36
NHÂN QUẢ (KARMA) Tác giả Annie Besant Bản Dịch Tâm Nhƣ 2007 Nhà Xuất Bản Thông Thiên Học Adyar, Chennai 600 020, India Ấn bản lần nhất 1895 Ấn bản lần hai 1897 Ấn bản lần ba 1905 NHÂN QUẢ MỤC LỤC Lời nói đầu Dẫn nhập Tính bất di bất dịch của Định luật Các Cõi của Thiên nhiên Việc sinh ra Hình tƣ tƣởng Hoạt động của các Hình tƣ tƣởng Tạo ra Nhân quả về Nguyên tắc Tạo ra Nhân quả xét theo Chi tiết Sự thanh toán Nhân quả

NHÂN QUẢ - caodaigiaoly.free.frcaodaigiaoly.free.fr/NhanQua.pdf · NHÂN QUẢ (KARMA) Tác giả Annie Besant Bản Dịch Tâm Nhƣ 2007 Nhà Xuất Bản Thông Thiên Học

Embed Size (px)

Citation preview

Giáp mặt với Nhân quả

Xây dựng Tƣơng lai

Uốn nắn Nhân quả

Chấm dứt Nhân quả

Cộng Nghiệp

Kết luận

LỜI NÓI ĐẦU

Người ta chỉ cần nói ít lời để giới thiệu quyển sách nhỏ này ra với thế giới. Đó là quyển thứ

tư trong một loạt các Cẩm nang được dự tính đáp ứng yêu cầu của công chúng nhằm trình

bày giáo huấn Thông Thiên Học một cách đơn giản. Một số người đã phàn nàn rằng kho tài

liệu của chúng tôi vừa quá bí hiểm, quá chuyên môn, lại vừa quá đắt tiền đối với bạn đọc

thông thường, và chúng tôi hi vọng rằng loạt sách này có thể thành công trong việc cung ứng

điều thật sự cần thiết. Thông Thiên Học không chỉ dành cho người có học, nó dành cho tất cả

mọi người. Có lẽ trong số những người nhờ vào những quyển sách nhỏ này mà lần đầu tiên

thoáng thấy được giáo huấn Thông Thiên Học thì chỉ một vài người là được chúng dẫn dắt

thâm nhập sâu hơn vào triết lý, khoa học và tôn giáo của nó, giáp mặt với những vấn đề bí

hiểm của nó bằng lòng nhiệt thành của người tìm học và bầu nhiệt huyết của kẻ sơ cơ. Nhưng

các cẩm nang này không phải được viết cho học viên tha thiết vốn không nao núng trước

những khó khăn ban đầu; chúng được viết cho những người nam nữ bận rộn làm việc mưu

sinh hằng ngày trên thế gian và tìm cách đơn giản hóa một số sự thật cao cả vốn khiến cho ta

sống cuộc đời dễ chịu hơn và giáp mặt với sự chết thoải mái hơn. Vì được viết ra bởi những

người phụng sự các Chơn sư vốn là các bậc Huynh trưởng của nhân loại cho nên chúng

không thể có mục tiêu nào khác hơn là phụng sự đồng loại của mình.

Dẫn nhập

Mọi tƣ tƣởng của con ngƣời khi đƣợc khai triển ra đều chuyển vào nội giới, và trở thành một

thực thể hoạt động bằng cách liên kết (ta có thể gọi là hỗn hợp) với một tinh linh ngũ hành –

nghĩa là với một trong các lực bán thông tuệ thuộc các giới trong thiên nhiên. Nó sống còn với

vai trò là một sinh linh thông tuệ hoạt động – một tạo vật do trí ngƣời sinh ra – trong một thời

gian lâu hoặc mau tỉ lệ với cƣờng độ nguyên thủy của tác động trí não đã sản sinh ra nó. Vậy

là một tƣ tƣởng tốt trƣờng tồn dƣới dạng một quyền năng hoạt động ban phúc, còn một tƣ

tƣởng xấu trƣờng tồn dƣới dạng một con quỉ giáng họa. Và thế là con ngƣời không ngừng làm

cho dòng tâm linh của mình trong không gian chứa đầy thế giới của riêng mình, ngổn ngang

đám con cháu của những hoang tƣởng, ham muốn xung động và đam mê của mình, dòng tâm

linh này phản tác động lên bất kỳ nhà thông linh nào hoặc tổ chức thần kinh nào đến tiếp xúc

với nó, tỉ lệ với cƣờng độ năng động của nó. Phật tử gọi nó là “Uẩn” (Skandha), còn tín đồ Ấn

giáo gọi nó là “Nhân quả” (Karma). Bậc cao đồ triển khai những hình tƣớng này một cách

hữu thức; còn những ngƣời khác phóng chúng ra một cách vô ý thức.

Từ trƣớc đến nay chƣa có một phác họa sinh động nào về bản chất của Nhân quả đã từng đƣa

ra hay hơn những dòng chữ nêu trên vốn đƣợc rút ra từ một trong những bức thƣ đầu tiên của

Chơn sƣ K. H. Nếu ta hiểu rõ đƣợc những thứ này với mọi hàm ý của chúng thì những bối rối

xung quanh đề tài này phần lớn sẽ biến mất và ta sẽ lĩnh hội đƣợc nguyên tắc chính yếu là nền

tảng của tác động Nhân quả. Vì vậy ta phải coi chúng là biểu thị đƣờng lối nghiên cứu hay ho

nhất và ta sẽ bắt đầu bằng cách xét tới quyền năng sáng tạo của con ngƣời. Trƣớc hết ta chỉ

cần quan niệm rõ ràng về tính bất di bất dịch của định luật cùng với các cõi lớn trong Thiên

nhiên.

TÍNH BẤT DI BẤT DỊCH CỦA ĐỊNH LUẬT

Có một sự thật sáo mòn là chúng ta sống trong phạm vi của định luật, chúng ta bị vây bủa bởi

những định luật mà chúng ta không thể phá vỡ đƣợc. Thế nhƣng khi ta thừa nhận sự thật này

một cách chân thành và mang tính sống còn, khi ta thấy nó là sự thật cả trong thế giới tâm trí

và đạo đức lẫn trong thế giới vật lý, thì ta thƣờng bị đè bẹp bởi một cảm giác chới với nào đó,

dƣờng nhƣ thể ta cảm thấy mình nằm trong nanh vuốt của một quyền lực mạnh mẽ nào đó

túm bắt lấy ta và lôi cuốn ta đi tới bất cứ nơi nào nó muốn. Thực ra thì trƣờng hợp này lại

ngƣợc hẳn với thực tại, vì một khi ta đã thấu hiểu quyền lực đó thì mãnh lực ấy sẽ ngoan

ngoãn đƣa ta đi tới bất cứ nơi đâu mà ta muốn: ta có thể sử dụng mọi mãnh lực trong Thiên

nhiên tỉ lệ với mức mà ta thấu hiểu đƣợc chúng. “Thiên nhiên đƣợc chinh phục sẽ ngoan

ngoãn vâng lời” và năng lƣợng vô địch của nó sẽ tuân theo lệnh của ta ngay khi sự hiểu biết

giúp ta làm việc phối hợp với chúng chứ không đƣơng đầu với chúng. Chúng ta có thể chọn ra

từ kho dự trữ vô tận của nó những mãnh lực phục vụ đƣợc cho mục đích của ta để tạo trớn

cho ta và định hƣớng cho ta v.v. . . thế là chính tính bất biến của chúng ắt bảo đảm đƣợc cho

sự thành công của ta.

Tính bất biến của định luật là nền tảng của sự an toàn trong thí nghiệm khoa học, là cơ sở cho

mọi khả năng hoạch định một kết quả và tiên đoán tƣơng lai. Nhà hóa học dựa vào tính chất

này vì chắc mẫm rằng Thiên nhiên bao giờ cũng đáp ứng theo cùng một cách thức nếu ngƣời

ta nêu ra những vấn đề một cách chính xác. Y coi sự biến thiên về kết quả là hàm ý có thay

đổi về phƣơng thức của mình chứ không thay đổi nơi Thiên nhiên. Mọi tác động của con

ngƣời cũng nhƣ thế; nó càng dựa vào sự hiểu biết thì nó càng dự báo chắc chắn hơn, vì mọi

“tai biến” đều là kết quả của sự vô minh do sự vận hành của những định luật mà ngƣời ta

không biết tới hay bỏ qua. Trong thế giới tâm trí và đạo đức cũng nhƣ thế giới vật lý, ta có thể

tiên đoán đƣợc, hoạch định đƣợc, tính toán đƣợc các kết quả. Thiên nhiên không bao giờ phản

bội chúng ta; chỉ có sự mù quáng của chính ta là phản bội ta thôi. Trong mọi thế giới đó thì

càng hiểu biết lại càng có nghĩa là có nhiều quyền năng, và sự toàn tri cũng nhƣ toàn năng chỉ

là một.

Ta phải trông mong định luật cũng bất biến nơi thế giới tâm trí và đạo đức cũng nhƣ nơi thế

giới vật lý vì vũ trụ là phân thân của Đấng Nhất Nhƣ và điều mà chúng ta gọi là Định luật

chẳng qua là biểu hiện của Bản chất Thiêng liêng. Vì chỉ có Sự Sống Nhất Nhƣ phân thân ra

vạn vật cho nên cũng chỉ có một Định luật duy nhất bồi dƣỡng cho vạn vật; các thế giới dựa

trên hòn đá tảng Bản chất Thiêng liêng này giống nhƣ dựa trên một nền tảng chắc chắn bất di

bất dịch.

CÁC CÕI CỦA THIÊN NHIÊN

Khi nghiên cứu sự vận hành của Nhân quả theo đƣờng lối mà Chơn sƣ đã gợi ý, chúng ta phải

quan niệm rõ rệt về ba cõi thấp trong vũ trụ cùng với các nguyên khí liên quan tới chúng. Các

tên gọi dành cho chúng biểu thị trạng thái tâm thức hoạt động trên các cõi đó. Về vấn đề này,

một sơ đồ có thể giúp ích cho ta, chỉ cho ta các cõi với những nguyên khí liên quan tới chúng

và các hiện thể mà một thực thể hữu thức có thể sử dụng để viếng thăm các cõi đó.

ATMA

Sushupti Bồ Đề Thể Tâm linh

Devachan

Manas

Thể Trí

----------

Thể Nguyên nhân

Thông linh

tức Trung giới

Thông

linh cao

cấp Kama

Manas

Kama

Thể Tinh vi Thông

linh cấp

thấp

Cõi Trần

Linga

Sharira

Sthula

Sharira

Thể Phách

------

Xác Phàm

Trong huyền bí học thực tiễn, học viên học cách viếng thăm các cõi này và tự mình khảo cứu

để biến lý thuyết thành ra sự hiểu biết. Hiện thể thấp nhất tức xác phàm phục vụ cho tâm thức

khi nó hoạt động trên cõi trần, và ở cõi trần tâm thức bị hạn chế bên trong phạm vi năng lực

của bộ óc. Thuật ngữ thể tinh vi bao trùm đủ thứ các thể siêu vật lý lần lƣợt thích hợp với đủ

thứ tình huống của một cõi rất phức tạp mà ta gọi là cõi thông linh. Ở sơ đồ Số 1 trong Cẩm

nang số 1, ta thấy trên cõi Devachan có hai mức xác định rõ rệt, mức sắc giới và mức vô sắc

giới; ở mức thấp hơn tâm thức dùng một thể nhân tạo tức mayavi rupa, nhƣng thuật ngữ Thể

Trí dƣờng nhƣ thích hợp hơn để biểu thị nó vì vật chất cấu tạo nên nó thuộc cõi manas. Ở

mức vô sắc giới ta phải dùng Thể Nguyên nhân (the causal body). Còn ở cõi Bồ Đề thì chƣa

cần phải nói đến. Thế mà vật chất trên các cõi này không giống hệt nhau, nói chung là vật

chất của mỗi cõi thô trƣợc hơn vật chất ngay bên trên nó. Điều này cũng thuận theo sự tƣơng

tự trong Thiên nhiên vì sự tiến hóa theo lộ trình đi xuống vốn từ phần loãng nhẹ sang phần

nặng đục, từ phần tinh vi sang phần thô trƣợc. Hơn nữa, trên các cõi này đều có các huyền

giai sinh linh bao la trải dài từ các đấng thông tuệ cao tột nơi cõi tâm linh xuống tới các tinh

linh ngũ hành thấp nhất thuộc tiềm thức trên cõi trần. Trên mọi cõi thì tinh thần và vật chất

đều liên kết với nhau nơi mọi hạt (particle) – mọi hạt đều có hiện thể là vật chất và sự sống là

tinh thần – và mọi khối tập hợp độc lập các hạt, mọi hình tƣớng riêng rẽ thuộc đủ mọi thứ,

mọi loại hình đều có phần hồn là những sinh linh biến thiên về cấp độ phù hợp với cấp độ của

hình tƣớng. Nhƣ vậy không một hình tƣớng nào tồn tại mà không có phần hồn, nhƣng thực

thể cấp phần hồn có thể là một đấng thông tuệ cao tột, là một tinh linh ngũ hành thấp nhất

hoặc bất kỳ tập đoàn hằng hà sa số nào rải ra giữa hai cực đoan ấy. Những thực thể mà giờ

đây ta xét đến chủ yếu là thuộc về cõi thông linh vì chúng cung cấp cho con ngƣời thể dục

vọng (kama rupa) – thƣờng đƣợc gọi là thể cảm giác – thật vậy, chúng đƣợc kiến tạo vào

trong cái khuôn thể vía của y và làm linh hoạt các giác quan thể vía của y. Nói theo kiểu

chuyên môn thì chúng là các tinh linh ngũ hành sắc giới (rupa devatas) của cõi thú tính (the

animal world) và là những tác nhân chuyển đổi biến rung động thành ra cảm giác. Đặc trƣng

nổi bật nhất của các tinh linh dục vọng chính là cảm giác tức khả năng chẳng những đáp ứng

đƣợc với các rung động mà còn cảm nhận rung động nữa; cõi thông linh đặc nghẹt các thực

thể này với đủ thứ cấp độ tâm thức, chúng tiếp nhận các tác động thuộc đủ mọi loại rồi tổ hợp

các tác động đó thành ra cảm giác. Thế là bất cứ sinh linh nào có một hiện thể đƣợc cấu tạo từ

các tinh linh ngũ hành này đều có thể cảm xúc đƣợc, và con ngƣời cảm xúc thông qua một

hiện thể nhƣ vậy. Một con ngƣời không ý thức đƣợc về các hạt thuộc cơ thể mình hoặc ngay

cả tế bào của cơ thể nữa; các hạt tế bào này đều có ý thức của riêng mình nhờ vậy chúng tiến

hành đủ thứ quá trình sinh hoạt thực vật của con ngƣời; nhƣng con ngƣời mà cơ thể đƣợc tạo

thành bởi các tế bào ấy không chia xẻ ý thức của các tế bào, không hữu ý trợ giúp hoặc cản

trở chúng khi chúng tuyển lựa, đồng hóa, tiết ra hoặc xây dựng con ngƣời không hề có lúc nào

để cho ý thức giao tiếp đƣợc với tâm thức một tế bào, chẳng hạn nhƣ trong trái tim của mình,

để biết chính xác xem nó đang làm gì. Tâm thức của y bình thƣờng là hoạt động trên cõi

thông linh, và ngay cả trên các cõi thông linh cao siêu (nơi mà tâm trí hoạt động trên đó) thì

tâm trí ấy vẫn hòa lẫn với dục vọng chứ tâm trí thuần túy không hoạt động trên cõi trung giới

này.

Cõi trung giới lúc nhúc các tinh linh ngũ hành giống nhƣ những tinh linh nhập vào thể dục

vọng của con ngƣời và chúng cũng tạo thành thể dục vọng đơn giản hơn của con thú cấp thấp.

Nhờ vào phân bộ này của bản chất mình, con ngƣời bƣớc vào quan hệ trực tiếp với các tinh

linh ngũ hành này, nhờ đó y tạo ra những mối liên kết với mọi vật xung quanh mình vốn hoặc

là hấp dẫn y hoặc là làm y ghê sợ. Nhờ vào ý chí, xúc động, ham muốn của mình, y ảnh

hƣởng tới hằng hà sa số sinh linh này, chúng đáp ứng nhạy cảm với mọi nỗi xao xuyến, xúc

cảm mà y phóng ra mọi hƣớng. Thể dục vọng của chính y đóng vai trò là một công cụ và cũng

giống nhƣ khi nó kết hợp với những rung động từ bên ngoài thành ra các xúc cảm, cũng vậy

nó phân ly các xúc cảm xuất hiện bên trong thành ra các rung động.

VIỆC SINH RA HÌNH TƯ TƯỞNG

Bây giờ ta đang ở vị thế hiểu rõ hơn những lời dạy của Chơn sƣ. Cái trí khi hoạt động trên cõi

của riêng mình nơi vật chất tinh vi thuộc cõi thông linh cao cấp ắt sản sinh ra những hình ảnh

tức hình tƣ tƣởng. Ngƣời ta đã gọi rất chính xác óc tƣởng tƣợng là năng lực sáng tạo của cái

trí và nó đúng theo nghĩa đen nhiều hơn mức đa số mọi ngƣời sử dụng cụm từ này có thể giả

định đƣợc. Khả năng tạo ra hình ảnh là quyền năng đặc trƣng của cái trí và một từ ngữ chỉ là

một toan tính vụng về để phần nào biểu diễn đƣợc một hình ảnh trong tâm trí. Một ý tƣởng,

một hình ảnh trong tâm trí là một sự vật phức tạp và có lẽ ta cần tới trọn cả một câu mới mô tả

nó đƣợc chính xác, vì vậy một sự việc nổi bật trong đó muốn lĩnh hội đƣợc thì từ ngữ để chỉ

định sự vật ấy lại biểu diễn tổng thể đó một cách bất toàn; chúng ta nói “hình tam giác” và từ

ngữ này gợi lên trong trí ngƣời nghe một hình ảnh mà ta cần phải mô tả dông dài nếu muốn

truyền đạt trọn vẹn đƣợc bằng từ ngữ; chúng ta đã làm hết sức mình để suy nghĩ bằng biểu

tƣợng và rồi vất vả tổng kết những biểu tƣợng đó một cách bất toàn thành ra các từ ngữ. Nơi

cõi mà cái trí giao tiếp trực tiếp với cái trí thì có sự diễn tả hoàn hảo vƣợt xa mức bất cứ thứ gì

mà từ ngữ truyền đạt đƣợc; ngay cả khi ta chuyển di tƣ tƣởng thuộc loại hạn hẹp thì ta không

hề phóng đi những từ ngữ mà chỉ phóng đi những ý tƣởng. Một ngƣời nói chuyện diễn tả nên

lời một phần hình ảnh trong tâm trí của mình theo trình độ của y, những hình ảnh ấy gợi lên

trong cái trí ngƣời nghe những hình ảnh tƣơng ứng với hình ảnh trong trí của ngƣời nói

chuyện; cái trí chỉ giao tiếp với những hình ảnh chứ không giao tiếp với từ ngữ và một nửa sự

cãi cọ hiểu lầm xuất hiện chỉ vì ngƣời ta gán những hình ảnh khác nhau cho cùng một từ ngữ

hoặc dùng những từ ngữ khác nhau để biểu diễn cùng một hình ảnh.

Vậy thì một hình tƣ tƣởng là một hình ảnh trong tâm trí đƣợc cái trí tạo ra hoặc uốn nắn từ vật

chất tinh vi thuộc cõi thông linh cao cấp mà nó hoạt động trong đó nhƣ ta có nói bên trên.

Hình tƣ tƣởng này bao gồm các nguyên tử rung động nhanh thuộc vật chất của cõi ấy, chúng

tạo ra các rung động xung quanh hình tƣ tƣởng; những rung động này làm nảy sinh ra cảm

giác dƣới dạng âm thanh và màu sắc nơi bất kỳ thực thể nào thích ứng với việc dịch thuật

chúng theo kiểu đó; khi hình tƣ tƣởng chuyển ra bên ngoài – hoặc chìm xuống dƣới, bất kỳ

cách diễn tả nào cũng có thể đƣợc dùng để mô tả sự chuyển tiếp này – vào trong vật chất thô

trƣợc hơn của cõi thông linh cấp thấp, thì các rung động ấy xao xuyến thành màu sắc âm nhạc

túa ra mọi hƣớng, chiêu dụ tới hình tƣ tƣởng sản sinh ra rung động ấy những tinh linh ngũ

hành thuộc màu sắc đó.

Cũng nhƣ mọi thứ khác trong vũ trụ, mọi tinh linh ngũ hành đều thuộc về một trong bảy Cung

bản sơ, bảy Con của Ánh sáng nguyên thủy. Xuất phát từ THƢỢNG ĐẾ ngôi ba, tức là Trí

tuệ Thƣợng Đế biểu lộ, ánh sáng trắng tán sắc thành ra bảy Tia, tức bảy Cung, “bảy Chơn linh

trƣớc ngai Thƣợng Đế” và mỗi một trong các Cung này lại có bảy Cung phụ và cứ chia nhỏ ra

mãi theo thứ tự đó. Vì thế cho nên trong vô số biến dị tạo thành một vũ trụ, có vô số tinh linh

ngũ hành thuộc về đủ sự tế phân ấy và chúng giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ màu sắc dựa

trên cơ sở màu sắc mà chúng thuộc về. Chính vì thế mà việc thật sự hiểu biết đƣợc các âm

thanh, màu sắc và con số - con số làm nền tảng cho cả âm thanh và màu sắc – bao giờ cũng

đƣợc giữ kín vì ý chí giao tiếp với tinh linh ngũ hành bằng những phƣơng tiện này và tri thức

cung cấp khả năng kiềm chế.

Chơn sƣ K.H. có nói rất rành mạch về ngôn ngữ màu sắc này. Ngài dạy: “Làm sao mà con

hiểu nổi (thật sự là điều khiển) những Mãnh lực bán thông tuệ này bằng những phƣơng tiện

giao tiếp với chúng tôi, không phải thông qua ngôn từ đƣợc nói lên mà thông qua những âm

thanh và màu sắc cùng với tƣơng quan giữa các rung động của âm thanh và màu sắc? Đó là vì

âm thanh, ánh sáng và màu sắc là những yếu tố chính để tạo nên các cấp bậc sinh linh thông

tuệ này, con không có đƣợc một quan niệm nào về chính sự tồn tại của các sinh linh ấy, con

cũng chẳng đƣợc phép tin vào chúng – các nhà Vô thần và các Ki Tô hữu, các nhà Duy vật và

các nhà Thần linh học đều đƣa ra các lập luận riêng để chống lại một niềm tin nhƣ thế - , còn

Khoa học lại phản đối mạnh mẽ hơn cả những thứ trên đối với một sự mê tín dị đoan thoái

hóa nhƣ thế”.

Các học viên trong quá khứ có thể nhớ tới những lời ám chỉ mơ hồ thỉnh thoảng đƣợc nêu ra

về một ngôn ngữ màu sắc; họ có thể nhớ lại sự thật là ở cổ Ai cập, các bản thảo thiêng liêng

đều đƣợc viết bằng màu sắc và nếu sao chép sai lầm thì sẽ bị phạt mất mạng. Nhƣng tôi không

đƣợc sa đà vào cái lối mòn hấp dẫn ấy, chúng ta chỉ quan tâm tới sự thật là việc giao tiếp với

các tinh linh ngũ hành thông qua màu sắc và chúng hiểu đƣợc những từ ngữ màu sắc ấy cũng

giống nhƣ con ngƣời hiểu đƣợc những từ ngữ do cửa miệng phát ra.

Sắc thái của màu sắc âm nhạc này tùy thuộc vào bản chất của động cơ thúc đẩy gây cảm hứng

cho ngƣời sản sinh ra hình tƣ tƣởng. Nếu động cơ thúc đẩy là trong sạch, ỵêu thƣơng, có tính

cách ban phúc thì màu sắc đƣợc tạo ra sẽ chiêu dụ tới hình tƣ tƣởng một tinh linh ngũ hành,

tinh linh này sẽ mang đặc trƣng đƣợc ghi dấu trên hình tƣ tƣởng qua động cơ thúc đẩy đó và

nó sẽ hành động theo đƣờng lối phác họa nhƣ thế; tinh linh ngũ hành này nhập vào hình tƣ

tƣởng đóng vai trò phần hồn của hình tƣ tƣởng; thế là một thực thể độc lập đƣợc tạo nên nơi

cõi trung giới, một thực thể mang tính ban phúc tức là một phúc thần. Mặt khác, nếu động cơ

thúc đẩy không trong sạch, mang tính trả thù và giáng họa thì màu sắc đƣợc tạo ra sẽ chiêu dụ

tới hình tƣ tƣởng một tinh linh ngũ hành cũng khoác lấy những đặc trƣng đã đƣợc ghi dấu lên

hình tƣ tƣởng qua động cơ thúc đẩy ấy, nó sẽ tác động theo đƣờng lối đƣợc phác họa nhƣ thế,

trong trƣờng hợp này tinh linh ngũ hành cũng nhập vào hình tƣ tƣởng đóng vai trò phần hồn

của nó, thế là tạo nên một thực thể độc lập nơi cõi trung giới, một thực thể có tính cách giáng

họa tức hung thần. Chẳng hạn nhƣ một tƣ tƣởng giận dữ ắt gây ra một tia chớp lóe màu đỏ,

hình tƣ tƣởng rung động sao cho tạo ra màu đỏ; tia chớp lóe màu đỏ đó chiêu dụ đƣợc các tinh

linh ngũ hành, chúng bị cuốn hút theo lệnh của ngƣời chiêu dụ và một trong các tinh linh ngũ

hành bèn nhập vào hình tƣ tƣởng khiến cho nó có một hoạt động độc lập thuộc loại hình phá

hoại, phá đám. Con ngƣời không ngừng nói chuyện bằng ngôn ngữ màu sắc này một cách

hoàn toàn vô ý thức, vậy là họ chiêu dụ đƣợc xung quanh mình cả đám tinh linh ngũ hành bu

quanh họ, chúng tấp vào đủ thứ hình tƣ tƣởng đƣợc cung ứng cho chúng; thế là chính con

ngƣời ấy đã tạo ra dòng tâm linh của mình trong không gian chứa đầy thế giới của riêng mình

nhun nhúc đám hậu duệ của những hoang tƣởng, ham muốn, xung động và đam mê của chính

mình. Các thiên thần và ma quỉ do chính chúng ta tạo ra nhan nhãn xung quanh ta ở mọi phía,

ban phúc và giáng họa cho những ngƣời khác, ban phúc và giáng họa cho chính chúng ta – đó

quả thật là đám thiên binh thần tƣớng của nghiệp báo nhân quả.

Các nhà thần nhãn có thể thấy đƣợc những tia chớp lóe màu sắc thay đổi liên tục trong hào

quang bao xung quanh bất cứ ngƣời nào: mỗi tƣ tƣởng, mỗi xúc cảm đƣợc dịch thuật qua

ngôn ngữ ấy nơi cõi trung giới đều hiện nguyên hình trƣớc mắt ngƣời có thần nhãn. Những

ngƣời phát triển khá hơn kẻ có thần nhãn bình thƣờng cũng có thể thấy đƣợc các hình tƣ

tƣởng và có thể thấy đƣợc hậu quả tạo ra bởi những tia chớp lóe màu sắc đó trong tập đoàn

các tinh linh ngũ hành.

HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC HÌNH TƯ TƯỞNG

Đời sinh hoạt của các hình tƣ tƣởng đƣợc cấp phần hồn này tùy thuộc trƣớc hết vào cƣờng độ

ban sơ của nó; tùy thuộc vào năng lƣợng đƣợc ngƣời sinh ra nó cấp cho nó; thứ đến, nó còn

tùy thuộc vào chất dinh dƣỡng đƣợc cung cấp cho nó sau khi nó chào đời do việc chính y

hoặc những ngƣời khác lập lại tƣ tƣởng ấy. Đời sinh hoạt của hình tƣ tƣởng có thể đƣợc

không ngừng củng cố qua sự lập lại ấy, và một tƣ tƣởng đƣợc nghiền ngẫm tạo thành chủ đề

để tham thiền đi tham thiền lại, ắt có đƣợc một hình tƣớng rất ổn định trên cõi thông linh. Nhƣ

vậy các hình tƣ tƣởng có tính cách tƣơng tự nhau lại còn thu hút nhau và củng cố lẫn nhau,

tạo ra một hình tƣ tƣởng có năng lƣợng lớn hơn và cƣờng độ mạnh hơn hoạt động trên cõi

trung giới.

Các hình tƣ tƣởng liên kết với ngƣời sinh ra nó bởi cái mà ta phải gọi là một sợi dây từ khí

(tạm gọi nhƣ vậy vì không có cách diễn tả nào khác hơn) chúng phản tác động lên y tạo ra

một ấn tƣợng khiến cho chúng đƣợc sinh sôi nẩy nở và trong trƣờng hợp nêu trên khi hình tƣ

tƣởng đƣợc củng cố bằng cách lập lại thì ta có thể tạo nên một thói quen tƣ tƣởng rất xác định,

có thể tạo ra một khuôn mẫu để cho tƣ tƣởng dễ dàng tuôn chảy vào đó; nếu khuôn mẫu này

có tính chất cao siêu chẳng hạn nhƣ một lý tƣởng cao thƣợng thì điều đó rất hữu ích, nhƣng

phần lớn thì khuôn mẫu ấy mang tính câu thúc và cản trở sự tăng trƣởng của cái trí.

Chúng ta có thể dừng lại một lúc bàn về việc tạo lập thói quen này vì nó cho thấy ở qui mô

nhỏ sự vận hành của Nhân quả một cách rất hữu ích. Giả sử rằng ta có thể xét một cái trí đã

sẵn có nhƣng không có hoạt động quá khứ nào đằng sau nó – cố nhiên đây là điều không thể

có đƣợc nhƣng việc giả định ấy làm nổi bật lên điều đặc biệt mà ta cần xét. Ta có thể tƣởng

tƣợng rằng một cái trí nhƣ thế hoạt động hoàn toàn tự do và tự phát tạo ra một hình tƣ tƣởng;

nó tiến hành lập lại điều này nhiều lần cho tới khi tạo ra một thói quen tƣ tƣởng, một thói

quen nhất định sao cho cái trí sẽ vô ý thức trƣợt vào tƣ tƣởng ấy, năng lƣợng của nó sẽ tuôn

đổ vào tƣ tƣởng ấy mà không có bất kỳ tác động tuyển lựa hữu thức nào của ý chí. Ta hãy giả

sử thêm rằng cái trí đâm ra không tán thành thói quen tƣ tƣởng đó nữa và thấy thói quen đó

cản trở sự tiến bộ của mình; thoạt tiên do tác động tự phát của cái trí và làm dễ dàng cho việc

tuôn đổ năng lƣợng trí tuệ bằng cách cung ứng một kênh dẫn sẵn có thì giờ đây nó lại trở

thành một sự hạn chế. Nhƣng nếu ta muốn dẹp bỏ nó đi thì ta chỉ có thể đổi mới tác động tự

phát của cái trí, điều khiển nó cho đến khi cái xiềng xích sống động này bị kiệt quệ và cuối

cùng bị hủy hoại. Ở đây ta có một chu kỳ Nhân quả lý tƣởng nho nhỏ nhanh chóng trôi qua;

cái trí tự do tạo ra một thói quen để rồi bị bắt buộc phải làm việc trong phạm vi hạn chế ấy;

nhƣng nó vẫn giữ đƣợc tự do của mình trong phạm vi hạn chế ấy và nó có thể tác động chống

lại sự hạn chế từ bên trong cho tới khi sự hạn chế bị mòn mỏi. Dĩ nhiên ta chẳng bao giờ thấy

mình thoạt đầu đƣợc tự do, vì chúng ta bƣớc vào thế giới với nặng trĩu những xiềng xích mà

chính ta đã tạo ra trong quá khứ; nhƣng cái quá trình liên quan tới mỗi xiềng xích riêng biệt

diễn ra nhƣ nêu trên – cái trí rèn luyện ra xiềng xích, làm nó mòn mỏi đi, và trong khi còn

đang xiềng xích thì lại giũa mài nó để thoát khỏi nó.

Ngƣời sinh ra tƣ tƣởng cũng có thể điều khiển hình tƣ tƣởng hƣớng về những ngƣời đặc biệt

nào đó khiến cho hình tƣ tƣởng có thể trợ giúp hoặc làm hại ngƣời khác tùy theo bản chất của

tinh linh ngũ hành đóng vai phần hồn; đâu phải chỉ là sự hoang tƣởng thi vị khi gởi những lời

cầu chúc tốt đẹp, lời cầu nguyện và những tƣ tƣởng yêu thƣơng quả thật có giá trị đối với

những ngƣời nhận đƣợc chúng; chúng tạo ra một đạo quân bảo vệ vây quanh kẻ đƣợc yêu

thƣơng và ngăn ngừa đƣợc nhiều ảnh hƣởng và nguy cơ độc hại.

Con ngƣời chẳng những sản sinh ra và phóng đi các hình tƣ tƣởng mà y còn đóng vai trò một

nam châm hút về mình những hình tƣ tƣởng của ngƣời khác trên cõi trung giới xung quanh y

thuộc lớp mà hình tƣ tƣởng của chính y cũng thuộc về lớp ấy. Nhƣ vậy y có thể thu hút về

mình năng lƣợng tăng cƣờng lớn mạnh từ bên ngoài và chính tùy thuộc vào y mà những lực

lƣợng y thu hút về mình từ ngoại giới sẽ thuộc loại tốt hay xấu. Nếu tƣ tƣởng của ngƣời ta

thanh khiết và cao thƣợng thì y sẽ thu hút về xung quanh mình đạo quân những thực thể ban

phúc, và đôi khi ắt phải thắc mắc chẳng biết từ đâu mà mình lại có khả năng thành tựu đƣợc

điều dƣờng nhƣ – và quả thật dƣờng nhƣ – vƣợt quá xa sức của mình. Cũng vậy, một ngƣời

có tƣ tƣởng ô uế và đê tiện thu hút về mình đạo quân các thực thể giáng họa và khi có thêm

năng lƣợng xấu xa nhƣ thế, y phạm phải tội ác mà đến lúc tự kiểm lại y cũng phải sửng sốt. Y

sẽ gào lên: “Có một thứ ma quỉ nào đó đã cám dỗ tôi”, và quả thật những lực lƣợng ma quỉ

này mà điều ác của chính y đã chiêu dụ lại có tăng thêm sức mạnh cho y từ bên ngoài. Những

tinh linh ngũ hành cấp phần hồn cho các hình tƣ tƣởng, cho dù tốt hay xấu đều có liên kết với

những tinh linh ngũ hành trong thể dục vọng của con ngƣời cũng nhƣ những tinh linh ngũ

hành cấp phần hồn cho hình tƣ tƣởng của con ngƣời, nhƣ vậy chúng cũng tác động nơi y mặc

dù tác động bên ngoài. Nhƣng muốn nhƣ thế, chúng phải tìm ra các thực thể đồng thanh tƣơng

ứng với mình thì mới móc ngoặc với nhau đƣợc bằng không thì chúng chẳng có quyền năng

gì hết. Hơn nữa, các tinh linh ngũ hành nơi một hình tƣ tƣởng thuộc loại đối nghịch sẽ xua

đuổi chúng và ngƣời tốt sẽ dùng chính bầu hào quang của mình để đẩy lùi mọi thứ ô uế và độc

ác. Bầu hào quang đó bao xung quanh y giống nhƣ một bức vách bảo vệ và giữ cho điều ác

tránh xa y.

Có một dạng hoạt động tinh linh ngũ hành khác vốn tạo ra những kết quả rộng lớn, và vì vậy

ta không thể loại bỏ nó ra khỏi phần khảo sát sơ bộ này về những lực lƣợng tham gia vào việc

tạo ra nhân quả. Giống nhƣ những thứ vừa nêu trên, điều này đƣợc bao hàm trong phát biểu

theo đó các hình tƣ tƣởng ấy lấp đầy dòng tâm linh phản tác động lên bất kỳ ngƣời nhạy cảm

nào hoặc tổ chức thần kinh nào bƣớc vào tiếp xúc với nó tỉ lệ với cƣờng độ năng động của nó.

Trong một chừng mực nào đó, nó phải ảnh hƣởng tới hầu hết mọi ngƣời, mặc dù tổ chức càng

nhạy cảm hơn thì tác dụng càng lớn hơn. Các tinh linh ngũ hành có khuynh hƣớng bị thu hút

về những tinh linh khác cùng loại – tụ tập lại thành từng lớp mà theo một ý nghĩa nào đó là tự

ý kết bè phái với nhau – và khi ngƣời ta phóng ra một hình tƣ tƣởng thì nó chẳng những duy

trì một mối quan hệ từ tính với y mà còn thu hút những hình tƣ tƣởng khác cùng loại; cả đám

này túm tụm lại với nhau trên cõi trung giới tạo thành một lực lƣợng tốt hoặc xấu tùy trƣờng

hợp, là hiện thân của một loại thực thể cộng đồng nào đó. Những khối tụ tập các hình tƣ

tƣởng giống nhau này chịu trách nhiệm về các đặc trƣng thƣờng là rất nổi bật nơi ý kiến của

gia đình, dƣ luận của địa phƣơng, về quốc hồn quốc túy; chúng tạo thành một loại bầu hào

quang trung giới thông qua đó ta xem xét mọi chuyện và nó tô điểm cho điều mà ngƣời ta

chăm chú nhìn tới; nó phản tác động lên thể dục vọng của những ngƣời bao trùm trong nhóm

hữu quan, tạo ra nơi họ những rung động hƣởng ứng; những môi trƣờng xung quanh nghiệp

lực nhƣ thế của gia đình, địa phƣơng hoặc quốc gia đã chi phối phần lớn hoạt động của cá thể

và hạn chế một cách lớn lao khả năng biểu đạt năng lực mà y có thể có đƣợc. Giả sử ngƣời ta

đƣa ta một ý tƣởng cho y thấy thì y chỉ có thể thấy ý tƣởng đó thông qua bầu hào quang này

vốn bao xung quanh y, nó phải tô điểm ý tƣởng ấy và có thể xuyên tạc ý tƣởng đó nghiêm

trọng. Vậy là ở đây cũng có những hạn chế nhân quả thuộc loại có tầm ảnh hƣởng sâu rộng

mà ta cần xét thêm nữa.

Ảnh hƣởng của đám tinh linh ngũ hành túm tụm lại này không chỉ hạn chế vào việc chúng tác

động lên con ngƣời thông qua thể dục vọng của y. Khi thực thể cộng đồng này (theo nhƣ tôi

gọi lúc nảy) đƣợc tạo ra từ những hình tƣ tƣởng thuộc loại phá hoại thì những tinh linh ngũ

hành cấp phần hồn cho chúng đóng vai trò một năng lƣợng quậy phá và chúng thƣờng gây ra

nhiều sự tàn hại trên cõi trần. Vốn là một xoáy lực các năng lƣợng làm tan rã, chúng là nguồn

gốc hữu hiệu của “các tai nạn”, các cơn chấn động thiên nhiên, các cơn bão, các cơn lốc xoáy,

các giông tố, động đất, lụt lội. Những nhân quả này cũng cần đƣợc xét thêm nữa.

TẠO RA NHÂN QUẢ VỀ NGUYÊN TẮC

Sau khi đã nhận biết ra đƣợc mối quan hệ giữa con ngƣời và giới tinh linh ngũ hành cùng với

năng lƣợng uốn nắn của thể trí – quả thật là những năng lƣợng sáng tạo do chỗ chúng sản sinh

ra các hình tƣớng sống động mà ta vừa mô tả - chúng ta đang ở vị thế ít ra cũng hiểu đƣợc

phần nào một điều gì đó về việc sản sinh và thanh toán Nhân quả trong nội một chu kỳ sống.

Tôi bảo nó là một “chu kỳ sống” chứ không nói là một “kiếp” vì một kiếp có ý nghĩa quá ít

nếu ta dùng nó theo nghĩa thông thƣờng là một lần nhập thế, và nó có nghĩa quá nhiều nếu ta

dùng nó để chỉ trọn cả cuộc sống bao gồm nhiều giai đoạn sinh hoạt trong thể xác cũng nhƣ

nhiều giai đoạn không có thể xác. Khi dùng từ chu kỳ sống tôi ngụ ý là một chu kỳ nhỏ trong

sự tồn tại của con ngƣời bao gồm các kinh nghiệm trên cõi trần, cõi trung giới và cõi

devachan kể cả việc nó trở lại trƣớc ngƣỡng cửa cõi trần – bốn giai đoạn riêng biệt mà linh

hồn phải trải qua thì mới hoàn tất đƣợc một chu kỳ. Trong cuộc hành hƣơng mà ngƣời hành

hƣơng vĩnh hằng phải trải qua trong loài ngƣời hiện nay thì những giai đoạn ấy cứ trở đi trở

lại mãi, và cho dù kinh nghiệm trong mỗi chu kỳ ấy có biến thiên xiết bao, cả về mặt số lƣợng

lẫn chất lƣợng, thì chu kỳ sống vẫn bao gồm bốn giai đoạn này đối với kẻ phàm phu chứ

không có gì khác nữa.

Ta nên nhận thức ra rằng việc cƣ trú bên ngoài thể xác kéo dài hơn nhiều so với việc cƣ trú

bên trong thể xác; và chỉ hiểu lờ mờ đƣợc tác động của luật Nhân quả nếu ta không xét tới

hoạt động của linh hồn ở tình trạng không có thể xác. Ta hãy nhớ lại những lời của một Chơn

sƣ nêu rõ rằng cuộc sống bên ngoài thể xác mới là sống thực.

“Các môn đồ phái Vedanta dù thừa nhận có hai loại tồn tại hữu thức (tồn tại trên cõi trần và

tồn tại tâm linh) song chỉ coi sự tồn tại tâm linh mới chắc chắn là chân thực. Còn về kiếp sống

trên cõi trần do vì nó rất vô thƣờng và ngắn ngủi cho nên nó chẳng qua chỉ là một hão huyền

của năm giác quan. Ta phải nghĩ cuộc sống của ta nơi cõi tâm linh chân thực vì Sutratma, tức

chân ngã bất tử, vô tận, bất biến của ta sinh hoạt nơi đây . . . Chính vì thế chúng tôi gọi cuộc

sống sau khi chết mới là thực tại duy nhất, còn cuộc sống trên cõi trần kể cả chính phàm ngã

cũng chỉ là hão huyền.

Trong khi sinh hoạt trên cõi trần, hoạt động của linh hồn biểu lộ trực tiếp nhất qua việc tạo ra

những hình tƣ tƣởng mà ta vừa mô tả. Nhƣng để theo dõi gần đúng đƣợc sự vận hành của

Nhân quả giờ đây ta phải phân tích thêm nữa thuật ngữ “hình tƣ tƣởng” và nêu thêm một vài

nhận xét tất nhiên đã bị bỏ qua trong khi ta quan niệm chung chung lúc mới trình bày sơ bộ.

Linh hồn tác động trên cƣơng vị tâm trí tạo ra một hình ảnh trí tuệ, tức là “hình tƣ tƣởng” sơ

cấp; ta hãy coi thuật ngữ hình ảnh trí tuệ độc quyền có nghĩa là cái sự sáng tạo cấp thời của

cái trí, còn từ nay trở đi ta hạn chế thuật ngữ này trong giai đoạn sơ khởi của điều mà ta

thƣờng gọi tổng quát và chung chung là hình tƣ tƣởng. Hình ảnh trí tuệ này vẫn gắn liền với

ngƣời tạo ra nó là một phần của nội hàm tâm thức của y: đó là một hình tƣớng sinh động, rung

động làm bằng vật chất tinh vi, là Ngôi Lời đƣợc nghĩ ra nhƣng chƣa đƣợc nói ra, đã đƣợc thụ

thai nhƣng chƣa đƣợc hình thành bằng xƣơng bằng thịt. Xin bạn đọc hãy định trí một chút về

hình ảnh trí tuệ này để có đƣợc ý niệm rõ rệt về nó, tách rời mọi thứ khác, tách rời khỏi mọi

hậu quả mà nó sắp sửa gây ra ở các cõi khác hơn cõi của chính nó. Nhƣ ta vừa nói, nó tạo

thành một phần nội hàm tâm thức của con ngƣời sáng tạo ra nó, một phần sở hữu bất biến của

y; nó không thể cách ly đƣợc với y; y mang nó theo mình trong kiếp sống trên cõi trần, mang

nó theo qua bên kia cửa tử tới những cõi vƣợt ngoài nấm mộ; và nếu trong quá trình đi lên

qua các cõi này mà bản thân y vƣợt qua những loại khí quá tinh vi khiến nó không chịu đựng

nổi thì y bỏ lại đằng sau cái loại vật chất thô trƣợc đƣợc kiến tạo vào trong đó và chỉ mang

theo cái khuôn trí tuệ, cái hình tƣớng cốt yếu. Đến khi y trở lại cõi thô trƣợc thì vật chất của

cõi ấy lại đƣợc kiến tạo vào cái khuôn trí tuệ để tái tạo lại hình tƣớng thô trƣợc thỏa đáng. Có

thể nói là hình ảnh trí tuệ ấy vẫn ngủ yên trong những thời kỳ dài nhƣng nó có thể đƣợc khơi

hoạt trở lại, sinh động trở lại, mỗi xung lực mới mẻ - xuất phát từ ngƣời tạo ra nó, từ đám hậu

duệ của nó (sẽ đƣợc bàn tới dƣới đây) từ những thực thể thuộc cùng loại với đám hậu duệ của

nó - ắt làm gia tăng năng lƣợng sống của nó và biến đổi đƣợc hình tƣớng của nó.

Ta ắt thấy rằng nó tiến hóa theo những định luật nhất định và khối tụ tập những hình ảnh trí

tuệ này tạo nên tính tình; cái bên ngoài phản chiếu cái bên trong; cũng nhƣ các tế bào tụ tập

lại thành ra các mô của cơ thể và cũng thƣờng bị biến đổi nhiều trong quá trình ấy; cũng vậy

những hình ảnh trí tuệ này tụ tập lại thành ra các đặc trƣng của thể trí và thƣờng cũng chịu

nhiều biến đổi. Nghiên cứu sự vận hành của Nhân quả sẽ soi sáng nhiều cho sự biến đổi này.

Nhiều vật liệu có thể tham gia vào việc tạo nên các hình ảnh trí tuệ này nhờ vào quyền năng

sáng tạo của linh hồn; nó có thể đƣợc kích thích hoạt động do dục vọng (kama) và có thể đƣợc

định hình theo sự thôi thúc của đam mê hoặc khao khát; nó có thể đƣợc Chơn ngã thúc đẩy

hƣớng về một lý tƣởng cao thƣợng và uốn nắn hình ảnh phù hợp với lý tƣởng ấy; nó có thể bị

dẫn dắt bởi những khái niệm thuần túy trí thức và tạo thành hình ảnh phù hợp theo đó. Nhƣng

cho dù đê tiện hay cao thƣợng, trí thức hay đam mê, có nhã ý hay có ác ý, thiêng liêng hay

đầy thú tính, thì nó vẫn luôn luôn là một hình ảnh trí tuệ nơi con ngƣời, là sản phẩm của linh

hồn sáng tạo và biệt nghiệp tùy thuộc vào sự tồn tại của nó. Nếu không có hình ảnh trí tuệ này

thì không thể có biệt nghiệp nối liền chu kỳ sống này với chu kỳ sống khác: phẩm tính manas

phải hiện diện thì mới cung ứng đƣợc yếu tố thƣờng tồn mà biệt nghiệp cố hữu nơi ấy. Chính

vì manas không hiện diện nơi các giới khoáng vật, thực vật và động vật cho nên mới có hệ

quả là không sản sinh ra biệt nghiệp trải dài qua bên kia cửa tử cho tới lúc tái sinh.

Bây giờ ta hãy xét tới hình tƣ tƣởng sơ cấp liên quan tới hình tƣ tƣởng thứ cấp nghĩa là hình

tƣ tƣởng đơn thuần liên quan tới hình tƣ tƣởng có phần hồn, hình ảnh trí tuệ liên quan với

hình ảnh dục vọng-trí tuệ tức là hình tƣ tƣởng trên cõi thấp của trung giới. Nó đƣợc tạo ra nhƣ

thế nào và nó là cái gì? Tiếp tục dùng biểu tƣợng nêu trên ta thấy nó đƣợc tạo ra khi Ngôi Lời

đƣợc nghĩ ra trở thành Ngôi Lời đƣợc nói ra; linh hồn phóng ra tƣ tƣởng và âm thanh tạo

thành hình tƣớng nơi vật chất trung giới. Cũng giống nhƣ các Ý tƣởng nơi Trí tuệ Vũ trụ trở

thành vũ trụ biểu lộ khi chúng đƣợc phóng ra; cũng vậy, những hình ảnh trí tuệ nơi trí ngƣời

khi đƣợc phóng ra ắt trở thành vũ trụ biểu lộ của ngƣời sáng tạo ra nó. Y lấp đầy dòng tâm

linh của mình trong không gian bằng một thế giới của riêng mình. Những rung động của hình

ảnh trí tuệ tạo nên các rung động tƣơng tự nơi vật chất trung giới thô hơn và chính những thứ

này tạo ra hình tƣ tƣởng thứ cấp mà tôi đã gọi là hình ảnh dục vọng-trí tuệ, nhƣ ta có nói bản

thân hình ảnh trí tuệ vẫn còn ở trong tâm thức của ngƣời tạo ra nó nhƣng các rung động của

nó đƣợc truyền ra bên ngoài tâm thức ấy đã sản sinh một hình tƣ tƣởng nơi vật chất thô hơn

thuộc cõi trung giới loại cấp thấp. Đây là hình tƣớng cung cấp cái khuôn cho một phần năng

lƣợng của tinh linh ngũ hành, chuyên biệt hóa năng lƣợng này trong thời gian mà hình tƣớng

còn sống sót vì yếu tố manas nơi hình tƣớng đó cung cấp một chút hơi hám cá tính cho cái

tinh linh ngũ hành cấp phần hồn cho hình tƣ tƣởng. [Những sự tƣơng ứng trong Thiên nhiên

thật là mầu nhiệm và minh giải biết là dƣờng nào!]. Đây là thực thể hoạt động mà Chơn sƣ có

mô tả, chính cái hình ảnh dục vọng-trí tuệ này vân du trên khắp cõi trung giới nhƣng vẫn nối

liền với ngƣời sinh ra nó bằng sợi dây từ khí đã nói trên, nó phản tác động lên tổ phụ của

mình tức là hình ảnh trí tuệ và cũng gây tác động lên ngƣời khác. Chu kỳ sống của một hình

ảnh dục vọng-trí tuệ ấy có thể dài hay ngắn tùy theo trƣờng hợp, và nó có chết đi thì cũng

chẳng ảnh hƣởng gì tới sự trƣờng tồn của tổ phụ nó; bất kỳ xung lực mới mẻ nào đối với hình

ảnh trí tuệ đều khiến cho nó lại sản sinh ra một đối thể dục vọng mới cũng giống nhƣ mỗi lần

lập lại câu thần chú sẽ tạo ra một hình tƣớng mới.

Những rung động của hình ảnh trí tuệ chẳng những đƣợc truyền xuống dƣới tới tận cõi trung

giới cấp thấp mà còn đƣợc truyền lên trên tới tận cõi tâm linh ở bên trên. Và cũng nhƣ các

rung động gây ra một hình tƣớng thô trƣợc trên cõi thấp, cũng vậy chúng sinh ra một hình

tƣớng tinh vi hơn nhiều – tôi cũng đánh liều gọi nó là hình tƣớng vì đối với chúng ta nó chẳng

phải là hình tƣớng gì cả - trên cõi cao hơn nơi akasa tức là chất liệu của thế giới do phân thân

của chính THƢỢNG ĐẾ. Akasa là kho chứa mọi hình tƣớng, là nhà kho tiếp nhận – từ tài

nguyên vô tận của Trí tuệ Vũ trụ - những kho chứa phong phú đủ mọi Ý tƣởng phải đƣợc thể

hiện trong vũ trụ cho sẵn; những rung động từ vũ trụ cũng phải đƣợc nhập vào nhà kho ấy

xuất phát từ mọi tƣ tƣởng của mọi sinh linh thông tuệ, mọi dục vọng của mọi thực thể hữu

tình, mọi hành động đƣợc mọi hình tƣớng thực hiện trên mọi cõi. Tất cả những thứ ấy đều tạo

ra các ấn tƣợng riêng, đối với chúng ta thì vô hình nhƣng đối với các đấng thông tuệ tâm linh

cao siêu thì đó là những hình ảnh đƣợc tạo tác về mọi diễn biến, và những hình ảnh trong tiên

thiên khí ấy – từ nay trở đi ta sẽ gọi chúng nhƣ thế - trƣờng tồn mãi mãi và là những ký ảnh

nhân quả chân thực, quyển Sổ bộ đời của Nghiệp quả Tinh quân mà bất cứ ngƣời nào có “mắt

Dangma mở ra” đều có thể đọc đƣợc. Phản chiếu của các tiên thiên ký ảnh này có thể đƣợc

phóng chiếu lên trên màn ảnh bằng vật chất trung giới do tác động của sự chú ý lão luyện –

cũng giống nhƣ việc ta có thể chiếu một bản kính dƣơng lên màn ảnh bằng một đèn chiếu –

khiến cho một cảnh tƣợng trong quá khứ có thể đƣợc mô phỏng lại với đầy đủ thực tại sống

động, chính xác tới từng chi tiết về một diễn biến từ thời xa xƣa. Đó là vì nó tồn tại trong tiên

thiên ký ảnh (akasic records) và đƣợc ghi dấu lên đó một lần thì một lần cho tới tận thiên thu;

và một hình ảnh sống động thoáng qua của bất cứ trang nào trong ký ảnh này đều có thể đƣợc

một nhà thấu thị lão luyện tùy ý tạo ra kịch bản hóa trên cõi trung giới để sống với nó. Nếu

bạn đọc đã theo dõi phần mô tả bất toàn này thì y có thể tự mình tạo ra đƣợc một ý tƣởng mơ

hồ nào đó về nghiệp quả xét theo khía cạnh nguyên nhân. Trong chất tiên thiên khí có ghi lại

hình ảnh trí tuệ mà một linh hồn tạo ra không tách rời khỏi linh hồn đƣợc; thế rồi hình ảnh trí

tuệ ấy lại sinh ra một hình ảnh dục vọng-trí tuệ, tạo vật hoạt động cấp phần hồn cho nó vân du

khắp cõi trung giới sinh ra vô số hậu quả, mọi thứ đều đƣợc chụp ảnh chính xác liên quan tới

nó vì vậy có thể truy nguyên tới tận nó rồi thông qua nó tới tận tổ phụ nó. Mỗi sợi chỉ nhƣ thế

- có thể nói là đƣợc dệt nên bằng chính chất liệu của cái hình ảnh dục vọng-trí tuệ đó chẳng

khác nào con nhện giăng tơ tạo thành mạng nhện – có thể nhận diện đƣợc qua sắc thái của

riêng nó; và cho dù nhiều sợi tơ ấy có thể đƣợc đan bện thành một hậu quả thì mỗi sợi tơ ấy

vẫn đƣợc phân biệt và truy nguyên tới tận ngƣời nguyên thủy đã sinh ra nó, tức là linh hồn đã

sản sinh ra hình ảnh trí tuệ. Nhƣ vậy, với những trí thông minh vụng về còn dính mắc vào trần

tục bằng ngôn ngữ vô cùng không thỏa đáng, chúng ta có thể hình dung ra cách thức mà trách

nhiệm cá nhân đƣợc quan sát qua ánh mắt liếc nhìn của các Đấng Nghiệp quả Tinh quân vốn

quản trị luật Nhân quả. Linh hồn hoàn toàn có trách nhiệm đối với hình ảnh trí tuệ mà nó tạo

ra và có trách nhiệm một phần về những hậu quả có tầm mức sâu rộng, lớn hay nhỏ, tùy theo

hậu quả đó còn có những sợi tơ nghiệp quả khác tham gia vào chuỗi nhân quả ấy. Cũng vì thế

mà ta có thể hiểu đƣợc tại sao động cơ thúc đẩy (ý nghiệp) lại đóng một vai trò trọng yếu

trong việc thanh toán nghiệp quả và tại sao hành động (thân nghiệp và khẩu nghiệp) lại tƣơng

đối thứ yếu xét về năng lƣợng tạo nghiệp; tại sao nhân quả tác động trên mỗi cõi tùy theo

thành phần cấu tạo nó, thế nhƣng vẫn nối liền các cõi lại với nhau qua sự liên tục của sợi chỉ

xuyên suốt ấy.

Khi những khái niệm minh giải của tôn giáo minh triết soi sáng tràn ngập cho thế gian, xua

tan đi sự tối tăm và làm bộc lộ ra sự công bằng tuyệt đối vốn tác động bên dƣới mọi điều xét

theo biểu kiến là bất cân xứng, bất bình đẳng và đầy ngẫu nhiên trên đời này, cũng chẳng lấy

gì làm lạ khi tâm hồn ta tràn ngập niềm biết ơn khôn tả đối với các Đấng Cao Cả - các ngài

thật đầy ơn phúc – đã giƣơng cao ngọn đuốc chân lý trong bóng đêm mờ mịt và giải thoát ta

khỏi sự căng thẳng làm ta trăn trở đến mức gần bị xé toạc ra, nỗi đau đớn oằn oại bơ vơ khi

chứng kiến những sai trái dƣờng nhƣ vô phƣơng cứu chữa, nỗi tuyệt vọng khi đi tìm công lý,

lòng thất vọng trƣớc tình thƣơng?

Ngƣơi không bị ràng buộc đâu! Hỡi Linh hồn của Vạn vật ngọt ngào,

Tâm của Bản thể vẫn ngự trên trời; lớn mạnh hơn trƣớc nỗi Khốn khổ: Điều gì Tốt đẹp thì vẫn cứ lƣớt qua đến

mức Tốt hơn và Tốt nhất.

Đó là Định luật dẫn tới sự công chính mà rốt cuộc chẳng ai né tránh đƣợc.

Tâm hồn của nó tràn ngập Tình thƣơng, tận cùng của nó là sự Thái hòa và sự Thành toàn tuyệt mỹ.

Chúng con xin bái phục.

Chúng ta lại có thể có sự minh bạch nếu ta vẽ thành bảng biểu những kết quả tam bội trong

hoạt động của Linh hồn tiến hành gây ra nghiệp quả dƣới dạng nguyên nhân, xét về nguyên

tắc hơn là xét theo chi tiết. Vậy là trong một chu kỳ sống ta có sơ đồ sau đây:

Kết quả của những thứ này ắt là các khuynh hƣớng, năng khiếu, hoạt động, cơ hội, môi

trƣờng xung quanh v. v. . . chủ yếu là trong các chu kỳ sống vị lai và đƣợc triển khai theo

những định luật nhất định.

TẠO RA NHÂN QUẢ XÉT THEO CHI TIẾT

Học viên phải coi linh hồn nơi con ngƣời tức chơn ngã, tức kẻ gây nghiệp là một thực thể

đang tăng trƣởng, một cá thể đang sinh hoạt càng ngày càng có thêm minh triết và có thêm

tầm cỡ trí tuệ khi bƣớc trên con đƣờng tiến hóa vô lƣợng kiếp; và học viên phải luôn luôn nhớ

kỹ sự đồng nhất căn bản của thƣợng trí với hạ trí. Để cho thuận ta phải phân biệt chúng với

nhau, nhƣng chúng chỉ khác nhau theo hoạt động chức năng chứ không khác nhau về bản thể:

thƣợng trí là manas hoạt động trên cõi tâm linh vốn có đƣợc trọn vẹn ý thức về quá khứ của

chính mình; hạ trí là manas hoạt động trên cõi thông linh tức cõi trung giới, bị vật chất trung

giới che khuất, sử dụng kama làm hiện thể của mình cho nên mọi hoạt động của nó đều hòa

lẫn với và bị tô điểm bởi bản chất dục vọng; nó bị vật chất trung giới che khuất đến mức đã bị

mù quáng phần lớn và chỉ còn lại đƣợc một phần nhỏ trong tổng số ý thức của manas – đối

với đại đa số mọi ngƣời – thì phần nhỏ này chỉ bao gồm một sự tuyển lựa hạn hẹp từ những

kinh nghiệm nổi bật thuộc một kiếp lâm phàm đang diễn tiến ra lúc đó. Xét theo mục đích

thực tiễn của cuộc sống theo nhân sinh quan của hầu hết mọi ngƣời thì hạ trí ấy chính là “cái

Tôi” và cái mà ta gọi là phàm ngã; tiếng nói của lƣơng tâm (đƣợc coi là siêu nhiên và mơ hồ

lẫn lộn, coi là tiếng nói của Thƣợng Đế) đối với họ chính là biểu lộ duy nhất của thƣợng trí

trên cõi thông linh, và họ thật chí lý khi coi nó là có thẩm quyền cho dù họ đã lầm lạc xiết bao

về bản chất của nó. Nhƣng học viên phải nhận ra rằng hạ trí là một với thƣợng trí cũng nhƣ tia

sáng mặt trời là một với mặt trời; mặt trời manas chiếu sáng đời đời trên bầu trời thuộc cõi

tâm linh còn tia sáng manas thâm nhập xuống tận cõi thông linh; nhƣng nếu ta coi chúng là

hai (ngoại trừ việc để cho tiện trong việc phân biệt chức năng của chúng) thì sẽ nảy sinh ra sự

lẫn lộn một cách tuyệt vọng.

Do đó chơn ngã là một thực thể đang tăng trƣởng, một số lƣợng đang tăng lên. Tia sáng

phóng xuống cũng giống nhƣ một bàn tay thò xuống nƣớc để tóm lấy một vật nào đó rồi lại

rút lên vì đã chộp đƣợc vật ấy nắm khƣ khƣ trong lòng bàn tay. Sự tăng trƣởng của chơn ngã

ắt tùy thuộc vào giá trị của những sự vật mà nó thu tóm đƣợc khi chìa bàn tay ra và tầm quan

trọng của mọi công việc của nó khi tia sáng ấy đƣợc thu hồi lại ắt bị hạn chế và chế định do

kinh nghiệm thu thập đƣợc trong khi tia sáng ấy còn đang hoạt động trên cõi thông linh. Điều

này giống nhƣ thể một nhà nông đi ra đồng ruộng, vất vả không quản ngại nắng mƣa, lạnh

nóng và đến đêm tối mới lần mò về nhà; nhƣng nhà nông này cũng là sở hữu chủ cho nên mọi

thành quả lao động của y sẽ làm cho bồ lúa của y đầy tràn và kho tàng của y thêm phong phú.

Mỗi Phàm ngã là phần hữu hiệu ngay trƣớc mắt của Chơn ngã liên tục, là đại biểu của nó nơi

hạ giới và tất nhiên phải ít nhiều phát triển tùy theo trình độ mà Chơn ngã tổng thể đã đạt

đƣợc. Nếu ta hiểu rõ điều này thì sẽ không còn ý thức bất công đối với Phàm ngã khi nó phải

tiếp nối sự kế thừa nhân quả của mình – điều này thƣờng đƣợc coi là khó hiểu đối với những

ngƣời còn trẻ khi nghiên cứu Thông Thiên Học. Đó là vì ta ắt nhận ra rằng Chơn ngã gieo

nhân thì ắt gặt quả, nhà nông gieo giống thì ắt gặt hái vụ mùa mặc dù bộ áo mà y mặc để làm

việc lúc gieo giống có thể đã bị hao mòn đi trong khoảng thời gian giữa lúc gieo giống và lúc

gặt hái; bộ y phục trên cõi trung giới của Chơn ngã cũng có thể đã tan thành mây khói giữa

lúc gieo giống và lúc gặt hái khiến cho y gặt hái trong bộ y phục mới; nhƣng “chính y” đã

gieo thì cũng chính y phải gặt và nếu y chỉ gieo một ít hạt giống hoặc hạt giống đƣợc chọn lựa

không khéo thì chính y sẽ chỉ gặt đƣợc một vụ mùa tồi tàn khi đến lúc đi gặt.

Trong những giai đoạn sơ khai của sự tăng trƣởng Chơn ngã, y tiến bộ cực kỳ chậm chạp vì y

bị dục vọng xỏ mũi chạy lung tung hết nơi này đến nơi khác, sà vào những gì hấp dẫn trên cõi

trần; những hình ảnh trí tuệ mà y sản sinh ra hầu hết thuộc loại đam mê, do đó những hình ảnh

dục vọng-trí tuệ ắt có tính lửa rơm bạo phát bạo tàn chứ không kiên định, kiên cƣờng và có

tầm ảnh hƣởng sâu rộng. Khi các yếu tố manas đã tham gia vào việc tạo nên hình ảnh trí tuệ

thì hình ảnh dục vọng-trí tuệ mới đƣợc lâu bền. Tƣ tƣởng kiên định, kiên trì ắt tạo ra những

hình ảnh trí tuệ đƣợc xác định minh bạch tƣơng ứng với nó là những hình ảnh dục vọng-trí tuệ

kiên cƣờng và bền bĩ; do đó mới có một mục đích rõ ràng trong cuộc đời, một lý tƣởng đƣợc

công nhận minh bạch mà cái trí thƣờng xuyên trở đi trở lại và liên tục an trú nơi đó: hình ảnh

trí tuệ này sẽ trở thành một ảnh hƣởng khống chế sinh hoạt trí tuệ, và năng lƣợng của linh hồn

sẽ phần lớn là đƣợc nó dẫn dắt.

Bây giờ hãy nghiên cứu việc tạo ra nghiệp bằng hình ảnh trí tuệ. Trong đời một ngƣời thì y

tạo ra vô số khối tập hợp các hình ảnh trí tuệ; một số hình ảnh mạnh mẽ, sáng tỏ, liên tục

đƣợc củng cố bằng những xung lực trí tuệ lập đi lập lại; một số hình ảnh khác yếu ớt, mơ hồ,

vừa mới đƣợc tạo ra thì đã bị cái trí ruồng bỏ. Vào lúc chết, linh hồn thấy mình có hằng hà sa

số những hình ảnh trí tuệ này, chúng biến thiên về tính cách cũng nhƣ về sức mạnh và sự xác

định. Một số hình ảnh là những hoài bão tâm linh, mơ ƣớc đƣợc phụng sự, lần mò theo đuổi

tri thức, tự nguyện xả thân vì cuộc sống cao cả hơn; một số hình ảnh là thuần túy thuộc trí

năng, là những viên ngọc quí trong sáng của tƣ tƣởng, là kho chứa thành quả của việc thâm

cứu; một số hình ảnh có tính cách xúc động và đam mê, mang hơi hám yêu thƣơng, từ bi, âu

yếm, sùng tín, giận dữ, tham vọng, kiêu ngạo, tham lam; một số hình ảnh xuất phát từ những

khao khát của thể xác bị kích động bởi lòng ham muốn vô độ và biểu diễn những ý nghĩ phàm

ăn tục uống, nghiện rƣợu, đa dâm. Mỗi linh hồn đều có tâm thức của riêng mình chất đầy

những hình ảnh trí tuệ này vốn là thành quả sinh hoạt trí tuệ của nó; chẳng một tƣ tƣởng nào

cho dù thoáng qua đến đâu đi nữa mà lại không đƣợc biểu diễn nơi đó; trong nhiều trƣờng

hợp các hình ảnh dục vọng-trí tuệ có thể đã bị tiêu diệt từ lâu rồi, có thể chỉ có đủ sức mạnh

để sống sót trong vài tiếng đồng hồ, nhƣng các hình ảnh trí tuệ vẫn còn mãi trong tầm sở hữu

của linh hồn không thiếu một hình ảnh nào. Linh hồn mang tất cả những hình ảnh trí tuệ này

theo mình khi nó bƣớc qua ngƣỡng cửa sự chết nhập vào cõi trung giới.

Kama loka tức cõi Dục vọng có thể nói là đƣợc chia thành nhiều tầng lớp và ngay sau khi chết

linh hồn vẫn còn bề bộn với trọn cả thể dục vọng (kama rupa) và mọi hình ảnh trí tuệ do kama

manas tạo ra mà có bản chất thô trƣợc đầy thú tính đều phát huy tác dụng trên các mức thấp

nhất của cõi trung giới này. Một linh hồn phát triển kém cỏi sẽ vƣơng vấn với những hình ảnh

này và triển khai chúng ra, nhƣ vậy là chuẩn bị để lập lại chúng trong kiếp tới trên cõi trần;

một ngƣời cứ vấn vƣơng với những tƣ tƣởng đa dâm và tạo ra những hình ảnh trí tuệ nhƣ thế

chẳng những bị thu hút về những bối cảnh trần tục liên quan tới việc thỏa mãn thú đa dâm ấy

mà còn thƣờng xuyên lập lại chúng thành ra các tác động trong tâm trí, vậy là dựng nên trong

bản chất mình những xung lực ngày càng mạnh mẽ hơn để trong tƣơng lai lại phạm phải

những điều tƣơng tự nhƣ thế. Đối với những hình ảnh trí tuệ khác đƣợc tạo ra từ vật liệu do

bản chất dục vọng cung cấp và thuộc về các mức khác của Kama loka thì cũng giống nhƣ vậy.

Khi linh hồn thăng từ mức thấp lên mức cao thì các hình ảnh trí tuệ đƣợc xây dựng từ vật liệu

của các mức thấp bị mất hết các yếu tố ấy cho nên trở thành tiềm tàng trong tâm thức, tức là

cái H. P. Blavatsky thƣờng gọi là “bị thiếu vật chất” cho nên không thể tồn tại dƣới dạng biểu

lộ ra nơi vật chất. Cái thể dục vọng đƣợc tẩy trƣợc khỏi những yếu tố thô kệch khi Phàm ngã

đƣợc rút lên trên hoặc đƣợc rút vào trong hƣớng về cõi Devachan; đến đúng lúc thì mỗi “lớp

vỏ” bị vứt đi đều tan rã cho đến khi đã vứt lớp vỏ cuối cùng thì tia manas hoàn toàn đƣợc rút

lại và thoát khỏi mọi cái khuôn bằng chất dục vọng. Khi Chơn ngã trở về sinh hoạt trên cõi

trần thì những hình ảnh tiềm tàng này lại đƣợc phóng ra ngoài để thu hút về mình những vật

liệu dục vọng thích hợp khiến cho chúng có thể biểu lộ đƣợc trên cõi trung giới; chúng ắt trở

thành các khao khát, đam mê và xúc động thấp hèn của thể dục vọng của y trong kiếp tới.

Nhân tiện chúng ta có thể nhận xét rằng một số những hình ảnh trí tuệ bao xung quanh linh

hồn mới giáng lâm là cội nguồn của nhiều chuyện rắc rối trong những giai đoạn sơ khai của

sự sống sau khi chết; những tín ngƣỡng mê tín dị đoan phô bày ra thành những hình ảnh trí

tuệ hành hạ linh hồn với những viễn cảnh khủng khiếp thực sự không diễn ra ở môi trƣờng

xung quanh nó.

Mọi hình ảnh trí tuệ đƣợc tạo ra từ các đam mê và khao khát đều phải tuân theo quá trình nêu

trên để đƣợc Chơn ngã biểu lộ trở lại khi nó tái sinh luân hồi nhƣ tác giả quyển Cõi Trung

giới có viết: “Đấng Lipika, các Đấng Nghiệp quả Tinh quân trong vũ trụ cân nhắc hành vi của

mỗi phàm ngã vào lúc các nguyên khí của nó rốt cuộc chia tay nhau nơi Kama loka, và có thể

nói là ngài cung cấp cái khuôn là thể Phách phù hợp chính xác với Nhân quả trong kiếp tới

của con ngƣời.

Vì tạm thời đƣợc giải thoát khỏi những yếu tố thấp thỏi này cho nên linh hồn bèn chuyển vào

cõi Devachan nơi nó sống một thời gian tỉ lệ với sự phong phú hay nghèo nàn của những hình

ảnh trí tuệ đủ thanh khiết để đƣợc mang theo lên tới cõi này. Ở đây nó lại thấy mọi nỗ lực cao

siêu của mình cho dù chúng có thể ngắn ngủi hoặc phù du đến đâu đi nữa và ở đây nó lại tác

động lên chúng, dùng những vật liệu này để kiến tạo nên những quyền năng cho các kiếp vị

lai.

Sinh hoạt nơi cõi Devachan là sinh hoạt đồng hóa; những kinh nghiệm thu lƣợm đƣợc trên

trần thế phải đƣợc tôi luyện vào kết cấu của linh hồn, chính nhờ thế mà Chơn ngã mới tăng

trƣởng; sự tăng trƣởng của nó tùy thuộc vào số lƣợng và sự đa dạng của những hình ảnh trí

tuệ mà nó đã tạo ra trong buổi sinh thời để rồi đƣợc chuyển hóa thành ra các nguyên mẫu

thích hợp và thƣờng trụ hơn. Khi tụ tập mọi hình ảnh trí tuệ thuộc một lớp đặc biệt lại, nó rút

tỉa tinh hoa từ những hình ảnh đó; bằng cách tham thiền nó tạo ra một cơ quan trí tuệ để tuôn

đổ tinh hoa mà nó khai thác đƣợc vào trong cơ quan đó hầu biến thành năng khiếu. Chẳng hạn

nhƣ một ngƣời đã tạo ra nhiều hình ảnh trí tuệ từ những khao khát tri thức và những nỗ lực

tìm hiểu các lý luận tinh vi và cao siêu; y đã dẹp bỏ cơ thể của mình rồi và quyền năng trí tuệ

của y thuộc loại trung bình; khi ở cõi Devachan y tác động lên mọi hình ảnh trí tuệ này, triển

khai chúng thành ra năng lực sao cho linh hồn của y khi trở lại trần thế có một khí cụ trí tuệ

cao cấp hơn mức nó có trƣớc kia với các năng lực trí tuệ tăng gia nhiều, có thể hoàn thành

đƣợc những nhiệm vụ mà trƣớc kia nó hoàn toàn bất cập. Đây là sự biến hóa khác của hình

ảnh trí tuệ khiến cho những hình ảnh này không còn tồn tại nữa. Nếu trong kiếp sau mà linh

hồn muốn thấy trở lại những hình ảnh cũ này thì nó phải tìm kiếm chúng nơi các ký ảnh

nghiệp quả trong đó chúng còn đƣợc ghi lại mãi mãi dƣới dạng tiên thiên ký ảnh. Nhƣng khi

đƣợc biến hóa nhƣ thế, chúng không còn là những hình ảnh trí tuệ mà linh hồn tạo ra và tác

động lên đó, chúng đã trở thành các quyền năng của linh hồn, là một phần bản chất của chính

nó. Vậy thì nếu một ngƣời muốn có đƣợc các năng khiếu trí tuệ cao hơn mức hiện nay mình

đƣợc hƣởng thì y có thể bảo đảm việc phát triển ấy bằng cách cố ý mong muốn đạt đƣợc

chúng, kiên trì nhắm tới việc đạt đƣợc chúng, vì sự mong muốn và hoài bão trong kiếp này sẽ

trở thành năng khiếu trong kiếp khác và ý muốn thực thi sẽ trở thành năng lực để hoàn tất.

Nhƣng ta phải nhớ rằng năng khiếu đƣợc xây dựng nhƣ thế bị hạn chế chính xác bởi vật liệu

mà ngƣời ta cung cấp cho kiến trúc sƣ, không có sự sáng tạo từ hƣ vô và nếu linh hồn trên

trần thế không vận dụng quyền năng của mình bằng cách gieo hạt giống hoài bão và mơ ƣớc

thì linh hồn nơi Devachan chỉ có một vụ mùa thất thu.

Các hình ảnh trí tuệ đƣợc thƣờng xuyên lập đi lập lại nhƣng không có tính cách hoài bão hoặc

mơ ƣớc thành tựu nhiều hơn mức quyền năng yếu ớt của linh hồn cho phép thì cũng trở thành

những khuynh hƣớng tƣ tƣởng, những lối mòn mà năng lƣợng trí tuệ dễ dàng và sẵn sàng

chạy theo đó. Vì thế cho nên rất quan trọng khi để cho cái trí trôi dật dờ không có mục đích

theo những sự việc không quan trọng, vô công rỗi nghề tạo ra những hình ảnh trí tuệ tầm phào

và để cho những hình ảnh đó cứ vƣơng vấn trong tâm trí. Những thứ ấy sẽ tồn tại dai dẳng,

tạo thành những kênh dẫn cho thần lực trí tuệ tƣơng lai tuôn đổ vào. Vậy là dẫn dắt nó đi lòng

vòng ở mức thấp, chạy theo những rãnh mòn quen thuộc, đúng là ngựa quen đƣờng cũ.

Ý muốn hoặc mong muốn thực hiện một hành động nào đó nếu có bị bất đắc chí không phải

vì thiếu năng lực mà vì thiếu cơ hội hoặc do hoàn cảnh ngăn cấm không thành tựu đƣợc thì

cũng tạo ra những hình ảnh trí tuệ, nếu hành động đó có bản chất cao siêu và thanh khiết thì

nó sẽ tác động thành ra tƣ tƣởng trên cõi Devachan, và sẽ đƣợc phóng hiện thành hành động

khi con ngƣời tái sinh luân hồi. Nếu hình ảnh trí tuệ đƣợc tạo ra từ mong muốn ban phúc thì

nó sẽ làm nảy ra sự thực thi trong trí những tác động đó nơi cõi Devachan; và sự thực hiện

này vốn phản ánh của chính hình ảnh ấy sẽ ghi dấu lại nơi Chơn ngã là một hình ảnh trí tuệ

đƣợc tăng cƣờng về tác động đó, nó sẽ đƣợc phóng ra thành một hành vi vật thể trên cõi trần

vào lúc mà chỉ một chút xíu cơ hội thuận lợi cũng phóng hiện đƣợc sự kết tinh tƣ tƣởng này ra

thành hành động. Hành vi trên cõi trần là không thể tránh đƣợc khi hình ảnh trí tuệ đã đƣợc

hiện thực hóa thành ra hành động trên cõi Devachan. Định luật ấy cũng áp dụng cho những

hình ảnh trí tuệ đƣợc tạo ra từ những ham muốn thấp hèn mặc dù chúng chƣa bao giờ đƣợc

chuyển lên Devachan, nhƣng vẫn phải tuân theo quá trình nêu trên để đƣợc tái tạo trở lại khi

tái sinh luân hồi. Chẳng hạn nhƣ những ham muốn tham lam lập đi lập lại bắt nguồn từ những

hình ảnh trí tuệ đã đƣợc tạo ra, sẽ kết tinh thành hành vi trộm cắp khi hoàn cảnh thuận lợi.

Nghiệp báo nguyên nhân mà đã hoàn tất rồi thì hành vi trên cõi trần trở thành một hậu quả

không thể tránh đƣợc khi nó đạt tới giai đoạn mà chỉ cần lập lại thêm một lần nữa hình ảnh trí

tuệ ấy thì nó sẽ biến thành hành động. Ta không đƣợc quên rằng việc lập lại một hành vi có

khuynh hƣớng khiến cho hành vi ấy trở nên tự động và luật này tác động trên các cõi khác

hơn cõi trần; vậy thì nếu một tác động đƣợc thƣờng xuyên lập đi lập lại trên cõi thông linh thì

nó sẽ trở thành tự động và khi có cơ hội thì nó sẽ tự động thể hiện ra trên cõi trần. Biết bao

nhiêu lần sau khi xảy ra một tội ác thì ngƣời ta mới than thở: “Tôi làm điều đó trƣớc khi mình

suy nghĩ” hoặc “Nếu mà tôi suy nghĩ chỉ một lúc thôi thì tôi chẳng bao giờ làm điều ấy”! Lời

biện bạch của kẻ nói ra nhƣ thế là hoàn toàn đúng vì lúc bấy giờ y đâu có chịu động cơ thúc

đẩy là một ý tƣởng đã đƣợc suy nghĩ chính chắn, và y tự nhiên là không biết tới những tƣ

tƣởng trƣớc đó với một chuỗi nhân quả dẫn tới kết quả tất yếu. Vậy là một dung dịch đã bão

hòa sẽ đông cứng lại khi ta chỉ cần bỏ vào đó thêm một tinh thể nữa thôi; khi vừa mới tiếp xúc

với tinh thể ấy thì trọn dung dịch đó đã chuyển sang trạng thái rắn đặc. Khi khối tập hợp các

hình ảnh trí tuệ đã đạt tới mức bão hòa thì chỉ cần thêm một hình ảnh trí tuệ nữa là khiến cho

chúng cố kết thành ra một hành vi. Lại nữa hành vi này không thể tránh đƣợc vì việc tự chọn

lựa đã bị cạn kiệt khi y cứ chọn đi chọn lại mãi việc thực hiện cái hình ảnh trí tuệ ấy cho nên

hành vi trên cõi trần bắt buộc phải tuân theo sự thôi thúc của hình ảnh trí tuệ đó. Cái ham

muốn thực hiện trong kiếp này phản tác động thành ra sự cƣỡng chế hành động trong kiếp

khác và dƣờng nhƣ thể lòng ham muốn ấy cũng thể hiện thành sự yêu sách đối với Thiên

nhiên đến mức Thiên nhiên đáp ứng lại bằng cách cung cấp cơ hội thực hiện.

Những hình ảnh trí tuệ đƣợc ký ức tích trữ thành ra các kinh nghiệm mà linh hồn phải trải qua

trong buổi sinh thời, việc ghi chép chính xác lại tác động ấy của ngoại giới cũng phải đƣợc

linh hồn triển khai. Nhờ nghiên cứu những kinh nghiệm này, nhờ tham thiền về chúng, linh

hồn học cách thấy đƣợc mối tƣơng quan của chúng, giá trị của chúng là dịch thuật cho nó hiểu

những tác động của Trí tuệ Vũ trụ nơi Thiên nhiên biểu lộ; nói tóm lại, nó rút ra từ những

kinh nghiệm ấy (do kiên nhẫn suy tƣ về chúng) mọi bài học mà chúng phải dạy cho nó: những

bài học vui sƣớng và đau khổ, vui sƣớng sinh ra đau khổ và đau khổ gây ra vui sƣớng, chúng

dạy cho nó sự hiện diện của những định luật không thể vi phạm đƣợc mà nó phải học cách

tuân theo. Những bài học thành công và thất bại, thành đạt và thất vọng, lo sợ tỏ ra vô căn cứ,

hi vọng rồi không thực hiện đƣợc, sức mạnh bị sụp đổ khi gặp thử thách, sự hiểu biết do

hoang tƣởng té ra là dốt nát, kiên trì chịu đựng để đạt đƣợc thắng lợi khi xét theo biểu kiến là

đã thất bại, bất cẩn biến sự thắng lợi xét theo biểu kiến lại trở thành thất bại. Linh hồn suy

gẫm hết mọi thứ ấy rồi dùng phép luyện kim của mình để biến mọi thứ hỗn hống kinh nghiệm

ấy thành ra vàng ròng minh triết, sao cho khi tái sinh luân hồi nó trở thành một linh hồn minh

triết hơn mang theo thành quả những kinh nghiệm cũ tác động lên những diễn biến mà nó

phải đƣơng đầu trong kiếp tới. Ở đây ta lại thấy các hình ảnh trí tuệ đã đƣợc chuyển hóa chứ

không còn tồn tại dƣới dạng hình ảnh trí tuệ nữa. Ngƣời ta chỉ có thể khôi phục lại chúng dƣới

dạng cũ xuất phát từ các ký ảnh nghiệp quả.

Lƣơng tâm phát sinh ra và phát triển lên bắt nguồn từ những hình ảnh trí tuệ này của kinh

nghiệm, nhất là những hình ảnh dạy cho ta biết đau khổ đã nảy sinh ra sao do không biết định

luật. Trải qua nhiều kiếp liên tiếp trên cõi trần, linh hồn thƣờng xuyên bị dục vọng xỏ mũi húc

đầu chạy theo một đối tƣợng hấp dẫn nào đó; khi cắm đầu xông vào mục đích ấy nó thƣờng

chống lại thiên luật để rồi vấp ngã, bầm dập và chảy máu. Nhiều kinh nghiệm nhƣ thế dạy cho

nó biết rằng muốn thỏa mãn mà chống lại thiên luật thì chỉ gây ra đau khổ và khi trong một

kiếp khác trên trần thế thể dục vọng chỉ lăm le xỏ mũi linh hồn lao vào vui hƣởng điều xấu xa,

thì ký ức về những kinh nghiệm quá khứ khẳng định lại dƣới dạng lƣơng tâm, hét lớn lên lời

nghiêm cấm và ghì chặt dây cƣơng khiến cho con ngựa giác quan chạy lồng lên, không để ý

cứ chúi đầu đuổi theo những đối tƣợng của dục vọng. Ở giai đoạn tiến hóa hiện nay ngoại trừ

những linh hồn lạc hậu nhất thì mọi linh hồn đều đã trải qua đầy đủ kinh nghiệm để nhận ra

đƣợc những đƣờng nét tổng quát đâu là “đúng” đâu là “sai”, nghĩa là cái gì hài hòa với Bản

chất Thiêng liêng và cái gì bất hòa với Bản chất Thiêng liêng; những vấn đề chính yếu của

luân lý thì linh hồn đã trải qua kinh nghiệm rộng lớn và lâu dài khiến cho nó có thể nói dứt

khoát và minh bạch đƣợc. Nhƣng có nhiều vấn đề cao siêu và tinh vi hơn thuộc về giai đoạn

tiến hóa hiện nay chứ không phải những giai đoạn trƣớc đó thì kinh nghiệm vẫn còn hạn chế

và chƣa đủ đến mức cho nó đƣợc tôi luyện thành lƣơng tâm, và linh hồn có thể sai lầm khi

quyết định cho dù nó thật sự cố gắng đầy hảo ý muốn nhìn thấy rõ ràng và hành động chính

xác. Ở đây nó muốn tuân theo những qui tắc hài hòa với Bản chất Thiêng liêng trên các cõi

cao và việc nó không thể thấy đƣợc cách thức ngoan ngoãn vâng lời trên cõi thấp sẽ đƣợc

chỉnh sửa lại trong tƣơng lai qua sự đau khổ mà nó cảm thấy khi phạm lỗi chống lại thiên luật:

đau khổ sẽ dạy dỗ cho nó điều mà trƣớc kia nó không biết và những kinh nghiệm đau buồn ấy

sẽ đƣợc rèn luyện thành lƣơng tâm, để ngăn ngừa cho nó tránh khỏi sự đau khổ tƣơng tự trong

tƣơng lai, mang lại cho nó niềm vui vì đã biết rõ hơn về Thƣợng Đế trong Thiên nhiên khi tự

nguyện sống hài hòa với Định luật Sinh hoạt và tự nguyện hợp tác với cơ tiến hóa.

Cho đến nay ta thấy có những nguyên tắc nhất định của luật Nhân quả tác động lên hình ảnh

trí tuệ dƣới dạng nguyên nhân nhƣ sau:

Hoài bão và Mong muốn trở thành Năng lực

Tƣ tƣởng lập đi lập lại - Khuynh hƣớng

Ý muốn thực thi - Hành động

Kinh nghiệm - Minh triết

Kinh nghiệm đau thƣơng - Lƣơng tâm

Ta sẽ xét tới luật Nhân quả tác động lên những hình ảnh dục vọng-trí tuệ một cách rốt ráo hơn

dƣới đề mục Sự thanh toán Nhân quả mà giờ đây ta đang tiến tới.

SỰ THANH TOÁN NHÂN QUẢ

Khi linh hồn đã sống hết kiếp sinh hoạt nơi Devachan và đã đồng hóa đƣợc hết mức vật liệu

thu gom đƣợc trong chu kỳ vừa qua trên trần thế thì nó lại bắt đầu bị kéo xuống trần thế do

những mối ràng buộc về dục vọng khiến cho nó vƣơng vấn tới kiếp sống vật chất. Giờ đây

giai đoạn cuối cùng trong chu kỳ sống của nó lại mở ra trƣớc mắt nó. Giai đoạn mà nó lại

khoác lấy một công cụ mới để có đƣợc kinh nghiệm khác trên cõi trần, giai đoạn này chấm

dứt khi nó bƣớc qua ngƣỡng cửa chào đời.

Linh hồn bƣớc qua ngƣỡng cửa Devachan nhập vào cái đƣợc gọi là cõi luân hồi, mang theo

thành quả dù lớn hay nhỏ của công trình nơi cõi Devachan. Nếu nó chỉ là một linh hồn còn

non trẻ thì nó chẳng thu lƣợm đƣợc bao nhiêu; sự tiến bộ trong những giai đoạn đầu của cơ

tiến hóa linh hồn chậm đến mức hầu hết học viên khó lòng nhận ra đƣợc và trong buổi ấu trĩ

của linh hồn thì hết ngày (kiếp sống) này nối tiếp ngày (kiếp sống) kia một cách nhàm chán,

mỗi kiếp sống trên cõi trần chỉ gieo một chút xíu hạt giống cho nên mỗi sinh hoạt nơi

Devachan chỉ làm chín muồi một chút xíu kết quả. Khi các năng lực phát triển thì sự tăng

trƣởng càng ngày càng có tốc độ gia tăng, linh hồn tiến nhập Devachan có một lƣợng dự trữ

vật liệu lớn hơn, ra khỏi Devachan với một năng khiếu lớn hơn đƣợc tôi luyện theo những

định luật chung mà ta đã nêu rõ trên kia. Khi thoát ra khỏi Devachan nó chỉ khoác lấy cái hiện

thể của linh hồn vốn trƣờng tồn và tăng trƣởng trong suốt chu kỳ thành trụ (manvantara),

xung quanh đó là hào quang thuộc về nó với vai trò một cá thể ít nhiều vinh quang; hào quang

này có nhiều màu sắc, sáng chói, rõ rệt, mở rộng ra tùy theo trình độ tiến hóa mà linh hồn đã

đạt đƣợc. Nó đã đƣợc tôi luyện trong lửa cõi trời và xuất lộ thành ra vị Thánh vƣơng Soma.

Trong cuộc tái sinh luân hồi, khi chuyển tiếp qua cõi trung giới, nó lại khoác lấy một thể dục

vọng vốn là kết quả đầu tiên của việc thanh toán nghiệp cũ. Những hình ảnh trí tuệ đƣợc tạo

ra trong quá khứ “từ vật liệu do bản chất dục vọng cung cấp – vốn đã trở nên tiềm tàng nơi

tâm thức hoặc cái mà H. P. Blavatsky thƣờng gọi là „thiếu thốn vật chất‟ nên không thể tồn tại

đƣợc qua sự biểu lộ vật chất” – giờ đây lại đƣợc linh hồn bung ra và ngay tức khắc nó thu hút

về mình những yếu tố dục vọng xuất phát từ vật chất cõi trung giới phù hợp với bản chất của

chúng để “trở thành những khao khát, đam mê và xúc động thấp hèn của thể dục vọng thuộc

phàm ngã trong kiếp nhập thế mới”. Khi công việc này đã hoàn tất – việc này đôi khi rất ngắn,

đôi khi lại kéo dài rất lâu – thì bản ngã đã ở trong bộ y phục nghiệp quả mà tự mình chuẩn bị

cho mình, sẵn sàng tiếp nhận từ tay của các đấng thừa hành phụ tá cho các Nghiệp quả Tinh

quân, đón nhận thể phách đƣợc kiến tạo cho mình phù hợp với những yếu tố mà mình cung

cấp; thể xác của y sẽ đƣợc thành hình theo thể phách ấy, thể xác là căn nhà mà y phải ở trong

đó khi sinh hoạt trên cõi trần trong kiếp tới. Vậy là cả Chơn ngã lẫn phàm ngã đều có thể nói

là do chính con ngƣời trực tiếp xây dựng lên – y nghĩ làm sao thì y sẽ trở thành nhƣ thế,

những phẩm chất, “năng khiếu tự nhiên” thuộc về y đều là kết quả trực tiếp của việc y suy

nghĩ, con ngƣời quả thật tự mình tạo ra mình, chịu trách nhiệm (theo ý nghĩa trọn vẹn nhất

của từ ngữ này) về tất cả những gì mà mình hiện tồn.

Nhƣng con ngƣời này phải có một thể xác và thể phách sẽ chế định phần lớn sự vận dụng

năng khiếu của y; y phải sống ở một môi trƣờng xung quanh nào đó, hoàn cảnh bên ngoài của

y sẽ tùy theo điều đó; y phải bƣớc trên một con đƣờng đƣợc vạch ra do những nguyên nhân

mà y đã phát khởi chứ không phải những nguyên nhân dƣờng nhƣ là hậu quả của năng khiếu

của mình; y phải giáp mặt với những diễn biến vui buồn, là thành quả của những lực lƣợng

mà y đã sản sinh ra. Ở đây dƣờng nhƣ cần phải có một điều gì khác hơn bản chất chơn ngã và

phàm ngã của y: đâu là môi trƣờng đƣợc cung ứng cho những năng lƣợng của nó? Những

công cụ chế định và những hoàn cảnh phản tác động sẽ hiện diện và đƣợc thích ứng ra sao?

Ta tiến gần tới một cõi mà khó lòng có thể nói đƣợc thỏa đáng vì đó là cõi của các Đấng

thông tuệ tâm linh hùng mạnh có bản chất vƣợt xa so với tầm năng lực hạn hẹp của chúng ta;

quả thật ta có thể biết sự tồn tại của các ngài, có thể truy nguyên đƣợc công trình của các ngài,

nhƣng đối với các ngài thì chúng ta ở địa vị giống nhƣ một con thú cấp thấp kém thông minh

nhất so với chính chúng ta; con thú ấy có thể biết rằng chúng ta tồn tại nhƣng nó không thể

quan niệm đƣợc tầm cỡ và công trình do tâm thức ta tạo nên. Các Đấng Cao Cả này thƣờng

đƣợc gọi là Lipika và Tứ đại Thiên vƣơng (the Four Maharajahs). Từ đoạn văn sau đây, ta có

thể biết đƣợc mình hiểu về các Đấng Lipika ít đến chừng nào:

“Các Đấng Lipika (trong phần Bình luận thứ 6 của câu kinh IV có mô tả về các ngài) là các

Chơn linh của Vũ trụ . . . Các ngài thuộc về bộ phận Huyền bí nhất trong cơ sáng thế cho nên

ta không thể trình bày ở đây đƣợc. Liệu các Chơn sƣ – ngay cả các bậc cao nhất – có biết hết

về huyền giai thiên thần này ở các cấp tam bội hay chỉ biết đƣợc cấp thấp liên quan tới việc

ghi chép ký ảnh thế giới của ta, thì đó là điều mà tác giả không sẵn lòng khẳng định và bà có

khuynh hƣớng nghiêng về giả định nêu phía sau (cho rằng các Chơn sƣ chỉ biết đƣợc một cấp

thấp của Lipika). Xét về cấp cao nhất thì ngƣời ta chỉ đƣợc dạy dỗ có một điều: các Lipika có

liên quan tới Nhân quả là những đấng trực tiếp Ghi chép nghiệp quả”.

Các ngài gồm “Bảy Đấng Thứ Nhì”, các ngài quản lý các ký ảnh tinh tú chứa đầy những tiên

thiên ký ảnh (the akashic images) đã đƣợc nêu trƣớc kia. Các ngài có liên quan tới số phận

của mọi con ngƣời và sự ra đời của mọi đứa trẻ. Các ngài cung cấp “cái khuôn thể phách”, thể

phách đƣợc dùng làm kiểu mẫu cho thể xác thích ứng với việc biểu hiện những năng khiếu trí

tuệ và đam mê mà Chơn ngã triển khai ra khi ngự trong đó. Các ngài cung cấp cái khuôn thể

phách cho Tứ đại Thiên vƣơng tức là các Đấng bảo trợ nhân loại và thừa hành luật Nhân quả

trên trái đất.

Bà H. P. Blavatsky có viết thêm nữa về Tứ đại Thiên vƣơng khi trích dẫn câu kinh số 5 của

quyển Thiền Thƣ: “Bốn bánh xe có cánh ở mỗi góc . . . dành cho bốn Đấng thiêng liêng và

đội thiên binh thần tƣớng của các ngài”. Đó là “Tứ đại Thiên vƣơng”, các vị đại vƣơng trong

nhóm Dhyan Chohans, các thiên thần chủ trì mỗi một trong bốn phƣơng . . . Các Đấng này

cũng có liên quan tới Nhân quả vì nghiệp quả cần có những tác nhân vật thể và vật chất để thi

hành nghị quyết của mình.

Khi nhận đƣợc cái khuôn – một lần nữa còn “thiếu vật chất” – từ các Đấng Lipika, các đấng

Tứ đại Thiên vƣơng chọn thành phần cấu tạo cho thể phách là những nguyên tố thích hợp với

những phẩm chất phải đƣợc biểu đạt thông qua nó và thể phách này bèn trở thành một công

cụ thích hợp của Nhân quả dành cho Chơn ngã, cung ứng cơ sở để cho nó triển khai đƣợc

những năng khiếu mà nó cần biểu diễn, và áp đặt lên nó những sự hạn chế do trong quá khứ

nó đã từng thất bại và bỏ lỡ cơ hội. Cái khuôn này đƣợc Tứ đại Thên vƣơng dẫn dắt tới xứ sở,

giống dân, gia đình, môi trƣờng xã hội xung quanh, vốn cung ứng địa hạt thích hợp nhất cho

việc thanh toán Nhân quả đƣợc ấn định cho quãng kiếp sống đặc biệt mà ta đang xét tới;

ngƣời Ấn Độ gọi nó là prarabdha tức nghiệp quả khởi sự, nghĩa là điều phải đƣợc thanh toán

trong chu kỳ sống đƣợc khai mở ra. Nhân quả tích lũy trong quá khứ không thể đƣợc thanh

toán chỉ trong một kiếp – ngƣời ta không thể tạo ra đƣợc công cụ nào, tìm thấy môi trƣờng

xung quanh nào thích hợp để biểu diễn mọi năng lực đã tiến hóa dần dần của Chơn ngã, cũng

không cung ứng đƣợc mọi hoàn cảnh cần thiết để gặt hái mọi vụ mùa đã đƣợc gieo trồng

trong quá khứ để thực thi mọi nghĩa vụ đã đƣợc hợp đồng với mọi Chơn ngã khác mà linh hồn

nhập thế đã bƣớc vào tiếp xúc trong quá trình tiến hóa dài dằng dặc. Vậy thì toàn bộ Nhân quả

chỉ đƣợc dàn xếp tối đa cho một chu kỳ sống ắt có một thể phách thích hợp đƣợc cung ứng

cho nó và cái khuôn của thể phách ấy đƣợc dẫn dắt tới một môi trƣờng thích hợp. Nó đƣợc đặt

vào nơi mà Chơn ngã có thể tiếp xúc đƣợc với một số Chơn ngã nhƣ trên mà y đã có quan hệ

trong quá khứ, và hiện nay y đang bƣớc vào nhập thế trong chu kỳ sống của riêng mình.

Ngƣời ta chọn một xứ sở vốn có tình huống tôn giáo, chính trị và xã hội thích hợp với một số

năng lực của nó và cung ứng môi trƣờng để diễn ra một số hậu quả mà nó đã khai sinh. Ngƣời

ta chọn một giống dân – dĩ nhiên phải tuân theo những định luật lớn lao hơn có ảnh hƣởng tới

sự nhập thế nơi các giống dân mà ở đây chúng ta không thể đi sâu đƣợc – có những đặc trƣng

giống nhƣ một số năng lực đã chín muồi cần đƣợc vận dụng thuộc loại hình thích hợp với linh

hồn nhập thế. Ngƣời ta cũng tìm thấy một gia đình trong đó sự di truyền thể chất đã triển khai

đƣợc cái loại vật liệu thể chất khi đƣợc kiến tạo và thể phách sẽ thích ứng với cấu tạo của nó;

gia đình này nói chung hoặc nói riêng là một tổ chức trên cõi trần cung ứng đất dụng võ cho

bản chất trí tuệ và đam mê của Chơn ngã. Xuất phát từ nhiều phẩm chất tồn tại nơi linh hồn,

xuất phát từ nhiều loại hình thể chất tồn tại trên thế gian, ngƣời ta có thể chọn lựa ra những gì

thích ứng với mỗi một ngƣời, có thể kiến tạo nên một cái khuôn thích hợp cho Chơn ngã đang

chờ đợi, một công cụ và môi trƣờng để cho một số nhân quả của nó có thể đƣợc thanh toán.

Cho dù kiến thức và quyền năng của ta cần thiết để thích ứng nhƣ vậy cũng ngắn ngủi nhƣ cái

đƣờng chì phao so với đáy sâu thăm thẳm, song ta có thể lờ mờ hiểu đƣợc rằng mình có thể

thích ứng đƣợc và có thể đạt đƣợc sự công bằng tuyệt đối; mạng lƣới số phận của con ngƣời

quả thật có thể bao gồm những sợi tơ thật là vô số đối với chúng ta và chúng có thể cần đƣợc

đan dệt thành một kiểu mẫu mà chúng ta thấy phức tạp không thể tƣởng tƣợng nổi; một sơi tơ

có thể biến mất – thật ra nó chỉ chuyển sang phía bên kia ở dƣới để rồi lại ló lên mặt trở lại;

một sợi tơ có thể đột nhiên xuất hiện – thật ra nó chỉ xuất hiện trở lại ở phía mặt trên sau khi

đã đi ngầm lâu dài ở mặt dƣới; vì chỉ thấy đƣợc một mảnh vụn của mạng lƣới cho nên tầm

nhìn thiển cận của ta không thể phân biệt đƣợc kiểu mẫu ấy. Nhà hiền triết Iamblichus có viết

rằng:

“Điều dƣờng nhƣ đối với chúng ta là việc xác định đúng đắn mức công bằng thì có vẻ lại

không phải nhƣ thế đối với chƣ thần linh. Đó là vì chúng ta chỉ quan sát điều ngắn ngủi nhất,

chỉ chú ý tới những sự vật ngay hiện nay và kiếp sống tạm bợ này cũng nhƣ cách thức mà nó

tồn tại trong đó. Nhƣng các Quyền năng cao siêu hơn cho chúng ta biết đƣợc trọn cả cuộc

sống của Linh hồn và mọi kiếp trƣớc kia của nó”.

Việc khẳng định rằng “sự công bằng tuyệt đối chi phối thế gian” đƣợc hậu thuẫn do linh hồn

tiến hóa càng ngày càng hiểu biết hơn, đó là vì khi nó tiến bộ, bắt đầu thấy đƣợc trên các cõi

cao và truyền đƣợc sự hiểu biết xuống cho ý thức tỉnh táo thì chúng ta sẽ học hỏi càng ngày

càng chắc chắn hơn, do đó càng ngày càng thấy hân hoan khi Chánh pháp đang tác động một

cách chính xác không thiên lệch, các Tác nhân của nó ứng dụng nó ở khắp nơi với sự giác ngộ

không sai lầm, với sức mạnh không thất bại, do đó mọi thứ tốt đều đẹp trên thế gian cho các

linh hồn đang phấn đấu. Xuyên suốt qua bóng đêm ắt vang dội lên tiếng kêu: “Tất cả đều tốt

đẹp”. Xuất phát từ những linh hồn đang tuần tra cầm ngọn đèn Minh triết Thiêng liêng soi

chiếu qua những nẻo đƣờng tối tăm trong đô thị loài ngƣời chúng ta.

Ta có thể thấy một số nguyên tắc để triển khai Thiên luật và việc biết đƣợc những nguyên tắc

này ắt giúp ta truy nguyên ra các nguyên nhân và hiểu đƣợc các hậu quả.

Ta thấy rằng Tƣ tƣởng kiến tạo Tính tình; kế đó ta hãy nhận ra rằng Hành động tạo ra Môi

trƣờng xung quanh.

Ở đây ta đang bàn tới một nguyên tắc tổng quát có tác dụng sâu xa và rộng rãi, do đó ta nên

triển khai nó tỉ mỉ thêm một chút. Khi hành động của con ngƣời gây ảnh hƣởng tới những

ngƣời xung quanh trên cõi trần; y ban rải hạnh phúc ra xung quanh mình hoặc gây ra sự khốn

khổ, làm gia tăng hoặc giảm bớt tổng số phúc lợi của loài ngƣời. Sự tăng giảm hạnh phúc này

có thể do những động cơ thúc đẩy khác hẳn nhau: tốt, xấu hoặc hỗn hợp. Một ngƣời có thể

mang lại sự vui hƣởng rộng rãi chỉ thuần vì lòng tốt do muốn mang lại hạnh phúc cho đồng

loại của mình; chẳng hạn nhƣ do động cơ thúc đẩy ấy, y hiến tặng một công viên cho một thị

trấn để dân thị trấn ấy tha hồ sử dụng; một ngƣời khác có thể hành động giống nhƣ vậy chỉ vì

muốn khoe khoang, muốn thu hút sự chú ý của những ngƣời có thể ban cho y các danh dự

trong xã hội (nghĩa là y có thể tặng một công viên dƣới dạng dùng tiền để mua lấy một tƣớc

hiệu); một ngƣời thứ ba có thể tặng một công viên do những động cơ thúc đẩy hỗn hợp, một

phần là vị tha, một phần là ích kỷ. Động cơ thúc đẩy có thể ảnh hƣởng nhiều tới tính tình của

ba ngƣời này trong các kiếp tƣơng lai với kết quả cải thiện, suy đồi hoặc không thay đổi bao

nhiêu về tính tình. Nhƣng hậu quả của hành động mang lại hạnh phúc cho một số lớn ngƣời

không tùy thuộc vào động cơ thúc đẩy của ngƣời hiến tặng; thiên hạ vẫn vui hƣởng công viên

giống nhau bất chấp điều là động cơ thúc đẩy việc hiến tặng công viên và chính sự vui hƣởng

này nhờ có hành động của ngƣời hiến tặng đã xác lập cho y quyền đƣợc đòi hỏi Thiên nhiên

về mặt nhân quả và món nợ đối với y sẽ đƣợc Thiên nhiên chu đáo đền đáp. Y sẽ nhận đƣợc

một môi trƣờng xung quanh xa hoa hoặc đầy đủ tiện nghi về thể chất do y đã mang lại sự vui

hƣởng rộng rãi về thể chất cho ngƣời khác, sự hi sinh của cải vật chất sẽ mang lại cho y phần

thƣởng xứng đáng là nghiệp quả của hành động của y. Y có quyền đƣợc hƣởng điều đó;

nhƣng việc y vận dụng địa vị của mình, hạnh phúc mà y rút ra đƣợc từ tài sản và môi trƣờng

xung quanh của mình chủ yếu lại tùy thuộc vào tính tình của y, và ở đây phần thƣởng xứng

đáng lại đƣợc dành cho y, mỗi hạt giống đều mang sẵn vụ gặt thích hợp với nó.

Kết quả là việc phụng sự đến mức tối đa cơ hội có đƣợc trong một kiếp ngƣời ắt tạo ra những

cơ hội lớn hơn nữa để đƣợc phụng sự trong kiếp khác; nhƣ vậy ngƣời nào trong một phạm vi

hạn hẹp mà giúp cho mỗi ngƣời mình ngẫu nhiên gặp đƣợc thì trong kiếp tƣơng lai y sẽ sinh

ra vào một địa vị có cơ hội giúp đỡ hữu hiệu cho nhiều ngƣời ở mức sâu xa.

Lại nữa, những cơ hội bị bỏ lỡ khi xuất hiện trở lại đƣợc chuyển hóa thành ra những hạn chế

của công cụ và những rủi ro ở môi trƣờng xung quanh. Chẳng hạn nhƣ bộ óc của thể phách sẽ

đƣợc kiến tạo khiếm khuyết khiến cho bộ óc của thể xác cũng bị khiếm khuyết; chơn ngã cứ

hoạch định nhƣng thấy mình thiếu khả năng thực hiện; chơn ngã lĩnh hội đƣợc một ý tƣởng

nhƣng không thể ghi dấu ấn nó rõ ràng lên bộ óc. Những cơ hội bị bỏ lỡ biến thành những ao

ƣớc bất đắc chí, biến thành những ham muốn không biểu hiện đƣợc, biến thành những mơ

ƣớc giúp ngƣời nhƣng bị cản trở vì không có khả năng giúp đỡ do thiếu năng lực hoặc thiếu

cơ hội.

Nguyên tắc ấy cũng tác dụng trong việc cắt đứt sự chăm sóc âu yếm đối với một đứa trẻ đƣợc

cƣng chiều hoặc một thiếu niên đƣợc thần tƣợng hóa. Nếu một chơn ngã đối xử không tử tế

hoặc lơ là với ngƣời mà mình có bổn phận phải yêu thƣơng và đùm bọc hoặc phải phục vụ

theo một kiểu nào đó thì rất có thể là y sẽ sinh ra trở lại vẫn quan hệ mật thiết với ngƣời bị bỏ

rơi và có lẽ đeo bám lấy ngƣời bị bỏ rơi đó, có điều là y bị chết yểu cho nên đã bị giằng giựt

khỏi vòng tay quấn quít của ngƣời ấy; mối quan hệ nghèo nàn bị khinh rẻ có thể xuất hiện trở

lại thành kẻ thừa kế đƣợc trọng vọng rất nhiều, là đứa con trai duy nhất và khi cha mẹ thấy

nhà mình trơ trọi thì họ lại kinh ngạc trƣớc những cách đối xử bất công của Trời Đất đã cƣớp

mất đứa con trai duy nhất của mình mà họ đã dồn hết mọi hi vọng vào đó còn bao nhiêu đứa

trẻ ở xung quanh thì lại nhởn nhơ chẳng hề bị sờ gáy. Thế nhƣng đƣờng lối của nhân quả thật

công bình mặc dù ta không thể khám phá ra đƣợc chỉ trừ ngƣời nào đã mở đƣợc mắt ra.

Những khuyết tật bẩm sinh thƣờng là do thể phách bị khiếm khuyết và là những sự trừng phạt

suốt đời đối với những sự nổi loạn ngỗ nghịch chống lại thiên luật hoặc những điều gây tổn

thƣơng cho ngƣời khác. Mọi thứ đó đều là do công trình của các Nghiệp quả Tinh quân và là

biểu lộ trên cõi trần những khiếm khuyết cần thiết do Chơn ngã phạm sai lầm dù là thái quá

hay bất cập, và đều đƣợc các ngài tạo ra nơi cái khuôn thể phách. Nhƣ vậy, do các ngài cầm

cân nẩy mực thật công bằng nên mới có khuynh hƣớng gây ra một bệnh gia đình để có đƣợc

cấu hình thích hợp của thể phách nhằm điều khiển nó tới một gia đình dễ thừa kế cái bệnh đã

cho sẵn ấy và cung ứng đƣợc “cái nguyên sinh chất liên tục” thích hợp cho sự phát triển của

những vi trùng hữu quan.

Sự phát triển những năng khiếu nghệ thuật – ta hãy xét một loại phẩm tính khác - ắt đƣợc các

Nghiệp quả Tinh quân đáp ứng qua việc cung cấp một cái khuôn thể phách mà hệ thần kinh tế

nhị có thể đƣợc xây dựng trong thể xác và thể phách đó thƣờng đƣợc dẫn dắt tới một gia đình

mà thành viên của họ có năng khiếu đặc biệt cần đƣợc phát triển bởi Chơn ngã đôi khi đã

đƣợc truyền thừa qua nhiều đời. Chẳng hạn nhƣ muốn biểu hiện đƣợc năng khiếu của nhạc thì

cần có một thể xác đặc biệt, một lỗ tai thính nhạc, một bàn tay bấm nốt nhạc khéo léo và sự di

truyền thể chất thỏa đáng ấy sẽ dẫn tới sự tinh tế nhƣ vậy.

Nếu ta phục vụ cho tập thể con ngƣời qua một bài diễn thuyết họăc sách vở cao thƣợng, qua

việc truyền bá những ý tƣởng cao đẹp bằng ngòi bút hoặc ngôn từ thì ta cũng đƣợc tƣởng

thƣởng theo định luật mà các Tác nhân đầy quyền uy đã thực hiện chu đáo. Sự trợ giúp đó sẽ

trở lại dƣới dạng ban cho ngƣời hiến tặng ấy sự hỗ trợ về tâm trí và tâm linh mà y có quyền

đƣợc hƣởng.

Vậy là ta có thể hiểu đƣợc những nguyên tắc chung để cho nhân quả vận hành, vai trò đặc biệt

của các Nghiệp quả Tinh quân cũng nhƣ của chính Chơn ngã đối với số phận của cá nhân.

Chơn ngã cung cấp mọi vật liệu nhƣng vật liệu đó đƣợc các Nghiệp quả Tinh quân hoặc Chơn

ngã lần lƣợt sử dụng theo bản chất của mình: Chơn ngã kiến tạo nên tính tình và dần dần triển

khai tính tình ra; Nghiệp quả Tinh quân xây dựng cái khuôn hạn chế, chọn lựa môi trƣờng

xung quanh nói chung là thích ứng và điều chỉnh sao cho chánh pháp có thể đƣợc biểu hiện

không sai lạc mặc dù thiên hạ có những ý thích xung đột với nhau.

GIÁP MẶT VỚI NHÂN QUẢ

Đôi khi lần đầu tiên nhận ra đƣợc nhân quả có tồn tại thì thiên hạ thƣờng cảm thấy rằng nếu

tất cả đều là sự vận hành của Định luật thì họ chẳng qua chỉ là những kẻ nô lệ chới với trƣớc

dòng định mệnh. Trƣớc khi xét tới việc làm thế nào vận dụng Thiên luật để kiểm soát số phận,

ta hãy nghiên cứu trong chốc lát một trƣờng hợp điển hình để xem sự tất yếu và tự do ý chí –

tạm dùng những thuật ngữ đƣợc nhiều ngƣời chấp nhận – đều tác động ra sao và tác động hài

hòa với nhau nhƣ thế nào.

Một ngƣời chào đời với một số năng khiếu trí tuệ bẩm sinh chẳng hạn nhƣ thuộc loại trung

bình, có một bản chất đam mê bộc lộ những đặc trƣng nhất định, một số là tốt một số là xấu; y

có một thể phách và thể xác khỏe mạnh, tráng kiện, nhƣng không có gì xuất sắc. Đây là những

hạn chế của y đã đƣợc vạch rõ cho y và khi y trƣởng thành thì y thấy mình có đƣợc một vốn

liếng trí tuệ, đam mê, dục vọng, thể chất, và y phải sử dụng vốn liếng đó đến mức tối đa. Có

nhiều đỉnh cao trí tuệ mà y dứt khoát là không vƣơn tới nổi, có những quan niệm trí tuệ mà y

không đủ năng lực lĩnh hội; có những cám dỗ mà bản chất đam mê của y cứ xiêu lòng mặc dù

y vẫn phấn đấu chống cự; có những chiến thắng bằng sức mạnh thể chất và tài khéo mà y

không đạt tới đƣợc; thật vậy y thấy mình chẳng thể suy nghĩ nhƣ một thiên tài và cũng chẳng

thể đẹp trai nhƣ thần Apollo. Y ở trong một vòng hạn chế và không thể thoát ra cho nên cũng

không đƣợc tự do. Hơn nữa, y không thể tránh đƣợc nhiều thứ rắc rối; chúng cứ tấn công y và

y chỉ có nƣớc chịu trận, y không thể trốn đi đâu đƣợc. Sự việc vốn là nhƣ thế. Con ngƣời bị

hạn chế do những tƣ tƣởng trong quá khứ của mình, do những cơ hội đã bị bỏ lỡ, do những

chọn lựa lầm lạc, do những sự xiêu lòng điên rồ; y bị ràng buộc bởi những ham muốn mà

mình đã tạm quên đi, bị xiềng xích bởi những sai lầm thời trƣớc. Thế nhƣng Chơn nhơn thì

đâu có bị ràng buộc. Kẻ nào trong quá khứ đã giam hãm kẻ trong hiện tại thì có thể hoạt động

bên trong nhà tù ấy để tạo ra một tƣơng lai tự do. Thậm chí y nên biết rằng bản thân mình tự

do và xiềng xích sẽ bị rơi rụng ra khỏi tay chân của y tùy theo mức độ hiểu biết của y về tính

cách hão huyền của những ràng buộc ấy. Nhƣng đối với kẻ phàm phu mà những hiểu biết ấy

chỉ mới là tia lửa chứ không phải là ngọn lửa thì bƣớc đầu tiên hƣớng về tự do ắt là phải chấp

nhận những hạn chế của mình do chính mình gây ra và tiến hành nới rộng chúng. Quả thật, y

không thể suy nghĩ nhƣ một thiên tài nhƣng y có thể suy nghĩ đến mức tối đa khả năng của

mình và chẳng mấy lúc y sẽ trở thành một thiên tài; y có thể tạo ra quyền năng trong tƣơng lai

và y ắt tạo ra đƣợc. Quả thật, y không thể dứt bỏ những điên rồ đam mê của mình trong một

sớm một chiều, nhƣng y có thể chiến đấu chống lại chúng và khi thất bại thì y vẫn tiếp tục

chiến đấu vì tin chắc rằng thế nào mình cũng có ngày chiến thắng. Sự thật, thể vía và thể xác

của y có nhiều yếu kém và xấu xa nhƣng khi tƣ tƣởng của y trở nên mạnh mẽ, thanh khiết và

đẹp đẽ, khi công trình của y mang lại phúc lợi thì y đã đảm bảo cho mình có đƣợc những hình

tƣớng hoàn hảo hơn trong những ngày sắp tới. Y luôn luôn là chính mình, linh hồn tự do ở

giữa nhà tù và y có thể phá sập những bức vách mà chính y đã dựng nên. Chẳng có ai là cai tù

ngoại trừ chính y: y có thể mong muốn tự do và hễ muốn là sẽ đƣợc.

Một sự rắc rối khiến y phải giáp mặt đó là y bị mất một ngƣời bạn và y đã phạm phải một lỗi

lầm nghiêm trọng. Cứ cho nhƣ thế đi thì y phạm tội vì trong quá khứ y nghĩ nhƣ vậy, còn

trong hiện tại thì y sẽ hành động. Nhƣng bạn y đâu có mất, y vẫn giữ đƣợc ngƣời bạn đó bằng

tình thƣơng và trong tƣơng lai y sẽ gặp lại ngƣời ấy; trong khi chờ đợi vẫn còn có những

ngƣời khác xung quanh y và y có thể phục vụ giống nhƣ khi y đã tuôn đổ nó cho ngƣời mà

mình yêu thƣơng và y sẽ không lơ là những bổn phận của mình để gieo hạt giống cho những

sự mất mát tƣơng tự trong các kiếp vị lai. Y đã phạm phải một điều sai trái rành rành và phải

chịu trừng phạt, nhƣng đó là tƣ tƣởng của y trong quá khứ chứ ngay bây giờ thì y đâu có nghĩ

nhƣ vậy nữa: y sẽ kiên nhẫn chịu đựng sự trừng phạt mà mình phải chuốc lấy do tƣ tƣởng sai

trái đó và ngày hôm nay y phải suy nghĩ sao cho ngày mai y sẽ thoát đƣợc ô nhục ấy. Một tia

sáng đã soi vào bóng tối và ánh sáng đã ca vang lên với y:

Hỡi kẻ đang đau khổ! hãy biết rằng chính mi đã gây đau khổ cho mi

chứ chẳng có ai khiến cho mi đau khổ.

Định luật vốn dƣờng nhƣ là xiềng xích thì lại chấp cánh cho y bay lên và nhờ vậy y có thể

vƣơn lên đến những cõi mà bằng không y có nằm mơ cũng chẳng tới đƣợc.

XÂY DỰNG TƯƠNG LAI

Đa số linh hồn đều trôi dật dờ theo dòng thời gian uể oải. Khi trái đất quay tròn thì nó cũng

mang họ theo; họ cứ di chuyển từ hết bầu này sang bầu khác. Nhƣng tôn giáo minh triết lại

long trọng tuyên cáo cho thế gian rằng tất cả những kẻ nào muốn đều có thể không còn trôi

giạt nữa, và có thể học cách vƣợt lên trƣớc cơ tiến hóa chậm chạp của thế gian.

Khi lĩnh hội đƣợc một điều nào đó về ý nghĩa của thiên luật với sự chắc chắn tuyệt đối và sự

chính xác không sai lầm thì học viên bắt đầu nắm giữ số phận của mình và tích cực giám sát

cơ tiến hóa của riêng mình. Y rà soát lại tính tình của mình rồi tiến hành sửa sai nó, cố tình

thực hành những đức tính trí tuệ và đạo đức, mở rộng năng lực, củng cố những chỗ yếu kém,

cung cấp cho những chỗ thiếu sót, gọt giũa bớt những điều thái quá. Vì biết rằng mình sẽ trở

thành đối tƣợng tham thiền của mình cho nên y sẽ cố tình đều đặn tham thiền về một lý tƣởng

cao cả, vì y hiểu đƣợc tại sao bậc đại Điểm đạo đồ Ki Tô giáo là thánh Paul lại ra lệnh cho đệ

tử “hãy suy nghĩ” về những điều chân thật, trung thực, đúng đắn, thanh khiết, dễ thƣơng và

trứ danh. Hằng ngày y sẽ tham thiền về lý tƣởng của mình, phấn đấu sống theo nó, y sẽ làm

nhƣ vậy kiên trì và bình tĩnh, “không hấp tấp mà cũng không dãi đãi”, vì y biết rằng mình

đang xây dựng dựa vào một nền tảng vững chắc trên hòn đá tảng của định luật vĩnh hằng. Y

khẩn cầu tới thiên luật, y qui y nơi thiên luật; đối với một ngƣời nhƣ thế thì không thể thất bại

đƣợc; không có một quyền năng nào trên trời dƣới đất có thể cản đƣờng y đƣợc. Trong buổi

sinh thời y thu thập kinh nghiệm, sử dụng tất cả những gì sẵn trong tầm tay mình; nơi cõi

Devachan y đồng hóa kinh nghiệm và hoạch định công trình kiến tạo tƣơng lai.

Đây là giá trị của một thuyết chân chính về cuộc sống. Ngay cả khi thuyết ấy vốn dựa vào

bằng chứng của những ngƣời khác chứ không dựa vào sự hiểu biết cá nhân. Khi ngƣời ta chấp

nhận và phần nào hiểu đƣợc sự vận hành của nhân quả thì y có thể tức khắc bắt đầu tu tâm

dƣỡng tính, dựng từng viên đá một dứt khoát là đầy chú ý vì biết rằng mình đang xây dựng

cho thời gian vĩnh hằng. Không còn có chuyện hấp tấp leo lên rồi lại rớt xuống, bữa nay thì

làm việc với kế hoạch này, ngày mai lại làm việc với kế hoạch khác, rồi ngày kế nữa lại chẳng

có kế hoạch làm việc nào. Nhƣng có một sự phác thảo sơ đồ tổng thể về tính tình có thể nói là

đã đƣợc suy nghĩ chính chắn để rồi tu tâm dƣỡng tính theo sơ đồ ấy vì linh hồn trở thành kiến

trúc sƣ cũng nhƣ ngƣời xây dựng và không còn phí phạm thời giờ để khởi sự cho những công

trình dễ bị thất bại. Vì thế cho nên giai đoạn tiến hóa về sau có tốc độ rất nổi bật và tiên tiến

hầu nhƣ không thể tin đƣợc khi linh hồn đầy quyền năng đã đạt tới mức trƣởng thành.

UỐN NẮN NHÂN QUẢ

Kẻ nào đã dứt khoát khởi sự xây dựng tƣơng lai thì khi sự hiểu biết gia tăng ắt nhận ra đƣợc

rằng ngoài việc tu tâm dƣỡng tính mình còn xây dựng đƣợc cả số phận tƣơng lai. Y bắt đầu

hiểu ra đƣợc rằng mình ở trung tâm của những sự vật theo một ý nghĩa rất thực, là một thực

thể sống động, chủ động, tự quyết và mình có thể tác động lên hoàn cảnh cũng nhƣ lên bản

thân. Từ lâu rồi y đã quen với việc tuân theo những định luật lớn về luân lý mà các vị Đạo sƣ

đã đặt ra để dẫn dắt loài ngƣời, các ngài đều đã ra đời trong thời đại này hoặc thời đại khác,

và bây giờ thì y hiểu ra đƣợc rằng sự thật thì những định luật này vốn dựa vào các nguyên tắc

căn bản trong Thiên nhiên, và đạo đức chính là Khoa học áp dụng cho cách ứng xử. Y thấy

rằng trong sinh hoạt hằng ngày mình có thể hóa giải đƣợc những hậu quả xấu vốn nối tiếp một

hành vi xấu bằng cách tác động ngay chính điểm đó một lực tốt tƣơng ứng. Có kẻ nào phóng

lại cho y một tƣ tƣởng xấu; y có thể đƣơng đầu với nó bằng một tƣ tƣởng cùng loại để rồi hai

hình tƣ tƣởng đâm sầm vào nhau nhƣ hai giọt nƣớc ắt tăng cƣờng và củng cố lẫn cho nhau.

Nhƣng kẻ nào bị tấn công bằng tƣ tƣởng xấu mà biết đƣợc về nhân quả thì sẽ đối phó với hình

tƣ tƣởng đầy ác ý đó bằng lực từ bi để phá tan nó; hình tƣ tƣởng bị phá tan không còn đƣợc sự

sống tinh linh ngũ hành cấp phần hồn nữa; sự sống tinh linh ngũ hành ấy tan rã trở về cội

nguồn của nó, hình tƣ tƣởng cũng tan biến đi. Vậy là khả năng gây điều xấu của nó đã bị lòng

từ bi phá hủy và “sự thù ghét đã chấm dứt bằng tình thƣơng”. Những hình tƣ tƣởng hão huyền

giả dối xuất hiện trên cõi trung giới, kẻ có hiểu biết phóng ra những hình tƣ tƣởng chân thật

chống lại chúng, sự thanh khiết phá vỡ sự ô uế và lòng từ thiện dẹp tan lòng tham ích kỷ. Khi

sự hiểu biết gia tăng thì tác động này trở nên trực tiếp và có chủ ý, tƣ tƣởng có mục đích là

chủ ý nhất định và đƣợc chấp cánh bằng ý chí mạnh mẽ. Vậy là ác nghiệp bị khống chế ngay

từ trong trứng nƣớc và chẳng còn lại gì để tạo ra sự ràng buộc nhân quả giữa kẻ phóng ra mũi

lao gây hại cho ngƣời khác và ngƣời thiêu rụi mũi lao đó bằng sự tha thứ. Các Đấng Đạo sƣ

dạy con ngƣời ta với đầy thẩm quyền phải có bổn phận dĩ đức báo oán vốn dựa vào sự hiểu

biết thiên luật để đƣa ra huấn điều ấy; các tín đồ ngoan ngoãn nghe lời dù không hoàn toàn

hiểu đƣợc cơ sở khoa học của huấn điều ấy cũng làm giảm nhẹ đƣợc nghiệp quả nặng nề vốn

sẽ phát sinh nếu ngƣời ta dĩ oán báo oán. Nhƣng kẻ hiểu biết cố tình tiêu diệt các hình tƣ

tƣởng xấu thì hiểu đƣợc những sự kiện là nền tảng giáo huấn của các Chơn sƣ, nên đã làm

thui chột đƣợc mầm mống của điều ác và ngăn ngừa đƣợc một vụ gặt đau thƣơng trong tƣơng

lai.

Ở giai đoạn tƣơng đối đã tiến bộ so với giai đoạn trôi dật dờ chậm chạp của nhân loại phàm

phu, con ngƣời chẳng những tu tâm dƣỡng tính và cố ý tác động lên những hình tƣ tƣởng cản

đƣờng mình mà y còn bắt đầu thấy đƣợc quá khứ do đó lƣợng định đƣợc hiện tại chính xác

hơn vì đã truy nguyên ra các nguyên nhân nghiệp báo xuyên suốt tới tận hậu quả của chúng.

Y có thể thay đổi tƣơng lai bằng cách hữu ý phát khởi những thần lực tác động đƣợc thiết kế

ra để tƣơng tác với những thần lực khác đã đƣợc phát động rồi. Sự hiểu biết khiến cho y có

thể vận dụng định luật một cách chắc chắn cũng giống nhƣ các nhà khoa học vận dụng định

luật trong mọi bộ môn nghiên cứu Thiên nhiên.

Ta hãy dừng lại một lúc để xét tới các định luật chuyển động. Một vật thể đã đƣợc khởi động

và đang chuyển động theo một con đƣờng nhất định, nếu ta tác động lên nó một lực khác có

phƣơng khác với phƣơng cung cấp xung lực ban đầu cho nó thì vật thể ấy sẽ chuyển động

theo một đƣờng khác, đƣờng này nằm theo phƣơng là hợp lực của hai xung lực ấy. Không

một năng lƣợng nào bị mất đi nhƣng một phần của lực cung cấp xung lực ban đầu sẽ bị tiêu

tốn để phần nào hóa giải lực mới và hƣớng của hợp lực mà vật thể sẽ chuyển động theo đó ắt

không phải là phƣơng của lực đầu tiên, cũng không phải phƣơng của lực thứ nhì mà là

phƣơng do tƣơng tác của hai lực. Một nhà vật lý có thể tính toán chính xác y phải tác động

vào một vật thể đang chuyển động theo góc nhƣ thế nào thì mới khiến cho nó chuyển động

theo phƣơng mà mình mong muốn, mặc dù vật thể có thể nằm ngoài tầm với ngay trƣớc mắt y

nhƣng y có thể phóng theo nó một lực có vận tốc tính toán sẵn đến đập vào nó theo một góc

nhất định, khiến cho nó bị lệch hƣớng so với lộ trình trƣớc kia và cƣỡng chế nó đi theo một

đƣờng mới. Trong thí dụ này không hề có sự vi phạm định luật cũng chẳng có sự can thiệp

vào định luật mà chỉ có sự vận dụng định luật theo sự hiểu biết, uốn nắn các lực thiên nhiên

để hoàn thành chủ đích của ý chí con ngƣời. Nếu ta áp dụng nguyên tắc này vào việc uốn nắn

nhân quả thì ta ắt dễ dàng thấy rằng ngoài sự kiện định luật không thể vi phạm đƣợc thì lại

còn có việc không hề “can thiệp vào nghiệp quả”, khi ta dùng sự hiểu biết để làm thay đổi tác

động của nó. Ta đang dùng nghiệp lực để gây ảnh hƣởng lên nghiệp quả và một lần nữa ta

chinh phục đƣợc Thiên nhiên bằng cách tuân theo định luật.

Giờ đây ta hãy giả sử rằng học viên tiên tiến khi liếc mắt nhìn lại quá khứ ắt thấy các đƣờng

lối nghiệp cũ hội tụ lại một điểm tác động có bản chất bất hảo; y có thể du nhập vào một lực

mới trong số các năng lƣợng hội tụ ấy và thế là biến đổi đƣợc sự cố vì nó phải là hợp lực của

mọi lực hữu quan đã đƣợc sản sinh ra và đến lúc chín muồi. Để tác động đƣợc nhƣ vậy, y cần

có hiểu biết, chẳng những có khả năng thấy đƣợc quá khứ và truy nguyên đƣợc những đƣờng

lối liên kết nó với hiện tại, mà còn tính toán chính xác đƣợc ảnh hƣởng lực của mình du nhập

vào sẽ tác động làm biến đổi hợp lực, hơn nữa còn biết đƣợc hậu quả xuất phát từ hợp lực này

mà ta lại coi nó là nguyên nhân. Theo cách đó, y có thể làm giảm thiểu hoặc triệt tiêu đƣợc

những hậu quả xấu mà chính y đã gây ra trong quá khứ bằng cách tuôn đổ vào luồng nghiệp

quả của mình các lực tốt, y không thể xóa bỏ đƣợc quá khứ, y không thể tiêu hủy đƣợc quá

khứ, nhƣng chừng nào các hậu quả của quá khứ vẫn còn nằm trong tƣơng lai thì y có thể biến

đổi chúng hoặc đảo ngƣợc đƣợc chúng bằng những lực mới mà y đem du nhập vào thành

nguyên nhân tham gia vào việc tạo ra hậu quả. Qua mọi điều nêu trên, y chỉ đang vận dụng

định luật và y cũng làm việc chắc chắn nhƣ nhà khoa học dùng lực này để hóa giải lực kia;

nhà khoa học không thể phá hủy đƣợc một đơn vị năng lƣợng song vẫn khiến cho một vật thể

chuyển động theo ý mình muốn bằng cách tính toán đƣợc cái góc và các chuyển động. Tƣơng

tự nhƣ thế, ta có thể làm thúc đẩy nhanh hoặc trì hoãn nghiệp quả và thế là nó phải chịu thay

đổi do tác động của môi trƣờng xung quanh mà nó thể hiện ra ở giữa đó.

Ta hãy trình bày cũng sự việc ấy hơi khác đi một chút vì quan niệm này thật là quan trọng và

có hiệu quả. Khi ta càng hiểu biết hơn thì ta càng dễ dẹp bỏ đƣợc nghiệp quả của quá khứ. Xét

vì những nguyên nhân đang triển khai ra để thành tựu thì mọi thứ đều lọt vào tầm nhìn của

linh hồn đang gần đến mức giải thoát khi nó nhìn lại các kiếp đã qua, khi nó thoáng nhìn

xuống viễn cảnh của những thế kỷ trƣớc mà nó đã chầm chậm leo lên từ đó thì nó có thể thấy

nơi đó cách thức gây ra những ràng buộc cho mình, những nguyên nhân mà chính mình phát

động: nó có thể thấy đƣợc bao nhiêu nguyên nhân đã đƣợc thanh toán và tiêu tan mất còn bao

nhiêu nguyên nhân vẫn tiếp tục triển khai ra. Chẳng những nó có thể nhìn lại đằng sau mà nó

còn có thể nhìn ra phía trƣớc và thấy trƣớc đƣợc những hậu quả mà các nguyên nhân này sẽ

tạo ra; do đó khi nhìn về phía trƣớc nó thấy những hậu quả sẽ đƣợc tạo ra, còn khi thoáng

nhìn về phía sau nó lại thấy rõ nguyên nhân gây ra những hậu quả này. Chẳng có khó khăn gì

khi giả sử rằng cũng giống nhƣ trong thiên nhiên vật lý thông thƣờng, ta thấy việc hiểu biết

một vài định luật khiến cho ta có thể tiên đoán đƣợc một kết quả vì đã hiểu đƣợc định luật tạo

ra kết quả ấy; cũng vậy ta có thể chuyển dời ý tƣởng này lên một cõi cao hơn và tƣởng tƣợng

ra đƣợc tình huống của một linh hồn đã phát triển khiến nó có thể thấy đƣợc những nguyên

nhân nghiệp quả mà nó phát động phía sau mình cũng nhƣ những hậu quả nghiệp báo mà nó

phải hoạt động xuyên qua nó trong tƣơng lai.

Nhờ có đƣợc hiểu biết nhƣ vậy về các nguyên nhân và thấy đƣợc việc chúng sẽ triển khai ra

cho nên linh hồn có thể dẫn nhập vào những nguyên nhân mới để hóa giải các hậu quả này, và

bằng cách vận dụng định luật, tin tƣởng hoàn toàn vào tính cách bất biến và bất di bất dịch

của nó, bằng cách tính toán cẩn thận lực phát động, nó sẽ khiến cho các hậu quả trong tƣơng

lai diễn ra đúng nhƣ ý muốn của nó. Đây là vấn đề tính toán. Giả sử những rung động thù ghét

đã đƣợc phát khởi trong quá khứ, ta có thể cố ý khởi sự làm nguôi ngoai những rung động này,

ngăn cản chúng thể hiện ra trong hiện tại và tƣơng lai bằng cách lập nên những rung động yêu

thƣơng chống lại chúng. Cũng giống hệt nhƣ khi ta tạo ra một làn sóng âm thanh rồi kế tới

một làn sóng thứ nhì và khiến cho làn sóng này đi kè kè phía sau làn sóng kia khiến cho rung

động của phần thô của làn sóng này tƣơng ứng với phần tinh vi của làn sóng kia; vậy là từ

những âm thanh đó ta có thể tạo ra sự im lặng bằng phƣơng pháp giao thoa; cũng giống nhƣ

thế ở các cõi cao ta có thể dùng các rung động của yêu thƣơng và thù ghét một cách đầy hiểu

biết và kiểm soát nó bằng ý chí để kết thúc những nguyên nhân nghiệp quả và đạt đƣợc sự

quân bình, đó là một cách nói khác về sự giải thoát. Kiến thức đó vốn vƣợt ngoài tầm của đại

đa số mọi ngƣời. Đa số mọi ngƣời chỉ có thể làm đƣợc nhƣ sau: nếu họ muốn vận dụng khoa

học về linh hồn thì họ có thể chấp nhận chứng cớ của các bậc chuyên gia về đề tài này, họ có

thể chấp nhận các huấn điều đạo đức của các vị đại Đạo sƣ trên thế giới và khi tuân theo

những huấn điều ấy – trực giác của họ đáp ứng đƣợc với chúng mặc dù họ không hiểu đƣợc

phƣơng pháp vận hành của chúng – thì họ có thể gây tác dụng qua điều đó cũng giống nhƣ tác

dụng của một sự hiểu biết rành mạch và dứt khoát. Do đó lòng sùng tín và tuân lời một vị Đạo

sƣ có thể dẫn ta tới sự giải thoát cũng chẳng khác nào sự hiểu biết vậy.

Khi áp dụng những nguyên tắc này theo mọi chiều hƣớng, học viên bắt đầu nhận ra đƣợc con

ngƣời bị vô minh cản trở xiết bao và sự hiểu biết đóng vai trò lớn lao biết chừng nào trong cơ

tiến hóa của nhân loại. Con ngƣời trôi dật dờ vì y không biết, y chới với vì mù lòa; kẻ nào kết

thúc đƣợc lộ trình của mình nhanh hơn đại khối quần chúng thì kẻ đó bỏ lại đằng sau đám

đông lƣời biếng cũng giống nhƣ “con ngựa đua bỏ con ngựa tồi lại đằng sau”, kẻ đó cần có

minh triết cũng nhƣ tình thƣơng, sự hiểu biết cũng nhƣ lòng sùng tín. Y không cần phải để

cho những mắt xích của chuỗi xích mà y đã rèn luyện ra từ lâu rồi bị hao mòn đi từ từ, y có

thể nhanh chóng mài giũa chúng và thoát khỏi chúng cũng hữu hiệu nhƣ thể chúng từ từ bị rỉ

sét đi khiến cho y đƣợc giải thoát.

CHẤM DỨT NHÂN QUẢ

Nhân quả cứ khiến cho ta luân hồi lại mãi, ràng buộc ta vào vòng sinh tử luân hồi. Nghiệp tốt

cũng trì kéo ta tàn nhẫn chẳng kém gì nghiệp xấu, và sợi xiềng xích mà các đức tính của ta rèn

luyện ra cũng giữ chặt ta khít lại chẳng khác nào sợi xiềng xích mà những tính xấu của ta rèn

luyện ra. Thế thì làm sao mà ta chấm dứt đƣợc việc giăng mắc sợi xiềng xích ấy vì chừng nào

con ngƣời còn sống thì y còn phải suy nghĩ và cảm xúc, thế mà tƣ tƣởng và xúc cảm bao giờ

cũng gây nghiệp? Lời giải đáp cho thắc mắc này là bài học lớn trong Chí Tôn Ca, bài học

đƣợc dạy cho ông hoàng chiến sĩ. Bài học đó không đƣợc dạy cho vị ẩn sĩ cũng nhƣ môt học

viên mà dạy cho một chiến sĩ đang phấn đấu để chiến thắng, ông hoàng đang chìm ngập trong

những bổn phận đối với quốc gia.

Lực ràng buộc của tác động không ở nơi tác động mà ở nơi dục vọng, không ở tự thân tác

động mà ở sự vƣớng mắc với thành quả của tác động. Ngƣời ta thực thi tác động với mong

muốn vui hƣởng thành quả của nó, ngƣời ta chọn theo một lộ trình với mong muốn đạt đƣợc

những kết quả; linh hồn đang mong ƣớc thì Thiên nhiên phải đáp lại thôi, nó đang đòi hỏi thì

Thiên nhiên phải khen thƣởng. Hậu quả đều ràng buộc nguyên nhân, thành quả đều ràng buộc

tác động và ham muốn chính là sợi dây liên kết chúng với nhau, sợi chỉ xuyên suốt nhân quả.

Nếu ta có thể đốt cháy đƣợc sợi này thì sẽ không còn mối liên kết ấy nữa và khi mọi ràng

buộc của tâm hồn đã bị phá vỡ thì linh hồn sẽ đƣợc tự do. Bấy giờ nghiệp không còn có thể

cầm giữ đƣợc nó nữa; nghiệp không còn ràng buộc đƣợc nó, vòng xoay chuyển nhân quả vẫn

có thể tiếp tục nhƣng linh hồn đã trở thành một Sinh linh giải thoát.

“Nếu không bị vƣớng mắc, thƣờng xuyên thực thi tác động coi đó là bổn phận thì khi thực thi

tác động mà không bị vƣớng mắc nhƣ thế con ngƣời quả thật đã đạt tới Đấng Tối Cao”.

Để thực hiện khoa karma yoga này – nó đƣợc gọi là yoga hành động – con ngƣời phải hoàn

thành mọi tác động mà coi nó chỉ là bổn phận thôi, làm mọi thứ đều hòa hợp với Định luật.

Khi tìm cách tuân theo Định luật trên bất kỳ cõi tồn tại nào mà y đang bận bịu trong đó, y

nhắm mục đích trở thành một lực hoạt động hợp tác với Ý chí Thiêng liêng cho cơ tiến hóa và

hoàn toàn vâng lời trong mọi giai đoạn hoạt động của mình. Nhƣ vậy mọi tác động của y đều

tham gia vào bản chất hiến tế và đƣợc hiến dâng cho việc xoay chuyển Bánh xe Chánh pháp

chứ không vì bất cứ thành quả nào mà chúng có thể mang lại; tác động đƣợc hoàn thành coi

nhƣ một bổn phận, thành quả đó đƣợc hoan hỉ hồi hƣớng để trợ giúp cho chúng sinh; y không

dính dáng gì tới nó vì nó thuộc về Thiên luật và y để cho Thiên luật tha hồ phân phối thành

quả ấy.

Và thế rồi ta lại đƣợc đọc tiếp:

“Kẻ nào mà làm việc hoàn toàn thoát khỏi sự uốn nắn của dục vọng, kẻ nào tác động đã đƣợc

hun đúc bởi lửa minh triết thì kẻ đó đƣợc bậc minh triết tâm linh gọi là một bậc Hiền triết.

Sau khi đã từ bỏ mọi sự ràng buộc với thành quả tác động thì y luôn luôn bằng lòng không

bám víu vào thứ gì, mặc dù tác động nhƣng y có làm gì đâu.

Vì không có ham muốn cho nên tƣ tƣởng của y mới đƣợc CHƠN NGÃ kiểm soát bởi đã từ bỏ

mọi sự vƣớng mắc, chỉ dùng cái xác để thi hành bổn phận thôi cho nên y đâu có phạm tội.

Vì bằng lòng với bất cứ thứ gì mà mình nhận đƣợc, vƣợt lên khỏi các cặp đối đãi, không ganh

tị, thắng không kiêu bại không nản cho nên y hành động mà không bị ràng buộc.

Đó là vì khi không còn bị vƣớng mắc nữa thì tƣ tƣởng của y mới đƣợc xác lập hài hòa nơi sự

minh triết, công việc của y mới đích thực là hiến tế và mọi tác động của y đều tan hòa ra”.

Cơ thể và tâm trí đều thể hiện trọn vẹn mọi hoạt động, cơ thể thực hiện mọi tác động vật lý,

tâm trí thể hiện mọi tác động nội giới; nhƣng CHƠN NGÃ vẫn thanh thản, không rối trí,

không phí phạm bản thể vĩnh hằng của mình để rèn giũa nên những sợi dây xích trong vòng

thời gian. Ngƣời ta không lơ là chánh nghiệp nhƣng chỉ hành động trung thành tới mức độ

khả năng có sẵn, vì từ bỏ sự vƣớng mắc đối với thành quả không hàm ý là hành động một

cách lƣời biếng hoặc tắc trách:

“Hỡi đệ tử, cũng giống nhƣ kẻ vô minh hành động nhƣng lại vƣớng mắc vào tác động đó;

cũng vậy, ngƣời minh triết hành động mà không vƣớng mắc vì chỉ muốn bảo dƣỡng cho loài

ngƣời.

Kẻ minh triết đừng làm rộn trí kẻ vô minh vẫn còn vƣớng mắc vào tác động; nhƣng kẻ minh

triết phải hành động hài hòa (với Ta) thì mọi hành động của y mới có sức hấp dẫn”.

Kẻ nào đã đạt tới trạng thái “vô vi” này rồi ắt đã học đƣợc bí quyết của việc chấm dứt nhân

quả; y dùng sự hiểu biết để làm tiêu tan tác động mà mình đã sinh ra trong quá khứ, y dùng

lòng sùng tín để thiêu rụi tác động trong hiện tại. Lúc bấy giờ y đạt tới tình trạng mà thánh

John gọi là “thiêng liêng” trong Thánh thƣ Khải huyền; ở tình trạng này con ngƣời không còn

đi ra ngoài Đền thờ nữa. Đó là vì linh hồn đã từng nhiều lần đi ra khỏi Đền thờ để bƣớc xuống

đồng bằng là cõi đời, nhƣng đã đến lúc y trở thành một cột trụ, “một cột trụ trong Đền thờ

Thƣợng Đế”. Đền thờ đó là thế giới của các linh hồn đã giải thoát và chỉ kẻ nào không còn

vƣớng mắc gì với bản thân nữa thì mới có thể tự nguyện vƣớng mắc với mọi ngƣời nhân danh

Sự Sống Nhất Nhƣ.

Vậy thì những ràng buộc về ham muốn này (ham muốn của phàm ngã, thậm chí ham muốn

của Chơn ngã) đều phải bị phá bỏ. Ta có thể thấy việc phá bỏ đó bắt đầu nhƣ thế nào; và ở

đây có một lỗi lầm mà nhiều học viên non trẻ thƣờng mắc phải, một lỗi lầm vốn tự nhiên và

dễ hiểu đến nổi nó thƣờng xuyên xảy ra. Chúng ta không phá vỡ những “ràng buộc trong tâm

hồn” bằng cách cố gắng bóp nghẹt tâm hồn. Chúng ta không phá vỡ những ràng buộc của

ham muốn bằng cách cố gắng biến mình thành ra trơ trơ nhƣ gỗ đá vô tri vô giác. Ngƣời đệ tử

phải trở nên nhạy cảm hơn chứ không kém phần nhạy cảm hơn khi y đạt gần tới mức giải

thoát. Y cần phải trở nên dịu dàng chứ không phải cứng rắn hơn; đó là vì ngƣời đệ tử hoàn

hảo chẳng kém gì Chơn sƣ, là kẻ hƣởng ứng đƣợc với mọi nỗi xao xuyến nơi thế giới bên

ngoài, y thông cảm và đáp ứng đƣợc với mọi điều, y cảm nhận và hƣởng ứng đƣợc mọi

chuyện. Cũng chính vì y chẳng còn tha thiết điều gì cho bản thân nên y mới có thể hiến tặng

hết mọi thứ cho mọi ngƣời. Một ngƣời nhƣ thế thì nghiệp không còn cầm giữ y đƣợc nữa, y

đâu có rèn giũa ra một sự ràng buộc nào để níu kéo linh hồn. Khi ngƣời đệ tử càng ngày càng

trở thành một kênh dẫn Sự Sống Thiêng Liêng tuôn ra cho thế gian thì y chẳng mong muốn gì

hơn là mình sẽ trở thành một kênh dẫn với lòng kênh ngày càng rộng hơn để cho Sự Sống vĩ

đại có thể tuôn chảy theo đó, mong ƣớc duy nhất của y là mình có thể trở thành một kho chứa

rộng lớn hơn và ít gây chƣớng ngại hơn cho Sự Sống tuôn đổ ra ngoài; làm việc chẳng vì điều

gì cả ngoại trừ mục đích để phục vụ; ấy là cuộc đời làm đệ tử trong đó mọi sự ràng buộc níu

kéo đều bị phá vỡ.

Nhƣng có một sự ràng buộc không bao giờ bị phá vỡ, sự ràng buộc đó là sự hiệp nhất chân

thực vốn không phải là ràng buộc vì ta không thể phân biệt đƣợc những thứ riêng rẽ đối với

điều hiệp nhất Đấng Nhất Nhƣ với Vạn Hữu, hiệp nhất Đệ tử với Chơn sƣ, hiệp nhất Chơn sƣ

với Đệ tử; Sự Sống Thiêng Liêng cứ thu hút ta tiến tới và thăng lên mãi mà không còn ràng

buộc ta vào vòng sinh tử luân hồi nữa. Ta bị kéo xuống trở lại trần thế - trƣớc hết là do ham

muốn những gì mà ta vui hƣởng đƣợc trên trần thế, rồi tới những ham muốn cao siêu hơn mà

phạm vi để thỏa mãn cũng vẫn còn là trần thế - ham muốn có đƣợc sự hiểu biết tâm linh, có

đƣợc sự tăng trƣởng tâm linh, có đƣợc lòng sùng tín tâm linh. Vậy khi mọi thứ đã thành tựu

thì còn điều gì ràng buộc Chơn sƣ với thế giới của loài ngƣời nữa? Thế gian đâu còn gì để

hiến dâng cho ngài. Không có một kiến thức nào trên trần thế mà các ngài lại chẳng có; không

có một quyền lực nào trên trần thế mà các ngài lại chẳng vận dụng đƣợc; không còn kinh

nghiệm nào nữa làm cho cuộc đời các ngài phong phú hơn; thế gian chẳng còn gì dâng hiến

các ngài để lôi kéo các ngài tái sinh luân hồi. Thế nhƣng các ngài vẫn giáng lâm vì có một sự

thôi thúc thiêng liêng xuất phát từ bên trong chứ không phải từ bên ngoài biệt phái các ngài

xuống trần thế - bằng không thì các ngài đã mãi mãi chia tay với nó – để trợ giúp các huynh

đệ của mình, để vất vả hết thế kỷ này sang thế kỷ khác, hết thiên niên kỷ này tới thiên niên kỷ

khác vì niềm vui phụng sự mang lại cho các ngài tình thƣơng và sự thái bình khôn nguôi mà

không một thứ gì trên trần thế có thể hiến tặng các ngài đƣợc, ngoại trừ lòng hoan hỉ khi thấy

những linh hồn khác tăng trƣởng lên giống nhƣ mình vì bắt đầu chia xẻ đƣợc sự sống hữu

thức của Thƣợng Đế.

CỘNG NGHIỆP

Việc tụ tập các linh hồn lại thành ra những nhóm, gia đình, giai cấp, quốc gia, chủng tộc đã

dẫn nhập một yếu tố mới gây hoang mang cho vấn đề nhân quả, chính ở đây ta thấy có dành

chỗ cho cái đƣợc gọi là “những tai nạn” cũng nhƣ những sự điều chỉnh mà các Nghiệp quả

Tinh quân không ngừng thực hiện. Dƣờng nhƣ là trong khi không một điều gì đó có thể giáng

xuống một ngƣời nếu nó không nằm trong “biệt nghiệp” của y, thì ngƣời ta thƣờng lợi dụng

cơ hội (chẳng hạn nhƣ một tai họa quốc gia hoặc một thảm họa động đất) để khiến cho y

thanh toán đƣợc một nghiệp quả xấu mà lẽ ra theo bình thƣờng không giáng xuống y trong

chu kỳ sống mà y đang trải qua. Điều tôi nói ở đây có thể mang tính cách suy đoán chứ không

phải là hiểu biết dứt khoát về vấn đề này nhƣng dƣờng nhƣ thể sự bất đắc kỳ tử không thể xảy

ra làm mất mạng một ngƣời nếu y không thiếu nợ luật Nhân quả phải trả bằng mạng sống nhƣ

thế; cho dù y có thể bị quẳng vào trong cơn lốc của tai nạn đầy thảm họa đó thì y vẫn có thể

đƣợc cứu mạng nhƣ có “phép lạ” trong khi những ngƣời xung quanh y bị cuốn lốc đi qua sự

chết chóc và tang thƣơng lúc mà một cơn bão tố hoặc một cơn hỏa hoạn bùng phát thì y vẫn

thoát nạn không bị hề hấn gì. Nhƣng nếu y có thiếu nợ một mạng sống và nếu y bị nghiệp quả

quốc gia hoặc nghiệp quả gia đình cuốn hút vào trong một vùng chịu một sự xáo trộn nhƣ thế

thì mặc dù sự bất đắc kỳ tử không đƣợc đan bện vào trong thể phách của y cho kiếp đặc biệt

đó nhƣng cũng không có một sự chủ động can thiệp nào để bảo toàn tính mạng của y. Ngƣời

ta có thể đặc biệt để mắt tới y sau đó khiến cho y không chịu đau đớn quá đáng khi thình lình

phải hồn lìa khỏi xác, nhƣng y đƣợc phép trả nợ khi có cơ hội trả nợ mà định luật đã rộng

lòng mang lại cho y qua cái cộng nghiệp mà y dính mắc vào đó.

Cũng giống nhƣ thế, lợi ích có thể lọt vào tay y qua tác động gián tiếp ấy của định luật chẳng

hạn nhƣ khi thuộc về một quốc gia đang đƣợc hƣởng thành quả của một nghiệp tốt quốc gia

nào đó; nhƣ vậy y lại đƣợc Thiên nhiên trả nợ cho một món nợ nào đó, nếu chỉ xét tới biệt

nghiệp của y không thôi thì số phận kiếp này của y sẽ không đƣợc trả nợ nhƣ thế.

Việc ngƣời ta sinh ra trong một quốc gia đặc biệt nào chịu ảnh hƣởng của một vài nguyên tắc

tổng quát về mặt tiến hóa cũng nhƣ những đặc trƣng ngay trƣớc mắt của y. Linh hồn nào

chậm phát triển thì chẵng những phải trải qua bảy Giống dân Chính của một bầu hành tinh (ở

đây tôi đang bàn tới cơ tiến hóa thông thƣờng của nhân loại) mà còn phải trải qua các giống

dân phụ nữa. Yêu cầu này áp đặt một số điều kiện mà biệt nghiệp phải thích ứng và quốc gia

thuộc về giống dân phụ mà linh hồn phải trải qua sẽ cung ứng địa bàn để cho ta tìm thấy

những điều kiện đặc biệt cần thiết. Khi ta theo dõi những chuỗi dài các kiếp luân hồi thì ta ắt

thấy rằng một số cá nhân tiến từ giống dân phụ này sang giống dân phụ khác rất đều đặn trong

khi những cá nhân khác lại phiêu bạt hơn, có lẽ cứ lâm phàm đi lâm phàm lại chỉ nơi một

giống dân phụ thôi. Trong giới hạn của giống dân phụ đó, đặc trƣng cá biệt của ngƣời ấy sẽ

thu hút y về phía quốc gia này hay quốc gia kia, và ta có thể lƣu ý thấy những đặc trƣng nổi

bật của quốc gia xuất hiện trở lại thành từng khối trên diễn trƣờng lịch sử sau một thời khoảng

bình thƣờng là 1500 năm, nhƣ vậy thì cả đám ngƣời La Mã lại tái sinh luân hồi thành ngƣời

Anh với các thuộc tính quốc hồn quốc túy xuất hiện trở lại thành bản năng ƣa phiêu lƣu, thực

dân, chinh phục, đế quốc. Một ngƣời nào có những đặc trƣng quốc gia nổi bật nhƣ thế và đã

đến lúc tái sinh luân hồi thì sẽ đƣợc biệt nghiệp của mình biệt phái đến nƣớc Anh để rồi chia

xẻ số phận của quốc gia đó vui cũng nhƣ buồn, tốt cũng nhƣ xấu trong phạm vi mà số phận

ảnh hƣởng tới biệt nghiệp của ngƣời ấy.

Sự ràng buộc gia đình tự nhiên là có tính chất phàm ngã hơn so với quốc gia và những ngƣời

nào đã dệt nên những sự ràng buộc luyến ái mặn nồng trong kiếp này thƣờng có khuynh

hƣớng bị thu hút trở lại tạo nên thành viên của cùng một gia đình. Đôi khi những ràng buộc

này dai dẳng tái đi tái lại hết kiếp này tới kiếp khác và số phận của hai cá nhân quấn quít gắn

bó với nhau qua nhiều kiếp liên tiếp. Có khi do hậu quả của những thời khoảng dài ngắn khác

nhau nơi cõi Devachan vốn cần thiết, vì có sự khác nhau về những hoạt động trí tuệ và tâm

linh mà ngƣời ta cùng nhau trải qua trong buổi sinh thời thế nên các thành viên của một gia

đình có thể bị tứ tán khắp nơi và chỉ lại tái ngộ sau nhiều kiếp. Nói chung thì mối liên hệ càng

mật thiết nơi các cõi cao trong sinh hoạt thì càng có nhiều khả năng tái sinh trong cùng một

nhóm gia đình. Ở đây biệt nghiệp cũng lại chịu ảnh hƣởng do nghiệp liên đới của gia đình và

y có thể đƣợc vui hƣởng hoặc phải chịu khổ về những điều mà xét theo một khía cạnh nào đó

không cố hữu trong biệt nghiệp kiếp này của y, và nhƣ vậy ta có thể nói rằng y đƣợc thiên

nhiên trả nợ hoặc phải trả nợ cho thiên nhiên không đúng hạn kỳ. Xét về phàm ngã thì điều

này dƣờng nhƣ sẽ mang theo nó một sự hóa giải hoặc bù trừ nào đó nơi cõi Kamaloka và

Devachan để cho sự công bằng tuyệt đối có thể đƣợc thực hiện ngay cả đối với một phàm ngã

phù du.

Việc thanh toán chi tiết cộng nghiệp đã đƣa ta vƣợt xa giới hạn một công trình sơ cấp nhƣ tác

phẩm này và cũng vƣợt xa sức hiểu biết của tác giả cho nên hiện nay ta chỉ đƣa ra những lời

bóng gió manh mún cho học viên. Muốn hiểu chính xác thì cần phải nghiên cứu lâu dài các

trƣờng hợp biệt nghiệp đƣợc truy nguyên trải qua nhiều ngàn năm. Suy đoán về những vấn đề

này chỉ uổng công thôi, ta cần phải kiên nhẫn quan sát.

Tuy nhiên có một khía cạnh khác của cộng nghiệp mà ngƣời ta có thể nói thỏa đáng đôi lời.

Đó là mối quan hệ giữa tƣ tƣởng và hành vi của con ngƣời với những khía cạnh của bản chất

ngoại giới. Bà Blavatsky có viết về đề tài này mù mờ nhƣ sau:

Tiếp theo Plato, Aristote có giải thích rằng thuật ngữ “tứ đại” chỉ nên hiểu có nghĩa là những

nguyên thể vô hình đƣợc đặt ở bốn phân bộ lớn trong thế giới vũ trụ ta nhằm giám sát bốn

phân bộ ấy. Nhƣ vậy đâu phải chỉ có Ki Tô hữu mà chính những ngƣời Ngoại đạo cũng tôn

thờ Tứ đại và tứ phƣơng theo tƣởng tƣợng dƣới dạng các vị “Thần linh” lần lƣợt chủ trì bốn

phƣơng. Đối với Giáo hội có hai loại Thực thể Vô hình là Thiên thần và Ma quỉ. Đối với môn

đồ kinh Kabalah và nhà Huyền bí học thì chỉ có một lớp thôi; nhà Huyền bí học cũng nhƣ

môn đồ kinh Kabalah không hề phân biệt các “Tinh quân Ánh sáng” với “Tinh quân Bóng

tối”, tức là Cosmocratores, Giáo hội La Mã đã tƣởng tƣợng ra các vị này và khám phá ra

trong hàng ngũ các “Tinh quân Ánh sáng” có các vị đó ngay khi bất cứ vị nào đƣợc gọi bằng

một hồng danh khác hơn tên gọi mà Giáo hội dành cho vị đó. Dù là Tinh quân hay Tứ đại

Thiên vƣơng thì cũng không hề thƣởng phạt cho dù theo hoặc không theo lệnh của “Thƣợng

Đế” hoặc đƣợc phép Thƣợng Đế; song chính con ngƣời – những hành vi của y tức Nhân quả -

mới thu hút lại cho cá nhân y và tập thể (chẳng hạn nhƣ đôi khi trong trƣờng hợp trọn cả một

quốc gia) mọi loại điều ác và tai họa. Chúng ta tạo ra những Nguyên nhân, những nguyên

nhân này kích hoạt các quyền năng tƣơng ứng trong Thế giới Vô hình, chúng bị thu hút theo

từ tính một cách không thể cƣỡng lại đƣợc hƣớng tới phản tác động trên những con ngƣời đã

tạo ra nguyên nhân ấy; cho dù ngƣời ấy quả thực là đã gây ra điều ác hoặc mới chỉ là kẻ “nghĩ

ra” và đang nghiền ngẫm ác ý đó thôi. Đó là vì Khoa học Hiện đại có dạy ta rằng tƣ tƣởng

chính là vật chất và “mọi hạt vật chất hiện hữu đều phải ghi chép đƣợc mọi điều đã xảy ra”

theo nhƣ quí ông Jevons và Babbage có nói với kẻ phàm phu trong tác phẩm “Các Nguyên lý

của Khoa học”. Khoa học Hiện đại càng ngày càng bị thu hút nhiều hơn vào cơn xoáy lốc của

Huyền bí học: chắc chắn là vô ý thức, thế nhƣng cũng rất đáng kể.

“Tƣ tƣởng chính là vật chất”: tuy nhiên, đƣơng nhiên không phải là theo nghĩa của nhà Duy

vật ngƣời Đức, Moleschott, ông đoan chắc với chúng ta rằng “tƣ tƣởng là sự vận động của vật

chất” – một phát biểu hầu nhƣ hết sức phi lý. Các trạng thái tâm trí và trạng thái thể chất cực

kỳ đối lập với nhau nhƣ thế. Nhƣng điều đó không ảnh hƣởng tới lập trƣờng cho rằng mọi tƣ

tƣởng cùng với phần đi kèm theo về thể chất của nó (sự thay đổi trong bộ óc) đều phô bày

một khía cạnh ngoại giới – mặc dù là ngoại giới siêu giác quan đối với chúng ta – trên cõi tinh

vi.

Dƣờng nhƣ là khi con ngƣời tạo ra một số lớn hình tƣ tƣởng ác ý có tính cách hủy diệt và khi

những khối tập hợp này tụ tập lại thành những đám khổng lồ trên cõi Trung giới thì năng

lƣợng của chúng có thể và ắt đƣợc phóng lên cõi hồng trần, kích động những cuộc chiến tranh,

cách mạng, đủ thứ xáo trộn và hỗn loạn trong xã hội, giáng xuống thành cộng nghiệp đối với

những kẻ đã gây ra chúng và tạo ra sự tàn phá rộng lớn. Nhƣ vậy xét về tập thể cũng nhƣ cá

thể thì con ngƣời đều làm chủ số phận của mình và thế giới của y đƣợc uốn nắn theo tác động

sáng tạo của y.

Những trận dịch tội ác và bệnh tật, những chu kỳ tai nạn đều đƣợc giải thích tƣơng tự. Những

hình tƣ tƣởng giận dữ góp phần khiến cho một kẻ giết ngƣời phạm tội; những Tinh linh ngũ

hành này đƣợc tội ác nuôi dƣỡng và là kết quả của tội ác – những tƣ tƣởng hận thù và báo oán

của những kẻ yêu mến nạn nhân, sự phẫn nộ kịch liệt của ngƣời phạm tội, cơn thịnh nộ của y

không đƣợc thỏa mãn, phóng ra dữ dội hƣớng tới thế gian – những thứ đó còn tăng cƣờng

thêm nữa đội quân của mình bằng nhiều hình tƣ tƣởng ác ý; những thứ này lại xuất phát từ cõi

Trung giới xúi giục một kẻ phạm phải tội ác mới và cái vòng lẩn quẩn những cơn thôi thúc

mới cứ xoay chuyển mãi khiến ta có một trân dịch những hành vi bạo lực. Bệnh dịch lan tràn

và tƣ tƣởng sợ hãi nối tiếp sự tiến triển của bệnh tật ấy tác động trực tiếp làm tăng cƣờng

quyền năng của bệnh tật; những xáo trộn từ điển đƣợc lập nên và lan tỏa đi phản tác động lên

bầu hào quang từ điển của những ngƣời ở trong vùng chịu ảnh hƣởng. Tƣ tƣởng độc ác của

con ngƣời gây tàn phá theo mọi hƣớng và theo vô tận kiểu vì y không chịu là kẻ hợp tác

thiêng liêng trong Vũ trụ mà lại dùng quyền năng sáng tạo của mình để gây hủy hoại.

KẾT LUẬN

Đó là phác họa Định luật lớn về Nhân quả và cách vận hành của nó; nhờ biết đƣợc nhƣ vậy

ngƣời ta có thể tăng tốc sự tiến hóa của mình, nhờ vận dụng định luật ấy con ngƣời có thể giải

thoát mình khỏi sự ràng buộc và rất lâu trƣớc khi loài ngƣời đi hết lộ trình thì ngƣời ấy đã trở

thành một trong những đấng trợ giúp và cứu độ thế gian. Việc tin chắc sâu sắc và kiên định về

sự thật của định luật này ắt mang lại cho cuộc đời một sự thanh thản không nao núng và một

sự vô úy tuyệt đối: chẳng có gì đụng chạm tới ta mà không do ta gây ra, chẳng có gì làm

phƣơng hại đến ta mà lại không xứng đáng với điều đó. Và vì mọi chuyện mà chúng ta đã

gieo ắt phải chín muồi thành vụ gặt, và đúng vụ mùa thì phải đƣợc gặt hái cho nên thật là hoài

công mà than thở về vụ gặt hái khi nó gây ra đau khổ; nó cũng có thể đƣợc thực hiện ngay bây

giờ hoặc là vào bất kỳ thời gian nào đó trong tƣơng lai vì ta không thể tránh đƣợc nó và một

khi đã đƣợc thực hiện rồi thì nó không thể trở lại quấy rầy ta nữa. Do vậy nghiệp quả đau

thƣơng có thể đƣợc giáp mặt với một tâm hồn hoan hỉ, coi đó là điều phải đƣợc vui vẻ thanh

toán và giải quyết; tốt hơn là bỏ nó lại đằng sau ta thay vì để nó cứ treo lủng lẳng trƣớc mặt ta

và mọi món nợ đƣợc thanh toán rồi sẽ giúp cho ta ít thiếu nợ hơn. Ƣớc gì thế gian biết đƣợc

điều đó để cảm thấy đƣợc sức mạnh xuất phát từ việc tùy thuận theo Định luật! Vô phƣớc

thay đối với hầu hết mọi ngƣời ở thế giới phƣơng Tây thì đó chỉ là một điều hão huyền và

ngay cả trong giới nhà Thông Thiên Học thì niềm tin vào nhân quả cũng mang tính cách tán

thành bằng cái trí nhiều hơn là tin chắc trong cuộc sống và chịu quả báo theo sự minh giải của

cuộc đời mà ta trải nghiệm. Giáo sƣ Bain có nói rằng sức mạnh của một đức tin đƣợc đo

lƣờng qua ảnh hƣởng của nó lên cách ứng xử, và tin vào nhân quả phải khiến cho cuộc đời ta

thanh khiết, vững mạnh, thanh thản và hoan hỉ. Chỉ có những hành vi của chính ta mới làm

vƣớng bận đƣợc ta, chỉ có ý chí của chính ta mới xiềng xích đƣợc ta. Ƣớc gì con ngƣời nhận

ra chỉ một lần sự thật này thôi thì giờ giải thoát của y cũng đã đến rồi đấy. Thiên nhiên không

thể bắt làm nô lệ linh hồn nào đã nhờ minh triết mà có đƣợc quyền năng và sử dụng cả minh

triết lẫn quyền năng trong việc yêu thƣơng.

H Ế T

Thế Giới Huyền Bí trang 89–90, ấn bản lần thứ tƣ.

Thế Giới Huyền Bí, trang 100.

Tạp chí Lucifer, số tháng 10 năm 1892 bài “Sống và Chết”.

Xem Chƣơng “Việc sinh ra Hình tƣ tƣởng”.

Xem chƣơng Việc Sinh ra Hình tƣ tƣởng, cũng nhƣ sơ đồ.

Những từ ngữ xuống dƣới và lên trên này rất dễ gây hiểu lầm; các cõi dĩ nhiên là lồng vào

nhau.

Giáo lý Bí truyền, I, 157-159.

Nhƣ trên, câu kinh số 1 trong quyển Thiền Thƣ, xem phần Kết luận.

Xem Sự Sinh ra và Tiến hóa của Linh hồn

Xem Cõi Trung giới của C.W.Leadbeater trang 45-46.

Xem Cõi Trung giới của C.W.Leadbeater trang 86.

Xem Tiết sau bàn về Sự thanh toán Nhân quả.

Một tên gọi thần bí, đầy ý nghĩa đối với học viên nào hiểu đƣợc vai trò mà Soma thủ giữ

trong một số bí pháp cổ truyền.

Xem phần trƣớc kia.

Xƣa kia đƣợc gọi là Linga Sharira, tên gọi này đã làm nảy sinh ra nhiều sự lẫn lộn.

Giáo Lý Bí Truyền, I, trang 153.

Xem phần ở trên.

Giáo Lý Bí Truyền, I, trang 131 và Xem phần trƣớc kia.

Giáo Lý Bí Truyền, I, trang 151 và Nhƣ trên.

Bàn về các Bí pháp, iv, 4.

Chí Tôn Ca, iii, 19

Chí Tôn Ca, iv, 19-23.

Nhƣ trên, iii, 25-26.

Giáo Lý Bí Truyền, I, 148-149.

sao các đấng Chơn sƣ cổ truyền ban phúc cho nƣớc Ấn Độ nghèo khó của chúng ta!

________________________________________

Tài liệu sƣu tầm từ Hội Thông Thiên Học Việt Nam, 482 Võ Di Nguy Phú Nhuận, Gia Định +

Hội Thông Thiên Học Hoa Kỳ + Hội Thông Thien Học Thế giới ở Adya, Madras, India, sách

lƣu giũ tại Chi Bộ Dƣới Chơn Thầy, số 17 Hùng Vƣơng, Thị Xã Vĩnh Long. cố Chi Bộ

Trƣởng : Vƣơng Kim Liêng, Phó CHT: Hà Phƣớc Thảo, Thơ ký: Nguyễn Thành Hổ, Thuyết

Trình viên: cố Học giả Nguyễn Minh Tâm, nhà nghiên cứu viết nhiều sách và dịch sách của

Krisnamurti.

Thƣ Viện Viện Đại Học Cao Đài Học Hàm Thụ miễn phí, in kinh, sách, tài liệu

miễn phí, khỏi đăng ký, khỏi Password.

http://caodaigiaoly.free.fr/