26
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHAN BÁ BẢY NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM (TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015

NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC …repository.law.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/632/1/LHS-Phan... · pháp luật là một trong những nguyên

  • Upload
    lebao

  • View
    217

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

PHAN BÁ BẢY

NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT

XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT

THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

(TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK)

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 60 38 01 04

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015

Công trình được hoàn thành tại

Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUÂN

Phản biện 1: ........................................................................

Phản biện 2: ........................................................................

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại

Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2015

Có thể tìm hiểu luận văn tại

Trung tâm tư liệu Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội

Trung tâm Thông tin – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội

1

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC

THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ

CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT THEO LUẬT TỐ

TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM .................................................... 8

1.1 Khái niệm nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập

và chỉ tuân theo pháp luật .................................................................. 8

1.2 Nội dung nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và

chỉ tuân theo pháp luật ..................................................................... 14

1.2.1 Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập .......................................... 15

1.2.2 Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật ........... 22

1.2.3 Mối quan hệ giữa độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt

động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm ....................................... 26

1.3 Ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập

và chỉ tuân theo pháp luật ................................................................ 29

1.4 Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật trong mối liên hệ với các nguyên tắc khác trong

luật tố tụng hình sự .......................................................................... 32

1.4.1 Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật trong mối liên hệ với nguyên tắc bảo đảm sự vô

tư của những người tiến hành hoặc người tham gia tố tụng ........... 32

1.4.2 Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật trong mối liên hệ với nguyên tắc suy đoán vô tội ... 34

1.4.3 Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật trong mối liên hệ với nguyên tắc xác định sự thật của vụ án ... 35

1.4.4 Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật trong mối liên hệ với nguyên tắc bảo đảm quyền

bình đẳng trước Toà án ..................................................................... 35

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................... 37

Chương 2: NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT

XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT THEO

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP

DỤNG TẠI ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK .................................... 38

2

2.1 Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật theo quy định pháp luật ............................................ 38

2.2 Thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ......... 49

2.2.1 Tình hình xét xử trong những năm gần đây (2009 – 2014) ............ 49

2.2.2 Những hạn chế trong việc tuân thủ nguyên tắc Thẩm phán và

Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật tại Đắk Lắk .... 52

2.2.3 Nguyên nhân của những hạn chế trong việc tuân thủ nguyên tắc

Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

tại Đắk Lắk ....................................................................................... 66

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................... 79

Chương 3: NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO

HIỆU QUẢ ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ

HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO

PHÁP LUẬT .................................................................................. 80

3.1 Những yêu cầu cải cách tư pháp về nguyên tắc Thẩm phán, Hội

thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ............................... 80

3.2 Những giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc

Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật .................................................................................................... 88

3.2.1 Triển khai thực hiện Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa

án nhân dân năm 2014 ..................................................................... 88

3.2.2 Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về đảm bảo hiệu quả áp

dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật ........................................................................... 94

3.2.3 Nâng cao trình độ chuyên môn của Thẩm phán, Hội thẩm nhân

dân để đảm bảo hiệu quả nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm

xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ........................................ 99

3.2.4 Giải pháp trau dồi đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán và Hội

thẩm................................................................................................ 102

3.2.5 Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân .................................. 104

3.2.6 Các giải pháp khác ......................................................................... 106

3.2.7 Một số giải pháp riêng để nâng cao hiệu quả nguyên tắc Thẩm

phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trên

địa bàn tỉnh Đắk Lắk ..................................................................... 108

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ......................................................................... 111

KẾT LUẬN ............................................................................................. 112

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................. 114

3

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.

Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật là một trong những nguyên tắc cơ bản để Tòa án thực hiện nhiệm

vụ xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm có quyền đưa ra phán quyết dựa trên cơ

sở quy định của pháp luật để giải quyết vụ án một cách khách quan mà

không phải phụ thuộc vào bất cứ một tác động nào khác. Thẩm phán và

Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một nguyên tắc hiến

định, có lịch sử hình thành và phát triển từ lâu. Mặc dầu đã được quy định

trong Hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật khác nhưng trên thực tế việc

áp dụng nguyên tắc này vẫn còn nhiều bất cập, chưa thực sự đem lại hiệu

quả thiết thực trong quá trình Tòa án xét xử các vụ án hình sự. Để đáp ứng

yêu cầu đổi mới trong hoạt động xét xử, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành

nhiều chính sách, pháp luật, đề ra phương hướng, mục tiêu và quy định cụ

thể về hoạt động xét xử của Tòa án.

Trước yêu cầu của Đảng, Nhà nước và thực tiễn trong việc xét xử của

Tòa án đảm bảo tính khách quan, độc lập, đúng pháp luật, việc cần phải

nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề về lý luận và

thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và

chỉ tuân theo pháp luật là cần thiết. Vì vậy, tác giả luận văn chọn đề tài:

Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật theo luật TTHS Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh

Đắk Lắk) làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

2.1. Mục đích nghiên cứu:

Đề tài luận văn có mục đích phân tích làm sáng tỏ về mặt lý luận đối

với nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật theo luật TTHS Việt Nam và việc áp dụng nguyên tắc này vào

thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, từ đó đưa ra những yêu cầu, giải pháp

nhằm hoàn thiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

4

- Làm rõ khái niệm, nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán và

Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

- Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng

nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong hoạt động xét xử của Tòa án. Từ đó

đưa ra một số yêu cầu, giải pháp nhằm hoàn thiện về mặt lý luận và thực

tiễn áp dụng đối với nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và

chỉ tuân theo pháp luật.

3. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp

luận của triết học Mác – Lênin mà cụ thể là phép duy vật biện chứng và

duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa

học như: Phân tích, tổng hợp, logic biện chứng và hệ thống.

4. Những điểm mới về khoa học của luận văn

- Về mặt lý luận:

Luận văn làm rõ được khái niệm, nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc

Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

- Về mặt thực tiễn:

Luận văn đi sâu phân tích một cách toàn diện, có hệ thống về các quy

định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán

và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trên địa bàn tỉnh Đắk

Lắk. Trên cơ sở đó đề ra một số yêu cầu, giải pháp nhằm hoàn thiện về

mặt lý luận và thực tiễn áp dụng đối với nguyên tắc Thẩm phán và Hội

thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, góp phần vào quá trình cải

cách tư pháp trong thời gian tới mà Đảng và Nhà nước ta đang đặt ra.

5. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm có 3 Chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về nguyên tắc Thẩm phán và Hội

thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

5

Chương 2: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật theo quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng tại địa

bàn tỉnh Đắk Lắk.

Chương 3: Những yêu cầu và giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng

nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ

HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT

1.1 Khái niệm nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập

và chỉ tuân theo pháp luật

Nguyên tắc “khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật” được quy định trong các bản Hiến pháp của Việt Nam kể từ

Hiến pháp năm 1946. Lịch sử phát triển của Nhà nước xã hội chủ nghĩa

Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn với 5 bản Hiến pháp được ban hành

tại những thời điểm lịch sử khác nhau nhưng đều ghi nhận và khẳng định

đây là một nguyên tắc xuyên suốt trong ngành tư pháp của nước ta.

Nguyên tắc này khẳng định trong hoạt động xét xử, Thẩm phán không phụ

thuộc vào bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào khi đưa ra các nhận định đánh

giá và phán quyết của mình về vụ án. Mọi cá nhân, tổ chức không được

can thiệp vào các hoạt động xét xử của Tòa án.

Hiện nay đang có những quan niệm khác nhau về nguyên tắc cơ bản

của luật TTHS, như định nghĩa, tiêu chí, cách phân loại cũng như xác định

giá trị các nguyên tắc cơ bản trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy

nhiên quan niệm chung nguyên tắc của TTHS là “những tư tưởng chỉ đạo

đối với toàn bộ hoạt động TTHS hoặc đối với một loại hoạt động nhất

định; là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ các chế

định pháp luật, các quy phạm pháp luật cụ thể về TTHS; hoặc đó là

“những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hoạt động TTHS và

được các văn bản pháp luật TTHS ghi nhận”.

Tuy nhiên, những quan niệm trên đây đều nhấn mạnh tính chỉ đạo của

các nguyên tắc mà chưa nhấn mạnh một tính chất khác của nguyên tắc –

6

đó là tính đòi hỏi khách quan là yêu cầu khách quan đảm bảo cho hoạt

động TTHS đạt được mục đích, được phản ánh trong pháp luật, trở thành

những bảo đảm pháp lý. Nếu không nhấn mạnh tính đòi hỏi khách quan

này của nguyên tắc thì việc xây dựng pháp luật TTHS không thể đảm bảo

tính khoa học và những đổi mới sẽ ít nhiều dễ bị tùy tiện, chủ quan, duy ý

chí.

Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt

Nam; là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ hoạt động xây dựng,

thực thi, kiểm soát pháp luật tố tụng hình sự; trở thành xử sự bắt buộc

chung đối với Thẩm phán và Hội thẩm khi được phân công xét xử vụ án;

là hướng tới mục đích giải quyết vụ án khách quan, công bằng, dân chủ

đảm bảo công bằng, công lý trong giải quyết vụ án hình sự. Từ sự phân

tích và thừa nhận những quan điểm của những người nghiên cứu trước đó

về khái niệm nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật, tác giả luận văn đưa ra khái niệm về nguyên tắc này

như sau: Với vị trí là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật TTHS,

nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật đòi hỏi trong hoạt động xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm phải tự mình

đưa ra quyết định để giải quyết vụ án, không lệ thuộc vào bất cứ yếu tố

nào khác. Hoạt động xét xử phải đảm bảo đúng pháp luật về trình tự thủ

tục cũng như các quyết định đưa ra phải chính xác, có căn cứ pháp lý.

Không một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào được phép can thiệp vào hoạt

động xét xử.

1.2 Nội dung nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và

chỉ tuân theo pháp luật

1.2.1 Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập

Xuất phát từ bản chất của hoạt động tư pháp mà Tòa án là trung tâm

của việc thực hiện và xét xử là hoạt động trọng tâm, đòi hỏi việc xét xử

phải bảo đảm tính độc lập. Chính vì vậy, nguyên tắc độc lập xét xử được

coi là tiền đề nền tảng của hoạt động tư pháp trong Nhà nước pháp quyền,

bảo đảm quan trọng cho việc xét xử được bình đẳng, dân chủ, khách quan.

Theo tác giả luận văn, nếu lấy chủ thể của hoạt động xét xử để nghiên cứu

7

thì sự độc lập được biểu hiện trên hai khía cạnh, đó là: Độc lập với các yếu

tố khách quan và độc lập với các yếu tố chủ quan.

Thứ nhất: Độc lập với các yếu tố khách quan.

- Độc lập với sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng.

Đối với các cơ quan Đảng thì mặc dù, về nguyên tắc, trong hoạt động

của mình Tòa án phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, nhưng Nhà nước ta

là Nhà nước pháp quyền hoạt động theo nguyên tắc pháp chế và mọi hoạt

động của Đảng, kể cả hoạt động lãnh đạo, cũng phải nằm trong khuôn khổ

pháp luật. Vì lẽ đó, trong hoạt động xét xử, Tòa án chỉ căn cứ vào pháp

luật và làm đúng theo các quy định của pháp luật; nghĩa là: khi xét xử Tòa

án chỉ thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, không bị bất cứ cơ

quan, tổ chức hay cá nhân nào chỉ đạo.

- Độc lập với các cơ quan Nhà nước khác.

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án đều là công cụ của Nhà nước,

bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và bảo vệ

quyền lợi của người lao động. Tuy nhiên mỗi cơ quan đều có chức năng,

nhiệm vụ riêng khi tham gia vào quá trình tố tụng. Tại phiên tòa Kiểm sát

viên đưa ra chính kiến của mình nhưng không buộc HĐXX phải thực hiện

theo.

- Sự độc lập của Tòa án với yêu cầu của bị can, bị cáo, người bào chữa

và những người tham gia tố tụng khác.

Thứ hai: Độc lập với các yếu tố chủ quan

- Sự độc lập giữa các cấp xét xử trong hệ thống Tòa án, độc lập trong

một Tòa án.

- Thẩm phán, Hội thẩm độc lập với nhau trong HĐXX.

- Độc lập trong việc đưa ra quyết định dựa trên những chứng cứ và

quy định của pháp luật để kết luận về vụ án.

1.2.2 Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật

Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập không có nghĩa là xét xử tùy

tiện mà độc lập trong khuôn khổ pháp luật. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội

thẩm chỉ tuân theo pháp luật, nhằm hạn chế tối đa oan sai, tiêu cực, tránh

bỏ lọt tội phạm. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm cần phải nắm vững

8

các quy định của pháp luật TTHS và thực hiện theo đúng quy định của

pháp luật. Các giai đoạn TTHS phải có nội dung là thực hiện các nhiệm vụ

cụ thể trên cơ sở các quy định của pháp luật TTHS nhằm giải quyết vụ án

hình sự một cách công minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật,

góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ các quyền hợp pháp

của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự.

Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền quyết định bị cáo có tội hay

không có tội. Vì thế, quyết định của Tòa án phải là quyết định khách quan,

chính xác và độc lập xét xử phải là một nguyên tắc hoạt động của Tòa án.

Khi xét xử vụ án hình sự, Thẩm phán và Hội thẩm căn cứ vào các tình tiết

của vụ án, các chứng cứ đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa và căn cứ

vào quy định của pháp luật để xác định tội phạm cũng như hình phạt đối

với người phạm tội.

1.2.3 Mối quan hệ giữa độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt

động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm

Độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật luôn có mối quan hệ gắn bó,

bổ sung cho nhau. Trong đó “độc lập” là điều kiện cần thiết để Thẩm phán

và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật và chỉ “tuân theo pháp luật”

là cơ sở cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm độc lập khi xét xử. Yếu tố

độc lập và tuân theo pháp luật không thể tách rời nhau. Độc lập nhưng phải

tuân theo pháp luật và tuân theo pháp luật nhưng phải đảm bảo sự độc lập,

tránh tình trạng áp đặt. Chính vì mối quan hệ này mà Thẩm phán và Hội

thẩm phải tuân thủ cả hai nội dung “độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật”

như đã nêu. Như vậy, có thể nhận thấy “Độc lập và tuân theo pháp luật” là

hai nội dung có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chỉ khi nào đảm bảo Thẩm

phán và Hội thẩm độc lập thì họ mới tuân theo pháp luật được và ngược

lại.

1.3 Ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập

và chỉ tuân theo pháp luật.

Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật xác định vai trò, vị trí của cơ quan Tòa án trong hệ thống cơ

quan nhà nước nói chung và cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng. Nguyên

tắc này còn có ý nghĩa trong việc đảm bảo công bằng xã hội. Mọi cá nhân

dù ở địa vị xã hội nào, nếu vi phạm pháp luật đều bị xét xử như nhau.

Thẩm phán độc lập là một trong các yếu tố để thực hiện công bằng xã hội,

9

xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một Nhà nước của

dân, do dân và vì dân. Nguyên tắc này có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối

với lý luận cũng như thực tiễn áp dụng.

1.4 Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật trong mối liên hệ với các nguyên tắc khác trong luật tố

tụng hình sự

Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật có mối quan hệ mật thiết với một số nguyên tắc trong luật tố

tụng hình sự như: nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành

hoặc người tham gia tố tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc xác

định sự thật của vụ án, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án.

Việc nghiên cứu và tìm hiểu nội dung của nguyên tắc này không chỉ có

ý nghĩa với các cơ quan và cán bộ làm công tác pháp luật mà còn cần thiết

đối với các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức xã hội và mọi công dân vì

nó đảm bảo cho Thẩm phán và Hội thẩm trong quá trình xét xử không bị

ràng buộc bởi bất cứ yếu tố nào khác ngoài pháp luật đồng thời loại trừ

mọi sự can thiệp từ bên ngoài vào hoạt động xét xử của Tòa án. Mặt khác

việc tìm hiểu và nắm vững nguyên tắc này tạo điều kiện cho việc xét xử

được khách quan, trung thực, bảo đảm cho Hiến pháp, pháp luật được chấp

hành nghiêm chỉnh và là một cơ sở quan trọng cho việc đảm bảo thực hiện

nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; đảm bảo cho Tòa án giải quyết vụ

án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, chống được các biểu hiện tiêu

cực nhằm từng bước thực hiện công bằng xã hội trong TTHS.

10

Chương 2

NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC

LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT THEO QUY ĐỊNH CỦA

PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

ĐẮK LẮK

2.1 Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật theo quy định pháp luật

Qua các thời kỳ phát triển lịch sử của đất nước, tuy có sự thay đổi rất

nhiều thể chế, hệ thống tổ chức bộ máy song nguyên tắc “khi xét xử Thẩm

phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo quy định của pháp luật” đều được

quy định trong các bản Hiến pháp và các đạo luật khác được ban hành như

BLTTHS, Bộ luật Tố tụng dân sự.

Kế thừa những quy định của pháp luật TTHS trước đó và tiếp nhận

những tư tưởng, quan điểm mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải

cách tư pháp ở nước ta, nguyên tắc này được quy định tại khoản 2 Điều

103 Hiến pháp năm 2013: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào

việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Bên cạnh đó, nguyên tắc này còn

được quy định cụ thể hơn tại khoản 1, Điều 9 Luật Tổ chức TAND năm

2014 “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;

nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm

phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào”.

Trong BLTTHS có những quy định liên quan đến độc lập xét xử của

Tòa án. Cụ thể:

Thứ nhất: Các quy định mang tính nền tảng, định hướng cho việc

đảm bảo Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật như: Điều 1, Điều 3, Điều 14 BLTTHS. Nội dung những quy định này

mang tính định hướng đóng vai trò quan trọng, làm nền tảng cho quá trình

xây dựng và thực thi pháp luật TTHS trong quá trình giải quyết vụ án hình

sự.

Thứ hai: Các quy định cụ thể đảm bảo Thẩm phán và Hội thẩm xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật như: Quy định Thẩm phán, Hội thẩm

phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi (Điều 46 BLTTHS), quy định

11

về trình tự tố tụng (Điều 207, Điều 222 BLTTHS), quy định về giới hạn

thẩm quyền (Điều 102 Hiến pháp năm 2013, Điều 196 BLTTHS).

Ngoài những quy định nêu trên trong BLTTHS còn có những quy

định khác nhằm góp phần thực hiện hiệu quả nguyên tắc Thẩm phán và

Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Cụ thể: quy định về

chế độ bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm, thuyên chuyển, kỷ luật, cách

chức, khen thưởng... đối với Thẩm phán, Hội thẩm; quy định về kinh phí

hoạt động của Tòa án nhân dân.

Trong quá trình cải cách tư pháp ở nước ta, nguyên tắc Thẩm phán và

Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đã và đang từng bước

được bảo đảm bằng những chủ trương về đổi mới tổ chức hệ thống Tòa án

theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính; về quy

chế Thẩm phán và các quy định của Hiến pháp và pháp luật tố tụng.

2.2 Thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

2.2.1 Tình hình xét xử trong những năm gần đây (2009 – 2014)

Trình bày bảng số liệu thống kê về số vụ án hình sự được thụ lý, số bị

cáo và số lượng vụ án hình sự được giải quyết, kết quả xét xử phúc thẩm,

giám đốc thẩm, tỉ lệ bản án, quyết định bị hủy. Qua đó đưa ra kết luận về

số lượng vụ án hình sự, số lượng bị cáo, số lượng án phúc thẩm, án bị hủy

đã tăng theo thời gian.

2.2.2 Những hạn chế trong việc tuân thủ nguyên tắc Thẩm phán và

Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật tại Đắk Lắk

2.2.2.1 Những hạn chế của Thẩm phán và Hội thẩm trong độc lập xét

xử.

- Hạn chế về năng lực của Thẩm phán và Hội thẩm.

Đối với một tỉnh miền núi như Đắk Lắk vấn đề bổ sung nguồn nhân

lực chất lượng, đào tạo bồi dưỡng cho Thẩm phán và Hội thẩm luôn gặp

nhiều khó khăn bởi điều kiện kinh tế, xã hội còn hạn chế. Ngoài những

nguyên nhân tác động như hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập chưa phù

hợp, cơ sở vật chất và điều kiện làm việc vẫn còn nhiều khó khăn, chế độ

lương và chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm vẫn

chưa thực sự tương xứng và phù hợp thì nguyên nhân chủ yếu vẫn là do

12

trình độ chuyên môn đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm của ngành Tòa án

nhân dân tỉnh Đắk Lắk vẫn còn chưa cao so với nhiều tỉnh khác.

- Thẩm phán và Hội thẩm còn phụ thuộc nhiều vào bản kết luận điều

tra và bản cáo trạng của VKS trong hồ sơ vụ án.

Trong nhiều vụ án tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk, HĐXX tin vào kết quả

điều tra có trong hồ sơ vụ án nên có thành kiến với bị cáo có tội, từ đó đặt

những câu hỏi mang tính áp đặt buộc bị cáo khai đúng với những lời khai

trước đó. Đây cũng chính là nguyên nhân để việc xét hỏi của Thẩm phán

và Hội thẩm tại phiên tòa diễn ra nhiều lúc còn nặng nề và mang tính áp

đặt giữa Thẩm phán và Hội thẩm đối với bị cáo.

- Còn tồn tại “định hướng xét xử” thông qua các cơ chế về việc họp

án ba ngành, họp báo cáo án trong nội bộ cơ quan, thỉnh thị án cấp trên

trước việc xét xử.

Những tác động xấu là có thể xảy ra tình trạng “án bỏ túi” khi những

cuộc họp liên ngành có khi lại khiến cho các bên xác định luôn đường lối

xử lý như mức hình phạt cụ thể, biện pháp chấp hành hình phạt mà không

cần xem xét tới kết quả tại phiên tòa sau đó, nó khiến cho các Thẩm phán

ở Đắk Lắk nói riêng và cả nước nói chung hầu như không quan tâm đến

các tình tiết của vụ án, không nắm rõ nội dung vụ án nên dễ thống nhất với

quan điểm đề xuất của Thẩm phán giải quyết vụ án. Ngoài ra, hoạt động

thỉnh thị án cấp trên và họp bàn nhằm mục đích áp dụng thống nhất pháp

luật. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật trong hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.

- Hội thẩm nhân dân chưa phát huy được hết vị trí của một người

làm công tác xét xử trên thực tế.

Trên thực tế, Hội thẩm nhân dân tại tỉnh Đắk Lắk chưa phát huy

được hết quyền năng của mình như pháp luật đã quy định. Nhiều trường

hợp tại Đắk Lắk đối với các vụ án không có nhiều tình tiết phức tạp, Hội

thẩm nhân dân không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án mà họ chỉ đọc trước

phiên xét xử từ 1 đến 2 buổi, hoặc thậm chí có nhiều trường hợp Hội thẩm

chỉ đọc ngay trước phiên xét xử. Như vậy tính độc lập xét xử không được

đảm bảo. Trong báo cáo tổng kết công tác năm 2012 và triển khai nhiệm

vụ trọng tâm công tác năm 2013 của ngành Tòa án tỉnh Đắk Lắk đã thừa

nhận thực tế này, báo cáo chỉ rõ rằng “Các Hội thẩm ít chủ động trong việc

thẩm vấn mà chủ yếu do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chủ động và trực

tiếp thẩm vấn”.

13

2.2.2.2 Những hạn chế của Thẩm phán và Hội thẩm trong việc tuân

theo các quy định của pháp luật khi xét xử.

- Số lượng án hủy do lỗi chủ quan của Thẩm phán vẫn còn tồn tại

nhiều.

Tại báo cáo tổng kết công tác năm 2013, triển khai nhiệm vụ trọng

tâm công tác năm 2014 của TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk đã nêu lại vấn đề

này, theo đó mặc dù đã có nhiều cố gắng, tỷ lệ án hủy, sửa do lỗi chủ quan

đã giảm nhưng vẫn còn. Trong nhiều vụ án mà Thẩm phán, Hội thẩm đã

thấy rõ ràng, có thể quyết định tội danh, quyết định hình phạt nhưng lại

vướng vào giới hạn xét xử và nhiều trường hợp buộc phải trả hồ sơ điều tra

bổ sung, vi phạm giới hạn khi tuyên án, phải điều tra, xét xử lại lại gây mất

nhiều thời gian trong giải quyết vụ án hình sự mà thực tiễn tại Đắk Lắk đã

cho thấy rõ điều đó.

- Việc áp dụng quy định của BLHS trong xét xử còn nhiều hạn chế.

+ Không tuân thủ đúng quy định của pháp luật trong xét xử khiến

việc nhận định không chính xác, đánh giá không đúng tính chất hành vi

phạm tội dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm, xét xử không đúng tội phạm.

+ Nhận định không đúng về tính chất và mức độ của hành vi phạm

tội dẫn đến áp dụng sai các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, ảnh

hưởng nghiêm trọng đến việc áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử.

+ Vi phạm quy định về phạm vi xét xử theo quy định tại điều 196

BLTTHS. Điều này đã cho thấy nhiều Tòa án trên địa bàn tỉnh Đắk Lắc,

do Thẩm phán và Hội thẩm không tuân thủ chặt chẽ quy định của Bộ luật

TTHS về giới hạn xét xử nên đã để xảy ra nhiều trường hợp vi phạm về

vấn đề này.

2.2.3 Nguyên nhân của những hạn chế trong việc tuân thủ nguyên

tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật ở

Đắk Lắk

2.2.3.1 Nguyên nhân đến từ những bất cập trong quy định của pháp

luật.

- Hệ thống pháp luật còn quá chồng chéo và chưa thực sự rõ ràng

trong nhiều quy định gây khó khăn cho Thẩm phán, Hội thẩm khi xét xử.

Sở dĩ còn việc Thẩm phán, Hội thẩm tại Đắk Lắk áp dụng pháp luật một

cách tùy tiện, có sự không độc lập, có sự thống nhất chứng cứ bằng cuộc

họp liên ngành, thỉnh thị án, có sự tác động của các cá nhân khác đến hoạt

14

động xét xử, trước hết một phần là do hệ thống pháp luật chưa rõ ràng, cụ

thể, chưa có những chế tài cần thiết đủ mạnh để răn đe trước những hành

vi vi phạm nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân

theo pháp luật.

- BLHS chưa thực sự rõ ràng trong nhiều quy định, gây khó khăn

trong việc áp dụng pháp luật vào hoạt động xét xử. Đặc biệt nhất chính là

quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999 về các tình tiết giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự cho phép HĐXX, tùy nghi lựa chọn những tình tiết

giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, ngoài những tình tiết đã được pháp luật quy

định.

- Trong một số quy định của BLTTHS cũng tồn tại nhiều bất cập làm

ảnh hưởng đến nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật. Có thể kể đến quy định về giới hạn xét xử của Tòa án

tại điều 196 BLTTHS bởi nó đã tạo cho giới hạn xét xử của Thẩm phán bị

lệ thuộc nhiều vào Viện kiểm sát, nó có thể khiến cho Thẩm phán và Hội

thẩm không thực sự độc lập trong xét xử, khó đưa ra quan điểm đánh giá

riêng trong nhiều vụ án mà Thẩm phán, Hội thẩm đã thấy rõ ràng, có thể

quyết định tội danh, quyết định hình phạt nhưng lại vướng vào giới hạn xét

xử và nhiều trường hợp buộc phải trả hồ sơ điều tra bổ sung, điều tra lại

gây mất nhiều thời gian trong giải quyết vụ án hình sự.

2.2.3.2 Thực tiễn giải quyết vụ án hình sự ở Đắk Lắk cho thấy nguyên

nhân nằm ở sự tác động từ nhiều phía tới Thẩm phán và Hội thẩm khi xét

xử.

- Tác động của tổ chức Đảng tới Thẩm phán và Hội thẩm: Đối với tỉnh

Đắk Lắk, 100% số Thẩm phán đều là đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Trên thực tế xảy ra ở tỉnh Đắk Lắk nói riêng và cả nước nói chung đã có

không ít cấp ủy Đảng cố tình tác động tới Thẩm phán, Hội thẩm vào mặt

chuyên môn, thực tế cũng đã cho thấy có nhiều vụ án mà sự tác động của

các cấp ủy Đảng đã dẫn đến việc xét xử không chính xác nếu không muốn

nói là sai pháp luật. Cần phải xem xét sự tác động như thế nào là đúng. Sai

ở người Thẩm phán, Hội thẩm do không vững vàng về niềm tin và không

xác định rõ giới hạn của ba từ “Đảng lãnh đạo” nên đã để tình trạng tác

động của một số lãnh đạo cấp ủy Đảng vào công tác xét xử của Tòa án.

15

- Tác động từ lãnh đạo Tòa án ở một số địa phương trên địa bàn Tỉnh

Đắk Lắk còn xảy ra

Trước hết hệ thống Tòa án Việt Nam được tổ chức từ Trung ương

đến địa phương. Đứng đầu mỗi Tòa án là Chánh án, đây chính là thủ

trưởng của đơn vị. Các Thẩm phán chịu sự điều chỉnh, sắp xếp công việc

của Chánh án. Có sự tác động của lãnh đạo Tòa án mà đặc biệt là của

Chánh án đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu lực của nguyên tắc Thẩm

phán và Hội thẩm độc lập, chỉ tuân theo pháp luật trên thực tế.

- Tác động từ dư luận trước và trong mỗi phiên tòa.

Xét cho cùng, báo chí cũng chỉ là quan điểm của cá nhân, thậm chí đó

là quan điểm tập thể, quan điểm đó có thể đúng và cũng có thể chưa chính

xác. Trên thực tế hiện nay có nhiều vụ án xét xử theo hướng “làm dịu” sự

phản ứng của dư luận xã hội. Nếu Thẩm phán và Hội thẩm xét xử không

dựa trên pháp luật và bị tác động bởi dư luận, báo chí thì rõ ràng vi phạm

nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Có nhiều vụ án gây bức xúc trong quần chúng nhân dân khiến cho người

dân phản ứng mạnh tại phiên tòa và một số Thẩm phán đã thừa nhận, nếu

vụ án được xét xử tại trụ sở bị cáo chỉ có thể bị xử tù từ vài năm nhưng do

xét xử lưu động, sự việc gây bức xúc trong quần chúng nhân dân nên phải

xử nặng hơn để có tác dụng giáo dục chung.

2.2.3.3 Nguyên nhân từ yếu tố chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp

của một số Thẩm phán, Hội thẩm trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

Là một tỉnh khó khăn và thuộc vùng cao nguyên phía Tây của cả

nước, Đắk Lắk gặp nhiều khó khăn trong việc thu hút nguồn nhân lực chất

lượng cao phục vụ cho tỉnh, trong đó có việc thu hút những cử nhân luật.

Việc đảm bảo cho đội ngũ Thẩm phán hiện tại trên địa bàn tỉnh đáp ứng

được những điều kiện về trình độ chuyên môn một cách vững vàng đã là

điều không dễ dàng, nên việc giúp cho họ nâng cao hơn nữa trình độ lại

càng là một khó khăn bởi tình hình kinh tế, xã hội nhiều khi không cho

phép. Hiện nay, ngành Tòa án nói chung cũng như ngành Tòa án Đắk Lắk

nói riêng vẫn chưa có một quy chế riêng về đạo đức nghề nghiệp của

Thẩm phán và Hội thẩm, chỉ có "Quy tắc ứng xử của cán bộ công chức

ngành TAND".

16

2.2.3.4. Nguyên nhân từ cơ chế bổ nhiệm Thẩm phán chưa thật sự

khiến cho nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật được vận hành

trôi chảy.

Thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán hiện nay cũng là vấn đề ảnh hưởng đến

độc lập xét xử của Thẩm phán. Việc bổ nhiệm một Thẩm phán qua nhiều

cấp, nhiều ngành, nhiều thủ tục, nhiều "cửa" sẽ đảm bảo hơn về chất lượng

Thẩm phán. Tuy nhiên, chính nhiều “cửa" đó cũng sẽ sinh ra nhiều yếu tố

tác động đến Thẩm phán hơn. Công tác tổ chức tập huấn Hội thẩm cũng

chưa được quan tâm đúng mực, tổ chức không thường xuyên, nội dung tập

huấn mới chỉ chú trọng vào nội dung của BLTTHS, Bộ luật Tố tụng dân

sự, thời gian tập huấn còn quá ngắn. Nội dung kỹ năng xét xử và các văn

bản pháp luật khác hầu như không được đề cập đến gây ảnh hưởng đến

chất lượng xét xử.

Chế độ ưu đãi đối với Thẩm phán và Hội thẩm. Thẩm phán hiện nay

hưởng lương theo ngạch hành chính của các cán bộ, công chức bình

thường. Nhất là đối với một tỉnh cao nguyên khó khăn như Đắk Lắk, việc

thiếu thốn nhiều điều kiện cơ sở vật chất đã khó khăn, cán bộ ngành Tòa

án lại càng vất vả hơn trong cuộc sống hằng ngày bởi điều kiện kinh tế và

khả năng trang trải cuộc sống.

2.2.3.5. Một số nguyên nhân khác.

Giữa Tòa án và cơ quan Đảng có mối quan hệ khá chặt chẽ với nhau.

Tổ chức cơ sở đảng được thành lập ở các cơ quan trong bộ máy Nhà nước

trong đó có Tòa án. Sự chi phối là điều không thể tránh khỏi nếu bản thân

lãnh đạo của những người Thẩm phán, Hội thẩm này không thật sự nghiêm

túc và coi thường nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật.

Sự phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị trường cũng là một trong

những tác nhân. Bởi Đắk Lắk là một tỉnh nghèo, khó khăn với các điều

kiện kinh tế, xã hội hạn chế. Điều cần lưu ý, ở Đắk Lắk chủ yếu là đồng

bào dân tộc Tây Nguyên sinh sống, chính trình độ dân trí không cao so với

mặt bằng chung của nhiều tỉnh đồng bằng khiến cho nhận thức và khả

năng tiếp nhận thông tin từ dư luận của đồng bào sẽ bị hạn chế hơn rất

nhiều, nên việc đề cao cảnh giác trước mọi luồng thông tin xấu của các

phần tử chống phá Nhà nước, có thể gây kích động cho bà con là điều luôn

được đề cao.

17

Chương 3

NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ

ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ

ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT

3.1 Những yêu cầu cải cách tư pháp về nguyên tắc Thẩm phán và

Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Các quan điểm chỉ đạo cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay là:

- Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng

gọn nhẹ, tinh giản, đấu tranh phòng ngừa tội phạm, dân chủ, tôn trọng và

bảo vệ quyền con người, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.

- Đổi mới mô hình TTHS theo hướng mở rộng tranh tụng, bảo đảm

dân chủ, công bằng, công khai, minh bạch trong hoạt động TTHS, hạn chế

đến mức thấp nhất và khắc phục kịp thời oan sai trong TTHS.

- Tăng cường hợp tác quốc tế trong TTHS góp phần đấu tranh có

hiệu quả đối với tội phạm xuyên quốc gia.

Trên cơ sở thực trạng pháp luật và thực tiễn hoạt động của các cơ

quan tiến hành TTHS ở Việt Nam hiện nay, định hướng của Đảng về cải

cách tư pháp khi tiến hành nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan

tiến hành tố tụng nói chung và áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội

thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nói riêng cần phải thực hiện

theo những định hướng sau:

Thứ nhất, cải cách tư pháp phải dựa trên quan điểm xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.

Thứ hai, bảo đảm địa vị cao nhất của pháp luật trong thực tiễn đời

sống xã hội, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật phù hợp với điều kiện

phát triển kinh tế xã hội của đất nước và thực trạng đấu tranh, xử lý tội

phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng.

Thứ ba, đối với Toà án, Nghị quyết số 49-NQ/TW đề ra nhiệm vụ xây

dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Toà án theo hướng tổ chức Toà án

theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào địa giới hành chính.

Thứ tư, nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội

thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật phải đặt trong bối cảnh đổi

18

mới thể chế, cải cách hành chính, cải cách lập pháp và đặc biệt là nâng cao

vai trò, vị trí của người Thẩm phán.

Thứ năm, cải cách tư pháp, nâng cao hiệu quả nguyên tắc Thẩm phán

và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật phải đảm bảo sự kế

thừa tinh hoa truyền thống dân tộc song hành cùng hội nhập quốc tế.

3.2 Những giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc

Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

3.2.1 Triển khai thực hiện Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức Tòa án

nhân dân 2014

Ngày 24 tháng 11 năm 2014, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật tổ

chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) và Nghị quyết thi hành Luật tổ chức Tòa

án nhân dân (sửa đổi), đây là một căn cứ pháp lý quan trọng trong việc

khẳng định vị trí, chức năng, nhiệm vụ cũng như nâng cao hiệu quả hoạt

động của ngành Tòa án nói chung và của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân

trong hoạt động xét xử nói riêng. Tại Điều 9 Luật Tổ chức Tòa án nhân

dân 2014 tiếp tục thừa nhận nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật

Có thể chú ý một số điểm nổi bật cần triển khai sau:

- Triển khai có hiệu quả những quy định mới về việc Tòa án có thể tự

kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ tại Điều 2 của Luật Tổ

chức TAND năm 2014.

- Triển khai thực hiện tổ chức Tòa án nhân dân theo mô hình gồm 4

cấp theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Việc

sắp xếp lại hệ thống TAND theo quy định của Luật Tổ chức TAND năm

2014 cần được tiến hành theo lộ trình, tránh triển khai thực hiện một cách

chung chung theo kiểu “bình mới rượu cũ”. Bởi đây là một quy định quan

trọng cụ thể hóa đường lối lãnh đạo của Đảng trong các Nghị quyết của Bộ

Chính Trị đã đề ra về chiến lược cải cách tư pháp.

- Quy định về nhiệm kỳ Thẩm phán.

Tuy luật 2014 đã có quy định về kéo dài nhiệm kỳ nếu được tái bổ

nhiệm nhưng cũng cần có ràng buộc quy định những đợt đánh giá dựa trên

số vụ án bị kháng cáo, kháng nghị và những căn cứ khác cho thấy Thẩm

phán có hành vi vi phạm các chuẩn mực đạo đức hoặc Thẩm phán không

đủ năng lực để miễn nhiệm Thẩm phán. Thêm sự ràng buộc này sẽ giúp

19

các Thẩm phán vừa an tâm công tác, vừa tăng cường trau dồi phẩm chất và

trình độ và cũng là một yếu tố góp phần tăng cường hiệu quả của nguyên

tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

- Về việc thực hiện chế độ, chính sách đối với Thẩm phán.

Điều 75 của Luật tổ chức TAND 2014 đã đổi mới quy định về chế

độ, chính sách đối với Thẩm phán, theo đó Nhà nước có chính sách ưu tiên

về tiền lương, phụ cấp đối với Thẩm phán Đảm bảo thực hiện có hiệu quả

chính sách này đã được quy định trong Luật Tổ chức TAND 2014 là biện

pháp quan trọng nâng cao hiệu quả của nguyên tắc : “Thẩm phán và Hội

thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

3.2.2 Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về đảm bảo hiệu quả áp

dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật

- Sửa đổi Điều 16 Bộ luật TTHS năm 2003 để phù hợp với quy định

tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 và khoản 1 Điều 9 Luật Tổ

chức TAND năm 2014.

- Cần xem xét về những quy định trong việc nghị án của HĐXX.

Cần xem xét cụ thể để quy định một cách rõ ràng, những vấn đề cần

nghị án là những vấn đề nào. Không được quy định chung chung khiến các

Thẩm phán, Hội thẩm trong phòng nghị án gặp khó khăn, ảnh hưởng đến

việc tuân theo pháp luật trong xét xử.

- Xem xét quy định về giới hạn xét xử theo hướng trong một số

trường hợp nhất định, Tòa án có thể xét xử bị cáo với khoản khác nặng

hơn khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về

một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố, nhưng

không được làm ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị cáo.

- Cần xem xét và vạch ra kế hoạch cụ thể nhằm từng bước thực hiện

việc công khai hóa các bản án hình sự đến đông đảo nhân dân, trừ những

bản án hình sự về tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia hoặc liên quan đến

thuần phong mỹ tục.

- Bổ sung thêm quy định về mối quan hệ thân thích giữa những

người tiến hành tố tụng với nhau là căn cứ để thay đổi hoặc từ chối người

tiến hành tố tụng, đặc biệt tại một phiên tòa xét xử.

20

- Phải đổi mới tranh tụng, điều tiết cho phù hợp sự tham gia của

Thẩm phán và Hội thẩm vào việc xét hỏi theo quy định tại chương XX

trong BLTTHS 2003.

3.2.3 Nâng cao trình độ chuyên môn của Thẩm phán, Hội thẩm

nhân dân để đảm bảo hiệu quả nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét

xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

- Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán.

Tác giả luận văn đồng tình với quan điểm bên cạnh giữ bộ khung của

quy chế bổ nhiệm Thẩm phán hiện hành thì phải thêm các quy định mới về

điều kiện để thắt chặt hơn về cơ chế bổ nhiệm. Như việc những Thẩm

phán đương nhiệm có trình độ Cao đẳng trở xuống phải được chuẩn hóa

trình độ để đảm bảo số lượng Thẩm phán có trình độ cử nhân luật đạt

100%. Ngoài ra, cũng cần làm tốt công tác bồi dưỡng thường xuyên cho

Thẩm phán để họ nâng cao về kiến thức, kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp và

cập nhật kiến thức mới ở trong và ngoài nước.

- Về trình độ chuyên môn của Hội thẩm nhân dân.

Để Hội thẩm nhân dân thật sự phát huy được vai trò của mình, cần

phải cung cấp kịp thời những thông tin về hoạt động xét xử cũng như các

kiến thức pháp luật cho Hội thẩm. Tổ chức các đợt tập huấn dài hạn hoặc

ngắn hạn kết hợp với kỹ năng xét xử. Nên quy định Hội thẩm phải do

chính nhân dân bầu chọn một cách công khai, dân chủ trên cơ sở sự tín

nhiệm của đông đảo quần chúng nhân dân. Mặt khác, ngành Tòa án cũng

cần quản lý một cách chặt chẽ hơn đối với đội ngũ Hội thẩm nhân dân.

3.2.4 Giải pháp trau dồi đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán và

Hội thẩm

Nâng cao đạo đức nghề nghiệp, phẩm chất của người Thẩm phán là

điểm đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả thực tiễn của

nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật. Ngành Tòa án cũng cần xem xét về các tiêu chí để xây dựng nên

một quy chế về đạo đức cho người Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân,

trong đó quy định về những ứng xử mà Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

phải làm.

21

3.2.5 Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

Tổ chức bộ máy của các Toà án được quy định theo hướng chuyên môn

hoá nhưng linh hoạt, tránh cồng kềnh, gây tốn kém, lãng phí.

Cần quy định chặt chẽ hơn đối với mối quan hệ giữa cấp trên với cấp

dưới trong Tòa án và cần phân biệt rõ mối quan hệ giữa Chánh án và Thẩm

phán trong cùng một Toà án, để tránh sự tác động trực tiếp, gây ảnh hưởng

đến sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử vụ án hình sự nói

riêng và các vụ án khác nói chung.

3.2.6 Các giải pháp khác

- Cần phải xác định phạm vi lãnh đạo của Đảng và hiến định các quy

định về tổ chức và hoạt động của Đảng để bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán

và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

- Nâng cao nhận thức của các cá nhân khác về nguyên tắc Thẩm phán

và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

- Cần tăng cường sự giám sát của các đoàn đại biểu Quốc hội, Đại

biểu HĐND, Thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam…và đặc biệt là sự

giám sát của nhân dân đối với việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm

nhân dân.

3.2.7 Một số giải pháp riêng để nâng cao hiệu quả nguyên tắc Thẩm

phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trên địa bàn

tỉnh Đắk Lắk

Muốn thực hiện tốt hiệu quả nguyên tắc này, ngoài việc tiếp tục thực

hiện có hiệu quả các giải pháp chung đã được nêu ra, tỉnh Đắk Lắk cần hết

sức quan tâm vào những giải pháp trọng tâm sau đây:

- Phải xác định công tác tổ chức cán bộ là then chốt nên cần thường

xuyên rà soát, kịp thời báo cáo và đề nghị với TANDTC và cấp ủy bố trí,

tăng cường để đảm bảo về số lượng và chất lượng cán bộ. Chủ động bố trí,

phân bổ đội ngũ Thẩm phán hợp lý cho từng đơn vị Tòa án, điều động đội

ngũ cán bộ xét xử, sẵn sàng điều động cán bộ biệt phái theo yêu cầu trước

mắt cũng như lâu dài đảm bảo công tác xét xử không bị tồn đọng án. Đặc

biệt Ngành Tòa án và chính quyền, đảng bộ tỉnh Đắk Lắk cần có thêm

nhiều chính sách thu hút nhân lực có chất lượng cho Ngành Toà án, đối

tượng có thể là cử nhân luật, những người có kinh nghiệm và trình độ về

22

pháp lý để bổ sung cho sự thiếu hụt nhân sự ở một số Tòa án địa phương.

Làm tốt công tác con người và có đội ngũ nhân lực chất lượng, đầy đủ thì

mới có điều kiện để phát huy hiệu quả của nguyên tắc Thẩm phán và Hội

thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

- Chăm lo củng cố hoàn thiện đội ngũ cán bộ ngành Tòa án tỉnh Đắk

Lắk, với những chính sách, chế độ cho đội ngũ cán bộ trong ngành phù

hợp để họ yên tâm với công tác mang tính đặc thù này. Đặc biệt ở một số

huyện khó khăn như Huyện Lắk, Huyện Ea Súp, Huyện Krông Bông

…điều kiện làm việc và sinh hoạt của các Thẩm phán, Hội thẩm rất khó

khăn, ảnh hưởng không nhỏ tới thái độ chuyên tâm và trách nhiệm với

nghề nghiệp của họ. Nếu như trong các giải pháp chung đã nêu, việc tăng

cường các chính sách về lương bổng và các khoản phụ trợ cho Thẩm phán,

Hội thẩm cần được quan tâm hơn thì đối với Đắk Lắk đây phải là nhiệm vụ

trọng tâm.

- Việc xây dựng Tòa án sơ thẩm và tổ chức lại hệ thống Tòa án cần

phải đánh giá thực tiễn một cách cụ thể trên cơ sở có sự góp ý từ nhân dân,

tăng cường việc tuyên truyền chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng

và Nhà nước, nhất là tuyên truyền phổ biến về Luật tổ chức TAND năm

2014 để đồng bào được biết và hiểu. Làm tốt công tác tuyên truyền là cơ

sở để việc thực thi có hiệu quả các chính sách được thực hiện trôi chảy và

có hiệu quả trên thực tế.

KẾT LUẬN

Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật với tư cách là một nguyên tắc Hiến định, có thời gian tồn tại lâu

dài trong suốt thời gian 69 năm (từ Hiến pháp năm 1946). Với sự tồn tại

bền vững như vậy, cũng đã chứng minh được tầm quan trọng của nguyên

tắc này trong hoạt động Tố tụng nói chung và hoạt động TTHS nói riêng.

Chính từ vị trí quan trọng của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, tác giả lựa chọn đề tài này để nghiên

cứu và rút ra những kết luận sau:

Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với lý luận cũng như thực tiễn

áp dụng. Nguyên tắc này xác định vai trò, vị trí của cơ quan Tòa án trong

hệ thống cơ quan Nhà nước nói chung và cơ quan tiến hành tố tụng nói

23

riêng. Nguyên tắc này còn có ý nghĩa trong việc đảm bảo công bằng xã

hội, góp phần xây dựng một Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, một

Nhà nước của dân do dân và vì dân.

Tuy nhiên, các quy định của pháp luật hiện hành chưa đảm bảo

nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật được thực thi triệt để. Thực tiễn xét xử trong nhiều năm qua cho thấy,

Tòa án nhân dân về cơ bản đã hoàn thành tốt chức năng của mình, tuy

nhiên vẫn còn tình trạng oan sai trong xét xử. Thẩm phán và Hội thẩm chịu

sự hệ thuộc bởi cơ chế bổ nhiệm ngắn và không vững chắc, bởi các mối

quan hệ hành chính nội bộ trong Tòa án nơi mình làm việc và cấp trên, bởi

quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm, xem xét kỷ luật, cách chức chức danh

Thẩm phán, bởi sự tác động và áp lực mức lương và thu nhập còn khiêm

tốn. Bên cạnh đó, các quy định của pháp luật chưa đủ mạnh để đảm bảo

tính chịu trách nhiệm của Tòa án, của Thẩm phán và trách nhiệm giải trình

trong hoạt động xét xử; vẫn tồn tại hiện tượng can thiệp của các tổ chức, cá

nhân vào quá trình xét xử. Điều đó làm cho hoạt động xét xử thiếu vắng sự

giám sát hữu hiệu của công chúng và dẫn đến sự thiếu minh bạch, tùy tiện

và cơ hội tham nhũng trong Ngành Tư pháp.

Trên nền tảng những vấn đề pháp lý cơ bản của độc lập xét xử và

phân tích thực trạng của các cơ sở hiến định và pháp luật liên quan về độc

lập xét xử cũng như việc thực hiện các quy định đó, tác giả đưa ra một số

kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật để nguyên tắc này thật sự đạt hiệu quả

cao nhất, góp phần tích cực vào việc thực hiện thành công những yêu cầu

của cải cách tư pháp mà Đảng đã đề ra.

Là một bộ phận trong hệ thống TAND Việt Nam, trong hoạt động

xét xử của Tòa án tỉnh Đắk Lắk, nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật TTHS Việt nam cũng được

tuân thủ chặt chẽ. Ngoài những thành tựu đã đạt được thì hoạt động TTHS

của tỉnh Đắk Lắk cũng bộc lộ một số khuyết điểm. Thẩm phán, Hội thẩm ở

nhiều Tòa án còn có tư duy quá phụ thuộc vào hồ sơ vụ án dẫn đến phân

tích không kỹ càng các tình tiết, các vấn đề của vụ án mà họ xét xử. Một

số khác thì quá tin tưởng vào tư duy cá nhân dẫn đến việc xét xử theo ý chỉ

chủ quan, không tuân theo pháp luật, nhiều vụ án Thẩm phán độc lập hoàn

toàn so với Hội thẩm, đây là tình trạng độc lập quá đà dẫn đến không

24

khách quan khi lượng hình và định tội. Những thực trạng này đã cho thấy

nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật vẫn

còn nhiều bất cập khi thực hiện trên thực tế tại Đắk Lắk.

Kết quả xét xử thể hiện nền công lý, sự đối xử bình đẳng, công bằng

trong tất cả các mối quan hệ và cũng là thể hiện chất lượng hoạt động và

uy tín của hệ thống tư pháp. Xuất phát từ bản chất của hoạt động tư pháp

mà Tòa án là trung tâm của việc thực hiện và xét xử là hoạt động trọng

tâm, đòi hỏi việc xét xử phải bảo đảm tính độc lập. Chính vì vậy, nguyên

tắc độc lập xét xử được coi là tiền đề nền tảng của hoạt động tư pháp trong

Nhà nước pháp quyền, bảo đảm quan trọng cho việc xét xử được bình

đẳng, dân chủ, khách quan. Do đó, yêu cầu tối cao và cũng là cái mốc để

đánh giá hiệu quả của công tác xét xử là phải khách quan, toàn diện, đầy

đủ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không xử

oan người vô tội. Bởi vậy cần có một hành lang pháp lý chuẩn mực, đồng

thời tăng cường sự giám sát mạnh mẽ hơn nữa nhằm nâng cao ý thức và

thái độ nghiêm túc của những người làm công tác xét xử, tránh hoàn toàn

những tác động không nên xảy ra, để cho mỗi phán quyết, mỗi quyết định

của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân luôn là một quyết định độc lập và

đúng pháp luật.