." Ngài thường phán, "Đây là con
đường dẫn đến Thiên đàng."
Tuần thứ nhì ngày 15 tháng Mười Một năm 1992, chúng tôi tổ chức lễ tạ ơn cho
Ngài tại nhà Chấp sự Lee. Đó là một phòng cao như đã được mô tả trong sách Tin
Lành Mác. Trong khi mấy tín hữu ngợi khen và thờ phượng Ngài thì Đức Thánh
Linh Ngài giáng xuống và đầy dẫy căn phòng. Chúng tôi tất cả đều đồng thanh cầu
nguyện cảm tạ về tất cả ân điển và sự bảo vệ Ngài đã tiếp trợ chúng tôi.
Ngay giữa buổi cầu nguyện, Ngài phán với tôi bằng một giọng nói nghe rất rõ ràng
trong lỗ tai, "Hãy xây dựng thân thể Ta." Tôi lắc đầu dường như tôi nghe lộn.
Nhưng Ngài đã nói lại bằng giọng nói rõ ràng, "Hãy xây dựng thân thể Ta và Ta sẽ
lãnh đạo dân của Ta." Lời Ngài rất kiên định. Làm sao tôi có thể bất tuân mà nói
không được với Ngài?
Thế là một nhóm nhỏ người đã hiệp lại và xây dựng Hội Thánh của Ngài. Chúa
Giê-xu Christ đã kêu gọi mười hai sứ đồ và lập họ làm nền cho Tin Lành trên toàn
thế giới. Sau buổi lễ tôi đã can đảm nói lại tiếng phán của Chúa cho các tín hữu
nghe. Tất cả đều nói A-men và dâng vinh hiển cho Ngài.
Sau bữa ăn trưa, chúng tôi họp lại và thảo luận về cái tên cho Hội Thánh mới thành
lập. Lúc đó, Ngài lại phán với tôi lần nữa bằng một giọng nói rõ ràng trong lỗ tai
tôi, "Bánh Ma-na." Tôi vô cùng kinh ngạc. Cái tên nghe đẹp lạ lùng!
Mặc dầu sống trên đất, chúng ta đang thuộc về Thiên đàng. Chúng ta đang ăn thức
ăn thiên đàng vĩnh cửu. Chúng ta là những con người của lớp sương mai trên mặt
đất giống như bánh ma-na. Đó là giờ phút chúng tôi run sợ khi chúng tôi tin thân
thể Ngài đã được xây dựng. Chúng tôi cùng nhau cúi đầu và thờ phượng Ngài.
Dâng Sinh Tế Sống
Đã sáu năm rồi kể từ ngày Ngài bắt đầu xây dựng thân thể của Ngài qua chúng tôi.
Ông bạn người Lỗ-ma-ni của chúng tôi, Mục sư Dumitru Duduman, đã đến thăm
và nói tiên tri về Hội Thánh chúng tôi. Ông nói, "Chúa sẽ lay động các bạn và
thanh tẩy các bạn ba lần để xây dựng thân thể của Ngài."
Quả nhiên Ngài đã làm như vậy. Nhiều người đã đến với Hội Thánh Truyền Giáo
Manna (Manna Mission Church) của chúng tôi, nhưng nhiều người cũng bỏ đi
trong những lò lửa thử thách. Chỉ có một số ít người còn ở lại và đã được thanh tẩy
đức tin trở nên như vàng ròng.
Ngài đã kêu gọi chúng tôi vào trong đồng vắng và dạy chúng tôi về đức tin thật
như thể nào khi trải qua gian khổ và đau đớn. Ngài dạy chúng tôi cách chiến đấu
chống lại những con rắn độc dữ trong sa mạc. Ngài đã dạy chúng tôi cách tin cậy
Ngài. Chúng tôi đã tạ ơn Ngài sau khi chúng tôi học biết ý nghĩa của sự từ bỏ mình
vác thập tự giá mình đi theo Chúa trải qua tất cả những thử thách đớn đau.
Sứ đồ Phao-lô đã viết, "Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, mà tôi
sống không phải là tôi sống nữa, nhưng là Đấng Christ sống trong tôi. Nay tôi còn
sống trong xác thịt là sống bởi đức tin đặt nơi Con Đức Chúa Trời là Đấng đã yêu
tôi và phó mình vì tôi." Chúng tôi đã quì gối xuống, xưng nhận những lời nầy.
Chúng tôi trở nên những môn đồ của Ngài.
Thật ra, đã hai năm qua Ngài đã khởi sự thành lập thân thể nầy. Chính nhóm người
bé nhỏ nầy đã được Ngài sử dụng theo mục đích của Ngài. Ngài đã làm ứng
nghiệm những lời Ngài và những lời tiên tri ở những nơi chốn và thời điểm khác
nhau để đem dân Ngài về đất của Ngài trong thời đại cuối cùng.
Từ khi Liên Bang Sô-viết sụp đổ năm 1989, nhiều người Do Thái đã rời bỏ Nga để
về nước Israel. Đó là cuộc Xuất Hành lần thứ hai. Kết quả là có nhiều người Do
Thái Nga, bao gồm những Khoa học gia, những Kỹ sư, những Bác sĩ và những
Nghệ sĩ đã nhập cư nước Israel. Nhóm nhỏ của chúng tôi đã khởi sự giúp đỡ họ
qua một người Mỹ gốc Do Thái tên là Steve Lightle. Chúng tôi cũng giúp đỡ Hội
Thánh của Mục sư Duduman ở Lỗ-ma-ni.
Khi Hội Thánh Truyền Giáo Manna ra đời, Ngài đã giao cho chúng tôi một sứ
mạng khác. Ngài đã dẫn chúng tôi đến công tác ấn hành quyển Kinh Thánh Tân
Ước tiếng Do Thái tại nước Israel. Chúng tôi đã trải qua nhiều chiến trận thuộc
linh trong khi hoàn thành kế hoạch của Ngài dành cho chúng tôi, nhưng thân thể
Ngài đã chiến thắng nhờ sự bảo vệ của Ngài như lời Ngài đã hứa.
Nhiều lần tôi kêu khóc với Ngài, "Chúa ôi, con không thể!" khi tôi dẫn một con
chiên đi qua con đường núi hẹp. Một ngày kia, tôi hỏi Ngài, "Lạy Chúa, con quá
mệt rồi. Con đã trên 70 tuổi. Xin hãy đưa con về nhà."
Ngài lại phán, "Hãy làm một sinh tế sống." Chăn chiên không phải là việc dễ dàng.
Bệnh tiểu đường và áp huyết cao của tôi càng nặng hơn do sự mệt mỏi tạo ra. Mắt
tôi không còn nhìn thấy rõ. Tôi mệt và yếu, nhưng vì bệnh tiểu đường, tôi không
được phép giải phẩu mắt.
Lần đầu tiên năm 1995, tôi đã không dự được lễ đón Giáo Thừa. Tôi nằm trên
giường mắt mờ, sức yếu. Thậm chí tôi không thể uống được một ly nước lạnh. Tôi
phải vào bệnh viện vào tháng Giêng. Huyết áp của tôi trên 300. Dù uống thuốc
huyết áp cũng không giảm. Các Bác sĩ đã khám bệnh và xét nghiệm tôi nhưng họ
đã không tìm được nguyên do, ngoại trừ bệnh tiểu đường. Tình trạng còn tệ hơn
khi hôm sau mí mắt tôi không nhấp nháy được. Tôi cố mở mắt nhưng không mở
được. Họ thử áp lực mắt của tôi và các sóng trong óc tôi nhưng họ thấy không có
gì sai trật cả.
Sau khi thử nghiệm rất kỹ, Bác sĩ mắt của tôi đã nói với tôi, "Dây thần kinh thứ ba
trong mí mắt trái của bà bị tê. Vì cớ tuổi già, hầu như bà không thể hồi phục dây
thần kinh đó."
Điều gì đã xảy ra cho tôi? Mắt trái của tôi bị mù và huyết áp của tôi vẫn còn cao.
Tôi nghĩ đây là lúc Ngài đưa tôi về nhà.
Từ bệnh viện tôi về nhà vào ngày 6 tháng Giêng. Đầu tôi bị đau do áp huyết cao,
cứ vẫn trên 300. Tôi đã chườm bao nước đá trên đầu suốt đêm để làm giảm cơn
đau. Vào rạng sáng, tôi bò khỏi giường và quì gối trước Ngài. Tôi thưa, "Lạy
Chúa, xin hãy cất con đòi già yếu của Ngài đi. Con quá yếu. Mắt trái của con đóng
lại và mắt phải của con không thấy đường. Bệnh tiểu đường và cao huyết áp đã đến
mức tệ nhất. Con quá mệt. Lạy Chúa, con bỏ hết mọi sự. Nếu Ngài muốn giao cho
con việc gì nữa, xin hãy ban cho con sự sống. Nếu không, xin hãy cất con đi. Con
đau quá, Chúa ơi."
Tôi nhìn lên tủ thuốc bằng mắt phải. Tôi chỗi dậy và lấy hết thuốc ra khỏi tủ, đó là
thuốc trị cao huyết áp, thuốc trị bệnh tiểu đường và thuốc chữa mắt. Tôi ngước lên
nhìn Ngài với cả tấm lòng và linh hồn của tôi.
Buổi sáng Chúa nhật hôm đó, tôi đặt một miếng băng lên mắt trái của tôi và có hai
nữ Chấp sự đến giúp tôi bước lên các bậc thang của nhà thờ. Khi tôi vừa khóc vừa
bám lấy tòa giảng, chân của tôi run rẩy, tôi nghe Ngài phán, "Hãy làm một sinh tế
sống."
Sống Lại Từ Cõi Chết
Tôi đang bất tỉnh. Tôi cảm thấy thân thể của tôi từ từ rơi xuống như chiếc tàu đang
chìm. Tôi nghĩ tâm linh tôi sắp rời thân xác tôi. Tôi nghe những tiếng cầu nguyện
nức nỡ. Tôi không thấy rõ nhưng biết rõ những đứa con gái thuộc linh của tôi đã
đến quanh giường để cầu nguyện cho tôi mỗi ngày. Sự cầu nguyện tha thiết nầy đã
chạm đến ngai của Ngài. Từ từ, tôi tỉnh lại.
Tối thứ Sáu cũng trong tuần đó, tôi đến nhà thờ với sự giúp đỡ của những cô con
gái thuộc linh của tôi. Tôi nằm xuống trước tòa giảng. Tất cả các tín hữu trong Hội
Thánh chúng tôi đã hiệp lại xung quanh tôi và khởi sự cầu nguyện tha thiết xin
Chúa chữa lành cho tôi bắt đầu từ 8 giờ tối cho đến 8 giờ sáng hôm sau. Họ khóc
lóc cầu nguyện, nài xin Chúa đổi thân thể và đôi mắt của họ thế cho tôi để tôi được
chữa lành. Không chút sợ hãi, họ hứa sẽ dâng hiến cho Ngài chính đời sống họ nếu
Ngài mở mắt trái của tôi.
Những lời cầu nguyện nầy tiếp tục vài tuần mãi cho đến ngày 15 tháng Hai, đúng
vào ngày thứ 40. Vào ngày đó, mắt trái tôi mở ra. Tất cả các tín hữu Hội Thánh của
tôi đã nhìn thấy bàn tay lạ lùng của Ngài và hết lòng ngợi khen Ngài. Qua biến cố
nầy, bệnh tiểu đường và bệnh cao huyết áp của tôi đã được chữa lành mà không
cần bất cứ thuốc men nào. Cho đến nay, tôi không uống bất cứ loại thuốc nào.
Qua biến cố thách thức nầy cả Hội Thánh của tôi đã nhận được ân tứ và quyền
năng để trở thành những chiến sĩ cầu nguyện. Đức tin của họ tăng lên và họ bắt đầu
tin cậy chỉ một mình Ngài mà thôi. Tôi là một nhân chứng sống của tất cả những
phép lạ.
Rồi từ công tác truyền giáo cho nước Israel, Ngài đã dẫn Hội Thánh chúng tôi cho
công cuộc truyền giáo thế giới. Lúc nầy chúng tôi đang thuê tầng hai của một toà
nhà thuộc một Đại Chủng Viện và một trong những sinh viên của Đại Chủng Viện
Thế Giới Thứ Ba ở trọ tại tầng dưới. Khoảng một năm, Hội Thánh chúng tôi đã
giúp đỡ Đại Chủng Viện và các sinh viên bằng sự cầu nguyện và của cải của chúng
tôi.
Vào tháng Mười Hai năm 1996, một Trưởng lão của Hội Thánh chúng tôi đã đem
đến cho tôi một quyển sách nhan đề, "Một Sự Mặc Khải Thiên Thượng Về Hoả
Ngục" viết bởi Mary Baxter. Sau khi đọc xong trong bản dịch bằng tiếng Đại Hàn,
tôi nhận thấy đây là quyển sách tốt có mục đích truyền giáo nhằm giải thích về sự
thực của hỏa ngục. Sau khi cầu nguyện, chúng tôi học biết rằng đó là ý Ngài muốn
dùng quyển sách nầy để mở mắt thuộc linh của tôi. Chúng tôi đã cầu nguyện suốt
hai tháng trong cuộc chiến thuộc linh.
Hội Thánh đã mua một số lượng lớn sách nầy bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Đại Hàn.
Chúng tôi đã gởi nhiều quyển cho các Giáo sĩ Đại Hàn khắp nơi trên thế giới.
Chúng tôi đã cầu nguyện và gieo giống để ít ra một linh hồn được đến với Ngài
qua quyển sách nầy. Chúng tôi vâng theo ý muốn Ngài. Chúng tôi tin tưởng Ngài
sẽ tưới bón và gặt hái trong mùa của Ngài.
Sau đó Hội Thánh chúng tôi đã mua thuốc men và gởi đến cho các Giáo sĩ khắp
nơi trên thế giới để giúp họ duy trì sức khoẻ. Họ cần những thân thể khoẻ mạnh để
truyền bá Tin Lành.
Ngài có một mục đích đặc biệt cho những tôi tớ của Ngài. Ngài dùng Hội Thánh
chúng tôi liên hệ với những tôi tớ khiêm tốn của Ngài khắp nơi trên thế giới là
những người đã sẵn sàng hy sinh đời sống vì cớ Chủ của họ trong thời đại cuối
cùng. Ngài dùng chúng tôi như một trung tâm hổ trợ những vị Giáo sĩ nầy qua sự
cầu nguyện và sự dâng hiến tài chánh.
Tháng Mười năm 1997, một năm rưỡi sau, mí mắt bên phải của tôi đã đóng lại y
như trước đây. Tôi lại muốn biết lý do tại sao? Tôi đã tìm kiếm Ngài và cầu
nguyện tha thiết xin Ngài bày tỏ ý Ngài. Cả Hội Thánh lại bắt đầu kiêng ăn, ăn năn
về sự bất trung và sự thiếu vâng lời. Họ đã ăn năn về đức tin nửa chừng của họ và
họ đã tái dâng mình cho Chúa là Đấng đã phó mình vì họ.
Lạ lùng thay, mí mắt bên phải của tôi đã mở ra trở lại vào đúng ngày thứ 40! "Mọi
sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời là những kẻ đã được gọi theo ý
muốn Ngài đã định." Điều đó đúng như lời Chúa hứa với chúng tôi. Ngài đã dựng
nên loài người từ bụi đất và ban cho họ hơi sống. Loài người trở nên loài có sanh
linh. Thậm chí Ngài điều khiển cả những tư tưởng của họ. Không một con chim sẻ
nào rơi xuống đất mà không theo ý của Ngài.
Tôi đã nhìn vào gương soi và kinh ngạc mở mắt phải ra. Ngài lại đến và phán với
tôi lần nữa, "Hãy làm chứng nhân cho Ta cho đến tận cùng trái đất." Ngài đã phán
cũng những lời đó với tôi 33 năm về trước trong một phòng khách sạn tại Đài
Loan. Lúc đó tôi còn trẻ, khoẻ và giàu có với một người chồng hết mình ủng hộ
tôi. Vì thế tôi đã can đảm trả lời vâng.
Lần nầy cũng vậy, tôi đã trả lời vâng, nhưng bây giờ tôi không có gì cả. "Con
không có gì cả. Con quá già và quá yếu..." Tôi nghĩ mình giống như bà Sa-ra và
mĩm cười. Năm sau, tôi được giải phẩu cườm mắt và thị lực của tôi được cải thiện
rất nhiều. Bây giờ tôi thấy được bình thường. Thậm chí tôi có thể đọc Kinh Thánh
mà không cần kính. Tôi đã ăn năn vì không biết tạ ơn về việc Ngài cho tôi sáng
mắt suốt đời tôi. Ngài đã cho tôi tất cả cách miễn phí vì cớ tình yêu vô điều kiện
của Ngài. Ngài đã chăm sóc tôi và bảo vệ tôi trong mọi chi tiết nhỏ nhặt của đời
tôi.
Như một người tớ già 75 tuổi đã bước đi qua trũng bóng chết, tôi phủ phục trước
chân Ngài và thờ phượng Ngài với tất cả tâm thần và linh hồn của tôi.
Giỏ Đầy Thứ Mười Hai: CHÉN TÔI ĐẦY TRÀN
Ngọn Đuốc Cháy Rực
Dân Làng Thành Bê-tha-ni
Bươn Tới Phía Trước
Ngọn Đuốc Cháy Rực
Đó là một đêm mưa tháng Năm, 1998. Tôi ngồi trước một nhóm những Tiến sĩ đầy
hiểu biết trong một phòng học nhỏ tại Đại học Han Dong ở Đại Hàn.
Tôi chỉ là một đầy tớ Chúa tuổi cao sức yếu đến từ Hoa Kỳ. Tôi không biết phải
nói những gì với nhóm người có bằng Tiến sĩ giỏi giang này. Tôi chỉ muốn trở nên
một chứng nhân cho Ngài, Đấng tôi đã gặp năm tôi hai mươi ba tuổi. Trong gần
hai giờ liền, Ngài phán với họ qua tôi. Thậm chí tôi không uống một ngụm nước.
Ngài hỏi từng thính giả trong phòng một cách công khai, “Con yêu dấu, Chúa
Giê-xu có thật sự là Chúa của con không? Con có đang hầu việc Ngài không? Hay
con chỉ hầu việc Ngài qua Trường Đại Học và Viện Trưởng Kim? Nếu con tin rằng
Ngài thật là Chúa hằng sống thì con có thể chịu đựng được những thử thách đang
chờ con ở đằng trước không? Nếu Ngài thật đã chịu khổ, đã đổ huyết để chết cho
tội của con thì con xem việc mình được dự phần trong sự đau khổ của Ngài là một
sự vinh hiển không? Hay đó là nỗi đau đớn của con? Nếu con tin Chúa Cứu Thế
Giê-xu thật sự là Đức Chúa Trời thì con phải biết rằng không có sự đau đớn và
chịu khổ nào cho Ngài là đủ cả.”
Khi Ngài hỏi họ điều này để đi đến kết luận thì có một sự yên lặng kéo dài.
Điều đó là sự thật. Ngài chính là Đức Chúa Trời chân thật đã mang hình người để
đến thế giới tội lỗi này. Ngài hy sinh trên thập tự giá để cứu chúng ta khỏi tội lỗi và
những điều phạm phép. Và nếu chúng ta thật sự tin điều đó thì chúng ta không thể
ta thán khi hoàn cảnh xung quanh trở nên bất lợi và những điều xảy đến làm phật ý
chúng ta. Những bệnh nhân phung ở trại “Sự Sống Mới” tại Myang đã ca ngợi
Chúa với cả tấm lòng của họ. Chúng ta có phước hơn những người phung đó rất
nhiều. Chúng ta khỏe mạnh và hưởng được nhiều điều bằng nhiều cách khác nhau.
Nhưng nếu chúng ta không có tấm lòng thật sự biết ơn Ngài thì chúng ta chẳng
đáng đem so với những người phung kia. Nếu như những người đói khát, cô đơn,
lạnh lẽo có thể yêu thương và ca ngợi Ngài với cả tấm lòng của họ thì tại sao chúng
ta là những người sống trong sự thoải mái và ấm cúng, có sức khỏe và thức ăn lại
không thể làm điều tương tự? Chẳng lẽ chúng ta không thể ca ngợi Ngài nhiều hơn
những con người ấy sao? Những đứa con vô ơn, không biết trân trọng những gì
mình được hưởng như chúng ta mới thật sự là những tội nhân rẻ mạt nhất. Tôi đau
đớn về những tội lỗi của mình, và một lần nữa tôi gục đầu xuống trước Ngài.
Đầu năm 1998, tôi nhận được một cú điện thoại từ Đại Hàn. Như đã nói trước đây,
tôi có một miếng đất ở Bugok, Đại Hàn bị nhà nước hạn chế sử dụng. Bây giờ tôi
được báo là lệnh hạn chế đất đai được bãi bỏ theo như kế hoạch mở rộng đô thị của
Chính phủ. Người ta dự định sẽ xây dựng một xa lộ công ngiệp băng ngang thành
phố. Vì thế, chủ miếng đất sẽ được Chính phủ bồi thường một số tiền. Họ gọi tôi
về để nhận số tiền ấy. Tuy vậy, lúc ấy tôi chưa sẵn sàng cho một chặng đường dài
quay trở về Đại Hàn nên tôi đã hoãn chuyến đi lại.
Một hôm nọ, trong lúc đang nghe một cuộn băng mà một Trưởng lão trong nhà thờ
đã tặng cho tôi, tôi được nhắc nhở lại một việc mà tôi lãng quên trong bốn mươi
năm. Khi chồng tôi cùng chú tôi thành lập Trường Đại Học, tôi đã cố gắng sửa
soạn cho họ những sinh viên trẻ tuổi được trang bị không những với kiến thức mà
còn có cả Tin Lành nữa. Qua việc làm này, tôi muốn họ yêu mến đất nước và dân
tộc của họ.
Lúc ấy, chồng và chú tôi là người chưa tin Chúa. Nên điều duy nhất mà tôi có thể
làm là thuyết phục chồng tôi xây một nhà nguyện trong khuôn viên trường. Tim tôi
đập mạnh và nước mắt tôi trào ra. Cuối cùng, Ngài cũng đã xây Trường Đại Học
Han Dong, ngôi trường chắc chắn rất quý báu trong mắt Ngài. Ngài hẳn lấy làm
vui lòng lắm.
Tôi hết lòng ao ước được tuyên dương và ca ngợi những người ở Trường Đại Học.
Tôi không thể chờ đợi lâu hơn nữa cho nên dù chưa hỏi ý các con, tôi đã đặt vé
máy bay và chuẩn bị giấy tờ cho việc sang tên chủ quyền đất. Tôi rời Hoa Kỳ về
Đại Hàn trong lúc các tín hữu trong Hội Thánh bắt đầu kiêng ăn cầu nguyện.
Vừa về đến Đại Hàn, tôi liền đến Tòa Thị sảnh Bugok để lo những giấy tờ cần
thiết. Qua Mục sư Ha ở nhà thờ Onnuri, tại Seoul, tôi gặp bà Kim, vợ ông Viện
Trưởng Trường Đại Học. Ngay ngày hôm sau, tôi tìm đến Trường Đại Học tại
Pohang.
Cơn mưa đầu xuân khiến cho thành phố Pohang trở nên ẩm ướt. Công việc xây
dựng nhà nguyện đang được xúc tiến ở gần cổng trường Đại Học. Tôi có thể cảm
nhận từng giọt mồ hôi và lời cầu nguyện của nhiều người trong từng viên gạch.
Lòng tôi rộn lên vì sung sướng khi tôi nhìn thấy những khuôn mặt sinh viên trẻ
tuổi đang tươi cười trên khuôn viên ẩm ướt của trường Đại Học. “Chúa ơi! Cuối
cùng Ngài đã làm công việc của Ngài. Ngài khởi sự thực hiện công tác cứu rỗi của
Ngài tại Đại Hàn và trên toàn thế giới.”
“Ngài đem sự sáng đến cho bóng đêm
Ngài đem hy vọng trong sự tuyệt vọng
Ngài đem an ủi trong sự đau đớn
Ngài giơ cao ngọn đuốc rực sáng.”
Nước mắt tuôn dài xuống mặt tôi như những giọt nước mưa. Tôi được dẫn tới văn
phòng Viện Trưởng, Tiến sĩ Y. K. Kim. Người đàn ông cao ráo tóc bạc này đang
chờ đón tôi. Sau khi chào hỏi lẫn nhau, tôi lấy ra tờ giấy sang tên chủ quyền đất mà
tôi đã giữ trong 40 năm và đưa cho ông.
Tôi cảm thấy ngượng ngùng vì đây chỉ là một sự đóng góp nhỏ nhoi. Nhưng đó là
tất cả những gì còn lại trong tay người góa phụ đã 30 năm nay. Nó giống như hai
đồng xu cuối cùng mà tôi có thể dâng cho Ngài. Ngài yêu tôi và đã vì tôi mà từ bỏ
mạng sống của mình.
Khi tôi trình bày mục đích của chuyến viếng thăm và bày tỏ tấm lòng của tôi đối
với Trường Đại Học, Tiến sĩ Kim rút khăn tay ra lau nước mắt mình.
Mọi giấy tờ cho việc sang tên chủ quyền đất được hoàn tất trong vòng hai tiếng
đồng hồ.
Tiến sĩ Kim mời tôi nói chuyện với các Giáo sư tối hôm đó. Đó là lý do tôi đang
đứng trước nhóm Giáo sư hiểu biết sâu rộng này. Đêm đó, Ngài đã dùng môi
miệng của người đầy tớ cao tuổi này để đem lời Ngài đến cho họ. Sau này, tôi
được kể lại lúc đó Trường Đại Học đang ở trong thời điểm gay go nhất. Các Giáo
sư và nhân viên không nhận được hai tháng lương của mình. Người ta bắt đầu nghi
ngờ kế hoạch của Đức Chúa Trời dành cho họ. Linh của sự tối tăm cấu xé tâm hồn
họ.
Thế rồi một ngày không ai để ý tới, có một nữ Mục sư cao tuổi ở tận bên kia Thái
Bình Dương bỗng nhiên xuất hiện ở Trường Đại Học ở Pohang, nằm tận cùng bán
đảo Triều Tiên. Sau khi hoàn tất thủ tục sang tên chủ quyền đất, tôi nói với họ,
“Đức Chúa Trời Toàn Năng rất yêu thương anh em. Ngài đã lập nên Trường Đại
Học này vì sự vinh hiển của Ngài. Vì thế, Ngài sẽ giúp đỡ anh em trong mọi khó
khăn nếu anh em bền lòng tin cậy Ngài và bước đi với Ngài cho đến cuối cùng.”
Sau khi họ nghe thông điệp của Ngài được phán qua tôi, họ tin chắc rằng Đức
Chúa Trời đang hiện diện tại ngôi Trường Đại Học này. Đêm đó, ước nguyện cuối
cùng của tôi là được thấy họ hầu việc Chúa đã xuyên thấu tâm hồn của các Giáo sư
và nhân viên ở đó. Đó là thời điểm họ bắt đầu suy nghĩ về mối liên hệ giữa họ với
Đức Chúa Trời và với những người khác. Bằng lời hằng sống đầy sự an ủi và tính
thuyết phục của mình, Ngài đã đảm bảo với họ là Ngài sẽ giúp đỡ họ trong cơn
tuyệt vọng.
Đêm hôm ấy, Ngài đã đem đến cho họ sức sống mới và bổ lại tâm linh họ. Kể từ
đó, họ có thể bước gần hơn với Ngài. Chuyện là như thế đó. Đó là sự khôn ngoan
và quyền năng của Ngài. Ngài biết những nhu cầu của con người và Ngài khiến
mọi việc hiệp lại để phục vụ cho một mục đích tốt đẹp. Tôi dâng lời cảm tạ lên
Ngài, Đấng sáng tạo nên muôn loài vạn vật.
Nếu tôi có được lời ước cuối cùng thì đó là từ Trường Han Dong mà Ngài đã xây
cho chính Ngài, sẽ dấy lên nhiều thanh niên nam nữ trẻ tuổi cho tương lai của Đại
Hàn. Ngôi Trường sẽ trở nên một nơi gây dựng đức tin mà từ đó nhiều con cái
Chúa sẽ bước ra. Bất cứ nơi nào họ đặt chân đến, họ cũng sẽ trở thành ánh sáng
thật và muối của thế giới xấu xa này.
Dân Làng Thành Bê-tha-ni
“Ôi Mục sư! Đã bao năm trôi qua kể từ lúc bà đi khỏi đây trong hàng nước mắt.
Tôi đã cầu xin Chúa cho tôi được gặp lại bà và cầm tay bà trước khi tôi chết.”
Bà Hong chạy ra ôm chầm lấy tôi trước khi chiếc taxi còn chưa dừng hẳn. Chao ôi!
Tôi đã ao ước gặp họ biết chừng nào. Họ là những người con yêu dấu của Ngài.
Tôi nhìn kỹ họ và để ý thấy có nhiều vết nhăn hằn sâu trên khuôn mặt của họ. Một
thời gian dài đã trôi qua. Tôi rời khỏi thị trấn nhỏ này trong nước mắt đã 25 năm.
Tôi đã vô cùng thất vọng trước việc người ta lừa đảo để chiếm lấy các bất động
sản. Tôi còn nhớ lúc đó tôi đi dọc theo con đường nằm dọc theo ruộng lúa và khóc.
Tôi tự hứa với mình chỉ sẽ quay trở lại nơi này trước lúc nhắm mắt.
Tôi ngồi trong phòng khách và thấy càng nhiều khuôn mặt quen thuộc xuất hiện.
Khuôn mặt họ đã thay đổi cùng với thời gian nhưng một điều mà tôi thấy không hề
thay đổi, đó là tình yêu của họ đối với Ngài và đối với tôi sau bao nhiêu năm
trường.
Từ đằng xa, con gái bà Hong đến chào tôi dù rằng cô đang phải chống nạn vì bị tai
nạn xe hơi. Đêm trước đó, cô đã chuẩn bị cho tôi những món ăn thật ngon miệng.
Ở đâu tôi có thể tìm thấy tình yêu quý báu và chân thật dường ấy? Thức ăn của họ
là lương thực từ trời, giống như ma-na vậy. Đó là bữa ăn trong tình yêu và nước
mắt. Đó quả là một thời gian quý giá vô ngần.
Ồ, tôi nghĩ đây chính là lý do tại sao Chúa tôi muốn ở cùng với người nghèo.
Những người ngồi quanh chiếc bàn này là những người đã hứa nguyện yêu Ngài
cho đến cuối cùng khi ngôi nhà nguyện trên núi này được xây cất cách đó đã lâu
lắm.
Sau khi dùng bữa trưa, tôi hỏi họ liệu có thể lên núi thăm lại ngôi nhà nguyện
không, nhưng họ đề nghị tôi không nên đi vì nó sẽ làm tôi đau lòng. Nhưng đó là
chuyến đi cuối cùng của tôi, nên tôi muốn được nhìn thấy ngôi nhà nguyện. Tôi
đến nơi và thấy đó là một nơi hoang vắng tiêu điều. Nhà nguyện lẫn hồ cá đều
không còn nữa. Không còn lại gì cả. Tôi đi xuống núi và gặp ông Lee, ông nài nỉ
tôi đến nhà ông. Bây giờ mọi chuyện đã thuộc về quá khứ và tôi muốn quên hết
mọi sự.
Một lát sau, con gái của ông và vị Mục sư của cô bước vào. Tôi tiếp họ và chào hỏi
họ. Ông Lee bây giờ đã già. Tôi cầm tay ông và hỏi thăm tình hình của ông. Nhưng
ông không thể ngẩng đầu nhìn thẳng vào mắt tôi. Nếu ông còn cảm thấy xấu hổ
trước một phụ nữ cao tuổi như tôi thì làm sao ông có thể đứng trước Ngài, Đấng
nhìn thấu tấm lòng của mỗi người với đôi mắt rực lửa của Ngài.
Tôi thấy xót xa cho linh hồn của ông và tôi cầm tay ông rồi cầu nguyện cho ông.
Tôi cầu xin lòng thương xót và ân huệ của Ngài giúp ông ăn năn để ông không
phải hổ thẹn khi đứng trước mặt Ngài.
Tôi trở lại nhà bà Hong và sẵn sàng cho việc trở lên Seoul. Mỗi người tặng tôi một
món quà nhỏ, gồm có dầu mè, dầu perrila, bột trái đấu, tiêu xay và nhiều thứ khác.
Tất cả đều là những món quà của tình yêu thương. Tôi nắm tay từng người chào
tạm biệt và hẹn gặp lại trên thiên đàng. Bà Hong đứng đó trên đường lau nước mắt
của mình. Bà vẫy tay chào khi chiếc xe ô-tô phóng ra khỏi lối vào thị trấn cũ kỹ ấy.
Tôi không nhìn thấy nhưng chắc là bà đã khóc nhiều lắm những ngày sau đó.
Tình yêu đối với đồng loại thật là một điều đẹp đẽ và quý giá biết bao trong mắt
Ngài! Họ là những người không có lấy một lời giả dối và sự giả hình. Họ không có
sự giàu có của trần gian nhưng họ có tình yêu thương. Đức Chúa Trời sẽ vui mừng
đón họ khi họ đến vương quốc của Ngài. Họ không học cao và không có nhiều tài
sản. Họ không tự hào về chính mình. Họ chỉ là những người dân quê nghèo nàn và
bình dị. Nhưng kho báu của họ rất quý giá và mắt họ ngời sáng như mắt đàn nai.
Họ là những người có thể tha thứ cho kẻ thù của mình, bao phủ kẻ thù bằng sự cầu
nguyện và thậm chí yêu thương kẻ thù. Sự bình an của Ngài tuôn tràn trong những
con người xinh đẹp ở thị trấn nhỏ bé yên tĩnh này. Họ thật sự là những người hạnh
phúc đang bước đi trên đường hẹp của cuộc đời.
Bươn Tới Phía Trước
Vậy là đã 25 năm trôi qua kể từ khi tôi rời ngôi nhà thân thương của tôi tại Bu Am
Dong. Cái cổng bằng thép và những bức tường đá vẫn còn đó. Tôi mở cổng và
bước vào bên trong. Mọi vật thật tĩnh lặng. Tôi bước lên những bậc thang để đến
sân giữa. Những ký ức ngày trước ùa về như thể mọi chuyện vừa mới xảy ra ngày
hôm qua. Tôi nhìn vào bên trong từ cánh cửa để mở và nhìn thấy những bức tường,
những cây cột, các bố trí…rất đỗi quen thuộc. Thậm chí căn phòng hấp quần áo
vẫn ở nguyên vị trí ở bên kia cầu thang.
Sau khi chồng tôi qua đời, tôi phải tranh đấu để có thể giữ lại ngôi nhà rộng lớn
này cùng với một chú chó chăn cừu. Giờ đây, phần đất được hiến tặng và những
tòa nhà xung quanh được dùng làm trụ sở chính của tổ chức Chiến Dịch Sinh Viên
Vì Đấng Christ. Căn nhà cũ của tôi được dùng làm nơi tiếp khách. Hôm đó là ngày
Chúa Nhật; có nhiều sinh viên đi lên đồi. Thật là một cảnh tượng đẹp đẽ trong mắt
Chúa.
Một sinh viên hỏi tôi, “Bà đang tìm ai vậy?” Tôi trả lời, “Tôi là khách mới đến, chỉ
muốn ngắm nhìn một chút.” Khi tôi nhìn thấy nhiều sinh viên trẻ tuổi đi lên đồi, tôi
thầm nguyện trong lòng xin Chúa ban phước cho họ.
Tôi nhìn lên và bắt gặp cây thập tự trên nóc nhà thờ Samae (ba tình yêu thương)
nằm trên đồi. Đây là ngôi nhà thờ mà nhiều năm trước tôi đã dâng hiến cho Chúa
trong nước mắt. Tôi muốn đến thăm nhà thờ trước khi quay về Los Angeles. Ngọn
đồi hẹp và dốc dẫn đến nhà thờ vẫn y nguyên như thời điểm 30 năm về trước.
Điểm khác biệt duy nhất là giờ đây có nhiều căn nhà mọc lên dọc theo sườn đồi.
Tôi đã từng đi lên ngọn đồi này, đầu đội bữa trưa cho các công nhân xây dựng.
Còn giờ đây, tôi cần có người giúp đỡ và không thể đi liền một mạch lên đồi được
nữa.
Tôi lên đồi trước giờ thờ phượng sáng Chúa Nhật. Tôi nhìn xung quanh sân nhà
thờ và thấy cây liễu nơi tôi đã từng ngồi khóc vì không có tiền trả lương cho công
nhân. Tôi đi đến sờ vào thân cây và hồi tưởng lại quá khứ. Nhà thờ được trang
hoàng lại rất đẹp mắt. Từng viên gạch của nhà thờ dường như đều chứa đựng nước
mắt của tôi.
Tôi ngồi yên lặng ở hàng ghế cuối cùng và dâng lên Ngài lời cảm ơn chân thành
nhất. Buổi lễ chấm dứt, lúc tôi sửa soạn rời khỏi nhà thờ thì bỗng bắt gặp một
khuôn mặt quen thuộc. Tôi không chắc lắm nhưng cứ lên tiếng hỏi, “Bà là bà Lee
phải không?” Bà quay đầu lại và nhận ra tôi ngay lập tức.
Bà thốt lên trong tiếng khóc, “Ôi, bà Yoo đây mà! Phải chăng đây là giấc mơ. Tôi
đã cầu nguyện rằng tôi muốn gặp lại bà trước khi tôi qua đời. Ngài đã đáp lại lời
thỉnh cầu bé nhỏ của tôi. Tôi muốn biết tin về bà đến nỗi hễ có ai sang Mỹ là tôi
liền nhờ họ tìm giùm bà Yoo. Từ lúc bà ra đi, tôi luôn hy vọng một ngày nào đó bà
sẽ trở lại và tôi đã đợi tại ngôi nhà thờ này đã 30 năm.”
Bà khóc thổn thức như một đứa trẻ. Mọi người nhìn chúng tôi với ánh mắt chứa
đầy sự thắc mắc. Vị Mục sư Quản Nhiệm đến hỏi tại sao bà khóc. Bà giới thiệu tôi
cho ông trong nước mắt. Ông hỏi tôi, “Vậy ra bà là bà Yoo à? Hằng năm, cứ vào lễ
cảm tạ, chúng tôi đọc lại lịch sử nhà thờ và có tên bà Yoo. Phải đó chính là bà
không?" Các bà trung niên vây lấy tôi và nhận ra tôi. Khi tôi còn ở nhà thờ thì họ
mới là những thiếu nhi. Chúng tôi ăn trưa rất ngon và sau đó đi đến tư thất Mục sư.
Tôi nghĩ tư thất Mục sư phải nằm cạnh nhà thờ nhưng chúng tôi phải đi qua một
dãy nhà trước khi đến chỗ của ông. Bà Lee cùng đi với chúng tôi; bà nắm chặt lấy
tay tôi như thể sợ tôi sẽ chạy mất. Chúng tôi bước vào nhà; bà rút ra quyển sổ địa
chỉ và bắt đầu gọi cho những người bạn cũ.
“Đúng rồi! Bà Yoo đang ở nhà Mục sư. Hiện nay bà đã là Mục sư rồi. Tôi đã nói là
bà sẽ về lại mà! Hãy đến đây mau.” Trong lúc bà đang gọi điện thoại thì tôi nghe
lại một giọng nói quen thuộc ở trước cửa, “Bà Yoo, bà Yoo!” Người phụ nữ ấy
đang khóc. Tôi nhận ra bà ngay. Vào thời điểm đó, Bu Am Dong đầy dẫy những
người nghèo. Tôi đặc biệt gần gũi với người phụ nữ này và chia sẻ tình yêu của
Ngài cho bà. Bà chạy ùa vào phòng, nước mắt ràn rụa. Tôi nhận thấy khuôn mặt
xinh đẹp của bà đã có nhiều thay đổi với nhiều nếp nhăn xuất hiện theo năm tháng.
Bà ôm lấy cổ tôi và thổn thức khóc lớn tiếng. “Ngay cả khi mẹ ruột tôi sống lại, tôi
cũng không thể hạnh phúc như thế này. Tôi còn nhớ trước khi bà sang Mỹ, bà đã
đến thăm khu phố tồi tàn của chúng tôi lần cuối cùng. Bằng tiền máy bay của
mình, bà đã mua cho chúng tôi một bao gạo và ra đi trong nước mắt sau đó. Từ lúc
ấy trở đi, cứ mỗi lần tôi vo gạo nấu cơm, tôi lại nhớ đến bà và không kìm được
nước mắt của mình."
Tình thương mà họ dành cho tôi không đến từ con người. Khi bạn cũ gặp lại nhau
thì tình cảm tràn trề nhưng khi xa nhau thì tình cảm ấy cũng biến mất. Đó là bản
chất của con người. Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình thậm chí cũng trở
nên nhạt nhẽo dần sau một khoảng thời gian sống xa nhau. Nhưng tình thương mà
họ dành cho tôi được đâm rễ trong tình thương bất diệt của Đức Chúa Trời.
Ba mươi năm trôi qua mang đến nhiều thay đổi ngoại trừ một điều, đó là tình yêu
mà Ngài dành cho tôi. Tình yêu của Ngài dành cho tôi thật sâu rộng và cao cả vượt
quá sự tưởng tượng của chúng tôi. Những mối liên hệ sản sinh ra bởi tình yêu của
Ngài vẫn tỏa mùi thơm tươi mới trước sự thách thức của thời gian.
Tôi cảm giác như mình đang say trong niềm vui và niềm hạnh phúc. Tôi hỏi họ,
“Tại sao tư thất Mục sư lại bị dời đi? Nó đã từng ở bên hông nhà thờ mà?”
Bà vợ vị Mục sư trả lời, “Vị Mục sư đầu tiên nói bà Yoo đã bán căn nhà cho ông
khi bà đi sang Mỹ, và ông đã cho thuê căn nhà ấy. Khi ông đi khỏi nhà thờ, ông đã
mang theo luôn số tiền nhà. Tôi đã sống trong tầng hầm của nhà thờ trong 15 năm.
Các con tôi không có đủ chỗ vì ở đó quá chật chội, vì thế năm ngoái nhà thờ cho
chúng tôi mướn căn nhà này và chúng tôi chuyển đến đây.”
Khi tôi nghe lời giải thích ấy, tôi sực nhớ lại một chuyện. Vị Mục sư đầu tiên đi
khỏi nhà thờ và sau đó ông sang Mỹ trước tôi. Tôi gặp ông ở Los Angeles và ông
giúp các con trai tôi học hành cũng như kiếm việc làm. Một thời gian sau, tôi nghe
tin ông nằm bệnh viện nên đến thăm ông. Ông cầm tay tôi nói, “Xin hãy tha thứ
cho tôi.” Tôi đáp, “Tôi không có quyền tha thứ cho người khác. Chính tôi đây cũng
là một tội nhân cần được tha thứ. Đấng duy nhất có thể tha thứ cho chúng ta là Đức
Chúa Trời vì Ngài là Đấng vô tội." Ông qua đời chẳng bao lâu sau hôm tôi đến an
ủi ông tại bệnh viện. Sự việc này hiện lên tích tắc trong trí tôi như một thước phim
ngắn.
"Thưa bà (tôi dùng chữ Samonin trong tiếng Đại Hàn để xưng hô với bà vợ của vị
Mục sư), chắc là có sự hiểu lầm nào đó ở đây. Tôi đã cung hiến nhà thờ cùng tư
thất Mục sư cho Ngài thì làm thế nào tôi có thể lấy lại được?” Mọi người đều gật
gù như thể đã tìm ra được lời giải đáp cho một câu đố hóc búa.
Hội Thánh nhóm lại vào buổi chiều để dự lễ cung hiến của nhóm phụ nữ. Họ mời
tôi giảng và tôi cầu xin Ngài giúp đỡ. Trong lúc đứng tại nơi bục giảng, tôi cảm
nhận được sự hiện diện của Ngài ở giữa vòng hội chúng.
Ngài đã giữ lời hứa của Ngài và đáp lời cầu xin của tôi. Ba mươi ba năm trước khi
tôi ra đi, trong nước mắt tôi đã cầu xin Ngài giữ gìn Hội Thánh này. Giờ thì bông
trái đã xuất hiện. Họ đã được chăm sóc chu đáo bởi Đấng Chăn Hiền Lành và đang
trưởng thành về mặt thuộc linh. Các Trưởng lão, các Chấp sự cam kết phục vụ một
cách trung tín Thân thể Ngài và đền thờ Ngài.
Tôi dâng lên Ngài sự ca ngợi và lời cảm tạ chân thành nhất từ trái tim tôi. Làn gió
đầu mùa hạ thật trong lành và tươi mát vô cùng. Nắng chiều rực rỡ chiếu qua
khung cửa sổ nhà thờ giống như tình yêu của Ngài đang phủ che cả Hội chúng.
Ba mươi ba năm trước tôi rời ngôi nhà thờ này trong nước mắt. Còn bây giờ, người
phụ nữ hạnh phúc nhất thế giới này đã trở lại để chia sẻ mười hai giỏ đựng đầy
niềm hạnh phúc của mình. Bà đang đứng đó trong những giọt nước mắt vui mừng
của một đầy tớ Chúa cao tuổi. Chính sự sáng của Ngài đã xây dựng chiếc cầu
muôn đời của sự tha thứ và sự hòa giải giữa chúng ta với Ngài. Cơn mưa ngày hôm
qua khiến cho khung cảnh bên ngoài nhà thờ tươi hơn, xanh hơn trong muôn sắc
màu của đầu mùa hạ.
Khi được ánh sáng của Ngài chạm đến thì vật thọ tạo của Ngài, thiên nhiên và con
người đều trở nên những hình ảnh đẹp đẽ và tràn trề hạnh phúc như Ngài đã định
sẵn từ buổi sáng thế. Tâm hồn tôi sải cánh trong niềm ao ước sâu xa về sự hiện
diện vĩnh cửu của Ngài, như những đợt sóng không ngừng xô trên dòng sông sự
sống, đức tin, hy vọng và tình yêu thương.
“Ôi! Quả thật tôi là người đàn bà hạnh phúc.”
* * *
Thời tiết ấm áp ở Los Angeles cùng cơn mưa gần nhất khiến cho cây tử đinh
hương nở hoa sớm. Mùi thơm của hoa tử đinh hương lan tỏa đến cửa sổ của phòng
cầu nguyện nhỏ của tôi ở trong góc nhà thờ. Mùi thơm thật êm dịu, như chính Ngài
vậy.
Hôm nay là ngày Chúa Nhật, ngày của Đức Chúa Trời.
Tôi sửa soạn chính mình bằng lời cầu nguyện, và tôi cảm thấy phấn chấn khi biết
mình sắp gặp lại gia đình đức tin yêu dấu của mình. Mỗi lần tôi chia sẻ về tình yêu
kỳ diệu của Ngài là mỗi lần lòng tôi và chén tôi đầy tràn niềm hạnh phúc trong
Ngài. Hôm nay tôi đứng trước gia đình để chia sẻ không chút ràng buộc về kho
tàng “Hạnh Phúc” quý báu trong lòng tôi.
Tôi cầu nguyện để những người bền lòng và qua thời gian sẽ tìm được hạnh phúc
thật và qua họ niềm hạnh phúc đó sẽ được chia sẻ cho những người khác nữa. Nếu
có ai đó tìm được niềm hạnh phúc này nơi bạn thì đó sẽ là phước hạnh lớn lao của
cả hai chúng ta.
Làn gió mùa xuân quyện cùng mùi thơm của hoa tử đinh hương. Và một lần nữa
lòng tôi ngập tràn niềm hạnh phúc.
Lời Cuối
Giăng Buồm Trên Dòng Sông Hạnh Phúc
Từ ban đầu,
Trước khi thế giới nầy
Được Lời Ngài sáng tạo
Có một loại sinh vật duy nhất
Trong muôn loài vạn vật
Đã được Ngài chúc phước
Đã được Ngài nhận làm con
Theo hình ảnh của Ngài
Khiến Ngài rất vui lòng.
Nhưng trước khi được Ngài cống hiến niềm vui
Hay chia sẻ sự giàu có
Trong vương quốc vĩnh cửu của Ngài
Những con cái của Ngài
Đã theo kẻ tối tăm
Họ ra đi biệt tăm
Khỏi Thiên Phụ trên trời
Nguồn của mọi ánh sáng
Nguồn hạnh phúc, tình yêu
Một ngày kia lạ lắm
Chính Ngài là nguồn sáng
Đã từ giã thiên đàng
Xuống trần gian tội lỗi
Tìm kiếm đứa con hoang
Ngài hy sinh mạng sống
Để trả nợ yêu thương
Cho tội lỗi hoang đàng
Những người con đã phạm
Bây giờ đang hư mất
Bệnh hoạn và nghèo thiếu
Khổ đau và lang thang
Ngài đã mở con đường
Để người con đi hoang
Trở về cùng Thiên Phụ
Đầy ánh sáng chứa chan
Hạnh phúc và yêu thương.
Giờ người Cha nhân từ
Đang rộng vòng tay đón
Đang nóng lòng kêu gọi ,
"Hãy trở về với Ta,
Hãy tin tưởng nơi Ta,
Hỡi những ai nhọc mệt
Và nặng gánh ưu tư
Ta sẽ cất gánh nặng
Ta ban tặng tự do."
Hãy trở về nguyên trạng
Ngài yêu bạn thiết tha
Hãy trãi lòng mình ra
Với nổi buồn, ăn năn
Với thời gian vắng xa
Ngài hứa sẽ lấp đầy
Tràn ngập niềm hạnh phúc
Bạn không còn thất vọng
Ngài hứa, Ngài giữ lời.
Hãy kêu cầu Danh Chúa,
Giê-xu là Con đường
Giê-xu là Chân Lý
Giê-xu là Sự sống
Giê-xu là Tình thương."
"Người Đàn Bà Hạnh Phúc" Chia Sẻ Hạnh Phúc Thật
Trước hết, tôi muốn chúc mừng việc ấn hành quyển sách "Người Đàn Bà Hạnh
Phúc," một quyển sách ghi lại lời làm chứng bản thân của Mục sư Yoo.
Từ đáy lòng tôi rất vui khi thấy nhiều người sẽ đọc được lời làm chứng nầy vì Mục
sư Yoo có mối quan hệ đặc biệt với Viện Đại Học Han Dong trong sự cầu nguyện
cầu thay. Quyển sách nầy được dịch ra nhiều thứ tiếng để dùng cho công cuộc
truyền bá Tin Lành. Tôi cầu nguyện Đức Chúa Trời ban phước lành cho công tác
tốt đẹp nầy.
Quyển "Người Đàn Bà Hạnh Phúc " giải đáp cho câu hỏi làm thể nào để trở thành
một người đàn bà hạnh phúc thông qua những kinh nghiệm đau khổ và gian lao
trong cuộc đời Mục sư Yoo kéo dài suốt 75 năm.
Câu giải đáp trước sau như một từ đầu cho đến cuối sách đã nói đến Ngài tức là
Đức Chúa Giê-xu Christ. Nhờ Ngài mà bao nhiêu cuộc đời bất hạnh đã biến thành
hạnh phúc. Những người đó bao gồm người cha trong gia đình, người vợ bị chồng
bỏ, người phụ nữ bị chính cha mình phản bội, một người làm điệp viên cho Bắc
Hàn bị án tù chung thân. Khi những người như thế tìm được và nhận lãnh câu trả
lời kỳ diệu là "Ngài", thì họ tất cả đã trở thành những người hạnh phúc nhất thế
gian.
Bạn có đang hạnh phúc không? Quyển sách nầy sẽ cung ứng câu giải đáp đúng đắn
và bằng chứng thực sự về bí quyết để được hạnh phúc thật. Tôi cầu nguyện để
nhiều người sẽ trở thành người hạnh phúc sau khi tìm được câu trả lời đúng đắn
trong quyển "Người Đàn Bà Hạnh Phúc" nầy.
Tháng Ba, năm 1999
Bà Kim , Young Ae
(Vợ của Tiến sĩ Kim Young Gil
Viện Trưởng Viện Đại Học Han Dong, Pohang, Đại Hàn.)
Gởi những độc giả được chúc phước
Đó là bảy tuần lễ lạ thường.
Từ lúc bắt đầu viết bản thảo của quyển sách, chúng tôi đã phải trải qua một cuộc
chiến thuộc linh. Trong vòng một tháng, năm tai nạn xe hơi xảy ra ở nhà thờ là một
trong số những thí dụ. Nhưng Đức Chúa Trời đã ban thiên sứ Ngài để bảo vệ mạng
sống chúng tôi. Là một Trưởng lão trong Hội Thánh, tôi đã chứng kiến tất cả các
phép lạ một cách riêng tư.
Không phải do khả năng con người mà tôi có thể dịch được quyển sách này sang
tiếng Anh. Chính Ngài là Đấng đã ban cho tôi sức mạnh, sự khôn ngoan, sự hiểu
biết và thời gian. Ngài đã ban cho tôi 28 tiếng đồng hồ trọn như một phép lạ của
mười hai giỏ đầy trong lúc tôi bận rộn với công việc trọn thời gian, học kỳ cuối tại
Đại Chủng Viện, bài thi thu hoạch, công việc Hội Thánh cùng trách nhiệm làm
chồng, làm cha.
Xuyên suốt quá trình biên dịch, nhiều lần tôi cảm thấy không phải mình đang làm
công việc ấy. Tôi luôn luôn cảm thấy có một sự rờ đụng thiêng liêng vô hình trên
tôi.
Thật là một phước hạnh cho tôi khi được đồng hành với cuộc đời của Mục sư Yoo
trong một thời gian ngắn. Việc viết quyển sách không phải là ý tưởng của bà.
Chính Chúa đã muốn bà làm như thế và điều đó đã được xác nhận lại bằng nhiều
cách khác nhau: khải tượng trong những giấc mơ, lời dự đoán của một nữ tiên tri
người Nga và Lời của Ngài.
Khi bản tiếng Anh của quyển "Người Đàn Bà Hạnh Phúc" đang được chuẩn bị cho
việc xuất bản thì chúng tôi đã nhận được nhiều bản tường trình cùng hồi âm từ bản
dịch tiếng Đại Hàn. Toàn bộ quyển sách sẽ được đưa lên trang Web trên mạng
Internet để mọi người có thể vào xem miễn phí.
Tôi muốn có lời cảm ơn ông Jim Bramlett, một anh em yêu dấu trong Đấng Christ,
ban Thanh niên của nhà thờ tôi và Nina, người đã giúp tôi trong việc đọc và sửa
bản in. Tôi cũng không quên sự kiêng ăn và cầu nguyện của các chiến sĩ cầu
nguyện trong nhà thờ tôi. Tôi cũng cảm tạ Chúa vì tiện ích lớn lao của thư điện tử,
mà nhờ đó nội dung quyển sách được truyền bá từ châu lục này đến châu lục khác.
Trong tuần này, bản dịch tiếng Nga do Tania Lee thực hiện đã được hoàn tất và
đang trong giai đoạn biên tập.
Tôi tin rằng quý vị sẽ được chúc phước như chính tôi đây. Hãy tiếp tục tìm kiếm
Ngài, là Đức Chúa Giê-xu Christ, Chúa chúng ta vì Ngài là nguồn hạnh phúc duy
nhất cho chúng ta. Hy vọng được sớm gặp lại quý vị trong sự hiện diện của Ngài.
Maranatha! (Nguyện Chúa mau đến!)
Xin Chúa ban phước cho quý vị.
Michael Park
Hội Thánh Manna Mission
Los Angeles, California.
Tâm Tình Gởi Quí Độc Giả
Thật là một vinh dự lớn lao cho tôi khi được đóng góp một phần nhỏ nhoi vào công
tác chuyển dịch quyển sách tuyệt vời này sang tiếng Anh.
Đó quả là một phước hạnh cho tôi. Tôi chưa từng gặp Mục sư Yoo một cách cá
nhân. Nhưng từ khi bắt đầu đọc câu chuyện của bà, tôi cảm thấy như cả đời mình
tôi đã biết về bà. Dường như tôi đang thật sự sống cuộc đời bà cùng với bà và đang
cùng bà học biết về Cứu Chúa tuyệt vời, là Đấng không có giới hạn trong mọi
đường lối của Ngài.
Và đó là đường lối dành cho tất cả những ai đặt lòng tin cậy nơi Ngài và ở trong
vương quốc đời đời của Ngài. Dù chúng ta, tôi và quý vị, các độc giả yêu dấu,
không biết mặt nhau, nhưng nếu các bạn biết Ngài thì một ngày nào đó chúng ta
cũng sẽ biết nhau. Và tất cả chúng ta có cảm tưởng như thể đã quen biết nhau lâu
rồi. Chúng ta sẽ biết mặt nhau!
Tôi cảm tạ Đức Chúa Trời về Mục sư Yoo, về ân huệ và lòng thương xót của Ngài
đối với cuộc đời của bà, về cách Ngài sử dụng bà để cảm động vô số cuộc đời và
về sự bước đi theo Ngài trong sự vâng phục của bà. Bà là một tấm gương cho tôi;
bài làm chứng của bà thật sự đã khích lệ tôi rất nhiều. Tôi tin rằng quý vị cũng sẽ
có cảm nhận ấy.
Khi những điều này được viết ra thì chúng ta đang ở gần thời kỳ mà Ngài đã nói
đến. Chúng ta đang gần thời kỳ chung kết của những lời tiên tri trong Thánh Kinh,
gồm có cơn Đại Nạn và sự Trở Lại lần thứ hai trong đám mây và trong quyền năng
của Đấng đã giáng thế như Chiên Con chịu chết gần 2000 năm về trước.
Xin đừng xếp sách lại và cất quyển sách này trước khi quý vị cầu nguyện với Ngài
và đặt lòng tin cậy mình nơi Ngài, Đấng đã chết để quý vị được sống.
Ngài chỉ ở cách các bạn một lời cầu nguyện mà thôi. Bằng từ ngữ của chính mình,
bạn hãy cầu xin Ngài, là Đức Chúa Giê-xu Christ bước vào lòng bạn để làm Cứu
Chúa và Chủ Tể của đời sống bạn. Kinh Thánh chép rằng không ai đến được cùng
Đức Chúa Trời mà không bởi Ngài và ai kêu cầu danh Ngài thì sẽ được cứu. Tôi
đang cầu nguyện cho quý vị nếu như quý vị chưa thực hiện điều đó. Hãy kêu cầu
Ngài ngay hôm nay.
Cùng với Mục sư Yoo, tôi hy vọng gặp mặt quý vị nơi thiên đàng. Chúng tôi sẽ
trông chờ quý vị!
Nguyện Chúa ban phước cho quý vị.
Jim Bramlett