47
Chùm ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa. 1, Bài ca dao số 01 + 02. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, ca dao có một số lượng vô cùng phong phú, giàu giá trị tư tưởng và nghệ thuật. Ra đời trong xã hội cũ còn nhiều xót xa, cay đắng, bất công, ca dao xưa là niềm vui, nỗi buồn, là tiếng ca nghĩa tình và tiếng hát than thân của người bình dân xưa cất lên sau luỹ tre làng, bên gốc đa, bến nước, sân đình...Khi nghĩ về thân phận của mình, người bình dân xưa thường cất lên tiếng ca chứa chất nỗi buồn tủi, đắng cay. Trong dòng mạch đó, nổi lên rõ nhất là tiếng hát than thân về thân phận, cuộc đời người phụ nữ mà hai bài ca dao sau là một minh chứng. “-Thân em như tấm lụa đào - Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.” a,Cuộc đời người phụ nữ xưa có rất nhiều nỗi khổ cực, đắng cay. -Nỗi khổ về vật chất, phải thức khuya, dạy sớm dãi gió, dầm sương: “Thân em như lá đài bi, - Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương. - Ngày ngày hai bữa cơm đèn, - Lấy gì má phấn răng đen hỡi chàng.” -Nhưng nỗi khổ lớn nhất của họ là nỗi khổ tinh thần. Đó nỗi khổ của những con người không có quyền định đoạt hạnh phúc cũng như không có quyền được làm chủ cuộc đời mình. Bị trói buộc bởi quan niệm “tam tòng” bất công thời phong kiến, khi nghĩ về thân phận mình, người phụ nữ thường cất lên những tiếng hát than thân chứa chất bao nỗi đắng cay, buồn tủi. b,Những khúc hát than thân của người phụ nữ trong hai bài ca dao. *Những nét chung: cả hai bài ca dao đều mang nét chung về biện pháp nghệ thuật và nội dung ý nghĩa: - Cả hai bài ca đều được mở đầu bằng cụm từ “thân em như...”, một công thức chung, quen thuộc thường thấy trong những khúc hát than thân, đã xác định chủ thể trữ tình ở đây là người phụ nữ trong xã hội xưa. Họ cùng cất lên lời than về thân phận bất hạnh của mình khi sống giữa một xã hội đầy bất công ngang trái. -Cả hai bài ca dao cùng sử dụng những biện pháp nghệ thuật quen thuộc, thường thấy trong ca dao như so sánh, ẩn dụ. *Những nét riêng. -Bài ca dao số 01: lời than của người phụ nữ có nhan sắc nhưng số phận bất hạnh , trớ trêu. +Câu 01: lời tự giới thiệu đầy kiêu hãnh về mình của cô gái. Tự ví mình như tấm lụa đào, cô gái đã ý thức được rất rõ tuổi xuân, nhan sắc của mình. (Học sinh phân tích sâu vào hình ảnh tấm lụa đào: chất liệu, vẻ đẹp ... để thấy được nhan sắc, tuổi xuân của người phụ nữ). +Câu 02: giọng điệu có sự thay đổi từ tự hào, kiêu hãnh sang khắc khoải, ngậm ngùi. Nghệ thuật ẩn dụ khắc hoạ rõ nét nỗi lo của cô gái cho thân phận của mình. Tấm lụa đào: đẹp đấy, quý đấy nhưng cũng chỉ là một món hàng bán giao ngoài chợ. Không gian tồn tại của nó không phải là nơi được người ta trân trọng như trong tủ, trong giương mà là nơi xô bồ, trắng đen lẫn lộn. Nó tồn tại giữa nơi “trăm người bán, vạn người mua”, nó phải trườm 1

on tap hoc ki 1

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: on tap hoc ki 1

Chùm ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa.1, Bài ca dao số 01 + 02.Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, ca dao có một số lượng vô cùng phong phú, giàu giá trị tư tưởng và nghệ thuật. Ra đời trong xã hội cũ còn nhiều xót xa, cay đắng, bất công, ca dao xưa là niềm vui, nỗi buồn, là tiếng ca nghĩa tình và tiếng hát than thân của người bình dân xưa cất lên sau luỹ tre làng, bên gốc đa, bến nước, sân đình...Khi nghĩ về thân phận của mình, người bình dân xưa thường cất lên tiếng ca chứa chất nỗi buồn tủi, đắng cay. Trong dòng mạch đó, nổi lên rõ nhất là tiếng hát than thân về thân phận, cuộc đời người phụ nữ mà hai bài ca dao sau là một minh chứng.

“-Thân em như tấm lụa đào - Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.”a,Cuộc đời người phụ nữ xưa có rất nhiều nỗi khổ cực, đắng cay.-Nỗi khổ về vật chất, phải thức khuya, dạy sớm dãi gió, dầm sương:“Thân em như lá đài bi, - Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương. - Ngày ngày hai bữa cơm đèn, - Lấy gì má phấn răng đen hỡi chàng.”-Nhưng nỗi khổ lớn nhất của họ là nỗi khổ tinh thần. Đó nỗi khổ của những con người không có quyền định đoạt hạnh phúc cũng như không có quyền được làm chủ cuộc đời mình. Bị trói buộc bởi quan niệm “tam tòng” bất công thời phong kiến, khi nghĩ về thân phận mình, người phụ nữ thường cất lên những tiếng hát than thân chứa chất bao nỗi đắng cay, buồn tủi.b,Những khúc hát than thân của người phụ nữ trong hai bài ca dao.*Những nét chung: cả hai bài ca dao đều mang nét chung về biện pháp nghệ thuật và nội dung ý nghĩa: - Cả hai bài ca đều được mở đầu bằng cụm từ “thân em như...”, một công thức chung, quen thuộc thường thấy trong những khúc hát than thân, đã xác định chủ thể trữ tình ở đây là người phụ nữ trong xã hội xưa. Họ cùng cất lên lời than về thân phận bất hạnh của mình khi sống giữa một xã hội đầy bất công ngang trái.-Cả hai bài ca dao cùng sử dụng những biện pháp nghệ thuật quen thuộc, thường thấy trong ca dao như so sánh, ẩn dụ.*Những nét riêng.-Bài ca dao số 01: lời than của người phụ nữ có nhan sắc nhưng số phận bất hạnh , trớ trêu.+Câu 01: lời tự giới thiệu đầy kiêu hãnh về mình của cô gái.Tự ví mình như tấm lụa đào, cô gái đã ý thức được rất rõ tuổi xuân, nhan sắc của mình. (Học sinh phân tích sâu vào hình ảnh tấm lụa đào: chất liệu, vẻ đẹp ... để thấy được nhan sắc, tuổi xuân của người phụ nữ).+Câu 02: giọng điệu có sự thay đổi từ tự hào, kiêu hãnh sang khắc khoải, ngậm ngùi. Nghệ thuật ẩn dụ khắc hoạ rõ nét nỗi lo của cô gái cho thân phận của mình.Tấm lụa đào: đẹp đấy, quý đấy nhưng cũng chỉ là một món hàng bán giao ngoài chợ. Không gian tồn tại của nó không phải là nơi được người ta trân trọng như trong tủ, trong giương mà là nơi xô bồ, trắng đen lẫn lộn. Nó tồn tại giữa nơi “trăm người bán, vạn người mua”, nó phải trườm mặt ra giữa chốn đông người để cho người ta xem, ngắm, khen, chê, mặc cả... Tấm lụa đào trở thành đối tượng sở hữu của bất kì người nào có nhu cầu mua bán, nó không có quyến lựa chọn, định đoạt số phận của mình.Thân phận của người phụ nữ cũng thế . Cũng như tấm lụa đào, người phụ nữ không có quyền tự quyết định chuyện hôn nhân, hạnh phúc của cuộc đời mình mà phải phụ thuộc vào cha mẹ. Sử dụng hình ảnh ẩn dụ và câu hỏi tu từ, câu ca dao đã trở thành tiếng khóc nức nở của người phụ nữ.Nỗi đau, lời than của cô gái xuất phát từ quan niệm bất công của xã hội phong kiến xưa: “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Chính vì thế, khi vừa bước vào tuổi trăng tròn, cái tuổi đẹp nhất, mộng mơ nhất của đời người con gái cũng là lúc nỗi lo về thân phận ập đến với cô. Cô lo lắng, như tấm lụa đào kia, một ngày nào đó cô cũng sẽ trở thành một món hàng phất phơ giữa chợ bị người ta mua đi, bán lại, bình phẩm khen chê...cô chỉ là một món đồ có giá trị sử dụng chứ đâu được làm chủ thân phận của mình. Câu thơ cho ta thấy tài năng của các tác giả dân gian trong nghệ thuật sử dụng từ láy “phất phơ”. “Phất phơ”vốn là một từ láy giàu sức tạo hình, biểu cảm thường được dùng để diễn tả nỗi buồn đặt trong câu ca dao này có càng buồn hơn bởi nó gợi lên sự nổi nênh về thân phận giữa dòng đời của người phụ nữ.Như vậy ở bài ca dao số 01, người phụ nữ than thở vì số phận bất hạnh của mình, tuy xinh đẹp mà hạnh phúc mong manh, không có quyền tự chủ, họ chỉ biết trông chờ vào sự may rủi của số phận mà thôi.Tham khảo:“Thân em như giếng giữa đàng – Người khôn rửa mặt, kẻ phàm rửa chân”; “Thân em như khạt mưa rào – Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vười hoa – Thân em như hạt mưa sa – Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày” ...-Bài ca dao số 02:+Khác biệt về hình thức: Bài 01 cấu tạo bởi hai câu ca dao, bài 02 là bốn câu.

1

Page 2: on tap hoc ki 1

+Khác biệt về lời than: Bài ca dao số một là lời than của người phụ nữ có nhan sắc nhưng số phận bất hạnh , trớ trêu, bài ca dao số 02 , người phụ nữ cất lên lời than cho số phận hẩm hiu của mình.+Hai câu đầu là lời tự giới thiệu về mình của cô gái:Sử dụng các biện pháp nghệ thuật so sánh, tiểu đối (đối lập ngay trong một dòng thơ) cùng với giọng điệu thâm trầm, sâu sắc, tác giả dân gian đã để cho cô gái tự giới thiệu về mình.Củ ấu gai, một loại củ được hình thành trong bùn đen, có vẻ ngoài đen đúa, xấu xí, gai góc nhưng ẩn chứa đằng sau vẻ ngoài xấu xí đó là ruột ấu trắng thơm, ngọt bùi. Ai ăn một lần sẽ nhớ mãi. Ví mình như củ ấu gai, cô gái tự ý thức được mình không có một ngoại hình hấp dẫn nhưng thay vào đó là vẻ đẹp của tâm hồn, vẻ đẹp của nội dung, phẩm chất. Đó là vẻ đẹp bên trong không dễ gì nắm bắt, nhận ra bởi đôi khi nó bị che lấp bởi cái đen đủi, gai góc, không hấp dẫn bên ngoài. Chính vì thế mà ở hai câu sau cô gái đã cất lên lời mời gọi.+Hai câu cuối: lời mời gọi của cô gái: tha thiết, mạnh bạo, khẳng định, chua xót ngậm ngùi.Với người con gái, sự mời mọc tha thiết và sự tự khẳng định ấy là “sự vạn bất đắc dĩ” bởi vì vẻ đẹp bên trong – giá trị thực của họ không được ai biết đến. Vì vậy, lời mời gọi của cô gái tuy tha thiết mà đáng thương, khắc khoải; tuy mạnh bạo mà ngậm ngùi xót xa cho thân phận. Nhưng vượt lên trên nỗi đau đó, người đọc vẫn thấy được vẻ đẹp của một cô gái nghèo luôn khao khát yêu thương và hạnh phúc.Hai bài ca dao trên bổ sung cho nhau, là sự tự khẳng định một vẻ đẹp bên ngoài, một vẻ đẹp bên trong nhưng bao trùm là cảm hứng ngậm ngùi, xót xa về thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa (hoặc không được đoái hoài, hoặc như một món hàng không có quyền quyết định). Đó là giá trị tố cáo và giá trị nhân dạo sâu sắc trong tiếng hát than thân ướt đầm nước mắt của người phụ nữ.(Có thể mở rộng, liên hệ với bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương)Tóm laị: Những bài ca dao trên cho ta hiểu hơn về nỗi khổ của cuộc đời người phụ nữ xưa, giúp ta thêm yêu cuộc sống hiện nay. Ngày nay, người phụ nữ hiện đại vẫn giữ được nét dịu dàng, khiêm nhường của người phụ nữ truyền thống nhưng họ không còn phải cam chịu cuộc sống phụ thuộc mà đã ý thức được vị thế xã hội của mình, chủ động và xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn:“Một buổi sớm mai trớm bước chân mình trên cát – Người mẹ cho ra đời những Phù Đổng Thiên VươngDẫu là nguyên thủ quốc gia hay là những anh hùng - Là bác học hay là ai đi nữa - Cũng là con của người phụ nữ - Người đàn bà rất bình thường không ai biết tuổi tên.” (Xuân Quỳnnh)2, Bài ca dao số 03: Duyên kiếp không thành nhưng vẫn mãi thuỷ chung, son sắc.Trong ca dao xưa có một số lượng khá lớn những bài ca mở đầu bằng công thức “Trèo lên” như “Trèo lên cây bưởi hái hoa...”, “Trèo lên cây gạo cao cao...”, “Trèo lên trái núi Thiên Thai...”...và trong bài ca dao này là:“Trèo lên cây khế nửa ngày - Ta như sao vượt chờ trăng giữa trời.”Mở đầu bằng cụm từ “Trèo lên” cũng đã trở thành môtíp trong ca dao, thường được dùng chỉ người trai thất tình, lỡ duyên. Và nhân vật trong bài ca này cũng là một chàng trai như thế.

Bà ca dao mở đầu bằng một hành động bất thường của chàng trai: “Trèo lên cây khế nửa ngày”, hành động bất thường đó chứng tỏ chàng trai có sự bất an trong tâm trạng. Vậy sựu bất an đó là gì? Câu ca dao thứ hai cho ta thấy rõ điều đó: “ai làm chua xót lòng này khế ơi!”. Như vậy là đã rõ, chàng trai trèo lên cây khế nửa ngày là vì lòng anh ta đang “chua xót”. Nỗi đau đớn, xót xa đó của chàng trai là gì nếu không phải là nỗi đau người con gái anh yêu đã đi lấy chồng? Khi phân tích bài ca dao, có người cho rằng: cụm từ “nửa ngày” là cụm từ diễn tả sự dở dang của duyên kiếp, theo tôi, hiểu như vậy là không hợp lí lắm, “nửa ngày” ở đây phải là một khái niệm chỉ thời gian, một thời gian xác định mà phiếm chỉ, một khoảng thời gian rất dài để minh chứng cho hành động bất thường vì đau đớn của chàng trai.Nỗi đau bị lỡ duyên của chàng trai trong hai câu thơ được tác giả dân gian thể hiện tài tình qua nghệ thuật nhân cách hoá. Với nghệ thuật nhân cách hoá, khế đã trở thành một người bạn để chàng trai trút bỏ tâm tình, dãi bày, chia sẻ. Trong tất cả thế giưói tự nhiên, chàng trai đã lựa chọn khế để chia sẻ, để hỏi là một sự lựa chọn tài tình bởi trong lòng khế (trừ khế ngọt) chẳng bao giờ hết chứa đựng vị chua. Hai câu đầu nghe sao da diết xót xa. Lối nói kín đáo, bóng bẩy càng làm cho người nghe cảm nhận được nỗi lòng đau đớn khôn nguôi của chàng trai khi bị lỡ duyên. Đọc hai câu ca, ta thấy ẩn chứa sự tương đồng kín đáo: khế chua – lòng người cũng chua xót, sự tương đồng đó làm cho lời than càng thêm da diết.Bên cạnh nghệ thuật nhân hoá, hai câu ca còn sử dụng đại từ phiếm chỉ “ai” và câu hỏi tu từ “ai làm chua xót” chỉ đối tượng chia rẽ mối tình của chàng trai. Vậy ai đã chia rẽ mối tình thuỷ chung, son sắc đó? Câu trả lời cho câu hỏi đó vẫn còn bỏ ngỏ bởi có nhiều cách hiểu khác nhau, chưa thống nhất nhưng điều mà

2

Page 3: on tap hoc ki 1

chúng ta có thể xác định là mặc dù tình duyên lỡ dở nhưng chàng trai vẫn hoài niệm, ngóng vọng, thương nhớ khôn nguôi “người ấy” qua sự bộc bạch nỗi lòng của chàng ở những câu ca tiếp theo: “Mặt trăng sắnh với mặt trờiSao hôm sánh với sao mai chằng chằng.”Chỉ hai câu ca dao ngắn gọn nhưng tác giả dân gian đã sử dụng một loạt những biện pháp nghệ thuật để diễn tả tình yêu, nỗi nhớ khôn nguôi của chàng trai:Nghệ thuật ẩn dụ: lấy hình ảnh thiên nhiên (vĩnh hằng, to lớn, không thay đổi) để khẳng định tình nghĩa con người).Sử dụng cặp hình ảnh đối sánh: Mặt trăng – Mặt trời; Sao hôm – Sao mai.Sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp từ: từ “sánh với” hai lần được điệp lại đặt trong tương quan với các biểu tượng đối sánh.Sử dụng từ láy: “chằng chằng” nhấn mạnh sự gắn bó, khăng khít đặt ở cuối câu.Chàng trai khẳng định: cho dù họ phải xa nhau (như mặt trời lặn, mặt trăng mới lên; sao Mai mọc vào buổi sáng, sao Hôm mọc vào buổi chiều) nhưng họ luôn tương xứng với nhau, luôn đẹp đôi vừa lứa (như mặt trời vốn là đại diện của ban ngày, mặt trăng là đại diện của ban đêm; sao Mai là đại diện của buổi sáng, sao Hôm là đại diện của buổi chiều), luôn là một khăng khít với nhau (như ánh sáng của mặt trăng vốn từ ánh sánh của mặt trời mà có; sao Hôm, sao Mai vốn chỉ là một, đó là sao Kim). Và tình nghĩa đó mãi mãi vững bền, tồn tại muôn đời cùng trời đất.Sang hai câu kết, không còn kìm nén được lòng mình nữa, chàng trai bộc lộ trực tiếp nỗi lòng mình với “người ấy” trong nỗi niềm vô vọng:“Mình ơi! ...Đại từ nhân xưng mình – ta quen thuộc trong ca dao đã xuất hiện trực tiếp. Nỗi nhớ không kìm nén được đã bật tuôn trào theo lôgic tình cảm rất tự nhiên. Sử dụng câu hỏi tu từ “mình ơi!...chăng”, biện pháp nghệ thuật so sánh, chàng trai hỏi cô gái là để tự bộc bạch lòng mình, để khẳng định tình yêu thuỷ chung son sắt, dù duyên kiếp dở dang, không thành nhưng tình nghĩa thì mãi vẫn còn, không hề thay đổi. Giống như sao Vượt (tên gọi khác của sao Kim, mọc rất sớm từ lúc chiều hôm, khi sao Vượt lên đến đỉnh của bầu trời thì trăng mới mọc) mỏi mòn chờ đợi trăng khi đã lên đến giữa đỉnh trời nhưng mãi kiên định không bao giờ thay đổi, ta mãi chờ đợi em, dù đó là sự chờ đợi trong mỏi mòn, cô đơn, vô vọng.Bài ca dao nói về nỗi đau khi tình duyên lỡ dở, nói về nỗi vô vọng của kẻ thất tình mà vẫn ấm áp tình đời. Nó là ánh sáng rất đẹp, rất thơ của ca dao xưa khi nói về những mối tình lỡ dở. 3, Bài ca dao số 04: Nỗi nhớ người yêu tha thiết, bồn chồn.Các em xem lại phần giảng văn, tự tìm tài liệu tham khảo và đọc các bài tham khảo sau:*Bài tham khảo 01: Cảm nhận về bài ca dao “Khăn thương nhớ ai”Kho tàng ca dao Việt Nam vô cùng phong phú, giàu giá trị tư tưởng, nghệ thuật, là “thơ của vạn nhà”, là tấm gương soi cho tâm hồn và đời sống dân tộc, là niềm tự hào khôn xiết về cái cách mà những con người lao động Việt Nam trực tiếp bày tỏ long mình mà không cần nhờ đến bất kì một khuôn khổ thơ chính quy nào. Họ gửi gắm vào đó là yêu thương, sướng vui, đau khổ; là hoài bão, ước mơ, niềm mong mỏi… Không nằm ngoài chuỗi sáng tác mang đề tài thương nhớ làm nên bản sắc văn hoá dân gian, bài ca dao được nhà phê bình Hoài Thanh đánh giá là “hay nhất Việt Nam”, “ Khăn thương nhớ ai” cũng trĩu nặng niềm thương nỗi nhớ của người con gái đang yêu, sâu lắng và hay lạ lùng ...“Khăn thương nhớ ai ... Lo vì một nỗi không yên một bề.”Ca dao về nỗi nhớ là hợp âm các nốt trầm lắng đọng lòng người trong cung bậc tình yêu - vốn là đề tài muôn thưở và quen thuộc của người bình dân. Nỗi nhớ nhung nào có buông tha một ai? Mọi cảnh huồng, mọi số phận, mọi trang lứa; và nó nhẫn tâm bủa vây, bám víu lấy người con gái đơn chiếc. Nỗi nhớ ấy như muốn thiêu đốt tan chảy cả cõi lòng nhưng lại được che giấu kín đáo và ý nhị, không bộc lộ một cách buông tuồng, suồng sã. Tâm trạng nàng, biết tỏ cùng ai? Những câu hỏi không có câu trả lời, cô dành để hỏi những vật dụng quen thuộc nhất kề bên mình trong lúc cô đơn :“Khăn thương nhớ ai?...... Đèn thương nhớ ai?”Những câu hỏi cất lên rồi lại trôi dạt mãi vào hư vô im tiếng, cứ nén chặt niềm thương nỗi nhớ trong lòng, để rồi chực trào tuôn ra thành tiếng thở dài triền miên. Cái khăn được hỏi đến đầu tiên và cũng được hỏi nhiều nhất’ cô gái hỏi vật trao duyên mang ý nghĩa thiêng liêng duy nhất của mình. Chiếc khăn ấy phải chăng đã ấp ủ biết bao hơi ấm bàn tay, đã thấm đượm nhiều vô chừng những lời ân ái mặn nồng :“Gửi khăn, gửi áo, gửi lời,

3

Page 4: on tap hoc ki 1

Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa”Giờ người đã xa, hơi ấm nồng đượm vương vấn nơi đây âu chỉ là nỗi buồn chờ đợi quá khứ, cái không gian cô quạnh cứ miên man trải rông trên nhiều chiều, nỗi nhớ cứ thế mà quanh quẩn trong tâm trí trăm mối tơ vò, khiến vật chứng nhân vô trí vô giác cũng động lòng mà:“Khăn thương nhớ ai - Khăn chùi nước mắt.”Ba hình ảnh đặc trưng cộng hưởng thêm ba câu thơ láy cô gái tự nhân hoá chiếc khăn lên rồi hỏi: “Khăn thương nhớ ai?”, cùng việc cấu trúc câu thơ theo lối vắt dòng, láy tổng cộng sáu lần từ “khăn” thành một điệp khúc tạo cảm giác dường như nỗi nhớ càng thêm triền miên. Mỗi lần hỏi là một lần nỗi nhớ kia thêm trào dâng cuồn cuộn trong lòng. Ôi, sầu đong càng lắc càng đầy! Cô gái đang hỏi chiếc khăn trao duyên hay đang đối thoại với bản thân mình đây? Đằng sau nghệ thuật đảo thanh đầu uyển chuyển, cách sử dụng hình ảnh vận động trái chiều “xuống- lên”, “rơi- vắt” của khăn hiện lên hình ảnh một con người rất rõ, con người ấy đang tiếc nhớ khôn nguôi về mối tình đẹp đẽ. Nhớ đến mức không còn tự chủ được dáng đứng bước đi, không thề đứng yên ngồi ổn được, cứ thất thểu ra vào, bởi vậy người ta mới có câu:“Nhớ ai bổi hổi bồi hồiNhư đứng đống lửa như ngồi đống than”Nỗi nhớ cứ rừng rực trong lòng, len lỏi vào từng dòng máu thớ thịt, thế mà vẫn không đủ để cản ngăn dòng nước mắt khóc thầm:“Khăn thương nhớ aiKhăn chùi nước mắt”Nước mắt em rơi từ khoé lệ u sầu, rơi trên tiếng cười đùa hôm qua, và rơi trên u buồn hôm nay, những “ hai hàng nước mắt đầm đàm như mưa: làm khổ em biết bao nhiêu đêm dài. Nỗi nhớ sâu trong tâm hồn réo thúc bùng sôi nhưng được bộc lộ ý nhị, nọt ngào, mang màu sắc nữ tính, nhẹ nhàng. Cô gái trong bài ca dao là một con người biết trân trọng những kỉ niệm, biết ghìm nén lòng mình, dẫu cho trái tim đã băng hoại vì nỗi buồn man mác gậm nhấm lủi tàn mất rồi. Cái khăn đã giãi bày hộ cô gái cái nghẹn ngào đọng mãi trong lòng không nói ra được. Cái thứ cảm giác không gọi được tên nặng trĩu trong lòng là thế, vậy mà cứ nhẹ tênh lan toả rộng khắp, thấm đượm vào không gian, vào cả sự đồng cảm nơi người đọc...Nhưng không chỉ có thế, nỗi nhớ ở đây còn được đong đếm theo bước chân thời gian chứ không chỉ thăng trầm theo từng bước đi của nhân vật. Ban đêm là thời khắc để bất kì con người nào cũng có thể suy ngẫm về người, về đời, rất thật. Đối với cô gái, đó là lúc niềm khắc khoải lại càng làm tim cô đau nhói. Niềm đau ở đây được diễn tả theo một cách riêng, nhất quán và không thể nhầm lẫn. Điệp khúc “thương nhớ ai” được giữ lại trọn vẹn còn tâm sự được gửi gắm tiếp vào ngọn đèn đêm:“Đèn thương nhớ aiMà đèn không tắt”Cả bài ca dao là một hệ thống các câu hát lẻ độc lập: khi đứng riêng chúng hoàn toàn có thể diễn đạt hết nghĩa, còn khi ghép chúng lại với nau, chúng thu hút người đọc và nỗi lòng trải rộng mãi hết không gian rồi lại sang thời gian. Trong sự ưu phiền vò võ của đêm khuya khắc vợi canh tàn, trong bóng đêm mịt mù đến hốt hoảng, đốm lửa ấm dù nhỏ nhoi trên đầu ngọn bấc kia chứng tỏ người thắp đèn vẫn chưa tài nào ngủ yên được. Cô gái gửi tâm tình ngổn ngang trăm mối những đêm thâu trằn trọc vào ngọn lửa nhỏ, hay chính ngọn lửa tình bất diệt luôn cháy mãi trong tâm can? Chừng nào lửa tình vẫn cháy thì chừng ấy lửa đèn kia tắt làm sao được. Vẫn là câu hỏi không có lời đáp, và vẫn là hình ảnh tượng trưng được nhân hoá, “ngọn đèn” cũng biết thổ lộ bao điều, buộc ta phải rung cảm suy nghĩ nhiều hơn, sâu sắc hơn những điều được đề cập trong lời ca da diết.Bày tỏ, giãi bày hộ cô gái bằng giá trị tượng trưng rất biểu cảm theo lối nói vòng đầy cuốn hút, nhưng rồi rốt cuộc “khăn” và” đèn”cũng chỉ là cách nói gián tiếp thông qua biện pháp nhân hoá. Đến dòng thơ thứ chín, không kìm lòng được nữa, thứ “cảm xúc không gọi được tên” trên kia chực vỡ oà, cô tự hỏi chính mình:“Mắt thương nhớ aiMắt ngủ không yên.”Hình tượng các nghệ nhân dân gian sử dụng thật hợp tình hợp lý, nhất quán và xuyên suốt: “đèn chẳng tắt” vì “mắt không yên”, “mắt không yên” nên “đèn chẳng tắt”. Nỗi ưu tư còn nặng trĩu, khối tinh thần bất biến vẫn vẹn nguyên, tình yêu chung thuỷ chẳng đổi dời. Cứ khép đôi bờ mi đẫm lệ, hình bóng người thương lại hiện về, giấc ngủ dẫu có cũng vô cùng ngắn ngủi và mãi chập chờn những giấc vơ vô ảo vô thực. Năm lần hỏi, năm lần điệp từ “ai” vang lên thổn thức xoày vào lòng ta một nỗi niềm khắc khoải. Bản thân từ “ai” mang ý phiếm chỉ, nên câu trả lời thực chất được khẳng định ngay từ câu hỏi tưởng như không có lời đáp. Cách khẳng định này không được diễn đạt bằng ý chính mà mang tính nghệ thuật, thi vị hơn, mạnh mẽ hơn.

4

Page 5: on tap hoc ki 1

Dẫu vậy, với tính chất nghệ thuật rất riêng của văn học dân gian, chẳng mấy ai yêu quý bài ca dao này không tự lý giải được, rằng không ai khác ngoài chàng trai đã gây nên nỗi lòng cô đọng trong điệp từ “ ai” kia. Mười câu thơ bốn chữ còn hay về cách gieo vần: vần chân xen lẽ vần lưng, trong đó thanh bằng và thanh trắt lại xoắn quýt lấy nhhau tạn nên âm điệu luyến láy liên hoàn, bâng khuâng mãi. Và nếu cứ đi theo cung cách cấu tứ như thế, lòng cứ tự hỏi lòng, thì bài ca dao sẽ trải dài đến vô tận. Lần theo mạch xúc cảm xuyên suốt, qua tới mấy lần hỏi, điểm cao trào bất chợt xuất hiện đột ngột dưới hình thức câu thơ lục bát, biến nỗi nhớ nhung dằng dặc kia thành:“Đêm qua em những lo phiền - Lo vì một nỗi không yên một bề”Từ nhịp thơ bốn chữ dồn dập và gây rung động lạ kỳ chuyển sang lục bát nhẹ nhàng và xao xuyến, bởi lẽ, cô gái một mực thương nhớ người yêu vẫn biết lo lắng cho số phận trái ngang của mình. Cô nhớ lắm, đến nỗi:“Qua cầu dừng bước trông cầuCầu bao nhiêu nhịp lòng sầu bấy nhiêu”Guồng quay cuộc sống thì cứ mãi lừng lững tiến về phía trước, hoàn cảnh trớ trêu không cho phép người con gái đơn thân mãi “ Thương thương nhớ nhớ sầu sầu”, xã hội không đồng ý để cô “Một ngày ba bận ra cầu đứng trông” . Từ “lo” được lặp lại đến hai lần, cùng chỉ từ số nhiều “những” chứng tỏ trong lòng cô gái đang có nhiều lo sợ mênh mông khi nghĩ về người mình yêu cùng một lúc; nhói cả tim khi nghĩ rằng anh sẽ thay đổi, sẽ như” vầng mây bạc giữa trời mau tan”; quặn cả lòng khi hay cả một xã hội phong kiến thối nát đang chực chờ ép duyên... Hạnh phúc quá mong manh và cái quyền tự do yêu đương cũng thật là bấp bênh, khi tình yêu tha thiết chân chính luôn bị nỗi sợ nơm nớp vô biên lấn át, “Sợ mẹ bằng đất, sợ cha bằng trời”. Nỗi lo phiền trĩu nặng tâm can, xuất phát từ chính nỗi nhớ thương khôn nguôi, từ khát vọng yêu và được yêu, từ sự bức bối muốn được vùng dậy giải thoát. . Càng yêu, càng nhớ thì con người ta càng bộc lộ sự lạc quan trữ tình và chung thuỷ của mình:“Chờ anh cho tuổi em caoCho duyên em muộn má đào em phai”Để diễn tả được hết nỗi lòng cũng như tính nhân văn sâu sắc, bài ca dao mang những yếu tố thi pháp và biện pháp nghệ thuật quen thuộc: điệp từ, điệp ngữ gây cảm giác quyến luyến mà dồn dập; dùng hình ảnh tượng trưng và nhân hoá chúng đạt hiệu quả cao. Quan trọng hơn cả, ẩn chưa trong toàn bài ca dao là nét đẹp kín đáo, thu hút, đằm thắm nữ tính; khá đặc biệt so với các khúc ca thương nhớ khác dùng hình thức biểu đạt trực tiếp…:“Nhớ ai hết đứng lại ngồi, - Ngày đêm tơ tưởng một người tình nhân.”“Nhớ ai nhớ mãi thế này? - Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn”Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ - Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai?...Vì thế, “Khăn thương nhớ ai” luôn có một chỗ đứng nhất định trong ca dao nỗi nhớ nói riêng , toàn bộ kho tàng văn học dân gian nói chung và một vị trí riêng trong lòng người đọc. Vượt chặng đường “những mấy nghìn năm”, bài ca dao sẽ mãi là viên ngọc long lanh, tuy hình thành từ bàn tay thô kệch nhưng được gọt giũa bởi tấm lòng và tâm hồn đẹp đẽ cao quý của người bình dân Việt Nam.Nhận xét: Bài viết giàu chất thơ, giàu cảm xúc tuy nhiên khi đọc kĩ chúng ta sẽ thấy phần đầu khi viết về nỗi nhớ biểu hiện qua chiếc khăn chưa được rõ ràng, diễn đạt chưa tốt lắm. Khi phân tích nỗi nhớ người yêu của cô gái biểu hiện qua chiếc khăn các em cần làm nổi bật: nỗi nhớ ngày càng tha thiết, trào dâng(1); Nỗi nhớ có không gian(2), tức nỗi nhớ quanh quất mọi hướng, mọi chỗ, mọi nơi, khiến con người không còntự chủ được mình mà dẫn đến cảnh khóc thầm “nhớ ai em những khóc thầm – Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa.” Các phần còn lại đều đạt, nhất là hai câu cuối.*Bài tham khảo số 02:“ Khăn thương nhớ ai, ... Đêm qua em những lo phiền,lo vì một nỗi không yên một bề... ”Bài ca nằm trong hệ thống ca dao về đề tài thương nhớ, một cung bậc trong ca dao tình yêu của người bình dân Việt Nam. Bài ca diễn tả nỗi nhớ niềm thương của một cô gái đang yêu. Nhớ thương da diết, nhớ đến thao thức, cồn cào gan ruột mà không dễ bộc lộ. Cô phải hỏi khăn, hỏi đèn, hỏi cả mắt mình. Những câu hỏi không có câu trả lời càng nén chặt nỗi thương nhớ, để cuối cùng trào ra trong nỗi lo âu cho hạnh phúc. Giọng thơ sâu lắng, dồn dập gợi nhiều cảm xúc.Đêm qua em những lo phiềnLo vì một nỗi ko yên một bềMở đầu, chiếc khăn được hỏi đến đầu tiên và được hỏi nhiều nhất:Khăn thương nhớ ai,...Chiếc khăn thường là vật trao duyên, vật kỷ niệm gơi nhớ người yêu. Sáu câu thơ được cấu trúc theo lối vắt dòng, láy lại 6 lần từ "khăn" ở vị trí đầu các câu thơ và láy lại 3 lần câu "khăn thương nhớ ai" như một điệp

5

Page 6: on tap hoc ki 1

khúc bất tận, thể hiện nỗi nhớ triền miên, da diết. Dường như mỗi lần hỏi là nỗi nhớ lại trào dâng thêm. Cái khăn, tự nó không biết " thương nhớ", không biết tự "rơi xuống", "vắt lên", " chùi nước mắt", nhưng những hình ảnh vận động mang cảm xúc người đã hiện lên hình ảnh con người với tâm trạng ngổn ngang niềm thương nhớ cùng nỗi lo âu. Nhớ đến ngơ ngẩn, nỗi nhớ tỏa theo nhiều chiều của không gian (" khăn rơi xuống đất rồi lại " khăn vắt lên vai"...), cuối cùng thu lại trong cảnh khóc thầm ("khăn chùi nước mắt").Nỗi nhớ trong 6 câu lan tỏa vào không gian, đến 4 câu tiếp lại xuyên suốt theo thời gian. Nỗi nhớ ban ngày kéo dài sang cả ban đêm:Đèn thuơng nhớ ai, mà ko tắtVẫn là điệp khúc "thương nhớ ai", nhưng nỗi nhớ đã chuyển từ " khăn" sang "đèn". Hình ảnh ngọn đèn gợi ra đêm khuya võ canh tàn, và cái đốm lửa đang cháy kia phải chăng là hình ảnh của nỗi nhớ cháy rực trong lòng cô gái? Ngọn đèn mãi không chịu tắt, nỗi nhớ cứ da diết khôn nguôi. Cũng như chiếc khăn. ngọn đèn đã giúp cô gái thổ lộ nỗi lòng.Nhưng dù gợi cảm bao nhiêu, thì chiếc khăn và ngọn đèn cũng chỉ là cách nói gián tiếp theo lối biểu tượng, nhân hoá. Nỗi lòng của cô gái buộc phải bật ra trong cách nói trực tiếp:"Mắt thương nhớ ai, mắt không ngủ yên"Thuơng nhớ đến không ngủ được, cứ trằn trọc thao thức là cách thức biểu lộ quen thuộc trong ca dao:“ Đêm nằm lưng chẳng tới giường,Trông cho mau sáng ra đường gặp anh"Tuy nhiên, cũng là một tâm trạng ấy, nhưng trong bài ca này, hình ảnh đôi mắt có sức gợi cảm sâu xa hơn nhiều. "Mắt ngủ không yên" tạo nên một đối xứng rất đẹp với "đèn không tắt" ở trên, gợi lên một khung cảnh rất thực: cô gái giữa đêm khuya một mình đối diện với ngọn đèn mà nhớ người thương. Vì "mắt ngủ không yên" nên "đèn không tắt". Nói đèn cũng chỉ là nói người mà thôi. Ngọn đèn soi chiếu vào đôi mắt, càng thấy nỗi nhớ thương vời vợi không nguôi.Mười câu thơ là 5 câu hỏi không có lời đáp. Điệp khúc " thương nhớ ai" trở đi trở lại như xoáy vào một nỗi niềm khắc khoải, da diết. Những lần " thương nhớ" và 5 lần từ " ai" xuất hiện. Bản thân từ "ai" mang ý phiếm chỉ, gợi lên một nỗi nhớ thương sâu thẳm mênh mông, không giới hạn. Từ "ai" không xác định cụ thể đối tượng, nhưng người nghe hoàn toàn hiểu được "ai" ấy là ai. Hỏi không có trả lời, nhưng thực câu trả lời đã nằm trong giọng điệu khắc khoải, da diết kia. Không cần nói rõ, nhưng nỗi nhớ người yêu đã đc bộc lộ một cách kín đáo mà gợi cảm, sâu sắc, mãnh liệt.Cách gieo vần của bài ca cũng rất đặc sắc. Vần chân và vần lưng xen kẽ nhau (ai-ai,mắt-tắt), vần bằng vần trắc luân phiên, tất cả tạo nên một âm điệu luyến láy liên hoàn khiến cho nỗi nhớ thương của cô gái vừa nén lại, vừa như kéo dài ra mênh mông vô tận theo cả không gian và thời gian. Tưởng chừng nỗi nhớ ấy sẽ không có kết thúc... Nhưng bài ca phải có điểm dừng. Khi cô gái không hỏi nữa thì niềm thương nhớ trào ra thành nỗi lo phiền : “Đêm qua em những lo phiền,lo vì một nỗi không yên một bề... ”Từ nhịp thơ 4 chữ dồn dập, liên tiếp, lời ca chuyển sang nhịp thơ lục bát nhẹ nhàng hơn nhưng cũng xao xuyến hơn, giải bày niềm lo âu của cô gái trước hạnh phúc lứa đôi. Không phải ngẫu nhiên mà chữ "lo" được nhắc đến 2 lần. Nhớ thương người yêu và lo lắng cho duyên phận của mình "không yên một bề", tâm trạng của cô gái mang ý nghĩa phổ biến cho người phụ nữ trong cuộc đời xưa: yêu tha thiết nhưng luôn lo sợ cho hạnh phúc bấp bênh.Bài ca khá tiêu biểu cho nghệ thuật ca dao với sự lặp lại trong cách diễn tả tâm trạng, cách dùng những hình ảnh biểu tượng, lối nhân hóa để tăng thêm sức sống cho hình ảnh, cách gieo vần linh hoạt, cách cấu tạo truyền thống kết hợp những câu thơ bốn chữ với hai câu lục bát cuối cùng... Qua nỗi thương nhớ và niềm lo âu đc diễn tả trong bài ca, ta nhận ra tiếng hát yêu thương và khao khát yêu thương của ngừơi bình dân xưa.Nhận xét: Bài viết không có lối diễn đạt hoa mĩ, giàu chất thơ như bài trên nhưng tương đối rõ ràng và đủ ý.4, Bài ca dao số 05: Ước muốn mãnh liệt trong tình yêu.Cũng giống như bài ca dao số 01 +02 +03, bài ca dao này cũng được mở đầu bằng một công thức chung quen thuộc. Bên cạnh những bài ca dao được mở đầu bằng những cụm từ “thân em...”, “trèo lên...”...trong ca dao còn có một số lượng khá lớn những bài ca được mở đầu bằng cụm từ “ước gì...”. Nhưng nếu như những bài ca dao mở đầu bằng cụm từ “thân em” thường là tiếng hát than thân của người phụ nữ trong xã hội xưa, những bài ca dao mở đầu bằng cụm từ “trèo lên” thường thể hiện nỗi đau của những chàng trai khi bị lỡ duyên thì những bài ca dao mở đầu bằng cụm từ “ước gì...”thường là để thể hiện ước muốn cháy bỏng của những đôi lứa cách xa nhau được ở bên nhau như “Ước gì em hoá ra dưa, - Để cho anh tắm nước mưa chậu đồng”;

6

Page 7: on tap hoc ki 1

“Ước gì anh hoá ra hoa, - Để em nâng lấy rồi mà cài khăn.” hay “Ước gì anh hoá ra chăn, - Để cho em đắp, em lăn, em nằm.”... Trong những ước muốn đó, có ước muốn hai bên trai gái được vượt qua đôi bờ xa cách và cái cầu đã trở thành biểu tượng của những sứ giả nối liền tình yêu. Trong những bài ca dao tình yêu viết về chiếc cầu thì bài ca dao sau là bài ca hay nhất:“Ước gì sông rộng một gang, Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi” Bài ca dao là lời của một cô gái đang yêu thầm nói với người yêu về ước muốn mãnh liệt và táo bạo của mình trong nỗi khát khao mong chờ “người ấy” tới.*Từ chiếc cầu trong ca dao tình yêuTrong ca dao tình yêu, chiếc cầu là môtíp nghệ thuật quen thuộc và đặc sắc, một biểu tượng chỉ nơi hò hẹn và gặp gỡ của lứa đôi, là phương tiện để họ đến được với nhau. Ngoài những cây cầu có thực như cầu tre, cầu ván đóng đinh ... thì ca dao còn một loạt hình tượng những cây được tạo thành bởi chí tưởng tượng phong phú của người bình dân. Những cây cầu đó được xây lên từ những vật liệu hết sức đặc biệt như: cành hồng, cành trầm, ngọn mùng tơi, thậm chí được dệt bằng hàng trăm thứ chỉ sặc sỡ...“Hai ta cách một con sông – Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang.”; “Cách nhau cóa một con đầm – Muốn sang anh ngả cành trầm cho sang – Cành rtầm lá dọc, lá ngang – Để người bên ấy bước sang cành trầm.”; “Gần đây mà chẳng sang chơi – Để em ngắt ngọn mùng tơi bắc cầu – Sợ rằng chàng chăng đi cầu – Cho tốn công thợ, cho sầu lòng em.”; “Chỉ xanh, chỉ đỏ, chỉ vàng – Một trăm thứ chỉ bắc ngang đầu cầu – Nào em đã có chồng đâu – Mà anh đón trước rào sau làm gì.”...Đó là những cây cầu ảo, những cây cầu không có thực được dệt bằng những ước mơ táo bạo của con người, thể hiện những khát khao của tình yêu đôi lứa và đem đến những vẻ đẹp rất dân gian, rất đồng quê chỉ ca dao mới có được.*Tới ước muốn “sông rộng một gang” và hình ảnh “chiếc cầu dải yếm”.Con sông rộng một gang là con sông không có thực, nó là con sông mơ ước diến tả tinh tế nỗi niềm, tâm trạng của người con gái khi yêu. Khi yêu, khi nỗi nhớ thương trào dâng lên mãnh liệt, mọi xa cách đều gần lại, mọi trắc trở đều có thể vượt qua, mọi con đường đến với nhau đều thơ mộng, dễ dàng. Con sông kia ngăn cách hai bờ rộng bao nhiêu không ai rõ nhưng trong nỗi nhớ của người con gái khi yêu nó trở nên nhỏ hẹp và đầy duyên dáng, nó là con sông lí tưởng để cô gái bắc chiếc cầu dải yếm để mời người yêu mình sang nhà chơi.Nếu như “con sông rộng một gang” là con sông không có thực thì “chiếc cầu dải yếm” lại càng ảo, nhưng có con sông ấy mới có chiếc cầu này. Chiếc cầu ấy không chỉ là nơi hò hẹn mà nó còn là cây cầu mơ ước, nó gói ghém tất cả tình thương, nỗi nhớ mà cô gái dành cho người yêu.Đặt trong hệ thống các cây cầu trong ca dao tình yêu, “cây cầu dải yếm” mang một vẻ đẹp vô cùng độc đáo. Bởi:+Chiếc cầu được chủ động ...+Chiếc cầu được làm bằng dải yếm...Nếu như những cô gái khác mượn cành hồng, cành trầm, ngọn mùng tơi ... mượn những cái bên ngoài để bắc cầu thì người con gái ở đây đã lấy cái vật thân thiết nhất với mình – dải yếm để bắc cầu mời người yêu. Cây cầu ấy so với các cây cầu khác nó mới mềm mại, dịu dàng, êm ái, hấp dẫn, mời gọi biết bao.Như vậy, có thể khẳng định chiếc cầu dải yếm là chiếc cầu đẹp nhất trong ca dao tình yêu bởi nó được tạo nên bằng chính màu thịt, cuộc đời, trái tim đang rạo rực yêu thtương của cô gái. Nó là một sự kết tinh đẹp bởi qua đó ta không chỉ cảm nhận được tâm hồn đẹp của người lao động khi yêu mà còn bởi tù đây ta thấy được cách nói đẹp của họ trong việc biểu đạt tình yêu đó.5, Bài ca dao số 06: Tình nghĩa vợ chồng gắn bó thuỷ chung.Lấy những sự vật quen thuộc, phổ biến trong tự nhiên để diễn tả tình cảm nhớ mong, thề nguyền, ước hẹn là thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu của ca dao. Nếu thuyền – bến; trúc – mai ...là những biểu tượng thường được dùng để diễn tả tình yêu đôi lứa thì những vật rất bình dị: muối – gừng lại được dành để diễn tả sự thuỷ chung trong tình nghĩa vợ chồng. Trong ca dao có rất nhiều những bài ca đã sử dụng hình ảnh “muối mặn – gừng cay” khi nói về tình nghĩa vợ chồng nhưng có lẽ hay nhất là bài ca dao:“Muối ba năm....”Muối, gừng là gia vị trong bữa ăn hàng ngày của mỗi gia đình, không cao sang, đắt đỏ nhưng vô cùng cần thiết. Vị mặn của muối, vị cay nóng của gừng không hề thay đổi theo thời gian, ngược lại, thời gian càng làm cho nó thêm thử thách: “Em ơi chị bảo em này – Nhất mặn là muối, nhất cay là gừng.”; “Gừng rà, gừng rụi, gừng cay, - Anh hùng càng cực càng dày nghĩa nhân.”...Vì những đặc tính ấy, muối gừng trở thành biểu tượng của sự thử thách, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi để càng đậm đà tình nghĩa.

7

Page 8: on tap hoc ki 1

Trong bài ca dao này, vị mặn của muối, vị cay của gừng được nói trước như một tiền đề để “nghĩa nặng”, “tình dày” của đôi ta. Sử dụng linh hoạt thể thơ song thất lục bát, cùng với việc láy lại hai lần từ “muối”, “gừng”, đi liền với điệp từ “còn”, tác giả dân gian đã nêu lên tính chất, quy luật của tự nhiên để khẳng định tình nghĩa vợ chồng:“Đôi ta ...mới xa”.Sử dụng biện pháp nghệ thuật tiểu đối “nghĩa nặng” – “tình dày”, tác giả dân gian đã khẳng định, duyên vợ chồng là tình là nghĩa. Thời gian không làm phai nhạt được vị của gừng, muối cũng như tình nghĩa nặng, dày của vợ chồng luôn bền vững trước những thử thách của thời gian, cuộc sống. Và nếu “có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”. Tạo sự biến thể ở câu bát, đưa câu thơ từ tám lên mười ba tiếng, tác giả dân gian đã thể hiện một lối nói đặc sắc: “ba ...xa”, tức một trăm năm, đi hết một đời người mới xa cách, có nghĩa tình nghĩa vợ chồng là một lời nguyền thuỷ chung, son sắc, chỉ có cái chết mới có thể chia lìa.

TỎ LÒNGA/Mục tiêu bài học.Thấy được vẻ đẹp sáng ngời của trang tráng sĩ đời Trần- người anh hùng vệ quốc với tư thế, khát

vọng, hoài bão lớn lao; Thấy được sức mạnh hào hùng của thời đại, những minh chứng rõ ràng nhất của hào khí Đông – A.

Thấy được đặc sắc nghệ thuật của bài thơ.B/Nội dung bài học.I.Những kiến thức khái quát.Triều đại nhà Trần (1226-1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của

lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, nhà Trần đã ghi vào pho sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử.

Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ngợi ca là “Hào khí Đông A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng – nghĩa sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão, “Tụng giá hoàn kinh sư” của Trần Quang Khải, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu.v.v… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.

Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320) là một danh tướng đời Trần, văn võ toàn tài, có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông xâm lược. Trong lịch sử văn học dân tộc, ông chỉ để lại hai bài thơ. “Thuật hoài” (Tỏ lòng) là một trong hai bài thơ ấy. Ra đời trong không khí quyết chiến, quyết thắng của quân dân nhà Trần chống giặc Nguyên – Mông xâm lược, bài thơ đã thể hiện sâu sắc vẻ đẹp của hình tượng người tráng sĩ đời Trần, người anh hnùg vệ quốc hiên ngang, lẫm liệt với lí tưởng và nhân cách lớn lao; vẻ đẹp của thời đại với sức mạnh và khí thế hào hùng.

II/Những kiến thức cụ thể.1, Hai câu đầu: vẻ đẹp hào hùng của con người và thời đại.a, Câu 01: Vẻ đẹp của hình tượng người tráng sĩ đời Trần, người anh hùng vệ quốc.

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,”(Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,)

*So sánh bản phiên âm và dịch thơ để thấy được vẻ đẹp của người tráng sĩ: ở câu thơ đầu tiên này :từ “hoành sóc” trong bản phiên âm mà được dịch là “múa giáo” không khỏi khiến cho người đọc suy nghĩ, phân vân. “Hoành sóc ...” – “Múa giáo ...”: một mạnh mẽ,hào hùng, chắc nịch - một chậm rãi, nhẹ nhàng; một thiên về sức gợi – một thiên về sức tả. Vậy, câu thơ nào hay hơn, câu thơ trong nguyên tác hay câu thơ dịch? Câu thơ nào thể hiện được rõ hơn, đẹp hơn hình tượng người anh hùng?

-“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”, câu thơ trong nguyên tác đã dựng lên hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo mà trấn giữ non sông, đất nước. Con người ở đây xuất hiện với:

+Tư thế hiên ngang, lẫm liệt, chủ động, tự tin.+Hành động phi thường.+Tầm vóc vũ trụ.Đó là vẻ đẹp của một con người kì vĩ.-“Múa giáo non sông trải mấy thu”, câu thơ dịch không những làm mất đi âm điệu mạnh mẽ, chắc

nịch, hào hùng của câu thơ trong nguyên tác mà quan trọng hơn nó đã làm giảm đi rất nhiều vóc dáng sử thi của người anh hùng, cầm ngang ngọn giáo đứng giữa non sông vì trách nhiệm với đời, với nước. Thiên về sức tả, câu thơ dựng lên hình ảnh một con người cầm giáo và múa, nó chỉ là cái nông, nhẹ bên ngoài, hơi có

8

Page 9: on tap hoc ki 1

chút phô trương, biểu diễn, nó làm mất cái cường độ, nội sinh, nội lực bên trong – một sức mạnh ghê gớm có thể bùng nổ bất cứ lúc nào.

Như vậy, “hoành sóc” dịch là “múa giáo” tuy hay nhưng chưa lột tả hết được vẻ đẹp của con người trong nguyên tác.

*Bối cảnh người tráng sĩ xuất hiện:-Không gian: mở theo chiều rộng của núi sông.-Thời gian: kéo dài theo năm tháng, “kháp kỉ thu” là mấy năm rồi.Bối cảnh không gian và thời gian kì vĩ làm nổi bật hình ảnh con người kì vĩ.*Tóm lại: Câu thơ đầu tiên đã khắc hoạ vẻ đẹp của người anh hùng mang tầm vóc sử thi, một dũng

tướng, người anh hùng vệ quốc, người tráng sĩ phi thường, oai phong, lẫm liệt, mang tư thế và tầm vóc của hào khí Đông – A.

Hình ảnh người tráng sĩ ấy càng đẹp hơn khi được đặt vào khung cảnh bừng bừng khí thế tiến công của một đội quân dũng mãnh.

b, Câu 02: Hình ảnh quân đội nhà Trần.Ba quân: là hình ảnh nói về quân đội nhà Trần nhưng đồng thời cũng tượng trưng cho sức mạnh toàn

dân tộc.*Câu thơ có hai cách hiểu:-Cách hiểu 01: hiểu “ngưu” là trâu. (Câu thơ được hiểu như trong SGK)-Cách hiểu 02: hiểu “ngưu” là sao Ngưu. Câu thơ được dịch là: “Ba quân như hổ báo khí thế xung

thiên át cả sao Ngưu trên trời” (Ba quân hùng khí át sao Ngưu).-Nhận xét: hai cách hiểu không đối lập nhau bởi chúng cùng khẳng định vẻ đẹp và sức mạnh hào

hùng của thời đại. (Các em nên đi theo cách hiểu trong SGK).*Nghệ thuật và tác dụng:-Thủ pháp nghệ thuật so sánh: “ba quân” như “hổ báo”-Thủ pháp nghệ thuật cường điệu: “khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu”.-Tác dụng: Thấy được sức mạnh dũng mãnh, khí thế hừng hực mạnh như vũ bão của ba quân.*Nhận xét: như trong giảng văn.c,Mối quan hệ giữa câu 01 và câu 02: xem giảng văn.d,Kiến thức mở rộng: Hình ảnh người tráng sĩ tung hoành nơi trận mạc, hình ảnh ba quân là những

hình ảnh qquen thuộc trong văn học thời trung đại như : “Miệng thòm thèm giương dạ nuốt trâu – Chí hăm hở dang tay bắt vượn” (Thập giới cô hồn quốc ngữ văn – Lê Thánh Tông), “Múa gươm rượu tiễn chưa tàn – ngang lưng ngọn giáo vào ngàn hang beo” (Chinh phụ ngâm) ... nhưng so với hình ảnh người tráng sĩ cầm ngang ngọn giáo trấn giữ non sông trong Thuật Hoài thì đó chỉ là những hình ảnh ước lệ mang tính khoa trương, không có được cái khí thế hào hùng, tầm vóc kì vĩ.

2, Hai câu cuối: Nỗi lòng của người anh hùng.a, Chí của người anh hùng. (xem trong giảng văn)b, Tâm của người anh hùng. (xem trong giảng văn)3, Liên hệ bản thân.Được khắc hoạ bằng bút pháp sử thi hoàng tráng, Thuật hoài (Tỏ lòng) đã thể hiện được hào khí

Đông – A, một trong những thời đại hào hùng nhất của lịch sử Việt Nam.Bài tập:1,Cảm nhận của anh (chị) về bài thơ.2,Phân tích bài thơ để thấy được hào khí Đông – A được thể hiện trong tác phẩm.a, Hào khí Đông – A là gì? Hào khí Đông –A là khí thế hào hùng của thời đại nhà Trần nhưng cũng là khí thế hào hùng của toàn

dân tộc Đại Việt trong một giai đoạn lịch sử vĩ đại. Hào khí đó được bắt nguồn từ thời lịch sử các vua Hùng dựng nước, đến đời Lí và được thể hiện mạnh mẽ nhất ở đời Trần với niềm kiêu hãnh ba lần chiến thắng giặc Nguyên – Mông xâm lược.

Hào khí Đông – A được biểu hiện trên rất nhiều phương diện như: niềm tự hào trước những chiến thắng vẻ vang của thời đại; niềm tin sắt đá vào sự trường tồn của đất nước; quyết tâm giết giặc cứu nước dù thời vận đã qua ...

b, Hào khí Đông – A trong tác phẩm.-Thể hiện ở khí thế và sức mạnh của thời đại. (Câu 2)-Thể hiện ở vẻ đẹp của hình tượng người tráng sĩ. (Câu 1,3,4)

Tham khảo:

9

Page 10: on tap hoc ki 1

Phân tích bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão để làm nổi bật cảm hứng yêu nước anh hùng của bài thơ.          Triều đại nhà Trần (1226-1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, nhà Trần đã ghi vào pho sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử.

Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ngợi ca là “Hào khí Đông A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng – thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão, “Tụng giá hoàn kinh sư” cảu Trần Quang Khải, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu.v.v… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.

          Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và “Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”.

          Bài thơ “Thuật hoài” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự hoạ của danh tướng Phạm Ngũ Lão.

          Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu thơ “Hoàng sóc giang sơn cáp kỷ thu” là một câu thơ có hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang sơn) vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (cáp kỷ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cắp ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.

          Đội quân “Sát Thái” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo (tỳ hổ) quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân “phụ tử chi binh” ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “Sát Thát” đánh đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:

          -“Thuyền bè muôn đội; - Tinh kỳ phấp phới - Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…”    (Bạch Đằng giang phú)

-   “Giang sơn hoàng sóc, khí thôn Ngưu” (“Vịnh Phạm Ngũ Lão” - Đặng Minh Khiêm) (1456-1522)

          - “Nghĩa binh tráng khí thôn Ngưu Đẩu.” (“Đăng Sơn”- Hồ Chí Minh)

Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ). “…Dẫu cho trăm thân này phơi ngaòi nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng” (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hung của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:

          “Công danh nam tử còn vương nợ - Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

          “công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu

10

Page 11: on tap hoc ki 1

sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm. Không chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”, mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “Khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bên được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thị Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tông).

          “Thuật hoài” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng, mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng, trang nghiêm, mang phong vị anh hùng ca. Nó mãi mãi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời “hào khí Đông-A”.

Cảm nhận: Thuật Hoài của Phạm Ngũ LãoÂm vang của thời đại Đông A với những chiến công lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại xâm, ba lần đánh bại Nguyên - Mông đã in dấu trên nhiều trang viết của các nhà thơ đương thời. Phạm Ngũ Lão - danh tướng nhà Trần "đánh đâu thắng đó" cũng ghi lại những xúc cảm của mình qua Thuật Hoài - tác phẩm thể hiện rất đẹp hình ảnh và khí thế của người trai thời đại, cũng là tư thế của dân tộc trong những ngày hào hùng ấy.Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu ... Tu thính nhân gian thuyết Vũ HầuBài thơ chữ Hán , vẻn vẹn 28 chữ đã có một dung lượng thông điệp thẩm mỹ lớn, thể hiện khí phách nhà thơ - dũng tướng. Thi ngôn chí là nội dung tư tưởng của đề tào Thuật hoài, Vịnh hoài, cảm hoài... Nhưng sẽ không thể có cái ung dung hào sảng nếu tách bài thơ ra khỏi không khí thời đại bừng bừng "sát Thát". . Bài thơ không tách rời khỏi quỹ đạo tư tưởng Nho giáo trong mẫu hình người anh hùng cá nhân phong kiến nhưng trước hết nó là nỗi lòng của người "một thời tuy đã nên tướng giỏi - chí khí anh hùng vẫn khát khao". Giấc mộng lập công dương danh luôn là điều ám ảnh những kẻ sĩ, đại trượng phu thời phong kiến, đi liền với các tước phong công, hầu, khanh, tướng. Nhưng trong bài thơ này, con người đã được phác bằng những câu thơ có sức khái quát cao độ tinh thần dân tộc tự cường.Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thuCâu khai đề của bài thơ đã tạo một tư thế rất đẹp của con người. Bản dịch vung giáo, múa giáo đều không ổn vì lập tức nó sẽ phá vỡ đi đối trọng con người - không gian. Một bên là giang sơn - sông núi quê hương rộng lớn; một bên là con người hoành sóc - cầm ngang ngọn giáo trấn giữ non sông. Thế "hoành" của ngọn giáo khiến tầm vóc con người như vươn lên ngang tầm sông núi. Hình ảnh người lính vệ quốc toát lên vẻ bình thản hiên ngang. Không những thế, trong mối tương quan con người - thời gian còn làm nổi bật ấn tượng về sự bền bỉ , uy dũng của người trai thời đại. Bởi lẽ con người không chỉ đứng đó trong thoáng chốc mà đã trải qua "mấy thu" rồi. Câu thơ xác lập một tư thế con người lồng lộng giữa đất trời, ngang tầm vũ trụ. Không những thế, cả đoàn quân cùng chung tư thế ấy :Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưuCâu trên là hình ảnh, câu dưới là thần thái con người. Người chiến sĩ cầm ngang ngọn giáo kia với tam quân đã tạo thành một tường thành vững chắc, im phăng phắc mà khí thế "xung thiên". Câu thơ còn gợi về một ý thơ của Quảng Nghiêm thiền sư : "Nam nhi tự hữu xung thiên chí". Tư thế sẵn sàng xung trận đã hình thành tứ thơ thật đẹp "tỳ hổ khí thôn ngưu". Tuy rằng cách diễn ý chưa thoát khỏi lối ước lệ tượng trưng quen thuộc của thơ xưa nhưng để hiểu cặn kẽ cũng không phải là điều đơn giản. Theo cảm quan thẩm mỹ cổ điển, câu thơ gợi lên khí phách đoàn quân quyết chiến làm át cả sao Ngưu - vì tinh tú sáng chói trên trời. Nhưng cách hiểu "ba quân như hổ mạnh nuốt trôi trâu" đem đến cảm nhận cụ thể hơn về sức mạnh của quân đội còn non trẻ đương đầu với đội quân Nguyên - Mông hùng mạnh và thiện chiến, dường như có hàm ý ngợi ca tự hào mạnh mẽ hơn. Bởi lẽ tỳ hổ là cách so sánh mang đậm chất võ của người thống lĩnh ba quân. Trong sự liên tưởng ấy, hổ và trâu hoàn toàn không làm mất đi giá trị thẩm mỹ của câu thơ mà làm rõ hơn cho dũng khí của quân đội nhà Trần.Nhưng hai câu thơ đầu mới chỉ là nền để nhà thơ bộc bạch lòng mình :Nam nhi vị liễu công danh trái....Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầuĐây mới là điều canh cánh bên lòng của người dũng tướng, gắn với bổn phận của kẻ làm trai thời phong kiến . Bao đời nay, nợ công danh từng là niềm ám ảnh khôn nguôi với những người làm trai trong thời phong kiến. Phải chăng, một người anh hùng như Phạm Ngũ Lão cũng không thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn "công hầu kha nh tướng" ấy? Giả sử có như vậy cũng là lẽ thường tình, nhất là trong thời đại giá trị con người được tạo nên từ những chiến công - thời thế tạo anh hùng. Câu thơ bộc lộ niềm khao khát lớn, một điều băn khoăn chưa trả với đời của người trai làng Phù Ung năm nào. Tất cả nỗi niềm của ông được thổ lộ trong sự đối sánh với tấm gương Vũ Hầu Gia Cát Lượng thuở xưa. Bậc mưu thần, danh sĩ nổi tiếng thời Tam Quốc, người đã xả thân vì cơ nghiệp nhà Thục, vì chúa Lưu Bị, nhắm mắt chưa yên công cuộc

11

Page 12: on tap hoc ki 1

"ủng Lưu phản Tào". Tất cả đã rõ, tâm niệm của Phạm Ngũ Lão nào khác nguời xưa khi ông mong muốn làm nên công nghiệp phò tá cho vua, thực hiện lý tưởng trí quân trạch dân cao cả của bề tôi trung thành tận tuy. Nỗi thẹn của người anh hùng toả sáng một nhân cách lớn. Băn khoăn ấy không dành riêng cho bản thân mà toàn tâm toàn ý hướng về nghiệp lớn muôn đời, vì sự bình yên của sơn hà xã tắc.Bài thơ là sự phản chiếu một thời đại hào hùng, khi lý tưởng trung quân ái quốc hoà nhịp trọn vẹn trong tình cảm, tâm hồn nhà thơ, thời đại "vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, cả nước ra sức".Tâm nguyện của Phạm tướng quân đã phản chiếu tâm tư của bao người trai thời Trần : ý thức rõ giá trị bản thân, nhận rõ sự gắn bó cá nhân với cộng đồng - dân tộc - đất nước. Xúc cảm hào hùng toả sáng trong hình tượng thơ, đem đến cho người đọc cái nhìn trọn vẹn về con người thời đại Đông A.Lưu ý: Các tài liệu trên đây chỉ dùng để tham khảo. Để học tốt các em cần đọc hiểu phần giảng văn, tìm thêm các tài liệu tham khảo khác và tốt nhất là mỗi bài nên viết thử ít nhất một lần.Bài tập: Về nhà làm các đề sau: Suy nghĩ của anh (chị) về tác phẩm: “Tỏ lòng”; “Cảnh ngày hè”; “Đọc Tiểu Thanh kí” và chọn ít nhất hai tác phẩm văn học dân gian đã học. (Ví dụ: Chùn ca dao hài hước; Chùm ca dao than thân, yêu thtương tình nghĩa; hai tác phẩm truyện cười ...)

12

Page 13: on tap hoc ki 1

Cảnh ngày hè“Quốc âm thi tập” là tập thơ được viết bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi. Được đánh giá là “bông hoa đầu mùa của văn học thuần Việt”, tập thơ đã đưa Nguyễn Trãi trở thành người đặt nền móng mở đường cho sự phát triển của thơ tiếng Việt. Phản ánh vẻ đẹp con người của Nguyễn Trãi, tập thơ gồm 254 tác phẩm và được cấu trúc làm bốn phần: Vô đề, Môn thì lệnh, Môn hoa mộc, Môn cầm thú. Trong đó, Vô đề gồm những bài thơ không có tựa đề và được sắp xếp thành các mục: Ngôn chí, Tự thuật, Tự thán, Mạn thuật , Bảo kính cảnh giới (61 bài). Cảnh ngày hè là bài thơ thứ 43 trong mục thơ “Bảo kính cảnh giới”. Ra đời trong hoàn cảnh khi Nguyễn Trãi đã lui về ở ẩn tại Côn Sơn, bài thơ đã thể hiện được vẻ đẹp độc đáo của bức tranh ngày hè và tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu cuộc sống, yêu nhân dân, đất nước của Nguyễn Trãi. Đồng thời, thông qua những vần thơ ấy, người đọc sẽ thấy được những đặc sắc nghệ thuật của thơ Nôm Ức Trai: bình dị, tự nhiên nhưng không kém phần hấp dẫn.*Nguyễn Trãi với thiên nhiênỨc Trai là nhà thơ của thiên nhiên: “Non nước cùng ta đã có duyên” (Tự thán, bài 4). Ông đến với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh: thời chiến, thời bình, lúc buồn, lúc vui, lúc bận rộn, khi thư nhàn ... Trong hoàn cảnh nào tâm hồn nhà thơ cũng rộng mở đón nhận thiên nhiên.*Bài thơ mở đầu bằng một câu thơ lục ngôn đầy sáng tạo và lạ lẫm với làng thơ thời bấy giờ:“Rồi hóng mát thuở ngày trường”Với cách ngắt nhịp độc đáo 1/2/3, câu thơ được cất lên bằng một giọng điệu chậm rãi cho ta thấy hoàn cảnh nhà thơ đến với thiên nhiên. Vốn là một người “thân không nhàn mà tâm cũng không nhàn”, “một phút thanh nhàn trong thuở ấy” với Ức Trai thật đáng quý biết bao. Vậy mà ở đây, trong bài thơ này, Ức Trai có cả một ngày trường để đến với thiên nhiên. Thời gian rảnh rỗi, tâm hồn thư thái, thanh thản, khí trời mát mẻ, trong lành. Đó là một hoàn cảnh lí tưởng (cả về khách quan và chủ quan) để nhà thơ đến với thiên nhiên.1, Bức tranh ngày hè.Đến với thiên nhiên, không dùng bút pháp vịnh thường thấy trong thơ xưa, ở đây Nguyễn Trãi thiên về bút pháp tả, phải chăng chính sự khác biệt đó đã tạo nên vẻ đẹp của bức hoạ thiên nhiên?Bước vào khám phá những câu thơ tiếp theo của thi phẩm, hiện lên trước mắt người đọc là một bức tranh ngày hè trong buổi chiều tà của một làng quê thanh bình yên ả. Đó là một bức tranh thiên nhiên sinh động và đầy sức sống.a, Bức tranh thiên nhiên sinh động.-Tạo nên tính sinh động của bức tranh, trước hết chúng ta chú ý vào cách cảm nhận cảnh vật của nhà thơ: +Bức tranh được khám phá ở nhiều chiều, nhiều góc độ khác nhau:...+Bức tranh được cảm nhận tinh tế bằng nhiều giác quan: thị giác, khứu giác, thính giác và cả sự liên tưởng. Nhờ vậy bức tranh có đầy đủ đường nét, màu sắc, âm thanh, hương vị, con người, cảnh vật. -Vậy đường nét, màu sắc, âm thanh, hương vị của bức tranh gồm những yếu tố nào?+Màu sắc, đường nét: màu xanh của tán lá hoè trong vườn; màu đỏ của hoa thạch lựu trước hiên nhà; màu hồng của hoa sen trong ao.+Hương vị: hương sen trong ao đang thơm ngát.+Âm thanh: tiếng inh ỏi của cầm ve trước hiên nhà.Đó là những yếu tố đặc trưng của mùa hè.-Tính sinh động của bức tranh được tạo nên bởi sự kết hợp hài hoà giữa đường nét, hương sắc, âm thanh, con người và cảnh vật.+Đường nét và màu sắc:..+Hương vị và âm thanh:...b, Bức tranh thiên nhiên đầy sức sống.-Thời gian: cảnh vật đang ở vào thời điểm cuối ngày (lầu tịch dương – lầu lúc mặt trời sắp lặn) nhưng sự sống thì không dừng lại. Sức sống của cảnh vật thể hiện ở cách sử dụng động từ độc dáo của tác giả:+Những động từ mạnh chỉ hành động: đùn đùn , giương , phun, tiễn: sức sống như đang được thôi thúc từ bên trong, đang căng ứa, tràn đầy, không sao kìm hãm lại được. Màu xanh của tán lá cây hoè cứ đùn đùn tuôn ra dồn dập, không chỉ có vậy, chúng còn gương lên hết lớp này đến lớp khác che rợp không gian...(các em tự phân tích các từ còn lại).So sánh câu thơ tả cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi: “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ” với câu thơ tả cảnh mùa hè của Nguyễn Du: “Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông” (Truyện Kiều) để thấy được điểm chung và điểm riêng trong cách miêu tả của hai tác giả. Cả hai bài thơ đều cho ta thấy cái nhìn tinh tế đối với cảnh vật của Nguyễn Trãi và Tố Như. Cùng lấy hoa lựu để miêu tả cảnh hè nhưng câu thơ của Nguyễn Du thiên về tạo hình sắc còn câu thơ của Ức Trai lại thiên về tả sức sống.

13

Page 14: on tap hoc ki 1

+Những từ láy chỉ âm thanh: dắng dỏi, lao xao: mặc dù buổi chiều tà nhưng âm thanh vẫn âm vang phá tan bầu không khí tĩnh mịch thường thấy của những buổi chiều quê, góp phần cho ta thấy sức sống không sao kìm hãm lại được của cảnh vật.2, Vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.a, Tình yêu thiên nhiên.Nguyễn Trãi là người yêu thiên nhiên tha thiết. Tình yêu ấy trong bài thơ được thể hiện qua sự giao cảm mạnh mẽ, tinh tế của nhà thơ với cảnh vật. Yêu thiên nhiên, đón nhận vẻ đẹp của thiên nhiên vào lòng, Nguyễn Trãi đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ trong sự kết hợp hài hoà theo quy luật của cái đẹp trong hội hoạ, âm nhạc tạo cho bức tranh thiên nhiên vừa có hình, vừa có hồn, vừa gợi tả, vừa sâu lắng. So với các tác giả thời Hồng Đức thì đó là một bước tiến dài. Các tác giả thời Hồng Đức cùng viết về mùa hè, cùng có sự giao cảm mạnh mẽ nhưng những bức tranh mà những nhà thơ thời đó đem đến cho người đọc mang vẻ đẹp mộc mạc và có phần thô tháp: “Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi, - Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè” (Lại vịnh nắng mùa hè, bài 3). Còn ở Nguyễn Trãi, thiên nhiên qua cảm xúc của nhà thơ trở nên sinh động, đáng yêu và đầy sức sống. Bởi nó được xuất phát từ lòng yêu đời, yêu cuộc sống thiết tha của thi sĩ.b, Tấm lòng ưu ái với dân, với nước.Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên, nhưng trước hết vẫn là tấm lòng của ông tha thiết với con người, với dân, với nước. Tấm lòng ưu ái với dân, với nước ấy của nhà thơ được thể hiện qua:-Niềm vui của Ức Trai qua cuộc sống no đủ của nhân dân: “Lao xao ... lầu tịch dương”.Cuộc sống no đủ của nhân dân được gợi lên qua hình tượng hết sức quen thuộc ở khắp những vùng quê đất Việt. Đó là hình ảnh của chợ, một hình ảnh vô cùng điển hình của cuộc sống thường ngày. Chỉ cần nhìn vào chợ là có thể thấy được âm vang của đời sống. Từ làng chài xa, âm thanh “lao xao” của chợ cá vọng lại bên tai tác giả, nó gợi lên cảnh nhộn nhịp, đông vui, vui tai, vui mắt. Nó đã nói lên cuộc sống no đủ, hạnh phúc của nhân dân. Và hoà cùng với âm thanh “lao xao” ấy, tiếng ve gióng giả inh ỏi như một bản đàn cùng tạo nên cảnh náo nhiệt của buổi hoàng hôn. “Dắng dỏi cầm ve” là một khúc hoà tấu vui tươi ngợi ca cuộc sống. Hai âm thanh đó hoà nhịp với nhau, kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3, nghệ thuật đối truyền thống trong thơ Đường ở cặp câu luận và nghệ thuật đảo ngữ tạo nên trước mắt người đọc cuộc sống vui tươi, no đủ của nhân dân và niềm vui của tác giả trước cuộc sống ấm no đó. Trong văn học, buổi chiều tà thường gợi lên sự khắc khoải, nỗi buồn. Đó là nỗi buồn của người lữ thứ tha hương: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn – Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?” (Hoàng Hạc lâu – Thôi Hiệu), “Lòng quê dợn dợn vời con nước – Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” (Tràng giang – Huy Cận)... Nhưng ở đây, buổi chiều không buồn mà vui, nó không chỉ là niềm vui của cuộc sống mà còn là khúc nhạc lòng thiết tha của Ức Trai. Bởi nỗi trăn trở, giày vò, mục đích lớn nhất của cuộc đời ông đã được thực hiện: dân ấm no, hạnh phúc.-Ước muốn cao đẹp và nghệ sĩ của nhà thơ.Sử dụng điển tích, điển cố, nhắc tới người xưa, nhìn cuộc sống no đủ của nhân dân, Nguyễn Trãi ước muốn có cây đàn của vua Thuấn để ngợi ca cảnh:Dân giàu đủ khắp đòi phương.Câu kết của bài thơ lần thứ hai tác giả sử dụng câu thơ sáu chữ ngắn gọn, thể hiện sự dồn nén cảm xúc của cả bài. Hoá ra, điểm kết tụ của tâm hồn Ức Trai không phải ở thiên nhiên, tạo vật mà là ở con người, ở nhân dân. Với Nguyễn Trãi, dù ui hay buồn, lo âu hay thanh thản, tất cả đều xuất phát từ cuộc sống của nhân dân, dù ở cung bậc và sắc thái tình cảm nào thì tấm lòng của ỨcTrai với dân, với nước chỉ là một: “Bui một tấc lòng ưu ái cũ - Đêm ngày cuồn cuồn nước triều đông” (Thuật hứng - số 5)Cảnh ngày hè mãi là bông hoa văn học thuần Việt đầu mùa đẹp nhất. Nó không chỉ cho ta thấy cảnh đẹp mà còn cho ta thấy tâm hồn đẹp của Ức Trai. Tham khảo:Nguyễn Trãi (1380 -1442) là đại thi hào dân tộc, người anh hùng cứu quốc thuở “Bình Ngô”, danh nhân văn hoá Đại Việt. Thơ chữ Hán cũng như thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi đẹp đẽ, sâu sắc, biểu tượng cao quý của nền văn hiến Việt Nam.“Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi hiện còn 254 bài thơ, được chia nhiều loại, nhiều thể tài khác nhau: Ngôn chí (21 bài), Thuật hứng (25 bài), Tự thán (41 bài), Báo kính cảnh giới (61 bài) .v.v… Phần lớn các bài thơ trong “Quốc âm thi tập” không có nhan đề. Đây là bài thơ số 43 trong “Bảo kính cảnh giới”. Các bài thơ trong “Bảo kinh cảnh giới hàm chứa nội dung giáo huấn trực tiếp, nhưng bài thơ này rất đậm đà chất trữ tình, cho ta nhiều thú vị.Đề tài mùa hè, cảnh hè được nói nhiều trong thơ văn cổ dân tộc. “Quốc âm thi tập”, “Hồng Đức quốc âm thi tâp”. Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến v.v… đều có thơ viết về mùa hè rất hay. Bài thơ này là một thi

14

Page 15: on tap hoc ki 1

phẩm khá tiêu biểu cho ngôn ngữ thi ca Ức Trai, đậm đà dấu ấn thời đại, thời Lê, thế kỷ XV. Nó nói lên cảnh sắc mùa hè làng quê và nỗi ước mong của nhà thơ.Câu 1 (lục ngôn) nói lên một cảnh sống của thi nhân. Câu thơ bình dị như một lời nói vui vẻ, thoải mái, hồn nhiên: “Rồi hóng mát thuở ngày trường”Đằng sau vần thơ là hình ảnh một cụ già, tay cầm quạt giấy “Hài cỏ dẹp chân đi đủng đỉnh – Áo bô đen cật vận xềnh xoàng” đang đi dạo mát. Lúc bấy giờ, Ức Trai không bị ràng buộc bởi “áng mận đào”, vòng “danh lợi” nữa, mà đã được vui thú nơi vườn ruộng, làm bạn với cây cỏ, hoa lá nơi quê nhà. “Ngày trường” là ngày dài. “Rồi” là tiếng cổ, nghĩa là rỗi rãi, thong thả, nhàn hạ, cả trong công việc lẫn tâm hồn. Câu thơ phản ánh một nếp sinh hoạt nhàn nhã: trong buổi ngày dài rỗi rãi, lấy việc hóng mát làm niềm vui di dưỡng tinh thần. Ta có thể phán đoán Ức Trai viết bài thơ này khi ông đã lui về Côn Sơn ở ẩn.Năm câu thơ tiếp theo tả cảnh hè làng quê Việt Nam xa xưa. Các câu 2, 3, 4 nói về cảnh sắc, hai câu 5, 6 tả âm thanh chiều hè. Cảnh sắc hè trước hét là bóng hòe, màn hòe. Lá hòe xanh thẫm, xanh lục. Cảnh hòe sum sê, um tùm, lá “đùn đùn” lên thành chùm, thành đám xanh tươi, tràn đầy sức sống:“Hòe lục đùn đùn tán rợp trương”Tán hòe tỏa bóng mát, che rợp sân, ngõ, vườn nhà, “trương” lên như chiếc ô, chiếc lọng căng tròn. Mỗi từ ngữ là một nét vẽ màu sắc tạo hình gởi tả sức sống của cảnh vật đồng quê trong những ngày hè: lục, đùn đùn, tán, rợp trương. Ngôn ngữ thơ bình dị, hàm súc và hình tượng.Cây hòe vốn được trồng nhiều ở làng quê: vừa làm cảnh, vừa cho bóng mát. Hòe nở hoa vào mùa hè, màu vàng, làm dược liệu, làm chè giải nhiệt. Trong văn học, cây hòe thường gắn liền với điển tích “giấc hòe” (giấc mộng đẹp), “sân hòe” (chỉ nơi cha mẹ ở ). Truyện Kiều có câu: “Sân hòe đôi chút thơ ngây – Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình”. Trong thơ Ức Trai, Lê Thánh Tông,… hình ảnh cây hòe xuất hiện nhiều lần được miêu tả bằng một thứ ngôn ngữ trau chuốt, đậm đà:“lại có hòe chen bóng lục”. -(“Cảnh hè” - Ức Trai)“Có thuở ngày hè trương tán lục, - Đùn đùn bóng rợp cửa tam công”.(“Hòe” - Ức Trai)“Đằng đẵng ngày chầy giương tán nắng - Đùn đùn bóng rợp phủ màn hòe”(“Vịnh cảnh mùa hè” – “Hồng Đức quốc âm thi tập”);“Rợp rợp màn hòe bóng mới xây,- Choi chói hoa vàng đưa gió –Đùn đùn tán lục gương mây”. (“Màn hòe” – Lê Thánh Tông) Câu 3 nói về khóm thạch lựu ở hiên nhà trổ hoa rực rõ: “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”. Thức tiếng cổ chỉ màu vẻ, dáng vẻ. Trong cành lá xanh biếc, những đóa hoa lựu như chiếc đèn lồng bé tí phóng ra, chiếu ra, “phun” ra những tia lửa đỏ chói, đỏ rực. Chữ “phun” được dùng rất hình tượng và thần tình. Lê Thánh Tông viết về hoa lựu: “Ngoài hiên lửa lựu luống thè be”.(“Mùa hè”)“Truyện Kiều” cũng có câu: “Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” - Từ hoa lựu “phun thức đỏ”, “lửa lựu luống thè be” đến hình ảnh “đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” là cả một quá trình sáng tạo ngôn ngữ thi ca của các thế hệ thi sĩ dân tộc qua 5 thế kỷ từ “Quốc âm thi tập”, Hồng Đức quốc âm thi tập, đến “Truyện Kiều”. Vẻ đẹp ngôn ngữ thi ca được trau chuốt như ngọc quý sẽ ánh lên màu sắc huyền diệu là như thế đó!Câu 4 nói về sen: “Hồng liên trì đã tịn mùi hương. “Tịn” là hết (tiếng cổ). Sen hồng vẫn nở thắm ao làng, nhưng hương đã nhạt, đã phai tàn. Sen là biểu tượng cho cảnh sắc mùa hè làng quê ta. Khi sen trong ao làng đã “Tịn mùi hương” tức là đã cuối hè.Nguyễn Trãi đã chọn hòe, thạch lựu, sen hồng (hồng liên) để tả và đưa vào thơ. Cảnh sắc ấy vô cùng xinh đẹp và bình dị. Nhà thơ đã gắn tâm hồn mình với cảnh vật mùa hè bằng một tình quê đẹp. Thiên nhiên trong thơ Ức Trai rất hữu tình và thân thuộc. Cỏ cây gần gũi, mến yêu:“Tả lòng thanh vị núc nác, - Vun đất ải lảnh mồng tơi”(Ngôn chí - số 9)“Ao cạn vớt bèo cấy muống - Trì thanh phát cỏ ương sen”(“Thuật hứng” - số 24)Hè rất đẹp, rộn ràng trong khúc nhạc làng quê. Ngoài tiếng cuốc tiếng chim tu hú, tiếng sao diều còn có tiếng ve, tiếng cười nói “lao xao” của đời thường: “Lao xao chợ cá .....lầu tịch dương”Sau khi tả hòe màu “lục”, lựu “phun thức đỏ”, sen hồng đã “tịn mùi hương”, nhà thơ nói đến âm thanh mùa hè, khúc nhạc đồng quê. Tiếng “lao xao” từ một chợ cá làng chài xa vọng đến, đó là tín hiệu cuộc đời dân đã đầy muối mận và mồ hôi. Nhà thơ lắng nghe nhịp sống đời thường ấy với bao niềm vui. “Lao xao” là từ láy tượng thanh gợi tả sự ồn ào, nhộn nhịp. Hòa điệu với tiếng lao xao chợ cá là tiếng ve vang lên rộn rã, nhịp nhàng. “Cầm ve”, hình ảnh ẩn dụ, tả âm thanh tiếng ve kêu như tiếng đàn cầm. “Dắng dỏi” nghĩa là inh ỏi, âm sắc tiếng ve trầm bổng, ngân dài vang xa. Ngôi lầu buổi xế chiều trở nên náo động rộn ràng. Nhà thơ lấy tiếng ve để đặc tả khung cảnh một chiều hè làng quê lúc hoàng hôn buông dần xuống mái lầu(lầu tịch dương) là một nét vẽ tinh tế đầy chất thơ làm nổi bật cái không khí êm ả một chiều hè nơi thôn dã:“Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

15

Page 16: on tap hoc ki 1

Và đây là tiếng chim cuốc, tiếng ve ngày hè nơi đồng quê được nói đến trong thơ “Hội Tao Đàn” dưới triều vua Lê Thánh Tông:“Tường nọ nhặt khoan vang tiếng cuốc -Cành kia dắng dỏi gảy cầm ve”(Vịnh cảnh mùa hè)Trở về “Côn sơn quê cũ” Ức Trai đã từng bồi hồi “trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn”, giờ đây ông lại thả hồn mình trong khúc ca dân dã “cầm ve” buổi chiều tà cuối hè. Tiếng ve lúc hoàng hôn thường gợi nhiều bâng khuâng, vì ngày tàn, màn đêm đang dần dần buông xuống. Nhưng với Ức Trai, nó đã trở thành “cầm ve” nhặt khoan trầm bổng, dắng dỏi vang xa, làm cho khung cảnh làng quê một buổi chiều tà bỗng rộn lên bao niềm vui cuộc đời.Hai câu kết diễn tả ước mong nhà thơ: “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng - Dân giàu đủ khắp đòi phương”.“Dẽ có” nghĩa là hãy để (cho ta) có; học giả Đào Duy Anh ghi chú là “Lẽ có” và giải thích “Đáng lẽ có….”. Ngu cầm là cây đàn thần của Thuấn (Nghiêu, Thuấn là hai ông vua thời cổ đại Trung Quốc - triều đại lý tưởng: nhân dân được sống trong hạnh phúc, thanh bình). Câu kết cảm xúc trữ tình được diễn tả bằng một điển tích phản ánh khát vọng cao đẹp của Nhà thơ. Ức Trai chân thành bày tỏ: Hãy để cho ta cây đàn thần của vua Thuấn, ta sẽ gảy lên khúc “Nam phong”, cầu mong cho mọi nhà, mọi chốn, khắp các phương trời (đòi phương) được ấm no, giàu có. Hai câu kết toát lên một tình yêu lớn. Con người Ức Trai lúc nào cũng hướng về nhân dân, mong ước cho nhân dân được ấm no và nguyện hy sinh phấn đấu cho hoà bình, hạnh phúc của dân tộc.Trong thơ Ức Trai, hai câu kết luôn luôn là sự hội tụ bừng sáng những tư tưởng tình cảm cao cả, đẹp đẽ. Vì thế mà câu kết đã để lại trong tâm hồn người đọc những ấn tượng mạnh mẽ:“Cảnh thanh đường ấy chưng về nghỉ - Lẩn thẩn làm chi áng mận đào”(Mạn thuật - số 13)“Bui một tấc lòng ưu ái cũ - Đêm ngày cuồn cuồn nước triều đông”(Thuật hứng - số 5)Bài thơ nôm ra đời gần 600 năm về trước miêu tả cảnh tình mùa hè nơi đồng quê, đã đem đến cho chúng ta nhiều thú vị văn chương. Một giọng thơ thâm trầm, hồn hậu đáng yêu. Nhiều tiếng cổ cấu trúc câu thơ thất ngôn xen lục ngôn. Phép đối ở phần thực và phần luận khá chặt chẽ về ngôn từ, thanh điệu, hình ảnh và ý tưởng. Cảnh sắc và âm thanh mùa hè quê ta xa xưa như sống dậy qua những vần thơ nhuần nhị đầy cá tính sáng tạo. Ức Trai đã gửi gắm một tình yêu thiên nhiên nồng hậu, một tấm lòng thiết tha với cuộc sống, một niềm ước mong tốt đẹp cho hạnh phúc của nhân dân. Vĩ đại thay Ức Trai. Bài học thương yêu nhân dân mà ông nói đến lúc nào cũng mới mẻ và đậm đà.Nhận xét: Bài viết khá nhiều tư liệu mở rộng, điều quan trọng trong việc viết văn; Đã phân tích được khá kĩ những yếu tố tạo nên vẻ đẹp của bức tranh mùa hè. Nhưng còn nhiều điểm yếu: Thứ nhất là chữ làm nổi bật được vẻ đẹp của bức tranh mùa hè; Thứ hai: chưa làm nổi bật được vẻ đẹp tâm hồn của Ức Trai với tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, yêu nước, yêu dân.

Ca dao hài hước1, Bài ca dao số 01: Tiếng cười tự trào (tự cười mình) của người lao động.Trong ca dao xưa, bên cạnh những khúc ca than thân, yêu thương tình nghĩa diễn tả đời sống tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của nhân dân trong các quan hệ lứa đôi, gia đình, xã hội, quê hương, đất nước,... còn có một số lượng khá lớn những bài ca hài hước thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời của người lao động trong xã hội còn nhiều khó khăn, ngang trái.. Trong những khúc ca đó, nổi bật nhất có lẽ là những tiếng hát tự trào (tự cười mình) của những người lao động, mà bài ca dao sau là một trong số những khúc ca tiêu biểu đó.“Cưới nàng ... con lợn con gà nó ăn.”Bằng trí tưởng tượng độc đáo cùng với nghệ thuật hư cấu, dựng cảnh tài tình, mượn lời đối đáp vui đùa của nam nữ ở chặng Hát cưới trong dân ca, người bình dân xưa đã thể hiện tiếng cười lạc quan, yêu đời của mình cho dù cuộc sống còn nhiều vất vả, lo toan.Bài ca gồm lời của chàng trai và lời của cô gái đối đáp với nhau.a, Sáu câu ca dao đầu là lời dẫn cưới của chàng trai:Bằng lối nói khoa trương, phóng đại, chàng trai đã nói với người yêu về những lễ vật dẫn cưới mà mình lựa chọn để hỏi cưới nàng. Mặc dù sống trong cảnh nghèo nhưng vì việc cưới là điều hệ trọng đối với cả một đời người, nhất là người con gái nên chàng trai đã cố gắng “thu xếp” và đã dự định những lễ cưới sang trọng để dẫn sang nhà nàng:“Cưới nàng ... co gân”.Dự định thật to tát (voi, trâu, bò là những lễ vật của một lễ cưới linh đình, sang trọng), nhưng chỉ là dự định vì một chàng trai nghèo làm sao lại có được những vậy dẫn cưới đắt tiền như thế? Sử dụng nghệ thuật đối lập, chàng trai đã khéo léo chọn những lí do rất hợp lí để phủ định những đồ dẫn cưới cao sang: dẫn voi/ sợ quốc cấm ...Đó là cách nói ý nhị thể hiện cái hóm hỉnh, đáng yêu của chàng.

16

Page 17: on tap hoc ki 1

Chàng khẳng định không phải không có và không phải không muốn dẫn cưới bằng những vật cao sang đó mà cái chính là lo cho họ nhà gái. Lễ cưới linh đình mà làm cho “họ nhà nàng co gân”,... thì còn có ý nghĩa gì nữa? Chàng rể thật chu đáo biết bao. Vì thế chàng trai quyết định lựa chọn vật dẫn cưới của nhà mình là một con chuột béo để nhà gái mời dân mời làng. Lời dẫn cưới lạ quá nhưng thật lợp lí, hợp tình. Lạ bởi ai lại đi dẫn cưới bằng một con chuột bao giờ? Dù đó là một con chuột béo nhưng làm sao có thể đủ cho nhà gái mời cả dân cả làng được? Nhưng lại rất hợp tình hợp lí, bới nhà anh nghèo quá đành dẫn sang nhà em con chuột béo mà thôi, mong em chấp nhận hiểu và thông cảm cho hoàn cảnh của anh, dù sao chuột cũng là vật bốn chân hơn nữa lại là con chuột béo. Chi tiết này thật đắt, cùng với lối nói tiệm thoái đã tạo nên tiếng cười trong lời dẫn cưới của chàng trai. Đó là tiếng cười vui, yêu thương tình nghĩa. Tiếng cười đó không chỉ cho ta thấy tình cảm chân thật, mà còn cho ta thấy tâm hồn vui vẻ, phóng khoáng của chàng trai. Dù sống trong cảnh nghèo nhưng chàng không mặc cảm, trái lại, như còn bằng lòng, vui thú với cảnh nghèo của mình. Vậy trước lời dẫn cưới hóm hỉnh, đáng yêu đó, cô gái đã phản ứng như thế nào?b, Câu trả lời và lời thách cưới của cô gái.- Câu trả lời: ... Sách giảng vănCâu trả lời cho ta thấy vẻ đẹp tâm hồn của cô gái. Nhưng vẻ đẹp đó còn được thể hiện cao đẹp hơn trong lời thách cưới của cô. Chúng ta hãy cùng nghe cô thách cưới:“Người ta ...khoai lang”.Chàng trai dẫn cưới bằng một con chuột béo đã lạ đời. Ở đây cô gái lại thách cưới bằng một nhà khoai lang (Nhà khoai lang không phải chỉ toàn những củ to mà có cả những củ nhỏ, củ mẻ, củ rím, củ hà, củ ăn được, củ không) thì có lẽ trên đời chưa từng có. Nhưng trong cái chưa tứng có đó, ta lại thấy được cái lí, cái tình của cô. Vẫn biết cưới là việc hệ trọng của cả đời người, nhưng với em như thế là sang, là đủ lắm rồi, nhà em nghèo nhưng nhà anh thì đâu có giàu hơn. Cho nên mặc cho người ta thách lợn, thách gà với em, anh chỉ cần mang sang một nhà khoai lang là đủ. Lời thách cưới với nghệ thuật đối lập đã cho ta thấy vẻ đẹp tâm hồn của cô gái, một con người luôn đặt tình nghĩa lên trên của cải vật chất. Vậy cô gái thách cưới một nhà khoai lang để làm gì? Chúng ta hãy nghe cô dự định: “Củ to ... nó ăn”Mặc dù nghèo nhưng cô gái thách cưới đâu phài vì mình, cho mình, với lối nói giảm dần, cô đã khẳng định thách cưới là vì tình, vì nghĩa, vì họ hàng, làng xóm, vì những đứa em và vì cả những con vật vần gũi với mình. Như vậy, cũng như lời dẫn cưới của chàng trai, lời thách cưới của cô gái đã tạo nên tiếng cười nhưng đó là tiếng cười vui. Tiếng cười thể hiện tình cảm đáng trân trọng và tâm hồn lạc quan yêu đời của cô gái.Tóm lại, lựa chọn cảnh cưới, nhân dân ta đã bộc lộ rõ nhất cái nghèo của mình để cười. Tiếng cười ấy bộc lộ tinh thần lạc quan, yêu đời của người lao động: nghèo mà không hèn, ... Đó là khát vọng vượt lên trên hoàn cảnh thực tại và thể hiện niềm tin mãnh liệt vào cuộc đời của người bình dân xưa.

2, Bài 02,03,04: Tiếng cười phê phán, châm biếm.Ca dao hài hước được chia thành ba loại: ca dao hài hước tự trào, ... Bài ca dao 02, 03, 04 thuộc loại ca dao hài hước thứ ba: tiếng cười châm biếm, phê phán xã hội. Khác với những tiếng cười đả kích, lên án giai cấp thống trị đối tượng bị phê phán là những người thuộc tầm lớp trên, ba bài ca dao này là tiếng cười chế giễu trong nội bộ nhân dân với đối tượng là loại phụ nữ đỏng đảnh, vô duyên, người đàn ông vô tích sự. Tạo nên những tiếng cười này, bằng thái độ nhẹ nhàng nhưng không kém phần sâu sắc, ông cha ta nhằm mục đích phê phán những thói hư tật xấu mà con người hay mắc phải để nhắc nhở, giáo dục nhau tránh mắc phải những thói hư, tật xấu đó.-Tìm hiểu bài ca dao 02+03:+Trong xã hội xưa, người đàn ông rất đỗi oai phong. Sinh ra là bậc nam nhi vốn đã mang sẵn nợ tang bồng, họ là người tạo nên nghiệp lớn, họ là chỗ dựa vững chắc để người phụ nữ nương tựa, “núp bóng tùng quân”. Ca dao xưa cũn g đã có không ít bài được mở đầu bằng hai chữ “làm trai” hàm ý tôn vinh họ:“Làm trai quyết chí tang bồng – Sao cho tỏ mặt anh hùng mới cam.”; “Làm trai cho đáng nên trai, - Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài tan.”; “Làm trai cho đáng nên trai, - Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng.”+Cùng được mở đầu bằng cụm từ “làm trai”, nhưng bài ca dao số 02 lại chứa đựng ý nghĩa khác. Bài ca dao tạo nên tiếng cười trào phúng bởi nó được xây dựng bằng thủ pháp đối lập, nâng cao để hạ thấp, đột ngột tạo sự bất ngờ:“Làm trai ...hạt vừng.”

17

Page 18: on tap hoc ki 1

Những chữ đầu phản ánh chí làm trai đầy oai hùng đầy kiêu hãnh. Phải chăng chàng trai đang khom lưng chống gối để gánh vác sơn hà? Nhưng không, chàng trai này lại “khom lưng chống gối” để ...”gánh hai hạt vừng”. Với thủ pháp nghệ thuật đối lập, khoa trương phóng đại tối đa, ông cha ta đã tạo nên bức tranh hài hước thú vị, đặc sắc để chế giễu loại đàn ông ẻo uột. Yếu đuối cả về tinh thần và thể xác.+Bài 03: Tự làm.+Tham khảo: “Chồng người bể Sở sông Ngô – Chồng em ngồi bếp rang ngô cháy quần”; “Chồng người lội suối trèo đèo – Chồng em cầm đũa đuổi mèo quanh mâm.”; “Làm trai cho đáng nên trai – Vót đũa cho dài ăn vụng cơm con.” ...Bài 04: Tự làm. Tóm lại: Tiếng cười trong ba bài ca dao cuối, một mặt có ý nghĩa giải trí, một mặt có ý nghĩa giáo dục, thanh lọc những điều chưa tốt và vươn tới sự hoàn thiện của cái tốt, cái đẹp.

Truyện cười: Tam đại con gà; Nhưng nó phải bằng hai mày.1, Tam đại con gà.Truyện cười là một trong mười hai thể loại của văn học dân gian. Nó là những tác phẩm tự sự dân gian ngắn có lối kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ, có tác dụng gây cười nhằm mục đích giải trí hoặc châm biếm. Truyện cười dân gian có hai loại: Truyện khôi hài nhằm mục đích giải trí và truyện trào phúng có mục đích phê phán. Tam đại con gà thuộc loại truyện thứ hai. Thông qua việc phê phán nhân vật anh thầy đồ, ông cha ta đã phê phán một thói hư tật xấu có thật trong nội bộ nhân dân với mục đích nhắc nhở, giáo dục bằng những biện pháp nghệ thuật đặc sắc thường thấy trong truyện cười.Trong tất cả các loại tác phẩm tự sự dân gian có lẽ truyện cười là một trong những loại tác phẩm ngắn nhất và ít nhân vật nhất. Trong Tam đại con gà, tác phẩm chỉ xoay quanh bốn nhân vật: anh thầy đồ dốt, lũ học trò, thổ công và ông chủ nhà nhưng không vì thế mà tác phẩm kém phần hấp dẫn. Cái hay của tác phẩm này cũng như là nhiều tác phẩm truyện cười khác chính là nghệ thuật xây dựng những mâu thuẫn trái tự nhiên và kết thúc bất ngờ tạo tiếng cười cho người nhe, người đọc.Trong tam đại con gà, mâu thuẫn trái tự nhiên được xây dựng trong tác phẩm xuất phát từ nhân vật anh thầy đồ.- Ngay từ đầu truyện, anh học trò đã hiện lên thật ấn tượng. Anh ta “học hành dốt nát” mà “đi đâu cũng lên mặt văn hay, chữ tốt”. Nhưng tiếng cười ở đây chưa được bật ra mà vẫn ở dạng tiềm năng vì chúng ta chuea biết anh ta dốt nát đến đâu và lên mặt văn hay chữ tốt như thế nào. Tình huống gây cười chỉ thực sự xuất hiện khi có người nhầm lẫn, tưởng anh ta hay chữ thật mà “đón về dạy trẻ”. +Tình huống gây cười thứ nhất: Khi anh thầy đồ gặp chữ “kê” (con gà) trong sách “Tam thiên tự” (Cuốn sách vỡ lòng dành cho trẻ con vỡ lòng học chữ Hán). Hs tự phân tích+Tình huống gây cười thứ hai: Khi anh thầy đồ xin đài âm dương tại bàn thờ thổ công của gia chủ. Hs tự phân tích.+Tình huống gây cười thứ ba: Khi anh thầy đồ bị ông chủ nhà chất vấn.Tác giả dân gian đã rất khéo léo và tài tình đẩy câu chuyện phát triển tự nhiên mà hợp lí khi cho xuất hiện thêm nhân vật ông chủ nhà. Ông chủ nhà mặc dù là người dân lao động nhưng cũng biết dăm ba chữ thánh hiền, nghe tiếng con học bài kì lạ mới chạy vào mở sách xem qua và nhận ra ngay mặt chữ “kê” là gà. Ông chủ nhà quá ngạc nhiên nên đã chất vấn thầy đồ. Đến đây cái thú vị của truyện bộc lộ: Tác gải không giải quyết theo các khả năng:Thầy đồ đỏ mặt im lặng (Tự công nhận là mình dạy sai, dạy dốt – điều không bao giờ thầy muốn)Thầy đỏ mặt công nhận, xin lỗi chủ nhà vì xem sách chưa kĩ, ... (Điều cũng không bao giờ thầy muốn và cũng không đủ can đảm để làm)Hai kết thúc này đều rất bình thường, lợp lí. Và như thế không thể gây ra tiếng cười nơi người đọc.Sử dụng nghệ thuật “tự bộc bạch”, tác giả dân gian đã để thầy đồ tự bộc lộ cái dốt của mình một cách... buồn cười. Nhưng vì là vì là người háo danh lại quyết tâm giấu dốt nên điều đó thầy chỉ công nhận thầm trong trí và “nhanh trí” biến báo, lấp liếm, che giấu cái sai, cái dốt của mình bằng cách giải thích hết sức vớ vẩn, buồn cười, ngoài sức tưởng tượng của người đọc:Trước tiên, thầy khẳng định thầy biết chữ nhiều nét rắc rối kia là chữ kê mà kê có nghĩa là gà, và thầy đã biết điều này từ lâu “vẫn biết”. Điều mà thực chất thầy vừa mới biết do ông chủ nhà vô tình giảng giải cho.Tiếp đó, thầy giải thích cho ông chủ nhà hiểu, thầy dạy học trò như thế là để cho chúng biết đến tận gốc gác, đến tận “tam đại con gà”. Nghe thầy giải thích “dủ dỉ ...con gà”, tiếng cười nơi người đọc vỡ oà bởi mâu thuẫn đã được giải quyết thật bất ngờ và hợp lí. Nó bất ngờ bởi ta thấy được sự láu lỉnh, biến báo trong việc lấp liếm cái dốt của anh thầy đồ. Nó hợp lí bởi lời giải thích đó phù lợp với bản chất của anh thầy đồ: dốt, cố

18

Page 19: on tap hoc ki 1

tình giấu dốt nhưng càng giấu cái dốt lại càng lộ ra bởi câu giải thích đó của anh ta chỉ là một câu nói thuận miệng, lăng nhăng, vô nghĩa lí. Phân tích kĩ câu giải thích của anh thầy đồ chúng ta không hề thấy “tam đại con gà” bởi chỉ thấy được cụ và ông con gà chứ không hề thấy bố mẹ con gà đâu. Hơn nữa, gà và công tuy cùng là loài chim nhưng là hai gống vật khác nhau thì làm sao công lại đẻ ra bố của gà được.Ýnghĩa phê phán và bài học:Thông qua việc giễu cợt nhân vật anh thầy đồ, nhân dân ta nhằm phê phán: những kẻ bất tài nhưng hợm hĩnh, tích khoe khoang, khoác lác; phê phán thói giấu dốt, một tật xấu có thật trong nội bộ nhân dân và đưa ra bài học cho con cháu muôn đời: Không bao giờ nên giấu dốt, muốn làm người có học phải khổ công học tập, tự học không ngừng, phải thẳng thắn nhìn nhận mình mà học hỏi, không được hợm hĩnh, khoe khoang không sẽ trở thành trò cười cho thiên hạ.2, Nhưng nó phải bằng hai mày.Người dân lao động nước ta hàng ngàn năm nay vẫn luôn mong ước lẽ công bằng nhưng trong xã hội xưa mấy khi có được công bằng cho họ. Bên cạnh một số ít những vị quan công chính, phần lớn những vị “cha mẹ dân” cầm cán cân công lí đều là những kẻ tham quan. Đối với những người này, các vụ kiện là dịp béo bở để họ đục khoét của dân. Và tên lí trưởng trong truyện cười “Nhưng ...” là một trong số những tên tham quan “đục nước béo cò” đó. Đi vào khai thác mâu thuẫn trái tự nhiên trong tác phẩm liên quan tới mối quan hệ giữa Cải và lí trưởng, một mặt ông cha ta phê phán, đả kích tầng lớp thống trị, một mặt ông cha ta phê phán chính nội bộ nhân dân khi một số người vì lợi ích của cá nhân mình đã vô tình tiếp tay cho bọn tham quan làm đổi thay công lí.Truyện được bắt đầu bằng sự kiện ở một làng kia có anh Cải và và Ngô không hiểu vì lí do gì mà đánh nhau rồi lôi nhau đi kiện tới lí trưởng, một người nổi tiếng xử kiện giỏi. Khi đi kiện, Cải đã kín đáo lót trước cho thầy lí năm đồng nhưng Ngô lại cao tay hơn biện chè lá những mười đồng. Diễn biến tình tiết đã lộ ra tình huống có vấn đề, một loạt câu hỏi chắc chắn sẽ được đặt ra trong đầu người đọc người nghe. Tại sao xử kiện giỏi lại nhận tiền hối lộ? Mà không phải là nhận tiền hối lộ của một người mà là cả hai? Phải chăng với bản chất “thanh liêm” thầy lí nhận tiền của cả hai để coi đó làm bằng chứng lên công đường đánh đòn luôn một thể vì tội hối lộ chăng? Diễn biến tình tiết đó có tác dụng lôi kéo người nghe, người đọc chú ý tiếp vào những tình tiết tiếp theo của tác phẩm để xem một người nổi tiếng xử kiện giỏi như lí trưởng thì sẽ xử vụ kiện này như thế nào.Khi bước vào xử kiện, không cần điều tra xét hỏi, không cần phân tích dài dòng, lí trưởng nghị án một cách dứt khoát: “Thằng ...chục roi”. Mâu thuẫn trái tự nhiên xuất hiện, tạo nên tiếng cười. Vì đã lo lót cho thầy trước và cũng đã được thầy nhận lễ nên Cải chắc phần thắng đã về mình vậy mà giờ lại bị thầy lí phạt một chục roi, Cải thấy bất ngờ trước lời phán xét ấy. Ngỡ thầy quên, nên Cải vội kêu oan để cho thầy nhớ: “Cải vội... con mà”. Ở đây có sự kết hợp giữa cử chỉ, hành động và ngôn ngữ thể hiện sự ẩn ý trong cách kêu oan. Trước hết, Cải “xoè năm ngón tay” để nói cái ý ngầm là đã đưa cho thầy lí năm đồng và cùng với đó là hành động “ngẩng mặt nhìn thầy” ý tứ để nhắc thầy đừng quên. Tiếp theo là lời “khẽ bẩm” nhưng lại nhấn mạnh vào cái ý quan trọng của anh chàng nông dân này: “lẽ phải về con mà”. Câu nói của Cải kết hợp với hành động, cử chỉ ở trên chứa đầy ẩn ý, nói câu nói đó, Cải muốn nói với thầy lí rằng lẽ phải phải thuộc về Cải vì Cải đã hối lộ tiền.Tưởng đã nhắc khéo và rõ đến thế thì thầy lí phải nhớ, phải xử cho mình được kiện, ai ngờ thầy lí lại cao thủ hơn, cũng trả lời một cách rõ ràng làm cho Cải trở tay không kịp. Nếu Cải “xoè năm ngón tay” thì thầy lí cũng “xoè năm ngón tay” nhưng là “năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay mặt” và cùng với nó là lời nói đi kèm để thằng dân cùng kia phải hiểu cái ý ngầm của nó. Câu trả lời của của lí trưởng đúng với câu vừa hỏi, vừa xin, vừa nhắc của Cải. Nó thú vị ở chỗ: thầy lí không phủ nhận mà cũng công nhận Cải có lẽ phải, nghĩa là thầy công nhận là đã nhận năm đồng nhưng thầy lại thêm vào “cái phải” quan trọng hơn, quyết định hơn “Nhưng nó...hai mày.” Lời nói đó kết hợp với hành động ở trên của thầy lí đã xác định rõ Cải bị phạt đòn là xứng đáng vì Ngô đã biện chè lá những mười đồng. Đọc đến đây, tiếng cười từ phía người đọc bật ra to hơn vì hiểu được cái “tài xử kiện” của viên lí trưởng. Với thầy lí, lẽ phải không phải được xuất phát từ cơ sở pháp luật công bằng mà lẽ phải được tính bằng ngón tay; ngón tay = tiền. Vậy, lẽ phải được tính bằng tiền, công lí do tiền quyết định. Như vậy, “xử kiện giỏi” chỉ là một lời nói mỉa mai, thực chất, lí trưởng chỉ là một tên tham quan, đục nước béo cò, vô trách nhiệm. Điều đặc sắc trong nghệ thuật tạo nên tiếng cười trong tác phẩm này không phải là cách kết thúc bất ngờ như ở “Tam đại con gà” mà ở sự kết hợp giữa cử chỉ, hành động và lời nói của nhân vật. Thú vị hơn nữa là tác giả dân gian đã chơi chữ rất sáng tạo, bất ngờ. “Phải” là tính từ chỉ tính chất được khéo léo chuyển nghĩa sang từ chỉ số lượng.

19

Page 20: on tap hoc ki 1

Khép lại tác phẩm ta thấy cả ba nhân vật trong truyện đều đáng bị chê cười. Lí trưởng là đối tượng bị đả kích còn Ngô và Cải là nhân vật bị phê phán. Bởi kẻ thắng thì cũng chẳng được lợi lộc gì, kẻ thua thì tiền mất, tật mang, cả hai đều là những kẻ tiếp tay giúp cho bọn tham quan xoá nhoà công bằng, công lí.Đọc tác phẩm, liên hệ với xã hội ngày nay, chúng ta rất tán thành quan điểm của Đảng và Nhà nước coi tham nhũng là quốc nạn. Và mọi người dân cần góp sức lên án, đặc biệt không được vì chút lợi ích của cá nhân mình mà đút lót, hối lộ tiếp tay cho những kẻ tham quan, tham nhũng, có như vậy thì chúng ta mới có thế xoá bỏ được tham nhũng, xây dựng được một xã hôi trong sạch, quan hệ giữa người dân và quan chức được lành mạnh, công minh và nhân ái!

Đọc Tiểu Thanh kíNguyễn Du (1765 – 1820), danh nhân văn hoá thế giới, đại thi hào dân tộc, là một trong những tác giả lớn nhất của nền văn học Việt Nam. Bên cạnh kiệt tác Truyện Kiều được viết bằng chữ Nôm, nhà thơ còn để lại một khối lượng lớn những sáng tác được viết bằng chữ Hán như các tập thơ “Nam trung tạp ngâm”, “Bắc hành tạp lục”, “Thanh Hiên thi tập”. Trong số những sáng tác ấy, có lẽ bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí (Độc Tiểu Thanh kí) được trích từ tập thơ “Thanh Hiên thi tập” của ông là bài thơ để lại cho người đọc ấn tượng sâu sắc nhất. Được sáng tạo bằng tấm lòng nhân đạo lớn, bài thơ đã thể hiện niềm cảm thông sâu sắc của nhà thơ đối với nàng Tiểu Thanh nói riêng và thân phận những con người tài sắc mà bất hạnh nói chung. Đồng thời, qua nỗi niềm cảm thông ấy, nhà thơ cũng kín đáo gửi gắm những tâm sự sâu kín của cuộc đời mình.Bài thơ được viết bằng chữ Hán, theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Khi ôn tập tác phẩm, các em cần đọc lại kĩ phần giảng văn, đọc lại tác phẩm và so sánh giữa bản dịch thơ và dịch nghĩa, đọc chú thích để hiểu được bài thơ.1, Hai câu đềCâu thơ đầu tiên nói về suy nghĩ của Nguyễn Du về Tây Hồ và nó cũng chính là hoàn cảnh khơi gợi cảm xúc của nhà thơ. Sử dụng động từ mạnh “tẫn” (Tận cùng, hết) cùng với nghệ thuật đối lập, nhà thơ đã miêu tả Tây Hồ trong sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, giữa xưa và nay, khi nàng Tiểu Thanh còn sống và khi nàng đã chết đi, gợi lên một nghịch cảnh éo le: cái đẹp bị vùi dập, tàn phá phũ phàng. Tây Hồ xưa khi nàng Tiểu Thanh còn sống là một vườn hoa đẹp rực rỡ ,mĩ lệ vậy mà nay khi nàng đã chết đi, Tây Hồ đã trở thành một cái gò hoang lạnh lẽo, hoang tàn. Cái đẹp đã đi theo người đẹp vào cõi hư vô, thời gian đã xoá nhoà đi tất cả nhưng nó không thế xoá nhoà đi nỗi niềm thương cảm của con người hiện tại trước cảnh cũ người xưa. Vì vậy, nếu như trong Truyện Kiều, nấm mồ của Đạm Tiên gợi lên ở Thuý Kiều bao mối thương tâm thì ở đây, “cái gò hoang” nơi Tiểu Thanh an nghỉ đã gợi lên ở Nguyễn Du bao điều thổn thức.Ở câu thơ thứ hai, nỗi niềm thương cảm của Nguyễn Du với Tiểu Thanh được thể hiện rõ hơn khi trên nền đổ nát của: “Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư”, theo dòng chảy của thời gian, gần ba trăm năm sau, nhà thơ đã tìm đến với nàng qua “một tập sách đọc trước cửa sổ”. Câu thơ dịch “Thổn thức bên song mảnh giấy tàn” chỉ là phỏng ý bởi nó đã bỏ mất hai chữ “độc” và “nhất” rất quan trọng. Ở đây “độc” và “nhất” đều có nghĩa là một nhưng lại được đặt vào hai chủ thể khác nhau. Nếu như “độc điếu” cho ta thấy người điếu viếng chỉ có một mình thì “nhất chỉ thư” lại cho ta thấy sự cô đơn của người đẹp từ mấy trăm năm trước. Vì vậy, có thể thấy rằng cuộc điếu viếng của Tố Như tới Tiểu Thanh là cuộc tri âm của hai tâm hồn đồng điệu, cuộc hội ngộ của những con người “đồng bệnh tương liên”, cuộc hội ngộ của một lòng đau gặp một hồn đau.2, Hai câu thực: Cảm nghĩ của Nguyễn Du về cuộc đời Tiểu Thanh.- Nghệ thuật ẩn dụ: (...)Tiểu Thanh là một con người tài sắc. Nàng xinh đẹp, tài năng nhưng trong xã hội xưa cũng giống như Thuý Kiều, Đạm Tiên làm sao tránh khỏi “nỗi đau chung”. Cuộc đời Tiểu Thanh là điển hình của hai nỗi đau lớn: hồnh nhan bạc phận và tài mệnh tương đố. Người đẹp như nàng mà bất hạnh ,chết trẻ. Có tài thơ văn nhưng không được nâng niu mà bị dập vùi. -Nhắc đến hai cái oan trong cuộc đời của Tiểu Thanh, Tố Như đã nhân hoá son phấn, văn chương, những vật vô tri, vô giác, để nói lên lời uất hận: “Son phấn có thần ... bị đốt dở.” (Xem phần dịch nghĩa). Sau khi nàng chết đi rồi, người vợ cả vẫn còn ghen tức, hằn học, chưa buông tha, những bài thơ nàng để lại cũng bị đốt dở, chúng cũng phải chịu chung số phận bi đát với nàng. Viết nên những câu thơ thấm đẫm máu và nước mắt này, Nguyễn Du đã thể hiện nỗi niềm thương cảm xót xa trước cuộc đời bất hạnh của Tiểu Thanh đồng thời cũng cũng thể hiện thái độ trân trọng, ngợi ca, khẳng định tài năng, nhan sắc của Tiểu Thanh cũng như của người phụ nữ. Trong “Long Thành cầm giả ca”, nhà thơ xót thương trước “nhan sắc người đẹp suy tàn” nhưng cảm hứng ngưỡng mộ vẻ đẹp tài năng người ca nữ đất Long Thành sau hai mươi năm không hề thay đổi: “Băm sáu cung xuân kia chung đúc – Đất Trường An hạt ngọc liên thành” hay Viếng người ca nữ đất

20

Page 21: on tap hoc ki 1

La Thành, tác giả thương cho “nghiệp chướng phấn son” nhưng đồng thời ca ngợi một giai nhân tuyệt sắc: “Non bồng sa xuống một cành xinh – Sắc đẹp màu xuân nức sáu thành”. Trong “Đọc Tiểu Thanh kí” cảm hứng khẳng định cái đẹp và tài năng ấy được thể hiện trực tiếp và mạnh mẽ hơn. Cái đẹp có thể tàn về thân xác nhưng cái thần, cái hồn của nó thì “chôn vẫn hận.”. Cái mệnh của Tiểu Thanh thật ngắn ngủi nhưng cái mệnh văn chương của nàng thì dẫu “đốt còn vương”. Trong tiếng khóc Tiểu Thanh của nhà đại thi hào, gọt nước mắt xót thương đã kết thành giọt châu trân trọng, ngưỡng mộ cái đẹp và tài năng. Hiểu như vậy chúng ta sẽ thấy được cách hiểu thứ hai của hai câu thơ: “Son phấn như có thần, sau khi chết, khiến người ta còn thương tiếc – Văn chương có số mệnh gì đau mà làm cho người ta phải bận lòng đến những bài thơ còn xót lại sau khi bị đốt” không phải là vô lí và không có cơ sở. Và với cái nhìn ấy, đặt trong hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, một xã hội luôn phủ nhận trí tuệ, tài hoa của người phụ nữ ta mới thấy hết cái cao cả và chiều sâu nhân đạo của ngòi bút Nguyễn Du.3, Hai câu luận: Nếu như ở bốn câu thơ trên, Tố Như chủ yếu nói về nỗi đau của nàng Tiểu Thanh với bao niềm xót xa, thương cảm, thì sang hai cặp câu nàng, mạch thơ trực cảm của nhà thơ đã lắng xuống ưu tư và mở ra một tầm nhìn khái quát, từ cuộc đời bất hạnh của Tiểu Thanh, Nguyễn Du nêu lên cảm nghĩ của mình trước số phận của những con người tài sắc.“Cổ kim ...tự cư” Ở câu thơ thư năm, tác giả đã nêu lên một quy luật nghiệt ngã ở đời và gọi đó là “cổ kim hận sự” (mối hận của người xưa và người nay). Người xưa có thể là Tiểu Thanh và những người như nàng. Người nay có thể bao gồm những phụ nữ “hồng nhan bạc mệnh” cùng thời với Nguyễn Du và chính thế hệ những nhà thơ tài năng như Nguyễn Du đã gặp nhiều điều không may trong cuộc đời. Những con người đó hận một sự thật vô lí trong cuộc đời: dó là cứ những người có nhan sắc, tài hoa thì đều gặp bất hạnh, đều bị thù ghét, vùi dập. Và những “mối hờn kìm cổ” đó có hỏi trời thì cũng vô ích bởi nó vẫn tồn tại từ xưa đến nay, nó đã trở thành thông lệ, định lệ mà trời đã bất công với những con người tài sắc “Trời xanh quen thói mà hồng đánh ghen”. Câu thơ cho ta thấy thái độ oán trách, bất bbình của Nguyễn Du khi ý thức được sự trà đạp tài năng, nhan sắc đã và đang tồn tại trong xã hội phong kiến. Ở câu thơ thứ sáu, khách thể và chủ thể cuat bài thơ đa nhập làm một:“Phong vận ...”Câu thơ dịch chữ “ngã”(tôi, ta) thành “khách” đẫ không tô đậm được yếu tố chủ thể nhập thân vào khách thể. Nguyễn Du tự coi mình là người cùng hội cùng thuyền với Tiểu Thanh và những người mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã. Tự nhận mình như vậy là vì nhà thơ thấy mình có điểm tương đồng với số phận của những người tài sắc như Tiểu Thanh. Bản thân nhà thơ là người có tài “Tráng niên ngã diệc vi tài giả” (Thời trẻ ta cũng là kẻ có tài) (“Vĩnh Chẫu Liễu Tử Hậu cố trạch” – Nhà cũ của Liễu Tử Hậu ở Vĩnh Châu), điều mà chính nhà thơ đã tự bộc bạch vậy mà trong suốt cuộc đời, ông gặp toàn những long đong, lận đận. Trong cuộc đời mình, ông đã từng trải qua những ngày cực khổ, cơm không có mà ăn, thuốc không có khi đau ốm, mới ba mươi tuổi mà tóc đã bạc trắng vì suy nghĩ, ... Tự coi mình là người “cùng hội cùng thuyền” với những con người “mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã”, Nguyễn Du đã thể hiện thái độ cảm thông với số phận của những con người tài sắc, đồng thời kín đáo gửi gắm nỗi niềm rước số phận bất hạnh của mình.4, Hai câu kết:Từ sự xót thương, đồng cảm sâu sắc với nàng Tiểu Thanh và những con người tài hoa bạc mệnh, đến hai câu kết của bài thơ, Nguyễn Du đã thốt lên một câu nhức nhối, da diết:“Bất tri ... Tố Như?”Con số 300 năm ở câu thơ không phải là con số xác định mà nó chỉ là một con số ước lệ chỉ khoảng thời gian rất dài, dài hơn cả khoangt thời gian từ khi Tiểu Thanh mất cho đến lúc Nguyễn Du biết và khóc cho nàng.Cách hiểu thứ nhất: Câu nghi vấn bình thường.Trông người lại nghĩ đến ta. Từ thương xót cho “nỗi oan lạ lùng” của người, Nguyễn Du quy về thương xót cho chính thân phận của mình. Cô đơn trước cuộc đời vì chưa tìm thấy người đồng cảm, ông đau đáu, khắc khoải mong chờ sự trân trọng, cảm thông của hậu thế. Ngược thời gian gần ba trăm năm Nguyễn Du đã khóc thương nàng Tiểu Thanh, vọng tới tương lai, Nguyễn Du mong chờ những giọt nước mắt cảm thông, chia sẻ với “nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã” của ông.Không cần phải đợi đến hơn ba trăm năm sau mà ngay trong thế kỉ XIX, Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân Nguyễn Đăng Tuyển đã chia sẻ với thi hào dân tộc: “Thuý Kiều khóc Đạm Tiên ... suốt cả xưa và nay vậy.” (Phần tiểu dẫn) Và ngay trong những năm tháng đánh Mĩ ác liệt, nhân kỉ niệm 200 năm ngày sinh thi hào dân tộc (1765 – 1965), Tố Hữu đã thay mặt các thế hệ mai sau gửi đến Nguyễn Du tấm lòng tri âm, tri

21

Page 22: on tap hoc ki 1

ân sâu sắc, vừa sẻ chia với những tâm tư trăn trở của nhà thơ trong suốt cuộc đời, vừa đánh giá rất cao vị trí của Nguyễn Du và thơ văn Nguyễn Du trong lòng hậu thế và dân tộc với bài thơ: “Kính gửi cụ Nguyễn Du”.Cách hiểu thứ hai: Câu hỏi tu từ tu từ.“Không biết hơn ba trăm năm sau, trong thiên hạ ai sẽ là người khóc mình”. Nguyễn Du biết trong thiên hạ hơn ba trăm năm sau hậu thế sẽ có người khóc mình. Đó là một dự cảm, một sự lo lắng cho thế hệ mai sau: trong xã hội vẫn còn những người tài sắc chịu chung số phận với mình, với Tiểu Thanh. Câu thơ thể hiện một nỗi buồn sâu lắng về cuộc đời, thể hiện một triết lí sâu sắc về thuyết “tài mệnh tương đố” và là tấm lòng nhân đạo rộng lớn bao la của nhà thơ: Nguyễn Du thưtơng người xưa, thtương người nay, thương chính mình và thương cho cả mai sau. Đó là sự bế tắc trong suy nghĩ, cách nhìn đời của Nguyễn Du nhưng nó không phải là sự hạn chế của tác phẩm (Đặt suy nghĩ trên vào hoàn cảnh xã hội mà Nguyễn Du đang sống thì sự bế tắc của nhà thơ hoàn toàn dễ hiểu) mà nó càng chứng minh chiều sâu trong tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du, chứng minh Nguyến Du là người “có con mắt nhìn thấu sáu cõi, có tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” như Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân Nguyễn Đăng Tuyển đã từng khẳng định.Lưu ý : khi đi vào phân tích các em lựa chọn một trong hai cách hiểu. Thầy nghiêng về cách hiểu thứ nhất.Về nghệ thuật: Ngôn ngữ cô đọng, đa nghĩa, giàu hình ảnh, có giá trị biểu cảm cao. Mặc dù hai câu cuối thất niêm nhưng ý tứ toàn bài nhất quán, liền mạch, chặt chẽ.

Tấm CámI/ Hình tượng nhân vật Tấma, Khi sống cùng mẹ con Cám*Tấm là một cô gái hiền lành, xinh đẹp, nết na nhưng có số phận bất hạnh.+Mồ côi ngay từ tấm bé.+Bị hắt hủi, chịu sự bất công ngay dưới ngôi nhà cuả mình.+Bị mẹ con Cám hết lần này đến lần khác hành hạ, cướp đoạt tất cả những gì Tấm có.*Tấm là một cô gái yếu đuối, thụ động.-Chỉ biết khóc sau mỗi lần bị hành hạ.-Phải trông chờ vào sự giúp đỡ của các lực lượng siêu nhiên.*Được trở thành hoàng hậu, tìm được hạnh phúc cho mình.b, Khi đã trở thành hoàng hậu.*Tấm vẫn bị mẹ con Cám săn đuổi hết lần này đến lần khác tìm cách tiêu diệt.*Tấm ngày càng trưởng thành hơn: liên tiếp đấu tranh chống lại kẻ thù đòi lại những gì bị cướp đi.*Sự trả thù của Tấm.*Ý nghĩa của việc xây dựng hình tượng Tấm.II/Mẹ con Cám.: Phân tích theo hai chặng như trên và nêu ý nghĩa từ cái chết của mẹ con Cám.III/Mâu thuẫn, xung đột giữa Tấm và mẹ con Cám: Chia làm hai chặng phát triển từ thấp đến cao.Ở chặng thứ nhất: khi Tấm sống cùng mẹ con Cám. mâu thuẫn xoay quanh điều gì? Mở đầu từ đâu và phát triển như thế nào? Kết thúc chặng thứ nhất? Nhận xét.Ở chặng thứ hai: sau khi Tấm trở thành hoàng hậu. Mâu thuẫn phát triển lên đến đỉnh điểm và phát triển thành xung đột mất còn, diễn biến ngày càng căng thẳng, quyết liệt.Kết thúc mâu thuẫn, xung đột, ý nghĩa của nó?IV/Nhận xét cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác thông qua diễn biến mâu thuẫn,xung đột trong tác phẩm.*Đó là cuộc đấu tranh không khoan nhượng.*Có những lúc cái thiện bị cái ác trà đạp nhưng cái thiện sẽ không chịu khuất phục mà mạnh mẽ đứng lên đấu tranh chống lại cái ác.*Cái thiện nhất định sẽ chiến thắng, cái ác nhất định bị trừng trị.VI/Sự hoá thân của Tấm.-Những lần hoá thân.-Ý nghĩa.-Vẻ đẹp của lần biến hoá sau cùng.*Nghệ thuật: lưu ý vào sự kết hợp ngôn ngữ văn xuôi và văn vần trong tác phẩm, nghệ thuật tạo tình huống, môtíp quen thuộc, sự tham gia của các yếu tố kì ảo, ...

22

Page 23: on tap hoc ki 1

ÀN BÀI PHÂN TÍCH BÀI THƠ ĐỘC TIỂU THANH KÝ – NGUYỄN DU(Trần Hà Nam – Giáo viên trường THPT chuyên Lê quý Đôn Bình Định)Vấn đề cần làm rõ :Sự đồng cảm, xót thương của Nguyễn Du với người con gái tài hoa mệnh bạcNghệ thuật thơ chữ Hán Đường luật thể hiện cô đúc tâm sự Nguyễn Du trước thời cuộc.Tinh thần tiếp thu di sản tinh thần Nguyễn Du của xã hội mớiDÀN Ý :I. ĐẶT VẤN ĐỀ :1. Nguyễn Du – đại thi hào dân tộc, nhà thơ hiện thực và nhân đạo lớn nhất trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX – không chỉ nổi tiếng với “Truyện Kiều” mà ông còn là nhà thơ sáng tác bằng chữ Hán điêu luyện.2. “Thanh Hiên thi tập” là những sáng tác bằng chữ Hán thể hiện tình cảm sâu sắc của Nguyễn Du với thân phận con người – nạn nhân của chế độ phong kiến.3. Trong đó, Độc Tiểu Thanh ký là một trong những sáng tác đưọc nhiều người biết đến, thể hiện sâu sắc tư tưởng Nguyễn Du và làm người đọc xúc động vì tình cảm nhân đạo cao cả của nhà thơ.II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ :A/ Định hướng phân tích :1. Độc Tiểu Thanh ký có nghĩa là “đọc tập Tiểu Thanh ký” của nàng Tiểu Thanh. Đó là người con gái có thật, sống cách Nguyễn Du 300 năm trước ở đời Minh (Trung Hoa). Nàng là người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng vì làm lẽ nên bị vợ cả ghen, đày ra sống ở Cô Sơn cạnh Tây Hồ. Buồn rầu, nàng sinh bệnh chết và để lại tập thơ. Nhưng vợ cả vẫn ghen nên đốt tập thơ, chĩ còn lại một số bài thơ tập hợp trong “phần dư”. Bản thân cuộc đời Tiểu Thanh cũng đã để lại niềm thuơng cảm sâu sắc cho Nguyễn Du.2. Cảm hứng xuyên suốt toàn bài được diễn tả trong khuôn khổ cô đúc của thể thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Nguyễn Du khóc người cũng để tự thương mình. Dù là cảm xúc về một cuộc đời bất hạnh đã cách ba trăm năm, nhưng thực chất cũng là tâm sự của nhà thơ trước thời cuộc.B/ Chi tiết :1. Hai câu đề : Hai câu mở đầu của bài thơ giúp người đọc hình dung ra hình ảnh của nhà thơ trong giờ phút gặp gỡ với tiếng lòng của Tiểu Thanh :Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khưĐộc điếu song tiền nhất chỉ thư(Tây hồ cảnh đẹp hóa gò hoangThổn thức bên song mảnh giấy tàn)a) Hai câu thơ dịch đã thoát ý nguyên tác nên làm giảm đi phần nào hàm ý súc tích của câu thơ chữ Hán. Nguyễn Du không nhằm tả cảnh đẹp Tây Hồ mà chỉ mượn sự thay đổi của không gian để nói lên một cảm nhận về biến đổi của cuộc sống. Cách diễn đạt vừa tả thực vừa gợi ý nghĩa tưọng trưng. “Tây hồ hoa uyển” (vườn hoa Tây Hồ) gợi lại cuộc sống lặng lẽ của nàng Tiểu Thanh ở vưòn hoa cạnh Tây Hồ – một cảnh đẹp nổi tiếng của Trung Hoa. Nhưng hàm ý tượng trưng được xác lập trong mối quan hệ giữa “vườn hoa – gò hoang”. Dường như trong cảm quan Nguyễn Du, những biến thiên của trời đất đều dễ khiến ông xúc động. Đó là nỗi niềm “bãi bể nương dâu” ta đã từng biết ở Truyện Kiều. Nhìn hiện tại để nhớ về quá khứ, câu thơ trào dâng một nỗi đau xót ngậm ngùi cho vẻ đẹp chỉ còn trong dĩ vãng.b) Trong không gian điêu tàn ấy, con người xuất hiện với dáng vẻ cô đơn, như thu mọi cảm xúc trong hai từ “độc điếu”. Một mình nhà thơ ngậm ngùi đọc một tập sách (nhất chỉ thư). Một mình đối diện với một tiếng lòng Tiểu Thanh 300 năm trước, câu thơ như thể hiện rõ cảm xúc trang trọng thành kính với di cảo của Tiểu Thanh. Đồng thời cũng thể hiện sự lắng sâu trầm tư trong dáng vẻ cô đơn. Cách đọc ấy cũng nói lên được sự đồng cảm của nhà thơ với Tiểu Thanh, “điếu” là bày tỏ sự xót thương với người xưa. Không phải là tiếng “thổn thức” như lời thơ dịch, mà nước mắt lặng lẽ thấm vào trong hồn nhà thơ.2. Hai câu thực :Hai câu thực đã làm sáng tỏ cho cảm giác buồn thuơng ngậm ngùi trong hai câu đề :Chi phấn hữu thần liên tử hậuVăn chương vô mệnh lụy phần dư(Son phấn có thần chôn vẫn hậnVăn chương không mệnh đốt còn vương)a) Nhà thơ mượn hai hình ảnh “son phấn” và “văn chương” để diễn tả cho những đau đớn dày vò về thể xác và tinh thần của Tiểu Thanh gửi gắm vào những dòng thơ. Theo quan niệm xưa, “son phấn” – vật trang

23

Page 24: on tap hoc ki 1

điểm của phụ nữ có tinh anh (thần) vì gắn với mục đích làm đẹp cho phụ nữ. Cả hai câu thơ cùng nhằm nhắc lại bi kịch trong cuộc đời Tiểu Thanh – một cuộc đời chỉ còn biết làm bạn với son phấn và văn chương để nguôi ngoai bất hạnh.b) Mượn vật thể để nói về người. Gắn với những vật vô tri vô giác là những từ ngữ chỉ cho tính cách, số phận con người như “thần” và “mệnh”. Lối nhân cách hóa thể hiện rõ cảm xúc xót xa của nhà thơ về những bất hạnh của kiếp người qua số phận của Tiểu Thanh. Kết cục bi thảm của tiểu Thanh xuất phát từ sự ghen tuông, lòng đố ky tài năng của người đời. Dù chỉ là những đồ vật vô tri vô giác thì chúng cũng phải chịu số phận đáng thương như chủ nhân : son phấn bẽ bàng, văn chương đốt dở. Hai câu thơ đã gợi lên sự tàn hẫn của bọn người vô nhân trước những con người tài hoa. Đồng thời, cũng thể hiện nhận thức của Nguyễn Du vốn rất nhạy cảm trước cuộc đời của khách “hồng nhan bạc phận”, gắn với quan niệm “tài mệnh tương đố” của Nho gia. Vật còn như thế, huống chi ngưòi! Vượt lên trên những ảnh hưởng của thuyết thiên mệnh là cả tấm lòng giàu cảm thương của Nguyễn Du.3. Hai câu luận :Từ số phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã khái quát thành cái nhìn về con người trong xã hội phong kiến :Cổ kim hận sự thiên nan vấnPhong vận kỳ oan ngã tự cư(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏiCái án phong lưu khách tự mang)a) Nỗi oan của Tiểu Thanh không phải chỉ của riêng nàng mà còn là kết cục chung của những người có tài từ “cổ” chí “kim”. Nhà thơ gọi đó là “hận sự”, một mối hận suốt đời nhắm mắt chưa yên. Trong suy nghĩ ấy, có lẽ Nguyễn Du còn liên tưởng đến bao cuộc đời như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ – những người có tài mà ông hằng ngưỡng mộ – và bao người tài hoa bạc mệnh khác nữa. Những oan khuất bế tắc của nghìn đời “khó hỏi trời” (thiên nan vấn). Câu thơ đã giúp ta hình dung rõ cuộc sống của những nạn nhân chế độ phong kiến, dồn nén thái độ bất bình uất ức ủa nhà thơ với thời cuộc, đồng thời cũng thể hiện một sự bế tắc của Nguyễn Du.b) Khóc người để thương mình, cảm xúc đồng điệu đã làm thành câu thơ bất hủ “phong vận kỳ oan ngã tự cư” (Ta tự cho mình cũng ở trong số những kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã). Ở đó là tình cảm chân thành đồng điệu của Nguyễn Du, cũng thể hiện tầm vóc lớn lao của chủ nghĩa nhân đạo rất đẹp và rất sâu của ông.c) Không phải chỉ một lần nhà thơ nói lên điều này. Ông đã từng hóa thân vào nàng Kiều để khóc thay nhân vật, ông đã từng khẳng định một cách đầy ý thức “thuở nhỏ, ta tự cho là mình có tài”. Cách trông người mà ngẫm đến ta ấy, trong thi văn cổ điển Việt Nam trước ông có lẽ hiếm ai thể hiện sâu sắc như vậy. Tự đặt mình “đồng hội đồng thuyền” với Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã tự phơi bày lòng mình cùng nhân thế. Tâm sự chung của những ngưòi mắc “kỳ oan” đã đưọc bộc bạch trực tiếp mạnh mẽ trong tiếng nói riêng tư khiến người đọc cũng không khỏi ngậm ngùi. Tâm sự ấy không chỉ của riêng Nguyễn Du mà còn là nỗi niềm của các nhà thơ thời bấy giờ.4. Hai câu kết :Khép lại bài thơ là những suy tư của Nguyễn Du về thời thế :Bất tri tam bách dư niên hậuThiên hà hà nhân khấp Tố Như(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữaNgưòi đời ai khóc Tố Như chăng)a) Khóc cho nàng Tiểu Thanh ba trăm năm trước bằng giọt lệ chân thành của trái tim đồng điệu, dòng suy tưởng đã đưa nhà thơ đến ba trăm năm sau cùng một mối hồ nghi khó giải tỏa. Tiểu Thanh còn có tấm lòng tri kỷ của Nguyễn Du tìm đến để rửa những oan khiên bằng giọt nưóc mắt đồng cảm. Còn nhà thơ tự cảm thấy sự cô độc lẻ loi trong hiện tại. Câu hỏi người đời sau ẩn chứa một khát khao tìm gặp tấm lòng tri âm tri kỷ giữa cuộc đời. (Đó cũng là tâm trạng của Khuất Nguyên – “người đời say cả một mình ta tỉnh”, cách Nguyễn Du hai nghìn năm; của Đỗ Phủ, cách Nguyễn Du một nghìn năm : “Gian nan khổ hận phồn sương mấn”)b) Nhà thơ tự thể hiện mình bằng tên chữ “Tố Như” không phải mong “lưu danh thiên cổ” mà chỉ là tâm sự của một nỗi lòng tha thiết với cuộc đời. Câu thơ còn là tâm trạng bi phẫn của nhà thơ trước thời cuộc. Khóc ngưòi xưa, nhà thơ tự khóc cho chính mình, giọt lệ chảy quanh kết lại một bóng hình Nguyễn Du, lặng lẽ cô đơn khiến người đọc phải se lòng khi ngẫm đến những nỗi đau thấm thía và dày vò tinh thần của những ngưòi tài hoa phải sống trong bóng đêm hắc ám của một xã hội rẻ rúng tài năng.III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ :

24

Page 25: on tap hoc ki 1

1. Đã hơn hai trăm năm trôi qua, bài thơ của Nguyễn Du vẫn còn lưu giữ một tấm lòng với con người sâu sắc và chân thành. Đó là tình cảm không biên giới, vượt thời gian, xuất phát từ gốc rễ “thương người như thể thương thân” của dân tộc.2. Không phải đợi đến ba trăm năm sau, ánh sáng của thời đại mới đã làm sáng mãi tên tuổi của Nguyễn Du trong lòng dân tộc, tên tuổi Tố Như đã làm vinh danh dân tộc Việt Nam. Cuộc sống đã đổi thay, nhiều niềm vui của dân tộc đang nhân lên trước cánh cửa vào thế kỷ XXI, thế nhưng chúng ta vẫn trân trọng và cảm thông nỗi buồn của Nguyễn Du – nỗi buồn thời đại quá khứ. Thời đại mới giải tỏa cho những bế tắc của Nguyễn Du và thời đại của ông, tiếp thu tinh thần nhân bản dân tộc ấy :Hỡi Người xưa của ta nayKhúc vui xin lại so dây cùng Người(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)

25

Page 26: on tap hoc ki 1

NhànNguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam. Trong sự nghiệp sáng tác của mình ông để lại một thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập (Khoảng 700 bài) và một tập thơ chữ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi (trên 170 bài). Sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm bên cạnh những tác phẩm mang đậm chất triết lí, giáo huấn, phê phán những điều xấu xa trong xã hội,.... còn có một số lượng lớn những tác phẩm đề cao cuộc sống ẩn dật, ngợi ca thú thanh nhàn. Và trong những tác phẩm viết về chủ đề đó, bài thơ Nôm số 43 (Nhàn) trong tập “Bạch Vân quốc ngữ thi” là một trong những bài thơ hay nhất. Được sáng tác sau khi nhà thơ đã lui về ở ẩn tại Bạch Vân am, bài thơ đã thể hiện vẻ đẹp của con người Nguyễn Bỉnh Khiêm và thể hiện triết lí sống, quan niệm sống “nhàn” của ông. 1, Vẻ đẹp con người nhà thơ.a, Vẻ đẹp cuộc sống: (Câu 1, 2, 5, 6)-Thần hậu mà vui vẻ. (câu 1, 2)-Đạm bạc mà thanh cao.( câu 5, 6)b, Vẻ đẹp tâm hồn: (Câu 3, 4)Thể hiện ở nhân cách của nhà thơc, Vẻ đẹp của trí tuệ.-Sự tỉnh táo, sáng suốt trong việc lựa chọn cách sống và lối ứng xử đúng đắn trước tình thế xã hội đương thời. (Câu 3, 4)-Sự uyên thâm khi triết lí về lẽ sống ở đời. 2, Quan niệm sống nhàn của nhà thơ.-Nhàn là sống hoà hợp với tự nhiên (Câu 1, 2, 5, 6)+Niềm vui với các công việc lao động thuần hậu nơi thôn quê (Câu 1, 2)+Niềm vui trước cuộc sống đạm bạc nhưng thanh cao. (Câu 5,6)-Nhàn là xa lánh nơi quyền quý, danh lợi để giữu cốt cách thanh cao. (Câu 3, 4, 7, 8)-Nhàn thân chứ không nhàn tâm. Dàn ý chi cho đề bài: Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm để thấy được vẻ đẹp của nhà thơ qua triết lí sống “nhàn”.*Thân bàia, Thế nào là nhàn?Nhàn theo nghĩa thông thường là chỉ một cuộc sống không bận bịu, không bận rộn, căng thẳng với công việc, cuộc sống thường ngày, là nhàn nhã, nhàn hạ, là thư thái, thảnh thơi, ung dung, rỗi rãi.Trong bài thơ, nhàn còn thể hiện một quan niệm sống, một triết lí sống.b, Biểu hiện của quan niệm sống “nhàn”. (Xem phần trên)c, Đánh giá triết lí sống “nhàn”, liên hệ bản thân.Tham khảo: phân tích bài thơ Nhàn để thấy được vẻ đẹp của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.Bài viết của nhà nghiên cứu văn học Lã Nhâm Thìn“Nhàn” là một chủ đề lớn trong thơ NBK, có trong thơ chữ Hác và rất đậm nét trong thơ chữ Nôm, Thơ NBK hội đủ những nội dung phong phú, đa dạng của chữ nhàn: rỗi nhàn, thân nhàn, phận nhàn, thanh nhàn. Nhàn là lối sống thuận theo tự nhiên: “Dẫu nhẫn chê khen đầu miệng thế - Cơ cầu tạo hoá mặc tự nhiên”. Nhàn là đối lập với danh lợi: “Để rẻ công danh đổi lấy nhàn”. Nhàn là triết lí, là thái độ sống, là tâm trạng. Qua chữ nhàn mà thấy được chân dung triết gia Trạng Trình, chân dung người thầy Tuyết Giang phu tử, chân dung bậc đại ẩn Bchj Vân cư sĩ. Dẫu chưa phải là tất cả nhưng qua chữ nhàn mà thấy được chân dung NBK.Bài thơ Nôm số 73 nói trên là bài thơ Nhàn, là bức chân dung NBK chụp từ ba góc độ: cuộc sống, tâm hồn, trí tuệ.Góc độ thứ nhất, Nhàn là bức chân dung cuộc sống NBK. Có thể đề dwois bức chân dung này ba chữ: thuần, thanh, đạm.Cuộc sống thtuần hậu thể hiện ngay trong hai câu thơ đầu: “Một mai, ... thú nào.” Cụ Trạng về sống giữa thôn quê như một “lão nông chi điền”, với những công cụ lao động: mai để đào đất, cuốc để xới đất, cần câu để bắt cá. Cách dúng số từ đém rành rọt: “Một...,một...,một...”cho thấy tất cả đã sẵn sàng, chu đáo. Câu thơ đưa ta trở về với cuộc sống chất phác, nguyên sơ của cái thời “tạc tỉnh canh điền” (Nước đào giếng, cơm cày ruộng). Cụ Trạng mà lại về với cuộc sống tự cung ,tự cấp thì một sự ngông ngạo trước thói đời. Ngông ngạo mà không ngang, mà cứ thuần hậu, nguyên thuỷ: “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Câu thơ cho ta thấy niềm vui của NBK khi tìm về hoà hợp với cuộc sống thuở nguyên sơ.Cuộc sống của bậc đại ẩn am Bạch Vân đạm bạc mà thanh cao: “Thu ăn ...tắm ao.”

26

Page 27: on tap hoc ki 1

Sự đạm bạc là ở những thức ăn quê mùa, dân dã như măng trúc, giá đỗ. Các món ăn đạm bạc, cây nhà lá vườn này là do mình tự lo, là công sức của chính mình. Ăn đã vậy, còn sinh hoạt thì sao? Cũng tắm hồ, tắm ao như bao người dân quê khác.Đạm bạc chứ không khắc khổ. Đạm đi với thanh. Cuộc sống thanh cao trong sự trở về với tưk nhiên, mùa nào thức ấy. Hai câu thơ là một bộ tranh tứ bình về cảnh sinh hoạt với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Có mùi vị, có hương sắc. Không nặng nề, không ảm đạm. “Thu...ăn giá”, nói như Xuân Diệu là cảm giác “ăn giá tuyết, uống băng đông”. “Xuân...ao” thì vừa có nước trong, vừa có hương thơm tanh quý.Góc độ thứ hai: Nhàn là bức chân dung tâm hồn của NBK. Có hai chữ đề dưới bức chân dung này: đẹp và vui.Đẹp trong yêu và ghét. Yêu thiên nhiên nên trở về sống với tự nhiên. Yêu đến độ hoà hợp, đến độ giữa con người và thiên nhiên không còn khoảng cách. Bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông, mùa nào thiên nhiên cũng là môi trường sống thanh tao.Tuyết Giang phu tử yêu và trọng nhân cách. Về với thiên nhiên sống hoà thuận theo tự nhiên là thoát ra ngoài vòng danh đua của thói tục, là không bị cuốn hút bởi tiền tài, địa vị, để tâm hồn an nhiên, khoáng đạt.Nhân cách NBK đối lập với danh lợi như nước với lửa: “Ta dại ...lao xao.”Vắng vẻ đối lập với lao xao, ta đối lập với người. Ta tìm nơi vắng vẻ là nơi không người cầu cạnh ta và ta cũng không cầu cạnh người. Nơi vắng vẻ là nơi tĩnh tại của thiên nhiên và nơi thảnh thơi của tâm hồn. Người đến chốn lao xao là đến chốn cửa quyền, vào đường hoạn lộ. Chốn lao xao, sang trọng thì có ngựa xe tấp nập, kẻ hầu người hạ, thủ đoạn bon chen. Thơ nhàn của NBK là sự phủ nhận danh lợi: “Để rẻ công danh đổi lấy nhàn: (Thơ Nôm – bài 13)Tìm đến sự thanh cao, tìm thấy sự thư thái của tâm hồn, Bạch Vân cư sĩ vui, niềm vui thốt lên thành lời: “Thơ thẩn...nào”.Niềm vui như hiện lên trong bước đi ung dung, “thơ thẩn”. Niềm vui chi phối cả âm điệu bài thơ, cứ nhẹ nhàng, lâng lâng, cứ “thanh thản, thoải mái một cách lạ kì. Đau khổ ư? Mệt mỏi ư? Trút sạch sành sanh” (Lê Trí Viễn).Góc độ thứ ba, nhàn là bức chân dung trí tuệ của NBK. Có hai từ đề dưới bức chân dung này: sáng suốt và uyên thâm.Trạng Trình là một bậc thức giả với trí tụê vo cùng tỉnh táo. Tỉnh táo trong sự lựa chọn: “Ta dại...vắng vẻ”, mặc cho “Người khôn...lao xao.”.Tỉnh táo trong cách nói đùa vui, ngược nghĩa, dại mà thực chất là không, còn khôn mà khoá dại (...).Ở một bài khác NBK viết: “Không mà hiểm độc là khôn dại – Dịa vốn hiền lành ấy dại khôn.” (Thơ Nôm – bài 94).Như vậy thì dại, khôn ở NBK là xuất phát từ trí tuệ, triết lý dân gian: “Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo”. Trạng trình là bậc triết gia với trí tuệ uyên thâm. Người đời đã từng dệt nên huyền thoại sấm Trạng Trình biết năm trăm năm về trước, biết năm trăm năm về sau. Thực ra bậc đại trí này nắm vững lẽ biến dịch, hiểu thấu quy luật hoạ / phúc, bĩ / thái, cùng / thông, đắc / táng,... vì vậy mà có nhãn quan tỏ tường. Với cái nhìn thông tuệ thì tìm đến “say” chỉ là để “tỉnh”: “Rượu, ...chiêm bao.”Cuộc sống nhàn dật này là kết quả của một nhân cách, một trí tuệ. Trí tuệ nhận ra công danh, của cải, quyền quý chỉ là giấc chiêm bao. Trí tuệ nâng cao nhân cách để nhà thơ tù bỏ chốn lao xao quỳên quý đến nơi vắng vẻ, đạm bạc mà thanh cao.Chữ nhan trong thơ NBK là cùng dòng với chưc nhàn của Chu Van An, Nguyên Trãi. Những bậc đại hiền này nhàn thân mà không nhàn tâm. Nó khác xa lối sống nhàn “độc thiện kì thân” (làm tốt cho riêng mình). Ở thơ chữ Hán, bài tự thuật, NBK viết: “Lão lai vị ngải tiên ưu chí – Đắc táng cùng thông khởi ngã ưu” (Tấm lòng tiên ưu đến già chưa thôi – Cùng, thông, được, mất ta đâu có lo cho riêng mình.)Đọc thơ nhàn của NBK phải đọc mối “tiên ưu” ấy mới có thể hiểu sâu sắc bức chân dung “nhàn” của nhà thơ./.

HOÀNG HẠC LÂU TỐNG MẠNH HẠO NHIÊN CHI QUẢNG LĂNG

Hoàng Hạc lâu... Quảng Lăng là bài thơ thuộc đề tài tống biệt - một đề tài quen thuộc của thơ Đường và là đề tài lớn trong sáng tác của Lý Bạch. Thi phẩm ra đời khi “Thi tiên” Lý Bạch tiễn Mạnh Hạo Nhiên - người bạn thơ, người bạn tri âm hơn nhà thơ 12 tuổi.Đọc bài thơ thông qua tình cảm chân thành, sâu sắc mà Lý Bạch dành cho MHN chúng ta sẽ cảm nhận được tình bạn keo sơn thánh thiết của hai nhà thơ lớn đời Đường.

27

Page 28: on tap hoc ki 1

a, Hai câu thơ đầu: khung cảnh buổi chia tay.- Không gian của cuộc chia tay: (Nơi tiễn đưa: lầu HH - một thắng cảnh nổi tiếng của Trung Quốc, một di chỉ thần tiên gắn liền với truyền thuyết; Nơi đến: Dương Châu - một đô thị phồn hoa bậc nhất đời Đường; Nối giữa nơi đến và nơi đi là dòng Trường Giang - huyết mạch giao thông chính của miền Nam Trung Quốc, một con sông hùng vĩ và thơ mộng.- Thời gian: tháng 3 vào mùa xuân. Đó là khoảng thời gian đẹp trong năm, thời tiết mát lành, cây cối đâm chồi, nảy lộc.- Con người: (Người đi là MHN, người tiễn là LB; Quan hệ giữa họ là” cố nhân” có nghĩa là người bạn cũ, người đã gắn bó thân thiết tới mức tri kỷ. Bản dịch dịch là “bạn” là đúng nhưng chưa đủ).Nhận xét: Mối quan hệ giữa không gian – thời gian – con người ở đây là thống nhất. Thống nhất ở cảnh đẹp, thời tiết đẹp, tình bạn đẹp. Nhưng chính trong cái thống nhất ấy ta lại nhận thấy có quan hệ tương phản. Đó là quan hệ giữa cái có và cái không: mọi thứ tươi đẹp đều có, duy chỉ sự sum vầy là không.Như vậy hai câu thơ không đơn thuần chỉ tả cảnh, tác giả đang mượn cảnh để tả tình. Cảnh càng đẹp bao nhiêu lòng người càng buồn bấy nhiêu, càng thấm thía nỗi xa cách chia li bấy nhiêu. Câu thơ chỉ tả cảnh không tả tình vậy mà tình lại nhuốm đầy trong cảnh vật.b, Hai câu cuối: Tâm tình người đưa tiễn- Nghệ thuật: tả cảnh ngụ tình.- Cảnh: bát ngát của dòng sông, độ cao của lầu HH, sự vô tận của vũ trụ bầu trời.- Con người: đang “đăng cao viễn vọng” nơi lầu HH nhìn theo con thuyền chở bạn đang đi xa dần trên dòng TG.Nhận xét: Quan hệ giữa không gian và con người ở đây là đồng nhất. Đồng nhất ở sự mênh mông và vô tận. Sự mênh mông và vô tận của dòng sông, bầu trời và mênh mông vô tận trong lòng người đưa tiễn. Hay nói cách khác đây là sự đồng nhất giữa cảnh và tình - một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc trong lối “tả cảnh ngụ tình” của thơ Đường ở đề tài “tống biệt”. Với sự đồng nhất này, ta thấy rằng tình của LB khi tiễn MHN là không thể đếm đo, nó đã hoà tan vào dòng nước TG, vào vũ trụ bao la thăm thẳm.Cái tình đó là tình cảm tha thiết chân thành mà LB dành cho người bạn tri âm của mình.+ Nó được thể hiện qua cặp mắt vời vợi của thi nhân khi dõi theo con thuyền chở bạn. Với thi nhân cánh buồm thấp thoáng trên dòng sông kia chỉ là một cánh buồn cô đơn (cô phàm) và nó mang theo sự hụt hẫng cô đơn của người ra đi và người ở lại (Bản dịch thơ đánh mất điều này).+ Trong con mắt của thi nhân trên dòng TG tấp nập kia lúc này chỉ có duy nhất con thuyền chở bạn. Đây là điều phi lý trong thực tế nhưng lại hợp lý trong tâm trạng nhà thơ. Sông TG bao la là thế nhưng cái quan tâm duy nhất của nhà thơ lúc này chỉ là con thuyền chở bạn đang dời xa mà thôi. Đó không còn là cái nhìn của lí trí nữa mà là cái nhìn vời vợi của tâm tưởng, của cảm xúc trào dâng.+ Khi con thuyền đã đi khuất vào khoảng không xanh biếc LB chỉ thấy duy nhất dòng sông đang chảy ở lưng trời. Không gian lúc này được mở ra vô tận cho ta thấy dáng vẻ thẫn thờ đến bất động của nhà thơ, nhà thơ như đang chìm vào nỗi cô đơn, trống trải đến rợn ngợp, nỗi nhớ thương đã hoà cùng vũ trụ bao la, hoà cùng dòng TG chảy mãi nghìn đời bất tận.Bài thơ mang những đặc điểm lớn của thơ Đường: ý tại ngôn ngoại; ngôn ngữ hàm súc; tả cảnh ngụ tình (Cả bài thơ chỉ tả cảnh, không hề có chữ nào nói lên nỗi nhớ thương nhưng chữ tình lại hiện lên rõ nét).

Bài thơ là biểu hiện của một tình bạn đẹp!

THU HỨNGTác phẩm là bài thơ thứ nhất trong chùm thơ “thu hứng” gồm 8 bài được Đỗ Phủ sáng tác khi ông đang ở nơi đất khách quê người cách quên nhà hàng ngàn dặm. Nội dung chính của bài thơ này và cả chùm thơ nói chung là nỗi nhớ quê hương tha thiết của tác giả.Được ra đời từ sự “đối cảnh sinh tình”, bài thơ mang những nội dung lớn sau: Tình yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả; Nỗi lòng nhớ quê hương da diết trước cảnh chiền thu nơi đất khách quê người; thân phận đau thương nơi miền Ba Thục.a, Bốn câu thơ đầu: Cảnh mùa thu.- Cảnh mùa thu buồn bã, thê lương và ảm đạm (hai câu đầu)- Cảnh mùa thu hùng vĩ và dữ dội (hai câu tiếp)- Nhận xét: Cảnh chiều thu mang tâm trạng con người. Đó là nỗi lòng của Đỗ Phủ lúc xa quê: buồn bã, ảm đạm; bế tắc; xao động và bất ổn dữ dội.b, Bốn câu cuối: nỗi nhớ quê hương.- Hai câu 5, 6: nỗi nhớ quê hương được bộc lộ kín đáo và gửi gắm vào cảnh vật.

28

Page 29: on tap hoc ki 1

Hai câu thơ cho ta thấy nỗi nhớ thương luôn thường trực trong tâm hồn tác giả và cũng cho ta thấy sự bế tắc trong khao khát trở về quê hương của người. Đây là 2 câu thơ hay nhất trong bài với những từ ngữ được coi là “nhãn tự” (mắt của câu thơ) như lưỡng, khai, cô chu, nhất, hệ.- Hai câu cuối: nỗi nhớ quê hương thể hiện qua bức tranh cuộc sống. Tâm trạng của thi nhân được gợi lên từ tiếng chày đập vải trong buổi chiều tà. Tiếng chày dồn dập đó không chỉ cho chúng ta thấy nỗi niềm nhớ quê hương tha thiết trong tâm trạng nhà thơ mà nó còn thể hiện: niềm khao khát về một mái ấm gia đình; niềm thương nhớ người thân nơi quê nhà; nỗi niềm thấp thỏm lo âu vì chiến tranh.

HƯỚNG DẪN TỰ HỌC NHỮNG BÀI ĐỌC THÊMA, VĂN HỌC VIỆT NAM.Bài 01: Vận NướcCần nắm được bài thơ được Pháp Thuận sáng tác khi vua Lê Đại Hành hỏi ông làm sao có thể xây dựng được một đất nước vững mạnh.a, Hai câu đầu: Là niềm tin vào vận may của đất nước (câu 1), là tâm trạng mừng vui của tác giả khi đất nước được thái bình (câu 2).b, Hai câu cuối: Lối trị nước theo phép vô vi.- Nhà vua phải tu dưỡng đạo đức và dùng đạo đức cảm hoá cai trị muôn dân, có như thế thì dân chúng mới tin, phục, xã tắc mới thịnh trị thái bình. (Dưới cái nhìn của Nho giáo).- Dưới cái nhìn của Lão giáo thì dùng vô vi trị nước có nghĩa là phải tuân theo quy luật của tự nhiên. Cảm hoá muôn dân bằng chính tình yêu thương của mình. Nếu làm được như trên thì “khắp... đao binh”. Đó là kết quả tất yếu của việc trị nước theo phép vô vi.Bài 02: Cáo bệnh, bảo mọi ngườiBài thơ được sáng tác khi nhà thơ đang trên đường trở về với cõi niết bàn, đi tới miền Tây Thiên cực lạc.Nội dung:1, Thể hiện một quan niệm nhân sinh cao đẹp của nhà thơ: thời gian trôi, tuổi già sẽ đến, cần phải ý thức rõ điều đó để sống có ích ngay từ thời trẻ. (hai câu 3, 4)2, Thể hiện lòng yêu đời, tinh thần lạc quan tươi sáng.+ Câu 1, 2: Bằng việc nói hoa rụng trước, nở sau tác giả đã thể hiện cái nhìn lạc quan của mình khi nói về quy luật vận động, sinh trưởng của sự sống.+ Câu 5,6: Bằng việc miêu tả cành mai nở khi xuân đã tàn tác giả đã chứng minh sự sống có thể nảy sinh từ trong cõi chế, thể hiện niềm tin bất diệt vào sự sống. Đó là cái nhìn lạc quan của con người khi đã giác ngộ được quy luật sinh tử ở đời, vượt lên trên lẽ hoá sinh thông thường, về với cõi vĩnh hằng bằng một tâm hồn bình thản và để lại một cái nhìn tươi sáng vào tương lai: sự sống là bất diệt, như cành mai trước sân vẫn tươi dù mùa xuân đã tàn.Bài 03: Hứng trở vềBài thơ được sáng tác khi tác giả đang trên đường đi sứ Trung Quốc.Bài thơ thể hiện tình yêu quê hương sâu sắc của tác giả. Điều đặc bịet là nỗi nhớ đó không phải xuất phát từ những thứ cao sang mà ta thường gặp trong VHTĐ mà ở đây nỗi nhớ đó được gợi lên từ những thứ bình dị, nhỏ nhoi, thân thuộc. Đó là bát canh cua đồng, hương lúa, tằm ngọt lứa tơ. Những thứ đó tuy bình dị nhưng nó là của quê hương nơi chôn rau, cắt rốn nên “ở nhà nghèo vẫn tốt - Giang Nam tuy vui chẳng bằng về”.B, VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI.Bài 01: Hoàng Hạc lâuBài thơ được sáng tác khi Thôi Hiệu đến thăm Hoàng Hạc.Bài thơ thể hiện sâu sắc tâm trạng của tác giả. Đó là nỗi niềm hoài cổ (04 câu đầu), thương kim (hai câu tiếp), và tư hương (hai câu cuối) những điều đó đã tạo thành một mối sầu dằng dặc trong tâm trạng nhà thơ. Nhãn tự của bài thơ là chữ “sầu”.Bài 02: Khuê oánBài thơ thể hiện sâu sắc tâm trạng của người thiếu phụ nơi khuê phòng khi chồng nàng đi líng. Vào đề theo lối phản đề, cảm nhận tinh tế tâm trạng của người thiếu phụ trước và sau khi nhìn thấy màu xanh dương liễu. Khuê oán xứng đáng là tác phẩm tiêu biểu cho tinh thần phản đối chiến tranh phi nghĩa đời Đường.Bài 03: Điểu minh giảnBài thơ là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Vương Duy. Bài thơ tả cảnh đêm xuân nơi khe núi trăng lên. Cảnh vật đẹp nhưng tĩnh lặng tới tuyệt đối. (Tĩnh lặng tới mức trăng lên làm cho chim núi giật mình).NT: Lấy động tả tĩnh. Âm thanh càng tăng thêm sự tĩnh mịch của không gian và sự tĩnh lặng của tâm hồn thi sĩ.

29

Page 30: on tap hoc ki 1

30